Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

CHÔN MỘT CHẾ ĐỘ
“Tôi vào lính năm 18 tuổi. 12 năm 4 tháng làm lính. Chuyện cải tạo Vườn Đào và người tù về sớm nhất có thật 100% là tôi".
Phi Hùng.
"Tượng nào cao bằng tựơng Trần Hưng Đạo
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân".

Tôi sáu năm làm lính, thêm sáu năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là chuyện đương nhiên.

Xứ VNCH ta, Bộ Binh, Không Quân chỉ có 4 vùng chiến thuật nhưng Hải Quân có vùng 5 Duyên Hải; Phú Quốc, Côn Sơn. Như nhiều chàng lính biển khác, tôi có thừa tài xạo. Xạo như thật. Xạo với gái bán bars, xạo cả với thượng cấp, nhưng không dám xạo với gái nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ giai nhân rồi dính lưới hôn nhơn. Đời lính biển đầy những chuyến hải hành dài cả tháng mà có vợ thì xác suất nuôi con của thiên hạ rất cao.
Thôi thì cứ xạo với mấy em bán bar, mấy cô chịu chơi cho đời vui cái đã rồi tính.
Cùng dòng họ Trần Thiện như tôi, có một ông Đại Tướng, 2 ông Đại Tá, mấy chục ông tá, ông uý.
Ông bà nội tôi là loại điền chủ sau khi đã bị chánh phủ VNCH mua lại bởi luật người cày có ruộng; vẫn còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng hương hỏa. Cha tôi là một triệu phú có đủ thứ, villas, nhà lầu 4 tầng với mấy chục phòng cho Mỹ mướn rồi sáu bẩy căn phố. Tôi thằng con trưởng nam, vậy mà không được ai nuôi cho ăn học. Ngay khi biết mình 18 tuổi, tôi tự nguyện vào lính hải quân dù chưa nhận được lược giải cá nhân.

Làm lính chưa đầy 6 năm tôi mang lon Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi; đi đâu cũng bị quân cảnh xét giấy tờ coi có mang lon giả hay không. Tôi chỉ mong hết 5 năm để giải ngũ, nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh lưu ngũ. Sau đó, tôi đi học làm quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên trung úy thì tự động.
Dù làm lính hay làm quan, tất ba gai không bỏ. Gái đến cầu tàu rủ rê đi chơi thì dù đang gác cũng đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi 5 ngày sau mới về; vì đi 6 ngày bị cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là tôi về trình diện và vui vẻ nói lý do là "Tại gái xuống tận cầu tàu rũ đi chơi" và vui vẻ đi tù.

Từ đầu tháng Tư 1975, ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra đi, tôi đã chọn đã chọn ở lại. Là sĩ quan hải quân, tôi mà muốn ra đi thì tàu nào cũng lên đi được hết. Tàu nào cũng có bạn cùng khóa lính hay khóa quan hay cùng đơn vị khi xưa; Hơn nữa, nơi tôi phục vụ là Trường Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, chuyên huấn luyện tác chiến và thanh tra các chiến hạm của hải quân nên gần như quen biết rất nhiều. Những thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ trước Hải Quân Công Xưởng muốn vào phía trong để xuống tàu mà không vào được tôi còn dẫn dùm vào. Tôi xa mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của tôi mà thôi. Tôi tự tin là dù hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay trở để sống còn.

Chiều 30 tháng Tư, lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng của building 4 tầng trên đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc Việt từ bệnh viện ung thư và tòa hành chánh tỉnh Gia Định quẹo qua đường Chi Lăng ngang bót Hàng Keo qua trước nhà ba của tôi để tiến về Dinh Độc Lập. Tôi rơi nước mắt. "Thế là hết; Tôi thua trận; Tôi bị mất Nước!"

Tôi rời bỏ Biên Hòa về quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông Ngoại và 15 ngày sau mới trình diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi trình diện, tôi được đưa đến tập trung ở Đình xã Tân Lý Tây. Ngôi đình nầy được cho là linh thiêng vì không bị dấu vết của bom đạn. Ở đây chúng tôi phải khai lý lịch chừng chục lần trong 2 tháng. Ngay lần khai đầu tiên, tôi hiểu ngay đây là lúc phải xài tài ba xạo. Mấy ông họ hàng Trần Thiện theo phe quốc gia không dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú bác anh em nhà tôi đều theo kháng chiến, có cả lô tử sĩ. Nhiều lúc đang ngủ bị dựng dậy bắt khai lý lịch vì lệnh trên bắt khai lại. Lý lịch của tôi là lý lịch xạo thì làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau nên phải chép thật nhỏ giấu vào trong bâu áo. Mỗi lần khai là lần lấy ra xào lại.

Sau đợt lý lịch, một ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa lên một đoàn xe GMC và xe hàng loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn, "chuyển trại", không cho biết sẽ đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy, một bên lộ là con kinh. Một tên trên xe nói tới Mỹ Phước Tây rồi.
Mỹ Phước Tây cái tên nầy nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi, đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười, trên đường đi Mộc Hóa.
Qua Mỹ Phước Tây chừng 2 hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù cho biết đây là Trại Cải tạo Vườn Đào. Tên Vườn Đào là vì ngày xưa có người lập vườn trồng đào lộn hột nhưng rồi bỏ hoang. Trên chục dãy nhà lá dài hàng mấy chục thước. Vào trại, tôi được một số trại viên cũ cho biết họ bị bắt trước ngày 30 tháng 4 và đưa về đây, lùa đi đốn cây làm nhà cho trại. Chúng tôi được chia ra 25 người vô một tổ. Trải nylon quấn mền ngủ qua đêm vì quá tối không thể tìm cách giăng mùng.

Trại cải tạo Vườn Đào đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu. Trong trại không ai nhìn ra tôi. Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân trường Nha Trang tôi làm Đại đội trưởng của hắn nhưng nay nhìn tôi hắn ta ngó lơ. Thế cũng là tốt.
Thời mới đến trại Vườn Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi tiền cho, nên ăn no xài bảnh. Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng tới lúc kết thúc. Đổi tiền. 22 tây tháng Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn, phải chia cho bạn bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho mấy đồng còn bao nhiêu giữ lại. Vậy là hết thời vung vít.

Trong trại, ngoài màn lao động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự khai” rồi “thu hoạch.” Anh nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị báo cáo gì đó. Tự biết mình khai lý lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai dữ, sẵn sàng đập lộn. Hăm he và thừa cơ đánh vào chỗ yếu của thiên hạ là cách sống còn mà trường đời dạy tôi. Nhược điểm là thằng nào cũng muốn được thả về sớm. Tôi thì tuyên bố tao không cần ra sớm. Tiền bạc mẹ và em của tao đủ sống nhiều năm nữa; Tao không cần ra sớm vì tao biết không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao đập để cùng nhau ở trại tù muôn năm cho vui.
Đòn phép này có vẻ hữu hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày tôi bị gọi đi trình diện “làm việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi đi, tôi còn hâm he:
- Tao mà bị gì thì thằng nào báo cáo nên trốn đi chứ không thì đừng trách tao nặng tay.

Người chờ “làm việc” với tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà là một Trung Úy cán bộ người Miền Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp mặt, anh ta tự xưng là “chính trị viên” và trấn an tôi ngay:
- Tôi gọi anh lên chỉ để nói chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan trọng.
Sau đó, tôi còn được mời ngồi, rồi chính viên trung uý cán bộ này đưa thuốc lá của anh ta ra mời hút.
- Tôi vừa đọc xong mấy bài thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?
À thì ra anh ta thích đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu hoạch của tôi, mẹ tôi từng là cán bộ huyện Giồng Trơm tỉnh Bến Tre từ thời Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp và cha tôi thì thời đầu kháng chiến từng là đồng chí của tướng Trần văn Trà. (Thực sự thì Ba tôi có một thời tham gia kháng chiến, biết Trần văn Trà trước khi ông rời khỏi chiến khu về thành) Chuyện trò lan man, anh ta còn hỏi làm sao bài tôi viết đề cập tới nhiều người chính anh ta cũng chưa biết.
Sau hơn tiếng đồng hồ được mời trà mời thuốc, trước khi ra về, viên Trung Uý còn bảo tôi cứ về trại an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình có lý. Được thả về trại bình an, bạn tù vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi trả lời:
- Trung Úy Chính Trị Viên (thay vì nói là cán bộ) kêu tao lên hút thuốc nói chuyện chơi và khen bài viết của tao có thể xuất bản thành sách cải tạo!
Tù cải tạo được cán bộ gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì đúng là “đáng ngờ." Saù đó tôi thật là thoải mái dễ sống, không tên nào dám báo cáo gì hết.

Một hôm, vừa cơm trưa xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung uý chính trị viên lần trước, nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà đứng sẵn trên bậc thềm khu cơ quan đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui vẻ dẫn tôi lại văn phòng thuộc khu của trưởng trại, bảo tôi chờ phía ngoài. Anh ta vào phòng một lát rồi đi ra, bảo tôi bảo “Hôm nay anh sẽ làm việc với đồng chí bí thư, tôi sẽ gặp anh sau.“ Nói xong, viên trung uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi.. Tôi đứng lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không hiểu chuyện gì thì từ trong phòng, một giọng nữ miền nam vang ra:
- Anh vô đi.
Giọng nói có vẻ lạ. Tôi bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế ngồi bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ ấy vang lên phía sau tôi.
- Anh ngó lui coi. Tôi ở đây.
Giọng nói vang lên ngay bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn rằn. Cũng không bà ba đen. Một cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa quá ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Anh không nhớ tôi đâu nhưng tôi biết anh. Tôi biết anh đánh lộn trong trại. Tôi biết anh khai lý lịch xạo.
A, phút nguy hiểm đã tới. Thì ra cái người mà viên trung uý gọi là “đồng chí bí thư” là cô này. Phải coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường mà thoát hiểm. Ai đây? Động nào, bars nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở làng Cam Ranh hay ở bến bờ nào đây?
- Anh đang cố nhớ mà không thể nhớ ra. Tôi không ở những nơi mà anh đang nghĩ đâu.. Anh cứ nhìn tôi coi có nhớ gì không?
Cô ta vẫn đứng yên bên cửa, vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa nói:
- Anh đừng cố tìm tôi trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải loại đó. Thong thả, tôi sẽ nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần.

Biết tôi không thể nhớ ra gì hơn. Cô ta tiếp tục:
- Có lẽ chưa đầy 30 phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ của anh. Bao năm qua, tôi vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm, sau khi ổn định tình hình; tôi lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Giấy tờ hồ sơ của hải quân còn đầy đủ cả. Một người của chúng tôi nằm vùng ở phòng tổng quản trị đưa cho tôi danh sách những người trình diện; còn anh ta thì tìm giúp tôi danh sách các quân nhân hải quân trước 75. Có ba người trùng tên anh, tất cả đều là sĩ quan. Một Trung tá là người Bắc di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu úy người miền Trung. Tôi biết anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân trình diện, tôi tìm thấy tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên Hòa. Tôi lên ngay Biên Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu không biết. Anh đâu có trốn khỏi tay tôi.
À, đúng là một tay nguy hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị săn lùng tới mức này. Chắc phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này, tôi nghĩ. Cô ta nói tiếp:
- Tôi biết anh đã trình diện. Sau khi có lệnh tập trung cải tạo tôi tìm hầu hết các trại cải tạo miền Tây và đến Mỹ Tho nầy thì thấy tên anh; Lý lịch anh khai ở trại này toàn là thứ ba xạo, đúng chưa? Con trai độc nhất trong nhà như anh thì đào đâu ra mà có anh ruột là Thương Uý tập kết tử trận ở Cà Mau. Anh muốn tôi kể thêm nữa không?
- Cô... Cán bộ. Cô...

Thấy “con mồi” đứng lơ ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo tôi:
-Trong trại này anh còn dám đánh lộn rồi còn tuyên bố chẳng cần được thả sớm. Anh “chì” lắm ma, sao nay ú ớ vậy. Thôi, ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý nghe tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn không? Nhớ đi...
- Năm Căn Cà Mau?
- Còn Năm Căn nào nữa. Ngày ấy anh chỉ là một anh thuỷ thủ quèn mà làm tàng... Nhớ đi. Rán coi. Tôi nhắc thêm nghe. Thấy trên cánh tay bọn tôi có bốn dấu xâm, anh ba hoa giảng lung tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau mau về nhà lo làm ăn mà kiếm tấm chồng...
....

À á. Năm Căn. Bốn vết xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mưới mấy năm trước, hồi tôi mới vào lính. Sau 2 tháng được huyến luyện quân sự ở Nha Trang, tôi xuống chiếc tàu Há Mồm ( HQ. 500) làm thủy thủ tập sự và được tham dự "Chiến dịch Sống Tình Thương" ở quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau; Đây là nơi mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi la lên “bằng sắt thiệt tụi bây ơi"; Chúng tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ các em nghĩ tàu làm bằng gì. Bọn nhỏ nói các ảnh nói tàu làm bằng cạc tông.
Cũng trong chiến dịch này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng tôi ba nữ giao liên gửi cho hải quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh Cà Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu tôi được lệnh phải đi công tác khẩn chuyển quân ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo ba cô giao liên chỉ là bọn con nít, chẳng biết gì, cho lệnh phóng thích luôn. Tôi đang phiên gác với một ông Trung sĩ nên được lệnh xuống phòng tạm trú dẫn ba cô lên bờ thả cho đi. Đúng là cả ba đều con nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc cũng chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay các cô có 4 dấu xâm, tôi nói:
" Các cô có biết 4 dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không? Sinh Bắc Tử Nam là để cho người miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô sinh ở miền Nam không lẽ Sinh Nam Tử Bắc hay Sinh Nam Tử Nam thì chống lại với người Miền Bắc hay sao? Về xóa hết đi lo làm ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình thường. Chuyện đánh nhau là chuyện của đàn ông, con trai đừng xía vào cho khổ thân.”
Không lẽ chỉ nói chừng đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi nín thinh, cô cán bộ áo trắng nhắc tiếp:
“Anh nhớ thêm đi. Lúc anh bảo ba cô đi đi, tôi không chịu đi mà đòi anh đem giao chúng tôi cho tỉnh Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà đòi giao cho tỉnh. Tôi nói chứ không phải thả đi để các anh bắn từ phía sau lưng hay sao? Anh phá ra cười rồi hỏi ai bảo các cô vậy? Tôi nói nghe các anh lớn nói. Anh hỏi lại nếu thả để bắn sau lưng thì còn ai sống mà kể lại cho các anh lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng những hải quân mà tất cả các binh chủng khác cũng không có binh chủng nào thả người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người thì phải đưa ra tòa xét xử, nếu có tội thì phạt tù chỉ khi nào giết nhiều người, làm hại nhiều người thì mới bị kết tội tử hình công khai chứ không bao giờ bắn sau lưng cả. Anh nhớ ra chưa?

Thấy giọng cô ta bỗng như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ như vừa chợt nhớ ra và kêu:
- A...A... Cô có thể cười cho tôi coi không?
- Có lẽ anh đang nhớ ra rồi; vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai núm đồng tiền nên dễ kiếm chồng lắm.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi và cười. Hai núm đồng tiền, bên phải sâu hơn bên trái.
- Đúng rồi. Đúng cái mặt cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé còn nguýt tôi một cái thật dài. Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.
- Ở đó mà cô bé, cô bé....
Tức thì thêm một cái nguýt dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má núm đồng tiền bỗng như linh động hơn.
Sau cái cười và cái nguýt dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ người.
- Anh nhìn lại coi. Hơn 12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.
Đến lượt tôi cũng nhìn thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi nói:
- Sau khi đưa các cô tới gần cái chợ nhỏ bên sông, thấy chỗ an toàn, tôi mới bảo các cô đi đi. Khi các cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một đoạn canh chừng. Không thấy cô ngó lui.
- Tôi không ngó lui nhưng biết anh đi theo... Chắc anh không thể ngờ là khi về nhà rồi, ngay ngày hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng tàu của anh đã đi rồi.

- Tôi có nghe viên trung uý vừa rồi gọi cô là đồng chí bí thư. Chắc cô đã là đảng viên lâu năm.
- Vậy là anh đã nghe. Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay khi trở về, tôi được kết nạp đảng. Sau đó được chuyển về làm công tác nội thành, theo dõi thầy cô và hiệu đoàn học sinh trường trung học Cà Mau nên tôi học thi lại Tú tài 1 và năm 65, tôi đậu luôn Tú Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi chuyển về công tác nằm vùng tại đại học Long Xuyên cho tới ngày giải phóng. Anh không biết là bao năm qua, tôi vẫn tin là sẽ có ngày tôi gặp lại anh...
Tôi nói:
- Thì chúng ta đang gặp nhau ở đây... Hôm nay tôi đã là người tù. Cô là người thắng trận. Ngày ấy, thấy trên cánh tay các cô có mấy vết xâm, tôi lỡ nói mấy câu gì đó. Mong cô không để tâm..
- Anh khỏi cần phải mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ quên. Hôm nay tôi cố ý mang áo sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không còn vết xâm nữa. Tôi đã xoá bỏ chúng từ lâu. Anh thấy chưa, không còn dấu vết hay để thẹo gì cả.
Cô ta vừa nói vừa đưa cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói luôn:
- Anh không cần phải sợ tôi. Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở Năm Căn tìm anh, tôi chỉ muốn anh biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy. Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tung tích anh, tôi chỉ mong một lần gặp lại coi anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế nào. Khi coi hồ sơ, tôi đến địa chỉ ghi trong lý lịch thì ra là nhà của ông ngoại anh chứ không phải nhà của mẹ anh. Tôi hỏi địa chỉ và đến thăm mẹ anh ở xóm Tân Vạn. Chính bà than phiền với tôi là cho đến nay anh vẫn còn độc thân. Nhìn hình trong nhà, tôi nhận ra anh ngay. Bao năm qua, tôi không thể quên ánh mắt tinh nghịch nụ cười nửa miệng của anh. Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn là gái giang hồ, bán bar. Anh sợ lập gia đình nên không dám quen gái nhà lành. Mẹ anh nói có lần bà bảo anh cưới cô giáo nhà bên cạnh nhưng anh nói không muốn có vợ vì sợ phải nuôi con thiên hạ. Anh biết vì sao mẹ anh kể tôi nghe mọi chuyện về anh không?
- Vì cô hỏi thì bà kể. Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.
- Không phải vì tôi hỏi mà mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà muốn tôi phải biết tất cả về anh. Tại sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ anh rằng tôi là người anh thương của anh. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng chưa kịp làm. Tôi không chỉ nói mà còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai đêm. Bà nói với tôi không sót điều gì, từ ba anh tới bà con chú bác dòng họ. Mẹ anh còn nói bà thiệt mừng khi thấy tôi tự đến ra mắt bà. Hôm nay gặp lại anh, chúng ta không có nhiều thì giờ để vòng vo nên tôi phải nói luôn với anh chuyện này. Tôi thật lòng muốn làm bạn với anh.
Một cô cán bộ 12 tuổi đảng muốn làm bạn với tôi. Chuyện thật khó tin.. Tôi nói:
- Cám ơn cô nhưng tôi chỉ là một tên tù không biết ngày nào về, làm sao có thể là bạn của cô được.
- Ngày xưa anh từng mang tôi ra khỏi nhà tù, lần này, đến phiên tôi sẽ cứu anh ra khỏi nơi này.

Chuyện tưởng như đùa nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp. Tôi từng nghe chuyện lý lịch với phía cộng sản là sinh tử. Có nhiều cán bộ cao cấp tập kết ra Bắc nay thấy con cháu đi tù cải tạo mà ngó lơ, không ai dám dỡn mặt với kỷ luật đảng. Tại sao cô cán bộ này dám nói ra miệng là sẽ ra tay cứu mình. Cô ta là thứ bí thư gì vậy. Âm mưu gì đây mà cô ta phải tìm đến ở với mẹ tôi mấy ngày đêm để nắm hết lý lịch bí ẩn của tôi. Mẹ tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang bất cứ người cô nào về nhà ra mắt mẹ. Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà lành dễ thương tới xưng là người tình của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà thương. Nhưng tôi đâu có khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:
- Cô đã biết hết lý lịch thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc tôi sẽ khó sống. Cô tuy có 12 tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽ có ngày liên lụy. Xin cô tha cho tôi.
Cô ta cười to và nói:
- Anh khỏi lo dùm tôi. Tôi đã hứa là sẽ làm. Anh cứ sống bình thường như mọi người trong trại là được rồi.
Cô ta đưa cho tôi một túi quà và nói:
- Đây là quà của riêng tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi nói bà cứ giữ đó. Tháng tới tôi sẽ đưa bà lên thăm anh. Thôi, anh về đi. Trưởng Trại có lẽ sắp trở lại.
Tôi nhận gói quà, chào cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại giam, tôi chỉ trả lời qua loa trước những lời dò hỏi của bạn tù.

Đúng như lời hẹn, tháng sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không phải thăm riêng mà bình thường như bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc tại nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút... Mọi lời lẽ tù nói với người thăm gặp phải diễn ra trước mặt viên cán bộ phụ trách. Từ đó, cô ta tiếp tục đi cùng mẹ tôi đến thăm tôi hàng tháng. Chẳng thể nói gì, tôi đành phó mặt cho số mệnh. Thấy cô cán bộ 12 tuổi đảng đóng vai phó thường dân ngồi cười cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi nổi tánh lì, trò chuyện tự nhiên, đôi khi còn chọc cười như ngày xưa ở các bars hay động. Tôi còn gì để mất? Cô ta muốn gì ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng? Thôi thì phó mặc cho số phận.

Tháng Một năm 1976, một buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm danh vô chuồng, bỗng có cán bộ cầm danh sách đến gọi đúng tên tôi bảo thu dọn gọn lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra điểm danh.
Bất ngờ gọi tên lúc chiều tối hẳn không phải lệnh tha. Thu dọn đồ đạc mang theo kiểu này chỉ có thể là chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân trại. Số tù được gọi ra điểm danh có hai mươi mấy mạng, trong số này có tên chỉ còn anh chỉ còn một chân. Một cán bộ trẻ mang lon thiếu uý dẫn chúng tôi đi ra cổng. Không thấy xe cộ gì. Cả bọn cuộc bộ, không thấy có quản chế súng ống kèm sát như khi đi lao động. Một tên đánh bạo hỏi:
- Chúng tôi đi đâu đây cán bộ?
- Đi tới nơi làm lệnh tha.
- Tha về hả cán bộ?
- Bộ tha rồi không về ở lại ăn hại à?
Cả bọn nửa tin nửa ngờ; Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà về?

Cả bọn được dẫn ra đến nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung uý xưng là chánh trị viên tôi từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người, anh ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm nay anh sẽ thấy cách mạng luôn có tình có lý. Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi khai lại địa chỉ và người nhà cho chính xác một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí trại trưởng tới nói chuyện.

Chừng nửa giờ sau, Đại Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:
- Các anh thuộc diện gia đình cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ phút nầy tuyệt đối không được liên lạc với những người trong trại; Từ đêm nay các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền chiếu v, gạo và lương thực để các anh tự nấu nướng. Ngày mai sẽ làm thủ tục nhận lại đồ ký gởi và lệnh tha. Sau đó chờ liên lạc, gặp gỡ thân nhân bảo lãnh và làm lễ ra trại... Trong mấy bữa chờ làm lễ, các anh tuyệt đối không được liên lạc với các trại viên cũ.
Hôm sau, cả bọn được tập trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ dùng ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau, đã thấy đoàn người thân nhân trong đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm nuôi. Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả tôi, hầu hết đều do mẹ là người bảo lãnh.
Cán bộ ra đưa cho một số tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một bà mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu, “xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi chợ dùm. Bà ta hỏi có thể cho một hay hai người đi theo mang phụ thức ăn. Cán bộ nói:
- Bây giờ thì các anh có thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.
Thế là khu chợ gần Trại Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối. Heo, gà, vịt, tôm càng, cá... rau cải mua nguyên thúng, nguyên sàn, hỏi giá bao nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao Lãnh xuất hầu bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại phát có lẽ được bà mẹ nầy cất riêng để làm kỷ niệm ngày con được ra tù.
Tiệc chia tay thức ăn ê hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng, thịt heo, gà, vịt luộc. Thế rồi tiệc cũng bế mạt. Thức ăn gần như còn nguyên vì ai cũng chỉ nếm cho có vị và cán bộ cũng không dám ăn bửa tiệc giá đáng mấy chục lần số tiền cho để làm tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho mấy người trong trại thì cán bộ không cho bảo phải đem chôn hết.

Ra khỏi trại mọi người đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía hàng rào trại, thấy lố nhố người đứng trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám nhìn lâu không còn nhận được dáng của đứa nào!.
Tôi nói với Má:
- Mình đi lần, bao giờ có xe thì đón. Chứ đứng đây chờ nhìn vào các bạn trong kia nhìn ra, con thấy bất an!
Tôi và má Tôi đi lần dọc theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi theo.

*
Là người tù trại Vườn Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm không thấy làm khó dễ.
Sau khi được trao trả quyền công dân, tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề nghị tôi làm trung đội trưởng lao động ấp; mọi người vỗ tay táng thành. Thế là từ đó ai thấy tôi đến nhà là biết bị gọi đi lao động không công cho XHCN, nào đào kinh, lấp kinh, rồi nước đọng cây trái bị úng nước, ruộng lúa bị ngập nước không rút kịp lâu ngày cây cối chết, lại phải đi phá đập, vác lúa thu thuế... Tôi không dám nhìn khi thấy bà con nông dân ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi đi hơn phân nửa để đóng thuế. Nghe nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền Bắc.
Mỗi tháng Cô Bí Thư đều đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở chơi 3 hay 4 ngày. Cô ta ngủ chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến, tin cẩn. Tôi cũng không nói hay hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là ní bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cũng có lần cô ta biệt tăm luôn 3 tháng; rồi một hôm bỗng đến thăm với nhiều quà từ miền Bắc. Cô cho biết vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:
- Em sáng mắt ra chưa?
Cô ta lườm và nói:
- Anh chưa thấy quan tài nên chưa biết đổ lệ!

Đầu năm 1980, Cô ta đến thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta nói:
- Mẹ muốn em lo cho anh ra đi; nhưng em có điều kiện là anh phải nhận em làm vợ cho đến khi định cư rồi sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để nghĩ suy và trả lời em.
Mẹ tôi khuyên tôi nên nhận cô ta làm vợ vì cô ta thương tôi thật sự. Tôi thì nghĩ không hẳn. Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp như bao trường hợp nằm vùng khác, có người làm tài xế, người giúp việc trung thành tận tâm cả chục năm nhưng sau tháng tư đen thì mới lòi mặt thật. Nhưng đâu còn đường nào khác để tính.

Chưa đầy một tháng sau cô ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:
- Em chưa biết anh có đồng ý hay không mà bảo ra đi.
- Thông minh như anh thì không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất gì cả, kẻ mất nhiều nhứt là em nhưng là em tự nguyện; Mọi chuyện ra sao sau này anh sẽ biết.
Tôi hỏi cô ta có an toàn không.
- Anh có cần tàu Hải Quân biên phòng hộ tống hay không? Nếu muốn em cũng có cho anh.
Tôi nghe mà khiếp. Chẳng rõ cô ta nói đủa hay nói thật. Cỡ bí thư huyện ủy cung không thể có quyền vào Bộ Tư Lệnh Hải quân xưa để tầm kẻ thù; Không hiểu cô ta là thứ gì? Không ra hải ngoại để nằm vùng hay làm gián điệp thì còn gì nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô ta làm gì hay là ai tính sau, cứ thoát ra khỏi nước cái đã. Thế là chúng tôi từ giã mẹ ra đi.

Tàu vượt biên dài 12 mét mới toanh, máy cũng mới và số người đi là 52 người do một cựu hàng hải thương thuyền ngày xưa lái; nhưng cuối cùng 26 người bị rớt lại vì ghe nhỏ chuyển ra ghe lớn bị chận giữa đường mà trong đó có gia đình tài công. Cô bí thư hỏi:
- Anh lái được chứ ?
- Lái được nhưng không có bản đồ mà chỉ có la bàn thì phải chạy thẳng ra hải phận quốc tế rồi theo hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang Singapore hay tấp vào các đảo của Indonesia.
Tôi lái suốt 5 ngày đêm mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi thăm thì được chỉ cho một chỗ cách đó không xa. Tôi lái vào và ở đó một ngày một đêm thì được tàu của Indo đưa đến trại tỵ nạn Kuku. Một tháng sau chúng tôi được đưa sang trại Galang và dĩ nhiên trong lý lịch của Hải quân Trung úy VNCH nay có thêm cô vợ bí mật nhiều phần là gián điệp.

Trên bước đường lưu vong quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng tôi cô đơn lạc lõng như nhau. Ngày qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu cơm chung rồi chung mùng va thành vợ chồng thật.
Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông cũng mà khó sống ở VN!. Tôi từ chối viết sổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.
Cũng tại trại Galang, tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí được mướn làm người gác máy điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo nầy khá am tường về tình hình VN và có phân tích như sau:
- Các anh vượt biên nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập một đoàn quân để trở về dành lại VN. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao giờ giúp các Anh đâu vì giúp các Anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết; Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản. Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng....

Sáu tháng sau chúng tôi được đi định cư. Tôi không tham gia đoàn thể nào, không hội họp với cả hội đồng hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ bí thư đảng viên.
Cô ta cũng như tôi chẳng quen ai; đến cả dùng điện thoại cô ta cũng không sử dụng. Mẹ tôi mất năm 83. Mẹ cô ta mất năm 84. Năm 90 ba tôi và ba của cô ta cùng mất trong một năm. Chúng tôi nhận thư nhưng không về và đến nay cũng chưa về. Chúng tôi đồng ý không có con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi; nếu còn ở Việt Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không biết làm tới chức gì.

Mất nước bốn mươi năm, lưu vong hơn 35 năm, chúng tôi chưa bao giờ có ý định về thăm lại quê hương... Trong lòng tôi đã chôn một chế độ và trong lòng vợ tôi cũng chôn một chế độ. Chúng tôi không con nối dòng nên khi chúng tôi chết thì "cả hai chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi, vậy là chôn xong hai chế độ. Ngày ấy không xa.

Trần Thiện Phi Hùng
vuongquan
Posts: 275
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

Những người lính Dù bị lãng quên
VNCH-Ngọc Trương
(Danlambao) - Barry R. Mccaffrey đại tướng (4 sao) lục quân Hoa Kỳ. Khi còn là sĩ quan trẻ, đã phục vụ tại Việt Nam năm 1966-1967
với tư cách sĩ quan cố vấn trong binh chủng Nhảy dù VNCH. Năm 1968-1969 ông được chuyển qua Sư đoàn 1 không kỵ (kỵ binh không vận)
làm đại úy đại đội trưởng xung kích thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh không vận.
Khi về hưu, ông tham gia chính phủ Tổng thống Clinton, và là bình luận viên an ninh quốc gia cho NBC News.

Bài viết đăng trên báo The NewYork times ngày 8 tháng 8 năm 2017, nói lên cảm tưởng của ông về những chiến sĩ Nhảy dù của Quân Lực VNCH.
Image
Đại úy Mccaffrey tham chiến tại Việt Nam và Đại tướng Mccaffrey
*
Tôi đến Việt Nam vào tháng 7 năm 1966, qua năm sau đổi sang sư đoàn Nhảy dù VNCH với tư cách là sĩ quan cố vấn. Đó là năm cuối cùng chúng tôi nghĩ chúng tôi đã chiến thắng. Cũng là năm cuối chúng tôi có thể định nghĩa thế nào là chiến thắng. Một năm đầy lạc quan, quân đội Hoa Kỳ gia tăng sức mạnh và tham chiến nhiều hơn người Việt, đồng thời cũng bị thiệt hai nhiều hơn.

Cuối năm 1967, có 486.000 quân Mỹ trong trận chiến. Số lính Mỹ tử trận tăng gấp đôi năm 1966. Trong mọi chuyện, sự hy sinh, can trường và tận tụy của quân đội Nam Việt Nam hầu như không được nói đến ở chính trường Hoa Kỳ, cũng biến mất khỏi sự hiểu biết của báo chí và truyền thông.

Sư đoàn Nhảy dù của Nam Việt Nam là đơn vị tinh nhuệ, ưu tú, tôi tham chiến với vai trò phụ tá cho cố vấn trưởng của tiểu đoàn. Vào năm 1967 binh chủng nhảy dù với đồng phục ngụy trang và chiếc beret màu đỏ nổi bật, quân số tăng lên 13.000 người, tất cả đều tình nguyện.

Những ai trong bọn tôi được vinh hạnh chiến đấu bên họ, phải kinh ngạc vì họ can đảm và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chiến thuật. Các sĩ quan cao cấp và hạ sĩ quan đều có năng lực và được rèn luyện ở chiến trường. Người ta quên rằng những quân nhân nầy từng tham chiến từ 1951, trong khi chiến trường Việt Nam còn mới mẻ đối với người Mỹ.

Là sĩ quan cố vấn, bọn tôi vừa là sĩ quan tham mưu, vừa là sĩ quan liên lạc từ cấp tiểu đoàn lên đến cấp lữ đoàn.

Một năm trời chuẩn bị ở California, bao gồm 16 giờ mỗi ngày học về văn hoá và ngôn ngữ Việt Nam tại Học viện Ngôn ngữ Quốc phòng. Sau cùng, tuy không lưu loát, tôi nói được tiếng Việt đàm thoại.

Tại Fort Bragg, N.C., chúng tôi phải học chiến thuật chống nổi dậy và được huấn luyện các loại võ khí thời kỳ thế chiến II, quân đội Việt Nam đang dùng.


Vai trò chúng tôi trải rộng từ phối hợp pháo binh và không yểm (gọi phi cơ yểm trợ), sắp xếp các chuyến trực thăng vận và không vận tản thưởng, cung cấp tin tình báo cũng như yểm trợ tiếp vận.

Chúng tôi không ra lệnh, và cũng không cần làm thế. Bọn tôi ngưỡng mộ các sĩ quan Việt Nam ngang cấp, họ rất vui khi người Mỹ và hỏa lực mạnh mẽ của Mỹ bên cạnh.

Chúng tôi ăn chung và nói cùng một ngôn ngữ với họ.

Bọn tôi hoàn toàn tin tưởng vào người Việt. Tôi thường có một lính dù cận vệ cũng là hiệu thính viên truyền tin.

Thông thường, nhóm cố vấn cấp tiểu đoàn gồm một đại úy bộ binh Hoa Kỳ, một trung úy và một hạ sĩ quan cao cấp, thường là trung sĩ. Các trung sĩ là thành phần nòng cốt. Trong khi sĩ quan luân chuyển ra vào, nhiều anh trung sĩ ở lại với các đơn vị Việt Nam được giao phó đến khi chiến tranh kết thúc, hoặc đến khi họ tử trận, hay bị loại ra khỏi cuộc chiến.

Tôi biết Việt Nam qua kinh nghiệm đẫm máu. Các tàu xung kích Hải quân và trực thăng của Lục quân Mỹ rảy quân chúng tôi vào châu thổ đầm lầy phía Nam Sài Gòn. Cuộc chiến không vinh quang, chiến đấu và chết chìm trong trong dòng nước mặn dơ bẩn. Không phải là cuộc phiêu lưu tôi nghĩ đến khi còn trong trường Biệt động quân. Đại úy (xếp của tôi), sĩ quan cố vấn thâm niên, một quân nhân nhà nghề và đầy khả năng đã tử trận. Khi trở về căn cứ, tôi giúp mang thi hài ông ra khỏi trực thăng. Chỉ mới bắt đầu.



Bốn tháng bên cạnh lính dù, tôi tham gia trận đánh lớn đẫm máu, yểm trợ các đơn vị TQLC Hoa Kỳ bắc Đông Hà, gần duyên hải phía bắc của Nam Việt Nam. Hai tiểu đoàn trong số bốn tiểu đoàn của tôi được trực thăng vận vào vùng Phi quân sự, mục tiêu để kiểm soát lực lượng đáng kể của Bắc Việt đang xâm nhập miền Nam.

Ba ngày chiến đấu dữ dội và đẫm máu, cố vấn cao cấp của tôi tử trận. Thượng sĩ Rudy Ortiz bị đạn bắn lỗ chỗ từ đầu tới chân, anh là hạ sĩ quan có can đảm phi thường. Anh kêu tôi nạp đạn vào cây M16, rồi để trên ngực hầu anh cùng mọi người "chiến đấu cho đến chết" (anh may mắn sống sót sau đó).

Tổn thất lên số hàng trăm và chúng tôi hầu như bị cộng quân tràn ngập. Nhưng lính dù Việt Nam vẫn bền chí chiến đấu.

Vào thời điểm nghiêm trọng, chúng tôi đã phản công với yểm trợ của không quân và hải pháo (pháo binh từ tàu bắn vào). Vị tiểu đoàn phó người Việt đứng thẳng lưng, băng qua lằn đạn súng máy đang bắn dữ dội, tới hố cá nhân của tôi nói:

‘Trung úy, giờ chết đã điểm rồi’.

Tôi thấy ớn lạnh khi nhớ những lời nói đó.

Trong chiến đấu, lính Việt Nam không chấp nhận bỏ lại đồng đội ngoài chiến trường dù chết hay bị thương, cũng không bỏ mất vỏ khí.

Trong một trận khác, Tommy Kerns bạn học cùng lớp ở West Point (trường võ bị của Hoa Kỳ tương tự như Võ bị Đà lạt của VNCH), anh là cầu thủ khổng lồ của đội football (bóng bầu dục) Lục quân, bị thương nặng và kẹt trong chiến hào, trong khi tiểu đoàn dù của anh đang cố gắng phá vòng vây đông đảo của quân Bắc Việt.

Những người lính dù chung quanh Tommy đều nhỏ con, không kéo nổi anh ra khỏi chiến hào chật hẹp. Thay vì rút lui và bỏ Tommy lại, họ bám chặt vị trí, giao chiến quyết liệt và đánh bại quân Bắc Việt. Tommy sống sót nhờ những người lính can trường.

Sư đoàn Dù và các cố vấn Mỹ đóng căn cứ trong Sài Gòn hoặc hoặc vùng ngoại biên. Chúng tôi thích năng lực và niềm vui của thành phố, yêu thích văn hóa, ngôn ngữ và người dân Việt.

Bọn tôi rất hãnh diện về vai trò bên cạnh các Mũ đỏ.

Chắc chắn cả thế giới đang khao khát được công tác như bọn tôi - chúng tôi cùng chiến đấu với đội quân ưu tú của nước Việt. Xem ra tụi tôi có rất nhiều tiền nhờ tiền lương lính dù và tác chiến. Được sống trong khu nhà có máy điều hòa không khí. Đám sĩ quan trẻ rất ngông cuồng và hiếu thắng.

Các đại tá và trung tá điều khiển sĩ quan cố vấn, lớn tuổi hơn, trầm tĩnh hơn và chai sạn trên chiến trường, họ là lính dù đã trải qua những trận đánh ác liệt hơn hồi đại chiến thứ II và chiến tranh ở Đại hàn.

Cuộc sống của sĩ quan cố vấn Sư đoàn Dù khó đoán trước. Sư đoàn Dù là đơn vị trừ bị chiến lược, sẽ được tung vào chiến trường khi các chỉ huy trưởng thấy cần. Giữa đêm khuya cả tiểu đoàn hoặc có khi nguyên lữ đoàn Dù được báo động hành quân khẩn cấp.

Chúng tôi ngồi chật nứt trong lòng phi cơ vận tải của Hoa Kỳ, hay của Không quân Việt Nam với đông cơ nổ ầm ỹ, đậu nối đuôi hàng dài trên phi đạo Tân sơn Nhất, gần Sài Gòn. Cấp số đạn được giao cho từng người, đôi khi cấp cả dù đeo lưng. Kế hoạch tác chiến được vội vàng thông báo.

Và sau đó là trận chiến dữ dội, các tiểu đoàn được chuyển tới bất cứ nơi nào cần. Nhảy Dù đi bất cứ đâu trên lãnh thổ quốc gia, và nhảy xuống giữa lòng hỏa lực địch. Sau những lần hành quân như vậy, trong đơn vị tôi, nhiều cố vấn Mỹ và hàng trăm lính Dù ra đi không trở lại.

Tôi thấy khuôn mặt trẻ của: Đại úy Gary Brux. Đại Úy Bill Deuel, Trung úy Chuck Hemmingway, Trung úy Carl Arvin, hiệu thính viên truyền tin rất trẻ Binh nhì Michael Randall. Tất cả đều chết. Can đảm. Kiêu hùng.

Việt Nam không phải là chiến trận đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp West Point, tôi gia nhập Sư đoàn 82 Dù, can thiệp vào Cộng hòa Dominican năm 1965.

Chúng tôi chuyển quân lên đảo quốc và dẹp tan cuộc nổi dậy kiểu Cộng sản bắt chước theo Cuba, sau đó ở lại trong vai trò lực lượng gìn giữ hòa bình của tổ chức Các quốc gia Mỹ châu (Organization of American States)

Cứ tưởng như vậy là chiến đấu, lúc trở lại Fort Bragg, bọn tôi hăng hái xin đi Việt Nam. Một số thiếu úy cùng tiểu đoàn bộ binh với tôi, chạy xe đến tận Bộ tư lịnh Lục quân ở Washington, tình nguyện chiến đấu tại Việt Nam. Họ e bỏ lỡ cuộc chiến.

Giờ đây mọi người đều biết câu chuyện kết thúc như thế nào.

Hai triệu người Việt đã chết.

Hoa Kỳ tổn thất 58,000 và 303,000 người bị thương. Nước Mỹ rơi vào cuộc nội chiến chính trị rối loạn, cay đắng. Khi ấy, chúng tôi không hay biết gì về chuyện này. Tôi rất hãnh diện đã được chọn để phục vụ đơn vị Nhảy Dù Việt Nam.

Người vợ mới, xinh đẹp, người tôi yêu mến, biết tôi phải ra đi. Cha tôi, một tướng lãnh Lục quân sẽ lấy làm danh dự nếu tôi tử trận.

Mọi chuyện đã hơn 50 năm trước đây. Những người lính Dù Việt Nam sống sót sau sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã trốn thoát qua Campuchia, hoặc trải qua một thập niên trong các “trại cải tạo” rất tàn bạo.

Sau rốt hầu hết cũng tới được Hoa Kỳ.

Hiệp hội các cố vấn và chiến hữu Việt Nam được thành lập. Bia tưởng niệm về những nỗ lực của chúng tôi đặt tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Hàng năm, bọn tôi quy tụ về đây tưởng nhớ lại lúc đã từng chiến đấu bên nhau. Chúng tôi đội những chiếc mũ beret đỏ. Cười vang chuyện xưa, nhưng cũng buồn sâu sắc vì quá nhiều mất mát, cuối cùng không còn lại gì.
Image
Bia đánh dấu tại nghĩa trang Arlington dành cho chiến sĩ Nhảy Dù VNCH và các cố vấn đã hy sinh.
Dòng chữ trên bia tưởng niệm:

Dedicated to the memory of the paratroopers (Mũ Đỏ) of the Vietnamese Airborne Division (Sư đoàn Nhảy Dù) and their advisors (Cố vấn), The Red hats and Red markers of Advisory Team 162, Military Assistance Command Vietnam (MAC-V) who fought for freedom and democracy in Vietnam 1960-1975

"Airborne all the way"

"Nhảy Dù cố gắng"

Nhiều người hay hỏi tôi học bài học gì ở Việt Nam.

Ai đã từng chiến đấu bên cạnh Sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam không bao giờ hỏi như vậy.

Mọi điều chúng tôi nhớ và biết là sự can đảm bền bỉ và quyết tâm của những chiến sĩ có cấp bậc khiêm nhường nhất của Nhảy Dù Việt Nam, luôn xông lên phía trước ở chiến trường.

Không có đền kỷ niệm nào dành riêng cho họ ngoại trừ trong tâm tưởng của chúng tôi.

**

Phụ lục:

Vài hình ảnh có liên quan đến binh chủng Nhảy Dù VNCH.
Image
Tượng Thương tiếc do nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu thực hiện bằng đồng đặt tại cổng Nghĩa trang Quân đội. Người lính ngồi làm mẫu là chiến sĩ Nhảy Dù VNCH.
2018.01.18
VNCH-Ngọc Trương dịch
hoangphong
Posts: 365
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Lý Tống: cựu phi công 'kiêu hùng' cuối cùng của VNCH
Phụng Linh
Gửi đến BBC từ Nam California

Image
Lý Tống lật xem cuốn sách nói về những cuộc đấu tranh cho tự do của ông
9 giờ 16 phút tối 5/4, giờ Cali,
cựu sĩ quan phi công có biệt hiệu Ó Đen của không lực Việt Nam Cộng Hòa đã chính thức ra đi.
Tám giờ đêm 21/3 khi tôi đặt bút bắt đầu viết những giòng này thì Lý Tống đang chìm sâu vào giấc ngủ dài, vương vấn trần gian tại bệnh viện Sharp Memorial Hospital, San Diego, Nam California, Hoa Kỳ.

Kể từ cuối tháng Ba, báo chí Việt Nam ở hải ngoại cũng như các trang mạng xã hội, Facebook đã tràn ngập tin tức nói về tiểu sử, thân phận của ông.

Tuổi trẻ đào hoa và hào hùng

Lý Tống tên thật là Lê Văn Tống, sinh ngày 1/9 năm 1948 tại làng An Cựu, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế, gia nhập Không lực Việt Nam Cộng Hoà năm 1965 khi vừa tròn 17 tuổi, và tốt nghiệp khoá 65 A. Cấp bậc cuối cùng của ông trước khi rời quân ngũ là đại uý.

Tuy thế có bức thư của người anh ruột nói ông sinh năm 1946.

Hội trưởng Hội Không quân Việt Nam Cộng Hoà tại San Diego, ông Cù Thái Hòa, cho biết Lý Tống được đưa vào bệnh viện hôm 7/3 vì thở yếu.

Bác sĩ trực bệnh viện nói Lý Tống rơi vào trạng thái hôn mê hôm thứ Ba 19/3 và đang phải thở bằng máy.

Phải đọc bài tâm sự rất dài của ông Lê Xuân Nhuận, anh trai của Lý Tống, mọi người mới có thể hiểu phần nào về tuổi trẻ của ông, một sĩ quan không quân quả cảm, hào hùng.

Khi còn trong độ tuổi thanh niên, Lý Tống đã nhận thức về nghĩa vụ của chàng trai thời chiến, chỉ muốn tung hoành ngang dọc và kiên tâm theo đuổi lý tưởng chống cộng sản, không sợ hãi, không nản lòng trước mọi hoàn cảnh.

Gác bút nghiêng khi vừa tròn 18 tuổi, ông đi một vòng từ miền Trung ra đến tận vùng cao nguyên thăm anh ruột là ông Lê Xuân Nhuận, dự một bữa tiệc tại Ty Cảnh sát Quốc gia tỉnh Quảng Đức và có dịp gặp gỡ nhiều yếu nhân tại đây để chuyện trò, trước khi vào Sài Gòn xin gia nhập binh chủng Không quân, chính thức bước vào con đường binh nghiệp.

Ông Nhuận kể, trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến 1973, Lý Tống thường ghé văn phòng Đặc Cảnh vùng II thăm người anh, mỗi lần đến là dắt theo một cô bạn gái mới.

Không chỉ nổi tiếng đào hoa, Lý Tống thường phóng xe hơi như bay, ít chịu dừng lại trạm kiểm soát quân cảnh, nên người anh của ông thường bị than phiền.

Trả lời thắc mắc của các cháu nhỏ gọi bằng chú rằng vì sao ông lái xe như bay, Lý Tống thản nhiên đáp rằng ông "đang bay."

Cũng theo lời kể của ông Lê Xuân Nhuận, Lý Tống chưa bao giờ quỳ gối khi bị bắt buộc trong thời gian bị giam cầm ở trại A-30. Trái lại, ông luôn dõng dạc thách thức "bắn đi" và không hề tỏ ra sợ hãi.
Image
Lý Tống tham dự cuộc diễn hành của cộng đồng người Cuba tại Little Havana, Miami
Bốn lần kết án, 32 năm tù giam

Tên tuổi của Lý Tống đi vào lịch sử của những tấm gương được người Việt hải ngoại một thời ghi nhận là một người 'chống Cộng kiêu hùng', luôn tìm cách tấn công vào hệ thống cộng sản ở bất cứ đâu, không chỉ ở Việt Nam.

Tạp chí Reader's Digest có bài viết về cuộc vượt ngục của Lý Tống với tựa đề "Ly Tong's The long trek to freedom." New York Times có bài "An old soldier still fights Vietnam War". Orange County Register có bài "Ly Tong is a hero, symbol, renegade", và còn nhiều bài khác nữa.
Image
Cũng không thiếu người cho Lý Tống là kẻ ngông cuồng, nhưng điều ai cũng đồng ý là không mấy ai quyết lòng theo đuổi lý tưởng chống Cộng đến cùng như ông.

Tháng 4 năm 1975, khi bộ đội Bắc Việt tiến vào miền Nam, Lý Tống không di tản, mà lái chiếc A-37 của biên đội Ó Đen dội bom khu vực đóng quân của bộ đội Bắc Việt. Phi cơ bị bắn rơi, Lý Tống bị ngồi tù 5 năm, giai đoạn đầu tiên ông bị giam cầm.

Tại đây, Lý Tống vượt ngục sang Campuchia, đến Thái Lan, và cuối cùng xin tị nạn chính trị tại Singapore. Ông sang Hoa Kỳ định cư từ năm 1984, theo học bậc cao học tại trường đại học New Orleans, Florida.

Không yên phận của một người lính "rã hàng," Lý Tống tiếp tục lao vào cuộc chiến đấu. Hình như ở ông lúc nào sục sôi nỗi căm thù chế độ cộng sản, chỉ muốn lật đổ họ bằng mọi cách.

Ba lần 'cướp máy bay'

Năm 1992, trong một chuyến bay của hãng hàng không Vietnam Airlines, Lý Tống uy hiếp phi công lái chiếc phi cơ A 310 bay vòng vòng không phận Sài Gòn để ông thả truyền đơn kêu gọi người dân Việt Nam nổi dậy lật đổ nhà cầm quyền cộng sản. Sau đó, ông nhảy dù rơi xuống một ao rau muống. Lý Tống bị đưa ra toà kết án 20 năm tù về tội không tặc.

Tháng 9 năm 1998, nhà cầm quyền Việt Nam phóng thích và trục xuất Lý Tống trở về Hoa Kỳ nhân một đợt đặc xá tù nhân.

Vẫn không chịu ngơi nghỉ, cũng trong năm đó, Lý Tống lái phi cơ đột nhập lãnh thổ Cuba để rải truyền đơn. Chưa dừng lại ở đây, trong ngày đầu năm mới, 1 tháng Giêng năm 2000, Lý Tống lái một chiếc phi cơ loại nhỏ cất cánh từ Florida bay sang La Habana để rải truyền đơn kêu gọi nhân dân Cuba nổi dậy lật đổ chính quyền cộng sản.

Khi quay trở về, Lý Tống bị Cục Di trú và Hải quan Hoa Kỳ bắt giữ để thẩm vấn.

Ông được phóng thích nhưng bị Cục Hàng không Dân dụng liên bang Hoa Kỳ FAA thu hồi bằng lái, mặc dù được người Cuba chống cộng sản coi như là anh hùng.
Image
Lý Tống, lúc ấy 58 tuổi, được đưa từ nhà tù Thái Lan ra toà án, tháng 9/2006
Chưa chịu dừng lại, 11 tháng sau, Lý Tống sang Thái Lan đánh cướp một chiếc phi cơ loại nhỏ bay sang Sài Gòn, vòng vòng trên không phận để thả xuống hơn 50,000 tờ truyền đơn kêu gọi nhân dân Việt Nam nổi dậy lật đổ chính quyền cộng sản. Khi phi cơ hạ cánh xuống phi trường của Thái Lan, ông bị bắt đưa ra toà kết án 7 năm tù, bản án thứ ba dành cho ông.


Lý Tống đã làm sôi động dư luận hải ngoại không ngớt tranh đấu để đưa ông ra khỏi nhà tù và tránh bị chính phủ Thái Lan dẫn độ về Việt Nam.

Cuộc tranh đấu trong đó có biện pháp tuyệt thực tại nhà tù Rayong tháng 3 năm 2006 cuối cùng đã đưa ông trở về Hoa Kỳ an toàn.

Tòa án Thái Lan từ chối yêu cầu dẫn độ Lý Tống về Việt Nam vì lý do ông không làm hại gì đến tình hình an ninh của Thái Lan.

Với tinh thần chiến đấu chống cộng sản đến cùng, ngày 24 tháng 8 năm 2008, Lý Tống lại thuê một chiếc phi cơ huấn luyện của Nam Hàn định lái đi rải truyền đơn trên không phận Bắc Hàn. Tuy nhiên, ông bị bắt tại phi trường Seoul trước khi hành động, không bị kết án vì chưa thực hiện hành vi.

Ngày 19 tháng 7 năm 2010, Lý Tống tranh đấu trực diện bằng cách tấn công ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng mà ông cho là văn nô cộng sản. Lý Tống mặc váy, trét phấn thoa son giả dạng một phụ nữ tham dự chương trình trình diễn của ca sĩ họ Đàm tại San Jose.

Ông cầm bó hoa lên tặng và lợi dụng cơ hội này để xịt hơi cay vào mặt Đàm Vĩnh Hưng. Lý Tống bị bắt, ra toà ngày 21 tháng 7 năm 2012 bị kết án 6 tháng tù và 3 năm quản thúc về tội tấn công người khác, bản án thứ tư dành cho ông.

Lý Tống đã làm quá nhiều việc khó có người bình thường nào có thể làm được. Tin tưởng vào Thiên Chúa, công lý và nhiệm vụ chống cộng của chính mình, ông là một trong số ít nhân vật kiên quyết chống chủ nghĩa đó theo cách của mình, ở khắp nơi, từ Việt Nam, Cuba, đến Bắc Hàn.

Tôi xin trân trọng kính chào vĩnh biệt ông, người với tôi là một anh hùng bất khuất của quân đội Việt Nam Cộng Hoà.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của bà Phụng Linh tức Võ Thị Hai, hiện cư ngụ tại Nam California, Hoa Kỳ. Bà từng làm báo ở VN và tiếp tục cầm bút sau khi sang Mỹ định cư từ năm 2004.

Xem lại bài:

Việt kiều viết về Lý Tống (2012)

Vụ Lý Tống tấn công Đàm Vĩnh Hưng (2010)

Thái Lan không trao Lý Tống cho chính phủ VN (2007)

Ông Lý Tống đã trở về Mỹ (2007)
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Tạ Từ Lý Tống.

Nguyễn Quang Duy
Lý Tống với cuộc hành trình tìm tự do dài 31 tháng, 5 lần vượt ngục, qua 5 quốc gia, vượt 3.500 cây số đường bộ và bơi qua eo biển Johor Strait, vào thẳng Tòa Đại Sứ Mỹ tại Singapore xin tỵ nạn cộng sản.

Lý Tống với 2 lần về Sài Gòn và 1 lần sang La Habana, Cuba rải truyền đơn kêu gọi dân chúng đứng lên lật đổ cộng sản.

Tôi gặp Lý Tống, khi anh sang Úc tạ ơn đồng bào vận động tự do cho anh vào năm 1999. Với dáng người cao lớn, mái tóc dài cuộn sau gáy, đẹp trai, hiền lành, lời nói nhỏ nhẹ, thuyết phục và đầy ắp lý tưởng tự do.

Tôi thường xuyên nhận email anh gởi tới. Email cuối cùng chỉ cách đây vài tuần. Rồi tin anh hấp hối và hoàn tất phi vụ cuối cùng.

Ngày 05/4/1975, máy bay A-37 của Lý Tống bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 của cộng sản bắn vỡ, anh nhảy dù và bị bắt gần Thị Xã Cam Ranh.

Ngày 05/4/2019, đúng 44 năm sau, Lý Tống hoàn tất phi vụ cuối cùng tại bệnh viện Sharp Memorial Hospital, San Diego.

Cả hai xảy ra trong tháng Tư Đen, tháng miền Nam tự do lọt vào tay cộng sản.

Gia đình “Cách Mạng Chân Chính”

Theo Hồi Ký của Lý Tống, cha anh là Lê Văn Tấn, một đại điền chủ giàu nhất nhì Quận Hương Thủy, Thừa Thiên.

Trong thời kháng Pháp ông được bầu làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Chống Pháp bị thực dân bắt và chặt đầu.

Anh của Lý Tống là ông Lê Văn Quỳ, khi ấy đang bị Pháp cầm tù, nghe tin Cha bị Pháp chặt đầu vượt ngục vào bưng sau tập kết ra Bắc.

Năm 1992, trước tòa án, chánh án tuyên bố Lý Tống có cha tham gia cách mạng chống Pháp hy sinh, có anh tham gia cách mạng, là cán bộ cao cấp của nhà nước nên tòa án không xử tội rải truyền đơn mà chỉ xử tội không tặc.

Lý Tống trả lời: “Gia đình tôi không phải là gia đình “Cách Mạng” mà là gia đình “Cách Mạng Chân Chính.”

“Cha tôi chống Pháp và bị Pháp giết; anh tôi yêu nước nhưng lầm đường nên chống Mỹ; đại đa số gia đình tôi chống cộng và bị cộng sản đánh giá cực kỳ ngoan cố, cực kỳ phản động.

“Nếu đứng trước phiên tòa này tôi không giữ được nhân cách và danh dự cuả mình thì sau này con cháu tôi cũng sẽ chống lại tôi!”

Ông Lê Văn Quỳ là nhà giáo Chủ nhiệm Khoa Văn Trường Đại học Vạn Hạnh. Ông Quỳ nhiều lần vào trại cải tạo thăm Lý Tống nhưng chỉ 1 lần được gặp.

Năm 1992, khi Lý Tống về Sài Gòn thả truyền đơn lần thứ 1, ông Quỳ bị “hạ tầng công tác” và bị tước bỏ tất cả quyền lợi gắn liền 50 tuổi đảng.

Khi Lý Tống thả truyền đơn Sài Gòn lần thứ 2, ông Qùy bị công an phường kêu lên làm việc, sau 3 giờ “thẩm vấn” vợ ông được báo lên phường “đem xác chồng về!”.

Chiến đấu chống Pháp giành tự do là cuộc chiến đấu của toàn dân, đảng Cộng sản cướp công, tước quyền tự do của dân tộc và từng bước đưa đất nước vào quỹ đạo cộng sản.

Chiến đấu chống cộng là chiến đấu cho tự do vì thế trước tòa án Lý Tống tuyên bố thuộc gia đình “Cách Mạng Chân Chính” chống cộng.

Trước tòa án anh còn tuyên bố là công dân Việt Nam Cộng Hòa và công dân Hoa Kỳ, chưa từng xin công dân cộng sản.

Người tù chân đất

Theo Hồi Ký của ông Phạm Văn Lương K20, một lần, ở tổng trại 4, Tuy Hòa, Lý Tống chui dưới bụng chiếc xe tải vượt trại. Xe chạy ngược lên Ban Mê Thuột anh bị bắt, bị giải giao về trại. Quản chế trại bắt anh quì, anh không quỳ, còn banh ngực ra và nói: “các anh muốn bắn, cứ bắn, tôi không quì”.

Khi lên tổng trại 5 tại Sơn Hòa, Lý Tống không chịu học tập, chống đối, bị cùm và biệt giam. Một hôm, khoảng 5 giờ sáng, hai trại 5 và 4, ai cũng nghe rất rõ Lý Tống liên tục kêu cứu: ”các anh em ơi, tụi Việt cộng muốn giết tôi”.

Trời còn tối, hai cảnh vệ, tới mở cùm và nói: “anh Tống, trại tha anh rồi, ra khỏi nhà cùm theo tụi tôi về với anh em cải tạo viên”.

Lý Tống biết cảnh vệ dụ anh ra khỏi nhà cùm là bắn, rồi đổ tội anh trốn trại và bắn bỏ. Lý Tống nói: “các anh thả tôi, chờ trời sáng, trại viên ngủ dậy, mọi người đều biết, tôi sẽ theo ra, còn bây giờ, tôi không ra khỏi nhà cùm lúc này”.

Nói xong, Lý Tống la lớn, bị cảnh vệ dùng báng súng đánh, anh vẫn không ra lại còn la lớn hơn.

Lý Tống nổi danh với câu nói: “Con gì nhúc nhích là ăn hết”, cóc nhái, ễnh ương, rắn rít mà gặp anh, coi như xong, anh lột da cóc, giã thịt cho thật nát, cho chút muối, nướng ăn ngon lành. Nhờ thế anh sống sót, nhiều phi công to con bị thiếu ăn chết trong tù cộng sản.

Lý Tống có một đặc điểm là chỉ đi chân đất, đôi dép quàng trên cổ tòn ten. Có ai hỏi anh trả lời gọn “Da chân mòn thì còn mọc da khác, dép mòn ai phát dép mới để đi“.

Theo ông Lê văn Nhuận anh của Lý Tống đôi dép được một cô gái gởi tặng.

Thân phụ của cô cũng là sỹ quan bị tù tại Trại A30. Cô thăm nuôi cha, để ý thấy Lý Tống lần nào cũng đi chân đất, bèn gửi tặng anh một đôi dép cao su. Anh nhận nhưng buộc dây đeo trên vai, còn chân vẫn đi đất.

Hành trình tìm tự do…

Theo Anthony Paul, Tạp Chí Reader’s Digest 06/1984, ngày 12/07/1980, Lý Tống bắt đầu tiến hành vượt ngục.

Anh cặm cụi dùng 1 cây đinh, cạy lỏng thanh sắt ở cửa sổ cầu tiêu của Trại tù A30, chui ra, bò ngang qua sân nhà tù, dùng một cái kéo cắt đứt 2 hàng rào kẽm gai, rồi đi bộ suốt đêm đến thành phố Tuy Hoà.

Anh được một người bạn cho tiền để đón xe đò đi Nha Trang. Người lơ xe, trông thấy bộ dạng của Lý Tống, hỏi:

“Anh trốn trại A30 phải không ? Rắc rồi to rồi. Trạm kiểm soát ở trước mặt. Thôi đi xuống đi, lẫn vào đám đông đi bộ qua trạm gác, họ ít khi soát giấy người đi bộ. Tôi sẽ đợi anh ở phía bên kia trạm gác.”

Tới Nha Trang, Lý Tống liên lạc được với một bạn gái cho quần áo, tiền, và vé xe lửa đi Sài Gòn. Người bạn gái này đã tặng anh đôi dép nói đến bên trên.

Về Sài Gòn, Lý Tống lẻn vào phi trường Tân Sơn Nhất nhưng các máy bay đều không sử dụng được anh phải tìm cách vượt biên bằng đường bộ.

Anh sang Campuchia, 2 lần bị bắt và trốn thoát được. Anh đi đến tới tỉnh Sisophon tìm cách vượt biên sang Thái. Thời chiến tranh biên giới đầy những bãi mìn phải đi ban đêm anh chỉ biết cầu ơn trên được vượt thoát.

Anh đến Thái bị giam ở nhà tù Aranyaprathet 10 tháng, lại vượt ngục tìm cách vượt biên sang Mã Lai rồi bơi qua eo biển Johore sang Singapore đến tòa Đại Sứ Mỹ xin tị nạn.

Ngày 10/02/1983, sau 31 tháng, Lý Tống vượt qua 3.500 cây số vừa đường bộ vừa đường biển, qua 5 quốc gia và 5 lần vượt ngục đã tìm thấy tự do.

“Cuộc Hành Trình Tìm Tự Do” của Lý Tống đã được viết thành Hồi Ký “Ó Đen” tại đây

Phi vụ Sài Gòn 1

Sang Mỹ, Lý Tống đi học lại, khi đang trình luận án Tiến Sỹ về chính trị ngành Bang Giao Quốc Tế thì Khối Cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, anh chọn đường về nước đấu tranh.

Năm 1992, trên chuyến bay về lại Việt Nam, anh uy hiếp phi công A310 của hãng Vietnam Airlines bay trên Sài Gòn thả 50.000 truyền đơn kêu gọi đồng bào nổi dậy giành lại tự do. Anh nhảy dù khỏi phi cơ xuống một đầm lầy, bị bắt và bị kết án 20 năm tù.

Lúc này, Hà Nội còn bưng bít thông tin nhưng việc phi công Lý Tống làm đều được các hãng truyền thông như BBC, VOA,… loan tải và phiên tòa xử anh được báo chí trong nước đưa tin rộng rãi.

Tháng 9/1998, nhà cầm quyền Hà Nội trả tự do và trục xuất Lý Tống về lại Hoa Kỳ.

Phi vụ La Habana

Nhân Quốc Khánh thứ 41 của Cuba, ngày 1/1/2000, Lý Tống mướn một máy bay nhỏ bay từ Florida sang thủ đô La Habana, thả 50.000 tờ truyền đơn kêu gọi nhân dân Cuba nổi dậy lật đổ cộng sản.

Về lại Hoa Kỳ, anh bị Cục Di cư và Hải quan Hoa Kỳ thẩm vấn được trắng án nhưng bị Cục hàng không Liên bang rút giấy phép bay.

Anh được cộng đồng Cuba tự do coi là anh hùng chống cộng toàn cầu.

Phi vụ Sài Gòn 2

Ngày 16/11/2000, một ngày trước khi Tổng Thống Bill Clinton thăm Việt Nam, Lý Tống mướn 1 phi cơ nhỏ bay vòng vòng trên Sài Gòn thả 50.000 tờ truyền đơn rồi từ từ bay về lại Thái.

Tờ truyền đơn một mặt là lá cờ Việt Nam Cộng Hòa mặt kia là lời kêu gọi Biểu Tình Đòi Tự Do nhân dịp Tổng Thống Hoa Kỳ ghé thăm Việt Nam.

Về lại Thái Lan anh bị bắt và bị nhà cầm quyền Hà Nội đòi dẫn độ về Việt Nam.

Sau hơn 6 năm bị giam cầm, ngày 03/04/2007 Toà Chung Thẩm Thái ra phán quyết công nhận hành động của Lý Tống là một hành động chính trị và trả tự do cho anh.

Năm 2008 Lý Tống còn lên kế hoạch từ Nam Hàn bay sang Bắc Kinh, nhân dịp Thế Vận Hội 2008 rải truyền đơn nhưng không thành.


Gây tranh cãi…

Ngày 19/7/2010, Lý Tống gây tranh cãi khi mặc váy đóng giả nữ, lọt vào một buổi biểu diễn ca nhạc, giả vờ tặng hoa rồi liên tiếp xịt hơi cay vào mặt Đàm Vĩnh Hưng. Anh bị xử 6 tháng tù và 3 năm quản chế.

Ngày 22/1/2016, được truyền hình PhoBolsaTV phỏng vấn, Lý Tống cho biết rất “ân hận” việc này, cuộc chiến chống nghị quyết 36 khó khăn hơn, nếu làm thì phải làm có kết quả rõ ràng không thể để đồng bào hoang mang tranh cãi.

Hổ trợ Phong Trào Dân Chủ Việt Nam

Hôm nay 8/4/2019, cũng là ngày kỷ niệm 13 năm thành lập Khối 8406. Tôi trước đây có trong Ban Cố Vấn Khối nên biết rất rõ Lý Tống là người tích cực ủng hộ Khối 8406 và các Phong trào đấu tranh Quốc Nội.

Là cựu tù nhân chính trị, Lý Tống hiểu rõ tình trạng của tù nhân cộng sản nên anh luôn tìm cách giúp đỡ cả tài chánh lẫn tinh thần những người đang đấu tranh.

Tạ từ Lý Tống

30/4/1975 thua cuộc nhưng Lý Tống và chiến hữu trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không hề bỏ cuộc.

Lý Tống là phi công cuối cùng của Quân Sử Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu hùng, bất khuất.

Anh hoàn tất phi vụ cuối cùng 5/4/2019, hoàn thành nhiệm vụ Tổ Quốc Không Gian, giữ trọn lời thề Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.

Cuộc đời Lý Tống nói lên khát vọng tự do của người Việt Nam.

Lý Tống sẽ được đưa về an táng tại Little Saigon, Nam California vào ngày 20 và 21/4/2019 sắp tới. Được biết tỷ phú Hoàng Kiều đã ngỏ lời tặng miếng đất cho anh: “Chúng ta phải kiếm một miếng đất đẹp và rộng cho anh Tống vì anh xứng đáng được như vậy.”

Tạ từ Anh.

Bên Anh luôn có tôi, có chiến hữu, có đồng bào ngày đêm chiến đấu cho Việt Nam Tự Do.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
8/4/2019
hoanghoa
Posts: 2264
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Truyện Người Lính Nhỏ mà Chính Khí lớn:
VŨ TIẾN QUANG


Tác giả Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sĩ là giáo sư Y Khoa Paris Pháp Quốc.

Image
Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN
(Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.

Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:

- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.

Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.

Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :

“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).

Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.

Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:

Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.

Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.

Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi

- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?

Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.

Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:

- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.

Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!

Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”

Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “.

Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.

Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.

Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…

Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi : - Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn, giết chu ̉ , tướng Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.

Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.

Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?

Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:

- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.

Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:

- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.

Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:

- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?

Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:

- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.

Quang cười ngạo nghễ:

- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?

Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?

Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.

Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.

Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.

Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.

Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:

“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”


Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.

Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Thiếu Tướng Trần Bá Di: Niềm hãnh diện của QLVNCH
Hương Nam

March 27, 2018

Image
Cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di
Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Nguyên Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4, Nguyên Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông là một trong những vị tướng sau cùng rời khỏi Viet Nam sau khi bị Việt cộng cầm tù hơn 17 năm khổ sai, vừa từ trần lúc 4:30 ngày Thứ Sáu 23 tháng 3 năm 2018 tại TP Orlando, Tiểu bang FLORIDA. Hưởng thọ 88 tuổi.

Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong bốn vị Tướng sau cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà Cộng Sản Việt Nam đã thả sau 17 năm giam cầm trong lao tù. Nói đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, những người đã từng biết ông, ai cũng thương mến và ca ngợi đức tánh xuề xòa, chân thật, bình dị, hết lòng với anh em nhưng rất kiên cường, bất khuất trước địch quân của ông.


Xuất thân trường Võ Bị Đà Lạt khoá 5, ông làm Tỉnh Trưởng Cần Thơ từ năm 1962 đến 1964. Sau đó, ông đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ và trở về làm Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 9. Sau Tết Mậu Thân, ông được vinh thăng làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV. Năm1970, ông lại trở về Sư Đoàn 9 với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn. Cho đến năm 1974, trước khi đổi về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và làm Chỉ Huy Trưởng đến ngày mất nước, ông phụ trách Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4/ Quân khu 4.

Dưới quyền lãnh đạo của ông, Sư Đoàn 9 đã mang lại rất nhiều chiến công hiển hách cho quân sử của QLVNCH và cho lịch sử của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống lại xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Đặc biệt, Tết Mậu Thân, Việt Cộng tràn ngập tỉnh Vĩnh Long. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Trần Văn Thì vắng mặt trong lúc Trung Tá Tỉnh Trưởng Huỳnh Ngọc Điệp bị thương mấy ngày trước Tết và Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa tân Tỉnh trưởng còn đang trên dường chưa đến nơi nhậm chức được. Thời gian này Thiếu Tướng Trần Bá Di làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9, ông đã đơn thân độc mã dùng trực thăng đáp xuống giữa vòng lửa đạn tự tay xách theo một máy truyền tin PRC 25 mà không có người lính hay tùy viên cận vệ nào đi theo tháp tùng cả, để điều động các đơn vị phản công và giải cứu Vĩnh Long, trong đó có Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 15 từ Măng Thít kéo về, tiếp tục kháng cự cho đến khi Cộng quân rút lui. Là một vị trí chiến lược rất quan trọng, Tỉnh Vĩnh Long nối liền Sa Đéc với Bắc Mỹ Thuận. Chiếm được Vĩnh Long, Cộng quân sẽ chiếm được Mỹ Tho, Long An, cắt đứt đường tiếp viện từ miền Tây và sẽ tiến chiếm dễ dàng Saigon và Tổng Tham Mưụ. Do đó, giữ được tỉnh Vĩnh Long, ông đã tạo nên chiến công oanh liệt. Thời gian không lâu sau ông được vinh thăng Chuẩn Tướng”.
Image
Từ trái: Cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di

Cuối năm 1970, Sư Đoàn 9 là Sư Đoàn đầu tiên hành quân lưu động khắp vùng 4, không còn lãnh trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ khu 41 chiến thuật (gồm các tỉnh Long Xuyên, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình). Do đó, Trung Đoàn 14 thuộc Sư Đoàn 9 được điều động xuống quận Kiên Long, tỉnh Chương Thiện là vùng trách niệm của Sư Đoàn 21 Bộ Binh để ngăn chặn ý đồ xâm nhập vùng đồng bằng Cửu Long, triệt tiêu đường vận chuyển của Việt Cộng.

Năm 1973, một lần nữa, Trung Đoàn 14 Sư Đoàn 9 đã tạo nên chiến công hiển hách, đánh tan một Trung Đoàn Công Trường 9 của Việt Cộng tại Đồng Tháp mười thuộc tỉnh Kiến Phong cũ, tịch thu một số lượng lớn vũ khí và lương thực lúa gạo của chúng. Chiến thắng oanh liệt này đã khiến Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa cùng Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH phải đáp trực thăng xuống tận trận địa để thị sát chiến trường và xem xét chiến lợi phẩm do các chiến sĩ Sư Đoàn 9 mang về. Năm 1970, thừa lệnh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tướng Trần Bá Di chỉ huy Sư Đoàn 9 Bộ Binh đã vượt biên giới, tấn công tận sào huyệt của Cộng quân ở Mật Khu Ba Thu trên lảnh thổ Campuchia, tạo an ninh cho suốt vùng lãnh thổ hai bên bờ biên giới từ Rạch Giá, Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong đến Kiến Tường nối tiếp với Quân đoàn 3, vùng 3 Chiến Thuật Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó, Sư Đoàn 9 được mệnh danh Sư Đoàn Mũi Tên Thép. Các chiến sĩ Sư đoàn 9 được mang dây biểu chương màu Tam Hợp Bảo Quốc. Năm 1971, Trung Đoàn 16 Bộ Binh của Sư Đoàn 9 đã ổn định vùng Thất Sơn Châu Đốc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh đã đánh đuổi Cộng Quân, tái lập an ninh cho vùng Ba Hòn gồm Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Sóc. Mùa hè đỏ lửa 1972, Trung Đoàn 15 Bộ Binh là một trong những lực lượng giải tỏa chiến trận tử thủ An Lộc.

Những ngày cuối tháng 4 năm 1975,Thiếu Tướng Trần Bá Di trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông ở lại tử thủ đơn vị, chống lại xâm nhập của Cộng Quân từ Hậu Nghĩa cho đến giây phút cuối cùng. Mặc dù dưới tay là những tân binh quân dịch không có kinh nghiệm chiến trường nhưng ông vẫn chỉ huy tài giỏi bảo vệ được đơn vị, không cho Việt Cộng xâm nhập Trung Tâm và bắn hạ được 4 chiến xa của Cộng quân.

Là Tư Lệnh của một Sư Đoàn đã mang về rất nhiều chiến công lừng lẫy, Thiếu Tướng Trần Bá Di luôn sát cánh cùng các chiến hữu trên khắp các mặt trận và hài hòa với anh em trong mọi hoàn cảnh. Ông thường xuyên ngồi trực thăng thị sát các mặt trận để quan sát và điều động các đơn vị thuộc Sư Đoàn. Phi công trực thăng nghe nói phải lái cho Tướng Di là điều ngao ngán bởi vì mỗi ngày ông chỉ mang theo một gói bắp nấu hoặc bánh mì để bay trực thăng không biết mệt. Ông đã xin Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng để được huấn luyện và cấp phát bằng lái trực thăng, phòng ngừa trường hợp người phi công mỏi mệt, ông sẽ tự tay lái. Vì sự can đảm và bền bỉ này của Tướng Di, nên đã nhiều lần Cộng quân tìm các mưu sát ông như có lần chúng cho gài chất nổ ở bãi đáp trực thăng Núi Sam, Châu Đốc năm 1970, một lần khác trực thăng của ông bị chúng bắn sẻ phải đáp khẩn cấp giữa đồng ruộng vùng Đức Tôn, Sa Đéc, nhưng nhờ ơn trên ông đã an toàn.

Trong lao tù Cộng Sản, Thiếu TướngTrần Bá Di nổi tiếng là một tù nhân không khuất phục Cộng Sản, xứng danh là Tư lệnh của Sư Đoàn 9 Mũi Tên Thép. Ông chống đối lao động cải tạo, không nói chuyện với quản giáo, quản chế. Nếu muốn nói chuyện với ông phải từ cấp Trưởng Trại trở lên. Ông tuyệt đối không ca hát nhạc Việt Cộng dù bị bắt buộc. Ông đã giữ đúng tư cách một vị tướng anh hùng của Quân Lực VNCH.

Nhắc đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, không ai không cảm mến con người rất mộc mạc, bình dị, hòa đồng với thuộc cấp, chân thật với đồng đội như ông. Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong các vị Tướng trong sạch, đáng kính mến của miền Nam Việt Nam, là niềm hãnh diện cao quý của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Hương Nam
(FB Hong Tran)
hoangphong
Posts: 365
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Hồi Ký Vợ Lính Thời Chinh Chiến...

Lời Giới Thiệu (Giao Chỉ - San Jose):
Tác giả bài viết này là một phụ nữ sinh trưởng ở Bàu Trai, miền Đông Nam Phần. Đây là một địa danh mà các quân nhân từng hành quân ở vùng 3 chiến thuật đều quen biết. Từ câu chuyện tình đơn sơ, một thiếu nữ hiền lành trở thành người vợ lính thời chiến. Đời sống gia binh, người chồng chuẩn bị đi hành quân, tiếng khóc của góa phụ nhà kế bên, tiếng xe Jeep của chàng trở về chạy trên sân sỏi, tiếng súng đêm đêm vọng lại, những lần từ biệt vội vàng, các chuy. ến về thăm nhà bất chợt giữa các trận đánh. Người vợ lính với 20 năm khắc khoải, hạnh phúc đếm từng ngày để đến lúc tan hàng lại tiếp tục lo cho chồng đi cải tạo. Chúng ta đã từng đọc các trang sử chiến tranh của nam nhi thời binh lửa. Bây giờ xin một lần đọc để thông cảm cho những giọt lệ của phụ nữ VN trong vai trò vợ lính thời chinh chiến.


-----------------
Trong các chị em gái của gia đình, tôi là đứa con gái nhút nhát nhất. Tôi không thích xem phim chiến tranh, sợ nghe tiếng súng nổ, nên tôi không mong muốn lấy chồng nhà binh như phần đông các cô gái khác thích những chàng trai trong bộ quân phục oai hùng. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của Ba tôi. Ba tôi là viên chức hành chánh, ông thường than phiền một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái xe ẩu.

Một đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968, chúng tôi nghe tiếng gõ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi chị em tôi vào phòng, đóng cửa kỹ lại. Ông bỏ cây súng nhỏ vào túi quần và ra mở cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc rằn ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà tôi và cho cấp chỉ huy của họ ở tạm trong phòng khách. Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là đơn vị đi hành quân về đến đây tìm chỗ nghỉ quân.

Lính ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng không phá phách gì như một số người đồn đại. Riêng vị sĩ quan ở trong phòng khách nhà tôi với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé, nằm khiêm nhượng ở một góc phòng. Cuộc sống gia đình tôi không có gì thay đổi khi có mặt vị sĩ quan này. Chúng tôi lịch sự không đi tới lui trong phòng khách. Ban đêm thỉnh thoảng chúng tôi nghe những câu hát vu vơ hoặc vài câu vọng cổ của các người lính trẻ than thở nhớ gia đình và người yêu. Chúng tôi thông cảm và thương mến họ hơn.

Dần dần ba mẹ tôi có cảm tình với vị sĩ quan chỉ huy. Những lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia đình. Ông sĩ quan này mượn phòng khách để làm nơi hội họp của bộ chỉ huy, nhờ thế gia đình tôi quen biết thêm vài sĩ quan nữa. Câu "quân dân như cá nước" là đúng, chúng tôi thân tình rất mau, có những bữa ăn hoặc những buổi tối ngồi chung để xem ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không tốt về nhà binh, cảm giác sợ sệt những người lính chiến trong bộ quân phục rằn ri không còn nữa.

Cũng nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đã gặp nhà tôi sau này. Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn vị. Chúng tôi biết nhau qua sự giới thiệu của vị sĩ quan quen thân với gia đình như đã kể trên. Một thời gian sau chúng tôi thương nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để còn lên đường đi hành quân. Có lần anh nói, gia đình hối thúc cưới vợ, nhưng "Đời lính tác chiến xa nhà, ra đi không chắc có ngày trở lại, cưới vợ chỉ làm khổ cho người đàn bà." Và anh không muốn vướng bận thê nhi trong thời ly loạn. Sau đó anh đi hành quân liên tục, thỉnh thoảng tôi chỉ nhận được thư. Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng quân tại Biên Hòa gần Sài Gòn, đây là dịp tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám cưới.

Tôi theo chồng về ở căn nhà trong trại quân đội. Bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc nhất, ngoài gia đình cha mẹ thương yêu, tôi còn có người chồng tính tình trầm tĩnh, hòa nhã với mọi người. Sau những ngày nghỉ phép cưới vợ, anh trở lại cuộc sống nay đây mai đó, anh đi ba bốn tháng mới về một lần hoặc lâu hơn tùy tình hình chiến sự.

Khi anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề biết trước nhưng dễ nhận ra ngay. Tôi thấy những binh sĩ làm việc với anh lăng xăng dọn dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi vẫn mong mình nghĩ lầm. Anh trở về nhà gương mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi hơn. Bận rộn với giấy tờ, điện thoại và dặn dò người này người kia liên tục. Tôi hiểu anh không có thì giờ để nghĩ đến gia đình. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước khi tôi đi theo chồng: "Con đừng bao giờ xen vào công việc của chồng con." Ăn cơm tối xong anh tiếp tục chuẩn bị tài liệu. Tôi buồn vì sắp phải xa chồng, không biết làm gì hơn là ngồi sau lưng anh, áp má vào sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến gần nửa đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon ngồi, anh dặn dò mọi việc ở trong nhà, có buồn trở về nhà cha mẹ chơi, nhất là phải cất kỹ tờ giấy hôn thú. Tôi hiểu anh muốn ám chỉ điều gì, tôi nghe lòng tê tái. Tôi có bao giờ nghĩ đến mười hai tháng lương tử tuất để thành góa phụ! Không, tôi chỉ cần chồng tôi. Sau đó chúng tôi chỉ ngủ được vài giờ. Ba giờ sáng trong sân trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào của lính. Trong cảnh lờ mờ tối, tôi nhìn ra sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô nặng nề, đầu đội nón sắt. Trong số đó sẽ có người không trở lại. Quang cảnh này trái hẳn với những ngày đại lễ, những người lính trong bộ quân phục thẳng nếp, tay cầm súng đi diễn hành rất đẹp.

Khi chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng ngang hông, lòng tôi tê tái, có một cái gì đó làm cho tôi bất động, chỉ biết nhìn anh và im lặng. Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào má tôi nói: "Thôi anh đi". Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn, những lời từ giã nhiều hơn như những lần anh đi làm việc bình thường hay đi ăn cơm với bạn bè. Anh sợ làm tôi khóc. Tôi muốn nói anh cố sớm trở về với em, nhưng càng dặn dò càng đau lòng trong buổi chia tay. Tôi cố gắng không cho nước mắt trào ra. Tôi nhìn anh thật kỹ, để hình ảnh anh in sâu mãi trong lòng tôi. Tôi thầm nghĩ, không biết lần này anh có còn trở về không? Không thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào giường khóc nức nở. Cảnh này cứ diễn đi diễn lại trong cuộc đời làm vợ lính của tôi. Có lần tôi nói với anh, khi đi hành quân cho em biết trước để em chuẩn bị tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng có lẽ vì bí mật quân sự hoặc cuộc hành quân gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện đó.

Mỗi lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ lớn tôi chỉ biết vào phòng âm thầm cầu nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến báo tin buồn. Có lúc anh về thăm tôi thình lình. Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại nghẹn ngào vì anh ra đi sớm hơn lời hứa. Một buổi chiều anh về và nói chiều mai mới đi. Tôi vui mừng vì trưa mai vợ chồng tôi sẽ có chung bữa cơm với nhau. Nhưng đến tối có tiếng điện thoại, anh nghe xong nói với tôi sáng sớm mai anh phải đi. Thế là mất một đêm hạnh phúc, chỉ có tiếng than thở và tiếng nức nở của tôi.

Khi tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh đóng quân tại Bến Tre, anh biết gia đình tôi có quen thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ Tho. Anh hẹn gặp tôi tại đó để anh đến thăm vì từ Bến Tre chỉ qua một cái phà là đến Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa đến chiều mới đi. Sáng ngày ấy ba tôi chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm lại người bạn cũ. Tôi gặp anh ngượng ngùng mắc cỡ với cái áo bầu khoác ngoài. Tuy là vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi nhau nên đối với anh đôi khi tôi vẫn còn e thẹn. Sau khi chúng tôi hàn huyên được nửa giờ, chúng tôi dùng cơm trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác sĩ nhưng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm. Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy truyền tin gọi trở về đơn vị, vậy là anh lại đi ngay. Tôi tiếp tục dùng cơm, nhưng món ăn trở nên lạt lẽo, dầu bà bác sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo biệt về Sài Gòn sau buổi cơm. Trên xe ông nhìn tôi và vuốt tóc thông cảm.

Một đêm tôi đang ngủ bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng khóc thảm thiết của bà hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nhìn ra ngoài để xem chuyện gì xẩy ra. Bên ngoài đêm tối yên tĩnh bị đánh tan bởi tiếng khóc của người vợ trẻ vừa được tin chồng tử trận ngoài chiến trường, cùng đi hành quân chung đơn vị với chồng tôi. Chị khóc lóc, kêu gào, gọi tên chồng nhưng chồng chị sẽ mãi mãi không trở về nữa. Tôi trở lại giường nằm nhưng không ngủ được, tôi thương cho người đàn bà góa phụ kia và lo sợ cho bản thân mình. Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ khăn tang, gương mặt xanh xao cùng với bà mẹ già đi lãnh xác chồng theo sau hai đứa con khoảng ba, bốn tuổi, đầu chít khăn trắng. Chúng nó vô tư không biết gì, thật ra ba chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không có lời an ủi nào làm chị vơi được nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn vết thương lòng của chị mà thôi. Sau này chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều hôm đó, chị nghĩ có điều xui rồi. Tôi không bao giờ tin dị đoan, tôi không xem bói vì thầy bói nói vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận tâm lo lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng cú kêu.

Một chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân với chồng tôi, nhà ở trong cư xá đối diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành quân không chắc có ngày về, tinh thần của chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những lần thay mặt gia đình đi dự đám tang qúa nhiều bạn bè thân thiết bị tử trận. Tinh thần đã sẵn yếu, ngày càng trở nên suy sụp. Lúc ở Việt Nam, bác sĩ phải cho uống thuốc an thần. Sau này may mắn được di tản qua sống ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn toàn mất trí, thể xác trông cậy vào người chồng thủy chung, ngày xưa là người chỉ huy chiến trận tài ba, bay giờ biến thành người y tá tận tụy và hy sinh nhẫn nại cho người vợ tao khang, quen biết từ thuở còn niên thiếu.

Ngày tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ phép, anh ở hẳn trong nhà thương với tôi, mặc cho những lời dị nghị của các cô bác theo xưa cho như vậy là không tốt là bị "mắc phong long". Mấy ngày sau tôi rời nhà thương, anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia. Nhìn anh đi tôi khóc mãi vì nghe tin đồn ở Campuchia thường bị "Cáp duồn". Mẹ tôi khuyên "Con mới sanh khóc như thế không tốt đâu". Nhưng tôi đâu nào nghĩ đến sức khoẻ của tôi, tôi lo cho anh và không muốn con tôi mất cha. Hàng ngày bận bịu nuôi con, nghĩ đến anh tôi chỉ biết cầu nguyện.

Đến năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc hành chánh, mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước nhà, nhưng anh không thích lắm. Riêng tôi vui vẻ hơn vì đây là dịp mẹ con tôi được sống với anh hàng ngày. Tại đây anh vẫn phải đi xuống thăm các quận thường xuyên. Đã có các sĩ quan thỉnh thoảng bị chết vì địch phục kích dọc đường, cho nên tôi vẫn tiếp tục lo lắng cho anh. Ngày này qua ngày khác, mỗi buổi chiều tôi nghe chiếc xe lăn bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là tôi biết anh đã bình yên trở về. Có những chiều anh về rất muộn, tôi không yên tâm được, vào phòng ngồi bất động âm thầm cầu nguyện. Tình thương đã khiến tôi rất thính tai, tiếng cổng mở cửa từ xa tôi đã nghe được, lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm, đi ra ôm lấy con và cùng nhau ra đón ba nó.

Có những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay ôm choàng lấy con, một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau khi đợt pháo kích đầu tiên đã chấm dứt, anh phải vội vã từ giã mẹ con tôi để băng qua cửa hông nhà đi xuống hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ huy yểm trợ các đơn vị đồn trú địa phương. Muốn cho chồng luôn được bình yên và tôi bớt đi nỗi lo âu để yên tâm làm việc nội trợ, một hôm tôi đưa cho anh xâu chuỗi mà vị linh mục đỡ đầu đã cho anh ngày rửa tội. Tôi nói "Anh nhớ luôn bỏ xâu chuỗi này vào túi áo mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù hộ anh và em đỡ lo lắng cho anh." Tôi biết đàn ông tánh không chu đáo lắm nên tôi nói thêm "Anh thương em hãy nhớ lời em dặn."

Ngày tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng ngày càng sôi động, cho đến một ngày mẹ con tôi từ giã anh, trở về ở với ngoại, để anh không phải bận tâm gia đình. Chúng tôi từ giã đời sống gia binh. Lần này tôi cũng nhìn anh rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít hơn.

Khi cuộc sống của người vợ lính thời chiến chấm dứt thì những ngày nghiệt ngã mới lại bắt đầu. 30/04/75 đã chấm dứt cuộc đời binh nghiệp của chồng tôi và anh đi tù với mười ba năm cải tạo. Riêng tôi, ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con, nỗi lo âu vẫn còn và sự mong đợi chồng về mỏi mòn hơn.

Sau cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đã trở về. Anh vẫn còn giữ xâu chuỗi ngày xưa đã cùng anh sống trong ngục tù với những chỗ bị đứt đã nối lại và rơi mất một hạt.

Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo của thời bình, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt.

Chiến tranh đã cướp mất tuổi thanh xuân của bao nhiêu người vợ trẻ. Chỉ còn lại Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân tộc bất hạnh triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.

Thôn Nữ Bàu Trai
Tháng Tư 2004
(Mến tặng Anh Chị Đồ Sơn)
vuongquan
Posts: 275
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

Ngày Cuối Tháng Tư
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Ngày ngắn đêm dài đêm lại sáng
Đêm qua ai có bạc đầu không? Tản Đà

Bây giờ là cuối tháng Tư. Có những ngày tháng, thời gian chuẩn điểm gây ám ảnh, ray rứt thù hận suốt một kiếp người. Một tháng tư ở Việt Nam – thường – là một ngày mưa. Một buổi chiều mưa. Mưa đầu mùa. Một buổi chiều mưa đầu mùa, trời chuyển âm u thấp xám. Thời gian và không gian như ngưng đọng lại trong giây phút chuyển mùa. Rồi sấm chớp và kế tiếp là những giọt mưa nặng hạt, ào ạt, xối xả, phủ kín vạn vật.

Mưa gội sạch cây lá, tưới mát những bãi cỏ úa vàng, thấm ướt đất khô cằn cỗi. Nước mưa, nguồn sinh lực kỳ diệu đã làm vạn vật hồi sinh sau những ngày nắng cháy .

Rồi mưa tạnh, trời quang. Mặt trời lại hiện ra từ một nơi nào đó, rọi những tia vàng ấm khắp nơi. Đất bốc hơi thơm nồng ngai ngái. Cây có sạch tươi dịu mát. Chim chóc ca hát trong trẻo líu lo…

Những buổi chiều mưa đầu mùa não nề diễm tuyệt như vậy rồi cũng mất hút trong đời.

Có những buổi chiều mưa đầu mùa bao nhiêu kẻ bỗng dưng bị bỏ rơi rồi rả ngũ. Hốt hoảng, căm hận, sợ hãi, người ta chạy tán loạn về thành phố. Những thành phố quê hương yêu dấu thoáng chốc mà ngùn ngụt khói lửa. Súng nổ râm ran ở khắp nơi. Dân chúng bồng bế dắt díu nhau để chạy.

Chạy đi đâu nữa? Có còn nơi nào an toàn để chạy khi mà chính mình cũng đành buông súng với sự ray rứt, xót xa, đớn đau, loay hoay và sợ hãi.

Rồi đến những buổi chiều mưa tháng Tư của những năm tháng kế tiếp. Có bao nhiêu kẻ nằm mê man chờ chết bởi những cơn sốt rét ở trại tù binh xa xôi, heo hút. Trong cái cảm giác rối loạn của một thần trí không còn tỉnh táo, người ta vẫn mơ hồ cảm nhận được cái tâm cảm não nề u uẩn vào những lúc trời chuyển âm u. Người ta vẫn cứ nghe tiếng sấm chớp ngang trời và vẫn cứ thầm mong đó là tiếng súng. Chao ôi ! phải chi mà có những tiếng súng gầm thét vang trời vào những ngày tháng lao tù nghiệt ngã ấy thì dẫu có phải chết, chết ngay tức khắc, chắc chắn cũng có nhiều kẻ cam lòng.

Nhưng người ta đã không chết dù phải chịu đựng hàng trăm thứ đòn thù thâm độc, dù đã trải qua bao nhiêu là cơn sốt thập tử nhất sinh. Con người còn sống được không phải chỉ nhờ vào cái kháng lực mong manh của cơ thể mà còn là nhờ vào cái ý chí khao khát được sống, cái ước mơ có ngày được trở lại thành phố quê hương của mình để nhìn cảnh khói lửa, để nghe súng đạn nổ ròn. Và lần này thì do chính tay họ siết cò…

Cái giấc mơ đó chưa bao giờ đến. Nỗi ước vọng được nghe tiếng súng đại bác nổ vang giữa đêm tù cũng chưa hề xẩy ra trong suốt thời gian người ta bị giam cầm. Vậy mà bao kẻ vẫn cứ mãi trông chờ, ngóng đợi – hoài công!

Trong bao nhiêu đêm khuya, có người chợt thức giấc vì chợt nghe tiếng súng vọng lại từ một nơi xa xôi nào đó. Tiếng nổ mơ hồ, nhỏ bé phát ra từ một nòng súng cá nhân đến khi lọt vào thính giác của một tù binh bỗng bùng vỡ lên trong óc họ như tạc đạn. Tim người ta liền đập hụt đi mấy nhịp, rồi sau đó là những nhịp dồn dập, rộn ràng. Mạch máu da thịt của những người tù căng ra. Mắt người ta mở lớn, trợn trừng trong bóng đêm. Tai vểnh lên như tai của loài thú rừng khi đang rình rập. Họ nằm nín thở, nghe ngóng, chờ đợi đặt hết niềm tin hy vọng vài tiếng súng vừa phát ra. Họ chờ đợi một tiếng nổ kế tiếp, rồi một tiếng nổ kế tiếp nữa. Sau đó là hàng loạt những tiếng nổ xé gió vang trời thì càng tốt.

Rồi họ tưởng tượng thêm, lẫn trong tiếng nổ đều đặn ấy là tiếng nổ ròn tan của những nòng súng cộng đồng. Chưa chết, bằng vào cái ảo giác của những kẻ đã bao năm trông chờ khao khát người ta như nhìn thấy được cả ánh hỏa châu soi sáng đêm tối bao la. Sau đó là bom đạn, phi pháo và nhà cửa, đồn địch cháy sáng một góc trời…

Đã bao nhiêu kẻ ước ao, nếu có phải chết xin cho họ được chết trong bối cảnh khói lửa bom đạn ngất trời như vậy. Không ai có thể đành tâm chết mỏi mòn, khắc khoải giữa những vòng rào thép gai tù ngục. Hận thù không phải là một tình cảm tốt đẹp. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, rửa hận là một điều cần thiết và công bằng.

Suốt những năm dài của đời sống tù binh khắc nghiệt bao người đã nhờ vào sự trông chờ hy vọng để giữ cho mình khỏi bị gục ngã. Niềm hy vọng thỉnh thoảng lóe lên khi họ chợt nghe được tiếng súng nổ; rồi tắt lịm dần trong những giây phút im lặng tàn nhẫn phũ phàng sau đó.

Vậy mà người ta vẫn cứ không thôi trông chờ, mong đợi. Đợi mãi cho đến một lúc, lẫn trong cái tâm trạng mong chờ mòn mỏi người ta bắt gặp trong tâm hồn mình có thêm một thứ tình cảm buồn phiền oán hận. Người ta oán hận những kẻ đang sống ngoài vòng tù ngục. Chắc chắn họ có nhiều đồng ngũ đang sống lẩn quất bên ngoài, có nhiều đồng ngũ khác đang sống tự do ở những phương trời xa xăm nào đó. Rồi người ta cảm thấy chua chát khi biết mình đã bị bỏ quên cho chết dần mòn, khắc khoải trong vòng tay kẻ thù. Có phải rằng chính họ đã bặm môi, cắn chặt răng bắn đến viên đạn cuối cùng để cho cấp chỉ huy, để cho đồng đội có đủ thời gian “di tản!”.

Và rồi người ta quyết định…. phải tìm cách đào thoát. Và nhiều kẻ may mắn đã thoát thân.
Image
Ảnh: RFA
Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Tháng Tư ở một vùng đất thuộc miền ôn đới. Nơi đây bây giờ không phải là những ngày tháng bắt đầu cho mùa mưa. Ở đây bây giờ là mùa Xuân. Mùa Xuân xứ người.

Một buổi sáng mùa Xuân ở một nơi an bình và phú túc. Đường phố nhộn nhịp người đi. Những bộ quần áo ngắn, mỏng, lạ mắt và đẹp mắt. Những cặp đùi thon. Những cánh tay trần, hồng, trắng, nõn nà. Những bộ ngực căng đầy nhựa sống. Có kẻ lái xe đi giữa phố phường, hòa nhập với giòng người, với đời sống, vui lây với niềm vui của những người dân bản xứ bao quanh. Mùa Xuân đến với vạn vật với mọi người, kể cả người tị nạn.

Bất chợt có một tiếng còi. Tiếng còi lanh lảnh ghê rợn xoáy vào thính giác. Người ta giật bắn người tắp ngay xe vào lề đường. Có một chiếc xe khác thắng gấp phía sau. Một khuôn mặt đỏ gay vì giận dữ quay lại nguýt nhìn, lầu bầu chửi rủa. Người ta không quan tâm đến điều đó. Người ta chỉ muốn ngoái người lại nhìn xem chuyện gì đã xẩy ra?

Không có gì cả. Tiếng còi chỉ do một người vừa thổi để chận đứng giòng xe đang xuôi ngược cho những đứa bé được an toàn băng qua đường đến trường học. Chỉ có vậy thôi! Người ta thở phào nhẹ nhõm, rút khăn lau mồ hôi trán. Đúng là không có gì xảy ra. Tiếng còi lanh lảnh ở đây không còn biểu tượng cho sự bắt bớ, khủng bố, giam cầm đầy ải nữa. Mọi người vẫn sinh hoạt bình thường. Ở đây mọi-chuyện-đều-luôn-luôn-rất-bình-thường.

Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Một buổi chiều Xuân. Trời xanh cao, mây trắng nõn, nắng hanh vàng. Có kẻ đứng trước sân nhà, mải mê nhìn những con bướm trắng tung tăng trên thảm cỏ xanh, những con ong bầu bĩnh lượn vòng quanh những khóm hoa… và chợt người ta nghe tiếng súng. Tiếng súng nổ gần. Người ta lại giật thót người. Ly rượu trên tay sóng sánh. Vài giọt tràn ra tay. Điếu thuốc đang hút dở dang tắt ngấm. Những con chim sâu nhỏ bé đang lẩn quẩn, an bình trên những cành mai hồng thắm vụt cánh bay. Người ta không thấy sợ hãi nhưng chợt cau mày với cái cảm giác bực dọc khó chịu. Không có thêm một tiếng súng nào tiếp theo đó. Không gian, khung cảnh trở lại yên tĩnh, an bình.

Chỉ có tâm hồn người ta là không an bình nữa. Mặt người ta chợt đỏ lên dù ly rượu trên tay chưa kịp uống. Người ta vừa trực nhận một cái cảm giác hổ thẹn. Tại sao lại bực dọc và khó chịu nhỉ? Có phải vì tiếng súng đã làm hỏng mất một buổi chiều Xuân êm đềm và thi vị không?

Vậy mà đã có lúc người ta thiết tha mong nhớ một tiếng súng. Một loạt những tiếng súng thì càng tốt! Mới ngày nào tiếng súng nổ còn là dấu hiệu cho sự bạo động quật khởi, báo thù rửa hận. Bây giờ ở một nơi an bình, tiếng súng chỉ còn là khẩu hiệu cho sự bất an và lâm nguy !

Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Một đêm tháng Tư xứ lạ. Có kẻ buổi chiều quá chén, nửa đêm thức giấc không biết mình đang nằm ở đâu!? Có tiếng máy sưởi tự động giảm nhiệt độ. Sự đàn hồi của kim loại phát ra những tiếng kêu tí tách. Trong cái cảm giác ngái ngủ người ta tưởng như mình đang nghe tiếng mưa rơi.

Tiếng mưa rơi trên mái tôn của một căn nhà trong một con hẻm lầy lội, “hắt hiu vàng ánh điện câu”. Đã bao đêm mưa người ta được bao che để sống chui nhủi dưới một mái nhà tôn như vậy. Đã bao đêm người ta thức giấc nằm nghe tiếng thằn lằn tắc lưỡi, tiếng ú ớ của những đứa em thơ nói trong mơ, tiếng động lục đục của những người mẹ già tảo tần lo lắng cho gánh hàng rong bán vào sáng sớm, tiếng xe xích lô nổ ròn đầu xóm. Và đôi khi tiếng ru con ầu ơ buồn não ruột của một người đàn bà hàng xóm.

Chiếc máy sưởi nguội dần, những tiếng kêu tí tách của kim loại đàn hồi từ từ nhỏ lại. Người ta lại nghe như là tiếng mưa rơi trên những mái tranh. Những mái tranh trống lốc, gió thổi tứ bề của trại tù Suối Máu, Cà Tum. Những mái nhà tranh của trại Minh Rồng, Đại Bình, Đại Lộc… người ta đã thức giấc bao nhiêu lần ở những trại tù heo hút đó để nghe tiếng mưa rơi, để chờ mong một tiếng súng vọng về từ rừng thẳm.

Đêm nay ở phương trời xa xăm cũ biết trời có mưa không?

Đêm nay trong vòng rào tù ngục có bao nhiêu kẻ (chợt) thức giấc giữa đêm trường nằm mong chờ khắc khoải trong đói lạnh một tiếng súng mơ hồ?

Và đêm qua – ở nơi đây – ai có bạc đầu không?

Tháng Tư 1983.
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

30 Tháng Tư: Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
CHU TẤT TIẾN
Sau 1975, Cộng Sản Việt Nam đã thi hành chính sách bắt chước Liên Xô và Trung Cộng để đầy đọa những người thuộc chế độ cũ trong các nơi gọi là “trại cải tạo.” Thực tế, đó là lò giết người không cần đến đại bác. Nhưng cũng vì thế, mà đã nổi bật lên những tấm gương anh hùng của các chiến sĩ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, dù trong lò luyện lửa, vẫn dũng cảm vượt qua thử thách. Thập niên 80-90, khi một số người được trả tự do, và rồi qua được xứ Tự Do, nhiều cuốn sách, truyện ngắn đã được viết lại để cho thế giới thấy sự tàn bạo của chính sách giết người thầm lặng này.

Tuy nhiên, có thể nói không có ngọn bút nào diễn tả được hết và đầy đủ hàng ngàn, vạn tấm gương anh hùng trong các trại tù Cộng Sản từ Nam ra Bắc, vì nhiều chứng nhân trong sự việc lại không chuyên viết sử, nên chỉ có thể truyền miệng qua các thân nhân thăm nuôi, rồi trở lại trại tù, từ đó, những chi tiết không còn đầy đủ như tên họ, cấp bậc, hoặc sự việc, cho nên nếu có người muốn tường thuật lại ngần ngại vì không muốn viết mà không chính xác. Ngoài ra, còn hàng trăm sự việc xảy ra quá ngắn ngủi, nên cũng không thể thuật lại trên giấy được. Nhiều người tù chống đối hay vượt trại bị đem ra xử bắn ngay lập tức hoặc bị ném xuống hố rồi đậy nắp lại, thì không ai biết tên tuổi vì sự việc xảy ra nhanh quá. Nhiều trường hợp bị hành hạ dấm dúi tránh các cặp mắt tù nhân, nên nếu có ai nhìn thấy cũng không biết nạn nhân là ai.

Người viết bài này đã chứng kiến tại trại tù Suối Máu, một cuộc đánh hội đồng một tù nhân ở giữa sân, không biết vì lý do gì. Một đám bộ đội khoảng 7, 8 người vây một anh tù vào giữa và thay nhau đấm đá liên tục cho đến khi nạn nhân ngất đi, bị chúng lôi xềnh xệch vào một căn nhà gần đó, rồi tống anh đi đâu mất tiêu, không ai biết tên người đó là gì. Một tù nhân khác ở cùng trại Kà Tum vượt trại, nhưng không may bị bắt. Anh bị trói gô như người ta gói giò thủ, bị dây thừng cuốn chằng chịt quanh người, rồi chúng treo anh lên lửng lơ trong trạm gác của chúng, để thỉnh thoảng nhảy lên đấm, đá rồi vừa chửi tục vừa cười khoái chí.

Một vụ tự sát không thành đã xảy ra trong trại Suối Máu. Buổi sáng ấy, anh Võ Văn Vân (không nhớ chính xác tên họ) đang cùng với một toán tù nhân khác làm cỏ trước sân bộ chỉ huy của vệ binh, có lính gác cầm súng đứng chung quanh. Đột nhiên, anh Vân vùng chạy ra cửa. Hành động này hoàn toàn là muốn nhờ súng Cộng Sản bắn chết mình, vì ai cũng biết đứng giữa vòng vây mà làm bất cứ động tác nào lạ khiến cai tù nghi ngờ là bị bắn chết ngay. Anh Vân đã vùng chạy thẳng vào mũi súng kẻ thù. Ngay lập tức, một tràng đạn xối xả bắn tới. Nghe tiếng súng, tất cả những người tù khác, đều nằm rạp xuống đất, chỉ có mình anh Vân vẫn chạy. Chỉ được thêm vài bước nữa là anh đổ gục xuống. Vệ binh nhốn nháo hò hét, đổ xô tới chỗ anh Vân. Thấy anh chưa chết, một tên bộ đội dí mũi súng xuống, tính bắn chết luôn, nhưng tay quản giáo cản lại. Sau đó, tên quản giáo quát hai anh tù khiêng anh Vân vào trạm xá cũng do các y sĩ chế độ cũ trách nhiệm. Vào đến trạm xá, hai người bạn tù bồng anh Vân trên chiếc giường sắt có bánh xe di chuyển, để anh Phạm Thanh Nhân, Y Sĩ Đại Úy Quân Y, chữa trị.

Người viết đứng sát cạnh giường, nhìn vào anh Vân thấy một khuôn mặt nhợt nhạt vì mất máu quá nhiều. Anh Phạm Thanh Nhân lấy kéo cắt hai ống quần ra để lộ một đầu gối bị hai viên đạn trúng gần một chỗ, khoan thủng từ bên này sang bên kia. Các viên khác trúng vào bắp thịt, máu chảy lênh láng. Thấy tôi đứng cạnh, anh Nhân quay lại nhờ tôi đưa cho anh hai cái găng tay ni lông để anh dùng mũi kéo đẩy găng tay nhét vào cái lỗ đạn ở đầu gối cho xuyên qua bên kia, rồi anh cầm hai đầu găng tay ở hai bên đầu gối, kéo cò cưa qua lại, để lôi các miếng thịt vụn, xương vụn bầy nhầy ra ngoài. Ngay lúc đó, ruồi, nhặng ở cầu tiêu gần đó, ngửi thấy máu là bu lại, tôi phải chụp ngay một cây quạt giấy để đuổi ruồi nhặng. Đám ruồi quá nhiều, tôi quạt luôn tay mà vẫn không thể nào đuổi hết, vài con nhặng đen khổng lồ xà xuống chỗ máu ở chân, hút hút, như quỷ nhập tràng, làm tôi muốn ói luôn.

Điều rùng mình là anh Nhân dùng găng tay kéo cò cưa qua lại chỗ xương đầu gối đó, chắc chắn là đau vô cùng tận, vậy mà anh Vân tỉnh bơ, nằm yên không động đậy, mắt nhìn thẳng lên trần. Sau khi thông cái lỗ trống hẳn, anh Nhân đổ cồn 90 vào cái lỗ để tẩy trùng! Việc này nhất định sẽ gây buốt lói lên tới óc, đau không thể tưởng tượng được!

Tôi vừa quạt ruồi vừa xoa vai anh mong giúp anh bớt cảm giác đau, nhưng chính tôi lại chảy nước mắt dàn dụa, vì đau thay anh và khâm phục thái độ người hùng này, nhất là trong suốt gần tiếng đồng hồ, cò cưa rửa thịt thối, gắp đạn, khâu vết thương, không hề có một giọt thuốc tê! Chính bác sĩ Nhân, sau đó, cũng nói với tôi, “Tôi chưa hề thấy bệnh nhân nào can đảm như anh Vân, chịu đau khiếp đảm mà không kêu một tiếng, không rùng mình một lần! Thường thì đau quá, người bệnh có thể bất tỉnh và chết vì kích xúc!”

Sau khi được băng bó, anh Vân được chuyển sang nằm giường bệnh. Anh vẫn giữ thái độ bình thản, không hề kêu đau một lần dù những vết thương của anh nhức nhối lại không có thuốc giảm đau, ngoài Xuyên Tâm Liên! Tôi kính phục anh nhiều hơn nữa, khi hôm sau, thấy anh tự mình, chống gậy đi vệ sinh, nhất định không cho ai dìu đỡ, bất chấp chỗ đầu gối vẫn còn chảy máu, mà cố bước đi như con sên bò lên cái miếng gỗ dựng chéo vào cầu tiêu để làm việc vệ sinh một mình… Sau đó, vài ngày, anh bị chuyển trại đi đâu không rõ.

Một trường hợp đau thương và phẫn nộ xảy ra ngay gần đầu giường tôi nằm ở nhà 12, Khối 3, trại K4, Suối Máu. Khi dồn chúng tôi vào trại Suối Máu, bộ đội để chúng tôi nằm đất trong những căn nhà bốn vách tôn. Bên ngoài vách là một khoảng trống chừng một thước rồi tới hàng rào kẽm gai. Bên ngoài hàng rào kẽm gai là mấy cái hố cá nhân, sâu chừng một thước, để chuẩn bị, nếu có loạn thì bọn cai tù chỉ việc nhảy xuống hố, đặt mũi súng đại liên, trung liên trên sát mặt đất mà lia vài tràng, thì không còn mạng tù nào sống sót.

Một con đường đất có chiều rộng khoảng chừng ba, bốn thước, cho vệ binh gác đi lại. Sau con đường là hàng rào thứ hai, dầy đặc. Cứ cách khoảng chục thước lại có một lầu canh. Đêm hôm ấy, chúng tôi đang ngủ, bỗng nghe thấy tiếng quát lớn: “ĐỨNG LẠI!” Chúng tôi giật mình tỉnh giấc, và nghe thấy một tiếng thân thể rơi “bịch” xuống xuống cái hố đại liên.

Chết rồi! Một bạn tù định vượt ngục đã bị lộ, phải nhảy xuống cái hố gần đầu giường tôi, chỉ cách một lớp tôn vách chừng vài thước. Sau đó là tiếng chân chạy huỳnh huỵch đến gần. Rồi, đột nhiên, tiếng súng AKA xé toang lỗ tai: BẮM! BẰM! BẰM!.. Trái tim tôi như ngừng lại, hơi thở cũng như ngưng lại... Nước mắt tôi lặng lẽ chan hòa xuống má. Tay chân tôi tê cứng.
Chừng 2, 3 phút sau, có tiếng chân thứ hai chạy đến. Tiếng tên vệ binh:

-Địt mẹ! Cái gì đó mày?
Tiếng tên đầu tiên:
-Địt mẹ! Tao vừa bắn chết một con rồi, mày!
Yên lặng... Có lẽ tất cả những người tù nằm gần chỗ tôi đều khóc lặng. Tiếng ai nấc lên phía cuối phòng.
Chiều ngày hôm sau, tiếng loa phóng thanh của trại tù lải nhải, vang trên khắp hàng rào kẽm gai: “Tối qua, một tên tù ngoan cố, không chịu cải tạo đã âm mưu trốn trại và đã bị xử lý thích đáng....” (*)
Cũng trong trại Suối Máu, vào một buổi tối, tiếng loa rít lên lạnh tanh: “...tên cựu sĩ quan ngụy, đại úy...trong khi đi lao động đã tìm cách liên hệ với những tên phản động khác, gửi thư rơi, chống đối cách mạng, đáng bị trừng trị....”

Toàn trại chúng tôi còn đang bàng hoàng, chưa biết chuyện gì xảy ra, thì thấy một đám vệ binh đẩy một người tù vào cái conex đầu trại, rồi đóng sầm cửa lại. Sáng hôm sau, một tên cai tù vào vẫy tay cho mấy anh bạn tù ở căn nhà đầu trại cầm cuốc xẻng đến conex, mang xác người tù ra ngoài chôn! Qua lời truyền miệng, chúng tôi đã biết là cựu Đại Úy... trong khi đi ra ngoài trại làm đồng, đã lén viết một miếng giấy gửi cho gia đình, ném vào mấy người dân bên ngoài, dự tính là nhờ họ chuyển về nhà. Không ngờ, miếng giấy ấy lại lọt vào tay vệ binh! Trong vài hàng ngắn ngủi đó, người tù viết cho con gái: “Mày không được lấy thằng bộ đội đó! Tao về sẽ giết chết cả hai.” Người tù dũng cảm đó, đêm ấy, đã bị bọn vệ binh đẩy vào conex, đấm đá cho đến chết. Khi khiêng xác anh ra, thấy cả khuôn mặt bị dập nát.

Bên cạnh vài sự việc mà chính cá nhân người viết chứng kiến, còn nhiều chuyện do các bạn tù từ nơi khác chuyển trại đến kể cho nghe.

Anh Võ Văn Tưng, khi còn ở trại Hóc Môn, đang giờ học tập tại hội trường, đã hiên ngang đứng lên chất vấn tên quản giáo về Hồ Chí Minh. Anh lớn tiếng giữa hội trường: “Hồ Chí Minh chính là tên phản quốc! Hắn đã bán nước cho Nga, Tầu... Quân đội Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ chính nghĩa quốc gia...”

Tên quản giáo đã lập tức hô vệ binh xúm lại vật anh ngã xuống, rồi tống vào conex. Đêm đó, chúng mở cửa conex ra, tên quản giáo đứng ngoài hô to: “Bắn bỏ mẹ nó đi!” thế là từng tràng AKA nổ ầm ĩ trong conex, vang vọng ra khắp trại. Sáng hôm sau, chúng vào trại, hỏi có ai là y sĩ không! Có hai anh đứng dậy, bước ra. Tên vệ binh ra lệnh cho các anh đi băng bó cho tên tù ngụy.

Hai anh kể lại, “Mở cửa conex ra, chúng tôi thấy anh Tưng nửa nằm, nửa ngồi trên đất, mặt bình tĩnh, không kêu la gì. Máu chan hòa khắp nơi. Hai chân anh bị chúng bắn nát, nhưng ghê nhất là một cái cổ chân anh, bị đạn bắn gần lìa hẳn. Khi tôi run run cầm cái chân gần như rơi ra khỏi khớp, anh Tưng tỉnh bơ, cười nói giỡn, Anh làm nhẹ thôi, kẻo nó rớt ra luôn thì coi như bỏ! trong khi chúng tôi vừa băng bó cho anh, vừa khóc nấc! Thấy thương anh quá!”

Người bạn kể chuyện cho tôi hay là cũng trong đêm đó, một tên vệ binh ném lựu đạn bắt cá, chẳng may trúng miểng nhẹ, mà kêu khóc vang trời suốt đêm, không ai ngủ được! Tính can đảm của quân đội Cộng Hòa đã hiện rõ trên sự nhát đảm của bộ đội Cộng Sản.

Điều đau lòng là trong khi có hàng vạn người tù dũng cảm, coi cái chết nhẹ như lông hồng, lại cũng có rải rác một vài tên đốn mạt mang tính thú vật lạc lõng vào hàng ngũ quân đội Cộng Hòa. Tại K4, Suối Máu. Một hôm, có một nhóm được chuyển trại đến. Trong đó có tên P.L.D., cựu thiếu úy, đầu tròn như trái banh, mắt lơ láo. Khi hắn đến, anh em xôn xao, vì chính tên này đã báo cáo cho vệ binh bắn chết hai bạn đồng tù khác, trong đó có một chiến sĩ Nhảy Dù.

Nghe kể lại, hôm đó hai bạn tù được thăm nuôi, lập tức lén giấu mấy gói đường, bột, đồ ăn khô vào nóc nhà cầu để chuẩn bị trốn trại. Không ngờ hành động của các anh bị tên P.L.D. phát giác. Tên này rình hai anh đến nửa đêm, thấy hai anh rón rén đi giầy vào, chuẩn bị ra nhà cầu lấy đồ ăn, thì la ầm lên: “Báo cáo! Báo cáo! Có tên trốn trại!”

Thế là lập tức vệ binh ào tới, trói gô hai anh, chĩa súng bắt các anh đi tìm đồ giấu, theo lời chỉ dẫn của tên kia, rồi đẩy lên trại. Chỉ chừng tiếng đồng hồ sau, có tràng AK nổ dòn. Sau đó, một tên vệ binh xuống, bắt mấy anh đi lên nhặt xác hai người tù dũng cảm trốn trại, đem chôn.

Không phiên tòa, không luật sư, bọn Cộng Sản giết người lạnh tanh.
Trong thời gian gần 20 năm thi hành chính sách “tù cải tạo,” bọn chúng đã bắn, giết, hành hạ, đánh chết không biết bao nhiêu anh hùng. Ngay tháng đầu tiên của chính sách “tù cải tạo” chúng đã bắn chết một vị Thiếu Tá An Ninh Quân Đội tại Trảng Lớn, khi vị này cướp được quần áo vệ binh, tính trốn trại, nhưng không may, bị bắt gặp. Khi xử tử hình anh, chúng còn buộc mỗi trại chừng 10 người đi tham dự cuộc xử bắn. Nghe kể lại, khi bị bịt miệng, người hùng còn cố gắng hô to: “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!” nhưng bọn đao phủ đã đè anh xuống, rồi lôi vào cọc bắn.

Người viết cũng nghe kể tại môt trại kia, một tù nhân đã nhất định ở lại phòng, không ra hội trường học tập, đã bị một toán vệ binh xông vào trói gô, và đẩy anh đến hội trường. Khi đến đầu hội trường, gần “sân khấu” nơi mấy tên cán bộ đứng lải nhải, một tên vệ binh đẩy sấp anh bạn tù ngã xuống và hô to: “Bắn bỏ mẹ nó đi!” thế là một tràng AK gầm lên phóng thẳng vào tấm thân nằm dưới đất làm thân anh rung giật lên từng chập. Đến khi băng hết đạn, tên cán bộ chỉ tay vào bốn anh tù ngồi gần đấy, đang khóc lặng lẽ, buộc đứng dậy, bốc tấm thân nát bét kia đi chôn vùi đâu đó.

Đã 44 năm trôi qua nhưng hình ảnh những chiến sĩ anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn ngời sáng khắp nơi. Những tấm gương của các vị Tướng Lãnh tử tiết năm ấy, “Thành mất thì phải mất theo thành,” đã làm cho toàn thế giới ngưỡng mộ. Khắp địa cầu đều biết là Miền Nam đại bại không phải vì chiến đấu dở mà vì bị đồng minh phản bội.

Trong dịp tưởng niệm Tháng Tư Đen, người Việt hải ngoại cần đoàn kết hơn nữa, bỏ qua mọi dị biệt trong phương pháp, hình thức chống Cộng, mà cùng hợp nhau trên một mặt trận mới: Măt trận Chính Trị và Văn Hóa thì mới mong có ngày về lại quê hương dưới lá cờ vàng lộng lẫy, khôi phục lại danh dự của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một quân đội “chiến đấu như sư tử” (lời một Tướng Lãnh Nhảy Dù Hoa Kỳ).

Tháng Tư 2019
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Phút Tưởng Niệm:
Hôm nay, ngày 30 tháng 4 năm 2019!
Bằng giây phút này 44 năm về trước:

Sài gòn và cả đất nước Miền Nam đang thở những giây phút cuối cùng! Giờ hấp hối tận cùng của đau thương, tiếc nuối. Bắt đầu một trang sử đen tối….
Đất nước giã biệt độc lập, tự do, hạnh phúc. Riêng Sài Gòn thân yêu, từ đây phải “mang tên xác người!”

Bằng giây phút này, hàng trăm Người Lính VNCH, dùng súng bắn vào đầu mình, trái tim mình, vì không chịu nổi nỗi nhục của kẻ thua trận!
Qua hơn 20 năm chiến đấu, bảo vệ Nam tự do, nhìn lại hàng ngũ quân đội trên thế giới, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH không? Lãnh nhận những phản bội đau đớn, từ chính người đồng minh của mình.

Xin tất cả những Người Việt yêu chuộng tự do khắp nơi, giây phút này, hãy dành một nén hương lòng cho những người Lính anh hùng của quân lực VNCH, đã anh dũng ra đi trong những ngày cuối của cuộc chiến. Họ đã “vì dân mà chiến đấu, vì nước mà hy sinh” Thà chết chứ không hàng giặc!
Anh hùng có tử...nhưng khí hùng nào bất tử!

Kính dâng lên các Anh Linh Tử Sĩ một nén hương nhân Ngày Quốc Hận 30.4 năm nay, 2019.

Image

•DANH SÁCH MỘT SỐ NHỮNG QUÂN NHÂN QLVNCH TUẪN TIẾT
TRONG NHỮNG NGÀY THÁNG TƯ ĐEN 75


1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975
2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975
3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975
4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975
5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975
6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lạt 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
7- Đại Tá Lê Câu, trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tự sát ngày 10/3/1975
8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975
9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ - Cục An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh
12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM. 30/4/1975
13- Trung Tá Vũ Đình Duy, trưởng Đoàn 66 Đà Lạt. 30/4/1975
14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham m ưu. Tự sát ngày 30/4/1975
15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vinh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. 30/4/1975 tự sát cùng vợ
18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975
19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75
20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975
21- Đại Úy Tạ Hữu Di, tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975
22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975
23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
24- Trung Sĩ Trần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975
25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975
26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa 29/4/1975
27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt 30/4/1975
28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75
29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ,
trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM
31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, CS đặc biệt, 30/4/1975 tại Thanh Đa, Sài Gòn
32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa
35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975
36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu
39-…..và còn rất nhiều, rất nhiều tấm gương sáng của những người anh hùng quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
MatVit
Posts: 1315
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Image

VẢI BAO CÁT

Toàn mơ màng, suy nghĩ. Đã nhiều lần anh chàng tự nhủ, ừ, tại sao lại không, tại sao lại không nghĩ nhỉ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, thì tại sao lại không tận hưởng cái quyền độc lập và tự do không giới hạn này, nghĩ. Nghĩ thế, Toàn cứ một mình tiếp tục ung dung suy nghĩ, đố đứa nào báo cáo, chúng mày có giỏi thì kiểm thảo xem. Nghĩ, miên man hết chuyện này sang chuyện khác. Chuyện giày cao gót, chuyện giày saut, chuyện dép râu, rồi thì chuyện củ sắn củ khoai… Kể cả chuyện một mai anh trở về dang dở đời em…Ấy thế mà, cái phần gia tài duy nhất ấy rồi cũng cạn dần theo năm tháng. Toàn bây giờ như phiến đá, như cây rừng. Thôi ngủ yên đi con, ngủ cho qua cơn mộng dữ này. Đừng vui, đừng buồn, đừng hy vọng thì lấy gì mà tuyệt vọng.“Toàn, mày tiếc bữa ăn sáng phải không?”

Lại cái thằng Phương lý tài, Toàn dấm dẳn:

“Tiếc cái con củ cải tao ấy, càng đỡ phải nhịn đi cầu.”

“Không tiếc thì tại sao lại cứ thừ người ra như vậy?”

“Thừ với thiếc cái mẹ gì. Có bốn cái khoái trên đời…”

“Áp-phe thì phải vậy chứ. Muốn được cái nọ thì phải bỏ cái kia. Bỏ cái khoái thứ nhất đổi lấy cái thứ ba, lời thêm được cái thứ tư, cái đỡ phải nhịn… còn than gì nữa?”

“Cái khoản thứ ba ấy à, cái khoản này, mẹ, ’nhìn’ còn không có, có chi ‘chi’. Tao với cái khoản ấy đã ly tán từ cơn gió bụi này rồi.”

“’Ly tán’? Sắp ‘tha hương ngộ cố tri’ chứ.”

“Ừ thì ‘ngộ cố tri’.”

Không muốn nói chuyện thêm với Phương, Toàn quay đi. Nhưng cái vụ “ngộ cố tri” cứ lẩn quẩn trong đầu.

Đã bao năm rồi không thấy nó,
Mà ta vẫn sống, có lạ không?

Toàn lắc đầu, vậy mà cũng đòi làm thơ, lạ mẹ gì, thi sĩ mà không có óc tưởng tượng, hoặc kiếm được gì gợi hứng cho sự tưởng tượng, anh mới than thân như vậy. Chứ còn như ta đây:

Ta “sờ râu” ta cho đỡ nhớ
Không thanh tâm tuyền,
Không Thanh Tâm Tuyền!

Toàn bật cười, vừa ngâm nga một cách thú vị, vừa đưa tay xoa xoa, sờ sờ cái cằm lởm chởm râu. Bộ râu chẳng phải vật “tư hữu” của Toàn là gì. Vậy mà, có mỗi bộ râu để “sờ”, anh chàng cũng phải để một cách lén lút. Mà râu thì ở ngay trên mặt, ở ngay trên cằm chứ có kín đáo gì cho cam, để lén thế quái nào được, làm sao mà để “chui” cho được, hơi lởm chởm thế này cũng đã là một kỳ công rồi. Thành thử ra…

Ta sờ râu ta cho đỡ nhớ…

Râu thì cũng lại đành là, có đủ đâu để mà sờ, nhưng chút nữa đây, một chút nữa thôi, cái “cố tri”, cái mà Toàn phải sờ râu “cho đỡ nhớ” sẽ hiện ra, ngay trước mặt, bằng “xương”, bằng thịt.

Mắt Toàn sáng lên khi thấy toán tải thương thấp thoáng ngoài cổng trạm xá. Ta đợi em từ ba mươi năm. Cuối cùng thì Toàn cũng sẽ được nhìn, có thể còn được cả chạm tay vào cái “em”, cái mà lâu nay anh chàng chỉ được nhìn ngắm, chiêm nghiệm qua trí nhớ, mà mấy năm nay anh chàng chỉ được sờ, được mân mó qua chính cái… cằm của mình. “Cái ấy” đang đến gần, đang tình cờ đến gần và lọt thỏm vào tầm tay Toàn.

Toàn đã phải năn nỉ, ỉ ôi, đã phải nộp nguyên phần ăn sáng ngày hôm sau cho cái thằng Phương nhất định giành “công tác” cầm đèn với mình. Đói thì đã đói rồi, nhịn thêm một bữa ăn sáng cũng vẫn là đói, chứ có thằng Tây nào chết đâu. Nhịn phần ăn sáng để đổi lấy việc cầm đèn.

Cầm đèn!

Ừ, cầm đèn.

Chỉ cần nghĩ đến cảnh một chút nữa đây, tay trái cầm đèn soi thật rõ để tay phải lần cởi cái cúc áo, nhẹ nhàng cởi cái dải rút… Trời ơi, Phương ơi, dù có phải nộp mười phần ăn sáng cho mày tao cũng ừ, chứ đừng nói là có mỗi một phần. Thiên hạ cứ hay nói “ăn cái dải gì” một cách ngon lành, mà chắc gì đã hiểu được cái giá trị “kinh tế vĩ đại” này. Thế hóa ra cái “dải rút”, trong một vài trường hợp cũng “ăn” được đấy chứ, Phương nhỉ.

Toán tải thương dùng võng cáng vào phòng mổ một người con gái bị trúng mảnh đạn M-79 khi cô nàng đang cuốc đất. Nhìn con mồi mơn mởn nằm trên võng, mắt nhắm nghiền, mặt tái xanh, Toàn mỉm cười. Qua kinh nghiệm, rõ ràng là cô nàng thiếp đi vì sợ, chứ vết thương tuy nhiều, máu ra cũng khá, nhưng, ối giào, một loại kiến cắn, cao lắm cũng chỉ ngang với gà mổ là cùng, đâu nguy hiểm đến nỗi mà phải ngất đi như thế kia.

Bác sĩ Thông, buông dao đang băm dây lang nấu cháo heo xuống, rửa vội tay trong thau nước, quẹt quẹt hai tay vào hai bên hông, rồi chạy thẳng vào phòng mổ. Thiên chức thầy thuốc khiến bác sĩ Thông nhà ta đành phải buông dao nuôi heo chuyển sang cầm dao cứu người.

Phòng mổ, một gian nhà tranh, vách trét đất, bên trong kê một cái bàn bằng gỗ tạp để dao kéo.

Giường mổ, một cái chõng tre, có giăng mùng để che ruồi.

Toàn mặt mũi hớn hở đứng sẵn trong mùng, tay cầm đèn quơ qua quơ lại trên thân thể cô gái lúc đó vẫn chưa tỉnh, miệng không ngớt réo Phương đang ngồi hì hục quay máy phát điện bên ngoài:

“Mạnh tay lên chút coi. Đèn mờ quá.”

“Mờ cái gì? Có câm mồm đi không?”

“Mẹ kiếp, một bữa ăn sáng, nhớ nghe con.”

Bác sĩ Thông cười cười:

“Cũng mua bán được à?”

“Mua chứ! Ba bốn năm nay mới có một thuở mà, ông ơi. Vợ con thì đã chẳng…”

“Còn thằng Phương?”

“Nó dân địa phương ông ơi, vợ nó ở ngay đây, lâu lâu vẫn ‘mang’ vào cho nó. Ít nhất thì dù lén lút, ‘xuân thu’ nó cũng còn được ‘nhị kỳ’.”

“Thôi đủ rồi cha nội, làm việc đi. Mà cởi từ từ thôi nghe. Chỗ mấy vết thương, nhẹ tay nghe cha.”

“Yên tâm đi bác sĩ. Chỗ nào cũng nhẹ tay hết. Mọi chỗ, mọi chỗ đều nhẹ tay, nhẹ tay…”

Dù hai hàm răng đang trong thời kỳ giống như miền Nam vào những ngày cuối tháng Tư, Toàn vẫn dùng răng ngậm đèn để rảnh tay cởi quần áo cô gái. Cố gắng dùng thật ít ngón tay để cởi cúc áo, mấy ngón còn lại Toàn cố tình vi phạm hiệp định, lấn đất giành… da!

Người con gái vẫn nằm bất động, hai mắt nhắm nghiền.

Bác sĩ Thông nhìn Toàn, khó chịu, hơi gắt:

“Nhanh tay lên! Cái ngữ anh, chỉ cần làm y tá một buổi là tôi tống cổ ra tác chiến rồi.”

Hai hàm răng Toàn vẫn cắn lấy cái đèn:

“Thế ông mới là bác sĩ. Chứ tôi có phải là bác sĩ đâu mà ông không cho tôi động lòng… lương y như từ mẫu.”

Toàn vừa banh áo cô gái ra, vừa lẩm bẩm một mình:

“Cha mẹ ơi, gái quê, suốt ngày ngoài nắng mà sao da thịt trắng đến thế này!”

“Ông đang ‘khấn tiên sư’ gì đấy?”

“’Con khô mực’ này đâu có banh ra được, phải cởi ra chứ?”

“Làm lẹ đi cha nội!”

“Ông cầm hộ tôi cái đèn.”

Toàn vòng hai tay ra sau lưng cô gái, mũi dí sát vào một bên cổ cô nàng hít hít. Mùi khét nắng từ tóc, mùi hơi thở từ miệng, mùi da thịt giống cái từ dưới vành tai thốc thẳng vào mũi Toàn. Mê mẩn, lúc này, mùi gì từ trong thân thể cô gái toát ra mà chẳng làm anh chàng mê mẩn. Không biết vì lâu ngày không “nhớ chỗ” hay vì cố tình lính quýnh, mà anh chàng cứ như thằng hậu đậu, loay hoay mãi mới tháo được cái móc.

Ôi chao trắng quá nhìn không “da”.

Toàn liếm môi, Bộ ngực bi thương “co… ó…” rợn tình. Hai cái núm như hai “nốt ruồi son” đỏ hồng, con gái nguyên si? “Vú em chum chủm chũm cau; Cho anh bóp tí, nhỡ đau anh đền”. Trời ơi. Thế này thì có chết người ta không cơ chứ. Chết chứ, chết thật chứ chẳng chơi. Đền, nhất định là anh đền, dù đền bằng gì anh cũng vẫn cứ đền. Vẫn là cứ đền…

Những vết thương loang máu trên bụng, trên ngực làm cho nước da càng như trắng thêm. Da trắng thế này mà bì bạch thì phải biết! Anh chàng ngẩn ra, bị hai “nốt ruồi son” thôi miên mất rồi.

“Cởi nốt cái quần, rồi xê ra cho tôi làm việc.”

Tiếng bác sĩ Thông khiến Toàn chợt tỉnh. Bây giờ mới bắt đầu vào cao điểm của “chiến dịch tiến chiếm mục tiêu”.

“Cố tri” ơi, ta sắp “ngộ” nhau rồi!

Hai mắt Toàn hau háu.

Hai tay Toàn lính quýnh.

Toàn từ từ kéo quần cô gái xuống.

Hồi hộp.

Đợi chờ.

Trời ơi, bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày; Hôm nay tao mới gặp mày, “cố tri” ơi. Không còn phải tưởng tượng nữa, không còn phải sờ râu nữa. Tao sẽ nhìn mày tận mắt, tao sẽ bắt mày tận tay, tao sẽ day mày tận…

Toàn háo hức đắm chìm theo những tưởng tượng…

Bất chợt, hai mắt đang hau háu chợt dịu lại.

Lúng túng.

Hai tay đang tụt quần cô gái chợt khựng lại.

Ngập ngừng.

“Làm gì mà đứng nghệt ra vậy?”

Toàn như không nghe tiếng bác sĩ Thông, vẫn đứng trơ ra, mắt như dán vào mảnh vải che phần dưới thân thể cô gái.

Đờ đẫn.

Thẫn thờ.

Mắt Toàn như dại đi.

Trong đầu Toàn những hình ảnh. Giao thông hào, lô cốt, hầm chữ A, hầm chữ T. Tiếng bom, tiếng mìn, tiếng lựu đạn, không giật, sơn pháo. Những đợt tấn công, phản công. Những xác người, xác ta, xác địch, xác bạn, xác dân. Bữa ăn vội vã bên bìa rừng, một viên đạn bắn sẻ, thằng đệ tử ruột ngã ngửa, bát cơm biến thành bát máu. Đôi dép râu với cặp chân xanh mét vắt ngang giao thông hào. Và, bao cát, những bao cát đẫm máu một người dân, người thiếu nữ chết banh thây trên nóc một hầm trú ẩn, thịt da dính bầy nhầy trên những bao cát, óc trắng, tóc đen hòa với máu đỏ trộn lẫn với đất từ những bao cát… Cái chết bi thảm, cái hình ảnh tang thương của người thiếu nữ xuân thì ấy đã in đậm trong tâm trí Toàn, trở thành nỗi ám ảnh triền miên.

Bao cat lam ham chong dan va phao kich .jpg

Và, bao cát, phương tiện thô sơ tận cùng, có mặt khắp mọi ngõ ngách của chiến tranh, bảo vệ người sống, chôn vùi người chết, đẫm máu người banh thây, mà lại còn có mặt như thế này sao? Phải thôi chứ, phải hết rồi chứ. Bao cát, sao lại bao cát, chiến tranh đã hết rồi mà, đã hết lâu rồi mà.

Chém giết đâu còn nữa mà trong đầu Toàn chập cToàn những hình ảnh cố quên. Đạn bom đâu còn nữa, mà trong tai Toàn vang dội những âm thanh đã cũ. Chỉ vì miếng vải thô nhám này sao?

Toàn dụi mắt, quẹt mồ hôi trán, cố trấn tĩnh nhìn lại thêm một lần nữa miếng vải duy nhất còn lại trên thân thể cô gái. Và bỗng dưng, thấy tràn ngập trong lòng một niềm cảm động, xót thương.

Bằng tất cả gượng nhẹ, với tất cả ân cần, Toàn cúi xuống gỡ nốt phần vải thô nhám loang những vết máu khô. Chàng lẩm bẩm nói với cô, như thầm nói với người thiếu nữ thịt da bầy nhầy dính vào những bao cát trên nóc hầm trú ẩn ngày nào:

“Khốn khổ cho cô, và cũng khốn khổ cả cho tôi, đã đành. Khốn khổ cho đất nước tang thương này. Nhưng chiến tranh đã qua rồi, chiến tranh đã qua lâu rồi mà, mọi chuyện rồi sẽ phải qua đi. Yên tâm đi cô bé, vết thương cô sẽ lành. Mọi vết thương đều sẽ phải lành. Ngủ yên đi cô. Thôi nhé, hãy ngủ yên và đừng sợ hãi. Sẽ không có ai làm gì cô đâu.

Một ngày nào đó, chúng ta sẽ không còn phải dùng bao cát để làm gì nữa. Không dùng bao cát để làm hầm trú ẩn, không bao cát để đắp giao thông hào. Và, như những phụ nữ may mắn được sống trong những nước không bị tan nát bởi chiến tranh như đất nước chúng ta, cô sẽ có lụa là mềm mại để mặc lên thân mình con gái, chứ không còn phải dùng bao cát để làm vải che thân nữa!

Chiến tranh đã hết rồi mà…”

Cao Xuân Huy
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Quyền tối thiểu

Image
nhà văn Cao Xuân Huy

“Không, không thể có chuyện đó được”, nét mặt Toàn biến đổi thật nhanh, lúc hân hoan, lúc đau khổ, “Tao không tin được…”

Thành cười hóm hỉnh:

“Kính thưa mày, lúc gánh tranh về trại, chính mắt bố thấy vợ mày vào văn phòng ‘khung’, dù nhìn từ xa, dù vợ mày thay đổi khá nhiều, nhưng bố mày lầm thế chó nào được.”

“Tao không bảo mày lầm hay không lầm, tao chỉ không tin là vợ tao bị kẹt lại, và bây giờ mò ra tận đây thăm tao. Làm sao nó biết được là tao ở đây.”

“Bố mày chỉ trình với mày như vậy. Còn tin hay không là việc của mày, và mày được ra gặp hay không là việc của ‘khung’. Bố mày đếch có trách nhiệm.”

Toàn trầm ngâm:

“Phải chi lúc nãy tao gánh tranh về…”

“Mày vẫn không tin? Mặc xác mày. Thôi, cắt tranh đi con trai. Bố mày đếch nó chuyện với mày nữa.”

Toàn thắc mắc:

“Mày biết quá rõ gia đình tao. Vợ tao vượt biên đã gần cả năm nay. Tại sao lại có chuyện ra thăm nuôi…”

“Vấn đề không ở chỗ vợ mày bị kẹt lại hay không bị kẹt lại, mà vấn đề ở chỗ, một chút nữa, mày có được thăm nuôi hay không.”

Mặt Toàn ngẩn ra:

“Chắc là phải được thăm nuôi chứ. Tuy không bao giờ được biểu dương, nhưng tao chưa bao giờ bị ‘bêu dương’, chưa bị phạt, bị kỷ luật. Nhưng mà… Có chắc là vợ tao không đã… Hay mày nhìn gà hóa cuốc…”

“’Một trăm em ơi’ là vợ mày…”

“Vậy thì chắc chắn tao phải được thăm nuôi… vì tao chưa phạm phải điều gì mà trại gọi là sai trái.”

“Ừ, thì cứ hy vọng đi con. Nhưng, mày nhớ một điều, hôm nay không phải là ngày thăm nuôi. Thôi,” Thành nhìn ra vạt tranh, “cắt hết vạt này chắc là đủ một gánh nữa. Bố bó lại cho mày gánh về.”

“Giờ này mới gánh về thì còn nước mẹ gì nữa.”

*
Trời lạnh cóng tay, gió thổi buốt mặt, tranh ướt sương nhớp nháp, bẩn. Khó chịu. Toàn cúi xuống tiếp tục cắt tranh, lưỡi liềm cắt vào tay, máu lẫn vào sương ướt đỏ cả nạm tranh.

Toàn đưa ngón tay chảy máu vào miệng. Máu mặn. Anh tưởng anh đang uống những giọt nước mắt của em, người đàn bà đã chia sẻ với anh những tháng ngày hạnh phúc và khổ đau. Anh tưởng như đang ôm em vào lòng, đang ôm tấm thân bé bỏng nồng cháy, đang ngửi lại mùi thơm của mái tóc dài mà anh say mê ngay từ phút đầu gặp gỡ. Anh tưởng như đôi môi nứt nẻ vì lạnh, vì đói của anh đang ấp lên đôi môi em. Anh tưởng như anh đang hòa nhập vào em, tan ra trong thân thể vợ anh, nghe lại những lời nói dịu dàng của người đàn bà mãi mãi là của anh.

Toàn ngồi phệt xuống, ngả lưng trên đống tranh chưa bó. Không, anh và em sẽ không thể nói một lời nào, bởi vì vợ chồng mình có quá nhiều điều để nói. Khi người ta có quá nhiều điều để nói, người ta sẽ không nói được gì. Người vợ yêu quý của anh, em có biết anh nhớ em đến là chừng nào, anh yêu em biết là chừng nào… Em yêu của anh, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thôi, không lâu lắm đâu phải không em, không lâu đâu phải không em. Anh đang như điên lên đây em biết không?

Cùng với những tưởng tượng miên man, Toàn ngạc nhiên thấy những cảm xúc nôn nao, háo hức tưởng từ lâu không còn, đang cuồn cuộn như sóng dâng lên trong lòng. Người chàng hừng hực như làm tan biến cả cái lạnh buốt của mùa đông.

*
Tiếng Thành oang oang mắng nhiếc:

“Tiên sư nhà anh, bao nhiêu thằng mơ được ngủ ở nhà khách với vợ, anh lại vác mặt vào đây. Chắc là vợ anh có thằng khác, đếch cho anh ngủ chứ gì. Hay là anh đã liệt dương mẹ nó rồi, không còn làm ăn gì được nữa, sợ vợ nó chê, nó về kiếm thằng khác… Tiên sư nhà anh…”

Toàn nhíu mày, nói nhỏ:

“Nói thật với mày, không phải tao không yêu, không phải tao không thèm, cũng không phải tao không đủ sức, mà vợ tao cũng chẳng có gì thay đổi cả, tuy có xấu đi một chút, già thêm một chút. Nhưng, không được… tao không… thích, thế thôi.”

“Đồ ngu. mày là thằng đàn ông ngu nhì trên thế gian này, mày hiểu không?”

Toàn ngớ ra:

“Sao lại ngu nhì?”

“Vì tao luôn luôn là thằng nhân đạo. Nhân đạo thật chứ không phải nhân đạo vẹt như mình vẫn nghe ra rả hằng ngày đâu. Không bao giờ tao cho ai điểm nhất, và cũng không bao giờ cho ai điểm bét. Hạng nhì để còn chừa chỗ cho thằng khác hy vọng sẽ lên hạng nhất, và tao cho mày ngu nhì là để an ủi mày, để mày hy vọng may ra còn có thằng ngu hơn. Nhưng cái ngữ mày, tao thấy khó có hy vọng lắm.”

“Đồ đểu.”

“Chứ không à? bao nhiêu thằng bon chen, nịnh hót, kiếm điểm, làm ‘ăng ten’, bôi mặt hại anh em đồng đội, chỉ để mơ ước một ân huệ là được ngủ đêm với vợ trong ngày thăm nuôi. Mày ‘bất chiến tự nhiên thành’, vậy mà mày lại bỏ con vợ trẻ ngon lành của mày nằm trơ ra với muỗi mà mày chịu được à?”

“Mày tưởng tao không đau khi quyết định bỏ vào trại à?”

Thành dịu giọng:

“Mày nói thật đi, có gì trục trặc giữa vợ chồng máy không?”

“Không trục trặc mẹ gì cả. Tao không thích, thế thôi. Và dĩ nhiên là vợ tao không biết là tao được ngủ lại nhà khách.”

“Gàn, ngày trước mày là lính chứ có phải là thày giáo chó đâu mà giở thói đồ gàn ra đây. Mẹ kiếp, con không ăn muối con ươn, con không ngủ với vợ, trăm đường… vợ con hư, nghe không con.”

“Nếu chỉ vì không ngủ với chồng một đêm mà vợ tao hư, thì tao cũng đành chịu thôi.”

“Tiên sư cha nhà anh, vậy thì anh là thằng ngu nhất rồi, chứ không còn được hưởng ân huệ hạng nhì nữa. Không phải đêm nay chỉ có nghĩa đơn thuần là một đêm, hiểu không con trai. Bao nhiêu năm chờ đợi trước đây, và sau hôm nay, bao nhiêu năm sau này nữa, vợ anh không biết có còn được gặp cái mặt mẹt của anh hay không. Bố anh muốn nói lỡ một đêm là lỡ cả một quãng đời dài, nghe thủng ra không con trai? Sao anh dại thế? Anh hãy giải thích cho bố anh nghe đi.”

“Thì tao cũng đành chịu thôi, Thành ạ!”

“Chịu thôi?” Thành ngạc nhiên. “Như vậy là nghĩa làm sao?”

Toàn gằn giọng:

“Nghĩa là làm sao? Nghĩa là làm sao hả? Các anh được hưởng chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng. Cách mạng đã tha tội chết cho các anh, giáo dục các anh trở thành người tốt cho xã hội, lại còn cho gia đình đến thăm, lại còn được hưởng đặc ân ngủ lại đêm với vợ nữa…

Thành cười:

“Chứ còn gì nữa. Mẹ kiếp, mày đừng lập lại như một con vẹt những câu thằng nào cũng thuộc chứ.”

“Tao tưởng mày khá hơn một chút. mày hãy nghĩ xem. Ừ, hãy động não thử xem. Vợ chồng ngủ với nhau mà là một đặc ân à? Ngủ với vợ cũng phải có thằng cho phép à? Thú vật ngủ với nhau cũng không phải là đặc ân của ai hết mà. Hừ, thái độ ngạo nghễ thi ân. Tao hèn, tao không dám chống đối, nhưng ít nhất, tao cũng còn có cái quyền tối thiểu là không thèm nhận sự ban phát ấy chứ.”

Cao Xuân Huy
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Hoài Niệm‎Tưởng Nhớ Việt Nam Cộng Hòa
Cái Chết Oan Khuất Của Nhạc Sĩ Minh Kỳ


Phạm Tín An Ninh

Đây là một phần của sách 'Book:Các Bài Viết Của Phạm Tín An Ninh'

Cái Chết Oan Khuất Của Nhạc Sĩ Minh Kỳ
“Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Có những đêm nghe vọng lại, ầm ầm tiếng sóng xa đưa
Nha Trang cánh đồng bao la bát ngát
Hương quê dâng lên ngào ngạt, hòa cùng sức sống yên vui
…….
Ai ơi, người về cho ta nhắn với
Nha Trang quê hương dịu hiền, ngàn đời lòng tôi mến yêu”

Ai đã sinh ra và lớn lên ở Nha Trang, hoặc đã từng ghé lại đây đôi lần, đều không quên bài hát dễ thương này, mà cả một thời gian gần hai thập niên, đài phát thanh Nha Trang đã dùng làm nhạc hiệu mở đầu.

Cuối tháng 3/75, Nha Trang bị nhận chìm trong làn sóng đỏ. Người Nha Trang đã cùng chịu chung số phận. Kẻ bị giết, người bị tù đày, gia đình, bè bạn, thầy trò, chia ly tan tác. Số phận của nhạc sĩ Minh Kỳ, tác giả bài hát này (cùng nhiều bản nhạc về Nha Trang khác nữa) cũng đã gắn liền với định mệnh đau thương của thành phố mà ông đã được sinh ra, hết lòng yêu thương và đã gởi trọn lòng mình qua những dòng nhạc thiết tha trìu mến đó. Ông đã bị giết. Cái chết thê thảm và oan khuất của ông có lẽ được ít người Nha Trang, - dù còn ở trên quê nhà, hay tha phuơng khắp chốn - biết đến

Người viết bài này, có cái cơ duyên được ở chung cùng một trại tù với ông, và cũng đã được tâm sự cùng ông một vài ngày trước khi ông chết.

Đầu tháng 3/75, sau khi Ban Mê Thuột mất, những đơn vị từng sống chết với Cao Nguyên có lệnh triệt thoái. Tôi theo đơn vị, chỉ còn một phần tư quân số, lần lượt “di tản chiến thuật” vào Cam Ranh, rồi Vũng Tàu để tái tổ chức, trước khi tham dự những trận đánh cuối cùng “cô đơn và buồn tẻ” ở những địa danh xa lạ: Cần Giuộc, Bến Lức, thuộc tỉnh Long An, ngăn bước chân địch quân đang ồ ạt kéo về vây hãm Sài Gòn.

Ngày 28/4/75, tôi và cả vợ con, theo lời hẹn của người bạn chí thân, là SQ Hải Quân, có mặt tại Bến Bạch Đằng. Nhưng đến giờ chót, trước sự ngỡ ngàng và tức giận của người bạn có lòng, tôi quyết định không cùng vợ chồng anh ấy xuống tàu di tản. Có lẽ anh không hiểu được là tôi cũng đã khổ tâm biết dường nào để có cái quyết định “sống chết” ấy, mặc dù tôi biết trước là rồi tôi cũng phải trả một cái giá, chắc không nhỏ. Tôi không đành lòng bỏ lại những đồng đội đã theo tôi từ những quê quán miền Trung, mà giờ đây đã trở nên xa tít mịt mờ trong tay giặc, và nhất là cha tôi, người cha đã làm gà trống nuôi con từ lúc tôi mới lên ba, mà tôi được tin là ông đã bị bắt và đang bị giam giữ ở đâu đó ngoài Nha-Trang. Tôi không thể xa ông trong hoàn cảnh khốn cùng này.

Điều đáng ân hận nhất là, dù ở lại để chấp nhận mọi điều, nhưng tôi cũng không bao giờ có cơ hội gặp lại cha tôi. Ông đã chết trong trại cải tạo Đá Bàn, cuối tháng 6/76, và đúng ngay vào cái đêm tôi bị chở bằng xe “bịt bùng” từ trại tù An Dưỡng Biên Hòa ra bến Tân Cảng để xuống tàu Sông Hương ra Bắc. Mãi gần năm năm sau tôi mới nhận đuợc tin buồn.

Trại tù An Dưỡng Biên Hòa, cũng chính là nơi tôi đã gặp nhạc sĩ Minh Kỳ, và đã tâm tình cùng ông một ngày trước khi ông chết.

Tôi trình diện tại Trường Đại Học Kiến Trúc, bị đưa lên nhốt tại trại tù binh Tam Hiệp. Một tháng sau được chuyển đến trại tù An Dưỡng Biên Hòa, nằm bên cạnh phi trường quân sự Biên Hòa. Trại An Dưỡng này, trước là một khu quân sự, về sau đuợc chỉnh trang lại để tiếp nhận những quân nhân tù binh của ta được miền Bắc trao trả theo hiệp định Paris. Họ được nghỉ ngơi, bồi dưỡng cả sức khỏe lẫn tinh thần ở trại An Dưỡng này trước khi trở về đơn vị cũ và gia đình.

Đến trại này, tôi gặp những anh em ở đây từ trước cùng một số mới đuợc chuyển từ các trại khác tới. Gồm đủ các quân binh chủng, kể cả những sĩ quan biệt phái về các Bộ, và Cảnh Sát. Trong số này có nhạc sĩ Minh Kỳ. Tôi ở Nhà 1, còn anh Minh Kỳ ở Nhà 3 (?), cách nhau khu nhà bếp (gọi là hậu cần).

Cũng như những người Nha Trang khác, lớn lên vào những năm giữa thập niên 50, đầu thập niên 60, tôi thuộc lòng những bài hát Nha Trang của nhạc sĩ Minh Kỳ, nhưng chưa hề biết tên thật và cũng chưa được hân hạnh gặp ông. Trong Nhà 1, tôi nằm bên cạnh hai anh bạn tù lớn tuổi hơn tôi. Một anh từ Trường Chỉ Huy Tham Mưu, một anh làm ở Nha Quân Pháp.

Hai anh này rất tốt bụng và vui tính, có quen biết nhạc sĩ Minh Kỳ. Biết tôi là dân Nha Trang, nên có lần anh đã giới thiệu tôi với anh Minh Kỳ.

Nhạc sĩ Minh Kỳ lớn tuổi hơn tôi nhiều, nên tôi gọi ông bằng Anh và xưng em.. Có lẽ bản tính của anh vốn thầm lặng, ít nói, và đặc biệt trong hoàn cảnh như vừa trải qua cơn ác mộng, chưa biết ngày mai sẽ ra sao này, anh lại càng ít nói hơn. Gặp anh vài ba lần, tôi chỉ nói lên lòng hâm mộ của tôi về những bài hát Nha Trang, mà với tôi bây giờ nó lại là những kỷ niệm vô giá. Anh thường chỉ trả lời tôi bằng một nụ cười buồn.

Một đêm, cuối tháng 8/75 (31/08/75?),vào khoảng 09:30 tối, cả trại tù đang chìm trong bóng đêm với cả ngàn người tù đang nằm thao thức, bởi tâm tư còn nặng trĩu lo âu, đang chờ đợi những điều bất trắc nào đó sẽ đến với số phận mình, bỗng một tiếng nổ long trời kèm theo những tiếng la thất thanh, và rồi tiếng còi báo động, tiếng chát chúa trên loa phóng thanh, lệnh cho tất cả “cải tạo viên” nằm yên tại vị trí, kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn tại chỗ.

Khi đám tù chúng tôi chưa hết hoang mang, thì tiếng xích sắt xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí túa vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo chúng tôi đứng dậy ngay tại chỗ, hai tay để trên đầu. Tôi có cảm giác là chúng tôi sắp bị xử tử…

Chúng tôi đứng bất động như vậy cho đến gần 10 giờ trưa. Nhìn qua khe cửa, tôi thấy mấy anh em tù ở nhà 3 khiêng một số người bị thương lên bệnh xá.

Cả ngày sau, tất cả tù đều không được ra khỏi nhà, ngoại trừ đi ra cầu tiêu và ở đó cũng có đầy lính gác. Sau đó, đúng vào ngày 2 tháng 9, Quốc khánh của VC, tất cả chúng tôi được đưa lên hội trường. Ngồi chễm chệ trên dãy bàn trước mặt chúng tôi là những “thủ trưởng” không mang quân hàm, nên chúng tôi cũng chẳng biết họ là ai. Chúng tôi bị “nghiêm khắc” cảnh cáo là “có bọn phản động trong các anh đã dấu diếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để nhằm phá hoại thành quả kách mệnh”(!). Sau đó chúng tôi làm “bản tự khai tội ác” và bắt đầu bài học số 1, “Đế Quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta”.

Khi ấy chúng tôi mới biết tiếng nổ tối hôm ấy đã xảy ra tại Nhà 3, làm chết và bị thương khá nhiều. Mọi dấu tích đã được thu dọn sạch sẽ, như chưa hề có việc gì xảy ra.

Có điều cái “sự cố” thảm khốc ấy, không phải như lời “lên lớp” hù dọa của mấy ông thủ trưởng, bởi một điều rất dễ hiểu là ngay từ lúc vào trại cho đến bây giờ, đã qua hằng trăm lần kiểm soát, vã lại hành trang mang theo của mỗi người tù đâu có cái gì, ngoài hai bộ áo quần, cái khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. Tiền bạc và tư trang khác đã được “kách mạng” giữ hộ ngay sau khi nhập trại. Vậy thì một trái lựu đạn có phép màu nào lọt vào trong trại. Điều quan trọng hơn, là nếu người tù nào dám liều mạng mang đuợc lựu đạn vào trại thì cũng chỉ nhằm mục đích giết kẻ thù chứ sao lại giết chết bao nhiêu bè bạn của mình?

Những câu hỏi đó đã có sự trả lời chính xác ngay sau đó. Một số bạn tù ở Nhà 3 và Nhà kế bên kể lại như sau:

Nhà 3 (chứa khoảng 80 tù nhân, đa số là SQ Cảnh Sát) nằm đối diện ngay trước Khu Trực Ban và Nhà Vệ Binh của Trại, chỉ cách nhau chừng hơn năm mét và một hàng rào kẻm gai. Khi ấy tổ của nhạc sĩ Minh Kỳ đang họp để phân công nấu bếp vào ngày mai, thì một quả lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết tại chỗ và khoảng 8 người bị thương. Nhạc sĩ Minh Kỳ bị thương rất nặng, được anh em tù khiêng lên bệnh xá cùng với những anh em bị thương khác. Ông bị thương ở ngực, bụng và cổ rất nặng. Biết mình sắp chết nên trăn trối với những bạn tù:

- Tụi mày về nói với vợ tao ráng nuôi con tao, chắc tao không sống được.

Sau đó máu ở ngực và cổ chảy ra lênh láng. Ông vừa la vừa rên :

- Sao chân lạnh quá!

- Lạnh quá! Sao bụng tao lạnh quá! Sao ngực tao lạnh quá!

Ông chết từ từ, chết từ chân đến bụng rồi đến ngực cho đến lúc tắt thở.

Một cái chết mà chính Ông cảm nhận được, biết được nó đến với mình từng phút từng giây.

Sáng sớm hôm sau, anh em bạn tù, với sự giám sát của toán vệ binh VC, đem chôn các bạn tù vắn số của mình trên một mảnh rừng bên ngoài vòng đai phi trường quân sự Biên Hòa.

Ai cũng biết là trái lựu đạn giết chết nhạc sĩ Minh Kỳ cùng những người bạn tù khác, là do chính bọn VC quăng từ khu trực ban của Trại phía bên kia hàng rào.

(Có một số Sĩ Quan ngành đạn dược còn cho là tiếng nổ ấy có thể là tiếng nổ của đạn B40 hay B41, có sức tàn phá còn hơn cả lựu đạn).

Và cũng sau ngày ấy, chúng tôi phải chịu một trò chơi trả thù ác độc từ phía những người chiến thắng. Mỗi ngày chia nhau đi gỡ các bãi mìn trong hàng rào phi trường quân sự Biên Hòa.

Họ đã bày ra cái trò giết người dấu tay ở Nhà 3, để rồi lại lấy đó làm lý do giết tiếp những người còn lại bằng cái trò chơi đẫm máu “gỡ mìn” này.

Những bãi mìn này do Công Binh của ta thiết lập chằng chịt dọc theo hệ thống phòng thủ phi trường. Bây giờ, không có sơ đồ những bãi mìn, chúng tôi lại là những người không chuyên môn về mìn bẫy, có nhiều anh em giữ các chức vụ tham mưu, hay đuợc biệt phái về các bộ khác, chưa hề thấy lại quả mìn sau ngày rời khỏi quân trường. Vậy mà bây giờ phải tham dự cái trò chơi bất nhân này. Ngày nào cũng có mìn phát nổ, người chết, vài người mất tay, mất chân, nhưng vẫn không làm giao động được tấm lòng của những người ” kách mạng!”.

Và cũng chính nhờ được cắt cử đi đào huyệt chôn một người bạn tù chết mìn, sớm trả “nợ máu” sau ngày miền Nam “giải phóng” này, đám chúng tôi mới phát hiện dược bốn ngôi mộ mới đã nằm sẳn tại “nghĩa trang” vô danh trong một mảnh rừng hoang. Trước mỗi ngôi mộ đuợc đắp đất sơ sài đó có cái bia làm bằng một mảnh gổ nhỏ. Bọn chúng tôi lén đọc tên trên từng tấm bia viết bằng sơn đỏ, trong đó có tên Vĩnh My (Vĩnh Mỹ?). Đó chính là tên trong khai sinh của nhạc sĩ Minh Kỳ (Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ). Dưới sự canh gác nghiêm ngặt của đám vệ binh, tôi chẳng biết làm gì khác hơn là khi đi ngang trước mộ anh để trở về trại, chắp hai tay trước ngực và cúi đầu tưởng niệm anh cùng những bạn bè xấu số đã chết tức tưởi cùng anh.

Lòng tôi nhói lên đau đớn như vừa bị một nhát chém hư vô nào đó. Trong tôi vừa mới mất thêm một điều gì, mà với tôi nó trở thành thiêng liêng hơn là kỷ niệm. Nhiều đêm sau đó tôi trằn trọc cả đêm không ngủ. Dư âm những bài hát NhaTrang của anh lúc nào cũng văng vẳng bên tai tôi. Tâm tư lúc nào cũng mơ màng đến thành phố Nha Trang, đến ngôi trường Võ Tánh, nhớ da diết những kỷ niệm ấu thơ, của những ngày đi học, và hình dung đến từng khuôn mặt bè bạn thân quen… Cũng mới đây thôi, mà bây giờ tưởng chừng như đã là một quá khứ thật xa xăm, mơ hồ như kiếp trước.

Ba mươi năm chiến tranh trên quê hương đã đem lại biết bao điều bi thảm. Vậy mà sau khi chiến tranh chấm dứt lại còn nhiều bi thảm hơn. Cái chết của nhạc sĩ Minh Kỳ cũng chỉ là một trong hàng vạn, hàng triệu điều oan khiên bi thảm đó. Nhưng chúng ta xót xa và nhớ đến nhạc sĩ Minh Kỳ, bởi chính vì ông là một nghệ sĩ, một người đã sống và cống hiến cho đời bằng chính trái tim mình. Đặc biệt với những người Nha Trang và những người yêu Nha Trang, đã mang ơn Ông vì Ông đã cho chúng ta những dòng nhạc biểu tượng của quê nhà, mà chúng ta sẽ mang theo dư âm tiếng hát cho đến suốt cuộc đời.

Với tôi, những đau đớn này cứ tưởng chỉ chôn chặt trong lòng, không ngờ sau khi xem chương trình nhạc Lê-Dinh trên Thúy Nga Paris trước đây, trong đó nhạc sĩ Lê Dinh có nhắc tới cái chết của nhạc sĩ Minh Kỳ, và mới đây là chương trình Huyền Thoại Lê Minh Bằng trên Asia, đã làm tôi nhớ thật nhiều đến cái chết của Ông và ngồi xuống viết lại những dòng này.

Xin được thay một nén hương lòng đốt lên cho một người đồng hương, đồng tù, bỏ bạn bè ra đi bằng một cái chết thảm thương, oan khuất… Cũng để được nói lên lòng tiếc thương một nhạc sĩ tài hoa đã làm Nha Trang sống mãi trong lòng người. Và nếu được phép, xin gởi một lời chia buồn thật muộn màng nhưng với trọn tấm lòng đến gia đình Ông.

Bắc Âu, một ngày không có mặt trời

phạmtínanninh
nguyenvsau
Posts: 1135
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Thầy Giáo Cũ và Lá Cờ Vàng
Nguyễn Duy-An
Tôi bàng hoàng xúc động thật lâu khi nhận được điện thoại của một người bạn học gọi từ Pennsylvania báo tin thầy cũ của chúng tôi là thầy N. mới từ Việt Nam qua Mỹ du lịch và thầy rất mong được gặp lại tôi. Thầy tôi đang ở nhà của một người cháu ở vùng Tây Nam tiểu bang Virginia , cách nhà tôi gần 3 giờ lái xe. Tôi gọi điện thoại xuống để chào thầy và hẹn cuối tuần sẽ xuống đón thầy về nhà nhưng thầy bảo cứ để thầy đi xe lửa lên Hoa Thịnh Đốn rồi đón thầy ở nhà ga, và “đó là mệnh lệnh” nên tôi đành phải vâng lời.
Sau khi nói chuyện điện thoại với thầy, tôi đã ngồi thẫn thờ cả tiếng đồng hồ tưởng nhớ lại kỷ niệm hơn bốn năm về trước, lúc trở về Việt Nam thăm gia đình, tôi đã hỏi thăm và tìm cách đến thăm Thầy sau gần 30 năm cách biệt. Nếu không có một người bạn học dẫn tới, chắc chắn tôi không thể nào nhận ra thầy cũ của mình... Tôi chỉ nấc lên được một tiếng “thầy” rồi ôm chầm lấy thầy mà khóc òa trong tức tưởi! Thầy tôi đó, một ông lão gầy gò ốm yếu, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi trắng như tuyết, và vẫn chưa được “trả quyền công dân” sau bao nhiêu năm bị tù đày vì đã làm thầy của bao nhiêu người “quyền cao chức trọng” trước năm 1975. Thầy tôi chỉ là một nhà giáo dạy trường tư nhưng đã bị giam cầm và quản chế lâu hơn rất nhiều sĩ quan và công chức khác vì lúc nào thầy cũng “ngẩng cao đầu và đứng thẳng lưng” để không mất đi tư cách của một nhà giáo. Thầy tôi đã quyết định không đi Mỹ theo diện đoàn tụ, cũng chẳng nộp đơn theo diện H.O. , chỉ muốn đi du lịch một lần cho biết trước khi về với ông bà tổ tiên.
Sáng Thứ Bảy tôi thức dậy rất trễ vì tối hôm trước ngồi chuyện trò với thầy mãi tới gần 2 giờ sáng mới đi ngủ. Vừa bước xuống nhà tôi đã thấy thầy đang ngồi uống trà và đọc báo ở phòng khách. Nghe tôi chào, thầy tháo cặp kiếng lão rồi nói:
- Đúng là “đi một ngày đàng học một sàng khôn” con ạ. Mới đọc vài tờ báo đã học được nhiều chuyện hay về đời sống của người Việt mình bên Mỹ… Con uống trà hay cà phê? Vợ con đã để sẵn phích nước sôi, hộp trà, và cà phê trên bàn. Chắc thầy làm ồn nên con giật mình hả?
- Dạ không ạ. Bình thường con dậy sớm lắm. Thầy dậy lâu chưa ạ?
- Mỗi đêm thầy ngủ có vài ba tiếng thôi. Con mệt cứ lên ngủ tiếp đi.
- Con ngủ thẳng giấc rồi thầy ạ. Để con pha vội ly cà phê rồi chở thầy ra Eden chơi. Gần 10 giờ sáng rồi, thầy trò mình ra trễ khó tìm chỗ đậu xe lắm... Buổi chiều vợ chồng con và các cháu sẽ đưa thầy lên DC chụp hình và thăm Nhà Trắng, Quốc Hội, Tháp Bút Chì, Viện Bảo Tàng và những đài kỷ niệm khác.
- Tuỳ con. Nhưng thầy không muốn gia đình con phát bịnh vì phải lo tiếp đãi thầy.
* * * * *
Trong lúc chờ vắng xe để quẹo trái vào “Cổng Tam Quan” trước trung tâm Eden , thầy tôi hỏi lớn:
- Đường này họ đặt tên là “Đại Lộ Sàigòn” hả con?
- Dạ. Hồi đầu năm Thành Phố Falls Church cho phép cộng đồng Việt Nam để thêm tên “ Saigon Boulevard ” song song với tên đường chính thức là “ Wilson Boulevard ”. Còn bên trong khu Eden , tất cả các đường ngang dọc đều mang tên Việt Nam hết đó thầy.
- Người Việt mình bên này hay thật!
- Mai mốt thầy sang California hay Texas sẽ thấy nhiều trung tâm lớn hơn Eden nữa, và sinh hoạt người Việt dưới đó còn mạnh gấp mấy lần trên này thầy ạ.
Tôi vừa quẹo xe vào cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên:
- Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá Cờ Vàng… Ôi! Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ nhé.
- Dạ… Mà thầy không sợ gặp rắc rối lúc trở về Việt Nam sao? Mấy người “du lịch” khác họ sợ liên luỵ lắm nên…
- Ăn thua chi con. Ai sao kệ họ. Phần thầy đã nếm đủ rồi, chẳng có gì phải sợ hãi! Con lái xe tới gần chỗ cột cờ đi.
- Dạ… nhưng phải đứng xa xa mới chụp được thầy ạ. Cây cột cờ cao quá.
- Ừ nhỉ. Mà con nhớ chờ lúc gió nó bay bay rồi mới chụp cho đẹp nhé. Nhìn hai lá cờ Việt – Mỹ tung bay trong gió mà thấy lòng quặn đau con ạ. Ôi! Mấy chục năm rồi!
Tôi nghe giọng thầy nghèn nghẹn như không muốn thoát ra khỏi đầu môi. Tôi biết thầy mình đang xúc động lắm. Hình như đôi mắt của thầy cũng long lanh ngấn lệ…
Sau khi chụp mấy tấm hình với nhiều góc độ khác nhau, thầy cầm tay tôi nói nhỏ:
- Con đi với thầy tới chỗ cột cờ nhé.
- Dạ.
Tôi theo thầy đến bên cột cờ. Thầy tôi trịnh trọng đưa tay sờ vào cột cờ như một cái gì linh thiêng lắm, rồi từ từ ngửa mặt, nheo mắt ngắm hai lá cờ đang tung bay phần phật dưới nắng ban mai. Mãi một lúc lâu thầy mới quay lại thầm thì bên tai tôi:
- Thầy trò mình đứng im cầu xin cho những người đã hy sinh bỏ mình vì quê hương con nhé.
- Dạ. Một phút mặc niệm phải không thầy?
- Đúng. Đã có hàng trăm, hàng ngàn người bỏ mình dưới Lá Cờ này đó, con còn nhớ không? Ta bắt đầu cầu nguyện cho họ nhé.
- Dạ.
Sau mấy phút im lặng dưới cột cờ, tôi nhận ra sự thay đổi khác thường trên khuôn mặt già nua vì tuổi tác của thầy. Tôi biết biết chắc chắn đằng sau đôi mắt u uẩn đau buồn của thầy còn chất chứa bao nhiêu tâm sự không biết giãi bày cùng ai. Tôi đưa thầy dạo qua một vài cửa tiệm nhưng thầy tôi cứ lững thững đi theo như một kẻ mất hồn! Tôi dừng lại bên “quầy báo” trước cửa tiệm Phở Xe Lửa. Mặc dầu “người bán báo” hôm nay không phải là “chú thương phế binh” quen biết nhưng tôi cũng lên tiếng theo thói quen:
- Chú cho cháu xin mỗi thứ một tờ.
- Có ngay. Có ngay. 15 Đô tất cả.
Thầy cầm tay tôi giặc giặc:
- Ở nhà có mấy tờ Hoa Thịnh Đốn, Phố Nhỏ… rồi đó con. Sáng nay thầy đã đọc.
- Dạ. Không sao thầy ạ. Con mua ủng hộ các chú gây “quỹ thương phế binh”.
- Ồ. Quý hóa quá!
Chờ lúc tôi nhận lại tiền thối và xếp báo xong xuôi, thầy tôi trao cho “chú bán báo” tờ giấy 5 Đô và nói nhỏ:
- Ông cho tôi góp mấy đồng nhé.
- Dạ… Dạ… Cám ơn. Xin lỗi ông đây là…
Tôi đỡ lời:
- Thưa chú đây là thầy cũ của cháu mới từ Việt Nam qua chơi.
Không để tôi nói thêm, thầy tôi lên tiếng:
- Tình chiến hữu! Tình chiến hữu! Đẹp thật! Đẹp thật! Các ông làm hay quá.
Rồi quay sang tôi, thầy tiếp tục:
- Con chụp cho thầy một tấm hình với ông anh đây. Con chụp cẩn thận để lấy hết hình cái sạp báo nhé.
- Dạ.
Không biết thầy tôi và “ông bạn mới” to nhỏ những gì mà chú ấy phải chạy nhờ người trông dùm sạp báo để đi theo thầy tôi chụp chung một số hình dưới “sân cờ” với những nụ cười thật rạng rỡ trên khuôn mặt của cả hai người. Sau đó, thầy tôi nhất định không chịu vào tiệm ăn sáng, cứ nằng nặc bắt tôi chở về nhà để đọc báo và “con đi in ngay cho thầy mấy tấm hình!” Cũng may vợ và các con tôi đã dậy, và đang chuẩn bị bữa trưa trước khi chở thầy đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

* * * * *
Thầy kính yêu,
Bao nhiêu năm ở Mỹ, hầu như tuần nào con cũng ghé Eden , và đã hơn một lần con đậu xe sát bên cột cờ, nhưng chưa bao giờ con xúc động như mấy phút cùng thầy cầu nguyện dưới cột cờ buổi sáng hôm đó. Đúng như cha ông đã nói — “không thầy đố mầy làm nên” — con đã quên mất ý nghĩa linh thiêng của Lá Cờ nếu như con không được một lần chứng kiến “cảnh đoàn viên” của thầy và Lá Cờ Vàng ở Eden sau bao nhiêu năm cách biệt. Mãi mãi con vẫn là đứa học trò bé nhỏ của thầy. Thầy không những đã dạy con qua sách vở và bài giảng mà còn qua chính gương sống của thầy. Con cầu xin để bài học về “Lá Cờ” không phải là bài học cuối cùng thầy dạy cho con.

Nguyễn Duy-An
MatVit
Posts: 1315
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Image

KBC CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA.

Thanh Liêm.
Trước năm 1975. tôi là quân nhân trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Không hiểu tại sao tôi lại thích những con số các KBC của các đơn vị quân đội. Rất tiếc là tôi không phục vụ trong ngành QUÂN BƯU hay làm việc có liên quan đến hành chánh, văn thư. Bởi vậy mỗi lần được nhìn thấy trên những bao thư hay các giấy tờ mà có ghi KBC là tôi để ý và cố học thuộc lòng…

Sau mấy năm sưu tầm và có dịp tiếp xúc với những quân nhân phục vụ trong ngành QUÂN BƯU tôi đã biết phần nào về KBC.
Mỗi KBC gồm có 3 chữ cái viết hoa.. KBC là viết tắt của chữ KHU BƯU CHÍNH. Tiếp theo là 4 con số. (Nghĩa là số ngàn)
Mỗi KBC là một đon vị và là địa chỉ để liên lạc văn thư, thư từ…
KBC của quân lực Việt Nam Cộng hòa được bắt đầu bằng số : 3,4,6 và 7.
KBC mang số nhỏ nhất là : KBC.3001 = Tiểu đoàn 51 Pháo Binh.
KBC mang số lớn nhất là : KBC.7889 = Tiểu đoàn 475 Địa phương quân (Long Xuyên).

KBC của các đơn bị BỘ BINH và KHÔNG QUÂN thì không theo nguyên tác nào cả. Riêng quân chủng HẢI QUÂN khi mới thành lập thì tất cả đều mang số 33 đầu và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến cũng mang số 33 vì TQLC lúc đó thuộc về HẢI QUÂN. Cho đến năm 1972,1973 các đơn vị tân lập của HẢI QUÂN và TQLC mới mang KBC giống bên BỘ BINH.

Thông thường thì một KBC là 1 đơn vị quân đội. Nhưng có khi 1 KBC lại có thêm chữ /A hay /B như trường hợp Trung tâm huấn luyện Quang Trung KBC.4091. Trung Tâm huấn luyện này lại được chia ra làm 2 là Liên Đoàn A và Liên Đoàn B. Bởi vậy một KBC thành 3. KBC.4091 là Bộ chỉ huy trung tâm. Còn KBC.4091/A là Liên đoàn A và KBC.4091/B là Liên đoàn B.
Lại có trường hợp như Nha Quân Pháp (trực thuộc Bộ quốc Phòng) KBC.4386. Còn KBC.4386/A lại là Toà án quân sự Sài Gòn. Cả 2 KBC trên đều ở cùng 1 doanh trại là số 3A Bến Bạch Đằng, Quận 1, Sài-Gòn (sát cạnh với Phủ đặc ủy trung ương tình báo).

Thêm trường hợp nữa là chúng ta đã là quân nhân của Quân lực Việt Nam cộng hòa thì ai cũng biết KBC.4002 là Bộ tổng tham mưu/QLVNCH. Nhưng Bộ chỉ huy Quân Cảnh cũng nằm trong cùng doanh trại với Bộ TTM nên mang KBC.4002/QC một thời gian dài. Sau mới được cấp KBC riêng là KBC.4258.

Lại có trường hợp thường thấy ở các đơn vị tác chiến lưu động. Thí dụ Tiểu đoàn 1 TQLC, KBC.3333. Tiểu đoàn đang đi ‘’hành quân’’ thì trên bì thư được ghi là KBC.3333/HQ. (chắc là ghi như vậy để thư chuyển được nhanh hơn ?)

Sau đây là KBC của một số Tiểu đoàn trừ bị nổi tiếng của QL/VNCH

● Các Tiểu đoàn Nhảy Dù có:
– Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù KBC.4563
– Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù KBC.4247
– Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù KBC.4794
– Tiểu đoản 4 Nhảy Dù (không thành lập)
– Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù KBC.4709
– Tiểu đoàn 6 Nhảu Dù KBC.4143
– Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù KBC.4919
– Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù KBC.3119
– Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù KBC.4804
– Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù KBC.3727
Năm 1974 và 1975 binh chủng Nhảy Dù thành lập và dự định thành lập thêm các tiểu đoàn 12,14,15,16,17 và 18 Nhảy Dù.

● Các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến có:
– Bộ tư lệnh TQLC KBC.3331 (Đặt tại trại Lê Thánh Tôn, 15 đường Lê Thánh Tôn, Quận 1 Sài Gòn).
– Tiểu đoàn 1 TQLC KBC.3333
– Tiểu đoàn 2 TQLC KBC.3335
– Tiểu đoàn 3 TQLC KBC.3337
– Tiểu đoàn 4 TQLC KBC.3339
– Tiểu đoàn 5 TQLC KBC.3357
– Tiểu đoàn 6 TQLC KBC.3300
– Tiểu đoàn 7 TQLC KBC.3340
– Tiểu đoàn 8 TQLC KBC.6618
– Tiểu đoàn 9 TQLC KBC.6626

● Nói đến đơn vị trừ bị không thể quên Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù KBC.3693 với 2 câu thơ:

"An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt cách dù vi quốc vong thân"

● Về binh chủng Biệt Động Quân ngoài các đơn vị BĐQ biên phòng thì còn lại cũng là những Tiểu đoàn trừ bị. Sau này các đơn vị BĐQ biên phòng đổi thành Tiểu đoàn. BĐQ gồm có 17 Liên đoàn BĐQ.Mổi liên đoàn có 3 Tiểu đoàn. Như vậy binh chủng BĐQ có trên 50 Tiểu đoàn. Vào năm 1975 binh chủng BĐQ định thành lập thành sư đoàn.

Sau đây là KBC của một số đơn vị BĐQ:
– Bộ chị huy BĐQ KBC 4205 (Đặt tại trại Đào Bá Phước, đường Tô Hiến Thành, Quận 10 Sài Gòn).
– Tiểu đoàn 33 BĐQ KBC.3446 Sài Gòn
– Tiểu đoàn 32 BĐQ KBC.3447 Phong Dinh
– Tiểu đoàn 51 BĐQ KBC.3505 Sài Gòn
– Tiểu đoàn 52 BĐQ KBC.3506 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 37 BĐQ KBC.3507 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 38 BĐQ KBC.3508 Sai Gòn
– Tiểu đoàn 39 BĐQ KBC.3509 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 43 BĐQ KBC.3516 Vĩnh Long
– Tiểu đoàn 44 BĐQ KBC.3517 Cần Thơ
– Tiểu đoàn 34 BĐQ KBC.4013 Sai Gòn
– Tiểu đơàn 31 BĐQ KBC.4272 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 35 BĐQ KBC.4400 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 36 BĐQ KBC.4454 Biên Hòa
– Tiểu đoàn 42 BĐQ KBC.4533 Cần Thơ
– Tiểu đoàn 60 BĐQ KBC.7508 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 61 BĐQ KBC.7509 Đà Nẵng
– Tiểu đoàn 62 BĐQ KBC.7510 Kontum
– Tiểu đoàn 63 BĐQ KBC.7511 Pleiku
– Tiểu đoàn 64 BĐQ KBC.7512 Hậu Nghĩa
– Tiểu đoàn 65 BĐQ KBC.7513 Tây Ninh
– Tiểu đơàn 85 BĐQ KBC.7553 Chi Lăng
– Tiểu đoàn 86 BĐQ KBC.7554 Kiến Tường
– Tiểu đoàn 88 BĐQ KBC.7560 Kontum
– Tiểu đoàn 89 BĐQ KBC.7561 Quảng Đức
– Tiểu đoàn 90 BĐQ KBC.7562 Kontum
– Tiểu đoàn 91 BĐQ KBC.7563 Tây Ninh
– Tiểu đoàn 92 BĐQ KBC.7564 Phước Long (tức là căn cứ Tống Lê Chân đã nổi danh trong quân sử VNCH vỉ đã tử thủ mấy trăm ngày khi bị VC bao vây….)

Trên đây là một số những KBC của các đơn vị cấp Tiểu đoàn TỔNG TRỪ BỊ của QLVNCH. (ngoại trừ 1 số Tiểu đoàn BĐQ biên phòng đồn trú cố định ở biên giới). Ngoài ra các binh chủng trên còn có các đơn vị khác tuy cùng màu áo nhưng là các đơn vị không trực tiếp tác chiến như tiếp vận, hành chánh, yểm trợ, pháo binh, quân y……Hoặc cấp cao hơn Tiểu đoàn là Liên đoàn,lữ đoàn hay chiến đoàn….tất cả đều có KBC riêng.

● Như tôi đã nói ở trên các đơn vị Hải quân KBC thường mang số 33.
Và rất nhiều đơn vị Hải quân thành lập sau, KBC không mang 2 số 33 đầu.
Sau đây là một số KBC của binh chủng Hải Quân:
– Bộ tư lệnh Hải Quân KBC.3317 Bến Bạc Đằng, Sài Gòn
– Bộ tư lệnh hạm đội KBC.3328
– Trung tâm huấn luyện HQ Nha Trang KBC.3318
– Trung tâm huấn luyện HQ Cam Ranh KBC.3319
– Giang đoàn 25 xung phong KBC.3303 Cần Thơ
– Giang đoàn 28 xung phong KBC.3305 Long Xuyên
– Giang đoàn 21 xung phong KBC.3321 Mỹ Tho
– Giang đoàn 51 tuần thám KBC.3332 Cát Lái…

Tại Quân khu 3 và Biệt khu thủ đô nếu nhập ngũ thường được tập trung ở Trung Tâm 3 tuyển mộ và nhập ngũ (ở Quang Trung) KBC.4113. Chính nơi đây các tân binh được khám sức khỏe,phân loại máu, phân loại (về sức khỏe), cấp quân trang, thẻ bài. Sau đo thường được chuyển qua Trung tâm huấn luyện Quang Trung ở gần đó để thụ huấn quân sự. Sau khóa sẽ được phân phối quân số cho tất cả đơn vị trên toàn quốc. Riêng các tân binh được về các binh chủng đặc biệt như Nhảy dù, TQLC,BĐQ hay các chuyên ngành khác như truyền tin,công binh, Pháo binh,tiếp vận,quân y,hành chánh tài chánh…..sẽ tiếp tục theo các khóa chuyên nghiệp mà đã được chọn.

Đài phát thanh quân đội được mang KBC.3168. Không thể nào quên được với giọng nói trìu mến của xướng ngôn viên Dạ Lan.

Các quân nhân chuẩn bị du học. Đa số là quân nhân của quân chủng Không quân và Hải quân thì hầu hết phải qua cánh cổng của trường sinh ngữ quân đội ở Gò Vấp KBC.3095.

● Sau đây là KBC của một số trường và trung tân huấn luyện:
– Trung tâm huấn luyện Quang Trung KBC.4091
– Trường Bộ Binh Thủ Đức KBC.4100
– Trường võ bị Đà Lạt kBC.4027
– Trường hạ sĩ quan Đồng Đế (Nha Trang) KBC.4311
– Trường Quân cảnh (Vũng Tàu) KBC.3042
– Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp (Bà Rịa) KBC.4432
– Trường Quân khuyển (Gò Vấp) KBC.4941
– Trung tâm huấn luyện Lam Sơn (Dục Mỹ) KBC.4926
– Trường Thiếu sinh quân (Vũng Tàu) KBC.4437

Các quân nhân nào ở Quân khu 3 và Biệt khu thủ đô mà biệt phái ngoại ngạch (như các công chức, giáo sư, chuyên viên….) hoặc chờ thuyên chuyển sau khi xuất viện (bị thương,bệnh….) hoặc chở giải ngũ thì quân số thuộc về Trung tâm quản trị trung ương KBC.4204 (đường Tô Hiến Thành, Quận 10, Sài Gòn)

● Sau đây là một số KBC của quân chủng Không quân:
– Bộ tư lệnh Không quân KBC.3011 (Tân Sơn Nhứt)
– Đại đội tổng hành dinh Không quân KBC.3009 (Tân Sơn Nhứt)
– Sư đoàn 1 Không quân KBC.3198 (Đà Nẵng)
– Sư đoàn 2 Không quân KBC.3126 (Nha Trang)
– Sư đoàn 3 Không Quân KBC.3004 (Biên Hòa)
– Sư đoàn 4 Không quân KBC.4652 (Phong Dinh)
– Sư đoàn 5 Không quân KBC.4324 (Tân Sơn Nhứt)
– Sư đoàn 6 Không quân KBC.3533 (Phù Cát)

Chỉ ba chữ KBC và vài con số kèm theo vừa đưa tôi nhớ lại một số đơn vị Hải quân,Không quân,Bộ binh. Chữ KBC đã gắn bó với đời lính nhiều tháng, năm ./.

Thanh Liêm.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests