Bình Luận , Quan Điểm

tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

“Ðoạn Trường Bất Khuất”: Ký ức một công chức bị 20 năm tù cải tạo



Image


Tác giả Phạm Trần Anh (thứ hai từ phải) đang nhận một bó hoa ngợi ca tinh thần bất khuất của ông do Giáo Sư Song Thuận, câu lạc bộ Hùng Sử Việt, trao tặng. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)



WESTMINSTER, California (NV) - “Viết cuốn sách này, không để kể khổ mà muốn vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của Cộng Sản Việt Nam và là một cáo trạng tội ác Cộng Sản Việt Nam qua những đau khổ của hàng trăm ngàn anh em tù nhân cải tạo”.

Ðó là lời tâm tình của người cựu tù cải tạo Phạm Trần Anh, tác giả cuốn “Ðoạn Trường Bất Khuất,” được ra mắt vào chiều hôm Thứ Bảy 13 Tháng Mười vừa qua tại nhật báo Viễn Ðông.

Phạm Trần Anh là một công chức xuất thân từ trường Quốc Gia Hành Chánh trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, bị nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam kết án chung thân sau khi bị bắt vào ngày 3 Tháng Bảy, 1977 vì “hoạt động lật đổ chính quyền Cộng Sản”. Ðược Hội Ân Xá Quốc Tế can thiệp nên được trả tự do ngày 3 Tháng Tám, 1997, sau hơn 20 năm tù. Mãi đến Tháng Chín năm 2006, sau nhiều lần tìm cách ngăn cản, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải để ông xuất ngoại đoàn tụ với gia đình ở Hoa Kỳ.

Phạm Trần Anh có lẽ là người cựu tù đến Mỹ muộn màng nhất. Nhưng sự muộn màng cũng là thời gian cho ông thẩm thấu được hết những dã tâm của người Cộng Sản Việt Nam đối với đồng bào của họ để cuốn sách ông viết “Ðoạn Trường Bất Khuất” được đầy đủ cân lượng cho những gì ông viết lên.

Trong lời giới thiệu tác giả, ông Châu Văn Ðể, một cựu Quốc Gia Hành Chánh, trong ban tổ chức, đã phát biểu rằng: “Tinh thần bất khuất của anh Phạm Trần Anh đã tiêu biểu cho anh em Quốc Gia Hành Chánh và Phạm Trần Anh đã làm vẻ vang cho tập thể Quốc Gia Hành Chánh”.

Ông Ðỗ Thái Nhiên, một nhà tranh đấu tích cực trong cộng đồng người Việt ở Nam California, nói về cuốn sách “Ðoạn Trường Bất Khuất” rằng: “Chúng ta có thể có hai cái nhìn về những cuốn sách hồi ký, một là ca tụng mình hay áo thụng vái nhau và hai là thực sự giá trị. Với cuốn sách này, chúng ta nên nhìn như thế nào?”

Sau khi lược lại tình hình quan hệ Việt Hoa, Việt Mỹ, để thấy rằng Cộng Sản Việt Nam đã thần phục Tàu và Mỹ thì đang có những chính sách vừa lôi kéo, dụ dỗ vừa lên án Cộng Sản Việt Nam, ông Ðỗ Thái Nhiên nhận định rằng “chỉ có dân tộc Việt Nam mới bảo vệ được lãnh thổ Việt Nam và câu trả lời cho câu hỏi trên nằm trong tác phẩm này”.

Người tù Phạm Trần Anh, trong những năm tháng bị tù qua các trại tù cải tạo của cộng sản đã có nhiều thời gian cùng chung tù với nhà thơ Tú Kếu, Trần Thúc Vũ, Thượng Tọa Thích Thiện Minh... và những đối tượng cần phải triệt hạ đối với Cộng Sản Việt Nam, nên đã chứng kiến hoặc là chính thân mình hoặc là chia sẻ cùng với những người này nên những gì Phạm Trần Anh viết ra là những sự thật, không tô vẽ, phóng đại.

Những sự thật ấy chỉ hiểu và thông cảm được khi “có qua cầu mới hay” đúng như những người giới thiệu tác giả và tác phẩm đã nói. Bởi vì những sự thật ấy chưa hề xảy ra trong thực tế từ cổ chí kim, từ Ðông sang Tây trong cuộc sống dù là cuộc sống khốn cùng nhất trong xã hội. Cộng Sản Việt Nam đã rút tỉa được biết bao kinh nghiệm đàn áp của Cộng Sản Liên Xô, của Cộng Sản Trung Quốc nên những chính sách để đàn áp kẻ đối kháng, triệt hạ những người mà cộng sản cho rằng không thần phục họ đã trở nên tinh vi, ác độc khó cho một người bình thường có thể tưởng tượng ra được.

Trong lời tâm sự của tác giả với khoảng 200 người đến tham dự, tác giả Phạm Trần Anh có nhận xét rằng: “Chính sách cải tạo là để triệt tiêu đối kháng, không chỉ cho cá nhân mà cả gia đình của những người bị cho là đối kháng nữa”.

Tác giả cũng cho biết là “khoảng 65,000 tù nhân cải tạo đã bị chết trong tù và nhiều bạn bè của ông đã ở tới 31 năm như Vũ Bình Thủy, Hướng Dương.” Hiện nhóm của ông cả ở trong và ngoài nước đang sưu tầm để lập một danh sách tố cáo tội ác của Cộng Sản Việt Nam trước thế giới.

Trước những đàn áp tinh vi, ác độc, không còn tính người của chính sách cải tạo, những người tù cải tạo đã nhiều lần đứng lên nhưng đều bị tiêu diệt nên đã phát hiện ra bằng những lời thơ truyền đạt cho nhau và những nhạc khúc mà nay thường gọi là tù khúc. Hơn một nửa tác phẩm 400 trang là những bài thơ và những bản nhạc của những người tù làm trong ngục tù cải tạo.

Ðúng như nhà tranh đấu Ðỗ Thái Nhiên nhận xét: “Tác phẩm của Phạm Trần Anh lẫn lộn những phong cảnh quê hương đất nước, những suy tư, tất cả đều xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc của ông”.

Hai trăm khán giả tham dự có lẽ phần lớn là cựu tù nhân chính trị nên có thái độ hết sức đồng cảm với tác giả và chỉ mong rằng tuổi trẻ Việt Nam và cộng đồng người Việt tìm đọc tác phẩm này, dù có chỉ tin một nửa, nhưng cũng đủ cho tác giả vạch trần được bộ mặt giả nhân giả nghĩa của Cộng Sản Việt Nam mà không dễ dàng để cho chúng tiếp tục lừa bịp qua những chính sách chúng đang áp dụng với người Việt hải ngoại. (N.H.)
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Tôi thấy và nghe được gì ở Sài Gòn
và miền Nam VN sau 32 năm dưới chế độ CS ?

Người việt hải ngoại - Nguyễn văn Trấn


Lời người viết : Ðây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó - mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ - ghi lại một cách trung thực.
Tôi thấy bộ mặt Sàigòn đổi mới với : Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng lẫy. Ðổi mới với những nhà hàng "vĩ đại" trên các tuyến đường du lịch. Với những trung tâm "thư giãn" sang trọng, quý phái cỡ câu lạc bộ Lan Anh.Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội. Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỹ, giáo sư Mỹ, chương trình học của Mỹ, giảng dạy bằng tiếng Mỹ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỹ - 600US$ đến 1000US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con? )

Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử "đỏ", các nhà giàu mới - thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để "thư giãn", uống rượu, đánh bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỹ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XO. Vụ MPU.18 cá độ hàng triệu US$ đã bị phanh phui..là một thí dụ cụ thể.Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi... " lắc" suốt đêm. Vài hôm sau - đâu cũng vào đó... Tôi cũng thấy Sàigòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở - vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự - ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt.. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại.Vật liệu nhập cảng đắc tiền. Nhà trong hẻm - phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu.Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi xỉ vô duyên.. , lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường...

Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiễm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 3.000.000 chiếc Honda - phun khói mịt mù - chưa kể đến xe hơi..Và hệ thống cống rãnh lạc hậu.. mỗi khi trời mưa lớn - nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu.. không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhung nhúc như kiến.. Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ..hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể.. Máu kinh tế Việt Nam bị loãng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoảng chừng 1000 đô la Mỹ..chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt.. Thuốc lá và bia - bia nội, bia ngoại - có đủ.. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn. Ðảng viên, cán bộ - giai cấp thống trị - nhậu.. Già nhậu, trẻ nhậu... con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói.. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm thống trị - đã lột xác - không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa - mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút - thậm chí con nít 9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá.. Các hãng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng.. nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc.. cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh.

Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng " tiếm công vi tư" lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ.. bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê.. Chưa thỏa mãn - ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng.. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường.Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy.Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu - nơi gặp gỡ của 2 đường Nguyễn Trãi và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ - thì rõ.

Còn nhiều.. rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhản ở khắp Saigòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể : Một công thự tại vườn Tao đàn ( có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) - mặt tiền ngó vào trong - mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ ) - bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỹ kim - ngon ơ! Tương tự như vậy - ở góc đường Thành Thái và Cộng Hòa cũ.. trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 - phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Ðạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng..Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động - nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao.. buôn bán ầm ĩ, náo nhiệt suốt ngày.

Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn.Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai?Tất nhiên là phải thưa với công an.Không lẽ công an xử công an? Tướng CS Trần Ðộ phản ảnh còn rõ rệt hơn : "... Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Ðảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Ðảng chống tham nhũng thì Ðảng chống lại Ðảng sao?"("Nhật ký Rồng rắn" của Trần Ðộ ).

Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn - đã biến mất.. Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ - mũi và miệng bịt kín bằng "khẩu trang", găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay.. trên đường phố.

Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi nylon, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống...những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường.. những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng ván gỗ... đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình )... những em bé mặt mũi lem luốc đang bươi những đống rác để lượm các bao nylon, lon coca, chai bia đem về bán.. hay những em bé rách rưới lang thang trước những tiệm ăn.. chờ khách ăn xong nhào vô bưng tô súp cặn húp vội đỡ lòng..còn những trẻ khác - mắt láo liên trông chừng công an, tay chìa chiếc hộp, làm dấu mời khách đánh giày -..những em bé gái đang hì hục đẩy khách lên đồi cát bằng miếng ván có gắn bánh xe ở "Ðồi cát bay" Phan Thiết. Hỏi "sao em không đi học"? - trả lời : "Nhà không đủ cơm ăn, con làm cái nầy để kiếm thêm cơm ăn.".. Nhiều bà mẹ nhăn nhó ôm thằng bé mặt mày xanh lét, không còn chút máu, chờ suốt buổi sáng.. trước tiếng quát tháo ầm ĩ.. vẫn chưa tới phiên mình vào bệnh viện chữa trị cho con.. Nghe nói mấy năm trước đây có nhiều bà mẹ đứng trước bệnh viện Chợ Rẩy chờ bán máu mình để qua cơn đói khổ ngặt nghèo như nhà văn Trần trung Ðạo đã mô tả..Lại nghe một bệnh nhân dứng cạnh đó, cũng chờ đến lượt mình, than thở : " Ở đây là vậy đó ông ơi! Chửa bệnh phải có tiền - trước nhứt phải qua cửa - lọt qua cửa thì còn nhiều khâu - khâu nào cũng phải chìa tiền. Muốn sống - phải có tiền.Chết cũng phải có tiền.

Bộ mặt Sàigòn "đổi mới" bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền.. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa.. những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố - nhiều người chóa mắt.. choáng váng, cho là "Việt Nam bây giờ tiến bộ quá". Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ không? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng.. Lợi tức đầu người của Việt Nam - theo thống kê của báo The Economist - bằng : 555 US$ năm 2007 ( Hà Nội bốc lên 730 US $ )chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh. So với các nước láng giềng : Thái Lan : 2550 US$ - Phi luật Tân : 1040US$ - Nam Dương : 1160US$.Tân gia Ba 24840US$.( The Economist World, năm 2007 - p.158, 176, 238 ) - Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy - nếu đặt câu hỏi : Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia? - thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngũ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn quê - giai cấp giàu có bây giờ là ai? giai cấp địa chủ là ai? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có ?

HIỆN TƯỢNG NGƯƠI BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU TOÀN BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MAI QUAN TRỌNG Ở SÀIGÒN - KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU Ở MIỀN NAM..

Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng "đánh Tây, đuổi Mỹ" - cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa - thì dân miền Nam ( gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do ) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàgòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn.. và các khu phố sầm uất nhứt.. vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản - từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong - cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Ðắc, Phạm thị Trước.. hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cất lại..nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán dồ nhập cảng v.v.. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ.. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn.. thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN. (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn ).Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS ( do các cô tự nói ra ). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ - dĩ nhiên - vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc..Cán bộ, công nhân viên trọng yếu - cũng đều là người Bắc - trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết - theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam - thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc. Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới - từ Trung ương đến địa phương - từ Tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xã gần - đều do đảng viên người miền Bắc XHCN - nắm giữ.Những công Ty dịch vụ có tầm cỡ, những công Ty thương mãi sản xuất lớn - điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại..chủ nhân cũng là người Bắc XHCN.Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất - cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ.

Ðó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp - nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại những lượng vàng thu được từ những người vượt biên bán chánh thức - tài sản những người thuộc diện tư sản - toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam - được đem đi đâu? - Không ai biết.

Thông thường - những của cải nầy phải được sung vào công quỹ - để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẽ.. Thế nhưng - sự thật trước nhứt - là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN ( Ðọc Ðất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang).Ông lớn lấy tài sản lớn.Ông nhỏ - nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết... đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Ðiều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy - vì lo sợ cái gì đó - bèn đem "û bán non" những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cải tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu - không ngoại lệ.Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại - là những biện pháp vá víu.Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN.

Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá..đều bị "û giải phóng" ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách : Ðuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung( chủ nhà chịu không nổi... phải bỏ đi ), đổi tiền để vô sản hóa người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ..để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê... Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào "mua" nhà Saigòn với giá gần như cho không...và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn.

Mang xe tăng T.54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên "xẻ dọc Trường Sơn" bằng máu, nước mắt và xác chết... vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là "giải phóng" nhân dân miền Nam - nhưng sự thật khó chối cãi được - là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Saigòn ( gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do ) ra khỏi Thủ Ðô bằng nhiều chánh sách khác nhau - để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi - những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực.. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc.( Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỹ là trường hợp điển hình). Như vậy hành vi nầy gọi là gì?Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh - một mình đối diện với lương tâm thuần lương của mình - các ông tự gọi mình đi.

Ðến thời "mở cửa" - cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn..gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương - đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đường sá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỹ tiền tệ quốc tế - những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt.. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn.. no bóc ké.. Nhiều công trình vừa xây cất xong..đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diễn hình : Một bệnh viện gần chợ "û cua" Long Hồ - quê hương của Phạm Hùng - nước vôi còn chưa ráo.. đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được.

Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt - là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực - những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê - nhứt là miền Nam - ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên.. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn - đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt..Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.

Nhà văn - bác sĩ Hoàng Chính - gọi thời kỳ sau 75 là thời "Bắc thuộc" - "Năm Bắc thuộc thứ 2 : Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh. - Năm Bắc thuộc thứ 6 : Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán. - Năm Bắc thuộc thứ 12 : Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười.."

Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.

BỘ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 32 năm dưới chế độ cọng sản. Ðể được trung thực - người viết ghi những điều thấy và nghe - không bình luận - tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam - những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Ðường sá có tu sửa phần nào..Ðường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái nứa, Cái chuối xã Long Mỹ VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. "Cầu tre lắt lẻo", cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng ) nay không còn thấy nữa. Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ - chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn - còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy - dọc theo bờ sông Long hồ - một số nhà gạch nhỏ mới cất..xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long ) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Ðường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi..

Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Ðốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung - có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc.. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất..hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa.Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Ðào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương..

Dưới sông - từ kinh Vĩnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang - hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đỡ sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế - cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá.. Basa, cá điêu hồng v.v.. ở dọc bờ sông khá dài..Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tiền và sông Hậu - người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa.. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời : "û Ði lấy Ðại Hàn, Ðài Loan hết rồi ông ơi!" Tôi hỏi thêm : "Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập.. các cô gái nầy không sợ sao ông? - "û Biết hết - mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Ðại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông.Biết đâu gặp may." Câu chuyện gái Việt lấy chồng Ðại Hàn, Ðài Loan hiện không ai là không biết.

Tờ Tuổi trẻ - số ra ngày mùng 1 Tết năm Ðinh Hợi - trong bài : "Nỗi đau từ những con số"- có nói đến số phận của 65000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Ðài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con.Cũng do tờ báo nầy : "Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang "bày hàng" để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến lượt mình " Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết : "Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển.Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái.Dịch vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng.Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện.Thậm chí - những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm".

Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ :Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần lượt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời : "Ðó là những người con gái đi lấy chồng Ðài Loan và Ðại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa". Tôi nhìn kỹ các cô gái nầy tuổi rất trẻ.. khoảng chừng 18 đến 20..đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện - tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Ðây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.

Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức "môi giới hôn nhân lậu"- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma cau.. để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục..các cô gái làm điếm.. hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ.. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhản xảy ra hằng tuần-thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11..Sàigòn.

Cho dù chánh thức hay lậu.. hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Ðài Loan, Ðại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn - ban ngày làm nô dịch.. ban đêm phục vụ tình dục.. rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại..( Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Ðài Bắc là một bằng chứng ) Còn lậu thì.. bán thẳng vào ổ điếm. Biết bao nhiêu thảm cảnh.. biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại.Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu..lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời! Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập.. nầy khi lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt..?

Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người - những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để được giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn?

Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau : Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hóa..vừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng.. đất đai canh tác bị thu hẹp. Dân số gia tăng..Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào.. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác.. Các cô gái miền Tây.. quẫn bách vì không có việc làm kinh niên - cuộc sống vô vọng mịt mờ - có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến..khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Ðại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ.Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS ( sinh sau 75 ) - những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ.. thang giá trị bị đảo lộn.. nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước.. Do vậy - khi bị dồn vào đường cùng.. họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn.. Nhưng động lực chánh là nghèo..

NGHÈO...

Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Ðại Hàn và Ðài Loan... để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát.. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) - vựa lúa nuôi sống cả nước - sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy - nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ÐBSH)? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam - thì tỷ lệ ÐBSCL năm 1998 : ÐBSC : 37%. ÐBSH : 29%. Năm 2002 : ÐBSCL : 13 %. ÐBSH : 9%.(Nhà x.b Thống kê - Hànội, trang 13 - LVB trích
dẫn ).

Dù theo tiêu chuẩn nào : tiền tệ ( tính bắng tiền hay bằng gạo) - mức sống ( bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa ) - ÐBSCL vẫn nghèo hơn ÐBSH - bởi lẽ khi nghèo về lương thực - thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hóa.

Ðó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết : Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều - cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát.. khi trời mưa lúc ban đêm..không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp.. trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc... Cái nghèo của một người đi mượn tiền, mượn gạo.. tới ngày hẹn không tiền trả.. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp.. cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ..mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân.

Tục ngữ bình dân có câu : Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời.- Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chài lưới.. ở sông Long Hồ. Ðời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy : nghề đi nhủi tép.. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay ( 2007 ) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch.. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te.Ðời ông nội - nghèo! Ðời cha nghèo! Ðời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo - không đổi đời cho người nghèo thành giàu.Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác - còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền..trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : "Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được? "

MIỀN NAM - 32 NĂM DƯỚI CHẾ ÐÔ C.S.

Kinh tế Việt Nam - trong đó có miền Nam - có chút tiến bộ - so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Ðối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt.. cầm lồng đèn đỏ... Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục - các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rỗng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể.. Và hiện tại - muốn phát triển công nghiệp - nhà cầm quyền địa phương - theo lệnh Ðảng - mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược.. Lòng dân phẫn uất, kêu la than khóc.. Oán hận ngút trời xanh! ( 19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàgòn ). Như vậy có gọi là phát triển không?

KẾT LUẬN

- 32 năm nhìn lại :Người ta thấy miền Bắc đã "giải phóng" dân Sàigòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. "Giải phóng" miền ÐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ."Giải phóng"quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển..."Ư Giải phóng" phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm "vợ nô lệ", đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan..

- 32 năm nhìn lại : Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ.Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website(2003) - bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2005). Chỉ trong năm 2005 - có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF - LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam )

- 32 năm nhìn lại : Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L'expresse ngày 29-8-2002 :"Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn.Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc - người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở đó "

- 32 năm nhìn lại : Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam - khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc.

Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước.Một đảng viên kỳ cựu của chế độ Cộng sản lên tiếng cảnh cáo :"Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước.Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc.Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu".

Người việt hải ngoại - Nguyễn văn Trấn
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Pakistan (Hồi quốc): Con đường dân chủ gập ghềnh
Trương Sĩ Lương


Cali Today News - Sau nhiều tháng vận động dư luận trong cũng như ngoài nước, chuyến hồi hương sau 8 năm lưu vong của bà cựu Thủ tướng Benazi Bhutto vào ngày 18-10-07 vừa qua đã tạo nên niềm vui cho người dân Pakistan, đồng thời đã hâm nóng niềm tin cho hàng trăm ngàn đảng viên PPP (Ðảng Nhân Dân - Pakistan People Party) của bà. Giữa tiếng hoan hô vang dậy khi bước xuống phi trường Karachi, cũng là tên thành phố lớn thứ nhất của Pakistan, bà Bhutto đã bật khóc khi đặt chân trở lại nơi mảnh đất quê hương yêu dấu này.

Trước đám đông hàng trăm ngàn người chờ đợi đón mừng bà Bhutto từ phi trường đến trung tâm thành phố Karachi, nơi bà sẽ đọc bài diễn văn chào mừng và cám ơn người dân đã thương mến, ủng hộ giòng họ Bhutto của bà trong nhiều thập niên qua. Thế nhưng, niềm vui chưa đến thì 15 phút sau, xe của bà và đoàn tùy tùng, đoàn an ninh hộ tống đã bị tấn công bằng hai chiếc xe bom tự sát. Hai tiếng nổ long trời lở đất, có sức công phá ghê gớm đã giết chết khoảng 140 người, làm bị thương gần 400 người dân vô tội và một số công chức, cảnh sát, cận vệ của đảng PPP. Xe của bà Bhutto bị vỡ kiếng, nhưng bà thoát nạn. Ðây là một vụ đánh bom tự sát lớn nhất tại Pakistan từ trước tới nay. Ðược biết, trước ngày trở về, bà Bhutto đã từng được chánh phủ Pakistan cảnh báo phải đề phòng vì phần tử Hồi giáo cực đoan sẽ tấn công. Thế nhưng bà vẫn giữ quyết định hồi hương cho dù gặp nhiều khó khăn. Trước đó bà đã có lời tuyên bố: “Tôi không nghĩ người Hồi giáo sẽ tấn công một phụ nữ như tôi. Vì họ biết rằng họ sẽ xuống địa ngục với tội này”.

Cả thế giới lên tiếng tố cáo hành động giết người vô tội một cách man rợ của đám khủng bố cực đoan. Mặc dầu chưa có tổ chức khủng bố nào đứng ra lãnh nhận hành động cố sát này, nhưng giới tình báo cho rằng, không ai dính tới ngoài bọn phá hoại của phiến quân Taliban và Al Qaeda. Ðối với thành phần Hồi giáo cực đoan, một phụ nữ không thể lãnh đạo đất nước, huống chi bà Bhutto còn bị kết tội là thân Tây phương, là tay sai của Mỹ, nghĩa là phải bị giết chết.
Một nguồn tin đáng tin cậy cho rằng, bà Bhutto được Hoa Kỳ dàn xếp hòa giải với Tổng thống Musharraf để chia quyền, vì uy tín của ông Musharraf đã xuống dốc trong thời gian qua. Nếu có bà Bhutto trở về, TT Musharraf sẽ có thêm vây cánh của đảng PPP. Có thể bà sẽ nắm ghế Thủ tướng trở lại trong cuộc tổng tuyển cử vào năm 2008 do đảng PPP đề cử. Có tin cho rằng bà đã được TT Musharraf miễn tố về việc cáo buộc bà tham nhũng khi giữ chức Thủ Tướng trước năm 1999 và sau đó bà phải ra đi lưu vong để khỏi bị liên lụy khi Tướng Musharraf đảo chánh chính quyền dân cử đương thời của ông Sharif và thiết lập chính quyền quân đội.

Giới thạo tin cho rằng, những lời tuyên bố của bà Bhutto gần đây: “Sẽ không nương tay cho đám tàn quân Taliban xâm nhập phá hoại đất nước Pakistan; hoặc có thể nhờ tới quân đội Mỹ phối hợp hành quân truy lùng Taliban trong tương lai”, đã làm cho giới cực đoan Hồi giáo thân Taliban tìm cách triệt hạ bà.
Trước khi bàn tới con đường dân chủ gập ghềnh của quốc gia Hồi giáo Pakistan, xin được lướt sơ qua một cách tổng quát về miền đất đầy máu lửa và nguy hiểm này.

Pakistan, tên tiếng Việt là Hồi quốc, lãnh thổ rộng gấp đôi tiểu bang California. Bắc giáp Trung Hoa, Nam giáp biển Á-rập (Arabian Sea), Tây giáp A-phú-hãn và Iran, Ðông giáp Ấn Ðộ. Dân số 170 triệu người, 97% theo Hồi giáo, gồm 77% theo giáo phái Sunni và 20% theo giáo phái shiite; còn lại 3% theo Ấn giáo và Thiên Chúa giáo.

Pakistan trước năm 1947 là một phần lãnh thổ của tiểu lục địa Ấn Ðộ. Thế nhưng sau ngày giành lại được độc lập từ tay người Anh, 14-8-1947, vì khác biệt và tranh chấp tôn giáo giữa Ấn giáo và Hồi giáo, Pakistan tách rời khỏi Ấn để trở thành một quốc gia Hồi giáo tự trị. Việc chia hai quốc gia Ấn Hồi vào thời đó đã mở ra một trang sử mới tại vùng Nam Á và ảnh hưởng tới nền an ninh chung trên thế giới.

Từ ngày giành độc lập vào năm 1947, Pakistan (Hồi quốc) được chia thành 2 vùng là Ðông Hồi giáp Ấn Ðộ và Miến Ðiện; Tây Hồi là Pakistan ngày nay, trải dài từ rặng Hy Mã Lạp Sơn tới biển Á-rập. Việc chia ra hai vùng đã tạo nên những khó khăn, đau khổ trước cuộc di dân hàng triệu người và hoàn cảnh sống phải trả giá bằng máu và nước mắt. Mãi cho tới gần 25 sau, vì bị áp lực từ Ấn độ, vào ngày 26-3-1971 Ðông Hồi tách khỏi Tây Hồi và trở thành độc lập với tên nước là Bangladesh.

Sự hình thành hai nước Ấn Pakistan (Hồi) đã tạo nên ảnh hưởng nặng nề vì tranh chấp tôn giáo ngay vùng biên giới, trở thành một giai đoạn đau thương nhất cho cả hai dân tộc trước những đợt bạo động kinh khiếp. Ngay sau khi chia ra hai nước, Ấn Hồi đã nhảy vào cuộc tranh chấp vùng lãnh thổ có tên là Kashmir. Bốn cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra vào năm 1949, 1965, 1971, 1999 và mãi cho đến ngày nay vùng tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Những Cuộc đụng độ kinh khiếp nói trên có khi đã tạo ra căng thẳng, lo sợ cho cả thế giới vì 2 nước đều có vũ khí nguyên tử trong tay.

PAKISTAN VÀ NỀN DÂN CHỦ

Một chính phủ dân sự đầu tiên của Pakistan đã được người dân bầu lên vào tháng 3 năm 1977, nhưng đảng thắng cử của ông Zulfika Bhutto là PPP bị cáo buộc gian lận. Dân chúng nổi dậy chống đối và lần hồi dẫn tới một cuộc đảo chánh vào ngày 5-7-1977, do tướng Mohammed Zia ul-Hag cầm đầu. Ông Zulfika Bhutto bị xử tử vào ngày 4-4-1979, bất chấp sự chống đối của thế giới và thành phần trung thành với ông Bhutto. Sau đó, tướng Zia tuyên bố làm tổng thống và trở thành một chính quyền quân phiệt cho tới ngày 19-8-1988 ông Zia bị tử nạn trong một tai nạn máy bay của Không Quân Pakistan. Cuối năm 1988, con gái của ông Zulfika Bhutto là bà Benazir Bhutto ra tranh cử và thắng lớn với chức Thủ tướng Pakistan.

Tính đến thập niên 1990, bà Bhutto đã làm Thủ tướng 2 lần. Lần thứ nhất vào năm 1988, lần thứ hai vào năm 1993. Cả hai lần đều bị giải tán vì bà bị cáo buộc tham nhũng. Sau đó, phe đối lập là ông Naward Sharif lên làm thủ tướng. Ngày 12-10-1999 Tướng Pervez Musharraf đảo chánh thủ tướng Sharif và thành lập chính quyền quân phiệt cho đến hiện tại. Trong giai đoạn này, chính quyền Musharraf rất thân với bạo quyền Taliban ở A-phú-hãn, nhưng sau biến cố “911” xảy ra tại Hoa Kỳ, Pakistan đã đổi hướng bằng cách cắt đứt liên hệ với Taliban và trở thành đồng minh số 1 của Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố. Ðể trả ơn, TT Bush đã bãi bỏ lệnh cấm vận trước đây khi quốc gia này thử bom nguyên tử vào năm 1998. Ðồng thời, TT Bush đã giảm nợ cho Pakistan, giúp chính phủ này xây dựng kinh tế và nhìn nhận vai trò tổng thống của ông Musharraf.

Vào ngày 13-12-2001, vài tên mang bom tự sát nổ trước quốc hội Ấn Ðộ, giết chết 14 người. Chính quyền Ấn Ðộ quy tội cho đám dân quân người Pakistan chủ trương. Hai nước Ấn Hồi lại một lần nữa đưa cả trăm ngàn quân ra biên giới và sửa soạn giàn phóng vũ khí nguyên tử để gườm nhau, nhưng sau đó dưới áp lực của LHQ hai phe đã rút lui.

Một thành công được Hoa Kỳ ca ngợi là việc chính quyền Pakistan đã đưa quân đội hành quân và bắt được tên Khalid Shaikh Mohammed, nhân vật thân cận của bin Laden, người tổ chức vụ tấn công Hoa Kỳ “911” vào năm 2001.

Vào tháng 11 năm 2003, hai nước Pakistan và Ấn Ðộ đã đạt được thỏa hiệp ngưng bắn tại vùng tranh chấp Kashmir sau hơn 14 năm giao tranh đẫm máu. Thỏa hiệp ngưng bắn này đã giúp cho hàng triệu gia đình ly tán được đoàn tụ kể từ khi phân ly vào năm 1947.

Vào tháng 2 năm 2004, Khoa học gia Abdul Qadeer Khan, cha già vũ khí nguyên tử của Pakistan bị tố cáo bán bí kíp nguyên tử cho Bắc Hàn, Iran và Libya. TT Musharraf đã buộc nhà khoa học này phải xin lỗi thế giới và tha thứ cho hành động nguy hiểm của ông. Cả thế giới lên tiếng than phiền về giá trị của khoa học gia này, nhưng đối với Pakistan, ông vẫn là một anh hùng. Khoa học gia Abdul Khan lên tiếng nhận tội bán bí kíp nguyên tử nói trên là hoàn toàn do cá nhân ông chủ trương, không hề dính líu tới chính phủ Pakistan. Thế nhưng lời giải thích này khó thuyết phục được cộng đồng quốc tế về nguyên tử.

Ðể ủng hộ đồng minh, nhất là Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố, Tướng Musharraf đã đưa 80,000 quân vào vùng rừng núi hiểm trở tại biên giới A-phú-hãn để tảo thanh quân khủng bố Al Qaeda. Chiến dịch này đã làm thiệt mạng hơn 800 quân nhân Pakistan, nhưng thành quả dẹp đám khủng bố Al Qaeda cũng không mấy khả quan.

Cuối năm 2006 và đầu năm 2007, quân Taliban ồ ạt đột nhập vùng Ðông A-phú-hãn, xuất phát từ lãnh thổ Pakistan. Chính phủ Pakistan bị giới tình báo Tây phương nghi ngờ là đã thả lỏng, như một hình thức tiếp tay cho sự việc này, nhưng các giới chức Pakistan hoàn toàn bác bỏ.

Vào tháng 9 năm 2006, TT Musharraf đã ký một hiệp ước hòa bình với 7 tổ chức dân quân, nhân danh “Pakistan Taliban”. Quân đội Pakistan chấp nhận rút khỏi vùng núi hiểm trở và chấp thuận cho Taliban tự trị với điều kiện không được xâm nhập vào lãnh thổ A-phú-hãn hoặc tấn công quân đội Pakistan. Thỏa hiệp này bị Tây phương chỉ trích là thất lợi vì phiến quân Taliban và tổ chức khủng bố Al Qaeda sẽ có đất dung thân và sẽ nổi dậy trong thời gian tới.

Vào tháng 8 vừa qua, con đường chính trị của tướng Musharraf đã bắt đầu gặp khó khăn, vì Tối cao Pháp viện của quốc gia này chấp thuận cho 2 cựu thủ tướng lưu vong là ông Nawarz và bà Bhotto có thể hồi hương để tranh thủ với TT Musharaaf. Thế nhưng, vào tháng 9 vừa qua, khi cựu thủ tướng Sharif vừa đáp xuống sân bay Pakistan thì bị bắt và bị trục xuất khỏi quốc gia này sau 3 tiếng đồng hồ.

Ngày 6 tháng 10 vừa qua, Tướng Musharraf đã thắng cử tổng thống nhiệm kỳ 3 một cách dễ dàng vì khối đối lập tại quốc hội tẩy chay cuộc bầu cử. Kết quả chỉ có phe ủng hộ ông Musharraf đi bầu. Tối cao Pháp Việt của Pakistan vẫn chưa tuyên bố tính hợp hiến của cuộc bầu cử hôm 6-10-07. Tuy nhiên, ông Musharraf đã trao quyền tư lệnh quân đội cho tướng Kiyani trước khi ông đắc cử vào chức tổng thống nhiệm kỳ 3.

NỀN DÂN CHỦ GẬP GHỀNH CỦA PAKISTAN

Nền dân chủ của Pakistan luôn luôn bị gập ghềnh vì những trở ngại sau đây:
1) Là một quốc gia Hồi giáo với nhiều giáo phái chủ trương cực đoan, luôn luôn khích báng quần chúng chống đối các quốc gia tây phương. Các trường học về đạo Hồi của các bộ tộc thân Taliban vẫn ngang nhiên đổ vào đầu óc giới trẻ một khuynh hướng cực đoan về tôn giáo và dân tộc, chống lại Tây phương.

2) Trong khi chính quyền thì thân Tây phương, nhất là thân Mỹ, nhưng đại khối dân chúng vì bị ảnh hưởng quan niệm Hồi giáo cực đoan nên đã tạo ra những khó khăn cho bất cứ chính phủ nào nắm quyền trong giai đoạn này.

3) Là một quốc gia tuy có đối lập, nhưng thực sự chưa bao giờ có được một nền dân chủ vững chắc. Quyền lực từ phía dân cử chưa bao giờ đủ mạnh để chống lại các cuộc đảo chánh từ phía quân đội. Những cuộc đảo chánh và tham nhũng đã đẩy đất nước này vào con đường khó khăn về kinh tế, xã hội xáo trộn vì khuynh hướng bài ngoại quá khích.

Thế nhưng, hy vọng học được những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ, sự trở về của bà Bhutto lần này, được mô tả là một chuyến về đẫm máu đã xảy ra trong lịch sử Pakistan, nhưng mặt khác, vụ khủng bố bằng bom xe, cho dù bất cứ do ai chủ trương vẫn không thể làm cho thành phần ủng hộ bà Bhutto lùi bước. Có lẽ đảng PPP của bà Bhutto sẽ mạnh mẽ hơn, hàng triệu người dân Pakistan sẽ đứng về phía ủng hộ bà nhiều hơn.

Báo chí và dư luận người dân Pakistan đang đặt lại vấn đề như sau:

Nếu để Pakistan lọt vào tay thành phần cực đoan nắm quyền, lại có vũ khí nguyên tử trong tay, thì thế giới sẽ loạn to. Vì vậy, sự hợp tác giữa TT Musharraf và bà Bhutto để xây dựng lại đất nước, thân Tây phương, nhất là Hoa Kỳ, tiến lên và xây dựng một nền dân chủ vững chắc, làm một cuộc cách mạng xã hội, cải tổ giáo dục, xóa bỏ thành kiến và quan niệm cực đoan về tôn giáo thì Pakistan sẽ là một quốc gia gương mẫu Hồi giáo tại Nam Á. Vấn đề then chốt là Hoa Kỳ sẽ bớt được gánh nặng trước cuộc chiến chống khủng bố vì đã có một đồng minh vững mạnh trong khối Hồi giáo chia sẻ trách nhiệm chung.

Trương Sĩ Lương
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

CHIẾC LON “GÔ”
Huy Phương
Tôi đã lang thang trên “net” chiều nay nhưng không thể nào tìm ra hình ảnh của người chiếc lon “gô”, người bạn ngày nào của tôi. Bao bì của các món hàng sản xuất mỗi ngày mỗi tân tiến, mới lạ, đẹp đẽ và gọn nhẹ. Bây giờ người ta dựng sữa bột trong những bao bằng giấy dày hoặc bằng thứ kim loại mỏng, không như bằng chiếc hộp nhôm không rỉ sét, dày dặn như cái thời xa xưa đó. Người vẽ kiểu của chiếc lon “gô” ngày nào chắc cũng đã ra người thiên cổ, không còn để cái đám tù tập trung trong các trại tù Cộng Sản sau này gặp gỡ để nói một lời cám ơn về một thứ đồ dùng, một bao bì mà sau khi dùng sản phẩm, có thể vứt bỏ, nó lại được dùng như một vật tiện dụng và hữu ích qua nhiều năm tháng.

Loại sữa Guigoz của Hòa Lan được nhập cảng vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi người Pháp trở lại Việt Nam vào khoảng năm 1956. Vào thời ấy lon sữa bột Guigoz không lấy gì làm đắt. Một công chức trung bình ở miền Nam cũng có thể nuôi con bằng loại sữa bột này. Có hai loại sữa Guigoz, loại trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu vàng cho tuổi từ một năm trở đi. Loại sữa bột này phổ biến đến nỗi hầu như gia đình trung lưu nào cũng nuôi con bằng sữa Guigoz, và những chiếc lon nhôm, dày dặn, với dung tích 0.75 lít, có chiều cao 18cm, đường kính 8cm, không rỉ sét này thường được các bà nội trợ cất giữ để đựng thực phẩm ở trong bếp, trừ muối, nó có thể đựng đường, ớt, tiêu hành hay các thức ăn khô. Tuy chiếc lon Guigoz tiện dụng nhưng thật ra nó không có giá trị gì, nó có thể ra nằm ngoài đống rác. Từ năm 1965 trở về sau, miền Nam đã nhập cảng nhiều loại sữa bột khác dành cho trẻ em, nhưng chiếc lon sữa Guigoz vẫn còn tồn tại trong hầu hết gia đình vì nó bền, chắc, khó móp méo hay hư hỏng.

Thế mà chiếc lon Guigoz đó lại trở thành người bạn thân thiết từ mùa hè năm 1975 khi tôi phải giã từ quân đội, bỏ lại vợ con và thành phố yêu đấu để trình diện đi tù, làm cái công việc của một người lính thất trận. Thoạt đầu chiếc lon chỉ mang theo mớ thức ăn khô dùng tạm cho vài ngày, nhưng về sau khi thức ăn đã hết, chiếc lon kia đã đổi chức năng để từ đây gánh vác một phần tháng ngày gian khổ cho tôi. Về sau khi thấy tôi không còn hy vọng gì quay trở lại với gia đình trong một thời gian ngắn, chiếc lon sữa Guigoz kia đã không rời tôi nửa bước như một người bạn tri kỷ có thể chia ngọt xẻ bùi với nhau, khi với một nắm rau bên vệ đường, khi với một con nhái bén, có khi với một mẩu sắn thừa sau ngày thu hoạch còn sót lại trong đám đất bị cày xới.

Có khi chiếc lon ấy trở thành một bình trà với những đọt chè xanh, đậm đà hơn một tuần Thiết Quan Âm thời phong lưu hay mở ra một ngụm cà phê sảng khoái đánh lừa khứu giác với những hạt bo bo cùng với mấy hạt ngô rang cháy. Nó cũng trở thành người bạn mỗi sáng với những công việc vệ sinh thường nhật bên “lán” tù, và cũng tội nghiệp cho chúng tôi trong một miền Bắc không có thừa lấy một manh giấy báo hay một mẩu giẻ rách, nó đã theo những người tù mỗi lần vì nhu cầu phải đi thăm…“lăng Bác”.

Ngày xưa chiếc lon kia mang một cái tên ngoại quốc khá đẹp từ xứ Hòa Lan có nhiều nhà máy xay gió, những cánh đồng cỏ bất tận và những đàn bò bình yên, đến miền Nam với hình dáng tròn trịa, mới mẻ, nay nó mang một cái tên xấu xí trần tục trong một xã hội đói nghèo, lạc hậu. Nó là “gô”, là “cống” hay có người gọi nó là “hăng gô”(?), những cái tên rất khó bề giải thích. Nó dần dần trở thành đen điu, xấu xí, hèn mọn, móp méo qua những lần bị nung nóng trên bếp lửa của trại tù hay trên đám cỏ khô giữa cánh rừng bạt ngàn hay bên dòng suối nhỏ trong những buổi trưa, để thêm một chút “cải thiện” với nắm rau “tàu bay” hay một mẩu khoai mài. Những ngày có thăm nuôi, nó cũng chắt chiu nắm mì gói hay chút ruốc thịt mang cho “sang cả” thêm cho bữa ăn khốn khổ của người tù. Những lúc chẳng có gì, một gô nước lả cũng đầy bụng.

Chiếc lon gô ngày nay đã đen điu hình dáng nhưng chưa bao giờ chịu để mình bẩn thỉu, nó đã nhiêu lần được kỳ cọ như chủ nhân đã kỳ cọ cái thân thể gầy còm khốn khổ của người tù dưới suối sau một ngày kiệt sức, vắt mồ hôi. Đêm về, chiếc lon kia cũng lặng lẽ ở trên đầu nằm cùng với mớ chăn chiếu lẫn lộn với những mảnh nhung y sờn rách, bạc màu, để sáng mai thức dậy trong tiếng kẻng tù gắt gỏng.

Chưa có một vật dụng nào thiết thân với người tù như cái lon “gô” đen điu ấy. Bộ áo quần tù có thể thay đổi, đôi dép có thể mòn vẹt, nhưng chiếc lon “gô” đã bền bĩ với thể chất cũng như tấm lòng với người tù qua những đoạn đường gian khổ, những ngày lên nương xuống rẫy, những sáng mùa đông giá buốt cũng như những trưa hè đổ lửa. Nó gần gũi, khắng khít không rời người tù đi đâu nửa bước.

Thế mà…

Như những ông già H.O. trên đất Mỹ, tôi thường đẩy xe cho vợ đi chợ mua thức ăn. Những hàng hóa, thực phẩm bày biện trong những ngôi chợ to lớn, chỉ gây ngạc nhiên cho tôi lúc đầu tiên mới đặt chân đến Mỹ cách đây hàng chục năm, bây giờ trở nên quen thuộc và thường tình đến nhàm chán. Những kệ hàng bán đầy khoai lang đủ loại hay những đống khoai mì đầy ắp, nhưng mớ cải xanh, những bó rau muống tươi tắn, những củ su hào mập mạp… không hề nhắc nhở hay cho tôi một suy nghĩ nào về những tháng ngày tù tội, thiếu thốn mà những củ khoai, những nắm rau xanh đó như một nỗi mơ ước thèm thuồng thường nhật của một người tù.

Nhưng có một buổi nọ, khi đẩy chiếc xe đi chợ đến bên hàng bày bán khoai mì, không hiểu sao lần này tôi dừng lại, cổ họng như nghẹn ngào, những giọt nước mắt như muốn trào ra. Trong một thoáng tôi bỗng nhớ lại hình ảnh của nồi sắn luộc không bóc vỏ với những mẩu sắn rơi vải nhuộm một màu tím sẫm, hình ảnh của người bạn tù say sắn, té từ chỗ ngủ ở tầng trên xuống nền gạch và những tiếng la cầu cứu trong đêm. Những củ sắn nằm trên kệ hàng ở đây, là một món ăn chơi của những người no đủ, không hề có một giá trị gì với đời sống của một con người bình thường này trên mảnh đất giàu có như nước Mỹ.

Chúng ta thật đã nhàm chán với những bữa tiệc tùng sang trọng, mỗi tuần không dám ăn tới ba quả trứng gà, bắt đầu thấy sợ thịt, không bao giờ đụng đến bơ, sữa hay phó mát. Phần tôi, đã nhiều lần đi qua những ngôi chợ khác nhau mà lòng thấy dửng dưng trước những món thực phẩm tầm thường như nhìn một vật xa lạ chưa lần nào gặp gỡ hay gắn bó trong cuộc đời mình. Phải chăng những vật hèn mọn này, những củ khoai lang, những miếng sắn luộc này đã từng ám ảnh chúng ta trong giấc ngủ ngày nào?

Và tôi nhớ ra một điều, khi được ra khỏi nhà tù, tôi đã quên hẳn và vất bỏ ở xó xỉnh nào đó cái lon “gô” đen đúa, người bạn thân thiết của những tháng ngày tù tội của tôi. Tôi đã đi một vòng khá xa, từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông, qua bao nhiêu cánh rừng, qua bao nhiêu eo biển, bỏ lại sau lưng quê hương và quá khứ của tôi.

Đôi khi tôi cũng đã quên tôi, nói gì đến những vật tầm thường hèn mọn như thế!

Huy Phương
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Việt Nam: Vừa Thò Đầu Ra Đã Rụt Cổ Vào - Kiên Trì Vào Thành Quách Đã Đổ Thì Phải Ngã Lăn Ra

Phạm Trần


Hoa Thịnh Đốn.- Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) kỷ niệm 90 năm Cách mạng tháng 10 Nga (07/11/1917- 07/11/2007) với một thái độ bảo thủ cực kỳ lạc hậu vừa chui đầu ra hội nhập với Thế giới văn minh lại thụt cổ vào ngay lập tức để chận đường tiến của dân tộc.

Hành động này không chỉ thấy ở một mình Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng mà còn có cả Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước phụ họa đồng ca với Tô Huy Rứa, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương và Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Ngoại giao.

Mạnh nói tại Cung Văn hoá Hữu nghị Hà Nội (7/11/2007): “Chúng ta tự hào và vui mừng về thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đồng thời không khỏi đau buồn trước những biến cố diễn ra vào thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, ngay chính trên quê hương của Cách mạng Tháng Mười, dẫn đến sự tan rã của Nhà nước Liên Xô đồng thời với sự tan rã của nhiều nhà nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu, kéo theo thoái trào tạm thời của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.”

Căn cứ vào đâu mà Mạnh và đảng CSVN dám nói sự tan rã của Liên bang Xô viết và các nước Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu chỉ “thoái trào tạm thời”? Từ năm 1989, khi Cộng sản Ba Lan sụp đổ đến nay đã có nước nào ở Đông Âu quay đầu lại với Chế độ Cộng sản chưa mà nói năng văng mạng đến thế? Hay là Mạnh đã phát biểu như thế trong trạng thái không bình thường?

Mạnh cao hứng nói tiếp như đi trên mây: “Song, chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã không cáo chung vào cuối thế kỷ 20 như các thế lực thù địch từng mơ tưởng. Thực tế đã chứng minh: đây chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể của chủ nghĩa xã hội hiện thực, chứ không phải sự sụp đổ của bản thân chủ nghĩa xã hội với tư cách là một nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản trong tiến trình lịch sử.”

Thứ nhất, sau khi các chính phủ Cộng sản ở Nga và Đông Âu sụp đổ, không ai nói rằng Chủ nghĩa Xã hội Cộng sản đã biến mất trên hành tinh mà người ta chỉ nói rằng các nhà nước theo chủ nghĩa này đã bị nhân dân đứng lên đạp đổ vì họ không có cơm no, áo ấm và con cháu họ không có tương lai khi phải sống dưới một chính quyền lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng để cai trị.

Hơn nữa nếu mà “chủ nghĩa xã hội” đã có được “nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản trong tiến trình lịch sử” thì nhân dân các nước trong khối Liên bang Xô viết và Thế giới Cộng sản phải bám chặt lấy nó chứ ai lại xa lánh nó như đã diễn ra trên đường phố Moscow từ 1990?

Nếu Nông Đức Mạnh có can đảm thì thử tổ chức một Cuộc thăm dò ý dân Việt Nam đang bị đảng CSVN cưỡng bách cai trị xem họ có còn muốn đảng này cai trị nữa không chứ không phải cứ nói bừa rằng “đảng lãnh đạo là do ý muốn của nhân dân”, hay lúc nào đường lối của đảng cũng được “nhân dân đồng tình ủng hộ”.

Bằng chứng đảng CSVN không dám để cho dân ứng cử và bầu cử tự do, không dám để cho một đảng chính trị thứ hai hoạt động tranh tài với mình, cũng như không dám cho tư nhân ra báo đấu tranh tư tưởng với đảng là bằng chứng hùng hồn nhất chứng minh nỗi sợ hãi dân chủ và tự do của đảng cầm quyền.

Mạnh tự an ủi: “Trên thế giới ngày nay, vẫn đang trụ vững và phát triển không ngừng nhiều nước xã hội chủ nghĩa gồm hàng tỉ dân, trong đó Trung Quốc và việt Nam đã và đang thực hiện thành công cải cách, mở cửa và đổi mới. Ở nhiều nước, các lực lượng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và kiên trì phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp của mình và vì lợi ích của nhân dân. Các dân tộc vẫn tiếp tục tiến lên trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập và phát triển, vì các quyền đân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hiện tượng mới nhất từ những năm đầu thế kỷ 21 đang thu hút sự chú ý toàn cầu là tại các nước châu Mỹ - La tinh, các lực lượng cánh tả đã liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử, nắm được chính quyền, trong đó nhiều nước công khai tuyên bố đi theo con đường phát triển xã hội chủ nghĩa.”

Nhưng Mạnh có biết chính phủ cánh tả ở Venezuela, Nam Mỹ, do Hugo Chavez lãnh đạo, tuy chống chính quyền Mỹ, thân với Fidel Castro của Cuba Cộng sản và được Việt Nam đón tiếp như một anh hùng, vẫn buôn bán với Mỹ, không dám đàn áp những người bất đồng chính kiến và báo chí vẫn tự do hoạt động ở Venezuela?

Mạnh cũng nên biết “phát triển ở Trung Quốc” cũng như điều được gọi là “Đổi mới” ở Việt Nam là mượn lối làm kinh tế của Tư bản Chủ nghĩa để mà sống, để mà tồn tại và nhờ đó có thể tiếp tục khoác được chiếc “áo vàng mã Xã hội Chủ nghĩa” lên người cho khỏi bẽ mặt với dân? Bởi vì Chủ nghĩa Cộng sản không có kinh tế Thị trường mà khoe lối làm kinh tế của Việt Nam bây giờ là “theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa” hay để bỏ qua Tư bản “qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa”?

Còn nếu bảo Xã hội Chủ nghĩa “không có người bóc lột người” và nó đã dựng lên các “nhà nước công – nông” của nhân dân lao động thì thử hỏi ở Việt Nam từ trước và sau hơn 20 năm Đổi mới, cán bộ, đảng viên đảng Cộng sản có bóc lột dân không? Nếu bảo là không thì tại sao Việt Nam vẫn còn nhiều kẻ tham nhũng, quan liêu đến thế và vẫn còn là một trong số nước nghèo nàn và lạc hậu nhất thế giới ở Thế kỷ thứ 21?

Thế mà Mạnh vẫn kênh kên: “Chúng ta khẳng định một lần nữa luận điểm đúng đắn mà Đảng ta nêu lên trong Cương lĩnh năm 199l: ''Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử''.

Cũng hy vọng Nông Đức Mạnh và đảng CSVN sẽ sống mãi mãi để nhìn thấy cái ngày vinh quang ấy.

TRIẾT-KHIÊM-RỨA

Cũng trong dịp kỷ niệm cuộc Cách mạng Nga, Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước cũng “thi đua” viết bài ca tụng Mác-Lênin trên báo Sài Gòn Giải Phóng.

Triết khoác lác: “Chính vì biết vận dụng đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin sát hợp với hoàn cảnh lịch sử và xã hội cụ thể, thích ứng với tính chất đặc thù của nước ta mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu mang tính lịch sử sau hơn 20 năm đổi mới. Và điều đó, đã minh chứng một cách hùng hồn rằng chủ nghĩa xã hội vẫn đang tồn tại, đã được đổi mới, hiện đại hóa và dồi dào sức sống.”

Làm gì có cái chuyện ngược đời này khi Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đảng, đã không dựa vào chủ nghĩa phá sản Mác-Lênin mà đã làm theo đề nghị Đổi mới thực tiễn của một nhóm nhỏ Trí thức Tư sản còn sót lại của Việt Nam Cộng hòa như các ông Nguyễn Xuân Oánh, Nguyễn Văn Hảo và Nguyễn Văn Diệp để cởi trói cho dân làm kinh tế tự do và mời gọi nước ngoài vào đầu tư để cứu nguy kinh tế năm 1986.

Nguyễn Minh Triết và người Cộng sản quen thói “cầm nhầm” nên cứ nói văng xích chó không sợ bị đóng thuế để tiếp tục ba hoa: “Càng nghiền ngẫm các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, chúng ta càng nhận thức và chiêm nghiệm sâu sắc hơn chân lý của thời đại mới: Đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười là sự chọn lựa sáng suốt và đúng đắn của Bác Hồ kính yêu. Đi lên chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là con đường tất yếu của nước ta.”

Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì viết trên báo Nhân Dân: “Ngày 7-11-2007, những người cộng sản, người lao động tại Việt Nam và trên thế giới long trọng kỷ niệm lần thứ 90 Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. 90 năm qua, thế giới và nhân loại đã chứng kiến biết bao thay đổi, song có lẽ Cách mạng Tháng Mười đã mang lại sự thay đổi lớn lao nhất cho dân tộc Nga nói riêng và cho nhân loại nói chung trong thế kỷ 20.”

Khiêm ca tụng sự giúp đỡ của Nga: “Trong cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ suốt 30 năm tiếp sau đó để bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, Việt Nam đã nhận được từ nhân dân Liên Xô sự ủng hộ to lớn về cả tinh thần và vật chất. Liên Xô là một trong những nước đầu tiên công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 30-1-1950), đã viện trợ hào hiệp cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã giúp đào tạo hơn 50.000 cán bộ và chuyên gia, những người đã và đang làm việc trong nhiều lĩnh vực và các cơ quan chính quyền, các viện nghiên cứu của Việt Nam. Ngày nay, trong bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi, tình hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và LB Nga vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển lên một tầm cao mới.”

Đến phiên Tô Huy Rứa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ngườ cầm cân nẩy mực công tác giáo dục tư tưởng cho đảng viên cũng hồ hởi góp phần lạc quan tếu: “Ngày nay, mặc dù CNXH vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách lớn, phong trào XHCN thế giới chưa vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng sau sự đổ vỡ chế độ XHCN ở Ðông Âu và Liên Xô, nhưng con đường được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười với ý nghĩa trọng đại của nó vẫn là một xu thế vận động tất yếu của lịch sử nhân loại….”

Rứa tự tung rồi tự hứng: “Trung Quốc xác định mô hình kinh tế thị trường XHCN. Việt Nam trong tiến trình đổi mới đang ra sức tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Lào thực hiện nền sản xuất hàng hóa và từng bước chuyển sang kinh tế thị trường, quá độ tới CNXH. Nhiều đảng cộng sản, công nhân trên thế giới đánh giá cao sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc và Việt Nam, coi đây là sự bổ sung độc đáo về lý luận của CNXH, đóng góp thiết thực vào việc phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phát triển lý luận CNXH trong điều kiện lịch sử mới.”

Nói như thế là Rứa muốn dẫn người nghe đến chỗ công nhận Trung Quốc và Việt Nam là hai kẻ đầu đàn dẫn đường cho nước nào muốn hướng đến Xã hội chủ nghĩa theo mô hình Mác-Lênin.

Rứa dẫn chứng: “Những thành tựu cải cách, đổi mới của các nước XHCN là một minh chứng sinh động cho sức sống và khả năng tự đổi mới của CNXH. Nhờ vậy, công cuộc cải cách, đổi mới, phát triển CNXH ở Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba và Lào nhiều năm qua đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, góp phần to lớn vào việc củng cố vai trò và ảnh hưởng của CNXH trên thế giới, làm cho các nước XHCN ngày càng trở thành những chủ thể quan trọng của quan hệ quốc tế trong thế giới đương đại….Những thành tựu của CNXH trong cải cách, đổi mới cùng với những bước tiến mới của phong trào cộng sản, công nhân, cánh tả trên thế giới hiện nay càng cho thấy rõ hơn con đường Tháng Mười Nga vẫn xác lập phương hướng cho các dân tộc đi đến tương lai. Đó là con đường của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; con đường của giải phóng và phát triển, tiến tới CNXH.”

Nhưng liệu những thái độ lạc quan tếu và tự biên tự diễn của Mạnh, Triết, Khiêm và Rứa về một tương lai không tưởng của Chủ nghĩa Xã hộ mới có giúp ích gì dân nhân dân Việt Nam hay họ sẽ phải tiếp tục sống lầm than từ thế hệ này sang thế hệ khác với những cái đầu đá ong như thế?

Lập luận ngoan cố, hồ hởi và bảo thủ của đội ngũ cầm quyền CSVN trong ngày kỷ niệm Cách mạng tháng 10 Nga chỉ làm cho những người đã nằm xuống vì lá cờ Đỏ Sao Vàng thêm tủi nhục và những người còn sống sót hổ thẹn vì tương lai của một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như đảng hứa với dân 60 năm qua hãy còn ở đâu đó .-/-
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Vở Tuồng Biển Đông

Trần Khải

Chỉ vài ngày sau khi các tướng Mỹ nói trong một hội nghị quân sự ở Hawaii với 24 vị Bộ Trưởng Quốc Phòng vùng Châu Á Thái Bình Dương rằng Hoa Kỳ quan ngại về các hoạt động củng cố quân sự của Trung Quốc (nước không chịu tham dự hội nghị), thì Bộ Trưởng Quốc Phòng Đài Loan (nước duy nhất trong vùng không được mời vào hội nghị) Lee Tien-yu sau khi thăm đảo Taiping trong khu quần đảo Trường Sa tuyên bố rằng Đài Loan cần phải xây dựng một phi trường trên đảo Taiping. Có liên hệ nhân quả nào không giữa các diễn tiến này? Và tại sao cần phi trường giữa Trường Sa?

Báo Taipei Times trên số ngày 8-11-2007 có bản tin nhan đề "Minister backs building airport on Taiping Island" (Bộ Trưởng Ủng Hộ Việc Xây Phi Trường trên Đảo Taiping) ghi nhận rằng Bộ Trưởng Quốc Phòng Đài Loan Lee Tien-yu nói hôm Thứ Tư là cần phải xây một phi trường trên đảo Taiping sau khi xác nhận rằng ông đã tới thăm đảo này tuần trước. Taiping là một đảo do Đài Loan kiểm soát, thuộc vùng quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc, Mã Lai, Phi Luật Tân và Việt Nam đều có quân đóng ở các vùng khác nhau. Taiping là đảo lớn nhất ở Trường Sa, ở 1,600 km phía tây nam thị trấn Kaohsiung. Còn Trường Sa có khoảng hơn 100 đảo vây quanh bởi các ngư trường nhiều cá và các túi dầu dưới lòng đáy biển.

Chỗ này cần mở một ngoặc nhỏ, rằng như thế nghĩa là trong khi các Bộ Trưởng Quốc Phòng của 24 quốc gia vùng Châu Á Thái Bình Dương dự hội nghị quân sự 3 ngày kể từ Thứ Sáu 2-11-2007 tại Honolulu theo lời mời của Đô Đốc Timothy Keating, Tư Lệnh Quân Lực Mỹ Vùng Châu Á Thái Bình Dương, thì Bộ Trưởng Quốc Phòng Đài Loan biểu diễn một màn bay ra giữa Trường Sa mà hội nghị với trăng sao.

Bộ Trưởng Lee nói, qua mô tả của phóng viên Jimmy Chuang, "Các nước láng giềng tất cả đều đã xây xong các phi trường của họ. Chúng ta sẽ ân hận trong tương lai gần nếu chúng ta không xây phi trường riêng cho chúng ta tức khắc." Ong Lee tuyên bố như thế tại quốc hội Đài Loan khi phóng viên phỏng vấn.

Thế là thấy rõ ông Bộ Trưởng Đài Loan nói kiểu mập mờ. Kiểu như nói là Đài Loan cần có xe vì ai cũng có xe cả, nhưng không chịu nói rõ các xe dị biệt nhau vì có xe tăng, xe hơi, xe gắn máy và xe đạp… Phi trường của Việt Nam trên đảo Trường Sa Lớn -- tên tiếng Anh đảo này là Large Spratly -- chỉ nhỏ khoảng 600 mét thôi, chỉ xài được cho phi cơ nhỏ loại 2 động cơ ATR-72 (theo một bản tin Reuters ngày 15-5-2004).

Nhưng Bộ Trưởng Lee thì nói là Đài Loan tính xây phi trường với phi đạo dài 1,198m và rộng 7m, sẽ an toàn cho loại vận tải cơ khổng lồ như C-130 Hercules, loại chở được 3 xe bọc sắt Humvee. Nghĩa là phi trường Đài Loan sẽ lớn gấp đôi sân bay Việt Nam ở Trường Sa.

Trong khi Hà Nội đã nói là phi trường chỉ dùng cho phục vụ du lịch thôi, thì báo Taipei Times ghi lời Bộ Trưởng Lee rằng phi trường ở Taiping là vì an ninh quốc gia. Thêm nữa, trong khi CSVN chỉ khiêm tốn nói chuyện kiếm tiền du khách ở Trường Sa Lớn, thì Đài Loan nói thẳng chuyện cứu thương, nghĩa là chuyện máu đổ thịt rơi. Nghĩa là không còn là chuyện xe hai bánh vi vu đi chơi nữa, mà là xe tăng với xe bọc sắt thôi.

Lee nói, "Bên cạnh vấn đề an ninh quốc gia, phi trường và phi đạo sẽ cải thiện giao thông giữa đảo này và Đài Loan. Thêm nữa, nếu có nhân sự bị thương trên đảo, phi trường sẽ giúp rút ngắn thời gian đưa tới một bệnh viện."

Bản tin trên báo Taipei Times không nói rằng trong thời điểm mà 24 Bộ Trưởng Quốc Phòng vùng Châu Á họp ở Honolulu với Đô Đốc Mỹ Timothy Keating, trong khi Bộ Trưởng Quốc Phòng Đài Loan Lee Tien-yu thăm vùng Trường Sa, thì Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Quốc Cao Gangchuan đang bận rộn ở đâu. Người ta chỉ biết sau hội nghị quân sự Honolulu một ngày, thì Gangchuan đón Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gates ở Bắc Kinh, với lời hứa quân đội Trung Quốc sẽ mở đường dây nóng với quân đội Mỹ.

Tuy nhiên, cũng khi gặp Robert Gates, Tướng Cao Gangchuan lập lại và nhấn mạnh với Mỹ rằng Trung Quốc sẵn sàng dùng vũ lực khi cần thiết để thống nhất Đài Loan vào Hoa Lục. Có lẽ đoán được lời hăm dọa đó do Bắc Kinh sắp lập lại với Mỹ, nên Bộ Trưởng Quốc Phòng Đài Loan mới ra Taiping và bàn kế hoạch xây phi trường rộng lớn thêm. Bộ Trưởng Lee Tien-yu không bàn chuyện dùng phi trường phục vụ du lịch như Việt Nam, mà đã nói thẳng là vì an ninh quốc gia.

Như thế cũng có nghĩa là, hội nghị quân sự 24 Bộ Trưởng Quốc Phòng Châu Á ở Honolulu thực sự không phải là nơi diễn vở ca nhạc kịch chính yếu, mà chỉ là nơi cho 24 Bộ Trưởng này ngồi đóng vai khán giả để xem màn hồ quảng long hổ tranh hùng của 2 diễn viên Trung Quốc và Đài Loan ngoài Biển Đông. Tưởng là tới Honolulu để nói, nhưng thực ra chỉ là để nhìn và nghe. Vấn đề bây giờ chỉ còn là: Bao giờ thì tới màn chót?

Hãy chờ xem, đúng là đang tới màn Đaì Loan xin gia nhập Liên Hiệp Quốc. Và 19 dân biểu Mỹ chiều Thứ Năm 8-11-2007 đã trình dự luật yêu cầu Mỹ phải giúp cho nước bạn Đaì Loan, nơi có 23 triệu dân yêu chuộng hòa bình và dân chủ, gia nhập Liên Hiệp Quốc vì nứơc này và dân này xứng đáng như thế. Điều này hiển nhiên là sẽ chọc giận Trung Quốc.

Nếu Đàì Loan vào được Liên Hiệp Quốc, tất nhiên sẽ được bảo vệ bởi Hiến Chương LHQ giưã các nứơc thành viên, thì làm sao mà Trung Quốc có thể “giành quyền sử dụng vũ lực để thống nhất Đài Loan về đất mẹ Trung Quốc,” như Tướng Cao Gangchuan đã hăm he với Robert Gates?

Bởi thế, vở tuồng này thấy rõ sẽ nhiều sóng gió. Chỉ hy vọng rằng Việt Nam sẽ không bị văng miểng.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Tài phiệt và lái súng-- Không đáng sợ bằng nghị sĩ và dân biểu Hoa Kỳ...

Nguyễn Xuân Nghĩa

Người đầu tiên báo động dân Mỹ về sự toa rập của giới kỹ nghệ và quân sự Hoa Kỳ là một ông tướng. Nhân vật đó còn có thẩm quyền hơn vậy vì sau khi rời quân ngũ lại làm tổng thống Mỹ, trong hai nhiệm kỳ. Ðó là Dwight D. Eisenhower.

Nhưng lời báo động của ông lại bị hiểu sai, trở thành huyền thoại - sự đồn đãi về một điều không có! Ðó là “tập đoàn kỹ nghệ chiến tranh”, military-industrial complex, mà Eiseinhower nói tới trong bài diễn văn giã từ quốc dân.

Trong bài diễn văn đọc ngày 17 Tháng Giêng năm 1961, Eisenhower cảnh báo về hai hiện tượng mới trong xã hội Hoa Kỳ. Một là một quân lực vĩ đại, sức mạnh bảo vệ hòa bình cho nước Mỹ. Hai là sự hiện hữu của một kỹ nghệ quân sự lớn lao. Ảnh hưởng của chúng, về kinh tế, chính trị và cả tâm linh có thể được thấy trong từng thành phố, tiểu bang và từng cơ quan liên bang. Nhưng, Eisenhower nói tiếp, chúng ta không thể không thấy ra hậu quả của tình trạng ấy.

Hậu quả mà vị tổng thống đáng kính trọng này nhắc nhở quốc dân là sự cấu kết của tập đoàn kỹ nghệ chiến tranh trong bộ máy chính quyền để ảnh hưởng tới thủ tục ngân sách của quốc gia. Ông báo động rằng thủ tục ngân sách trong Quốc Hội có thể bị các thế lực này vô tình hay cố ý chi phối và công dân cần ý thức được điều ấy để bảo vệ các quyền tự do, và tiến trình dân chủ.

Nói cho dễ hiểu, Eisenhower báo động về việc xào nấu luật lệ trong Quốc Hội do ảnh hưởng của kỹ nghệ quốc phòng cấu kết với các chính trị gia từ địa phương tới liên bang.

Trước Eisenhower rất lâu và sau đó cũng rất lâu, ta đã nghe nói đến thế lực của “bọn tài phiệt” trong hậu trường chính trị Hoa Kỳ, khiến Mỹ ưa gây chiến trên thế giới để doanh nghiệp Mỹ có cơ hội làm ăn. Thí dụ nóng bỏng là mối quan hệ giữa Tổng Thống George W. Bush và Phó Tổng Thống Dick Cheney với kỹ nghệ dầu hỏa, khiến chính quyền Bush đã tấn công Iraq.

Ðấy là kết quả của sự lười biếng suy nghĩ của nhiều người Mỹ và sự mẫn cán tuyên truyền của những người chống Mỹ, hay chống Bush!

Trước khi nhận lời ra tranh cử cùng Thống Ðốc Bush, ông Cheney là tổng quản trị của tập đoàn Halliburton chuyên về dịch vụ dầu khí. Khi làm CEO của Haliburton, Cheney đã vận động rất mạnh để Quốc Hội bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Iran vì Halliburton muốn vào xứ đó làm ăn. Người ta đã quên chuyện ấy, và ngày nay chỉ đả kích Cheney là một trong những kẻ chủ xướng việc tấn công Iran. Ở vào mỗi vị trí, người ta lại có một mục tiêu và trách nhiệm khác.

Và nói đến việc tấn công Iraq vì dầu khí thì hai ông Bush-Cheney thật chẳng đáng mặt tài phiệt. Dầu khí Iraq chưa đủ tài trợ việc tái thiết mà giá dầu thô lại mấp mé 100 đồng!

Vả lại, dại gì mà đi xa như vậy khi Venezuela ở trong tầm tay, lại có mối quan hệ lâu đời với kỹ nghệ dầu khí Hoa Kỳ, có một tổng thống nổi danh chống Mỹ và gây rất nhiều vấn đề cho quyền lợi Hoa Kỳ, kể cả các tập đoàn dầu khí Hoa Kỳ! Sao không “giải phóng” Venezuela mà sa đà vào Irap làm chi để gặp loại vấn đề mà một tổng trưởng Quốc Phòng Mỹ báo trước từ 1991: lật đổ Saddam Hussein là sẽ vất vả làm thợ hàn để ráp lại nhiều mảnh vụn sắc tộc và tôn giáo không muốn sống với nhau, và gây bất ổn cho toàn khu vực!

Người báo trước việc đó là Dick Cheney, khi còn điều khiển Ngũ Giác Ðài cho chính quyền George H. Bush trong chiến dịch Bão Sa Mạc năm 1991! Hoa Kỳ đánh tan quân đội Iraq để giải phóng Kuweit rồi rút về chứ không vào Baghdad.


Cho hay, mỗi thời lại mỗi khác...


Nhưng vì sao thế giới vẫn loan truyền lý luận về sự toa rập của tài phiệt và chính giới để Hoa Kỳ gây chiến khắp nơi?

Trước tiên, đó là công lao của Mác và Lenin, một kinh tế gia khá tồi và một chiến lược gia thượng thặng!

Tư bản cần chiến tranh để tồn tại và bành trướng. Lồng bên dưới là một lý luận... chửi cha kinh tế học. Khi có sự hủy diệt - do hay nhờ chiến tranh chẳng hạn - người ta có nhu cầu tái thiết và việc tái thiết ấy giúp cho tăng trưởng kinh tế. Lý luận ấy sai về kinh tế học vì chỉ tính ra những khoản lợi lộc thu lượm được do việc đầu tư và tái thiết mà không nhìn thấy những mất mát ở nơi khác. Ngay tại miền Nam California, sau khi xảy ra trận bão lửa Tháng Mười, tờ Los Angeles Times cũng mau mắn loan tải lý luận của nhiều nhà kinh tế Mỹ, rằng vụ cháy nhà sẽ giúp cho thị trường gia cư sớm hồi phục vì dân mất nhà sẽ cần nhà mới và cần tranh bị lại, v.v... nên sẽ kích thích sản xuất.

Người ta quên là khi bị hỏa hoạn, các nạn nhân đều bị thiệt hại và vì vậy sẽ tiết giảm chi tiêu trong lãnh vực khác. Cái mất đó thì ít ai tính ra. Cái được thì có một chuỗi mẹ cha xí phần, trong đó có giới chính trị!

Cũng lý luận kinh tế một mắt ấy mới giải thích vì sao việc phá hủy cầu đường để tái thiết có khi lại là chánh sách sáng giá của kinh tế học kiểu bao cấp xuất phát từ John Maynard Keynes. Và “tiêu thổ kháng chiến” mới dẫn tới phép lạ tái thiết huy hoàng nhất! Hãy nhìn vào Việt Nam ngày nay thì rõ - miễn là đừng so sánh với các xứ khác!

Hiểu lầm kinh tế ấy vô tình lại ăn khớp với lý luận Cộng Sản, thân Cộng, và trí thức thiên tả thời Sài Gòn 60. Mỹ phải gây chiến để xài cho hết đạn dược đã sản xuất hầu tạo thêm việc làm cho kỹ nghệ quốc phòng, cho bọn lái súng. Khi lại bập bõm nghe rằng chính Tổng Thống Eisenhower đã báo động về việc đó thì làm sao sai được. Một chính trị gia từng là thống tướng năm sao thì quả là người nằm trong chăn, nên biết chăn có rận!

Lý luận ấy tiếp tục được loan truyền trong thành phần trí thức và nghệ sĩ thiên tả hay phản chiến của Hoa Kỳ ngày nay, mà chính quyền Bush không giải thích nổi cho rõ ràng.

Trong khi ấy, người ta quên mất nội dung cảnh báo của Eisenhower.

Tuần qua, hai viện trên dưới của Quốc Hội Hoa Kỳ đã xào nấu một dự luật có triển vọng vượt qua quyền phủ quyết của Tổng Thống Bush. Kế hoạch xào nấu này của đảng Dân Chủ có mục tiêu tăng chi cho một số chương trình tào lao chỉ có lợi cho giới dân cử ở địa phương. Ðể dự luật có thể trót lọt, họ lồng vào đó một số mục quân phí kể cả các khoản chi cho các cựu chiến binh.

Gần tới kỳ tái tranh cử rồi, các chính trị gia đều muốn lập thành tích với địa phương của mình và ráp nối một dự luật có giàng bên trong những khoản chi vớ vẩn, mà ăn phiếu, với các khoản quân phí cho chiến trường Iraq và gia tăng trợ cấp cho cựu chiến binh. Cận ngày Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ thì có cho ăn kẹo, đảng Cộng Hòa cũng không dám bác và dự luật có hy vọng huy động đủ túc số để đánh bại quyền phủ quyết của Hành Pháp.

Ðiều họ không ngờ là bên Cộng Hòa không chết nhát bọc xuôi theo trò phù thủy ngân sách ấy mà đòi tách riêng từng khoản cho phân minh. Và dự luật rơi xuống nước! Ðề nghị của Thượng Viện không đủ túc số để vượt quyền phủ quyết của ông Bush.

Nhìn từ bên ngoài, ít ai hiểu ra những trò ma mãnh ấy.

Ðơn giản nhất thì cứ nuốt cả chì lẫn chài lý luận theo đó, Hoa Kỳ ưa gây chiến vì áp lực của kỹ nghệ chiến tranh! Nền dân chủ có thể là chế độ móc tiền thuế của người dân để nuôi các chính khách và khi hữu sự thì đổ lỗi cho ai khác có những âm mưu mờ ám.

Bọn tài phiệt và lái súng đứng đầu danh trạng! Và chiến binh là những kẻ bị lợi dụng. Còn cử tri thiếu hiểu biết là những người vỗ tay ca ngợi nghệ thuật móc túi.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Trung Với Đảng Là Bất Hiếu Với Dân

VŨ HẢI ĐĂNG .
(Góp Phần Phê Phán Tư Tưởng Hồ Chí Minh)
V.I Lê-nin từng tiên đoán: “Không thể có bức tường ngăn cách giữa những chiến thắng của cách mạng vô sản Nga và những chiến thắng của cách mạng vô sản quốc tế.” Thực tiễn đã chứng minh tiên đoán trên là hoàn toàn sai lầm.

Ngày nay khẩu hiệu “Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đã trở nên sáo rỗng và vô giá trị. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quá trình xã hội hóa, toàn bộ nền sản xuất đã được tự động hóa ở trình độ cao, giúp giải phóng sức lao động của con người. Ở các nước phát triển đã không còn ranh giới rõ rệt giữa người vô sản và tư sản, nghĩa là không còn người bị áp bức, trong khi các nước lạc hậu như Việt Nam vẫn đang chạy theo “Tốc độ và khối lượng”.

Chúng tôi muốn khẳng định một nguyên tắc cao nhất “Coi thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý”. Việc các học giả Cộng sản hết lời ca ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh, tô vẽ cho nó những giá trị đạo đức, văn hóa và thời đại, trong khi thực tiễn xây dựng đất nước lại hoàn toàn trái ngược với sự tô vẽ đó, thì có thể kết luận sự việc trên mang bản chất lừa đảo chính trị.

Các học giả Cộng sản luôn khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.”

Điều kiện cụ thể của nước ta, từ khi Đảng Cộng sản thành lập năm 1930, đến nay đã bước sang thế kỷ 21, về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, trên 70% dân số sống bằng nghề nông, trình độ dân trí thấp kém, nhiều tàn dư của xã hội cũ vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong đại bộ phận người dân. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng non trẻ trưởng thành sau cách mạng, hiện chiếm chưa đầy 10% dân số. Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản (giai cấp công nhân các nước công nghiệp phát triển), vậy cái gọi là vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin thực ra chỉ là sự ngụy biện.

Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản phải mang bản chất giai cấp công nhân, ở đây phải hiểu giai cấp công nhân là lực lượng xã hội lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử, sinh ra trong nền sản xuất đại công nhiệp, lực lượng này có xứ mệnh lãnh đạo xã hội và Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Tuy nhiên chủ nghĩa Mác đã không được giai cấp công nhân ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây đón nhận, ngay như nước Nga khi tiến hành cuộc cách mạng vô sản chỉ là một nước công nghiệp trung bình của Châu Âu. Việt Nam chưa bao giờ có nền sản xuất đại công nghiệp, vì vậy cũng chưa bao giờ có giai cấp công nhân, hiểu theo đúng nghĩa là một giai cấp có thể đứng lên lãnh đạo xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang bản chất cơ hội, tại đại hội Đảng lần thứ X người ta nhất trí ghi trong điều lệ Đảng: “DDảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.” Đảng là đội tiền phong của dân tộc, nghĩa là Đảng tự cho mình như Vua; Trời sinh Đảng trị nước, Đảng là Thiên Tử. Bản chất cơ hội đã quá rõ ràng, Đảng không còn mang bản chất giai cấp công nhân, cánh cửa vào Đảng đã mở rộng cho tất cả những kẻ cơ hội.

Ông Hồ Chí Minh đã đứng trên lập trường của bần cố nông để giải thích chủ nghĩa Mác. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản phải là đội tiền phong của toàn thể dân tộc, là đại biểu trung thành lợi ích của dân tộc. Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, cho nên chính quyền đó hoàn hảo và lý tưởng đến mức có thể duy trì mãi mãi. Các học giả Cộng sản quan niệm một cách mơ hồ về nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, họ coi đó là một phát kiến vĩ đại, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác. Như vậy chủ nghĩa Mác với mục tiêu và phương pháp tiến hành cách mạng nhằm xóa bỏ nhà nước cùng với tất cả những tai ác mà nhà nước gây ra, thì Hồ Chí Minh lại xuyên tạc thành mục tiêu và phương pháp xây dựng “một hình thái nhà nước lý tưởng”.

Để bảo vệ cho chính quyền cộng sản được tồn tại vĩnh viễn, Hồ Chí Minh đã dạy: “DDiều mấu chốt nhất của đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, phải tuyệt đối trung thành với Đảng” Tận trung với Đảng nghĩa là tận trung với lãnh tụ Hồ Chí Minh, ông tự cho mình có quyền định đoạt vận mệnh dân tộc, ông viết “DDảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.” Vậy nếu Đảng không còn trong sạch, sa vào tham ô hủ hóa, độc đoán chuyên quyền, làm cho đất nước ngày càng tụt hậu với thế giới, không xứng đáng là người lãnh đạo… thì Đảng có tự nguyện từ bỏ vai trò “Người lãnh đạo” hay không? Hiển nhiên là Hồ Chí Minh đã khôn khéo lẩn tránh vấn đề này, ông nói Đảng là người “ddầy tớ” của dân, mỗi cán bộ đảng viên đều là người “phục sự” dân.

Để được làm người đầy tớ của dân, nghĩa là có được “chức quyền” để phụng sự dân, những người cộng sản đã phải tranh giành nhau quyết liệt, lo lót chạy chọt rất nhiều tiền. Khi đã mua được chức chạy được quyền, họ nguyện trung thành tuyệt đối với Đảng, bởi một lẽ giản đơn: “DDã ăn bổng lộc của Vua thì phải tận trung với Vua”. Còn người dân thì tỉnh táo nhận ra rằng họ bị lừa dối, bị mất tự do. Tư tưởng đạo đức “Trung với Đảng” là xiềng xích trói buộc quyền tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận của nhân dân.

Triết học Mác – Lênin không phải là tri thức tuyệt đối, tuyên ngôn của Đảng Cộng sản không phải là chân lý tuyệt đối và Chủ nghĩa Cộng sản khoa học cũng không phải là một học thuyết tuyệt đối. Vậy phải hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về đạo đức “Trung với Đảng”, như thế nào, đây có phải là sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc không? Theo Mác, đạo đức của người Cộng sản là trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân thế giới. Khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại” của Mác chính là sự kết tinh của đạo đức cách mạng. Vậy đạo đức cách mạng tuyệt nhiên không phải là trung thành tuyệt đối với Đảng Cộng sản. Nếu như Đảng Cộng sản phản bội lại sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc, thì không ai phải có trách nhiệm đi theo và bảo vệ cái Đảng đó; “Mù quáng thờ Vua là ngu trung”, chân lý này đã được nhân dân ta đúc kết từ ngàn đời nay, cho đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.

Các học giả Cộng sản khi nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đều đi đến thống nhất quan điểm cho rằng: “Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm và phạm trù đạo đức từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời. Các khái niệm và phạm trù đạo đức về nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư,… đều là những giá trị đạo đức đã có trong nền văn hóa phương Đông hàng nghìn năm nay, trong Nho học và trong các đạo giáo khác.” Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một sản phẩm của xã hội phong kiến, các học giả Cộng sản không phủ nhận điều này, nhưng họ khéo léo tô vẽ, gọt giũa và khoác cho nó chiếc áo của xã hội mới. Chiếc áo đó tuy đẹp nhưng nó không che dấu được bản chất bên trong.

Hồ Chí Minh không chỉ xuyên tạc chủ nghĩa Mác, biến nó thành tư tưởng của cá nhân, mà còn lừa dối nhân dân rất nhiều. Chủ nghĩa Mác khẳng định cách mạng vô sản phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, quân đội cách mạng trưởng thành từ những người công nhân được vũ trang. Vậy mà theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng vô sản là sự nghiệp của toàn dân, mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, quân đội cách mạng từ nhân dân mà ra, và quân đội phải trung thành tuyệt đối với Đảng. Tư tưởng này về cơ bản giống như tư tưởng “Trung Quân” của thời phong kiến: “Trời sinh Vua trị nước, thiên hạ thái bình.”

Trong cuốn sách “Từ nhân dân mà ra”, ông Võ Nguyên Giáp đã viết: “Nhân dân ta vô cùng vĩ đại. Quân đội ta, con đẻ của nhân dân, là một quân đội anh hùng. Từ nhân dân mà ra, được nhân dân đùm bọc, chăm sóc, thương yêu.” Nhưng sự thật, cũng giống như các quân đội trong quá khứ, quân đội ta từ “Nông dân” mà ra, là một đạo quân nông dân. Không giống như quân đội Xô Viết trưởng thành từ các đội công nhân được vũ trang, quân đội nhân dân Việt Nam đã trưởng thành từ nông dân, lực lượng cốt cán là bần cố nông. Xét về bản chất, cái đạo quân nông dân ấy phải trung thành tuyệt đối với Đảng của nó và vị lãnh tụ của Đảng là Hồ Chí Minh.

Ngày nay, có quan điểm cho rằng câu nói “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân” không phải của Hồ Chí Minh, nhưng qua quá trình nghiên cứu cẩn thận, chúng tôi đi đến kết luận câu nói trên đúng là của Hồ Chí Minh. Trong cuốn hồi ký “Những năm tháng không thể nào quên”, ông Võ Nguyên Giáp đã nhớ lại: “Ngày 22 tháng 5 năm 1946, Bác lên Sơn Tây dự lễ khai giảng Trường võ bị Trần Quốc Tuấn… Sau khi căn dặn các học viên, Bác nói: “Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta.” Trung với nước, hiếu với dân, câu nói của Bác giờ đây đã đi vào lịch sử…”

Vậy tại sao bây giờ lại nói “Quân đội ta trung với Đảng”, như vậy là xuyên tạc lịch sử hay sao? Chúng ta cùng trở lại lịch sử, từ cuối năm 1945, Đảng Lao động (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tạm rút vào hoạt động bí mật, Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức một mặt trận dân tộc thống nhất thật rộng rãi, đặt tên là hội “Liên Việt”. Mục tiêu hoạt động của hội là: “DDộc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường”. Tất cả mọi người dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, đảng phái, tôn giáo, thành phần xã hội đều có thể tham gia vào hội. Các đảng phái đấu tranh cho độc lập và dân chủ đều đứng trong hội, gồm có: Việt Minh (Đảng Cộng sản), Đảng Dân chủ, Việt Nam cách mạng đồng minh (Việt Cách) và Việt Nam quốc dân đảng (Việt Quốc). Trong bối cảnh lịch sử đất nước có đa nguyên đa đảng, tất cả cùng đoàn kết đấu tranh cho độc lập và dân chủ, Hồ Chí Minh không thể đem áp đặt tư tưởng đạo đức “Trung với Đảng” cho các lực lượng vũ trang được.

Tuy nhiên 20 năm sau, khi miền Bắc hoàn toàn nằm dưới sự cai trị của Đảng, tất cả các đảng phái khác đều bị giải tán hoạt động, bị quy kết là tay sai của đế quốc và tư sản, thậm chí bị đàn áp và thanh trừng không thương tiếc. Lúc này, bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh mới bộc lộ rõ, ông đã khẳng định một cách rõ ràng và dứt khoát: “Các lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng, trung thành với lãnh tụ Hồ Chí Minh.”

Ngày 22 tháng 12 năm 1964, nhân dịp kỷ niệm quân đội tròn 20 tuổi, Hồ Chí Minh đến thăm và căn dặn: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.” Lời căn dặn trên đã khẳng định đầy đủ, bản chất tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nó đã trở thành lời thề danh dự đối với quân đội nhân dân Việt Nam. Trong bất luận hoàn cảnh nào, kể cả khi Đảng đã trở thành lực lượng phản bội, đã thối nát và mục rỗng, khiến cho nhân dân phải rên xiết dưới ách cai trị hà khắc của Đảng, thì các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vẫn luôn luôn một lòng trung thành vô hạn với Đảng.

Không còn ranh giới rõ rệt giữa những quân đội trong quá khứ và quân đội ngày nay, vì vậy cũng không có sự khác biệt giữa những triều đại phong kiến và thời đại Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là “Trời sinh Đảng trị nước, Thiên hạ ấm no hạnh phúc.” Nhưng sự thật, dân ta chưa bao giờ được ấm no hạnh phúc. Hơn 80% dân số Việt Nam vẫn thuộc diện nghèo của thế giới, trong đó quá nửa là thiếu đói, họ không chỉ thiếu thốn về điều kiện vật chất mà còn nghèo nàn về đời sống tinh thần, họ lạc hậu và xa lạ với những tri thức tiến bộ của thế giới, họ chỉ biết có Bác Hồ. Chưa bao giờ họ hoài nghi hay thắc mắc tại sao Bác Hồ cả đời vì nước, vì dân mà nước ta lại nghèo, dân ta lại khổ. Đảng Cộng sản do Bác Hồ sáng lập, giáo dục và rèn luyện là người đầy tớ của dân mà tại sao chỉ có thiểu số đảng viên có chức có quyền là sống sung sướng, còn lại đa số quần chúng nhân dân Việt Nam thì vẫn nghèo khổ…?

Xóa bỏ thần tượng Hồ Chí Minh cùng với tệ nạn sùng bái cá nhân, chính là đánh đổ bức tường thành cuối cùng của chế độ Cộng sản. Nhân dân Việt Nam cần được cởi trói tư tưởng để vươn tới tự do và đi theo ánh sáng của văn minh. Chỉ khi nào người dân được tự do suy nghĩ và bày tỏ quan điểm, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, thì khi đó đất nước mới có Dân chủ và Nhân quyền. Hiểu được chân lý trên và theo trào lưu tiến bộ của loài người, đó chính là cách để chúng ta thể hiện lòng yêu nước; Thể hiện tấm lòng trung thành vô hạn với đất nước.

Đảng Cộng sản từ lâu đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc, cánh cửa vào Đảng mở rộng cho những kẻ cơ hội tham chức hám quyền, đồng thời đóng kín đối với những người yêu nước thương dân. Trung với Đảng là trung với những kẻ phản bội; Trung với Đảng là bất hiếu với dân.

Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2007

ĐDCND http://ddcnd.org/main/
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Phê Bình Cái Gọi Là “Hiến Pháp” của Đảng CSVN

ĐÀO VĂN BÌNH .
Trước khi đi vào mục tiêu chính của bài phân tích, tôi xin giải thích rõ một vài danh từ mà tôi xử dụng:

1) Tại sao lại gọi đó là “cái gọi là Hiến Pháp” ? Bởi vì đây không phải là một bản hiến pháp hiểu theo quan niệm phổ quát – một văn kiện pháp lý có gía trị tối cao, chi phối mọi họat động của một quốc gia và phải được các cơ quan công quyền (Hành Pháp, Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện), mọi công dân, mọi định chế xã hội (đảng phái, tôn giáo v.v.) tôn trọng. Khi một đất nước đã có hiến pháp thì không thể có một đạo luật nào, một đảng nào, một cá nhân nào nếu còn sống, còn sinh họat trong quốc gia đó - có thể vi phạm hiến pháp. Ở đây không những nó không được tôn trọng, chẳng hạn như những quy định về Quyền Và Nghĩa Vụ Cơ Bản Của Công Dân nơi Chương V, mà còn bị chà đạp. Một sự vi phạm hiển nhiên nữa là trong “cái gọi là Hiến Pháp” này không có điều khỏan nào quy định quyền cai trị đất nước của Tổng Bí Thư Đảng CSVN. Quyền này đựơc trao phó cho Chủ Tịch Nước quy định nơi Chương VII, điều 101 “Chủ Tịch Nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước CH/XHCN/VN để đối nội và đối ngọai”. Thế nhưng trong thực tế Chủ Tịch Nước không phải là người thay mặt nước CH/XHCN/VN để đối nội và đối ngọai. Công việc này được trao cho Tổng Bí Thư Đảng CSVN.

2) Tại sao không gọi Hiến Pháp của Nước CH/XNCH Việt Nam mà lại gọi là Hiến Pháp của Đảng CSVN? Bởi vì “cái gọi là hiến pháp” này không được sọan thảo theo ý chí và khát vọng của tòan dân, không được thông qua trong một cuộc trưng cầu dân ý, không được một quốc hội do tòan dân lựa chọn biểu quyết, mà do một nhóm người mạo danh “Quốc Hội” do Đảng CSVN chỉ định và ra lệnh biểu quyết. “Cái gọi là Hiến Pháp” này không phục vụ quyền lợi của đất nước và dân tộc Việt Nam mà nó chỉ khẳng định quyền hành cai trị của Đảng CSVN và vì lợi ích tối hậu của Đảng CSVN mà thôi. Do đó không thể gọi nó là bản hiếp pháp của đất nước Việt Nam, của tòan dân Việt Nam được.

Thú thực, trước đây tôi không bao giờ chú ý tới “cái gọi là hiến pháp” của cộng sản cả. Tôi nghĩ chính quyền Miền Nam trước đây cũng thế. Trong suốt cuộc đấu tranh chống cộng kéo dài 20 năm, chắc chắn không một nhà cầm quyền, nhà lãnh đạo Miền Nam nào chú ý đến bản hiến pháp của cộng sản Bắc Việt - mà họ chỉ chú tâm nghiên cứu các nghị quyết của các đại hội đảng và chỉ thị của Ban Bí Thư Trung Ương Đảng CSVN mà thôi. Cộng sản ở đâu cũng thế, không bao giờ cai trị bằng hiến pháp, bằng luật lệ mà bằng chỉ thị và nghị quyết. Cho nên “cái gọi là hiến pháp” tại các xứ cộng sản chỉ là một thứ bình phong, một chậu cảnh, một tài liệu giả trá, một thứ giấy lộn, một thủ đọan lừa mị hoặc nói trắng ra nó là chiếc mặt nạ của tên cướp. Nó là một thứ pháp lệnh của Đảng Cộng Sản để kìm kẹp và cai trị dân. Ngòai ra thì nó không có một gía trị nào khác.

Thế nhưng ngày hôm nay, do nhu cầu đấu tranh dân chủ ở trong nước. Do một số đông các bạn trẻ đã bắt đầu chú ý đến nhu cầu dân chủ hóa đất nước cho nên việc tìm hiếu “Cái gọi là hiến pháp” của Đảng CSVN bây giờ rất cần thiết để giúp cho các bạn hiểu rõ về một văn kiện pháp lý hiện đang chi phối vận mệnh của 84 triệu dân Việt Nam. Do đó tôi sẽ không đứng trên quan điểm “chống cộng” để phân tích “cái gọi là hiến pháp” này - mà hòan tòan đứng trên quan điểm một người nghiên cứu Luật Hiến Pháp để những nhận định mang tính khách quan; để cho các bạn trẻ thấy những nhận xét này không phải phát xuất từ tư tưởng phản động, thù nghịch v.v.. Với những minh định như thế tôi xin đi vào tiến trình phân tích.

1) Trước hết về Lời Nói Đầu (Preamble): Thông thường trong Lời Mở Đầu của bất kỳ bản hiến pháp dân chủ nào trên thế giới đều nhắm mục đích nói rõ nguyên do tại sao phải thiết lập bản hiến pháp này. Mà nguyên do ở đây chính là cái khát vọng tha thiết nhất của một dân tộc. Lời Mở Đầu thường ngắn gọn, đanh thép, xác định rõ các nhu cầu tối thượng phải thiết lập cho đất nước, cho dân tộc và cho muôn đời con cháu mai sau. Nó không phải là một tài liệu văn chương hoa mỹ. Nó cũng không phải là một đỏan khúc tô vẽ lịch sử, thành tích của một đảng, một lãnh tụ nào. Tối kỵ nhất là đưa vào đó lời nói hoặc chủ thuyết của một nhân vật ngọai lai - dù đó là lời nói, lời dạy dỗ của ông Tây, Tàu, Mỹ, Nhật, Nga, dù đó là lời nói có tính “khuôn vàng thước ngọc” đi nữa. Vì khi đưa vào như thế thì đây không phải là hiến pháp của một quốc gia độc lập mà là của một đất nước nô lệ. Nó càng không phải là một văn kiện nói vu vơ về về chủ nghĩa, về giá trị đạo đức, về gía trị tôn giáo. Nó là những giá trị cần thiết cho mọi công dân, thiết thân trong cuộc sống mà mọi người có thể lĩnh hội, nhận thấy được, đều qúy trọng, bảo vệ, không gây tranh cãi chẳng hạn như: Công lý, quyền bình đẳng, bảo đảm tự do, tự do mưu cầu phúc lợi của người dân trong sự che chở yên bình của luật pháp, sự tòan vẹn lãnh thổ v.v.. Chắng hạn Lời Mở Đầu của Hiến Pháp Hoa Kỳ viết ngắn gọn như sau: “DDể thiết lập một liên bang hòan hảo hơn, thiết lập công lý, bảo đảm an ninh cho đất nước và bảo đảm sự thụ hưởng các quyền tự do và thịnh vượng của chính chúng ta, chúng tôi, tòan thể người dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ ra lệnh viết bản hiến pháp này.”

Còn lời mở đầu của bản hiến pháp Đệ Nhị Cộng Hòa năm 1967 viết “ Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước. Ý thức rằng sau bao năm ngọai thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đòan kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm độc lập, tự do, dân chủ trong công bằng, bác ái cho thế hệ hiện tại và mai sau. Chúng tôi một trăm mười bảy (117) Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến đại diện nhân dân Việt Nam, sau khi thảo luận, chấp thuận Bản Hiến Pháp sau đây.” Rõ ràng Lời Mở Đầu của Hiến Pháp Đệ II Cộng Hòa không hề kêu gọi “chống cộng” vì chống cộng là chuyện nhất thời, không phải chuyện của muôn đời con cháu mai sau. Khi cộng sản chết rồi thì đâu còn chuyện “chống cộng”nữa. Chẳng lẽ lúc đó phải sửa lại hiến pháp hay sao?

Còn Lời Nói Đầu của “cái gọi là hiến pháp” của Đảng CSVN thì dài lòng thòng, khoe khoang thành tích của Ô. Hồ Chí Minh, của Đảng CSVN, rồi cột buộc cả nhân dân phải làm “Nghĩa vụ quốc tế” tức đem quân đi xâm lấn xứ người để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, khẳng định nguyên tắc “ddảng cộng sản lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”, mọi việc, mọi nếp suy nghĩ đều đựơc ”soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Nhận xét:

Thứ nhất: Khi đưa chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi đường để “thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội…” thì chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ là những nguyên tắc cao hơn cả bản hiếp pháp. Câu hỏi đặt ra là trong mớ bòng bong và rối rắm của chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh thì biết phải áp dụng cái nào? Đáng lý ra khi đưa những điều khỏan này vào bản hiến pháp, thì cái gọi là quốc hội cộng sản phải biểu quyết ngay một bản phụ đính trong đó nêu rõ những nguyên tắc nào, tư tưởng nào của chủ nghĩa Mác-Lê và của Hồ Chí Minh mà tòan dân, toàn đảng phải tuân theo để tránh tranh cãi về sau này. Chẳng hạn cương lĩnh “Tiến lên kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” quy định nơi Điều 15 của Chương II có đi ngược với chủ nghĩa Mác-Lê, có trái với tư tưởng Hồ Chí Minh không? Tức là có vi hiến không? Việc bình thường hóa quan hệ ngọai giao với Hoa Kỳ và coi Hoa Kỳ là nhân tố ổn định và phát triển cần phải mở rộng và mở rộng hơn nữa (Lời tuyên bố của Nguyễn Minh Triết nhân chuyến viếng thăm Hoa Kỳ mới đây) có phản lại chủ thuyết Mác-Lê là chống lại chủ nghĩa đế quốc vốn là kẻ thù của giai cấp vô sản, có phản lại quan hệ môi răng với các nước cộng sản anh em như Trung Quốc? Có đi ngược với lời dạy của Hồ Chí Minh nói rằng đế quốc Mỹ là kẻ thù số một của lòai người tiến bộ không? Tức là có vi hiến không?

Thứ hai: Làm nghĩa vụ quốc tế là chiến lược ngọai giao của từng giai đọan, nó không phải là một nhu cầu sống còn, một phúc lợi lâu dài của dân tộc vậy tại sao phải long trọng đưa nó vào phần mở đầu của bản hiến pháp để biến nó thành một nhiệm vụ mà nhà nước (chính phủ) bắt buộc phải thi hành? Nghĩa vụ quốc tế bây giờ là cái gì? Và còn phải làm nghĩa vụ quôc tế - tức hy sinh xương máu Việt Nam cho chủ nghĩa cộng sản bao nhiêu năm nữa?

Về Điều 4: Điều này quy định như sau “DDảng CSVN, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.”

Cứ theo quy định của điều khỏan này thì Đảng CSVN là đảng duy nhất được phép sinh họat chính trị, và độc quyền lãnh đạo đất nước. Từ đó, những hệ luận của nó sẽ như sau:

Thứ nhất: Không thể có một đảng chính trị thứ hai tồn tại dưới chế độ hiện hành, tức không thể có chế độ đa đảng. Do đó các đảng phái khác nếu muốn sống sẽ phải họat động trong bóng tối như các đảng cách mạng, các hội kín lật đổ chính quyền Thời Thực Dân Pháp.

Thứ hai: Vì Đảng CSVN là ”lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” cho nên nó mâu thuẫn với Điều 101 quy định quyền hạn của chủ tịch nước “Chủ Tịch Nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngọai.” Nguyên tắc của luật là không thể có điều khỏan này mâu thuẫn với điều khỏan kia. Do đó nếu muốn duy trì Điều 4 thì phải hủy bỏ Điều 101 và ngược lại. Hoặc giả Điều 101 phải tu chính như sau “Dưới sự cai trị trực tiếp của Đảng CSVN, chủ tịch nước là một chức vụ có tính cách nghi lễ và ngọai giao trong việc đại diện cho nước Cộng Hòa XHCN/VN. Chủ tịch nước không tham dự và việc điều hành đất nước.”

Thứ ba: Từ cổ chí kim tôi chưa từng thấy một ông vua, một ông tổng thống, thủ tướng, một lãnh tụ nào ngang nhiên công bố mình có quyền lãnh đạo cả xã hội như Đảng CSVN ngày nay. Xã hội là một cấu trúc sinh sống quần tụ của con người trong đó nó bao gồm cả chính quyền. Chính quyền phải nằm xong một xã hội nào đó. Đảng phái chỉ là một sinh họat của một xã hội dân chủ. Cấu trúc xã hội bao gồm chính quyền, sinh họat tôn giáo, sinh họat gia đình, hôn nhân trai gái, sinh họat hội đòan, sinh họat văn hóa, sinh họat nghệ thuật, tư tưởng, sáng tác v.v..Nó bao gồm luôn cả truyền thống, tập tục như: thờ cúng tổ tiên, kính lễ tiên hiền liệt sĩ, anh hùng dân tộc v.v.. Tất cả những sinh họat này không một chính quyền nào có quyền mó tới dù đó là ông vua ngày xưa. Câu “phép vua thua lệ làng” còn nằm sờ sờ trong dân gian và sách vở. Nếu như nhà cầm quyền muốn điển chế hóa các sinh họat xã hội thì chỉ cần ghi một câu ngắn gọn trong bản hiến pháp về quyền thành lập các hội đòan như sau: “Các sinh hoạt hội đòan, đòan thể phải diễn ra trong khuôn khổ luật pháp, không vi phạm thuần phong mỹ tục và không được kích thích bạo động, thù hận tôn giáo, chủng tộc.” Quy định như thế là đầy đủ. Khi xác định trong hiến pháp ” Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” tức là công khai bộc lộ ý đồ áp đặt một chế độ độc tài tòan trị còn ghê gớm hơn Tần Thủy Hoàng và Hitler ngày xưa.

3) Điều 6: Điều này nói về vai trò của Lập Pháp tức Quốc Hội như sau “Nhân dân xử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân và các cơ quan khác của Nhà Nước đều tổ chức và họat động theo nguyên tắc dân chủ tập trung.” Nếu hiểu đúng ý nghĩa của Điều 6, sau khi người dân đã bầu xong Quốc Hội thì quyền hạn của người dân hòan tòan mất hết: Bởi vì sau khi các anh đã bầu chúng tôi lên, chúng tôi sẽ làm việc theo nguyên tắc dân chủ tập trung, tức là quyền thuộc về chúng tôi, các anh không được có ý kiến gì nữa. Kế đó, tại “cái gọi là Quốc Hội”, sau khi Quốc Hội đã được bầu lên, các vị gọi là đại biểu quốc hội cũng sẽ ngồi chơi sơi nước hoặc trở về địa phương mình làm vịệc khác, sáu tháng mới họp một lần. Việc điều hành Quốc Hội sẽ phó thác cho Ủy Ban Thường Vụ theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Cho nên “cái gọi là Quốc Hội” của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam là một quốc hội câm, nó là một cái nhà mồ vằng vẻ, đìu hiu cho nên Dân Oan có kéo đến biểu tình trước Quốc Hội thì chẳng thấy con ma nào ở đó. Nó không có dân biểu, thượng nghị sĩ tấp nập ra vô, với đạo quân báo chí đông nghẹt, với những nghị trình sinh họat bề bộn như tại các nước dân chủ khác trên thế giới. Có thể nói Điều 6 là điều khỏan quy định quyền hạn của Quốc Hội quái đản nhất trên thế giới.

4) Điều 12: Điều này quy định như sau “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.” Theo quan điểm luật học thì dường như ở Việt Nam hiện nay có hai thứ luật pháp. Một thứ luật pháp do Quốc Hội làm và một thứ nữa gọi là “pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Vậy thì cái gọi là “pháp chế xã hội chủ nghĩa” do ai ban hành? Có phải nó do Đảng CSVN ban hành dưới các mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết hay không? Chỉ nội một câu “tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” ghi trong Điều 12 Chương I, tòan bộ bản hiến pháp hiện hành đều vô hiệu lực, vô giá trị. Bởi vì tất cả những gì ghi trong bản gọi là hiến pháp này đã là luật lệ tối cao rồi và không cần bất cứ một thứ pháp chế xã hội chủ nghĩa nào khác. Nếu có một thứ luật lệ tối cao thứ hai thì bản hiến pháp bị khai tử.

5) Điều 30 Chương III nói về Văn Hóa, Giáo Dục, Khoa Học, Công Nghệ đã quy định như sau “Nhà nước và xã hội bảo tổn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc (các sắc tộc) Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh…” Nếu một kẻ nào đó có một chút kiến thức luật pháp mà xúi bẩy hoặc tâng công bậy bạ với Đảng CSVN để viết nên điều khỏan này thì - năm xưa phải đem chém đầu, còn bây giờ thì phải bắt quỳ gối trước sân chùa, sân đình để ăn năn sám hối. Bởi vì điều luật này sẽ tạo nên một sự tranh cãi rất gay go về gía trị văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam: Chỉ có Ô. Hồ Chí Minh là biểu tượng duy nhất về văn hóa, đạo đức cho dân tộc này hay sao? Còn các Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, La Sơn Phu Tử, Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Phan Bội Châu v.v..các vua Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông v.v..đứng ở chỗ nào? Hay tất cả các vị này đều phải khoanh tay khép nép xếp hàng sau lưng Ô. Hồ Chí Minh? Ấy là chưa kể hiện nay cuộc đời của Ô. Hồ Chí Minh đang bị khai quật, đưa ra ánh sáng. Những thi ca, hò vè, ngạo báng, thóa mạ, chửi bới Ô. Hồ Chí Minh có thể gom lại thành một cuốn tự điển còn dày hơn là những tài liệu nói về tội ác của Tần Thủy Hoàng năm xưa. Vậy theo tôi, Đảng CSVN nên hủy bỏ điều luật này đi để linh hồn Ô. Hồ Chí Minh (nếu có) được thanh thản về gặp Cụ Mác, Cụ Lê theo đúng di chúc của ông.

6) Điều 31 của Chương III cũng nói về Văn Hóa, Giáo Dục, Khoa Học, Công Nghệ quy định như sau: “ Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển tòan diện….yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính….”

Nhận xét thứ nhất: Đây lại thêm một điều khỏan quái đản nữa. Chương V đã có những điều khỏan quy định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, như thế là đủ rồi. Tại các nước dân chủ, tự do không một ai có quyền buộc người dân phải theo, phải yêu, phải quý, một chủ thuyết hoặc một tôn giáo nào. Chuyện yêu chủ nghĩa, yêu lý tưởng, yêu lý thuyết, yêu tôn giáo này kia là chuyện riêng tư của mỗi cá nhân và được quyền bất khả xâm phạm. Không một ai có quyền vặn hỏi và không một chính quyền nào có quyền nhồi sọ, ép buộc người dân - vì tất cả những thứ này thuộc phạm trù tự do tư tưởng đã được long trọng ghi trong hiến pháp.

Nhận xét thứ hai: Thế nào là “tinh thần quốc tế chân chính”? Tại sao là công dân Việt Nam tôi lại phải có cái tinh thần gọi là “quốc tế chân chính”? Tôi có phải là một siêu cường hùng mạnh như Mỹ, Nga để can thiệp vào chuyện quốc tế không? Thế giới muôn đời là một vũ đài đầy tranh chấp, thù hận, xung đột, lấn chiếm, cá lớn nuốt cá bé, nay bạn mai thù. Nhiều khi tôi phải đứng ngòai những tranh chấp đó. Mặc kệ bố nó. Quyền lợi của đất nước tôi là tối thượng, mắc mớ gì tôi phải có tinh thần gọi là “quốc tế chân chính”? Chuyện này nếu có thì đó là trách nhiệm của Bộ Ngọai Giao hình thành chính sách đối ngọai khôn khéo cho đất nước, chứ tại sao lại phải đưa vào hiến pháp? Phải chăng mấy ông muốn nói “quốc tế vô sản chân chính” mà không dám nói thẳng ra mà chỉ úp úp, mở mở? Khi soạn thảo hiến pháp thì từng lời từng chữ trong hiến pháp phải minh bạch, rõ nghĩa. Văn tự trong hiến pháp không thể mù mờ, hiểu sai nghĩa, hiểu lầm, tối nghĩa, trùng lập, ngọai trừ đây là văn tự buôn bán của bọn bất lương cố ý lừa gạt người lương thiện.

7) Điều 36 Chương III quy định “Các đòan thể nhân dân, trước hết là Đòan Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.” Khi đã quy định “các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng” như thế là quá đầy đủ. Có như thế thì mới khuyến khích mọi tầng tư nhân thành lập các đòan thể thanh thiếu niên để phụ giúp quốc gia trong vịêc giáo dục thanh-thiếu-niên. Thế nhưng lại thêm câu “trước hết là Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh” thì coi như đòan thể này là tối thượng và có thể là duy nhất trong việc giáo dục thanh- thiếu- niên. Chính vì thế mà các đòan thể như Gia Đình Phật Tử, Thanh-Sinh-Công, Hướng Đạo Sinh, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội … họ phải chết thôi vì đây là những đoàn thể phản động không được “hiến pháp” công nhận như Đòan Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Vậy thì Điều 36 Chương III là điều khỏan cực kỳ ác độc (nói theo ngôn ngữ cộng sản là cực kỳ phản động), triệt tiêu mọi nỗ lực của tòan dân góp phần của mình với quốc gia trong việc giáo dục thanh-thiếu-niên.

8) Điều 44 của Chương IV quy định việc bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa viết “ Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ Quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, tòan vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, an ninh quốc gia và trật tự an tòan xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng, cùng tòan dân xây dựng đất nước.” Điều khỏan này đặt ra rất nhiều khúc mắc:

Thứ nhất: Vì các lực lượng vũ trang nói ở đây vừa có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đất nước, vừa có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an tòan xã hội cho nên phải hiểu lực lượng vũ trang ở đây là quân đội và cảnh sát. Dù muốn dù không người lính hay nhân viên cảnh sát cũng là công dân của một nước. Do đó để quy định nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đất nước của họ, chỉ cần một điều khỏan quy định quyền hạn và nghĩa vụ của công dân là đủ, chẳng hạn Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hòa 1967, Điều 25 viết như sau “ Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc và chánh thể cộng hòa”. Còn sau đó nhiệm vụ của quân nhân và cảnh sát phải làm gì thì ghi trong Bộ Quân Luật hay Sắc Lệnh thành lập ngành cảnh sát...chứ không bao giờ ghi vào hiến pháp cả. Ghi nhiệm vụ của quân đội và cảnh sát vào hiến pháp là không biết viết hiến pháp và biến hiến pháp thành một văn kiện tả- pìn-lù.

Thứ hai: Quân đội chỉ có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đất nước chứ không có nhiệm vụ “giữ gìn trật tự, an tòan xã hội”. Đây là nhiệm vụ của cảnh sát. Khi quân đội phải đảm trách duy trì an ninh, trật tự xã hội thì đất nước hoặc lâm nguy, hoặc có đảo chánh, lật đổ hoặc lâm vào tình trạng khẩn cấp, hoặc xử dụng binh lực để đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân .v.v..

Thứ ba: Nhiệm vụ bảo vệ đất nước thuộc quân đội. Nhiệm vụ thi hành luật pháp, giữ gìn an ninh xã hội thuộc cảnh sát. Nhiệm vụ xây dựng đất nước thuộc về thành phần còn lại của đất nước bao gồm mọi mặt như: kinh tế, tài chánh, thương mại, nông- ngư-nghiệp, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, an sinh xã hội, phát triển gia cư, bảo vệ môi trường, chỉnh trang đô thị, y tế công cộng, bảo hiểm sức khỏe cho công nhân .v.v.. Chỉ thấy các nước cộng sản, chưa thấy một quốc gia nào ghi vào hiến pháp để giao phó nhiệm vụ xây dựng đất nước cho quân đội và cảnh sát. Làm như thế là biến đất nước thành một trại lính và một nhà tù khổng lồ.

Thứ tư: Trong các nước dân chủ và tự do, quân đội và cảnh sát là hai thành phần của tòan dân, cho nên - họ cũng như người dân - có nhiệm vụ tôn trọng và bảo hiến pháp, trong đó thể chế chính trị mà họ đang sinh sống đặt trụ cột trên nền CỘNG HÒA. Cộng Hòa (Republic) là một thể chế có từ thời Cổ Hy Lạp trong đó người dân chọn lựa lãnh đạo thông qua những cuộc phổ thông đầu phiếu. Toàn dân cũng như quốc hội có thể tu chính hiến pháp nhưng không thể thay đổi nền cộng hòa. Sở dĩ phải ghi điều khỏan này trong hiến pháp là để tránh cho những thế lực đen tối muốn phá hủy nền cộng hòa để thiết lập chế độ quân chủ, chế độ độc tài, chế độ quân phiệt và nhất là chế độ cộng sản. Tuy nhiên tại các quốc gia dân chủ, tự do, không có điều khỏan nào bó buộc quân nhân và nhân viên cảnh sát trung thành với bất cứ chủ nghĩa nào. Chủ nghĩa thuộc phạm trù tư tưởng cho nên có nhiều tranh cãi, người thích chủ nghĩa này, người thích chủ nghĩa khác. Chủ nghĩa – cao điểm của nó có thể là món hàng thời trang - nhưng chỉ thời sau một thời gian ngắn đã lỗi thời, cho nên không thể áp đặt một chủ nghĩa lên bất cứ ai. Áp đặt một chủ nghĩa lên đầu người khác là triệt hủy quyền tự do tư tưởng của người ta. Vậy thì điều khoản buộc mọi người, buộc quân đội và cảnh sát trung thành với chủ nghĩa xã hội hay bất cứ chủ nghĩa nào khác và ghi nó vào trong hiến pháp là một tội ác, tội triệt hủy quyền tự do tư tưởng của con người.

Thứ năm: Tại sao buộc quân đội và cảnh sát phải trung thành với “những thành quả cách mạng” ? Câu hỏi đặt ra ở đây là thành quả cách mạng là cái gì? Có bao nhiêu thành quả cách mạng? Bảo vệ những thành quả cách mạng là bảo vệ cái gì? Chúng ta có thể tạm định nghĩa thành quả cách mạng là một cuộc khởi nghĩa vũ trang, một cuộc binh biến, một cuộc cướp chính quyền, một cuộc đảo chính, một cuộc nổi dậy thành công, thay đổi hệ thống cai trị cũ và đưa đất nước vào một giai đoạn mới với một chính quyền mới, có thể là xấu hơn hoặc tốt hơn. Ví dụ BS Tôn Dật Tiên khởi nghĩa vũ trang lật đổ Triều Đình Mãn Thanh thành công và thành lập Trung Hoa Dân Quốc. Sự thành lập một nước Trung Hoa mới này, phe Quốc Dân Đảng Trung Hoa gọi là thành quả Cách Mạng Tân Hợi. Đảng CSVN lợi dụng lúc Nhật đầu hàng, cướp chính quyền quốc gia từ tay Cụ Trần Trọng Kim và gọi đó là Cuộc Cách Mạng Tháng Tám. Sự thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tiền thân của chế độ cộng sản bây giờ và người cộng sản gọi đó là thành quả cách mạng. Bất cứ thành quả của cuộc cách mạng nào cũng nóng hổi lúc ban đầu, rồi khi thời gian qua đi, nó chỉ còn lại như một biến cố lịch sử ghi dấu bằng những ngày nghỉ lễ hoặc ngày quốc khánh. Vậy thì “trung thành với những thành quả cách mạng” là trung thành với cái gì ? Trung thành với một mớ kỷ niệm cũ? Trung thành với một biến cố lịch sử cũ? Trong thâm tâm, trong ký ức người cộng sản họ có quyền nuối tiếc vì đây là niềm hãnh diện, là tình cảm của họ. Thế nhưng khi viết hiến pháp thì phải nhìn về tương lai. Hiến pháp không phải là một tài liệu nuối tiếc dĩ vãng, dù là dĩ vãng vàng son. Người sọan thảo hiến pháp, không phải chỉ viết cho hiện tại mà cho muôn đời con cháu mai sau. Một bản hiếp pháp hoàn hảo là một bản hiến pháp không bị lạc hậu, bế tắc theo thời gian, chẳng hạn như hiến pháp Hoa Kỳ. Hiến pháp là văn kiện thể hiện ý chí tòan dân, nó là mệnh lệnh tối cao của tòan dân chứ không phải của một tôn giáo, một đảng phái hay một tổ chức nào - cho nên nó không thể, và không được phép thiên vị thành tích của bất kỳ đảng phái, tôn giáo, phe phái nào. Cho nên ghi điều khỏan “trung thành với những thành quả cách mạng” vào hiến pháp chỉ là một hình thức nuối tiếc dĩ vãng vàng son, không đúng chỗ, đúng nơi và cần phải hủy bỏ.

Vấn đề hủy bỏ Điều 4: Mấy lúc gần đây một số các nhà đấu tranh trong nước cũng như một vài tổ chức ở hải ngọai đã làm kiến nghị thư yêu cầu nhà cầm quyền CSVN hủy bỏ Điều 4 bản Hiến Pháp 1992 mà chúng ta đang phân tích đây. Theo quan điểm của các vị này, nếu như Điều 4 bị hủy bỏ thì sẽ tạo ra tiến trình dân chủ hóa nhịp nhàng, tức là Đảng CSVN không công khai, nhưng mặc nhiên từ bỏ độc quyền yêu nước từ bỏ độc quyền lãnh đạo đất nước. Và cứ theo Bản Hiến Pháp Không Điều 4 này thì các đảng phái đối lập sẽ được phép công khai sinh họat hay ít ra sẽ không còn bị đàn áp như trước nữa. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra ở đây là dù cho Điều 4 có bị hủy bỏ, liệu tiến trình dân chủ có thể xảy ra, liệu các nhà dân chủ có thể sống yên ổn trong một chế độ mà những điều khỏan sau đây vẫn còn nằm chình ình trong bản hiến pháp?

1) Mọi nếp suy nghĩ của tòan dân đều đựơc soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (Lời Nói Đầu)

2) Không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. (Điều 12)

3) Cả nước phải noi theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (Điều 30)

4) Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển tòan diện, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính…(Điều 31)

5) Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh vẫn tồn tại (Điều 36)

6) Quân đội và cảnh sát vẫn trung thành và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng. (Điều 44)

7) Mặt Trận Tổ Quốc vẫn tồn tại (Điều 111)

Do đó một câu hỏi nữa cần được đặt ra: Phải chăng cần phải vứt bỏ tòan bộ bản hiến pháp này để viết lại một bản hiến pháp mới cho dân tộc để hoa dân chủ có thể nở trên quê hương Việt Nam? Và khi một bản hiến pháp mới ra đời như thế thì đó là một cuộc cách mạng. Nhưng làm thế nào để có một cuộc cách mạng như vậy? Đây là trách nhiệm, trước hết của các nhà đấu tranh trong nước, kế đó là khối 3 triệu người lưu vong tại hải ngọai, của đại khối 84 triệu dân và sự thức tỉnh của những người cộng sản đang nắm quyền lực trong tay.

Kết Luận: Vào Tháng 7,1994 tôi có dịp tham dự cuộc hội thảo Đấu Tranh Dân Chủ, Tự Do cho Việt Nam do Liên Minh Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tổ chức tại Thành Phố Crystal, cạnh Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Nơi đây tôi có gặp Tiến Sĩ Walter Boek tác giả hai cuốn sách How to Establish a Democracy for the One You Now Have và cuốn The Evolution of A Democracy. Tiến Sĩ Walter Boek cho biết ông là người giúp các nước Đông Âu sọan thảo hiến pháp dân chủ khi chế độ cộng sản xụp đổ tại các quốc gia này. Điều đó cho thấy soạn thảo hiến pháp không phải chuyện dễ dàng, dù tại một quốc gia khá văn minh như các nước Đông Âu. Tôi không hiểu mấy ông trong Chính Trị Bộ Đảng CSVN nghĩ gì khi sọan thảo “cái gọi là hiến pháp” năm 1992 này? Đây là một văn kiện mù mờ, tối nghĩa, các điều khỏan trùng lập, người sọan thảo không phân biệt được đâu là những ý niệm căn bản về công lý quốc gia, họat động của quốc gia và đâu là đạo đức và sinh hoạt của cá nhân; không phân biệt đâu là những cơ chế hiến định và đâu là những tổ chức phụ thuộc của các cơ chế hiến định. Nó là một món tả-pín-lù không giống một bản hiến pháp nào, nếu các chuyên gia luật pháp thế giới đọc được, họ sẽ cười thối mũi. Nhưng hiển nhiên nó là một Bản Bố Cáo, Bản Yết Thị treo giữ Chợ Đồng Xuân cho bàn dân thiên hạ biết chế độ đang áp đặt trên dân tộc Viêt Nam hiện nay là một chế độ độc tài toàn trị dưới sự thống ngự của Đảng CSVN. Nếu quý ông trong Chính Trị Bộ vừa ngồi xổm vừa hút thuốc lào vừa nhắm rượu, ăn thịt chó để viết bản hiến pháp này thì tôi không trách vì họ thuộc giai cấp bần cố nông răng đen mã tấu, vừa ngu dốt lại vừa tham lam, hung ác. Nhưng nếu họ được hỗ trợ bởi các luật gia “xã hội chủ nghĩa” thì các vị trí thức cộng sản này kém cỏi quá. Song cũng có thể các vị trí thức dưới chế độ cộng sản rất giỏi nhưng vì phục vụ cho một ông chủ ngu dốt và độc ác cho nên nó mới đẻ ra một quái thai như thế. Sự tồn tại của “cái gọi là hiến pháp” này là một thảm họa cho dân tộc và chúng ta cầu mong nó sớm chết đi. Và khi nó đã chết đi, chắc chắn chúng ta - tôi muốn nói tòan dân - cần phải viết lại một bản hiến pháp mới cho đất nước. Tôi có thể cam đoan với quý vị, tại nơi hải ngọai này sẽ có cả trăm luật gia lưu vong lỗi lạc của Miền Nam trước đây, có khả năng phụ giúp các nhà lãnh đạo mới trong việc sọan thảo một bản hiến pháp hòan hảo, không phải cho thế hệ hiện tại mà cho nhiều thế hệ mai sau của đất nước Việt Nam.

Sau hết, những gì tôi viết ra ngày hôm nay có thể làm đau lòng những người cộng sản. Thế nhưng vì tiền đồ của dân tộc, vì hạnh phúc của con người Việt Nam tôi phải viết. Nhưng tôi không viết bằng lòng thù hận và nuôi dưỡng thù hận. Để chứng tỏ điều đó tôi xin ghi lại ở đây bài thơ Trên Quê Hương Tôi - sáng tác năm 1980 tại Trại Tù Hà Tây:

Văn tôi không hay lời thơ tôi không đẹp.

Nhưng tình tôi chân thành tha thiết,

Của con tim và của năm tháng u buồn.

Ai hỏi tôi mong ước gì hơn?

Tôi chỉ muốn quê hương mình đẹp mãi.

*

Bao nhiêu năm chiến tranh hung tàn quá.

Phá tim người và phá cả quê ta.

Đạn bom bay trên khắp mọi nhà.

Tình đồng loại đồng ca trên xác chết !

*

Tôi muốn quên và quên cho hết.

Chỉ giữ gìn lại chút tin yêu.

Rằng đất nước này không phải của ai.

Của tất cả và của bốn ngàn năm lịch sử.

Rằng không một ai có quyền cướp nó.

Trả thương yêu và nhân ái lại cho đời.

Quê hương ta từ thuở xa xôi.

Đã đứng vững và ngày nay vẫn đẹp.

Hò ơi !

Ai qua đền Vạn Kiếp ?

Ai xuôi nước Nhị Hà ?

Ai về qua Sông Cửu ?

Gánh lúa vàng nặng trĩu trên vai.

Hò lơ điệu hát buông dài.

Nhớ thương đất nước chẳng phai trong lòng!

Đào Văn Bình

(Viết trong Mùa Lễ Thanksgiving 2007 tại Hoa Kỳ)

ĐÀO VĂN BÌNH
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Người anh hùng muôn thuở của sinh viên Paris

Ngày 8/1/1987, người thanh niên với trái tim nồng nàn tình quê hương dân tộc, và cũng là cựu chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Paris tên Trần Văn Bá (TVB) đã hiên ngang ngẩng cao đầu thà bị bạo quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) hành quyết trước tiền đình quốc hội Việt Nam còn hơn là ký tên nhận tội để được ân xá. Một Nguyễn Thái Học của thế kỷ 21 vừa bước vào sử xanh hiện đại. Gương hy sinh cao cả của vị anh hùng liệt sĩ Trần Văn Bá và hai bạn đồng đội của anh đã làm xúc động toàn thể đồng bào hải ngoại, đặc biệt là giới trẻ Việt Nam thời đó.

Sự hy sinh oanh liệt này không phải chỉ được ghi chép trên trang sử hùng Việt Nam không thôi. Hai mươi hai năm sau ngày anh TVB đền nợ nước, Sáng hội Tượng đài Nạn nhân Cộng sản (Victims of Communism Memorial Foundation) vào tối 15/11/2007 tại Tòa Đại Sứ Hung Gia Lợi ở Washington, đã tổ chức lễ trao tặng huy chương Truman-Reagan Freedom 2007 cho anh hùng Trần Văn Bá, cựu chủ tịch của THSVVNParis, người đã bị Việt cộng hành quyết ngày 8/1/1985 sau khi anh bị bắt ở làng Minh Hải, Cà Mau. Tiến sĩ Lee Edwards chủ tịch sáng hội nói "Sau khi tham khảo ý kiến đồng sự, sáng hội đồng ý chọn anh TVB là biểu tượng cho cuộc đấu tranh đòi tự do". Theo ông, lý tưởng anh Bá ấp ủ việc trở về quê hương để rồi bị bắt và xử tử, nói lên hành động bất khuất của một con người chỉ muốn mưu cầu tự do công bằng trên quê hương đang bị Cộng sản đàn áp. Huy chương Truman Reagan Tự Do là huy chương cao quý mang tên hai vị tổng thống Truman và Reagan nổi tiếng chống cộng của Hoa Kỳ đã từng được trao tặng cho những nhà tranh đấu chống cộng sản nổi tiếng trên thế giới như Lech Walesa, Vaclav Havel, Đức Giáo Hoàng John Paul II, TNS Joe Lieberman, William Buckley Jr., Elena Bonner.
Ngày 15/11/2007 hôm nay, trong khi thế giới đang vinh danh anh, ngồi thu mình trong một căn phòng nhỏ bé tôi ngậm ngùi viết lại những dòng kỷ niệm về anh. Những kỷ niệm để đời về một người bạn, một người đàn anh mà vợ chồng tôi và các anh chị em trong Tổng Hội Sinh Viên Paris (THSVP) đã cùng chung vai sát cánh bên anh chia sẻ những ngọt bùi trong suốt hàng chục năm sinh hoạt trong THSVP tranh đấu cho tự do dân chủ VN. Hôm nay tôi muốn ghi lại một phần nhỏ bé về con người thật của anh mà tôi khám phá được nơi anh .

Trước tiên, cách hành xử bình dân, khiêm nhường và xuề xòa của anh đã thu phục nhân tâm rất nhiều người, nên ai cũng gọi anh thân mật bằng cái tên "Bá đầu đỏ" vì anh có một cái bớt màu đỏ nơi trán phiá trái. Chính nhờ cách hành xử bình dị như thế mà ở Paris chỉ có anh là người duy nhất có thể nói chuyện được với tất cả mọi thành phần người Việt quốc gia tại Paris. Từ những tay anh chị cho đến nhà khoa bảng trí thức cũng đều vui vẻ qúy mến giúp anh khi anh cần đến họ. Đây là điểm son của anh Bá. Cũng vì thế mà ở những hội chợ Tết của THSVP chỉ có anh Bá là người có thể huy động được tất cả những môn phái võ đến giữ an ninh cho gần 4000 đồng hương tới tham dự hội Tết THSVP. Nhờ có sự bảo vệ của khoảng 200 võ sinh và nhiều võ sư mấy đẳng bao quanh khu vực hội trường Maubert Matualité, đứng canh cửa trạm metro và xe bus, trong hội trường mà nhóm thân cộng Việt Kiều Yêu Nước và toà đại sứ CSVN (sau 1975) đã không thể nào phá được đêm Tết của THSVP.

Anh Bá sống rất có tình nghiã với anh chị em. Sau ngày 30/4/1975, khi cư xá sinh viên đã bị trao trả cho CSVN, các sinh viên bị đuổi nhà bơ vơ không biết nương tựa vào đâu. Anh Bá đã mời những ai không có nhà về ở chung với anh. Anh thuê 1 appartment rộng để cho mọi người về đó ăn ở miễn phí, chia sẻ ngọt bùi với nhau. Bao nhiêu tiền lương kiếm được thay vì mua nhà cho mình hay may sắm chưng diện anh đã dùng cho những chi tiêu đấu tranh và giúp đỡ bạn bè. Tinh thần đùm bọc nọ đã biến nơi cư ngụ của anh thành một gia đình mà chúng tôi gọi là gia đình Bá đầu đỏ.

Sự hãnh diện của các anh chị em gia đình Bá đầu đỏ tự nó nói lên một điều là qua cách hành xử yêu thương như anh em ruột thịt một nhà của anh Bá đối với họ nên không ai có mặc cảm mang nợ anh Bá và họ rất hãnh diện được là đàn em của anh Bá là vì thế.

Anh Bá là một người can đảm có tư cách của một bậc đàn anh lãnh đạo quả cảm. Khi hay tin thủ tướng Phạm Văn Đồng công du Pháp, anh Bá đã đứng ra tổ chức cuộc biểu tình để tố cáo tội ác CSVN và đòi dân chủ cho VN. Anh chị em THSVP chúng tôi dành dụm tiền in truyền đơn, hăng say đi phát ở những cư xá sinh viên, khu đại học mời mọi người đi tham dự biểu tình. Toà đại sứ CSVN tức điên ruột, sai đàn em điện thoại hăm dọa chúng tôi nếu không ngưng phát truyền đơn ở cư xá ăn Cité Universitaire thì chúng sẽ cho người đánh. Thứ bảy tuần cuối trước khi Phạm Văn Đồng sang Pháp, anh Bá cùng anh chị em THSVP và nhiều võ sư nhất quyết đến cư xá Cité Universitaire phát truyền đơn. Lúc đó CSVN trốn đằng sau đám tây đen thân cộng đứng hàng đầu bảo vệ cho họ. Trước một đám đông gần một trăm tên tây đen vạm vỡ cao từ 1.80m trở lên, mặt mày dữ tợn đằng đằng sát khí tay cầm gậy sắt dài gần 2 thước, anh Bá đã ra lệnh cho tất cả các cô phát truyền đơn hãy rút lui và chỉ có con trai xông vào mà thôi. Riêng anh Bá trên tay không có gậy gộc mà chỉ cầm sấp truyền đơn tiên phong bước tới. Thế là bọn tây đen gào thét man rợ nhào vào cầm gậy sắt đánh chúng tôi. Một bạn sinh viên bị chúng đánh té xuống và thằng tây đen cứ tiếp tục dùng gậy sắt dập lên đầu anh ta một cách dã man nên đã được cảnh sát mang vào nhà thương. Đây là tổn thất về phiá sinh viên quốc gia. Nhưng về mặt chính trị thì đây lại là một thắng lợi lớn cho người Việt quốc gia và là sự thiệt hại lớn cho uy tín của CSVN bởi vì ngày hôm sau truyền thông Pháp đã lên tiếng kết án CSVN dã man đàn áp quyền tự do phát biểu của người dân. Tôi không bao giờ quên được quang cảnh man rợ ngày hôm nọ. Khi viết những dòng này tôi vẫn còn nghe trong tai tôi những tiếng hò hét rợn tóc gáy của đoàn quân tây đen hung tợn. Và tôi cũng không bao giờ quên được hình ảnh rất anh hùng và ánh mắt cương quyết của anh Bá quay lại nói với anh chị em SV trước khi tiến quân, những câu nói chứa chan sự bảo bọc của một bậc đàn anh dũng cảm : " Các cô hãy rút lui hết, các bạn nào không có võ nên tránh xa". Tuy nhiên các anh chị em chúng tôi vẫn quyết sống chết có nhau nên vẫn quyết tâm tiến lên cùng với anh Bá. Vào những ngày cuối tình hình còn căng thẳng hơn nữa. Bọn tay sai CSVN đứng rình nơi cột đèn ở dưới nhà chờ anh Bá xuống để đánh. Trong khi đó dẫu bị cảnh sát Pháp gọi lên đe dọa sẽ đưa anh ra đảo Corse nếu THSVP không hủy bỏ ý định tổ chức biểu tình, nhưng anh Bá vẫn quyết tâm đi tới cùng. Anh có dặn anh chị em rằng nếu anh có bị cảnh sát hốt đi giờ chót thì anh chị em cứ tiếp tục đi tới. Và sau cùng cuộc biểu tình đã diễn ra thành công chưa từng thấy tại công trường Trocadero với số người tham dự lên đến vài ngàn người. Đây là cuộc biểu tình đầu tiên ở hải ngoại với rừng cờ vàng, tràn ngập biểu ngữ tố cáo tội ác CSVN và rừng người hó hét phản đối chế độ quyết liệt đòi tự do dân chủ cho VN. Và đây cũng là cái bạt tai đầu tiên của tuổi trẻ Việt Nam và đồng bào VN ở Pháp dành cho lãnh đạo CSVN, mở đầu cho những bạt tai tiếp nối của đồng bào tỵ nạn ta trên toàn thế giới cho tới ngày hôm nay.

Anh Bá là một người có tấm lòng nhân bản và tinh thần trách nhiệm cao. Thanh niên thiếu nữ nào mà chả biết rung động thương yêu. Anh Bá cũng không thoát khỏi quy luật đó. Anh em THSVP chúng tôi đều biết anh có cảm tình đặc biệt với một cô, và chị này cũng qúy mến kính trọng anh. Đã có những lúc chúng tôi đùa nói Bá đầu đỏ phải lên xe hoa về nhà nàng . Anh đã bén lẽn nói "yêu làm chi cho mệt óc chỉ làm quẩn chân con đường mình đi mà thôi". Dẫu qua lời nói nửa đùa nửa thật ở trên nhưng sao tôi vẫn cảm nhận được nơi ánh mắt anh một nỗi luyến tiếc nào đó, một sự giằng co trong con tim TVB là có nên yêu hay không. Một sự mâu thuẫn tình cảm mà lúc đó tôi không thể nào hiểu được. Cho nên tôi lại nói đùa tiếp để thử tìm ra sự thật: "Nàng cũng đấu tranh như anh, như vậy thì lý tưởng nhất rồi còn gì". Anh cũng lại nửa đùa nửa thật bảo là cô nào lấy anh làm vợ chỉ khổ cho đời cô ta mà thôi và sau đó anh nói lãng sang chuyện khác. Vài năm sau, khi hay tin anh Bá bị xử tử hình tôi mới hiểu tại sao anh nói những điều trên. Là một người mẹ một người vợ ngày hôm nay ngẫm lại câu nói xưa tôi lại càng kính phục anh hơn. Anh thương qúy một người con gái. Anh cũng biết rằng tình yêu đã mở rộng đón anh. Nhưng anh đã chạy trốn chối bỏ nó vì lòng anh không nỡ để người anh qúy thương phải sống những chuỗi đời còn lại trong góa bụa u sầu vì anh biết rằng cái chết có thể đến với anh bất cứ lúc nào trên con đường trở về với quê hương dân tộc mà anh đã quyết tâm chọn lựa. Đây là một quan niệm về tình yêu chân thật mà tôi nghĩ là đẹp và cao thượng nhất của thời đại yêu cuồng sống vội ngày hôm nay.

Những tiện nghi vật chất xa hoa ở đời đã không cầm được chân Trần Văn Bá. Anh đã âm thầm trở về nước. Bỏ lại sau lưng thành phố hoa lệ Paris đầy quyến rũ và những thành công cá nhân . Bỏ lại sau lưng những con đường Paris đầy kỷ niệm với gia đình Trần Văn Bá và anh chị em THSVP. Bỏ lại sau lưng hạnh phúc lứa đôi. Và anh đã trở về quê hương những mong vá lại mảnh cơ đồ mục nát. Trở về tranh đấu cho công bằng lẽ phải và tình người sớm được hồi phục trên quê hương.
Đau đớn thay! Định mệnh oan nghiệt đã phủ lên đầu chàng trai nước Việt với bản án tử hình ngày 8/1/1985. Khi nghe tin trên đài truyền hình Úc, nhìn tấm hình anh trong chiếc áo tù bị công an bịt miệng tôi đã trào lệ uất ức. Khuôn mặt anh tóp lại hằn những dấu vết bị tra tấn làm anh già đi hàng chục tuổi. Cái bớt đỏ trên trán anh vẫn còn đó. Ánh mắt quật cường của buổi anh chỉ huy đàn em THSVP ra quân ở Cité Universitaire năm nào vẫn còn kia. Vẫn hiên ngang tự tại không chịu khuất phục đầu hàng bạo lực. Không bán rẻ lý tưởng ký vào bản tự thú để được khoan hồng. Cũng anh hùng đâu khác chi Nguyễn Thái Học, ngày hành quyết anh đòi không bịt mặt đế chứng kiến lần cuối trong đời cảnh bạo quyền kết liễu đời mình. Một giòng máu đỏ tươi từ trái tim người con Việt hào hùng Trần Văn Bá đã phọt bắn tóe ra khắp nơi. Giòng máu kiêu hùng quyết liệt đối đầu với bạo quyền đã vượt không gian hoà tan trong huyết quản tuổi trẻ VN hải ngoại làm sôi sục ý chí quật cường vùng lên. Và tuổi trẻ VN hải ngoại đã theo bước chân anh lên đường thề quyết tâm không đầu hàng bạo lực. Cái chết của Trần Văn Bá đã mở đường cho phong trào tuổi trẻ đấu tranh ngày càng lan rộng khắp năm châu.

Ngày hôm nay nhìn lại con đường trên 30 năm mà mình đã đi qua, mái tóc giờ đã bạc theo mầu thời gian mà vận nuớc vẫn ngày càng đen tối. Bản chất độc tài của CS vẫn còn đó. Duy chỉ có mỗi cái vỏ bề ngoài thay đổi mà thôi. Con cắc kè CS đỏ đã đổi màu biến thái thành kỳ nhông tư bản đỏ, ngày hôm nay vẫn tiếp tục dùng bạo lực trấn áp tất cả những ai nghĩ khác nó dù kẻ đó đấu tranh trong ôn hoà hay bất bạo động.

Đêm đã về khuya. Nước mắt tôi nhạt nhoà hình ảnh cuối cùng của một Trần Văn Bá bị bịt miệng ở tòa. Tôi xin hẹn sẽ có một ngày tìm về nơi mộ phần cô quạnh, đốt nén hương lòng kể cho anh nghe về những cuộc đấu tranh quyết liệt của đồng bào ta không hề ngưng nghỉ. Hãy ngủ yên anh nhé. Đừng bận tâm nuối tiếc cõi trần vì tôi tin rằng tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại ngày hôm nay dư thừa sáng suốt để nhận ra đâu là con đường đấu tranh đúng đắn hữu ích cho dân tộc. Tuổi trẻ hải ngoại sẽ không rơi vào những cái bẫy đấu tranh ỡm ờ theo kiểu xin / cho vì họ thừa biết rằng CS biến thái sẵn sàng bạo động dùng bạo lực để trấn áp tất cả những ai nghĩ khác họ cho dù người đó có đấu tranh ôn hoà bất bạo động. Và tuổi trẻ Việt nam hải ngoại cũng sẽ chả dại gì mất tiền của hy sinh đời mình trở về xây dựng xã hội dân sự nuôi dân nghèo dùm cho chế độ, là một hình thức thực hành nghị quyết 36 mà thôi.

Xin vĩnh biệt anh, người anh hùng muôn thuở của Tổng Hội Sinh Viên Paris.

Nam Dao (Adelaide)
15/11/2007
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Thư Ngỏ Kính Gởi Quý Đồng Đội Trong Quân Lực VNCH

Kính thưa quý vị niên trưởng,

Kính thưa quý bạn đồng đội,

Tôi viết thư ngỏ gửi đến quý vị để xin được giúp đỡ trong việc viết quyển Từ Ðiển Chiến Tranh Việt Nam.

Trước hết tôi xin trình bầy là quyển từ điển này hình thành trên 5 quan niệm.

1. Quan niệm đầu tiên là không thể không viết quyển “Từ Ðiển Chiến Tranh Việt Nam”. Chúng ta là một trong 4 lực lượng quân sự tham chiến, 3 lực lượng kia, Việt Cộng, Pháp, và Hoa Kỳ đều đã viết từ điển về cuộc chiến tranh này. Khi cố ý, lúc vô tình, họ viết nhiều xuyên tạc gây hiểu lầm về miền Nam Việt Nam, về chiến tranh Việt Nam, và về quân lực VNCH.

Một thí dụ: quyển DICTIONARY OF THE VIETNAM WAR của nhà xuất bản Webster phát hành năm 1998 viết về bộ binh VNCH, “Ðược Hoa Kỳ tạo ra năm 1955, bộ binh Việt Nam là lực lượng bộ chiến của quân lực VNCH bên cạnh một hải lực và một không lực. Nhiệm vụ của bộ binh VNCH là vô hiệu hóa Quân Ðội Nhân Dân của Bắc Việt và quân lực đồng minh của họ ở Nam Việt là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lực lượng này còn được gọi là Việt Cộng.

“Năm 1879 tại Sài Gòn, một quốc gia Tây Âu (Pháp) dựng lên đơn vị quân sự Việt Nam đầu tiên để đánh những người Việt Nam đối nghịch, đơn vị đó là Régiment de Tirailleurs Annamites (trung đoàn lính An Nam); 4 năm sau, Pháp thành lập thêm Trung Ðoàn lính Bắc Kỳ (Regiment de Tiraillers Tonkinois) tại Hà Nội …” (Created by the United States in 1955, the arvn was the land force component in the Republic of Vietnam Armed Forces [RVNAF], which included a navy and air force. The ARVN’s mission was to neutralize North Vietnam’s People’ Army of Vietnam (PAVN) and its southern ally, the National Front (NFL) also khnown as the Viet Cong.

The first Vietnamese military force created by a Western nation to fight Vietnamese opponent dates from 1979. In that year, the French organized the Regiment de Tirailleurs Annamites (the Annamite Rifles) in Saigon; four years later, a companion unit, the regiment de Tiralleurs Tonkinois [the Tonkin Rifles] was formed in Hanoi.)

Không những không đúng sự thật, quyển DICTIONARY OF THE VIETNAM WAR còn bóp méo sự thật và nhục mạ Quân Lực VNCH khi đem so sánh chúng ta với hai trung đoàn lính An Nam và trung đoàn lính Bắc Kỳ được thành lập để đánh những người Việt Nam chống đối Pháp. Hơn nữa, Hoa Kỳ không thành lập quân đội VNCH; năm 1955 khi họ mới bước một chân vào chiến tranh Việt Nam, chân kia còn đứng ngoài, quân đội Việt Nam đã có trên 200,000 chiến sĩ.

Một trong những sai lầm thông thường mà miên viễn và tai hại của người Mỹ là họ chẻ hai một lực lượng quân sự duy nhất của địch bằng hai danh xưng “quân Bắc Việt” và “quân Việt Cộng”, họ còn nói là hai lực lượng này đồng minh với nhau.

Ðộc giả Mỹ không bật cười vì họ không hiểu tính chất ngu xuẩn ngộ nghĩnh trong phân tách này. Nhưng họ sẽ bật cười, nếu có người bảo họ là lính TQLC Hoa Kỳ đồng minh với lính Không Quân Hoa Kỳ.

Ðành rằng lính Việt Cộng có một khả năng chuyên môn mà lính Bắc Việt không có: khả năng đánh du kích. Khác biệt này cũng đồng loại với việc người lính TQLC Mỹ không lái phóng pháo cơ.

Tôi diễu cợt sai lầm ngớ ngẩn của người Mỹ, nhưng sai lầm này không phải là chuyện đùa, một trong những hậu quả nó đẻ ra là cái bàn quái thai tại Hội Nghị Ba Lê năm 1973, cho phép Việt Cộng ngồi ngang hàng với VNCH, và chúng ta ngồi dưới Bắc Việt.

Nhóm biên tập Webster đem sai lầm mới về quân lực VNCH nhập chung vào sai lầm sẵn có của quân đội Hoa Kỳ, để đánh rối hình ảnh cuộc chiến tranh Việt Nam đến mức vĩnh viễn bị hiểu lầm.

Chưa hết, Việt Cộng cũng tạo nhiều sai lầm khác nữa. Một thí dụ: Trận Ấp Bắc. Việt Cộng mô tả trong quyển “Từ điển bách khoa quân sự” của chúng như sau, “… lực lượng ta (Việt Cộng) gồm một đại đội tăng cường thuộc tiểu đoàn 261, bộ đội chủ lực quân khu 8, một đại đội địa phương tỉnh Mỹ Tho, 1 trung đội huyện Châu Thành, 1 trung đội trợ chiến, và lực lượng dân quân du kích tại chỗ, do tiểu đoàn trưởng 261 chỉ huy.

5 giờ sáng ngày mùng 2 tháng Giêng, địch (VNCH) huy động khoảng 2,000 quân (25 đại đội) gồm 3 tiểu đoàn bộ binh Sư Doàn 7, Tiểu Ðoàn dù 8, 13 xe M 113, 13 tầu chiến, có máy bay, pháo binh yểm trợ chia thành nhiều mủi dùi, theo đường bộ, đường thủy, đưòng không đánh vào Ấp Bắc.

Dựa vào hệ thống công sự, bờ mương, lùm cây trong ấp, bằng cách đánh du kích ta lần lượt bẻ gẫy 5 đợt tiến công của địch. Ðể hổ trợ cho Ấp Bắc, ban quân sự tỉnh Mỹ Tho cho hai đại đội (tiểu đoàn 514) đánh địch ở vòng ngoài, đồng thời huy động hàng ngàn quần chúng đấu tranh chặn đường hành quân của địch, đòi chấm dứt bắn pháo, càn quét. Trận đánh kéo dài đến 20 giờ, quân địch với số lượng gấp 10 lần, có phương tiện vũ khí hiện đại phải rút lui. Kết quả loại khỏi chiến đấu 450 địch, bắn rơi 7 máy bay trực thăng, bắn hỏng 3 xe M 113 và 1 tàu chiến.”

Dĩ nhiên tài liệu này thất thiệt rất nhiều, nhưng năm nay, 2007, sau 44 năm, không ai còn nhớ gì nữa để biết là Việt Cộng láo khoét những gì. Không biết những dữ kiện, và thiếu những con số đích thực, nhưng cũng không ai tin chúng.

2. Quan niệm thứ nhì là quyển từ điển phải trung thực, mặc dù nó không thể nào khách quan. Vẫn dùng những thí dụ vừa dẫn ở đoạn trên, chúng ta thấy không những Webstern và Từ điển bách khoa của Việt Cộng mạ lỵ chúng ta mà họ còn mạ lỵ cả sự thật nữa.

Chúng ta cố gắng tới mức tối đa để tôn trọng sự thật, dù sự thật có không đẹp cho chúng ta; nhưng điều không tránh khỏi là chúng ta sẽ nhìn sự thật một cách chủ quan, qua góc nhìn của chúng ta.

Một điển hình về tính trung thực trong lịch sử chiến tranh là trận Ấp Bắc vừa được viện dẫn ở đoạn trên để trình bầy tính không trung thực trong tài liệu của Việt Cộng. Chúng ta không phủ nhận việc 5 chiếc trực thăng của Hoa Kỳ trong lúc đổ quân gần một bờ kinh đã đáp xuống ngay họng đại liên phục kích của Việt Cộng, nhưng chúng ta khẳng định là những chiến sĩ Việt Nam, thuộc sư đoàn 7 bộ binh tinh nhuệ, đã nhanh chóng phản ứng đánh lui được địch quân.

Lỗi lầm về địa điểm và phương thức đổ quân là của cố vấn trưởng sư đoàn, trung tá John Paul Vann, vì chính ông đích thân ra lệnh cho phi đội trực thăng Hoa Kỳ về địa điểm đổ quân. Cũng vì lỗi lầm, ông đã bị đại tường Paul Harkins ngưng chức, trả về Hoa Kỳ và cho giải ngũ.

Về phía Việt Cộng chúng thổi phồng trận đánh Ấp Bắc đến một mức quá đáng trong lúc tổn thất thật sự là Hoa Kỳ mất 5 chiếc trực thăng, chúng nói chúng bắn rơi 7 chiếc, VNCH tổn thất 80 tử thương và 100 bị thương, chúng nói chúng loại 450 chiến sĩ VNCH ra khỏi vòng chiến. Ấy là chưa kể những việc hoàn toàn dựng đứng như dân chúng biểu tình, và tiểu đoàn 514 vây đánh chúng ta vòng ngoài.

Quyển từ điển này tuyệt đối tôn trọng mọi dữ kiện thật, từ bản chất cuộc chiến cho đến từng diễn biến nhỏ của chiến tranh.

3. Quan niệm thứ ba là cuộc chiến tranh Việt Nam không giống Thế Chiến Một, Thế Chiến Hai, Chiến Tranh Cao Ly, Chiến Tranh Iraq, hoặc bất cứ một cuộc chiến tranh nào đã có.

Sự khác biệt của chiến tranh Việt Nam tạo thành nét đặc thù mà chúng tôi tự đặt cho mình bổn phận phải nói lên cho bằng được. Nét đặc thù căn bản đầu tiên của mỗi cuộc chiến tranh là những lực lượng giao tranh.

Trong chiến tranh Cao Ly, lực lượng giao tranh chính là hai quân đội Bắc và Nam Hàn, và lực lượng trợ chiến cho Bắc Hàn là Trung Cộng; những lực lượng trợ chiến cho Nam Hàn là lực lượng Liên Hiệp Quốc dưới sự thống lãnh của Hoa Kỳ.

Chiến tranh Việt Nam không bắt đầu bằng một cuộc tiến quân quy mô như quân Bắc Hàn vượt vĩ tuyến 38 tiến xuống Nam Hàn, mà bắt đầu bằng thái độ hy sinh của toàn thể dân tộc Việt Nam đem tầm vông vót nhọn, và súng ngựa trời ra chống với đạo quân viễn chinh của Pháp.

Cuộc chiến thành công rực rỡ, quân Pháp cuốn gói quy hàng năm 1954, nhưng năm đó cũng là thời điểm 90% người Việt Nam nhận ra là mình bị lừa. Chiến thắng đuổi được quân Pháp ra khỏi nửa phía Bắc của lãnh thổ Việt Nam, nhưng hàng triệu người miền Bắc lại bỏ quê cha đất tổ tại Bắc Việt Nam, đạp trên chiến thắng để bỏ chạy vào miền Nam.

Góc cạnh vô cùng thật và đau đớn này, sau 55 năm vẫn chưa ai tìm ra. Không phải là người Việt Nam không ai hiểu tính chất “bỏ phiếu bằng chân” của người dân Bắc Việt, và không ai thấy là chiến tranh Việt Nam không phải là cuộc chiến cộng sản đánh Pháp và đánh Mỹ.

Chúng đánh người Việt Nam, mỗi lần chúng thắng là người Việt Nam thua, bỏ chạy; hai lần chúng ta thua lớn là năm 1954 và 1975. Chúng ta thua, nhưng chiến tranh vẫn chưa chấm dứt, người Việt Nam vẫn tiếp tục kháng cự chống lại Việt Cộng, dù kháng cự bằng đôi tay không.

4. Quan niệm thứ tư là mặc dù mọi cố gắng để tìm kiếm chính xác, quyển từ điển này không thể không sai lầm. Việc nhuận chính phải là một công việc thường xuyên để ghi nhận đầy đủ những diễn biến trong cuộc chiến tranh đã dài gần 70 năm mà vẫn chưa chấm dứt; ngoài những sai lầm không thể tránh, quyển từ điển này còn thiếu xót rất nhiều. Việc bổ túc là việc phải thường xuyên làm cho đến lúc mọi người Việt Nam thỏa mãn về nội dung của nó

5. Quan niệm cuối cùng là đặc tính trung thực của sách phải được bổ túc bằng những nhân chứng sống. Không một mô tả nào có thể định nghĩa trung thực một trận đánh hay một diễn biến bằng bài tường thuật của một hay nhiều nhân chứng sống. Ðây là ưu điểm mà sách Pháp, sách Mỹ không có được, và sách Việt Cộng cũng không thể có vì bản chất khoa trương, tuyên truyền của họ biến nhân chứng sống thành một cái loa không trung thực.

Trên 5 quan niệm này, chúng tôi đang viết quyển Từ Ðiển Chiến Tranh Việt Nam, để làm tài liệu khởi điểm hầu từ đó mời quý vị tham dự vào việc điểm khuyết những thiếu xót và sửa chữa mọi sai lầm.

Ý thức được tầm vóc lớn lao của quyển Từ Ðiển, và khả năng vô cùng giới hạn của chúng tôi, chúng tôi chờ đón nhận cao kiến và sự giúp đỡ của quý vị tại địa chỉ nguyendatthinh@ aol.com để quyển từ điển được cập nhật hoá hơn.

Ngay lúc này, chúng tôi xin quý bạn đồng đội giúp chúng tôi viết lại trung thực trận Ấp Bắc, trận Ban Mê Thuột, trận An Lộc, trận Xuân Lộc, và tất cả những trận đánh khác, dù thật nhỏ. Nếu có được hình ảnh kèm theo, hoặc bất cứ hình ảnh nào khác về chiến tranh Việt Nam, xin quý vị gửi cho chúng tôi.

Ðến giờ này chúng tôi đã có được hai bài tường thuật về trận Bình Giả của Trung Tá Trần Hữu Thành, và trận Ban Mê Thuột của hai đại úy nhẩy dù Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên. Chúng tôi mời gọi thêm bài vở của các bạn nhân chứng sống đã tham gia các trận đánh, và xin trân trọng cảm ơn quý vị.

Nguyễn Ðạt Thịnh. 11/25/2007.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

“Dấu Binh Lửa” và Phan Nhật Nam, một thời chinh chiến
Nguyễn Mạnh Trinh
Những năm của thập niên 70, có lẽ là những năm đẹp nhất của cuộc đời tôi. Ở tuổi mới lớn, nhìn mọi sự việc đơn giản, cái lãng mạn của tuổi trẻ đã mang sự suy nghĩ đi xa hôn thực tế cuộc sống. Lúc ấy, chiến tranh bắt đầu tàn khốc. Những người bạn cùng lớp, có đứa đã mặc quần áo lính và cũng có đứa đã nằm xuống với lá cờ vàng ba sọc dỏ trên mộ và hàng chữ tổ quốc ghi ơn. Vào giảng đường học đại học, thi rớt một năm là vào quân trường ngay. Trong cái không khí ấy, chúng tôi đã đọc những trang bút ký chiến tranh của những người đi lính trước, để tưởng tượng ra những khổ nhọc mà sau này, khi đã bắt đầu đoạn đường chiến binh sẽ hiểu thấu. Có những bài viết, làm xúc động sâu xa. Có những câu thơ mang đến sự chia sẻ tột cùng.

Chúng tôi đọc Nguyễn Bắc Sơn. Chúng tôi đọc Phan Nhật Nam. Thấy “Chiến tranh Việt Nam và tôi”. Thấy “Dấu Binh Lửa”. Thấy “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Thấy những người chết và những người đang lầm lũi trong khói lửa chiến tranh.

Như Đỗ Quý Toàn đã đọc “Ngày mưa đọc lại Dấu Binh Lửa”, với những cảm giác bàng hoàng, của những thiên nah hùng ca tàn khốc, vỡ vụn:

“ngày mưa đọc lại Phan Nhật Nam
trời bỗng xầm đen tóe sấm sát
mặt đất ào ào trận pháo tuôn
trong thành phố tử thần co quắp
viên đạn cuối cùng đã bắn đi
người chết giữa trời trên đồng cháy
hồn anh thảng thút bay lên không
suốt dọc Trường Sơn đất run rẩy
mặt trời chưa thấy đêm dài ôi
từng khối lờn mênh mang đặc cứng
qua khe nhìn lại đồi C2
nhớ lại anh em ta nằm xuống…”

Chiến tranh, là những điều quái gở, là chuỗi dài chém giết cả mấy chục năm, như Nguyễn Bắc Sơn thổ lộ :

”Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
Aên muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc
Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang.”

Những bài hát, có hình dáng chiến tranh, có khăn tang cô phụ, có hình tượng của một thời núi xương sông máu, dù phản chiến hay cổ võ chiến đấu, với lời ca từ làm nhỏ lệ chúng tôi. Thân phận con người trong cơn bão lốc như chẳng còn chút giá trị. Viết về một thời đại ấy, là kể lại những kỳ tích mà mấy chục năm sau, lớp tuổi trẻ tiếp theo lớn lên khó tưởng tượng nồi. Dù rằng, những tác phẩm ấy chỉ nói lên một phần không toàn diện cuộc chiến.

Một nửa, là dòng chữ Phan Nhật Nam, một nửa là câu văn Bảo Ninh. (Tôi chỉ nói Bảo Ninh của Nỗi Buồn Chiến Tranh thôi,Còn Bảo Ninh bây giờ của “Tản mạn trên đường bị kẹt xe: thì hiện nguyên hình là một … văn nô có đẳng cấp). Chiến tuyến phân đôi khiến hai bên chỉ nhìn thấy ở phận mình. Nỗi niềm riêng, của những người bắt buộc lao vào cuộc chiến.Bao nhiêu năm qua, thống hận đã hết nhưng đau xót vẫn còn. Những vết thương vẫn chưa lành miệng…

Nhưng, có người nói bây giờ mà đọc bút ký chiến tranh của thời xa xưa ấythì hơi … chậm tiến. Chiến tranh đã qua lâu lắm rồi đã hàng nửa thế kỷ,bây giờ nhắc lại có ích gì, như hành động cứ moi mãi vào vết thương tâm của cả một dân tộc.

Viết bút ký chiến tranh, là phản ánh lập trường chính trị một cách chủ quan, chỉ là một cách nhìn của một phía và chỉ soi rọi đến mõt nửa chân lý mà thôi. Đọc những trang sách viết về chiến tranh, chúng ta có thể rõ ràng mường tượng vị trí chính trị. Từ Phan Nhật Nam đến Bảo Ninh, từ Trần Hoài Thư đến Trần Mạnh Hảo... dù thời điểm sáng tác có khác, dù hoàn cảnh, môi trường có khác, chiến tuyến có khác nhưng những giòng chữ viết của họ phần nào nói lên được tâm cảm của người lính trong bão lốc chiến tranh…

Nhưng, trên phương diện văn học sử, những tác phẩm như Dấu Binh Lửa, như Nỗi Buồn Chiến Tranh,.. chính là những ghi chép lại của tâm tư một thời, những ngày khốc liệt nhất của lịch sử. Khác với vai trò của một văn công tuyên truyền, họ mang cái lửa của những người tuổi trẻ sống trong một thời kỳ không thể có một quyết định nào khác hơn là cầm súng.Những người không thích chém giết mà vẫn phải lao mình vào lửa đạn.

Tôi đọc Phan Nhật Nam trong tâm cảm ấy. Dấu Binh Lửa, Dọc Đường Số 1, Mùa hè Đỏ Lửa, là những bút ký ghi lại một thời mà chúng ta đều gắng quên mà phải nhớ. Một thời kỳ mà những suy tư đã dằn vặt lên những “con người“ biết nghĩ đến phát điên lên được. Thực tế lịch sử đã tròng tréo lên nhau hết mắc míu này đến liên hệ kia. Những thế lực ngoại quốc chi phối, những tâm cảm bức bối nhược tiểu, những con đường đi ít có ánh sáng mặt trời. Tuổi trẻ bị đẩy vào mê cung và quanh quẩn lồng lộn trong những chấn song giới hạn như trong một bẫy rập.

Hình như, bút ký chiến tranh Dấu Binh Lửa đã gây nên rất nhiều phản ứng trong giới cầm bút. Nhà thơ Đỗ Quý Toàn đã cho rằng đây là một kiệt tác viết về chiến tranh. Nhà báo Chu Tử cũng phát biểu như thế. Những dòng chữ, viết bằng máu và mồ hôi của một chiến trận có thực và những phẫn nộ có thực đã thuyết phục được người đọc. Đến nỗi, những người cầm bút phía đối nghịch bên kia như Tô Hoài và Nguyễn Tuân cũng phải nhận rằng quả thực Phan Nhật Nam đã viết tác phẩm của mình bằng máu, nhưng là một loại máu bị nhiễm độc. Và, khi chấm dứt chiến tranh, Phan Nhật Nam đã nếm biết bao nhiêu đòn thù, với những ngày biệt giam dài dằng dặc.

Dù ở bất cứ một nhãn quan chính trị nào, ở những kết luận, đều chung một nhận định, chữ viết của Dấu Binh Lửa, Mùa Hè Đỏ Lửa là những dòng chữ của văn chương mang nỗi niềm của tuổi trẻ một thời đại rất là đặc biệt Việt Nam.

Trước khi là lính, Phan Nhật Nam là một sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đà Lạt. Tôi để ý thấy ông ít tôn sùng một thần tượng nào, nhưng khi nhắc về Trường Mẹ của mình, ông đã viết với sự tôn trọng. Hơn nữa, với cả một tâm tình đằm thắm mà ông đã có từ thuở hoa niên. Những người, mà ông gọi là thầy, là niên trưởng, hay niên đệ, trong văn chương ông, đều có nét chung mang nhân bản, của những mẫu người yêu đất nước và mong muốn hòa bình dù phải bắt buộc cầm súng. Những lời ông ngỏ, như những tâm sự gửi đến, để chia sẻ:

“… Tôi ở lính tám năm, năm nay 26 đi lính năm 18 suốt tám năm của một thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân đội, không phải đến bây giờ tôi thất vọng chán nản vì công danh không toại ý, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước nên cay cú hằn học với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm 18 tuổi vào học trường tình nguyện ra làm ông Quan một. Chẳng có ai lôi kéo tôi vào trường ấy, tôi tự động hăng hái hãnh diện để trở thành một Sinh Viên Sĩ Quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình một hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời mọc. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừngthông hương nhựa thông tỏa đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng.. Chuyển quân trong sương đêm, trong mây mù, ánh lửa mục tiêu của một đêm đông, trong hốc núi hoang vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây...

Tôi say mê và thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên trong những ngày cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong vắt yên lặng, người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn gió bay chập chờn qua vùng đồi trùng điệp và tan đi trong nước hồ xanh ngắt…,”

Không phải cảm giác và tâm tưởng ấy là của riêng tác giả Dấu Binh Lửa. Mà hình như của chung những chàng lính” sữa “quân trường. Huấn nhục không làm vơi chất lãng mạn mà còn tạo thành một truyền thống để những cực nhọc thăng hoa thành những kỷ niệm đẹp một thời.

Đà Lạt, phong cảnh hữu tình, người cũng đẹp và trời đất bốn mùa cũng có nét đẹp cách riêng. Sống ở trong môi trường ấy, óc tưởng tượng đã phát triển để thấy được cái lồng lộng vô biên của cuộc nhân sinh. Thực tế cũng có nhiều trắc trở, ngày tháng rồi sẽ kéo dài những mệt mỏi, nhưng trong rực rỡ những hy vọng vẫn là những bản hoan ca của một tuổi trẻ thanh xuân. Không phải là những bài hát mị lính rẻ tiền kiểu “anh tiên tuyến em hậu phương” mà là những tâm tư chất ngất hùng tráng của những câu thơ hào hùng thuở nào nhắc đến một htời trăng treo vó ngựa. Phan Nhật Nam viết về những ngày ở Trường Mẹ:

“... Phải nói thật những ngày ở lính đầu tiên của tôi đầy trong sáng và đẹp đẽ. Trong sáng như giấc mơ của số tuổi 19, giấc mơ mù mờ có cánh chim trắng bay chậm rãi qua rừng thông….nhưng đời sống nhà binh không hẳn là vậy, nó còn có sĩ quan cán bộ, có nghi lễ, có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân sự không ai nghĩ ra được… Nên khung trời đầy sương mù bí mật ngoài khung cửa sổ hiện ra như một thách thức đối với đời sống kìm kẹp của tôi hiện tại.

Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm nhìn về phía thành phố đầy ánh đèn tôi không ngủ được, tưởng như có một tiếng gọi của đời sống ở bên ngoài quân ngũ đang nhắc nhở thúc gịuc, một đời sống thực sự tôi không có. Từ khung cửa sổ nhìn xuống những dàn đồi im lặng chạy dài trong sương mù và đằng xa ánh đèn xanh của vườn Bích Câu ma quái diễm ảo, tôi thấy rõ trong tôi có một nỗi cô đơn khủng khiếp hiện hình sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người thực của mình, một gã trai trẻ viển vông, thấy rõ những cười đùa ban ngày, những buổi học, bữa ăn tập thể không ảnh hưởng gì đến con người trong tôi.không thể có được một ý niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả mọi cách nhà trường cố nhét vào trong đầu óc.

Những Đội hình tác chiến, cung cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ khí trôi qua trí não mơ hồ như một cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó như một cơn gió phiếm du. Những giây phút thực nhất là phiên gác nửa đêm về sáng dưới ánh đèn pha của vọng gác kho đạn tôi khám phá được một thế giới của cây cỏ đang thở, đang lớn lên, những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác nhìn xuống phòng sĩ quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi bài kèn báo thức. Và giây phút thực nhất không gì hơn suốt ngày chủ nhật một mình một ngựa chạy như bay vào hướng đồn Daksard. Con đường đỏ còn ướt sương đêm, trời chưa tan hẳn mù, ngựa phi như gió cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển động ào ào, cả trời cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa.Kết quả sau hai năm ăn nhờ chánh phủ tôi được biến thnah ông quan Một ra trường đi binh chủng hung hãn nhất…”

Vào lửa đạn, đi qua từ những chiến trường này đến trận chiến nọ, trải qua bao nhiêu thăng trầm binh nghiệp, bao nhiêu lần thương tích, bao nhiêu lần thấy cái lý tưởng thời xưa bị vầy đạp, vẫn thấy, sáng ngời những ngày tháng quân trường, vẫn thấy, niềm hãnh diện xuất thân từ ngôi Trường Mẹ vẫn chưa nhạt phai.

”... Tôi ra trường năm 1963, thời gian chiến tranh bắt đầu nặng và hỗn loạn không phải chỉ thuần túy ở sự kiện chiến tranh nhưng đã bắt đầu gây mầm bùng nổ ở lòng người. Lẽ tất nhiên là sĩ quan nhà nghề, xuất thân từ quân trường mà quyền hành của khóa đàn anh không phải chỉ để thi hành kỷ luật nhưng là một ám ảnh khủng khiếp cho khóa dưới. Chỉ một cái quắc mắt của Nguyễn Xuân Phúc (khóa 16) khi bước lên bục gỗ, hai trăm người của khóa tôi co rúm tê liệt như con nai chết trước nhãn quan khủng khiếp của con hổ. Một sinh viên sĩ quan khóa 19 vì quá sợ niên trưởng nên dù trái lựu đạn đã bật kíp nhưng cũng không dám ném đi vì chưa nhận được lệnh (trong bài học ném lựu đạn tất cả các động tác đều theo lệnh) nên hậu quả trái đạn nổ trên tay….

Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn, trận nhỏ, chiến dịch hai tháng, ba tháng, dài ngắn, từ Sài Gòn trở ra Bến Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa xôi bất kỳ một xó xỉnh hiểm hóc nào của miền Nam này tôi cũng có thể biết rõ một cách tường tận. Từ những miền quá nổi tiếng như khe Sanh, Cồn Tiên đến những làng nhỏ từ cửa Việt đi ra : Diêm hà Trung, Diêm Hà Nam, cái làng nhỏ cuối thung lũng sông Kim Sơn, làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam là đầm Nước Ngọt. Lên đến Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam Biên giới Lào Việt đầu ngọn sông Ia-Drang…Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất, năm thứ hai, thứ ba tôi sống thoải mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc; góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự đang ngã chết. Dù bên này hay bên kia, chết trong thù hận…Những người đang đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống….”

Chỉ có người ở trong cuộc mới hiểu được nỗi nhọc nhằn của một cuộc chiến phi lý. Ngoài tiền tuyến hy sinh, trong khi hậu phương thì bị phá nát bởi những tên vô trách nhiệm không một chút ý thức nào về dân tộc và quốc gia. Có những người trước khi vào lính là những sinh viên hay biểu tình tranh đấu nhưng khi gia nhập quân ngũ lại cảm thấy giận dữ khi máu xương và mồ hôi của mình và đồng ngũ mình bị phí phạm một cách cực kỳ vô ích. Cũng như, có những người lính, sau nhiệm vụ của mình, đã cầm bút như một cách thế để nói lên nỗi niềm tâm sự của mình. Thú thực tôi cũng không tâm đắc mấy với những ngôn từ như nhà thơ lính, nhà văn lính.Ở một thời kỳ mà tất cả sinh lực, tất cả những tinh hoa của đất nước đều dồn hết vào quân đội thì chữ lính đi sau có phải là thừa thãi không ? Nhà văn, nhà thơ là đủ rồi, hà tất còn phải thêm chữ lính làm gì? Đâu có phải đó là dấu mộc của tấm giấy chứng nhận tại ngũ để trình cho cảnh sát đứng gác đường xét hỏi… thời chiến tranh, mọi người phải hoàn tất nhiệm vụ của mình với đất nước, với xã hội mình đang sống…

Tôi nghĩ đến cái mộng ước của đại tá Trần Ngọc Huyến, chỉ huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt một thời. Ông muốn hình thành một lớp quý tộc mặc quân phục với tiêu chuẩn văn võ toàn tài. Từ bước đầu rèn luyện ở quân trường, không phải chỉ là những kiến thức về quân sự về chuyên môn, mà còn cả những phương cách để học làm người nữa. Một mẫu người kiểu mẫu cho một thời đại. Bằng mọi cách, với tất cả nỗ lực ông kiến tạo một tiêu chuẩn mẫu mực mới cho phong cách và chân dung một sĩ quan hiện dịch. Tiếc là thời gian đã không đủ để có một trắc nghiệm chính xác. Nhưng, từ những người con xuất thân từ Trường mẹ, họ đã không làm phụ lòng những mộng ước mong mỏi trên.Địa linh thì có nhân kiệt. Đỉnh Lâm Viên vòi vọi cao nhưng không phải là chẳng thể vượt qua.

Bây giờ, đọc những trang sách, lại thấy phảng phất đâu đây mùi nhựa thông buổi sáng hay mầu hoa quì vàng làm ngây ngất lòng người.cái sương mù bây giờ ở xứ người có làm nhớ đến màn sương mù đặc của Phan Nhật Nam thuở trước ? ai làm người lính gác đêm, nhìn thành phố mờ tỏ ánh đèn có thấy xao xuyến nỗi nhớ mong nào đó? Kỷ niệm sẽ rất đẹp, khi lúc ta đang tuổi xuân, lòng bừng bừng men rượu của cuộc sống sắp đến. Đà Lạt, nơi có những người lính alpha đỏ trên vai, và những cô gái nữ sinh Bùi Thị Xuân, Couvent,.. đầy e ấp. Ơû đó có những mối tình đẹp nhưng cũng có những chia tay buồn bã. Hoa mimosa, hoa anh đào, hoa quì có một buổi nào nở rộ? Những người lính, lên đường mang giấc mộng của mình đi đến chiến trường, nơi trăng treo vó ngựa, nơi sinh tử mịt mù?

Và với Phan nhật Nam, trong câu chuyện kể hoài không đủ, viết ngàn chương thiếu một tờ, biết đâu, về sau, những lớp con trẻ lớn lên đã thấy được những cảnh ngộ của cha ông trong một thời lịch sử qúa nhiều phức tạp…

Với tôi, có một kỷ niệm nhỏ và một bài thơ. Bình sinh tôi rất yêu mến những người lính nhảy dù. Ở đó tôi nhìn thấy họ qua những sự hy sinh những gian khổ vô bờ và cả những chiến tích hiển hách. Tôi có nhiều đứa bạn, đã hãnh diện vì mầu nón đỏ trên đấu và ra đi rất sớm trong chiến trận. Những năm của thập niên 80, khi Phan Nhật Nam còn bị dập vùi trong lao ngục tôi giở cuốn sách tái bản ở hải ngoại “Mùa hè Đỏ lửa” và tự nhiên nhớ lại một thời chinh chiến đã qua. Tôi viết một mạch với cảm lhái bừng bừng của một người sống lại những ngày dĩ vãng:

Đọc Mùa Hè Đủ Lửa, nhớ tới Phan Nhật Nam.

Mùa hạ gió bạt đồi Quảng Trị
Cát bay con chốt mịt mù trời
Trang sách máu loang dòng bi ký
Ngôn ngữ tan tành miểng đạn rơi
Đếm thử bao nhiêu năm binh lửa
Bao nhiêu cái chết tựa trò chơi
Bão cát trăng treo rưng vó ngựa
Trường hành thảng thốt ánh sao khơi
Dựng một lá cờ trên cõi chết
Mặt trời phải mọc sáng hôm nay
Cổ thành thi gan với nhật nguyệt
Nhìn lên bờ tường buốt ngón tay
Mùa hạ không bình yên An Lộc
Giàn hàng ngang đại đội xung phong
Da thịt nổi gai miền tan 2khốc
Nhịp tim nhảy bước chiều mênh mông
Vào Xa Cam bắt tay thằng 8
Sương xuống hay là khói cơm chiều
Ngồi hố cá nhân chiều ảm đạm
chiều hoang cháy xém nỗi đìu hiu
nón sắt còn đây đâu người lính
giầy trận bước lầy nẻo máu xương
địa ngục thiên đàng trời sẵn định
đỏ thẫm máu loang những tấc đường
mùa hạ nắng hờn chiều biên trấn
Charlie có phải pháo đang gào
Sườn đá lở lói núi tự vẫn
Bè bạn anh em ở chốn nào?
Một trăm ngày kéo dài chiến trận
Đứt hơi người chết trẻ như mơ
Đen tỏa khói un vào vô tận
Sự sống như cành cây chết lhô
Sau lưng C bốc lửa ngọn
Xuống mãi, xuống hoài ngút vực sâu
Đêm vỡ vụn những hồi chấn động
Mặt trời, mặt trời ở chỗ nào?
Tân Cảnh, Đồi Gió, bờ Thạch Hãn
Đất quằn quại hai tiếng Việt Nam
Cỏ lá ít hơn miểng bom đạn
máu chảy sôi bờ ngực bàng hoàng
tuẫn quốc vong thân người vắng mặt
đêm nay gió chướng rủ nhau về
lòng tạnh không sao có nước mắt
bút mực nào thê thiết cơn mê
nhìn bạn hữu anh em trang sách
tưởng tháng ngày bão lửa chưa quên
vết seo cũ còn nguyên dấu rạch
da thịt nào trời đất ngả nghiêng
Ơi Phan Nhật Nam dòng chữ viết
Đỏ hồng ngôn ngữ máu còn tươi
Đầy đọa ngục tù đâu làm chết
Màu xanh lịch sử vẫn tinh khôi.

Bìa thơ tôi viết vào tháng 5 năm 1989, khi ở hải ngoại đang trong những ngày tưởng nhớ về một thảm nạn lịch sử của dân tộc. Đến nay, gần hai chục năm, Phan Nhật Nam đã sang định cư tại Hoa kỳ và vẫn tiếp tục công việc của một người lính dù bây giờ không còn gươm súng. Cuộc chiến đã tàn nhưng ảnh hưởng vẫn còn và vẫn là niềm đau xót từ một cuộc nội chiến xen vào chiến tranh ủy nhiệm của các đại cường. …

Nguyễn Mạnh Trinh
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Đọc hồi ký Đọan Trường Bất Khuất của người tù Phạm Trần Anh
Sau hồi ký 26 Năm Lưu Đày của TT. Thích Thiện Minh, hơn nửa năm sau, một thiên hồi ký tù nữa mới vừa ra đời đó là cuốn Đọan Trường Bất Khuất của Phạm Trần Anh. Sách dày 402 trang do Việt Nam Ngày Nay ấn hành, bao gồm hai phần: Phần hồi ký và phần thơ. Rải rác trong đó là một số bài thơ phổ nhạc của tác giả, vài tấm hình chụp chung với Tú Kếu, Tô Kiều Ngân, nhạc sĩ Châu Kỳ và hai tấm hình do người em lén chụp được khi thân mẫu thăm tác giả tại trại tù trước khi cụ đi Mỹ định cư, hình tác giả sinh họat với Tổng Hội Cựu TNTC/VN v.v..


Phần hồi ký gồm109 trang (từ trang 43 tới 151) và phần thơ 228 trang (từ trang 152 tới trang 380) bao gồm thơ của một số người tù nổi tiếng như: HT. Thích Quảng Độ, TT. Thích Thiện Minh, HT. Thích Đức Nhuận, LM Nguyễn Luân, Tú Kếu, Trần Thúc Vũ (đã mất), Phùng Quán (Nhân Văn Giai Phẩm), Nguyễn Chí Thiện, Đòan Thanh Liêm, Đòan Viết Họat, Hà Sĩ Phu, Trần Khuê, Phan Nhật Nam và một số bạn tù đã từng ở chung trại với tác giả, người còn, người mất, người hiện đang phiêu bạt xứ người như: Song Nhị (Trại Lý Bá Sơ, Thanh Hóa), Lê Duy (Trại Bù Gia Mập, Phước Long), Phạm Văn Thành (A20 Xuân Phước) Hướng Dương Vũ Đình Thụy (Trại A20 Phú Yên), Vũ Bình Nam (A20 Xuân Phước), Phan Tứ (Trại Đầm Đùn), Quốc Hòa (Trại T5 Đầm Đùn), Phượng Tường (Trại T5 Phú Yên), Hùng Phong (Trại A20 Phú Yên), Nguyễn Sông Côn (Trại 3 Z.30 Xuân Lộc), Thạch Khê (Trại A20 Phú Yên), Bảo Giang (Trại A20 Phú Yên), Sĩ Anh Linh (Trại A20 Phú Yên), Lê Thụ (Trại A20 Phú Yên), Kiều Đình Thanh (Tử hình tại Đà Nẵng ngày 16-12-1985), Nguyễn Tú (Trại Tù Đại Bình) và một số bài thơ phúng điếu khi mẹ tác giả qua đời trong đó có Lý Thụy Ý.

Khi đưa thơ của người khác vào tác phẩm của mình như vậy, theo tôi, có thể tác giả vì lòng ngưỡng mộ hoặc đây là một thình thức tri ân, hòai niệm các bạn tù. Dù sao các di sản văn hóa này cũng là những chứng tích hùng hồn nhất nói về trại tù cải tạo và về một giai đọan bi thảm nhất của lịch sử Việt Nam.

Phạm Trần Anh, một người tù chung thân giảm án còn 20 năm, trong đó 7 năm bị tù biệt giam trong phòng tối, bị đánh gẫy hai hàm răng, hai mắt gần như mù lòa và phải thay bằng hai thủy tinh thể giả, sau đó còn tiếp tục bị quản chế, khủng bố, theo dõi và đì chín năm, không cho anh định cư dù cả gia đình ở Mỹ đã bảo lãnh. Với quá trình tù tội và cuộc sống căng thẳng như thế mà anh vẫn còn đủ nhiệt huyết để trình làng thiên hồi ký này…thì chắc chắn anh phải có một cái gì đó để trang trải với đời.

Dĩ nhiên chúng ta không thể đòi hỏi giá trị văn chương trong một hồi ký tù. Tuy nhiên do máu văn nghệ có sẵn trong người Phạm Trần Anh ngay từ thời còn học ở Trường Quốc Gia Hành Chánh, cho nên thiên hồi ký nhiều đọan mang mầu sắc văn chương, điểm chút khôi hài. Theo thông lệ, tôi sẽ không làm nhiệm vụ phê bình tác phẩm mà chỉ giới thiệu và sau đó là một vài cảm nghĩ riêng của mình.

1) Phần hồi ký:

Tác giả đã khởi đầu phần hồi ký bằng câu chuyện tình buồn. Vào năm thứ ba, anh được phép viết thư về nhà. Giống như hằng ngàn chàng trai cải tạo khác, khi nghĩ tới người vợ trẻ đang phải bương chải trong cuộc đổi đời tàn bạo “ Nhà tôi có chút nhan sắc lại duyên dáng điểm xuyết thêm tâm hồn văn nghệ, nàng theo học Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế…” (tr. 45) Lời thư tựa như máu ứa ra từ tim như môt bản tuyệt tình ca“Không biết bao giờ anh trở về thôi thì, nếu em cảm thấy cuộc đời cần bước đi bước nữa thì cứ thanh thản ra đi vui sống, đừng bận tâm điều gì cả miễn là em cố gắng nuôi năm đứa con của chúng ta nên người thì dù anh có chết, anh cũng vui lòng. Anh viết cho em những dòng này với tầt cả tình yêu và sự suy nghĩ chin chắn nên không ai, kể cả gia đình mẹ anh và các cô chú có thể nghĩ không đúng về em, em ạ!” (tr.45) Và hơn sáu tháng sau, anh nhận được thư hồi đáp “ Anh biết không, nhận được thư anh em cảm thấy buồn bực, ngỡ ngàng, buồn vì chồng còn nghi ngờ không hiểu mình - nên đang học xuất sắc tụt xuống hạng tồi. Anh làm khổ em nhiêu đó chưa đủ sao anh yêu !?” (tr. 46) Thế nhưng:

Đời như gió gào
Từng ngày người quên hết lời
Một ngày người đi mất rồi
Mà người chẳng biết giã từ

(Bài thơ Tuyệt Tình Ca trong tập thơ tù Tổ Ấm Cuối Cùng của Đào Văn Bình xb năm 1987)

Nàng Tô Thị của Phạm Trần Anh đã ôm cầm sang thuyền khác để lại trong anh một vết thương lòng không thể nguôi ngoai “ Tôi vẫn yêu nàng thơ xứ Huế của tôi.” (tr. 47) Thế rồi khi Phạm Trần Anh ra tù, nàng vẫn thường đến thăm, ngày cưới của con gái Quỳnh Trâm “Nàng đã lên ngâm bài thơ Đôi Bờ của Quang Dũng. Nàng quá xúc động nên đang ngâm thơ bỗng dưng nghẹn ngào không ngâm được nữa. Nàng bỏ lại tất cả quan khách còn đang ngỡ ngàng, vội vã ra đi che dấu những dòng nước mắt nghẹn ngào…” (Tr.46)

Trong khỏang thời gian bị cùm biệt giam, Phạm Trần Anh suy nghĩ về cuộc đời của Cụ Nguyễn Du, Cụ Nguyễn Công Trứ mà tứ thơ dào dạt. “Sau bảy năm bị cùm ngửa chỉ mơ có một giấc ngủ được nằm nghiêng, Máu anh hùng nổi lên thách thức ngạo nghễ”: (*)

Chân cùm tay xích đầu sao xích?
Xích sẽ có ngày xích phải tung
Tư tưởng tinh thần làm sao xích?
A ha! A ha!

Xích sẽ có ngày xích phải tung. (Tr. 61&62)

Sau đó Phạm Trần Anh lại đưa chúng ta về “ Những giờ phút Sài Gòn hấp hối” (*). Anh quyết định ở lại với đất nước dù tất cả gia đình, cha mẹ đã xuống tàu. Rồi dùng lý lịch giả “gia đình cách mạng” cùng Tú Kếu thành lập Mặt Trận Người Việt Tự Do Phục Quốc Diệt Cộng. Nhưng do kết nạp vội vã, thiếu cảnh giác đã bị công an gài người vào theo dõi khiến chiến hữu Nguyễn Văn Thầm thấy bị lộ phải uống dầu máy tự sát, tránh không cho cộng sản khai thác. Anh mô tả lại cảnh công an bắt anh tại nhà như sau “Một trung đội công an súng ống tận răng , thằng nào thằng nấy hùng hổ đầy vẻ căm thù tràn vào nhà, đè ngửa tôi ra rồi còng tay trước sự kinh hòang của vợ và các con tôi.” Trước tình thế đó “Tôi hiểu rõ mọi việc xem như đã thua rồi nên thản nhiên nói ‘các anh muốn gì? ‘thì một tên công an nhào tới tát vào mặt tôi một cái như trời giáng rồi hằn học nói ‘Mày phản động, dám chống lại chúng ông mà còn lý sự hả?” (tr. 75) Rồi anh bị dẫn vào trại giam. “Vừa bị đẩy vào phòng thì nghe tiếng quát giọng Bắc Kỳ đặc sệt “ Địt mẹ mày, giờ này mà còn phản động…để tao xem gan mày to bao nhiêu mà dám chống lại chúng ông, úp mặt vào tường, khẩn trương lên! Bất thình lình một bang súng như trời giáng vào lưng đau nhói tá hỏa tam tinh…chưa kịp hòan hồn thì những cú đấm cú đá dồn dập, tôi lảo đảo té xấp vào tường không biết gì nữa..” (tr. 75)

Sau khi tuyên án, anh được di chuyển tới Trại Tù Đại Bình (có lẽ thuộc tỉnh Lâm Đồng). Tại nơi đây tù kiên giam bị nhốt vào dãy xà-lim mới xây hết sức kiên cố mà anh em gọi đùa là “Tứ Giác Đài”. Tiêu chuẩn ăn của tù “mỗi tháng 7 kilô thực phẩm bao gồm gạo mốc mủn lẫn khoai lang, bắp, khoai mì (sắn) mốc meo lên màu chạy chỉ đen có, xanh có xen lẫn vàng khè…” Cho nên tù biệt giam sống sót nhờ cái hộp đựng phân do Cụ Phạm Xuân Thái đặc trách vệ sinh đem vào. Vì đồ ăn quá ít cho nên gần như tiêu hóa hết, cứ hai tuần mới đi tiêu mà anh em gọi đùa là đi “Tham quan lăng Bác”. Một cái hộp vuông mỗi bề 25cm bên trong đựng mạt cưa để tù “thăm lăng Bác”. Cụ Thái đã bỏ vào đó một khúc khoai mì dài khỏang 10-15 cm. Khi cán bộ trực trại đi rồi thì anh em “ bới lớp mạt cưa lẫn phân, chia nhau mỗi người một miếng rồi ăn tươi nuốt sống, bất kể ..” (tr. 80) Trong thời gian này anh cùng một số anh em người Thượng chuẩn bị một chuyến vượt ngục nhưng vì có lệnh chuyển qua Trại Xuân Lộc cho nên thóat chết. Cuộc vượt ngục bất thành do anh em yếu quá không đủ sức băng rừng. Một số bị bắt lại, một số bị bắn chết thật thê thảm.

Vào khỏang Tháng 8,1980 trại tù đã xảy ra một cuộc thảm sát do tổ chức đánh cai tù để vượt ngục bất thành, khiến sáu anh em tù bị bắn chết, xác nằm ngổn ngang mà nhà thơ Tú Kếu đã diễn tả qua bài thơ Vô Đề. Đây chính là bản cáo trạng về chế độ cộng sản bạo tàn:


Chính đêm ấy, mảnh trăng liềm đẫm máu
Tưởng chừng như thân thể bạn bè tôi
Uốn cong lên khi bị bắn tơi người
Miệng nguyền rủa nhưng không còn tiếng nói
Môi mấp máy, đúng môi còn mấp máy
Như muốn tuôn dòng thác đổ căm hờn
Như muốn gào to. Không thể dã man hơn!
Không thể dã man hơn. Quân khốn kiếp!

Có lần anh đưa cho LM Trần Thế Phiệt tài liệu “Đường Hướng Cách Mạng Hóa, Hiện Đại Hóa Việt Nam” giấu trong cuốn giấy vệ sinh nhưng chắng may bị an ninh trại khám thấy. May nhờ một mực khai đó chỉ là bản chép lại chủ trương của thủ tướng Jamaica có đăng trên báo Nhân Dân cho nên cả hai thóat án tử hình. Theo Phạm Trần Anh, trong các trại tù cộng sản có lẽ tên cai tù Phi Sơn là một tên khát máu nhất mà theo nhà phạm tội học Lombroso thì Phi Sơn quả là lọai người “sát nhân bẩm sinh” (*)” Không rõ tên thật y là gì, chỉ biết y mang bí danh này từ lúc còn là trưởng ban ám sát Tỉnh Lâm Đồng. Một tay y đã giết bao nhiêu quân nhân viên chức VNCH và cả đồng chí của y nữa. Dáng người dị dạng cao lều khều, lúc đi lưng hơi còng, cặp mắt đỏ ngầu sâu hoắm, đôi long mày rậm và gò má nhô lên, mặt lạnh như tiền, hai hàm răng lúc nói chuyện san sát như nghiến lại nên dường như tù nhân nào cũng không dám nhìn thẳng vào mặt y. Trong lúc uống rượu cao hứng y say sưa kể chính tay y đã giết không biết bao nhiêu là người. Nghe nói có lần y bắt được viên đại úy ở Chi Khu Đơn Dương, Lâm Đồng. Sau

khi đánh đập, tra tấn không khai thác được gì, y trói hai tay nạn nhân vào một gốc cây rồi khóet hai mắt cho máu chảy ra để kiến bu lại. Đến khi quân ta tìm được thì xác đã thối rữa, dòi bọ bò lổn ngổn, ruồi kiến bu quanh…” (tr.89). Hành vi tàn ác của Phi Sơn có thể sánh với Nguyễn Ngọc Cơ tự Sáu Búa – Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Bặc Liêu trong cuốn hồi ký 26 Năm Lưu Đày của TT. Thích Thiện Minh.

Trong một lần thăm nuôi bất ngờ do Tú Kếu - được thả trước - có lòng tới thăm anh em, tác giả may mắn gặp một số khuôn mặt như Dõan Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thủy, Trí Siêu Lê Mạnh Thát và Tiến Sĩ Kinh Tế Mã Thành Công. Riêng đối với nhà văn Dõan Quốc Sĩ tác giả tỏ lòng kính trọng đặc biệt “Tôi thường gần gũi để học thêm, lãnh hội thêm những cao kiến cùng đức tính nhiệt tình và chân thật của bậc thức giả này. (tr.97)

Rồi trong một buổi học tập dàn dựng để bầu “Hội Đồng Tự Quản” hầu qua mặt các phái đòan quốc tế tới thăm trại, Phạm Trần Anh được anh em đề cử ra tranh chức đội trưởng để đối đầu với ứng viên cò mồi do cai tù đề cử. Sau khi đảm nhiệm “chức đội trưởng” trong biên bản bàn giao anh yêu cầu phải chứng minh rõ số lúa tồn kho thì được đội trưởng cũ cho biết khỏang hai tấn lúa do anh em tù sản xuất đã được dùng để biếu cai tù, quản giáo, trực trại và giám thị…trong khi đó anh em tù nào đói quá lấy trộm một hai chén thóc là bị cùm kỷ luật cả tuần lễ. Nhận được biên bản này, bọn cai tù và giám thị ngậm đắng nuốt cay không thể nói gì nhưng tìm cách trả thù. Nhân dịp giỗ bố, Phạm Trần Anh có mời mấy thầy bên Dòng Đồng Công, TT. Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), TT. Thích Thiện Minh và nhà văn Dõan Quốc Sĩ. Thế là trực trại ùa vào lập biên bản, sáng sau có lệnh cùm kỷ luật Phạm Trần Anh vô thời hạn. Tuy nhiên chỉ mấy tuần sau thôi cai tù phải thả anh ra vì cả trại xôn xao khi TT. Thích Thiện Minh tuyên bố tuyệt thực vô thời hạn nếu không thả Phạm Trần Anh ra.

Cũng trong khoảng thời gian này (tác giả không ghi rõ năm), tù cải tạo gốc quân-cán-chính VNCH từ ngòai Bắc chuyển về rất đông cho nên tác giả có dịp gặp gỡ một số khuôn mặt như Đại Tá Nguyễn Văn Lương (CTCT), Đại Tá Vũ Thế Quang, Đại Tá Huy, Đại Tá Không Quân Phùng Ngọc Ấn và Trung Tá Nhảy Dù Bùi Quyền v.v.. Anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi và đã tổ chức hát quốc ca, Tù Ca với bản nhạc nổi tiếng Đôi Giày Dũng Sĩ. Sau một vụ xô xát giữa tù nhân và vũ trang cảnh vệ, tác giả tâm tình là trong hàng ngũ công an cai tù vẫn có người ngấm ngầm chống cộng và âm thầm giúp đỡ anh em. Có một đại úy công an nói rằng “Nếu phục quốc đến đây thì tôi là người đầu tiên bắn hết chúng nó. “ (*) Chúng nó đây là công an VC.

Từ trang 105 tới trang 144 tác giả nói về Thung Lũng Tử Thần tức Trại Tù Xuân Phước nằm dưới một thung lũng có tám ngọn núi bao quanh thuộc rừng núi Tỉnh Phú Yên giáp biên giới Lào-Việt mà người tù Vũ Đình Thụy đã mô tả như sau:

Ai đã đến để một đời nhớ mãi
Ai đã qua nơi địa ngục trần gian
Ai đã sống những tháng ngày khốn khó
Thần chết rập rình, địa ngục đâu đây! (tr.106)

Tại nơi đây đã có ít ra năm linh mục đã chết trong biệt giam và cả ngàn ngôi mộ của anh em tù nhân. Nơi mà:

Trông thấy người khác chết
Trong lòng rất xót xa
Nủa thương xót kẻ chết

Nửa nghĩ tới thân ta ( Vũ Đình Thụy tr.107)

Trong thời gian này tác giả chung sống với TT. Thích Thiện Minh gọi thân mật là Thày Ba. Cả hai sau đó lần lượt vào nhà cùm kỷ luật. Để trấn áp tù nhân, nhà cùm chưa đủ, cai tù còn dùng roi điện bắt tù nhân nằm xuống đánh ngay trước cổng trại. Có điều trớ trêu là cùng linh mục nhưng có linh mục “con mồ côi “ không ai thăm nuôi sống đói khổ, lao động cực nhọc. Trong khi đó những linh mục khác có xóm đạo dư dả thăm nuôi ăn không hết nên thức ăn ngon, vật dụng đẹp, thuốc bổ đều mời cán bộ sơi dùm cả…và hầu như không chia xẻ với các linh mục khác chút gì gọi là bác ái cả!” (tr.114 &115). Theo người tù Nguyễn Quang thì nhiều người mong lập thành tích đái công chuộc tội trong đó có Thày Phạm Hồng Quang, LM Đinh Xuân Thụy “ông này không những cầm sổ kẹp nách, vừa ghi chép, vừa chạy giữa trưa nắng thật buồn cười, tay kia cầm gậy thọt thọt khắp nơi trong trại và cả chiều tối xem có tù nhân nào đào vách khóet tường không..” (tr.115). Thế nhưng theo Phạm Trần Anh, “ bên cạnh những con sâu làm rầu nồi canh, có một số linh mục đáng kính hy sinh tại Thung Lũng Tử Thần” như: LM Nguyễn Huy Chương bị kiên giam cho đến chết, LM Nguyễn Luân bị kiên giam, trước khi chết vẫn còn dặn dò mọi người hãy vì con người đấu tranh cho quyền làm người, LM Nguyễn Văn Vàng kiệt sức chết trong xà-lim, LM Phong kiệt sức chết khi lao động, LM Nguyễn Quang Minh (Vụ Án Vinh Sơn) bị đánh dập lá lách, trào máu họng chết.

Điều làm tôi ngạc nhiên nhất trong một trại tù kìm kẹp khốc liệt như thế mà lại có tài liệu học tập chống cộng gọi là “Báo Chui” do một số tay gan lì như Vũ Ánh, Phạm Chí Thành, Nguyễn Xuân Nghĩa, Thiếu Tá TQLC Võ Đằng Phương chủ trương rồi bị bắt giải về Phan Đăng Lưu để điều tra nhưng không tìm ra manh mối cho nên đem trở lại trại, nhốt vào xà-lim cho đến khi Ân Xá Quốc Tế can thiệp. Rồi lại có các tù nhân trẻ như Trần Minh Tuấn quê ở Bình Định dám rải truyền đơn ngay trong trại tù và Phạm Văn Thành, Nguyễn Văn Trung. Chính mấy anh em này đã làm Cuộc Nổi Dậy tại Xuân Phước ngày 28-10-1994.

Thung Lũng Tử Thần Xuân Phước cũng còn là “nơi dừng chân” (*) của các người tù như LS Trần Danh San, LS Nguyễn Chuyên, LS Lý Văn Hiệp và anh Nguyễn Chí Thịêp cựu Phó Tỉnh Trưởng Quảng Nam. Ngòai ra lại có cựu SV/QGHC Cao Văn Bình ra tòa thách thức quan tòa VC tuyên án tử hình. Thế nhưng tên chánh án thâm độc này tức tối nói rằng ” Mày muốn làm anh hùng hả? Tao chỉ cho mày một bản án chung thân, nghĩa là tù rục xương để mày chết lần chết mòn trong bốn bức tường đá, chứ dại gì cho mày chết ngay!” (tr.123). Anh Cao Văn Bình sau ba lần tự sát mới thành công để được thóat kiếp đọa đày. Lần cuối cùng anh nhảy vào chảo nước sôi kết liễu đời mình.

Vào năm 1991 tác giả có một chuyện vui khi bà cụ đến thăm trước khi đi Mỹ, có cho tác giả 800,000 (tiền VC). Anh đã dùng tiền này để nhờ giám thị trại mua một máy truyền hình để anh em coi cho đỡ buồn, nuôi hai con heo, khỏang 200 con gà và mấy chục kílô cá rô, cá trắm cỏ để “bồi dưỡng”cho anh em. Bọn cai tù mừng húm và hứa sẽ đề nghị giảm án xuống cho anh còn 20 năm. Bà cụ thấy con mình tù tội đã 16 năm cho nên nước mắt dưng dưng năn nỉ con viết đơn xin giảm án. Anh đã khóc vì tình thương của mẹ nhưng cảm khái nói “Mẹ đừng nói nữa. Con không bao giờ làm đâu. Con cam tội bất hiếu với mẹ còn hơn là nghe lời mẹ ký vào đơn xin giảm án..!!!” (tr.140) Phạm Trần Anh khác với Từ Thứ năm xưa vì mẹ mà về hàng Tào Tháo. Ngày nay Phạm Trần Anh thà chịu tội bất hiếu với mẹ chứ không bao giờ đầu hàng cộng sản và phản bội anh em. Đó chính là tinh thần Bất Khuất của thiên hồi ký này.

Trong những trang cuối cùng của phần hồi ký khi đã định cư tại Thành Phố San Diego, California, anh tâm tình lý do tại sao anh cho ra đời cuốn sách: “Trong Bữa Cơm Cay Đắng của Tổng Hội Cựu Sinh Viên QGHC tổ chức để ôn lại kỷ niệm và đọc thơ tù cho anh em, tôi không đến được cho nên viết những tản mạn tâm tình Đọan Trường Bất Khuất như để tạ lỗi cùng anh em.” (tr.142)

2) Phần thơ:

Như đã giới thiệu ở trên, trong phần thơ, ngòai khỏang 50 bài thơ của chính anh, Phạm Trần Anh đã đưa vào một số thơ tù không thể liệt kê hết ở đây mà chỉ lựớt qua một số như : Bài thơ Ác Mộng và Nói Chuyện Với Tử Thần của HT. Thích Quảng Độ, Ngày Quốc Nạn của TT. Thích Thiện Minh, Vô Đề dài 139 câu của Tú Kếu (Trần Đức Uyển) nay xin trích ra vài câu:

Chúng nó tới như một bày thú dữ
Mang tai ương tới từng nụ hoa non
Đá chảy mồ hôi, gạch đá cũng đau buồn
Bao nhiêu máu đã chan hòa mặt đất
Bao nhiêu ngày từng đó biến thành đêm
Bao nhiêu người, khi cờ đỏ treo lên

Trong lòng sáng, chợt bốn mùa ngục tối (Vô Đề, tr. 202)

Và đây là khí phách của người tù Tú Kếu:

Chín năm lăn lóc ở trong tù
Chưa một lời buồn tôi thốt ra
( Vô Đề tr. 206)

Đặc biệt anh đưa vào chín bài thơ tù của Trần Thúc Vũ - tên thật Bùi Kim Đính, Phi Đòan Không Thám 219, sau 17 năm tù, định cư vào Hoa Kỳ mất năm 2005 - mà bài thơ tôi thích nhất có tên Huyền Hoặc. Lời thơ có phong độ Đường Thi, nhưng trầm mặc an tĩnh như tâm hồn của một thiền sư. Nay xin giới thiệu ở đây:

Nhánh sông đời hệ lụy
Ta trôi theo từng ngày
Suối tuôn dòng chẳng nghỉ
Nước hồn nhiên vơi đầy


Bạc đầu cơn gió cuốn
Bao nhiêu rừng cây già
Nhấp nhô triền sóng cuộn
Nở bừng muôn đóa hoa…


Xế bao chiều nắng đục
Tóc vương hồn cỏ cây
Phất phơ sương khói nhạt
Mắt phai miền gió lay


Thân ta thêm từng ngày
Biển thêm cuồn cuộn sóng
Đất trời thêm từng giây
Võ vàng cơn ác mộng

Mai này đời im lặng
Đáy hồ thêm huyền hoặc
Lắng nghe lời vào đêm
Có còn không tiếng vạc ?

Mai này chân cỏ vàng
Khói sương chiều quạnh vắng
Ta từng dòng quẩn quanh
Thẫn thờ cơn nuớc lặng

Nước vẫn dòng khổ đau
Trái tim còn nghiệp chướng
Em nào hay biết đâu
Cõi lòng ta phiền muộn

Núi rừng ta trở về
Mưa nguồn thân lá mục
Xin vì nhau lắng nghe
Thì thầm cơn nước rút

Chỉ còn riêng đáy khe
Mảnh trăng khuya huyền hoặc.
(tr.167 &168)

Sau hết điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên nữa là Phạm Trần Anh đã đưa vào một bài thơ của Hà Sĩ Phu một nhà tranh đấu đang là biểu tượng của giới sĩ phu Bắc Hà bây giờ. Đó là bài Lời Phật. Lời thơ không kêu gọi lật đổ, không hận thù mà thác lời dạy con để dùng trí tuệ (đuốc tuệ) tu thân dưỡng tánh. Khi mình tu thân dưỡng tánh rồi thì mình sẽ là người quân tử (Tu, Tề, Trị, Bình). Khi đã nhìn thấu lẽ Cùng- Thông của tạo hóa hoặc chỉ cần tu một tâm Từ Bi thôi, thì sẽ không còn làm khổ đời nữa. Bài thơ lục bát đơn sơ như sau:

Cho con trải một lần tù
Để con tròn một kiếp tu với đời
Kiếp người đau thế con ơi
Mỗi dòng con viết lệ rơi mấy lần?
Viết đi cho sạch nợ trần
Lâng lâng Đuốc Tuệ soi chân con về

(Trại Tù B14, Hà Nội Tháng 7,1996)

Nhân bài thơ của Hà Sĩ Phu tôi xin phép bàn rộng thêm. Giả sử sau này khi quý Ô. Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Lê Hồng Anh…vào tù khi chế độ cộng sản xụp đổ. Các giám thị cải huấn có thể biếu quý ông mỗi người một cuốn Kinh Thánh hoặc vài cuốn Kinh Phật như Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Kinh Kim Cang v.v..tôi bảo đảm quý ông này, sau khi được thả ra, sẽ hiền khô, sẽ biết thương ngươi, vì quý ông đã thấy xác thân này chỉ tồn tại như một ánh chớp ngang trời, cuộc đời này, quyền thế, thịnh suy tựa như giọt sương mai trên đầu ngọn cỏ:

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

(Kệ tụng của Thiền Sư Vạn Hạnh)

Lời kết:

Trong phần giới thiệu cuốn sách, TT. Thích Thiện Minh viết “Hội đang sưu tầm danh sách hằng ngàn tù nhân chính trị bị nhà cầm quyền CSVN xử tử hình và xuất bản. Trong ý hướng đó chúng tôi xin mời quí đồng bào đọc những vần thơ của anh em tù nhân chính trị viết từ đáy địa ngục trần gian…” (tr.8)

Còn nhà thơ Phổ Đức (hiện đang còn ở trong nước) đã giới thiệu tập hồi ký như sau: ”Đọc thơ Phạm Trần Anh, những ai có một khối tình lớn của Tản Đà, một chút u hòai sẽ tâm đắc và cảm nhận như chính nỗi lòng của mình.” (tr.31)

Riêng tôi, tôi xin dùng bài thơ sau đây của Phạm Trần Anh để kết thúc bài giới thiệu. Đó là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nhan đề Sơn Hà Thệ. Đó cũng là bài thơ để kính tặng sư phụ của anh là Hòa Thượng Thích Đức Nhuận đã viên tịch.

Nhất nhật tại tù nhất nhật âu
Kỷ niên vong quốc kỷ niên sầu
Nam nhi tâm huyết sơn hà thệ
Ái quốc ưu dân chí bạch đầu

Dịch nôm:

Thề cùng sông núi

Mỗi ngày tù tội một lo âu
Bao năm mất nước bấy năm sầu
Một lòng thệ nguyện cùng sông núi
Yêu nước thương dân tới bạc đầu

Tâm tình của Phạm Trần Anh ngày nay cũng là tâm tình của bao nhiêu tù nhân chính trị, bao nhiêu nhà tranh đấu đang trực diện với bạo quyền từng giờ từng phút. Động lực tranh đấu ngày hôm nay chính là lòng ái quốc và lòng thương dân. Xin mấy ông cộng sản đừng vu vạ cho họ là phản động, là bị ngọai bang xúi giục. Bây giờ chẳng có ngọai bang nào thèm dòm ngó tới Việt Nam cả, ngọai trừ Trung Cộng.

Đào Văn Bình

(Califrornia ngày 4-10-07)

Cước chú: Dấu (*) là lời trích dẫn từ tác phẩm

Tác phẩm sẽ được ra mắt lần đầu tiên tại San Jose, California vào ngày 28-10-2007
Quý vị nào ở Hoa Kỳ muốn có sách xin gửi 20 đồng (kể cả cước phỉ gửi) về địa chỉ:

Anh Phạm

10095 Larson
Garden Grove,CA 92384
Tl: (714) 723-2798


Đào Văn Bình
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Một bước đầu xin chuộc tội
Ngô Nhân Dụng
Trong Bình Ngô Ðại Cáo do Nguyễn Trãi viết (Lê Thái Tổ ban bố, 1428) có câu “Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa.” Bản dịch quen thuộc trong Việt Nam Sử Lược viết, “Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa” - tiếp, “sợ mà mất mật; Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần Trạm, chạy để thoát thân!”

Lê Hoa là cửa ải thuộc nước ta vào thế kỷ 15. Ðại Việt Thông Sử của Lê Quý Ðôn chép, khi nhà Minh sai Mộc Thạnh đem quân từ Vân Nam sang tiếp viện cho quân Trung Quốc bị vây ở Ðông Quan (Hà Nội) thì Bình Ðịnh Vương Lê Lợi điều động Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đem quân lên Ải Lê Hoa ngăn chặn. Sau khi Liễu Thăng chết ở Chi Lăng, quân Mộc Thạnh tự rút, bị quân ta đuổi đánh tan tác ở Lê Hoa.

Có ai biết Ải Lê Hoa hiện nay ở đâu? Nếu coi bản đồ Trung Quốc bây giờ, chúng ta sẽ thấy tên Lê Hoa nằm trong tỉnh Vân Nam. Chắc các sử gia sau này có thể tìm hiểu nguyên do vì sao một cửa ải của nước Việt Nam, địa danh ghi trong Bình Ngô Ðại Cáo, lại chạy sang bên Tầu! Người Trung Quốc đã chiếm cửa ải đó từ bao giờ?

Cũng vậy, trong cuốn “Nhật Ký Trên Biên Giới Việt Trung” của bác sĩ người Pháp P. Neis có ghi chép và chụp hình các địa điểm ở vùng Ải Nam Quan, khi phái đoàn Pháp, đi thương thuyết với chính quyền nhà Thanh Trung Quốc về biên giới, trong những năm 1885-1887 (lúc đó Pháp đang đô hộ nước ta). Nhiều địa điểm ghi trong cuốn sách trên bây giờ cũng thuộc khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc.

Nước mạnh nuốt nước yếu, hàng xóm lớn ép nhỏ, gậm nhấm từng miếng đất một, thế kỷ này qua thế kỷ khác.

Nhưng chưa bao giờ nước Việt Nam lại để mất những vùng hải đảo rộng lớn, bị cướp ngay trước mắt, và do một chính quyền người Việt đang cai trị một nửa nước Việt tình nguyện hiến dâng. Ðó là chủ quyền trên những hòn đảo ở Trường Sa và Hoàng Sa đã bị Trung Quốc cướp.

Người Việt sẽ không bao giờ công nhận việc Trung Quốc chiếm đóng các hòn đảo mà tổ tiên đã khai phá, sử dụng, gìn giữ từ nhiều thế kỷ trước. Hiện nay chúng ta không thể đưa vụ cướp đất này ra Tòa Án La Haye vì tòa án quốc tế chỉ xét xử các vụ tranh chấp khi nào chính phủ 2 quốc gia liên hệ đồng ý ra tòa. Chính phủ cộng sản ở Việt Nam chưa bao giờ tỏ ý muốn nhờ tòa án quốc tế xử vụ này, mà chính phủ Cộng Sản Trung Quốc thì chắc chắn không muốn. Họ đã chiếm các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, không muốn ai đụng tới. Việt Nam hiện nay cũng không đủ binh lực để đánh bại Trung Quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa, cho nên không ai bàn tới một kế hoạch tái chiếm. Chỉ có một cách là đồng bào ta ở khắp nơi phải biểu tình phản đối và hô hào cả thế giới tẩy chay Trung Quốc về mọi phương diện, bất cứ ở chỗ nào, như người dân Tây Tạng vẫn làm. Người Tây Tạng đã tranh đấu như vậy từ nửa thế kỷ nay không nghỉ, họ chưa đạt được kết quả cụ thể nào, nhưng họ không bao giờ để cho chính quyền Cộng Sản Trung Quốc được yên thân khi còn tiếp tục chiếm đóng đất nước của họ.

Nhưng chính quyền cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm về việc để mất các hòn đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa. Nếu có can đảm, các người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam phải đứng ra công khai phản đối chính quyền Trung Quốc và dùng các biện pháp cứng rắn hơn trong các mối liên hệ giữa hai nước, từ các việc hợp tác kinh tế đến trao đổi thương mại. Trung Quốc hiện đang cần thị trường và nguyên liệu của Ðông Nam Á, để bành trường ảnh hưởng kinh tế. Việt Nam là nước đông dân nhất trong khối ASEAN, nếu chính quyền Việt Nam dám phản đối Trung Quốc thì các nước Ðông Nam Á sẽ phải ủng hộ. Phải tạo áp lực hết năm này sang năm khác, như người Tây Tạng lưu vong vẫn đang làm!

Nhưng điều đầu tiên mà chính quyền Cộng Sản Việt Nam phải làm là chính thức phủ nhận lá thư của ông Phạm Văn Ðồng gửi ông Chu Ân Lai vào năm 1958, trong đó ông Ðồng nhân danh thủ tướng nước Việt Nam tỏ ý tán thành bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc luôn luôn luôn vin vào lá thư này để biện minh với dư luận thế giới về chủ quyền của họ trên Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong mạng lưới của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, như vào ngày 17 Tháng Mười Một năm 2000, họ nêu lên những chứng cớ về chủ quyền của họ trên các quần đảo này (www.fmprc.gov.cn/eng/). Ngoài việc viễn dẫn các lời tuyên bố của các chính khách Anh, Nhật Bản, các văn bản sai lầm của Pháp, tài liệu của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc dành một đoạn dài nêu lên các bằng cớ do Cộng Sản Việt Nam tạo ra cho họ.

Chứng cớ đầu tiên là vào Tháng Sáu năm 1956, Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam (Hà Nội) Ung Văn Khiêm đã nói với người xử lý thường vụ Tòa Ðại Sứ Trung Quốc ở Hà Nội, Li Zhimin, rằng, “theo các tài liệu của Việt Nam thì các quần đảo Tây Sa (ta gọi là Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) theo lịch sử là thuộc lãnh thổ Trung Quốc.” Ông Lê Ðốc, đứng đầu phân vụ Á Châu của Bộ Ngoại Giao Hà Nội có mặt lúc đó còn nói thêm rằng theo lịch sử các đảo trên đã thuộc Trung Quốc “từ đời nhà Tống” (Thế kỷ 10 tới 13)!

Chứng cớ hiển nhiên hơn, theo Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, là tờ nhật báo Nhân Dân ở Hà Nội, ngày 6 Tháng Chín năm 1956 đã đăng một bài đầy đủ chi tiết cả bản tuyên bố của chính phủ Trung Quốc phát hành 2 ngày trước đó. Khi cơ quan chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam đăng bài này, tức là họ đã công nhận các ý kiến của Trung Quốc. Lúc đó Hà Nội đang lo dập tắt các nhóm trí thức và văn nghệ đòi tự do ngôn luận Nhân Văn Giai Phẩm, đang chịu đựng các hậu quả thảm khốc của vụ Cải Cách Ruộng Ðất, và chuẩn bị việc xâm lăng miền Nam. Bản tuyên bố được báo Nhân Dân đăng lên nói rõ ràng là lãnh hải Trung Quốc bao gồm cả các quần đảo trong biển Nam Hải. Thời gian này cũng là lúc Trung Quốc đang gây căng thẳng ở vùng eo biển Ðài Loan (nhưng không bao giờ họ tiến quân đánh Ðài Loan). Ngày 14 Tháng Chín ông Phạm Văn Ðồng gửi lá thư chính thức “tán thành” quan điểm của Trung Quốc về lãnh hải.

Bằng cớ thứ ba mà Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nêu lên là các sách giáo khoa môn Ðịa Lý do nhà nước Cộng Sản Việt Nam in năm 1974, viết rằng các “hòn đảo từ quần đảo Nam Sa, Tây Sa, qua Hải Nam, Ðài Loan, là một bức trường thành bảo vệ Trung Quốc.”

Những điều trên viết trên mạng lưới của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc chỉ lập lại những điều đã được đăng trong Bắc Kinh Chu Báo (China Review) ra ngày 18 Tháng Hai năm 1980, trong đó còn nhiều chi tiết khác kể cả hình lá thư ô nhục của Phạm Văn Ðồng.

Trong tuần báo Far Eastern Economic Review xuất bản ở Hồng Kông ngày 16 Tháng Ba năm 1979, ông Lý Tiên Niệm, phó thủ tướng Trung Quốc đã khẳng định rằng các người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã nhường các quần đảo cho Trung Quốc. Lúc đó Trung Quốc mới đem quân san thành bình địa các thành phố Việt Nam ở biên giới. Một điều đáng chú ý là cũng trong thời gian này, chính phủ Trung Quốc tỏ ra thân thiện với Mã Lai Á và Phi Luật Tân. Trung Quốc cho biết họ sẵn sàng thảo luận với hai quốc gia này về các vụ tranh chấp chủ quyền trong các đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng Bắc Kinh tuyệt đối không nhắc nhở gì tới Việt Nam!

Một ký giả báo Far Eastern Economic Review, ông Frank Ching viết trên báo này, ngày 10 Tháng Hai năm 1994 một bài kiểm điểm lại vụ Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Chinh mỉa mai rằng Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam đã “bán” (sell trong nguyên văn) các hòn đảo này cho Cộng Sản Trung Quốc vì họ cần Trung Quốc giúp trong việc xâm chiếm miền Nam. Frank Ching viết, “Vì nóng lòng muốn gây ra một cuộc chiến tranh tàn hại cả hai miền Nam, Bắc; và muốn đóng góp vào sự nghiệp cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh đã hứa hẹn, một cách mất phẩm giá (did promise, without dignity) cho Trung Quốc chiếm lấy một phần đất trong tương lai, trong lúc chưa biết rằng có nuốt được miền Nam hay không!” Trong bài báo năm 1994, Frank Ching cũng nhắc lại việc hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã tử chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974; và mỉa mai rằng trong thời chiến tranh Cộng Sản miền Bắc luôn miệng chỉ trích các chính phủ miền Nam là tay sai Mỹ, bán nước. “Bây giờ, 20 năm sau, chúng ta thấy rõ trong lúc đó chính quyền Sài Gòn đứng lên bảo vệ quyền lợi nước Việt Nam một cách mạnh mẽ hơn chính quyền ở Hà Nội!”

Về phía Cộng Sản Việt Nam, vào năm 1979 sau khi bị Trung Quốc “dậy một bài học” Phạm Văn Ðồng đã lên tiếng biện hộ cho mình, nói rằng lá thư “tán thành” của ông được ký trong lúc đang chiến tranh, “Hai nước Việt Trung rất thân thiết và tin tưởng nhau. Trung Quốc đang giúp Việt Nam hết sức. Trong hoàn cảnh đó, lãnh đạo Việt Nam ủng hộ lập trường Trung Quốc là điều cần thiết.” Ông Ðồng còn nói rằng việc ông tán thành lập trường Trung Quốc là “để chiến đấu cho độc lập và tự do của tổ quốc(!)”(Far Eastern Economic Review, 16 March 1979). Ông Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng Việt Nam cũng lập lại lý luận của Phạm Văn Ðồng, rằng việc công nhận quan điểm của Trung Quốc là do tình thế bắt buộc! Nói như vậy bịp được dân trong nước, nhưng không thể dùng trong việc bang giao được!

Người Việt chúng ta biết, Cộng Sản ký các hiệp định quốc tế, ở Genève (1954), ở Paris 1972, trong lúc đặt bút ký đã tính mưu sau này sẽ xóa bỏ chữ ký. Nhưng chữ ký của Phạm Văn Ðồng gửi cho Chu Ân Lai còn dính mãi, không xóa được! Frank Ching, trong bài báo nêu trên, viết “một lá thư ngoại giao... không dễ đem tẩy xóa, khi một nước nhỏ như Việt Nam lại tính bầy trò lừa bịp (một nước lớn như) Trung Quốc.”

Cộng Sản Việt Nam đã bán các hòn đảo của tổ tiên để đổi lấy súng đạn đi giết đồng bào miền Nam, lấy cớ đuổi Mỹ nhưng nay lại bám lấy tư bản Mỹ để tự biến mình thành tư bản. Hãy can đảm xóa bỏ lỗi lầm cũ bằng cách phủ nhận lá thư của Phạm Văn Ðồng. Hãy lý luận rằng trong thời gian 1956 các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, vì nằm dưới vĩ tuyến 17, không thuộc thế giới cộng sản. Cho nên lá thư của ông Phạm Văn Ðồng viết đã nhường một phần đất ngoài thẩm quyền của ông ta! Các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng đã bán những thứ không thuộc quyền của mình, hệ quả là những lời nói và chữ ký đó không có giá trị nào cả! Ðây là một bước đầu để xin chuộc tội với dân tộc!

Ngô Nhân Dụng
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Bạn có yêu nước không?
Gửi các Bạn
thanh niên,
sinh viên,
công nhân Việt Nam
trong và ngoài nước,

Hiện nay, trước mộng bá chủ của Trung Quốc, đất nước mình
– bị mất hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa…
– bị mất một nửa Ải Nam Quan, một nửa Thác Bản Giốc, và nhiều đất đai vùng biên giới phía Bắc…
– bị mất nhiều phần biển ở vịnh Bắc Phần…
– nhiều ngư dân Việt Nam đánh cá ở hải phận của đất nước bị quân Trung Quốc bắn chết…

Những sự việc ấy…
… có làm Bạn đau lòng không?
Bạn không đau lòng sao?
Vậy Bạn có còn yêu nước, thương quê hương không?
Bạn thật sự đau lòng ư?
Thế Bạn có biểu lộ sự đau lòng ấy ra không?
Bằng cách nào?
Bằng cách im lặng đồng lõa, hay
… bằng lời nói và hành động thật sự?

Những mất mát ấy của đất nước là do chính đảng Cộng Sản Việt Nam đã dâng Trường Sa, Hoàng Sa, phần biển ở vịnh Bắc Phần, phần đất ở biên giới cho Trung Quốc để bảo vệ ngai vàng của họ để duy trì mãi mãi độc quyền cai trị đất nước của họ để có thể tiếp tục ăn cướp quyền tự do, của cải, đất đai, nhà cửa, tiền viện trợ từ ngoại quốc của người dân, hầu ăn trên ngồi trốc, trên đầu trên cổ người dân Việt Nam.

Nên…
… trước những hành động xâm lăng tàn bạo của Trung Quốc Đảng Cộng Sản Việt Nam đã im lặng hoặc phản ứng rất yếu ớt cho có lệ…

Trước hành động dâng đất và biển cho Trung Quốc của đảng Cộng Sản Việt Nam

Và trước phản ứng yếu ớt của đảng Cộng Sản Việt Nam…
Bạn có cảm thấy bất mãn không?
Bạn không bất mãn sao?
Vậy Bạn có còn yêu nước, yêu dân tộc nữa không?
Bạn bất mãn thật sự ư?
Thế Bạn có biểu lộ sự bất mãn ấy ra không?
Bằng cách nào?
Bằng sự im lặng đồng lõa, hay
… bằng lời nói và hành động thật sự?

Bạn thật sự yêu nước?
Bạn thật sự đau lòng trước cảnh tổ quốc bị mất đất mất biển?
Bạn thật sự bất mãn trước sự kiện phản bội dân tộc của đảng Cộng Sản Việt Nam?

Nên…
Bạn muốn biểu lộ lòng yêu nước, sự đau lòng và sự bất mãn của Bạn ra…?
… bằng lời nói và hành động thật sự?

Nhưng Bạn sợ…
… sợ bị công an CSVN sách nhiễu, theo dõi, mời làm việc?
… sợ bị nhà cầm quyền CSVN truy tố ra tòa và bỏ tù?

Bạn sợ là phải.
Đó là điều hết sức tự nhiên
trước sự khủng bố tàn ác của đảng CSVN
đối với những ai gây bất lợi cho độc quyền cai trị của họ.
Ai nói mình không sợ, đó là kẻ nói dối…

Ngày xưa
Bà Trưng, Bà Triệu…
Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung…
và gần đây…
HT Quảng Độ, Lm Nguyễn Văn Lý…
Ls Nguyễn Văn Đài, Ls Lê Thị Công Nhân…
cũng biết sợ không khác gì Bạn…

Nhưng…
họ không chấp nhận làm những con người HÈN…
họ rất sợ bị mang tiếng là những con người HÈN
Đối với họ, bị mang tiếng là những con người HÈN
… còn đáng sợ hơn là bị sách nhiễu, bị ngồi tù, bị giết chết…

Nên…
họ đã chế ngự sự sợ hãi
họ đã LÊN TIẾNG và đã HÀNH ĐỘNG
bất chấp những hậu quả tai hại sẽ đến với họ.
Còn Bạn?
Bạn sẽ im lặng, sẽ khoanh tay thụ động,
chấp nhận mình là người hèn
hay… sẽ lên tiếng, sẽ hành động?

LÊN TIẾNG để…

nói lên lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm của một công dân trước lịch sử biểu lộ nỗi đau lòng, sự bất mãn trước tình cảnh đau buồn hiện tại
… với người trong nhà, với cha mẹ, với anh chị em, với vợ con
… với nhóm Bạn bè thường gặp
… với lớp học, với thầy giáo, với các Bạn cùng trường
… với các Bạn công nhân cùng tổ, cùng sở làm
trong bữa ăn, trong quán nhậu, trong tiệm cà phê, trong sân trường
trong xí nghiệp, công sở
trong những cuộc tranh luận, bàn thảo
trong những buổi thuyết trình
trong những dịp lên sân khấu, những dịp nói trước công chúng
trong những cú điện thoại
trên các diễn đàn paltalk
… bằng những bài viết, bài báo, bài thơ, bản nhạc
gửi cho nhau qua email
trên các trang web, blog
trên những bản photocopy chuyền tay nhau
trên những tờ báo giấy, báo lá cải
trên các dĩa CD.
… bằng cách trả lời phỏng vấn trên các làn sóng phát thanh (BBC, RFA…)
… bằng cách photocopy những bài báo, những bài thơ… về vấn đề này
để chuyền tay hay gửi cho những người thân quen
… bằng những cuốn sách…

HÀNH ĐỘNG

phản đối hành động xâm lăng của Trung Quốc
đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN
phải lên tiếng mạnh mẽ, phải bảo vệ tổ quốc cách hữu hiệu
phải công bố cho dân chúng các công hàm, hiệp định bán nước,
xử tội những người đã ký kết dâng đất dâng biển cho Trung Quốc…
… bằng cách ký tên vào những kháng thư phản đối
… bằng những cuộc biểu tình ôn hòa, hợp pháp
nhưng đông đảo và quyết liệt
… và bằng nhiều cách khác
tùy sáng kiến và sự thúc đẩy
từ lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm của Bạn đối với tổ quốc…

HY VỌNG THẾ GIỚI SẼ NHẬN RA VÀ CẢM PHỤC LÒNG YÊU NƯỚC VÀ CHÍ KHÍ ANH HÙNG CỦA CÁC BẠN

Nguyễn Chính Kết
Thành viên Khối 8406
và Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests