Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
Post Reply
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image


QUỐC HẬN 2008
NỔI BẤT HẠNH CỦA QLVNCH

Như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) từng nói ‘ Ðất nước còn thì còn tất cả ‘.Bởi vậy sau ngày 1-5-1975, đồng bào Miền Nam đã mất hết mọi thứ kể cả quyền làm dân, khi chính phủ và quân lực VNCH không còn tồn tại, để gánh vác và bảo vệ họ như hồi Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và trăm ngàn chiến cuộc, khắp mọi nẽo đường đất nước, cho tới ngay 30-4-1975 bị rã ngủ theo lệnh buông súng đầu hàng.

Tự ngàn xưa, quân đội Việt Nam luôn nổi tiếng kiêu hùng, nên đã đạt được nhiều chiến công hiển hách, trong suốt dòng lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc, qua các cuộc bình Chiêm, phá Tống-Nguyện-Minh-Thanh, khiến các nước lân bang Lào, Miên và cả Xiêm La phải kinh hồn bạt vía.

Là con cháu của Tổ Tiên Hồng-Lac, chúng ta dù được sinh vào thế hệ nào chăng nửa, ra đời trong nước hay nơi hải ngoại, vẫn luôn ngưỡng mộ và hãnh diện, về công đức vĩ đại của tiền nhân, trong đó miên viễn vẫn là quân đội bao đời,

Với ý nghĩa thiêng liêng và cao quý trên, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được hình thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975), chống lại cuộc xâm lăng bằng quân sự, của khối cọng sản đệ tam quốc tế, do Việt Cộng Bắc Việt đảm nhận. ÐÂY LÀ MỘT CUỘC CHIẾN SINH-TỬ, của quân đội MIỀN NAM, chống lại cuộc xâm lăng của bộ đội MIỀN BẮC, để giữ lại phân nửa gấm vóc giang sơn của Tiền-Nhân, không lọt vào gông cùm nô lệ của giặc đỏ.

Cho nên, đây không phải là một cuộc chiến giữa CỘNG SẢN BẮC VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ, như giới truyền thông phương Tây, thời đó và ngay cả bây giờ, đã bóp méo sự thật, mục đích đầu độc dư luận thế giới, làm giảm uy tín của QLVNCH. Có như thế, Cộng Sản và phe ta trốn quân dịch, mới vừa chửi Mỹ , vừa tô son vẽ mặt cho đạo quân tiền phong cong sản tại Ðông Nam Á, tức Bắc Việt có một chính nghĩa lý tưởng, đánh đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước.

Ðây cũng chính là nổi thảm thê chất ngất của người Lính Miền Nam, trong hai mươi năm khói lửa. Vì định kiến, vì buông xuôi, vì thủ đoạn con buôn quốc tế, tất cả đã dồn ép QLVNCH vào chân tường, trong cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương, không một chút tình quân-dân, cá-nước

Hai mươi năm chiến đấu, đời lính buồn ơi là buồn, trước mặt phải trực diện với một kẻ thù gian xảo độc ác, mất hết thiên lương nhân tính vì đã bị chủ nghĩa nhồi sọ, cho nên chỉ biết có giết người để đạt mục đích được khắc sâu trong da thịt. Còn sau lưng bị thọc bởi hậu phương vô tình bạc bẽo và cuối cùng trên đầu là đồng minh với đại bàng, luôn rình rập để phản bội và bán đứng. Mới đây có Nguyễn Thuỳ và Vũ Ngọc Tiến, đã dùng bút vẽ lên bức tranh vân cẩu của cuộc chiến vừa qua, cho ta thấy chỉ có Bộ Ðội Bắc Việt hay Việt Cộng, vì thèm khát đàn bà, nên chỉ có chúng mới hãm hiếp phụ nử, chứ người lính VNCH đâu có lý do gì, để mà cuồng dẩm cả xác chết của nử cán bộ VC ?

Cảm nhận đựợc thân phận nhược tiểu của đất nước và sự bất hạnh của dân tộc, nên người lính chấp nhận hy sinh đời trai, để làm tròn bổn phận cùng trách nhiệm của một con người có tim óc, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi TT.Dương Văn Minh bắt buông súng đầu hàng.

Sau đó, cọng sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng những mọi chiến lợi phẩm của chính phủ VNCH từ công ốc, ngân khố, quân trang dụng, trong đó có mười sáu tấn vàng y, của quốc gia, được Nguyễn văn Hảo giữ lại để nạp dâng công cho Bắc Bộ Phủ. Tệ nhất là VC táng tận lương tâm, cướp luôn tài sản mồ hôi nước mắt của đồng bào, mà trong số này, có nhiều mẹ chiến sỉ, đã từng nuôi dấu cán binh bộ đội, ủng hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng, trong suốt thời gian chiến tranh.

Ngoài việc cầy mồ người chết để trả thù bị thua VNCH trên chiến trường, VC còn hành hạ những phế binh, cô nhi tử sĩ bị kẹt trong nước, với đủ thủ đoạn học được từ KGB, mà mới nhất là chiến dịch ‘ đuổi tận, giết tuyệt ‘ các thành phần trên, đang sống tại các chòi, dựng trong Nghĩa Ðịa Phước Bình, Sài Gòn.

Thì ra cách mạng bảy mươi năm, để giải phóng đất nước, mục đích cũng chỉ có thế thôi, nên từ đó theo thời gian, hằng ngàn huyền thoại về ‘ Người Bộ Ðội Miền Bắc, Vượt Trường Sơn Vào Nam Ðánh Mỹ Cứu Nước ‘, đã theo lớp son phấn đảng tham nhũng, tham tàn, tham địa vị, tan biến theo lớp sóng phế hưng của cuộc đổi đời mạt lộ.

Ba mươi ba năm tan hàng rã ngũ, quân-dân Miền Nam đã lần lượt đồng hành, qua hết chín tầng địa ngục trần gian nơi thiên đàng xã nghĩa. Nhưng người lính Miền Nam, sinh ra trong khói lửa, trưởng thành chốn chiến trường, nên thễ xác dù đã bị bầm giập tan nát, tinh thần cuả người lính vẫn nguyên vẹn và không ai có thể thay đổi hay ngăn cản lý tưởng của họ.

‘ dấu binh lửa nước non như cũ
kẽ hành nhân qua đó chạnh thương
phận trai già rủi chiến trường
chàng Siêu, tóc đã điểm sương mới về .’
(Chinh Phụ Ngâm Khúc )
NHỚ ƠN ANH : NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH

Hai mươi năm chinh chiến, người Lính VNCH đã có 250.000 gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Hiện nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nửa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính , càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.

Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực , mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ , xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.

Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg, chỉ kết tội những Ðầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi , là người đã ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.

Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu, bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.

Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội.. mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính Miền Nam.

Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.

Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cọng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cọng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp méo lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cọng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
NGƯỜI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ÐÂM SAU LƯNG :

Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình, đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, gái tình và thời gian để đâm thọt, phá hoại.

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng,ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cọng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Chính bọn trí thức thiên tả này, đã lợi dụng tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, sáng tác nhạc nhụa bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tuyền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
MỸ BÁN ÐỨNG VNCH CHO CỘNG SẢN :

Bắt đầu từ ngày 13-5-1968, Mỹ và Bắc Việt đã lén lút đi đêm với nhau tại Paris, để tìm cách đổi chác trên thân xác của VNCH. Nhưng kẻ cắp gặp bà già, nên dù hằng tuần có gặp nhau, Kissinger và Lê Ðức Thọ vẫn không đạt được một thỏa thuận nào. Theo tiết lộ mới đây của Kissinger, trong hồi ký ‘ The Kissinger Transcripts ‘, trong đó đã ghi chép đầy đủ về mọi mánh lới, thủ thuật của Mỹ để ve vãn Trung Cộng, chống lại Liên Xô vào tháng 1-1972. Cũng theo sách dẫn chứng trên, thì Kissinger đã làm đủ mọi thủ đoạn, để đạt cho được mục đích. Trong cuộc, VNCH là con vật tế thần, mà cặp Nixon và Kissinger đã xử dụng, nên cuối cùng dẫn tới sự chấp nhận những điều kiện phi lý, mà Hoa Kỳ dùng bùa viện trợ, ép buộc VNCH phải ký kết trong bản hiệp định ngưng bắn năm 1973. Riêng đối với Bắc Việt, mặt thật cũng đâu có hãnh diện gì hơn VNCH, trong cuơng vị làm đầy tớ Nga-Tàu. Bởi vậy, khi Liên Xô thấy Mỹ và Trung Cộng đã liên kết với nhau, chắc chắn Tàu Cộng sẽ theo Mỹ, bắt VC ngưng bắn có điều kiện. Bởi vậy, một mặt LX viện trợ tối đa cho Hà Nội, đồng thời ra lệnh cho VC mở hết mặt trận này tới chiến dịch khác, mà lần cuối cùng là ngày quốc hận 30-4-1975, đưa cả nước VN trong ba mươi ba năm đắm chìm trong cảnh nghèo đói, lầm than, hận thù vì vũng bùn ô uế của cái gọi là thiên đàng xã hội chủ nghĩa.

Người Mỹ đã ký kết hiệp định ngưng bắn Ba Lê, chỉ với mục đích rút quân và đem tù binh về nước, để Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống Mỹ và Kissinger tiếp tục giữ chức lớn trong chính quyền Hoa Kỳ. Ngoài mục đích trên, người Mỹ không cần đếm xỉa gì tới tương lai cũng như số phận của người Việt, nước Việt.

Sau này, khi VNCH đã sụp đổ, nhiều nhân vật quốc tế liên quan tới cuộc chiến VN, đều phê bình sự tắc trách của Hoa Kỳ, khi dựng lên cái quái thai hiệp định ngưng bắn, để bán đứng đồng minh của mình. Chính TT. Nixon cũng đã xác nhận lỗi lầm của mình trong tác phẩm ‘ No More VietNam’ rằng tôi đã thấy những vấn đề nan giải của hiệp định Ba Lê nhưng quan trọng nhất trong thỏa ứơc này là đã không bắt buộc Hà Nội rút hết bộ đội đã xâm nhập về Bắc. Còn M. Gauvin , đại sứ Canada tại Hy Lap, nguyên chủ tịch uỷ hội kiểm soát quốc tế (CICCS) tại VN, đã tuyên bố ‘ VNCH bi sụp đổ hoàn toàn do quyết tâm bỏ rơi của Hoa Kỳ. Riêng cái hiệp định ngưng bắn ký kết tại Ba Lê năm 1973, đã không phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của người dân Miền Nam, là muốn sống hòa bình và không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa cọng sản, nên ngay từ năm 1954, họ đã phải bỏ miền bắc để vào Nam, chạy trốn VC’. Nhưng phê bình một cách thẳng thắn, là Sir R.Thompson ‘ Sự sống còn của Nam VN, đã bị người Mỹ tước đoạt hay nói thẳng là bán đứng. Có làm như vậy, Hoa Kỳ mới tránh cho nước mình bị khỏi bị sâu xé tan nát. Một điều nghịch lý khác là cọng sản Bắc Việt, bị bó buộc tới bàn hội nghị, không phải để cứu họ, mà là cứu nước Mỹ. Nên dĩ nhiên Mỹ phải đem đồng minh VNCH ra bán đứng, để đền ơn cứu mạng ‘.

Ngoài vấn đề phủi tay tại Nam VN sau khi đã đem được tù binh và hài cốt quân Mỹ về, quốc hội Hoa Kỳ còn bội ước, khi liên tục biểu quyết các đạo luật ngăn cấm can thiệp bằng quân sự của Mỹ tại Nam VN, cắt giảm dần quân viện, không chịu hoán đổi quân trang quân dụng, như các thỏa ước đã ký kết Sự bất công vô lý, đến đổi Tuỳ Viên Quân Sự (DAO), tại Nam VN, đã phải viết ‘ Người Lính VNCH do đó, đã phải chấp nhận sống với những nhu cầu, dưới mức bình thường, làm cho tinh thần người chiến sĩ xuống thấp, vì bị hạn chế các phương tiên ngăn chống giặc ‘.Chỉ có Robert S McNamara, cựu bộ trưởng quốc phòng thời TT.John Kenedy, thì vẫn ngoan cố để chạy tội, quên hết trách nhiệm của mình, trong tác phẩm ‘ In Retrospect : The Tragedy and Lessons Of VN ‘, bêu xấu và đổ hết trách nhiệm làm mất nước cho QLVNCH.

Sự thật, khi viết về Quân Lực VNCH, hầu hết các nhà quân sử trên thế giới cũng như các Sử Gia hiện tại của VN như Nguyễn Khắc Ngữ, Chánh Ðao, Phan Nhật Nam, Ttần Ðại Sỹ, Phạm Huấn, Nguyễn Ðức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Nguyễn Lý Tưởng, Vi Anh, Phạm Trần, Huy Phương.. kể cả Trung Tâm Ca Nhạc Kich Hải Ngoại ASIA do các con chim đầu đàn Trúc Hồ, Nam Lộc, Việt Dũng điều khiển, đều đứng chung trên quan điểm ca tụng tinh thần hy sinh và trách nhiệm của người lính VNCH, đối với đất nước và đồng bào.

Nhờ thiện chiến, có kỷ luật nghiêm minh, biết bổn phận, nên trong suốt cuộc chiến hai mươi năm, dù lúc nào VNCH cũng bị Bắc Việt tấn công lén như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972.. nhưng Họ đã can trường lật ngược hoàn cảnh, để chuyển thắng thành bại. Hầu hết lính và các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đã quyết tử trong giờ thứ 25, tới khi được lệnh bắt buông súng của Dương Văn Minh, mới chịu rã ngủ.

Mới đây có nhiều tác phẩm được công bố như The Pategon Papers, Fires In The Lake của Frances Fitzgeral, The Best and The Brightest của Halberstam và nhất là các hồi ký của Kissinger.. đều cho thấy từ khởi đầu cuộc chiền, đến khi tàn cuộc, cho thấy người Mỹ luôn luôn là đạo diễn chính trong thảm kịch VN. Trong lúc cọng sản Bắc Việt, được Tập Ðoàn Cọng Sản Quốc Tế cả Liên Hiệp Quốc, viện trợ quân sự thả dàn, thì QLVNCH bị Hoo Kỳ qua Viện Trợ, chèn ép bắt bó tay, nên phải chiến đấu trong nghiệt ngã để sinh tồn.

Theo Harry H Noyes, qua tác phẩm ‘ Herdic Allies’, với tư cach là một sĩ quan cao cấp của Mỹ , đã chiến đấu nhiều năm ngoài mặt trận, bên cạnh QLVNCH, nên đã có những nhận định rất thẳng thắn, trái ngược với mồm mép mệng lưỡi bọn nhà báo và chính trị con buôn Mỹ và tây phương. Theo tác giả trên, thì thái độ bêu xấu hay bóp méo sự thật, nhắm vào QLVNCH, chẳng qua chỉ là sự kỳ thị chủng tộc thường thấy của bọn da trắng, lúc nào cũng tự xem mình là văn minh, đứng trên các dân tộc khác. Một điều quan trọng khác, là suốt cuộc chiến đẫm máu tại Nam VN, đa số dân tây phương và Hoa Kỳ, đã bị điệp viên của khối cọng sản, củng như KGB của Liên Xô, mua chuộc hay tuyên truyền. Do đó lúc nào họ cũng có cảm tình với Bắc Việt, nên cứ bóp méo sự thật, để khinh bỉ VNCH.

Bảo rằng QLVNCH không chịu chiến đấu, trốn trách nhiệm, chỉ muốn khoán trắng cho quân đội Mỹ, kể cả sự oanh tạc Miền Bắc, là một ngang ngược và phi lý. Ðể trả lời, nhiều người đã hỏi ngược lại người Mỹ rằng ‘ vậy thì từ năm 1955-1965 và cuối năm 1971-4/1975, khoảng thời gian đó, người Mỹ hoặc chưa tới hay đã rời VN, vậy ai đã chiến đấu với bộ đội Bắc Việt ?’. Còn về vấn đề oanh tạc Miền Bắc, từ đầu tới cuối có khi nào Hoa Kỳ giao trách nhiệm cho Không Quân VNCH, cũng như chịu cung cấp cho họ các loại phi cơ chiến đấu tối tân, để chiến đấu cho có hiệu quả. Một bí mật khác, là người Mỹ dành độc quyền oanh tạc Miền Bắc, để thi hành lệnh của Hoa Thịnh Ðốn, là đem gần hết số bom đổ xuống biển hay núi rừng không phải là mục tiêu quân sự cần tiêu diệt. Bởi vậy làm sao dám giao nhiệm cho KQ.VNCH ?

Còn trong thời gian Mỹ tham chiến tại VN, mở các cuộc hành quân tiêu diệt cọng sản. Tất cả đều là HÀNH QUÂN HỖN HỢP, giữa quân ÐồngMinh-Hoa Kỳ và VNCH, tiêu biểu như HQ Cedar Faces tại Vùng Tam Giác Sắt (Bình Dương-Hậu Nghĩa), đầu tháng 1-1967, tiếp theo là HQ Toledo, mục đích càn quét Chiến Khu C và Cục R, do Lực Lượng hỗn hợp, gồm Lữ Ðoàn 173 Nhảy Dù-Hoa Kỳ cùng 2 Tiểu Ðoàn 33-35/Biệt Ðộng Quân/VNCH đảm trách. Ðặc biệt tại Ðiện Biên Phủ KHE SANH cuối năm 1967, vẫn có quân VNCH tham dư, đó là TD37- BDQ, thuộc Liên Ðoàn 1/BDQ của Quân Ðoàn I.

Sau cuộc chiến, để chạy tội bán đứng đồng minh, cũng như phản bội Tổ Quốc và đồng bào mình, Hoa Kỳ và bọn khoa bảng-trí thức thân cộng Miền Nam, những người muôn năm trong dòng sử Việt, được bia đời phong cho danh hiệu là ‘ TRÍ THỨC CHỒN LÙI’, còn các lãnh tụ cộng sản như Stalin, Mao Trạch Ðông, kể cả Hồ Chí Minh, coi rẻ hơn CỤC PHÂN NGƯỜI vì suốt kiếp chẳng làm được một điều gì tốt hay ích lợi, để giúp cho đất nước và đồng bào. Bọn trí thức này ôm chân níu áo Người Việt tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại, trong lúc vẫn sống cao sang quyền thế như lúc còn trà trộn trong các Ðại Học, Chùa-Nhà Thờ, Tòa Báo,sân khấu, phòng trà.. và trên các trang sách-thơ cuối tuần, vẫn chứng nào tật nấy, không hề thay đổi lương tâm một chút gì, dù phong trần đã nếm, vinh nhục bề bề và trên hết là vẩn bám vào Người Việt Tị Nạn Cộng Sản để mà ra báo, làm báo và sinh tồn, dù rằng chúng đã nói là ÐÃ ÐI HẾT BIỂN NAY PHẢI VỀ NGUỒN nhưng lại không dám bán nhà, bán chùa, bỏ sở và cuộc sống thừa mứa tại Mỹ, để về sống với Việt Cộng, đạo pháp để hưởng Vinh Hoa Phú Quý, Tự Do Dân Chủ, tự do tôn giáo, tự do quyên tiền cúng dường của khách thập phương.. trong Xã Nghĩa Thiên Ðàng, như chúng hằng ca tụng.

Chính người Mỹ và bọn trí thức-khoa bảng thân cộng này, trước sau vẫn đổ trách nhiệm làm sụp đổ Miền Nam cho các cấp lãnh đạo của VNCH. Riêng sự bảo rằng VNCH không có lãnh đạo xứng đáng, ngang cơ để đối đầu với cáo già Hồ Chí Minh của Bắc Việt, sau khi TT Ngô Ðình Diệm bị hạ sát vào ngày 1-11-1963, là điều suy nghĩ quá đáng và đâu có khác gì việc Mỹ nói QLVNCH không chiến đấu, mà chỉ giao hết cho quân đội Hoa Kỳ.

Nhưng mai mĩa nhất vẫn là lời xác nhận của Kissinger , khi cho bạch hóa các tài liệu cũ liên quan tới chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975 ) ‘ Mỹ đã chơi với Trung Cộng từ năm 1972, vậy thì bán Miền Nam VNCH cho Cộng Sản Quốc Tế Bắc Việt, qua Hiệp Ðịnh Paris 1973, cũng đâu có gì lạ ? ‘

Sự thật, QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn. Họ được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó như Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Trường Bộ Binh Thủ Ðức, Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát.. cũng như Trường Ðại Học Quân Sự.

Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :
‘..xin vì chàng, xếp bào cỡi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.. ’
( Chinh Phụ Ngâm ố Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)

Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.

Thử hỏi trong cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH ? Trong lúc đã có không biết bao nhiêu người hiện nay, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Trong số này có rất nhiều người đang dấn thân lo chuyện non nước. Không biết trong tâm tư của họ, có một giây phút nào, do lương tâm xao động, khiến họ chợt nghĩ tới những người xưa đã VỊ QUỐC VONG THÂN ? Cũng may hầu hết người Miền Nam, xưa nay vẫn biết ơn người lính năm nào, nhất là sau ba mươi năm qua, đã biết hết cảnh đổi đời oan nghiệt.

Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.

‘..tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy

chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô.. ’

Hồ Đinh
Mùa Quốc Hận Tháng 4-2008.
Seal Beach Ca USA
nuoclanh
Posts: 163
Joined: Wed May 30, 2007 12:09 pm
Contact:

Post by nuoclanh »

Image

Dịch giả Dương Hiếu Nghĩa
và tác giả Pierre Darcourt

Tiểu Sử:

DƯƠNG HIẾU NGHĨA
Image

PIERRE DARCOURT:

Pierre Darcourt, sinh năm 1926 ở Sài Gòn. Theo tiểu sử, ông gia nhập du kích chống Nhật ở Đông Dương sau biến cố tháng Ba 1945; sau đó làm lính nhảy dù Pháp cho đến 1954.

Ông trở thành phóng viên chiến trường Việt Nam, đi qua nhiều mặt trận, quen biết hầu hết các gương mặt tướng lĩnh và chính khách – thuộc cả chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và đối lập. (Theo Lê Quỳnh, BBC)


Tác phẩm:

VIỆT NAM - QUÊ MẸ OAN KHIÊN
Tác giả: Pierre Darcourt - Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa
Tủ sách Tiếng Quê Hương tại Virginia ấn hành, 2007

Image

Nguyên tác được in lần đầu ở Paris tháng 11-1975,
và bản dịch tiếng Việt ra mắt năm 2007

Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên (bản dịch của Dương Hiếu Nghĩa) ghi lại những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa và một vài tháng sau ngày 30-4.

Nhà văn Uyên Thao, chủ của Tủ sách Tiếng Quê Hương (bang Virginia), nơi ấn hành bản tiếng Việt của tác phẩm, gọi điều “đáng trân trọng” qua cuốn sách này là “tâm tư chia sẻ của tác giả với những thống khổ của đồng loại mà bất kỳ người Việt Nam nào cũng phải ao ước là sẽ hiện hình trong con tim của hết thẩy những người đang mang dòng máu Việt Nam”.
(theo Lê Quỳnh, BBC)

MẸ VIỆT NAM ƠI!
DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ?
(VIETNAM, QU'AS TU FAIT DE TES FILS?)



http://nhd18.esmartweb.com/mevietnam/bia.html

---------------------------------

Bìa

Vài Dòng Cảm Nghĩ

Lời Giới Thiệu Của Nhà Xuất Bản Albatros
Thay Lời Tựa
Chương 01 Một Năm Sửu Thuận Lợi
Chương 02 Hà Nội Đánh Phá Uy Tín Của Sài Gòn
Chương 03 Chiến Dịch Hồ Chí Minh
Chương 04 Tổng Thống Thiệu Cố Gắng Giữ Thế Chủ Động Chánh Trị
Chương 05 Các Tướng Lãnh Tức Giận Vì Thấy Mình Bị Nhục
Chương 06 Dinh Tổng Thống Bị Dội Bom
Chương 07 Linh Mục Thanh: Đội Quân Thanh Lọc
Chương 08 Đừng Bao Giờ Tin Tưởng Vào Hoa Kỳ Như Một Đồng Minh
Chương 09 Chiến Trận Đẫm Máu ở Xuân Lộc
Chương 10 Chúng Tôi Không Hèn Nhát, Chúng Tôi Không Sợ Chết
Chương 11 Với Đoàn Người Chạy Loạn
Chương 12 Với Người Pháp Lớn Tuổi ở Sài Gòn
Chương 13 Quốc Hội Hoa Kỳ Bàn Cãi Về Ngân Sách Trong Lúc Người Dân Miền Nam Lo Chôn Con Mình
Chương 14 Phnom Penh Thất Thủ - Một Triệu Chứng Đáng Buồn Cho Sài Gòn
Chương 15 Thời Kỳ Của Những Trái Bom Thí Nghiệm
Chương 16 Tổng Thống Thiệu Từ Chức
Chương 17 Đến Lượt Đại Sứ Mérillon Lên Sân Khấu
Chương 18 Ngọn Đồi Cuối Cùng
Chương 19 Tướng Dương Văn Minh Xuất Hiện
Chương 20 Những Trò Chơi Vô Vị Cuối Cùng
Chương 21 Ông Dương Văn Minh Là Ai ?
Chương 22 Một Buổi Lễ Trao Quyền Đầy Sóng Gió
Chương 23 Sự Rẫy Chết Của Một Thành Phố
Chương 24 "Bộ Đội" Tràn Vào Thủ Đô
Chương 25 Sự Hiện Diện Của Người Pháp?
Chương 26 Thật Là Chua Chát Thay Cho Cái Gọi Là "Giải Phóng"
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Loạt Bài Cho 30 Tháng 4
Tự Sát Dưới Chân Cờ


Tác giả:
Huỳnh Hồng Hiệp
Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là thượng sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại Tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi.

Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thì Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II thì lá cờ tướng đã hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không còn. Đi quanh Bộ Chỉ Huy BĐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để phòng thân.
TỰ SÁT DƯỚI CHÂN CỜ - NGƯỜI QUÂN CẢNH
CUỐI CÙNG CHẾT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU
Lời giới thiệu: Giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan Quân Cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đã tự sát dưới chân cột cờ trước tòa lầu chính. Một Quân Cảnh còn sống đến hôm nay sẽ kể lại câu chuyện. Nhưng trước đó xin quý vị nghe qua về cuộc đời của chính tác giả: Anh Huỳnh Hồng Hiệp gốc Kiến Hòa, sinh sống tại Sài Gòn đã đầu quân vào binh chủng Quân Cảnh từ cấp binh nhì. Sau đó anh lên binh nhất rồi đi học lớp Hạ Sĩ Quan căn bản, trải qua lớp chuyên môn binh chủng rồi phục vụ tại Phú Quốc. Hàng ngày những hạ sĩ quan Quân Cảnh VNCH phải đối diện với 40,000 chiến binh cộng sản trong các trại giam. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp và hiểm nghèo.

Sau khi hiệp định Paris ký kết, trại tù binh giải tán, các tiểu đoàn Quân Cảnh của Phú Quốc trở về đất liền tham dự các buổi hành quân tảo thanh và bình định. Chiến dịch chấm dứt. Một số tiểu đoàn giải tán, binh sĩ chuyển qua Biệt Động Quân. Các hạ sĩ quan Quân Cảnh trong đó có thanh niên Kiến Hòa Huỳnh Hồng Hiệp phải vào Dục Mỹ huấn nhục. Vừa vất vả, vừa bị các quân nhân đơn vị bạn ghét Quân Cảnh nên kỳ thị phá phách. Nhưng rồi mọi thứ cũng trôi qua và ở trong câu chuyện cuối tháng Tư sau đây, xin mời quý vị theo chân người hạ sĩ quan Quân Cảnh gian truân của chúng ta trên đường từ Dục Mỹ về Sài Gòn cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Sau cơn hồng thủy 75, anh Huỳnh đã ở lại Sài Gòn rồi sau này mới vượt biên. Vì năm 75 chợt thấy mình yêu nước nên ở lại. Chuyến vượt biên những năm sau là thảm kịch gia đình. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác. Hôm nay chúng ta chỉ nghe câu chuyện chấm dứt dưới chân cờ.

Riêng đối với các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã chạy được qua ngả Tân Sơn Nhất vào tuần lễ cuối cùng. Nếu đi ngang qua cổng trại Trần Hưng Đạo của Bộ Tổng Tham Mưu thì sẽ thấy Trung sĩ Huỳnh đứng giữ trật tự. Suốt tuần lễ dài như cả trăm năm, anh vẫn đứng gác cho đến giờ phút cuối để các cấp trên di tản theo hệ thống quân giai. Bởi vì người trai Kiến Hòa đã không biết tại sao trong những giờ phút đó, anh lại chợt thấy mình yêu nước, yêu quân đội....

Giới thiệu của Giao Chỉ,San Jose.
* * *

Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là tuyến phòng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đã đổ vỡ.

Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để trình diện đơn vị.

Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là thượng sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại Tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi.

Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thì Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II thì lá cờ tướng đã hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không còn. Đi quan Bộ Chỉ Huy BĐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để phòng thân.

Không có phương tiện của quân đội nên chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngã Ba Thành và leo xe nhà binh tìm đường xuôi Nam. Lúc bấy giờ có Quân Cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là Hiệp Già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng học chung với tôi mấy khóa ở Trường Quân Cảnh và Trường HSQ Đồng Đế.

Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến thị xã Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao tranh ở ngã ba Bình Tuy (Rừng Lá).

Tin này làm chúng tôi chùn chân vì tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt Cộng thì chỉ có chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì suốt từ nhiều ngày qua đã có lúc giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xã Phan Thiết đang yên lành thì bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Điều này ai có đi khoảng thời gian đó đều biết. Với máu Quân Cảnh trong người, tôi rất bất mãn nhưng không thể làm gì được.

Sau cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết tìm ghe hoặc tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ý nên chúng tôi chia tay.

Sau cùng tôi cũng tìm đường thủy về Sài Gòn qua ngã Vũng Tàu. Trình diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính, lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng vui. Tại Ban Nhân Viên Tiểu Đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Đại Đội 1 Quân Cảnh tại Bộ TTM. Thật tình mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Hưng hay Trung Tá Hưng (không rõ), còn các Đại Đội Trưởng và Trung Đội Trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đã.

Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu quân nhân từ Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Đại Đội 1 Quân Cảnh, hình như khoảng 15 anh em gì đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút chặn ngã ba Chú Ía, ngã tư Võ Di Nguy Võ Tánh, Võ Tánh gần Bệnh Viện III Dã Chiến Hoa Kỳ, và Võ Tánh gần ngã ba Trương Quốc Dung.

Có một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn Quân Cảnh cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp Già và được biết anh bị một viên đạn bắn sẻ của Việt Cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngã ba Rừng Lá. Tôi bần thần về tin này cả tuần.

Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày đứng đường, đêm về các điểm phòng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy Tổng thống Thiệu đọc diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích lòng dạ sao xuyến tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái thì 2 trái vô Tân Sơn Nhất còn trái vô TTM. Sau 2 trái thì 1 trái vô Tân Sơn Nhất và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn.

Trong thời gian này, bên gia đình vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu muốn đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi bình yên. Tôi là hạ sĩ quan với sắc phục Quân Cảnh. Đi đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không những đi dễ dàng mà còn lo cho được cả gia đình họ hàng. Nhưng không biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy mình yêu nước. Bỏ đi không đành. Bó là tấm lòng thành thực, nghĩ sao thì nói vậy. Sau này vợ tôi cứ nói mãi về vụ di tản. Bây giờ bả không còn nữa nhưng tôi vẫn còn nghe như tiếng nói than thở bên tai.
Sáng ngày 30 tháng 4-1975:

Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các Quân Cảnh cơ hữu của Đại Đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi Quân Cảnh Đại Đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp Trung và Đại Tá tự ký Sự Vụ Lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng Quân Cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự.

Lệnh Tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi thì chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Đại Đội 1 Quân Cảnh mà thôi. Tôi quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh Quân Cảnh làm việc thật tích cực và hiệu quả. Nhìn kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật tình quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh. Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Đồng Đế. Đó là khóa 1/71 Đặc Biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm Chỉ Huy Trưởng. Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ đây, rõ ràng là Minh đang ở Đại Đội 1 Quân Cảnh TM. Giơ tay chào nhau, nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét về hướng tòa nhà chánh.

11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975:
Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, thì ra các anh em LĐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM thì tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn phòng Đại Đội 1 Quân Cảnh vì xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đã đầm đìa. Tôi nhìn Minh mà lo cho thân mình nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra.

11 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975:
Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình "Thôi rồi, mất nước rồi." Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đã trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nhìn Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia.

Giờ đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đã chết thật hay chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đã làm một việc thật là đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một Quân Cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội. Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25.

Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ khuyết dùm cho.

Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Lễ Phủ Kỳ Trung Tướng Dư Quốc Đống

Bài: Tuyết Mai
Ảnh: Phạm Hòa


Image

Cố Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù đã mệnh chung ngày 22 Tháng Tư, 2008 tại Hungtington Beach, CA hưởng thọ 76 tuổi. Trong niềm thương tiếc vô vàn, các cựu quân nhân Gia Đình Mũ Đỏ nhiều nơi đã tề tựu về đây, trang trọng tổ chức tang lễ. Buổi chiều lúc 5:30 ngày 2 Tháng 5, để tỏ lòng biết ơn một chiến sĩ quả cảm, một cấp chỉ huy nhân hậu, tài ba, để tiễn đưa vị huynh trưởng kính mến, khoảng một trăm cựu quân nhân Gia Đình Mũ Đỏ đã trang trọng cử hành lễ phủ cờ Quốc Gia VNCH lên quan tài của Cố Trung Tướng Du Quốc Đống. Đây là một nghi lễ đặc biệt để ghi nhận, để đền đáp tấm lòng trung kiên, tinh thần tận tụy của Trung Tướng đối với binh chủng Nhảy Dù , đối với Quân Lực VNCH và đối với Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam.

Quan tài được đặt trong một phòng rộng, bên trái phía đầu quan tài có cờ vàng Việt Nam CH và quân kỳ Nhảy Dù, bên phải có cờ Trung Tướng và hoa tươi kết hình huy hiệu Dù “con ó và cánh dù trên nền đỏ”, phía sau quan tài, dọc theo tường tràn ngập những vòng hoa tuyệt đẹp.

Trong lời vinh danh trước nghi lễ phủ kỳ, Cựu Đại Uý Phạm Ngọc Đăng đã giới thiệu, suốt cuộc đời binh nghiệp Trung Tướng Dư Quốc Đống đã sống trọn tình đồng đội với anh em Mũ Đỏ và các chiến sĩ trong QLVNCH. Cố Trung Tướng đã tận tụy phục vụ dưới lá quốc kỳ linh thiêng, sát cánh với thuộc cấp của mình trong những lúc khó khăn nhất, Trung Tướng rất xứng đáng cho chúng ta ngưỡng mộ.

Ba vị cựu quân nhân đại diện GĐMĐ là Cựu Đại Tá NguyễnVăn Tường, Cựu Đại Tá Lê Văn Phát, Cựu Trung Tá Lê Ngọc Tỉnh, được mời lên niệm hương trước bàn thờ. Ngay sau đó tất cả mọi người đứng dạy nghiêm chào, nhạc khai quân hiệu trầm hùng trổi lên. Theo lệnh, sáu cựu quân nhân Nhảy Dù trong toán danh dự tiến vào vị trí hành lễ, đến gần quan tài, vị chỉ huy trang trọng nói:”Xin linh hồn Huynh Trưởng Dư Quốc Đống chấp nhận nghi lễ phủ cờ này”. Lá quốc kỳ VNCH được sáu cựu quân nhân trải rộng ra thật thẳng rồi nhẹ nhàng phủ lên quan tài theo lễ nghi quân cách phủ kỳ trong tiếng quân nhạc.

Tiếp theo là một phút mặc niệm và lễ truy điệu, tiếng kèn oai oán trổi lên, sau đó là băng ngâm thơ, để tưởng nhớ Cố Trung Tướng Dư Quốc Đống. Nhân dịp này mọi người cùng tưởng nhớ truy điệu những quân cán chính đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia và những anh em Nhảy Dù đã có công tô thắm màu cờ Quốc gia làm rạng danh GĐMĐ VNCH, đem an bình no ấm cho đồng bào. Sau đó nhiều người đến thắp hương và cầu nguyện trước bàn thờ Cố Trung Tướng Dư Quốc Đống.
Image

Ngày hôm sau, 3 Tháng 5, chương trình lễ tưởng niệm Cố Trung Tướng Dư Quốc Đống được bắt đầu lúc 11:30 sáng, với sự hiện diện của hơn hai trăm quan khách, trong đó có khoảng một trăm cựu quân nhân Sư Đoàn Dù trong quân phục chỉnh tề. Trong số những quan khách tham dự có Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính, Chuẩn Tướng Lê Văn Tư, Mục sư Trần Thanh Vân, Ủy Ban Liên Tôn VN tại HK, Ông Nguyễn Văn Giàu , Hòa Hảo…

Mở đầu Cựu Đại Tá Nguyễn Phúc Hùng, Khóa 5 Hoàng Diệu Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt bày tỏ lòng thương tiếc và đọc tiểu sử của Cố Trung Tướng Dư Quốc Đống.

Kế đến Cựu Trung Tá Phạm Đình Cung, Chi Hội Trưởng Chi Hội GĐMĐ Nam Cali đại diện GĐMĐ cảm ơn quan khách tham dự và đọc điếu văn. Ông nói, chúng tôi hôm nay tất cả đang hiện diện đông đủ, quân nhân các cấp thuộc binh chủng Nhảy Dù, những người lính hằng chiến đấu và nhận lệnh chỉ huy trực tiếp của Tư Lệnh từ hơn hai mươi năm truớc…Trung Tướng là một trong những Tư Lệnh kiệt liệt của đạo binh nhân nghĩa, Sư Đoàn Nhảy Dù - binh chủng bách thắng uy vũ cùa Quân Lực VNCH”.

Trong bài điếu văn này nhiều chiến trận lẫy lừng mà Cố Trung Tướng Du Quốc Đống đã tham dự, từ binh biến Bình Xuyên đến Bình Giả, Đồng Xoài, Pleime, Pleiku, Thung lũng Sông Ia Drang, Tổng công kích toàn cõi Miền Nam Tết Mậu Thân, Tây Ninh, Hạ Lào, KongTum, An Lộc, Quảng Trị… được nhắc lại.

Các giới chức chỉ huy trong binh chủng Nhảy Dù luôn luôn nghe từ hệ thống truyền tin…”Đây Bạch Long , có sĩ quan nào đầu máy?” Và Bạch Long xuống trực thăng chỉ huy bất cứ đơn vị hành quân nào…dẫu là rừng sâu hay Thung lũng Tử Thần (Death Valley). Bạch Long là vị Tư Lệnh độc nhất đã chiến đấu bên cạnh chiến sĩ của mình …Trung Tướng Dư Quốc Đống không hề vắng mặt một trận chiến nào, Người cũng là vị Tư Lệnh của chiến trường uất hận cuối cùng của Miền Nam, Phước Long Tháng 12/1974.

Cựu Đại Tá Nguyễn Văn Tường, Chủ tịch BCH/TƯ – GĐMĐVN Trung Ương đã đại diện cho các anh em trong Sư Đoàn Dù phát biểu: dưới sự chỉ huy của Trung Tướng, binh chủng Nhảy Dù đã chiến đấu thật kiên cường, chưa bao giờ phải khuất phục thất bại trước đối phương. Các nhà bình luận quân sự trên thế giới thừa nhận Sư Đoàn Nhảy Dù là một trong những sư đoàn thiện chiến nhất thế giới. Theo ông, sự trưởng thành của Sư Đoàn Nhảy Dù là nhờ Trung truớng rất nhiều, nên tất cả anh em Nhảy Dù có một cảm tình rất là sâu xa đối với vị tư lệnh của mình.

Ông nói tiếp, con đường đi tới để hoàn thành nhiệm vụ còn rất nhiều chông gai và thời gian, giờ đây Trung Tướng đã về yên nghỉ nơi Nước Chúa xin hãy phù trợ cho mỗi người anh em chiến binh Dù luôn có nghị lực và sức khỏe để hoàn thành trách nhiệm đã nhận lãnh…

Trong suốt thời gian tưởng niệm, nhiều quân nhân Dù xúc động ứa nước mắt vì thương mến vị chỉ huy của họ cũng như khi nghe nhắc lại những chiến tích lẫy lừng in sâu trong tâm khảm của họ.

Trong dịp này Trung Tướng James B. Vaught, Cố vấn HK đến từ Myrtle Beach, South Carolina được mời lên phát biểu, ông nhắc lại những kỷ niệm lúc làm việc với Cựu Trung Tướng Dư Quốc Đống từ Tháng Tư, 1971, ông nhắc lại ông và Cựu Trung Tướng Dư Quốc Đống coi nhau như anh em ruột. Ông được chỉ định đến đề làm Cố Vấn thật ra chỉ để giúp đỡ, hợp tác. Ông ca ngợi Trung Tướng Dư Quốc Đống là người can đảm, tài ba. Trước khi dứt lời, Ông Vaught đã xin lỗi cách đối xử của HK đối với dân tộc VN. Vào năm 1973, lúc đó QLVNCH sắp chiến thắng, Cựu Tổng Thống Nixon muốn được tái đắc cử nên ông ta đem quân đội HK về nước.

Theo Hiến Pháp HK thì Tổng Thống là vị Tổng Tư Lệnh, là quân nhân, chúng tôi là những quân nhân đã tuyên thệ phải tuân theo lệnh cấp trên. Hoa Kỳ đã hy sinh trên 50 ngàn chiến binh trong nỗ lực giúp quý vị chiến thắng và quý vị sắp chiến thắng. Nhưng những nhà chính trị đã quyết định bỏ rơi những người bạn đồng minh. Hoa Kỳ đã để cho quý vị không có cách nào để tự vệ chống lại Cộng Sản Bắc Việt. Và chúng tôi, Hoa Kỳ sẽ làm y như vậy bây giờ, trong chiến tranh Iraq. Hoa Kỳ sắp sửa lập lại sự ngu xuẫn trước đây. Một lần nữa tôi xin lỗi về cách xử sự của quốc gia chúng tôi, họ đã để cho quý vị phải đương đầu mọi khó khăn một mình… Khi Tướng Vaught dứt lời, mọi người trong tang lễ đứng dậy vỗ tay vang dội.
Image
Dân biểu Quốc Hội California Trần Thái Văn, cháu ruột của Cựu Trung Tướng Dư Quốc Đống, có vài lời cảm tạ và chia sẻ với các bậc trưởng thượng. Dân biểu Văn nói, “Cậu Ba” có ra đi, nhưng chí khí vẫn còn mãi mãi. Như Bác Tường đã nói, cuộc chiến chưa xong, nhưng với tất cả những sự hy sinh và mất mát của thế hệ thứ nhất để bảo vệ sự tự do và dân chủ của Miền Nam VN, thế hệ thứ nhì như chúng tôi và các bạn đồng lứa sẽ tiếp tục tranh đấu để đem ngọn lửa chính nghĩa đó đến với nhân dân VN và cộng đồng VN chúng ta. Đó là lời hứa và trách nhiệm tối thiểu mà thế hệ thứ nhì, các hậu duệ của quý vị có thể làm được và chúng tôi xin nhân cơ hội này mà cùng hứa với quý vị và chúng ta không quên trách nhiệm đó. (Tiếng vỗ tay vang dội).

Sau đó Dân biểu Trần Thái Văn có một vài lời với người cậu thân yêu của ông là Trung Tướng Dư Quốc Đống. Bằng một giọng đầy xúc động, ứa lệ Dân biểu Trần Thái Văn nhắc lại nhiều kỷ niệm với “Cậu Ba” của ông làm không khí tang lễ thêm phần xúc động.

Những ngưới thân trong gia đình Cựu Trung Tướng lần lượt được mời lên phát biểu cảm tưởng hay cảm tạ quan khách. Được biết lễ di quan được bắt đầu vào lúc 2 giờ chiều, mọi người tiễn đưa được mời lên xe bus đi đến nhà hỏa táng và lễ thu cờ được thực hiện ở đây.
Image
nuoclanh
Posts: 163
Joined: Wed May 30, 2007 12:09 pm
Contact:

Post by nuoclanh »

Image

Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
Niên trưởng Hồ Thị Vẻ,


Một mảnh nhung y điểm má hồng (Thơ Đinh Hùng)
Giao Chỉ – San Jose 2005, Aug 10, 2005


Từ 20 năm qua, mỗi khi đặt bút xuống viết bài bình luận về các niên trưởng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi không hề nghĩ rằng sẽ viết về một bậc nữ lưu. Thật không ngờ 30 năm sau ngày tan hàng mới chợt nhớ ra rằng chúng ta đã có rất nhiều anh thư liệt nữ nhập ngũ từ năm 1950, trải qua bao nhiêu là gian truân vất vả cho đến những ngày cuối cùng với 25 năm quân vụ.

Đại tá Cẩm Hương, vị trưởng đoàn nữ quân nhân cao cấp nhất sau khi bị tù cải tạo trên 10 năm đã qua đời tại Sài Gòn. Bà là người phụ nữ duy nhất đã từng bị giam chung một thời gian với nam quân nhân cấp đại tá.

Nhưng nữ chiến sĩ bị giam giữ lâu nhất là chị Thanh Thủy, Chỉ huy Biệt đoàn Thiên Nga của Cảnh Sát Quốc Gia. Đây là một đơn vị nữ cảnh sát tình báo với nhiều thành tích đã trở thành huyền thoại để rồi con Thiên Nga đầu đàn đã phải trả nợ đến 13 năm tù cải tạo.

Lịch sử khởi thủy của Nữ Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu từ cả 3 miền Trung Nam Bắc. Vào đầu thập niên 50, Hà Nội, Huế, Sài Gòn đều tuyển mộ các nữ nhân viên dân chính, các cán sự xã hội và y tế để giúp việc tại các đơn vị Tổng Hành Dinh và các Quân Y Viện.

Năm 1950 có đôi bạn trẻ của đất Thần Kinh gia nhập Việt Binh Đoàn. Đó là các cô Hồ Thị Vẻ và Nguyễn Hạnh Nhân. Cả hai đều bắt đầu công việc phụ tá văn phòng và sau đó cải danh thành nữ quân nhân từ cấp dưới đi lên để trở thành các sĩ quan cấp tá. Bà Vẻ với chức vụ sau cùng là trung tá chỉ huy trưởng Trường Nữ Quân Nhân nơi đào tạo cả hạ sĩ quan và sĩ quan cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bà Hạnh Nhân là trung tá trưởng đoàn Nữ Quân Nhân của binh chủng Không quân.

Cả hai đã cống hiến 25 năm của tuổi thanh xuân cho quân đội để rồi sau cùng đều phải sống nhiều năm tại trại giam nữ quân nhân Hàm Tân.

Trong số các sĩ quan cao cấp còn có Trung tá Nguyễn Thị Hằng và Trung tá Huỳnh Mai. Chị Huỳnh Mai là Trưởng đoàn Nữ Quân Nhân sau cùng của Bộ Tổng Tham Mưu. Phần lớn các sĩ quan Nữ Quân Nhân đơn vị trưởng đều có dịp tham dự các lớp huấn luyện và tu nghiệp tại Hoa Kỳ và các khóa chỉ huy tham mưu cao cấp tại Việt Nam.

Cũng như đa số sĩ quan Nữ Quân Nhân, các chị không có cơ hội di tản năm 1975 nên đã phải trình diện kẻ thù để trở thành những người tù chính trị đau thương nhất của Việt Nam Cộng Hòa.

Vào những năm chiến tranh khốc liệt, quân số Việt Nam Cộng Hòa lý thuyết là một triệu binh sĩ, trong đó có 1% là nữ quân nhân tức là 10,000 chiến binh phụ nữ. Tuy nhiên, việc tuyển mộ khó khăn nên thực tế quân số hiện diện dưới cờ thường trực chỉ có trên 6,000 nữ quân nhân qua 4 vùng chiến thuật thuộc 3 quân chủng Hải, Lục, Không quân.

Sau 1975, nhiều gia đình sĩ quan cả vợ chồng đều đi tù cộng sản, đành đoạn bỏ con cái cho họ hàng bà con đùm bọc.

Cũng trong suốt 25 năm chinh chiến từ 1950 đến 1975 đã có rất nhiều Nữ Quân Nhân hy sinh trên chiến trường mặc dù không trực tiếp cầm súng chiến đấu.

Trong trận rút lui của Sư đoàn 3 Bộ binh tại Quảng Trị năm 1972, Trung tá Lê Huy Linh Vũ đã tả về cái chết đau thương của một Nữ Quân Nhân với máu đào đỏ thắm chiếc cáng cứu thương nằm ở bên đường. Những người lính quân y đã bị pháo kích chết, xe cứu thương bị lật nghiêng. Pháo địch như mưa. Tất cả đều tìm đường chạy.

Trung tá Linh Vũ kể rằng, khi đoàn di tản suôi Nam thì Nữ Quân Nhân Xuân Hồng tuy bị thương nặng nhưng vẫn còn tỉnh táo. Em nói rằng: “Trung Tá về nhắn mẹ em ở Thị Nghè sau này ra tìm mộ em ở Quảng Trị.” Em Xuân Hồng 19 tuổi hoa niên đeo lon trung sĩ nhất với anh dũng bội tinh ngôi sao đồng. Chưa hề có nửa mối tình đầu. Em nằm lại trên phòng tuyến của Sư đoàn 3 tan vỡ để chờ chết từng giờ. Nơi em nằm lại sau này người ta gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng. Nữ Quân Nhân Xuân Hồng của Đại đội Tổng hành dinh Sư đoàn 3 Bộ binh là một trong nhiều nữ quân nhân đã hy sinh cho Việt Nam Cộng Hòa.

Trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa có mộ bia của Thiếu úy Quỳnh Hoa bên cạnh mộ bia của Thiếu sinh quân Tô Đình Hương. Chiến tranh khốc liệt tàn phá cả hương hoa đất nước. Những đóa hoa Quỳnh mang quân phục và các em thiếu nhi của gia đình nghĩa tử.

Sau này còn nhiều nữ quân nhân đã chết trong trại cải tạo, hay chết trên đường vượt biên. Toán Nữ Quân Nhân được biết đến nhiều nhất là các cô mũ đỏ của Sư đoàn Nhảy dù. Một vài tên tuổi thường được nhắc đến là mũ đỏ ký giả Võ Thị Vui và Phan Cẩm Phi. Vui đã qua đời ở miền Nam, Cẩm Phi hiện ở San Jose.
Cả hai cô sau 1975 đều sinh hoạt rất tích cực trong các lãnh vực xây dựng cộng đồng, báo chí và tôå chức ái hữu Nữ Quân Nhân ở hải ngoại.

Riêng ký giả Phan Cẩm Phi là người đã có dịp tham dự nhiều chiến dịch tại Việt Nam khắp các vùng chiến thuật và cô là người hoạt động rất đắc lực cho tổ chức Phục Quốc của ông Võ Đại Tôn ngay từ đầu thập niên 1980 tại hải ngoại.

Trong cuốn tuyển tập 16 Ngàn Tử Sĩ Ở Lại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, chúng tôi có đề cập đến trường hợp hai cô sĩ quan nữ quân nhân Nông Thị Thanh Nga và Mai Tố Ngọc. Thanh Nga 20 tuổi, nhập ngũ năm 1973. Ra trường xuất sắc được giữ lại làm huấn luyện viên cho Trung tá Hồ Thị Vẻ. Hai năm quân ngũ trả giá cả cuộc đời. Bây giờ, cô thiếu úy xinh đẹp một thời đang bán hàng rong trên vỉa hè Sài Gòn.

Mai Tố Ngọc là thiếu úy trưởng ban xã hội của Trường Võ Bị Đà Lạt.

Năm 75, trường di tản bỏ lại cô nữ thiếu úy trong bệnh xá với thương binh.

Bây giờ đang sống dở chết dở ở kinh tế mới Sông Bé.

Số mệnh của những người con gái thời chiến.

Một lần vào nơi gió cát, bụi suốt cuộc đời.

Cả hai cô, mỗi năm hai lần được giao phó công tác về Biên Hòa tham dự vào công việc tảo mộ chui tại Nghĩa Trang Quân Đội.

Anh nằm xuống, chợt nghe “từ đáy hồn thương tích, vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.” (Thơ Thanh Nam)

Em là hương hoa của quân đội, đi xe ôm từ xa về thắp hương trên những nấm mồ hiu quạnh cho trọn nghĩa ân tình. Đó là những chiến hữu nam nữ Việt Nam Cộng Hòa mà chúng ta bỏ lại Sài Gòn.

Đó là một vài nét đan thanh mà chúng ta còn có thể ghi lại về hình ảnh Gia Đình Nữ Quân Nhân của niên trưởng Hồ Thị Vẻ.

Riêng về cuộc đời của bà Vẻ là một tấm gương hoạt động đấu tranh từ gia đình, xã hội, qua hướng đạo và quân đội.

Từ những ngày thơ ấu Hồ Thị Vẻ đã hoạt động hướng đạo và trở thành huynh trưởng. Khi vừa lập gia đình thì toàn quốc kháng chiến, cả hai vợ chồng đều tham gia chống Pháp và đều bị cầm tù.

Sau khi chồng bị Pháp giết, vợ tần tảo đi làm nuôi con và gây dựng phong trào hướng đạo tại Huế và Đà Nẵng.

Người chồng sau này của chị là chuyên viên ngành hỏa xa cũng là một huynh trưởng hướng đạo. Cô con gái lớn của chị cũng theo con đường của mẹ đi học lớp sĩ quan Nữ Quân Nhân rồi về phục vụ tại Pleiku.

Sau 1975, chồng của chị Vẻ là anh Thanh cũng phải đi học tập, khi được tự do đã tham gia kháng chiến phục quốc và bị cộng sản Việt Nam sát hại.

Riêng về phần chị Vẻ, khi được tự do sau 10 năm tù đày đã lập hồ sơ HO qua Hoa Kỳ và đã có dịp sinh hoạt với Gia Đình Nữ Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại.

Tháng 4-2005, Bộ Tổng Tham Mưu họp mặt Đêm Hội Ngộ 30 Năm của Trại Trần Hưng Đạo, Thiếu tá Nữ quân nhân Lê Thị Nuôi của San Jose sốt sắng liên lạc khắp nơi. Trung tá Hồ Thị Vẻ, Trung tá Huỳnh Mai và chị em Nam Bắc Cali về DC để gặp lại các niên trưởng và chiến hữu của Bộ Tổng Tham Mưu.

Nhân dịp này, niên trưởng Hồ Thị Vẻ cho biết hiện còn lưu giữ một số hình ảnh của các sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu chụp chung với Đại tá Trần Cẩm Hưng. Bà ước mong trong Viện Bảo Tàng Việt Nam Cộng Hòa sẽ có một nơi ghi nhận riêng về sự tham dự của phụ nữ trong quân đội và trong Cảnh Sát Quốc Gia.

Tại thủ đô Hoa Kỳ trong đêm hội ngộ có chị Đào Đức Minh cũng là Nữ Quân Nhân và đồng thời cũng là một huynh trưởng hướng đạo miền Trung đã từng tham dự khóa đầu tiên do Hồ Thị Vẻ tổ chức.

Tình đồng hương, tình hướng đạo, tình chiến hữu Nữ Quân Nhân trải qua bao nhiêu năm dâu bể đã làm cho đêm họp mặt vừa hào hứng vừa ngậm ngùi.

Ngay sau khi từ giã thủ đô về lại miền Nam Cali, bà Vẻ đã soạn sẵn một bao thư với nhiều hình ảnh tài liệu dán tem sẵn đề tên Giao Chỉ để gửi cho chúng tôi dùng làm di sản cho Viện Bảo Tàng. Bao thư lớn chưa kịp gửi thì bà lại có dịp đi thăm gia đình và chiến hữu Úc châu. Khi trở về bà đã mắc bệnh hiểm nghèo và qua đời lúc 78 tuổi.

Bà mất ngày thứ Năm 26 tháng 5-2005.

Hoàn toàn tình cờ, anh em chúng tôi từ San Jose xuống dự tiệc về hưu của bạn Lê Xuân Định chiều thứ Sáu 27 tháng 5-2005, mở tờ báo Orange County thấy có cáo phó báo tang niên trưởng Hồ Thị Vẻ.

Một phái đoàn đại diện Tổng Tham Mưu bèn được thành lập đến viếng linh cữu vào ngày Chủ Nhật trước khi lên máy bay trở về Bắc California. Chút duyên liên hệ muộn màng mở ra từ ngày hội ngộ tháng 4 năm 2005 tại thủ đô mới được chưa đầy hai tháng đã đóng lại.

Trước khi tiễn đưa niên trưởng Hồ Thị Vẻ về nơi vĩnh cửu, Trung tá Hạnh Nhân đã thay mặt toàn thể Nữ Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa để đọc bài ai điếu.

Đôi bạn Đồng Khánh của sông Hương núi Ngự một thời cùng gia nhập binh đoàn, cùng nổi trôi với đất nước, cùng tù đày và cùng xây dựng cuộc sống tha hương nay đã đến lúc chia tay theo định mệnh.

Đó là câu chuyện sinh ly tử biệt trong các niên trưởng của tôi. Bài tường thuật đến đây tưởng chừng đã hết. Nào ngờ, tang gia bối rối đã xong, con cháu chị Vẻ xem lại di vật của mẫu thân đã tìm thấy một bao thư dày đã dán kín đề tên Giao Chỉ – San Jose. Bèn chuyển cho chị Hạnh Nhân để duyệt lại và gửi lên miền Bắc cho người nhận. Thư đến thấy đề tên người gửi là bà Hồ Thị Vẻ, người mình vừa đi đưa đám tháng trước, thật quá ngỡ ngàng.

Mở ra đọc thư tóm lược của Trung tá Hạnh Nhân kèm theo cả lá thư của Trung tá Hồ Thị Vẻ nay đã trở thành di chúc.

Trong số các tài liệu của người ra đi giao lại, có một tấm hình rất quý là bản chính chụp các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhân buổi họp hàng tháng.

Hình các tướng lãnh, các đại tá trưởng phòng và có mặt Đại tá Cẩm Hương của đoàn Nữ Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa.

Niên trưởng Hồ Thị Vẻ dặn rằng hình bà Cẩm Hương là đại diện cho 6,000 nữ quân nhân, phải được lưu giữ trong Viện Bảo Tàng Việt Nam. Đó là phấn son tô điểm sơn hà. Đó là những bậc nữ nhi như Đinh Hùng đã viết:

Nàng đã trao hồn cho núi sông.
Thuyền quyên vướng mắc chí tang bồng.
Chín lần gươm báu trao tay ngọc.
Một mảnh nhung y điểm má hồng.

Xin vĩnh biệt niên trưởng Hồ Thị Vẻ, và xin cảm ơn chị Hạnh Nhân. Vâng cả niên trưởng Hạnh Nhân nữa. Giao Chỉ tôi tuy lâu nay vẫn cậy mình ở tuổi cao niên nhưng bây giờ thì đã biết rằng vẫn còn thua các thuyền quyên xứ Huế về cả tuổi tác lẫn thâm niên quân vụ.

Giao Chỉ – San Jose 2005

Image

Ghi chú: Đính kèm bài viết này là tấm hình di chúc của Đại tá Cẩm Hương giao cho Trung tá Hồ Thị Vẻ. Bây giờ là di chúc của chị Vẻ gửi cho tác giả. Nếu quý vị còn có những di vật của Nữ Quân Nhân hoặc bất cứ di vật nào của Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa, xin liên lạc với chúng tôi IRCC, Inc. 420 Park Ave., San Jose, CA 95110. Điện thoại: (408) 971-7878. Fax: (408) 971-7882. Email: locvu@irccsj.com. Xin đa tạ.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image
NÊU CAO "TINH THẦN NGUYỄN KHOA NAM"
Trong Ngày Giỗ Thứ 33 Của Người


Bài viết: Trần Kim Vy
Ảnh chụp: Trần Minh Tâm
Chiều Chủ Nhật 04 tháng 5 năm 2008 tại nhà hàng Ocean Palace đã có khoảng trên dưới 700 quan khách tham dự Lễ Giỗ và Tưởng Niệm cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, một trong năm vị hổ tướng đã tuẫn tiết thà chết theo thành chứ không để lọt vào tay giặc. Hành động anh hùng của danh tướng Nguyễn Khoa Nam đã để lại nhiều thương tiếc và kính phục, không những chỉ từ những quân nhân trong Quân Ðội VNCH mà ngay cả trong lòng toàn thể người dân Việt Nam từ quốc nội lẫn hải ngoại.


Theo lời của ông Nguyễn Khoa Tần trong tộc họ Nguyễn Khoa thì: "Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Ðà Nẵng ngày 23-9-1927, gốc làng An Cựu Tây, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình văn học, tôn sùng đạo Phật. Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Ðã Nẵng, hồi hưu năm 1941. Thân mẫu ông là cụ bà Công Tôn Nữ Mộc Cần, thuộc dòng Tuy Lý Vương. Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại.


"Ông là con trai giữa trong gia đình có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ còn lại ba chị em. Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại SàiGòn và đã hồi hưu. Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành giáo dục và cũng là cựu Thượng Nghị Sĩ dưới chế độ VNCH.


"Tướng Nguyễn Khoa đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Tốt nghiệp trường Hành Chánh Huế, ông làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Phòng từ năm 1951.


"Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đã bị gọi động viên, gia nhập khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức vào tháng 4 năm 1954. Mãn khóa tháng 10-1953, ông đã gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy. Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7-1954, trên cương vị một Trung Ðội Trưởng thuộc Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đã tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt .


"Mùa hè 1955, là Ðại Ðội Trưởng thuộc Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đã tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Thủ Ðô Sài Gòn. Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pháp và Nhật. Ðầu năm 1961, ông được thăng cấp Ðại Úy. Năm 1962, Ðại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs, đến năm 1963, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ.


"Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 02-1966, đơn vị ông tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Ðoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư Ðoàn 2 Bắc Việt, và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.


"Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến Ðoàn Trưởng Chiến Ðoàn 3 Nhảy Dù. Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đã chiến thắng trận đánh đồi 1416 Ngok Van ở Kontum, tiêu diệt một Trung Ðoàn Chủ Lực Bắc Việt. Ông được ân thưởng Ðệ Tam Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Ðoàn Nhảy Dù sau Trung Tướng Ðỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quý này lúc còn mang cấp bậc Trung Tá. Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của Tổng Thống Hoa Kỳ.


"Ðầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn. Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven Ðô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Ðại Tá trong thời gian này.


"Ðầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh kiêm Tự Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10-1971 thì được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10-1973 được lên Thiếu Tướng thực thụ.


"Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu tướng Nguyễn Khoa được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV - Quân khu 4 cho đến ngày 30-4-1975. Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách Tư Lệnh Quân Ðoàn IV - Quân khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã quyết định không đầu hàng địch và đã tuẫn tiết vào sáng ngày 01 tháng 5 để bảo toàn khí tiết của một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi."

Cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa đã khuất bóng 33 năm. Năm nay, Lễ Giỗ cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam có phần trang nghiêm và đặc biệt hơn những năm trước, vì ngoài gia đình tộc họ Nguyễn Khoa còn có sự tham dự đầy đủ của các Hội Ðoàn Quân Ðội tại Houston Texas qua lễ nghi quân cách, lễ trao quốc kỳ cho đại diện gia đình do cựu Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường chủ lễ trước sự hiện diện của trên dưới 700 quan khách, đại diện các hội đoàn tương trợ, ái hữu và các cơ quan truyền thông Việt ngữ địa phương.
Image
Chương trình tổng quát được điều hợp bởi hai MC Nguyễn Khoa Diệu Quyên và Nguyễn Khoa Diệu Thảo là những con cháu đời thứ hai của tướng Nguyễn Khoa . MC Nguyễn Khoa Diệu Quyên là phu nhân của nhạc sĩ Trúc Hồ, hiện là Giám Ðốc hệ thống truyền hình SBTN cũng là thành viên trong Ban Giám Ðốc và điều hành của Công ty Asia Network. Công ty này đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào nền ca, vũ, nhạc kịch Việt từ thời tiền chiến cho đến hôm nay. MC Nguyễn Khoa Diệu Thảo tốt nghiệp chương trình đại học với cấp bằng Tiến sĩ Dược khoa là phu nhân của Bác sĩ Nha Khoa Nguyễn Văn Diệu. Bác Sĩ Nha Khoa Diệu & Dược sĩ Thảo là đôi uyên ương rất dễ thương, có những đóng góp không nhỏ trong các sinh hoạt Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn tại thành phố Houston.


Mở đầu Lễ Giỗ, ông Nguyễn Khoa Hoạt ngỏ lời chào mừng quan khách. Ông nói rằng:


"Thừa lệnh ông Tộc Trưởng, tôi xin thay mặt bà con Tộc Nguyễn-Khoa tại quê nhà và hải ngoại để cảm ơn sự hiện diện của quý vị tại hội trường này vào ngày hôm nay để cùng chúng tôi cử hành Lễ Húy Kỵ một thân nhân trong gia tộc Nguyễn Khoa, đó là cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, một chiến sĩ QLVNCH, đã anh dũng hy sinh tính mạng của mình vào những ngày cuối cùng của nền tự do dân chủ tại miền Nam Việt Nam hầu bảo toàn thương vong cho đồng bào và các chiến hữu thuộc cấp.


"Sự ra đi vĩnh viễn của một danh tướng được lòng kính mến từ mọi tầng lớp dân và quân của miền Nam Việt . Sự hy sinh đã để lại cho hậu thế một gương sáng, để chúng ta có thể nhìn vào đó hầu xây dựng cho những thế hệ tương lai, hầu tạo dựng một niềm tin vững chắc hơn cho việc bảo tồn những di sản tinh thần vô giá mà Ông Bà Tổ Tiên đã để lại cho chúng ta đến ngày hôm nay".


Cảm tạ lòng thương mến của quan khách và đặc biệt các hội đoàn quân đội. Ông Nguyễn Khoa Hoạt xúc động nói thêm:

"Ðã một phần ba thế kỷ trôi qua, đặc biệt năm nay, Lễ Húy Kỵ của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được các hội đoàn quân đội tại địa phương và các vùng phụ cận đã không quản ngại giúp đỡ gia tộc Nguyễn Khoa trong phần nghi lễ quân cách để ngày húy kỵ thứ 33 của cố Thiếu tướng được thêm phần uy nghiêm và trang trọng. Chúng tôi không bao giờ dám quên nghĩa cử cao quý này."


Một thành viên trong gia đình được MC Diệu Thảo trang trọng giới thiệu là Tộc Trưởng lên khán đài đọc diễn văn chủ tọa Lễ Giỗ là ông Nguyễn Khoa Khương. Ðược biết ông Nguyễn Khoa Khương chính là thân phụ của MC Nguyễn Khoa Diệu Quyên. Người viết xin đăng lại nguyên văn để độc giả biết được tâm tình của gia đình vị tướng mà mỗi khi nghĩ đến ai cũng sa lệ tiếc thương và kính phục:


"Kính thưa quý quan khách;

"Kính thưa quý vị đại diện các Quân, Binh chủng Quân Lực Việt , thưa bà con thân mến trong Tộc Nguyễn Khoa;

"Thật là vinh dự cho tôi được thay mặt bà con tộc họ Nguyễn Khoa để chủ tọa Lễ Giỗ cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và Quân Khu 4 của Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày 30 tháng Tư 1975.

"Bình thường giỗ húy-kỵ là một lễ đơn giản và ấm cúng trong gia đình. Ðặc biệt năm nay Lễ Giỗ cố Thiếu tướng lần thứ 33 được thêm phần trang trọng nhờ các cựu chiến sĩ đại diện QLVNCH tham gia và thực hiện phần nghi lễ quân cách. Với tư cách đại diện Tộc trưởng họ Nguyễn Khoa ở hải ngoại, tôi xin thành thật cảm tạ sự tham gia đặc biệt của quý vị đại diện các Quân, Binh chủng QLVNCH.


"Tôi thường cảm nghĩ, và hôm nay xin mạo muội trình bày cùng quý vị, đức độ trong đời sống binh nghiệp và gia đình cũng như hành động tối hậu của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam là một tấm gương sáng đang tiếp nối truyền thống trung-hiếu-nghĩa của các tiền nhân tộc Nguyễn-Khoa trong lịch sử Việt Nam. Như có ghi chép trong gia phả Nguyễn Khoa và trong bộ Quí Hương Tiên Nguyên Sử, gần 5 thế kỷ trước, năm 1557, vị thủy tổ của tộc họ theo chân Chúa Nguyễn Hoàng trấn nhậm miền Nam từ dãy Hoành Sơn trở vào. Qua các thế kỷ, vì lập công trạng lớn với quốc gia, có bốn vị trung thần thuộc tộc Nguyễn Khoa được phong chức hiệu "Khai Quốc Công Thần" và tước vị "Quận Công" và không biết bao nhiêu vị khác đã giữ những nhiệm vụ và chức vụ quan trọng tại triều đình Huế và ở các miền gần xa, kể cả biệt phái bình định giúp nước lân cận. Lịch sử đã gây cảm hứng cho một giáo sư người Pháp, ông Georges Rivière, và ông đã viết bài sưu khảo tỉ mỉ đăng trong tạp chí Biên Khảo Cố Ðô Huế (Bulletin des Amis du Vieux Hue) với tựa đề "Một Dòng họ Trung Thần" (Une Lignée de Loyaux Sujets.)

"Nói riêng về tướng Nguyễn Khoa Nam, tôi xin nhắc lại lối hành xử của một viên tướng dũng mãnh khác trong tộc Nguyễn Khoa đúng 200 năm về trước, tức là năm 1775: đó là Kiệt Tiết Tướng quân Nguyễn Khoa Kiên, đã dùng gươm tử tiết khi bị bão đắm tàu và cô thế, thay vì nghe lời dụ dỗ mời phục chức tương đương của địch. Lúc tuẫn tiết, dũng tướng Nguyễn Khoa Kiên được sắc phong "Hầu Tước Triệu Thành", với chức hiệu "Chiêu-Dũng Tướng Quân Cẩm-Y Vệ", tức là Tham Mưu Trưởng Biệt Quân Hoàng Gia (mặc Cẩm y, tức là quân phục màu đỏ tím).


"Nói về khía cạnh đạo đức, chúng ta nhớ lại một vị Thượng-quan thuộc tộc Nguyễn Khoa, cảm thấy buồn bực trước sự bất lực của Triều đình đối với quân Pháp thuộc địa, đã treo ấn từ quan để xuất gia, rồi tu hành chính đạo trở thành Ðại Sư Viên Giác, lập nên chùa Ba-La-Mật có tiếng ở Huế, và tạo nên dòng tu có nhiều danh sư như Hòa Thượng Viên Thành và Hòa Thượng Thích Trí Thủ.


"Chúng ta nhắc lại lịch sử oai hùng của quốc gia cũng như lịch sử các vị đã dày công bảo vệ giang san, không phải chỉ để ôn cố tri tân suông. Chúng ta ước mong các thế hệ trẻ sau này, bất cứ ở nơi nào, nhìn lại lịch sử để tri ân và tôn vinh các bậc tiền nhân đã có công lớn với nước nhà, nhất là luôn luôn cố gắng trau giồi và hành xử thế nào cho xứng đáng là hậu duệ của các ngài.


"Tôi xin cảm tạ tất cả quý vị đã có lòng đến dự Lễ Giỗ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam hôm nay, tỏ lòng ngưỡng mộ một trong số các sĩ quan và chiến sĩ vị quốc vong thân."
Image

Trước bàn thờ có di ảnh của vị tướng hùng anh QLVNCH Nguyễn Khoa , một chương trình Lễ Nghi Quân cách do các hội đoàn quân đội thực hiện hết sức trang nghiêm và cảm động. Ðiều động và sắp xếp công việc sau hậu trường, người viết thấy có cựu Ðại Tá Nhảy Dù Liêu Quang Nghĩa, cựu Trung Tá TQLC Nguyễn Văn Phấn, cựu HQ Ðại Uý Lưu Ðức Huyến. Trên khán đài có hai sĩ quan nghi lễ là HQ Ðinh Quang Tiến và TSQ Hồ Sắc đồng điều hợp chương trình Lễ Nghi Quân Cách thật nhịp nhàng, các cựu quân nhân phía dưới vào hàng thật nghiêm chỉnh.
Image
Sau nghi lễ rước Quốc Quân Kỳ là Lễ chào Quốc Kỳ Hoa Kỳ và VNCH, là phút mặc niệm để tưởng nhớ công ơn tiền nhân đã có công dựng nước và những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ gìn giữ giang sơn tổ quốc VN, những chiến sĩ, quân dân cán chính VNCH và Ðồng Minh đã hy sinh để bảo vệ tự do cho miền Nam VN, và những chiến sĩ đã bỏ nình trong lao tù CS. Chúng ta cũng không quên nhớ đến những đồng bào thân yêu của chúng ta đã bỏ mình trên biển cả rừng sâu, trên con đường tìm tự do. Ðặc biệt hôm nay chúng ta cùng tưởng nhớ đến cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa , và những anh hùng liệt sĩ đã tuẫn tiết hy sinh, nêu cao tinh thần bất khuất của quân nhân QLVNCH.

Sau Lễ An Vị Quốc Quân Kỳ là nghi lễ trao quốc kỳ VNCH cho thân nhân cố thiếu tướng Nguyễn Khoa . Ðây là lá Quốc Kỳ lẽ ra được phủ trên quan tài của bất cứ chiến sĩ nào đã hy sinh tánh mệnh cho Tổ Quốc. Nhưng trường hợp của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa tuẫn tiết trong thời điểm đau thương của đất nước nên QLVNCH dù muốn thực hiện nghi lễ tri ân này cũng không thể nào thực hiện được. Hôm nay trong dịp gia đình tộc họ Nguyễn Khoa tổ chức Lễ Giỗ lần thứ 33 cho tướng Nguyễn Khoa Nam, các Hội đoàn Quân đội dưới sự chủ toạ của Thiếu Tướng Mạch Văn Trường tiến hành nghi lễ trang trọng này nhằm làm ấm lòng gia tộc Nguyễn Khoa và bày tỏ lòng tôn kính của người còn sống đối với anh linh của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.


HQ Ðinh Quang Tiến kể lại rằng: "Kính thưa quý vị, 33 năm trước, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa , Tư Lệnh Quân Ðoàn 4, Quân khu 4, đã anh dũng tuẫn tiết không đầu hàng địch quân. Nhưng trong hoàn cảnh đau thương của đất nước lúc bấy giờ, QLVNCH đã không thể truy điệu an táng Thiếu Tướng theo lễ nghi quân cách. Hôm nay, lễ giỗ lần thứ 33 của Thiếu tướng, tập thể Quân Nhân các Quân Binh chủng QLVNCH tại Houston kính cẩn nghiêng mình trước hương linh của vị anh hùng liệt sĩ Nguyễn Khoa Nam, và xin trao Quốc Kỳ VNCH tượng trưng cho hồn thiêng sông núi của Tổ Quốc VN, ghi ơn người anh hùng dân tộc đến Gia Tộc Nguyễn Khoa."
Image
Nghi lễ trao cờ được bắt đầu, Phan Thuận một cựu sĩ quan HQ đến trước mặt cựu Chuẩn tướng Mạch Văn Trường chào kính và escort cựu Tướng Mạch Văn Trường lên khán đài. Bác sĩ Nha Khoa Nguyễn Văn Diệu đến chào và escort ông trưởng tộc Nguyễn Khoa Phước lên khán đài. Sĩ quan phụ tá Lê Ðắc Lực (81 Biệt Cách Dù) tiến lên bàn thờ, nghiêm chỉnh chào tay di ảnh Cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam rồi nâng lá Quốc Kỳ trên bàn thờ xuống trao cho Thiếu Tướng Mạch Văn Trường. Cựu Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường có đôi lời cùng đại diện gia tộc Nguyễn Khoa và trao quốc kỳ VNCH cho ông Nguyễn Khoa Phước trong khi đó quân nhạc tấu kèn Bế Quân Hiệu. Các hội đoàn quân đội trong tư thế nghỉ và tan hàng chấm dứt phần Lễ Nghi Quân Cách.


Ông Nguyễn Khoa Phước người em ruột của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam xúc động nói lên lời tri ân chân thành đến cựu Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường và toàn thể các cựu chiến sĩ đã thực hiện một nghi thức trang trọng mà 33 năm qua gia đình ông mới nhận được lá cờ tượng trưng hồn thiêng sông núi trong đó có sự chứng giám của anh linh vị Tướng trong QLVNCH là người anh người em người bác người cậu của gia tộc họ Nguyễn Khoa. Chương trình tiếp tục với nghi thức viếng di ảnh và dâng hương lên bàn thờ cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa .


Chia xẻ cùng quan khách hiện diện những kỷ niệm thực về cái chết bi hùng của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là cựu Y sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng giám đốc Tổng Y viện Phan Thanh Giản, người đã chôn cất cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Một câu chuyện cuối cùng xảy ra giữa Thiếu Tướng Nguyấn Khoa và cựu Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, người nhận lệnh cuối cùng lo cho sự an toàn của 16 ngàn quân lính và gia đình của họ được tướng Trường kể lại từng chi tiết. Ðặc biệt bà Nguyễn Khoa Phước, người em dâu thuật lại việc cải táng người anh chồng là cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam như thế nào trong lúc chồng bà là ông Nguyễn Khoa Phước còn bị CS nhốt trong tù. Sau đó là phần phát biểu của cựu Y Sĩ Thiếu Tá Nhảy Dù Trần Văn Tính. Bài nói chuyện của ông Trần Văn Tính thật xúc tích nêu cao được "TINH THẦN NGUYỄN KHOA " như sau:


"Kính thưa quý bậc Trưởng Thượng và quý Niên Trưởng tôn kính; Kính thưa quý vị cùng quý anh chị em trẻ thân mến:

"Trước anh linh Thiếu Tướng Tư Lệnh, và sự hiện diện quý báu của Quý vị, chúng tôi xin góp chút tâm tình, để cùng quý vị và gia tộc Nguyễn Khoa, tưởng niệm vị Anh hùng Dân Tộc Vị Quốc Vong Thân: NGUYỄN KHOA NAM.


"Trong quân sử Hoa Kỳ và VNCH, có ghi một chiến tích lừng danh trên ngọn đồi chiến lược 1416 trong cuộc Hành Quân Phối Hợp Việt-Mỹ được đặt tên là Darkto tại tỉnh Kontum vào tháng 10 năm 1966. Song song hành quân với Lữ Ðoàn 173 Nhảy Dù của Hoa Kỳ, Mũ Ðỏ Trung Tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù VN gồm các TÐ3, TÐ6 và TÐ8ND. Ðịch có một Trung Ðoàn chạm trán TÐ1/LÐ Hoa Kỳ và một Trung Ðoàn khác đánh với TÐ8ND Việt . Kết quả: Ðịch bỏ lại hơn 300 xác chết; phía ta có khoảng 50 tử thương và bị thương. Riêng phía HK, có một số mất tích rất khó hiểu, có lẽ vì hết đạn. Tổng Thống Hoa Kỳ L.B. Johnson đã tặng huy chương Silver Star cho Mũ Ðỏ Trung Tá Nguyễn Khoa và huy chương Ðơn Vị Chiến Thắng cho TÐ8ND.

"Do gương can trường tại chiến trận, tài chỉ huy khéo léo và tính cẩn trọng cố hữu khi chuẩn bị hành quân cũng như khi trực tiếp điều động chỉ huy TÐ8ND của Mũ Ðỏ Nguyễn Khoa Nam, bên ta thắng lớn, ít thương vong và, đặc biệt khác với phía Hoa Kỳ, chúng ta không có ai mất tích. Cho đến nay, các vị tướng lãnh Nhảy Dù Hoa Kỳ vẫn còn ca tụng chiến thắng Darkto đồi 1416 và dùng làm tài liệu học tập quân sự.

"Với Hùng-Tài và Trí-Dũng đặc biệt ở đồi 1416 cũng như được thăng đến cấp tướng sau rất nhiều chiến công hiển hách khác, câu hỏi được đặt ra về Mũ Ðỏ Nguyễn Khoa Nam: (A) Người Từ Ðâu Tới? (B) Người Ðể Lại Những Gì? và (C) Người Ði Về Ðâu?

"A. Nguyễn Khoa đến từ lòng đất Mẹ VN như tất cả chúng ta. Người là một đứa con của đại dân Tộc Việt, gia tộc Nguyễn Khoa, một gia tộc với nhiều Văn Thần-Võ Tướng mở mang bờ cõi và phục vụ an dân, tận từ thời Chúa Nguyễn Hoàng vượt Ðèo Ngang, vâng theo câu "Hoành Sơn Nhất Ðái, Vạn Ðại Dung Thân" của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dân gian hay hát:


Thương em, anh cũng muốn vô

Sợ truông nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang

Phá Tam Giang đày rày đã cạn

Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm.


"Nội Tán đó là Nội Tán Ðại Thần Nguyễn Khoa Ðăng với công dẹp tan giặc cướp bình định an dân vùng truông cuối làng Hồ Xá và choa đào xả thêm nước Phá Tam Giang ra cửa biển Thuận An ở miền Trung. Tại miền , còn có nhiều chùa ghi lại công đức của Tổng Trấn Nam Kỳ Nguyễn Khoa Thuyên, và chúng ta có vị Ðại sứ VNCH đầu tiên tại Thái lan là cụ Nguyễn Khoa Toàn, người đã đặt nền tảng ngoại giao giữa hai quốc gia mà phúc lợi còn tồn tại đến ngày nay.

"Năm 1953, thanh niên Nguyễn Khoa là:

Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt

Xếp bút nghiên theo việc đao cung

(Ðoàn Thị Ðiểm)


"Cùng với những sinh viên ưu tú gia nhập trường Võ Bị Thủ Ðức trong thời kỳ phát triển Quân Lực do biến chuyển thời cuộc thực thi Ước Kết Atlantic Chrter ngày 14-9-1941; theo đó Thủ Tướng Anh Churchill đã phải đồng ý với Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt là, nếu được Mỹ tham chiến giúp Anh-Pháp thì sau khi thắng Thế Chiến II, phải để cho tất cả mọi Quốc Gia độc lập tự do theo tinh thần Dân Tộc Tự Quyết. Tất nhiên là Tự Trị với Quân Lực riêng của mình, hầu Tư Bản Hoa Kỳ có thị trường mở rộng trên thế giới và được mua bán tài nguyên chiến lược trực tiếp, khỏi phải qua các điều kiện thương mại bất lợi hay luật lệ khắc khe, có khi cấm đoán, của những nước chủ thuộc địa cũ.


"B. Ðến từ lòng đất Mẹ Việt Nam, sinh ra từ gia tộc Nguyễn Khoa, xuất thân từ Quân Trường Võ Khoa Thủ Ðức, tôi luyện trong Binh Chủng Nhảy Dù, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã để lại gì cho thế hệ tương lai? Tuổi trẻ của chúng ta có thể học được gì?


"Với tư cách Y sĩ Trưởng Sư Ðoàn 7 BB, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 7 Quân Y, phục vụ cạnh Sáu lẽ Một (601 là Danh hiệu Truyền Tin Tướng Nguyễn Khoa Nam tự chọn cho mình ở Sư Ðoàn 7), chúng tôi xin ghi lại 7 "Kỷ Niệm" sáng soi cho tuổi trẻ.


"Thứ I: Hành quân ở cùng Ðồng Tháp, Ðại Tá tỉnh trưởng thỉnh cầu Thiếu Tướng Tư Lệnh ở tại dinh tỉnh trưởng, đầy đủ tiện nghi và an toàn. Tướng từ chối và cho Công Binh kéo một thùng sắt Conex chất bao cát chung quanh, làm chỗ ở sát cạnh Trung Tâm Hành Quân. Ăn uống đơn giản với Cơm Câu Lạc Bộ lấy về. Cả tại Hậu-Cứ Sư Ðoàn, cũng không có đầu bếp riêng: Ðức tính sống đơn giản, bình dị, không hề xa xỉ này, chúng ta có cố gắng theo không?


"Thứ II: Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 BB, rồi Tư Lệnh Quân Ðoàn IV kiêm Quân Khu 4, một vùng giàu có sung úc vào bậc nhất nước Việt Nam, nhưng tướng Nam không tậu nhà riêng, không có xe hơi riêng, không tơ hào tài sản, chẳng bao giờ tích lủy của cải riêng tư: Ðức tính Thanh Liên, Trong Sạch giữa môi trường đầy cám dỗ, chúng ta có học được không?

"Thứ III: Tại căn cứ Ðồng Tâm, hậu cứ sư đoàn 7BB, cho xây một hang đá Ðức Mẹ khổng lồ, nhưng trên bàn thờ cạnh đầu giường ngủ, lại có một tượng Phật nhỏ, rồi hàng năm đến ngày Tết của người Miên, thì nhắc nhở các Ðơn Vị Trưởng chăm lo cho lính gốc Miên nghỉ lễ ăn Tết: Gương tôn trọng mọi Tín Ngưỡng, thương yêu mọi sắc dân, không phân biệt màu da hay chủng tộc, chúng ta có tránh thiên vị Tôn giáo mình, hài hòa trải tình thương như thế không?


"Thứ IV: Từ Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng đến Ðại Tá Lữ Ðoàn Trưởng Nhảy Dù, lên đến Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn, rồi Tư Lệnh Quân Ðoàn kiêm Tư Lệnh Quân Khu, oai chấn cả một phần tư Quốc Gia nhưng Tướng Nam, ngoại trừ khi hô trước hàng quân, chưa hề to tiếng hay cải vả với ai: Ðức tính hiền hòa, khiêm cung trang nhã, khi trong tay đầy quyền hành, chúng ta có rèn nhân cách và theo được phần nào không?


"Thứ V: Gần như quanh năm suốt tháng, từợ 6 giờ sáng đến 9 giờ tối, lúc nào cũng trang nghiêm trong quân phục và giầy trận, uy nghi ở Trung Tâm Hành Quân hay Phòng Thuyết Trình. Ra ngoài lúc nào cũng nón sắt, đi xe quân đội. Luôn luôn cẩn trọng, quý sinh mạng và tài sản của từng người lính, từng người dân. Hy sinh phục vụ liên tục đến nỗi không còn thì giờ riêng để lập gia đình, như tự áp dụng cho chính mình câu thơ của Hồng Hà nữ sĩ: "Phép công là trọng, niềm tây sá nào": Ðức tính nghiêm túc, mẩn cán, tận tụy phục vụ, hy sinh cao độ và thương yêu quân dân đó, chúng ta có theo được phần nào không?


"Thứ VI: Chỉ huy ít hao quân, ít thiệt hại cho dân, nhưng thành công vì lúc nào cũng chuẩn bị chu đáo, cẩn trọng điều quân và theo dõi sát tình hình từng ngày, từng giờ; lại tìm hiểu tài năng đặc biệt của từng cá nhân, từng đơn vị và xử dụng chính xác khả năng của thuộc cấp: Tài tiên liệu, chuẩn bị cho lúc khó khăn, tính cẩn trọng, chu đáo và khả năng dùng người này, chúng ta có cố gắng học, theo gương và áp dụng được phần nào không?


"Và thứ VII: Ba mươi tháng Tư, 75: Lệnh đầu hàng. Tướng Nguyễn Khoa , một Quân Nhân gương mẫu, với tánh chín chắn, lòng can đảm cố hữu, đã có quyết định phi thường: Bất Khuất, không khuất phục bạo tàn. Hy sinh: Tuẩn Tiết. "Thời đã thế, thế thời phải thế! Nhưng Anh hùng tử, khí hùng nào tử!"

"Trong niềm thương tiếc vô biên, từ tâm khảm chúng tôi hiện ra một gương sáng chói ngời. Ðó là gương Ðức Ðộ - Thanh Liên - Hùng Tài - Trí Dũng - Mẩn Cán - Hy Sinh - Bất Khuất.


"Kính thưa quý vị;

"Chúng ta hãy tôn xưng Dũng Khí và Tài Ðức của vị Anh hùng Vị Quốc Vong Thân là: Tinh Thần Nguyễn Khoa ". Tinh Thần Nguyễn Khoa Nam sẽ là "nhân tố đạo học" nẩy mầm trong thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần đào tạo những con ngươi xứng đáng là NGƯỜI, tạo dựng những nhà lãnh đạo Ðức Ðộ, Thanh Liêm, Hùng Tài, Trí Dũng, Mẩn Cán, Hy Sinh và Bất Khuất của một nước Việt Nam tươi sáng.

"C. Người đi về đâu? Tướng Nguyễn Khoa ? Chết không được phủ lá cờ, không có chút lễ nghi Quân táng, không có những tiếng súng chào vang vọng, nhưng:

- Người đi vào Lịch Sử oai hùng của Dân Tộc Việt

- Người đã trở về lòng Ðất Mẹ Quê Hương và gia phả tộc Nguyễn Khoa.

"Xin ghi khắc:

"Trí Dũng Tài Cao Trời Việt;

"Hùng Tài Ðức Trọng Tộc Nguyễn Khoa

"Kính thưa quý vị: Người đã đi sâu vào tim của mỗi người, mọi nơi với niềm mến thương và kính phục.

"Hình ảnh Tướng đã ngự vào tâm khảm của chúng ta, của thế hệ trẻ, của Quân Dân VNCH kiên cường, bất diệt bởi: Tinh Thần "Nguyễn Khoa "

"Trân trọng kính chào quý vị;

"Trần Văn Tính.
Image
Một tiết mục tiêu biểu khác là "Nghi Thức Trao Biểu Tượng Cho Thế Hệ Tương Lai" cũng được diễn ra trong trang nghiêm do Bác sĩ Trần Văn Tính và Gia Ðình Mũ Ðỏ thực hiện.

Buổi Lễ Giỗ thứ 33 của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam nặng về phần phát biểu, nhưng quan khách tham dự không ai thấy chán. Bởi vì mỗi một kỷ niệm với vị danh tướng này được nhân chứng sống kể lại là một tài liệu quý giá để sau này kẻ hậu sinh chép vào trang Sử Việt.

Quan khách tham dự được gia đình Nguyễn Khoa khoản đãi buổi cơm chiều thân mật. Buổi lễ Giỗ chấm dứt vào lúc 9 giờ.
Image

Trước khi chấm dứt bài phóng sự, người viết nhận một cú điện thoại từ Dược sĩ Diệu Thảo. Sau những lời cảm ơn sự hiện diện của báo Ðẹp trong buổi Lễ Giỗ, Dược sĩ Diệu Thảo cho biết ông Nguyễn Khoa Phước em ruột của cố Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam rất cảm động khi nhận lá Quốc Kỳ VNCH từ tay cựu Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường. Lúc cô đứng bên cạnh nghe giọng người bác run run nói: "Anh ơi! 33 năm rồi em mới nhận lá cờ này!" cô đã chảy nước mắt. Người viết hỏi cô Diệu Thảo có biết gì về tướng Nguyễn Khoa thì cô trả lời: "Em không biết gì hết, chỉ nghe kể lại thôi vì lúc đó em chưa ra đời. Hai năm sau em mới sinh ra. Bây giờ em mới có 31 tuổi thôi!".


Dược sĩ Diệu Thảo tha thiết tiếp: "Chị Kim Vy ơi, chị có viết bài xin cho em gửi lời tri ân tất cả mọi người đã thương mến gia tộc Nguyễn Khoa và đặc biệt là cụ Bác sĩ Hoàng Như Tùng. Bác sĩ là người đã lo chôn cất Bác và làm dấu nơi chôn cất bác để sau này gia đình Nguyễn Khoa biết chỗ mà cải táng bác . Gia đình em cũng ngõ lời tri ân các Hội đoàn Quân Ðội đã giúp cho tiết mục Lễ Nghi Quân Cách thật trang trọng. Gia đình thật cảm động không biết dùng lời lẽ gì để bày tỏ trọn vẹn tấm lòng của gia tộc Nguyễn Khoa đến tất cả quý quan khách..."

Bài viết TRẦN KIM VY
Ảnh chụp TRẦN MINH TÂM
dailien
Posts: 2462
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Cờ Vàng Tung Bay Trong Ngày
Quân Lực Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ


Phạm Hoà

Image
Tiếng động cơ trực thăng vang dội khắp bầu trơì, hòa lẫn với tiếng động cơ cuả Quân Xa , tiếng hò reo, vổ tay Toán Quốc Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ vẫn đều bước. Hàng ngàn người đã chờ sẳn hai bên đường nhiều giờ trước của một ngày trời thật trong để chào đón ngày quân lực Hoa Kỳ , những Chiến Sĩ Hoa Kỳ đủ mọi binh chủng trở về từ những chiến trường đẩm máu khốc liệt nhất hiện nay Chiến trường Iraq, A Phú Hản và những nơi biến động nhất trên thế giới, tất cả đều ngạc nhiên khi thấy lại những bộ quân phục của vài chục năm về trước một thời chiến tranh thật khốc liệt đã đi qua Chiến Tranh Việt Nam. Lần đầu tiên toán Quốc Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa tham dự Ngày Quân Lực Hoa Kỳ.

Truyền thống của thành phố Torrance miền nam California từ năm 1949 cho đến nay họ đã tổ chức 49 lần Diễn Hành chỉ một khác biệt duy nhất là sự xuất hiện của Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa lá cờ vàng ba sọc đỏ, trên lộ trình Đại Lộ Torrance với những hàng cây cao vút. ngoài những người tham dự vỗ tay thật lớn và những cánh tay dài vươn ra vẫy tay Toán Quốc Quân Kỳ VNCH, những cựu quân nhân Hoa Kỳ từng tham chiến tại Viêt Nam đứng nghiêm chỉnh chào đón, nhưng trân trọng nhất là những quân nhân Hoa Kỳ tại ngũ từng nhóm một đứng nghiêm chỉnh chào tay cho đến khi nào Toán Quân Kỳ VNCH đi qua họ mới đem tay xuống, tiếng hò reo hai bên đường vẫn tiếp tục không ngừng khi thấy lại những quân xa và những quân nhân từng tham dự trong Chiến Tranh Việt Nam.
Image
Chiếc Trực thăng sau một hồi bay lượn rồi bổng dừng lại một cánh tay thò ra vẫy tay đoàn diễn hành trong những sự kiện xảy ra thật nhanh và nhanh hơn nửa vì đây là lần đầu tiên cho tất cả Cựu Quân Nhân VNCH Tham Dự Diễn Hành, cuộc chiến đã đi qua hơn 33 năm có lẽ đây là lần đầu tiên họ thấy quá nhiều binh sĩ, quân xa, và những sinh hoạt của Quân Đội một phút giây nào đó thóang qua những hình ảnh Chiến Tranh Việt Nam bổng nhiên lại trở về trong giây phút thật hân hoan và phấn khởi.

Rồi Toán Quốc Quân Kỳ tiếp tục đều bưóc một hai ba bốn, trên khán đài chính hàng chục Tướng Lãnh Hoa Kỳ đã đứng Ngiêm Chỉnh Chào Tay, hàng trăm Sĩ Quan Cao Cấp khác đại diện mọi binh chủng trong quân lực Hoa Kỳ cũng nghiêm Chỉnh Chào Đón Tóan Quốc Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Trên những loa phóng thanh giọng trầm ấm của người xướng ngôn viên vang lên : "Toán Quốc Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa tham dự diễn hành hôm nay thuộc mọi Quân Binh Chủng của QLVNCH, họ thay mặt cho hơn 350,000 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, hơn 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ và hơn 6000 quân nhân đồng minh đã nằm xuống trên chiến trường Viêt Nam sự hiện diện của họ nhắc nhở chúng ta đừng quên hàng ngàn quân nhân mất tích trong chiến tranh Việt Nam vẫn chưa tìm kiếm được, Toán Quốc Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ nhắc nhở đến nhiều thế hệ mai sau lòng biết ơn và tri ân đến những anh hùng quên thân mình đem máu xương đổi lấy Tự Do và An Bình cho nhân loại " - giọng nói trầm và âm thanh ghi xâu đậm mãi trong lòng những người tham dự.
Image
Những Quân Nhân Hoa Kỳ với những hình lưu niệm chụp cùng Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Cựu Quân Nhân Hoa Kỳ Tham Chiến trong chiến tranh Việt Nam mừng rỡ khi thấy những bộ quân phục trong Chiến Tranh Việt Nam gặp lại những Chiến hữu từng một thời chiến đấu bên nhau kể lại những địa danh đẩm máu đã đi qua trên đất nước Việt Nam trong binh lữa và nhất là Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa , lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn tung bay ngạo nghễ trong vòm trời tự do. Thách đố cho sự bền vững dài lâu, cho nhân tâm đạo lý, cho no ấm an sinh và trường tồn của chính nhân và đại nghĩa.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

30 Năm Hồn Nửa Khuya Ðau Ðáu
Tác giả: Trương Văn Vấn

Mới đêm nao mù sương Đà Lạt, đạp hàng rào kẽm gai vọng gác Đông Quan, kéo cao cổ áo dã chiến, không phải chỉ vì lạnh, mà còn muốn che bớt đi màu xanh phu–la quấn cổ, che bớt đi con cá (có đuôi) đen trên ve áo, rồi đập bước chân rộn rã trên hè phố khuya Đà Lạt. Đôi khi chỉ vì thèm ly cà phê Tùng đắng chát. Hoặc cốc sữa đậu nành nóng hổi dốc Phan Đình Phùng. Nhưng trên tất cả, vẫn là thèm hơi ấm người tình nhỏ (đã ngậm ngùi chưa hỡi những người xưa của một thời tuổi trẻ). Vậy mà bây giờ đã 30 năm có lẽ. Nghe như có chút gì đắng ở cổ họng. Nghe như có chút gì nhói ở trong tim. Thế cũng đã xong cho một đời trai. Bạn bè tôi giờ đứa nào tóc cũng đã hai màu. Đàn anh tôi giờ ai tóc cũng đã hai màu. Đàn em tôi đứa nào giờ tóc cũng đã một màu rưỡi hoặc mấp mé bờ muối tiêu. Đã 10 năm qua, ngay từ khi mới đặt chân đến bến bờ tự do, tôi đã có ý định viết lại những kỷ niệm của một đời phiêu bạt. Sợ mai này trí nhớ tiêu hao. Bị thời gian mai mòn, kỷ niệm sẽ chỉ còn là một khuôn mặt không rõ nét giữa một thành phố mù sương không rõ nét.

Thế rồi cuộc sống gia đình với mọi lo toan đời thường (ôi cái lý do mà ai cũng muốn vịn vào đó khi sắp sữa chết đuối giữa biển đời xứ lạ) đã cuốn tôi đi theo nó như củi mục lênh đênh trên dòng sông nước cạn. Tôi buông bút buông tay. Tôi buông cả đời tôi cho nợ áo, nợ cơm, nợ xe, nợ nhà. Tôi đã để mặc tôi đi lạc trên đất khách. Thỉnh thoảng có những lúc chuyếnh choáng hơi men bên bạn bè và những câu chuyện xưa được nhắc lại. Nhưng cũng vẫn chỉ một thoáng ngậm ngùi. Rồi thôi.

Cho đến hôm đầu năm, kéo cả gia đình đi Denver thăm bọn Huế Khỉ, Song Bèo Nhèo và Khuê Thợ Điện. Trong cơn cảm khái của bạn bè cũ gặp lại nhau sau gần hơn 30 năm, tôi chợt nhận diện lại được mình. Và ý định cầm bút viết về bạn bè đồng khóa lại lởn vởn trong đầu. Về nhà, điện thoại cho Lý Phước Hồng, xin lỗi hôm anh em Dallas họp mặt cuối năm, Châu văn Đẳng có báo cho hay, nhưng vì bận chuẩn bị đi Denver nên không dự được. Tôi nhờ Hồng mượn Đặng Hiếu Sinh tập Kỷ Yếu, copy rồi gởi cho tôi một bản.

Nhận được bản copy Kỷ Yếu qua đường Bưu Điện, mới giật mình. Không ngờ trí nhớ mình còm cõi đến như thế. Ý định ban đầu là viết một bài có nhắc đến tên của tất cả 165 thằng khóa 3. Nhưng không dễ dàng gì. Lực bất tòng tâm. Chẳng lẽ bó tay. Nhân vừa rồi mới liên lạc được với Đoàn Văn Mã Ngựa ở Louisiana. Nghe Mã nhắc đến T. với màu rượu Courvoisier. Và bài viết trong cơn say cuối năm trên tờ báo Tỉnh hai đứa cùng phụ trách ở Long An hơn 25 năm về trước. Nghe Mã đọc một đoạn thơ T. viết khi đi ngang Cổng Lam Sơn Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Bài thơ mà Trần Hữu Thạnh vẽ minh họa Cổng Lam Sơn có cô gái tóc dài đứng cô đơn giữa buổi chiều Đà Lạt nắng vừa tắt. Thế rồi tôi ngồi vào bàn viết. Cần gì phải nhắc tên từng đứa. Một thành phố. Một mái trường. Và một người tình. Cùng những đêm trốn phố. Thế đã đủ chưa cho một khoảng đời kỷ niệm?

Nhắm mắt, cho tôi tìm một thoáng hương xưa...
(Phạm đình Chương)


Tôi rời Đà Lạt ngày ra trường với những nỗi nhớ đã được chuẩn bị sẵn ngay trong đêm cuối thức trắng cùng bạn bè ôn lại kỷ niệm. Vì ngày mai, không biết rồi có còn được gặp lại nhau để hàn huyên nữa hay không. Tôi xa Đà Lạt với nhiều nỗi nhớ và cũng đã nhiều lần trở lại Đà Lạt sau đó để chất cho nặng thêm những nỗi nhớ của mình. Vẫn T. của Thư Viện Yersin những buổi chiều Saigon – Đà Lạt áo Manteau trắng phủ kín lối về trường xưa qua cổng Lam Sơn còn nghe tiếng hô nghiêm dõng dạc của Lê Hà Thọ cùng điệu nhạc Hồn Tử Sĩ Đêm Truy Điệu trước ngày Lễ Tốt Nghiệp có áo mũ xênh xang, có áo xanh áo đỏ, có nước mắt lẫn nụ cười, có lời từ biệt não lòng giữa những hẹn hò tái ngộ.

Vẫn T. của những đêm Đà Lạt lạnh cóng tay ôm nhau co ro lần xuống dốc Phan đình Phùng uống ly sữa đậu nành vỉa hè mà mơ mơ màng màng thấy hồn những thằng trốn phố – kìa người lùn nhất khóa Phạm Ngọc Yên, kìa Nguyễn Thế Cường người-yêu-của-Cúc, đứa trung sĩ đứa chuẩn úy, lãng đãng ẩn hiện trong đám sương mù trước mặt, ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới.

Vẫn T. của những buổi sáng thức giấc vội vàng chạy vào trường cho kịp giờ leo lên chiếc xe cam nhông phạn xá ra phố lấy bánh mì và bơ điểm tâm cho sinh viên. Vẫn T. của những đêm trực gác Chúc Động, Đông Quan, Tây Đô, Đông Đô. Nghe Trương Minh Hòa Sì-Lô nhóp nhép cơm phạn xá mà nhớ em quay quắt. Vẫn T. của những đêm trốn phố nhưng chưa lần nào bị tóm cổ. Dẫu có một lần xém chết. Đó là lần cả khóa đi công tác tại Quảng Ngãi đầu năm 1973.

Nhớ T., nhớ Đà Lạt, tôi mượn tạm Hoàng Kim Thiện sợi dây chuyền đem ra tiệm cầm đồ lấy 5 ngàn leo lên chuyến xe đò cuối cùng rời Quảng Ngãi đi Qui Nhơn. Ngang qua cửa biển Sa Huỳnh lúc vừa tan khói súng một trận đánh đẫm máu. Mướn khách sạn ngủ đêm tại Qui Nhơn. Sáng hôm sau lò dò ra bến xe lấy vé về Nha Trang, quê hương của Nguyễn Tài Dạo-Phố (hãy ngủ yên đi Tài, tao thề không quấy rầy mày thêm một lần nào nữa).

Rồi từ Nha Trang về Đà Lạt. Một tuần sau, sợ tôi chết trước ngày ra trường, T. ăn cắp tiền của mẹ mua vé máy bay cho tôi trở ra Quảng Ngãi. Chuyến bay từ Liên Khàng đi Đà Nẵng. Đến phi trường Đà Nẵng, vừa bước ra khỏi khoang máy bay, thấy một chiếc xe Jeep chờ sẵn trên cổng quân sự. Trên xe là Liên Đoàn Trưởng Sinh Viên Thiếu Tá Nghiêm Viết Thành, Trung Úy K2 (Khóa 2) Phụ Tá Trưởng Toán Văn Nghệ Nguyễn Đức Phương (người giả gái đẹp nhất Đà Lạt và là tác giả câu nói bất hủ "Phạt thì bảo là ác, không phạt thì bảo là gà," Đồng Trưởng Toán Văn nghệ Tiền Phương là Trường-Sơn-Dã-Mã Trần Ngọc Hoàn và nhạc trưởng đẹp trai nhất Đà Lạt Đào Quang Hùng) và K3 Nguyễn Đỗ Tiến.

Nhanh như cắt, tôi lẫn vào đám hành khách tay xách nách mang thoát ra lối dân sự. Rồi tức tốc đón xe thồ ra bến xe để về ngay Quảng Ngãi. Tối đó, Nguyễn Đỗ Tiến chỉ mặt. Phúc bẩy đời nhà mày ông Thành lúc đó ngó đi chỗ khác. Thì ra, Thiếu Tá Nghiêm Viết Thành ra phi trường để về lại Đà Lạt vì hôm trước đã có Trung Tá Nguyễn Thanh Nhung Trưởng Khối Khóa Sinh ra thay chỉ huy đoàn công tác. Vị đàn anh hiền lành Nguyễn Đức Phương hôm đó cũng thấy tôi, nhưng lờ đi.

Người chấp nhận mang tiếng Gà hơn là mang tiếng Ác. Sau này, gặp lại niên trưởng Phương ở Trại Long Giao, nhắc lại chuyện xưa chúng tôi cười hả hê. Đại Úy Đào Ngọc Tố, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ), hôm trước ngày Lễ Tốt Nghiệp K3 21 tháng 4 năm 1973, gặp tôi ở quán cà phê Tùng, đã cho tôi biết là ông cũng biết về chuyến "đi phép động trời" của tôi, nhưng nghĩ rằng ngày ra trường đã gần kề, nên lờ đi. Nghe hú vía và thấm thía.

Quãng thời gian ra trường của tôi từ 21 tháng 4 năm 1973 cho đến 21 tháng 3 năm 1975 là một chuỗi những chuyến đi bất chợt từ Saigon lên Đà Lạt sáng thứ Bảy rồi lại đáp chuyến xe đò tài 1 từ Đà Lạt trở lại Saigon ngày hôm sau Chủ Nhật. Trong túi luôn luôn có một xấp sự vụ lệnh đóng mộc đơn vị sẵn, ký tên sẵn (tất nhiên là chữ ký giả). Chỉ có ngày đi ngày về là để trống.

Mỗi lần xe ngừng tại đồn Quân Cảnh Prenn là mỗi lần tim tôi thắt lại. Chỉ sợ anh chàng Quân Cảnh tinh mắt nhận ra đơn vị là một tỉnh vùng 3 mà sao lại đi công tác ở một tỉnh vùng 2. Cũng may, chưa lần nào bị tổ trác. Vì hên hay vì Quân cảnh lờ mờ. Có lẽ cả hai.

Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1975, tôi có mặt tại Đà Lạt để mua cặp lon trung úy mới tinh tại cửa hiệu Chị Chúc rồi tự gắn lên ve áo của mình với sự chứng kiến của T. Cũng vừa lúc để túc trực tại nhà xác Bệnh Viện Tiểu Khu với 3 Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 5 mới qua đời vì một tai nạn đáng tiếc.

Trưa hôm sau, vào trường đúng giờ cơm trưa. Ba khóa 4, 5, 6 đang đi diễn hành trước giờ vào Phạn xá. Vẫn cờ quạt kiếm cung. Vẫn bài hát quen thuộc, Đoàn người tưng bừng về trong sương gió." Tôi đứng bên cạnh Sĩ Quan Trực Liên Đoàn Đại Úy Đào Ngọc Tố. Ông bảo bữa nay tụi nó đi đàng hoàng hơn mọi ngày, tại vì có niên trưởng ở xa về chứng kiến. Nghe thật thấm thía.

Vào Phạn Xá thấy mấy trăm đôi mắt chú mục nhìn vào mình, đứng nghiêm chào. Nghe Sinh Viên Sĩ Quan trực Phạn Xá đọc thực đơn hôm nay gồm có nước mắm Phan Thiết, chuối La Ba , trà Blao, chúc các Sinh Viên Sĩ Quan thực đơn, ăn ngon. Bữa cơm có thịt heo kho, có cà rốt xào, có ớt tươi, đặc biệt của Sinh Viên Sĩ Quan trực Phạn xá móc từ trong túi áo dã chiến ra.

Ngày hôm sau nữa, vào trường tranh luận với nhóm Lê Quốc Hùng (Khóa 4) về đề tài Đà Lạt Tuyên Đức sẽ là vùng trái độn cho một giải pháp chính trị nhằm chấm dứt cuộc chiến. Trong lúc đó, đường bộ Saigon – Đà Lạt đã bị cắt. Sau đó, được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh can thiệp cho đi chuyến máy bay quân sự cuối cùng rời phi trường Cam Ly về Saigon.

Mới chân ướt chân ráo về đến đơn vị, nghe đài phát thanh quân đội loan tin Đà Lạt Tuyên Đức đã di tản chiến thuật ngày cuối cùng của tháng 3. Vừa đang lo lắng, thì nhận tin T. và gia đình đã về được Saigon bằng chuyến bay dân sự cuối cùng ngày 1 tháng 4 năm 1975. T. kể hai quân trường Đà Lạt đang trên đường về Saigon. Tôi tiếc mình không ở lại Đà Lạt để chứng kiến những giây phút lịch sử ấy. Dẫu sao thì cũng cám ơn Thần Ái tình. Nếu trái tim không bị rướm máu vì trúng tên thì dù cho nỗi nhớ Đà Lạt và Trường Xưa có mạnh cách mấy chưa chắc tôi đã đóng hụi chết cho hãng xe đò Saigon – Đà Lạt hàng tháng.

Với tôi, 3 khái niệm : Người Tình, Trường Xưa và Đà Lạt là Một. Cả ba đã trộn lẫn vào nhau để tạo thành một quãng đời đáng sống nhất, đáng nhớ nhất của tôi. Suốt gần 9 năm trong tù, từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam, tôi gậm nhấm kỷ niệm Đà Lạt từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây để quên đói, quên rét, quên khổ, quên nhục và để...nhớ em.

Kỷ niệm cũ, vẫn còn nguyên vẹn đó
(Nguyễn đình Toàn)


Tôi trở lại Đà Lạt lần cuối cùng một ngày cuối tháng 3 năm 1989. Đi đến đâu cũng thấy mình đang dẫm lên bước chân của chính mình, của T. và của bạn bè gần 20 năm về trước. Đi đến đâu cũng thấy rưng rức những kỷ niệm. Ngược đường Hàm Nghi, đi ngang qua căn nhà trước đó 17 năm, T. đã ở đây để đón tôi những đêm trốn phố. Cũng từ căn nhà đó, T. đã khóc giọt nước mắt đàn bà lần đầu tiên.

Vượt dốc Võ Tánh, ngang chùa Linh Sơn, nhớ hồn ma Sử Xuân Vĩnh Lộc. Một ngày cuối tháng 3 năm 1973, quan tài của Lộc đã được quàn ở chùa này. Đến trước cổng trường (cũ), lặng lẽ nhìn vào, thấy mình đang đứng cô đơn giữa Vũ Đình Trường, đầu đội mũ nhựa, tay đeo găng trắng, nách cặp gậy chỉ huy, nhưng từ hai hốc mắt đen thui lại chảy xuống hai hàng lệ đỏ như máu.

Bước xế qua trường Bùi thị Xuân, thấy sân trường vắng hoe, không một bóng áo len xanh, không một đôi má đỏ. Và kia là đường lên Viện Đại học. Nhớ T. buổi chiều giảng đường Năng Tĩnh nụ hôn đầu đời quấn quýt, để từ đó nhớ nhung nhung nhớ.Thế đấy. Kỷ niệm vẫn còn nguyên vẹn đó. Như mới hôm qua. Như mới vừa lúc nãy. Tôi hôn tay mình. Vẫn còn thơm mùi da thịt em trinh nữ. Tôi gọi tên bạn bè. Nghe đâu đó trong gió có tiếng ời ơi đáp lại. Lồng lộng cả đồi Thông Thiên Học. Tôi gọi tên tôi. Nghe đâu đó có tiếng vọng lời nhắn nhủ nhau hôm tập họp lần cuối cùng ở sân Liên Đoàn Sinh Viên trước khi tan hàng cố gắng. Nếu chúng ta không làm được gì tốt đẹp cho quân trường Mẹ thì nguyện sẽ không làm điều gì xấu hổ cho trường Mẹ.

Tôi thấy mình đứng cạnh quan tài Sử Xuân Vĩnh Lộc trước cổng chùa Linh Sơn, nhìn từng thằng bạn đến thắp nhang vái lạy. Tôi thấy Lâm quang Thiện, Lưu Xuân Quới, Hoàng Trai, Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Văn Sáu, Trương Quang Lý, Lâm Quang Mầu, Lê Văn Phú, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Thành, Lê Văn Nho, Nguyễn Hữu Thụy, Nguyễn Tài xếp một hàng dọc chờ đến phiên mình. Đã gần 20 năm không gặp, kể từ ngày chia tay năm ấy. Nhưng tôi chẳng thấy đứa nào già đi cả. Khuôn mặt chúng nó trẻ y hệt như vừa nhẩy trong Kỷ Yếu ra. Thằng nào cũng đẹp trai. Riêng Vĩnh Lộc dường như hàm răng có đỡ hô một chút.

Tội nghiệp ông Quận Trưởng Mỏ Cày của tụi tao. Tôi thấy chúng nó cười. Vẫn nụ cười ngày xưa. Mẹ kiếp, trong lúc mình rưng rưng muốn khóc. Muốn bắt chước Vũ Trọng Khảo chửi thề. Cười cái đầu b... tao đây này. Nhưng lại thôi. Để chúng nó yên nghỉ. Chấp làm gì những thằng sớm lìa bỏ bạn bè. Chấp làm gì những thằng sớm lìa bỏ người tình. Chấp làm gì những thằng sớm lìa bỏ cuộc chơi. Hay là chúng mày sớm biết trước cuộc chơi sẽ có cái kết cuộc buồn thảm như thế này. Vậy thì, hãy để tụi tao – những thằng còn sống (hay chưa chết) – yên nghỉ. Rest in peace, buddies.

Buổi chiều hôm ấy. Một buổi chiều tháng 3 năm 1989. Tôi như người mắc bệnh mộng du giữa một Đà Lạt hoang tàn. Không T., không bạn bè, không hiện tại, không tương lai. Chỉ còn dĩ vãng. Sau chuyến đi Saigon Đà Lạt lần cuối cùng ấy, tôi tự nhủ lòng sẽ không bao giờ quay lại chốn này một lần nào nữa. Và tôi đã giữ lời.

Cho đến ngày hôm nay. Lần đó, trước khi rời Đà Lạt, tôi đã để một buổi chiều đi bộ lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm Đà Lạt. Mong tìm lại những khuôn mặt quen biết cũ còn nấn ná đâu đó. Nhưng tôi không gặp ai. Hay có lẽ có gặp, nhưng tôi không nhận ra ai và cũng không ai nhận ra tôi. Tôi có đi tới đi lui nhiều lần ở phố Hoàng Diệu, mong tìm lại những người thiếu nữ năm xưa. Nhưng chẳng còn ai. Đã lâu quá rồi còn gì. Tôi mang tâm trạng của Từ Thức quay trở lại làng cũ thì biển xanh đã biến thành ruộng dâu, trường xưa đã biến thành trại lính. Còn người xưa thì đã khuất núi vì mòn mỏi đợi chờ. Y hệt những giấc mơ tôi thường gặp những ngày còn ở tù.

Tôi trở mình theo nỗi nhớ em
(T. Vấn)


Tôi viết những dòng này mà sống mũi cay xè. Đầu tôi đã bạc một nửa. Có thể, sáng mai, tôi sẽ không tìm thấy một sợi đen nào. Tôi nhớ đoạn văn đâu đó của Hoàng Ngọc Tuấn. Kỷ niệm vùi chôn dưới đáy giếng. Mỗi lần muốn giở ra xem lại, phải xước da chảy máu vì những viên đá nhọn thời gian bám hai bên thành giếng. Ở một nghĩa nào đó, tay tôi đang rỉ máu. Những vết xước thật êm ái và dễ chịu. Ôi cái tuyệt vời của thú đau thương. Hạnh phúc là còn có kỷ niệm để được đau đớn, để được hân hoan. Là còn có bạn bè để chia sẻ, để nghĩ về và để tìm đến nhau thi thoảng.

Là còn có người tình một thời tấm mẳng nay đã biền biệt phương nào (để ảo tưởng rằng người ấy vẫn còn nuôi trong tim hình bóng cũ). Chao ôi cuộc sống với muôn vàn những hệ lụy. Chẳng ai có thể cứ ngồi đó mà ôm hoài quá khứ. Chỉ còn lại được những đêm trở mình theo nỗi nhớ. Những đêm nhè nhẹ rời khỏi giường, ra ngồi trên bàn viết, mắt đăm đăm nhìn vào trang giấy trắng trước mặt mà thấy hiển hiện những hình bóng xưa tưởng như đã chết đuối trong tiềm thức. Rồi soi bóng mình trong tiền kiếp.

"Còn thấy gì, sáng mai đây thôi ta còn bạn bè..." Tôi biết mình còn có bạn bè. Tôi biết mình còn có những đàn anh, những đàn em. Chúng tôi có chung những kỷ niệm . Chúng tôi ở trong cùng một quá khứ. Này Đinh Thiện Chí K4. Một đêm nào năm xưa ở nhà Nguyễn Đỗ Tiến Oklahoma, nhìn cậu ôm chai rượu gật gù kể về những ngày xưa thân ái ấy, tôi nhớ mình có nói với nhau rằng phải có ai đó cầm bút ghi lại những kỷ niệm. Kẻo mai này... trí nhớ tiêu hao. Hình như bài viết này đã làm phần nào công việc đó. Dẫu cho những người được nhắc tên phần lớn là K3. Nhưng có hề gì đâu phải không Chí?

Đà Lạt vẫn là của mọi người để nhớ. Trường xưa vẫn là của mọi người để thương. Tháng Tư Định Mệnh vẫn là của mọi người để uất ức. Những người tình vẫn là của riêng từng người để bùi ngùi.

Tạ ơn đời, tạ ơn em...
(vô danh)


Có những người tình nay là những người bạn đời. Có những người tình mãi mãi ở trong quá khứ. Mệnh nước nổi trôi cuốn theo những mảnh đời. Anh hùng và thục nữ. Tôi chắp tay ngưỡng mộ những người tình, người bạn đời, trải bao năm tháng bể dâu, vẫn thủy chung bên cạnh người xưa một thời Worsted, Jasper. Tôi nghiêng mình chia sẻ những éo le của định mệnh đã đẩy đưa những người tình hôm qua nay chỉ còn là kỷ niệm. Tôi cúi đầu khâm phục lòng độ lượng của những người bạn đời hôm nay, tuy không phải là những người tình của hôm qua, nhưng đã đến với chúng tôi trong khoảng đời gian nan nhất, khi chúng tôi "đã mất tất cả, chỉ còn có nhau." Không một mảy may mặc cảm. Chia sẻ từng giọt đắng, từng giọt ngọt, từng giọt vui, từng giọt sầu.

Khi tôi viết những dòng này, người mẹ tuyệt vời của các con tôi đang giả vờ say ngủ. Để cho tôi được một mình trong cuộc hành trình tìm về quá khứ. Ôi đẹp biết bao nếu cuộc đời này ai cũng biết bao dung, ai cũng biết độ lượng. Xin Tạ Ơn đời. Xin Tạ Ơn nhau. Xin tạ ơn em. Nhờ em, tôi biết mình đã lên bờ.

Hơn 30 năm về trước, tôi yêu vô cùng một đoạn thơ và còn nhớ tới bây giờ, nhưng không nhớ tên tác giả (Nguyễn Đình Toàn hay Nguyễn Xuân Hoàng). Tôi chép lại ở đây, gởi đến tất cả những bạn bè, những đàn anh, những đàn em, như một lời tạm biệt. Gởi đến tất cả những người tình, người bạn đời thủy chung, như một lời xưng tụng. Gởi đến tất cả những người tình hôm qua, như một lời xin tha thứ cho nhau. Gởi đến tất cả những người bạn đời của hôm nay, như một lời tri ân. Gởi đến tất cả những người quen và không quen ở thành phố ấy năm xưa, nơi có một ngôi trường tên là Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, như một lời chào thân ái. Tôi cũng không quên gởi đến những anh em bạn bè đã nằm xuống nơi quê nhà và quê người, như một lời đưa tiễn.

Nào còn gì đâu, cầm lấy tay tôi
Nào còn gì đâu, cầm lấy hồn tôi

Này đây những lời yêu thương thứ nhất
Chia nhau mỗi người làm vốn sinh nhai.


Wichita, Kansas
Hoa Kỳ, một ngày tháng 3 năm 2002
nuoclanh
Posts: 163
Joined: Wed May 30, 2007 12:09 pm
Contact:

Post by nuoclanh »

Chuyện Người Lính Trận

Chuyện người Lính của Miền Nam Việt Nam theo giòng thời gian 32 năm qua đã không còn mấy người chú ý đến, hơn 70% dân số Việt Nam ngày nay đều ở lứa tuổi 30, họ cũng chẳng biết gì đến người người Lính của Miền Nam đang sống và quằn quại trong cái khổ đau không phải vì thương tích hay vì "bại trận" mà họ muốn được quên đi trong cuộc chiến nhưng không được, mà sự hiện hữu của họ trên cõi đời này chỉ là những vướng mắt , nhọc nhằn. Xin mượn câu chuyện của một người Lính Thương tật để nói lên cái chung của một thế hệ, một đời người đã bị vùi vào quên lãng .......

[flash width=425 height=355][/flash]
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Memorial Day tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington -
Sư Đoàn 101 Nhảy Dù Hoa Kỳ kết nạp hội viên danh dự gốc Việt


Bài: Thiện Giao/RFA (tường trình từ Washington DC)
WASHINGTON DC.- Trên đại lộ dẫn vào Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington buổi sáng ngày Chủ Nhật 25 Tháng Năm trước lễ Chiến Sĩ Trận Vong, tại địa điểm dành riêng cho Sư Ðoàn 101 Nhảy Dù (101 st Airborne Division), một cựu quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã được vinh dự kết nạp trở thành thành viên danh dự của một trong những sư đoàn nổi tiếng nhất thế giới.

“Ðối với tôi, hôm nay, một lần nữa là ngày hội ngộ của Ðịnh Mệnh.” Cựu Trung Tá Trần Ngọc Huế, nguyên đại đội trưởng đại đội Hắc Báo Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phát biểu trong buổi lễ dành cho mình. “Chúng ta có mặt tại đây hôm nay, dưới đôi cánh đại bàng của sư đoàn 101 nhảy dù, để một lần nữa nghiêng mình trước những người anh hùng đã hy sinh cho danh dự và vì lý tưởng tự do.”

Quyết định kết nạp cựu Trung Tá Trần Ngọc Huế làm hội viên danh dự Tổng Hội Cựu Chiến Binh Sư Ðoàn 101 Nhảy Dù Hoa Kỳ được tuyên đọc bởi ông Charles K. Gailey, chủ tịch chi hội khu vực Washington DC. Trong diễn văn của mình, ông Gailey phát biểu rằng: “Cựu Trung Tá Huế, từng phục vụ tại Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã tham gia nhiều cuộc hành quân hỗn hợp chung cùng Sư Ðoàn 101 Nhảy Dù. Sự phối hợp chung được triển khai thành công trong nhiều cuộc hành quân tại tỉnh Quảng Trị, đặc biệt trong nỗ lực tái chiếm Huế giai đoạn sau Tết Mậu Thân 1968.”

Trung Tá Huế cho biết, ý định kết nạp ông làm hội viên danh dự của “Screaming Eagle” được đích thân cựu đại tá lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 1, Sư Ðoàn 101 thông báo tại tư gia ông Huế.

Ông phát biểu: “Cuộc hội ngộ, một lần nữa, là sự sắp đặt của Ðịnh Mệnh. Tôi tham gia chiến dịch Lam Sơn 719, là chiến dịch được sự hỗ trợ đặc biệt của Sư Ðoàn 101. Bị bắt tại Lào vào Tháng Ba năm 1971, trở thành tù nhân chiến tranh trong 13 năm tại Bắc Việt. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng, một ngày nào đó, tôi lại được đứng tại đây cùng tất cả các bạn. Ðối với tôi, đó là một phép lạ.”

Tưởng cũng nên nhắc lại, Sư Ðoàn 101 Nhảy Dù được thành lập vào trung tuần Tháng Tám năm 1942. Bốn ngày sau khi thành lập, vị tư lệnh đầu tiên, là Thiếu Tướng William C. Lee đã phát biểu với những chiến binh đầu tiên của sư đoàn tân lập, rằng “101 chưa có lịch sử; những đã có một hội ngộ của định mệnh.”

Trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, cựu Trung Tá Huế chỉ huy đại hội Hắc Báo thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn này, đơn vị của ông đã thực hiện nhiều cuộc hành quân hỗn hợp chung cùng các lữ đoàn 1, 2, và 3 thuộc Sư Ðoàn 101 Nhảy Dù.

Cựu Trung Tá Huế nói rằng, ông nhớ nhất là hai trận đánh trong đó đơn vị của ông được tăng phái cho Lữ Ðoàn 2 của Sư Ðoàn 101 tại vùng Quảng Ðiền, làng Phước Yên giai đoạn 2, chiến cuộc Mậu Thân 1968. Vào giai đoạn đó, người chỉ huy Lữ Ðoàn 2 là Ðại Tá Cushman, về sau hồi hưu với cấp bậc trung tướng. Ðại Ðội Hắc Báo lúc ấy phát hiện Tiểu Ðoàn 9, Trung Ðoàn 90 của phía Bắc Việt đang ém sâu tại Phước Yên. Trung Tá Huế kể lại: “Chúng tôi tấn công, còn phía Sư Ðoàn 101 có nhiệm vụ bao vây. Trong 2 ngày chiến đấu, chúng tôi bắt sống 112 tù binh và hầu như xóa sổ Tiểu Ðoàn 9.” Cuộc hành quân này sau đó trở thành mặt trận mẫu (example battle) cho Quân Lực VNCH và quân đội các đồng minh trong những tình huống dùng lực lượng nhỏ, cấp đại đội phát hiện tiểu đoàn địch, dùng hỏa lực và lực lượng bao vây để tiêu diệt.

Trong buổi lễ kết nạp Trung Tá Huế, một cựu chiến binh của Sư Ðoàn 101, đến từ California, đã đến chào và ôm thật chặt đồng minh Việt Nam của mình. Ông Johnny Velasquez nói với Trung Tá Huế rằng ông hãnh diện là cựu đồng minh hồi quá khứ, bây giờ trở thành những thành viên cùng một Tổng Hội. Ông Valasquez nhớ lại, rằng: “Những ngày ấy, hơn 40 năm trước, tên tuổi của nhân vật này (Trung Tá Huế) được nhắc đi nhắc lại và lan truyền trong các đơn vị Hoa Kỳ. Mọi người đều biết về phẩm chất can trường của Trung Tá Huế. Ðến khi tin tức loan đi cho biết ông được trao tặng huân chương Silver Star từ tay Ðại Tướng Creighton Abrams thì mọi người đều nói: ‘Thật là tuyệt vời, một người Việt Nam nhận huy chương Silver Star của quân đội Hoa Kỳ.’”

Trung Tá Huế nói rằng cuộc hành quân cuối cùng trong đời binh nghiệp của ông, cũng là cuối cùng với Sư Ðoàn 101, là trận Lam Sơn 719 tại Hạ Lào. Ông nhớ lại: “Thời điểm ấy, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh của Việt Nam Cộng Hòa đổ bộ qua Lào. Còn phía Sư Ðoàn 101 yểm trợ trực thăng vận cho việc đổ bộ. Tôi chưa từng thấy lực lượng phòng không Bắc Việt nào lại mạnh đến như vậy. Có những bãi đáp ‘nóng,’ bị pháo liên tục. Vậy mà trực thăng của Sư Ðoàn 101 Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đổ bộ không nao núng. Chính mắt tôi chứng kiến điều đó, và cảm phục cho những chiến binh chiến đấu cách xa quê hương hàng ngàn dặm, cho hai chữ tự do.”

Cựu Trung Tá Trần Ngọc Huế sinh năm 1942. Ông tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, trở thành sĩ quan tác chiến và được thăng cấp rất nhanh trong giai đoạn chiến tranh. Một đêm cuối Tháng Ba năm 1971, trong khuôn khổ chiến dịch Lam Sơn 719, Trần Ngọc Huế lúc đó đang ở Tchepone, bị thương và ngất lịm. Ông ra lệnh cấp dưới mở đường máu thoát thân, để ông lại trận địa nhằm tránh gây cản trở trên đường tháo lui. Sau đó, ông bị phía Bắc Việt bắt làm tù binh. Sau nhiều lần chiêu dụ Trung Tá Huế hợp tác, nhưng bất thành, phía miền Bắc giam giữ ông cho đến năm 1983. Sau đó ông được thả ra, về sống tại Sài Gòn cho đến ngày sang định cư Virginia, Hoa Kỳ.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

SINH VI TƯỚNG, TỬ VI THẦN -
TRUNG TƯỚNG DƯƠNG VĂN ĐỨC.
Huynh Trưởng Khánh đã kể tiếp câu chuyện ở Trại Cải Tạo Hoàng Liên Sơn như sau:

Cũng nằm chung trại với chúng tôi, có nhiều Tướng Lãnh VNCH lắm. Có những vị Tướng lúc nào cũng giữ tư cách Tướng, anh em rất nể phục. Nhưng cũng có những Tướng Lãnh rất là nhàm chán. Tướng Đức là một trong ba Tướng . . . mồ côi, tức là không có thân nhân thăm viếng (Hai vị Tướng kia là Tướng Lam Sơn (Phan Đình Thứ) và Tướng Hồ Trung Hậu).

Từ khi còn ở ngoài đời, sau vụ đảo chánh TT Diệm, sau vụ các Tướng Lãnh chỉnh lý lẫn nhau, Tướng Đức đã được coi như là một Tướng . . . Mát giây (điên). Chính tôi đã mục kích một lần, ông đứng ở góc đường Hồng Thập Tự và Thống Nhất, ngay góc Dinh Độc Lập, mà chửi bới Tướng Thiệu. Tuy nhiên, ông chửi bằng tiếng Pháp, nên tôi không rõ ông chửi những gì?

Trong một buổi sinh hoạt đặc biệt của trại tù, để kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, một Đại Tá Việt Cộng, tên là Cao Nham, đã được Bộ Nội Vụ của chúng chỉ định đến trại để nói chuyện với các trại viên về chiến thắng này.

Từ sáng sớm, anh em đã phải thức dậy lo quét dọn, xếp ghế ngồi để chờ tên cán ngố này đến. Cũng như thường lệ, anh em chúng tôi, dù là ở trong trại tù, vẫn giữ quân phong quân kỷ của riêng mình, nên các Tướng Lãnh được xếp ngồi trước, rồi mới tới hàng Tá, Úy . . .

Tên Nham (nhở) nói chuyện vung cán cuốc, văng nước miếng tùm lum, ba hoa về cái mà chúng gọi là chiến thắng ĐBP.

Nham vung tay la hét:

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh,

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng to lớn của đảng cộng sản việt nam,

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh nhào Đế Quốc Pháp.

Trong khi hoa chân múa tay, y để ý thấy Tướng Đức có cuốn sổ tay, đã lúi húi ghi chép những lời nói của y.

Y thấy vậy lại càng sung sướng, nghĩ bụng:

“Tên Tướng này . . . học tập tốt, nó phục tài ăn nói của mình nên mới ghi chép kỹ lưỡng như vậy, chứ thường thì mấy thằng tù cải tạo đâu có thèm để ý gì tới những lời nói của mình!”

Vì thế, thay vì nói có hai tiếng, tên này hăng tiết chó mà nói thêm cả tiếng đồng hồ nữa.

Khi nói xong, y theo thông lệ là tự vỗ tay khen thưởng một mình, rồi trịnh trọng hỏi các anh em Cải Tạo:

“Các anh ngồi hàng đầu, chắc là cấp bậc “Tướng”, phải không?

Khi được xác nhận như vậy, hắn vừa nói vừa chỉ tay vào Tướng Đức:

“Tôi thấy có anh gì đây này, học tập tốt lắm, ghi chép cẩn thận! Có vậy mới mong được chóng về với gia đình chứ! Anh tên là gì nhỉ?

Tướng Đức vẫn ngồi, trả lời lên:

“Tôi tên Đức”

Tên Nham hăng hái:

“Anh đã ghi được những gì trong bài nói chuyện của tôi? Anh có thể đọc lại cho tất cả hội trường cùng nghe được hay không?”

“Ấy, không được đâu! Tôi ghi chỉ cho một mình tôi thôi! Để tôi hiểu một mình tôi thôi, không ai được biết đâu!”

Nham nghĩ rằng, Tướng Đức còn khiêm nhường, nên thúc dục:

“Anh cứ việc đọc cho mọi người cùng nghe đi! Nếu có thiếu sót gì thì tôi bổ túc thêm cho anh, có gì đâu mà phải ngại ngùng! Đảng và nhà nước biết các anh chưa thấu triệt được những cái ưu việt của xã hội chủ nghĩa, nên không bắt lỗi gì đâu! Vì thế các anh mới phải học tập, chứ nếu các anh đã quán triệt rồi, đâu cần gì nữa! Cứ đọc cho mọi người nghe đi, tôi bảo đảm, không làm phiền gì anh đâu!

Tướng Đức nhắc lại:

“Tôi đã nói tôi viết thì chỉ có một mình tôi hiểu, một mình tôi đọc mà thôi! Tôi sợ đọc lên, mỗi người lại một ý kiến, phiền lắm! Thôi, cán bộ cho tôi miễn đi!

Tên Nham đang ở lúc cao hứng, đâu dễ gì buông tha:

“Thôi, nếu anh không muốn đọc, cứ đưa đây cho tôi vậy! Tôi sẽ xem qua và đọc lại cho mọi người nghe để cùng hiểu cho rõ!

Tướng Đức nói lần cuối:

“Được, tôi đồng ý đưa cho cán bộ xem. Nhưng tôi nói trước, đây là ý kiến riêng của tôi đó nha! Người khác muốn đọc, ráng mà hiểu, ráng mà chịu, đừng có đổ thừa tui”

Một tên quản giáo vội vàng chạy lại nhận cuốn sổ tay của Tướng Đức, khúm núm đưa lên cho tên Nham. Tên này hớn hở tiếp lấy, sửa soạn đọc những lời vàng ngọc của y mà Tướng Đức đã ghi.

Mọi người hồi hộp chờ đợi! Không biết Tướng Đức đã ghi những gì ở trong đó!

Tên Nham vừa mới há miệng ra định đọc, thì mặt mày y đột nhiên tái xám lại! Miệng y mở ra mà không đóng lại được nữa, cứ há hốc ra, khoe những cái răng đen thui bám đầy khói thuốc lào!

Tay y run lên, nước miếng từ trong miệng chẩy ra nhễu nhão! Mặt y đanh lại, cặp mắt quắc lên căm hờn! Y thở không ra hơi, nói không ra tiếng!

Cả hội trường nín thở theo y!

Một lúc sau, tên Nham mới bật ra được vài tiếng lắp bắp:

“Bắt . . . Bắt . . . lấy tên phản động này!

Bắt ngay lập tức!

Đánh . . . Đờ . . . Đờ . . . Đánh cho nó chết rồi đem chôn!”

Nó . . . Nó . . . dám hỗn láo với cách mạng! Nó dám chửi đảng cộng sản!

Bắt . . . Bắt! Các đồng chí đâu?
Bắt nó ngay lập tức cho tôi!”

Những tên vệ binh đứng gác chung quanh vội vàng chạy lại chỗ Tướng Đức, chĩa súng vào ông, lên đạn rốp rốp, làm như chúng bắn ông ngay lập tức.

Tướng Đức vẫn ngồi yên, bình tĩnh trả lời tên Nham:

“Đánh chết rồi . . . đem ra . . . ăn thịt thì mới đáng nói!

Chứ đánh chết rồi đem chôn thì có gì là lạ đâu!

Tôi đã nói trước cho cán bộ rồi, tôi viết thì chỉ mình tôi đọc thôi, ai muốn đọc thì nấy ráng chịu!

Cán bộ cứ muốn đọc thì tôi đưa! Sao cán bộ còn bắt lỗi tôi làm chi?”

Tên Nham lại một lần nữa phùng mang trợn mắt, lắp bắp nói chẳng nên lời!

Y ta cứ đứng đó, mặt mày tím bầm lại, mắt trợn trắng lên mà nhìn Tướng Đức, như muốn ăn tươi nuốt sống ông ta vậy.

Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, với tư cách là Trưởng Phòng tù cải tạo, đã vội vã đứng lên xin cho Tướng Đức:

“Xin cán bộ bỏ qua cho, không nên chấp nhất những ghi chú của anh Đức làm gì, anh bị . . . MÁT đấy mà, trong trại ai cũng biết cả!”

Tên Nham gằn giọng hỏi lại:

“Mát là cái gì?”

“Mát tức là . . . điên, là khùng đó mà! Hồi xưa, anh Đức đã chứi cả Tổng Thống Thiệu, Phó Tồng Thống Kỳ nữa đó! Ông Thiệu cũng đã giận dữ đòi bỏ tù anh Đức. Nhưng khi biết anh ta bị khùng, nên lại tha!

Xin cản bộ cứ hỏi tất cả anh em ở đây thì biết!”

Thế là cả trại nhao nhao lên, ai cũng nói:

“Anh Đức . . . Mát đấy mà, cán bộ chấp làm chi!”

Tên Nham thấy cả trại đồng lên tiếng, cho rằng Tướng Đức . . . khùng, không lẽ y còn chấp nhất làm chi! Một người khùng, dù có chửi đảng cộng sản, cũng không có gì đáng nói. Nếu cho Tướng Đức là tỉnh, lời ông ta chửi sẽ bay đi khắp các trại tù khác, còn nguy hiểm gấp mấy!

Suy tính một hồi, hắn . . . dịu giọng:

“Thôi, nếu các anh nói anh Đức này khùng điên, thì tôi cũng chẳng chấp nhất anh ấy làm gì! Các anh đem anh ta về trại, trị bệnh cho anh ta chóng khỏi, để mà học tập cho tốt!”

Rồi y chậm rãi xé nhó cuốn sổ tay của Tướng Đức đi.

Thế là buổi lễ kỷ niệm chiến thắng ĐBP của bọn vc bế mạc không kèn không trống!

Mấy ngày hôm sau, nhân một dịp đi làm lao động, vào lúc nghỉ trưa, anh em đã tụ họp chung quanh Tướng Đức để hỏi là, ông đã viết cái gì trong cuốn sổ tay, mà làm cho tên việt cộng tức giận tột cùng như vậy?

Tướng Đức chậm rãi trả lời:

Mấy em có nhớ cái thằng VC đó nó nói gì không?

Nó nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh”, goa (Qua) móc sổ ra ghi:

“CON CẶC!”

Rồi đóng sổ lại.

Tới khi nó nói tiếp: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại của đảng Cộng Sản VN” goa lại móc sổ ra ghi:

“CON CẶC!”

Rồi lại xếp sổ lại.

Rổi nó lại nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh nhào Đế Quốc Pháp”, goa lại móc sổ ra ghi:

“CON CẶC!”

Rồi lại đóng sổ lại.

Nó muốn đọc, goa đã nói trước rồi, không nên đọc, goa chỉ viết cho goa đọc mà thôi. Nhưng nó cứ muốn đọc, thì ráng mà chịu, bắt lỗi goa đâu có được!”

Tất cả anh em có măt lúc đó đều cười nghiêng cười ngửa vì những ghi chú mà Tướng Đức đã ghi trong sổ tay của ông.

Hèn chi khi tên Nham há miệng ra định đọc những giòng chữ này thì bị mắc quai. Hắn ta đã tức tối xám mày xám mặt lại mà không biết làm gì!

Cả bọn đã cười như chưa bao giờ được cười, không cần biết lúc đó đang đứng ở đâu? Và có ai rình mò gì hay không?

Ai cũng muốn nói ra, viết ra câu trả lời giống như Tướng Đực đã trả lởi, nhưng đã không dám nói, không dám làm.

Chỉ cỏ Tướng Đức mới dám nói, dám viết!

Một người trong bọn lại hỏi thêm:

“Trung Tướng không sợ nó trả thù, nó . . . giết Trung Tướng hay sao?”

Tướng Đức đã khẳng khái trả lời, không có vẻ mát chút nào hết:

“SINH VI TƯỚNG, TỬ VI THẦN!”

Khi còn sống thì goa làm Tướng, có chết đi thì goa cũng thành Thần, sợ chi cái tụi gủy (quỷ) này!”

Hồi còn cầm quân đánh VC, goa cứ đem quân đi gọm tụi nó lại một chỗ, rồi kêu pháo binh bắn tụi nó tan nát ra! Trận nào không gom được tụi nó, goa kéo lính về nghĩ khoẻ, chẳng chết người nào hết! Chỉ tiếc rằng hồi đó goa gom tụi nó hổng hết, để nay mới bị như dzầy!

Hào hùng thay lời nói của Tướng Dương Văn Đức!

Trong chốn tù tội, có những ai dám viết ra những giòng chữ ngạo mạn, chửi bọn VC như Tướng Đức đã làm?

Tính mạng đang ở trong tay bọn VC khát máu, đã có bao nhiêu người đã ngang nhiên trả lời bọn VC, như Tướng Đức đã trả lời bọn chúng?

Tôi nghe xong câu chuyện, cho rằng Tướng Đức xứng đáng được duyệt xét và chấp nhận là . . . “Đã phục vụ Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hoà”

Tiếc rằng Tướng Đức đã không có dịp qua định cư tại Úc.

Bọn VC không dám giết Tướng Đức ở trại tù cải tạo, chúng đã thả ông ra và tìm cách giết ông một cách lén lút, rất là hèn hạ. Chúng đã đã cho người đi rình mò và đánh chết ông, dìm xác ông ở dưới cầu Hàng Xanh.

Nguyễn Khắp Nơi – Nguyen Everywhere.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

HAWAII NGHIÊNG MÌNH TRƯỚC CÁC CHIẾN SĨ VIỆT MỸ TRẬN VONG

Lữ Anh Thư: “… Các cựu chiến binh Việt Nam: quý vị là những anh hùng!”.
Honolulu (Mo SF).-
Trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động, một lần nữa Haiwaii đã nghiêng mình tưởng nhớ đến các chiến sĩ Việt Mỹ và đồng minh đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho Việt Nam vừa qua.

Buổi lễ đã được tổ chức vào chiều Chủ Nhật 25 tháng 5 vừa qua tại Nghĩa trang Quốc Gia Thái Bình Dương (National Memorial Cemetery of The Pacific) trên ngọn đồi Punchbowl thuộc thủ phủ Honolulu với khoảng 900 quan khách tham dự gồm đại diện các cấp chính quyền, các vị dân cử, các quân binh chủng từng tham chiến tại Việt Nam, đặc biệt có sự hiện diện của cựu Đại tướng Frederick Weyand, Tham mưu trưởng Quân lực Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam vào năm 1975 (?) cũng là vị ân nhân của cộng đồng Người Việt tại Hoa Kỳ vì chính ông là người đã trực tiếp thuyết phục Tổng thống Gerald Ford lúc đó hãy ra lệnh cho di tản rộng rãi để cứu giúp càng nhiều người Việt càng tốt, trước giờ phút Cộng quân sắp chiếm lãnh Saigon vào tháng 4 năm 1975.

Về phía những người Việt đến từ đất liền, người ta nhận thấy có phái đoàn do Giáo sư Nguyễn Văn Canh hướng dẫn, phái đoàn Phong trào Hưng Ca VN do Phong trào trưởng Huỳnh Lương Thiện hướng dẫn và một số đồng hương từ Hoa Thịnh Đốn, Florida và California đến tham dự.

Trước giờ khai mạc buổi lễ, một đoàn xe mô tô của các cựu chiến binh Hoa Kỳ nổ máy rền vang từ chân đồi kéo lên dự lễ với rừng cờ Vàng và cờ Mỹ được cắm trên xe tung bay trước gió rất đẹp mắt.

Trong lời phát biểu chào mừng quan khách. Giám đốc Nghĩa trang Quốc Gia Thái Bình Dương, cựu Đại tá Castagnetti đã ngỏ lời cám ơn mọi người đã đến tham dự buổi lễ này để tưởng nhớ đến các chiến sĩ Hoa Kỳ, Việt Nam và Đồng minh đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam vừa qua. Ông cho biết đó là cuộc chiến đấu giữa chính nghĩa tự do và độc tài cộng sản và dầu cộng sản có chiếm được Việt Nam thì cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam vẫn tiếp tục.

Tiếp đến là nghi thức chào cờ với quốc thiều Việt-Mỹ đã được cất lên. Quốc ca Việt Nam Cộng Hòa do Ban hợp ca Hội Trùng Dương, gia đình VNTV và các quan khách Việt Nam tham dự đồng hát vang trên ngọn đồi Punchbowl thơ mộng của Honolulu.

Tướng Irwin Cockett, một cư dân sinh trưởng tại Hawaii đã từng lãnh đạo một lữ đoàn Nhảy Dù tham chiến tại Đại Hàn năm 1950 để ngăn chặn cộng quân Bắc Hàn, ông cũng đã từng tham chiến tại Việt Nam và được lãnh nhiều huy chương Anh Dũng Bội Tinh bởi sự can đảm trong chiến đấu của mình đã ca ngợi tấm gương hy sinh của các chiến sĩ Hoa Kỳ và Đồng Minh trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam và khen ngợi Ban tổ chức hôm nay đã chứng tỏ là “...chúng ta, những người may mắn còn sống không quên ơn họ”. . .

Tuy nhiên, bài phát biểu đã gây ngạc nhiên và xúc động cho mọi người là bài phát biểu của ái nữ cựu Trung Tướng Lữ Lan, cô Lữ Anh Thư.

Sau phần giới thiệu của cô Ngọc Nhung, Giám đốc đài Truyền hình VNTV, trong chiếc áo dài màu xanh gợn sóng biển, bằng giọng Anh ngữ lưu loát, cô Anh Thư đã thuật lại quãng đời thơ ấu trong chiến tranh của mình, những ngày máu lửa do Cộng quân gieo rắc, những đánh trả kiên cường của chiến binh VNCH cùng với sự hổ trợ của các chiến sĩ đồng minh Hoa Kỳ, những kỷ niệm thích thú của bé Anh Thư khi được người lính Mỹ dạy cho đếm: “One, two, three…”. Lữ Anh Thư nói: “…Nếu tôi và bạn bè tôi được yên vui cắp sách đến trường, có được một tương lai hứa hẹn, đó là nhờ ở sự hy sinh của quý vị, những chiến sĩ trong quân lực Hoa Kỳ".

Như đã nói ở trên, nhờ có cha phục vụ trong QLVNCH, tôi đã có dịp đến nhiều nơi, kể cả những nơi giao tranh nguy hiểm. Nơi đâu tôi đến, tôi cũng chỉ thấy bóng dáng hai lá cờ, cờ của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và cờ của Việt Nam Cộng Hòa. Ai ai cũng hiểu rằng nơi nào có hai lá cờ này là nơi đó an toàn, nơi họ sẽ được bảo vệ. Tiếc thay, giới truyền thông đã không bao giờ nói đến đặc điểm này mặc dù phim ảnh họ phổ biến là bằng chứng cụ thể nhất, cho mọi người thấy rõ những khi người dân Miền Nam chạy giặc ngày đó, mọi người đều chạy trốn cộng sản và chạy về phía Cờ Vàng và Cờ Mỹ, hai lá cờ biểu tượng của tự do.

Qua những kinh nghiệm kể trên, đối với tôi và những người của thế hệ tôi, quý vị là những người anh hùng. Chính sự hy sinh của quý vị đã cho chúng tôi cơ hội để được sống tự do. Thế hệ tôi và những thế hệ được sống tự do sau tôi là những người thừa hưởng trực tiếp sự hy sinh và phục vụ của quý vị. Chiến tranh bao giờ cũng tàn khốc và tang thương. Cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến đẩm máu nhất của thế kỷ thứ 20. Nhưng cuộc chiến Việt Nam cũng là cuộc chiến đầy chính nghĩa và cao cả. Thì đối với những người đã đáp lời sông núi và làm tròn bổn phận người chiến binh, sự hy sinh của họ phải được ghi nhớ và đền đáp. Tôi đã kinh ngạc khi biết rằng đất nước Hoa Kỳ này đã không dành những sự đãi ngộ xứng đáng cho những người lính trở về từ chiến trận Việt Nam. Tôi rất tiếc rằng quý vị đã gặp phải những kinh nghiệm không vui như thế. Tôi muốn quý vị biết rằng, đối với người Mỹ gốc Việt, với tôi và thế hệ của tôi, chúng tôi tri ân quý vị..”

“…Tôi xin mượn những lời sau đây của Mục Sư Dennis Edward O’Brien để gởi đến quý vị :

Không phải những nhà báo mà chính là người lính chiến đã cho ta quyền tự do báo chí.Không phải người thi sĩ mà chính là người chiến sĩ đã cho ta quyền tự do ngôn luận.Không phải người điều hành khuôn viên đại học mà là chính người lính chiến đã cho ta quyền xuống đường phản đối.Chính người chiến sĩ đã gìn giữ lá cờ, chào cờ, chiến đấu dưới lá cờ và thi hài của họ đã được phủ màu cờ Và chính ngưòi chiến sĩ đó đã cho những người phản chiến cái quyền đốt cờ. Và trước khi dứt lời, tôi cũng xin mượn những lời trong một bài hát tri ân người lính chiến Hoa Kỳ do một y sĩ Việt Nam sáng tác để gởi đến quý vị hôm nay :

Các anh là niềm tự hào, các anh là tấm gương anh dũng. Các anh là anh hùng của những anh hùng.

Vâng! Thưa các cựu chiến binh Việt Nam, quý vị là những anh hùng! Tôi xin được nghiêm chào quý vị…”

Bài phát biểu đã chấm dứt giữa tràng pháo tay như không muốn dứt cùng những giòng lệ xúc động của các cựu chiến binh và thân nhân tham dự.

Tiếp đến là nghi thức đặt vòng hoa tưởng niệm trên đài tử sĩ. Về phiá cộng đồng Việt Nam, một vòng hoa tươi kết thành hình cờ vàng ba sọc đỏ của “Người Việt tại hải ngoại” đã được Giáo sư Nguyễn Văn Canh và Phong trào trưởng PT Hưng Ca Huỳnh Lương Thiện trang trọng đặt trên đài tử sĩ để bày tỏ lòng tri ân của người Việt đến các chiến sĩ đã nằm xuống vì chính nghĩa tự do tại Việt Nam.
Cũng trong giây phút đó, đội nghi lễ của các chiến sĩ Hải Quân đã liên tục bắn 21 súng chỉ thiên để vinh danh những chiến sĩ đã hy sinh vì nghĩa vụ…

Bầu trời vừa sẩm tối, mọi người được chuyền tay nhau những ngọn nến lung linh , theo phần hướng dẫn của một vị linh mục tuyên úy để cùng cầu kinh tưởng niệm những chiến sĩ đã hy sinh.

Sau phần biểu diễn của phi cơ trực thăng diễn tả lại các phi vụ "Missing man fly over" đang quay lại tìm cứu các đồng đội đang lâm nạn tại chiến trường năm xưa và tiễn đưa Quốc, Quân kỳ.
Buổi lễ đã bế mạc vào lúc 8giờ tối cùng ngày.

Huyền Thịnh, Mõ San Francisco.


~~~~~~~~~~~~ ~~~~~~~~~ ~~~~~~~~
Bị chú: Nếu quý vị cần nguyên văn bài phát biểu bằng Anh và Việt ngữ của cô Lữ Anh Thư, xin liên lạc với tác giả qua email:

"lu anh thu" < atlu59@yahoo. com >
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Trên Chiến Trường Xưa
Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở lại Kontum tìm thăm nơi an nghỉ của những đồng đội cũ. Trong những năm 72 và 73, đơn vị chúng tôi đã có hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi này để giữ vững miền địa đầu, cửa ngõ quan trọng nhất vào Tây Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nằm không xa phía dưới - thành phố Pleiku.


Dừng chân dưới chân núi ChuPao, nhớ tới những trận đánh khó khăn ác liệt với những toán địch quân bị xích chân trong những hầm núi đá, cố bám trụ những cái “chốt”, nhằm cắt đứt QL 14, con đường huyết mạch nối liền Kontum với Pleiku, và hình dung tới từng khuôn mặt của những anh em đã không bao giờ còn trở lại, một số đã gởi xác thân lại cho rừng núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là mình còn mắc nợ họ. Món nợ máu xương không bao giờ trả được.
Ngày ấy chiến trường ác liệt, có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban quân số chưa kịp nhận hồ sơ lý lịch. Đa số rất trẻ, độc thân, và gia đình ở tận những miền xa, nên mồ mả không có ai chăm sóc. Hơn ba mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa trang trong thành phố đã bị giải tỏa từ lâu, và nếu có được cải táng ở một nơi nào đó, chắc trên mộ bia không còn ghi đơn vị cũ. Chúng tôi đến đây như để tìm lại chút kỷ niệm và mong được vơi đi chút nào lòng trắc ẩn, chứ chuyện tìm lại được mồ mả của anh em – hy vọng rất mong manh.
Cả thành phố Kontum bây giờ đã đổi khác. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được các địa danh ngày trước. Những B12, B15, Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dã Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ từng mang tên những người anh, người bạn anh hùng của tôi đã nằm xuống để bảo vệ Kontum: Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm…Chúng tôi tìm đến một số nhà quen lúc truớc. Tất cả không còn. Những người chúng tôi gặp đa số mới vào từ miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng đã tứ tán bốn phương trời. Tội nghiêp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh, có lúc thành phố bị mỗi ngày hàng ngàn quả đạn pháo, vậy mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với những người lính chúng tôi giữ vững thành phố này trong suốt những thời kỳ ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng, giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức tưởi khi không còn bóng dáng quân thù. Những người lính ở đây được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi từng được nghe người Kontum kể lại chuyện những người lính hào hùng, tự sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt vào tay giặc. Nghĩ tới đó, lòng tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ trào ra.
Đúng như chúng tôi dự đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong thành phố, nơi bạn bè tôi được chôn cất, không còn nữa, người ta đã giải tỏa để xây lên một số cơ sở công quyền và những khu giải trí.
Chúng tôi tìm đến Tòa Giám Mục, cũng là nơi mà đơn vị chúng tôi đã phải đổ khá nhiều máu xương để tái chiếm trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở. Ông cho biết là, mồ mả trong các nghĩa trang lúc xưa đã được cải táng và chuyển đến địa điểm mới, nằm trên cây số 9, đường lên Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những ngôi mộ có thân nhân nhận lãnh và tự cải táng thì mới có mộ bia, còn những ngôi mộ khác thì không biết ra sao. Ngài còn tốt bụng, sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi đến đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước, nơi ngày xưa đơn vị tôi đã bao lần cùng với các chiến sĩ thiết giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy lui những đợt tấn công biển người của địch, giữ vững cửa ngõ vào thành phố Kontum.
Mất gần hai tiếng đồng hồ, đi khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không tìm ra bia mộ nào có cái tên quen. Nhiều ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục trở lại Tòa Giám Mục, cám ơn và chia tay ngài. Đã hơn 12 giờ trưa, chúng tôi tìm một nơi nào đó để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch Đằng và Thiên Nam Phúc ngày xưa, nơi có mấy cô chủ quán dễ thương, mà đám lính tráng chúng tôi thường ghé lại đây ăn uống sau những tháng ngày dài hành quân trong núi, một anh bạn hỏi thăm đường đến đó. Nhưng quán bây giờ đã đóng cửa và những người xưa cũng đã trôi dạt về những nơi nào đó. Bọn tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con đường về làngTân Hương, nơi lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để những ngày tương đối bình yên, bọn tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm dòng sông chảy ngược, tạo huyền thoại một thời này, mà nhớ tới vợ con hay người tình đang ở đâu đó, để rồi sau lúc chia tay chẳng biết ngày mai ai còn ai mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những hotel, nhà hàng, nhà trọ và biệt thự của các ông quan lớn. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được một cái quán ăn bình dân, nhưng khá sạch sẽ, nằm dưới tàng của một cây trứng cá.
- Buổi trưa nên vắng khách. Bà chủ vui vẻ vừa đón chúng tôi vừa giải thích.
Chúng tôi chọn một cái bàn nhỏ gần bờ sông. Xa xa phía bên kia là làng Phương Hòa thật dễ thương ẩn mình dưới những vườn cây. Nhìn mấy bờ đê bên bìa làng, tôi nhớ tới cái chết của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng. Tôi đã chứng kiến phi vụ thật can trường này. Anh là trưởng phi tuần gồm hai chiến đấu cơ AD-6 , đánh bom vào một mục tiêu có nhiều ổ súng phòng không của địch. Anh lao phi cơ xuống thật thấp bắn chính xác, tiêu hủy mục tiêu, tạo một đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ, rồi bay lên từ trong đám lửa ấy. Đang trên đường bay về, anh phát hiện có nhiều đạn phòng không bắn lên từ một khu vưc khác. Anh quay trở lại, lao phi cơ xuống trút hết những quả bom còn lại, rồi bay vút lên không trung. Đúng lúc ấy, máy bay anh bị trúng đạn. Cánh bên phải phát hỏa. Anh phi tuần phó bay kèm theo, bảo vệ và hối thúc anh nhảy dù ra. Bộ binh chúng tôi cũng sẵn sàng tiếp cứu. Nhưng anh từ chối, bảo là nếu anh nhảy dù ra, phi cơ sẽ rớt xuống khu dân cư trong thành phố. Anh cố gắng bay qua bên kia bờ sông, đáp khẩn cấp (crash) xuống khu ruộng trống phía dưới. Anh điều khiển thật tài tình, nhưng vì phi cơ đã hư hỏng, không còn theo ý muốn, đâm vào một bờ đê và phát nổ. Anh Phạm văn Thặng đã anh dũng hy sinh.. Điều cảm động hơn, khi người đại diện của Sư Đoàn đến nhà anh để chia buồn cùng gia đình và đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, đã kể lại cảnh nghèo nàn của gia đình anh, một trung tá phi công của QLVNCH.
- Mấy ông anh từ xa tới. Chắc tính làm ăn gì chứ cái thành phố này thì có cái gì mà tham quan. Phải không?
Câu hỏi của chị chủ quán làm tôi giật mình. Mấy anh em khác im lặng, nhìn tôi như thầm nhắc cho tôi cái nhiệm vụ trả lời.
- Không, bọn tôi tìm thăm người quen, nhưng không gặp.
- Ở khu vực nào, có nhớ địa chỉ không ? Tôi sẽ tìm giúp các anh. Tôi là dân ở đây mà.
Tôi mỉm cười :
- Cám ơn chị. Ở trong nghĩa trang thành phố, nhưng đã bị dọn đi nơi khác rồi, biết đâu mà tìm.
Chị chủ quán khựng lại chưa kịp để thức ăn xuống bàn, nhìn tôi ngạc nhiên :
- Sao lại phải ở trong nghĩa trang ?
- Vì họ đã chết rồi. Chết từ năm 1972 lận. Tôi buồn bã trả lời .
- Vậy chắc các anh đây là lính Cộng hòa mình ? thuộc đơn vị nào ?
Nghe mấy chữ “lính Cộng hòa mình” tự dưng tôi cảm thấy gần gũi với người đàn bà xa lạ này. Tôi thân thiện :
- Anh em bọn tôi thuộc sư đoàn 23, trung đoàn 44 chị ạ.
- À, vậy có anh nào ở đại đội trinh sát ?
- Không, bọn tôi ở trung đoàn và tiểu đoàn . Một người trong chúng tôi trả lời.
Sau một khắc yên lặng, chị lên tiếng:
- Em có mấy người bạn ở trinh sát. Lúc trước cũng nằm trong nghĩa trang thành phố, nhưng khi có lệnh giải tỏa, em đã chuyển các anh ấy lên cây số 9 rồi. Chị chủ quán tỏ ra thân thiện và thay đổi cách xưng hô.
Chúng tôi vừa bất ngờ vùa xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước trà ra mời chúng tôi, chị kéo ghế ngồi xuống rồi tâm sự.
Thì ra chị là bạn gái của anh Bình, trung sĩ Bình, ở đại đội trinh sát của đại úy Minh, sau này là đại úy Mạnh. Anh tử trận hồi mùa hè 1972.. Ngày đó chị còn đang đi học, nhưng chiến tranh ác liệt quá, trường phải tạm đóng cửa. Chị ở nhà phụ bán cà phê cùng với người chị ruột. Bà chị này quen khá thân với Mạnh. Khi ấy Mạnh còn là trung úy đại đội phó. Anh Bình thường theo Mạnh tới đây, rồi dần dà quen nhau. Từ khi Bình chết, chị thường đến thắp hương và chăm sóc mộ phần Bình và những đồng đội của anh nằm trong nghĩa trang thành phố.
Năm 1978, chính quyền Cộng sản ra lệnh giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi kêu gọi bà con cùng góp tiền góp sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em Trinh Sát về địa điểm mới. Hầu hết mồ mả của những anh em chiến sĩ còn lại, đã bị san bằng. Chúng tôi cảm động. Không ngờ trong thời buổi nhá nhem tình nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy phù thịnh, vẫn còn có nhiều người Kontum nặng tình với lính.
Theo yêu cầu của bọn tôi, chị cùng chúng tôi đi thăm mộ anh Bình và các anh em trinh sát. Hơn hai mươi ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, nằm bên nhau ở khu phía đông nghĩa trang. Điều đặc biệt trên các tấm bia, trước mỗi cái tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng tôi thắp hương cho từng ngôi mộ xong, quay lại thì thấy chị đang ngồi sụt sùi trước mộ anh Bình. Khi thấy bọn tôi, chị lau nước mắt đứng dậy và nói một mình:
- Thật tội nghiệp, anh ấy hy sinh khi tìm cách chui qua hàng rào để bắn hạ chiếc xe tăng của VC vừa đột nhập vào chiếm bệnh viện
Tôi nhớ lại trận chiến ác liệt này. Khi VC mở đợt tấn công thứ nhì vào thành phố Kontum nhằm rửa hận lần thảm bại ở tuyến tây bắc: Hơn một trung đoàn bộ và nguyên một tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn 320 bị chúng tôi xóa sổ. Lần này chúng dùng mấy chiếc M113 đã cướp được của Sư Đoàn 22 BB từ khi Tân Cảnh thất thủ, dẫn đầu môt đơn vị gồm những chiến xa T 54 + T59 có bộ binh yểm trợ, nhằm lừa phi cơ quan sát của ta, xâm nhập vào bệnh viện dã chiến, nằm cạnh thành DakPha, cách vòng đai phi trường chừng 800 mét, với thủ đoạn lợi dụng vào những thường dân và binh lính bị thương nằm trong bệnh viện, để uy hiếp lực lượng của ta. Tiểu Đoàn 4/44 do Thiếu Tá Võ Anh Tài chỉ huy đã đánh một trận chiến vô cùng gay go ác liệt với một lực lượng địch đông gấp ba lần, dùng chiến xa T 54 làm nổ lực chính.. Xe tăng địch nép theo những vách nhà bệnh viện. Muốn diệt chúng phải tiếp cận để có thể dùng những khẩu M 72 hiệu quả, anh Tài cùng toán quân báo đã dẫn đầu đơn vị, tìm cách chui qua hàng rào bệnh viện, và anh đã hy sinh bởi bị chính mìn của ta phát nổ. Người anh cả của Tiểu Đoàn, một sĩ quan xuất thân từ khóa 16 VBĐL lừng danh, đã nằm xuống dọn đường cho đơn vị mình cứu nguy bệnh viện, nơi có đồng bào và cả đồng đội của anh bị địch quân dùng làm bàn đạp trong ý đồ bất nhân của chúng. Đại Đội Trinh Sát đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn được điều động tiếp ứng, đột nhập đánh vào sườn địch. Trinh Sát 44, một đại đội với bao chiến công hiển hách từ thời đại úy Trần Công Lâm, Phan công Minh và sau này là Đoàn quang Mạnh, đã đánh một trận thật tuyệt vời, bắn cháy nhiều chiến xa địch, đuổi đám tàn quân Cộng sản chạy thoát thân ra khỏi bệnh viện và giữ vững một lần nữa vòng đai thành phố. Đại đội Trinh sát này dưới sự chỉ huy tài ba và gan dạ của trung úy Phan Công Minh, đã từng đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một Tiểu Đoàn BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao. Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trân và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã cùng đại tá TMT/QĐ Lê Khắc Lý, đến QYV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liểu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.
- Đại úy Mạnh bây giờ ở đâu, các anh có gặp anh ấy không ?
Câu hỏi của chị đã cắt mất dòng hồi tưởng của tôi. Tôi lên tiếng trả lời chị :
- Anh Mạnh đã chết trong tù cải tạo từ năm 1978 chị ạ.
Im lặng một lúc, tôi lại nghe tiếng chị khóc .
- Chị Hà em, bạn gái của anh Mạnh lúc xưa cũng bị chết năm 75 khi VC vào chiếm Kontum. Mộ chị nằm ở ngay phía trước đây.
Vừa nói, chị vừa dẫn chúng tôi đến đó. Nhìn bức ảnh trên mộ bia tôi mang máng nhớ lại người con gái tên Hà ở một quán cà phê nhỏ nằm trong vườn cây sau nhà, hơn ba mươi năm về truớc.
Nghĩa địa mới này nằm không xa làng Trung Nghĩa. Tôi rủ chị cùng với chúng tôi ghé lại lại thăm làng và khu nhà thờ. Nơi mà ngày xưa ông cha chánh xứ đã cùng chúng tôi chiến đấu bảo vệ những giáo dân ngoan đạo . Nghe nói ngài đã bị tra tấn đến chết trong trại tù cải tạo .
Ra khỏi nghĩa trang, nhìn về phía bắc, rừng núi ngày xưa, dù không tránh được dấu vết của đạn bom, nhưng vẫn còn xanh tốt, giờ sao lại xơ xác điêu tàn. Tôi hỏi chị bạn gái anh Bình, nghe tiếng chị thở dài :
- Tham nhũng bây giờ còn tàn phá nhiều hơn cả chiến tranh ngày trước .
Tôi nhớ lại những vụ án ở đây, có liên quan đến nhiều ông lớn. Mới đây bà Thao Y Bình, Bí Thư Tỉnh Đoàn Kontum đã ăn cướp đến gần 140 tỷ đồng của dân nghèo, và ông Trần văn Thiên, chủ tịch huyện Dak Glei đã thông đồng bán bao nhiêu gỗ quí.
Trên đường vào làng Trung Nghĩa, tôi hồi tưởng tới trận chiến trên tuyếnTây Bắc Kontum. Nơi đơn vị tôi đã thắng một trận thật lẫy lừng, làm tiêu hao cả sư đoàn 320 mà địch quân thường hãnh diện là Sư Đoàn Thép, mở đầu cho bao nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum, Tây Nguyên không lọt vào tay giặc.
Đúng vào sáng 30 tết năm 1972, khi chuẩn bị buổi tiệc tất niên cho các đơn vị tại hậu cứ Sông Mao sau một năm đối mặt với chiến trường, Trung Đoàn 44 chúng tôi nhận khẩu lệnh của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước. Vừa đến An Khê vào chiều mồng một tết, chúng tôi đã cùng với Thiết Đoàn 3 KB tham chiến, giải toả áp lực địch đang bao vây một số căn cứ phòng thủ của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn dọc theo đèo An Khê nằm trên QL 19. Tình hình tương đối yên tĩnh, các căn cứ Đại Hàn được giải toả, QL 19 đã khai thông, chúng tôi vừa đảm trách giữ an ninh cho QL19 từ Pleiku đến Bình Khê, vừa thiết lâp lại các căn cứ pháo binh, phòng thủ. An Khê là một địa danh làm người ta nhớ tới hai đoạn đèo Mang Yang và An Khê cùng những khúc quanh “tử thần”, mà ngày xưa cả một tiểu đoàn thiện chiến của đội quân viễn chinh Pháp bị lọt vào ổ phục kích, để gần như phải xóa sổ.
Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi BTLTiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập. Đại tá Lê Đức Đạt, vị tư lệnh không được sự ủng hộ của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ QĐII&QK2, đã từ chối lời mời lên máy bay của người cố vấn SĐ khi phòng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều chiến xa T 54 của địch. Ông ở lại chiến đấu và vùi thây nơi chiến địa. Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất, một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc mà không hề có bất cứ sự yểm trợ nào của lực lượng đồng minh, cùng cái chết của vị tư lệnh liêm sỉ, khí phách hào hùng thời ấy đã là một trang chiến sử nói lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước sự bỏ rơi của người bạn đồng minh Mỹ, đã từng cam kết bảo vệ miền Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.
Căn cứ địa đầu thất thủ, kéo theo sự xáo trộn của một Sư Đoàn bao nhiêu năm trấn thủ tam biên, tạo thuận lợi để địch quân tràn xuống uy hiếp Kontum.
Trung Đoàn 44 nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Lúc này thành phố Kontum đang bất ổn, VC đã có mặt một số nơi trong thành phố và pháo kích thường xuyên vào phi trường, một vài phi cơ bị trúng đạn phải nằm ụ tại chỗ. Chúng tôi được lần lượt không vận vào ban đêm bằng C 130. Khi sắp vào không phận, máy bay tắt hết đèn. Phi cơ không đáp mà chỉ bay rà qua phi đạo để chúng tôi nhảy xuống từ cửa phía sau.
Tiểu Đoàn 1 và 2/44 đựơc chở thẳng tới phòng tuyến tây bắc, thay thế cho một liên đoàn BĐQ vừa bị tiêu hao quân số. Hai vị tiểu đoàn trưởng lại là hai người bạn cùng tốt ngiệp khóa 19 VBĐL thao lược, can trường: Đại úy Đặng Trung Đức và Nguyễn Xuân Phán. Ngay sau khi nhận khu vực trách nhiệm, từ vị tiểu đoàn trưởng đến binh sĩ cùng nhau lập phòng tuyền chiến đấu, đặc biệt là đào những hầm hố chống chiến xa phía trước.
Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng hạ tuần còn mờ ảo dưới màn sương, các toán tiền đồn phát hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến về hướng nam. Các đơn vị được lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ tất cả các lều poncho để tránh sự phát hiện của địch. Trên hệ thống vô tuyến, tất cả báo cáo đã sẵn sàng. Địch quân tập trung đánh vào phòng tuyến TĐ 2 của Đại úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ có một đơn vị thiện chiến mới toanh vừa mới có mặt trên chiến trường này, nên sau một lọat tiền pháo, chúng xua những chiếc T 54 dàn hàng ngang, lực lượng bộ binh ồ ạt theo sau. Mặc dù đây là lần đầu tiên trực chiến với xe tăng địch nhưng không hề nao núng, mặc cho những xích sắt tha hồ rú gào đe dọa, Đại úy Phán bình tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ khai hỏa khi những chiếc T 54 tới gần trước mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu của những khẩu M 72, loại vũ khí chống tăng duy nhất mà đơn vị được cấp, và một số B40, B41 của địch thu dược từ chiến trường An Khê. Đó là một quyết định táo bạo và sáng suốt. Chiếc T 54 đầu tiên bị bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó, đại úy Nguyễn văn Hướng. Ngay sau đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc T 54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt sống cả xe lẫn địch, trong đó có tên đại đội trưởng. Tiểu Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu, đánh bất ngờ bên hông địch, đám tàn quân chỉ còn kịp buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy tất nhiên là công trạng của tất cả mọi người, nhưng sẽ là thiếu sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền lành mà tài năng đảm lược. Lúc nào tiếng nói thật bình tĩnh, trấn an, dặn dò, đốc thúc của Bá Hòa (danh hiệu của anh) cũng vang trên hệ thống vô tuyến làm nức lòng chiến sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa tan, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận. Ông vẫn đội bê rê đen, đứng trên xe M113 và đi bộ ngay trên phòng tuyến, bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến tích đầu tiên của ông và gắn lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng. Người ta đã nói nhiều về cá nhân ông, nhưng ít ai biết được ông là một dũng tướng ngoài chiến trường.
Chiến công hiển hách này đã mở đầu cho hằng loạt chiến thắng khác của tất cả những đơn vị tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống , nhưng vị Tổng Tư lệnh đã xua tay từ chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn.. Ít nhất ông cũng đã chứng tỏ được cái uy dũng của một người xuất thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống đã gắn lon Tướng cho đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn. Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều được vinh thăng một cấp. Riêng vị trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn Xuân đựơc thăng cấp bằng một quyết định riêng sau đó. Anh đựơc điều về làm Trưỡng Phòng 3 Sư Đoàn và sau này là một trong những vị trung đoàn trưởng thao lược của QLVNCH.

Trung Nghĩa bây giờ chẳng còn môt chút gì dấu tích chiến tranh, nhưng nhìn ở đâu tôi cũng thấy bóng dáng anh em đồng đội cũ, những người bạn trẻ tuổi can trường của chúng tôi ngày trước. Đặng Trung Đức đã hy sinh vào mùa hè 1973 khi vừa được trực thăng vận xuống phía bắc căn cứ Non Nước. Tên anh được đặt cho bản doanh BTL/SĐ. Vợ con anh đã sang Pháp, nhưng chị Đức đã mất từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ già góa bụa, mà Đức là con một, cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa đầy một năm sau ngày Đúc hy sinh. Trần Công Lâm, người bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi - người sĩ quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi hành quân mà chưa gặp địch là không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu Đoàn 3/44, đã từng là một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao chiến công hiển hách, vang dội khắp Quân Đoàn, cũng đã nằm xuống cuối năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú. Nguyễn xuân Phán sau những năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở một thị trấn nhỏ thuộc tiều bang Washington bên Mỹ và vẫn hăng say trong các tổ chức xã hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em, vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo chỉ có những lúc vui với anh em và say mèm mới có thể quên được nỗi đau . Phan Công Minh thì đang sống âm thầm ở một thành phố biển ngoại ô New York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 “job”, để đủ lo cho các con ăn học, thời gian còn lại chỉ đủ để uống rượu tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng con trai lớn vừa tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân trên chiến trường Irak.. Riêng anh Ngô văn Xuân, mòn mỏi, bệnh hoạn sau hơn 13 năm tù. Nhưng dường như những vết thương chiến trường, tù ngục còn trên thân xác không làm cho anh đau đớn bằng vết thương trong lòng. Nỗi đau của một người đã hiến đời cho binh nghiệp mà giữa đường phải đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống lặng lẽ ở một nơi gần thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về Thiền và Phật học. Còn lại, những đồng đội khác, hoặc đang sống lê lết khốn cùng ở đâu đó bên quê nhà với thương tích trên người, hoặc lưu lạc muôn phương, một số đã hy sinh, xác thân nằm ở một nơi nào đó, giữa núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các nghĩa trang, đã dời đi hoặc bị san bằng, nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn còn phảng phất đâu đây. Tôi đốt hết bó nhang còn lại chia cho anh em. Chị bạn gái của anh Bình cũng xin được chia phần. Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của những đồng đội cũ được sớm siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những người còn sống nhưng đã không trả được – dù chỉ một phần nhỏ nào - món nợ máu xương cho họ.

Suốt đêm hôm ấy không ngủ được, chúng tôi nằm kể lại bao nhiêu chuyện vui buồn trên chiến trường xưa, nhắc lại từng tên, từng khuôn mặt bạn bè. Chúng tôi cũng tranh luận thật nhiều về cuộc chiến đã qua và những cái chết của đồng đội mà thấy lòng nặng trĩu những đau buồn với bao điều tức tưởi.
Sáng hôm sau, chị chủ quán, bạn gái anh Bình, mời chúng tôi ăn sáng rồi tiễn chúng tôi ra đầu cầu Dakbla. Chị đứng yên lặng không nói một lời gì. Nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên má chị, trong lòng chúng tôi có lẽ ai nấy cũng đang giữ riêng một nỗi ngậm ngùi. Nhìn dòng sông Dakbla chảy ngược qua cầu, tôi có cảm giác như lòng mình cũng đang chảy ngược về những nơi nào đó, những chiến trường xưa, mà mãi mãi vẫn còn in bóng dáng hào hùng của bao nhiêu bè bạn, anh em - những người đồng đội cũ. Tất cả đã từng có một thời sống rất đáng sống.

phạmtínanninh
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Truyện Người Lính Nhỏ Mà
Chính Khí Lớn Vũ Tiến Quang


TRẦN ÐẠI SỸ
(Trích Trong Bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)
Vũ Tiến Quang sinh ngày 30 thánh 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là Hạ Sĩ Ðịa Phương Quân Vũ Tiến Ðức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Ðức bị trúng đạn tử thương khi tuổi vừa mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với 2 con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang, 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Ðức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hòa có đăng bài: "Ngôi Sao Sa Trường, Thượng Sĩ Sữa: Trần Minh - Thiên Thần U Minh Hạ".

Bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường Minh về phục vụ tại Tiểu Ðoàn Ngạc Thần (tức Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 31, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh). Mà Tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nẩy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: "Mình phải như anh Minh".

Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì ... nguy lắm! Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là Ðịa Phương Quân thì không được. Minh từ chối:

- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.

Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Ðã không giúp bà Ðức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Ðức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3 Tiểu Khu Chương Thiện, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu Tá Lê Minh Ðảo, Tiểu Khu Trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Ðảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Ðức, xin Bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang. (Ghi chú: Thiếu Tá Lê Minh Ðảo hồi 1974 được thăng Thiếu Tướng, giữ chức Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Sau biến cố 1975, ông bị tù một thời gian dài. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1966, Thiếu Tá Ðảo giữ chức Giám Ðốc Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật. Bấy giờ tôi có dịp thăm Cần Thơ, được ông tiếp tại căn nhà tranh nổi bên sông, rồi ông đánh đàn cho nghe. Tôi mắc nợ ông món nợ văn nghệ từ hồi đó đến giờ mà chưa trả được. Nếu tính cả lời, chồng chất lên, e không trả nổi).

Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân mà không phải thi. Bà Ðức thân dẫn con đi Vũng Tầu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhẩy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao cho đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh và học Anh Văn. Trong lớp, môn Anh Văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết Ðệ Lục mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói chuyện lưu loát với cố vấn Mỹ.

Giáo Sư Việt Văn của Quang là Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:

"Nhân sinh tư cổ thùy vô tư,
Lưu thủy đan tâm chiếu hàn thanh."

(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử.)

Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.

Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, Thánh Tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Ðô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Báo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu đậm.

Suốt các niên học từ 1969 - 1974, mỗi kỳ hè được phép hai tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể chuyện chiến trường cho nghe. Một số ông anh uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một chuyện động trời, đến nỗi Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, Bộ Tư Lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu truyện như thế này:

Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Ðỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Ðược phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều... cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào các ông cũng dẫn Quang theo.

Trong một cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Ðơn vị Quang theo là Trung Ðội Trinh Sát của Trung Ðoàn 31. Trung Ðội Trưởng là một Thiếu Úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là Thiếu Úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung Ðội tiến vào trong làng thì lọt trận địa phục kích của Trung Ðoàn chủ lực miền, tên Trung Ðoàn U Minh. Trung Ðội bị một Tiểu Ðoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được 10 phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung Tâm Hành Quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nả vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.

Thông thường tại các quân trường Hoa Kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học những phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nả vào trận địch, nhiều rockets (hỏa tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới 7 viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có 4 vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không Quang đã ô hô ai tai rồi. Viên thứ bẩy trúng... chim. Viên đạn chỉ sớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.

Trung Tá J. F. Corter, Cố Vấn Trưởng Trung Ðoàn được Trung Ðội Trưởng Trinh Sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:

- Hummer chết lúc 11:15 giờ mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo đến lúc 17 giờ?

Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung Tá J. F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

Ðúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì "Không có tư cách mà lại chỉ huy." Nhưng các vị sĩ quan trong Sư Ðoàn 21, Trung Ðoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!

Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường mang cấp bậc Trung Sĩ. Quang nộp đơn xin về Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về Tiểu Ðoàn Ngạc Thần, tức Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 31, Tiểu Ðoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thật.

Trung Ðoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi) . Các cựu Thiếu Sinh Quân trong Tiểu Ðoàn 2 - 31 dẫn Quang đến trình diện Anh Hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau. Cẩn đuổi tất cả tùy tùng ra ngoài để anh em tự do xả xú bắp.

Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:

- Ê! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?

- Dạ, đạn Việt Cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.

- Móng tay tao, đâu phải vuốt?

- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng... thì vuốt của anh phải sắc lắm!

- Hồi đó suýt chết, thế bi giờ mày ra trận có sợ không?

- Nếu khi ra trận, anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?

- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?

- Dạ, anh Thời Thẹo không có nhà.

Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu, uy quyền biết mấy, thế mà một Trung Sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào như không biết tới những người chung quanh. (Ghi chú: Thiếu Tá Thời, cựu Thiếu Sinh Quân, gốc người Huế, tính tình ôn nhu văn nhã, nhưng rất can đảm, hiện ông định cư tại Boston, Hoa Kỳ) .

Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

Tại Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Ðợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm Tiểu Ðội Trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm Trung Ðội Phó ngay, dù hầu hết cả Tiểu Ðội Trưởng đều ở cấp Trung Sĩ, Trung Sĩ Nhất, mà những người này đều vui lòng tuân lệnh Quang răm rắp!

Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng Trung Sĩ Nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Ðỏ. trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải Tiểu Ðoàn Tây Ðô. Ðây là một Tiểu Ðoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam... huấn luyện. Quang đã được Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:

"Tây Ðô là Tiểu Ðoàn cơ động của tỉnh cần Thơ. Tiểu Ðoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp Ðại Ðội, Tiểu Ðoàn chúng không hơn các đơn vị khác là bao. Nhưng tác chiến cấp Trung Ðội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba Tiểu Ðội ra, chỉ Tiểu Ðội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai Tiểu Ðội hai bên xung phong. Nếu yếu thế thì chúng lui. Ta không biết đuổi theo thì sẽ dẵm phải mìn, rồi bị hai Tiểu Ðội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong thì dùng vũ khí cộng đồng nả vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mới phản công."

Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả Ðại Ðội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút Ðại Ðội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy Trung Ðội. Trung Ðội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Ðến đây thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:

"Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả."

Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Ðại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ Trung Ðội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loat đạn, toàn bộ pòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:

- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong!

Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ trên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.

Ðến đây trận chiến chấm dứt.

Thì ra 18 người đó là Ðảng Bộ và Ủy Ban Nhân Dân của Huyện Châu Thành Cần Thơ. Trong đó có viên Huyện Ủy và viên Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Huyện.

Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Ðoàn Thị Ðiểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó là Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp Ðệ Ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Ðôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết chuyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý: Ðợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi thì cho cưới nhau.

Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử...

Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất. Quân Ðoàn 2 rút lui khỏi cao nguyên, Quân Ðoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29 tháng 4, trung Ðội của Quang chỉ còn 10 người. Tiểu Ðoàn Trưởng, Ðại Ðội Trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Chương Thiện trình diện Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:

- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng. Các đơn vị quân đội Miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ tẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sàigòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.

Ðúng lúc đó tại Chương Thiện, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các Quận Trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:

"Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu."

Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn, vì mất tinh thần. Chỉ còn lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, có một Ðại Ðội Ðịa Phương Quân cùng nhân viên Bộ Tham Mưu. Ðến 13 giờ, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làm sóng cộng quân tràn vào trong Bộ Chỉ Huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng, kiêm Tiểu Khu Trưởng và một Trung Sĩ mới 19 tuổi. Trung Sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.

Bấy giờ đúng 15 giờ.

Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên Ðại Tá Chính Ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:

- Ð.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?

Ðại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.

Trung Sĩ Quang chỉ Ðại Tá Cẩn:

- Thưa Ðại Tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu thì tôi không thể cãi lệnh.

Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Viên Chính Ủy chỉ những xác chết nói với Ðại Tá Cẩn:

- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Ð.M, chúng mày sẽ phải đền tội.

Ðại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung Sĩ Quang ngang tàng:

- Ðại Tá có lý tưởng của Ðại Tá. Tôi có lý tưởng của tôi. Ðại Tá theo Karl Marx, theo Lenin; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi... Tôi không gọi Ðại Tá là tên Việt Cộng. Tại sao Ðại Tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của Ðảng Cộng Sản?

Viên Ðại Tá rút súng kê vào đầu Quang:

- Ð.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?

- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Ðại Tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại Tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.

- Ð.M. Mày có chịu nhận mày là tên Ngụy không?

- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là Ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là Ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.

Quang cười ngạo nghễ:

- Nếu Ðại Tá có chính nghĩa tại sao Ðại Tá lại dùng lời nói thô tục với tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Ð.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Ð.M. mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?

Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Ðộc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cười đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn? (Ghi chú: Nhân chứng quan trọng nhất chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Năm 1999, cô là phu nhân Bác Sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.)

Cái lúc mà Quang ngã xuống thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ Thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.

Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm, Quỳnh Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Ðích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.

Năm 1998, tôi có dịp đi công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp Các Viện Bào Chế Châu Âu (CEP - Coopérative Européenne Parmaceutique). Tôi đem J. M. Bodoret cùng đi. Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sàigòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thi mua tiên cũng được. Giấy phép có, Quỳnh Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiến Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Ðức. Quỳnh Chi muốn bỏ hài cốt Quang-Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạng. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.

Ngôi mộ của ông Ðức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khác trên miếng đồng hàng chữ:

"Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi.
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng"


Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.¨
hoanghoa
Posts: 2264
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

TỔ QUỐC GHI ƠN CÁC ANH HÙNG CHIẾN SĨ VNCH

ĐÃ HY SINH VÌ LÝ TUỞNG TỰ DO

Thành kính tri ân các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng hy sinh để bảo vệ chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc. Những người lính Quân Lực VNCH vẫn mãi mãi oai hùng hiên ngang ngạo nghễ trong mỗi trái tim thân yêu của người Việt Nam yêu chuộng Tự Do , Công Lý , Nhân Quyền và Hòa Bình chân chính trên toàn thế giới .

Image

Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng



Image

Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 Tướng Lê Văn Hưng xuất thân khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức, mãn khóa vào tháng 1/1955. Sau ngày ra trường, ông đã có một thời gian dài chiến đấu tại chiến trường Miền Tây qua các chức vụ các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, Trung đoàn thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh (BB). Năm 1966, ở cấp Thiếu tá, ông là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/Trung đoàn 31 BB. Cũng trong năm 1966, ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong năm ngũ hổ U Minh Thượng (ngoài Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Hưng, 4 sĩ quan khác là: Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 42 BÐQ; Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 44 BÐQ, Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/33BB; Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33BB).

Năm 1968, ở cấp bậc Trung tá, Sĩ quan Lê Văn Hưng là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 BB. Ông đã chỉ huy Trung đoàn 31 BB lập nhiều chiến tích tại chiến trường Hậu Giang. Cũng trong thời gian chỉ huy trung đoàn 31BB, ông đã được thăng cấp đại tá. Giữa tháng 6/1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB khi còn mang cấp đại tá, hơn 9 tháng sau, ông được thăng cấp chuẩn tướng, tiếp tục giữ chức Tư lệnh Sư đoàn này đến ngày 3 tháng 9/1972, sau đó được cử giữ chức tư lệnh phó Quân khu 3. Một năm sau, Tướng Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, cuối tháng 10/1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 4.

Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc Bình long. Tướng Hưng đã tự sát vào tối ngày ngày 30.04.75 tại văn phòng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng thời là nơi gia đình Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau đó, ông đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối.

Image
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ


Image

Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (1933-1975) Sau khi nhận được lệnh phải đầu hàng, Tướng Vỹ đã tự sát bằng súng lục vào lúc 11 Giờ, ngày 30.04.75 tại tổng hành dinh ở Lai Khê. Một trong những hồi ức rất đẹp và rất hào hùng mà Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ còn để lại trong chiến sử Việt Nam, là lúc ông cầm khẩu súng chống chiến xa M72 nhoài người lên khỏi hầm chỉ huy của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc bắn cháy một chiếc T54 chạy lần quầng sát một bên, trong lúc Chuẩn Tướng Hưng đã thủ sẵn một trái lựu đạn trong tay để cùng chết với quân địch.
Đại Tá Vỹ đích thực là một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Đông khi ông về phục vụ dưới cờ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968. Đại Tá Vỹ nổi danh là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ huỵ Sau chiến thắng An Lộc, Đại Tá Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cho đến gần cuối năm 1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái ghế và văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi ông, cùng với chiếc lon mới Chuẩn Tướng.

Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt nể trọng của chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh, là một vị chỉ huy siêng năng và đáng kính. Người nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, bản tính của người bộc trực và dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấụ Một số sĩ quan trong sư đoàn làm chuyện càn quấy, ăn chận trên xương máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị thẳng cánh. Chuẩn Tướng Vỹ là một trong những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Người ta nhìn thấy ở ông một tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng kiến khi phải đương đầu với những vấn đề khó khăn. Về mặt quân sự, người có một tầm nhìn chiến lược rất bao quát và thường hay bày tỏ với các sĩ quan tham mưu:
“Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ngoài này mà sẽ tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn”.

Sự phán đoán đó về sau đã hoàn toàn đúng. Một quân đoàn Bắc Việt không giao chiến với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, mà tìm cách len lỏi xuyên qua những điểm bố trí của sư đoàn, hối hả tiến về Sài Gòn để dứt điểm Tướng Dương Văn Minh. Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong, Chuẩn Tướng Vỹ và toàn ban sĩ quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng Minh đọc nhật lệnh quan tro.ng. Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng là Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản về Miền Tây tiếp tục đánh. Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan, kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ binh đội cộng quân đến bàn giao.

Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng miễn cưỡng ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Trước khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đã mời các sĩ quan cùng ăn một bữa cơm cuối cùng với ông. Nhìn khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của vị Tư Lệnh, các sĩ quan đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng, nên họ đã khéo léo giấu hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm trắng ngần trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắc như những hạt sỏị Mọi người còn đang dùng cơm thì Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi nhanh về hướng chiếc trailer dùng làm văn phòng tạm cho Tư Lê.nh. Các sĩ quan kinh hoàng nghe hai tiếng nổ đanh gọn phát ra từ chiếc trailer. Mọi người hối hả chạy ùa tới mở cửa thì thấy Chuẩn Tướng Vỹ nằm trên vũng máu và người đã thực sự ra đi, trên tay còn cầm khẩu Beretta 6.35 mà mọi người không nhớ là nó còn nằm trong chiếc trailer. Chuẩn Tướng Vỹ đã bắn vào phía dưới cằm, đạn đi trổ lên đầụ Khi các sĩ quan và binh đội cộng sản vào tiếp quản doanh trạị sĩ quan sư đoàn cao cấp của địch đã nghiêng mình kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói: “Đây mới xứng đáng là con nhà Tướng.”

Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị chủ tướng ra an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lê.nh. Ít lâu sau, thi thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Sài Gòn. Năm 1987, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ lặn lội vào Nam hỏa thiêu hài cốt của người anh hùng và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.

Image

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam


Image

Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975) Vào lúc 11 Giờ 30, ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Nam sau khi từ giã các binh sỉ đã tự kết liễu đời mình. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu duệ của dòng họ Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này sang đời nối tiếp đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam, mà điểm dừng là mũi Cà Maụ ược hun đúc từ truyền thống ấy, Thiếu Tướng Nam thuở còn ở tuổi học sinh siêng năng chăm học, rất hiếu thảo với cha mẹ, ông thường nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Người cũng rất say mê hội họa, âm nhạc và giỏi về nhạc lý. Sau này khi đã trở thành vị tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và rồi lên Tư Lệnh Quân Đoàn IV Quân Khu IV người nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân, rất được quân và dân Miền Tây kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu (tỉnh) hay các đơn vị chiến trường nào, ông cũng đều không muốn làm phiền thuộc cấp vì chuyện ăn uống. Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một bữa trưạ Nếu ở Bộ Tư Lệnh thì người luôn luôn xuống Câu Lạc Bộ cùng dùng cơm với các sĩ quan, có gì ăn nấỵ Là một Phật tử thuần thành, Thiếu Tướng Nam ăn chay 15 ngày mỗi tháng, cố gắng tôn trọng những giới cấm, tránh sát giới nhưng vẫn chu toàn bổn phận của một người lính chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Bà con thân hữu đến thăm ông thì được, nhưng để xin ân huệ hay nhờ vả đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống của người quá giản dị, không vợ con, không nhu cầu vật chất xa hoa, không gì hết, đơn giản đến mức trở thành huyền thoạị

Tướng Dương Văn Minh, người được Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa bỏ phiếu đa số chấp thuận lên nắm quyến Tổng Thống vỏn vẹn mới có ba ngày đã vội vã ra lệnh toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng thôi chiến đấu từ 10 giờ sáng ngày 30.04.1975.

Dưới Quân Khu IV (Miền Tây) các tướng lãnh của quân ta nào đâu chịu đầu hàng một cách nhục nhã như vậỵ Đại cuộc không thành, thành mất thì tướng phải tuẫn tiết theo thành. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của người lần cuối cùng. Mối thương cảm vận nước đến hồi đen tối, chiến hữu gãy súng và thương phế binh chắc chắn sẽ bị quân địch tàn nhẫn đuổi ra nằm lê la trên hè phố bụi đất với những vết thương còn lở lói và rướm máu, đã làm cho đôi mắt của người sưng húp lên. Đến tối Thiếu Tướng Nam quay trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế và nhận được tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó quân Khu IV đã nổ súng tuẫn tiết trong văn phòng tại trại Lê Lợị Đến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sau bàn Tư Lê.nh. Rồi người đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía tráị Ngày hôm sau, các sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh đã đứng nghiêm chào người anh hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thợ Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đã xuống Cần Thơ bốc mộ, hỏa thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm trên đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, Sài Gòn.

Image
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai


Image

Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh (1925-1975) Vào đêm ngày ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Hai đã tự sát tại trung tâm Ðồng Tâm. Bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai tuổi già tấm lưng còng còm cõi với thời gian, đã mưu trí gạt được quân cộng đang tràn ngập trong căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh đem được thi thể vị Tư Lệnh về Gò Vấp mai táng. Bà rưng rưng nước mắt nghẹn ngào nhận gói di vật của con bà từ tay một vị Trung U¨y thuộc cấp, trong đó có một vài vật dụng cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm nhường của Chuẩn Tướng là 70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra đi người còn cố gửi về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó. Lúc còn số efthu̐ 9;n Tướng Hai nổi tiếng là vị Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh đạm không có của cải vật chất gì đáng kể, ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp cho, thì khi người ra đi, người chỉ để lại cho hậu thế thanh danh thần tướng cùng tấm lòng sắt son đối với dân tộc và tổ quốc.

Tài năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những chức vụ quan trọng trong hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II; Quân Khu II, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và sau cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đảm nhiệm những chức vụ cao tột như vậy mà người vẫn sống một cuộc sống bình dị, nghiền ngẫm kinh Phật, trên tay lúc nào cũng thấy những loại sách học hỏi khác nhaụ Chuẩn Tướng Hai cũng nổi tiếng là vị Tướng thương yêu và chăm lo cho đời sống chiến binh các cấp dưới quyền hết mực, thậm chí coi thường cả mạng sống. Như câu chuyện đã trở thành huyền thoại về Đại Tá Hai, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, đầu năm 1968 đã cùng vài sĩ quan đáp phi cơ C123 ra tận chiến trường Khe Sanh và nhảy xuống, lặn lội ra tận từng chiến hào tiền tuyến thăm hỏi khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân, dưới những cơn mưa pháo rền trời của địch.

Năm 1974 định mệnh đã đưa Chuẩn Tướng Hai về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh để tên tuổi của người lưu tại nghìn thu trong sử sách, bằng cái chết hào hùng mà đã làm địch quân kinh hoàng.

Trước ngày 30.04.1975 chừng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản, mặc dù Chuẩn Tướng Hai không phải là người thân cận hay thuộc phe phái của ông Thiệu, điều đó cho thấy uy tín của người rất lớn. Chuẩn Tướng Hai thẳng thắn từ chối và cương quyết ở lại sống chết với chiến hữu của ông. Chuẩn Tướng Hai trong ngày cuối cùng vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi trong văn phòng Tư Lệnh chờ quân địch đến. Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và chiến binh thuộc cấp trở về với gia đình, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại bảo vệ vị chủ tướng của ho.. Vì họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ Đồng Tâm, hoặc nếu có bàn giao thì cái phương thức ông làm sẽ không phải là phương thức kiểu đầu hàng. Một con người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước hơn hai mươi năm, không lý do gì người giao lại cho địch một cách dễ dàng. Khoảng xế trưa, một đơn vị cộng quân thận trọng tiến vào Đồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin được tiếp quản căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên trên có hai cái đế nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm nghị đòi hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều kiện đó, ông không muốn bàn chuyện nào khác. Tình hình rất căng thẳng, hai bên giương súng ghìm nhaụ Mãi lâu sau mới có một người gõ của xin vào rụt rè tự nhận là sư đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ mấy phát vào viên sĩ quan đi.ch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể giết chết đối phương dễ dàng, nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Để cho địch biết, rằng muốn chiếm được nước Nam thì họ phải trả một cái giá nào đó. Chiều tối cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đã uống thuốc độc tự sát trong văn phòng Tư Lệnh.

Image
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú



Image



Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975) Thiếu Tướng Phú là người trách nhiệm trong cuộc hành quân triệt thoái quân dân khòi ba tỉnh Cao Nguyên, đã bị thất bại nặng nề và đau đớn nhất trong quân sử cận đại.
Tướng Phú tự tử tại nhà vào ngày 30.04.75. Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, người ta đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đã uống thuốc độc chết cùng với vận nước. Từ cái ngày người bị trọng thương và sa vào tay giặc ở Điện Biên Phủ tháng 05.1954, rồi được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa sau ngày ký Hiệp Định Geneva 20.07.1954, Thiếu Tướng Phú đã thề với lòng là người thà chết chứ không chịu nhục nhã lọt vào tay giặc một lần nữạ Lời thề ấy người đã giữ trọn, người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. Còn nhớ tại trận Điện Biên Phủ, toàn tiểu đoàn của Đại Úy Phú chỉ còn có 100 tay súng mà phải ngăn chống một số lượng quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với địch và giành lại được hơn 100 thước chiến hàọ Đại Úy Phú và một số các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngã và một vài giờ sau đó bị sa vào tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của Đại Úy Phú tái phát và ông mang bệnh laọ định mệnh vẫn còn muốn cho người anh hùng được sống, để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau tháng 07.1954 Đại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Hòạ Vị Tướng mảnh khảnh người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đã nhanh chóng trở thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu IỊ Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia, mà đã vượt ra khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông. Người ta cho rằng việc thất thủ Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật và quân lệnh để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt ông vào tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe ngay trong ngày 14.03.1975, hai ngày trước khi Quân Đoàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú đau lòng theo dõi các mũi tiến quân của địch, như những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết hai phần ba lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòạ Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của mình cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đã tràn ngập khắp phố phường Sài Gòn trong ngày 30.04.1975, người chọn cái chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rõ ý chí bất khuất của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Image
Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975)



Image

Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã anh dũng chiến đấu tới cùng và không chịu đầu hàng giặc. Ðại Tá Cẩn đã bị quân Cộng Sản đem ra xử trước công cộng và sau đó bị xử bắn tại chỗ. Vài nét về một anh hùng: Đại-tá Hồ Ngọc-Cẩn.

Đại-tá Hồ Ngọc-Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc-gia Việt-Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học (1945) thì chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học không lấy gì làm giỏi cho lắm, thường thì chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu-sinh-quân.

Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ VN có 7 trường TSQ, phân phối như sau:

_ Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-định.
_ Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế.
_ Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-nội.
_ Trường TSQ Móng- cáy dành cho sắc dân Nùng.
_ Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-mê-thuột.
_ Trường TSQ Đà-lạt của quân đội Pháp.
_ Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-tầu.

Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nhì trường TSQ đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia-định về Mỹ-tho.

Khi hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-nội vào, sát nhập với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-tho. Niên học 1954-1955, trường TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt-văn là ông Nguyễn Hưũ-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ, là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt-văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của Cẩ
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests