Tuesday, December 30, 2008
Hình chụp một xưởng may tại Sài Gòn. Nếu so với năm ngoái, đến nay, lạm phát đã tăng khoảng 30%.
Báo điện tử VietNamNet cho biết: “Sự lo âu, căng thẳng về tương lai bao trùm người lao động khi ‘năm hết, Tết đến’ phải đối mặt với nguy cơ mất việc, đồng nghĩa với việc không có Tết. Hàng chục ngàn lao động đã mất việc vào cuối năm 2008. Nhiều doanh nghiệp tuy chưa thu hẹp sản xuất nhưng đã bắt đầu cho lao động nghỉ tạm thời, hay luân phiên nghỉ, giảm ngày làm”.
Trong một báo cáo gửi Bộ Lao Ðộng-Thương Binh-Xã Hội CSVN, Sở Lao Ðộng-Thương Binh-Xã Hội báo động “về tình hình doanh nghiệp ngừng sản xuất, thu hẹp hoạt động dẫn đến số người lao động mất việc làm, phải nghỉ việc gia tăng”. Tại Ðà Nẵng vừa có thêm ba doanh nghiệp nước ngoài cho biết mới sa thải 899 người. Cả ba doanh nghiệp này cùng cho biết, nguyên nhân chính của việc phải đóng cửa ngưng hoạt động hoặc sa thải hàng loạt để cầm cự là vì: Kinh tế thế giới suy thoái, không có đơn đặt hàng, không có việc để làm nên thua lỗ trầm trọng”. Một viên chức tên Lê Minh Hùng, trưởng phòng Lao Ðộng-Tiền Lương và Bảo Hiểm Xã Hội, của Sở Lao Ðộng-Thương Binh-Xã Hội Ðà Nẵng, lo âu: “Thanh niên mới lớn, chưa tìm được việc làm thì có thể sống nhờ cha mẹ, anh em, tác động về xã hội sẽ không quá lớn. Còn một người lao động đang làm việc nhiều năm mà thất nghiệp thì tác động xã hội sẽ tăng lên năm, sáu lần, vì khi đó bên cạnh họ còn có vợ con, cha mẹ già... Nhiều nhu cầu thiết thân như: ăn ở, học hành, chữa bệnh... của những người phụ thuộc sẽ không được đáp ứng”. Ông Hùng cho rằng: “Cần ưu tiên ‘giữ việc làm’ cho những người đang có việc và đang đứng trước nguy cơ thất nghiệp bằng những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo đảm sự ổn định cho người lao động!” Tuy nhiên chính nhân vật này thú nhận: “Cứu doanh nghiệp vào thời điểm này không phải là việc có thể làm ngay, bởi còn không ít doanh nghiệp khác cũng đang bên bờ vực phá sản”.
Giống như nhiều nơi khác, tại Ðà Nẵng đã xuất hiện tình trạng chủ doanh nghiệp bỏ trốn, giựt lương của công nhân. Báo điện tử VietNamNet kể rằng, trong vài ngày qua, rất nhiều công nhân của công ty Tuấn Công đã vây trụ sở của công ty này để đòi lương và đòi lại khoản tiền đặt cọc mà họ đã từng phải đóng khi xin vào đây làm việc nhưng cả vợ lẫn chồng là chủ của doanh nghiệp này đã... biến mất! Một công nhân tên Hồ Chí Lưu, quê ở huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam kể: “Trong bốn tháng vừa qua, tài xế, bốc xếp, bảo vệ của công ty Tuấn Công không được trả lương. Ða số chúng tôi ở quê ra, phải vay mượn nhiều nơi mới đủ tiền đặt cọc (năm triệu đồng) để được nhận vào làm việc. Bây giờ thì trắng tay!” Cũng giống như nhiều nơi khác, các cơ quan hữu trách ở Ðà Nẵng như: Sở Lao Ðộng-Thương Binh-Xã Hội, Liên Ðoàn Lao Ðộng thành phố Ðà Nẵng đã không làm bất kỳ việc nào để giúp công nhân.
Theo báo điện tử VietNamNet, đến thời điểm này, dù ở Ðà Nẵng chưa xảy ra nhiều vụ việc tương tự như công ty Tuấn Công, song tình hình chung của nhiều doanh nghiệp ở đây rất bi đát, “hứa hẹn” sẽ còn nhiều bất ổn hơn nữa đối với đời sống người lao động trong dịp cuối năm.
Báo điện tử VietNamNet còn dẫn nhiều trường hợp khác để “minh họa” tình trạng tương tự đang diễn ra tại Quảng Nam, Hà Nội, Hải Phòng,... Mới đây, ban quản lý các khu công nghiệp-khu chế xuất ở Hà Nội, vừa chính thức xác nhận: “Rất nhiều doanh nghiệp (do nước ngoài đầu tư) đã thông báo cắt giảm lao động vì sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Có doanh nghiệp đã phá sản như công ty đèn hình Orion-Hanel ở khu công nghiệp Sài Ðồng B...”
Bộ trưởng Bộ Lao Ðộng-Thương Binh-Xã Hội CSVN cũng vừa mới chính thức xác nhận: “Khủng hoảng kinh tế khiến nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất do không nhận được đơn đặt hàng. Ðã có hàng chục ngàn lao động mất việc, gây sức ép nặng nề lên nông thôn vì đa số lao động từ quê ra thành phố”.
Cũng trong ngày hôm qua, tờ Tiền Phong cho biết, các nhà máy chế biến tôm xuất khẩu ở miền Tây Nam bộ chỉ còn hoạt động cầm chừng. Hàng ngàn lao động đang đối diện nguy cơ thất nghiệp. Một công nhân của công ty chế biến thủy sản Stapimex ở Sóc Trăng, kể với phóng viên tờ Tiền Phong: “Mấy năm trước, gần Tết, lương có tệ cũng được 1.1 triệu đồng/tháng. Còn mấy tháng nay, lương chỉ còn 314,000 đồng/tháng, chỉ đủ trả tiền cơm, không đủ tiền trả nhà trọ”.
Chủ tịch Hiệp Hội Chế Biến Thủy Sản Cà Mau tiết lộ: “Giá thủy sản xuất khẩu giảm nên giá mua tôm giảm. Người nuôi tôm lỗ, không nuôi tiếp nên thiếu tôm nguyên liệu để sản xuất. Khó khăn chồng chất từ nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu sẽ còn kéo dài”.
Hồi cuối Tháng Tám, ông Cao Sĩ Kiêm, cựu thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, hiện là chủ tịch Hiệp Hội Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ từng tiết lộ với báo điện tử VietNamNet rằng, từ khi chính quyền CSVN, thực hiện chính sách “siết chặt tín dụng”, nhằm ngăn chặn lạm phát, đã có khoảng 20% doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, 60% khác đang thoi thóp.
Ông Kiêm ước đoán: “Hiện nay, chỉ có một phần năm doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thích ứng với tình hình và có thể tiếp tục phát triển nhờ nhiều vốn, áp dụng kỹ thuật
Theo Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, Việt Nam hiện có khoảng 350,000 doanh nghiệp tư nhân có qui mô vừa và nhỏ (có vốn dưới 10 tỷ đồng và sử dụng từ 300 nhân công trở xuống). Nếu dựa trên nhận định của ông Cao Sĩ Kiêm thì số doanh nghiệp đã “đột tử” khoảng 70,000. Số doanh nghiệp thoi thóp khoảng 200,000 doanh nghiệp và số doanh nghiệp còn “khỏe mạnh” chỉ chừng 70,000.
Sản lượng công nghiệp của cả tư nhân trong nước lẫn tư nhân nước ngoài - nghĩa là khu vực đầu tư có vốn nước ngoài - chiếm 75% tổng sản lượng. Các chuyên gia kinh tế từng dự đoán, nếu khu vực tư nhân đổ vỡ hàng loạt thì đấy sẽ là một tai họa. Vào thời điểm kể trên, trả lời đài RFA, Tiến Sĩ Lê Ðăng Doanh, một chuyên gia kinh tế, cho rằng: “Trong những năm gần đây, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam tạo ra 92% việc làm mới. Tuy nhiên, việc hạn chế tín dụng khiến nhiều doanh nghiệp cạn vốn và khó duy trì hoạt động. Lạm phát, chi phí đầu vào cao đã gây khó khăn lớn cho họ, chưa kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thể tiếp cận nguồn ngoại tệ để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu”. Tiến Sĩ Lê Ðăng Doanh bảo rằng: “Các doanh nghiệp đang cố gắng duy trì hoạt động, đặc biệt họ có ý thức là phải duy trì công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên một số chuyên gia cho rằng, có thể vào cuối năm 2008, đầu năm 2009, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ kiệt sức. Tôi nghĩ là tình huống đó có thể xảy ra. Vì vậy tôi rất mong chính quyền nên đặc biệt lưu ý đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
Ðáng chú ý là những dự báo đó không được quan tâm đúng mức và tai họa này đang trở thành thảm họa. (G.Ð)