CHÚA ƠI! TÌNH YÊU CHÚA CAO VỜI BIẾT BAO..
Chu Tất Tiến
Lạy Chúa! Đôi khi con chỉ muốn giơ hai tay ra, giữa một khoảng không gian rộng lớn, trên núi, trên đồi cao, và dùng hết sức để kêu lên, hét to lên một câu: "Chúa ơi! Con yêu Chúa vô cùng!" Con yêu Chúa thật đấy! Không bởi vì những ơn vật chất Chúa cho con, mà chính vì tình yêu Chúa vĩ đại quá, không có sách vở nào, câu hát nào, lời nói nào, chữ nghĩa nào, dù thiên kinh vạn quyển, cũng không tả hết lòng Chúa yêu chúng con, từ hơi thở chào đời đến khi nhắm mắt về với Chúa. Chúa biết, con không phải là tu sĩ, không phải là nhà truyền giáo, nên không thể ca ngợi Chúa hàng ngày được. Con chỉ có thể họa hiếm lắm, gửi đến Chúa vài lời chân thành, còn ngoài ra, con lại trở về đời sống trần tục, đầy đấu đá, chém giết không nương tay, nơi mà người ta đùa rằng "chốn gió tanh, mưa máu". Con biết bản thân con không bao giờ tu trì được. Ngày xưa, hơn bốn chục năm trước, khi con còn học nội trú Đắc Lộ, con quậy quá chừng, mà Cha Cố Tường lại cứ nghĩ là con hiền lành. Ngài thấy con sưng tội, chịu lễ, hát thánh lễ sáng sớm, nên gọi con lên phòng Ngài, vỗ vai con bảo: "Tao thấy mày ngoan lắm, mày đi theo tao không?" Con cười cười, thưa với Ngài: "Con không dám đâu!" Ngài bảo con cứ về suy nghĩ đi, lúc nào thích thì nói với Ngài. Con đi ra mà lòng vui vui, con nghĩ thầm: "Cha ơi! Con không không thích làm Cha, con chỉ thích làm Bố thôi!" Ngài đâu biết là con quậy số một ở trong lớp. Con chính là thằng duy nhất, dám thách thằng Trịnh-Đa-Kao, tên du đãng sừng sỏ, chửi thề như máy, đánh lộn. Hai thằng đợi các Cha, các Thầy đang ăn cơm chiều, rủ nhau ra sân đá dăm, vật nhau ằng ặc. Cả lớp đứng dưới hiên coi, vỗ tay vang rân. Con cũng đánh nhau với thằng Lâm- Sì- cà- cồ nữa. Con đang đứng trước cửa lớp, thì thằng Lâm-Sì-cà-cồ nói giỡn: "Mẹ, chúng mày biết thằng Tiến Tây Lai nó đẻ hồi nào không? Mẹ nó có bầu vào đúng ngày Tây càn vào làng nó!" Thế là con nổi cơn, nhẩy tới, quật cho nó một đòn nháng lửa. Từ đó, nó sợ con luôn. Còn thằng Thanh-Răng-Vàng, có hai cái răng vàng ngay cửa, cứ bị con chọc. Hôm đó, con đứng bên cạnh giường ngủ, vừa vỗ tay vừa hát: "Cười lên đi cho răng vàng sáng chói! Hát lên đi cho răng vàng le lói.." Thế là nó nhào tới, đấm con một cái cũng nháng lửa. Con bất ngờ bị đòn, đuổi theo nó, đánh tơi bời. Nó bỏ chạy, vì biết con có "nghề", vừa hiền vừa mất dậy, vì tuổi thanh niên, con thiếu tình yêu. Con bị đòn đánh ở nhà, từ năm 12 tuổi, bị đánh đau quá xá rồi, ngất đi sống lại, nên da con lì như da trâu. Mẹ con tống con vào nội trú vì chịu không nổi cái tính lì đòn của con. Do đó, mà con không tha ai hết. Con còn quậy thầy Tổng Trác tưng bừng luôn! Thầy đâu biết con với thằng Trịnh-Đa-Kao, du đãng số một đó, rủ nhau ăn trộm cơm cháy nhà bếp, đem về dấu trong mùng, đợi thầy Tổng Trác ngủ, là hai thằng lấy hai miếng cháy ra, nhai rôm rốp. Giường Thầy ngủ ngay cửa, trấn không cho thằng nào đi chơi đêm, nghe thấy tiếng nhai, bật dậy, gầm lên:
-Thằng nào đó!
Cả hai thằng con im re! Đợi thầy ngủ tiếp, lại nhai tiếp. Thầy vác cái roi đi tuần, tụi con cười muốn sặc. Biết thầy không đánh mấy thằng học trò đệ nhị, chỉ đánh mấy thằng đệ tam trở xuống mà thôi. Tụi con còn phá thầy kinh khiếp luôn. Một hôm, con thách thằng Trịnh đá một cái mà gẫy cái cọc giường tròn, to cả hai xăngtimét. Thầy nổi giận lôi đình, chửi quá trời. Hai đứa con tức, lén vất một gói phân lên nóc giường Thầy, đang ngủ, Thầy phải dậy đi giặt mùng, vừa giặt vừa chửi mấy tên học trò khốn nạn. Nghĩ lại thấy tội nghiệp Thầy quá! Nhưng hồi đó, tụi con đâu có nghĩ chi, chỉ thích chọc phá cho cuộc đời đỡ tủi. Cả năm trời, con không được một người nhà thăm nuôi. Mỗi tháng con về nhà một lần, nhận tiền học xong, nói mấy câu với Mẹ, là trở lên trường ngay, không có chuyện trò tình cảm chi. Để tìm hương vị gia đình, bên ngoài trường học, con hay trốn ra ngoài, đi lang thang với thằng Trịnh. Nó rủ con đi ăn phở, rồi ăn cắp chanh, đường, đổ đầy vào túi, đem về cho anh em. Có hôm không có tiền, cũng đi ăn, nó bỏ chạy, để con lại. Thấy vẻ mặt con hiền lành, chủ tiệm cũng không nỡ nặng tay, tha Tào! Cái vẻ mặt trắng trẻo thư sinh của con, đã lừa gạt nhiều người, cả cha Cố Tường cũng tưởng con thánh thiện. Cha đâu biết, con đã từng ôm anh tu sinh H., (bây giờ là cha Giám Đốc), học cùng lớp, có bộ mặt trắng hồng như con gái, mà chọc ghẹo: "Em H. ơi! Anh thương em quá!" Con quậy phá không chỉ nam sinh, mà nữ sinh, con ghẹo tuốt luốt. Em Thanh, một trong năm em nữ sinh của lớp con, lúc nào cũng điệu đà, đi xe Vê lô Sô Lếch đen, mặc đồ trắng bóc, vào lớp khinh khỉnh nhìn tụi con trai, tu sinh, nội trú như một lũ khỉ. Cô nàng chả thèm liếc đến một lần. Con tức mình, lấy một cục phấn trắng nhuộm mực tím đen, ném một cái trúng cái mũ trắng của cô nàng treo trên cái đinh ngay trên đầu nàng. Cái mũ bỗng biến thành đen bẩn, khiếp đảm. Cô nàng thấy cái mũ mình loang lổ, ngồi gục đầu khóc nức nở. Lòng con trùng xuống một giây phút thôi, rồi lại đâu vào đấy. Gần ba mươi năm sau, gặp lại nhau, con hỏi nàng:
-Ê! Hồi ấy, tôi ném cục phấn làm dơ cái mũ của bà, bà có giận tôi không?
Nàng cười hì hì:
-Tôi mà biết là ông thủ phạm, tôi băm vằm ông nát nhừ ra! Tôi muốn xẻo thịt, lóc da cái thằng cha nào hại cái mũ tôi, cái mũ mà tôi cưng còn hơn cưng trứng ấy!
Vậy mà cha Cố Tường lại bảo con đi tu!
Ở nội trú, không ai thăm nuôi, không có tiền đãi bạn bè. Con lên năn nỉ thầy Phán là "nhà nghèo, chưa có tiền học", Thầy thấy tội nghiệp, cho khất. Con lấy tiền học tháng đó, tiêu đi, rồi lấy tiền tháng sau đóng vào tháng trước. Hồi đó, hơn 1,200 đồng cả ăn cả học là một số tiền lớn. Đến tháng chót, thì không còn tiền, phải xách va li về nhà, nói dối nữa là Cha cho về sớm. Rồi bắt đầu là đi kiếm tiền, khi chưa có bằng Tú Tài một. Dĩ nhiên là giao báo, làm cu li, chứ có việc nào cho thằng chưa có cái mảnh bằng nho nhỏ đút túi. Và, cứ thế mà đời con lao vào những ngõ hẹp không đèn. Toàn rác rưởi ô uế. Khinh bỉ, bần hàn. Xua đuổi từ chỗ này đến chỗ khác. Nhiều ngày không có ăn. Nhiều bữa lạnh, cảm. Lang thang đầu đường, xó chợ, ngủ trên vỉa hè, ngủ dưới gầm xe đò, ngủ trên xích lô, ngủ ngồi, ngủ đứng. Con không còn gia đình, chỉ có hai ông anh họ, thương con, thỉnh thoảng con lê gót đến, mấy ông anh ấy dúi cho ít tiền. Nếu không có tiền thì cho cái đồng hồ, cái áo vét, bảo: "Mày cầm ra tiệm, lấy ít tiền mà ăn." Con còn hai thằng bạn thân, lâu lâu ném cho một ổ bánh mì. Thằng Trịnh dẫn con đi giật đồ, cướp cạn ở góc Đa Kao, kiếm được cái gì thì đem đi cầm bán, đổi bánh mì ăn đỡ. Không được học, thì làm sao thi đỗ! Khi con rớt Tú Tài, đã leo lên nóc nhà, muốn nhẩy xuống tự tử, nhưng .. nghĩ đến Chúa, nên lại thôi. Chúa ơi! Hồi đó, con khóc với Chúa quá chừng! Chúa bỏ con rồi! Con bỏ Chúa luôn! Con không cần Chúa nữa! Còn Mẹ Maria ư? Chả thấy đâu! Chỉ là kỷ niệm! Những kỷ niệm nhạt nhòa, sương khói! Mẹ Hằng Cứu Giúp chỉ có trong tranh lộng lẫy ở nhà thờ Hà Nội, Bùi Chu, Hải Phòng, Hải Dương, rồi Sàigòn.. Chỗ nào treo hình Mẹ, là chỗ đó có đèn sáng rực rỡ. Nhưng Mẹ đi vắng rồi! Mẹ bỏ con đói rách, dơ bẩn, khốn khổ, nguy nan. Con đi theo tội lỗi và miếng cơm manh áo, có lý hơn! Con chỉ mỗi một gia tài là bức tranh con vẽ Mẹ Lên Trời, vẽ bằng Pastel, con say mê lắm. (Hồi đó, con vẽ chân dung nổi tiếng trong trường, tiếc là không dùng nghề đó kiếm ăn được). Hình Mẹ mặc áo xanh trắng, đang nhìn lên trời, hai tay chắp lại, chung quanh là những sợi giây bay bay theo gió, cũng khá đẹp, cao hơn một thước, treo ở nhà con, bị thằng bạn lại chơi, lấy mất. Hỏi nó, nó bảo đem tặng cho một ngôi nhà thờ ở miền Trung rồi! Thế là hình ảnh Mẹ trong con không còn nữa! Cả Chúa và Mẹ, đối với con hồi đó, là những huyền hoặc, không thực tế bằng chén cơm con mua được, khi không có cơm, thì ăn cháo trắng với muối, mỗi tô một đồng. Có hôm con ăn bánh mì chấm với nước mắt, vừa ăn vừa khóc. Nước mắt con rơi xuống ổ bánh mì không, mằn mặn.
Chúa ơi! Con chiến đấu với cuộc đời bằng cả trái tim "quậy" nhưng chân thành của con. Không đọc kinh tối nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn đi lễ Chúa Nhật và lễ Giáng Sinh, vì thói quen mà thôi. Tội lỗi, dĩ nhiên, cao như núi. Cho đến một lần nào đó, con không còn chịu nổi sức nặng cuộc đời nữa, con đã lê vào nhà thờ Đền Chúa Cứu Thế, quỳ dưới chân Mẹ mà khóc nức nở. Con nhìn lên, vẫn thấy cặp mắt Mẹ hiền dịu như năm xưa. Con tưởng như nghe Mẹ nói chuyện với con, an ủi con bằng những lời dịu dàng nhất mà chưa bao giờ con nghe được. Đột nhiên, con nghiệm ra, Mẹ vẫn đâu đó, bên con, trong những giờ phút sinh tử, con lại thấy có một bàn tay nào đó, cứu con ra khỏi cơn ngặt nghèo. Hóa ra Mẹ vẫn ở đó, Chúa vẫn có đó, không phút nào con lại không có Chúa. Con chỉ không nhìn thấy mà thôi. Mắt con đã mù không thấy. Tai con đã điếc không nghe. Trí con đã ngu, nên không nhận thức. Và con bừng tỉnh, con cố gắng thay đổi, học hành. Dần dần, con đường trước mặt, thông hơn, từng bước, con đi tới, dù trở ngại, dù tội lỗi luôn luôn theo như bị một hồn ma, bóng quế nào ám ảnh, nhưng với lời cầu nguyện, với sự phù trợ của Chúa, lời cầu nguyện của Mẹ, con đã luôn thắng lướt mọi vất vả. Số con, hình như đã được đặt để là không bao giờ an nhàn, thoải mái, dù cho chỉ một năm. Biết bao lần, cái chết tưởng như đã đến, cái thua tưởng chừng đã mang, súng chỉ vào đầu, đạn đã lên nòng, dao chém vào tim, rồi tù đầy, nhục nhã, ê chề, rồi làm ăn thất bại, rồi đời ập đến tặng cho tai họa, tiếng oan chập chùng, dầy vò đủ thức chỉ mong cho mình chết dấp dưới chân, thì thiên hạ mới thỏa lòng độc ác, nhưng mọi việc chỉ như là những tiếng nhắn gửi: "Con đừng ngã lòng, vẫn có Cha đây!" Một lần, khi còn ở tù, vì ương ngạnh không chấp nhận quỳ trước cán bộ trại, còn thách thức cán bộ xử lý, viên quản giáo đã nổi giận, rút súng, lên đạn, chĩa vào đầu, và chỉ trong tích tắc, sẽ dùi một viên đạn đồng vào đầu, nhưng cũng trong tích tắc ấy, con đã nghĩ đến Chúa, nếu Chúa muốn con chết, thì chốc nữa đây, con sẽ ngã xuống, nhưng nếu Chúa không muốn, chẳng có kẻ nào giết con được. Đúng thế, sau khi đằng đằng sát khí để nòng súng vào đầu con, đột nhiên, viên quản giáo đã lẳng lặng cất súng đi, nói giọng hìền hòa hơn, và cho cả toán con về trại. Một lần nữa, cũng bởi tính thách thức du đãng của con, viên chính ủy mặt nám đã rờ tay vào súng, và nghiến răng: "A! tên này muốn chết!" nhưng một anh bạn, giáo sư TĐT, hiện ở Canada, đột nhiên lanh trí can thiệp: "Báo cáo cán bộ, anh T. đang bị ấm đầu, từ sáng vẫn nói tầm bậy tầm bạ, cán bộ đừng để ý." Rồi anh gọi to: "Anh em ơi! ra khiêng anh T. vào, cạo gió tiếp đi!" Thế là anh em nhào ra, đè con xuôáng, cạo gió liên tục, khiến tên chính ủy ngơ ngác, buông tay khỏi súng. Chúa đã cứu con trong một thoáng giây, một chớp mắt. Chưa hết đâu, trước đó, khi còn ở Càtum, con cũng được Chúa cứu lạ lùng lắm. Hôm ấy, con vừa được thăm nuôi xong, cầm nguyên một bịch thư của gia đình các bạn gửi ké vào trại. Thấy không có lính đi theo, con lẻn bò vào một bụi tre, mở thư ra xem trước. Vừa mở lá thư đầu ra, con hoảng hốt, rùng mình vì đó là một lá thư của một người vợ bất mãn cùng cực với chế độ, gửi cho chồng. Trong thư , toàn là những lời chửi rủa Hồ chí Minh, và đảng Cộng một cách tàn tệ, không còn nhân nhượng chút nào. "Tên giặc già Hồ Chí Minh khốn nạn đã ăn cướp hết tài sản nhân dân rồi! Bọn chó đẻ Việt Cộng kia toàn là lũ ăn cướp! Chúng nó tịch thâu mất nhà mình rồi!.." Những lời chửi rủa đó, con nghĩ thầm, mà lọt vào tay bọn gác, thì chỉ một tiếng "đoàng" là đời con đứt ngay. Vừa nghĩ xong câu đó, con giật mình vì một mũi súng lạnh toát chọc vào lưng! Một tên lính gác theo dõi con, cùng bò vào bụi tre, thấy con đang cầm một tập thư , gần hai chục cái, quát lên: "Thằng này! đưa đây cho tao!" Con lặng lẽ đưa cho hắn, và nghĩ thầm: "Thôi! thế là vĩnh biệt em! Vĩnh biệt các con!' Tên gác thấy tập thư dầy quá, dựng súng vào ngang hông, hai tay cầm tập thư, đọc và đọc. Con không còn cách nào khác, chỉ biết nhắm mắt lại, nhìn lên trời, gọi Chúa: "Chúa ơi! Cứu con được không?" Lập tức, ngay sau khi đọc hết lá thư "phản động" ấy, tên gác lại đưa nguyên cả tập thư cho con, và nói giọng rất hiền:
"Thôi! Cầm lấy! Về trại đi!" Rồi hắn tửng tửng bỏ đi ra! Con chẳng hiểu sao, chỉ biết đứng lặng một lúc vì chân còn rung, và lại ngước lên trời, thầm thĩ:"Tạ ơn Cha!" Trong khi đó, cũng một người tù khác, nhận được một miếng giấy nhỏ, có vài lời chống đối, đã bị nhốt vào con-nếch, rồi đánh chết trong đêm.
Cũng chưa hết ơn của Cha, còn một lần suýt bị cưa chân vì bị hoại huyết, một lần BS ĐL và BS Ph. đã cố khiêng con ra trạm xá lần chót trước khi đem đi chôn.. rồi cũng được cứu một cách đặc biệt.
Từ đó, con đã nhận rõ là "Tình Yêu Chúa cao vời biết bao, mà con biết đắp đền thế nào, để cho cân xứng, Chúa ơi!" Từ đó, tình yêu duy nhất con mang trong lòng là Tình Yêu Chúa. Về sau, con rất thích câu chuyện tưởng tượng về một người vất vả, chán nản, đi dọc bãi biển, và đổ lỗi cho Chúa:
-Chúa ơi! Sao trên mặt cát biển này chỉ có mỗi dấu chân con? Con cô đơn quá!
Chúa nhỏ nhẹ nói:
-Không phải đâu, con ạ! Chỉ có một dấu chân, mà là dấu chân của Cha đấy! Cha đã bồng con trên tay đi suốt bãi biển này mà!
Con cũng thích những bài hát "Tình Chúa bao la như biển cả, tình con nhỏ bé như hạt sương". Nhiều bài hát tuyệt vời lắm, nhưng như con đã viết từ đầu, không một lời nào có thể ca tụng đủ tình yêu Chúa. Một người Cha trần thế hy sinh tính mạng cho đứa con của mình cũng là chuyện cao thượng, nhưng dù sao, người Cha ấy cũng chỉ là một xác thịt bình thường cùng được tạo ra bởi Thượng Đế. Tình yêu người Cha xác thịt ấy cũng chỉ giới hạn, vì chính vật chất đã làm cho giới hạn. Hai cánh tay chỉ che nổi một góc nhỏ xíu. Chỉ khi chính Thượng Đế, Đấng đã tác tạo ra con người, tự trên trời cao, hạ mình xuống trần gian, để tự mình hy sinh cái "Thượng Đế" của mình, để chuộc tội cho những cái tạo vật tầm thường, dơ bẩn, tội lỗi này, tình yêu đó, sự hy sinh đó, mới là vĩ đại, mới duy nhất, mới không thể ví von hay so sánh được. Chỉ khi chính Thượng Đế, Đấng có thể trách phạt con người, lại tha thứ cho tội lỗi của con người, không quở mắng tàn tệ, mà con nâng niu: "Này, cả nhà hãy làm tiệc, đãi đằng cho đứa con tưởng đã mất, nay trở về nhà Cha!"
Bởi vậy, con viết những chữ này, dâng lên Chúa, thay cho lời cảm tạ, dù hết sức mình, nhưng cũng vẫn trong hạn chế của ngôn từ, vật chất; con chỉ biết nhắc lại một câu hát "Con chẳng biết nói gì, khi nhìn lên Thánh Giá! Con chỉ biết cầu xin "Chúa ơi, đừng bỏ con!"
Chu tất Tiến.