Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
bobinh
Posts: 221
Joined: Fri Feb 26, 2010 1:35 am
Contact:

Post by bobinh »

Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19 tháng 6

Phạm Văn Hòa
. . . Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên
giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền
có về là khi nước non vui bình yên . . .(Biệt Kinh Kỳ)


Nửa thế kỷ qua đi thật nhanh!

Những lời ca của bài hát Biệt Kinh Kỳ như vẫn còn nghe văng vẳng bên tai mỗi khi đến Ngày Quân Lực. Nhớ lại khi tình nguyện nhập ngủ, hy sinh cuộc đời trai trẻ cho quê hương, chuyến xe lửa đưa chúng tôi từ ga Sài Gòn lên cao nguyên Đà Lạt để tôi luyện thành người chiến sĩ. Hôm đó để tiển đưa tôi, các bạn trọ học miền lục tỉnh, đứa Sa Đéc, đứa Long Xuyên, đứa Rạch Giá, đứa Bạc Liêu, đứa Sóc Trăng mỗi người đứng bên một cột đèn trong sân ga, vẫy tay từ biệt. Ánh đèn đường vàng võ soi bóng mấy đứa bạn tôi nhỏ dần và mờ nhạt trong bóng đêm. Chiếc tàu lữa mang tôi, lầm lũi, xập xình bỏ lại sau lưng Sài Gòn khi vừa lên đèn long lanh như nạm kim cương, bỏ lại những đứa bạn, bỏ lại những phòng trà, hộp đêm, bỏ lại người tôi yêu và gia đình thân quyến. Giã từ Sài Gòn! Giã từ cuộc sống dân sự! Giã từ các người thân!

Thế rồi khi còn là sinh viên Võ Bị, những năm sau đó tôi đều có mặt trong tập thể sinh viên của trường về Sài Gòn diển hành mừng ngày Quân Lực. Nỗi vui gặp lại bè bạn để có dịp kể chuyện quân trường, vui buồn đời lính. Nao nức vì được gặp lại thân nhân và được hít thở không khí Sài Gòn mà cả năm trời vắng nhớ. Ngày diển hành là niềm hảnh diện của người lính VNCH lập được chiến công lẫy lừng ngoài trận mạc. Riêng tôi, lòng lâng lâng theo từng bước chân đều nhịp theo khúc nhạc quân hành trong rừng cờ dọc đại lộ. Máu trong châu thân chảy nhanh theo từng nhịp tim dồn dập. Mắt, tai, reo vui vang vang theo nhạc quân hành. Nhưng . . . sau này khi ra trường, tôi không còn được cái may mắn, không lập được chiến công, nên không có bóng dáng tôi "giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu, trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau . . . (Biệt Kinh Kỳ)" Dù vậy, những hình ảnh đẹp ngày Quân Lực năm xưa như ăn sâu vào tim óc, trong huyết quản. Mớ kỷ niệm này cộng vào những kỷ niệm thời thơ ấu . . . làm giàu ký ức mà tôi đã sống qua trong đời.

Tôi xa quê hương bao nhiêu năm, quân đội ta bị bức tử từng ấy năm!

Những năm đầu nơi quê người quần quật lo cơm áo, lo gầy dựng lại từ số không, cuộc sống quá bận rộn nên không còn đầu óc nào nghĩ đến công-hầu- khanh-tướng đúng như lời người bạn của tôi thường tâm sự. Họa chăng đôi lúc chợt nhớ cuộc sống thời quân ngũ, để cảm thấy ê chề đau đớn, nhất là vào những ngày Lễ Chiến Binh Hoa Kỳ, Ngày Quân Lực, Ngày Chiến Sĩ Trận Vong, Ngày 30 tháng 4, để cảm thấy nghẹn ngào cho thân phận người lính xa quê hương, không còn quân đội! Nhưng những lúc gần đây, tôi có tham dự ngày Quân Lực và các sinh hoạt hội đoàn khi cuộc sống đã ổn định, những mong tìm lại chút kỷ niệm thời chinh chiến, tình tự đồng hương tưởng như đánh mất từ lâu. Là người lính, mặc bộ quân phục trong thời chiến là niềm hảnh diện. Nay được mặc lại bộ quân phục đã bị mất mát trong cuộc chiến, mang lại đôi giày saut đã để lại ở hải đảo Mả Lai . . . cho tôi cái cảm giác như tìm được những mảnh pha lê vỡ vụn của cuộc đời đã bị rơi rớt trong cuộc hành trình tìm Tự Do.

Tôi mặc bộ "Y phục dạo phố mùa Đông" vừa bước ra khỏi phòng. Than nóng vì cả 140 ngày trời, Houston không mưa. Đứa con trai nhìn tôi, rồi hỏi:

- Trời nóng sao ba không mặc short cho mát!

Nhìn đứa con trai mà tội nghiệp cho nó. Thế hệ bây giờ đa số không hiểu những huyền thoại của bộ quân phục mà cha ông chúng đã mặc. Cái lỗi của tôi là không giải thích cho con mình. Tôi thấy thương đứa con. Tôi thầm trách mình đã vì miếng cơm manh áo mà quên giá trị tinh thần cần truyền đạt đến thế hệ sau này, lý tưởng quốc gia dân tộc của người lính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để bảo vệ lá Cờ-Vàng-Ba-Sọc-Đỏ, để Nhân Quyền được tôn trọng . . . và để con cháu chúng ta thấy sự khác biệt với chủ thuyết Cộng Sản.

- Không con! Đây là bộ quân phục của ba khi xưa lúc còn là Sinh Viên Sĩ Quan trong quân đội VNCH. Dù nóng, cũng mặc, không thể thay vào quần short. Mà chiều nay ba sẽ đi diển hành, parade, đó con!

Đứa con tôi gật gù tỏ vẽ hiểu, nhưng không dấu được điều thắc mắc mà tôi đọc được trong ánh mắt.

Trời nóng lắm, rát mặt. Hơi gió càng làm khó chịu thêm.

Dù nóng gay gắt, nhưng mọi người trong ban tổ chức làm việc thật hăng say tại tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ ở khu Bellaire, Houston. Các hội đoàn, các quân nhân mặc sắc phục theo quân binh chủng và quân trường lần lượt đến. Rừng cờ, màu sắc rực rở lung linh dưới ánh nắng chiều, pha lẫn các màu áo hoa rừng, màu trắng hải quân, màu xám áo bay của không quân, màu áo của các quân trường . . . tạo thành quang cảnh thật hào hùng sống động. Tôi nhìn xuống đôi giày đen bóng loáng, niềm vui thoáng đến, kỷ niệm năm xưa hiện về.

Gió lộng. Trời bớt nắng. Cờ bay, cờ bay. Tiếng nhạc quân hành trổi lên hùng dũng. Các đoàn quân diển hành đều bước. Dân chúng phất cờ chào đón từng bước chân của các chiến binh ngày nào. Người lính tuy già nhưng tinh thần yêu quê hương, yêu đồng đội không bao giờ chết và trong ánh mắt vẫn còn nét oai hùng. Tôi đi trong đoàn "người" diển hành hôm đó. Lòng bồi hồi khi nghe tiếng vỗ tay của bà con đồng hương, cờ xí phất phơ trong gió chiều. Dù ở xa nữa vòng quanh trái đất, dù thời gian cách nhau cả nửa thế kỹ nhưng tôi cứ tưởng như đang diển hành trên đại lộ Thống Nhất năm xưa. Lòng lâng lâng. Thấp thoáng trong đám đông, tôi thấy dáng đứa con trai của tôi cười thật tươi, vẫy vẫy lá cờ vàng ba sọc đỏ, reo hò khi tôi đi qua. Tôi cảm thấy tê dại, vui đến chảy nước mắt. Gót chân tôi nện mạnh trên đường. Tôi đi đứng cao thẳng hơn. Tay vung mạnh hơn. Nắm tay siết chặt hơn. Tiếng nhạc quân hành nghe như vang vọng hơn . . . và cảm như đôi mắt đứa con tôi hảnh diện theo dõi từng bước của cha mình.

Tham dự ngày Quân Lực năm nay, tôi bắt gặp bao nhiêu là hình ảnh thân thương: như người chiến hữu khập khiểng đẩy thùng ước lạnh cho bà con giải khát; hình ảnh các chị trong hội "trại gia binh" đi vòng quanh quyên tiền để trang trải các chi phí và lo phần ẩm thực cho mọi người tham dự; hình ảnh những quân nhân, bà con đồng hương đốt nén hương để tưởng nhớ những vị tướng anh hùng tuẫn tiết. Tôi nghe những tiếng ca vang vang trong gió những bài ca hùng hồn đã in sâu vào huyết quản của người chiến sĩ VNCH. Tôi bắt gặp những cặp mắt đầy tình yêu thương của bà con giành cho các người lính già, những cái siết tay đầy tình tự chiến hữu . . . tôi gặp lại nhiều thứ tưởng chừng như đã bị đánh mất từ lâu. Và đặc biệt tôi đọc được niềm hảnh diện của con tôi vì là con của người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Bao nhiêu năm qua đi, dù quân đội bị bức tử, nhưng tinh thần của các người lính đã một thời gìn giữ quê hương không hề suy giảm. Dù bao năm bị giam cầm nơi sơn lam chướng khí khắp các trại tập trung Bắc-Trung-Nam, mà bọn VC gọi là "học tập cải tạo", tuy đói khổ, bệnh tật, nhưng người lính VNCH vẫn kiên cường với ý chí sắt son không để bọn quỷ Đỏ nhồi sọ với mớ tà thuyết. Bước chân các người lính năm xưa, có mỏi mệt; thể chất có suy giảm, nhưng tinh thần chống Cộng vẫn kiên cường. Gặp lại các bạn nơi đây, trong ngày vui Quân Lực năm nay nhưng không biết mai đây có còn gặp lại nhau nữa không, nên tôi cầu cho các bạn được nhiều sức khỏe và luôn luôn hảnh diện mình là người lính VNCH.

Nhìn các chị, trình diển văn nghệ giúp vui, phân phối thức ăn nước uống, quyên góp tiền để trang trải các chi phí, trong số quan khách, trong số dân chúng tham dự, trong quân phục, trong chiếc áo dài tha thướt . . . làm chúng tôi thêm ấm lòng, vì lúc nào cũng có các chị bên cạnh. Trong thời chiến, các chị luôn bên chúng tôi như người tình, người vợ, người chiến hữu. Các chị là chiếc bóng bên chúng tôi chia sẻ nỗi vui buồn, là người bạn đồng hành giúp nhau khi hữu sự, sống chết có nhau. Khi chúng tôi bị tù đày, các chị thay chồng nuôi con, vượt ngàn trùng vạn lý mang chút hơi ấm, chút hy vọng để chúng tôi sống chờ ngày đoàn tụ. Nơi đất khách quê người, các chị làm việc hơn cả chúng tôi để cùng nhau xây lại mái ấm gia đình, đùm bọc qua những ngày Đông hàn lạnh lẽo. Các chị là những bà mẹ Việt Nam mà bao nhiêu bài hát, bao nhiêu lời ca tụng vẫn không diển tả hết. "Đóa Hoa Hồng" là biểu tượng, là mỹ danh mà chúng tôi tặng các chị với tất cả nét mỹ miều và sắc đẹp nhiệm mầu.

Trời về khuya, khói hương vẫn còn nghi ngút trên bàn thờ. Bàn thờ kia, nén hương kia không chỉ để tưởng nhớ đến năm vị Tướng đã tuẫn tiết, mà còn để tưởng nhớ đến các bạn, những chiến sĩ đã vùi thây nơi chiến địa, đã gởi nấm xương tàn nơi sơn lam chướng khí. Các anh là Các anh hùng liệt sĩ vô danh!

Khói hương nghi ngút tỏa rộng, lên cao cao mãi và tan loãng trong không gian. Các anh đâu đó ở trên cao vui cùng chúng tôi đêm nay, bởi hôm nay là Đại Lễ. "NGÀY QUÂN LỰC" này không để gắn huy chương cho ai, không để tuyên dương công trạng cho ai, nhưng để nhúm lại ngọn lửa lòng của người chiến sĩ nay đã về già, và để truyền lại ngọn đuốc lý tưởng của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đến thế hệ con cháu. Những mong với sở học, lòng yêu chuộng Tự Do, Nhân Quyền, Nhân Bản, một ngày nào các cháu sẽ trở về quang phục quê hương thay cho thế hệ cha ông đã bị bức tử nên đành bỏ nước ra đi.

Trăng vẫn chưa lên, dù chiều đã xuống từ lâu. Vòm trời trang điểm vạn ngàn vì sao, như những đóm mắt hỏa châu trong đêm truy lùng địch, như những ánh mắt của các anh, người chiến binh QLVNCH đang chia xớt niềm vui với chúng tôi trong ngày Quân Lực. Đêm về khuya, những bài ca hùng, những bài ca về lính, những bài hát ca ngợi tình người đồng vọng, vượt không gian và thời gian. Các anh có nghe không những bài ca quen thuộc trong chương trình Dạ Lan thuở nào, để các anh bớt cô đơn nơi tiền đồn hẻo lánh? Các bài ca đó có làm các anh nhớ những ngày Quân Lực năm xưa của một quân đội hùng mạnh nhất vùng Đông Nam Á hay không?

Tôi muốn viết cảm nghĩ mình ngày hôm nay, như lời cám ơn bà con đồng hương, cám ơn những người đã đứng cùng chiến tuyến và mong đừng vì những bất đồng, bất hòa, mà quên đi mục tiêu tối hậu là đoàn kết để chống lại kẻ thù chung Cộng Sản. Ngày xưa trong quân ngũ, chúng ta được khuyên bảo là người quân nhân không làm chính trị vì có chính quyền chính thể, nhưng nay thể chế VNCH đã bị bức tử, thì thử hỏi nếu chúng ta không dấn thân trên chính trường, thì trọng trách này AI SẼ GÁNH VÁC?

Tôi muốn san sẻ tâm tình này trong ngày Quân Lực năm nay mà chúng ta luôn hảnh diện là "NGƯỜI LÍNH GIÀ VNCH KHÔNG BAO GIỜ CHẾT"!

Phạm Văn Hòa
Houston, Ngày Quân Lực, 2011
caolynh
Posts: 317
Joined: Wed Dec 17, 2008 7:21 pm
Contact:

Post by caolynh »

Ðường đến Hoàng Sa

Bút ký của Vũ Thất


LTS - Tên thật Võ Văn Bảy, nhà văn Vũ Thất là tác giả của bút ký Ðời Thủy Thủ xuất bản trước 1975 lúc ông còn là sĩ quan đơn vị Hải Quân chiến đấu sau khi từng phục vụ trong ngành văn nghệ Hải Quân. Ơng tốt nghiệp Hải Quân khóa XI Ðệ Nhất Bảo Bình (1963). đang định cư tại tiểu bang Maryland, nhà văn Vũ Thất vẫn góp mặt thường xuyên trên trang Sinh hoạt Văn học Nghệ thuật Người Việt Tây Bắc và Quán Văn.

Tôi nhìn về hướng mũi tàu. Sa mù xám đục ngập phủ, ập xuống mặt nước như cố ngăn những lượn sóng ào ạt cuốn vào bờ.
Image
Từng loạt gió hâm hấp, cuốn theo các hạt nước bắn lên từ các ngọn sóng ngã đổ, vùn vụt lướt qua chiến hạm. Gió va vào các bộ phận lộ thiên, phát ra những âm vang dị biệt, tạo thành một hợp âm lạ lùng đầy vẻ dọa dẫm. Những vạt nước tóe lên từ bên hông tả hạm, bắn vào mặt vào mắt ran rát và cay xót. Chiến hạm lay lắc, từng khi hích mạnh vào cầu tàu, gây nên những cơn giật bất thường, ngầy ngật.

Ông hạm trưởng nghiêng người nhìn dọc theo hữu hạm, kiểm soát tình trạng sẵn sàng của nhân viên trong nhiệm sở rời cầu. Ông quay sang hạm phó nói bằng giọng điềm đạm như khuôn mặt của ông:

- Biển còn động mạnh quá!

Hạm phó nhìn ông mỉm cười. Tôi thấy những tia hy vọng lung linh từ nụ cười cầu tài đó. Trong bữa cơm trưa vài tiếng trước đây, hạm phó đã đề nghị hoãn khởi hành đi Hoàng Sa thêm một vài ngày. Ông cho rằng việc hoán chuyển quân là việc không gấp gáp, tội gì phải oằn người vì sóng gió. Tôi biết cái lý do thầm kín mà ông không thể nêu ra. Sóng gió đối với ông là chuyện bỏ đi. Ðêm qua, ông khoe với chúng tôi là mới quen được với một cô nữ sinh trường Sao Mai và ước ao phải chi cơn bão không tan vội...

Giọng cà tửng quen thuộc của hạm phó:

- Hoãn thêm một ngày nữa là phải quá, thưa hạm trưởng. Một ngày rỗi rảnh, hạm trưởng sẽ làm thêm được vài bài thơ tình, hạm phó sẽ được hưởng thêm những giây phút êm đềm...

Tôi ngước nhìn hạm trưởng với hy vọng ông không đổi ý. Tôi thì một ngày trôi qua nơi bến lạ là một ngày chồng chất nhớ nhung. Nhớ người yêu thì ít, nhớ phố xá Sài Gòn thì nhiều. Lẽ ra giờ này tôi đã ngồi ở một quán kem nhìn ông đi qua bà đi lại. Lẽ ra tôi đã gặp lại người yêu...

- Phải khởi hành thôi, hạm phó. Mình đã trễ một tuần rồi. Ðại đội địa phương quân ngoài Hoàng Sa đang mong ngóng được về gặp mặt vợ con. Tôi chỉ mới mười ngày không gặp gia đình mà đã ủ ê, huống hồ họ đã quá hạn sáu tháng...

Ông đổi giọng rắn rỏi, dứt khoát:

-Tháo hết dây, trừ dây số ba.

Tôi vui sướng nghe anh vô tuyến lặp lại mệnh lệnh vào điện thoại nội bộ. Khi các dây đã kéo về tàu, nằm gọn vào ổ, hạm trưởng ban hành các lệnh cần thiết để tách con tàu đang bị sóng gió đẩy dính vào cầu. Ðúng vào lúc sợi dây duy nhất còn lại căng bần bật, bốc khói thì mũi tàu từ từ tách khỏi cầu. Con tàu hục hặc, vùng vằng tiến lên. Càng xa cầu, con tàu càng chao đảo. Tiếng gió rít đâu đó như tiếng sáo ở cung bậc cao, hòa quyện với tiếng bầm bập từ tấm vải bố rộng lớn che kín lòng tầu cùng tiếng phần phật từ lá quốc kỳ ở chóp trụ sắt bên trên đài chỉ huy. Tôi ngẩn nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ mới tinh đang năng nổ phất phới tung bay và chợt thấy vui vui, hăng hái...

Con tàu bất ngờ chui vào một vùng mây mù xám xịt. Vô vàn mảng nhỏ xoắn xuýt rồi tan nhanh. Người tôi nóng bừng, bứt rứt. Miệng tôi nhờn nhợn, khó chịu. Mồ hôi rịn ra ở ngực và lưng. Tôi biết là tôi đang muốn mửa. Cái khả năng chịu sóng của tôi qua mấy tháng thực tập hải nghiệp ở quân trường được ghi nhận là yếu. Trong suốt thời gian đó biển ngày nào cũng động, nhưng dù động mạnh hay nhẹ, không ngày nào tôi không ói mửa. Có hôm mửa cả mật xanh mật vàng. Tôi nhớ đã nghĩ đến chuyện đào ngũ, bỏ cuộc. Giờ đây, ý nghĩ đó lại trở về. Tôi đặt ống dòm lên mắt, cố chú tâm quan sát. Phía trước mù mịt. Tôi chúc ống dòm xuống mặt nước. Mặt nước đục ngầu, giận dữ, lồng lộn sủi bọt. Hạm trưởng ra lệnh anh giám lộ kéo còi hải hành trong sương mù. Tiếng còi vang lên kéo dài, bị nuốt chửng vào không gian âm u rồi lại vang lên, kéo dài, đều đặn. Tôi cũng lắng nghe tiếng còi vọng đến từ đâu đó nhưng mọi phía vẫn chỉ là những âm thanh hỗn tạp, khó nghe...

Hạm trưởng bước lại bàn hải đồ mở quyển nhật ký hải hành. Ông đứng viết vài dòng tiêu lệnh rồi bước sang ngồi lên chiếc ghế nệm bọc da duy nhất dành riêng cho ông. Người ông đong đưa, đôi mắt đăm đăm nhìn xuyên qua khung trời mù mịt. Tôi đoán là ông đang ưu tư. Tôi nhớ một lời nói đùa khi học về hải hành trong sương mù. Nó không khác già hiệp sĩ mù nghe gió kiếm. Con tàu phải lắng nghe tiếng còi để tránh nhau. Khi “thấy” nhau thì coi như quá muộn.

Hạm phó nói lớn:

- Phòng radar báo cáo ba écho gần nhất.

Tôi nghe lệnh truyền đi và tiếng đáp nhận. Một lúc sau là tiếng báo cáo hướng và khoảng cách. Hạm phó loay hoay đo đạc, chấm tọa độ vị trí chiến hạm lên tấm hải đồ. Ông đề nghị hạm trưởng cho đổi đường. Ðược chấp thuận, hạm phó ra lệnh anh hạ sĩ quan vận chuyển đứng gần chiếc loa dẫn xuống phòng lái:

- Bên phải năm.

Sau khi anh lặp lại lệnh, có tiếng vọng từ miệng loa:

-Tay lái năm bên phải.

Mũi tàu quay dần về phía hữu. Bất chợt con tàu chao đảo dữ dội. Tôi chụp lấy thành đài, bám chặt. Hạm phó buông thõng chiếc ống dòm lủng lẳng trước ngực, phóng tới ôm chiếc la bàn điện đặt trên một trụ sắt giữa đài chỉ huy. Ông nhìn vào chiếc la bàn, giọng thật sắc:

- Lái thẳng.

Tiếng vọng:

- Lái thẳng, đường năm ba.

Hạm phó ra lệnh tăng tốc độ. Con tàu chúi mũi vào các ngọn sóng bạc đầu, hâm hở tiến lên. Nước bắn tóe vào đài chỉ huy từ mọi phía. Các bộ kaki màu nước biển lấm tấm những đốm xanh thẫm. Hạm trưởng rời khỏi ghế, bước lại bàn hải đồ nhìn vị trí được đánh dấu bằng vòng tròn có gạch chéo. Nó nằm trên con đường hải hành trù định. Hạm trưởng gật gù tỏ vẻ hài lòng. Ông hỏi hạm phó:

- Ai là sĩ quan đương phiên?

- Thưa thiếu úy Túc.

- Ai kế?

- Thưa, trung úy Lâm.

Ông quay sang tôi:

- Thiếu úy Bằng đi ca với trung úy Hào.

Ca của trung úy Hào bắt đầu tám giờ tối. Không đợi tôi đáp nhận, ông quay sang hạm phó:ố Hạm phó trách nhiệm chỉ huy từ giờ phút này cho đến khi tàu qua khỏi cù lao Chàm. Thiếu úy Bằng có thể xuống nghỉ ngơi...

Tôi hăng hái lên tiếng:

- Thưa hạm trưởng, tôi xin ở đây cho đến khi nhận phiên.

Ông gật gù:

- Còn bốn tiếng nữa mới đến phiên. Mệt lắm đó. Tùy anh.

Ông xoay người hướng về cầu thang. Hạm phó hô nghiêm. Tất cả nhân viên đưa tay chào. Ðợi Hạm trưởng khuất hẳn, hạm phó cười cười với Túc:

- Anh hùng thấm mệt?

Túc tựa lưng vào thành đài, nhăn nhó:

- Ðêm qua quần nhau tới sáng. Giờ gặp sóng gió thế này chắc... chết.

- Muốn hạm phó đi giúp ca này chăng?

Túc lắc đầu:

- Có sức chơi có sức chịu. Cám ơn hạm phó.

- Vậy thì tôi sẽ giao phiên khi chiến hạm qua khỏi cù lao Chàm. Bây giờ thì cứ đứng nhắm mắt... cho lại sức.

Nhưng Túc vẫn đăm đăm nhìn xuyên qua tấm kính chắn gió. Thỉnh thoảng anh loạng choạng, quơ tay lung tung để giữ thăng bằng khi con tàu nghiêng quá đà. Tôi biết là tôi chưa làm thế được. Tôi còn cần bám vào một cái gì đó mới giữ được thăng bằng. Tiếng gió rít veo véo, tiếng rào rào của các mảng nước bắn tung, tiếng đì đùng của các đợt sóng ngầm chặt vào lườn. Thỉnh thoảng chiến hạm va phải cơn sóng mạnh, cả thân tàu run rẩy theo tiếng răng rắc vang lên. Tất cả những âm thanh đó gợi tôi cái cảm giác bất an.

Suốt tháng trước, dù được đi ca chung với hạm phó, học hỏi được nhiều nhưng tôi vẫn chưa quen với những tiếng động lạ thường trên chiến hạm.

Tiếng của hạm phó lạc vào âm thanh hỗn độn:

- Thiếu úy Bằng xuống kiểm soát việc trực radar. Ðừng để nhân viên thám xuất rời mắt khỏi màn ảnh. Mọi bất thường báo cáo ngay.

Tôi đáp nhận rõ rồi xiên xẹo lần ra đầu cầu thang dẫn xuống phòng lái. Cầu thang như sâu hơn thường ngày. Tôi lần dò đặt chân lên từng bậc. Hai tay bám chặt thanh sắt an toàn. Con tàu chầm chậm nghiêng hết về bên phải rồi vặn mình nghiêng hết về bên trái. Tôi phải dồn toàn lực vào hai tay để bám víu mỗi khi con tàu nghiêng hết về một phía. Sự cộng hưởng tạo một sức ly tâm cực mạnh khiến tôi có thể bị bắn văng khỏi tàu. Xuống đến chân cầu thang, tôi thận trọng bước lần dò về cửa phòng lái. Cửa là một tấm sắt dềnh dàng đóng kín khi sóng to gió lớn. Cần khóa đang ở thế thẳng đứng. Muốn mở, phải vặn cho nó nằm ngang. Trời vẫn oi bức nhưng tôi cảm thấy lành lạnh, rợn người. Với mức độ tròng trành thế này, không cẩn thận chọn đúng thời điểm, cánh cửa ngàn cân có thể bật tung vào người gây thương tích nặng. Và một khi cửa đã mở mà không bước vào kịp, nó sẽ bật vụt lại, chặt gãy tay chân.

Một tay bám vào thanh an toàn, tay kia nắm cần chốt, tôi nín thở chờ đợi. Vừa khi con tàu trở về vị trí thăng bằng, tôi xoay phần tư vòng, mở vụt cánh cửa, lách vô thật lẹ. Chân vừa rút vào thì cánh cửa ập sầm lại. Tôi gài chốt màà hú hồn. Phòng lái lờ mờ. Tôi bước đến chiếc radar đặt gần vách trong. Anh thượng sĩ thám xuất đưa tay chào. Tôi gật đầu, thân mật:

- Các anh đều... êm cả chứ?

Anh cười:

- Cám ơn thiếu úy, tụi này cũng đỡ.

Tôi nhìn vào mặt kính hình vành tròn. Từ điểm trung tâm, một vệt sáng quét chầm chậm tạo nên hình ảnh hải cảng vịnh Sơn Trà. Phần sáng rực là bờ và núi. Phần nhạt hơn là biển với vài ba đốm trắng nổi bậc. Anh thám xuất cho biết các đóm sáng đó là những đối vật di động, có thể là thương thuyền. Anh báo cáo tình hình lên đài chỉ huy. Hạm phó ra lệnh theo dõi và báo cáo liên tục hướng và khoảng cách...

Ánh sáng khi lóe, khi lòe làm mắt và đầu tôi căng nhức. Tôi bước lui, tựa lưng vào vách. Qua lỗ châu mai, mũi tàu cất lên thật cao rồi gục xuống đánh sầm. Một mảng sóng lớn tràn qua mũi như muốn nhận chìm chiến hạm. Nước tốc lên, túa ào ạt vào lòng tàu và ập vào ô kính các lỗ châu mai. Tôi nghĩ thầm, may mà tàu còn ở vận tốc chậm. Nếu máy tiến ở tốc độ đường trường thì coi như là đời đi đứt.

Như để thách đố, một giọng uể oải phát từ miệng loa:

- Phòng lái, hai máy tiến bốn.

Tôi cay đắng mỉm cười. Rồi mày lại thấy mật xanh mật vàng. Rồi mày sẽ còn mửa dài dài,còn khốn khổ dài dài... Tiếng lạch cạch từ cần tốc độ. Tiếng leng leng báo hiệu máy đã tăng. Nhìn về tả hạm qua lỗ châu mai,một khoảng không gian nhỏ bé chầm chậm chuyển từ vòm trời âm u sang vùng biển xáo động và ngược lại. Con tàu liên tục vật vã, giật mình, rên rỉ...

Tôi lại thấy ngột ngạt, bụng quặn lên, nước mắt ứa tràn. Ðến cơn quặn đau thứ ba, tôi phóng tới chiếc sô đặt gần cửa ra vào. Chưa kịp gục mặt xuống, miệng đã há rộng. Tôi nôn thốc hết thức ăn bữa trưa. Rồi tiếp tục các chất bầy nhầy lợn cợn chừng là thức ăn chưa kịp tiêu của ngày hôm qua và ngày trước đó. Nước mắt tôi ràn rụa. Tôi nín thở mà vẫn ngửi được mùi tanh hôi nồng nặc. Tôi không dám đứng lên, vẫn tiếp tục ôm chiếc sô chờ tới phiên mật xanh mật vàng. Trong giây phút toát mồ hôi đó, đầu óc tôi chợt hiện ra hình ảnh câu ca dao đã được một anh thủy thủ hiệu đính nhân một lần thấy tôi ói mửa: Hôm qua lên gác đài cao, trông cá cá lặn trông sao sao mờ, buồn trông thiếu úy ôm sô... Tôi thấy vui vui và bỗng nghe người nhẹ đi. Một cảm giác dễ chịu lan nhanh. Theo kinh nghiệm, tôi hiểu là công tác... nuôi cá đã tạm dứt và từ giờ có quyền... chờ dịp khác. Tôi gắng gượng đứng lên, bám vào vách, hổn ha hổn hển. Ðúng lúc đó tôi nghe văng vẳng giọng ca Thanh Thúy. Tôi tưởng tôi đang mê nên cố lắng tai... Giọng ca nỉ non, rõ ràng từng tiếng: “...thì dù xa xôi tôi vẫn là của ngườià” Tôi bật cười thì thầm: “Cám ơn em, cho dù có em ở đây, anh cũng chẳng... ăn được cái giải gì!”

Nghe tiếng tôi cười, anh hạ sĩ vận chuyển quay sang:

- Phòng vô tuyến chơi điệu lắm, thiếu úy. Những lúc sóng to, biển động, họ mở nhạc yêu cầu nghe hết sảy!

Tôi gật đầu tán đồng nhưng không dám lên tiếng. Tôi biết, nếu há miệng, tôi sẽ không nói mà là mửa tiếp. Tôi nín hơi cố ngăn một cơn nôn. Giọng ca nức nở, ngọt ngào như ru tôi vào cõi mộng... “Nhiều khi ưu tư, tựa song cửa nhỏ, nhìn ngoài mưa tuôn sao nghe lạnh vào hồn...” Tôi thấy lạnh ở thân nhưng hồn thì tan theo tiếng hát.

- Mời thiếu úy Bằng lên đài chỉ huy gặp hạm phó.

Tôi nói lớn đáp nhận rồi dứt khoát bước nhanh về cánh cửa sắt. Tôi xoay cần chốt, vừa đẩy mạnh vừa kềm giữ. Cánh cửa bật tung. Tôi bước nhanh ra. Cửa tự động ập lại. Tôi xoay cần chốt khóa chặt. Gió rít từng hồi mang theo những giọt nước li ti bắn túa vào người. Tôi lại lạng quạng từng bước lên các bậc thang. Con tàu chao nghiêng, trườn tới rồi chao nghiêng, chừng như đang biểu diễn một điệu luân vũ giữa muôn ngàn hoa sóng. Chiếc mũ lưỡi trai bất ngờ rời khỏi đầu. Tôi ngoái lui. Chiếc mũ bay vụt cao, la đà rồi lại vụt cao và mất hút. Cơn ớn lạnh len dài theo xương sống. Tôi nhớ ra là đã quên cái áo mưa trong phòng lái. Tôi muốn trở lui nhưng nghĩ đến phút giây phải mở cánh cửa chết người nên đành chịu ướt, chịu lạnh bước tiếp. Hạm phó nhìn tôi cười:

-Gọi cậu lên đây xem sức cậu tới đâu! Khá lắm! Thôi, xuống nghỉ ngơi đi. Vài giờ nữa nhận phiên là... thăm thẳm chiều trôi đấy.

Mệt quá, tôi không cười nổi với lời đùa của ông và cũng lờ đi lời nói ngon lành với hạm trưởng mới đây. Tôi chào từ biệt hạm phó và thiếu úy Túc. Có lẽ phải mất đến mười phút tôi mới lần dò tới được chiếc giường êm ấm của tôi bên trong lòng tàu. Nhưng chỉ cần vài phút là tôi đã chìm vào giấc ngủ mê man...

Tôi chợt thức giấc vì cảm nhận một sự êm ả bất thường. Chiến hạm không còn đong đưa, lay lắt, không còn rên rỉ vì những cú đập tàn bạo của các đợt sóng ngầm. Tôi nghe máy tàu vẫn còn chạy ở vận tốc cao nhưng dường như đang hải hành trong một vùng vịnh không sóng gió. Tôi nhìn đồng hồ: 7 giờ sáng. Ðêm qua tôi bị đánh thức để nhận đi phiên từ tám giờ tối đến nửa khuya. Bốn tiếng chịu đựng những cơn tiện xoáy bào quả là dài đăng đẳng. Ðôi lúc tôi tưởng chừng kiệt sức, gục quỵ. Khi rời đài chỉ huy, biển còn động dữ dội. Không lẽ chỉ qua một giấc nam kha mà lại êm ru bà rù? Thì cũng có thể lắm. Giấc nam kha kéo dài suốt bảy tiếng, đủ để tàu vượt qua một đoạn đường dài, dứt bỏ vùng bão tố.

Bụng tôi chợt cồn cào, ran ran. Tôi nhớ ra là tôi đã bỏ bữa ăn tối qua, đã mửa liên tục. Tôi cũng nhớ ra nhiệm vụ chính của tôi trên chiến hạm là kiểm soát việc ăn uống của thủy thủ đoàn. Bây giờ là giờ điểm tâm. Tôi ngồi bật dậy, cảm nhận cơn mệt mỏi rã rời... Tôi rửa mặt thật chậm, tận hưởng cơn sảng khoái từ độ mát mẻ của nước. Tôi sửa sang tề chỉnh quân phục rồi bước lên nhà bếp. Hai nhân viên hỏa đầu vụ đưa tay chào. Tôi chào đáp và hỏi:

- Trung sĩ Tuyến đâu, anh Cát?

- Thưa thiếu úy, trung sĩ đang kiểm soát phòng ăn đoàn viên. Thiếu úy cần, tôi đi gọi?

Tôi nhìn nhà bếp gọn gàng, sạch sẽ:

- Thôi khỏi. Còn thức ăn sáng cho sĩ quan?

- Tôi dọn thêm món trứng chiên này là xong. Thiếu úy đã bỏ cơm chiều hôm qua...

Tôi cười gượng:

- Sáng nay chắc cũng thế.

Giọng Cát vui vẻ:

- Biển đã yên. Ăn được rồi, thiếu úy.

Tôi lắc đầu:

- Vấn đề là... ăn không vô. Thức ăn chưa qua khỏi cổ là... vọt ra liền! Hy vọng bữa trưa, may ra.

- Trưa không chừng mình có vít ăn. Hoàng Sa có nhiều vít, thịt ngon hơn thịt gà.

- Vít là con gì vậy?

- Một loại rùa nhưng lớn hơn con ba ba nhiều.

Tôi cười, lắc đầu:

- Rùa rắn là không có tôi.

Tôi bước qua khung cửa vào lòng tàu. Cả đại đội địa phương quân còn say sóng nằm la liệt từ mũi tới lái. Họ như ngủ say sưa, mà thật ra họ đang mê thiếp, như tôi đêm qua. Nhiệm vụ buộc tôi phải... tỉnh lại. Chỉ vài giờ nữa thôi, họ sẽ hạnh phúc lên bờ. Còn tôi, trọn đời khó thoát khỏi biển. Tôi leo vội lên đài chỉ huy đúng lúc tiếng còi đổi phiên vang lên. Tôi chào trung úy Lâm. Ông đưa tay, thân mật:

- Biết chú mầy thường lên sớm nên tôi đang mong đây. Lái giùm tôi cho đến khi trung úy Hào lên nhận phiên. Tôi có việc xuống sớm một tý.

Không cần biết tôi bằng lòng hay không, ông tỉnh bơ rời vị trí. Tôi tưởng ông đùa vì ông thừa biết tôi chưa đủ khả năng hải hành. Tôi mới ra trường được một tháng mà theo hạm trưởng phải ít nhất sau năm bảy chuyến công tác tôi mới được đánh giá làm trưởng phiên. Tôi chợt lo lắng, nhìn quanh xa khơi. Không bóng dáng một chiếc tàu thuyền nào. Chỉ bao la một thảm xanh lao xao, lấp lánh. Muôn ngàn tia sáng chạy dài đến tận mặt trời chưa lên cao. Gió nhẹ, mát rười rượi. Tôi hít một hơi dài, thấy an tâm và hãnh diện. Việc ủy thác của trung úy Lâm hẳn đã dựa vào thành quả một tháng cố gắng học hỏi tận tình của tôi.

Nhớ đến việc đầu tiên phải làm khi nhận trưởng phiên hải hành là xác định vị trí chiến hạm, tôi bước sang bàn hải đồ nhìn vào hải trình. Hàng chục vòng tròn nhỏ có gạch chéo cách đều nhau trên một đường kẻ kéo dài từ cù lao Chàm đến trung tâm quần đảo Hoàng Sa. Vòng cuối cùng với ghi chú 1100H, nằm cách không xa một nhóm đảo trông giống như là những quả trứng lớn nhỏ nằm ngổn ngang. Tôi hiểu là còn khoảng ba tiếng nữa sẽ đến điểm đổ bộ.

Tiếng trung úy Hào từ phía sau:

- Mình đến đâu rồi, thiếu úy Bằng?

Tôi quay lại đưa tay lên chào nhưng anh chỉ cười cười đưa tay ra bắt:

- Còn sức lên nhận phiên sớm là ngon quá rồi. Cứ tưởng anh hùng đã thấm mệt!

Tôi ráng nở nụ cười:

- Thưa trung úy, theo phỏng định thì còn ba tiếng nữa là đến điểm đổ quân.

- Cụ tin vào cái vị trí phỏng định là có cơ hội chẳng bao giờ thành... hạm trưởng. Trong tình trạng sóng to gió lớn, vị trí phỏng định là vị trí... bi quan nhất. Từ chiều hôm qua chúng ta đi với hướng sóng gió chếch mũi. Chúng ta đã cho lái “trừ hao” độ dạt. Và chúng ta đã phỏng định tốc độ là mười hai gút. Thật sự giờ này chúng ta ở nơi nào trên biển, chỉ có... Trời biết. Không chừng ta đã lạc sang vùng Amphitrite Group của người dưng khác họ hoặc tệ hại hơn là đang vào vùng nước cạn North Reef với những xác tàu chìm. Nói cho cùng, gặp cái nào thì cũng thân bại danh liệt. Tốt hơn hết là bắt đầu theo dõi độ sâu.

Anh đổi giọng sắc và lớn:

- Phòng lái, cho biết chiều sâu mỗi năm phút. Radar báo cáo ngay khi phát hiện echo. Thiếu úy Bằng và các quan sát viên quan sát cẩn thận bằng ống dòm, từ hướng 9 giờ đến 3 giờ.

Hào dò nhìn lên tấm hải đồ khi nghe phòng lái báo cáo chiều sâu. Anh gật gù vói tay lấy chiếc ống dòm rồi bước sang chiếc ghế sắt gắn vào thành đài. Anh ngồi tréo chân thoải mái, chầm chậm quét ống dòm quanh hướng mũi chiến hạm. Anh hạ sĩ quan phụ tá trưởng phiên, anh giám lộ và tôi cùng đưa ống dòm lên mắt. Vẫn chỉ là mặt biển lóng lánh, thăm thẳm, mênh mông... Con tàu thênh thang phóng tới, bọt biển tỏa hình cánh chim, đổ về phía sau thành một tràng dài trắng xóa.

Cột cờ trơ trọi cuối lái gợi tôi nhớ lá cờ trên đỉnh đài chỉ huy. Tôi bước ra phía ngoài ngẩn mặt. Tôi nhìn trân trân. Lá cờ đã nhạt màu, phần đuôi rách te tua. Lá cờ vẫn bay phất phới nhưng uyển chuyển, nhẹ nhàng, trái hẳn hình ảnh vẫy vùng, mãnh liệt chiều qua. Tôi có cảm tưởng lá cờ cũng cùng mang sức sống như chúng tôi, cũng chịu đựng những vất vả gian nan, cũng tận hưởng những niềm vui thành đạt.

- Báo cáo có echo hướng một giờ, khoảng cách 28 hải lý.

Tự dưng tôi thở ra nhẹ nhõm. Hào đứng thẳng lên, chếch ống dòm về phía tay mặt. Anh chầm chậm, thật chậm quét ống dòm qua lại. Ðược vài phút, anh rời ghế, chạy vội xuống phòng lái. Khi trở lên, anh cười tươi tắn:

- Hải hành phỏng định mà... chính xác gớm!

Anh nhấc điện thoại:

- Thưa hạm trưởng, tôi trung úy Hào. Trình với hạm trưởng, đã thấy đảo hướng một giờ, cách 27 hải lý bằng radar. Chưa thấy bằng ống dòm.

Anh lặng thinh nhận chỉ thị một lúc,đáp nhận rõ và gác máy. Anh nhìn la bàn, ra lệnh:

- Lái đường một-không-sáu.

Hào đưa ống dòm lên mắt. Tôi bắt chước anh. Biển vẫn thăm thẳm, chập chùng đến ngầy ngật. Dường như gió đổi chiều, đưa ngược khói tầu lên tận đài chỉ huy. Mùi khói khó ngửi nhưng lại gợi tôi thèm một điếu thuốc. Tôi đã quên nó từ lúc tàu khởi hành. Tôi mở nắp túi, gắn điếu thuốc lên môi, thong thả châm lửa. Tôi nhả ngụm khói đầu tiên rồi hít một hơi dài tưởng chừng như đang hôn người yêu. Bất ngờ tôi sặc sụa và nghe bứt rứt khó thở. Chưa hút được. Tôi nhủ thầm, dứt khoát ném điếu thuốc. Nó nương theo gió bay thật xa rồi rơi hút vào bọt biển.

Bầu trời trong sáng, xanh ngát, không một dấu vết sa mù. Gió nhè nhẹ, mát rượi. Tôi hít một hơi sảng khoái và thấy lại yêu đời yêu biển...

Hạm trưởng xuất hiện ở chân cầu thang. Tôi báo cho Hào. Anh ra dấu cho nhân viên. Tất cả chỉnh đốn lại quân phục, tư thế. Tôi hô nghiêm và đưa tay chào khi ông đặt bước lên đài chỉ huy. Ông thân mật hỏi han từng người. Tôi là người cuối cùng.

- Thiếu úy Bằng trông tỉnh táo lắm. Ðược lắm.

Tôi chỉ biết lí nhí cám ơn. Ông chưa yên vị trên ghế thì có tiếng báo cáo:

- Ðã thấy đảo hướng mười hai giờ.

Tôi chụp ống dòm. Tôi vốn nôn nao, nôn nóng muốn biết cái... dung nhan mùa hạ của cái quần đảo đã làm tôi khốn khổ, đau đớn. Phải khó khăn lắm tôi mới trông thấy một vệt đen trên đường chân trời. Vệt đen đó dần dần rõ dạng. Nó vươn cao cùng lúc lô nhô những ngọn cây. Rồi toàn bộ cái đảo thấp lè tè. Tôi cảm thấy thất vọng. Hoàng Sa là thế đó sao? Tôi quét chiếc ống dòm thành vòng 360 độ. Tất cả vẫn chỉ là mặt biển xanh thẫm mênh mông.

Hạm trưởng ra lệnh từ chiếc ghế dành riêng cho ông:

- Trung úy Hào có thể cho bớt máy.

Hào ra lệnh, không do dự:

- Hai máy tiến ba.

Sau tiếng leng keng, cường độ tiếng máy dịu hẳn đi. Tôi cũng cảm nhận được sự giảm tốc của con tàu. Sự thất vọng của tôi cũng tiêu tan. Tôi nhìn thấy thêm hai hòn đảo nữa bằng mắt thường. Tôi không ngờ trên đời lại có những hòn đảo nhỏ và thấp đến thế. Chúng chỉ vừa đủ nổi trên mặt nước. Một trông như con rùa đang bơi bập bềnh và một như chiếc tiềm thủy đĩnh đang lặng lờ trôi. Giữa cái mênh mông của sóng nước, hai hình ảnh đó trông lạ và đẹp mắt.

Cơn mỏi mệt, ngật ngừ bỗng dưng tan biến. Người tôi chợt xao xuyến, lâng lâng. Một mùi hương lạ thoang thoảng, sảng khoái. Mùi hương đã đến với tôi lần đầu khi chiến hạm hướng mũi vào sông Lòng Tào sau chuyến công tác đầu tiên. Mùi đất liền. Chỉ những ai đi biển lâu ngày mới nhận ra mùi hương tuyệt dịu đó...

Hạm trưởng lên tiếng nhận quyền chỉ huy. Ông ra lệnh nhận còi nhiệm sở vận chuyển và cho giảm máy. Con tàu sựng lại rồi tiến thư thả trên vùng nước trong veo, phô bày đáy biển toàn cát đá trắng. Xa xa hai bên hông là những dãy san hô ngầm long lanh ánh sáng. Chẳng bao lâu hòn đảo thấp lè tè hiện ra trước mắt thường. Tôi chỉ một đóm trắng nằm ở cuối đảo, hỏi ông trung sĩ giám lộ đứng gần:

- Có cái gì màu trắng? Anh có nhận thấy không?

- Thưa thiếu úy, đó là đài khí tượng. Chúng ta có một toán khí tượng hoạt động trên đảo. Tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển là từ đài đó.

Tôi cười vui sướng với một khám phá mới mẻ...

Vào đúng thời điểm đã định, hạm trưởng ra lệnh thả neo. Con tàu xuôi theo gió nằm song song với hòn đảo khá lớn. Hòn đảo có những lùm cây rậm rạp sau một bãi cát trắng chạy vòng. Cuối bãi cát về phía mặt là một tòa nhà màu trắng vươn cao. Ðó chính là đài khí tượng. Nổi bật trên nóc tòa nhà là lá cờ vàng ba sọc đỏ đang ngạo nghễ phất phới giữa nền trời xanh. Tôi đăm đăm nhìn lá cờ. Như một thói quen, tôi chụm hai chân đứng vào thế nghiêm, đưa bàn tay lên ngang mày. Trong tôi, những xúc động dạt dào dâng lên....

(Trích hồi ký Ðời Thủy Thủ, Sài Gòn 1969)
tranphuongdong
Posts: 526
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »


Image

Quân Đội Việt-Nam Cộng Hòa

Đỗ Thái Nhiên
Nguyên thiếu úy , trưởng ban Quân số
Tiểu Đoàn 3, Pháo Binh Phòng Không
KBC 4314

Lúc bấy giờ là tháng năm, 1985, người Việt Nam tại quốc nội, nhất là dân chúng cư ngụ vùng Saigòn, Gia Định, vẫn nô nức nhưng kín đáo tìm đường vượt biên. Trong trường hợp âm mưu vượt biên thất bại, người vượt biên sẽ bị Cộng Sản Việt Nam hành hạ dưới tội danh "phản quốc". Vì thế, công việc chuẩn bị vượt biên cần phải được bảo mật tuyệt đối. Chính vì hai chữ "bảo mật", nhiều người đã ra khơi một cách hoàn toàn bất ngờ, không một lời giã biệt bằng hữu. Riêng tôi, tôi nhất định vượt biên, nhất định bảo mật, nhất định ân cần thăm viếng và từ biệt bạn bè cũ. Nhằm đáp ứng các "nhất định" vừa nêu, một ngày trước khi rời xa quê hương, tôi quyết định tìm gặp những người bạn đặc biệt của tôi. Những người bạn đó hoàn toàn kín tiếng. Những người bạn đó không còn bận tâm chọn lựa đời sống ở bên này hay bên kia bờ đại dương. Những người bạn đó đã đi trọn đường trần bằng tất cả gian khổ với một ước mơ bất thành: ước mơ Việt Nam thống nhất, dân chủ và thịnh vượng. Những người bạn đó chính là các bạn đồng ngũ thương mến của tôi đang an nghỉ tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa.

Chiều hôm ấy, khoảng ba giờ, một mình tôi thẫn thờ bước vào nghĩa trang Biên Hòa. Bức tượng Thương Tiếc nằm ở ngay cổng đã bị mang đi nơi khác tự bao giờ. Con đường từ xa lộ chạy vào tới đài kỷ niệm Chiến Sĩ Trận Vong vẫn còn đó, vẫn dài, vẫn thẳng, nhưng hai hàng phượng đứng bên đường trông thật tiều tụy và ủ dột. Có thể vì phượng thiếu nước, thiếu gió. Có thể vì phượng muốn biểu tỏ tấm lòng trắc ẩn của cỏ cây dành cho hàng ngàn anh linh chiến sĩ đã vị quốc vong thân nhưng nay phải ngậm đắng nuốt cay nơi suối vàng trước cảnh "quốc" đang bị đè bẹp dưới ách độc tài Cộng Sản. Vào tới khu dành cho mộ phần của chiến sĩ, khách viếng mộ tận mắt chứng kiến toàn thể nghĩa trang đều bị đập phá tàn nhẫn. Đây là một ngôi mộ bị đào bới để lộ cả quan tàI mở nắp, di cốt tử sĩ đã biến mất. Kia là một ngôi mộ nằm ở triền đồi, bia đá vẫn còn nguyên nhưng di ảnh của ngườI quá cố có dấu vết vài phát đạn vào mắt, vào miệng. Kế đó là nơi an nghỉ của một sĩ quan cấp tá, trên bia đá, người nào đó lấy sơn đen viết một câu giễu cợt, rất phản văn hóa.

Cứ như vậy, khách viếng nghĩa trang lần lượt ghi nhận vô số hình ảnh não nề của một nghĩa trang bị nhận xuống tận cùng của hố ô nhục. Mặc cho ô nhục chồng chất, toàn bộ mộ phần của nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa vẫn lặng lẽ hướng về đài chiến sĩ trận vong. Đài này nằm trên đỉnh một ngọn đồi tọa lạc tại trung tâm nghĩa trang. Kiến trúc trọng yếu của đài chiến sĩ trận vong là một tháp xi-măng xám, cao vời vợi. Tháp này gợi nhớ hình ảnh cây bảo kiếm của người chiến sĩ vô danh năm xưa đã để lại nơi dương thế trước khi đi vào cõi vĩnh hằng. Từ cõi vĩnh hằng xa xăm kia, người ta vẫn nghe vang vọng một câu hỏi, nửa như kinh ngạc, nửa như phẫn hận: tại sao nghĩa trang của những anh hùng vị quốc vong thân lại có thể bị lăng nhục???

Bây giờ nhiều năm đã trôi qua... Bây giờ những xót xa về cảnh tượng hoang phế và cô tịch của nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa đã lắng đọng... Bây giờ những uẩn ức về lệnh buông súng tức tưởi đã trôi xa vào quá khứ... Bây giờ thời gian là năm 2002, một chiều tĩnh lặng cuối thu. Không gian là công viên tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ thuộc thị xã Westminster, California.

Tôi ngồi tựa lưng vào chân tượng đài, trầm ngâm suy nghĩ về quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

I. Phương pháp đánh giá một Quân Ðội.

Trước tiên, tôi nghĩ tới những luận cứ chê trách QĐVNCH. Có người nêu rõ danh tánh vài ba ông tướng buôn lậu để đơn giản cho rằng QĐVNCH là quân đội buôn lậu. Người khác đã viện dẫn trường hợp đào ngũ, nghịên ngập của năm bẩy quân phạm trong quân lao Gò Vấp để vội vàng kết luận: QĐVNCH là quân đội vô kỷ luật. Người khác nữa đã kể lại câu chuyện một quân nhân đầu hàng địch quân trên trận địa đê? Nhanh chóng nhận định QĐVNCH là quân đội hèn nhát... Tất cả các đánh giá vừa kể hiển nhiên là kiểu đánh giá xuất phát từ những người rất giầu ác ý nhưng vô cùng nghèo nàn hiểu biết về phương pháp đánh giá. Làm thế nào để chúng ta có thể đánh giá một tập thể trên căn bản chừng mực và nghiêm chỉnh? Đi tìm giải đáp cho câu hỏi vừa kể, có lẽ chúng ta nên suy nghĩ về một phương pháp đánh giá trong khoa kinh tế học. Mỗi khi tổng sản lượng quốc gia gia tăng, chưa hẳn người dân được sống trong thịnh vượng.

Những năm gần đây, tổng sản lượng quốc gia Việt Nam được ghi nhận là gia tăng nhưng tuyệt đa số quần chúng Việt Nam vẫn bị giam cầm trong cuộc sống cùng khổ. Lợi nhuận của sinh hoạt kinh tế phải là lợi nhuận chung của toàn bộ xã hội. Lợi nhuận kia phải được phân bổ hợp lý cho toàn dân. Thế nhưng CSVN đã cưỡng chiếm lợi nhuận kinh tế cho đảng CS và cho cá nhân đảng viên nhất là đảng viên thuộc giai cấp tư bản đỏ. Đó là lý do giải thích tại sao tổng sản lượng quốc gia VN gia tăng nhưng hai chữ "thịnh vượng" vẫn là ngườI khách cực kỳ xa lạ đối với quần chúng nghèo túng. Vì vậy, muốn so sánh mức độ thịnh vượng giữa hai hay nhiều nền kinh tế, các chuyên viên kinh tế phải đồng thuận với nhau về một người tiêu thụ mẫu mực gọi là "kinh tế nhân". Kinh tế nhân là người tiêu thụ một số lượng nhất định về các sản phẩm kinh tế căn bản như vải vóc, lương thực v...v... trong một thời lượng đã được quy ước trước. Thế rồi từ ý niệm kinh tế nhân, chúng ta có thể xác định mức độ thịnh vượng của một nền kinh tế bằng cách cân đo xem nền kinh tế đó đã thực sự nuôi dưỡng được bao nhiêu kinh tế nhân trên tổng dân số. Kết quả của việc cân đo này giúp chúng ta dễ dàng thiết lập bảng xếp hạng kinh tế thịnh vượng giữa các quốc gia. Đánh giá một nền kinh tế, chúng ta cần "kinh tế nhân" làm thước đo. Đánh giá một quân đội, chúng ta cũng cần một thước đo tương tự. Thước đo đó chính là một người lính bình thường. Người lính đó không phải là một ông tướng lúc nào cũng sẵn sàng "bỏ quân chạy lấy người". Người lính đó không phải là anh binh nhì, suốt ngày ngồi ở vọng gác thì thầm ca bài "Ky? Vật Cho Em". Người lính đó mang trong người đầy đủ "tính lính" mà hầu hết binh lính trong QĐVNCH đều có. NgườI lính đó là "người lính tiêu biểu". Bây giờ chúng ta hãy khảo sát phẩm cách người lính tiêu biểu, mà bài viết này chỉ gọi tắt là người lính.

II. Quá trình thụ giáo của người lính.

Muốn xác định phẩm chất của một quân đội, chúng ta không thể không tìm hiểu cội nguồn giáo dục đã đào tạo ra hàng ngũ quân nhân cho quân đội đó. Chế đô. CSVN là chế độ độc tài, tham ô và bóc lột. Vì vậy chế độ này cần rất nhiều tay sai để bảo vệ giới thống trị. Cũng vì vậy giáo dục của CSVN là giáo dục đào tạo tay sai. Chủ nghĩa Marx Lenine và luận cứ ca tụng đảng, suy tôn Hồ Chí Minh, là các công cụ trọng yếu của guồng máy giáo dục CS. Ngược lại, VNCH có một nền giáo dục "rất Người". Trên toàn lãnh thô? VNCH, các môn học như: công dân giáo dục, sử học, văn chương, triết học v...v... không hề có chỗ đứng dành cho tư tưởng độc tôn lãnh tụ hay độc tôn chế độ. Đó là nội dung cốt lõi của chương trình giáo dục nhân bản mà người lính của QĐVNCH đã được hấp thụ trong toàn bộ học trình của tiểu, trung và đại học. Đó là một sự thực mà không một người nào đã từng sinh ra và lớn lên trong xã hội VNCH có thể phủ nhận được. Một sự thực mà guồng máy thông tin tuyên truyền của CSVN không thể xuyên tạc hoặc bóp méo. Ngay sau khi "xếp bút nghiên theo việc đao cung", người lính lại bước vào trường học mới: ngành tâm lý chiến của QĐVNCH. Tại đây người lính không hề bị nhồi sọ để trở thành tay sai cho lãnh tụ hay chế độ chính trị nào.

Người lính của QĐVNCH chỉ được trang bị một loại võ khí tinh thần duy nhất là lòng yêu nước và tinh thần tôn trọng kỷ luật quân đội. Song song với giáo dục học đường dân sự và giáo dục tâm lý chiến của quân đội, người lính còn được hấp thụ một nền giáo dục nhân bản của toàn bộ xã hội. Người ta có thể không đồng ý với các chế độ chính trị tại VNCH về một số sự việc nào đó nhưng không thể chối cãi rằng VNCH là một chế độ tôn trọng quyền tự do tư tưởng. Quyền tự do này được thể hiện đậm nét trên hai lãnh vực: nghệ thuật trình diễn và nghệ thuật văn học. Điều này giải thích lý do tại sao sau nhiều năm bi. CSVN tìm đủ mọi phương cách để tiêu diệt, những tác phẩm văn học nghệ thuật xuất phát từ xã hội VNCH vẫn được lưu truyền càng ngày càng mạnh mẽ trong dân gian ở cả hai miền Nam và Bắc. Nhìn chung lại, giáo dục học đường, giáo dục tâm lý chiến cùng với giáo dục xã hội là ba nguồn giáo dục nhân bản mà người lính VNCH đã được tôi luyện từ thời niên thiếu cho đến hết cuộc đời binh nghiệp.Trong thực tiễn đời sống, ba nguồn giáo dục căn bản kia đã hướng dẫn người lính VNCH sống và chiến đấu đúng với hướng phát triển tình cảm trong sáng của một Con Người. Hướng phát triển đó được triết học cụ thể hóa bằng biểu đồ hình trôn ốc. Vạn vật vận động theo hình trôn ốc. Hình trôn ốc triết học có đỉnh đặt trên mặt đất, đáy hướng lên trời. Hình trôn ốc là hình vẽ diễn ý rằng mỗi vận động trong vạn vật đều xuất phát từ một điểm để sau đó phát triển rộng ra, cao lên, cả về lượng lẫn phẩm. Khảo sát diễn tiến phát triển tình cảm của một cá nhân,chúng ta thấy: ngay sau khi được cha mẹ cho chào đời, đứa bé quyến luyến cha me. Đó là tình con cái đối với cha mẹ (đỉnh của hình trôn ốc) Thế rồi theo đà khôn lớn, đứa bé tìm tới tình anh chị em ruột thịt, rồi tình họ hàng gần xa, rồi tình làng xã, tình quốc gia dân tộc, tình nhân loạị.. Cứ như thế tình cảm của con người sau khi rời đỉnh hình trôn ốc đã men theo các vòng xoáy hình trôn ốc để từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phong phú cả về phẩm lẫn lượng. Không còn nghi ngờ gì nữa, quá trình giáo dục của người lính VNCH hoàn toàn phù hợp với nhận định của triết học về vận động của vạn vật. Sự phù hợp vừa nói khẳng định mạnh mẽ rằng: môI trường sống cùng với môi trường giáo dục tại miền Nam Việt Nam trước 1975 đã tạo điều kiện cho người lính VNCH trở thành những người thực sự yêu quê hương đất nước theo đúng quy luật sinh hoạt tình cảm tự nhiên của Con Người.

III. Bản chất của người lính VNCH.

Do yêu quê hương đất nước, người lính VNCH đã nhận thức được rằng cuộc chiến đấu chống quân đội CSVN trước 1975 là cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ, cho chính nghĩa. Sau 1975, nhà khoa học Nguyễn Thanh Giang đã kêu gọi mọi người Việt Nam (Bắc cũng như Nam) hãy tri ân chiến sĩ VNCH trong trận hảI chiến chống Trung quốc ơ? Hoàng Sa. Mới đây nhà văn Dương Thu Hương, một "chiến sĩ chống Mỹ cứu nước" trước kia đã giác ngộ chính nghĩa bằng cách viết bài "Tiếng Vỗ Cánh Của Bầy Qua. Đen". Qua bài viết này, Dương Thu Hương tố cáo cuộc chiến tranh tại Việt Nam trước 1975 do CSVN phát động là một tội ác phỉnh gạt vĩ đại. CSVN phỉnh gạt đồng bào miền Bắc bằng cách nhân danh tự do và cơm áo, đẩy đồng bào lao thân vào cuộc chiến tàn khốc tại miền Nam Việt Nam. Để rồi sau 30/4/1975, CSVN đã để lộ nguyên hình là một đảng Mafia tham ô và bóc lột. Nói ngắn và gọn, nhà văn Dương Thu Hương đã xác nhận điều được gọi là chiến tranh "Giải Phóng Miền Nam" do CSVN phát động chẳng qua chỉ là một hành động phi nghĩa. Các sự thể kể trên đã mạnh mẽ làm nổi bật tính chất chính nghĩa trong cuộc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền Nam VN của người lính VNCH. Do yêu quê hương đất nước, người lính VNCH chấp nhận phục vụ quê hương với những điều kiện sinh hoạt rất thanh bạch. Nghèo khổ không than trách. Nguy hiểm không sờn lòng. Người lính VNCH bao giờ cũng tận tình với nghĩa vụ bảo quốc, an dân. Người lính tuyệt vời kia đã được đền thưởng những gì? Phần đền thưởng đó lại chính là con đường "vị quốc vong thân" trong tuyệt đối hiu quạnh. Con đường ấy đưa đẩy người lính rơi vào một tình huống cực kỳ quái dị, cực kỳ tê táị "Đám Ma Tù" là điển hình của tình huống vừa kể:

"Vài tên cầm súng bước đi đầu
Tên nữa AK tiếp theo sau
Một xác bó tròn đôi manh chiếu
Hai đầu buộc tréo bốn dây lau
Không kèn, không trống, không đưa tiễn
Chẳng khói, chẳng nhang, chẳng nguyện cầu
Chỉ có bạn tù khiêng lặng lẽ
Vùi nông một khối hận thù sâu !!!"
NgôMinh Hằng--Thi Phẩm Gọi Đàn


Do yêu quê hương đất nước, người lính VNCH bao giờ cũng chuyên cần đổ mồ hôi trên thao trường của các quân trường, bao giờ cũng thiện chiến và anh dũng đoạt chiến thắng lừng danh trên mọi hình thái trận địa. Các chiến thắng Bình Long, An Lộc, tái chiếm cổ thành Quảng Trị, mùa Hè Đo? Lửa 1972, phản ứng nhanh và chính xác trong biến cố Tết Mậu Thân v...v... là những thí dụ điển hình tạo nên "Quân Sư? Vàng" của QĐVNCH. Do yêu thương quê hương đất nước, người lính VNCH bao giờ cũng nêu cao gương trách nhiệm trong mỗi hành động chiến đấu. Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà anh dũng trầm mình theo chiến hạm do ông chỉ huy trong trận hải chiến với Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa. Các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Hai,Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và vô số anh hùng quân đội vô danh khác đã ngạo nghễ chọn cái chết thay vì đầu hàng địch quân vào ngày 30/4/1975. Do yêu thương quê hương đất nước, người lính VNCH bao giờ cũng tôn trọng quân kỷ. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là người lính chỉ biết tuân hành mọi loại mệnh lệnh một cách mù quáng. Trong rất nhiều trường hợp, nghĩa vụ ân cần chăm sóc thương bệnh binh phải được xem trọng hơn nghĩa vụ tự giam bó trong quân kỷ. Đó là ý nghĩa của Kinh và Quyềợn trong tinh thần quân kỷ của người lính VNCH. Đó là ý nghĩa của kỷ luật tự giác mà người lính VNCH muốn đề cao. Đó còn là lý do giảI thích tại sao trong QĐVNCH lại có những hành động phản kháng kiểu Bác Sĩ Quân Y Hà Thúc Nhơn, Bác Sĩ Quân Y Phạm văn Lương.

IV. Hệ lụy của một quân đội bị bức tử.

Phẩm chất người lính tiêu biểu của QĐVNCH như đã trình bày ở trên chính là phẩm chất của toàn thê? QĐVNCH. QĐVNCH sinh ra, lớn lên và hùng mạnh trong môi trường nhân bản. QĐVNCH không hề là, không thể là quân đội tay sai của ngoại bang hay bất kỳ chế độ chính trị nào. QĐVNCH là hình ảnh sinh động của lương tri và ái quốc. QĐVNCH thiện chiến và chiến đấu dũng cảm. Thế nhưng, hành động phản bội của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã mặc nhiên trói tay QĐVNCH. Khai thác hoàn cảnh "bị trói tay" đó, CSVN vội vàng tạo tội ác 30/4/75. Nói rõ ràng hơn, Hoa Kỳ phản bội cộng với bản chất gian ác của CSVN là hai lý do chủ yếu dẫn đến "cái chết" của QĐVNCH. Thông thường chết có nghĩa là từ giã mọi hệ lụy. Thế nhưng, ngay sau ngày bị "bức tử", QĐVNCH đã để lại cho dương gian ba hệ lụy căn bản như sau:

Hệ lụy 1: Hơn ai hết, VC nhận biết rất rõ bản chất nhân bản và ái quốc của QĐVNCH. Vẫn hơn ai hết VC tự nhận biết bản chất Mafia của CSVN. Nhà văn Dương Thu Hương gọi Mafia VC là "Bầy Qua. Đen". Lo sợ lòng yêu nước và tính dũng cảm của QĐVNCH được dư luận truyền tụng rộng rãi và lâu dài. Sự thể này sẽ làm gia tăng vượt bực lòng căm phẫn của nhân dân VN đốI với "Bầy Qua. Đen". Vì vậy trong các thập niên qua, CSVN không ngừng nỗ lực phá hoại uy danh của QĐVNCH. Ngày 24/9/2002 trên báo The Orange County Register, qua bài viết "Victory most can celebrate" của ký gia? Gordon Dillow, đã nhắc lại các sự việc:

· VC phá hủy có phương pháp nghĩa trang QĐVNCH
· VC đẩy hàng ngàn cựu chiến binh tàn phế của QĐVNCH vào cảnh sống hành khất.
· VC kiên trì và nỗ lực phá hoại công cuộc xây dựng tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ tại Westminster, California.

Ba sự việc nêu trên đi kèm với khối sách báo của VC viết về QĐVNCH là những bằng chứng mạnh mẽ cho thấy ác ý hủy diệt uy danh QĐVNCH của VC.

Hệ lụy 2: Sau chiến tranh Việt Nam, dư luận không hề cho rằng Hoa Kỳ đã thua kém VC trên địa bàn quân sự. Tuy nhiên "Hoa Kỳ phản bội QĐVNCH" là một sự thực không thể chối cãị nhằm xóa bỏ mặc cảm phản bội, giới truyền thông Hoa Kỳ đã cố gắng làm cho thế giới hiểu rằng chiến tranh VN là chiến tranh giữa Hoa Kỳ và VC. Đó là lý do giải thích tại sao sách báo và nhất là điện ảnh Hoa Kỳ triệt để tránh né đề cập tới vai trò của QĐVNCH trên chiến trường VN. Sự thể "tránh né" vừa nói đã làm cho dư luận hiểu lệch đi rằng QĐVNCH chỉ là cáI bóng mờ bên cạnh binh sĩ Hoa Kỳ và rằng QĐVNCH rất ngại chiến đấu. Để bác khước kiểu "hiểu lệch" kia, chúng ta hãy mang con số 400.000 tử sĩ VNCH đặt bên cạnh con số 50.000 binh sĩ Hoa Kỳ tử vong trong chiến tranh VN (http://encyclopediạcom/section/vietnam w. end of the war) . Sự sai biệt lớn lao giữa hai con số là một bằng chứng bằng máu về lòng ái quốc và dũng cảm của QĐVNCH.

Hệ lụy 3: Đương đầu với hệ lụy (1) và (2), QĐVNCH hoàn toàn im lặng trong cõi bức tử. Tình trạng im lặng kia là cơ hội làm cho một số người, nhất là những người ra đời sau 1975 hiểu lầm tai hại về thanh danh của QĐVNCH. Đó là hệ lụy thứ ba mà QĐVNCH đang gánh chịu.V. Giải trừ oan khiên. Những điều trình bày ở trên đã minh chứng cả ba hệ lụy là ba oan khiên. Làm thế nào để giải trừ oan khiên?

Giải trừ một: qúi vị cựu quân nhân của QĐVNCH hãy hãnh diện về tư cách cựu quân nhân của mỗi quý vị. Quý vị gia đình cựu quân nhân và tất cả những người xuất thân từ xã hội VNCH hãy ghi khắc trong tim óc của mỗi quý vị: chúng ta đã có nhiều thập niên sống trong sự che chở ân cần của QĐVNCH. Một quân đội đã bảo vệ người dân bằng chính sinh mệnh của người lính. Giải trừ hai: người Việt Nam lớn lên trong chiến tranh hãy giải thích cho người VN ra đời sau 1975, nhất là những người VN sinh trưởng tại quốc ngoại để họ hiểu biết tường tận về lương tri và lòng ái quốc của QĐVNCH trêạn những liên hệ thân thiết giữa người dân và QĐVNCH. Hành động giải thích này hoàn toàn không mang ý nghĩa của một cảm tính. Nó là sự truyềợn đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác những hiểu biết về vận động quan trọng của lịch sử. Nó ẩn chứa trong nó ước mơ rằng: trong tương lai, quốc gia Việt Nam sẽ có một quân đội thực sự vì nhân dân. Các loại quân đội tay sai của "Bác", của Đảng, của bất kỳ phe phái chính trị nào phải triệt để bị loại bỏ. Ước mơ vừa nêu tuy gián tiếp nhưng mạnh mẽ vinh danh QĐVNCH. Giải trừ ba: đất nước là tài sản chung của toàn dân. Người dân phải thực sự là chủ nhân ông tối cao và duy nhất của đất nước. Đó là chân ý nghĩa của công bằng và lẽ phải. Đó là quy luật sống tự nhiên của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Quy luật sống tự nhiên kia đòi hỏi những hoạt động kiểu giáo dục, luật pháp, kinh tế, nhất là quân sự phải là sinh hoạt nhân bản và công bằng của xã hội. Bài viết này chỉ xin nhấn mạnh đến guồng máy quân đội. Quân đội dân chủ bao giờ cũng vận động theo chuẩn mực bởi dân, của dân và vì dân. Nhà cầm quyền dân chủ không bao giờ nuôi tham vọng biến quân đội trở thành công cụ bảo vệ ngôi vị cầm quyền. Qua quá trình giáo dục, qua quân sử và nhất là qua thực tiễn chiến đấu và phục vụ, QĐVNCH đích thực là một quân đội của xã hội dân chủ. QĐVNCH và dân chủ như hình vớI bóng. Chế độ dân chủ bị chà đạp, QĐVNCH bị lăng nhục. Vì vậy mọi người Việt Nam trong cũng như ngoài nước hãy nỗ lực mang lại dân chủ cho Việt Nam. Ngày chế độ dân chủ được tái lập tại Viet Nam chính là ngày danh dự của QĐVNCH được phục hồi.

Như vậy là ba phương pháp giải trừ đi kèm với ba hệ lụy. Mỗi giải trừ tượng trưng bởi một nén nhang.

· Nén nhang thứ nhất là lời tri ân của TỔ QUỐC
· Nén nhang thứ hai là lời vinh danh tinh thần TRÁCH NHIỆM của QĐVNCH
· Nén nhang thứ ba là lời nguyền quyết tâm phục hồi DANH DỰ cho QĐVNCH, một quân đội thực sự yêu nước , thiện chiến, và dũng cảm.
Last edited by tranphuongdong on Mon Jul 18, 2011 5:25 am, edited 1 time in total.
tranphuongdong
Posts: 526
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »


Image

Cuộc đời và sự nghiệp của Cố Trung tướng Đặng Văn Quang
Những ai từng phục vụ trong các đơn vị thuộc Vùng 4 Chiến Thuật thời gian 1964 – 65 – 66… có thể công nhận rằng, Trung Tướng Đặng Văn Quang giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây rất “mát tay”, là thời điểm kiêu hùng nhất của quân dân miền Tây, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, an ninh lãnh thổ được vững chắc nhất. Với 3 sư đoàn bộ binh tinh nhuệ cùng các đơn vị Biệt Động Quân biệt lập, các trại Lực Lượng Đặc Biệt biên phòng ở dọc theo biên giới từ Hà Tiên qua Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường, trên 200 cây số làm rào cản sự xâm nhập vũ khí, tiếp liệu và bộ đội chính quy CSBV xâm nhập qua từ bên xứ Chùa Tháp – Kampuchia.

Cũng thời Trung Tướng Đặng Văn Quang, 3 sư đoàn cơ hữu của QĐ4 : Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh – bộ binh là hoàng hậu của chiến trường như một vị tướng của quân đội Pháp đã nói. Các đơn vị này đều tạo nhiều chiến thắng vẻ vang liên tục, đặt tên riêng các cuộc hành quân cấp sư đoàn. Khu Chiên Tiền Giang với SĐ7BB, tên cuộc hành quân là Tiền Giang (Tiền Giang 1,2,3…). Khu 41 Chiến Thuật với tên cuộc hành quân của SĐ9BB là Cửu Long và SĐ21BB – Khu 42 Chiến Thuật với tên gọi là Dân Chí. Riêng Sư Đoàn 21 Bộ Binh, từ lúc Đại Tá Đặng Văn Quang về làm Tư Lệnh, ông đã đặt tên Dân Chí cho các cuộc hành quân sư đoàn. Các cuộc hành quân nhỏ cấp Tiểu khu và Trung đoàn cơ hữu của Khu 42 Chiến Thuật cũng dùng tên Dân Chí và kèm theo TK là cấp tiểu khu và TRĐ ở cấp trung đoàn…Vì vậy, khi Tướng Quang về Cần Thơ, ông đã ra lệnh 3 SĐ thuộc quyền cũng đều có tên như nêu trên. Thời điểm này, Ban Thông Tin Báo Chi của chúng tôi được cưng chìu nhất và đích thân Trung Tướng Quang cho thêm nhiều phương tiện, thiết lập được 1 nhà in để in bán nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây mà tôi là Tổng Thư Ký Tòa Soạn.

Ban Thông Tin Báo Chí được tăng cường thêm nhiều người có khả năng như nhà văn Nguyên Vũ – Vũ Ngự Chiêu, nhà thơ Tô Thùy Yên – Đinh Thành Tiên, giáo sư triết: Lê Văn Tấn – Nguyễn Văn Oánh (họ và chữ lót có thể sai), giáo sư Pháp văn Phan Thông Hảo, kỷ sư Canh nông Nguyễn văn Hoàng, luật sư Võ Tứ Cầu, Mai Hòa – một phóng viên chiến trường nổi tiếng, cơ hữu của Ban TTBC/QĐ4…có sĩ quan vừa ra trường được xin hoặc thuyển chuyển về đây. Ban Thông Tin Báo Chí lúc này lên cao điểm và mở rộng về thông tin, viết phóng sự chiến trường cung cấp cho phát thanh và cả báo chi trung ương. Nhà in riêng của QĐ4 (in truyèn đơn, báo bán nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây, in 2 tập sách cái nhìn mới mẻ về xây dựng nông thôn, chính Trung Tướng Quang gọi anh Tấn và anh Oánh lên văn phòng, ông chỉ thị 2 anh viết về đề tài này do sự chỉ đạo của ông Tướng và đích thân ông sửa chửa, hiệu đính hoàn chỉnh mới xuất bản). Ngoài ra chúng tôi có chương trình phát thanh trên hệ thống Đài Phát Thanh Ba Xuyên gọi là Tiếng Nói Vùng 4 Chiến Thuật (Đài PT Ba Xuyên ở trên đường từ Thị xã Khánh Hưng – Sóc Trăng đi Bãi Xào – quận lỵ Châu Thành hay Mỹ Xuyên, nơi bán đuông chà là sống và món nhậu tại chỗ, nhiều nhất ở miền Tây). Tóm lại, thời Trung Tướng Đặng Văn Quang “trị vì’ miền Tây là thời cực thịnh của Ban Thông Tin Báo Chí do tôi làm Trưởng Ban, bên cạnh có 1 Thiếu Tá và 2 Đại Úy Mỹ làm cố vấn cùng với nhân viên 8 người, quân số ngang bằng với Ban TTBC của QĐ4. Chúng tôi làm việc rất dễ dàng, khi nghe có tin chiến thắng hay những cuộc hành quân lớn cấp sư đoàn với tên Tiền Giang, Cửu Long, Dân Chí chúng tôi biết thuộc khu chiến thuật nào, xin trực thăng đưa ký giả VN hoặc ngoại quốc đang ở Sài Gòn đến ngay mặt trận. Nếu phía VN chưa có phương tiện thì cố vấn Mỹ xin cho chúng tôi ngay. Thí dụ cuộc hành quân Tiền Giang, chiến thắng vẻ vang, ông Tướng Vùng ra lệnh Ban Thông Tin Báo Chí mời ký giả từ Sài Gòn xuống quay phim, chụp hình, thực hiện phóng sự. Chúng tôi liên lạc với SĐ7 đưa xe về Sài Gòn đón ký giả xuống Mỹ Tho và đến BTL/SĐ7 ở Mỹ Tho để có thể giúp phương tiện trực thăng đưa đến chiến địa. Khi Sư Đoàn 21 BB có cuộc hành quân Dân Chí ở rừng U Minh – Cà Mau và chiến thắng lớn, muốn mời ký giả xuống thì chúng tôi phải vận động, xin cấp 1 hay 2 chiếc trực thăng từ Sài Gòn (sau này, thường thông qua Khối Thông Tin Giao Tế Dân Sự của Tổng Cục Chính Trị mời giúp và xin phương tiện với Tổng Cục Tiếp Vận). Nếu tôi nhớ không lầm, tên các cuộc hành quân của các Sư đoàn không thay đổi khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh về thay thế Trung Tướng Đặng Văn Quang. Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng về thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh sau vụ Tết Mậu Thân 68, Trung Tướng Thắng có thay tên các cuộc hành quân, tên một vị tướng anh hùng đã chống quân ngoại xâm Pháp tại chiến trường miền Tây: Trương Công Định… Năm 1966, Trung Tướng Đặng Văn Quang được Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ “mời” về giữ chức vụ nghe thì lớn lắm, Tổng Ủy Viên Kế Hoạch trong Nội Các Chiến Tranh. Đây là chức vụ “ngồi chơi xơi nước”, Trung Tướng Quang là một vị tướng trẻ (35-36 tuổi đã đeo 3 sao) và đã hoàn thành chức trách tuyệt vời ở miền Tây tạo nhiều chiến thắng vẻ vang và được lòng dân chúng, nhất là lực lượng giáo phái Phật Giáo Hòa Hào tin tưởng và kính trọng. Có thế nói Tướng Quang là Tướng Vùng Chiến Thuật có nhiều uy tín nhất lúc bấy giờ. Ông lại có công rất lớn trong việc vận động đặt nền móng thành lập Viện Đại Học Cần Thơ, chính Trung Tướng Quang là vị tướng Vùng đã xây dựng một nghĩa trang Quân Đội rộng lớn khang trang tại Cần Thơ chỉ thua tầm vóc Nghĩa Trang Quân Đội (Biên Hòa). Trung Tướng Đặng Văn Quang đã hổ trợ hết mình nhà văn nhà báo An Khê Nguyễn Bính Thinh xuất bản tờ nhựt báo Miền Tây, tòa soạn đặt gần bến Ninh Kiều mà tôi là “con thoi” ( lo giúp đở tờ báo) giữa Trung Tướng Đặng Văn Quang và nhà văn An Khê (sau này thời Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh tờ báo sống ngoắc ngoải, đến Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng về thì nhựt báo Miền Tây “tắt thở”). Tờ nhựt báo Miền Tây là tờ báo đầu tiên trong lịch sự báo chí VN xuất bản tại miền Tây. Hiện nay, Ban biên tập của nhựt báo Miền Tây do nhà văn An Khê làm chủ nhiệm (cựu Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng bị thương nặng thành phế binh và anh An Khê đã chết ở Pháp chừng hơn 10 năm) có một người hiện đang hoạt động báo chí, văn học tại thung lũng hoa vàng San Jose: nhà báo nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn tức Lão Móc có thể biết sự kiện lịch sử này.Chính xác hơn, Vùng 4 Chiến Thuật kiêu hùng nhất là thời điểm 64 – 65 – 66 hơn hẳn các ông Tướng từng chỉ huy ở vùng này trước đó (và có thể nói sau này, cho đến ngày 30.4.75).

Trung Tướng Đặng Văn Quang là tướng lãnh gần gũi nhất với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (cùng Khóa 1 Đập Đá ở Huế tức là Khóa Quốc Trưởng Bảo Đại, tiền thân của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam – Đà Lạt) và là cấp chỉ huy đại đơn vị tài giỏi được Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tin cậy và đề bạt thay thế ông ở đồng bằng sông Cửu Long. Ông là người thân cận với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những chức vụ cao cấp nhất như Phụ Tá (Cố Vấn) Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về Quân Sự, An Ninh & Tình Báo Quốc Gia, Tổng Thơ Ký Hội Đồng An Ninh Quốc Gia… cho đến ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại Phó Tổng Thống Trần Văn Hương… Trung Tướng Đặng Văn Quang đeo 3 sao từ năm 1965 và cho đến 30.4.75, 10 năm dài. Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây, tại sao Trung Tướng Đặng Văn Quang, người hùng của miền Tây bị Tướng Kỳ “chơi” bằng nhiều cách phao tin ông Tướng vốn sinh đẻ tại Phú Lâm Châu Đốc, sống và lớn lên ở Sóc Trăng (cùng quê vớí Trung Tướng Dương Văn Đức) là kỳ thị Nam Bắc và “xào nấu”, thổi phồng lên là tướng lãnh tham nhũng gộc. Tình báo CSBV muốn Tướng Quang phải thân bại danh liệt, mất uy tín của cấp chỉ huy tài giỏi; nên chúng phao tin xấu như buôn bán bạch phiến, thuốc tây lậu, tiền gời ngân hàng Thụy Sĩ nhiều triệu dollars…cho ông Tướng Quang nhằm trả thù, cách điều quân tài tình của ông, đánh tan tành các đơn vị chính quy của CSBV xâm nhập bằng đường biển và đường biên giới Kampuchia. Tướng Quang là cánh tay đắc lực của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau này. Kế đên, ông Tướng cùng với giới trí thức, dân miền Tây, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo xin thiết lập Viện Đại Học Cần Thơ. Không biết vì lý do gì, thời uy quyền Tướng Kỳ nắm hết trong tay (Nội Các Chiến Tranh) cương quyết không đồng ý. Tướng Quang theo phe miền Tây xin cho bằng được thành lập Viện Đại Học Cần Thơ nên làm phật ý Tướng Kỳ. Khi Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu lập liên danh ra ứng cử Tổng Thống năm 1967, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng có liên danh tranh cử. Cả 2 ông Tướng cùng ra tranh cử 2 liên danh khác nhau, chia phiếu quân nhân, có thể cả 2 liên danh đều thất cử và liên danh dân sự như liên danh Trương Đình Dzu (luật sư, thiên tả) hay liên danh dân sự nào khác sẽ đắc cử. Vì vậy Hội Đồng Tướng Lãnh mới có cuộc họp quyết định sáp nhập 2 liên danh của Trung Tướng Thiệu và Thiếu Tướng Kỳ làm một. Tôi nghe kể lại buổi họp đó rất gây cấn, các ông Tướng vốn xuất thân từ khóa 1 Nam Định (cùng khóa với Tướng Kỳ) đều nhiệt liệt ủng hộ Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đối nghịch lại, Trung Tướng Đặng Văn Quang hết lòng ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và nhiều tướng lãnh khác gốc miền Trung, miền Nam cũng ủng hộ, nên có thể là cái lý do Tướng Kỳ “ghét” Tướng Quang thậm tệ nên chuyện phao tin, thêu dệt Tướng Quang tham nhũng gộc được phe Tướng Kỳ khuấy động dữ dội thời điểm đó. Chuyện này còn kéo dài đến trại tập trung người tỵ nạn CS ở Texas năm 1975, cũng có người muốn hành hung, nói ông Tướng Quang “đầu nậu’ tham nhũng nên mất nước… Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác, thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh V4CT, cố vấn Mỹ đề nghị đưa vài đơn vị lớn của Mỹ về V4CT kể cả Đại Tướng Mỹ Westmoreland cũng có ý kiến đó nữa. Trung Tướng Đặng Văn Quang viện nhiều lý do là QLVNCH được sự tích cực ủng hộ của dân chúng và các đơn vị giáo phái tân tuyển có tinh thần chiến đấu tuyệt vời; các đơn vị chủ lực và địa phương của các tiểu khu đủ sức ngăn chặn sự xâm nhập của bộ đội CSBV và luôn chiến thắng nên không cần có các đơn vị lớn của Hoa Kỳ và xin Hoa Kỳ tăng cường giúp các Vùng Chiến Thuật khác. Nghĩa là Tướng Quang mạnh dạn từ chối Hoa Kỳ đổ quân xuống miền Tây. Có một lần Tướng Quang tâm sự với chúng tôi cùng ngồi trên trực thăng chỉ huy C & C, nếu quân Mỹ ồ ạt đổ vào miền Tây thi chúng ta mất phần nào chánh nghĩa chống quân CSBV mà chúng ta dư sức, ăn thua đủ với quân chánh quy CSBV. Một vụ khác CIA, cố vấn Mỹ muốn Tướng Quang phải triệt hạ Đại Úy LLĐB Dan Marvin cùng với 5 nhân viên Mỹ khác luôn cả trại biệt kích hoặc bắt Đại Úy Dan Marvin giải giao về Sài Gòn. Lý do, Đại Uý Dan Marvin không thi hành lịnh ám sát Quốc Trưởng Sihanouk ở Kampuchia (nhằm bịt miệng vụ tai tiếng này). Điều cần lưu ý toán LLĐB này đang làm cố vấn cho Trại Biệt Kích biên phòng Dân Nam thuộc quận An Phú – Châu Đốc rất được sự mến mộ của dân chúng địa phương và Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo. Trại Biệt Kích biên phòng Dân Nam do các cựu chiến sĩ Hòa Hảo dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Văn Phồi (Trung Tá Phồi đang định cư ở Hoa Kỳ) điều hành chỉ huy. Nếu sử dụng đơn vị chính quy QLVNCH tiêu diệt trại này thì sẽ có hàng trăm chiến sĩ chống cộng nhiệt thành cũng bị chết lây. Vì vậy, Tướng Quang cũng chống và ông tự giải quyết tốt đẹp nên cũng không được lòng Hoa Kỳ, không ngoan ngoản làm theo bất cứ cái gì cố vấn Hoa Kỳ muốn. Thời gian sau khi Tướng Quang về Trung ương thì Mỹ đã đưa cả Sư Đoàn 9 BB đặt bản doanh tại căn cứ Đồng Tâm – Mỹ Tho, đơn vị này cũng chẳng tạo được thành tích chiến thắng vẻ vang nào như QLVNCH. Vì vậy, có thể vài phóng viên của Hoa Kỳ mượn cớ bên phía VNCH, CSBV tung tin Tướng Quang tham nhũng số 1 của chế độ và các cơ quan truyền thông bị nhiễm nộc độc của Tướng Kỳ lại phóng đại lần nữa nên giới truyền thông Mỹ lại nêu đích danh Tướng Quang tham nhũng gộc…nên có nhiều người Việt tỵ nạn CS tin mới làm phiền ông Tướng đáng thương. Chuyện tình báo CSBV phao tin Tướng Quang buôn bán bạch phiến và thuốc Tây lậu khi ông làm Tư Lệnh V4CT (và sau này khi Tướng Quang làm Phụ Tá Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu). Chuyện 1 ông Tướng ở miền Tây mà buôn bán ma tuý và thuốc Tây lậu thì quả thật là chuyện của cõi trên mà cũng có người tin cho tới ngày nay mới là lạ. Hiện nay, ông và bà Tướng cùng đang nằm trong Nursing Home ở Sacramento do 2 vợ chồng đệ tử, làm dưới quyền ông năm xưa ở QĐ4 hết lòng chăm sóc, thăm viếng vì tất cả 7 đứa con của ông bà Tướng Quang đều ở xa như Pháp, Úc, Canada và 2 người ở Maryland và Indiana. Cuộc sống của 2 ông bà hiện nay chỉ tính bằng tháng thôi vì lớn tuổi vào hàng 8, ông bị bệnh Alzheimer, bà bị bệnh tim và tiểu đường…
Xin mời các chiến hữu và độc giả tìm đọc bài báo viết về cuộc đời của Tướng Quang với những thử thách bi thảm từ Sài Gòn đến Sacramento, với cái tít: The Trial of General Dang – From Saigon to Sacramento, a South Vietnamese General’s Journey Proves Old Soldiers Don’t Fade Away, They Stick Together của nhà báo R.V. Scheide(email: rvscheide@newsrewiew.com) đăng trên tờ tuần báo Sacramento News & Review (SN & R), phát hành tại Sacramento và có ấn bản ở nhiều thành phố khác ở miền Bắc Cali. Bài báo có kèm theo nhiều tấm hình hồi còn oai quyền của Trung Tướng Quang mà cựu Trung Tá LLĐB Dan Marvin có được và ông đã viết thành sách với tựa đề “Expendable Elite – One Soldier’s Journey Into Covert Warfare” xuất bản năm 2003 nói về cuộc đời của ông Dan, 1 sĩ quan LLĐB Mỹ tham chiến tại VN và có lòng câu chuyện Tướng Quang cứu mạng tác giả. Bài báo này có trong số Volume 20, Issue 27 ngày thứ năm 4.12.08. Địa chỉ tòa soạn 1015 20th Street – Sacramento, CA. 95811, tel: 916.498.1234 và Editorial Fax: 916.498.7920 hoặc lên Web site: www. newsreview.com trong mục Local Stories. Bài báo có trích dẫn lời của ông Tom Polgar, trùm tình báo CIA ở Sài Gòn lên tiếng chánh thức, Tướng Quang không tham nhũng, không có tiền gởi ngân hàng Thụy Sĩ và những chuyện ly kỳ khác mà người ta áp đặt tham nhũng cho một ông Tướng trẻ và thực tài của QLVNCH trong hơn 40 năm qua. Nhờ có sự xác minh của trùm CIA, Thượng Nghị sĩ, Dân Biểu Liên Bang và có đơn thỉnh nguyện của Trung tá Dan Marvin gởi lên Tổng Thống Bush (Bush cha), Bộ Ngoại Giao Mỹ cho Tướng Quang nhập cảnh và định cư ở Hoa Kỳ thập niên 90. Trước đó Bộ Ngoại Giao Mỹ từ chối cấp Visa cho Tướng Quang với 2 lý do vì ông bỏ trại tỵ nạn ở Texas hơn 1 tháng như quy định và quan trọng ông bị ghép tội tham nhũng nên không được vào nước Mỹ…
Có một lần, cách nay chừng 6 năm khi cựu Trung Tướng Đặng Văn Quang còn ở Atlanta – Georgia, tôi, từ Sacramento có bay sang thăm “thầy cũ” và đem câu hỏi ông bị tố tham nhũng gộc của chế đô VNCH mà CSBV, phe ta Quốc gia và cơ quan truyền thông Mỹ cùng “bề hội đồng” mà nay ông Tướng lại nghèo xơ xác. Trung Tướng Quang nói rằng, thiên hạ kể cả người Việt quốc gia, CSBV và vài nhà báo Mỹ thêu dệt đủ điều nào tôi buôn bán bạch phiến, đầu cơ tích trữ thuốc tây nhập vào để chuyển lên Sài Gòn bán, có tiền đến nhiều triệu dollars Mỹ gởi ngân hàng Thụy Sĩ…Tôi (đại ý lời TT Quang) như cái thùng rác họ liệng vô những gì dơ bẩn của chế độ, tôi không lên tiếng vì tôi tin có Chúa biết là đủ, ngoài ra Tổng Thống Thiệu biết và lương tâm tôi biết, còn người đời nói gì mặc kệ họ.

Vì những lời nói chân tình đó của một người thầy cũ mà vợ chồng tôi hết lòng giúp đở mời ông bà Tướng về định cư tại Sacramento, cách nay hơn 3 năm, và chúng tôi tự nguyện lo cho 2 ông bà Tướng đến ngày được Chúa bổ nhậm lần cuối về Vùng 5 Chiến Thuật.

( Bai do TT Tran Van Nga chuyen )
nguyenvsau
Posts: 1138
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image

Những Người Lính Không Bao Giờ Tan Hàng

Cuộc chiến đã chấm dứt 34 năm, thời gian đủ dài để các thế hệ đàn em, thế hệ con cháu của những người lính QLVNCH năm xưa ngồi giở lại trang sử viết về cha anh mình.

Một trang sử bảo vệ tổ quốc vô cùng đau thương đẫm máu nhưng rất oai hùng.

Đọc để biết tội lỗi của bọn vong nô đã đem CNCS áp đặt vào nước ta gây ra biết bao nhiêu đau thương đổ vỡ cho cả hai Miền. Nam- Bắc.
Trong suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam khỏi rơi vào tay cộng sản, quê hương đã có nhiều nơi xác ngập lối đi, mùi tử khí tối trời. Những trận đánh ở Khe Sanh, Quảng Trị, Đường 9 Nam Lào dữ dội kinh hoàng hơn cơn ác mộng.
Đọc để biết có “An lộc điạ, sử ghi chiến tích, Biệt Kích Dù, vị quốc vong thân”, nơi mà máu xương của người lính VNCH trộn lẫn với đất để bảo vệ từng tấc đất.

Để biết trong trận hải chiến lịch sử bảo vệ Hoàng Sa, 58 vị anh hùng quân đội đã vùi thây trong lòng biển cả.
Đọc để hiểu ra trong cuộc chiến đó, người lính VNCH là người trực tiếp hy sinh nhiều nhất.
Cùng với tổ tiên, máu các anh đã làm đất địa-linh. Tấc đất quê hương thật quý giá vô cùng.
Có những mất mát nào có thể so sánh được với vành khăn tang cô phụ không nhận ra được xác chồng?

Có sự bù đắp nào cho những đôi mắt ngây thơ chưa bao giờ biết mặt cha?
Hy sinh tuổi trẻ cho tổ quốc các anh chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”.
Sự chiến đấu bảo vệ Miền Nam tự do của các anh là sự lựa chọn quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Không biết có dân tộc nào trên thế gìới mà có nhiều người lính tuẫn tiết vì vận mệnh dở-dang của đất nước như trong cuộc chiến bảo vệ tự do vừa qua không, trong những người vị quốc vong thân đó có từ binh sĩ cho đến cấp tướng.

Cho nên thật căm phẫn khi có những kẻ xưng học thức nhưng vô liêm sỉ xuyên tạc hình ảnh người lính quân đội VNCH.
Những kẻ học thức đó, không biết hay giả vờ không biết, ai, mới chính là kẻ gây ra tang thương cho đất nước chúng ta và ai, mới chính là người đang bảo vệ cho quê hương này.
Ngày 30/04/1975 là ngày đất nước chuyển sang một trang sử đau thương mới, là ngày mà người lính VNCH và cả Miền Nam bị phản bội.
Các anh đã phải gạt nước mắt thay áo xếp cờ. Nhưng thực ra đây chính là ngày mà người dân cả hai miền đất nước bắt đầu tập trung lại nhận diện rõ kẻ thù của dân tộc.
Đây chính là ngày người dân Miền Nam nhận diện rõ kẻ nội-thù.
Đây chính là ngày mà người dân Miền Bắc bắt đầu nhận ra sự xảo trá, lừa bịp của những kẻ cầm quyền Miền Bắc lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để nhằm phục vụ cho một chủ nghĩa ngoại lai hoang tưởng.
Đất nước ly tan, đàn chim Việt tan đàn bay tản mác khắp các phương trời.
Người lính VNCH năm xưa nơi đất khách quê người bằng tất cả ý chí nghị lực đã xây dựng laị từ đầu cuộc sống cho chính mình, xây dựng tương lai cho thế hệ con cháu.
Giờ đây họ và gia đình đã có được hầu như tất cả những gì mà hàng triệu người VN trong nước đang mơ ước, đó là cuộc sống tự do bình yên no đủ và ổn định.
34 năm trôi qua, ánh mắt sáng quắc ngày nào, những mái đầu xanh cuả các chàng trai mười tám, đôi mươi đầy ước mơ đã thay đổi thành những mái đầu bạc.
Giấc mơ quê hương thanh bình chưa thành, nhưng lời thề “Danh-dự, Trách-nhiệm, Tổ-quốc” đã thốt lên một lần là mang theo mãi mãi.
Vì thế trái tim của người lính VNCH vẫn thổn thức nổi trôi theo mệnh nước khi bọn cầm quyền CSVN còn đang mê muội áp đặt một thứ chủ nghĩa không tưởng lên quê hương, một chủ nghĩa đã bị cả loài ngườì khinh bỉ lên án là diệt chủng.
Kẻ thù của dân tộc chúng ta là ĐCSVN, chúng dùng đủ mọi phương tiện mánh khóe để xuyên tạc hình ảnh người lính VNCH, xuyên tạc lý tưởng tự-do dân-chủ nhân-quyền mà các anh đã xả thân một đời để phục vụ. Đó là lý tưởng mà hàng triệu, hàng triệu người trên trái đất đã và đang chiến đấu để bảo vệ.
Để ngu muội lòng dân, bọn chúng đã gán ghép cho người lính VNCH chính những tội lỗi của chúng. Bọn chúng mới chính là kẻ bán nước.
Để bảo vệ đặc quyền đặc lợi, chính ĐCSVN chứ không ai khác đã đem dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc.
Chính chúng đã cắt thác Bản Giốc, ải Nam Quan dâng cho địch, chính chúng đang rước giặc vào nhà để giặc chém ngang lưng tổ quốc với dự án Tây Nguyên.
Chính chúng đã qụy lụy ôm chân Mỹ để cầu mong được Mỹ quay trở lại VN. Chúng bán rẻ nhân phẩm con người VN chỉ để kiếm vốn đầu tư, xin tiền viện trợ.
Chính chúng đã dùng bạo lực khủng bố để trấn áp mọi tiếng nói ôn hòa đòi lẽ phải. Chúng đã gây nên biết bao thảm cảnh dân oan trên khắp cả nước.
ĐCSVN đã làm cho hơn 80 triệu người VN trong nước phải xấu hổ khi ra nước ngoài.
Không xấu hổ sao được khi một đất nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến, từng ba lần đánh thắng quân Mông-cổ, từng phá tan một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, từng lật đổ một trăm năm nô lệ của Tây, mà chính quyền CSV N hiện tại chỉ giỏi đàn áp dân nhưng lại cúi đầu khiếp nhược trước kẻ thù.
-34 năm trôi qua, để mong giữ cho ngọn lửa lý tưởng tự-do dân-chủ cháy mãi không bao gìờ tắt, ngưòi lính già vẫn đang cặm cụi bảo vệ và vá lại ngọn cờ tổ quốc, lá cờ mà kẻ thù và những kẻ phản bội đã nhiều lần mưu toan xé nó thêm một lần nữa.

Không ai ghê sợ chiến tranh hơn người lính, người quân nhân
QLVNCH với tấm lòng nhân bản không lấy hận thù làm vũ khí, đang trải lòng mình ra cho nhân dân khắp miền Tổ quốc, bao dung với cả những người ngày xưa từng ở bên kia chiến tuyến, vì thật ra họ cũng chỉ là nạn nhân của bọn cuồng tín lấy chủ nghĩa CS dối trá phi nhân làm chân lý.
Bài viết này xin tặng tất cả các chiến sĩ VNCH đã và đang hy sinh vì Tổ quốc. Xin được chân thành tặng riêng cho các anh cựu quân nhân QLVNCH trong Khối 1906 Úc Châu, các anh chưa bao giờ tan hàng dù tóc đã bạc, sức đã mòn.

Các anh vẫn đang âm thầm chia sẻ tình yêu của mình cho những dân oan đau khổ, chia sẻ khoản thu nhập chỉ vừa đủ sống cho phong trào dân chủ chung trong nước.
Các anh mãi mãi xứng đáng là người lính QLV NCH trong lòng dân tộc.
34 năm cặm cụi vá cờ giữ lửa của các anh, hôm nay lửa đó đang lan dần khắp các miền tổ quốc chỉ chờ ngày bùng lên, các thế hệ đàn em sẽ tiếp nối, và vá lại mảnh đất rách nát của quê hương chúng ta.

2009
Phạm Khắc Châu
dailien
Posts: 2476
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »


Image

Một số hình ảnh tang lễ
Cố Trung Trướng Đặng Văn Quang.


Kính chuyễn hình ảnh tang lễ của Trung Tướng Đặng Văn Quang.
Xin cầu nguyện Thiên Chúa đón linh hồn JEAN EMMANUEL về cõi an nghĩ vĩnh hằng.

Xin click vào link dưới đây
https://picasaweb.google.com/jasminh09/ ... feat=email#

Đời bi kịch của Trung tướng Đặng Văn Quang

Bùi Văn Phú


Trung tướng Đặng Văn Quang, nguyên cố vấn quân sự và an ninh quốc gia của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa qua đời tại Hoa Kỳ, khép lại cuộc đời một vị tướng miền Nam phản ánh của bi kịch chính trường Sài Gòn và quan hệ giữa Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng Hoà.

Ông rời Việt Nam trong những ngày cuối tháng 4-1975, đến trại tị nạn ở bang Arkansas. Sau đó tướng Quang vội vã rời đây vì e ngại nỗi uất hận của đồng hương bột phát sẽ không an toàn cho bản thân ông vì có một số lời đồn đại không tốt từ thời chiến.

Ông sang Canada thăm con và khi trở lại Hoa Kỳ thì chính phủ Mỹ không cho nhập cảnh mà không nêu lý do. Canada cũng không muốn sự có mặt của tướng Quang trên đất nước họ vì những cáo buộc liên hệ đến ông và muốn trả ông về Việt Nam.

Sự việc đã làm xôn xao dư luận người Việt hải ngoại trong thời gian đầu định cư ở nước ngoài.

Theo cựu trưởng phân tích gia của CIA Frank Snepp viết trong tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977, ngày 29-4 tướng Quang đến trước Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong lúc đông người đang chen lấn mong được di tản.

Từ trong sân toà đại sứ, giám đốc CIA tại Việt Nam Tom Polgar nhận ra tiếng tướng Quang gọi và ra lệnh cho lính thủy quân lục chiến mở cổng cho vào. Vào bên trong, tướng Quang tiếp tục tìm cách cầu cứu vì đã bỏ lại người con và cháu bên ngoài.

Theo Snepp, lúc này tướng Quang chẳng còn là người quan trọng đối với Hoa Kỳ vì ông đã phản bội người Mỹ khi không báo cho CIA biết về kế hoạch bỏ cao nguyên của Tổng thống Thiệu. Chiều hôm đó tướng Quang được di tản ra khỏi Việt Nam bằng trực thăng.

Trong Decent Interval còn ghi chi tiết là trước đó vài hôm tướng Nguyễn Cao Kỳ đã muốn bắt giam tướng Quang khi các tướng có mặt tại Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông đã lẩn thoát được.

Những bất đồng giữa tướng Kỳ và Tổng thống Thiệu trong thời gian nắm quyền lãnh đạo miền Nam, trong khi tướng Quang lại được ông Thiệu tín cẩn, đã gây nhiều hiềm khích giữa tướng Kỳ và tướng Quang với nhiều đồn đoán có dư luận cho rằng do phe tướng Kỳ đưa ra, về tham nhũng, buôn bán bạch phiến dính tới tướng Quang mà người dân miền Nam một thời được nghe biết.

Tuy nhiên những ghi nhận trong các tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977 và CIA and the Generals của Thomas L. Ahern, Jr. xuất bản năm 2009 đưa ra những tài liệu được giải mật cho thấy tướng Quang không liên hệ đến các cáo buộc buôn bạch phiến.

Vì tướng Quang được ông Thiệu tin cẩn và ông còn là người liên lạc giữa Dinh Độc lập với CIA nên cơ quan tình báo Mỹ đã có những điều tra riêng về nhân cách và biết rõ ông không liên quan đến bạch phiến như những tin đồn hay thông tin được nhà báo Mỹ Alfred W. McCoy viết trong tác phẩm The Politics of Heroin in Southeast Asia xuất bản vào đầu thập niên 1970. Nhiều thông tin trong sách này đã được các nhóm chống đối chính quyền của ông Thiệu, điển hình như phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, dịch và phát tán tại Việt Nam trong những năm sau khi Hiệp định Paris được kí kết vào tháng 1-1973. Tổng thống Thiệu lúc đó cho rằng các phong trào chống chính phủ của các tôn giáo Phật giáo, Công giáo là có người Mỹ đứng sau giật dây.

Theo Frank Snepp, tướng Quang là người giao tiếp giữa Dinh Độc lập và Đại sứ quán Mỹ. Ông đã có rất nhiều cuộc gặp với giám đốc cũng như nhân viên cao cấp của CIA ở Sài Gòn để trao đổi tin tức, phân tích tình hình chính trị, quân sự và chính sách của lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà với người Mỹ. Snepp nhận xét tướng Quang có nếp sống với chuẩn mực đạo đức cao, sòng phẳng về tiền bạc.

Vì thế câu chuyện tướng Đặng Văn Quang sau khi rời Việt Nam không được chính phủ Mỹ cho định cư, còn Canada đòi trục xuất đã làm xôn xao dư luận một thời.

Sống tạm dung ở Canada tướng Quang đã làm đủ mọi việc để kiếm sống, từ lau chùi văn phòng đến rửa chén.

Năm 1988, một sĩ quan Lực lượng Đặc biệt của Mỹ, cựu Trung tá Dan Marvin từng phục vụ tại Quân đoàn IV khi tướng Quang là tư lệnh, biết được việc chính phủ Hoa Kỳ không cho phép ông vào Mỹ nên đã vận động để trả lại sự thực và đòi công đạo cho một vị tướng Việt Nam Cộng hoà bị quá nhiều tai tiếng.

Marvin coi tướng Quang là người đã cứu mạng ông trong một tranh chấp lúc chiến tranh khi ông làm cố vấn tại làng Hoà hảo An Phú trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sự kiện này được Dan Marvin ghi trong tác phẩm Expandable Elite xuất bản năm 2003.

Tác giả đưa ra giả thuyết chính phủ Mỹ không cho tướng Quang nhập cư vì ông đã không tán đồng kế hoạch của Hoa Kỳ nhằm ám sát Thái tử Norodom Sihanouk của Cam Bốt vào năm 1966.

Dan Marvin đã kiến nghị đến các dân cử, ban ngành liên hệ và cả với Tổng thống George H.W. Bush (Cha). Cựu giám đốc CIA tại Sài Gòn Tom Polgar, người đã có rất nhiều dịp gặp gỡ, tham khảo với tướng Quang khi còn làm việc, trong một bản tường trình ủng hộ cho ông được vào Hoa Kỳ có đưa ra nhận xét là tướng Quang và gia đình lúc ở Việt Nam đã không có một cuộc sống giầu sang, phú quý và những cáo buộc liên quan đến chuyện ông buôn bán bạch phiến là không có cơ sở vì theo những điều tra riêng của CIA thời đó, trước khi tổ chức này tin và liên lạc với ông, tướng Quang không có dính líu gì đến bạch phiến.

Sau đó chính quyền Canada hủy bỏ những cáo buộc liên quan đến tướng Quang và chính phủ Mỹ đồng ý cho ông định cư.

Đến Mỹ vào tháng 9-1989, hai ông bà có lúc sống ở Atlanta, khi ở nam California. Ông tiếp tục làm những việc lao động và vợ là bà Đỗ Thị Năm cũng làm bánh bán để kiếm sống.

Sau này vì tuổi già sức yếu, hai ông bà được sự giúp đỡ của cựu Thiếu tá Trần Văn Ngà, nguyên Trưởng ban Thông tin Báo chí Quân đoàn IV, đưa về sống trong một chung cư dành cho người già ở Sacramento, thủ phủ của bang California.

Mùa hè năm ngoái tôi có dịp đến thăm tướng Quang nhân dịp cùng đi với đoàn quay phim của Hội Bảo tồn Lịch sử và Văn hoá Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) đang thực hiện phỏng vấn 500 người để lưu lại trong thư viện Đại học Texas ở Austin. Tướng Quang đã yếu và trí nhớ kém nhiều vì tuổi già.

Về những biến cố đã xảy ra có điều ông nhớ, có điều không. Tôi hỏi trong đời ông mang ơn ai nhất, tướng Quang nói đó là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Đối với những người đã gây phiền lụy, tướng Quang nói ông tha thứ hết.

Cựu Trung tướng Đặng Văn Quang sinh ngày 21-6-1929 tại Sóc Trăng. Ông là một vị tướng trẻ nhất của quân đội Việt Nam Cộng hoà, từng giữ chức tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh, tư lệnh Quân đoàn IV Vùng IV Chiến thuật. Chức vụ sau cùng của ông là phụ tá đặc biệt về quân sự và an ninh quốc gia cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Ông qua đời hôm 15-7 tại Sacramento, California, hưởng thọ 82 tuổi, để lại vợ, 7 người con và 9 cháu nội ngoại.

Tang lễ cựu Trung tướng Đặng Văn Quang đã được cử hành tại nhà thờ Các Thánh Tử đạo Việt Nam ở Sacramento, California chiều ngày 20-7-2011 và nghi thức hoả táng diễn ra vào trưa ngày hôm sau.

© 2011 Buivanphu
hoanghoa
Posts: 2277
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »


Image

ĐẠI NHẠC HỘI “CÁM ƠN ANH, Người Thương Binh VNCH Kỳ V”


Hội H.O. Cứu Trợ TPB & QP/VNCH, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam California, Đài SBTN và SET, Tổng Hội Sinh Viên Nam California
với sự yểm trợ của nhiều Hội Đoàn, Đoàn Thể, Các Cơ Quan Truyền Thông Báo Chí Hải Ngoại, với sự tham gia của gần 100 Ca Nhạc Sĩ, sẽ cùng hợp tác để tổ chức:


ĐẠI NHẠC HỘI
“CÁM ƠN ANH, Người Thương Binh VNCH Kỳ V”


Tại Sân Vận Động Trường Trung Học Bolsa Grande
9401 Westminster Ave. Garden Grove, CA 92844


Vào ngày Chủ Nhật 07 tháng 08 năm 2011
Từ 12:00PM đến 07:00PM


NHẰM MỤC ĐÍCH:
Gây quỹ giúp Thương Binh và Quả Phụ Tử Sĩ VNCH.


Với sự góp mặt của các MC:

Nam Lộc, Việt Dzũng, Đỗ Tân Khoa, Diệu Quyên, Bảo Châu, Ngọc Đan Thanh,
Minh Phượng, Lâm Quỳnh, Kim Nhung, Thanh Toàn, Quế Trang.

Đặc biệt có sự hiện diện của KHG DƯƠNG NGUYỆT ÁNH

Và các Ca Nhạc Sĩ:

Anh Dũng, Băng Châu, Cardin, Châu Tuấn, Chí Tâm, Đan Nguyên, Đan Vy, Diễm Liên, Diệp Thanh Thanh, Giang Tử, Hà Thanh Xuân, Hồ Ngọc Như,
Hồng Đào, Huỳnh Gia Tuấn, Lâm Nhật Tiến, Lâm Thúy Vân, Mai Lệ Huyền, Mai Ngọc Khánh, Mai Thanh Sơn, Minh Thông, Mỹ Huyền, Ngọc Minh, Ni Ni, Phi Khanh,
Phương Hồng Ngọc, Phương Hồng Quế, Phượng Liên, Phượng Vũ, Quang Minh, Quỳnh Hương, Shayla, Sĩ Đan, Tâm Đoan, Thanh Lan, Thanh Thúy, Thiên Kim, Tiến Dũng,
Trung Chỉnh, Tuấn Vũ, Tường Khuê,Tường Nguyên, Túy HồngÝ Lan, cùng sự xuất hiện đặc biệt, bất ngờ của nhiều nghệ sĩ tên tuổi khác.

Ban Nhạc: The Asian Band- Y2K- The Soldier- Moon Flower- Tù Ca Xuân Điềm


GIÁ VÉ: $10.00

Vé bán tại: Nhà Sách TÚ QUỲNH (714) 531.4284, Nhà Sách TỰ LỰC (714) 531.5290, T.T. BÍCH THU VÂN (714) 897.4519,
T.T. BÍCH THU LINH (626) 280.5051, T.T. PHÁP QUANG (714) 891.1465,
T.T. ASIA (714)775.8264, HỘI H.O. CỨU TRỢ TPB (714) 590.8534,
LIÊN HỘI CỰU CHIẾN SĨ NAM CALIFORNIA (714) 230.9602,
HOÀNG SINH - trước chợ ABC (714) 679.1120
Điện thoại liên lạc: *(714) 539.3545 *(714) 721.0758 * (714) 230.9602 *(714) 328.7229


CHI PHIẾU YỂM TRỢ XIN GHI:
ĐNH CÁM ƠN ANH KỲ V


Gởi về: Hội H.O. Cứu Trợ TPB & QP/ VNCH: P.O. Box 25554, Santa Ana, CA 92799
Hay : Đài SBTN & TT ASIA: P.O. Box 127, Garden Grove, CA 92842


HẢI NGOẠI KHÔNG QUÊN TÌNH CHIẾN SĨ
ĐỒNG HƯƠNG NHỚ MÃI NGHĨA THƯƠNG BINH




Image
tranphuongdong
Posts: 526
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »


Image

Pleiku Nắng Bụi Mưa Bùn

(Kính tặng những ai, đã một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm)
Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địa danh mà hầu như ai cũng biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt, mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đã làm nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đã làm nên một địa danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đã từng là lính chiến? Ai đã từng là kẻ “bị đày”? Và ai đã từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”? Thì đất địa Pleiku là nơi được mời gọi.

Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là gì gì cả, mà là một sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian. Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn luyện “da ngựa dậm nghìn” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương thì ít mà tứ xứ thì nhiều. Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, vì từ dạo đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy. Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7 con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh thì làng mạc thưa thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những gì ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở. Người ta về làm ăn, về tìm việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để kiếm sống, và cũng về … để chết. Một bộ tư lệnh quân đoàn nằm đó, và một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành). Ngày đêm xe cộ tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân, từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng. Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ “bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy, tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn. Tuy nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật sự thì Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi dễ mến, và cũng “thân thiết”. Tôi đã đến đấy gần hai năm và khi ra đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể: Pleiku có khí hậu giông giống như Đà lạt. Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa màu, Đà lạt trồng được thứ gì thì Pleiku cũng trồng được thứ đó: bông hoa và rau trái. Ai đã có đến vườn hoa Phú thọ? Một xóm ngoại ô (chỉ cách thị xã vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, tình tứ, đẹp không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái cớ. Nếu vào Phú thọ, khách còn tìm nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em đi dạo, tìm “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê “mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC cũng thường mò ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ. Phong cảnh đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng đất địa rừng núi Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không được rõ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp, nơi vui chơi, hò hẹn rất thơ mộng, rất trữ tình. Có am, có chùa, tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi, từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đã có biết bao mối tình hẹn hò, thề ước tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa không dứt, thành phố trở nên ãm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô? Nếu không phải bận công tác, trực hành quân thì cũng “bay” ra phố, vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám (cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí tình. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lãnh trả sau. Bà Tám rất là điệu nghệ.

Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi. Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng, chỉ nghe nàng nói cũng đã thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?” hoài mà không hiểu được nàng nói những gì. Các em Bình Định, Nha trang, Tuy hòa, Sài gòn, miền Tây, và cả dân Bắc (kỳ) cũng không thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước.

Đã có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến để mà tha hồ hát ca, nhãy nhót. Đơn vị B17/LLĐB, thời thiếu tá Ngô đình Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích vì được chìu chuộng săn đón. Ca hát nhãy nhót cho đã, mời các em ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc, hoa muôn màu – các em rất thích. Thích thì cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… thì cứ ở qua đêm cũng được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngã, chết chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời lình dù phải sống nay, chết mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên đời thì làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên mình. Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống. Không vui chơi ở đơn vị, thì vui chơi ở các tửu đìếm, nhà hàng. Hai cứ đìểm: Hoàng Liêng, Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền thì vung vít, ít tiền thì một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa về. Say quá, gục ngã, nằm đường, có quân cảnh chở đưa về. Cùng lắm là “ký củ”. Cả mạng sống còn chẳng màng, sá gì năm, mười ngày “trọng cấm” lẻ tẻ. Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều mình. Liều mà đánh giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính “ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống…Cà phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi mà ngọt ngào tình cảm. Mùi hương thoang thoảng. Hương hoa (từng nụ) ngọc lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi mọng, cười rất duyên, và … đẹp đéo chịu được. Tôi đã ghiền và đã mê “Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ miền Tây (thiếu gì con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đã từng đến Pleiku, và đã từng “uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm tình này. Trên bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ.

Còn nữa! Quán bún về đêm, có một “o” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún bò thơm lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, thì về nhà không ngủ được (vì đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc đã chồng con, đã già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em còn sống? Dẫu sao, kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng còn “một chút gì để nhớ, để thương”...Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài vẫn còn chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mõi, không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh vì “bị đày” mà đến, còn các em do“tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt gặp và làm quen (cả làm tình) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Mình không tránh được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các em để đời các anh thêm ý nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao). Nhưng các em cũng đã góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều Biển Hồ. Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh (thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài gòn. Chúng tôi, hai thằng mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một vòng phố xá. Nói là chỉ đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây. Trời xế chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một vòng vẫn chưa có ý định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa xế trưa thì không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe, bước tới. Hai người đẹp có ý hỏi tìm địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả tiền xe.

- Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi. Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rãnh…

Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ tìm nhà.

- Chị em em từ Qui nhơn lên tìm nhà đứa bạn. Địa chỉ này…

- Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại.

- Sợ phiền các anh!

- Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép.

Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh trọng mời hai quí nương lên xe yên vị….
Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như thế này?
Vừa đi, vừa gợi chuyện. Thì ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng muốn tìm biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời còn sớm. Mời hai nàng cùng đi một vòng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng cảnh biển hồ. Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng lãng đãng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh vật quá mộng, quá thơ, quá hửu tình. Hai thằng lính hành quân về chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân tình của hai em gái hậu phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “tình anh lính chiến”. Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với tình yêu thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ý nghĩa, quả là thú vị cuộc đời. Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa chỉ hai nàng cần tìm. Lưu luyến chia ly, giã từ, hò hẹn…Tôi về, năn nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài gòn đi tiếp mấy ngày (phép) còn lại.

Tình người bản thương.
Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người thượng (khoảng một tiểu đoàn (350-400 quân). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi như đi dưỡng sức, vì địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một vùng khá an ninh nhờ đ/u Báu thường xuyên tung quân hành quân lục soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành quân, các đại đội thì đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ huy TĐ)/BKQ/TƯ - chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn - nên tà tà đi nhìều chổ cho biết. Buồn, không làm gì, đi vào mấy nhà thượng (kiếm những nhà giàu). Sức giàu của một nhà thượng ở đây không thua gì người kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu (năm 1970): một đàn bò 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người dân thượng bảo vậy). Vì thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một lần, vào dịp tổng thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đãi rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đãi tổng thống, trị giá 200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất rình rang .Nhà giàu, có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm gì, thường ở nhà dệt vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà. Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt) nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp trai kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ hay cưòi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà “bắt cái nước” thì tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ dãi như vậy đó, mặc tình mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú vị, ngực căng cứng, no tròn. Hôn thì mùi hăng hăng như khét nắng. Cũng vì em dễ dãi, em thích. Cũng tại mình ham vui, thích khám phá tìm của lạ. Chứ không ham muốn gì đâu. Gái thượng mà không lai (lai Pháp) thì không thấy gì là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa, hoặc sàm sở thì… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa vì có thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành vi sai phạm). Còn nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên (kinh) ở tòa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại tòa tỉnh trưởng, vì thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị, báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho một trận, thiếu điều ký củ. Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là nết na chững chạc - nết na mà vẫn cho sờ mó? - Thấy trai kinh dường như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích thì thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó khăn gia đình? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ thấy, chẳng nói gì. Không biết họ bằng lòng hay vì sợ mà không nói?Thú vị nhất là ra rình xem tắm suối. Buổi trưa, không làm gì, tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén rình đàn bà con gái thượng tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên dòng nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lõa lồ thân thể.

Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà rình xem cho đã mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. Tìm bến khác. Rình xem con gái thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo, bị thưa là khốn. Ký củ và đổ đi chổ khác như chơi. Người thượng khá chân thật, rất tình người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được chung sống nhìều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đãi nhiều thứ. Cũng nhằm mục đích lấy lòng để mua chuột, cai trị? Đến với họ, quen thân với người thượng cần nên giữ ý dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh, lừa dối, gạt gẫm, hãm hại, nhất là lãnh vực tình cảm yêu thương. Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả lòng tin. Tuy nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật chất lãn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng, cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp thấy. Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xã Pleiku khoảng 10 km. Một làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra, Pleikép chỉ là một ấp. Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành, mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng Ban CTCT) đi thế. Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dãy thức ăn bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP). Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, còn sống, máu tuơm . Hai ché rượu cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ và tôi). Hai dãy người dân hai bên đông đúc. Mọi người vổ tay hoan hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu (cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới. Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông chảy vào miệng, ngòn ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đã lộ ra trên mặt nước. Cơ thể đã nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đã sắp no phình. Tứ chi gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan văn võ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngã. Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. Còn tôi. Chết bỏ cũng phải ráng cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. Vì thể diện, vì danh dự, tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào uống và ăn. Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu. Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn. Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ) xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giã từ. Tôi cũng chào và từ giã bước ra. Lạng quạng, muốn ngã. Tên tài xế dìu tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại. Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về phòng tôi cũng không nhớ. Miên mang, dã dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến, tạm tỉnh, thiếu tá Quỳnh chỉ huy phó đến thăm. Động viên khen ngợi:

- Cậu đở chưa?

Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ. Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đãi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ngòn ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua gì rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!...Cuộc đời binh ngiệp, trãi bao năm, tôi đã đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đã đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương tình người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giã chiến tranh là vậy.

Bây giờ không biết sao?

Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đã một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm.

Tháng tư 2011
Ng. Dân.
nguyenvsau
Posts: 1138
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Nghĩ về người lính Việt Nam Cộng Hòa

Nguyễn Thị Thảo An

Nước mắt anh không rơi trong ngục tù cộng sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương.

Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?

Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vụ giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.

Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.

Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích còng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá... Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.

Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.

Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét miền Trung, hay ở miền Ðông xác thân thối rữa. Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân Quốc Gia được sống no ấm ở hậu phương.

Những người dân Quốc Gia, những người dân Quốc Gia không hề muốn trở thành dân cộng sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi cộng sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.

Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón tay Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lõng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thỏa mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá... Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình... người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.

Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hóa rẻ tiền, với đôi guốc vông kẽo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các trung tâm huấn luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.

Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.

Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu diếm mảnh khăn sô.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính... anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phũ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.

Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có những người sẵn sàng giẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.

Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.

Ngày Hòa Bình, 27 Tháng Giêng năm 1973 Hiệp Ðịnh Paris được ký kết. Hòa bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hòa bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hòa bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hòa bình bi thảm.

Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành lũy để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.

Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.

Và anh, anh phải đóng trọn vai trò cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ.

Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?

Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đường đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.

Trên những con đường từ cao nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.

Bởi lãnh đạo (?)đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?

Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?

Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu... Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.

Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hòa bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người cộng sản, nhưng hòa bình không thật đến ở Việt Nam.

Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hòa bình, không sống được trong hòa bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.

Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hòa và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt miền Nam.

Bởi từ khi những người bộ đội cộng sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người cộng sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.

Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.

Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người cộng sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Anh, người Lính trong thời chiến thành người Tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.

Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường tù ngục này mà cộng sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ cộng sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới cộng sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẽ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.

Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. đày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.

Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn. Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.

Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)


Nước mắt anh không rơi trong ngục tù cộng sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương... Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?

Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.

Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.

Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ,... dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.

Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hòa, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.

Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người Quốc Gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thủy của Việt Nam.

Chúng ta, những người Quốc Gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.

Ngày nay, người cộng sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.

Ðể một mai, khi quê hương không còn giống cộng sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.

Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề “xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản.” Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hòa. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai...
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »


Image

Anh Chẳng Còn Chi –

Tưởng Năng Tiến.
Anh Chẳng Còn Chi - tức Trận Cuối của tác gỉa Tưởng Năng Tiến. Truyện viết về những người lính VNCH dù đã trở thành thương binh nhưng vẫn trợ giúp nhau để sống, đồng thời can đảm đấu tranh trên mặt trận tâm lý chiến với cộng sản sau năm 1975.

(Tặng Võ Hoàng)

"Từ máy thâu thanh cô nàng hát nhanh, trọn kiếp thương anh lính trẻ xa nhà, tôi là người đi lính miền xa, nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu... nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu..." Sáu Mù hát hai lần trước khi kết thúc bản nhạc và lần nào y cũng nhắm mắt lại thiệt chặt. Bẩy Què khoái chí cười sằng sặc, bỏ đờn xuống, bàn:
- Bản này mày ca tới hơn bản Xuân này con không về, mà đều mày đừng có nhắm mắt lại
- Sao vậy ?
- Mày đui, mắt toàn tròng trắng không hà, mở ra hay nhắm lại thì cũng "có thấy gì đâu". Làm như vậy làm chi cho nó mất công mà tao ngó sao mắc cười quá hà…
- Ờ...
Sáu Mù ờ rất yếu và mặt thoáng trầm ngâm. Y bị tật nguyền đã mười năm mà vết thương, đôi lúc, tưởng chừng như vẫn chưa kéo da non. Một va chạm nhẹ vẫn có thể gây ra cái cảm giác đau đớn khó chịu. Bảy Què đang cười bỗng khựng. Nhìn mặt bạn nó biết liền là mình vừa giễu dở nên vội vàng biện bạch, khỏa lấp :

- Cũng như tao vậy, mày thấy có khi nào tao ca bản "đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm" mà hồi tụi mình học ở Vương Mộng Hồng đâu. Còn có một giò mà cứ làm bộ ắc ê đếm nhịp "một, hai, ba, bốn; một, hai, ba, bốn" hoài coi nó kỳ thấy mẹ !
- Vậy bữa nào rảnh mày dợt cho tao bài Người Nghệ Sĩ Mù đi. Bản đó tao hát nghe mà không rớt nước mắt tao làm con mày.
- Bản đó mới vô làm sao cà? Bảy Què băn khoăn đưa tay lướt nhanh trên phím đàn mò nốt.
- Tự nhiên tao cũng quên mất tiêu. Tao nhớ là hồi đó mình hay nghe ở cái quán cà phê gì ngoài Ðà Nẵng đó. Lúc mới vô đầu in tuồng có tiếng đờn, rồi tiếng tiền cắc thẩy vô lon nghe keng, keng...
- Thôi tao nhớ rồi... Bản này của Hoàng Thi Thơ, Hùng Cường ca chớ đâu. Rồi Bảy Què lấy giọng vô luôn: "Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca. Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa... "
- Nó đó...

- Mà không được đâu...
- Sao vậy ?
- Hát bản này nghe giống như hai thằng mình đi ăn xin vậy. Tụi mình đâu có đi hát dạo kiếm ăn. Mình có trách nhiệm đàng hoàng mà, đúng không ?
- Ờ .
Lần này Sáu Mù " ờ" mạnh hơn và thốt nhiên nghiêng đầu nở một nụ cười rạng rỡ. Y luôn luôn thấy thích thú, vui vui sướng khi nghe Bảy Què nhắc đến chuyện " trách nhiệm " của hai thằng. Sáu Mù không nói ra được những điều mình biết và mình nghĩ trong lòng rành mạch như Bảy Què nhưng y khoái nghe bạn nhắc đi nhắc lại " nhiệm vụ " và " ý nghiã " này nọ.
Có bữa cao hứng Bảy Què còn nói lung tung về tác dụng của chiến tranh tâm lý, tác dụng của nhạc trong tâm hồn quần chúng... Sáu Mù thiết tha được nghe cũng như Bảy Què khát khao được nói. Cả hai không bỏ lỡ cơ hội nào để bồi đắp niềm tin về cái ý nghiã xa xôi, mơ hồ nhưng cao đẹp cho phần đời thân tàn ma dại còn lại của hai thằng.

Thường ngày hai thằng ngồi bên ngoài chợ trời. Bảy Què bầy đồ nghề trên một cái bàn xếp chỉ lớn bằng bề mặt hai cuốn tập và cái bảng nhỏ cạnh bên: "Vô Mực Ruột Viết Bic và Sửa Hộp Quẹt Zippo Giá Rẻ". Sáu Mù thì không làm được chuyện này. Y vừa ngồi thổi sáo vừa bán sáo. Cái nghề này kiếm ăn không khá. Sáu Mù sống lây lất được là nhờ sự đắp đổi của bạn. Ðiều này vẫn thường làm cho y buồn và mang nhiều mặc cảm. Bảy Què cứ phải an ủi hoài hoài :
- Mày kiếm tiền không nhiều được bằng tao nhưng mày có dịp thổi sáo cả ngày. Cái lợi là mình làm cho những người khách qua đường được nghe tới nghe lui bản "Lòng Mẹ"," Con Thuyền Không Bến"...
- Lợi làm sao ? Bảy Què đã nói cả trăm lần như vậy rồi mà lần nào Sáu Mù cũng ráng hỏi lại.
-... Thì đ.m... người ta nghe mấy bản nhạc đó thấy đã tai hơn là nghe mấy bản nhạc chướng tai của tụi nó. Từ đó người ta nhớ thời cũ và càng chán cái thời chó đẻ này. Làm được như vậy là kể như tụi mình đang chiến đấu rồi. Cái này kêu bằng chiến tranh tâm lý mà Sáu!

Nữ xướng Ngôn Viên trẻ đẹp Orchids Lâm Quỳnh phụ trách lều V24 -7 với các nghệ sĩ ngồi trực phone đồng bào gọi vào. Theo tổng kết tạm thời của anh Nam Lộc trước khi bế mạc chương trình thì số tiền do đồng bào khắp nơi trên đất Hoa Kỳ đóng góp đã lên hơn nửa triệu đô la. Hoan hô.


Thiệt ra cái kêu bằng "chiến tranh tâm lý" này không phải là ý kiến của Bảy Què. Y chỉ lập lại những điều mà anh Hai hay nói cho tụi nó nghe thôi.
Hai thằng quen anh Hai lâu rồi. Bữa đó, chợ trời bị bố ráp, rượt bắt một trận tơi bời. Bảy Què mất hết đồ nghề, mất luôn cây nạng. Sáu Mù cũng quờ quạng sao đó để mất luôn hết lưng vốn của mình, hai chục cái ống sáo. Sáu Mù cõng bạn chạy mà mệt muốn đứt hơi.
May mắn gặp được anh Hai. Aûnh bỏ hai thằng lên xe chở tuốt về xóm. Từ đó anh Hai trở thành người anh kết nghĩa và ân nhân của hai thằng. Sáng, anh bốc hai thằng bỏ lên xe chở ra chợ. Chiều, anh cho hai thằng về. Lâu lâu còn có bữa anh "vớt" hai thằng về sớm hơn giờ đã định, đưa ra đường Hàm Nghi uống rum Lebon và nhậu củ kiệu với hột vịt bắc thảo. Anh Hai không bị đui, cũng không bị què. Anh chỉ bị chột mắt thôi.
Anh Hai không bao giờ nói cho Bảy Què và Sáu Mù nghe về dĩ vãng của mình. Thường ảnh hay trầm ngâm và buồn. Lâu lâu anh Hai mới nhỏ giọng, nghiêm trang nói chuyện với hai thằng, với giọng nói rất chân tình và thuyết phục. Từ anh Hai mới có chuyện "chiến tranh tâm lý": "Cuộc chiến của mình vẫn đang âm thầm tiếp diễn trên mọi mặt trận. Hai em phải thấy, tụi nó chiếm được thành mà không chiếm được lòng người thì chưa kể được là thắng; hiện tại tụi nó không những đã làm mất lòng người mà còn mất luôn cả lòng sĩ tốt của nó nữa. Chung cuộc tụi nó sẽ thua.Vấn đề của anh em mình bây giờ là phải chiến đấu, đóng góp toàn lực trong khả năng riêng của từng thằng để rút ngắn con đường đưa đến chiến thắng càng sớm càng tốt..."
Ðã nhất là anh Hai làm cho Sáu Mù và Bảy Què thấy rằng tụi nó không phải là kẻ tàn tật đứng bên lề cuộc đời. Tụi nó vẫn có khả năng, không những chỉ để sinh tồn mà còn để chiến đấu chống lại kẻ thù nữa. Từ đó, mỗi buổi chiều trở về xóm nhỏ thay vì chỉ nằm hát nghêu ngao chơi cho đỡ buồn thì Sáu Mù và Bảy Què dượt nhạc ráo riết. Mỗi tuần hai thằng được bà con vỗ tay tán thưởng, chia xẻ với niềm tin chung mãnh liệt của tất cả mọi người: cuộc chiến vẫn cứ đang tiếp diễn.
Lúc anh Hai tới thì Bảy Què và Sáu Mù đang cãi cọ về bản Sài Gòn Vĩnh Biệt. Sáu Mù thích chơi bản đó nhưng bị Bảy Què cự nự:
- Người ta chán nghe hát tới hát lui "Sài Gòn ơi anh xin hứa rằng anh trở veà" rồi! Nghe láu cá chết mẹ. Có thấy ai về đâu nào?
- Nhưng mà - Sáu Mù nhỏ nhẹ - bà con vẫn cứ mong chớ đâu có chán. Mình ên mày không thích rồi mày nghĩ ai cũng vậy sao?
Anh Hai can thiệp:
- Thôi trễ rồi nha hai đứa. Thì cứ để cho thằng Sáu nó ca; bản nào bà con vỗ tay nhiều thì hát tiếp không thì tuần sau bỏ. Bốc hai thằng lên xe, đạp ra khỏi con hẻm rồi anh Hai mới hỏi:
- Chiều nay tụi mày tính "hành quân" ở đâu đây?
- Cho tụi em xuống trạm xe buýt ở góc Trương Công Ðịnh và Nguyễn An Ninh đi.
- Hát ở ngay đó tụi công an nó đá cho dập mật à.
- Ðâu có, tụi em đón xe lên Tân Cảng mà. Thì cũng làm y chang như mấy lần trước vậy. Ði xe đường dài, khúc nào khách không chen chúc quá đông thì mình làm vài bản. Lần quần chiều nay mà tụi em chơi chừng hai chục bài là coi như tạm đủ để trả nợ núi sông rồi.
- Ðược - anh Hai tán thành – "kế hoạch hành quân" vậy là tạm ổn. Nhớ đừng chơi "Giã Từ Vũ Khí" nha, mấy cha. Cái gì mà "trả súng đạn này anh sạch nợ sông núi rồi", nghe rầu quá hà. Sáu Mù bắt liền:
-... anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, trả lại đây...
- Thôi mà Sáu - Bảy Què dấm dẳn - sao mày toàn thích toàn mấy bản nhạc yếu xìu không vậy ?
Cụt hứng, Sáu Mù tắt đài, chống chế bâng quơ :
- Bị nó làm tao nhớ ông thượng sĩ Tâm, ổng già rồi mà hay ca: "rồi anh sẽ qua thăm nhà em, với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu.." nghe thấy đã.
Tới trạm vừa kịp lúc xe đến. Anh Hai đẩy Bảy Què lên trước rồi dắt Sáu Mù lên sau. Trước khi quay đi anh không quên dặn:
- Chừng bảy giờ tao chờ tụi mày ở đây nha.
Ở ngay trạm chính xe chật ních người. Bảy Què đút gọn cái nạng dưới gầm ghế, ôm sát cây đờn ghi ta để đứng trước ngực, ngồi che một khoảng nhỏ vừa đủ cho Sáu Mù dựa lưng vào thành xe và bó chặt hai đầu gối.
Xe ngừng ở trạm Nguyễn Du rồi Pasteur. Người xuống nhiều hơn người lên. Sàn xe bắt đầu có khoảng trống đủ rộng có thể di chuyển dễ dàng. Bảy Què đẩy bạn lết ra giữa đường đi và bắt đầu dạo đờn nhè nhè làm cho mọi người chú ý.
Theo đúng chương trình hai thằng sẽ mở đầu bằng bản "Trên Ðầu Súng":
"Trên đầu súng quê hương, Tổ quốc đã vươn mình. Trên lưỡi lê căm hờn, hờn căm như triều sóng. Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc đã giục giã khắp chốn rộn ràng. Ôi lửa thiêng dậy bập bùng tay lửa tay vung kiếm. Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn. Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải đổ nát... "

Người nghe không những chỉ chú ý mà còn hơi sửng sốt. Hát dạo trên xe buýt không phải là một hiện tượng xa lạ nhưng nói đến "nộ lệ," "cùm gông"... thì quả thực là những chữ lạ tai và đã tai! Nhắm thấy có bộ được, Bảy Què và Sáu Mù tiếp luôn bản "Cờ Bay":
"Cờ bay, cờ bay oai hùng trên Tổ quốc thân yêu thề chiếm lại nay mai bằng máu. Cờ bay, cờ bay tung trời ta về với quê hương dang ngóng đợi quân ta tiến về... Ðón nhau về anh đưa em về Gio Linh, Cam Lộ, Ðông Hà. Sạch bóng thù, đồng ta xanh với nắng mới, vang câu hát tự do."
Bản nhạc chấm dứt nhưng không ai vỗ tay. Bảy Què ngước nhìn lên và bắt gặp một hai người đang lấy tay chùi nước mắt. Y xúc động đến bối rối và cũng muốn khóc theo luôn. Y vừa đờn, vừa nói thầm với chính mình nhiều lần "nhảy dù cố gắng" để ngăn cho nước mắt khỏi chẩy. Sáu Mù thì chưa cảm nhận được kịp phản ứng của thính giả, vẫn tiếp tục say mê ngồi hát. Chương trình tiếp nối bằng một bản nhạc đơn ca "Trên Bốn Vùng Chiến Thuật:
"Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai. Người yêu tôi mới quen mà thôi.."
Năm hai mươi mốt tuổi, Sáu Mù cũng đi vào quân đội. Tiểu Ðoàn Chín Nhảy Dù. Và người con gái y mới quen mà thôi ở quận Thượng Ðức - cách đây đã mười năm - mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng như một chiếc bóng đậm mầu. Lúc đơn vị đang tiến chiếm đồi 1062 thì Sáu Mù bị thương ở mắt. Y được trực thăng đưa thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Giữa cái lúc nằm đau xót, mê man trên máy bay, Sáu Mù vẫn cứ nhớ và tiếc một điều: y đã không có dịp để nói với người ta một câu từ tạ, dù là "tạ từ trong đêm!".
Mắt Sáu Mù được giải phẫu xong đúng bốn ngày thì Sài Gòn thất thủ. Y bị đẩy ra khỏi bệnh viện để dành chỗ cho phe thương binh thắng trận. Sáu Mù vĩnh viễn "giã từ ánh sáng" kể từ lúc đó. Cũng từ đó, không có thêm một người con gái nào lọt được vào đôi mắt trắng giã của y nữa.

Băng Châu, nữ ca sĩ kiêm kịch sĩ, kiêm xướng ngôn viên truyền hình, trình bày nhạc phẩm "Anh Đi Chiến Dịch"của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, vừa thơ vừa nhạc thật xuất sắc, đầy ý nghĩa.

Tất cả đồng bào tham dự đều cùng hát chung như câu "cả nước cùng đứng lên oai hùng" trong mặt trận đấu tranh chống cộng sản vô thần, tạo nên một khung cảnh không gian đầy cảm động.

Trong cái bóng đêm dài hết một đời này, thỉnh thoảng, vẫn lóe sáng hình ảnh của hai người đàn bà: người mẹ và người con gái tóc thề mà Sáu Mù chưa kịp hỏi tên ở quận Thường Ðức. Những lúc lần dò, lê la ngoài hè phố hay trên xe buýt như thế này, tự thâm tâm Sáu Mù vẫn vừa mong mỏi, vừa lo sợ một điều: bất ngờ gặp lại được mẹ hay cố nhân.
Khi bản nhạc chấm dứt thì Sáu Mù không còn thể nào ngăn được nước mắt đã lăn nhẹ trên đôi gò má gầy đến xương của y. Nhiều hành khách khác cũng khóc. Không khí trên xe trầm lắng đến nặng nề. Mọi người đều im lặng, thẫn thờ như họ đang bị thôi miên. Tài xế và lơ xe vẫn thi hành phận sự một cách bình thường, như không có chuyện gì quan trọng xẩy ra, dù nét mặt của cả hai bỗng nghiêm và buồn … thấy rõ!
Ðứa bé bán chuối chiên cẫn trọng gói một trái chuối bự nhất, nhẹ nhàng mang đến đạt vào tay Sáu Mù. Cái cảm giác nong nóng ở tay khiến y biết ngay là có một người nào đó đã động lòng và dấm dúi cho mình một phần lương thực. Sáu Mù không cảm thấy bị xúc phạm, y chỉ càng tủi thân thêm. Mãi đến lúc đó nhiều người mới nhìn thật kỹ Sáu Mù và Bảy Què.
Họ chợt nhận ra trước mắt mình là hai người thương binh - dù quân phục đã cũ nát, tả tơi và phù hiệu đơn vị đã bạc màu - chứ không phải là những kẻ ăn xin hát dạo như thường thấy. Sáu Mù đã cảm nhận được hết cái không khí thương yêu chia xẻ quanh mình. Y xúc động đến run người. May mắn là sự mù lòa giúp cho y đỡ bối rối hơn là Bảy Què trong lúc này. Bảy Què phải cúi gầm mặt xuống, tránh những ánh mắt chứa chan thiện cảm của những người xung quanh.
Cảm tình của thính giả làm cho Bảy Què luống cuống. Bần thần một hồi y mới lấy lại được bình tỉnh. Y vội vàng chuyển nhịp, chơi bản "Hội Nghị Diên Hồng":
"Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến? Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển... Toàn dân Tiên Long, sơn hà nguy biến ! Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến?"
- Quyết Chiến!.
Tiếng hô đáp bất ngờ của nhiều người trong xe khiến Bảy Què và Sáu Mù tưởng như có một luồng điện chạy qua người. Không riêng gì hai thằng mà có lẽ là tất cả mọi hành khách đều xúc động mãnh liệt. Sau đó có đến hơn chục người cùng cất cao giọng hát chung với hai thằng. Xe ngừng lai ở một vài trạm kế tiếp, không ai xuống! Lác đác chỉ có người lên.

Mặc kệ cho những người mới bước lên xe ngơ ngác, Bảy Què, Sáu Mù và nhiều hành khách trên xe cứ hát. Sau khi "chiều" theo mọi người hát đi hát lại bản "Hội Nghị Diên Hồng" đến lần thứ ba, Bảy Què mới chuyển nhịp qua được bản "Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Ðây":
"Nhưng mẹ ơi, giờ đây sao mẹ khóc ? Hai vai gầy run rẩy nát tâm can. Lệ hồng pha Bến Hải nước tràn dâng. Áo nâu nghèo mẹ khóc để phơi thân. Một đàn con giờ quên ơn nuôi dưỡng. Súng đạn cầy tan nát luống quê hương... Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than, xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam. Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng than khóc nữa. Vì chúng con của mẹ vẫn còn đây..."

Xe đến Tân Cảng, trạm cuối. Bản nhạc cuối cùng cũng vừa vặn chấm dứt ở đó. Mọi người lục tục xuống xe. Họ đi qua chỗ hai thằng, không quên nhét vội vào túi tụi nó những đồng tiền lẻ. Có người lục tìm mãi túi mình rồi bối rối nhét đại vào áo Sáu Mù một ít... thuốc rê! Hai thằng ngồi sượng sùng đón nhận những câu nói "cảm ơn" nho nhỏ và những đồng tiền, những món quà rơi như mưa vào người mình. Riêng Bảy Què thì không dưng mà chợt nhớ đến cái lúc mà y ngượng ngập, cúi đầu nhận vòng hoa chiến thắng, từ tay của em nữ sinh Trưng Vương, vào một buổi sáng (nào đó) đã xa lắc, xa lơ... .
Trong đám hành khách, có hai người không móc tiền mà cũng không móc thuốc. Họ rút từ trong người ra khẩu K.54 dí vào ót của hai thằng. Cái cảm giác thép lạnh làm Sáu Mù điếng người. Hắn ú ớ lên tiếng hỏi :

- Làm cái gì vậy ?

- Về đồn rồi biết...

Bảy Què hốt hoảng :
- Tụi tui làm gì mà bắt chớ ?
- Làm việc cho CIA chống phá cách mạng chứ còn làm gì nữa.
Ðám đông hiếu kỳ còn đang kinh ngạc, tần ngần, nghe đến mấy chữ "CIA" liền bước nhanh xuống xe, vội vàng tản mát ra xa. Tay phải cầm súng, tay trái nắm cổ áo của Sáu Mù và Bảy Què, hai người đàn ông lực lưỡng lôi hai thằng xuống xe như lôi hai con chó!
Chuyến xe buýt cuối cùng Tân Cảng - Sài Gòn đã đỗ trạm từ hồi xẩm tối nhưng anh Hai vẫn neo xe chờ Sáu Mù và Bảy Què cho đến tận khuya. Anh biết chắc hai thằng em mình "thua" rồi nhưng vẫn cứ chờ. Làm sao mà bỏ đi liền cho đặng ?
Ngày xưa khi còn là một hoa tiêu trực thăng anh Hai cũng đã đi đón hụt nhiều chuyến như vậy rồi. Cái cảm giác mất mát lúc mang máy bay về không giữa đêm trường bao la sau khi đón hụt những toán biệt cách không làm cho anh thấy khổ sở và bứt rứt khủng khiếp như bây giờ.

Hút đến điếu thuốc cuối cùng rồi anh Hai leo lên xe lầm lũi đạp ra hướng sông, sông Sài Gòn. Bờ sông vắng , nước đen, gió lạnh. "Sông đưa người rồi cũng mỏi mòn trông!" Anh Hai lẩm nhẩm một câu thơ chợt len vào trí nhớ, và chưa bao giờ thấy mình cô đơn như vậy.

Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm: "Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã mười năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt đâu mà …"•

Tưởng Năng Tiến.
vuphong
Posts: 2753
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Ðại Tá Lương Xuân Việt: ‘Cấp bậc mình là máu xương đồng đội’

Bài và ảnh: Huy Phương/Người Việt

Sau khi bàn giao chức vụ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn Dù lại cho người chỉ huy mới, Ðại Tá Lương Xuân Việt đang chuẩn bị để theo học một khóa chính trị và ngoại giao cao cấp trong một năm, và sau đó, ông có thể được điều động về phục vụ tại Ngũ Giác Ðài.

Theo lời mời của ban tổ chức Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” kỳ 5, sáng Chủ Nhật 7 tháng 8 năm 2011, Ðại Tá Lương Xuân Việt đã đến tham dự lễ khai mạc của đại nhạc hội gây quỹ này, và đã dành cho chúng tôi một cuộc tiếp xúc thân mật.

Image
Ðại Tá Lương Xuân Việt.(Hình:Huy Phương/Người Việt)

Ngỏ lời với tất cả đồng bào có mặt trong ngày hôm nay, Ðại Tá Lương Xuân Việt nói rằng khi đến đây, mắt ông đã rơi lệ vì thấy anh em quân đội VNCH đang đứng trước sân khấu và “nhất là khi tôi nhìn những người mũ xanh vì lý do là thân phụ tôi ngày xưa cũng là Thủy Quân Lục Chiến nên tôi nghĩ đến ông, và những anh em mũ đỏ cũng rất gần gũi với tôi là vì cùng chung một binh chủng”. Ông cho rằng ông rất hãnh diện đứng trên sân khấu giờ này và chúc cho đại nhạc hội thành công tốt đẹp, đặc điểm của buổi đại nhạc hội hôm nay là tình cảm của đồng bào Việt Nam đã dành cho anh em thương binh, và những người trong cộng đồng đã đóng góp nhiều công sức cho buổi ÐNH hôm nay. Mặt khác, khi đã mặc bộ quân phục, đã xông pha chiến trường mới biết tình thiêng liêng của huynh đệ làm sao, và chúng ta không bao giờ bỏ lại đồng minh, bỏ lại anh em trên chiến trường dù thời gian đã 35 năm trôi qua.

Trong câu chuyện riêng với chúng tôi, Ðại Tá Lương Xuân Việt nói thêm rằng ông luôn luôn xúc động khi thấy những bộ quân phục ngày xưa, và hân hạnh được gặp gỡ những người này, vì thật sự họ là những anh hùng, đã ở trong quân đội nhiều năm như thân phụ và người cậu ruột của ông, và vì sống trong một gia đình quân nhân, ông mới hiểu thấu những nỗi hy sinh, cách biệt của những người lính đã hy sinh cho tổ quốc là to lớn chừng nào. Tuy bận rộn với quân vụ trong nhiều năm nay, Ðại Tá Lương Xuân Việt cũng đã theo dõi những sinh hoạt của cộng đồng người Việt tỵ nạn và tình hình của đất nước qua thư từ và e mail của bà con thân thích gửi cho. Lý do Ðại Tá Lương Xuân Việt chọn binh nghiệp chính là vì sự ảnh hưởng lớn lao của thân phụ ông là Thiếu Tá TQLC- VNCH Lương Xuân Ðương, và là một thanh niên lớn lên và được giáo dục trên đất Mỹ, ông muốn đóng góp cho đất nước này và nhất là để bảo vệ cho nền tự do của thế giới. Ông là con trai duy nhất trong gia đình có 7 chị em gái, họ đều thành công trên đất Mỹ. Ông còn thân mẫu năm nay 77 tuổi sinh sống tại Los Angeles, và thân phụ ông đã qua đời năm 1997 tại California.

Khi qua Mỹ, Ðại Tá Lương Xuân Việt chưa đầy 10 tuổi và gia đình ông đã chọn thành phố Mountain View, California để sinh sống. Sau khi tốt nghiệp USC, ông tình nguyện vào quân đội, mang cấp bậc Thiếu Úy Bộ Binh 1987 và được chọn vào danh sách sĩ quan hiện dịch. Ðồn trú Colorado, ông lần lượt giữ chúc vụ trung đội trưởng rồi đại đội phó Bộ Binh. Ông có khả năng chỉ huy và được đề bạt sang SÐ 101 Nhảy Dù, lần lượt giữ các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng rồi lữ đoàn trưởng.

Nói về sự thành công của cộng đồng người Việt tại Mỹ, Ðại Tá Lương Xuân Việt nói rằng ông rất xúc động mỗi lần nghe tin về một điều gì đó làm vẻ vang cho người Việt, dù là câu chuyện một em bé được một giải thưởng xuất sắc tại một trường trung học.



Cơ hội trở thành tướng lãnh gốc Việt đầu tiên?



Ðáp lại câu hỏi của chúng tôi về cơ hội ông là một sĩ quan xuất sắc của Sư Ðoàn Dù Hoa Kỳ có thể trở thành một tướng lãnh trong tương lai gần đây, Ðại Tá Lương Xuân Việt khiêm nhường nói rằng, dù trong binh nghiệp, ông đã lên tới cấp bậc cao nhất của một người Việt trong quân đội Mỹ, nên ông có nhiều trách nhiệm và cố gắng để làm vẻ vang cho dân tộc để cho mọi người biết sự đóng góp của người Việt mình cho dân tộc này. Cấp bậc ông đang mang này là máu xương, nước mắt của anh em đồng đội mà ông không bao giờ dám nhận vinh dự này là của riêng mình. Việc lên hàng tướng lãnh là điều có thể xẩy ra, nhưng ông không bao giờ nghĩ tới, vì những chiến công mà chúng ta đoạt được ở chiến trường cũng vì anh em thôi. Ðại Tá Lương Xuân Việt đã nhiều lần nói với bạn bè, dù ông xuống bao nhiêu cấp bậc cũng không đáng kể, nếu như lấy lại được mấy mạng sống của anh em đồng đội đã hy sinh trên chiến trường Iraq, Afghanistan.

Ðối với những cựu quân nhân một thời đã là chiến hữu của thân phụ mình, Ðại Tá Lương Xuân Việt nói rằng ông luôn luôn khắc sâu hai chữ ghi ơn, họ đã chiến đấu dũng cảm để cho ông và bạn bè có được ngày hôm nay.

Hiện nay, vì bận quân vụ trong khi theo học ngoại giao và chính trị, ông đã đưa gia đình gồm vợ và ba con về sống với trong cư xá sĩ quan tại thành phố Mountain View, Bắc California.

Ðại Tá Lương Xuân Việt nói tiếng Việt rất lưu loát và dùng chữ rất chính xác, mặc dầu ở Việt Nam ông chưa học hết bậc tiểu học. Ðây là lần đầu tiên, ông đến tham dự một buổi lễ với cộng đồng người Việt và gặp gỡ một số đông đảo đồng bào như trong ngày Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh...” hôm nay. Khi nghe lời phát biểu của Ðại Tá Lương Xuân Việt, chuyển từ tiếng Anh sang tiếng Việt một cách bất ngờ và tự nhiên, khán giả đã vỗ tay nồng nhiệt để tán thưởng ông.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ 5
Người Thương Binh Việt Nam Cộng Hoà



Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ 5 Video 1


Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ 5 Video 2
Last edited by khieulong on Wed Aug 10, 2011 3:34 am, edited 1 time in total.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 5
và những tấm lòng tri ân các Thương Phế Binh VNCH

Băng Huyền/ Viễn Đông -
Ảnh: Nguyễn Văn Liêm - Vincent Thái/Viễn Đông


GARDEN GROVE - 12 giờ trưa Chủ Nhật, ngày 7 tháng 8 năm 2011, dưới cái nóng gay gắt của mùa hè California, khiến nắng không còn dịu dàng nữa, nhưng vẫn không cản ngăn được bước chân của hàng chục ngàn đồng hương, già, trẻ, thanh niên, trung niên. Có nhiều cụ già chân yếu phải ngồi xe lăn, nhiều em nhỏ được ba mẹ ẵm bồng… tất cả đều rạng rỡ nụ cười, cùng nhau đến dự Đại Nhạc Hội (ĐNH) “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” Kỳ 5 được tổ chức tại Sân Vận Động trường Trung Học Bolsa Grande, thành phố Garden Grove, do Hội H.O. Cứu Trợ TPB-QP/VNCH phối hợp với Trung Tâm Asia và Đài Truyền Hình SBTN, đài truyền hình SET, cùng sự yểm trợ giúp sức của Liên Hội Cựu Chiến sĩ VNCH Nam California và Tổng Hội Sinh Viên Nam California cùng nhiều hội đoàn trong cộng đồng và các cơ quan truyền thông...

Image
Hàng chục ngàn khán giả ngồi chật các lều che nắng và tràn ra ngoài khi chương trình Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5
bắt đầu đúng 12 giờ trưa ngày 7-8-2011 tại Garden Grove.
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông

Chương trình được trực tiếp phát hình trên hai hệ thống truyền hình SBTN khắp toàn quốc Hoa Kỳ và Canada, cũng như đài địa phương SET 57.4.


Dẫu ĐNH lần này đã được diễn ra đều đặn suốt 5 năm qua, vẫn đến rồi đi như vầng dương sáng mọc chiều tàn, nhưng qua mỗi con tim của những người tham dự, mỗi kỳ ĐNH dường như vẫn luôn luôn mang vóc hình riêng khác lạ, cảm xúc tươi mới như phút ban đầu.


Hiện diện trong Đại Nhạc Hội có rất nhiều vị cựu tướng lãnh VNCH, hàng trăm cựu quân nhân VNCH thuộc các binh chủng, các quân nhân hiện dịch của Quân Lực Hoa Kỳ, các vị dân cử, đại diện các tôn giáo và nhiều đồng hương về từ San José, San Diego, Pomona, Los Angeles, Michigan... các đồng hương Việt Nam đến từ Úc Châu, Canada, Na Uy, Việt Nam, Đài Loan… Đặc biệt có sự hiện diện của nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, và sự xuất hiện lần đầu tiên của Đại Tá Lương Xuân Việt (nguyên Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 thuộc Sư Đoàn 101 Nhảy Dù Hoa Kỳ, từng đóng quân tại Afghanistan) - một hậu duệ của một cựu quân nhân VNCH.

Image
Lễ chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ lúc 12 giờ trưa khai mạc Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5 ngày 7-8-2011 tại Garden Grove.
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông

Lễ rước Quốc, Quân kỳ VNCH đã được cử hành trọng thể bởi các cựu quân nhân VNCH với sắc phục của Hải, Lục, Không Quân, sau đó là lễ chào quốc kỳ VNCH, Hoa Kỳ và lễ truy điệu chiến sĩ với tiếng kèn đồng vang lên trong không khí linh thiêng và xúc động.


Đoàn mô tô VHOG do luật sư Đỗ Phủ dẫn đầu, đã gửi lời chào mọi người trong tiếng nổ rền vang của khoảng 30 chiếc xe, họ cùng nhau tiến vào phía sân trước sân khấu, trong tiếng vỗ tay của mọi người tham dự.


Mở rộng trái tim và vòng tay ấm áp để yêu thương và chia sẻ với các TPB, quả phụ, cô nhi VNCH nơi quê nhà:

“Món nợ ân tình sao trả nổi
Xót xa nghĩ đến cuộc đời anh
Món nợ tổ quốc chưa trả hết
Niềm đau phế tật vẫn còn đây
Ta nợ người chiến binh bất hạnh
Nợ kẻ phế nhân lê lết đầu đường
Nợ những ân tình bao năm chiến đấu
Nợ nỗi nhục nhằn giày xéo quê hương”

Đây là những câu thơ trang trọng trên biểu ngữ được ban tổ chức trang hoàng ngay từ cổng vào tại nơi diễn ra ĐNH.


Bởi vì đối với các nhân viên trong ban tổ chức, của Hội H.O. Cứu Trợ TPB-QP/VNCH, các thiện nguyện viên, các ca nghệ sĩ và các đồng hương tham dự ĐNH, những đóng góp của mỗi người chính là những tấm lòng hướng về các anh TPB, những quả phụ cô nhi VNCH, tri ân những chiến sĩ VNCH đã từng là chiến binh một thời xông pha chiến trận, hiến dâng cho tổ quốc tuổi xuân và một phần thân thể, để rồi hình hài không còn vẹn nguyên. Và sau biến cố 1975, lại thường xuyên mang nhiều chứng bệnh do lao lực quá sức vì miếng cơm manh áo, và cả tâm bệnh của những người lính thua trận vẫn đang sống trên quê hương, nhưng lại bị nhà cầm quyền mới rẻ rúng, lánh xa…

Image
Cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn phát biểu khai mạc Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5 ngày 7-8-2011 tại Garden Grove.
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông

Mở đầu chương trình, cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, chủ tịch Hội H.O. Cứu Trợ TPB-QP/VNCH, nay đã 85 tuổi hạc, nhưng tấm lòng và nhiệt huyết vẫn bền chặt vì các TPB- QP, những mảnh đời khốn khổ, còn kéo lê cuộc sống tại Việt Nam. Bà đã lên sân khấu đọc diễn văn khai mạc, sau vài lời cám ơn những ân tình của đồng hương, các ân nhân, các niên trưởng, thân hữu, các thiện nguyện viên, các nghệ sĩ… đã góp hàng ngàn bàn tay vào từ việc lớn, việc nhỏ, mới thành hình được quang cảnh ĐNH. Bà nói: “Trong một năm qua, hội chúng tôi đã miệt mài lo gửi những số tiền gây quỹ ĐNH ‘Cám Ơn Anh” kỳ 4 do quý vị đóng góp, đã giúp hơn 6.000 gia đình TPB & QP/VNCH. Theo những thư cám ơn của anh em gửi qua, những món quà chúng ta gửi về đem lại nỗi vui mừng, niềm hạnh phúc, những bữa cơm no, những tấm áo quần lành lặn, những viên thuốc, những số vốn nhỏ để anh em đắp đổi qua ngày. Thật ra đó chỉ là những món quà thân thương gửi về tri ân và an ủi tạm thời mà thôi.


“Đời sống của các anh em sao mà quá khổ: tàn tật, đói lạnh, bệnh hoạn, thiếu thốn, nhiều con cháu phải lao động nặng nhọc từ thưở bé thơ, những bà vợ buôn thúng bán bưng nuôi chồng, nuôi con bao nhiêu năm cơ cực. Đến nay, vợ chồng đều đã già yếu, kiệt sức. Một số anh em được giúp năm trước, năm nay gửi giúp lại thì đã qua đời. Vì vậy, việc lo cho anh em cuối đời ngày càng cấp thiết…”.


Cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn nói thêm: “Những kỳ ĐNH ‘Cám Ơn Anh’ là dịp để chúng ta họp mặt, cũng như hàng trăm ngàn đồng hương đang theo dõi trên đài SBTN trực tiếp truyền hình khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và Canada, chúng ta đang cùng nhìn chung về một hướng. Hãy tưởng tượng nét hân hoan rạng rỡ của hàng ngàn anh em TPB & QP cùng gia đình vợ con khi nhận được tiền giúp đỡ, chúng ta đã tạo được cho các anh em những nụ cười tươi, một niềm hy vọng để vui sống…”.


Sau bài phát biểu của bà Hạnh Nhơn, trưởng ban tổ chức - cựu Thiếu Tá Phan Tấn Ngưu, Liên Hội Trưởng Liên Hội Chiến Sĩ VNCH Nam California, lên sân khấu chia sẻ những nỗi niềm của người chiến sĩ QLVNCH, trong bài phát biểu, có đoạn: “Hậu quả cuộc chiến bao giờ cũng là những nỗi đau thương, mất mát. Nhưng cuộc chiến tranh ý thức hệ mà Việt Nam đã trải qua giữa lằn ranh Quốc Cộng và sau 36 năm đặt ách thống trị lên dân tộc, bọn cộng sản không còn lý do để biện minh cho sự thống khổ của người dân hiện nay. Họ đã hành xử như những kẻ cướp, chỉ biết cưỡng đoạt và hưởng thụ trên sự đau khổ của người khác, bất kể lương tâm và đạo lý làm người. Trong một xã hội như vậy, mà hiện còn có biết bao Thương Binh VNCH đang phải sống lây lất, ngày qua ngày. Càng nghĩ tới, chúng ta càng thương xót cho họ, cho những người anh hùng mà chưa một lần được tổ quốc vinh danh”.


Chương trình văn nghệ đã khai mạc với nhạc phẩm “Xuất Quân” do các chị, các anh trong Liên Hội Chiến Sĩ VNCH Nam California trình bày.


Ban tù ca Xuân Điềm, trong nhạc cảnh “Anh Vẫn Sống” để nhớ ơn những người thương phế binh VNCH, ngợi ca niềm cảm phục những chiến sĩ oai hùng, những chiến sĩ vô danh năm xưa.


Đại Nhạc Hội kỳ 5 có mặt khoảng 100 ca nhạc sĩ như: Anh Dũng, Diễm Liên, Băng Châu. Cardin, Châu Tuấn, Chí Tâm, Đan Nguyên, Đan Vy, Diệp Thanh Thanh, Giang Tử, Hà Thanh Xuân, Hồ Lệ Thu, Hồ Ngọc Như, Hồng Đào, Huỳnh Gia Tuấn, Lâm Nhật Tiến, Lâm Thúy Vân, Mai Lệ Huyền, Mai Ngọc Khánh, Mai Thanh Sơn, Minh Thông, Mỹ Huyền, Ngọc Minh, Phi Khanh, Nini, Phương Hồng Ngọc, Phương Hồng Quế, Phượng Liên, Phương Vũ, Quang Minh, Quỳnh Hương, Shayla, Sỹ Đan, Tâm Đoan, Thanh Thúy, Thanh Lan, Thiên Kim, Tiến Dũng, Trung Chỉnh, Tuấn Vũ, Tường Khuê, Tường Nguyên, Túy Hồng, Ý Lan.
Với 5 ban nhạc luân phiên phục vụ chương trình như Y2K, The Soldier, Moon Flower, The Asian Band và Tù Ca Xuân Điềm.


Phần dẫn chương trình do 12 MC từ các đài truyền hình, radio, các trung tâm ca nhạc như: Nam Lộc, Giáng Ngọc, Diệu Quyên, Bảo Châu, Đỗ Tân Khoa, Việt Dzũng, Ngọc Đan Thanh, Lâm Quỳnh, Minh Phượng, Dương Nguyệt Ánh, Kim Nhung, Quế Trang, Thanh Toàn... lần lượt xướng danh những đóng góp của các cá nhân, cơ sở thương mại...


Đến tham dự chương trình, nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh đã có một bài phát biểu thật cảm động. Sau vài lời tâm tình về ngày ĐNH, nữ khoa học gia đã đọc lại vài nhận định về QLVNCH của một số nhân vật tiếng tăm Hoa Kỳ do Nguyễn K. Phong sưu tầm từ nhiều tài liệu khác nhau, đó là những ngợi khen, ngưỡng mộ về QLVNCH, về khả năng tác chiến của các tướng lãnh, quân nhân VNCH, về sự hy sinh bền bĩ, về những mất mát, hy sinh…


Để kết thúc bài phát biểu, nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh nói: “Người ta có thể quên thù oán cá nhân nhưng không quên thù nước, và lại càng không bao giờ quên ơn, dù là ơn cá nhân huống chi là ơn những anh hùng giữ nước. Ngay cả những người trẻ trong nước, sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, mà mới đây trong các cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng, cũng đã lên tiếng vinh danh và tri ân liệt sĩ Hoàng Sa, tức các chiến sĩ Hải Quân VNCH đã hy sinh để bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.


“Thật vậy, hôm nay chúng ta đến đây không phải để cùng nhau làm việc thiện, mà để vinh danh chiến sĩ của chúng ta và đóng góp một phần nhỏ vào việc trả ơn cho họ, những anh hùng của tập thể Quân, Dân, Cán, Chính VNCH mà sức chiến đấu đã được sử gia Lewis Sorley gọi là: ‘the stubborn, even heroic, South Vietnamese defense’, nghĩa là sự chiến đấu kiên cường và oai hùng của quân dân VNCH”.

Image
Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5 đã diễn ra từ 12 giờ trưa đến hơn 7 giờ tối ngày 7-8-2011 tại Garden Grove.
Trong một hoạt cảnh, thế hệ thanh niên tiếp bước cha anh.
ảnh: Vincent Thái/Viễn Đông

Bên cạnh niềm xúc động lan tỏa đến với mọi người tham dự từ bài phát biểu của nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, bài nói chuyện lưu loát bằng 2 ngôn ngữ Anh, Việt của Đại Tá Lương Xuân Việt đã dường như lấy trọn tình cảm của những ai hiện diện tại ĐNH hoặc theo dõi qua màn ảnh truyền hình, với hàng ngàn tiếng vỗ tay tán thưởng dành tặng người đại tá còn trẻ, nhưng sớm có nhiều chiến công hiển hách này.
Image
Đại Tá Quân Lực Hoa Kỳ Lương Xuân Việt, vị khách mời danh dự, nhận tấm khăn len đan màu cờ Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ
từ ban tổ chức Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5 ngày 7-8-2011 tại Garden Grove. Bên trái là khoa học gia Dương Nguyệt Ánh,
cũng là một vị khách danh dự tình nguyện làm MC cho chương trình.
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông
Đại Tá Lương Xuân Việt nói:

“Kính thưa quý vị, lần này là hơn 20 năm tham gia trong Quân Lực Hoa Kỳ, lần đầu tiên tôi mới trở về đóng góp với cộng đồng, thì tôi cũng hy vọng sự hiện diện của tôi là sự đóng góp nhỏ nhoi cho buổi Đại Nhạc Hội hôm nay. Khi tôi đến đây, thực sự mắt tôi phải rơi lệ, vì tôi nhìn thấy các anh em cựu quân nhân QLVNCH đứng bên góc trái của sân khấu và nhất là khi tôi nhìn những người mũ xanh hay những người mũ đỏ. Có hai lý do, thân phụ tôi khi xưa là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, nên tôi nghĩ đến thân phụ của tôi (đã qua đời mấy năm trước), còn những anh mũ đỏ thì lúc nào cũng gần gũi với tôi, vì cùng binh chủng.

“Tôi nghĩ mặc quân phục hay binh phục, mà đã ra chiến trường, thì mới biết cái tình thiêng liêng của huynh đệ làm sao, lời thề là không bao giờ bỏ lại đồng mình, bỏ lại anh em đồng đội trên chiến trường và 35 năm sau khi bị mất nước, tôi rất hãnh diện đứng trên đây để nói chúc ban tổ chức thành công rực rỡ”.

Không chỉ đến tham dự, Đại Tá Lương Xuân Việt còn đóng góp cho ĐNH 500 Mỹ kim, và đã nhận được lời cảm ơn của ban tổ chức, cùng tấm khăng len choàng cổ có hình cờ VNCH và Hoa Kỳ.

Trong một phút ngắn ngủi, Đại Tá Lương Xuân Việt đã chia sẻ với phóng viên Viễn Đông: “Dù nghĩ về các TPB trong Quân Lực VNCH hay với đồng đội của mình trong quân đội Hoa Kỳ khi bị thương tích, hy sinh, tôi luôn luôn đau xót. Những người đã chiến đấu cho tự do và bảo vệ cho chúng tôi có ngày hôm nay, là những người rất đáng quý, nhất là những thương phế binh VNCH còn kẹt lại Việt Nam và sống trong những tình cảnh rất khó khăn. Tôi nghĩ có cơ hội giúp được họ thì rất là mừng, và đây là một trọng trách rất thiêng liêng”.

Image
Hai thế hệ, một quyết tâm.
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông

Trò chuyện với phóng viên, nhạc sĩ Nam Lộc nói: “Từ khi tôi còn trẻ, tôi đã tổ chức những chương trình ĐNH nhạc trẻ ngoài trời, với 15 hay 20 ngàn người khi còn ở Việt Nam. Mỗi năm gây quỹ Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ cho gia đình tử sĩ quân nhân Quân Lực VNCH, cho nên tôi nhìn thấy hình ảnh khi mình còn trẻ, khi mình lớn lên như vậy, cảm thấy những chặng đường tuy nó dài, nhưng mình may mắn là đã được tham dự những chương trình ý nghĩa, làm cho cuộc đời của mình nó đáng sống hơn”.

Ông nói thêm: “Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, Đại Tá Lương Xuân Việt là những viên chức cao cấp trong chính quyền Hoa Kỳ, sự tham dự của họ ngày hôm nay rất tế nhị, bởi vì chúng ta là một quốc gia đã là quá khứ, và hiện nay Hoa Kỳ đã bang giao với cộng sản Việt Nam, họ lại là những viên chức liên bang. Họ vẫn hãnh diện cội nguồn của họ, cho nên nếu chúng tôi làm không đúng, thì chúng tôi sẽ không được giới trẻ ủng hộ, mà sẽ bị tẩy chay.

Cho nên, tôi rất hãnh diện, những giấc mơ của mình mong muốn đã trở thành sự thật”.

Ký giả Kiều Mỹ Duyên nói: “Vì trước đây là phóng viên chiến trường, đi với nhiều quân binh chủng khác nhau, nhiệm vụ với TPB VNCH là bổn phận phải trả nợ những người đã hy sinh mạng của họ cho mình sống. Tối hôm qua tôi ra đây, nhìn thấy 200 thiện nguyện viên ra làm việc, mồ hôi nhễ nhại, đê có lều bạt và xếp ghế cho đồng bào ngồi, là công lao anh em liên hội cựu chiến sĩ, thiện nguyện viên, cực khổ lắm, tôi rất ngưỡng mộ các anh em”.

Ca sĩ Công Thành và phu nhân ca sĩ Lynn (gốc ÚC) cho biết: “Năm nào chúng tôi cũng có hân hạnh được hát cho chương trình ĐNH Cám Ơn Anh, đây là vinh dự rất lớn lao. Đến đây, không khí lúc nào cũng nóng bỏng. Mong chỉ mỗi vị chỉ cần đóng góp 1 dollar thôi, thì sẽ có hơn 1 triệu để gửi về cho TPB tại VN.

“Một ngày có ý nghĩa và tinh thần mà tôi thấy đồng hương chúng ta dành cho TPB rất mạnh”.

Lyn cho biết: “Lúc nào tôi hát cho người Việt Nam, tôi cũng rất thoải mái, tôi tự xem mình là người Việt Nam rồi”.

* Và những tấm lòng của khán giả

Bà Lê Thị Hoa (ngoài 80) ngồi trên xe lăn, đến dự ĐNH, nói: “Tôi là vợ lính VNCH, cựu quân nhân Huỳnh Thành Cơ, trung úy ngành quân vận, ông đã mất 10 năm nay, trong gia đình có người thân tham gia quân đội, nên tôi rất thông cảm những số phận thiệt thòi của các thương phế binh tại quê nhà”.

Huỳnh Sandy: “Tôi có ba là cựu quân nhân VNCH, nên luôn luôn ủng hộ cho ĐNH. Dù kinh tế hiện nay khó khăn, nhưng tôi nghĩ khi mình dư dả thì sẽ giúp theo dư dả, còn khó khăn thì sẽ giúp theo khó khăn, vì tôi luôn mong muốn năm nào cũng đóng góp cho các anh”.

Image
Khán giả che nắng với những cây dù “Dân Chủ - Nhân Quyền” cho Việt Nam tại Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5 ngày 7-8-2011 ở Garden Grove .
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông

Ông Đinh Trọng Liêm, nguyên là đại úy công binh chiến đấu tại Huế, đến từ Los Angeles: “Tôi chưa hề bỏ lỡ đại nhạc hội nào từ 1 đến 5. Tôi có rất nhiều người bạn thân bị thương tích vĩnh viễn, vẫn còn kẹt ở quê nhà, mỗi lần dự ĐNH như thế này là để tôi được nhớ lại bạn bè, người còn, kẻ mất, vì tôi may mắn hơn, đã qua được bến bờ tự do, và mình còn để lại bên bờ đại dương bên kia những người bạn, kẻ thì ở tù, kẻ thì tàn tật. Nhờ có ĐNH, để mình có cơ hội góp một số tiền để giúp cho người ta, đó là điều rất hạnh phúc, hân hạnh cho những người đến định cư tại đây”.

Bà Kim Anh: “Tôi mới đến Mỹ định cư, và đây là lần đầu tiên tham dự chương trình này. Khi còn ở Việt Nam, tôi không biết về chương trình này, qua đây, tham dự từ nãy giờ, tôi xúc động lắm, vì đồng hương đi xa tổ quốc, mà vẫn không quên hướng về Việt Nam gửi về tình thương cho các TPBVNCH, có lòng hướng về Việt Nam, thương các anh chiến sĩ TPB.

“Khi còn ở Việt Nam, tôi thường bắt gặp các anh TPB cụt chân tay, phải lặn lội đi bán vé số, vất vả lắm, rất tội nghiệp tôi cũng thường mua giúp cho các anh”.

Trong khi chương trình ca nhạc được trình diễn trên sân khấu hơn 7 tiếng đồng hồ, đồng hương khắp nơi trên nước Mỹ, Canada xem trực tiếp truyền hình trên đài SBTN đã liên tục gọi về qua số điện thoại miễn phí để đóng góp tiền cho buổi gây quỹ.

Image
Người tham dự đóng góp cho Thương Phế Binh, Cô Nhi, Quả Phụ VNCH trong Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5 ngày 7-8-2011 tại Garden Grove.
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông
Các ca sĩ sau khi trình diễn đã tận tình mang thùng lạc quyên đi xuống từng hàng ghế khán giả để xin tiền, do đó con số tiền giúp cho thương binh mỗi giờ mỗi lên cao qua sự tường trình của các MC.
Image
Nhiều em bé cũng xin tiền bố mẹ đóng góp cho Thương Phế Binh, Cô Nhi, Quả Phụ VNCH trong Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH kỳ 5 ngày 7-8-2011 tại Garden Grove .
ảnh: Nguyễn Văn Liêm/Viễn Đông

Trên sân khấu, những lời hát ngọt ngào, da diết của các ca sĩ với cả tấm lòng và ý nguyện mong ước góp vào công việc gây quỹ giúp các Thương Phế Binh VNCH được nhiều thêm những niềm vui lấp lánh, bởi đằng sau những đồng tiền đóng góp là biết bao giọt mồ hôi, công sức nhọc nhằn của tuôn đổ trong lao động làm việc dành biếu tặng vô điều kiện cho các TPB, chứa đựng sâu xa tình nghĩa mến thương của mọi người.

Trong trái tim của người dân Việt tại Nam California và người Việt tị nạn theo dõi qua màn ảnh truyền hình, vào mỗi tháng Tám hằng năm đến, cảm giác lâng lâng thật khó tả. ĐNH “Cám Ơn Anh”, những lời phát biểu từ sâu thẳm trái tim, những tiếng hát tuyệt vời từ tấm lòng đẹp, những giọt nước mắt, những cái ôm, và cả những lời tâm tình cất giữ từ lâu chưa có dịp bật ra. Mọi người có một tháng Tám như thế trong đời.
Tháng Tám mùa hướng về các TPB;
Tháng Tám mùa tri ân;
Tháng Tám mùa của những kỷ niệm và tinh thần ĐNH sẽ mãi được tiếp nối và duy trì mãi. - (BH)

Đồng hương tiếp tục đóng góp cho Thương Phế Binh, Cô Nhi, Quả Phụ VNCH - chi phiếu bảo trợ xin đề: ĐNH Cám Ơn Anh kỳ 5.

Xin gởi về địa chỉ:

Đài SBTN, P.O. Box 127 Garden Grove, CA 92842.
hay Hội H.O. Cứu Trợ TPB-QP, P.O. Box 25554 Santa Ana, CA 92799


Source: Nhật Báo Viễn Đông
bobinh
Posts: 221
Joined: Fri Feb 26, 2010 1:35 am
Contact:

Post by bobinh »


Image

Cái chết của Cố Thiếu Tá Biệt Động Quân
TRẦN ĐÌNH TỰ
Trong quân sử của cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài từ 1954-1975, có khá nhiều những chiến công hiển hách của những đơn vị QLVNCH hay của từng cá nhân, người lính VNCH từ cấp Chỉ huy đến hàng binh sĩ. Hai mươi mốt năm, cuộc chiến đấu của người Miền Nam chống trả và ngăn chặn từng đợt xâm lăng từ miền Bắc Việt Nam , người anh em cùng chung huyết thống, cùng mang dòng máu Lạc Hồng, nhưng đã đánh mất tình người. – U mê với chủ thuyết không tưởng Cộng Sản, bằng vỏ khoác “thế giới Đại Đồng”, thực ra là sự tàn bạo, dã man và đê tiện mới chính là điều căn bản của bọn người man rợ đó. Và, đau đớn biết bao, từ thế hệ này đến thế hệ khác thanh niên Miền Nam cùng nhau gia nhập quân ngũ, dắt dìu nhau đi vào nơi lửa đạn, để truy diệt kẻ xâm lược. Từng gia đình từng cá nhân mặc nhiên chấp nhận mọi thua thiệt, mọi thương đau để đem sức mình đóng góp vào cuộc chiến ngăn chặn ấy. Những mong có một ngày những kẻ gieo rắc tai ương cho dân tộc sẽ nhận ra sự phi lý, nhận ra thân phận mình đang dùng súng đạn để tương tàn, nhận chìm tổ quốc, dân tộc vào vũng lầy của máu, của thịt da chính mình và lúc đó họ cũng sẽ nhận ra được chính cuộc chiến tranh đã hủy hoại tàn nhẫn quê hương, chung quy cũng chỉ là ước muốn áp đặt một chủ nghĩa chính trị không giống ai và chính cuộc chiến chỉ là phục vụ cho thế lực và mưu đồ của ngoại nhân. Và, lúc đó họ sẽ từ bỏ giấc mộng điên cuồng, hoặc cả hai bên cùng gác súng, trở về với chính mình, cùng chung lo gây dựng lại những đổ nát, hoang tàn, chữa trị những vết thương đang hoá dòi trên thân thể Mẹ Già Việt Nam .

Thật phũ phàng và cay đắng, tất cả đã trở thành ác mộng, đã thắt cổ chết treo cho mọi mơ ước, mọi cầu mong của dân Việt. Cuộc chiến cũng chấm dứt. Tiếng súng đã thôi không còn vang vọng bên tai mọi người, nhưng chính ngay sau lúc tiếng súng vừa im lặng trên lãnh thổ, thì cũng là lúc bạo tàn, tủi nhục và nước mắt được đong đầy, ngập khắp lãnh thổ Miền Nam, đâu đâu cũng chỉ còn là tiếng than tiếng khóc, nỗi thống khổ nặng như đá tảng đè trên thân xác mỗi người, lù lù trong mỗi gia đình như một tiền oan nghiệp chướng. Những người lính VNCH phải buông súng trong tức tưởi, nghẹn uất, có người còn ngơ ngác tự hỏi: Lẽ nào ta lại quy hàng? Trong tất cả những bài học quân sự, tất cả mọi binh thư, binh thuyết và những huấn lệnh của thượng cấp, người lính chưa hề được nghe một lời nào nhắc đến sự quy hàng – Thế mà bây giờ họ laị được lệnh gác súng – người lính không ngẩn ngơ, đau uất sao được.- Tôi muốn dùng chữ LÍNH ở đây để chỉ chung cho QLVNCH, không dành cho riêng một thứ cấp nào của quân đội chúng ta. Trong sự ngỡ ngàng, sự uất nghẹn ấy, đã có rất nhiều quân nhân VNCH tuẫn tiết, chẳng riêng năm vị tướng, thậm chí cả những người lính cũng chọn cái chết để tạ lỗi với quê hương, với dân tộc vì họ cảm nhận mình đã không tròn trách nhiệm, không tròn bổn phận của người bảo vệ tự do và độc lập, như trường hợp của một Hạ Sĩ Biệt Động Quân nhất định không cởi bỏ binh phục, đã cho nổ trái lựu đạn, để thân xác mình tan nát, trước sự bàng hoàng, kinh hãi và kính phục của hai người đồng đội và dân chúng trước cửa tiệm phở gà đường Trương Tấn Bửu; hay câu chuyện đầy nước mắt và bi hùng của năm người lính Nhảy Dù, sau khi nhận được lệnh buông súng, họ đã bàn với nhau, uống những giọt cà-phê cuối đựng trong bi-đông, hút điếu thuốc Quân Tiếp Vụ chót, ai nấy xé bao thuốc lấy cái hình người lính trong tư thế tác chiến, dưới bóng quốc kỳ, bỏ vào túi áo ngực mình. Sau chót, họ – năm người chiến binh Mũ Đỏ- dõng dạc nói với những người dân cư ngụ chung quanh khu Hồ Tắm Cộng Hoà, ngã ba Ông Tạ: “Xin vĩnh biệt bà con, chúc tất cả bà con ở lại mạnh khoẻ và may mắn – xin bà con dang xa chúng thôi để tránh sự nguy hiểm”. Mọi người còn đang ngơ ngác, cứ tưởng anh em Mũ Đỏ nói họ tránh ra để không bị nguy hiểm do đạn giao tranh. Chẳng dè, năm người lính Dù đã ngồi xuống thành vòng tròn, lấy từ ba lô ra lá Quốc Kỳ VNCH, trải trên mặt đất. Cả năm người cùng dang rộng vòng tay, rút chốt trái lựu đạn, bỏ trên mặt lá cờ và cùng nhau gục xuống để cho tiếng nổ đanh gọn, kết thúc cuộc sống của họ – Thịt da tan nát cùng lá cờ. Nơi họ tự ải chỉ cách nhà mẹ tôi khoảng chừng 150 mét. Người dân đã khóc thưong họ, nhưng chỉ dám khóc thầm, lúc nầy kẻ thù đã ngự trị toàn Miền Nam .

Đồng một lúc với sự đầu hàng ép buộc sự buông súng không thuận ý, cũng là lúc kẻ thù – Cộng quân – bắt đầu sự trả thù, khởi sự báo oán trên sinh mệnh người lính VNCH và trên sự an toàn, hạnh phúc của dân chúng Miền Nam. Tội ác của Cộng Sản Việt Nam sổ sách nào ghi cho đủ, kể lại bao lâu cho hết; cũng như gương bất khuất của người lính, nhắc lại cho nhau nghe, giương danh tên tuổi họ cho mai hậu, tưởng chẳng bao giờ thừa dư, mà chúng ta cần phải nêu lại để tự nhắc với lòng mình niềm oán hận, nỗi thù còn hằn còn nguyên một khối kết đặc trong hồn chúng ta, khó lòng xoá nhoà, gột bỏ vì kẻ thù ta còn đấy, vẫn đang hàng ngày phủ chụp bàn tay vô luân của chúng trên quê hương, trên từng ly vuông da thịt người dân. Gưong anh dũng hy sinh, thà chết nhất định không hàng giặc trong những ngày cuối cùng của Miền Nam tự do, diễn ra khắp nơi, trên bốn vùng chiến thuật và trong tất cả mọi quân binh chủng chủ lực quân, lực lượng bán quân sự, thậm chí ngay cả anh Nhân Dân Tự Vệ sinh sống ở Cống Bà Xếp (Hoà Hưng) đã treo cổ chết nơi sau nhà để khỏi bị giặc hành hạ.

Ở đây trong bài viết này, tôi chỉ xin được đơn cử một gương can đảm bất khuất của một quân nhân BĐQ, đồng thời cũng chính anh hứng chịu sự trả thù, và, ngay cả gia đình anh – cha mẹ, vợ con anh cũng không thoát, đã bị hành hạ tinh thần liên tục và đê tiện. Sự trả thù đáng được đem ra gọi là điển hình theo quan niệm của giặc Cộng. Anh là Thiếu Tá Trần Đình Tự, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 38 – Liên Đoàn 32 BĐQ (Liên Đoàn 5 BĐQ trước kia). Trước khi kể lại sự hy sinh của chiến hữu BĐQ TRẦN ĐÌNH TỰ, xin cho phép tôi được ngưọc về dĩ vãng để viết vài điều tôi được biết về anh theo lời thuật của thân mẫu anh.

Trần Đình Tự, sinh năm 1943 ở Hà Nội, thuở nhỏ học Tiểu học Ngô Sĩ Liên (phố Hàm Long), nhà lại ở khá xa, mãi tận phố hàng Than, nhưng anh rất chịu khó lẽo đẽo đi bộ đến trường không cần ai phải đưa đón. Thân phụ Tự là công chức, làm việc trong Toà Thị Chính thành phố. Thân mẫu là giáo viên, bà dạy tại trường Tiểu học ngoại ô Hà Nội, và có lẽ cuộc đời, sinh hoạt hàng ngày của Trần Đình Tự là do sự giáo dục, ảnh hưởng sâu đậm của mẹ mình. Trầm lặng và ngăn nắp là bản tính của Tự. 1954 được 11 tuổi, Tự được cha mẹ đem vào Miền Nam theo cuộc di cư vĩ đại. Tại Sàigòn, tự học Trung học nơi ngôi trường có truyền thống giáo dục tốt đẹp và kỹ lưỡng vì trước đó trường thuộc hệ thống quản trị và chương trình dạy dỗ do Giáo Hội Công Giáo Việt Nam : Trường Hồ Ngọc Cẩn.

Cũng theo thân mẫu anh nói lại, ngay từ lúc mới biết làm toán, Tự đã tỏ ra khá giỏi và mỗi năm mỗi lớp, ở môn toán, Tự là số 1 không ai tranh được. Các môn học khác, Tự rất dốt, đủ đỉểm trung bình là may. Cả ngày chỉ cặm cụi làm toán, ngoài ra các môn khác học để đủ điểm mà thôi. Sau khi tốt nghiệp bậc Trung học, đậu bằng Tú Tài toàn phần ban toán, lẽ ra Tự sẽ tiếp tục ở Đại học nào đó do anh chọn và vì những lý do chưa đến tuổi nhập ngũ, trong gia đình đã có hai người anh đang phục vụ trong những cơ quan trực thuộc quy chế quân đội, dù có đến tuổi, Tự vẫn còn được huởng trường hợp hoãn dịch để trau dồi học vấn. Thế nhưng, Trần Đình Tự đã làm đơn, đem đến Bộ Quốc Phòng để nộp xin tình nguyện được gia nhập quân đội. Anh xin đi học khoá 14 Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức. Điều này đã tạo ra không khí trầm uất, phiền lòng trong gia đình Tự, thời gian hai ba tháng. Cha mẹ Tự mong mỏi ít ra Tự cũng phải đến Đại học vài năm, sau đó sẽ tính nhưng Trần Đình Tự đã làm ngược lại.

Mãn khoá, Trần Đình Tự được bổ sung tài nguyên sĩ quan cho Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng ở miền Tây Nam phần. Sau sáu tháng Tự lại một lần nữa ít nhiều gây ưu phiền cho gia đình. Anh làm đơn xin tình nguyện được phục vụ trong binh chủng BĐQ. Anh được toại nguyện. Ngày tôi về trình diện TĐ 33 BĐQ ở Biên Hoà, Tự đã có mặt tại đơn vị này từ bao giờ, vì tôi nhập ngũ sau Tự ba khoá. Tôi học khoá 17 STQB/TĐ. Thật ra, những ngày đầu về đơn vị, cũng là đầu đời nữa, đơn vị tác chiến của một binh chủng, dường như có nhiều người cảm thấy e ngại khi nhắc đến. Cuộc sống của binh chủng quá nhiều vất vả, hiểm nguy. Tôi cũng thấy rụt rè, lo âu, thái độ luôn luôn băn khoăn tự hỏi mình sẽ phải làm gì ở những ngày sắp tới, chẳng những âm thầm quan sát từng cử chỉ, đi đứng của anh em HSQ, binh sĩ nhất là mọi động tác của các vị sĩ quan, tôi đều ghi nhận để học lóm hầu có thể xài cho mình sau này.

Lần đầu tôi gặp Trần Đình Tự, tôi chào anh theo quân cách, Tự không đáp lại, mặt nghênh nghênh và cổ thì quẹo qua một bên. Tôi tức uất người, nhủ thầm : tên Thiếu Úy này lối, nghênh ngang và cao ngạo. Tôi ghìm trong đầu và luôn luôn quẩn quanh với thành kiến Trần Đình Tự khinh người, dĩ nhiên, tôi cũng cảm thấy không ưa Tự…

Tôi đem chuyện này kể lại với Thiếu Úy Lê Kỳ Ngộ, vị sĩ quan đàn anh và là thầy dạy tôi trong trường SQTB/TĐ, nay cũng phục vụ trong binh chủng BĐQ, anh ở ĐĐ3/33. Tôi than phiền với anh Ngộ về thái độ ngạo mạn của Tự. Anh Ngộ cười ngất : “Đ. ơi, tội nghiệp nó, không phải Tự nó nghênh hay kênh gì đâu, niễng niễng là có tật đấy, có lẽ hồi còn nhỏ nó bị gió máy làm vẹo cổ. Bản tính Tự trầm lặng chứ không phải nó ngạo mạn. Tôi biết rõ tính nết hắn nhiều lắm.” Anh Ngộ còn khuyên tôi: “Ráng hoà nhập với đời sống quân ngũ, lâu rồi sẽ quen. Có thể Tự và Đ. sẽ thân nhau hơn người khác không chừng”.

Thời gian lần lượt qua đi từng tháng, từng năm, chúng tôi sống phục vụ trong cùng đơn vị lần lượt đã đến vị chỉ huy thứ tư. Ông Tiểu đoàn trưởng thứ tư của chúng tôi ở TĐ33/BĐQ là Thiếu Tá Tử Thần. Có nhiều đổi thay trong đơn vị, nhiều sĩ quan đồng đội đã ra đi, người thì sau chuyến hành quân đã không chịu về với anh em, người thì chuyển đến đơn vị mới. Lúc này Tự là ĐĐT/ĐĐ3BĐQ và tôi coi ĐĐ4. Hai đứa chúng tôi đã là bạn thân, đã cùng nhau dong ruổi trên các miền lửa đạn. Và, năm 1971 trong chiến dịch hành quân ngoại biên, QLVNCH mở những cuộc hành quân sang Campuchia truy diệt và tiêu hủy những căn cứ Cộng Sản VN. Tháng 2-1971, trong cuộc hành quân trực thăng vận xuống căn cứ của SĐ7CS, trong lúc giao tranh Tự bị trúng mảnh đạn pháo vào đầu, anh được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà, rời khỏi TĐ33BĐQ từ đó.

Mùa hè 1972, Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt dùng đại quân, đại pháo tấn công cường tập trên khắp các mặt trận, nặng nhất lúc đó là mặt trận Quảng Trị, hàng chục Sư đoàn chính quy vượt sông Bến Hải, vượt biên giới Việt Lào, đồng loạt tấn công thế như cuồng lưu, như biển động. Do đó Bộ TTM/QLVNCH đã điều động LĐ5BĐQ không vận ra tăng cường cho mặt trận QK1. Cũng lại tháng 2-1972, SĐ308 Tổng Trừ Bị CS, xe tăng, đại pháo tấn công điên cuồng LĐ5BĐQ, sự chênh lệch quá đáng về lực lượng đã khiến LĐ5BĐQ phải vừa đánh vừa lui dần về phía sau để chờ sự tăng viện, nhưng đến khu vực cầu Trường Phước, đoạn Quốc Lộ I cũ, LĐ5BĐQ bị lọt ổ phục kích của một Trung đoàn VC tăng cường đơn vị pháo. TĐ38 BĐQ do Thiếu Tá Vũ Đình Khang chỉ huy, Trần Đình Tự – sĩ quan Hành quân (Trưởng ban 3) nhận lệnh của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Ngô Minh Hồng phải đánh cản hậu, bằng mọi cách phải chặn đứng sức tiến cuồng bạo của địch để LĐ rút qua sông (gồm TĐ30, TĐ33 và BCH/LĐ). Tiểu đoàn 38BĐQ đã hoàn thành nhiệm vụ, riêng hai vị Sĩ quan đầu đàn của đơn vị cũng hoàn thành trách nhiệm là ở lại sau cùng để “con cái” qua sông an toàn và cuối cùng chính hai ông thẩm quyền: Vũ Đình Khang, Trần Đình Tự lọt vào tay giặc trở thành tù binh. Lý do lãng xẹt: cả hai không biết bơi, loay hoay cùng mấy người hộ tống đang “nghĩ kế” để vượt con rắn lục thì bị giặc đến cõng qua sông Bến Hải đem về trại tù Lạng Sơn.

1973 – Hiệp định Paris – ngưng bắn da beo, da cọp . Trao đổi tù binh, Trần Đình Tự lại trở về với gia đình Mũ Nâu, gắn bó đời mình với binh chủng BĐQ. Anh được thăng cấp Thiếu Tá và được cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ33BĐQ thay thế vị chỉ huy cũ, được điều động đi chỉ huy một đơn vị khác. Những ngày bão lửa, cuồng lưu của bom đạn đã qua. Hiệp định đình chiến đã ký kết, nhưng vẫn chưa có hoà bình. Giao tranh vẫn liên tục nơi này nơi kia. Liên đoàn 5BĐQ đã cải danh thành LĐ32BĐQ, cũng đã và đang cùng các LĐ/BĐQ khác bảo vệ tỉnh Bình Long. Mặt trận An Lộc, vẫn nặng nề trong âm mưu xâm lược.

Tháng 3-1975, trên toàn lãnh thổ VNCH tự nhiên vỡ ra từng mảng sau khi Ban Mê Thuột thất thủ. Hết nơi này “di tản chiến thuật” lại đến chỗ kia “tái phối trí”. LĐ32BĐQ lại một lần nữa theo lệnh, rời bỏ An Lộc để về tại phối trí, thiết lập tuyến phòng thủ bảo vệ tầm xa cho thủ đô Sàigòn, tuyến bố trí kéo dài một vòng cung từ Khiêm Hanh (Bầu Đồn) Tây Ninh kéo dài qua con Suối Cao-Gò Dầu, tạo thành một cái đê chặn đứng cơn nước lũ Cộng Sãn từ các mật khu Dương Minh Châu, Bời Lời, Bến Cát (Tam Giác Sắt) không cho con lũ này chảy về Sàigòn. Áp lực có nặng nề, cường độ giao tranh ngày càng cao, đạn pháo giã gạo trên đầu mỗi giờ mỗi tăng. Những người lính Mũ Nâu LĐ32BĐQ dưới sự chỉ huy điềm tĩnh và gan lì của Thuận Thiên (Trung Tá Lê Bảo Toàn) vẫn giữ vững phòng tuyến, chưa có khúc ruột nào bị cắt đứt hay chọc thủng và dĩ nhiên TĐ38 cùng các đơn vị bạn TĐ30, TĐ33, Đại Đội Trinh Sát 5BĐQ (do Cường Dương Tướng Quân Đỗ Minh Hưng chỉ huy – không hiểu tôi nhớ có chính xác không, nếu sai xin tha thứ). Hàng ngày, vẫn chia nhau “luộc” những con cua đồng, bộ binh chúng lần mò vào hàng rào phòng thủ thì năm yên tại đấy, không trở ra được nữa vì đã ăn no kẹo đồng.

Thế nhưng vận nước đã đến lúc phải chịu đau thương, thân phận người lính VNCH có chiến đấu dũng mãnh như sư tử đến lúc bị bức bách phải quy hàng, cũng đành phải nhẫn nhục buông súng. 11 giờ ngày 30 tháng 4. 1975 tại Trung Tâm Hành Quân của Liên Đoàn, Thuận Thiên nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn :”Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực”. Trung Tá Lê Bảo Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ – 19 năm dong ruổi vào ra vùng đạn bom, 5 lần bị thương lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng như ai đang đóng ngập cái đinh 10 phân vào đầu, có lẽ lấy kéo cắt ruột cũng chỉ đau đến thế.

Ông lịm đi, người sĩ quan Hành quân phải gọi khẽ :”Trung Tá!” . Ông gượng đau để lấy lại bản lãnh. Sau cú “sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đã điềm tỉnh trở lại. Ông cầm máy gọi lần lượt từng Trưởng : TĐ30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoản, TĐ33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường, TĐ38 Thiếu Tá Trần Đình Tự. Cả ba đã đáp nhận . Trung Tá Toàn chậm rãi, ông cố giữ cho tiếng nói của mình, với âm lượng đều đặn như mọi ngày:

- Các anh vặn nhỏ máy, tôi thông báo lệnh quan trọng.- Im lặng một giây, ông nói tiếp- Các anh ra lệnh cho “con cái” buông súng – Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi. Sẽ có đại diện của “phe họ” đến để bàn giao. Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn. Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, binh sĩ. Chúng ta đã bấy lâu công tác, sống chết với nhau. Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đã chấm dứt, tôi không còn trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn, lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh bình tĩnh và chúc tất cả may mắn.

Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá LĐT, anh quay qua Đại Úy Xườong – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ


- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh: anh nói lại cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho. Tôi không khi nào để chịu lọt vào tay tụi nó lần nữa.

Tiếp đó, anh cho tập trung BCH, Trung đội Thám Báo nói với họ là đã có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, còn ai muốn ở lại chiến đấu với anh đến giờ chót thì đứng riêng một bên. Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đình Tự đưa tay chào Đại Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai mì để tiếp tục “ăn thua” với địch. Kết cục, cuộc chiến đấu cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt tất cả những người còn sống (9 người ) giải về sân trường Tiểu Học gần đấy.

Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thoá mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo). Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên: “đến lúc này mà mày còn bướng hả, lũ uống máu, bọn tay sai, những thằng ác ôn. Mày có làm theo lệnh của ông không thì bảo. Nhân danh cách mạng ông ra lệnh cho mày cởi áo quần ngụy và nằm xuống. Chúng mày đã đầu hàng, nghe rõ chưa!”

Tự cười đểu :
- Ai đầu hàng, nhưng tao thì không. Mày nghe đây. Chúng mày mới là lũ ác ôn, chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má. Bọn mày là những tên tội đồ của dân tộc VN, hiểu không? Một lũ đê tiện!

Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát mặt Tự, giơ tay giật mạnh, bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông. Nó đâm thật mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả cơn, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự. Anh hét tiếng bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống , oằn mình giật từng cơn trong vũng máu.

Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nhìn Tự rồi nói gọn: “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”

Tám quân nhân còn lại, bị dẫn ra phía sau trường để được bắn xối xả mấy loạt AK47. Xác họ bị quăng xuống các đìa gần đó. Bọn VC dẫn nhau bỏ đi.

Thiếu Tá Trần Đình Tự, bị giặc Cộng mổ bụng chết được hơn một tuần, gia đình ở Sàigòn nhận được tin. Vợ anh tìm đến nơi anh bị hành hình để xin xác chồng. Đau đớn cho chị, xác chồng đã chẳng thấy, lại còn bị những tên VC tại địa phương lớn tiếng sỉ nhục vong linh chồng mình. Chị đã quay về Sàigòn sau câu trả lời gọn lỏn của chúng: “Chồng chị là tên ngụy ác ôn, đàn áp bóc lột nhân dân, nợ máu quá nhiều, nhân dân nổi giận trừng trị. Cách mạng rất khoan dung không trả thù như vậy. Chị đi tìm nhân dân mà xin các anh ấy!”

Chưa hết. Sự trả thù đê hèn vẫn đeo đuổi theo từng cá nhân người lính VNCH, từng gia đình mỗi người. Năm 1985, tôi được thả về từ trại tù VC. Sau vài tháng tôi đến nhà Thiếu Tá Trần Đình Tự ở đường Dương Công Trừng (Thị Nghè) thăm ba mẹ Tự. Đến nơi được biết thân phụ anh phần uất hận, phần thương con – tất cả con trai của cụ, hai người anh Tự cũng bị tập trung vào trại tù Cộng Sản, Cụ đã lâm trọng bệnh qua đời năm 1975. Mẹ của Tự, bà cụ ở lại chịu đủ điều cay đắng, thương con Cụ lập bàn thờ Trần Đình Tự bên cạnh bàn thờ chồng. Tấm ảnh thờ Tự chụp lúc vừa được vinh thăng Thiếu Tá, nên anh mặc quân phục. Chính vì tấm ảnh thờ mà cách vài ngày mấy tên Cộng Sản địa phưong như Công An, Ủy Ban Nhân Dân lò mò đến để buông những lời lẽ mất dạy, vô luân, đốn mạt nhưng lại cao giọng đạo đức rẻ tiền.

- Cách mạng rất phân minh, rành rẽ mọi điều, tình tự dân tộc đều đâu ra đấy. Tội ai người ấy chịu. Bà thờ chồng, thờ con trai điều này đáng biểu dương, nhưng tấm ảnh tên ác ôn kia thì không được để đấy, bà phải cất đi, lấy ảnh khác mà để.

Thân mẫu Tự cố dằn cơn tức uất:
- Các ông thông cảm, Ở đâu thì theo đó, con tôi đã chết thảm, xác không có để mang về. Nó chẳng còn cái ảnh nào, chỉ có một, các ông để cho tôi thờ nó. Hàng ngày được nhìn thấy chồng, con vẫn ở bên mình.
Tên VC trả lời:
- Nếu không có cái khác thì cất đi hoặc để linh động, Cách Mạng nhất trí cho bà để cái ảnh nhưng lấy mực bôi cái lon lá và bộ quần áo ngụy đi.
Mẹ Tự nhất định không chịu, cứ để tấm ảnh trên bàn thờ cho đến một lần, chúng nó đem bà cụ ra tổ dân phố để “đấu tranh xây dựng”. Bà cụ nổi doá nói tướng lên:
- “Cách mạng khoan hồng”, “Cách mạng độ lượng” cái gì ? Bác Hồ có chỉ dạy các anh ép người dân đến mức này không? Hai năm liền chồng chết, con chết thảm, con đi tù, các ông muốn tôi phải thế nào hay là các ông giúp tôi chết phứt đi cho rồi. Tôi theo chồng theo con là khỏi khổ!”

Có lẽ vì thấy ép quá, không có lợi khi sự việc đã gây xầm xì trong khu vực, bọn VC địa phương lờ dần đi, không ghé nhà Tự để mè nheo, quấy rầy bà cụ nữa. Tự được yên thân trên bàn thờ, nhưng mẹ mình laị vĩnh viễn không được thấy con, dù là nhìn tấm ảnh: Cụ đã bị mù loà, sống lủi thủi trong bóng đêm của quãng đời còn lại với mấy đứa cháu nội.

THAY LỜI KẾT:

Câu chuyện về sự trả thù đê hèn và dã man của bè lũ Cộng Sản Việt Nam là hoàn toàn sự thật. Và dĩ nhiên sự trả thù, cung cách đối xử của Cộng Sản dành cho Quân nhân QLVNCH và gia đình hoàn toàn do chính sách, kế hoạch đã được chỉ thị từ Trung Ương xuống, nhưng nếu có ai hỏi đến chúng nó lại beỏ mép đổ vấy cho địa phưong, cho nhân dân, cho cá nhân nào đó nóng giận gây ra.

Sự đền nợ nước của Trần Đình Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của Đại Úy Xường – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ. Anh cũng đã hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh năm 1979. Tôi gặp Xường ở trại 8 Yên Bái năm 1977. Anh bị VC bóp cổ chết trong ngục thất vì sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt. Xường xuất thân từ khoá 22A Võ Bị QGVN.

Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự. Cùng bị tàn sát sáng 30-4-1975 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng bò vào nhà dân, được dấu diếm băng bó, rồi thuê xe lam chở về Sàigòn.

Thoáng đấy mà đã 35 năm, dân Việt Nam sống trong kìm kẹp, đè nén của Cộng Sản. Người lính VNCH ở quê nhà chịu biết bao nỗi ê chề, cay đắng. Tự chết 35 năm, thân mẫu của anh có còn để giữ tấm ảnh của anh trên bàn thờ? Vợ con anh nay ở phương nào? Vì năm 1976 vợ đem con về nương náu bên ngoại.

Xin cho Thiếu Tá BĐQ TRẦN ĐÌNH TỰ một nén hương truy niệm.
Mũ Nâu THIÊN LÔI
kể lại
hoanghoa
Posts: 2277
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Những đồng tiền nhân nghĩa nói lên chính nghĩa

Chính Biên

Hơn 500 ngàn thu được chỉ trong một buổi chiều đại nhạc hội “Cám Ơn Anh, người thương binh VNCH” quả là một con số đáng cho chúng ta suy nghĩ.

Sau những biến động về “Nợ Trần” của chính phủ OBAMA tạm yên được thì hậu quả của những tranh chấp tạm ổn định giữa Hành pháp và Tư pháp Hoa Kỳ, nền kinh tế của Hoa Kỳ lại đang đứng trước sự suy trầm lần thứ hai và lần này còn có thể nghiêm trọng hơn lần trước.

Nhưng hình như bóng ma suy trầm kinh tế không ảnh hưởng mấy đến sự trợ giúp của cộng đồng người Việt hải ngoại cho TPB/VNCH.

Ðã qua 5 lần tổ chức, chưa lần nào sự đóng góp của đồng bào cho Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh” lại dưới 500 ngàn mà ngược lại có năm còn đạt đến hơn 1 triệu Mỹ kim.

Phải chăng Hội H.O. với con chim đầu đàn là nữ Trung Tá Hạnh Nhơn đã tạo được niềm tin yêu trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

Phải chăng các hội đoàn cựu quân nhân ở Nam California hầu hết đã có mặt trong những lần tổ chức này tiếp tay tích cực cho Hội H.O. cứu trợ TPB.

Phải chăng vai trò truyền thông của đài Truyền Hình SBTN, của trung tâm băng nhạc ASIA cũng là một yếu tố chính trong việc khích động và thu gom tiền Nhân Nghĩa của đồng bào tị nạn CS trên khắp thế giới qua làn sóng phát hình của mình.

Nhưng trước hết vẫn là tấm tình ân nghĩa của đồng bào đối với những người đã hy sinh, mất mát trong cuộc chiến tranh bảo vệ sư yên bình no ấm cho người dân trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 trên một nửa đất nước. Tấm tình ấy luôn luôn trọn vẹn chỉ chờ có dịp đáng tin tưởng là sẵn sàng trao ra vì biết rằng đồng tiền Nhân Nghĩa của mình sẽ được trao trọn vẹn cho những người mình muốn trợ giúp, đúng nơi đúng chỗ.

Với những cựu quân nhân VNCH thì việc làm cứu trợ cho những đồng ngũ không may mắn của mình không phải là một công việc xã hội mà là một bổn phận đi từ Trách Nhiệm trong ba tôn chỉ của QLVNCH là Tổ Quốc-Danh Dự và Trách Nhiệm. Trách nhiệm của người Lính VNCH không chỉ với Tổ quốc, với đồng bào, với quân đội và đơn vị của mình. Trách nhiệm ấy cụ thể qua Tình Ðồng Ðội. Trong cuộc chiến VN, có biết bao nhiêu chuyện hy sinh vì cứu đồng đội, kể cả khi đồng đội chỉ còn là những cái xác.

Ba Mươi Tháng Tư năm 1975, chúng ta sẩy đàn tan nghé, người Thương Binh VNCH không còn ai lo lắng cho nữa. Họ bị đẩy ra khỏi các nhà thương, các quân y viện chưa đủ, họ còn bị đẩy ra khỏi cuộc sống trong xã hội. Biết bao thương đau đã đến với họ. Cũng may mà người dân VNCH dù trong chế độ mới rất tàn bạo với Quân Cán Chính VNCH vẫn giữ nguyên được lòng thương cảm với những người lính xưa của mình nhất là nay trong hoàn cảnh phế tật. Tất cả đã đùm bọc nhau sống, nhưng ngay chính người dân cũng đang điêu đứng với chế độ mới thì có đâu dư dả để bao bọc người thương binh mãi được.

Bao nhiêu năm người thương binh VNCH đã phải cố sống trong tủi nhục, đói rách, tang thương... không còn một chút hy vọng như thế thì bỗng đâu nhận được những số tiền từ bạn bè đồng đội hải ngoại. Số tiền với người hải ngoại có khi chỉ là bữa cà phê sáng nhưng lại là cả một gia tài cho người thương phế binh VNCH. Hai mươi đô la đổi ra tiền ngân hàng CSVN được gần nửa triệu bạc đủ cho người thương binh VNCH sang lại được một sạp bán vé số, một nơi sửa xe đạp hay một cơ sở thương mại bình dân nào đó để cho có được một cách kiếm sống tạo cho người Thương Binh VNCH không chỉ một niềm vui mà còn là một hy vọng.

Mặt khác, về phương diện chính trị, việc không bỏ rơi đồng đội của tập thể cựu quân nhân, của cộng đồng người Việt hải ngoại đã nói lên tính chất nhân bản ở miền Nam trước 1975, một điều mà trong chế độ cộng sản không thấy có bao giờ ngoài những khẩu hiệu và tuyên bố của bọn cầm quyền.

Chỉ nguyên việc ấy cũng đủ cho người dân và lớp trẻ trong nước hiểu rõ đâu là chính nghĩa và đâu là tà nghĩa.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests