Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image

Damber Vùng đất lạ chôn vùi thân bách chiến !

Đoàn Phương Hải
Mũ Đỏ, Mũ Đen . . .
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Đức Dũng, và những anh hùng Mũ đỏ, mũ đen đã vị quốc vong thân tại Damber.
Gửi N/T Bùi văn Lộc – Lê Văn Mễ, Phạm Đức Hùng, Phan Cảnh Cho, và những chiến hữu Mũ đỏ, Mũ đen, Công binh… đã tham chiến tại Damber để nhớ những ngày ngút ngàn máu lửa.

Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (phải), Tiểu đoàn trưởng cùng tác giả, Đại Uý Đoàn Phương Hải (trái), sĩ quan hành quân, thuộc tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tại Damber, Campuchia 1971.

Với sự yểm trợ, tiếp tay không giới hạn của khối Cộng Sản Nga, Tầu, Cộng Sản Việt Nam xua hàng chục Sư đoàn bộ binh cùng hàng ngàn xe tăng đại pháo quyết tâm xâm chiếm nhuộm đỏ miền Nam.

Hàng chục ngàn dân lành vô tội đã chết tức tưởi, oan khiên trong dịp Tết Mậu Thân, trên “Đại lộ kinh hoàng”, trên phố trên nhà, trên ruộng trên nương vì bom đạn. Quê hương dân tộc quặn mình trong bão lửa chiến tranh.

Để ngăn cản giặc thù, Quân lực miền Nam đã anh dũng chống trả giặc thù trên khắp 4 vùng chiến thuật. Không một địa danh nào có bóng Cộng quân mà không có gót giầy của người lính miền Nam tìm tới truy lùng tiêu diệt.

Nhằm phá vỡ hậu cần, an toàn khu của địch trên lãnh thổ Kampuchia. Giữa năm 1970 quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã liên tiếp truy kích, tiêu diệt địch trên lãnh thổ của xứ Chùa Tháp. Đầu năm 1971 các lưc lượng thiện chiến đã vượt biên đánh sang Hạ Lào, phá vỡ, tiêu diệt toàn bộ kho tiếp liệu, hậu cần, đại bản doanh, an toàn khu của Cộng Sản Việt Nam.

Sau hơn 2 tháng hành quân, vừa từ Hạ Lào trở về, Trung Tá Nguyễn Đình Bảo K14 Võ Bị, mang theo hơn chục năm kinh nghiệm chiến trường từ Lữ đoàn I Nhảy Dù được lệnh về chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù.

Sau thời gian ngắn chỉnh trang đơn vị, để ra mắt khai quân, 11 Dù đã trực thăng vận tiêu diệt gọn 2 Tiểu đoàn Cộng Quân bao vây căn cứ Hưng Đạo trên quốc lộ 22 chạy dài từ tỉnh lỵ Tây Ninh đến biên giới Việt Miên.

“Song kiếm trấn ải” 11 Dù tiến quân vào căn cứ trong tiếng reo hò, mừng tủi của anh em binh sĩ và gia đình sau hơn 2 tháng bị Cộng quân tấn công, bao vây và pháo kích đêm ngày.

Chiến thắng ngoạn mục đầu tay của quan Năm Nguyễn Đình Bảo làm nức lòng binh sỹ, mang khí thế mới về cho đơn vị.
Thừa thắng xông lên 2 Tiểu đoàn 11 và 5 Dù tiếp tục hành quân tiêu diệt địch quanh trại Lực Lương Đặc Biệt Thiện Ngôn, Lò Gò, Xóm Dứa, Xa Cát và Xa Cam.
Cuối tháng 10/1971, đang hành quân quanh căn cứ hoả lực Pace ngay sát biên giới Việt Miên thì 11 Dù được lệnh tùng thiết với Thiết đoàn 18 Kỵ binh vượt biên tiến chiếm mật khu Damber trên đất Kampuchia.

Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đất bụi đỏ ngầu, thì trên pháo tháp chiến xa, bên dàn máy truyền tin tua tủa “ăng ten” ngắn, dài, một người lính tầm thước với khẩu Colt 9 vắt ngang chiếc áo thung xám ngay trước ngực, đang sang sảng ra lệnh, chỉ huy. Đột nhiên ông giơ tay chào rồi nhảy xuống xe khi thấy Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn Trưởng TĐ11/ND đứng dưới gốc cây đang giơ cao tấm bản đồ. Hai người lính phong trần siết chặt tay, nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.
Image
Ban Tham Mưu/Hành Quân chiến trường Damber 08/1971
– Niên trưởng “Đại Lộc”, lâu lắm anh em mình mới làm ăn chung, kỳ này vào Damber, chắc gay lắm phải không?

– Damber thì lúc nào chả gay, khúc xương khó nuốt, an toàn khu, bản doanh đầu não của Công trường 7 và 9 địch quân. Năm ngoái Thiết đoàn tôi và Mũ nâu Biệt động quần thảo suốt mấy ngày đêm với Trung đoàn Cộng quân tại “Miếu ông Sành”. Kỳ này mình phải nghiền nát Damber ra mới được!

Quan Năm mũ đỏ vung tay tự tin, rồi quay sang giới thiệu Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 18 Kị binh, Thiếu Tá Bùi Văn Lộc Khóa 13 Võ Bị với Mễ, tôi, các Đại đội trưởng và ông Lang Tây Tô Phạm Liệu.

Xếp Mũ đen với biệt danh “Tầy Quầy”, lừng danh trận mạc trong binh chủng, người đẫy đà, da đen sạm vì phong trần, sương gió, cất tiếng cười sang sảng, quay sang bắt tay chúng tôi.

Tình tự Võ Bị từ ngày nhập trường ăn cơm lính, cho nên dù xếp Mũ đỏ, khóa 14, lon tuy cao hơn, nhưng vẫn một điều “Niên trưởng, hai điều Niên trưởng ” xưng hô với xếp Mũ đen.

Đang đấu hót tưng bừng thì ông đàn anh Khóa 6 Võ Bị, Đại tá Trần Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Thiết giáp vùng III chiến thuật đáp trực thăng xuống ngay trận địa.

Trải rộng tấm bản đồ hành quân với chi chít tình hình, trục tiến quân xanh đỏ của ta và địch, Đ/T Khôi bàn luận kế hoạch hành quân, vạch rõ mục tiêu là phá hủy hậu cần, tìm và tiêu diệt cho được Bộ Chỉ Huy Công trường 7 Cộng quân đang có mặt tại Damber.

Thung lũng Damber dài gần hai chục cây số bên liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7 trên đất Miên, nằm lọt trong những cánh rừng trùng điệp cây cao rậm rạp bao quanh. Tuy nhiên địa thế Damber lại tương đối trống với rất nhiều gò mồi, cây cối lúp súp, phủ đầy cây leo rậm rạp nhưng không cao quá đầu người. Băng ngang thung lũng là một con suối khá lớn, mùa này nước đã cạn nhưng đất rất dễ bị lún, gây khó khăn cho chiến xa di chuyển.

Trên quốc lộ 7, nhiều toán công binh chiến đấu, xe ủi đất của ông đàn anh Lâm Hồng Sơn mới gặp khi đi họp hành quân, đang vất vả phá hủy mìn bẫy, sửa chữa cây cầu chiến lược trên trục tiến quân .

Đoàn cua sắt trải rộng đội hình ào ào băng ngang những cánh đồng cỏ non. Làng mạc thôn xóm thanh bình, hiền hòa sau lũy tre, bên những hàng thốt nốt hoa trắng như hoa cau, cao thẳng, ngả nghiêng theo gió nổi bật trên nền trời.

Lính Dù không phải lội bộ nên thích thú cười đùa trên chiến xa, đang tiến quân như chẻ tre, càn quét qua các mục tiêu. Sau khi lục soát quanh căn cứ hỏa lực Hồng Hà ngay ngã ba liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7, thì lực lượng xung kích Dù và Thiết kỵ chia làm 2 cánh.

“Mê Linh” Lê văn Mễ , Thiếu Tá Tiểu đoàn phó TĐ11ND và Đại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho, phối hợp với Thiết vận xa M 113 giải tỏa, thanh toán áp lực địch đang ngày đêm pháo kích, bao vây tấn công căn cứ hỏa lực Hồng Hà. Sẵn sàng tiếp ứng cho mũi xung kích của Trung Tá Bảo và Thiếu tá Lộc đánh thẳng vào mật khu Damber.

Xếp Mũ đen có vẻ thắc mắc, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi lúc nào cũng “Anh Năm, Anh Năm” xưng hô với xếp Mũ đỏ, mà không gọi bằng cấp bậc.

– Mấy chú em trong đơn vị ít khi kêu tôi là Trung Tá, lúc nào cũng xưng hô là Anh Năm, Anh Năm! Nghe mãi thành quen, thân mật, gần gũi như anh em trong nhà.

Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Ngọc Hùng, Phạm Đức Hùng, Ba Đại úy Đại Đội Trưởng lừng danh Mũ đỏ, dầy dạn chiến trường, cùng xuất thân Khóa 22 Võ Bị, đang phối hợp với 2 Chi Đoàn Trưởng Mũ đen lừng danh trận mạc là “Bắc Đẩu” và “Phi Điểu” ào ào tiến quân trực chỉ Damber.

Địa thế vùng hành quân bắt đầu thay đổi khi một số chiến xa M 41 bẵng qua cây cầu lớn trên liên tỉnh lộ 75 vừa được Công binh sửa chữa. Ngay dưới cầu là một con suối khô, chạy từ Đông sang Tây ngang qua thung lũng Damber. Địa thế trở ngại cho chiến xa khi phải băng qua khu vực thấp và lún dưới lòng suối cạn, nhưng với thiết vận xa M113 thì không có gì trở ngại.

Với cái nhìn sắc bén, tinh nhậy của nhiều năm xông pha trận mạc, đàn anh mũ đỏ, mũ đen nhận ra ngay đây là tử điểm quyết định chiến trừơng, nên quyết định lựa một Trung đội Nhảy dù gồm toàn những tay súng gan dạ, kinh nghiệm cùng mình, và Sĩ quan liên lạc pháo binh nằm lại để nghe ngóng tin tức địch quân.

– Địch sẽ phục kích tại đây khi Chiến đoàn kéo quân trở ra! Mình sẽ dùng không quân, trận địa pháo và hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp nghiền nát chúng tại đây!

Anh Năm gật gù cười, khoái trá nói với chúng tôi, giống như khi anh nheo mắt mó trúng con nhất vạn, ngửa bài ù toàn hàng trong canh mạt chược trên đồi Mũ đỏ, hay những lần đóng quân trong vườn Tao đàn đầy cây cao bóng mát, nườm nượp “khách giang hồ” lui tới ghé thăm.

Sau cả ngày tiến quân, tiêu diệt vài toán trinh sát nhỏ của địch. Chiến đoàn đóng quân quanh ngôi chùa cổ.

Vài hình ảnh về Anh Năm mũ Đỏ Nguyễn Đình Bảo, Trung tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù tại Damber, Campuchia, 08/1971.
Image
TT Nguyễn Đình Bảo (đeo kính) chỉ huy cuộc hành quân tiến chiếm Damber Campuchia tháng 8 1971
Image
Đại Tá Trương Vĩnh Phước Cùng TT Nguyễn Đình Bảo tại Damber
“Tubip” Liệu, anh Năm và tôi, ngồi trên M113, nhìn nắng chiều trải những giải mây ngũ sắc giăng ngang lũy tre, vắt ngang mái chùa cong, nhuộm hồng khu nhà sàn trong xóm. Xa xa, trên bờ đê, lũ trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu bên mấy nhà sư áo vàng nổi bật trên cánh đồng nhuộm ánh tà dương đang lững thững về làng, trông thật thanh bình, êm ả. Nếu không có chiến xa gầm thét, không có xích sắt quần nát ruộng nương, không có vỏ đạn đồng rải sáng bờ đê, xác người cong queo trên ruộng vườn kinh lạch, thì những người dân quê hiền lành kia nào ai biết đến chiến tranh!

Qua khỏi Miếu Ông Sành, (T/Tá Phan Văn Sành K17 Đà Lạt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 30 BĐQ tử thương khi đụng địch gần ngay miếu. Anh em Mũ nâu tiếc thương đặt tên Anh cho ngôi miếu cổ) là hàng chục xác chiến xa cháy đen nằm rải rác trên cánh đồng. Mũ sắt, giầy trận, nón cối, dép râu vương vãi trên chiến điạ. Thiếu tá Lộc cho biết hồi đầu năm, hai Trung đoàn chủ lực của địch đã phục kích chiến xa và lực lượng hành quân ngay tại đây, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.

Lại thêm một ngày bình yên trôi qua, tình hình yên tĩnh một cách đáng ngại. Chưa có chỉ dấu nào là 2 Trung đoàn của Công trường 7 có mặt trong vùng hành quân, theo như không ảnh và tin tức tình báo cấp cao của Quân đoàn ghi nhận.

– Anh Năm, địch cố tình tránh né không muốn đụng?
– Thì chúng cố tình dụ mình vào thật sâu rồi mới dốc toàn bộ lực lượng phục kích khi mình kéo quân ra. Hình như địch đã biết trước kế hoạch hành quân. Liên lạc toán trinh sát coi có nghe ngóng động tĩnh gì không? Nhớ ghi kỹ tọa độ, sẵn sàng pháo binh yểm trợ cho tụi nhỏ.

Đêm ngột ngạt yên tĩnh trong tiếng kinh, tíếng mõ văng vẳng từ ngôi chùa gần khu đóng quân.

– “Khều”! Năm ngoái, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đụng ở khu nào vậy?
– TĐ7ND cùng Thiết đoàn 5 của Trung Tá Thoàn là mũi xung kích cho Chiến đoàn 333 đánh qua Soài Riêng, vào Damber đụng lớn ngay trong khu này và thắng một trận lớn ở Phum Longieng.

Có đêm mới 2, 3 giờ sáng, Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng ngay trận địa, bất ngờ ra lệnh cho Dù và Thiết kỵ ào ào đánh vào Damber tạo nhiều chiến thắng lớn.

Sau khi góp ý, bàn thảo thêm kinh nghiệm, mọi người im lặng tìm giấc ngủ với những suy nghĩ vẩn vơ.

Tiếng gầm thét của chiến xa, phá tan buổi sáng mờ sương khi ánh dương chưa lên khỏi hàng cây thốt nốt bên lũy tre làng. Tới gần trưa thì lực lượng hành quân đã càn quét hết các mục tiêu chỉ định tại Damber mà không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch!

Dù và Thiết kỵ dừng quân quanh ngôi chùa cổ. Vừa bước chân vào sân chùa thì đã thấy sư cụ chủ trì cùng đám dân quê cả trăm người gồm ông già bà cả, đàn bà con nít khóc như ri, đang run rẩy sợ sệt qùy lạy như tế sao.

Chúng tôi ngỡ ngàng vội đỡ tay hòa thượng đứng lên và chắp tay xá lại. Trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm già nua, đôi mắt sâu ẩn dưới cặp chân mày bạc trắng nhuốm lên nét chịu đựng đau buồn.

Mặc dù mấy anh lính Miên trong đơn vị đã giải thích cho nhà sư và dân chúng biết mục tiêu của cuộc hành quân là tìm diệt Việt Cộng nhưng họ vẫn vừa lạy vừa khóc!

Hình ảnh ngôi đình, đứa bé đội chiếc mũ nồi đen, nắm chặt tay mẹ bên đám dân làng run rẩy, sợ sệt quỳ lạy đám lính Tây Lê dương ở nhà quê miền Bắc mấy chục năm trước hồi tôi còn bé chợt thoáng hiện về!

Lịch sử đang vô tình tái diễn. Ngày xưa tôi là một đứa bé ngơ ngác run rẩy, vái lạy đám lính Lê dưong. Ngày nay tôi đang là một người lính Nhảy dù đứng nhìn bầy trẻ đói gầy, đen đúa xá lạy chúng tôi trên một quê hương xa lạ!

Tuổi thơ Việt Nam trong thời loạn lạc, sợ xe tăng thiết giáp, vết giầy đinh trên bờ đê, khóc thất thanh khi thấy lửa cuồng bạo đốt cháy xóm làng. Ngày nay, những đứa bé, những người dân Miên khổ nạn kia cũng đang run sợ khi bom đạn đốt hừng hực đốt cháy quê hương!

Thấy dân làng và bầy trẻ nhỏ run sợ, thiếu đói, nghèo nàn bên dăm ba củ khoai, một ít cơm độn bắp với những vết thương máu mủ tanh hôi đang làm độc trên thân thể.

Anh Năm, “Đại Lộc”, ra lệnh cho tiền trạm xin trực thăng chở gạo sấy, đồ hộp, thuốc men vào vùng hành quân.

Xế trưa hôm đó những người lính mũ đỏ, mũ đen, gom dân lại để cấp phát lương thực. Băng bó, chữa trị những vết thương mưng mủ đang làm độc trên mình những người dân khốn khó và những đứa bé đen đúa gầy gò, khổ nạn của chiến tranh.
Nhìn những đôi mắt ngây thơ trẻ dại, rạng rỡ hân hoan nhai kẹo cao su, thè lươĩ liếm môi cho hết chút đường cát trắng, chậm chậm cắn miếng thịt heo. Mắt long lanh, đứng ngẩn người để cảm thấy vị ngọt, mùi thơm đang từ từ tan tận kẽ răng, ngấm sâu vào từng thớ thịt với những nụ cười hồn nhiên ánh mắt vui sướng, trông mới sót sa tội nghiệp làm sao!
Chắc đã lâu lắm chúng mới có một ngày no đủ. Vài đứa bạo dạn lại gần chiến xa, sờ sờ mó mó, khiến tôi nhớ lại hình ảnh tuổi thơ với chiếc quần đùi nâu đứng bên đường số 6, nghếch mũi ngửi cái mùi ngái ngái thơm thơm của dầu săng khi lại gần chiếc xe nhà binh.

Đêm im vắng, trời trong cao, lóng lánh muôn ngàn tinh tú. Văng vẳng tiếng tụng kinh ê a hòa với tiếng mõ khoan thai đều đều của sư cụ và mấy chủ tiểu trên chùa.
Gối đầu lên ba lô, ngả lưng trên nền gạch dưới mái hiên chùa, chúng tôi kể cho nhau nghe những ngày Tây về làng, theo bố, mẹ chạy loạn, tản cư, từ Cống thần, Chợ đại về tới Phủ Lý, Hà Nam..
Quê hương tôi sao quá đọa đầy! Ngàn năm đô hộ chống Tầu, trăm năm Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi chống đánh Nhật, chống Tây. Năm 1954, đất nước chia đôi, yên ổn vài năm rồi lâm cảnh nồi da sáo thịt, huynh đệ tương tàn vì chủ nghĩa Cộng sản, vì mộng nhuộm đỏ giang san của người anh em miền Bắc!
Nghe tiếng đạn bom từ thuở lọt lòng, tham dự chiến tranh cầm súng bóp cò khi tuổi đời vừa đủ lớn đủ khôn!

Nếu vương quốc Cao Miên không cho phép Cộng quân lập an toàn khu trên lãnh thổ để tiến đánh miền Nam, thì chắc chắn xe tăng, đại pháo và những người linh miền Nam sẽ không có mặt trên xứ sở xa lạ nghèo nàn này!

Nhấm nháp ly cà phê nóng đầu ngày, khi những vệt nắng ban mai nhảy múa lung linh trên pông sô, bên tiếng hót trong cao của bầy chim chích chòe trên mái tam quan. Lòng thanh thản vì vừa qua một đêm yên tĩnh, không có tiếng súng, tiếng bom. Tôi lẩm nhẩm cầu xin may mắn cho đơn vị khi bứơc vào chùa giã biệt vị sư già.

Chiến xa lăn xích hướng về lại căn cứ hoả lực Hồng Hà để trở về quê mẹ. Hình ảnh dân làng và bầy trẻ đang giơ tay vẫy thấp thoáng bên lũy tre.
Image
Nhay du va Thiet ky hanh quan Cam Bot nam 1970.jpg

Nắng đã lên quá đỉnh đầu, không khí oi bức nhột nhạt khó chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ quần nát vùng hành quân, chiến đoàn phân tán quân quanh bìa rừng để chờ tiếp tế lương thực, đạn dược và săng nhớt. Trực thăng võ trang bay lượn bao vùng cho mấy chiếc Chinnok đáp xuống tiếp tế. Hai ba chuyến thả hàng xong xuôi, chuyến cuối cùng đang là là trên mặt đất thì đột nhiên phòng không, cối 82 và hỏa tiễn của địch từ nhiều hướng khác nhau nhả đạn như mưa. Một Chinook trúng đạn sau đuôi, bốc cháy như một cây đuốc khổng lồ.
Trực thăng võ trang bao vùng nhào lên nhào xuống bắn phá vị trí pháo của địch.
May là rớt gần mặt đất nên phi hành đoàn Mỹ từ trong trực thăng chạy kịp ra khỏi thân tầu, trước khi trực thăng phát nổ. Lính mũ đen ào tới xịt bình chữa lửa lên mình mấy anh phi công Hoa Kỳ rồi kéo họ nhào xuống hệ thống phòng thủ.

Vì địa thế bằng phẳng toàn bụi rậm và rừng cây thấp nên phi cơ quan sát nhận ra vị trí súng của địch, chỉ điểm cho khu trục tới tấp nhào xạ kích, đánh bom trong màn lưới phòng không địch từ nhiều vị trí.

Mấy thiết xa M48 chất đầy săng nhớt mới tiếp tế may mắn không bị cháy, đang chạy ngang chạy dọc bơm săng, bơm dầu cho chiến xa.

Phi hành đoàn chiếc Chinook trúng đạn đang liên lạc qua hệ thống Mỹ để chờ trực thăng bốc ra.

Trời đã về chiều, đoàn quân di chuyển qua vị trí khác tìm địa thế đóng quân đêm.
“Tubip” Liệu đang chữa trị cho mấy quân nhân bị thương nhỏ to với ông bạn Bác sỹ quân y bên Thiết giáp.

– Bắt đầu vất vả rồi đó, đi chung với mấy ông mệt bỏ mẹ, lúc nào cũng ầm ĩ đầy mùi săng nhớt, phun khói đầy trời, nằm phơi bụng, phơi lưng lên cho chúng pháo. Chỉ được cái khỏe là đỡ phải lội bộ, hỏa lực ăn trùm thiên hạ và nhất là đầy đủ mấy ông Bud, ông 33 (bia Budwiser và bia 33)!
– Nhưng cũng dễ thành than lắm ông ơi! Mới chưa đầy một năm về đơn vị mà thiết đoàn đã đụng lớn cả chục lần, “rang muối” gần chục xe rồi đấy ông ơi !

Ngoài tuyến phòng thủ lính tráng đang đào hầm hố, dựng lưới chống B40 ngay trước đầu xe.

Quá nửa đêm khi mọi người đang say ngủ thì bỗng choàng mình tỉnh giậy, lăn xuống hố vì những tiếng nổ kinh hoàng cày tung đất đá ngay sát bên tai.

Tiếng nổ của hỏa tiễn, của cối 82 nghe ngắn, tê lạnh, buốt sắt đến hãi hùng. Cái âm thanh quen thuộc giống như tiếng mở nút chai nghe rõ mồn một từ góc rừng, kèm theo là những tiếng rít, tiếng hú rợn người của hỏa tiễn 122 đang quơ lưỡi hái tử thần sé gío bay đến vị trí đóng quân.

Mặc dầu đã qúa quen thuộc với những cơn mưa pháo khủng khiếp ở Hạ Lào, ở vùng hỏa tuyến. Thế nhưng cái giây phút cực kỳ ngắn ngủi, căng thẳng thần kinh trong lúc đạn đang bay tới mục tiêu vẫn làm cho thần kinh căng thẳng, tức ngực và khó thở! Vừa nghe đạn nổ đằng trứớc, đằng sau, bên trái, bên phải, thì lại hồi hộp, miệng đắng lưỡi khô khi nghe tiếng rít của đợt pháo tiếp theo. Cứ như thế mà chờ mà đợi, phó thác cho số mệnh!

Đột nhiên một tiếng nổ chát chúa kinh hoàng làm rung chuyển cả xe. Tai tôi ù đi, tối tăm mặt mày khi toàn thân văng lên đập vào thành xe. May là có thói quen khi nghe tiếng pháo là chụp chiếc mũ sắt lên đầu, nên không hề hấn gì cả. Ngay bên canh Trung tá Bảo cũng đang ôm ngực chống tay, dựa vào thành xe.

Lệnh lạc, báo cáo vang lên trong máy, “Bảo Ngọc” chụp ống liên hợp liên lạc với “Đại Lộc” và các đại đội ngoài phòng tuyến.

Bỗng có tiếng báo cáo của toán tiền đồn cho biết là Việt cộng tập trung rất đông, đang dàn quân, đào hầm hố, bố trí theo bờ suối, sát đường.

Vì sợ bị lộ vị trí nên toán tiền đồn sau khi đã quan sát, theo dõi và cho tọa độ vị trí địch, xin rút ra điểm hẹn trước khi trời sáng.

Mặc cho pháo vẫn tiếp tục rơi, thân thể còn đang ê ẩm. Anh Năm và tôi như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh, quên cả đau, dán mắt vào vị trí địch quân trên bản đồ để phác họa trận địa pháo trút lên đầu địch.

– Đúng ngay chóc là thế nào chúng cũng phục kích mình tại đây. Tao sẽ dùng chiêu “Gậy ông đập lưng ông, tiền pháo hậu xung” mà địch vẫn thường dùng, để mưa pháo và bom lên đầu chúng. Hỏa lực sẽ thiêu đốt sạn đạo Damber. Công trường 7 Cộng quân sẽ tan nát, thảm bại trong trận thư hùng quyết tử này!
Anh Năm vừa nói, vừa khoanh tròn, di tới di lui cây viết chì mỡ trên tấm bản đồ, ngay vị trí địch một cách đầy tin tưởng.

Có tiếng C 47 Hỏa long vào vùng thả hỏa châu, đại liên 6 nòng như bò rống xả đạn vào vị trí địch, nhờ thế mà pháo địch im tiếng.

Vừa chui ra khỏi xe tôi đã điếng hồn vì trái hỏa tiễn 122 ly nổ ngay cạnh đào một hố sâu bên thành xe. Mảnh pháo chém đứt xích thiết xa, cây đại liên 50 trúng mảnh cong vòng văng xuống đất.

– Anh Năm, mình hên thật, chút xíu nữa là đi đứt. Kỳ này hành quân về Anh phải cúng heo và rời cột cờ đi chỗ khác!
– Mấy thằng tụi mày sao lúc nào cũng lèm bèm, tối ngày tìm đọc ba cái trò bói toán, tử vi, luận bàn cứ như thánh sống làm tao điên cái đầu!

Tubip Liệu mới từ xe bên cạnh chui ra phán thêm một câu.

– Đệ nhất phong thủy miền Nam, “Diễn tiên sinh”, khi được xếp lớn đón lên coi doanh trại đã lắc đầu nói là bộ chỉ huy nằm trên thế đất sát chủ. Đã thế sân cờ lại còn đối diện với Nghĩa trang quân đội. Nếu không dời ngay xuống phía Nam trông ra bờ sông thì lành ít dữ nhiều, chắc anh còn nhớ chứ anh Năm!
– Nghe nói Phủ đầu rồng, Dinh Thừa tướng, Bộ Tổng tham mưu, một số đại quan văn võ trong triều muốn thăng quan tiến chức, hưởng đủ bổng lộc trời ban, đều phải năm lần bảy lượt xin yết kiến “Diễn tiên sinh”, đó anh Năm!
– Ông Cần, Ông Tĩnh lựa Bộ chỉ huy và sân cờ, tao mới về có lựa chọn gì đâu! Nhưng chẳng biết đó là điềm vui hay điềm buồn, điềm lành hay điềm xấu cho quốc gia, mà Phủ đầu rồng, dinh Thừa tướng lại tin vào bói toán tử vi. Nay con rùa đặt chỗ này, mốt hồ nước, giả sơn đặt chỗ kia. Mình là dân quanh năm đánh đấm, trước khi xuất quân lại tin phong thủy, gieo cầu, cúng bái cầu xin thì còn đánh đấm giặc giã gì nữa!

Tôi ngước lên cao, trời trong ngập ánh trăng, cần ăng ten, đại bác, bóng người quanh pháo tháp lung linh di chuyển ngã dài theo ánh hỏa châu. Đại liên 6 nòng từ máy bay vẫn như bò rống vạch ngang vạch dọc từng giây đạn lửa đỏ rực trong đêm, xen kẽ với tiếng phòng không từ nhiều vị trí địch khác nhau bắn lên máy bay, đạn lửa đuổi nhau giữa bầu trời đầy sao vẽ thành bức họa chiến tranh lạ mắt.

Để chắc ăn cho cuộc tấn công vào sáng ngày mai, chúng tôi xin mấy “thảm” B52, nhưng Bộ chỉ huy cho biết là không có, và sẽ dành ưu tiên pháo binh, không quân cho trận điạ.

– Sáng rồi, mình “thượng đài” nhập trận đi anh Năm!
– Báo cho Mê Linh đón tụi nhỏ tiền đồn và sẵn sàng trong đánh ra, ngoài đánh vào, kẹp địch ngay chính giữa.
-Tụi nhỏ đã gặp phe ta rồi, hôm qua Mê linh làm ăn lớn, tiêu diệt nguyên một đại đội đặc công đánh vào căn cứ, tịch thu nhiều vũ khí và tài liệu của địch.

Trời sáng dần, ngồi trên pháo tháp chiến xa tôi nhấc ống nhòm nhìn về khoảng rừng trước mặt. Dọc theo tỉnh lộ, khu rừng lau đầy hoa trắng ngả nghiêng uốn mình theo gío, cảnh vật im vắng trong làn sương mỏng ban mai.

Sau những gò mối, lùm cây, bên bờ suối, giờ này chắc địch quân đang ẩn mình dưới giao thông hào. Chắc chúng cũng đang hướng ống nhòm, căn góc độ, dựng biểu xích, mở khóa an tòan của đủ loại vũ khí chờ Thiết giáp và Nhảy Dù tiến vào mục tiêu.
Tôi chợt nghĩ đến gia đình, một thoáng Saigon, mái ấm gia đình mờ mịt cuối chân mây.

Sau khi đã bàn thảo với “Đại Lôc” xếp Mũ đen, lệnh lạc rõ ràng cho các cánh quân. Trung tá Bảo vỗ mạnh vai tôi, xiết chặt hai tay vào nhau, ý như bóp nát địch quân. Ngay lúc đó là hàng ngàn tiếng rít sé gió của 3 pháo đội pháo binh Nhảy Dù của ông “Lước Hốc Môn” từ nhiều vị trí khác nhau “T.O.T” chụp đạn xuống mục tiêu. Rừng cây đất đá, bụi lửa tung lên cao khi đạn pháo xoáy vào lòng đất. Lẫn trong tiếng nổ hẳn có những đôi mắt trợn trừng lẫn với tiếng gào thét đớn đau. Máu thịt, cốt xương sẽ tan từng mảnh tung lên cao, vướng trên cành cây ngọn cỏ, hay vùi sâu trong lòng đất.
Hàng ngàn đạn pháo, hết đợt này đến khác vẫn đang xé gió cày tung vị trí Bắc quân.

Pháo vừa ngưng thì phi cơ quan sát L19 từ trên cao nhào xuống mục tiêu hướng dẫn khu trục oanh kích trận địa.
Từng đoàn khu trục, âm thanh rít bên tai, lao từ trên cao thả hàng chuỗi bom chụp trên trận địa rồi kéo cánh lên cao, trông rõ bộ đồ bay màu cam và chiếc nón bay của các phi công bạn.

Rừng cây bùng lên trong biển lửa khi bom “Napalm” chạm mặt đất hừng hực thiêu đốt cây rừng.
Phòng không địch bắn lên phi cơ, vẽ những bông hoa khói, xám đen, nổ như pháo bông dầy đặc quanh thân tầu.

Đúng là địa ngục rực lửa, lửa từ lưng trời rót xuống, lửa từ mặt đất bốc lên, lửa vàng chói hừng hực, cuồng bạo đốt cháy cỏ cây, thiêu hủy thân xác con người. Tất cả chỗ nào cũng chỉ nghe tiếng đạn tiếng đạn bom, chỗ nào cũng chỉ toàn lửa và lửa.


Phi cơ lắc cánh chào quân bạn bay khỏi vùng. Chiến trường còn đang bốc khói là Thiết giáp và Nhảy Dù xả đủ loại hảo lực ào ào xung phong vào trận địa.
Mặc dù bị nhồi giập vì pháo binh, bị đốt ngập trong biển lửa, nhưng đủ loại hỏa lực đại liên, B40, B41, đại bác không giật của địch vẫn nhả đạn như mưa vào đoàn cua sắt đang ào ạt tấn công.
Bị dồn vào tử lộ không lối thoát thân nên địch liều chết tử chiến tới cùng. Xạ thủ phòng không bị xích chân vào đại liên 37 ly nhả đạn như mưa chống trả.

Phối hợp nhịp nhàng nhị thức Bộ binh, Thiết giáp, kể cả chiếc xe ủi đất lớn của công binh cũng đang giơ nghiêng lưỡi cày bằng sắt dầy ngăn đạn cho lính Dù nhào lên thanh toán mục tiêu. Đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu trận chiến lính Dù mới thấy cảnh lạ lùng khi anh tài xế can đảm, gan dạ, say khói súng cùng mũ đen, mũ đỏ lái xe ủi đất xông trận.

Ác chiến kéo dài từ sáng tới chiều. Mùi thuốc súng, mùi da thịt khét lẹt từ hàng trăm xác địch cháy đen. Xương thịt máu me nhầy nhụa đỏ lòm trong mắt xích chiến xa văng lên pháo tháp làm tôi muốn ói trước cảnh tượng khủng khiếp và ghê rợn.
“Tubib” Liệu và toán y tá quần áo đầy máu sau mấy gò mối lớn đang cấp cứu cho các thương binh.

Khi những tia nắng chiều vàng đỏ cuối ngày, lướt thướt kéo ngang rừng cây, nhuốm đỏ thành cầu, thì trận chiến cũng vừa tàn.
Bùn lầy, cỏ tranh, khu rừng hoa lau trắng đỏ ngầu màu máu, xác địch ngổn ngang, co quắp cháy đen.
Dăm ba chiếc nón sắt rằn ri móp méo lủng sâu vết đạn nằm bên những chiếc nón cối ngụy trang đầy lá cây rừng bên bờ lau sậy xào xạc gío chiều.

Trận chiến nào cũng có mất mát thương vong. Đại úy Nguyễn Đức Dũng Đại Đội Trưởng/ Đại đội 111/ TĐ11ND cùng gần 30 mũ đỏ, mũ đen đã hy sinh, và khoảng 10 thiết xa bị bắn cháy.

Tựa bên pháo tháp chiến xa nhìn về phía rừng cây, tôi như đang thấy những cánh rừng thông bạt ngàn xanh ngắt trên Đà lạt. Như thấy Dũng trong bộ đại lễ trắng đang quỳ xuống, đứng lên trong ngày lễ mãn khoá trên Vũ đình trường. Xa xa Lâm Viên đỉnh hùng vĩ giữa trời xanh… Tiếng gió, tiếng kèn, quyện với giọng ngâm buồn u uẩn bên ngọn lửa thiêng bập bùng trong đêm Truy điệu…

“Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến.
Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam!
Sau khi tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trở về. Vì nhu cầu công vụ, nên Dũng đang là một Sĩ quan sáng giá của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù được lệnh thuyên chuyển về làm Đại Đội Trưởng cho TĐ11ND. Cả đơn vị không ai là không nhớ dáng dấp thư sinh, đẹp trai, hay mắc cỡ, mặt đỏ bừng như con gái của Dũng. Chính vì hiền lành dễ thương, lúc nào cũng cười, nên Dũng nổi tiếng đào hoa ttrong đám bạn bè, và thường bị các cô trêu chọc.
Đất lạ Damber đã cướp mất người anh hùng tuổi trẻ. Nguyễn Đức Dũng, khóa 22 Võ Bị. – Người “Thích mặc quân phục từ nhỏ, và đội Nón Đỏ khi ra trường”Người sỹ quan Dù can đảm, tháo vát trẻ trung, chưa thỏa chí tang bồng thì đã bỏ đồng đội bỏanh em!!!
Ngủ yên đi Dũng! Và nhớ kéo dù theo gió bay về quê cũ Bắc Ninh, nơi chốn bình yên, nơi dòng sông tuổi nhỏ, phụ lưu sông Đáy, sông Hồng cuồn cuộn phù sa. Nơi có giọng hò Quan Họ, hội Lim, nơi cất tiếng khóc chào đời, nơi không binh đao thù hận.

Trên đồi Mũ đỏ Long Bình, dưới giàn hoa dưa tím phất phơ bay trước căn phòng nhìn xuống ngã ba sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc bên làng Cao Thái đầy cỏ nội hoa rừng, thoảng mùi thơm khuynh diệp sẽ mãi mãi vắng thiếu bóng anh!

Đêm đó Chiến đoàn dừng quân ngay trên trận địa, người sống và người chết ngủ vùi cạnh bên nhau.

Nằm yên trên võng, tôi lơ đãng nhìn những ngôi sao đổi ngôi sẹt ngang bầu trời, để nghe hơi thở, khói súng chiến trường lắng đọng trong tim.

Ngoài kia tiếng rên la đau đớn của thương binh ta và địch, đang gọi tên người thân, chống chọi từng giây từng phút với tử thần, còn có tiếng rên la, trăn trối của một sĩ quan thương binh miền Bắc nghe rất lạtai!

Chữ nghĩa, ngôn từ đã hoàn toàn đổi thay từ khi chúng tôi xa đất Bắc di cư vào Nam năm 1954. Đêm nay, người thương binh địch, quê quán Hà đông, cùng tuổi, cùng quê với tôi. Biết đâu thuở nhỏ lại chẳng biết nhau bên gốc đa đầu làng, chơi với nhau trước sân đình, bên giếng nước, khi mới dăm bảy tuổi. Anh thương binh đang thều thào gọi tên vợ con khi biết mình khó lòng sống sót với viên đạn xuyên ngang lồng ngực. Tấm hình đen trắng mộc mạc của cô gái quê với hàng chữ thương yêu gửi tặng chồng khi vượt Trường Sơn. Tấm ảnh vấy máu, đang nằm trong đôi tay khô héo, khi Tubip Liệu lấy ra từ trong túi đặt lên tay anh.

Dù mũ đỏ, mũ đen, dù nón cối dép râu, hay Bắc, Trung, Nam, khi nhắm mắt xuôi tay thì xác thân đều sẽ rã mục hình hài làm xanh tươi cây lá. Gió núi mưa rừng sẽ gột sạch máu xương. Chim chóc, muông thú sẽ kéo về. đời sống sẽ trở lại, thôn ấp xóm nhà, lũy tre, ruộng đồng, cây trái, sẽ xoá mờ đi vết tích chiến tranh

Tôi nằm đong đưa trên võng chập chờn nghĩ tới vợ con, để biết mình vừa sống còn qua trận chiến.

Với mấy trăm xác địch nằm ngổn ngang khắp nơi trên chiến địa. Đại liên phòng không, cối 82, B40, B41, đại bác không giật và hàng trăm cây AK sắp đầy như củi trên 4 chiếc M548. Trung đoàn địch trấn giữ Damber kể như bị xóa tên trên bản đồ trận liệt.

Dưới ánh nắng gay gắt, chói chang hầm hập nung người của xứ chùa Tháp, mùi hôi của xương thịt người chết mặc kẹt trong xích xe bắt đầu xông lên khó chịu.

– Hôi quá! Cả ngày ăn ngủ trên xe sao mấy anh chịu nổi!
– Thì cũng quen đi thôi!

Nói xong người lính Mũ đen rít hơi thuốc thơm Quân Tiếp vụ, từ từ nhả khói giọng nặng chĩu u buồn.

– Chiến tranh mà! Mới đó mà tôi đã qua 8 năm chiến trận. Không biết còn đánh nhau cho tới bao giờ! “Đi đêm mãi chắc cũng có ngày gặp ma”!

Tiếng máy truyền tin oang oang chuyển lệnh cho đòan quân rời vùng, tiếp tục hành quân giải tỏa liên tỉnh lộ7.

Mấy con qụa đen cất tiếng kêu quang quác, đang đứng rỉa lông trên nòng cây đại bác cong queo, cạnh vòng hoa kẽm gai trên mấy chiếc chiến xa cháy đen ngoài cánh đồng.

Đã hơn hai tháng miệt mài trong lửa đạn. Tôi đang nhớ Saigon, nhớ vợ con. Nhớ dàn hoa giấy đỏ trước nhà, và những con chim gi, chim chích chòe mỏ đỏ, cánh đen bay chuyền trong buổi trưa hè. Tự nhiên tôi thèm tô phở, ly cà phê, hơi thuốc. Nơi cuối trời, bếp lửa gia đình mờ mịt cuối phưong Nam…

Chiến tranh càng ngày càng nghiệt ngã. Quê hương, sông núi quặn chìm trong bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam hết lớp này đến lớp khác gục ngã, hy sinh trên núi trên rừng, trên ruộng trên nương… lấy xương trắng máu đào để bảo vệ miền Nam.
Sau chiến thắng Damber, hơn nửa năm sau, một số bạn bè, đệ huynh trong trận chiến này đã lần lượt hy sinh trong mùa Hè bão lửa 1972.

Tháng 12/4/1972 Trung tá Nguyễn Đình Bảo vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh Charlie vùng ba biên giới quân khu II, sau một tuần lễ tử chiến đẫm máu với 2 Trung đoàn 64 và 48 của Sư đoàn 320 Cộng quân.

Đai úy Hoàng Ngọc Hùng ĐĐTT112/TĐ11ND hy sinh ngay trước sân nhà, nơi anh cất tiếng khóc chào đời, sống những ngày ấu thơ êm đềm ngoài Quảng Trị. trong trận chiến tái chiếm Cổ Thành 6/1972.

Chi đoàn Trưởng Thiết Kỵ “Phi Điểu” hy sinh trong trận ác chiến tại đồn điền Krek, Kampuchia.

Chi đoàn Trường Chiến xa Bắc Đẩu chiến đấu tới hơi thở cuối cùng tại Hải Lăng!

Hình ảnh các anh như đang sống lại trong tôi khi cùng nhau xông pha trận mạc.

Xin thắp nén hưong lòng để tuỏng nhớ các Anh
Trận chiến đã nằm sâu, phai nhạt dần theo tuổi đời, năm tháng, thời gian từ hơn môt phần tư thế kỷ. Nhưng vì “Nhớ bạn bè, nhớ anh em”, nên người viết cố ghi lại hình ảnh đệ huynh của một thời chiến trường xưa cũ. Xin lượng tình tha thứ nếu như có điều gì sơ sót.

MĐ Đoàn Phương Hải
Memorial Day, Bắc Cali
quangminh
Posts: 548
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by quangminh »

Image

Lời Vĩnh Biệt Muộn Màng Dành Cho Người Bạn Nhảy Dù.
Phạm Tín An Ninh.
Sáng sớm thứ Bảy, ngày 26.10. 2019, tại Công viên Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ Westminster – California, một buổi lễ vinh danh và truy điệu thật trang trọng, theo đúng lễ nghi quân cách Mỹ – Việt, do Lost Soldiers Foundation phối hợp với Tổng Hội Gia Đình Mũ Đỏ VNCH tổ chức, nhân dịp an táng hài cốt 81 tử sĩ Nhảy Dù VNCH. Điều đặc biệt là những chiến binh Nhảy Dù này đã hy sinh cách nay gần 54 năm (ngày 11.12. 1965) tại Phú Yên, Việt Nam, và hôm nay xương cốt của họ lại được an táng trên đất nước Mỹ, một đồng minh từng có nhiều ân, oán với những người lính VNCH, sau ngày buông súng oan khiên 30.4.1975. Người Mỹ gọi 81 thiên thần mũ đỏ này là ‘những chiến sĩ không còn quốc gia’, nên việc an tang của họ khá phức tạp và gặp nhiều khó khăn. Có được kết quả như hôm nay là nhờ vào tấm lòng và công lao của Cựu TNS Jim Webb, cũng là cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam. Ông đã nói với chính quyền và nhân dân Hoa Kỳ:

‘Chúng ta không chỉ chăm sóc cho những người chết của chúng ta mà còn phải chăm sóc cho từng chiến sĩ VNCH đã từng chiến đấu với chúng ta. Những người lính vô danh này xứng đáng được tưởng nhớ vì danh dự và nhân phẩm của họ.’

Từ Bắc Âu sang tham dự, không những để tiễn đưa và truy niệm những chiến sĩ của một binh chủng thiện chiến, anh hùng, mà tôi còn chào vĩnh biệt hai người bạn cùng chung số phận, một người là đồng môn dưới mái trường trung học Võ Tánh, Nha Trang: cố Đại úy Phan Ngọc Bích; và một người đặc biệt khác, là bạn thân cùng Khóa 18 Thủ Đức, cùng một trung đội 14/4 Sinh Viên Sĩ Quan, và nằm cạnh bên nhau trong suốt thời gian ở quân trường: Cố Thiếu úy Dương Văn Chánh.

Dương Văn Chánh sinh ngày 08.01.1940 tại Thanh Hóa, là em út trong gia đình gồm năm anh chị em vốn có liên hệ mật thiết với Binh chủng Nhảy Dù. Người chị cả, Dương Thị Kim Thanh, từng là một trong bảy nữ quân nhân Nhảy Dù đầu tiên. Bà cũng là phu nhân của cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, là Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn (tiền thân của Sư Đoàn) Nhảy Dù (1962), Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù (1964), trước khi trở thành Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh (1967), đơn vị mà tôi đã phục vụ suốt 10 năm binh nghiệp. Hai ông bà đều hy sinh tại Quảng Đức vào ngày 08.9.1968, khi phi cơ trực thăng chở ông bà bị bốc cháy, khoảng 10 phút sau khi rời tiền đồn Đức Lập, nơi ông bà vừa đến thăm viếng, ủy lạo binh sĩ.

Thời đi học, Dương Văn Chánh học ở trường Chasseloup-Laubat, rồi Tabert Saigon và cũng là một tráng sinh Hướng Đạo Việt Nam. Đang học năm thứ hai Luật Khoa, xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ, vào khóa 18 Thủ Đức, ở cùng Trung đội 14/ Đại dội 4 SVSQ với tôi và nằm gần nhau. Chánh có vóc người trung bình, nhưng rắn rỏi da ngăm đen, giọng khàn khàn, nhìn có vẽ nghiêm nghị, nhưng lại rất vui tính, nghịch ngầm và luôn tận tình giúp đỡ anh em. Ra trường ngày 18. 3, 1965 được chọn về Binh chủng Nhảy Dù. Sau khi tốt nghiệp Khóa Căn Bản Nhảy Dù, Chánh được bổ nhậm về làm trung đội trưởng của TĐ7ND, đơn vị trực thuộc Chiến Đoàn 2 ND, mà Trung Tá Trương Quang Ân đang làm Chiến Đoàn Trưởng. Chánh bị thương khá nặng ngay trong trận đánh đầu đời, trận Đồng Xoài vào giữa tháng 6, 1965. Lần đầu tiên Cộng quân đã sử dụng một lực lượng tương đương cấp sư đoàn. Với quân số và trang bị quá chênh lệch, Tiểu Đoàn 7 ND bị tổn thất nặng nề. Khi Chánh vừa bò ra khỏi hầm thì một trái pháo địch rơi ngay vào hầm giết chết 2 bình sĩ còn lại trong đó, mọi đồng đội đều tưởng cả ba người đã tan xác nên báo cáo Chánh tử trận. Chánh và một số chiến sĩ Nhảy Dù phải lẩn trốn trong rừng, ba ngày sau mới tìm về trình diện đơn vị. Trong thời gian dưỡng thương, anh được về ở với gia đình cha mẹ, gần Bệnh Viện Chợ Rẫy. Không ngờ đó cũng là những ngày cuối cùng gia đình nhìn thấy Chánh trước khi anh lên đường tham chiến tại Cao Nguyên, để rồi không bao giờ trở lại.

Vào ngày 11.12.1965, chiếc vận tải cơ C-123 của Không Lực Hoa Kỳ có số đuôi 64376 do Thiếu Tá Robert M. Horsky lái. Chiếc máy bay có phi hành đoàn gồm bốn quân nhân Hoa Kỳ, chở theo 81 chiến binh thuộc Đại Đội 72ND với đầy đủ vũ khí, đạn dược, trên đường từ phi trường Pleiku bay về Tuy Hòa, nhằm mở cuộc hành quân tiếp ứng, giải vây cho một lực lượng của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn bị Cộng quân vây hãm. Khoảng cách chỉ khoảng một giờ bay, nhưng chuyến bay đã không bao giờ đến đích.

Phi cơ cất cánh lúc 10 giờ 18 phút sáng, nhưng sau đó mọi điện đàm bị mất và trên màn hình radar không lưu cũng không còn dấu vết chiếc vận tải cơ C 123 này. Ngay sau đó, Hoa Kỳ đã cho máy bay trinh sát đi tìm dấu vết phi cơ lâm nạn. Sau ba ngày liên tiếp tìm kiếm nhưng không kết quả vì sương mù dầy đặc nên phải tạm ngưng. Bảy ngày sau, từ trên phi cơ trinh sát, toán tìm kiếm đã phát hiện chiếc phi cơ lâm nạn bị gẫy nát nằm trên một triền (đỉnh) núi ở phía Tây Nam và cách Tuy Hòa khoảng 20 dặm. Nhưng vì địa thế hiểm trở, sương mù vây phủ, lại nằm trong vùng địch nên không thể lấy xác được.

Chánh cùng 80 đồng đội được báo cáo mất tích. Gia đình nhận dược “Tờ Trình Ủy Khúc” và vẫn nuôi hy vọng là có thể Chánh bị bắt để sẽ được trao đổi tù binh. Bạn bè cùng khóa vẫn tưởng là Chánh đã hy sinh từ tháng 6.1965 trong trận Đồng Xoài, và là người tử trận đầu tiên trong số 40 SVSQ thuộc Trung Đội 14/4 của Khóa 18 chúng tôi.

Sau này, khi phục vụ tại Sư Đoàn 23 BB mà Chuẩn Tướng Trương Quang Ân là tư lệnh, tôi có nhiều dịp được gặp ông, và một vài lần được nói chuyện với bà Dương Thị Kim Thanh, phu nhân của ông, trong các dịp ông bà đến ủy lạo đơn vị hay thăm viếng trại gia binh, một đôi lần định hỏi thăm về Chánh, nhưng tôi ngại không dám.

Khi ra hải ngoại, tôi bắt đầu tập tành viết lách, kể về những kỷ niệm quân trường, bè bạn, trong đó có nhắc tới Dương Văn Chánh, viết về đơn vị, về vị tư lệnh đặc biệt tạo nên nhiều giai thoại, về những cuộc hành quân và cái chết của ông bà Tư lệnh Trương Quang Ân. Không ngờ các anh chị của Chánh lại là độc giả. Anh Dương Văn Hóa, là anh cả của Chánh, em kế của bà Dương Thị Kim Thanh, định cư ở Canada, liên lạc với tôi nhiều lần, và có lần sang thăm Vương quốc Na Uy, nơi gia đình tôi sinh sống, nhưng tiếc là đúng vào lúc tôi đang nghỉ hè ở Tây Ban Nha, nên không được gặp. Biết tôi là bạn thân của Chánh, người em út bất hạnh của gia đình, anh chị càng quí mến tôi hơn.

Đầu tháng 10. 2019, nhận được điện thư của anh Dương Văn Hóa, báo cho biết là anh chị và gia đình sẽ sang Cali để tham dự lễ an táng hài cốt của 81 tử sĩ Nhảy Dù, trong đó có Dương Văn Chánh. Khi ấy tôi mới biết là Chánh chỉ bị trọng thương ở trận Đồng Xoài, chứ không phải tử trận như tin tức nhầm lẫn trước đây. Anh nhờ nhà văn Phan Nhật Nam và tôi theo dõi để cho anh biết chính thức các chương trình truy điệu và an táng. Anh Phan Nhật Nam là bạn đồng đội, trước đây cùng ở Đại đội 72 ND với Chánh, và họ là hai sĩ quan của Tiểu Đoàn 7 ND còn sống sót trong trận Đồng Xoài, nhưng sau đó anh Phan Nhật Nam đã chuyển đi tiểu đoàn khác, nên không tham dự cuộc hành quân tại Cao Nguyên cùng với 81 đồng đội tử nạn.

Để có thể theo dõi chính xác việc an táng và truy điệu, khi các chương trình thay đổi liên tục, tôi giới thiệu một anh bạn có sinh hoạt thường xuyên với Gia Đình Mũ Đỏ cũng như Chi Hội Nam Cali, anh cũng là một Y sĩ và nhà văn của Nhảy Dù, Bác sĩ Vĩnh Chánh. Không ngờ vợ chồng Bác sĩ Chánh cũng có mối quan hệ thân tình với anh chị Hóa, vì chị Hóa từng là học sinh của mẹ Chánh thời còn trung học và cũng là bạn cùng lớp với một người chị của Bs Vĩnh Chánh. Bs Chánh đã nhiệt tình trong việc cung cấp các tin tức cần thiết về chương trình truy điệu và an táng 81 tử sĩ Nhảy Dù vào ngày 26.10.2019, cũng như cho Ban Tổ Chức biết có sự tham dự của gia đình, gồm anh chị và các cháu của cố Thiếu úy Dương Văn Chánh, để tiếp đón và sắp xếp các nghi thức cần thiết.

Theo lời hẹn, Bs Vĩnh Chánh và tôi đón anh chị Dương Văn Hóa và vợ chồng chị Dương Thị Kim Sơn, em gái kế anh Hóa, trước Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Dù anh Hóa đã trên tuổi 85 và trước đây chưa hề gặp nhau, nhưng tôi dễ dàng nhận ra anh, bởi khuôn mặt và dáng dấp khá giống bạn tôi, Dương Văn Chánh. Trong dịp này tôi cũng được gặp cháu Trương Thị Thùy Anh, ái nữ của Ông Bà cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, đến tiễn biệt ông cậu út của mình. Thùy Anh còn có người chị, Trương Thị Trâm Anh và cậu em Trương Quang Thế Anh. Sau ngày bố mẹ mất, các cháu còn rất nhỏ, được ngoại và sau đó là Cậu mợ Hóa nuôi dưỡng.

Khi chiếc quan tài chứa hài cốt của 81 tử sĩ Nhảy Dù, phủ lá quốc kỳ VNCH, được các đồng đội Mũ Đỏ đưa vào vị trí lễ đài, giữa hai hàng chiến binh Nhảy Dù và các binh chủng bạn đứng nghiêm chào, trong tiếng nhạc tưởng niệm trầm buồn, tôi thấy anh Hóa ngậm ngùi, những dòng lệ ứa ra dưới mắt kiếng đen.

Đi theo sau chiếc quan tài, mà anh Hóa tin tưởng là có một phần xương cốt của em mình trong đó, đến nghĩa trang Westminster Memorial Park. Một buổi lễ hạ huyệt theo đúng lễ nghi quân cách. Bảy quân nhân Hải Quân Hoa Kỳ bắn 21 phát súng tiễn biệt. Lá quốc kỳ phủ trên quan tài được trịnh trọng lấy xuống, xếp lại và trao cho anh Chi Hội Trưởng Mũ Đỏ Nam Cali, thay vì trao cho anh Dương Văn Hóa, đại diện thân nhân tử sĩ, như đã dự trù. Ban Tổ Chức cho biết, có nhiều thân nhân, nên không thể chỉ trao cho một người. Một quyết định hữu lý. Duy có một điều lạ, tôi đã thưa với cựu Trung Tá Bác sĩ Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ Tịch Gia Đình Mũ Đỏ Trung Ương, không hiểu tại sao trong suốt hai buổi lễ, truy điệu và an táng, không thấy Ban Tổ Chức nhắc nhở hay dành cho thân nhân của các tử sĩ hiện diện một hình thức nào, ngay cả được rãi nắm đất hay cành hoa xuống huyệt mộ, trên chiếc quan tài, trước khi lấp đất. Bác sĩ Hiệp cho biết ban đầu các chi tiết này có trong chương trình, nhưng giờ chót không hiểu vì sao Ban Tổ Chức (LSF) đã hủy bỏ, vì vậy Gia Đình Mũ Đỏ sẽ tổ chức riêng buổi thắp nến cầu nguyện ngay buổi tối hôm ấy, đặc biệt dành cho thân nhân của những tử sĩ Nhảy Dù. Một việc làm đầy nghĩa tình của Gia Đình Mũ Đỏ, rất đáng được ngợi ca.

Buổi tối, lễ thắp nến và cầu nguyện đã diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động. Tất cả đèn điện đều tắt, hơn 500 ngọn nến trên tay của những người tham dự, tạo nên một khung cảnh huyền nhiệm. Thân nhân tử sĩ được mời lên trước lễ đài niệm hương trong khi ban tế lễ đọc bài văn tế trong tiếng chiên trống chiêu hồn tử sĩ. Anh Dương Văn Hóa đã đại diện những thân nhân, nói lên cảm tưởng của mình:

‘Xin thay mặt gia đình cố Thiếu Úy Dương Văn Chánh, chúng tôi xin vô vàn cảm ơn quý vị Gia Đình Mũ Đỏ đã bỏ nhiều công sức để tổ chức lễ truy điệu, an táng và đêm thắp nến tưởng niệm cho 81 chiến sĩ Nhảy Dù đã lâm nạn vào Tháng Mười Hai, 1965, trong đó có em trai út của chúng tôi là Dương Văn Chánh.

(Lễ truy điệu và đọc văn tế)

Chánh tốt nghiệp khóa 18 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, chọn phục vụ trong Binh Chủng Nhảy Dù theo vết chân của chị chúng tôi là cố Chuẩn Úy Nhảy Dù Dương Thị Kim Thanh, một trong bảy nữ quân nhân Nhảy Dù đầu tiên của Quân Lực VNCH, và anh rể là cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, cựu chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù, và là cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Cả hai anh chị chúng tôi đã tử nạn trong chuyến bay trực thăng thị sát mặt trận Đức Lập vào Tháng Tám, 1968.

Trong đau buồn, gia đình chúng tôi vẫn rất mừng là cuối cùng sau 54 năm, cái chết trên đường thi hành nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc của em trai chúng tôi và 80 đồng đội Nhảy Dù đã được mọi người quan tâm, nhất là cựu Thượng Nghị Sĩ James Webb, tổ chức Lost Soldier Foundation và Đại Gia Đình Mũ Đỏ VNCH Hải Ngoại đã tận tâm tổ chức cho những tử sĩ này một buổi lễ truy điệu trang trọng, một nơi an nghỉ ấm áp trong lòng đất của thủ đô tị nạn Little Saigon.’

Trong mấy ngày lưu lại Nam Cali, anh chị Hóa thường gặp gỡ, tâm tình cùng tôi và Bs Vĩnh Chánh. Anh chị xem chúng tôi như em, dành cho chúng tôi tình cảm thương quí mà anh đã từng dành cho Dương Văn Chánh, đứa em út của anh chị đã bỏ lại gia đình khi tuổi còn rất trẻ, cũng là người bạn thân của tôi trong suốt thời gian ở quân trường, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức cùng với bao điều mất mát tang thương khác.

Trước khi anh chị Hóa rời Cali, tôi và Bs Vĩnh Chánh cùng đưa anh chị Hóa đến nghĩa trang WMP thắp hương trước mộ Chánh cùng 80 tử sĩ đồng đội của anh, giờ đã thực sự yên nghỉ trên một đất nước tự do và trong vòng tay yêu thương của tất cả đồng đội, đồng bào.

Khi nói lời tạm biệt, anh Hóa cầm tay tôi thật lâu, cả hai anh em đều xúc động. Nhìn khuôn mặt và dáng dấp của anh, tôi có cảm giác như đang bắt tay với Dương Văn Chánh trong ngày chia tay rời khỏi quân trường, mỗi thằng sẽ đi mỗi ngã, về những vùng lửa đạn, để rồi sau 54 năm mới gặp lại trong một hoàn cảnh âm dương cách trở như hôm nay. Bước tới trước mộ bia, đứng nghiêm đưa tay chào, tôi thì thầm:

–“Vĩnh biệt các anh – Vĩnh biệt Dương Văn Chánh!”

Bất chợt, một cơn gió lốc bỗng từ đâu ào đến, cuốn theo mấy cánh hoa trên mộ bay vút lên nền trời xanh

Phạm Tín An Ninh
(29.10.2019)
Nguồn: http://phamtinanninh.com/?p=4320
hoangphong
Posts: 365
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Image

Người Lính Già Trên Chuyến Tàu Đêm
Nguyên Nhung

Con tàu chuyển mình ra khỏi ga Hoà Hưng vào lúc hoàng hôn, đuổi theo là những mảng mây tím trên nền trời. Sài Gòn nằm lại đằng sau với phố phường rực rỡ ánh đèn, xe cộ chen nhau trên đường phố, nóng và bụi khiến con người tưởng như đang chìm lỉm trong bầu không khí đặc quánh đầy ô nhiễm.

Hơn mười năm trở lại quê nhà, lúc bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất, buổi xế trưa trời nóng bức, không khí ngột ngạt. Ông Bảo lặng lẽ nối đuôi sau đám hành khách đang lục tục xếp hàng làm thủ tục hải quan, mồ hôi vã ra đầy người. Người về lặng lẽ chờ, cảm giác có nôn nao nhưng không láo nháo bằng đám người nhà đang đứng ở phía ngoài chờ đợi thân nhân. Khi ngồi trên chiếc taxi chạy ra khỏi phi trường, ông Bảo mới ngỡ ngàng nhìn một Sài Gòn thay hình đổi dạng. Sài Gòn đây rồi, hơn mười năm biền biệt vắng xa, ông Bảo cố tìm lại vài nơi chốn quen ngày xưa khi chiếc xe tắc xi len lỏi trong dòng xe đầy nghẹt trên đường phố.

Thay đổi nhiều, nhưng ông Bảo không phải về để tìm điều gì trong cái thành phố diện tích chật chội với tám triệu người dân, đang chen chúc nhau gần như không có không khí để thở. Ông chỉ lướt qua Sài Gòn, rồi về nghỉ ở nhà bà con vùng ngoại ô thành phố, chờ chuyến xe lửa ra Trung, ở đó có bà mẹ già của ông đang thoi thóp những ngày cuối đời chờ đứa con xa trở về.

Đã quen với những xa lộ thênh thang của nước Mỹ, những khu nhà ở cách xa nhau nằm ẩn mình sau những bóng cây xanh, phố xá cũng ít bộ hành trên đường phố. Ông Bảo cảm thấy hơi ngộp thở trước cái nóng, cái bụi, cái ngột ngạt của một Sài Gòn đang chuyển mình để ngoi lên với những đô thị lớn trên thế giới.

Hồi xưa ông ít khi có dịp về Sài Gòn, bởi thế với ông sự thay đổi ấy không làm ông choáng ngợp bao nhiêu. Mười hai năm ở quê người, mỗi lần nhớ về quê hương, trong óc ông hỗn độn nhiều hình ảnh khắp ba miền đất nước, nhưng quả đáng tội, hồi niên thiếu ông sống ở miền Trung, dải đất nghèo nhất trong ba miền Trung Nam Bắc, đã để lại nhiều nỗi nhớ sâu đậm trong lòng ông, dù ông được sinh ra ở miền Bắc.

oOo

Trời dần tối, những vì sao giờ này mới nhấp nháy trên nền trời tối thẫm như nhung. Bỏ lại Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, thành phố ánh sáng của những người giàu và cũng nơi trú ẩn cho những người nghèo trong những hẻm hóc tối tăm không bình yên. Nơi nào cũng vậy, ở Mỹ người ta vẫn có thể bắt gặp được những hình ảnh tương phản của sự nghèo giàu, nhưng không quá chênh lệch như ở Việt Nam. Chẳng cần nhìn đâu xa, ngay trên chuyến tàu này, những người như ông từ nước ngoài về, những du khách ngoại quốc muốn tìm cảm giác cuả chuyến tàu đêm, hoặc những người thành phần khá giả ở trong nước thường vẫn kiếm một chỗ khá đầy đủ tiện nghi trên xe lửa. Còn ở những toa tàu ngồi, giữa khoảng trống cuả hai hàng ghế, lổn nhổn những chân cẳng và hành lý ngổn ngang, người đi tàu đang thu dọn để tìm một chỗ nghỉ lưng suốt đoạn đường dài ra Trung, Bắc. Toa ông ở có bốn người, hai anh Tây ba lô đi du lịch Việt Nam, một người Việt có vẻ thuộc hạng khấm khá về thăm nhà ngoài Trung. Khi vào phòng, loại giường hai tầng khá bất tiện khi ban đêm có người lục đục trèo xuống để ra ngoài. Mọi người chỉ gật đầu mỉm cười với nhau rồi tìm chỗ của mình. Chiếc giường nệm trắng toát, có bàn để ngồi uống trà, vài cuốn quảng cáo về du lịch để trên mặt bàn, ông bỗng nghe tiếng nhạc dặt dìu vang lên , có lẽ từ lúc chuyến tàu đêm chuyển bánh mà ông không để ý.

Quái lạ! Bản nhạc "Tàu Đêm Năm Cũ" được một cô ca sĩ có giọng trầm buồn vẫn lồng lộng vang lên trên chuyến tàu đêm ra miền Trung, khiến ông bàng hoàng lặng đi một chút khi nghĩ về những cảnh chia ly trên sân ga hiu hắt ánh đèn mờ, ở những thập niên trước khi chiến tranh còn đang sôi sục.

"Trời đêm dần tàn, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính về ngàn, tàu cũ năm xưa mang về trả cho tôi người xưa..."

Thốt nhiên, ông nghe mắt mình nằng nặng, cảm giác những chuyến tàu đêm năm cũ hồi ông còn là một người lính bỗng ào ạt trở lại, như là ông lại một lần nữa nhìn thấy bóng dáng người lính năm xưa, bùi ngùi nắm tay người yêu trước giờ chia biệt. Và tiếng còi tàu, ôi tiếng còi tàu sao lúc ấy nó não nùng như hồi kèn truy điệu. Ông vội nhắm mắt lại để đừng nghĩ gì nữa. Chung quanh ông còn lại gì, chập chờn ảo giác cuả những hình xưa trở lại. Không, ông vẫn đứng đây, bên khung cửa sổ cuả toa tầu hạng nhất, tóc đã bạc, đôi mắt sụp mí khi về già, nhìn mải miết vào bóng đêm mịt mùng để tìm lại những hình bóng cũ.

Con tàu tăng tốc độ, hé mở cửa sổ phía bên ngoài ông không nhìn rõ gì lắm, chỉ nghe vù vù tiếng gió đêm thổi bạt hai bên tai. Có lẽ sau hai tiếng đồng hồ hay hơn một chút, ông lại thấy con tàu đi vào khu thành phố rực ánh đèn. Khung cửa lưới của toa tàu khá rộng, hai người Tây ba lô đang nhai mỗi anh một ổ bánh mì thịt, vừa rù rì nói chuyện, người đàn ông Việt Nam cùng phòng cũng đứng ở đó từ bao giờ, ngắm cảnh lên xuống ở sân ga. Ông quay sang người bạn đồng hành hỏi trỏng:

"Đây là đâu nhỉ?"

Ông ta cũng trả lời trống không, giọng miền Bắc:

"Tới Long Khánh rồi". Rồi nhìn đồng hồ ông ta tiếp:

"Hơn chín giờ. Ông về đâu?"

"Tôi ra Quảng Ngãi."

Ông trả lời vắn tắt. Người khách tò mò hỏi thêm:

"Ông từ nước ngoài về?"

Ông lắc đầu, nói "Không, không". Có gì chứng minh được ông là người xa quê mới về thăm nhà, bộ quần áo tầm thường khiến ông trông giống một người lính già đã giải ngũ hơn là một Việt Kiều về thăm quê. Mà ông chính là người lính già về thăm quê thật, cho là cái lằn Nam, Bắc nằm chình ình ngay chính giữa, thì ông vẫn chỉ là một người lính già không hơn không kém.

Bốn chữ "Nhà Ga Long Khánh" lộng lẫy đóng khung trong những bóng đèn xanh đỏ đập vào mắt ông, khiến ông chợt buồn rầu khi nhớ rằng có một thời vợ ông đã vất vả đi lên đi xuống cái sân ga này. Từ đây đi thêm một cuốc xe "Lam" nữa, cách thị xã khoảng mười cây số. Hai bên đường là những làng mạc của dân di cư miền Bắc, đi khoảng 2 cây số là đã thấy nhà thờ. Chỗ đấy có một trại tù, ngày xưa vợ ông đã đi tìm chồng hú họa ở cái địa chỉ mang những con số đầy bí ẩn và tối tăm như đời tù tội của ông.

Gần ba mươi năm trước, vợ ông giả dạng thành một người bán rong gánh trái cây lặn lội lên Long Giao tìm chồng. Long Giao là căn cứ quân sự cuả sư đoàn 18 Bộ Binh để lại, khu quân sự rộng lớn bao xung quanh là những con đường đất đỏ bụi mù. Sau vùng này trồng chuối bạt ngàn xen lẫn với những vườn tiêu của dân địa phương, len lỏi vào khu vườn chuối là những con đường đất nóng bỏng.

Năm đầu ở Long Giao, vợ ông vẫn bỏ lũ con thơ ở nhà, đi tìm chồng với cái hy vọng mong manh là tìm được chồng trong đám đàn ông ngày ngày vác cuốc đi lao động xung quanh trại. Mỗi lần đi, bà lại quảy trên vai một đôi gánh, dưới thúng đựng dăm thứ đồ ăn tiếp tế, trên chiếc mẹt ngụy trang vài thứ trái cây. Từ một khoảng xa đến hai lớp hàng rào kẽm gai, đám đàn ông thất trận ngừng tay cuốc ngóng mắt nhìn theo một đám phụ nữ dáng dấp thon thả đang lố nhố đứng ngoài khu vườn chuối ngó vào. Kẻ ngóng ra, người ngó vào, bụi và nắng nhấp nhoá nên khó nhận ra nhau, thỉnh thoảng đám phụ nữ trẻ lại mon men xấn vào gần hàng rào kẽm gai để được gần gũi hơn đám tù đang cuốc đất, lại bị đuổi ra xa như một bầy gà nhao nhác. "Làm sao gần được em ơi, hai hàng rào kẽm gai với lại những câv súng kè kè như vậy". Họ í ới gọi nhau hỏi chuyện, lần ấy may mắn ông đã nhận ra vợ trong chiếc áo cánh trắng, trên đôi vai nhỏ bé là đôi đòn gánh mà ông không hiểu làm sao vợ ông lại có thể gánh được, khi từ bé đến lớn bà chưa hề biết gồng gánh là gì. "Cạn ao thì bèo xuống đất", ông thương vợ quá, nhưng cũng phải công nhận sự khéo léo và nhẫn nhục cuả vợ trong thời buổi nhiễu nhương ấy.

Chỉ lần ấy thôi vợ chồng nhìn thấy nhau để rồi ông lên đường ra Bắc. Đêm ấy khi ngồi trong chiếc xe bịt bùng để đi xa, ông có nghe tiếng còi tàu. Tiếng còi rúc lên lạnh lùng như tiễn biệt, lòng ông quặn đau khi nghĩ đến vợ con. Sau này ông có nghe bà kể, nhà ở gần sân ga, chiều nào bà cũng tìm một nơi yên lặng để ngóng tiếng còi tàu, cứ hy vọng con tàu ấy sẽ là chuyến tàu đêm năm cũ trở về sân ga, có ông tàn tạ trở về với bà và lũ con.

Mới đó mà gần ba mươi năm. Mười ba năm trong tù ông không quên. Giờ này khi tàu ngừng trên sân ga Long Khánh, ông vẫn nhớ cái khởi đầu cuả một cuộc hành trình mười ba năm ông bị bứt ra khỏi mái ấm gia đình. Hú vía! Ông còn đây, thân hình có tiều tuỵ nhưng vẫn còn đây, ông sờ vào hai lỗ tai lạnh để biết rằng mình vẫn còn đây, người tù mười ba năm vẫn còn đây, với những vết sẹo đã lành da vẫn ngứa ngáy một cách dị kỳ khi nhớ lại...

Sau thời gian dừng lại để khách lên khách xuống, con tàu lại rùng rùng chuyển bánh, ông để ý hễ tàu đến tàu đi, đều có kèm theo một hồi còi rất dài,nó kêu tu tu trong đêm vắng, buồn thắt ruột. Nhạc lại vang vang trong đầu ông, toàn những bản đã cũ:

"...Chiều nay có phải anh ra miền Trung, về thăm xứ mẹ cho em về cùng. Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu..."

Tiếng hát vang vang một âm điệu rộn rã, những bản nhạc một thời viết cho lính lại được sống lại trong chuyến tàu đêm. Giờ này ở đây chỉ có người lính già đi tìm quá khứ, dường như những người lính sống hay chết đã đồng loạt tử trận từ tháng Tư năm ấy. Ông rút một điếu thuốc phì phà trong bóng tối, đốm lửa lập loè như lóe sáng dậy một thời trẻ tuổi. Con tàu trong đêm tối cứ băng mình lặng lẽ xập xình đi vào vùng biển mặn, hình như có mùi nước mắm biển Phan Thiết quyện trong gió. Trong đêm tối, mắt ông không nhìn thấy gì vì cảnh vật mập mờ, nhưng ông đánh hơi được nơi chốn bằng khứu giác.

Tàu lại vào sân ga, người lên kẻ xuống, những người bán hàng rong và người đi tàu đang kỳ kèo trả giá những túi khô mực, những thùng nước mắm. Ông nhớ những lần nhậu thâu đêm suốt sáng với bạn bè, con khô nướng vội và những chai bia 33 lăn lóc dưới gầm bàn, ngả nghiêng đi về với một vầng trăng khuya. Vậy mà không ngã, vẫn ngất ngưởng đi về đến nơi đến chốn. Thời ấy hết rồi, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang chỉ là những nơi ghé vào ngắn hạn, nhưng ông nhớ hoài mùi biển mặn. Nhớ xa hơn một chút về biển, chuyến tàu Hải Quân cuối cùng từ bãi biển Đà Nẵng lui về phương Nam, hỗn độn, chen lấn, quan không ra quan , quân chẳng ra quân, chuyến ấy ông mất sạch sành sanh, khi về đến Vũng Tàu mỗi người chỉ còn cái túi vải đeo trên vai, vài bộ quần áo, đúng là "trên răng, dưới ...dế". Ông nhớ ngày hôm ấy, chiếc xà lan quá tải ngả nghiêng trên mặt biển, người ta rơi lõm tõm xuống nước, chết vô số. Ôi lại biển, kinh khủng lắm, hễ nếm phải nước biển là ông lại nghĩ đến hương vị nước mắt, hai thứ ấy nó giống nhau lạ lùng.

Nha Trang biển đêm vẫn rì rào sóng vỗ, từ xa đã nghe được tiếng sóng, ngửi được mùi biển mặn. Chỉ tiếc là lúc ấy đã khuya, ông không nhìn thấy gì bằng cách lại đánh hơi ra những nẻo đường quê hương bằng khứu giác, bằng đôi mắt lập lờ nhìn không rõ cuả tuổi già. Ông đi vào giường nằm nhưng vẫn không ngủ được. Trằn trọc, thao thức, chiếc giường êm ái làm ông lại nhớ tới chuyến tàu về Nam cách đây trên hai mươi năm, ông và người bạn tù xa lạ kết tình "huynh đệ" nhờ chiếc còng gắn vào cổ tay hai người. Đêm tối, anh bạn tù bàn tay nhỏ nhắn, rút được cái tay ra khỏi còng, vì thế mà ông được giải thoát một chặng đường dài. Kỷ niệm ấy ông nhớ mãi... Bây giờ anh ta trôi dạt về đâu nhỉ?

"Một đêm muà hè, tôi đến sân ga đi đón người trai lính trở về. Tàu cũ đêm nay có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây..."

Giọng ca buồn buồn của cô ca sĩ vẫn nỉ non suốt đoạn đường dài, hình như tàu mỗi lúc một đi nhanh hơn khi ra ngoài vùng đồng quê, đã thấp thoáng những rừng dừa bạt ngàn để bước vào ranh giới tỉnh Bình Định. Bây giờ thì dường như trong ký ức cuả người lính già, kỷ niệm lần lượt trở về rõ mồn một, khổ nỗi lại chỉ toàn kỷ niệm thời chinh chiến. Năm 72, những trận đánh ác liệt nhất đã diễn ra ở đây, trở ra những vùng khốc liệt như Sa Huỳnh, Đức Phổ, Mộ Đức. Đơn vị thám sát cuả ông toàn là những người lính tiên phong cảm tử đi vào miền đất chết, trước khi quân bạn được dàn trận đi đằng sau.

Trong bóng đêm mập mờ, mỗi một bến ga ông lại thấy mình gần gũi với kỷ niệm thời quân ngũ. Những địa danh gợi nhớ đến quay quắt từng vuông rừng, từng hốc núi, từng ngọn đồi hay những trảng cỏ tranh cao hơn đầu người. Màu xanh cuả rừng dừa Tam Quan vẫn không là cảnh đẹp yên bình để người lính mơ mộng, nó rình rập nỗi chết trong đó. Bồng Sơn, Quế Sơn, tên đẹp chi lạ mà đầy oan khiên của máu và nước mắt. Tàu ra khỏi Qui Nhơn, khoảng hai giờ sáng là đến Sa Huỳnh, rặng núi biếc giờ này đã tối đen khi con tàu chui qua lòng núi càng đen kịt lại như mực, giá ban ngày ông đã có thể thấy những đồi cát, những mảng rừng thưa bông cỏ lau trắng xoá tiếp giáp để đi vào ranh giới Quảng Ngãi. Ngày xưa, ông đã mòn gót giày trên những vùng đất chỉ có những bom đạn và nỗi chết, những đồng cỏ lau trắng xoá buồn u uẩn như người goá phụ đôi mươi quấn chiếc khăn tang trên đầu.

Vẫn nghe như hơi gió biển thổi qua triền núi thấp, vẫn nghe như hằng nghìn âm thanh thì thầm của những hồn xưa sống dậy. Những ngôi sao sáng và một mảnh trăng khuya, ở nhữnng vùng hiu quạnh hình như nền trời bỗng sáng hơn. Ông dùng thêm ly cà phê đen để đầu óc được tỉnh táo, mắt ông cay xè vì thiếu ngủ nhiều đêm, nhưng vẫn không làm sao ngủ được. Gần ba mươi năm mới có một đêm như đêm nay, trở về những vùng đất thân yêu đã gắn liền với ông suốt thời trai trẻ. Trong khung cửa sổ của toa tàu chỉ mình ông đứng đó, hai gã Tây ba lô đã ngủ say, còn người đàn ông kia chắc quá quen với đoạn đường này, ông nghe tiếng ngáy nho nhỏ vang lên trong buồng tàu.

Con tàu cứ lầm lũi băng mình trong đêm tối, thỉnh thoảng lại tu tu lên khóc. Nhất là ban đêm, giữa cảnh huyền hoặc của một nửa vầng trăng và những ngôi sao, gió thổi vù vù khi con tàu đi vào núi rừng miền Trung, ông gần như sống lại hoàn toàn cảm giác cuả đời lính thám sát nơi chiến trường miền Trung trên ba mươi năm trước. Cảm giác lần này lạ hơn, có lẽ vì ám ảnh chuyện cũ, ông nhìn những cành cây lay động dưới ánh trăng mờ khi con tàu vùn vụt đi qua, mà cứ ngỡ là những cánh tay của bao linh hồn anh em đồng đội năm xưa, đang vẫy tay đón ông về thăm chốn cũ. Thế giới vô hình làm sao hiểu được, nếu hiểu được người ta đã chẳng phải than khóc trước sự ra đi vĩnh viễn cuả người thân hay bè bạn.

Sa Huỳnh ơi! Nhớ quá đi thôi mặt trận đêm ấy. Những người lính thám sát lầm lũi đi trong bóng tối, những ụ đất ngày xưa giờ đã xanh cỏ, những vạch đạn cứa vào bóng đêm ghim vào cây cỏ, vào thân thể người lính đang di động trong đêm, tiếng rên la của người lính bị thương đòi uống nước.

"Nước, cho xin hớp nước..."

Tiếng rên rỉ đau đớn và đứt đoạn cuả người đàn em bị trúng đạn đòi xin hớp nước giờ này hình như cứ vọng mãi trong đầu ông. Ông nhớ những đêm hành quân trời mưa rét cóng, lúc hai bên im tiếng súng rút vào cố thủ, lúc dừng quân ông được một người lính tiếp vụ đưa cho ly cà phê đựng trong chiếc ca sắt nóng hổi. Chưa bao giờ có một thứ cà phê nào ngon bằng hôm ấy, nó làm ông tỉnh táo và lòng ngập tràn tình thương yêu đồng đội, gắn bó với nhau trong nhiều khoảnh khắc chết sống của đời người. Ôi những ngày như thế, bạn bè ông, đồng đội cuả ông đã ra đi mà dường như vẫn thèm rít một hơi thuốc cuối cùng, khônng biết ở cõi bên kia linh hồn họ có tìm lại được mùi cà phê, hơi thuốc lá như cõi dương gian này không?

Ở đây, khi cuộc hành quân tạm yên, ít nhiều gì đơn vị ông hay đơn vị bạn cũng bỏ lại rừng xanh những dòng máu đỏ, những bàn tay, cái chân cho cuộc chiến ấy, chưa kể có những người đã ra đi vào miền đất lạnh. Thiếu uý Kha, trung uý Điền, trung sĩ Nghiã, những người đàn em dễ thương mà ông còn nhớ, họ chết ở đây, trong đám rừng đen đặc kia. Ông nhớ lúc ấy đã vét túi tìm gói thuốc "Quân Tiếp Vụ", chỉ còn duy nhất một điếu cong queo, ông vuốt lại cho thẳng rồi gắn lên môi người đàn em bị thương nặng, làm món quà tiễn chân kẻ ra đi không bao giờ trở về. Điếu thuốc cuối cùng ấy là món quà quý dành cho người sắp chết, ông thèm lắm mà không dám hút. Ông giơ tay vuốt mắt cho người lính cùng đơn vị, mắt cũng cay xè...

Tiếng gió giữa canh trường qua rừng cây đen thẫm như tiếng reo cuả linh hồn những ngươì đàn anh, đàn em năm cũ vọng u u trong đầu, ông thấy nước mắt mình trào ra ướt đẫm trên má. Ông thò tay vào túi, gói thuốc còn nguyên, ông bóc gói thuốc rồi nâng lên trước mặt thì thầm nói một mình:

"Hút, hút đi các bạn, hút cho thoả trước khi để linh hồn tan vào cõi hư vô."

Ông ném từng điếu thuốc vào cái khối đen ngòm của rừng cây ven đường, không thét ra được khỏi lồng ngực phập phồng hai lá phổi héo, nhưng trong đầu ông lồng lộng:

"Hết chiến tranh rồi. Hết lâu rồi các bạn ơi! Thuốc đây, hút đi, hút đi rồi các bạn muốn đi đâu thì đi. Đừng ở lại đây nữa..."

Những điếu thuốc bay lả tả theo đường tàu, nước mắt ông cứ trào ra ướt đầm trên má, nhỏ giọt xuống trên thân áo. Vô tình hay cố ý, đêm nay ông về thăm lại chốn cũ, phong phanh chiếc áo sơ mi và chiếc quần màu ô liu, y như một người lính kỳ nghỉ phép về thăm nhà. Tiếng nhạc lại vang vang trong đầu người lính cũ:

"Ngày tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày nào. Tàu cũ năm xưa có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây, viết lại câu chuyện này..."

Ông bịt hai lỗ tai để đừng nghe âm thanh rên rỉ buồn buồn cuả bài hát lập đi lập lại trong đầu ông trên chuyến tàu đêm. Tạm biệt các bạn thân quý của tôi, ba mươi năm gặp lại nhau như thế đủ rồi, khi ra đi đầu các bạn còn xanh, nay trở về đầu tôi đã bạc. Khác nhiều lắm rồi, những mỏm đất, những đồi cỏ, những rừng dầy, rừng thưa, đã phủ kín một màu xanh, cho quê hương thôi máu lửa...

Ba mươi năm sau cuộc chiến, người lính năm xưa đã hy sinh còn để lại những gì cho Tổ Quốc. Ngoài những vết sẹo kéo da non của người còn sống, ông Bảo chạnh nghĩ đến những thương binh đã lây lất sống nốt đời mình trên vỉa hè thành phố, dựa dẫm vào vợ con để thành một gánh nặng buồn tủi. Thế còn những đứa con của người tử sĩ thì sao? Trung uý Điền xuất thân trường Đà Lạt, khi chết trận bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ, trung sĩ Nghĩa có một đứa con không biết là trai hay gái trong bụng vợ. Gia tài người lính để lại chỉ có chiếc ba lô, đựng dăm thứ lặt vặt cho những cuộc hành quân dài ngày nơi rừng núi, khi nằm xuống họ đã kéo theo sau lưng mình sự đổ vỡ, tan tác, rách nát, thảm thương của một hệ luỵ máu thịt cùng chịu chung số phận...

oOo

Bình minh đã lên, ở miền nhiệt đới bình minh bao giờ cũng dậy sớm, chuyến tàu đi qua những quận lỵ cũ để vào thị xã. Lúc tàu đi ngang Đức Phổ, Mộ Đức, lại những chiến trường xưa, những chiếc xe nhà binh năm cũ ở đâu trong đầu ông ào ào chở đầy lính ra mặt trận. Tàu ghé vào ga, những người bán dạo trên bến ga mời chào í ới. Nhìn đĩa xôi gà trên tay một chú bé độ 12 tuổi, mà bé choắt vì phải ra đời sớm, ông gọi mua một đĩa xôi mà không cần trả giá. Nhìn cậu bé 12 tuổi sáng sớm bưng trên tay mâm xôi đi bán dạo, cái đùi gà vàng lườm được rô ti thật hấp dẫn, ông hiểu cái nghèo đè nặng trên đầu dân tộc ông, mắt ông bỗng nằng nặng như đêm qua ông về ngang chốn cũ. Ông ăn mà không biết ngon, chỉ ăn cho đỡ đói, để tìm hương vị cũ, niềm đau cũ. Chú bé bán xôi được ông cho một món tiền lớn gấp mười đĩa xôi gà, cứ đứng trân trân nhìn ông tưởng như là phép lạ đang xảy ra trên sân ga.

"Nhìn làm gì em ơi, giá hơn mười năm trước tôi cũng làm gì dám ăn đĩa xôi gà trên tay em, chẳng phải thịt gà phong độc như dân địa phương thường nói, mà vì nghèo, cái nghèo là thứ quả báo lớn nhất mà ông Trời bắt con người phải chịu". Lúc này đầu óc ông tỉnh táo hơn, nôn nao hơn, vì ông sắp về tới gia đình, về với bà mẹ già vừa lòa vừa điếc, chưa chắc gì đã nhận ra con.

Người ta lại tấp nập lên tàu, xuống tàu. Ông ăn xong đĩa xôi, gọi một ly cà phê đá nhâm nhi nhìn kẻ lên người xuống, bỗng liên tưởng cuộc đời y hệt một chuyến tàu, mà những người lính già như ông còn ngồi lại với nỗi buồn chiến tranh đọng lại trong mỗi hồi tưởng. Đêm qua khi đi ngang Sa Huỳnh lúc hai giờ sáng, hình như ông đã gặp lại bạn bè năm xưa trở về, họ là những người đã xuống tàu ba mươi năm trước. Ba mươi năm sau trên chuyến tàu đời, những lớp người đi sau như thằng bé bán xôi, cô bé dáng học trò ngồi bán cà phê ở toa ăn uống là lớp người sau lên tàu muộn. Bây giờ nếu ông kể chuyện cũ ba mươi năm trước, chắc hẳn chúng nó sẽ tròn mắt lên mà nghe như chuyện cổ tích. Một câu chuyện cổ tích rất buồn, chỉ còn mỗi người lính già như ông ngồi lại trên chuyến tàu đêm, khắc khoải. Tiếng nhạc vẫn lồng lộng trên sân ga, không phải bài "Tàu Đêm Năm Cũ", mà nghe rất lạ, như bài cầu kinh sắp tới hồi kết thúc:

"Rồi tàu xa rời, xa rời kỷ niệm
Trả lại cho mình, nửa phần yêu thương
Tìm lại xót xa, tìm lại vui buồn
Đi vào nhân gian, với lòng yêu thương.
Đi đi, đi thấu kiếp người...
Ôi niềm đau, hỡi nỗi vui
Đi đi, đi thấu kiếp người
Đi đi, để biết khóc cười hỡi ... ơi!"

Hơn mười giờ, tàu vào ga Quảng Ngãi. Ông sốc cái ba lô trên lưng, chậm rãi chờ người ta chen chúc nhau xuống sân ga, con tàu lại tu tu lên khóc. Ông sắp về với mẹ ông, căn nhà xưa trong một ngõ nhỏ. Con ngõ này hồi xưa thế nào nay vẫn vậy, nhưng nhà cửa được nâng cao, xây dựng lại khiến thoạt nhìn tưởng mọi điều đã đổi khác.

Ông về với mẹ, biết đâu không phải là lần cuối được cầm lấy tay mẹ, tay con cũng nhăn nheo huống gì tay mẹ ông chỉ còn là một nhúm da bọc xương khẳng khiu. Mẹ ông nằm đó, chả biết ai với ai, đôi mắt loà quáng lên một vùng ánh sáng mù mờ, như ngọn đèn cạn dầu leo lét chờ tắt.

Bên cạnh bà mẹ già vừa loà, vừa điếc, vẫn không biết là có một đứa con đi xa vừa trở về. Không còn cách nào khác hơn, ông cầm lấy bàn tay nhăn nheo, gầy guộc cuả mẹ, để bà sờ mặt con với những giọt nước mắt ướt đầm trên những ngón tay. Không biết trong cõi mịt mù của đời người sắp tàn ấy, bà có sờ ra được khuôn mặt cuả đứa con từ lâu rồi không gặp.

Nguyên Nhung
hoanghoa
Posts: 2264
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Image

Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Phạm Tín An Ninh
Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.


Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng sinh viên sĩ quan Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính biệt động quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới trải qua khói lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ những khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.


Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “may còn có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!


Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chũng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là một số đơn vị Biệt Động Quân được chỉ định đi sau, ngăn chận địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.

Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị biệt động quân chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, và bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đền gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và rất nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn. Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một giấc, thức dậy thì trời vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch. Vừa rời đoàn người vài phút thì đạn pháo thi nhau rót xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính biệt động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “Đạp lên mà đi!” Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa!


Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung đến cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đang tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và không ngờ đó lại là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng kiến những người lính biệt động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.
Tiếp tục di chuyển chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo tât cả chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi bàng hoàng nhìn thấy mấy người lính biệt động quân nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc. Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nữa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẳn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo với cái giọng rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.
Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7..

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người con vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây.Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.

Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi
Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hơp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với giá rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới hơn 20 cây số.
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc của người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi.. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng Biệt Động Quân mà chồng tôi luôn mang trên vai áo. Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:
- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:
- Thằng Nguyên? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:
- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu:
- Tao là thằng Ksor Tlang,
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng:
- Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.
- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?
- Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.
- Có anh em không?
- Không.
- Anh có nhớ ngày sinh không?
- Không
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)
- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
- Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?

(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
- Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
- Cha mẹ anh đang ở đâu?
- Buôn Ban Ma Dek.
(Gã công an nhìn tôi, bảo Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
- Anh ở chung với cha mẹ anh?
- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
- Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.
Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực:
- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
- Rồi xác người lính ấy ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể sống mà không có nước.

Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi đã trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều, tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?
Phạm Tín An Ninh
(phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)
phidao
Posts: 134
Joined: Sun Sep 30, 2012 7:29 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by phidao »

HẠ SÁT TRUNG TÁ VÕ VÀNG MẶT THẬT TÀN ÁC CỘNG SẢN LỘ RÕ. -
Phạm Văn Hồng.

Lời giới thiệu:
Tác giả, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng xuất thân Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn I/Phòng 3. Ngày 16 tháng 1 năm 1974, đương sự và G. Kosh, một nhân viên của lảnh sự quán Hoa Kỳ tại Đà Nẳng có nhiệm vụ theo tàu Hải Quân VNCH ra đảo Hoàng Sa khảo sát, nghiên cứu kế hoạch thiết lập sân bay. Ba hôm sau, quân Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa, bắt tất cả quân nhân VNCH kể cả nhân viên của tòa lảnh sự Mỹ. Sau một tuần, Trung cộng đã thả người Mỹ vì lý do “nhân đạo”, và sau 29 ngày, các quân nhân VNCH mới được trả tự do. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Hồng K20 bị cộng phỉ giam trong trại lao động khổ sai hơn 8 năm ở Quảng Nam. Thiếu Tá Phạm Văn Hồng K20 là một trong những nhân chứng vụ cộng phỉ thảm sát Trung Tá Võ Vàng K17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Trân trọng.


Khi nhắc đến danh tánh cố Trung Tá Võ Vàng, cựu Sinh Viên Sĩ Quan khóa 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, có lẽ rất nhiều chiến hữu phục vụ tại vùng I chiến thuật, nhất là các chiến hữu Biệt Động Quân và người dân thị xã Huế, hẳn không ai xa lạ gì với tên tuổi của anh. Lý do dễ hiểu là vì trong biến cố Mậu Thân 1968, với trách nhiệm tái chiếm các mục tiêu từ Vĩ Dạ, Dương Nổ, Bãi Dâu và cuối cùng là Gia Hội, đơn vị anh đã đạt chiến thắng lẫy lừng và thanh toán mục tiêu trước giờ ấn định, đến nỗi người dân cố đô Huế đã hết sức cảm phục và thỉnh cầu vị Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật lưu giữ Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân mà anh là Tiểu Đoàn Trưởng ở lại thị xã để dân chúng được yên tâm sinh sống hầu tái thiết, an cư lạc nghiệp. Ý dân là ý trời, tiểu đoàn cuả anh phải "trấn thủ lưu đồn" tại vùng sông Hương, núi Ngự suốt sáu tháng mới được “buông tha”, lên đường chiến đấu tại những chiến trường khác cũng đang rất cần sức chiến đấu cuả tiểu đoàn anh.
Tên tuổi cuả anh đã bị bọn quỉ đỏ ghi vào sổ đen từ dạo ấy.
Sau này với chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 5 thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh, anh lại tạo một chiến thắng lẫy lừng khác tại vùng cực Nam tỉnh Quảng Ngãi, đó là mặt trận Bình Đê, Sa Huỳnh: Trong cuộc thư hùng nẩy lửa này, Trung Đoàn 10 địa phương cộng phỉ gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Và đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết đầy oan khiên và đau đớn của anh sau này.
Người viết bài tường thuật này có cơ duyên biết khá nhiều về Trung Tá Võ Vàng, nhất là sau khi tên dã thú bắn anh 7 phát đạn từ sau ra trước, người viết lại là người đầu tiên khiêng thi thể của anh từ suối lên mặt đường và làm biên bản về cái chết đau thương này ....

Sau ngày 29 tháng 3 năm 1975, ngày thành phố Đà Nẵng bỏ ngỏ, bọn cán ngố tiến vào thị xã, người dân xứ sông Hàn mới lần đầu tiên nghe được từ ngữ "Uỷ Ban Quân Quản”. Đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, những quân nhân không còn đơn vị, từ sáng sớm đã nghe một bản thông cáo của Uỷ Ban Quân Quản thành phố đọc đi đọc lại trên đài phát thanh Đà Nẵng đại khái nói rằng: " Tất cả các sĩ quan Ngụy, không chậm trễ, hãy tập họp về số 2 đường Đống Đa, Đà Nẳng để nghe nói chuyện về tình hình đất nước.".
Đây là cú lừa đầu tiên mà tất cả quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vốn chân thật chưa hề bao giờ ngờ được sự trí trá xảo quỵêt của bọn lưu manh, đã vấp phải. Bị thôi thúc bởi bản thông cáo, tất cả các sĩ quan lũ lượt kéo nhau đến địa điểm nói trên để tìm hiểu xem hiện tình đất nước biến chuyển như thế nào. Và thế là, tất cả những người chân thật ngay thẳng, đã tự động.... chui vào rọ! Có vào mà không có ra!
Cuộc đời tù "cải tạo" của những quân nhân còn kẹt lại khắp các vùng xứ Quảng bắt đầu từ đây. Chúng tôi bị đưa lên trại Kỳ Sơn thuộc tỉnh Quảng Tín. Nơi đây chỉ là một vùng rừng núi hoang vu, cạnh một suối nước chảy quanh co dưới chân khu mỏ vàng Bồng Miêu. Bây giờ danh nghĩa của chúng tôi bị gọi là những người "tù cải tạo". Ngày ngày chúng tôi ăn không đủ no, mặc không đủ ấm nhưng phải lên rừng chặt cây, cắt tranh, rồi chính mình cùng nhau dựng lên những căn nhà để tự nhốt mình.
Mới đầu, anh Võ Vàng và chúng tôi ở cùng khối 2 thuộc trại 1 Kỳ Sơn nhưng khác nhà. Anh ở nhà 6 còn tôi ở nhà 9. Hai nhà này hầu hết là sĩ quan cấp tá, và thường đi lao động chung với nhau. Sau một thời gian ngắn, qua sự xào xáo "biên chế" lại, anh Vàng về ở cùng nhà với chúng tôi.
Thực sự thì khi anh còn ở Biệt Động Quân, tôi đang ở Tiểu Đoàn 3/1 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, tôi chỉ nghe danh anh chứ chưa hề biết mặt. Mãi cho đến sau này, khi anh rời binh chủng Biệt Động Quân về ngồi tạm tại Phòng 3 Quân đoàn I để chuẩn bị theo học khóa tham mưu tại Đà Lạt tôi mới hân hạnh được biết anh, vì tôi đã về Phòng 3/QĐI từ trước. Sau khi tốt nghiệp khóa học, Bộ Tổng Tham Mưu/Tổng Cục Quân Huấn chỉ định Trung Tá Võ Vàng K17 về phục vụ tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam do những chiến công mà anh đã đạt được cùng những kinh nghiệm chiến trường vô cùng quý báu mà anh đã thu thập qua những trận ác chiến với cộng quân. Những kinh nghiệm này cần được gìn giữ, lưu truyền cho các đàn em của anh. Trong thời gian phục vụ tại Trường Mẹ, Trung Tá Võ Vàng K17 đã đảm nhận chức vụ trưởng khoa chiến thuật rồi trưởng khối huấn luyện quân sự. Với chức năng của một Niên Trưởng, Anh đã đem tâm huyết trao hết kinh nghiệm đầy máu và nước mắt cho đàn em của mình đang còn miệt mài kinh sử dưới mái Trường Mẹ. Đến tháng 3 năm 1972, tình hình chiến sự vô cùng sôi động, Trung Tá Võ Vàng K17 muốn được trở lại chiến trường xưa, đơn vị củ… để cùng đồng đội chia xẻ hiểm nguy, mặc dầu chị Võ Vàng không vui! Anh đã đạt được ước nguyện của người trai Võ Bị.
Đến bây giờ anh lại tái ngộ với tôi ở một nơi, trong một cảnh ngộ thật nghiệt ngã mà cả anh cũng như tôi, chẳng ai mong ước: Trại 1 “Cải Tạo” Kỳ Sơn.
Mỗi ngày anh cùng tôi rong ruổi trong công tác đốn củi, cắt tranh, làm rẫy, trồng sắn, cuốc ruộng, cấy lúa v.v.... Thôi thì đủ thứ tạp dịch không tên, kể sao cho xiết.
Rồi ngày 11 tháng 4 năm 1976, ngày báo hiệu đại hoạ đã tới. Hôm đó là chủ nhật, anh Võ Vàng có tên gọi trong danh sách thăm nuôi. Người thăm anh không ai khác hơn là chị Võ Vàng.
Kịch bản đã được soạn thảo từ lâu, mãi đến hôm nay mới là thời điểm cho bọn khát máu thực hiện. Chúng chuẩn bị tạo yếu tố tâm lý rất ác độc, nhưng hoàn toàn là bịa đặt, về con người anh Võ Vàng, bằng cách là trong những lần sinh hoạt của toàn trại trên hội trường, tên Chính Uỷ Trung Đoàn đến nói chuyện với tù nhân đã ngược ngạo, láo khoét tuyên bố rằng:
- Tên Trung Tá Võ Vàng là một tên mang rất nhiều tội ác với nhân dân và chiến sĩ cách mạng. Tên này độc ác đến nỗi mỗi khi sát hại một chiến sĩ cách mạng, hắn đều cắt tai rồi xâu thành chuỗi đeo tòng teng trước ngực, đi nghênh ngang trong thành phố Đà Nẵng.
Thật rõ ràng là chỉ những người cộng sản chuyên nghề lừa đảo mới tuyên bố được những lời gian trá trắng trợn như thế. Thử hỏi vào thời điểm đó, thành phố Đà Nẵng có khoảng tám trăm ngàn dân, liệu có một người dân nào nhìn thấy anh Võ Vàng đeo tai Việt cộng trước ngực, đi nghênh ngang trong thành phố?
Song song với sự chuẩn bị yếu tố tâm lý, chúng đã tiên liệu thời gian anh Vàng sẽ có thăm nuôi, vì qui chế của tổng trại Kỳ Sơn lúc đó là 3 tháng được thăm một lần. Một tên quân báo từ quân khu 5 đã xuống chờ sẵn tại trại 1. Đến ngày anh được thăm nuôi, chúng cử một cảnh vệ tên Bốn, là một tên có máu lạnh, hướng dẫn bốn năm người trong danh sách ra khu thăm nuôi gặp gia đình. Sau ít chục phút gặp người thân, tên Bốn ra lệnh cho mấy anh em chuẩn bị về trại. Anh Vàng cũng cùng với mấy anh em khác sẵn sàng trở lại trại, thì tên quân báo nói trên đã chờ sẵn tại khu thăm nuôi, lấy uy quyền của một cấp lớn hơn cho phép ở lại với gia đình thêm một thời gian. Tên Bốn lại hô tất cả mọi người tập họp đầy đủ để trở lại trại. Anh Vàng thi hành lệnh, tên quân báo này lại một lần nữa ra lệnh cho anh Vàng được ở lại. Dĩ nhiên là lẽ thường tình được một cấp lớn hơn cho phép, lại thêm yếu tố tình cảm gia đình thì đương nhiên anh Vàng nghiêng về phía ở lại. Tên cảnh vệ đành tức tối dẫn toán được thăm nuôi trở về trại, trong đó không có anh Võ Vàng. Đây là một yếu tố tâm lý vô cùng thâm độc, chúng cố tình kích động vào sự tự ái của tên Bốn hầu gây lòng hận thù với tên vệ binh này, để chúng xử dụng tên này một cách đắc lực và hiệu quả trong chủ đích sát hại anh trong vài ngày sau.
Dường như linh tính được báo trước nên tuy được thăm nuôi và lại được hưởng thời lượng gấp đôi, gấp ba những anh em khác, nhưng khi về trại mặt anh lại lộ rõ vẻ không vui như lẽ thường tình. Và quả đúng, đến chiều anh bị gọi lên ban chỉ huy trại để nhận lệnh.
Xin được tản mạn ra ngoài đề, để mô tả căn nhà chúng tôi ở. Cũng giống như tất cả các nhà khác trong trại là có bốn sạp ở bốn góc, được ghép bằng những cây rừng do chính những người tù đi chặt về ghép lại với nhau thành bốn sạp để nằm. Bốn sạp bốn góc đã tạo thành chữ thập dùng làm lối đi ở giữa. Tôi may mắn được nằm ngay trung tâm chữ thập, còn anh Vàng thì ngược lại, xuyên tâm đối với tôi, nghĩa là anh nằm tuốt phía ngoài bìa. Mô tả như vậy để quí độc giả hiểu được rằng chỗ tôi nằm là đắc địa, vì tại tâm của chữ thập có đào một cái hố để tối đến đốt lửa, hun khói để vừa đuổi muỗi, vừa sưởi ấm cho bớt lạnh. Củi đốt thì khỏi lo, sống ở rừng, mỗi khi hết giờ lao động, mỗi người tù đều phải vác về một cây củi để dùng cho chính mình vào buổi tối.
Chính vì vị trí đắc địa này mà mỗi tối anh Vàng thường lân la đến chỗ tôi nằm để hút thuốc lào với anh Phạm Ngọc Bảo. Anh Bảo là người có quan hệ mật thiết với anh Vàng, vì hai anh có nhà ở cạnh nhau trong vùng bãi biển Thanh Bình, Đà Nẵng. Hơn nữa, anh Bảo thuộc khóa 12 còn anh Vàng khóa 17 Võ Bị. Phần tôi là em út của cả hai anh vì tôi thuộc khóa 20. Vì tình Võ Bị này mà ba anh em chúng tôi rất thương yêu và tuyệt đối tin tưởng nhau. Yếu tố tin tưởng này rất quan trọng, vì ở trong tù một sự kiện vô cùng ô nhục là tình trạng “ăng ten”, nên không ai dám hở miệng tâm sự với người khác. Ba anh em chúng tôi thì không phải e ngại về yếu tố này.
Và rồi, như thường lệ, ngay buổi tối hôm thăm nuôi định mệnh này, anh đã kể hết một cách tường tận về chuyện được thăm nuôi thêm giờ, gây tức tối cho tên vệ binh và trại bắt anh phải làm kiểm điểm, vì đã cưỡng lệnh cảnh vệ. Anh hỏi ý kiến tôi và anh Bảo xem nên viết kiểm điểm như thế nào. Tôi đã rất chân tình góp ý với anh là chỉ viết thật ngắn gọn rằng: “Khi tôi được anh cảnh vệ ra lệnh về lại trại, tôi đã nghiêm chỉnh thi hành và chuẩn bị trở về, thì cán bộ của quân khu đã có nhã ý cố giữ tôi được ở lại với gia đình thêm ít phút nữa. Tôi cam đoan đây là lời khai sự thật của tôi v. v...”
Sáng thứ hai, ngày 12 tháng 4 năm 1976, anh viết xong bản kiểm điểm ngắn gọn như tôi đã góp ý và nộp cho ban giám đốc trại, rồi trở về tiếp tục đi lao động cùng chúng tôi.
Buổi tối, anh lại đến chỗ tôi nằm và hút thuốc cùng anh Bảo, nhưng tâm trạng của anh vô cùng bồn chồn và lo lắng. Dường như tử thần đã báo trước cho anh thời điểm chấm dứt cuộc sống sắp tới. Tôi và anh Bảo trấn an anh cách nào cũng không làm anh giảm được sự bồn chồn lo lắng ấy.

NGÀY ĐỊNH MỆNH

Hôm nay là thứ Ba, ngày 13 tháng 4 năm 1976, như thường lệ, nhà chúng tôi được phân công đi phát rẫy trên đồng Cò Bay, lối đi lên vùng mỏ vàng Bồng Miêu và do chính tên Bốn dẫn đi. Khi vài anh có nhiệm vụ trực trong nhà, ra nhà kho để nhận dụng cụ phát rẫy gồm dao tông và rựa về, anh Vàng đã nhận một con dao tông giống như tôi. Và dường như muốn đè nén nỗi lo âu, anh luôn luôn đi cạnh tôi và trò chuyện cho khuây khoả... Đến khi vào khu vực phát rẫy, những người cầm rựa thì đốn những cây tương đối nhỏ, còn những người cầm dao tông như anh và tôi thì phải hạ những cây có đường kính lớn hơn. Gặp những cây quá lớn cành lá xum xuê thì hai anh em chúng tôi cùng đốn một cây.
Bỗng nhiên khoảng 10 giờ sáng, chúng tôi đã tiến lên cao được khoảng mươi thước cách đường mòn, thì từ phía dưới đường, tên Bốn nói với lên trên:
- Anh trưởng toán đâu, cho tôi mười người cầm dao tông đi theo tôi lên phía kia đốn những cây lớn hơn.
Lúc đó anh nhà trưởng đi kiếm những người cầm dao tông. Anh Vàng nói với tôi:
- Ê mày, thôi tụi mình xuống đi, nó đang kiếm người cầm dao tông kìa.
- Kệ cha nó, mình cứ lơ đi, coi như không nghe thấy. Tôi trả lời.
Chỉ một lát sau đó, tên Bốn đứng ngay sau lưng chúng tôi dưới đường mòn, vừa nói vừa chỉ thẳng vào anh Vàng:
- Anh kia! (Làm như tên này không biết tên anh Vàng) Xuống đây đi đốn chỗ khác.
Thế là anh Vàng rời tôi đi xuống, trong khi tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ mà tên này không gọi tôi. Đấy là giây phút cuối cùng, sau đó tôi vĩnh viễn không bao giờ còn đứng cạnh anh nữa.
Anh mới rời tôi khoảng vài chục phút thì một loạt đạn chát chúa vang lên. Tôi chẳng hiểu chuyện gì xảy ra nhưng vẫn nhủ trong lòng chắc có chuyện chẳng lành....
Mãi cho đến giờ nghỉ trưa, tôi tụt xuống đường mòn để chuẩn bị ăn trưa thì gặp ngay anh Lê Văn Lộc, Thiếu Tá Cảnh Sát, nguyên Trưởng Khối CTCT, ty Cảnh Sát Thừa Thiên – Huế, hôm nay làm nhiệm vụ anh nuôi, nấu nước cho anh em uống. Thấy tôi, mặt anh chảy dài, mắt đỏ ngầu, ứa nưóc mắt và nói ngay với tôi rằng:
- Anh Vàng chết rồi!
Tôi hết sức bàng hoàng, tay chân bủn rủn. Lần lần tôi mới vỡ lẽ. Số là, sau khi tên Bốn tách mười người đi đốn cây ở chỗ khác, y đã dẫn toán này đi xa nơi cũ, chỉ chừng vài ba chục mét về hướng đồng Cò Bay, gần cây cầu lủng, điạ danh "cây cầu lủng" anh em trại 1 Kỳ Sơn ai cũng biết, tên Bốn chỉ cho mọi người lên đó mà đốn. Khu vực này cây cối cũng có lớn, nhỏ, có hơn chỗ cũ gì đâu, mục đích chính chỉ là y muốn tách rời mười người này ra xa khỏi toàn khối 2 của chúng tôi. Sau đó, Bốn lại lấy hai người trong số mười người dao tông này, để đi đốn đót về làm chổi cho trại! Màn trình diễn này quá tồi. Nếu đốn đót thì phải gọi những người cầm rựa mới đúng vì dễ khoèo, dễ phứt, chứ sao lại lấy người cầm dao tông?
Hai người mà Bốn chỉ định là anh Võ Vàng và anh Nguyễn Văn Bá, Trung Tá Thủ Khoa khóa 13 Võ Bị....
Rõ ràng quá! Ý đồ của Bốn là lấy anh Vàng ra khỏi đám đông để dễ dàng động thủ, che dấu dã tâm đầy thú tính của mình. Khi hai anh vừa rời toán được mấy chục thước, thì Bốn chỉ tay nói anh Vàng xuống suối mà tìm đót còn anh Bá thì đi thẳng qua bên kia cầu lủng, chứ hai người cùng đi với nhau thì đót đâu cho cả hai người cùng đốn!
Anh Vàng vừa xuống hướng suối không đầy mười thước, thì một tràng đạn AK nổ dòn. Mấy chục con người mang thân tù tội đang cặm cụi đốn cây, đều ngừng tay. Linh tính cho biết là chắc chắn có chuyện gì bất thường.
Phần tôi, tôi biết được chi tiết vừa trình bày là do anh Bá kể lại. Và rồi, tiến xa hơn một chút, tôi càng được tường tận hơn khi tên Bốn cất tiếng hỏi:
- Ai là nhà phó trong toán này?
Anh em chỉ vào tôi, trong tù ai cũng biết nhà phó là người chịu trách nhiệm về "cơm, áo, gạo, tiền."
Bốn đã nhìn tôi và chỉ xuống hướng suối để khiêng xác anh Vàng lên. Tôi và anh Trần Hữu Cảnh, Thiếu tá Phòng 2 Quân Đoàn I, cùng đi xuống suối. Vừa rẽ khỏi đường mòn chừng mươi thước, thì chứng kiến cảnh đau lòng đến xé ruột diễn ra trước mắt mình. Anh Vàng nằm úp mặt xuống dòng suối cạn. Từ thắt lưng lên đầu thì ướt, phần còn lại từ lưng xuống chân thì vẫn khô. Anh nằm úp mặt dưới suối. Hai anh em, tôi và Cảnh lật xác anh lên, chúng tôi muốn oà khóc vì thấy những phát đạn quá tàn bạo. Tôi đếm được tất cả bẩy vết đạn đều bắn từ sau ra trước, mà trong đó hình ảnh của hai phát đạn xuyên ra phía trước thân thể anh, đã ám ảnh, đã hằn sâu, trong tâm trí tôi cho đến suốt đời, vì hai phát này đã kết liễu đời anh, một phát từ sau lưng bắn toác ra phía trước ngực, hơi chếch về trái, có nghĩa là anh đã bị vận tốc xoáy của viên đạn phá tan tim và lồng ngực, phát thứ hai từ hàm phải xuyên qua cửa miệng trái, vỡ hết hàm răng khiến cho miệng anh không còn khép lại được nữa. Năm phát còn lại thì rải rác ở cánh tay, mông và ống chân...
Khiêng thi thể của anh lên mặt đường, đặt gần nơi anh Lộc làm anh nuôi, lúc này tôi mới lục trong túi của anh lấy ví, mở ra, thấy trong đó có tấm hình vợ con và số tiền 200 đồng. Một nhẫn vàng khoảng hai chỉ trên ngón tay và cổ tay còn đeo chiếc đồng hồ Longine. Xin mở ngoặc là thời điểm này do bên quân đội quản lý, nên các tù nhân vẫn còn được giữ các tư trang. Chỉ sau này, khi bọn bò vàng (công an) quản lý thì tư trang và tiền bạc mới bị ký gửi.
Khi làm biên bản, một sự lưu manh, xảo trá chuyên nghiệp của bọn cộng sản lại được thể hiện: cụ thể là chiếc nhẫn vàng thì chúng buộc tôi phải viết lại là chiếc nhẫn màu vàng và không ghi rõ trọng lượng! Sau này khi sang Hoa Kỳ, duyên may tôi được gặp chị Võ Vàng, tôi mới vỡ lẽ là họ trả lại cho chị chiếc đồng hồ hiệu Seiko. Quá lạ! Đồng hồ Longine đã bị “cải tạo” thành Seiko.

Sau khi làm biên bản, thi hài anh Vàng vẫn được để nằm tại chỗ cho đến khi ăn cơm trưa xong, một số anh em mới được phân công khiêng thi hài của anh về trại. Những anh này gồm anh Nguyễn Văn Tố, Trung tá nguyên Tỉnh Trưởng Phú Yên, anh Nguyễn Văn Chước, Trung Tá, nguyên gốc Biệt Động Quân cùng thời với anh Vàng, anh Đ H X, Thiếu Tá thuộc Thiết Đoàn M48, Quảng Trị, và anh Trần Hữu Cảnh, Thiếu tá P 2/QĐI.
Một chuyện lạ rất huyền bí không chứng minh được do chính anh Trần Hữu Cảnh kể lại cho tôi nghe, đó là khi về đến gần cổng trại, phía bên tay phải là một căn nhà nhỏ chúng tôi thường gọi là chuồng cu, dùng để nhốt những anh bị kỷ luật, cảnh vệ đã chỉ cho toán khiêng xác anh Vàng vào trong đó, thì bỗng nhiên xác anh nặng trĩu hai người khiêng bị trì hẳn xuống, không cách gì khiêng nổi. Anh Cảnh chợt nghĩ ra rằng đây là nhà kỷ luật chắc anh Vàng nhất định không chịu vào. Anh Cảnh bèn khấn vái với anh Vàng rằng:
- Xin anh hãy thông cảm cho chúng tôi được khiêng anh vào, vì đây là lệnh của trại bắt tụi tôi phải đưa anh vô, chứ không phải tụi tôi muốn như vậy.
Sau nhiều lời khấn vái thì xác anh bỗng nhẹ hẳn đi để anh em khiêng vô.
Chưa hết, sau này tôi lại được một vài anh em ở ngoài Tổng trại kể lại rằng tên Bốn sau này dường như bị điên điên, khùng khùng, suốt ngày cứ lảm nhảm vừa đi vừa nói:
- Tôi đâu có muốn giết anh! Tôi đâu có muốn giết anh!
Việc này tôi chỉ nghe kể lại chứ không được chứng kiến nên không hiểu thực hư ra sao, xin chỉ viết lại với sự dè dặt tối đa.
Về việc mai táng cho anh thì đến xế chiều, khi đào huyệt chôn anh lại gặp nhiều rắc rối. Những người đào huyệt đang đào nửa chừng thì người trưởng trại tên Nhất đi họp ngoài Tổng trại về, trông thấy bèn cho biết là chôn ở đây không được, vì vị trí này, sau này người ta sẽ phóng đường để cho xe cộ có thể chạy được lên mỏ vàng Bồng Miêu. Mọi người phải dừng tay, lấp hố, đi đào huyệt khác. Đến vị trí thứ hai mới đào sâu được vài chục phân, thì gặp phải đá tảng, không cách gì đào nổi, nên lại phải đi kiếm chỗ khác. Huyệt thứ ba ở khá cao trên triền núi. Lúc này đã xẩm tối toán chôn cất mới hoàn tất việc mai táng cho anh.
Kiểm chứng lại việc chúng muốn phục thù, cướp mạng sống của anh, mới thấy rõ là chúng chuẩn bị một kế hoạch rất tỉ mỉ. Từ việc cử một tên cán bộ quân báo của Quân Khu 5 xuống chờ sẵn, đợi dịp anh Vàng được thăm nuôi, chọn một tên vệ binh có máu lạnh dẫn anh đi, gây cho hắn lòng căm phẫn với anh Vàng. Sau ngày chủ nhật được thăm nuôi, ngày thứ hai bắt nộp bản kiểm điểm, rồi đánh giá là lời khai tránh trớ, quanh co, ngoan cố không nhận lỗi, ngày thứ ba cho đi lao động, cố ý cắt cử tên vệ binh Bốn hướng dẫn đi phát rẫy, rồi xuống tay hạ thủ và kết quả đã đúng như dự tính.
Thế nhưng nói như thế không có nghĩa là chúng không để lộ ra những màn diễn xuất quá tồi. Ngay sau khi bắn anh Vàng, tên Bốn đã xuống suối nhúng nước cho quần ướt đến đầu gối rồi thất thểu vác súng về trại, biết bao nhiêu cặp mắt anh em tù chúng tôi thấy khẩu súng của y còn nguyên vẹn, nhưng đến xế trưa, khi bọn cán bộ từ trung đoàn đến hiện trường làm biên bản thì báng súng lại có vết chém! Biên bản ghi rằng tên Vàng phản động, tính chém vệ binh để cướp súng khiến vệ binh buộc lòng phải bắn để tự vệ, nhưng lố bịch thay vết đạn bắn lại toàn từ phía sau ra phía trước! Về điểm này xin được nói thêm là nhà 9 chúng tôi, tối tối thường có một y tá người Bắc, thường lân la xuống trò chuyện và hút thuốc lào với anh em chúng tôi. Ngay buổi tối hôm đó, như thường lệ, anh y tá này lại xuống, vừa bước vào nhà anh đã buột miệng nói ngay:
- Đ.m. chúng nó, chúng nó đang tâm bắn một người vô tội, vết đạn rõ ràng bắn từ sau ra trước mà bảo người ta là phản động, cướp súng của vệ binh! Ngày mai ghi vào biên bản xác minh, bố mày sẽ ghi rõ ràng là vết đạn bắn từ sau ra trước.
Và tiếc thay, chỉ vài ngày sau khi mộc mạc thốt ra những lời kể trên, người y tá còn chút nhân tính này không thấy xuất hiện tại nhà 9 chúng tôi nữa.
Cướp đi mạng sống của anh Vàng, chúng vẫn chưa thỏa mãn được lòng hận thù của chúng. Chị Vàng sống tại Đà Nẵng cũng không được yên thân. Sau này khi được gặp chị, tôi mới được biết, chị bị cắt hết nguồn sống của mẹ con bằng cách không cho chị được tiếp tục dạy học tại trường trung học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng nữa. Đồng thời còn cô lập gia đình chị bằng cách phao tin Võ Vàng là một tên phản động khát máu, mặc dầu được đưa vào trại cải tạo để giúp hắn trở nên người lương thiện nhưng vẫn giữ bản chất cũ, đã cố tình cầm dao chém cảnh vệ để cướp súng, nên đã bị đền tội. Thế là tất cả bà con chòm xóm, ngay cả người thân trong gia đình cũng phải xa lánh mẹ con chị, vì sợ bị liên lụy, ấy là chưa kể nhiều người quá ngây thơ khờ dại, tin lời bịa đặt, đã chê trách anh Vàng quá dại dột, dùng dao mà đọ sức với súng đạn thì làm sao mà thắng nổi! Anh hùng rơm!
Mãi sau này, trong một dịp nhà báo Huy Phương phụ trách chương trình “Huynh Đệ Chi Binh” của đài SBTN có nhã ý tìm gặp tôi và muốn được tôi kể lại chuyện Trung Tá Võ Vàng bị thảm sát trong tù, tôi mới có dịp tường thuật khá đầy đủ cùng khán thính giả của đài. Chị Vàng đã xem được cuộc phỏng vấn này và chị đã phần nào được an ủi:
- Xem như anh Vàng đã được rửa mặt. (Rửa mặt ở đây có nghĩa là rửa nhục, lấy lại danh dự).
Chỉ tiếc một điều là sao lại có một số người quá nhẹ dạ cả tin, nhất là tin lời tuyên truyền của cộng sản. Có lẽ họ chưa được nghe lời chỉ giáo của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Mặt khác, mới thời gian ngắn trước đây tôi lại được dịp đọc một bài viết của anh Đ.H.X, cũng viết về cái chết của anh Vàng. Với anh Đ.H.X, tôi cũng biết khá nhiều về anh ngay từ khi mới nhập trại. Kẹt một nỗi là nay anh vẫn còn ở Việt Nam, bởi một lý do tôi không tiện nói ra vì sẽ rất có hại cho anh trong cảnh ngộ quá ngặt nghèo này. Đọc bài viết của anh, tôi vô cùng cảm phục cái tâm của anh, vì sau khi chứng kiến cái chết của anh Vàng, phải khiêng anh về trại, mai táng cho anh, anh đã nguyện trong tâm rằng sẽ kể lại đầy đủ cái chết đau thương này, thì anh mới yên lòng trước khi nhắm mắt. Chỉ tiếc là hoàn cảnh của anh vẫn còn trong tình trạng cá chậu chim lồng, nên chưa nói hết được những gì anh muốn nói. Vả lại, anh mới chỉ viết được phần anh chứng kiến kể từ đoạn thi hài anh Vàng được khiêng về trại và anh bị buộc phải làm biên bản sai sự thực, trái hẳn với những gì anh được chứng kiến rồi tiếp theo phải ký vào biên bản trước họng súng.
Tựu trung lại cái chết của anh Võ Vàng tính đến nay, năm 2017, đã trôi qua hơn bốn thập niên, nhưng hình ảnh quá đau thương tàn bạo, đối với người được chứng kiến tận mắt như chúng tôi lúc nào cũng vẫn còn hiện rõ mồn một…!
Nếu được đọc lịch sử về cuộc nội chiến Nam-Bắc của Hoa Kỳ, sự ứng xử của đoàn Bắc Quân chiến thắng với đội Nam Quân chiến bại hết sức mã thượng, danh dự của kẻ chiến bại vẫn được tôn trọng, hoặc gần hơn nữa, sự kiện bức tường Bá Linh sụp đổ, người Tây Đức cũng tiếp đón người Đông Đức vô cùng quân tử, không một chút hận thù, mà có ai đó mơ mộng rằng nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng đối xử nhân đạo, tử tế với Việt Nam Cộng Hoà thì quả là người đó đã mắc bệnh… hoang tưởng!
Mặt khác, cuộc cải cách ruộng đất còn đó, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm còn đó, và mới đây nhất làn sóng đỏ tràn ngập miền Nam còn đó, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các trại tù khổ sai, nhục hình mang danh "cải tạo" mọc lên như nấm gặp mưa, cách đối xử với người tù vô cùng dã man, ác độc, mà vụ sát hại anh Võ Vàng là một điển hình, thế mà lũ người Xạo - Hết - Chỗ - Nói vẫn lải nhải kêu gọi xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải dân tộc thì quả là chúng đang bị chứng...mộng du!

California, ngày 23 tháng 9 năm 2017.
Phạm Văn Hồng
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Image

Tưởng Niệm Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn
Hội Trưởng Hội HO Cứu Trợ TPB

Hằng năm, cứ đến Tháng Tư-mùa Quốc Hận thì con dân Nước
Việt lại đau lòng nghĩ về ngày đại tang 30/4, nhưng cá nhân chúng tôi
cũng như một số đông các chiến hữu còn một niềm thương nhớ khác, đó
là nhớ đến người Chị Cả của Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH.
Giờ đây tôi ghi lại những kỷ niệm cùng với những cảm xúc chân
thành của cá nhân tôi với niềm hy vọng nói lên tiếng nói của một chiến
hữu lúc nào cũng thương mến và kính trong Bà.

Thưa Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.
-Có lời nói nào mà soi sáng được đầy đủ tấm lòng của Chị đối với
đồng đội, nhứt là đối với các anh em Thương Phế Binh. Chị là một viên
ngọc chiếu sáng, là đóa hoa sen trắng đầy đủ hương sắc trong vô vàn sen
trắng khác. Cuộc đời của Chị với một lối sống đơn giản để gieo tình
thương mặn mà cho tha nhân. Đó là lẽ sống mà Chị đã dâng hiến cho Tổ
Quốc và Quân Đội, cho đồng đội, đó là tấm gương sáng cho thế hệ sau.
Trong thời chiến, Chi luôn hoàn thành nhiệm vụ, sau ngày “gãy
súng”, sống cuộc đời tị nạn, Chị không than van mà luôn bền gan vững
chí, qua bao năm tháng để vượt qua mọi gian nan đi tìm cái đẹp cho đời.
Cái đẹp muôn thuở của Chị, không phải gấm hoa lụa là, mà cái đẹp nhứt
của đời Chị là sự chân thành, lòng ngay thẳng và quyết chí lo cho cuộc
sống Thương Phế Binh và quả Phụ không mệt mỏi cho tới hơi thở cuối
cùng.

Chị ra đi khiến người thương tiếc, Cộng Đồng Người Việt tị nạn
CS hải ngoại vắng bóng dáng một người phụ nữ phúc hậu với mái tóc
bạc trắng, luôn có nụ cười hồn nhiên đó là Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh
Nhơn, nhưng các anh em TPB và quả phụ còn ở lại trong nước mất đi
một người chị cà đáng kính, một chỗ dựa vững chắc, một ánh sáng trong
cuốc sống tối tăm.

Đồng hương, đồng đội hải ngoại cũng như trong nước ai ai cũng
mến mộ Chị. Bởi chính con người Chị là biểu tượng của một người chân
thật, luôn hòa ái, luôn giữ cách xử thế dung dị, chân tình với hết thảy
mọi người, không nệ thân sơ.

Trong giây phút này, khi nhìn lên di ảnh của Trung Tá Hạnh Nhơn,
chúng tôi vẫn cảm nhận thấy được sự hiền hoà, nét bao dung, hình ảnh
đó khiến chúng tôi tiếc thương Chị vô cùng.

Dù Chị đã mãi mãi ra đi, để lại mọi thứ, để lại một ước mơ còn
dang dở, để lại sự đau buồn trong trái tim của những người ở lại. Nhưng
những cống hiến của Chị cho quân đội, nhứt là đối với Thương Phế Binh
và quả phụ mãi mãi còn đậm nét trong lòng chúng tôi cùng đồng bào
người Việt ti nạn CS.

Con đường chị vừa đi qua là một cung CẦU VỒNG rạng rỡ sắc
màu. Hôm nay được ba năm kỷ niệm ngày chị đã đến đích. Chị thênh
thang cất bước vào chuyến viễn du với một tâm hồn thuần hậu
Dù Chị không còn nữa nhưng công lao đóng góp và những phẩm
chất tốt đẹp, trong sáng của Chị là tấm gương cho thế hệ nối tiếp.
Chị ra đi, nhưng tâm hồn mang tên Nguyễn Thị Hạnh Nhơn sẽ mãi
mãi trong trái tim chúng tôi: “Tinh khiết và trường tồn”.

Cuộc đời của Chị đã gắn liền với dòng sinh-mệnh của dân-tộc,
trong sáng như ánh Đạo Vàng, đẹp như lòng Từ Bi và thơm ngát mùi
hoa Sen thanh-khiết. Cầu mong Chị Hạnh Nhơn bình yên nơi tiên cảnh,
ở nơi đó xin Chị nở một nụ cười mãn nguyện của một con người đã dâng
trọn trái tim cho đời.

Để tiếc thương một con người đáng mến và đáng ngưỡng mộ của
tập thể người việt ở Nam Cali. Chúng tôi xin được thắp một nén hương
lòng bày tỏ sự tiếc thương lẫn ngậm ngùi trước bàn thờ của Trung Tá
Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, người xứng đáng nhận được lòng quý trọng và
tin cậy của tất cả chiến hữu VNCH.

Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn ngày nay không chỉ là người
của Quân Chủng Không Quân, mà là người của QLVNCH và của người
Việt ti nạn cộng sản ở tại thủ đô Việt Nam hải ngoại, nhưng trước hết và
mãi mãi, Chị là Chị Cả luôn yêu thương lo lắng cho các TPB/VNCH

Trân trọng kính chào
CA Ngày 18 Tháng 4 năm 2020.
Cổ Tấn Tinh Châu
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by quaichao »

Image

30 THÁNG TƯ, NÓI VỀ NHỮNG NGƯỜI LÍNH BỊ BỎ RƠI
Hôm nay tôi vừa ký cái check nho nhỏ để ủng hộ chương trình “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi” do Đài Truyền Hình SBTN thực hiện. Vài tuần trước, khi nghe nói SBTN đang dựng chương trình, tôi tò mò ghé qua. Đúng lúc đó thì nhóm sản xuất đang cố đưa một chiếc trực thăng thời chiến tranh Việt Nam vào studio để dựng cảnh. Tuy nhiên, vì chiếc trực thăng lớn quá nên người ta phải cắt luôn cánh cửa để đưa vào. Tôi ngạc nhiên trong thích thú: SBTN chịu chơi thiệt!

Nói vậy để thấy đây là một chương trình được dàn dựng rất công phu, được quay hình trong 10 ngày liền. Ngoài phần âm nhạc, chương trình còn có những tài liệu, phim ảnh lịch sử và quân sử giá trị. Đặc biệt, tất cả đều có phụ đề Anh ngữ để thế hệ trẻ hải ngoại có thể hiểu và học được một phần lịch sử về cha anh mình.

Từng làm việc trong ngành truyền thông và sản xuất chương trình TV trong nhiều năm, tôi biết để thực hiện bất cứ tác phẩm văn hóa, nghệ thuật hay lịch sử gì cho cộng đồng, việc kiếm lợi nhuận là chuyện rất xa vời. Thị trường băng đĩa gần như biến mất cùng với trào lưu xem free trên mạng đã đẩy các công ty truyền thông cũng như những chương trình âm nhạc và văn hóa tại hải ngoại đi đến kiệt quệ về tài chánh. Nếu may mắn thì có thể tìm được công ty bảo trợ lớn, mà thường các công ty này đều ở Việt Nam. Với một chương trình tôn vinh lịch sử VNCH như thế này thì hẳn nhiên rất khó tìm nguồn tài trợ.

Đó là lý do tôi muốn đóng góp một phần rất nhỏ trong khả năng cho bộ DVD “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”. Là con một người lính VNCH, tôi cho rằng đây là trách nhiệm để góp phần vào việc giữ gìn bất cứ những gì nói lên sự thật lịch sử về những người lính VNCH. Tôi không phải là người thiên về quá khứ nhưng việc ôm ấp quá khứ với thái độ tôn trọng sự thật lịch sử là hai việc khác nhau.

Lịch sử đó là gì?

Đã 45 năm từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, hình ảnh người lính VNCH ngày càng trở thành cái bóng mờ trong lịch sử của cuộc chiến chống lại sự bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Thế giới tự do đã chiến thắng với sự sụp đổ của cái nôi cộng sản tại Liên Xô cũng như tại các đồng minh Đông Âu và Trung Á. Trong khi đó, những hy sinh của người lính VNCH tại miền Nam, một thời là tiền đồn Đông Nam Á chống lại sự lan rộng của làn sóng Đỏ, lại dường như đang trôi vào lãng quên, nếu không nói chỉ còn đọng lại trong ký ức của thế hệ cha anh.

Tại Việt Nam sau 1975, người lính VNCH phải gánh chịu sự trả thù hèn hạ từ những kẻ thắng cuộc. Họ bị cầm tù, bị tước đoạt quyền làm người, bị sỉ nhục và bị ngược đãi nhân phẩm. Con cái của “thành phần” gọi là “ngụy quân” cũng không thể trở thành công dân bình thường. Chính cá nhân tôi đã gánh chịu tình trạng phân biệt đối xử như vậy vì ba tôi từng là lính “ngụy” và bị bắt đi “học tập cải tạo” ròng rã 7 năm trời.

Những gì tiêu biểu cho hình ảnh người lính miền Nam đều bị xóa bỏ đến cùng. Những tượng đài bị giật sập, các nghĩa trang bị cào nát. Bức tượng Thương Tiếc trước Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hoặc Nghĩa Trang Quân Đội Hạnh Thông Tây Gò Vấp đã bị giật sập và san bằng không còn dấu tích. Thậm chí sách vở và âm nhạc với hình ảnh người lính VNCH trong đó cũng trở thành “văn hóa phẩm độc hại”. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã được soi chiếu lại với nhiều góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, những tài liệu này do người Mỹ thực hiện nên họ chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến nước Mỹ hơn là đối với đồng minh cũ của họ ở Nam Việt Nam. Họ quan tâm đến các chính sách của các đời tổng thống Mỹ liên quan cuộc chiến Việt Nam, hơn là số phận của những người Việt Nam từng cầm súng bảo vệ tiền đồn chống cộng sản. Họ thuật lại những phát biểu của giới chức chính trị và quân sự Mỹ về cuộc chiến Việt Nam, hơn là cho thấy cảm nghĩ lẫn ý chí của những người lính từng là hình ảnh đại diện cho giá trị của tự do.

Xét ở góc độ nào đó, có thể nói đây là sự bất công, khi lịch sử chỉ được nhìn ở một hoặc vài góc mà không phải toàn cảnh. Những người lính VNCH xứng đáng được nhớ đến và sự hy sinh của họ đáng được ghi nhận. Họ đã đổ máu chiến đấu suốt 20 năm với thế giới tự do để giúp đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản. Hàng trăm ngàn người lính đã vĩnh viễn ra đi để có được một miền Nam ấm no, thịnh vượng, và một sự tự do vô giá, mà từ đó, miền Nam có những tác phẩm văn chương lộng lẫy, có những thi phẩm rạng ngời, có những nhạc phẩm sống mãi với thời gian. Cho đến tận hôm nay, sau 45 năm, nền nghệ thuật VNCH vẫn còn tồn tại, không chỉ ở hải ngoại mà cả trong nước. Cộng sản đã chiến thắng một cuộc chiến bằng súng nhưng cộng sản đã đại bại một cuộc “giao tranh” bằng giá trị tinh thần.

45 năm qua, dù ở nơi nào, nhiều người Việt khi bỏ nước ra đi vẫn mang theo tình yêu quê hương cùng với hình ảnh hào hùng của người lính VNCH. Nhiều bia tưởng niệm, tượng đài được dựng lên tôn vinh người lính miền Nam đã hiện diện nhiều nơi khắp thế giới. Thế hệ trẻ gốc Việt cũng cho ra đời những tài liệu nghiên cứu, tiếng Việt lẫn Anh, để không chỉ bày tỏ lòng biết ơn với thế hệ cha anh mà còn nhằm mang lại sự thật lịch sử về người lính VNCH mà chế độ cộng sản Việt Nam chưa bao giờ ngừng bôi nhọ, không chỉ với tư cách là kẻ thắng cuộc mà còn với mặc cảm là kẻ bại trận trước sự trường tồn của giá trị văn hóa miền Nam mà người lính VNCH từng góp phần bảo vệ.

Riêng với tôi, cũng nhờ tìm hiểu về người lính VNCH, giờ đây tôi đồng cảm với ba mình hơn. Một người đàn ông tóc điểm sương lúc nào cũng ngồi trước máy tính hay cuốn tập giấy, ghi ghi chép chép điều gì đó mà ông chẳng bao giờ cho tôi đọc. Ông sống nội tâm và ít nói chuyện với tôi. Khi ngồi viết những dòng tâm sự này, tôi có dịp gợi lại cho ông những ký ức cũ, trong đó có câu chuyện khiến tôi không thể cầm nước mắt. Ông kể, chiều 30/4/1975, Tư lệnh Nguyễn Khoa Nam đến thăm bệnh viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ, để thăm lần cuối những người lính bị thương. Một thương binh xúc động đã níu tay ông lại. Khi ra về, ông đã bật khóc và hứa: "Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em". Và để "ở lại với các em", vị Tư lệnh đã tuẫn tiết vào ngày hôm sau… Khi nghe câu chuyện này, tôi muốn ba tôi mãi ở lại với tôi. Tôi muốn người lính VNCH mãi ở lại trên những trang sử vinh danh họ. Tôi muốn hình ảnh người lính VNCH mãi mãi được tôn vinh…

Hồng Thuận
Cali 21 tháng 4, 2020
hoangphong
Posts: 365
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tiendung »

Image

Tháng Tư ở Sài Gòn
Tháng Tư là đầu mùa Hè, thực ra SG quanh năm là mùa Hè, thản hoặc may mắn cuối năm nào được hưởng chút cái hơi lạnh của mùa Đông, khi không khí lạnh vượt qua được đèo Hải Vân xuống phía Nam là SG dìu dịu như Đà Lạt, người SG mừng lắm.

Tôi xuống xe ở đường Tự Do, lững thững qua Passage Eden, tháng Tư SG cây cối xanh mầu, có tiếng ve kêu và đâu đó lác đác những cánh phượng nở sớm báo hiệu Hè đã đến, “Trời hồng hồng, sáng trong trong, ngàn phượng rung nắng ngoài song”. Hè, mùa chia tay của học sinh, con gái nắn nót với những trang lưu bút, còn đám con trai? Ráng mà thi đậu nghe, còn không, có quân trường đợi sẵn đó, tôi không còn quan tâm đến sự chia tay thuở học trò này nữa vì tôi rời mái trường mấy năm nay rồi, giờ đã là một người lính dày dạn gió sương, tuổi học trò đi qua mà lòng không muốn như vậy.

Qua Passage Eden, tôi thấy Ngọc đứng chờ tôi ở trước Rex, nàng hôm nay đẹp rực rỡ, người con gái nào đang có tình yêu đều đẹp, chúng tôi nắm tay nhau, biểu lộ tình yêu thời đó chỉ là như vậy, rất lễ giáo, không có cái hôn, không ôm choàng lấy nhau ầm ĩ. Ngọc ríu rít hỏi tôi về phép được mấy ngày, sao không đến nhà thăm em…

Ngọc đang học Dược, chúng tôi quen nhau cũng cũng đã mấy năm, ngày Ngọc còn là cô nữ sinh Trưng Vương, tháng Tư hàng me đường Nguyễn Bỉnh Khiêm từng chiếc lá vàng nhỏ rơi rụng, lăn tròn trên vỉa hè, lấm tấm như những hạt gạo, tôi hay đợi Ngọc ở đấy, đường đi của đôi tình nhân có lá me vương trên mái tóc, Ngọc không cho tôi gỡ những chiếc là me xuống, nàng bảo : “ mấy chiếc lá đó thích em anh để kệ nó ”, lãng mạn thật, thực ra nàng sợ lũ bạn nhìn thấy thì đúng hơn, con gái học đệ nhị mà đã có người đón đưa là bạo đấy, ôm chiếc cặp nơi ngực mà vương vấn hình ảnh ai đó là hơi sớm đấy, trên đường tình có gió mơn man tà áo trắng, áo bay cuốn lấy chân tôi, Ngọc giữ áo lại, tôi nói : “ cái áo nó thích anh, em để kệ nó ”, Ngọc cười, đôi má con gái ửng hồng.


Thời ấy, cuối những năm 60, SG trở lại yên bình sau cái Tết Mậu Thân, chiến tranh càng trở nên khốc liệt, nhưng ở đâu đó thôi, SG vẫn bình yên, tôi đã rời học đường trước đó, bình yên thế nào được, những người thanh niên nào ai cho yên bình, tôi rời Đại Học, nhập ngũ, thỉnh thoảng về phép, hẹn Ngọc đi chơi, như hôm nay chẳng hạn, tôi dẫn Ngọc loanh quanh Lê Thánh Tôn, Gia Long, Tự Do… những con đường đầy kỷ niệm mà mỗi lần về SG, tôi cứ thích lang thang ở đó.

Tôi đưa nàng vào Brodard, một quán nước hồi còn là sinh viên, tôi và bạn bè hay ngồi ở đây, quán không có chanh đường để uống môi em ngọt, quán có chút Tây hơn, con đường Tự Do cũng có những hàng me cao, tôi gỡ vài cái lá vướng trên tóc nàng, Ngọc không tìm cách tránh như hồi còn ở Trưng Vương, hồi đó còn sợ bạn nhìn, giờ chỉ có người tình nhìn, càng thích chứ sao. Rót nước cho Ngọc rồi hỏi : nghe Nat King Cole nhé, nàng gật đầu, tôi mua jeton rồi bỏ vào cái jukebox cạnh đó, tiếng hát trầm ấm của người ca sĩ da đen cất lên :

Love is a many splendored thing, it’s the April rose…
Có đúng không, tình yêu là vật đẹp muôn mầu ? Ngọc hỏi tôi :
- Tình yêu chỉ có nghĩa vậy thôi sao?
Tôi trả lời nàng :
- Không, có nhiều chứ, tình yêu người ta định nghĩa nhiều lắm nhưng càng định nghĩa nó càng rối mù, theo anh tình yêu cần gì phải định nghĩa, nó chỉ giản dị trong 2 chữ anh + em vậy thôi, với anh thế là đủ.

Bài hát tôi và Ngọc đều thích và có cùng kỷ niệm, lúc mới quen nhau qua đứa cháu, bạn học cùng Ngọc, và cũng tại Brodard này trong một lần đi chơi, hình như lần đầu thì phải, tôi thấy Ngọc loay hoay chọn bài hát trong cái máy, tôi tiến tới bỏ jeton vào thì cả 2 ngón tay tôi và Ngọc cùng bấm Love is a many splendored thing, tôi và Ngọc nhìn nhau, hóa ra… lần đầu đấy, nhưng ánh mắt đã có chút xao xuyến, ai cũng có một thời để nhớ về một kỷ niệm nào, với tôi, mỗi lần nghe bài hát này, Brodard và Ngọc hiện ra trước mặt, it’s the April rose that only grows in the early spring.. vâng, bông hồng tháng Tư, chúng tôi yêu nhau và SG tháng Tư không có được hoa hồng, chỉ có mầu đỏ của phượng, cả tôi và Ngọc đã xem cuốn phim này, La colline de l’adieu với William Holden và Jennifer Jones, thuở học trò mang tình yêu vào sách vở nhưng kém đâu nồng thắm,…anh your fingers touched my silent heart and taught it how to sing…Trong phim cảnh thật đẹp khi W.Holden và Jenny đứng trên đỉnh đồi, phía dưới xa xa là thành phố cùng bãi biển, họ hôn nhau.

Tháng Tư SG nóng nung nấu người, hàng me ngoài đường im gió, có những tà áo dài của các cô làm việc ở ngân hàng về, tà áo đồng phục làm dịu bớt cái hừng hực của tháng Tư , thấy tôi ngắm nhìn mấy tà áo dài đó, Ngọc rời đôi môi xinh xắn khỏi ống hút hỏi tôi:
- Anh thích gì nhất nơi người đàn bà ?
- Theo anh cái nhất của người phụ nữ là sự duyên dáng và thông minh.
- Anh trả lời chung chung quá, thí dụ thích vẻ đẹp của mái tóc, đôi mắt, làn môi hay như bộ ngực chẳng hạn…
Tôi trả lời một câu lạc đề :
- Anh thấy đàn bà nào có bộ ngực to thường kém thông minh.
Hai tay đang chống dưới cằm, Ngọc vội khoanh tay như che ngực mình lại:
- Ý này anh lấy ở đâu mà lạ vậy, thế em to hay nhỏ ?
-Vừa vừa thôi
-Vậy là không thông minh và cũng không ngu ?

Buổi tối, tôi và nàng đi nghe nhạc ở phòng trà Ritz đường Trần Hưng Đạo, phòng trà của Jo Marcel mới mở, nhìn chung quanh, ánh đèn mầu mờ mờ êm dịu, mọi người ăn mặc lịch sự, tôi thấy mình như xa lạ, có rừng rú lắm không, mà có lâu lắc gì đâu, trước đây mình cũng là những người như thế này, tôi nghĩ tới chỉ mai hay mốt trở lại cùng đơn vị, đâu còn được như thế này,, rừng cây, bụi bậm, bom đạn, người chết…

Ta ngắt đi, một cụm hoa Thạch Thảo
Rồi Lệ Thu xuất hiện : ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, em nhớ cho, mùa Thu đã chết rồi. bài hát này dạo đó mới có, được ngay mọi người đón nhận vì cái lãng mạn và đau thương của lời thơ thi sĩ người Pháp. Ngọc tựa đầu vào vai tôi, nàng hát nho nhỏ theo Lệ Thu : đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa, tôi vòng tay ôm nàng : bậy nào, ừ mùa thu chết rồi, thây kệ mùa thu, chúng ta vẫn có nhau, anh còn em đây thôi, cần gì hơn, mai có trở lại đơn vị cũng không sao. Tôi nắm tay nàng : chúng mình cưới nhau đi chứ !
- Gớm, mãi cóc mới chịu mở miệng.

Năm Ngọc gần ra trường, chúng tôi làm đám cưới, nàng có nhiều bạn bè, những người năm xưa gặp ở bal de famille còn là nhí nhảnh của thời con gái, giờ đã lớn và chững chạc, hồi đó đi nhẩy bal của Dược là sang lắm. Chú rể có vài người bạn, da đen sạm và tóc cháy nắng gió, họ ngồi riêng một góc, tì tì uống rượu, không cười, không nói, có thể họ đang nghĩ tới đồng đội, giờ này mình hạnh phúc ngồi đây, bạn bè thì căng mắt chờ quân thù. Cưới nhau xong là đi, tôi chỉ có 4 ngày bên Ngọc rồi trở lại chiến trường .

Tháng Tư 1972 có một mùa Hè mà nhà văn Phan Nhật Nam đặt tên là “Mùa Hè đỏ lửa”, SG cũng đang vào mùa Hè, chiến trận bùng lớn trên khắp mọi miền nhưng vẫn còn xa SG, tôi ít có dịp về đưa Ngọc đi trên con đường Tự Do có hàng me cao. Chiến tranh làm bao người đàn bà là chinh phụ nên khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên, bởi vậy vụt một cái chinh phụ trở thành góa phụ, chít khăn sô lên đầu vội vã. Còn đàn ông con trai gọi là gì ? chinh nhân ư ? chinh nhân ơi, xin anh chớ buồn …người yêu anh còn đó, người yêu anh bé nhỏ– hừ, không buồn sao được, vợ mới cưới, gần nhau được vài ngày rồi cứ thăm thẳm chiều trôi mà bảo chớ buồn.

Thế rồi cái tháng Tư đau thương đó xẩy đến, ngọn sóng Tsunami cuồn cuộn đem súng đạn vô SG, chiến tranh không còn ở đâu xa nữa, tội nghiệp, chúng tôi vẫn vùng vẫy, vẫn chiến đấu, vẫn hy vọng… người lính chỉ biết tuân lệnh dù tuân lệnh trong tuyệt vọng, không biết rằng mọi sự đã an bài, mọi sự đã được sắp xếp xong rồi, tôi không gặp Ngọc trong cái Tháng Tư khốn khổ đó, không thấy mặt đứa con đầu lòng mà biết rằng nó sẽ chào đời trong khoảng thời gian này.

Ở tù ngoài Bắc, cứ phải nghe những luận điệu điêu ngoa xảo trá, mà họ nói hay thật, đúng như nữ ký giả người Pháp Susan Labin có một câu nói không thua gì câu nói của ông Thiệu : “ người Cộng Sản nói dối nhiều quá đến độ khi nói dối họ tưởng họ nói thật ”. Ngay ngày đầu tiên ở đây, tên cán binh AK nói với tụi tôi : giặc lái Mỹ bay ra ngoài này bị hạ hết vì tầu bay ta núp trong mây chờ chúng tới bất ngờ xông ra…

Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch thảo, tôi không biết hoa Thạch Thảo hình dáng ra sao, nhưng những lần đi lao động trong rừng núi, tôi ngắt cụm hoa dại để nhớ Ngọc và những con đường Sài Gòn, ở đây xa quá và khổ quá, cần có ước mơ để giữ mình được vững vàng. Tháng Tư đau thương đó, không có tôi, Ngọc xoay sở như thế nào khi bụng đã quá lớn, SG hấp hối. SG cuống cuồng, người SG không nghe thấy tiếng ve kêu, không kịp nhìn ngắm những cánh phượng mới nở, ôi tháng Tư đau thương. Tôi bị bắt ngay tại mặt trận, từ ngày đó, tôi và Ngọc không gặp nhau.

Mãi 1978, chúng mới cho viết thư, hôm nhận thư Ngọc, tôi run rẩy cả người : Anh yêu dấu, rất mừng khi biết tin anh, anh chưa biết anh có đứa con gái đâu nhỉ, mẹ con em vẫn mạnh khỏe, Ngọc Anh đã 3 tuổi, luôn hỏi về bố, em đặt tên con là Ngọc Anh, một bé gái dễ thương, đẹp như mẹ và nghiêm nghị như bố, Ngọc Anh có nghĩa là Ngọc luôn là của anh đấy, em vẫn theo nghề thuốc nhưng là thuốc vỉa hè, em buôn bán ở chợ Cũ, tiện tặn cũng tạm đủ, em theo bác Cả một thời gian nhưng nghĩ nên đi vùng kinh tế mới như chú Lộc mới đúng với chính sách của nhà nước, sẽ nói với anh sau.
Anh ráng học tập tốt, lao động tốt, nhà nước sẽ khoan hồng cho anh về sớm.
Ngọc Anh và em hôn bố.

Dĩ nhiên lá thư bị kiểm duyệt và tôi bị mắng: lần sau nói vợ không được viết ở đầu lá thư là anh yêu dấu nghe, các anh còn đầu óc lãng mạn tiểu tư sản, viết thư về, động viên vợ anh bỏ buôn bán linh tinh và nên đi vùng kinh tế mới theo đúng chính sách của đảng và nhà nước ta hiện nay.
Thư trả lời tôi khuyến khích nàng nên đi kinh tế với chú Lộc vì chú Lộc - em trai tôi - hiện nay ở Úc, ý cho Ngọc biết nếu có cơ hội là nàng cùng con nên vượt biên, tội nghiệp cô nữ sinh Trưng Vương, ra Dược Sĩ làm cho công ty Dược Trang Hai, một Cty Dược lớn nhất miền Nam thời đó, giờ Ngọc lê la nơi vỉa hè chợ cũ, bên nách đứa con nhỏ mà chồng thì biệt tăm biệt tích từ cái Tháng Tư khốn khổ đó, vẫn là liên quan tới ngành thuốc của nàng, nhưng kiếm từng đồng với những viên thuốc qua lại

Cuối 1978, các trại tù trên miền cao được di chuyển sâu xuống phía Nam, chúng tôi không biết rằng chiến tranh sắp xẩy ra giữa 2 nước CS anh em, với nước Tàu sau khi VC đánh tan Pon Pot, hành động này coi như một sự phản bội. Tôi được đưa từ Sơn La về trại Nam Hà ở phía Nam Hà Nội, thế rồi thấy tù bị chết vì đói khát, bệnh tật nhiều quá, CS cho gia đình tù được phép thăm nuôi, từ miền Nam phải đi xe lửa mấy ngày đêm mới ra được tới Bắc. Ngọc dành dụm tiền, đầu năm 80 ra thăm tôi tại Nam Hà, khi gặp nhau, tôi nhìn Ngọc sững sờ, Ngọc ốm và đen hẳn đi, sự kham khổ biến cô Dược Sĩ xinh đẹp ngày nào nom khác hẳn, chế độ ưu việt lột xác con người hay thật, tôi nhìn Ngọc Anh chằm chằm, con bé gặp tôi lần đầu nên có vẻ là lạ, được sinh ra trong cái hỗn mang của Sài Gòn nên gương mặt buồn buồn và bướng bỉnh, những giọt nước mắt lăn trên khóe mắt Ngọc, mụ nữ cán bộ dẫn thăm nuôi gắt với nàng:
-Không được khóc, hãy động viên chồng học tập cho tốt để nhà nước còn khoan hồng.

Khi ngồi nói chuyện, mụ ngồi ngay trước mặt theo dõi câu chuyện giữa tôi và Ngọc, tôi nói với Ngọc tưởng như bình thường nhưng thật ra dùng toàn những ý nghĩa chỉ tôi và nàng hiểu, Ngọc cho biết cái ngày mất Sài Gòn đó, nàng không có một tin tức nào về tôi, người anh họ trong Không Quân kêu nàng đi, Ngọc không đi, bụng quá lớn gần ngày sanh mà chẳng biết tôi như thế nào, không đành lòng bỏ đi. Tôi nói với nàng chúng ta có nhiều sai lầm quá, em có ở lại thì giờ cũng chỉ là thế này, bao nhiêu là sai lầm như thế,tôi nói hễ có cơ hội em cứ đi đi, ngày nào được về, anh sẽ tìm cách đi sau. Lúc chia tay, tôi hôn Ngọc Anh, nắm 2 tay nàng, như ngày nào Ngọc chờ tôi trước thềm rạp Rex. Lúc phải quay vào, Ngọc như muốn khụy xuống, tôi quay đi không muốn nàng nhìn thấy tôi cũng long lanh nước mắt, mùa Thu đã chết, em nhớ cho...được một đoạn , ngoái lại, Ngọc nắm tay con vẫn đứng đấy, dơ tay vẫy vẫy, tôi vẫy lại, cứ ít bước lại ngoái lại, dơ tay vẫy, bóng 2 mẹ con xa dần, nhỏ dần...


Như nghiệm vào câu Ngọc hát trên vai tôi buổi tối ở Ritz : đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa. Cuối 1980, Ngọc dẫn con xuống Rạch Giá vượt biên và ghe gặp cướp biển, từ đó tôi bặt tin nàng, chẳng bao giờ gặp lại Ngọc và con nữa, Ngọc Anh năm đó mới 5 tuổi.

Cái chế độ tự nhận là ưu việt đó đã nướng 1 triệu thanh niên miền Bắc cho mộng bá vương điên cuồng, miền Nam cũng thiệt hại hơn 200 ngàn người con ưu tú cho cuộc chiến, có điều họ tự xưng là ưu việt nhưng lại không chịu nhìn thấy là hễ họ đi tới đâu thì người dân chạy trốn tới đó, ngay cả khi cuộc chiến chấm dứt, người dân vẫn hốt hoảng liều chết vượt biển ra đi, nếu quả thực ưu việt thì người dân phải ở lại để hạnh phúc với cái ưu việt đó chứ.

Cuộc chiến chấm dứt, số người bỏ mình trên biển tìm Tự Do khoảng 2,3 trăm ngàn người, ngang bằng số người miền Nam chết cho 20 năm cuộc chiến, trong số những người chết đó có Ngọc và đứa con gái bé nhỏ của tôi.

TRẦN NHƯ XUYÊN
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Image

NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

Những tiếng súng sau cùng vẫn âm vang cho đến tận bây giờ . Những anh hùng hữu danh hay vô danh sẵn sàng tuẩn tiết vì chính nghĩa , họ đã đi vào lòng dân tộc và mãi mãi ở lại đó như một biểu tượng bất khuất cho thế hệ tiếp nối hiểu rằng sự thật lịch sử vẫn còn đó. Mùi tanh của máu, những thây người ngã xuống vì sự cuồng sát của cộng sản vẫn còn đây và chính nghĩa VIỆT NAM CỘNG HÒA vẫn tồn tại. Cờ vàng miền nam Việt Nam vẫn tung bay ngạo nghễ nơi đâu có người Việt tị nạn cộng sản trên toàn thế giới. Họ đã và đang chiến thắng vì sự đấu tranh của họ là CHÍNH NGHĨA, là Danh Chính Ngôn Thuận .

Ngày cộng sản Bắc Việt cướp được miền nam cũng chính là ngày họ đại bại, tự họ đã lột mặt nạ của đảng cộng sản; cho thấy “Giải phóng” Miền Nam chỉ là sự lừa bịp, lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam để thực hiện ý đồ ngoại bang, nhuộm đỏ miền nam chỉ để mưu cầu quyền lực phe đảng. Nhìn vào thực trạng hôm nay để thấy sự bưng bít che đậy sự thật, lấp liếm tội ác bằng tuyên truyền bóp méo sự thật lịch sử của csVN đã hoàn toàn thất bại. Ngày 30 tháng 4 đen là ngày người dân miền bắc được nhìn sự thật về đời sống của người Việt Quốc Gia miền nam. Không ít người vỡ mộng khi thấy sự phồn hoa là sự thật, chứ không giả tạo như cs tuyên truyền . Để nhà văn Dương Thu Hương phải bật khóc bên vệ đường khi theo đoàn quân cs tiến vào cướp Saigon . Tất nhiên không chỉ riêng mình Dương Thu Hương bật khóc, có điều nói ra sợ thiên hạ bảo mình…Ngu.


45 năm, cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Đảng cộng sản hiện nguyên hình, họ chính là kẻ thù của dân tộc qua hành động cắt đất dâng biển cho đàn anh Trung cộng, bắt bớ tù đày những ai đi ngược lại chủ trương bán nước của chúng. Quân xâm lược phương bắc dùng quyền lực lẫn tiền bạc cùng những hứa hẹn “Bảo Kê” để đảng csVN duy trì quyền lực độc đảng, bất chấp những lời kêu gọi của tầng lớp trí thức già trẻ trước nguy cơ mất nước từ kẻ thù truyền kiếp phương bắc. Đảng csVN đã đồng hành cùng kẻ thù và phản bội dân tộc .

Xác những ngư dân và cả những chiến sĩ ( bên này hay bên kia ) chiến đấu vì Hoàng sa – Trường sa để gìn giữ bờ cõi nước Nam không rơi vào tay giặc, đối với đảng csVN là Vô Nghĩa. Máu và nước mắt người Việt Nam vẫn đổ ngoài biển Đông, phụ nữ vẫn bán thân nơi xứ người, thanh niên Việt Nam vẫn bán sức lao động để mưu cầu cơm áo.


Đó là lý do chính đáng để những ai còn lương tri phải chống lại sự cai trị hà khắc của đảng csVN và chống bằng tất cả khả năng của mình để cầu mong đời con cháu không phải sống kiếp nô lệ. Có mắt mà chẳng dám nhìn thẳng, có miệng mà không dám nói khi nhìn thấy bất công đầy dẫy và thật đáng trách nếu những người tự cho là trí thức cũng không dám nói lên suy nghĩ của mình. Chẳng có ai chết hai lần, trừ những kẻ hèn nhát. Đã đến lúc đảng csVN phải trả lại quyền tự quyết cho toàn dân qua lá phiếu bầu cử công khai và minh bạch. Thôi dối trá dưới hình thức đảng cử-dân bầu kiểu ép buộc, không được phép đánh đồng đảng là nhân dân, và sự thật là đa phần người dân không chấp nhận sống dưới chế độ cs. Dân tộc VIỆT NAM là một khối đoàn kết, Đảng csVN là của một nhóm người theo chủ thuyết cộng sản gọi tắt là Việt Cộng. Người Việt Quốc gia là VIỆT NAM CỘNG HÒA. VIỆT NAM và Việt Cộng hoàn toàn khác nghĩa.


Không ai muốn nuôi lòng hận thù nếu đảng csVN dám nhìn vào sự thật, thôi vui sướng trên những oan hồn và đau khổ của dân tộc kể từ khi Hồ Chí Minh và đảng csVN cai trị đến ngày nay. Không có “chiến thắng” và vui sướng nào tồn tại được trên máu và nước mắt của chính đồng bào cùng máu đỏ-da vàng. Không có bạo chúa nào tránh khỏi ngày đền tội .


Không ai chống csVN vì quá khứ, nhưng tội ác Hồ Chí Minh và đảng csVN phải được lôi ra trước ánh sáng sự thật; để những oan hồn được siêu thoát; để Bắc kỳ , Trung Kỳ và Nam kỳ chung sức đào mồ chôn chủ thuyết cộng sản khát máu; để phân tranh Nam Bắc chỉ còn là dĩ vãng, là bài học cho thế hệ tiếp nối tránh xa chủ thuyết “Quái Thai – Đại Họa” của loài người.

“Hãy nhắm quân thù mà bắn” như cs thường rêu rao bằng lời ca tiếng hát , chứ đừng chĩa súng giương lê vào đồng bào mình hỡi những ai “có quyền cầm súng”. Quân đội bảo vệ đất nước chứ không thể để phục vụ 15 tên lãnh đạo bán nước. Công an gìn giữ trật tự xã hội chứ không để tuân lệnh Đảng cách mù quáng đàn áp dân lành chịu quá nhiều đau khổ bất công triền miên đến hôm nay. Thiên chức làm người là có quyền nói thẳng. Chỉ thẳng mặt, nêu đích danh phường buôn dân bán nước, bất chấp mọi hệ lụy.

“Mỗi một nổi sợ hãi là một viên gạch xây lâu đài cho cộng sản mà nền móng của nó là nổi thống khổ của toàn dân tộc “.

Xin bái phục những anh hùng vị quốc vong thân. Xin nghiêng mình tưởng nhớ tất cả những ai đã ngã xuống hay đang bị tù tội vì Quê Hương đất nước Việt Nam này .

Trọng Kính .

Người Lính Việt Nam
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Image

VIÊN ÐẠN CUỐI CÙNG
Trần Như Xuyên
Tháng 8-1974, một trận đánh lớn xẩy ra tại Thường Đức giữa hai Lữ đoàn Nhẩy Dù của Quân lực VNCH và 3 Sư Đoàn quân Bắc Việt, trận chiến rất khốc liệt, sau 3 tháng quần thảo, số tổn thất của hai bên rất to lớn.

Trận chiến đã trôi qua 37 năm, nhưng những người lính Nhẩy Dù năm xưa vẫn không quên âm vang của trận đánh và những đồng đội đã nằm xuống.
Xin mời đọc câu chuyện của một người Đại Đội Trưởng Nhẩy Dù tham dự trong trận đánh này tại Thường Đức.

*********

Tâm Anh bước những bước nhẹ trên hè đường Tự Do, cơn gió lạnh cuối năm khiến nàng khoanh hai tay lại suýt xoa. Những chiếc lá me khô lăn tròn như điệu nhạc luân vũ dưới chân nàng. Sài gòn năm nay được hưởng một cái lạnh khác thường, gần Noel rồi còn gì. Ngang qua Brodard, nhiều cặp mắt trong đó nhìn nàng, còn anh trong đó nữa đâu? Vậy là anh vĩnh viễn xa em rồi… Phải chi anh đừng mê đời lính, phải chi anh đừng mê súng đạn thì giờ này em đâu có cô đơn như thế này. Tâm Anh nhớ lại, cũng là Broadard này một ngày nào đó, ngày hai người còn quấn quýt bên nhau, khi đang ngồi uống nước, ngắm thiên hạ qua lại, bất chợt Chương nắm tay nàng:
– Em, anh đã suy nghĩ kỹ rồi, anh sẽ nhập ngũ, vào Võ Bị Đà Lạt.

Cái ống hút rời khỏi đôi môi xinh xắn, nàng không ngạc nhiên nhưng có bàng hoàng. Tâm Anh chờ đợi ngày này sẽ đến và bây giờ nó đến, vậy mà vẫn không tránh được. Nàng hiểu tính Chương, thời gian gần đây, Chương luôn than phiền về một cái gì đó, không rõ ràng, có lúc Chương bảo sao chàng thấy thành phố này ngột ngạt quá, chỉ muốn xa khỏi đây, có lúc Chương đứng sững nhìn một người lính phía bên kia đường, lẩm bẩm: ”Vậy mà Trung nó chết cũng được nửa năm rồi” -Trung là một trong ba người bạn thân của chàng, cùng đang học Đại học, rồi cả ba bỏ đi lính. Khi mãn khóa, Trung chọn binh chủng Nhẩy dù, hai người kia chọn bộ binh và đổi đi xa, chỉ có Trung thỉnh thoảng về phép, rủ Chương và nàng đi chơi như ngày xưa, ngày mấy người còn vui chơi với nhau chung một nhóm. Trung đen hơn nhưng rắn rỏi, mỗi lần về, Trung say sưa kể về một trận đánh nào đó mà anh tham dự, nàng bắt gặp ánh mắt Chương rực sáng khi nghe Trung nói chuyện. Thế rồi Trung không còn dịp về nữa để kể chuyện chiến trường cho Chương nghe, anh đã hy sinh trong một trận đánh ở đâu đó, nàng không nghĩ Chương lại nối gót theo mấy người kia sớm tới như thế.
Nàng bất chợt hỏi Chương:

– Anh bỏ đi như vậy, còn tình yêu chúng mình, còn em thì sao?
– Thì tình yêu mình cũng vẫn còn đấy chứ em, biết đâu sự xa cách này chẳng là một thử thách cho đôi ta, nếu mình vẫn giữ vững được, nếu mình vẫn chỉ nghĩ đến nhau thì cuộc hôn nhân mới thực bền vững

Cuối năm 1972, chiến trường đã qua đi những trận đánh lớn, tháng giêng 1973, Hiệp định Paris được ký kết đúng với sự mong đợi của Hoa Kỳ và VC. Về phía Hoa Kỳ, có người bảo nhiệm vụ của họ đã xong, tức chiến lược toàn cầu của họ đã hoàn tất, giờ Mỹ có thể rút hết quân về nước, để hai bên VN giải quyết với nhau, đúng ra phải nói là để miền Bắc giải quyết miền Nam vì Mỹ không giữ lời cam kết là sẽ yểm trợ chính phủ VNCH. Trong khi miền Nam đơn độc chiến đấu thiếu cả về vũ khí lẫn viện trợ kinh tế thì CS Bắc Việt lại được sự yểm trợ to tát của toàn khối CS.

Về phía Bắc Việt, ký kết Hiệp định Paris là cơ hội để họ xâm chiếm miền Nam, khi người Mỹ bắt đầu rút quân thì cũng là lúc CS đem quân ồ ạt vượt qua vĩ tuyến 17, chúng hoàn thành con đường đông Trường Sơn để chuyển quân và vũ khí được nhanh hơn, xe cộ và bộ đội rầm rộ chuyển vào như chỗ không người, trước đây chúng không dám ngang nhiên như vậy vì sợ B52 và quân ta phục kích. Hiệp ước Paris qui định ai ở đâu thì yên đó nhưng với VC, có khi nào ta tin được chúng. Kinh nghiệm cái Tết Mậu thân còn đó. Tuy quân VC gia tăng nỗ lực chuẩn bị cho cuộc chiến nhưng chúng vẫn chưa nắm vững không biết người Mỹ có quay trở lại hay không nếu chúng mở các cuộc tấn công lớn. Qua nhiều cuộc lấn chiếm thăm dò, Mỹ vẫn giữ thái độ im lặng, chúng quyết định mở một cuộc tấn công và nơi chúng lựa chọn cho cuộc thử thách này là Thường Đức, nếu chúng thắng cuộc chiến ở đây, chúng sẽ đưa quân thẳng ra biển, chia cắt miền Nam làm hai và sự sụp đổ của VNCH chỉ đếm từng ngày.

Thường Đức là một quận nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam, được tách ra từ Quận Đức Dục, nằm phía Tây Đà Nẵng trên liên tỉnh lộ 4, cách Quốc lộ 1 khoảng 40 cây số. Đây là một điểm chiến lược quan trọng, coi như tiền đồn của của Đà Nẵng. Thường Đức trước kia là một trại LLĐB Mỹ, xây dựng kiên cố với những hầm ngầm bê tông cốt sắt.


Quân trú phòng tại Thường Đức có 2 ĐĐ Địa phương quân, 14 Trung đội Nghĩa quân, tháng 6, 1974, tin tức tình báo cho biết VC đang chuẩn bị lực lượng có thể tấn công Thường Đức. Tiểu Đoàn 79 BĐQ được tăng cường thêm cho Chi khu này, gọi là Chi khu nhưng nó có tính cách chiến lược hơn là yếu tố kinh tế, dân thì toàn là gia đình của binh sĩ trú đóng tại đây, đất đai khô cằn sỏi đá, ba hướng bao quanh là núi cao dốc đứng, chỉ có hướng Đông để ra QL1 là bằng phẳng.

VC tấn công Thường Đức với SĐ 304 (SĐ Điện Biên), SĐ 324 và nhiều Trung Đoàn tăng cường cùng các đơn vị Pháo và xe tăng. Quân trú phòng chống cự mãnh liệt, TĐ 79 BĐQ chiến đấu dũng cảm, gây thiệt hại to lớn cho quân tấn công; phía trú phòng cũng bị thiệt hại, Trung Tá Quân Trưởng bị thương nặng, Th/T TĐT /79 BĐQ cũng bị thương và gọi pháo bắn ngay trên đầu. Sau gần 10 ngày chống cự, với quân số địch quá đông và các họng pháo ở những ngọn đồi chung quanh bắn trực xạ vào Thường Đức, Quận bị thất thủ.

Lo sợ cho Đà Nẵng, Tướng Trưởng xin Bộ TTM cho SĐ Dù tham chiến, Lữ đoàn 1 gồm 3 TĐ: 1,7 và 9 được không vận từ SG bằng C130 xuống Đại Lộc.
Trung Úy Nguyễn thanh Chương, khóa 25 VB Đà Lạt lúc này là ĐĐT của TĐ 1 Nhẩy Dù tham dự cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức, Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù cũng chuẩn bị vào vùng từ Huế.

Đường vào Thường Đức rất bất lợi cho quân giải tỏa, chỉ có một con đường độc đạo là liên tỉnh lộ 4 từ ngoài Đại Lộc tới Thường Đức mà hai bên đường có nhiều ngọn đồi mà VC đã chiếm, thiết lập công sự phòng thủ kiên cố trong vách đá, trong đó có ngọn đồi 1062, từ đây chúng có thể kiểm soát mọi sự di chuyển trên LTL4. VC đã chiếm ngọn núi này trước khi chúng tấn công Thường Đức vì chúng biết thế nào phía ta cũng đem quân giải cứu Quận lỵ này.

Lữ đoàn 1 dàn quân xuất phát mà ưu tiên phải chiếm được ngọn đồi 1062, họ biết là quân VC đã sẵn sàng đợi họ ở đây. Tiểu Đoàn 1 của Chương được chỉ định chiếm ngọn đồi này, đường tiến quân rất khó khăn vất vả, phải băng qua những khoảng trống mà pháo của chúng đã có tọa độ sẵn, rồi các đồi đá phải vượt qua, bứng những chốt Cộng quân cài chung quanh để cầm chân bước tiến của quân Dù. Khi gần tới được gần 1062, TĐ1 đã bị một số tổn thất nhưng nhiệm vụ trước mắt vẫn là làm sao phải chiếm cho được ngọn đồi này để kiểm soát con đường nằm phía dưới dẫn vào Thường Đức.

TĐ1 dàn quân dưới chân đồi 1062, một cái lưng yên ngựa phải vượt qua trước khi tới sát được dưới chân đồi, địch từ trên cao có lợi thế hơn và hầm hố chúng xây dựng trong hốc đá kiên cố với nhưng cây cổ thụ to được chúng cưa làm nóc hầm. Cả hai Đại Đội Dù được pháo binh yểm trợ xung phong chiếm mục tiêu nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt của địch, cối 120 ly và hỏa tiễn 122 ly được địch bắn xối xả vào vị trí quân Dù. Những mục tiêu tác xạ chúng đã tiên liệu trước và tiền sát của chúng từ những ngọn đồi chung quanh gọi pháo chính xác, suốt một ngày, Dù bị cầm chân. Đại Đội Chương mất một Th/U Trung đội trưởng và 5 binh sĩ cùng khoảng một chục bị thương.

Lệnh từ TĐ cho ĐĐ Chương lùi lại, bố trí tuyến phòng thủ đêm lấy sức cho cuộc tấn công ngày hôm sau. Rạng sáng, ĐĐ Chương, bọc qua hướng khác, nơi có nhiều dốc đá thẳng đứng, hướng này địch có lơ là vì không nghĩ Dù sẽ chọn để tấn công. Pháo ta dồn dập đổ xuống đỉnh đồi, địch co cụm trong hầm hố tránh pháo, lính Dù bám từng hốc đá âm thầm leo lên ,khi gần tới đỉnh đồi, họ đồng loạt khai hỏa xung phong. Dù dùng lựu đạn ném xuống hầm, bị bất ngờ, chúng hốt hoảng bung hầm chạy. ĐĐ Chương chiếm được đồi 1062 nhưng ngay lập tức, địch pháo kích dữ dội với đủ loại pháo từ những ngọn đồi chung quanh. Lính Dù nhờ có hầm hố kiên cố sẵn của bọn chúng, tránh được nhiều thiệt hại. ĐĐ Chương được lệnh bố trí giữ ngọn đồi, sáng hôm sau sẽ có một ĐĐ bạn lên tăng cường nhưng tối đó, Chương không thể giữ được ngọn đồi mà suốt ngày hôm nay đã đổ bao xương máu mới chiếm được. Mới chập tối, địch pháo tàn sát ngọn đồi rồi cho nguyên một Trung đoàn xung phong tái chiếm. Ở tuyến phòng thủ phía Tây, Th/U Thành, một Trung đội trưởng xuất sắc của Chương gọi máy cho biết địch rất đông, đang tràn ngập mục tiêu, Thành xin pháo binh bắn ngay trên đầu. TĐ cho lệnh Chương rút xuống, Chương gọi máy cho lệnh, không có tiếng Thành trả lời, tuyến của Thành bị tràn ngập. Thành bị nguyên một băng AK nát hết người. Khi lính của ĐĐ rút hết, Chương xuống sau cùng, chàng gọi pháo dập xuống đỉnh 1062. Lúc Chương đang lao xuống gần chân đồi, một trái pháo nổ ngay cạnh Chương, không biết của ta hay của địch, Chương thấy tối tăm mặt mũi và rồi không biết gì nữa.

Ngày hôm sau, một ĐĐ khác được lệnh tấn công tái chiếm ngọn đồi, họ gặp Chương nằm trên vũng máu, người lính mang máy và cận vệ của anh nằm chết bên cạnh. Chương bị thương rất nặng, pháo cắt đứt một chân anh, mặt phủ đầy máu, Chương được tải thương ngay lập tức. Suốt mấy ngày ở bệnh viện, Chương ở trong biên giới giữa cái sống và cái chết.

Cuối cùng, người ta đã cứu được Chương thoát lưỡi hái của tử thần nhưng không cứu được cái chân của anh, và khuôn mặt, một mảnh pháo chém sạt một bên má. Khi tỉnh lại, Chương biết mình bị thương nặng lắm, cái đầu cuốn trong băng trắng xóa và đau nhức khủng khiếp. Chương cũng biết mình mất mất một chân. Các Bác Sĩ khi thấy Chương đã đủ khỏe, họ cho anh biết sự thực về khuôn mặt, họ nói sẽ cố gắng đắp vá cho anh nhưng không thể nào có được hình hài như xưa.

TĐ cho một người lính thân cận của Chương ở hẳn Bệnh viện để chăm sóc anh cùng với chiếc xe jeep. Đầy, người Hạ sĩ theo Chương từ ngày Chương gia nhập Nhẩy Dù. Đầy là người lo cho anh từ cái ăn, cái ngủ như người mẹ hiền, giờ vẫn cạnh ông thầy. Khi ông thầy bị thương quá nặng, vẫn chăm sóc anh từng li, từng tí. Chương không cho Đầy báo gì Tâm Anh biết, cho đến một ngày, Chương dặn dò Đầy đến cho Tâm Anh biết tin nhưng là một cái tin Đầy thấy khó khăn để nói.
Gần hai tháng nay, Tâm Anh không nhận được thư từ hay tin tức gì của Chương cả, nàng có nghe về những trận đánh xẩy ra với đơn vị Nhẩy Dù ở đâu đó. Một buổi trưa, một cái xe jeep đỗ xịch trước cửa nhà, nàng thấy Đầy bước xuống, Tâm Anh chạy vội ra:

– Chú Đầy, Trung Úy không về hả, có thư không vậy chú?

Đầy không nói gì cả, anh bước vào trong nhà, tay cầm chiếc mũ béret đỏ xoay xoay trong tay.

Nhìn cử chỉ khác thường của Đầy, Tâm Anh biến sắc, nàng đưa tay lên ngực: gì thế này, có chuyện gì xẩy ra cho Chương rồi sao, đừng nói gì không may nghe chú Đầy, sao mặt chú lại buồn thế kia, đừng, chắc không có gì đâu, có gì nói đi, nói đi chú Đầy.

Sau một chút ngập ngừng, Đầy lên tiếng:

– Xin cô bình tĩnh, mời cô ngồi xuống, Trung Úy Chương đã hy sinh, ở mặt trận Thường Đức, quân địch tràn ngập mục tiêu, chúng tôi không lấy được xác Trung Úy, Trung Úy đã chiến đấu dũng cảm nhưng địch đông quá.

Tâm Anh choáng váng mặt mày, nàng buông rơi mình trên ghế, không còn nghe những gì Đầy đang nói tiếp. Thế đấy anh ơi, sao giản dị quá: Trung Úy đã hy sinh. Câu nói thật đơn giản mà như đất trời sụp đổ, bao nhiêu người đã được nghe những câu đơn giản như thế này, bao nhiêu cõi đời tan nát?

Hạ sĩ Đầy đã hoàn thành nhiệm vụ được Chương trao phó, một nhiệm vụ khác thường trong bao nhiêu việc Chương đã bảo anh làm trước đây. Công việc chút nữa đã không hoàn thành khi Đầy nhìn thấy sự đau khổ tột cùng trên gương mặt Tâm Anh. Nhờ là một người lính tác chiến sắt đá nên đã kềm chế được mình vì anh hiểu những gì ông thầy mình muốn cho quãng đời còn lại của ông ấy và nhất là cho Tâm Anh. Đầy cũng thương ông Trung Úy của mình không kém gì Tâm Anh, có điều hai tình thương khác nhau; với Đầy, Chương là một cấp chỉ huy gương mẫu, can đảm và thương yêu binh sĩ hơn cả tình đồng đội, những ngày ở Bệnh viện, đã bao lần Đầy ngăn nước mắt khi nhìn Chương trong hình hài không còn nguyên vẹn.

Tâm Anh bỏ ngang việc học, nàng không còn tâm trí để nghĩ đến sách vở, nàng đi hát để tìm quên. Nhờ làn hơi thiên phú, chỉ trong thời gian ngắn, tiếng ca nàng vút cao trong nền ca nhạc ở Sài Gòn, nhiều nơi săn đón mời nàng hát cho phòng trà của mình, Tâm Anh chọn chỉ hát độc quyền cho Tự Do, một phòng trà mà lúc còn sống Chương rất thích. Ở đây, nàng như thấy Chương của một ngày mà Hey Jude, don’t let me down, ngày hai người quấn quýt bên nhau với tiếng hát của Billy Shane, của Strawberry Four. Nàng cũng thuộc lòng câu thơ Chương làm cho nàng trong một lần lên Đà Lạt thăm Chương về:

Anh cứ sợ rồi mình sẽ quên nhau
như con đường nơi đó
như ngày nao trên thềm phố chợ
sáng Chủ Nhật
em chờ anh
vẫn trên cao là những nhánh thông xanh
và dưới thấp là mặt hồ yên lặng
có phải mùa Thu làm mắt em xa vắng
rồi mình sẽ quên nhau


Tâm Anh rưng rưng nước mắt, đấy, anh ơi, đang yêu nhau mà anh cứ nghĩ đến chuyện cách chia, giờ ta xa nhau thật rồi, xa nhau vĩnh viễn, em giờ đây như rừng thu. Anh đang yên nằm ở đâu, sao người ta không đem anh về cho em? Tâm Anh vẫn buốt lòng mỗi khi nghĩ tới Chương.

oOo

Chương ở trên một căn gác nhỏ, có Đầy lo cho mọi chuyện, thời gian đầu khi còn phải tới lui bệnh viện cho các Bác sĩ tái tạo lại khuôn mặt, Đầy vẫn lái xe chở Chương trên cái xe jeep mà TĐ cung cấp, khuôn mặt chỉ làm đỡ được phần nào trong sự tàn phá của trái pháo, khi soi gương, Chương cũng không nhận ra mình, chiến tranh ghê gớm quá.

Cứ mỗi tối, đúng 10 giờ, Tâm Anh xuất hiện trên sân khấu Tự Do, sau lời giới thiệu, nàng bước ra trong chiếc áo dài lộng lẫy, Tâm Anh cúi chào khán giả, mái tóc ngang vai xõa xuống che khuôn mặt u buồn, nàng hất mái tóc ra phía sau, giọng hát cất lên, nàng hát như gửi hồn vào một thời nào đó, có lúc nức nở như gửi tiếc thương cho một ai ở nơi xa xôi.

Xong bài hát, người bồi mang lại mảnh giấy nhỏ đưa cho Tâm Anh, nàng liếc nhanh: ”Người đi qua đời tôi, cám ơn.” Quái lạ, mấy tuần nay, cứ đúng thứ bẩy, nàng lại nhận được mảnh giấy yêu cầu bài hát Người đi qua đời tôi, chắc vẫn là người khách này. Tiếng hát cất lên: “Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu…” Giọng Tâm Anh như nức nở “Anh đi qua đời em, có nhớ gì không anh?…”

Hết phần trình diễn của mình, Tâm Anh ra về, nàng ngập ngừng trước cửa: vị khách kia chắc có một tâm sự buồn lắm, cùng tâm trạng như mình. Nàng đưa tay nhìn đồng hồ, để hôm nào mình phải gặp vị khách đó để thăm hỏi xem sao.
Một lúc sau, một chiếc xe jeep chạy tới, đậu gần nơi cửa, Đầy xuống xe bước vào phòng trà. Cũng sắp hết giờ, anh tiến lại phía chiếc cột khuất trong bóng tối, nghiêng xuống nói với một người ngồi ở đấy: “Trung Úy để em đỡ ra xe”. Chương chống tay xuống bàn, đứng dậy. Đầy dìu ông thầy ra xe, gió đêm thổi làm Chương thấy bớt ngột ngạt.

oOo

Sáu tháng sau, Tâm Anh lấy chồng, cũng một người trong Quân đội. Trong căn gác nhỏ, Chương nghĩ thôi thế cũng xong, mình đã chẳng từng cầu mong Tâm Anh được hạnh phúc hay sao, ngày rồi cũng lụi tàn, mình coi như đã chết trong Tâm Anh và nàng coi như đã xa khỏi đời mình. Chương bật cười – như cái chân nó cũng xa khỏi đời mình. Chương nhớ đồng đội khôn tả, nhớ những lúc băng mình trong lửa đạn, nhớ tiếng reo hò xung phong chiếm mục tiêu.

Rồi tình hình chiến sự trong những ngày kế tiếp hết sức khẩn trương, Ban mê Thuột có thể thất thủ, Chương theo dõi báo chí và tin tức trên đài phát thanh. Đầy chạy đi chạy về hậu cứ Tiểu Đoàn cho Chương biết TĐ hiện đang ở đâu, làm gì. Tình hình càng ngày càng xấu đi, Lữ Đoàn đang chống giữ tại Khánh Dương, rồi đang đánh nhau ở Long Khánh… Chương giật mình, Long Khánh à, vậy là gần quá rồi, sao mà lại nhanh như vậy, mới đây thôi, mình còn làm cho chúng tan hoang ở Thường Đức mà.

29 tháng Tư, Đầy chạy vội lên căn gác:

– Ông thầy, Tiểu Đoàn mình đang giữ cầu xa lộ, VC với xe tăng đang tiến từ Biên Hòa xuống, chắc sẽ đụng lớn ở đây.

Chương nhỏm dậy, với tay lấy bộ quần áo hoa dù mặc vào người, dắt theo khẩu colt hấp tấp hỏi Đầy:

– Có đúng Tiểu đoàn đang ở cầu xa lộ không?
– Đúng ông thầy, em mới gặp thằng Tư Đen nó nói vậy.
– Chú lái xe đưa tôi ra đó ngay, đi, nhanh lên.

Chiếc xe Đầy lái chạy như bay qua ngã ba Hàng Xanh, quẹo theo hướng xa lộ, dọc đường, Chương thấy dân chúng nhốn nháo, có người sách cả đồ đạc như chạy loạn, chiếc xe chạy tới giữa cầu thì ngừng lại, lính Dù bố trí dọc theo hai bên thành cầu, có pháo rớt chung quanh. Chương chống nạng tới chỗ có mấy cái cần ăng ten, Trung Tá TĐT Tiểu đoàn Dù mà Chương phục vụ trước đây đang nói chuyện trên máy. Chương bước tới đứng nghiêm chào vị TĐT, người cách đây mấy tháng đã cùng anh xông pha trong lửa đạn ở Thường Đức.

– Trời ơi Chương, cậu tới đây làm gì, lui xuống dưới kia, tụi nó sắp tới, có cả tăng nữa, lui xuống.
– Không đích thân, đích thân cho tôi được chiến đấu với anh em lần cuối, Nhẩy Dù cố gắng mà đích thân.

Vị Tiểu Đoàn Trưởng Dù nhìn Chương trừng trừng, môi ông run run, một người vào sinh ra tử cả bao nhiêu trận, bỗng dưng thấy lòng chùng xuống, ông chào Chương, một thượng cấp chào thuộc cấp, chưa bao giờ Chương gặp trường hợp như vậy…

Chàng lọc cọc chống nạng bước đi, cúi nhặt khẩu M16 của ai vứt cạnh đó cùng sợi dây ba chạc. Có tiếng Đầy:

– Ông thầy chờ em, em đi cùng với ông thầy.

Hai thầy trò xách 2 cây súng, ngồi dựa vào thành cầu, những người lính Dù đang nhắm súng vào hướng địch, có tiếng súng nổ từ hướng bên kia đầu cầu, tiếng đạn AK mà cả hai đã từng nghe quen, Chương lẩm bẩm: bài hát sao mà đúng thế, tai nghe quen đạn thù, chàng cao giọng:

– Nhẩy Dù cố gắng nghe Đầy.
– Dạ, Nhẩy Dù cố gắng ông thầy.

Tiểu Đoàn Dù đã thiết lập được hai lô cốt tạm ở đầu cầu hướng về phía nhà máy xi măng Hà Tiên, bộ binh địch bắt đầu xông lên nhưng chạm phải Dù bắn trả, chúng lùi lại rồi xốc tới, một lần rồi hai lần, chúng bị chặn lại. Chưa bao giờ đánh nhau mà không được một sự yểm trợ nào cả như lần này, từ pháo binh tới phi cơ, Chương và Đầy nhắm vào toán VC gần chân cầu, lâu rồi Chương mới cầm khẩu M16 mà bắn như vậy, không còn lệnh lạc, không còn chỉ huy, chỉ còn nhắm quân thù mà bắn.

Buổi tối, địch thôi tấn công, đêm yên lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo kích hướng Tân sơn Nhất và những tràng đạn nổ ở đâu xa nghe như pháo tết. Đầy kiếm được bịch gạo sấy và hộp thịt ba lát, Chương không ăn, hai thầy trò nằm cạnh nhau, trời trong và đẹp, những vì sao trên cao không sáng bằng sao ở Thường Đức. Đầy kể cho Chương nghe về những người người lính trong Đại Đội đã hy sinh ở đấy, về những người bạn ĐĐT và Trung đội Trưởng đã nằm xuống, Chương nhớ vô cùng những người lính trong ĐĐ trước đây, mỗi lần nói chuyện với họ, Chương luôn thấy ấm áp và một sự khoan khoái trong lòng, những người mà mới chuyện trò với họ hôm qua, hôm nay đã hy sinh, chịu đựng gian khổ và hiểm nguy, để được gì ngoài tình yêu quê hương.

Đêm mấy tháng trước ở đó đâu có yên lặng như thế này, mà chắc cũng không yên được lâu đâu, chúng đang chuẩn bị đấy, khi chúng im lặng là chúng đang chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo. Không biết cả hai thiếp đi được bao lâu, có tiếng súng nổ ran từ phía đầu cầu. Trời mờ sáng, địch bắt đầu tấn công. Chương và Đầy gom mấy dây đạn lại. Chúng xuất hiện ngay dưới chân cầu, những người lính Dù chuyển đổi vị trí ẩn nấp. Có tiếng ì ì từ xa, xe tăng địch tới. Chẳng còn gì ở đây cả, chỉ còn ít cây M72, mấy ngày nay, Dù vừa di tản vừa phải chiến đấu, đạn dược, lương thực đã cạn, chưa được tiếp tế. Hai chiếc xe tăng địch đi đầu khai hỏa, địa thế trống trải, chúng bắn dọc theo cầu, pháo tăng nổ cấp tập trên mặt cầu, quân Dù rút dần về phía đầu bên này, một viên đạn pháo xe tăng nổ ngay chỗ Đầy nằm cách Chương mấy thước, Chương bò tới, Đầy bị trái pháo nát bấy người, nhìn thấy Chương, anh chỉ kịp thều thào “Trung Úy…” rồi ra đi. Chương nắm tay Đầy, vuốt mắt cho người lính thương yêu, người đã sống chết với anh bao lâu nay nơi chiến trường và săn sóc Chương trong những ngày đau đớn. Chiến tranh chưa ngưng, còn tàn hại tới giây phút cuối cùng, chàng nắm cây M16 nghiến răng bắn một loạt về phía mấy tên VC đi đầu. Tiếng tăng mỗi lúc mỗi gần, Chương tuyệt vọng, mấy tháng trước mình đã không chết ở Thường Đức, giờ mình chết ở đây, cũng không sao, Chương rút khẩu colt, lên đạn. Tiếng xe tăng nghe càng rõ dần, nhìn Đầy nằm bên cạnh, anh thì thầm: “Thầy trò mình có nhau, Đầy a!ỉ”. Một tiếng vang lên, không phải Chương đang lao xuống từ ngọn đồi 1062, anh đang lao xuống một vực sâu, sâu lắm.
Trưa 30 tháng Tư, sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, dân chúng xuôi ngược trên cầu xa lộ nhìn thấy xác hai người lính Nhẩy Dù, trong đó có một người cụt mất một chân và tay họ nắm chặt lấy nhau.

VIẾT THÊM CHO LỜI KẾT

– Trận Thường Đức có thể nói là trận đánh lớn nhất của SĐ Nhẩy Dù, hơn 3 tháng quần thảo với hai SĐ cộng quân là SĐ 304 và 324, thêm nhiều Trung đoàn tăng cuờng cùng các Trung đoàn pháo, Cộng quân rút khỏi Thường Đức, ngọn đồi 1062 trước xanh tươi, giờ trơ trụi cây cối, được chiếm đi chiếm lại nhiều lần của hai bên, số thiệt hại như sau :
– Sư Đoàn Dù có 2 Lữ Đoàn 1 và 3 tham dự với 7 TĐ thay phiên nhau xa luân chiến, 500 tử thương , khoảng hơn 2000 bị thương, số tổn thất bằng 50% quân số.
– Cộng quân, ba Trung đoàn 24, 26, 66 coi như xóa sổ, hơn 2000 bị chết, 5000 bị thương.

Trong số những người hy sinh của SĐ Dù, có nhiều ĐĐT và Trung đội trưởng, Đại Úy Ngụy văn Đàng, một ĐĐT của TĐ 3 Dù đã phải gọi pháo binh và phi cơ dội ngay trên đầu mình vì địch quá đông, tràn ngập điên cuồng trong chiến thuật biển người. Khi tìm được xác anh, ĐU Đàng chết trong thế ngồi, mắt mở trừng trừng, người đầy vết đạn, anh chết mà chúng vẫn tiếp tục bắn vào anh. Người bạn thân cùng khóa 25 Võ Bị với Chương là Đại Úy Võ Thiện Thư, Đại Đội trưởng ĐĐ34 cùng Trung Úy Tô văn Nhị khóa 26 lên tiếp cứu cho Đàng cũng đã chiến đấu dũng mãnh. Địch xử dụng 1 Trung đoàn, cuồn cuộn biển người, cuối cùng, cũng như Đàng, Thư đã gọi pháo binh bắn ngay lên đầu khi bị địch tràn ngập, cả hai hy sinh. Khóa 26 VB về Nhẩy Dù 10 Sĩ Quan thì nội trong trận Thường Đức cũng đã hy sinh 5 người. Các Sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt phải trải qua một hành trình 12 năm ở Tiểu học và Trung học, 4 năm tại Trường Võ Bị, tổng cộng 16 năm, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy, những người sẽ là rường cột của Quân Đội sau này, nhưng chỉ cần một viên đạn, ngay trận đánh đầu tiên, đã hy sinh, có uổng phí không? Không, người Sĩ Quan Hiện dịch là như vậy, cần được tôi luyện trong khói lửa.

Hơn 5 tháng sau trận đánh tàn khốc này, miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Một sự thật đau lòng bởi sự phản bội của người Mỹ, cả một Quân đội hùng mạnh bị trói chân, trói tay trong cuộc chiến tuyệt vọng. Ở Thường Đức, Nhẩy Dù đã anh hùng chiến đấu giữ vững được bờ cõi, những năm tháng trước đó, ở Quảng Trị, Bình Long, Kontum, Qưân lực VNCH đã chiến đấu dũng cảm, rồi bao trận đánh oai hùng năm xưa. Khi người Mỹ đã xong công việc, họ gọi là cuộc rút quân trong danh dự, thật ra đây là cuộc rút quân nhục nhã, cuộc rút quân phản bội, chỉ tội nghiệp, ta đã hy sinh uổng phí, mấy trăm ngàn người chết để đổi lấy một kết cuộc bi thảm.

Bây giờ bỗng dưng nổi lên có những người mà năm xưa khi khói lửa chiến tranh, họ còn nhỏ, chưa phải cầm cây súng, chưa biết thế nào là chết chóc, chưa có cảm giác khi đồng đội ngã xuống bởi đạn thù, tóm lại, họ chẳng phải hy sinh gì hết, giờ họ lớn tiếng hỏi các Tướng lãnh (Quân Đội) đã xin lỗi nhân dân chưa? Câu hỏi thật lạ, chính họ phải xin lỗi những người đã nằm xuống vì đất nước, vì sự an toàn cho họ, họ phải xin lỗi vì sự nhởn nhơ ngoài vòng chiến mà bao người khác đã chết thay cho họ, những Don Quichotte thời đại cầm kiếm múa may, họ nghĩ rằng Quân Đội phải chịu trách nhiệm trong việc miền Nam bị mất mà họ thì không chăng?

Một Don Quichotte khác lớn tiếng thóa mạ các Tướng Lãnh hèn nhát, làm mất nước, lạ một điều, những người này chưa hề cầm súng chống lại quân thù trong cuộc chiến vừa qua, những người này khi đất nước chìm trong lửa đạn, họ vắt mũi chưa sạch, nhưng giờ họ làm như thể nếu họ chỉ huy thì ta sẽ không thua. Các Tướng có hèn nhát không? Tướng Nguyễn viết Thanh, Tướng Đỗ cao Trí, Trương quang Ân đã hy sinh tại mặt trận, 5 vị Tướng đã tuẫn tiết không đầu hàng giặc, còn bao nhiêu Sĩ Quan khác nữa mà họ là những anh hùng trong bóng tối, họ có hèn không?

Chương, cho đến khi dành viên đạn cuối cùng cho mình, nằm xuống mà vẫn không hiểu tại sao miền Nam lại mất, bao nhiêu bạn bè, đồng đội anh cũng đã nằm xuống mà không biết mình bị phản bội, giá biết được, liệu họ có liều hy sinh cho một điều vô lý như thế? Họ là những người lính, mà người lính lúc nào cũng nghĩ tới nhiệm vụ và thi hành lệnh. Xin kính chào những người lính Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống cho quê hương.

Trần Như Xuyên
hoangphong
Posts: 365
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Image

Người Lính Già và Khung Trời Kỷ Niệm -

T. Thiên Thu

Nghiêng đầu nhìn qua khung cửa sổ màu trắng đục trước cửa nhà, ông thấy mặt trời lấp ló trên đầu cây Phượng tím, bây giờ bắt đầu mùa Xuân, lá phượng màu vàng úa, rơi lả tả tan tác đầy sân, để sửa soạn đâm chồi nảy lộc, ra lá non mơn mởn, trổ hoa tím rực rỡ, đón chào mùa hè ấm áp.

Ở tuổi về hưu, ngày ngày ông làm bạn với cây cam, cây quít sau nhà, ông không quên bón thêm phân mà ông đã mua tháng trước ở Home Depot, cho cây hoa lài nằm sát chậu nha đam xanh mướt, giúp nó chóng ra hoa trắng mượt mà, thơm phưng phức, để bà xã có dịp trỗ tài nấu món thạch chè Hiển Khánh, nổi tiếng của thập niên 60 ở Dakao, nuốt tới đâu là mát tới đó, vừa ngọt vừa thơm,làm dịu bớt phần nào cái nóng oi bức của mùa hạ.

Dù có hệ thống nước tự động, nhưng ông vẫn tưới thêm bằng tay với vòi nước chảy róc rách, cho hai cây cau hoàng hậu trước sân thêm xanh tươi, mát mắt. Cô ca sĩ dù có giọng hát thiên phú, cũng chọn cho mình những xiêm y rực rỡ, tô son điểm phấn, tạo thêm phần hào hứng cho kẻ nghe người nhìn, huống hồ gì hoa thơm cỏ lạ, cũng cần bàn tay chăm sóc của người làm vườn, dù không chuyên nghiệp như ông.

Những công việc nho nhỏ tưởng như không quan trọng mấy, ấy vậy là cách giết thì giờ hiệu quả nhất trong thời điểm đại dịch COVID-19 ác ôn này. Từ khi trời vừa sáng, cho đến khi màn đêm vừa buông xuống, những Email ,tin nhắn, messenger, gửi qua gửi lại cho nhau, từ lũ bạn thân thiết Không Quân gần trời xa đất, ân cần nhắc nhở tình trạng cách ly, nam nữ thọ thọ bất thân, kể cả đàn ông, con nít, ông già bà trẻ, xin hãy rời xa ít nhất là 2 mét, sớm mai thức dậy, đừng quên nhâm nhi ly nước ấm pha chanh gừng, nếu không bị bịnh đau bao tử hành hạ! Và còn nhiều lời nhắn nhủ thân tình nhất để giữ đời cho nhau thật lâu, thật dài,theo phương châm của người Không Quân “ KHÔNG BỎ ANH EM KHÔNG BỎ BẠN BÈ “

Ngay cả ngày lễ Phục Sinh vừa qua, con gái ông lái xe đến nhà, mang hai đứa cháu ngoại dễ thương cả tháng trời chưa gặp mặt, được mẹ nó dặn đứng xa xa, đưa cho ngoại tấm giấy viết nguệch ngoạc “ Cháu nhớ và yêu ông bà ngoại lắm “ kèm theo 2 cái chocolate cookie từ Starbucks.

Ông muốn ôm hôn chúng nhưng chợt nhớ và dừng lại, mở cửa xe, bỏ hai giỏ quà Easter có kẹo bánh, sách vở, trứng nhựa đủ màu, xanh xanh đỏ đỏ vàng vàng, có đồ chơi nho nhỏ, lúc la lúc lắc phía trong, kèm theo con thỏ bông xanh màu da trời mà bà ngoại nó đã nâng niu, cẩn thận gói ghém cho hai đứa cháu cưng, con gái phân trần muốn bảo vệ sức khỏe cho ông bà, vì hệ thống miễn nhiễm của người cao tuổi không được mạnh cho lắm, nên sợ hai đứa bé có thể rủi ro lây bệnh cho ông bà thì nguy to!

Biết rồi khổ lắm nói mãi, con gái ơi! Đừng nhắc nhở chi cho lòng thêm đau buồn! Ông biết rằng ở tuổi vàng, tuổi hạc hay gọi nôm na tuổi xế chiều này, không ít bộ phận trong người cũng mong manh, dễ vỡ, có khi phải cắt xén, thêm này bớt nọ cho bền bỉ, như chiếc xe hơi chạy hơn trăm ngàn dặm cũng phải tu bổ, bảo trì để còn ì ạch,tiếp tục chạy trên con đường đời dài thật dài.

Mới đó mà ông đã sống trên mảnh đất quê hương thứ hai này gần 45 năm, chưa kể những lần đi tu nghiệp thêm tại Hoa Kỳ. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ! Ông nhớ lại ngày xếp áo thư sinh, giã từ mái trường Luật với hàng cây xanh bóng mát, uống ly chanh đường uống môi em ngọt, gia nhập binh chủng Không Quân vì ham mê nghề lái phi cơ, với lý tưởng bảo quốc trấn không, cũng là ngày ông đắp mộ cuộc tình đầy nước mắt của người yêu mình và người mình yêu, vì ông già vợ tương lai, không muốn con gái mình thành goá phụ ngây thơ, lúc tuổi vừa chớm đôi mươi, khi kết duyên với kẻ “đi không ai tìm xác rơi”. Thương cho bà mẹ già, hằng đêm khấn nguyện cho con trai mình tai qua nạn khỏi, cho con tàu không là quan tài ôm xác con yêu.

Có những lúc trong khung trời bình yên, không chiến tranh tại Hoa Kỳ, ông nghe tiếng máy bay trực thăng của đài Tivi địa phương theo đuổi tên cướp xe, bố láo xì ke nào đó, phóng như bay trên xa lộ theo sau là đoàn xe cảnh sát hú còi inh ỏi, hay tiếng kêu êm ả của chiếc Boeing trên không cao tít, đón đưa hành khách đến phương trời xa xôi, hoặc năm thì mười họa, khi đi xem những Air Show biểu diễn của nhóm phi công Hoa Kỳ thượng thặng, tinh nhuệ Thunderbirds hay Blue Angels, để nghe âm thanh gầm thét như xé toạc không gian, đưa ông về khung trời kỷ niệm ngày nào.

Quên sao được những phi vụ hành quân Tết Mậu Thân 1968, khi Cộng Sản lợi dụng lệnh ngưng bắn để tấn công Huế, Saigon và các đô thị khác của miền Nam Việt Nam. Ông còn nhớ như in tiếng mẹ khóc nức nở trong điện thoại, báo tin đã tìm thấy xác ông cậu bị trói tay phía sau và bị xử tử với hàng trăm thi thể đàn ông, đàn bà, trẻ em trong mồ chôn tập thể, phía Bắc sông Hương. Ông cậu chỉ là một công chức bình thường ở Huế.

Quên sao được tháng 5 /1968 trong trận chiến Lăng cha Cả, với sự yểm trợ của trực thăng võ trang từ KD33 CT và sự quả cảm của lực lượng KQVN phòng thủ, KQ & Thiết Giáp Hoa Kỳ, đại đội Dù đã đẩy lui VC, bảo vệ vòng đai căn cứ! Tiếc thay ta đã mất đi một vị anh hùng KQ, đại tá Lưu Kim Cương đã tử thương vì trái B40 oan nghiệt.

Quên sao được trong mùa Hè đỏ lửa 1972, trong mặt trận Quảng Trị Đông Hà, ông cùng đồng đội F5, A37, A1, L19 và UH1 đã yểm trợ cho Lục Quân, chống lại quân Cộng sản vượt sông Bến Hải, mở đầu cuộc chiến xâm lăng tàn khốc.

Quên sao được một Trần thế Vinh anh hùng của phi đoàn 518/SĐ3KQ đã hy sinh trong vùng trời lửa khói Quảng Trị sau khi bắn hạ 21 chiến xa địch. Quên sao được thiếu tá Nguyễn Du, một hoa tiêu khí phách ngang tàn A37 thuộc phi đoàn 516/KD41 làm khiếp vía Cộng quân, đã gẫy cánh trên vùng trời Quảng Trị, bị bắt sống và ném đá cho đến chết.

Quên sao được những phi vụ hành quân Tống Lê Chân 1973, VC đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Paris ký ngày 27/1/1973 bằng cuộc tấn công tiền đồn Tống Lê Chân cách An Lộc 15 cây số về hướng Đông Bắc, những hoa tiêu và phi hành đoàn Chinook CH-47, C130, Trực thăng đã không ngại hiểm nguy với những phi vụ cung cấp tiếp liệu vũ khí, lương thực, tải thương cho các chiến sĩ Biệt Động Quân can trường.

Quên sao được tháng 4/1975 những phi vụ hành quân trong trận chiến đẫm máu Xuân Lộc, khu vực phòng thủ trọng yếu cho Biên Hoà, nơi căn cứ của phi đoàn F5 ông đang trú đóng. Xuân Lộc cách Saigon 120km về phía Đông Bắc, dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo, cùng tinh thần bất khuất của các chiến sĩ QLVNCH, đã chống trả mãnh liệt với lực lượng cộng quân, tổng số gấp 3 gấp 4 lần.

Dòng suy nghĩ bất chợt gián đoạn bởi tiếng điện thoại reo vang trong túi áo trước ngực của ông.

Alo, C. Cali đây, mày và bà xã mạnh không?

- Tụi tao vẫn khỏe, dậm chân tại chỗ ở nhà, vì tình trạng cách ly, đề phòng con virus Wuhan, còn mày và gia đình ra sao?

- OK, Cali cũng vậy, hàng quán, mọi chỗ đều đóng cửa, nhiều người Việt Nam mình may khẩu trang giúp bịnh viện, hoặc tiếp tế thức ăn trưa cho nhân viên y tế.

- Arizona và một số tiểu bang khác cũng vậy, đây là dịp người Việt mình đóng góp một bàn tay, cho đất nước đã cưu mang tụi mình trong mấy chục năm qua!

- Mày biết tin T. khoá 64KQ vừa qua đời tháng vừa rồi ở Seattle không?

- Có, tao có gọi điện thoại chia buồn với chị T. tuần trước! Nhớ lại 2 vợ chồng T. xuống thăm Arizona năm 2015, tao đưa đi chơi vòng vòng thành phố Phoenix, T. ngạc nhiên và xúc động khi thấy cờ vàng 3 sọc đỏ bay phất phới ngang hàng, cùng kích thước với cờ tiểu bang Arizona và quốc kỳ Hoa Kỳ!

-Tao thật vui khi giải thích cho T. biết, kể từ ngày 29 tháng 4 năm 2001 lần đầu tiên trong lịch sử người Việt tỵ nạn trên thế giới, quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà chính thức 365 ngày, bay phất phới tại Wesley Bolin Memorial Park, tọa lạc trước dinh thống đốc và quốc hội Arizona. Nhờ vào sự vận động của hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà Arizona và hội Cựu Chiến Sĩ Hoa Kỳ, quốc kỳ VNCH được thống đốc Arizona, bà Jane Dee Hull ký bản tuyên cáo ngày 2 tháng 4 năm 2001 cho sự hiện diện của lá cờ vàng 3 sọc đỏ,vĩnh viễn tại đài tưởng niệm Cựu chiến binh Arizona!

- Hôm nào tao qua thăm mày, nhớ đưa tao đến chỗ đó nhe!

- Hứa là phải làm mau mau nhe mày! Tuổi đời tụi mình ở ngưỡng cửa 80, hễ “ Trời kêu ai nấy dạ” mà không dạ, cố gắng dùng dằng Em chả, Em chả muốn đến với trời, cũng bị lôi đi xoành xoạch!

-OK, OK, tao hứa sẽ qua thăm mày, một ngày đẹp trời gần đây, giữ gìn sức khỏe nhe!

Tiếng cười dòn của thằng bạn thân Cali trước khi cúp máy làm ông vui hẳn lên, ông với tay bức nhẹ một bông hoa Hong Kong orchid màu tím nhạt trước sân, rồi mở cửa bước vào nhà, mùi thơm lá dứa của đĩa xôi trên bàn làm ông thấy đói bụng, ông gắn đóa hoa lên tóc vợ rồi mỉm cười nói :

- Xôi thơm quá, Anh chưa ăn mà đã thấy ngon!

- Anh dùng đi kẻo nguội! Em mới nấu với nước lá dứa tươi sáng nay!

Ông âu yếm nhìn vợ, người đàn bà đã hơn nửa đời người luôn bên cạnh ông, săn sóc từ miếng ăn, giấc ngủ, chia vui xẻ buồn, ông thấy hạnh phúc vỡ oà trong tầm tay, trong nụ cười, trong ánh mắt.

Đâu đó tiếng hát trầm ấm nữ ca sĩ T.T. qua bài “ Một chuyến bay đêm” của nhạc sĩ Song Ngọc và Hoài Linh.

Có người hỏi Phi Công ước mơ gì?

Người ơi nhân thế muôn màu nào biết mơ chi!

Người lính già KQ sẽ khe khẽ trả lời: Ông mơ ước cho đại dịch Vũ Hán chóng qua đi, cho thế giới trở lại cuộc sống bình thường! Ông mơ ước chế độ Cộng Sản độc đảng, tàn bạo, phi nhân chẳng chóng thì chầy sẽ sụp đổ! Và ông mơ ước sẽ cùng bà,nắm tay bên nhau cho đến cuối cuộc đời.

T. Thiên Thu
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tramthaiha »

Image

MỘT CHÚT VỀ TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ -

Trần Như Xuyên
Tướng Đỗ cao Trí, nói về tài chỉ huy quân sự của ông thì khó ai có thể phủ nhận, xin được có đôi chút về ông mà người viết bài có lần được chứng kiến trong một trận đánh, thật ra không đáng kể gì về một trận đánh trong suốt chiều dài cuộc đời binh nghiệp của một vị Tướng lừng danh. Tiểu sử của ông cho biết ông mang lon Đại Tá khi mới 26 tuổi, cái đáng nói không phải vì tuổi còn trẻ mà mang lon to mà là ông mang lon này dưới thời Tổng Thống Ngô đình Diệm, một Tổng Thống rất khe khắt, người ta nói là hồi đó ai được lên cấp Tá phải trình diện TT Diệm để ông xem tướng xem có xứng đáng mang lon cấp Tá không và Tỉnh Trưởng lúc đó chỉ là Đại Úy.

Khi Lonol đảo chánh lật đổ Sihanook, phía Chính Phủ VNCH có chút nhẹ nhõm vì dười thời trị vì của ông Hoàng này, Sihanook đã cho VC sử dụng biên giới Việt Miên như một nơi trú quân, hậu cần chứa mọi thứ nhu cầu chiến tranh của VC, tuy không công bố chính thức nhưng Sihanook đã cho Cộng Sản Việt Nam dùng đường biên giới để mở các cuộc xâm nhập và tấn công vào phần đất VNCH. (Ta không ưa Sihanook vì sự thân Cộng này nhưng công tâm mà nhận xét thì ông ta hơn hẳn Hồ chí Minh trong việc giành lại độc lập từ tay người Pháp, Căm Bốt không đổ một giọt máu, ông ta đu dây khéo léo giữa Nga, Trung Cộng và cả Mỹ nữa, Sihanook đã đưa nước ông trở thành phồn thịnh, thái bình trong khi Việt Nam triền miên trong khói lửa)

Trước khoảng thời gian Sihanook bị lật đổ ít tháng, ta cũng đã có những cuộc vượt biên âm thầm qua Kampuchia để tiêu diệt hậu cần của chúng như các cuộc hành quân của SĐ 25, nhưng đây chỉ là những cuộc hành quân lẻ tẻ, kín đáo. Để tránh rắc rối về ngoại giao, trong các cuộc hành quân âm thầm này, tất cả Binh Sĩ cũng như Sĩ Quan phải cắt bỏ phù hiệu đơn vị Sư Đoàn cũng như không được mang theo một thứ giấy tờ, hình ảnh nào cả. Qua các cuộc đột kích chớp nhoáng đó, ta khám phá ra rằng cách biên giới không xa lắm, VC đã xây dựng những kho tàng to lớn cho nhu cầu chiến tranh.

Đảo chánh Sihanook xong, Lonol có khuynh hướng thân Mỹ mà thật ra Mỹ bật đèn xanh cho Lonol làm chuyện này và từ đó, kế hoạch hành quân vượt biên để tiêu diệt quân CS trên đất Kampuchia được Bộ TTM phác thảo.
Cuộc hành quân hình như vào tháng ba năm 1970 (lâu rồi tôi sợ nhớ không chính xác), lúc đó tôi là Đại đội Trưởng( ĐĐT) của một Tiểu Đoàn(TĐ) Bộ Binh của Trung Đoàn 46 thuộc SĐ 25. Hôm đó, vị Tiểu đoàn Trưởng của tôi cho gọi các ĐĐT cầm bản đồ lên họp hành quân, nhìn các mục tiêu trên bản đồ nơi tay vị TĐT, chúng tôi mới biết mình sẽ vượt biên qua đất Miên.

Lệnh xuất phát ngày N và giờ G là 5 giờ sáng, tất cả mọi liên lạc bằng vô tuyến phải rất hạn chế, trưa thì TĐ tới điểm xuất phát, lệnh cho dừng lại bố trí phòng thủ, tất cả vẫn tuyệt đối giữ im lặng và không nấu nướng, nơi ém quân là một cánh rừng chồi, cây không lớn lắm, gạo sấy đã được đổ nước từ chỗ chuyển quân giờ lấy ra ăn, nằm tại chỗ thêm một ngày nữa, ăn gạo sấy xót cả ruột, người lính cần vụ đem theo được nửa cái bắp cải, tôi gọi 3 Trung đội Trưởng lên chia mỗi người mấy lá, xé ra ăn không cần rửa vì nước chỉ có một bi đông, uống rất hạn chế, tối đó trước khi thiu thiu ngủ, người lính mang máy đưa cho tôi chiếc radio transistor, mở thật nhỏ áp vào tai nghe, tiếng hát Duy Khánh với bài hát bình thường tôi chẳng mấy thích nhưng nó lại rất hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ: "Đêm qua biên giới, súng thù tràn lưng đồi..." tôi không biết tên bài hát là gì nhưng thật đúng trong lúc này, đang nằm nơi đây biên giới, tuy chưa có súng thù nhưng tôi biết chỉ mai hay mốt thôi sẽ tha hồ mà nghe súng thù nổ, không hiểu sao hai ngày nay chưa thấy động tĩnh, lệnh lạc gì cả.
Bốn giờ sáng, người lính mang máy TĐ lay lay tôi đưa cái combinet, TĐT cho biết một giờ nữa xuất phát tiến chiếm các mục tiêu đã chỉ định, không còn hạn chế vô tuyến nữa, tôi gọi máy phân công các Trung đội theo đội hình tiến quân, tiếng Thiết vận xa ì ì đến gần, ĐĐ tôi được chỉ định tùng thiết một chi đoàn M113 của Thiết Đoàn 10, Chi đoàn Trưởng là Đ/U Hồ Đàn, người mập mạp, râu cá chốt dài thoòng, ngồi chung xe chỉ huy, tôi mới thấy được cách thức điều động của Thiết Giáp, ĐU Hồ Đàn gầm thét luôn miệng, tay cầm cái que, mà tôi thấy tất cả Chi đội Trưởng hay Chi đoàn Trưởng đều có cái que trong tay, muốn xe quẹo trái hay quẹo phải, ông ta lấy cái que gõ vào bên trái hay bên phải người tài xế, còn lái không đúng ý, ông ta người miền Trung, luôn miệng đù mạ, gõ cái que lộp bộp vào cái nón người tài xế, sự căng thẳng của chiến trường đôi khi khiến người chỉ huy có trách nhiệm trở nên nóng nảy, cọc cằn.

Sau tôi mới hiểu tại sao phải nằm ém quân ở biên giới 2 ngày, tất cả là chờ lệnh của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội, ngay lúc các đơn vị quân lực VNCH tiến vào đất Miên thì TT Thiệu lên đài phát thanh nói chuyện với toàn dân: "... ngay lúc này đây khi tôi đang nói chuyện cùng đồng bào thì Quân Đội ta đã vượt biên qua đất Kampuchia để tiêu diệt quân VC đang ẩn núp tại đây..." xuất phát buổi sáng, trưa thì chạm địch, súng thù giờ đã tràn lưng đồi, không phải chỉ riêng TĐ tôi mà tất cả các cánh quân đều chạm địch, chúng ở đây đông quá, khi ở ngoài chỗ trống, tôi thấy khói lửa mù mịt khắp nơi, máy bay ném bom dài dọc theo đường biên giới, chúng ở đây rất đông và ỷ y là nơi an toàn hoặc các kho tàng không thể di chuyển kịp. Cuộc hành quân tiến như chẻ tre, các mục tiêu được thanh toán nhanh lẹ.

Quân Đoàn 3 dưới sự chỉ huy của Trung Tướng Đỗ cao Trí đã sử dụng hai SĐ 25 và 5 cùng các đơn vị BĐQ, Nhẩy Dù, TQLC tham dự cuộc hành quân vượt qua Kampuchia, đồng thời vùng 4 với Thiếu Tướng Nguyễn viết Thanh cũng ồ ạt tấn công vào vùng VC trú đóng.
Ngày thứ hai của cuộc hành quân, các đơn vị vẫn liên tục chạm địch, đơn vị bạn là Trung Đoàn 49 của SĐ25 bên cánh trái của tôi chạm nặng và nghe tin Nguyễn văn Bình, người bạn cùng khóa 21 Võ Bị Đà Lạt, một ĐĐT thuộc Trung Đ. 49 bị tử thương, Bình cùng Đại Đội E với tôi hồi trong trường, anh ta là Thiếu sinh quân, chưa hề nghe Bình chửi thề một câu, có bị bạn bè trêu chọc vì cái đầu cá trê thì chỉ nói được câu:" mẹ " rồi thôi. Buổi trưa nắng bụi chói chan, mồ hôi trán chảy xuống cay sè cả mắt, không kịp cho nỗi buồn khi nhận tin người bạn mới hy sinh, đạn nổ tứ tung, các cây 12 ly 7 trên các M113 đang nã đạn vào hầm hố trú ẩn của VC và pháo dồn dập trên các ổ kháng cự của chúng.

Phóng đồ hành quân lúc đầu dự trù các mục tiêu tới ngày N+4 nhưng tất cả được thay đổi, không còn N cộng mấy nữa mà theo sát tình blankhình biến chuyển của từng ngày, Tướng Trí, với sự tính toán và thao lược của một Tướng tài, ông tách Trung Đoàn 46, thành lập chiến đoàn 333 gồm TR/Đ46 và Thiết Đoàn 15 thẳng tiến về tỉnh Svay Rieng (Xoài Riêng), trước tiên chiếm quận Chipu rồi bao vây chiếm Svay Rieng, xong bọc trở lại Chipu tiến xuống phía Nam, xâm nhập vùng lưỡi câu và Chiến Đoàn đụng nặng tại đây, hàng ngày bay trên CNC, Tướng Trí như đọc được ở dưới đất chỗ nào VC đang trú ẩn và tại trận đánh này, tôi hân hạnh được gặp Tướng Trí.

Mục tiêu là một cái làng rộng lớn có lũy tre dầy đặc bao quanh, nằm sát cánh rừng, từ sáng tới 3 giờ chiều, ta tấn công 2 lần đều bị dội ra, cháy 2 chiếc M41 và chết + bị thương một số của cả Thiết giáp và BB.
Tướng Đỗ Cao Trí thăm binh sĩ tại mặt trận.
Có lẽ thấy mục tiêu khá nặng mà ta xung phong tới hai lần mà chưa chiếm được, khoảng 3 giờ hơn có chiếc trực thăng lượn vòng vòng rồi đáp xuống, bước ra khỏi máy bay tôi thấy Tướng Trí và một phụ nữ người Âu, cả hai mặc đồ hoa dù( tôi đoán người phụ nữ này là một ký giả?). Tướng Trí dáng tầm thước với chiếc mũ lưỡi trai mầu đen thoăn thoắt bước lên một chiếc M41 ở tuyến đầu, trong khi VC vẫn thỉnh thoảng bắn ra, dĩ nhiên ông ta ra tới đó thì Trung Đoàn Trưởng,Thiết Đoàn Trưởng phải theo ngay sau, may mắn tôi đứng gần đó vì đang dàn quân chuẩn bị cho đợt xung phong cuối cùng trước khi trời tối.

Tôi chứng kiến ông cầm cái can, gõ gõ vào nón sắt của Trung Tá Đồng, Thiết đoản Trưởng:
- Đù mẻ, lên ngay nghe Đồng, cháy bao nhiêu xe tao cho bấy nhiêu, phải chiếm cho được mục tiêu trước tối nay nghe chưa!
Trung Tá Đồng đứng nghiêm chào ông Tướng 3 sao nhận lệnh và tôi thấy Tr/T Đồng chào bằng tay trái, sau tôi mới biết ông bị thương tay phải không cử động được mấy và trước đây đã từng chiến đấu trong hàng ngũ VC rồi mới trở về Quốc Gia.
Sau đó thì đủ loại phi cơ của ta và của Mỹ nhào xuống ném bom, rồi tới pháo, mục tiêu rất bất lợi cho quân tấn công vì đó là một ngôi làng với hàng tre dầy đặc, ba mặt là đồng trống, VC đào hầm hố phòng thủ rất kiên cố với lực lượng khá đông, hình như chúng cố chết ra sức cầm chân mình để cho một thành phần quan trọng nào đó cuả chúng có thì giờ tẩu thoát, ngay lúc đó tôi nghe tin Thiếu Tướng Nguyễn viết Thanh, Tư lệnh vùng 4 vừa mới tử trận vì chiếc CNC của ông đụng phải chiếc Cobra của không quân Mỹ, như vậy QĐ3 đánh ở Lưỡi Câu, QĐ4 đánh ở Mỏ Vẹt.
Lúc dàn quân để chuẩn bị tiến chiếm mục tiêu cùng Thiết giáp, những chiếc M41 gầm rú sẵn sàng xốc tới, tôi thấy Trung sĩ nhất Thiều thuộc Trung đội 2, cũng đã có tuổi, đứng dậy từ sau gốc cây, tay làm dấu thánh giá, tôi lại gần anh ta hỏi:
- Anh sợ lắm hả anh Thiều?
- Thưa không Đại Úy.
- Tôi thấy anh làm dấu mà.
- Thưa Đại Úy, hậu cứ cho biết giấy giải ngũ của tôi đã về tới hậu cứ.
- Vậy hả, vậy anh ở đây lo gom các ba lô của anh em lại cho tôi.

Bộ Binh và Thiết giáp ào lên chiếm mục tiêu, địch còn chống cự nhưng yếu đi nhiều, gần tối mục tiêu được thanh toán, phải liều chết mà xung phong vì ông Tướng đứng ngay sau lưng, không thể nào à la de được. Ta chịu thêm một số tổn thất, trong đó, lại một người bạn cùng khóa 21 Đà Lạt với tôi, Đ/ U Lê xuân Sơn, Đại Đội Trưởng cùng Tiểu Đoàn bị thương nặng, Sơn hiện ở San Diego. Đại Đội tôi có một Sĩ quan Trung đội Trưởng hy sinh, Thiết Giáp cháy thêm một xe (khi 1 xe TG cháy, có nghĩa là cũng có vài mạng TG hoặc chết, hoặc bị thương). Địch bỏ lại nhiều xác chết cùng vũ khí.

Tướng Trí mỗi sáng bay từ Biên Hòa lên Tây Ninh, nơi đặt Bộ chỉ Huy tiền phương của Quân Đoàn trong cuộc hành quân vượt biên, tại đây, ông nghe thuyết trình về tình hình trong đêm cũng như kế hoạch hành quân của các đơn vị thuộc QĐ3 trong ngày, (thật ra các kế hoạch hành quân này tự tay ông vẽ), nếu các đơn vị chưa chạm địch, ông bay sang Nam Vang, tôi được một người bạn đi tù chung ở Sơn La ngoài Bắc, anh ta là Th/Tá phi công trực thăng kể rằng có lần lái chở Tướng Trí qua Kampuchia, lúc đáp xuống, Tướng Fernandez là Bộ Trưởng Quốc phòng của Quân đội Kampuchia đã chờ sẵn ở đấy, ông ta đứng nghiêm chào Tướng Trí, so về chức vụ thì Bộ Trưởng Quốc Phòng lớn hơn chức Tư lệnh vùng nhưng oai danh của Tướng Trí quá lớn, hơn nữa quân đội Kampuchia thì nhỏ bé và non trẻ so với ta, hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp.

(Xin được nói thêm về quân đội của Lonol lúc đó còn quá yếu, mới thành lập, trong một lần, tôi được lệnh cho một Đại Đội lính Kampuchia đi theo để học hỏi, khi tiếp nhận ĐĐ này tôi mới tá hỏa lên vì không phải một ĐĐ mà là tới 3,4 ĐĐ, lính Kampuchia đi hành quân mang theo cả vợ con, gồng gánh nồi niêu soong chảo, dắt theo cả chó, gà, tối đóng quân, lính mình nằm vòng ngoài đào hầm hố phòng thủ, họ nằm giữa lại còn nổi lửa nấu nướng linh tinh, tôi ra lệnh dập tắt hết lửa nhưng thật ra cũng là thừa vì nửa đêm trẻ con khóc, chó sủa, rồi gà gáy..., ĐĐT của ĐĐ Miên mang cấp bậc Trung Úy, đeo lon hai vạch vàng theo kiểu Quân Đội Pháp, anh ta là người Miên lai Tầu, chẳng học ở trường quân sự nào cả, có tiền và có chút học là được làm Sĩ Quan, không biết đọc bản đồ và sử dụng địa bàn, nói chuyện với tôi thì không biết tiếng Anh, chỉ bập bẹ, may nhờ hồi còn đi học, tôi chọn sinh ngữ 1 là Pháp nên cũng qua loa hiểu nhau, họ nói tiếng Pháp rất thông thạo. Sáng sau tôi xin TĐT cho tôi thôi nhiệm vụ này, sợ quá, may vùng TĐ tôi phụ trách là tỉnh Preyveng, lúc đó nơi này cũng tạm yên chứ tối đó mà VC tấn công, không biết tôi sẽ phải làm sao).

Cuộc vượt biên thành công ở vùng 3 làm nức lòng Bộ TTM, theo gương, Hành quân Lam Sơn 719 được mở ra tại vùng 1 nhưng cuộc hành quân này không được như ý, có thể Tướng Hoàng xuân Lãm chưa đủ tầm cỡ của Tướng Đỗ cao Trí, cũng có người nói đây là món quà của Mỹ tặng cho Trung Cộng để TC hiểu thiện ý của họ để rồi rồi sau đó là cuộc đi đêm của Kissinger qua đất Tầu. Hầu như tất cả các bãi đổ quân (LZ) của đơn vị Nhẩy Dù trên đất Lào như đã được báo trước cho VC, các bãi đáp đều được tiếp đón bằng những tràng pháo chính xác của quân CS Bắc Việt.

Để cứu vãn tình hình, TT Thiệu điều động Tướng Trí ra vùng 1 thay Tướng Lãm, tin này được các đơn vị Nhẩy Dù lúc đó đang bị vây khốn tại Hạ Lào đón nhận vui mừng, có người còn cho là như vậy mình sẽ thoát chết.
blank Một buổi sáng tháng Hai của năm 71, như thường lệ, Tướng Trí từ Biên Hòa bay lên Tây Ninh, nghe thuyết trình xong, ông bay sang Kampuchia để gặp Tướng Fernandez, trực thăng mới bốc lên được một quãng thì nổ tung, tất cả mọi người trên máy bay không một ai sống sót gồm 4 nhân viên phi hành, Tướng Trí, một ký giả người Pháp tên Francois Sully và vài Sĩ quan trong ban Tham Mưu của ông.

Ở vùng 3, Tướng Trí đã quây và gần tóm được cục R, bàn tay lông lá đã giết ông để ta không thể có cuộc chiến thắng toàn diện tại vùng 3 cũng như không muốn chuyện tương tự sẽ xẩy ra ở vùng 1, điều này được củng cố thêm cho ngày 30 tháng Tư, 1975 (không phải chỉ riêng miền Nam ta chịu sự đau thương vì sự khốn nạn của người bạn "đồng minh"(sic), mà đất nước được nói đến trong bài viết này cũng chịu sự đau thương không kém, Kampuchia sau đó hơn một triệu người bị giết bởi chế độ Pon Pot). Ta tiếc khi mất đi một vị Tướng tài nhưng không hiểu giả như ông vẫn còn sống thì liệu ông xoay sở được gì khi họ cúp hết mọi viện trợ như vậy, biết đâu, với một người tài giỏi, có tầm nhìn chiến lược rộng lớn như ông, ông có thể thay đổi được cuộc diện lắm, anh hùng tạo thời thế mà. Napoléon chỉ với 100 quân cũng gây dựng lại được cơ đồ trong cái không thể.

Từ 1970 tới 1971, quân đoàn 3 dưới quyền Tướng Trí vượt biên không hề thua 1 trận nào, đây là sự thực chứ không phải nói quá, cho đến khi ông chết và Tướng Nguyễn văn Minh lên thay, tình hình khác đi liền, đầu tiên là cuộc lui quân của TĐ11 Nhẩy Dù tại Damber của người hùng Trung tá Nguyễn đình Bảo, Đ/U Nguyễn văn Dũng, khóa 22A Võ Bị Đà Lạt chết trong trận này, sau đó, ta cứ lui dần, lui dần về, thậm chí 1972, Thiện Ngôn sát biên giới cũng bị bỏ ngỏ, rồi cuộc lui quân ở Krek, Snoul... ta co cụm lại để chịu cái mùa Hè đỏ lửa ở Bình Long, còn Tướng Trí, chưa chắc đã có trận Bình Long, cái thời ta đem chiến tranh ra ngoài biên giới đã xong rồi. Năm 1970 khi cuộc vượt biên được tung ra, các đơn vị chủ lực không phải lo toan trong vấn đề bảo vệ lãnh thổ, các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Long, Bình Dương... được giao cho Địa phương Quân, chúng không đủ sức để mở các cuộc tấn công dù biết nhiều tinh lỵ không còn quân chủ lực đóng giữ, chúng đang lo chống đỡ các cuộc tấn công thần tốc của ta.

Bài này viết chỉ là một cái nhìn hạn hẹp của một Sĩ quan Đại Đội trưởng lúc bấy giờ. Mới đây, tôi được đọc một bài của Chuẩn Tướng Trần quang Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3 Kỵ Binh viết về Tướng Trí. Bài ông viết chắc chắn chính xác và nhiều chi tiết hơn tôi vì trong cuộc vượt biên Kampuchia năm 70, Thiết Giáp rất gần gủi với Tướng Trí (ông đã cầm cái can gõ vào nón sắt của một Thiết Đoàn Trưởng, nửa như một lệnh lạc, nửa như một người anh dạy dỗ người em), Kỵ Binh của Tướng Khôi đã được ông sử dụng tài tình và thành công.

Trần Như Xuyên
huynhtruong25
Posts: 142
Joined: Sun Sep 25, 2011 9:48 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by huynhtruong25 »

Image

Chiến Hữu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
"Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào." - Trung úy Đỗ Lệnh Dũng.

Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cấp bực làng nhàng, cỡ như ông Dũng, tôi quen cả đống. Bạn cùng khoá cũng độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) thì chắc... vài ngàn! Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố một câu (ngon lành) dữ vậy.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm... đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi - với bất cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng chuồn êm - không lâu - sau đó.

Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác. Cách hành xử của ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ. Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài. Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân - sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung - đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người - toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch - nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được... hoàn toàn giải phóng.

Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố với đám đông: “Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một... tù binh! Rồi ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân, một tên gọi khác (mỹ miều hơn) của Đồng Xoài, và đưa từ Nam ra Bắc - theo đường mòn Hồ Chí Minh - để đi cải tạo. Gần muời năm sau, năm 1982, trung úy Đổ Lệnh Dũng được chuyển trại từ Bắc vào Nam - và tiếp tục... ở tù!

Cuộc đời (rõ ràng và hoàn toàn ) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được nhà văn Lê Thiệp viết lại, bằng một cuốn sách - dầy đến bốn trăm trang - lấy tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất bản Quê Hương đã cho phát hành phẩm này (1) vào cuối năm 2006, với lời giới thiệu - như sau:

"Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.” Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.

Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại song thân thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đoạ đầy tại những trại tù..."


Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.

Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt tại thành phố San Jose, California. Hôm đó, tôi đã hân hạnh được nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái - chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân - người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này thất thủ.

Thiếu tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần qua, một số những người lính năm xưa - đang tản mát khắp năm Châu - đã tìm lại được nhau. Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị - hiện cũng đang có mặt tại hội trường.

Tôi ngồi ở xa, không nhìn rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều đang ngấn lệ. Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao là còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân đến được một quốc gia an bình phú túc nên cảm thông (thấm thía) sự xúc động của họ.

Trong giây phút đó (có lẽ) mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế. Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

Nửa khuya, tôi thức dậy. Gần như đêm nào tôi cũng thức dậy vào giấc đó. Và đó cũng là lúc mà tôi thường lò mò trở về... chốn cũ. Như một công dân “part-time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới. Gần ba mươi năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một cách mộng mị) đều đều - theo kiểu “ngày ở / đêm về” - như thế.

Tôi thường trở về Đà Lạt. Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nước hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.

Có dạo tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai - bao quanh trại cải tạo Tân Rai - ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa.

Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một bài báo ngắn - của ký giả Bùi Bảo Trúc:

“Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc. Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.

Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Ðơn vị cuối của ông là Trung Ðoàn 49, Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn. Ông không còn chân tay. Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay. Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.”

Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.” Mãi sau này tôi mới biết là... muộn thật! Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây vài năm, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn. Chừng một tháng sau, vài người báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn... kịp nữa. Ông bạn đồng đội của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác:

"Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội. Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô... Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?

Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống... Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội.”

Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay. Tôi xúc động quá và cho biết là: Thưa anh chị chính tôi đây… Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấy tôi mà khóc. Vợ anh cũng khóc, tôi cũng khóc, người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ... Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc..." (Nguyễn Cảnh Tân (2). “Nỗi Sầu Riêng Hay Cái Đau Chung.” Việt Luận).

Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều như vậy e hơi (bị) lố. Làm người Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ bạc đến đâu chăng nữa vẫn (có thể) được khối kẻ khát khao. Tôi liên tưởng đến số phận te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng: đó là cảnh đời mà phế binh Dương Quang Thương có nằm mơ cũng không thấy được.

Và hiện tại ở quê tôi còn bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa (cũng tàn phế đến độ không thể đi xin ăn được) đang nằm chờ chết ở một xó xỉnh nào đó, ước mơ đến ngày có người đồng đội cũ (chợt) nhớ đến mình và ghé thăm chơi - như chiến hữu Nguyễn Cảnh Tân đã ghé thăm bạn Dương Quang Thương, vào một buổi chiều cuối năm?

Chú thích:

(1) - Cuốn Đỗ Lệnh Dũng giá 28 Mỹ Kim, kể cả cước phí, có thể đặt mua tại Tủ Sách Tiếng Quê Hương, P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.

(2) - Địa chỉ liên lạc của ông Nguyễn Cảnh Tân: Hội Thiện Nguyện Cứu Trợ Thương Phế Binh Bị Lãng Quên Ở Việt Nam 42 Cardwell St - Canley Vale. NSW, Australia. Điện thoại: (02) 9728 3640. Điện thư: VASFIVV@yahoo.com.au.

24.05.2020
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by thienthanh »

Cuối Đường!
Hồi Ký cuả Vương Mộng Long, Khóa 20

Image
“Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!”
(Vương mộng Long)


Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:

- “Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!”

Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “phòng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi.

Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.

Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em”. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:

- “Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?”

- “Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?”

Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:

- “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu...hu...”


Vào Nơi Lửa Đạn

Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...

Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.

Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,

- “Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”

- “Hoan hô!...Hoan hô!”

Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.

- “Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?” Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.

- “Thôi! Ta đi!” Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

- “Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?” Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.

- “Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ.” Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.

- “Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô”. Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

- “Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!” Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.

- “Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!” Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi:

- “Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”

Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:

- “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”

Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,

- “Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”

- “Phải rồi! 82 đây!”

- “Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”

- “Có ai ở đó không?”

- “Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”

Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,

- “Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!”

Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho “hòa bình” có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,

- “Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!”

Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. “Hòa bình” rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?

- “Choác! Choác!....Choác!”

Gian Lao

Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “phì...phì...” che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,

- “Đưa tao!”

Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!”. Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.

Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!...” - “Choác! Choác!... “ - “Xoẹt! Xoẹt!...” - “Oành! Oành!..” Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.

- “Cành! Cành! Cành!...” Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,

- “Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!”

Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).

Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

- “Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !”

- “Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!”

Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,

“Chạy đi!... Ông thày... chạy đi!...”

Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.

- “Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!” Đó là tiếng Trung úy Trâm.

“Toác! Toác!” - “Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,

- “Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi!...ơi...ơi...”

Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.

- “Trâm ơi! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!...” Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,

- “Ông thiếu tá bị thương hả?”

Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,

- “Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”

-”Cám ơn cụ!” Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,

- “Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?”

Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!” Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,

- “Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi!”

Gian Lao

Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. “Hu... hu... hu....” Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.

Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :

- “Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn.”

Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.

- “Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.”

Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,

- “Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!”

Cánh cửa hé mở, một bà già, giọng Bắc Di Cư:

- “Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!”

- “Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!”

Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,

- “Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!” Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.

Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,

- “Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.

- “Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng...”

Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

- “Chứ hai anh kia làm chi rứa?”

- “Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh miệng.

- “Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt.” Bà cụ phân trần.

Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,

- “Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!”

Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,

- “Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.”

- “Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần.

- “Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào.” Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.

- “Thưa Mẹ! Con đi!”

- “Thưa Mẹ! Con đi!”

- “Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!”

Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.

Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, “Thái Sơn ơi! Trâm ơi!” Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)

Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.

Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. C hiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...

Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...

Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, “Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!” Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.

Thời gian trôi...

mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”. Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời :

- “Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!”

- “Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!” Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà... nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.

Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.

Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,

- “Các chú tha lỗi cho anh...”

Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột:

- “Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!...”

Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...!

Vương Mộng Long
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests