BANMÊTHUỘT NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

BANMÊTHUỘT NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC

Post by dutu »

BANMÊTHUỘT
NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC

NGUYỄN ĐỊNH


Image

LỜI MỞ ĐẦU

Banmêthuột thất thủ đã mở đầu cho những tai họa thảm khóc tại miền Nam Việt Nam. Quân Đoài II di tản, rồi Quân đoàn I và toàn thể miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Hàng triệu người bỏ nước ra đi bằng đường biển, hàng trăm ngàn người khác vượt biên qua các ngã đường biên giới Campuchia, và cũng hàng trăm ngàn người bị mất tích trên bước đường chạy trốn tìm tự do. Điều đó là minh chứng hùng hồn nhất cho lịch sử dân tộc và cũng cho cả thế giới hiểu thế nào là thảm họa cộng sản.

Hơn 400,000 Sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, viên chức chính phủ, nhân viên tình báo, Cảnh Sát Quốc gia, Văn Nghệ sĩ, giáo sư, bác sĩ, thành phần trí thức . . . bị bắt đi tù lao động khổ sai . 1 triệu 500 ngàn người gồm các doanh nhân , công kỹ nghệ gia, tiểu thương gia . . . đều bị tịch thu tài sản và bắt đi vùng Kinh Tế Mới trong cái gọi là ‘’đánh tư sản mại bản‘’. Thảm trạng nhà tan, cửa nát , cốt nhục phân ly, nhân tâm ly tán , thật không bút nào tả xiết .
Và vào thời đó, người ta cho rằng nguyên nhân của các thảm họa ấy là việc để mất Banmêthuột, thị xã cuả tỉnh Đarlắc , một cái nôi kinh tế của vùng Cao Nguyên đất đỏ, và là trung tâm chính trị, quân sự của Cao Nguyên Trung phần và Nam Trung phần .

Nhiều người đã nói về Banmêthuột trong những ngày kinh hoàng đó. Nhiều tác gỉa đã viết về mặt trận Banmêthuột . Và một vài cấp chỉ huy thẩm quyền cũng đã trình bày quan điểm cá nhân về sự kiện Banmêthuột .

Tất cả những bài viết đó đã được đưa ra vào thời điểm mà tâm trạng của rất nhiều nguời, đặc biệt là những quân nhân tham chiến tại các mặt trận Đức Lập (một quận thuộc Tỉnh Quảng Đức, thất thủ vào ngày 9 tháng 3 năm 1975), những người lính của Tiểu Khu Đarlắc, của Sư Đoàn 23 BB , và của Vùng II Chiến Thuật, còn lên cơn sốt, nên các bài viết đó có thể đả không đề cấp đến một vài chi tiết .

Trong cuốn nhật ký này, tôi chỉ làm một người kể chuyện, ghi lại những sự việc đã xảy tại Banmêthuột trong khoảng từ tháng 2/1975 cho đến ngày Quân đoàn II di tản . Những sự việc nghe và thấy được ghi lại trung thực, mà không có ý trình bày quan điểm của cá nhân . Tôi quan niệm, phê bình là quyền của lịch sử , vì trong sự kiện mất Banmêthuột, rồi lảnh thổ Quân đoàn II, chỉ là bước khởi đầu , mà mỗi người dân miền Nam, quan hay lính, trí thức hay lao động, đều phải tự hỏi chính bản thân mình khi đặt vấn nạn .

Và ngày nay, chúng ta càng rõ ràng hơn bao giờ hết là tại sao nền cộng hòa của miền nam sụp đổ, phải chăng vì sự thay đổi các cấp, chức quân sự của đồng minh Hoa kỳ từ William C. Westmoreland làm tư lệnh quân đội Mỹ tại miền Nam với chiến thuật search and destroy ( truy lùng và tiêu diệt ) và Creighton W. Abrams với chiến thuật clear and hold ( quét sạch và bình định ) hay là vì khẩu AK 47 đã đến trên chiến trường miền nam từ năm 1964 , trong khi Quân lực VNCH vẫn dùng khẩu Grand và Carbine bắn từng phát một cho mãi đến năm 1968, sau Tết Mậu Thân mới được trang bị M-16 . Hoặc là người đứng đầu Bạch cung Richard M. Nixon đã bội ước không thực hiện lời cam kết khi ép buộc Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận các điều khoản của Hiệp Định Paris 27 tháng 1 năm 1973 , rằng nếu cộng sản Bắc Việt vi phạm Hiệp định Paris thì Hoa Kỳ sẽ can thiệp bằng vũ lực, rằng Hoa Kỳ sẽ thực hiện trên căn bản một- đổi - một các chiến cụ mà Quân lực VNCH bị tổn thất .

Nhưng tiếc thay, khỏan quân viện nhỏ nhoi cuối cùng, 300 triệu dành cho quốc phòng cũng bị quốc hội Mỹ bác bỏ - Cấp số nhiên liệu xăng dầu cho hành quân bị cắt giảm 50% . Đạn dược bị hạn chế, bom bị rút hết ngòi nổ . . Quân lực VNCH kiêu hùng bấy giờ đã bị bức tử .

Tuy nhiên , một điều mà mỗi người lính tham chiến tại mặt trận này, hay là trong suốt cuộc chiến 20 năm vì lý tưởng tự do trên khắp bốn vùng Chiến thuật , đều rất lấy làm an ủi và tự hào, vì mỗi quân nhân, tự bản thân họ đã làm hết sức mình, có những người đã xử dụng cho đến viên đạn cuối cùng . Có những cấp chỉ huy vô cùng can trường, anh dũng , sống chết với đơn vị và thuộc cấp trong tình huynh đệ chi binh; Cũng có một thiểu số yếu kém, thiếu tự tin , đã không làm tròn chức vụ , đã bỏ đơn vị hay từ nhiệm khi lâm trận .

Cho đến hôm nay đã hơn một phần tư thế kỷ, cuộc chiến thực sự đã chấm dứt . Ba mươi năm qua không còn nghe tiếng đạn bom, lòng thù hận của kẻ chiến thắng đã có tự chế, nhưng cảnh tai ương, ly tán và tang tóc như vẫn còn đó.

Tuổi trẻ Việt Nam có quyền đặt câu hỏi: Tại sao 30 năm qua, quê hương hòa bình, mà xã hội Việt Nam vẫn còn chập chững trên mọi lảnh vực : Kinh tế, Văn hóa, Khoa học kỷ thuật . . . Có phải đường lối của đảng cộng sản đã cản trở bước tiến của xã hội Việt Nam và sự phát triển khoa học kỷ thuật nâng cao mức sống của người dân hay không ? Một nền chính trị hà khắc, một xã hội thối nát vì độc đảng, một nền khoa học kỷ thuật mà con trâu vẫn đi trước cái cày ! Tai hại hơn là vẫn chưa thấu suốt tấm gương của khối Liên Xô và sự sụp đổ của khối cộng sản Đông Âu .

Trở về với banmêthuột ngày đầu chiến cuộc, xin đọc gỉa, một lần nữa , hãy xem đây là một chuyện kể, như bao câu chuyện kể trên đời có khi cũng làm ngậm ngùi một đôi người nhạy cảm hay hoặc gỉa có làm phẩn nộ bi ai một người nào, thì cũng xin coi như một kỷ niệm đáng tiếc trót đã xảy ra.

Xứ tuyết năm thứ 13, 2004 .
Nguyễn Định.



BANMÊTHUỘT
NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC
NGUYỄN ĐỊNH

( Kỳ tới )
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

BANMÊTHUỘT
NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC

NGUYỄN ĐỊNH

Cho đến hôm nay tôi vẫn chưa sao quên được Ban Mê Thuột và bao kỷ niệm yêu dấu của tuổi ấu thơ trên thành phố nhỏ bé này, mà đặc biệt là Ban Mê Thuột với nỗi kinh hoàng của đêm ngày 9 tháng 3/1975, đêm đen hãi hùng của chiến tranh và lửa đạn.

"Ai chiếm được Ban Mê Thuột, kẻ đó làm chủ chiến trường." Tôi không còn nhớ ai đã nói câu này, nhưng Ban Mê Thuột quả thật có một vị trí chiến lược vô cùng trọng yếu đối với miền cao nguyên, vì lãnh thổ của tỉnh Darlac, mà Ban Mê Thuột là thị xã, nằm trên Quốc Lộ 14, chạy dài từ phía Nam là tỉnh Quảng Đức, nối tiếp với Vùng 3 Chiến Thuật. Phía Bắc là tỉnh Phú Bổn chạy dài đến Pleiku. Phía Tây là một dãy rừng già tiếp giáp với biên giới của các nước láng giềng (ngã 3 biên giới). Từ khu vực phía tây, một nhánh sông Serepok bắt nguồn từ Cam Bốt chạy xuyên Ban Mê Thuột cắt Quốc Lộ 14 ở phía Nam thị xã 14 km (cầu 14).

Tất cả những điểm đặc biệt của địa hình này đã tạo nên một ưu thế cho chiến tranh du kích. Hơn thế nữa, Đông Bắc thị xã Ban Mê Thuột là Quận Phước An, quận cuối cùng của tỉnh Darlac, mà cũng là gạch nối giữa vùng cao nguyên và miền duyên hải qua cửa ngỏ Khánh Dương, Nha Trang bằng Quốc Lộ 21. Cho nên, nếu nói Ban Mê Thuột là cái rún của vùng cao nguyên qủa thật không phải là quá đáng.

Ban Mê Thuột cũng là cái nôi kinh tế của miền đất đỏ. Nếu nói tới cây thông Đà Lạt, hay trà ở B'lao, thì nhất định phải nói tới cà phê Ban Mê Thuột và những dãy đồn điền cao su hàng chục ngàn mẩu. Rừng là tài nguyên vô cùng quý của quốc gia. Ban Mê Thuột là nơi tàng trữ và sản xuất các loại cây, gổ quý như cẩm lai, cà te, gụ, lim, sên sên, cây dầu, cà chích, bằng lăng... nên đã trở thành trung tâm khai thác lâm sản bậc nhất trên toàn quốc, và đã nuôi sống không biết bao nhiêu ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân thời bấy giờ.

Với bốn quận gồm:

- Lạc Thiện (nằm ở hướng Đông),
- Phước An (hướng Đông Bắc),
- Buôn Hô ( ở hướng Bắc)
- và Ban Mê Thuột là quận châu thành,

Dân số toàn tỉnh có khoảng 150 ngàn, mà thị xã Ban Mê Thuột chiếm 60 ngàn, gồm cả Kinh lẫn Thượng. Người Thượng với nhiều sắc dân như Ê Đê, Bana, H'mong... và với 15 trường trung học và tiểu học như Bồ Đề, La San, Hưng Đức, Vinh Sơn, Bán Công (sau này đổi lại thành trường Tỉnh Hạt), Trung Học Tổng Hợp (công lập), Trung Học Nông Lâm Súc, Trung Học Sư Phạm Cao Nguyên...
Tám mươi phần trăm dân số sống bằng nghề trồng ngũ cốc và cây kỹ nghệ cà phê, cao su, tiêu, ca cao. Người Thượng theo tập tục Cúng Dàng, người Kinh là tín đồ của các tôn giáo như Phật, Thiên Chúa, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo và cũng như thờ cúng Ông Bà.

Điểm đặc biệt của thị xã này là những thắng cảnh rất nổi tiếng và nên thơ như Vườn Ương, với dãy rừng Trắc Bá chạy dài theo con lộ từ phi trường dân sự Phụng Dực tới cây số 5, "Thung Lũng Tình Yêu," "Rừng Chim Chích," Suối Hẹn Hò," "Đồi Cỏ Vàng," "Vườn Mộng," "Thung Lũng Hồng," "Thác Drayling…" để những chiều nhàn rỗi, các đôi tình nhân đem nhau đến vườn mộng ngắm cỏ úa của mùa thu, hay mỗi Hè về, nhìn hoa Phuợng nở trên khuôn viên trường Tổng Hợp, hoặc là đi thăm khu kỹ nghệ cây số 7 để ngâm mình trong suối đá xanh mà ngắm hoa Bằng Lăng, trắng, đỏ, tím, hồng, nở rộ trên những đồi hoang.

Nhưng tất cả những cảnh vật đó, sinh hoạt đó, đã bị vùi chôn và hủy diệt bằng các trận mưa pháo của đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly, chiến xa T-54, và 3 sư đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt vào mùa xuân năm Ất Mão, ngày 10 tháng 3/1975. Ban Mê Thuột, hay "Bụi Mù Trời" đã tan tác hết, phần đất bé nhỏ của quê hương yêu dấu tôi yêu.

NHỮNG NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC

Có lẽ không phải chỉ riêng tôi, mà hầu hết những người dân của thị xã đã không linh cảm nỗi quê hương thơ mộng này lại rơi vào biển lửa của chiến tranh. Mặc dầu vào mùa Thu năm 1974, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật về nhận chức tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Tiểu Khu Darlac, ông đã cho thực hiện một dãy chiến hào bao quanh thị xã để phòng xe tăng T-54 của Cộng quân. Tinh thần quyết chiến-đấu và bảo vệ Ban Mê Thuột của từng người lính và các cơ quan đơn vị, từ cấp Xã đến Quận đã rõ rệt và sẵn sàng từ đó.

Những cuộc hành quân truy lùng tin tức địch đã được thực hiện liên tục. Cục hành quân Phượng Hoàng của hai đơn vị Nghĩa Quân (NQ) và Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) giữa liên xã Thọ Thành và Cư Jút vào sau khu vực phía Nam, cách nhiệm sở của hai đơn vị này khoảng 15 km về hướng Nam Tây-Nam, và 42 km Tây-Nam thị xã vào cuối tháng 2 năm 1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của địch.

Cuộc hành quân của đơn vị Nghĩa Quân và Cảnh Sát Quốc Gia thuộc xã Cư Ming, Bandon, phía Tây thị xã Ban Mê Thuột chừng 48 km cũng đã cung cấp cho Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột và F đặc biệt về sự di chuyển của quân Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Bandon.

Các tin tình báo của những tình báo viên,TBND, trong Mạng Lưới Tình Báo do Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh trong những tháng 2 và 3/1975, khi đi khai thác lâm sản ở khu vực phía tây thị xã (Bandon) và Tây Nam thị xã 62 km cũng đả báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường dây điện thoại, ống dẫn dầu và dấu xích chiến xa T-54 của cộng quân.

Ngày 14 tháng 2/1975, 7 chiếc xe be khai thác lâm sản, trong lúc làm cây ở khu vực Nam Tây-Nam thị xã Ban Mê Thuột 82 km đã bị Cộng quân cưỡng chiếm, các nạn nhân cũng đã khai trình Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu những tin tức về lực lượng cộng quân.

Tháng 2/1975, một nữ cán binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương của Cộng quân ra hồi chánh với một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp tin tức về sư đoàn F10 của Cộng quân đang di chuyển về khu vực Nam thị xã Ban Mê Thuột, đồng thời cho biết Trung Đoàn 25 Địa Phương sẽ mở chiến dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc Lộ 21, ranh giới gữa Khánh Dương - Nha Trang và Phước An - Ban Mê Thuột.

Đặc biệt là cuộc hành quân ngày 7 tháng 3/1975 (ba ngày trước khi Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột), một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac, đã bắt được một tù binh Cộng Sản, quân hàm Thiếu Úy, trong lúc y đang giăng dây điện thoại ở khu vực Buôn Ea Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Ban Mê Thuột.

Nhưng tất cả những tin tức này đều chỉ được ghi nhận. Lực bất tùng tâm, Quân Đoàn 2 với hai sư đoàn gồm Sư Đoàn 22 Bộ Binh (BB) lo trấn giữ các tỉnh miền duyên hải, và Sư Đoàn 23 Bộ Binh trấn thủ các tỉnh cao nguyên với những dãy núi rừng trùng trùng điệp điệp, đã không đủ quân số để chống giữ Ban Mê Thuột với sự ồ ạt tấn công của hàng chục ngàn bộ đội Bắc Việt với đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly và chiến xa T-54 yểm trợ, đã vùi chôn Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã này trong biển lửa.

Nhưng trong thâm tâm mỗi người dân Ban Mê Thuột, hình ảnh những vị anh hùng của Tiểu khu Darlac, những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và Sư Đoàn 23 Bộ Binh mãi mãi là những thần linh bất tử, đặc biệt là Trung Đoàn 53 Bộ Binh trấn giữ phi trường Phụng Dực, đã anh dũng chiến đấu và bảo vệ những phần đất Ban Mê Thuột trong suốt 7 ngày đêm dưới chiến thuật biển người và mưa đạn của kẻ thù cho đến phút lâm chung.
Xin cám ơn đấng tố cao đã cho chúng tôi những người con trung hiếu lưỡng toàn này.
Image
Tửu gia Mỹ Hương ( picture 2)

NHỮNG TRẬN ĐÁNH MỞ ĐẦU

Để chuẩn bị cho cuộc tấn công Ban Mê Thuột, Cộng quân đã mở 3 mặt trận lớn, cắt đứt mọi liên lạc và tiếp vận với Ban Mê Thuột.

Mặt trận đầu tiên là đánh chiếm quận Thuận Mẩn, thuộc tỉnh Phú Bổn, nằm trên Quốc Lộ 14, giáp ranh với quận Buôn Hô, tỉnh Darlac, cách quận lỵ Buôn Hô 45 km về phía Bắc vào ngày 4 tháng 3/1975.

Đêm ngày 6 tháng 3/1975, Cộng quân mở mặt trận tại khu vực quận Khánh Dương, Nha Trang, nằm trên Quốc Lộ 21, giáp ranh quận Phước An tỉnh Darlac, cách thị xã Ban Mê Thuột 75 km về phía Đông Bắc.
Đêm ngày 8 tháng 3/1975, Cộng quân tấn công quận Đức Lập, tỉnh Quảng Đức, nằm trên Quốc Lộ 14,cách thị xã Ban Mê Thuột 60 km về phía Nam. Đến 9 giờ 30 ngày Chủ Nhật, 9 tháng 3/1975, tin Cộng quân tràn ngập Chi Khu Đức Lập chính thức nhận được qua Trung Tâm Hành Quân Tiểu khu Darlac.

Như vậy, thị xã Ban Mê Thuột đã hòan toàn bị cô lập. Phía Nam Ban Mê Thuột là quận Đức Lập đã bị Cộng quân chiếm đóng. Phía Bắc liên lạc với Phú Bổn và Pleiku qua Quốc Lộ 14, đã bị Cộng quân cắt tại quận Thuận Mẩn. Đông Bắc là Quốc Lộ 21 nối với miền duyên hải qua cửa ngỏ Nha Trang đã bị Cộng quân trấn giữ bằng mặt trận Khánh Dương. Banmethuột như cá nằm trong chậu !

Đáng tiếc là cho đến lúc này, vị Tư Lệnh Quân Đoàn và Bộ Tham Mưu vẫn còn tin là cộng quân không tấn công Banmethuột, và 2 Trung Đoàn Bộ Binh 44 và 45 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn chưa được điều động về trấn giữ Banmethuột như chỉ thị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong dịp Tết ra ăn Tết với PleiKu.
Image
Đường Y-Ju’t ( nhìn ra hướng Sân vận động ) – Picture #3

TÌNH HÌNH BAN MÊ THUỘC, CHỦ NHẬT 9 THÁNG 3 NĂM 1975

Với những tin nhận được, tình hình Ban Mê Thuột quả thật có biến động. Những gia đình giàu có, những người có thể, đều tìm cách ra khỏi Ban Mê Thuột để về Nha Trang hay Saigon. Một vé máy bay đi Saigon lên đến 50 ngàn đồng thời bấy giờ, nhưng cũng không còn chỗ. Đi Nha Trang 20 ngàn, nhưng cũng không cách nào đặt được vé.

Trưa ngày 9 tháng 3/1975, một cuộc họp khẩn cấp được triệu tập tại Tòa Hành Chánh, do Đại Tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng chủ trì, gồm các ty sở trưởng, đơn vị trưởng và ban ngành chuyên môn trực thuộc tiểu khu.
Lệnh báo động đỏ được ban hành cùng với lệnh cấm trại một trăm phần trăm các đơn vị.

Một đặc lệnh truyền tin được chuyển đến các đơn vị, đặc biệt là trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia, với những chỉ dẫn cần thiết kèm theo đặc lệnh này, mà những nhân viên thừa hành không thể được phép mở, ngọai trừ khi có lệnh của đơn vị trưởng trực tiếp. Lệnh giới nghiêm được ban hành trên toàn thị xã, từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau. Một số gia đình có thân nhân ở ngoại ô thị xã như cây số 5, đã di tản gia đình ra khỏi thị xã tối ngày 9 tháng 3/1975.

Nhưng định mệnh đã an bài, không phải vì triều đại của chúng ta thiếu nhân lực hay bất tài, cũng không phải vì chúng ta tất trách, chưa làm hết bổn phận của mình, mà ngược lại, chúng ta đã tận sức, đặc biệt là những người lính, những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia.

Thực sự xã hội miền Nam từ đầu thập niên 1960 đã có những biến chuyển lớn trong sinh hoạt chính trị gây ảnh hưởng sâu rộng cho nền trị an xã hội, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Một số các tổ chức đã chỉ biết yêu cầu và đòi hỏi mà quên đi những nguyên tắc căn bản của một thực tế xã hội mà mọi sinh hoạt còn ở mức khởi đầu. Một người làm chính trị giỏi thì cả nước yên, cả nước làm chính trị thì xã hội loạn. Khuynh hướng đòi tự do dân chủ được lồng vào các cuộc bạo hành, xuống đường phản đối chính phủ ở vào những giai đoạn không hợp thời, không đúng lúc, của một số tổ chức, đã thực sự đe dọa nền an ninh quốc gia, và trở thành những hành động khủng bố tính mạng của tổ quốc.

Người ta nhân danh tự do, để làm chính trị, nói chính trị, mà không thấu triệt đạo đức và nguyên lý chính trị căn bản. Người ta đòi tự do, hô hào tự do mà xã hội còn ở mức căn bản, nên vô tình hay hữu ý, những kẻ đó đã tiếp tay, hoặc tạo cho kẻ thù cơ hội lũng đoạn và khuynh đảo các cơ cấu, tổ chức chính quyền, thao túng trật tự xã hội dưới nhiều hình thức và chiêu bài. Trong khi đó, ở ngoài chiến trường, những người lính của chúng ta còn giành nhau từng tấc đất với kẻ thù, và sinh mạng những người dân ở vùng chiến tranh, hoặc từng phần lảnh thỗ của miền Nam chỉ là ngàn cân treo sợi tóc.


Mặt khác, chúng ta lại không may gặp phải một đồng minh khác biệt với nền đạo đức cổ truyền, không đặt nặng lòng nhân, không xử chữ nghĩa, chúng ta như một con cờ trong ván cờ chính trị toàn cầu của đồng minh anh em, trong khi nền Cộng Hòa của chúng ta vừa qua giai đoạn phôi thai, đang ở chặng đường phát triển. Nền công nghiệp nặng còn khiếm khuyết, kỹ nghệ quốc phòng chưa mở mang, nền kinh tế quốc dân tuy có ổn định, nhưng cán cân cung cầu chưa đồng đều, mậu dịch chưa hoàn toàn cân đối.

Dầu rằng nền Cộng Hòa của chúng ta đã có được một cơ cấu chính quyền có tổ chức và hoàn bị, dựa trên Hiến Pháp, nhưng được toàn thế giới công nhận, có ứng cử và bầu cử tự do từ cấp xã, quận, tỉnh đến trung ương.

Một Học viện Quốc gia hành chánh để đào tạo các chuyên viên hành chánh điều hoà hệ thống này.

Một Quốc Hội lưỡng viện, một Giám Sát Viện, một Tham Chính Viện để đàn hạch việc làm của Tổng Thống. Một Tối Cao Pháp Viện để kiểm sóat hệ thống tòa án là ngành Tư Pháp của chúng ta.

Chúng ta lại có một hệ thống tài chánh, tiền tệ, ngân hàng hết sức ổn định và tiên tiến, không thua gì các quốc gia mở mang. Các doanh nhân đã xử dụng phương pháp bối thự trong các giao dịch thương mại.
Hệ thống giáo dục của chúng ta thưc sự đã hoàn hảo, hàng năm, các viện đại học Sàigòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Minh Đức, đã đào tạo và cung cấp không biết bao nhiêu chuyên viên và nhân tài phục vụ xã hội.

Ngành y tế của chúng ta phải nói là tân tiến, với một đội ngũ bác sĩ đầy nhiệt huyết và lương tâm.

Quân đội của chúng ta cũng được đào tạo và huấn luyện với những kỹ thuật tiên tiến, tinh vi, và hữu hiệu. Chúng ta có hai trường sĩ quan: Trường Võ Bị Đà Lạt, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, một trường Hạ Sĩ Quan là trường Đồng Đế ở Nha Trang, nhiều trung tâm huấn luyện và những trường chuyên môn như Công Binh, Pháo Binh, Trường Sĩ Quan Không Quân và Hải Quân, trường Quân Nhu, Quân Cụ, vân vân và vân vân...

Và ngành Cảnh Sát Quốc Gia, chúng ta có một Học Viện Cảnh Sát ở Thủ Đức, huấn luyện và đào tạo các sĩ quan ưu tú, để hành xử luật pháp thật công minh, Trung Tâm Huấn Luyện Dốc Dừa, Trường Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến, và nhiều trung tâm huấn luyện khác đã đào tạo các chiến sĩ cảnh sát xuất sắc để hoàn thành nhiệm vụ TRỪ BẠO, AN DÂN, CÔNG MINH, LIÊM CHÍNH.

Về mặt kinh tế quốc dân, các ngành sản xuất đang trên đà phát triển, các nhà máy giấy, xi măng, xưởng dệt, lắp ráp nông cơ, xe hơi, xe gắn máy, xe đạp, xà phòng... các ngành xuất, nhập, khẩu tăng trưởng cực mạnh, số lượng gạo, cà phê xuất cảng đứng hang nhất-nhì trong khu vực Đông Nam Á. Các mặt hàng tiêu dùng như vải, sợi... tràn ngập trên thị trường, không cần đến nhập cảng . Hai mươi sáu triệu dân miền Nam thực sự đủ ăn, đủ mặc, được học hành và chăm sóc chu đáo.

Xã hội chúng ta thực sự đã tổ chức hoàn bị, dựa trên căn bản của luật pháp, bình đẳng và tự do. Người ta tha hồ phê bình tổng thống và các vị lãnh đạo ở mọi cấp bậc của quốc gia. Quyền tự do cư trú, tự do đi lại, tự do lập hội, tự do ngôn luận, báo chí, và các đảng phái tuyệt đối được tôn trọng. Và đó là tất cả những gì mà nền Cộng Hòa của chúng ta đã làm được và đang cố gắng phát triển và thăng tiến.

Tuy nhiên, một điều mà chúng ta phải thừa nhận, đó là quốc gia của chúng ta còn là một nước phát triển, chúng ta chưa có kỹ nghệ sản xuất vũ khí. Quân đội của chúng ta, trong ngành tình báo kỹ thuật, trang bị còn rất hạn chế, vì phải nhờ vã ở đồng minh.

Chúng ta không có xe tăng M-48 bắn bằng tia hồng ngọai tuyến, hay điều khiển bằng máy vi tính, vũ khí chống chiến xa T-54 là súng M-72, dài gần một mét, nặng gần 12 pound. Mổi khẩu M-72 chỉ xử dụng đúng một lần, bắn xong một phát là vất bỏ khẩu súng. Thử hỏi mỗi người lính khi đi hành quân phải mang đầy quân trang quân dụng thì còn mang theo được bao nhiêu khẩu M-72. Bom không đủ dùng, bom không có ngòi nổ. Cấp số đạn cho vũ khí cá nhân thực sự hạn chế, phương tiện truyền thông liên lạc còn rất thô sơ, nhiên liệu hoàn toàn bị lệ thuộc, mà đặc biệt là quân số của chúng ta chưa đủ để phân phối vì bị ràng buộc bởi luật động viên.

Và cái phải đến đã đến, chúng ta đã không ngăn chận được biển người của kẻ địch tràn ngập thành phố này, Ban Mê Thuột đã mất, mất hết cả ước mơ, hoài bảo và tương lai.
Image
Tiệm Bán và sũa HonDa Kim-Môn (nằm trên đường Ama Trang Long và
Y-Ju’t)
(picture # 4)

PHỐI TRÍ VÀ TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

( Kỳ tới)
Last edited by dutu on Wed Sep 30, 2009 3:29 pm, edited 1 time in total.
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

*

Kính gởi anh KhieuLong

Xin chân thành cám ơn anh đã edit và trang trí cho Banmêthuột NGÀY ĐẦU CHẾN CUÔC để hấp dẫn người đọc nhiều hơn.

Trân trọng
Nguyễn Định

*
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

dutu wrote:*

Kính gởi anh KhieuLong

Xin chân thành cám ơn anh đã edit và trang trí cho Banmêthuột NGÀY ĐẦU CHẾN CUÔC để hấp dẫn người đọc nhiều hơn.

Trân trọng
Nguyễn Định

*
Bài của anh Định anh em nói hay và có giá trị với những chi tiết thật không cường điệu. Anh nhớ khi post bài thì bài của mình phải xử dụng dạng chữ theo unicode thì chữ sẽ không bị biến dạng....
Chúc anh cuối tuần vui vẻ , bữa nào hẹn nhau với Tuấn uống cà phê nha !
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

Hello anh KhieuLong,

Thành thật mà nói thì phải cám ơn anh trước, đã bỏ thời gian Edit cho các post của tôi, Cũng xin cám ơn anh em "huynh đệ chi binh" và đọc giả đã cho tôi cơ hội giải bày những ấm ức của Banmethuo^.t, mà những người lính tham chiến tại đây hơn 33 năm vẫn mang canh cánh trong lòng, dù rằng còn một vài điều không thể viết ra.

Chúc anh và mọi người có một weekend vui vẻ, cũng như có một đời sống an vui hạnh phúc trên quê người.

Trân trọng
dutu
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

PHỐI TRÍ VÀ TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG

Lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)

Tại thị xã Ban Mê Thuột lúc bấy giờ lực lương QLVNCH không quá một ngàn người, gồm hậu cứ của Bộ Tư Lệnh (BTL) Sư Đoàn 23 Bộ Binh,

Hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực của các đơn vị này đã được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết mà chưa được trả về như chỉ thị của Tổng Thống lúc kinh lý Pleiku trong dịp Tết Ất Mảo 1975).

Ban Mê Thuột thực sự chỉ là một thành phố hoang không lực lượng bảo vệ, nói theo một nghĩa nào đọ Do vậy, vấn đề phân nhiệm tuy có kế hoạch chu tường nhưng chỉ là một màng nhện

Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và các phòng cùng các ban trực thuộc, chịu trách nhiệm phòng thủ phía Nam thị xã .

Hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 chịu trách nhiệm phía Tây, khu vực nặng nề nhất .

Kho đạn (trại Mai hắc Đế) bảo vệ một mặt phía Tây-Nam cùng với Trung Tâm Yểm trợ tiếp vận (đại đội hanhchánh taichánh, tức là Ban Lương Bổng).

Phía Đông do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ Binh, (Hậu cứ Bộ Chỉ huy Trung Đoàn 45 BB/ SĐ 23) đảm trách . Xa hơn là Chi Khu Ban Mê Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột sẽ phối hợp với nhau để chịu trách nhiệm vấn đề phòng thủ .

Mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiện Nội vi thị xã và các chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách, và được bố trí như sau:

Hai chốt cảnh sát đặt tại Trường Trung Học Tỉnh Hạt và cuối đường Phan Chu Trinh là các chốt ở cửa Bặc .

Cuối đường Tự Do, Bến Xe Cây Số 3, được giao cho Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Cư Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến .

Cửa ngỏ phía Nam có Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Cư Ê Bư và một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến chịu trách nhiêm.

Cửa Tây thị xã giao cho Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia thị xã Cuộc Lạc Giao, chịu trách nhiêm. Các cao ốc trong toàn thị xã và các khách sạn, như khách sạn Anh Đào, Hồng Kông, đều được Cảnh Sát Quốc Gia đóng chốt

Các đơn vị trừ bị gồm có một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh đóng tại phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km, có trung đội pháo binh 105 lỵ Nhưng tiếc thay, pháo binh của Cộng quân lại là loại 130 ly, và hỏa tiển 122 ly, tầm xa và sức công phá hoàn toàn cách biệt

Lực lượng Cộng quân

Cộng quân gồm một trung đoàn địa phương là Trung Đoàn 25,
Ba sư đoàn quân chính quy Bắc việt gồm:

- Sư Đoàn 320 (tiền danh là Nông Trường 3 Sao Vàng),
- Sư Đoàn 316,
- Và Sư Đoàn F10.

Thêm vào đó, Cộng quân có hàng trăm chiến xa T-54, đại bác 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, BKZ 82 (bichkích pháo không-giật dùng để phá hủy các công sự phòng thủ)

Với những đơn vị tham chiến có mặt này, quân số của Cộng quân đã lên đến hằng chục lần hơn so với quân số của Việt Nam Cộng Hòa . Và nếu cộng thêm đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa Quân và lực lượng Nhân Dân Tự Vệ xã Lạc Giao, quân số của ta cũng không vượt quá 2,000 ngượi Nhưng thực sự thì bảy ngày sau Cộng quân mới hoàn toàn làm chủ Ban Mê Thuôt. Đó chính là nhờ lòng dũng cảm, tinh thần quyết chiênđấu của từng người lính, và cấp chỉ huy của mỗi đơn vị trong suốt những giờ đầu chiến cuôc.

MỞ ĐẦU TRẬN ĐÁNH

Hai giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu thực hiện trận mưa pháo theo chiến thuật tiền pháo hậu xung bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự như Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và phi trường L19.

Tiếng rít của hỏa tiển và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đợi Những tiếng nổ đó cứ liên tục như những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên các màn bac. Các nhà cao tầng bị rung chuyển cực manh. Và màng nhĩ của con người chỉ còn ghi nhận tiếng "o o" mà không còn nghe được một âm thanh nào khạc

Thành phố đã như con tàu chao nghiêng trong bão tộ Một số các nhà xây thô sơ quanh các khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên tiếp không ngừng đổ xuống các cứ điểm quân sự của ta cho đến 6 giờ sạng

Image

Thị Xã Banmêthuột - Những đường phố chính - Và các hướng tấn công của cộng quân.
(picture # 5)

Bốn giờ sáng cùng ngày, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng Sản chia làm nhiều mũi tấn công vào phi trường L19, kho đạn Mai Hắc Đế với chiến thuật biển ngượi

Sáu giờ 15 sáng, xe phóng thanh của Ty Thông Tin đậu tại Ngã 6 thị xã phát lời kêu gọi của đại tá tỉnh trưởng yêu cầu đồng bào bình tỉnh, ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại thị xã vẩn còn yên tịnh

Sáu giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một góc phía Bắc của phi trường L19 bị Cộng quân tràn ngâp.

Bảy giờ 15 các chốt cảnh sát xin lệnh rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp lực địch quá manh. Cũng lúc này, dân chúng từ khu vực Buôn A-Lê B, Giáo xứ Thanh Mai, cửa Nam thị xã lũ lượt chạy vào trung tâm thànhphộ

Tám giờ 30 cùng ngày, Kho đạn Mai Hắc Đế thất thụ Viên đại úy chỉ huy trưởng, đại úy Thương bị trọng thượng

Chín giờ 20, chiến xa T-54 và bộ đội Cộng quân chia làm nhiều mũi tấn công vào thị xạ

Một mũi từ cuối đường Phan Chu Trinh (cửa Bắc ) tràn chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa, ngã Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ HuyTiểu Khu 800 mẹt

Mũi phía Nam, từ khu vực Buôn A-Lê B, đồi Trung Học La San, theo đại lộ Thống Nhất tiến đánh khu vực tư dinh Tỉnh Trưởng, Ty Ngân Khộ

Một mũi khác, từ hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri Phương Phan Bội Châu, và mặt Tây thị xã đã bị Cộng quân tấn chiệm

Khu phố Nguyễn Trãi Nguyễn Tri Phương, dân chúng bồng bế nhau chạy về chùa Khải Đoan và Trường Bồ Đề dưới mưa đạn AK và đại bác của kẻ thụ Tiếng khóc của trẻ con, tiếng kêu mẹ, gọi chồng hòa lẩn tiếng đạn rít nghe thê lương hải hùng không nỗi nào tả xiệt Dãy phố Quang Trung, Lý thường Kiệt, từ nhà hàng Hoàng Vinh đến tiệm may Hoàng Yến, đối diện Ngân hàng Đại Á bốc cháy dữ dôi. Khu phố Hai Bà Trưng, Quang Trung, từ khách sạn Hồng Kông chạy dài đến Ama Trang Long đã thành một biển lửa.

Quả thật cuộc sống của thành phố này đang bị hủy diêt. Những cụm lửa cuộn theo tàn hòa trong khói đục tiếp tục bay cao để đốt cháy nốt những khu phố lân cân.
Image
Khu phố nằm trên đương Quang Trung (góc Lý Thương Kiệt)
(picture # 6)

MẶT TRẬN TIỂU KHU DARLAC

Từ 9 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 3/1975, các mũi tiến quân của Cộng quân từ hướng bắc và hướng Tây bắc đã hoàn toàn tràn ngập trung tâm thành phố và tập trung nổ lực tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống Nhật Bộ đội và chiến xa T-54 của Cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ quan, nằm trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi, nhưng không tràn qua được khu vườn hoang của Bác Sĩ Tôn Thất Niệm, nằm sát hệ thống công sự phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khụ

Lực lượng phòng vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liêt. Một chiếc T-54 của Cộng quân bị bắn chạy Thiếu Úy Mừng, Phòng I Tiểu Khu bị tử thượng Dù với chiến thuật biển người và với BKZ 82 ly cùng đại bác 100 ly trang bị cho T-54 bắn trực xạ không ngừng vào hệ thống công sự phòng thủ của tiểu khu, Cộng quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự phòng thủ nạy Tinh thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những chiến sĩ thuộc Tiểu Khu quả thật không thể tưởng tương. Cứ mỗi đợt tiến công của Cộng quân là những tràng đại liên, M-79 (súng phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ xối xả phản kích làm cho bước tiến quân của Cộng quân đã phải ngừng lai.

Cộng quân lui về cố thủ khu vực cư xá sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên Thùy, đồng thời chia quân tràn qua đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa Án, bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ, và tiếp tục thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly từ các chiến xa T-54 và đại bác130 ly cùng hỏa tiễn 122 ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon) đổ vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khụ

Mười một giờ 20, một chiếc T-54 của Cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trên đường Thống Nhất đã bị bắn ha. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Tiểu Khu càng lên cạo

Mười một giờ 45, hai chiếc Commando Car (thiết giáp với bốn bánh cao su, không xích sắt) của Thiết Đoàn 8 từ hướng chùa Khải Đoan theo đường Quang Trung qua Tôn Thất Thuyết để tiến về đánh bọc hậu lực lượng của Cộng quân đang công hãm Tiểu Khụ Nhưng khi đến ngã Ba Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của Cộng quân từ ngã Sáu tràn xuống chận đạnh Hai chiếc Commando Car bị Cộng quân bắn cháy trước Bar Quốc Tệ Nhưng các chiến sĩ của Thiết Đoàn 8 đã len theo khu phố Ama Trang Long để tiến về hướng Tiểu Khu.

Cũng giờ này, khu chợ Ban Mê Thuột, từ đường Quang Trung chạy dọc theo đường Y Jút đến Ama Trang Long bị trúng đạn và bốc cháy dữ dôi. Nhà hàng Thanh Thế mới khai trương, cũng tân kỳ không thua gì nhà hàng Thanh Thế ở đại lộ Lê Lợi Saigon, giờ đây đang là một biển lựa Dãy phố bên kia đường Ama Trang Long, đối diện với nhà hàng Thanh Thế như tiệm Rồng Vàng, nằm mặt sau của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vun. Khu phố nằm trên đường Y Jút, đối diện với chợ Ban Mê Thuột như nhà của Bác Sĩ Tôn Thất Hối đã bị sâp.

Cho đến giờ này, 11 giờ 45 ngày 10 tháng 3/1975, các chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, và lực lượng của Cộng quân từ 2 mặt, phía Bắc, tức là khu cư xá sĩ quan và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, tức là từ Bưu Điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khụ Những trận đánh xáp lá cà đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống công sự phòng thủ .

Một giờ 15 trưa ngày 10 tháng 3/1975, Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền tin bị phá hủy .

Mười bốn giờ 20 ngày thứ Hai, 10 tháng 3/1975, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn 7 tiếng đồng hồ giao tranh với lực lượng biển người của Cộng quân có chiến xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ, mà không có được một đơn vị bạn nào tiếp cứu .

Sáu mươi ngàn dân thị xã Ban Mê Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công, lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac trong những giờ phút lâm nguy đã cố gắng và hy sinh để làm tròn bổn phận cho đến hết sức mịnh Xin gởi tấm chân tình sâu xa nhất của chúng tôi đến Trung Tá Vĩnh Hy, người trực tiếp chỉ huy mặt trận, với những trận tấn công và đánh xáp lá cà cùng lực lượng biển người của quân thù, và để đến giờ phút cuối đành di tản Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để bảo toàn lực lương.

Xin anh linh của những chiến sĩ đã sống hùng thác thiêng, phù trợ cho thành phố này và những đồng đội của mình trên những chặng đường di tạn Các vị mãi mãi là những anh hùng và thần linh của thành phố nạy
Image

Nhà thờ Chính Tòa Ban mêthuột 1970– (ngã 6 thị xã Banmêthuột)
Quen gọi là nhà thờ Cha già Ngoạn
Picture # 7
MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ XÃ

Những Trận Đánh Oanh Liệt của Các Chiến Sĩ Cảnh Sát Quốc Gia Thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac

Trong kế hoạch phòng thủ thị xã Ban Mê Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac là một trong những đơn vị chịu trách nhiệm về một khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội vi thị xã đến cả một mặt Bắc, bao gồm phi trường trực thăng và phi trường L19. Phòng thủ phi trường L19 là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tịnh

Với những tin tức nhận được của mạng lưới tình báo cơ hữu và của các đơn vị bạn, vị chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, Trung Tá Trần Quang Vĩnh, nguyên là Sĩ quan thuộc Binh chủng Biệt Động Quân biệt phái ngành CSQG. đã sẵn sàng kế hoạch phòng thủ và phản công cho đơn vị hằng tháng trước , Ông đã bổ nhiệm Đại Đội Trưởng đại đội Cảnh sát Dã Chiến 206 làm phụ tá hành quân.

Mười một giờ trưa ngày 9 tháng 3/1975, sau khi dự phiên họp tại Tiểu Khu, có sự tham dự của Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2, ông trở về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Tỉnh cùng với bộ tham mưu triệu tập một phiên họp tham mưu với các cấp chỉ huy, nhắc lại lệnh cấm trại một trăm phần trâm và lệnh báo động đỏ cho toàn thể các đơn vị trực thuôc. Ông cũng cho lệnh di tản gia đình nhân viên ra khỏi thị xã để sẳn sàng chiến đậu Đồng thời chuyển đến các Cụộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Đặc Lệnh Truyền Tin, Khóa KCD và ra lệnh được phép tiêu hủy hồ sơ đơn vị nếu cần thiết .

Phân công trách nhiệm phòng thủ Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát mới cho Thiếu Tá Chỉ Huy Phó và sĩ quan phụ tá hành quân, với Đại Đội 206 Cảnh Sát Dã Chiện
Ty cảnh Sát cũ, nằm ở khu vực sân vận động trên đường Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, gồm 2 phòng Truyền Tin và Kỷ Thuật do chỉ huy trưởng đảm trách

Mười hai giờ 30 cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac nhận được tin một đơn vị của Cộng quân đã tiến vào khu vực Buôn Ea H'Neh, cách thị xã Ban Mê Thuột khoảng 6 km về phía Tây, Vị chỉ huy trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh đã tức thời trình Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và Đại Tá Nguyễn Trọng Luât. Đồng thời ông cũng báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh sát Quốc Gia Khu 2 (Nha Trang ) và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2/Quân Khu 2. Nhưng tiếc thay, Bộ Chỉ Huy Khu và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã không có biện pháp ngăn chân.

Hai giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu tấn công phi trường L19, (khu vực phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, do Đại Đội Thám Sát chịu trách nhiệm), bằng đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 lỵ

Đến 4 giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu dùng lực lượng bộ binh với chiến thuật biển người và xe tăng T-54 tấn công phi trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống trả quyết liệt và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Giạ Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn liền liên lạc với Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224 tiếp viên. Nhưng Đại Đội 1/224 đã không thể chọc thủng vòng vây của Cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19.

Sáu giờ 20, một đoạn vòng đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc thụng Lực lượng Cộng quân tràn ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát Tỉnh đã phải lui về phòng tuyến phòng thủ phía sau. Tổn thất về nhân sự nặng nề nhất trong mặt trận Ban Mê Thuột, phải kể hàng đầu là đại đội Thám Sát của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac.

Sau khi tràn ngập các chốt điểm tiền tiêu, 9 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, lực lượng Cộng quân từ mặt Bắc thị xã, tức là khu vực phía Bắc phi truờng L19 và bến xe Cây Số 3 bắt đầu tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac,nằm trên đường Tự Do để xâm nhập trung tâm thành phộ

Lợi dụng hệ thống công sự phòng thủ và các dãy hàng rào kẽm gai bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia đườngTự Do, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của Cộng quận Các chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn nhưng đã anh dũng phản công quyết liệt trước những đợt tấn công của Cộng quân, không cho địch tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ,

Một con đường an toàn duy nhất trong lúc này, chính là con đường Tự Do, chạy dài từ bến xe Cây Số 3, dọc theo sườn Đông của phi trường L19 đến tư dinh của vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

Không phải chỉ những chiến sĩ thuộc các binh chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có kỷ thuật và kinh nghiệm chiến đấu, mà thực sự những người Cảnh Sát Quốc Gia thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac, trong mặt trận Ban Mê Thuột, đã thể hiện hoàn toàn lòng trách nhiệm và tinh thần Trừ Bạo An Dân.

Chính nhờ lòng dũng cảm chiến đấu, kỷ thuật tác chiến, và hệ thống chỉ huy chặt chẽ này, mà một mặt phía Đông thị xã Ban Mê Thuột, từ khu đường Tự Do, chạy dài xuống Bà Triệu, Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột, chưa có bóng dáng của Cộng quận Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn mà có lẽ họ không thể nào ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho các đơn vị phải rút lui vào phút cuối .

(Xin mượn những giòng nước mắt, và nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn để bày tỏ sự cảm phục trước lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm và anh dũng chiến đấu của những chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã cương quyết bảo vệ thành phố nhỏ bé này cho đến phút lâm chung. Xin anh linh của những vị đả khuất phù trợ cho thành phố này và những đồng đội của mình giữ được lòng trung kiên với tổ quốc và tinh thần vì dân trừ bạo bất diêt).

Mười lăm giờ 40 ngày thứ hai, 10 tháng 3/1975, với áp lực của địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn Văn Thành, chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra lệnh mở đường máu đem đơn vị ra khỏi thị xã về Cây Số 5, phối hợp với các đơn vị trực thuộc và Chi Khu Ban Mê Thuột để tiếp tục phản công quân thù .

Mười sáu giờ ngày thứ Hai, 10 tháng 3/1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh còn được trấn giữ

Trong thành phố, tiếng súng nhỏ đã im, nhưng cảnh tan hoang của thị xã thật không cách nào tả xiệt Những khu phố bị cháy không ai dập tắt, đóm lửa, tro tàn, và bụi khói bao phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lổ loang những dấu đạn cay. Bên cạnh những đóng tro tàn, từng nhóm người co ro sợ hãi cúi mặt không dám khọc Những trẻ em mất cha, lạc mẹ kêu van đã khàn tiệng

Rải rác trên các khu phố, những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai săn sọc Thị xã không hẳn là một bãi tha ma, không gọn gàn sạch sẽ như nghĩa trang người chết, mà là hổn độn của một thế giới nửa sống, nửa chệt Vợ ôm xác chồng không dám khóc, mẹ nhìn thây con giá lạnh không dám đem vệ Người ta vẫn sợ một Mậu Thân thứ hai, năm 1968, ở Huệ Bóng dáng của Cộng quân như tử thần dến chiêu hồn kẻ sống đe dọa mọi ngươi.

Sáu giờ chiều thứ Hai, ngày 10 tháng 3/1975, bộ đội Cộng Sản lại chia thành từng toán, đi lục soát khắp cùng thị xã, và thanh lọc dân chúng ở các tụ điểm của người chạy nạn như chùa Khải đoan, Trường Bồ đề, Trường Tàu ở đường Y Jút, và bắt đi những thanh niên nam, nử .

Người dân thị xã không còn điểm tựa, không còn chỗ kêu cựu Người ta theo lệnh của những khẩu AK chỉa vào họ như một cái máy, không cảm xúc, nỗi kinh hoàng đã cướp đi mọi cảm giác của con ngượi Và cũng chính giờ phút này, người ta hiểu thế nào là đường ranh của cõi chệt

Nhưng niềm tin và lòng hy vọng của muôn người lại trở về trong bản năng và tâm linh của ho. vì trên bầu trời thị xã, hai chiếc L-19 đang lượn vòng trên đầu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, mà từ sáng, nỗi hãi hùng đã làm người ta quên mật Những tia khói đục như một màng luới từ dưới đất tung lên, tạo thành những chiếc dù tí hon bao quanh hai chiếc L-19, Đó là đạn phòng không 37 ly và 12 ly 7 của Cộng quân, nhưng không một chiếc L-19 nào bị trúng đan.

Phật Xá Lợi vẫn còn tại thế, Chúa Giê Su về trời vẫn lập phép Thánh Thể để nuôi người thế gian, Bộ Tư Lệnh Sư Đòan 23 Bộ Binh vẫn còn đó, nghĩa là linh hồn và niềm tin của người dân thị xã vẫn chưa bị hủy diêt. Mọi người như thầm xin "Những Con Ó của Sư Đoàn 23 ơi, xin hãy vì 60 ngàn dân và thành phố thân yêu này mà chiến đậu"

BAN MÊ THUỘT GIÂY PHÚT LÂM CHUNG
(Kỳ tới)
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

Kinh gởi anh KhieuLong


dutu
Last edited by dutu on Tue Oct 06, 2009 4:46 am, edited 1 time in total.
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

Hi anh Khieulong

Anh đã sữa đúng rồi.
Cám ơn anh

Thân mến

dutu
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

8)
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

BAN MÊ THUỘT GIÂY PHÚT LÂM CHUNG
Cuộc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975 của 3 sư đoàn Bộ Binh Bắc Việt cùng với chiến xa T-54 và các loại trọng pháo cho đến lúc này đã hầu như lắng đọng trong nội vi thị xã (16 giờ 10 ngày 10 tháng 3/1975). Và các cứ điểm quân sự quan trọng đã bị Cộng quân tràn ngâp.

Sáu giờ 20 ngày 10 tháng 3/1975, phi trường trực thăng và L19, đài kiểm báo, đơn vị phòng thủ phi trường, nằm ở phía Bắc thị xã, cuối đường Phan chu Trinh và Tự Do, đã bị tê liêt.

Tám giờ 20 cùng ngày, kho đạn Mai Hắc Đế, phía nam Tây-Nam thị xã bị thất thủ

Mười một giờ 50, hậu cứ Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp ở cửa Tây thị xã di tạn

Mười hai giờ trưa, Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao, nằm trên đường Quang Trung Tôn thất Thuyết, cạnh chợ Ban Mê Thuột tan hạng

Mười bốn giờ 20 chiều ngày 10 tháng 3/1975 Bộ Chỉ huy Tiểu khu Darlac thất thụ

Mười lăm giờ 40 cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac rút khỏi thị xạ

Trong gần suốt 14 giờ đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát, Nghĩa Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Tỉnh,và Nhân Dân Tự Vệ toàn thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với lực lượng biển người, chiến xa và đại bác của Cộng quân mà không có được một đơn vị bạn nào tiếp cựu

Và giữa những giờ phút quyết liệt này, người ta nhận được tin vào lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một đơn vị Biệt Động Quân từ cửa Bắc thị xã (bến xe Cây Số 3) đã xâm nhập trung tâm thành phộ Tin tức này được loan truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp các cửa ngõ thị xã, và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy cho đến binh sĩ đều vui mừng nắm chắc phần quyết định chiến trượng

Nhưng cho đến một giờ chiều, tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn im hơi lặng tiếng, mà chiến trường mỗi lúc càng quyết liệt hơn, cho đến khi người ta biết rằng đơn vị Biệt Động Quân tiến vào thị xã sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình của vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xạ

Tin này quả thật là một tác động tâm lý, không những làm cho các đơn vị tham chiến mà cả toàn thị xã có cảm nghĩ Ban Mê Thuột đã bị bỏ rợi Tuy nhiên với tinh thần và trách nhiệm của một người lính, các đơn vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu với niềm tin lực lượng tổng trừ bị, và đặc biệt là hai Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ được gởi đện

Nhưng 1 giờ 15 ngày 10 tháng 3/1975, trung tâm hành quân của Tiểu Khu, đầu não của mọi hệ thống chỉ huy và liên lạc cho chiến trường Ban Mê Thuột bị đại bác của Cộng quân pháo sập, tiểu khu thất thủ, rồi Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh di tản và thị xã Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quận Một số các tổ trinh sát, các đơn vị an ninh vòng đai thị xã mất liên lạc với đơn vi. Những sĩ quan chỉ huy và binh sĩ của các đơn vị này đã lẫn vào các đoàn người chạy loạn, hoặc tự tái lập các tổ chiến đấu, lẫn tránh vào các khu rẫy cà phê mặt Bắc, phía sau Tòa Giám Muc.

Trong nội vi thị xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3/1975, trận chiến được coi như kết thục Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khị Những đống tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn, gợi cho người ta cái cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn ngượi

ĐÊM KINH HOÀNG

Từ 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3/1975, bộ đội Cộng quân bắt đầu chia thành từng toán nhỏ lục soát khắp cùng các khu phố và những điểm tập trung của người chạy loạn như chùa Khải Đoan, trường Bồ Đề, trường Tàu ở đường Y Jụt Họ thanh lọc dân chúng, bắt đi những thanh niên nam nữ, và truy lùng các viên chức chánh phủ, sĩ quan và binh lịnh

Khắp cùng các ngõ phố, bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công, đập phá các cửa tiệm, dinh thự, tư gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù ẩn trốn, là Việt gian, phản động, làm việc cho Mỹ Ngụy, hoặc có nợ máu
Image
Picture #8
với nhân dận Chúng thi nhau lục soát các trường học, nhà thờ, bức tượng ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị chúng đập nát, đồng thời lùng bắt những người có thù hằn với chúng, và lôi đốt hết các loại sách báo, giắo khoa, tự điển, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc biệt là những ấn phẩm viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp vặn

Một lần nữa, ngọn lửa tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên khắp cùng thị xạ Cảnh hôi của, hôi người, trả thù cá nhân lan tràn khắp nợi Thành phố bây giờ là một xã hội không tổ chức, không luật pháp, và tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các ngõ phộ Những hình phạt dã man thời tiền sử đã được đem ra thực hiên. Hình ảnh của chết chóc và khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và đè nặng xuống tâm hồn mỗi dân đinh của toàn thành phộ Ở cuối đường Hoàng Diệu, Nguyễn Trãi, Khách sạn Darlac, ba nghiệp chủ khai thác lâm sản đã bị đánh đập đến tàn khuyết, một số viên chức chính phũ, binh sĩ và cảnh sát bị hành hung rất dã man, nhưng các nạn nhân đều không có thuốc men cứu chữa và không được phép cứu chựa

Sự ngu dốt của kẻ chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ của cấp lảnh đạo chính là tai họa và thảm trạng tàn khốc cho một xã hôi. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng Hòa miền Nam đã có một trình độ văn hóa và kỷ thuật cách xa gấp bội so với miền Bắc, nên bộ đội Cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập tức đi dò tìm những ''đài địch,'' và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ cho rằng đó là vị trí đặt các máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà các trụ ăng ten TV là những ''đài địch '' ấy đã có khắp trong toàn thị xạ Thảm thương thay cho thành phố Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã nạy

Trong đêm này, không biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao nhiều người bị chết oan, đánh đập, hoặc bị đấu tố mang thương tích hay tàn khuyết, mà vợ con, thân nhân, bạn bè chỉ đứng nhìn mà không dám kêu vạn Máu và lệ đã đổ, nhưng không chảy ra từ khoé mắt, mà lại tuôn ngược vào lọng Trời ở quá cao mà Phật cũng rất xa, nên con người đã là chủ của con người trong đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung dự Đêm kinh hoàng, đêm của địa ngục và Sa Tặng

Nhưng bộ đội Cộng Sản đã không cần biết tới, mà còn tiếp tay, kích động, cùng với đám côn đồ nằm vùng, truy lùng và tận diệt những kẻ mà chúng thù hằn, hoặc chúng cho là có nợ máu với cách mang. Và cũng đêm nay, lần đầu tiên, người dân thành phố nhìn được bộ mặt thực của bộ đội Cộng Sạn

Cái quan trọng đối với kẻ chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1 này là vơ vét tất cả những gì họ có thể vơ vét: Kho dự trữ lương thực trung ương, trực thuộc Phủ Thủ Tướng nằm trên đường Tự Do, cạnh F Đặc Biệt, Kho Quân Nhu, Quân Cụ, dụng cụ y khoa và dược phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân Y Viện, Dân Y Viện, Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo, cửa hàng bách hóa của tư nhân trong toàn thành phộ

Suốt đêm, người ta nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng hóa vật dụng của thành phố đi về hướng Bandon, phía Tây thị xạ

Trong khi đó, những sĩ quan, binh lính và viên chức chính phủ bị kẹt lại trong thành phố, đang tìm cách lẩn trốn ra khỏi thị xã, hoặc ẩn núp trên các nóc nhà, giữa mái tôn và trần nhà, để tránh bị bắt hoặc bị trả thù cá nhận Cái lạnh về đêm của mùa Xuân cao nguyên, hoặc cái nóng kinh người của những ngày nắng tháng 3 ở thành phố Ban Mê Thuột đã mấy ai hiểu được, ngoại trừ những người lẫn trốn Cộng quân và bọn côn đồ nằm vụng Tuy nhiên, nỗi đau đớn của thể xác trong lúc này đã không làm con người cảm nhận được bằng sự kinh hoàng và tuyệt vọng đang dìm tâm trí họ xuống đáy vực mênh mộng

Đêm nay, ở một góc vòng đai thị xã, tôi nhìn rõ đêm đen phủ xuống bãi tro tàn và gạch vụn của khu phố, ngửi mùi khét của tử thi và gia súc trong trận lửa sáng nay mà nghe lòng mình như tan nát, rã rợi Tôi ngậm ngùi thương xót cho những gì vừa mất, những cuộc đời bình dị của từng con người và mỗi gia đình trên thành phố này, mà thời gian chỉ là tối Chủ Nhật hôm qua, mồng 9 tháng 3, và chỉ chưa tròn 24 tiếng đồng hồ mà tất cả đã không còn nựa Tất cả đã trở thành kỷ niệm, như một giấc mơ, đầy hãi hùng và kinh đạm Trong nỗi xúc động không cùng đó, tôi chợt nhớ về quảng đời đã qua, những tháng ngày ấu thơ trên thàng phố ''Buồn Muôn Thuơ' mà những học trò đêthất vẫn quen gọi tên Ban Mê Thuột một thời, giờ đây tôi càng nghe tên gọi đó êm ái lạ thượng

Ban Mê Thuột, quê hương ấu thơ ngày đó, cũng như phố thị êm đềm bình dị của hôm qua đã là một bãi gạch vun. Nhưng những kỷ niệm yêu dấu của Ban Mê Thuột mãi mãi không phai mờ trong tâm hồn của riêng tôi và của 60 ngàn dân đinh sinh trưởng ở nơi nạy

Tôi không hiểu được tại sao trong lúc này tôi lại nhớ về ngày cũ, chuỗi thời gian êm ái của thời niên thiếu trên khuôn viên trường Tổng Hơp. Những ngày tháng rong chơi trong các buôn, làng của khu vực Xã Cữ Êbư có đầy hoa Bằng Lăng màu tím nở rộ mỗi Hè về trên những đồi hoạng Con đường vào Buôn Dung xuyên qua khu suối Bà Hoàng có cỏ vàng và hoa Lan dai. Khu thác Drayling với bờ cỏ đá bám đầy trên những gốc cây dầu già như những cành liễu rũ xuống của mùa Thu Đà Lat. Và đẹp hơn, là những cành Phong Lan như những chiếc nơ thắt trên bím tóc thiếu nử thuở nạo

Không hiểu tôi đã thương con đường Hai Bà Trưng hay khu cư xá Lam Sơn êm ả buổi chiều về, hoặc là dãy phố Y Jút Quang Trung, nơi thị tứ có Ciné Lo Do và Nguyễn Huệ mà hằng đêm không hề thiếu ánh đèn mạu Khói thơm của tô bún bò rau chuối, hay mùi cay của khói thuốc Lào trong dãy phố chợ dọc Ama Trang Lọng Hoặc là cái hun hút của con đường Phan Chu Trinh chạy dài từ Toà Giám Mục đến nhà thờ cha Ngoạn, nối liền với đại lộ Thống Nhất cho tới Buôn Alê A, cửa Nam của thành phộ Hoặc giả là nỗi nhọc nhằn của người bộ hành từ khu đồi dóc Châu Sơn theo ngỏ Hàm Nghi về khu Chợ Nhỏ ở đường Hoàng Diệu nối dài vào mỗi sáng Chủ Nhât. Tất cả đã hiện về trong trí óc tôi như một khúc phim thơ mộng của thời vàng son vừa mất hôm quạ

Tôi vẫn nhớ rõ chiều hôm qua, mồng 9 tháng 3/1975, từng dãy xe nhà đậu nối đuôi nhau trên con đường Quang Trung, cạnh phòng mạch Nha Sĩ Ba, và một góc của đường Quang Trung Hai Bà Trưng, bên cạnh khách sạn Tường Hiệp đến khách sạn Hồng Kông, để chờ ăn một tô hủ tíu Nam Vang của Phú Lâm, và món canh cải chua nấu đầu cá của nhà hàng Hoàng Vinh, đối diện với Ngân Hàng Đại Ạ Và cũng chiều hôm qua, tôi và Thạnh còn lang thang trên con đường này, vừa muốn ghé vào tiệm kem Chi Cao, mà cũng muốn ăn một chén Thạch Chè của Tân Ka, nhưng rồi cuối cùng đã vào Blanc de Neige ở Lý Thường Kiêt.

Không phải tôi chỉ nhớ có bấy nhiêu, và nếu chỉ bấy nhiêu thôi, thật chưa đủ để nói về Ban Mê Thuột của tôi, vì danh lam thắng cảnh và cái thơ mộng của thành phố này còn chất đầy trong tâm trí mỗi con ngượi Từ cái sầm uất của một thành phố kỷ nghệ, Cây Số 7, khu khai thác và chế biến lâm sản, phía Nam thị xã 7 km. Ban Mê Thuột, ''Kinh đô Cẩm Lai và Cà Phê' mà những doanh gia khai thác lâm sản đã đặt tện Những dãy đồn điền cà phê và cao su rộng hàng chục ngàn mẫu, cho đến những khu giải trí ở ngoại ô, như Vườn Thực Nghiệm, Hồ Trung Tâm.. Và trong thành phố, những nơi ăn uống thành danh như Tân Cao Nguyên ở đường Hoàng Diệu, nhà hàng Vĩnh Thuận ở cuối Quang Trung, Cà Phê Thiên Hương ở Lý Thường Kiệt, Vui Sống ở Phan Chu Trinh, Mây Hồng ở khu trường Tổng Hơp... Rồi những dẫy phố xá tấp nập người qua lại như Phúc An, Dân Thiên Đường, Minh Sơn, Trúc Lâm, Rồng Vàng, Thanh Thê.. Vân vân và vân vân..

Nhưng tất cả những thơ mộng đó, giờ đây đã bị hủy diêt. Mồ hôi và nước mắt của bao người đã không ngừng đổ ra trong suốt bao nhiêu triều đại để xây dựng nên Ban Mê Thuột với kỳ vọng của họ và con cháu họ mai sau, giờ đây chỉ còn một đóng tro tàn, mà hương khói gần như cũng nhạt nhòa tan đi trong một vài giây phút nựa Ban Mê Thuột thực sự đã mất rồi, nhưng trong tâm trí những người còn lại, Ban Mê Thuột mãi mãi là máu thịt của châu thân mịnh

Image

Rạp hát Lo-Do và một góc chợ Banmêthuột nằm trên đường Quang Trung – Y-Jút
(picture # 9)
BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG

(Kỳ tới)
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG

Bây giờ là 4 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, khu suối Đóc Học với những vườn rau tàn tạ đầy dấu dép râu và dấu xích chiến xa. Khu xóm nghèo của một ngoại ô tỉnh nhỏ càng tàn tạ tẻ lạnh hơn lúc nào. Nhìn về khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Dân Y Viện Ban Mê Thuột, chỉ còn thấy được ngọn đèn Signal chơ vơ trên trụ truyền tin. Những đóm màu đỏ của hỏa châu càng nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang trong rừng đêm.

Cái lặng lẽ của đêm trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng làm cho người ta liên tưởng tới một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu lâu một tràng đại liên hoặc những loạt súng nhỏ không phân biệt được AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24 giờ đồng hồ, từ lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đợt tấn công đầu tiên của Cộng quân vào hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nghĩa là lực lượng phòng thủ hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng trong suốt 24 giờ, và không hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.

Qua hệ thống truyền tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi Khu Ban Mê Thuột, và Đại Tá Dậu, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc, mà chưa chọc thủng được phòng tuyến của Cộng quân để tiến vào thị xã. Hy vọng duy nhất trong lúc này, là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu Bộ Tư Lệnh, dầu rằng màng lưới phòng không với đại liên 37 ly của Cộng quân vẫn không ngừng tấn công.

Và chính trong hòan cảnh này, tôi mới hiểu rõ tinh thần Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm của những chiến sĩ Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Những con ó vùng Cao nguyên đã làm cỏ Sư Đoàn 320 Sao Vàng của Cộng quân vùng Dakto, Tân cảnh, Bến Het một thời nào, giờ đây, những con ó đó vẫn vẫy cánh tung hoành giữa rừng quân địch không một chút e sợ.

Năm giờ 55 sáng ngày 11 tháng 3/1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh, buổi sáng tháng Ba ở vùng cao nguyên thường có sương mù che phủ, nhưng hôm nay, sương mù đã được thay bằng bụi khói, và không khí trong lành của những sáng mùa Xuân năm xưa đã bay mất để nhường chổ cho mùi khét của thuốc súng.

Ở cửa Nam thị xã, lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng, nằm trên đại lộ Thống Nhất vẫn còn cầm cự. Tư dinh này là một biệt thự khá kiên cố, nửa phần tường phía dưới được xây bằng đá, và hệ thống công sự cũng là những lô cốt đá. Nhờ vậy trung đội phòng vệ tư dinh đã không di tản theo Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Mặt khác, tư dinh này tương đối gần hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh hơn Tiểu Khu. Vả lại, với một phạm vi nhỏ, trung đội phòng vệ dễ dàng bố trí hỏa lực hơn ở một vòng đai rộng lớn như Tiểu Khu. Đo đó, trung đội trưởng là Trung Úy Hoành đã cương quyết không di tản. Sự hiện diện của đơn vị này đã trở thành một chướng ngại và nghi điểm trong chiến thuật đối với lực lượng Cộng quân trong lúc này.

Sáu giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, từ khuôn viên trường tiểu học Nguyễn Du, sau lưng Sở Học Chánh Ban Mê Thuột, người ta nhìn rỏ những chiếc T-54 của Cộng quân, và lực lượng bộ binh đang thực hiện một cuộc chuyển quân bao vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Vòng vây này đang được thắt chặt, như một màng lưới dày đặc chung quanh vòng đai phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng Tây-Nam, đang dàn hàng ngang tiến sát và hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Với kinh nghiệm của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư Lệnh khó lòng cầm cự được trong vòng vài ba giờ đồng hồ tới.

Trong khi đó, những tiếng súng nhỏ, và đại bác 100 ly, cùng lúc gầm lên như những giây pháo nổ không ngừng, làm rung chuyển cả một vùng trời. Cộng quân bắt đầu nổ lực tấn công hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và chiến xa T-54 cũng ráo riết tấn công lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng. Nhưng chỉ là một trung đội Địa Phương Quân, đơn vị phòng thủ tư dinh làm sao có thể chống trả được với lực lượng biển người và chiến xa T-54 của Cộng quân.

Tám giờ 15 sáng ngày 11 tháng 3/1975, tư dinh tỉnh trưởng bị T-54 ủi sập các bức tường vòng đai, và pháo sập các tầng lầu. Trung úy trung đội trưởng bị trọng thương. Trong máy PRC-25, người ta nghe được tiếng kêu cứu rồi xin lệnh di tản của Trung Úy Hoành, vị sĩ quan Địa Phương Quân vừa ngoài 30 tuổi, nhưng lòng can đảm và kinh nghiệm chiến trường của ông đã vượt xa quá tuổi đời. Ông đúng là một sĩ quan ưu tú của quân đội.

Tư dinh tỉnh trưởng đã thất thủ, chốt điểm cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị Cộng quân tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bây giờ như người hùng cô đơn vẫy vùng dưới trời mưa đạn của quân thù.

NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG CỦA BỘ TƯ LỊNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH

Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các phòng ban chuyên môn, trong đó có một đại đội là đơn vị tổng hành dinh, chuyên trách về hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt là các Trung Đoàn 44 và 45 đang hành quân vùng Pleiku. Trung Đoàn 53 chỉ có hai tiểu đoàn ở Ban Mê Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105 ly, nhưng một tiểu đoàn lại đã điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập, một quận vừa bị Cộng quân tràn ngập vào sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3/1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7 km.

Lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh hiển hách không phải vì những chiến công hay lòng dũng cảm của các vị tư lệnh sư đoàn từ thời Đại Tá Võ Văn Cảnh, Trương Quang Ân để lại, mà chính là những chiến thắng vẻ vang, oanh liệt mà sư đoàn đã mang về cho quân lực, từ những chiến dịch Bình Tây 1 và 2... Những trận đánh kinh thiên lẫy lừng, làm vang dội các địa danh chưa có người biết tới, như Dakto, Bến Het, Tân Cảnh. Lịch sử vẻ vang của một đơn vị quân lực kiêu hùng không dễ tự nhiên mà có, nhưng hôm nay, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lần đầu tiên trong lịch sử đơn vị, và trong quân sử của một quân đội kiêu hùng đang đi vào ngỏ rẽ.

Cho đến 8 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, đơn vị quân lực còn có mặt tại thị xã Ban Mê Thuột chỉ là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Cộng quân biết rõ điều này, và càng hiểu rằng Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang sơn của họ. Và đặc biệt là Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt ngoài vòng đai thị xã ở cửa Bắc, một đơn vị mà các đơn vị chủ lực quân Bắc Việt không bao giờ dám đụng đầu trên chiến trường Cao Nguyên trong suốt nhiều năm qua, từ các mặt trận vùng Tây Bắc Kontum, PleiKu, Bến Het... cho đến chiến dịch càn quét Cục R, cơ quan đầu não tổng chỉ huy các lực lượng của Cộng quân tại miền Nam, đặt ngoài lảnh thỗ quốc gia.

Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách thị xã Ban Mê Thuột 35 km về hướng Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng 3/1975. Đến 9 giờ tối cùng ngày đã tiến sát vào vòng đai thị xã, nhưng chưa chọc thủng được vòng vây của Cộng quân. Tiểu Khu Darlac lúc bấy giờ đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 cố thủ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu cầu cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.

Điểm đáng tiếc là 10 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đơn vị tiền sát của liên đoàn đã đột nhập thị xã, di tản gia đình vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã, nhưng lại không được lệnh ở lại làm điểm tựa cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu thị xã sau này. Thực sự, nếu Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân có mặt tại thị xã, thì nhất định Ban Mê Thuột đã không thất thủ mà còn đánh tan được 3 sư đoàn quân chủ lực Bắc Việt, và bẻ gãy toàn bộ mọi mưu đồ của Cộng quân.

Từ 6 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 3/1975, Cộng quân đã bố trí xong lực lượng thắt chặt vòng văy hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54, bắn trực xạ, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly từ hướng Bandon dồn dập đổ xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời, chiến xa và bộ đội Cộng quân dàn hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh. Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh đã chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận chiến với quân thù. Nhìn lên khung trời Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 bây giờ chỉ còn thấy được những cuộn khói dày đặc mịt mù. Điều đáng tiếc là mấy chiếc thiết vận xa M-113 còn lại của Sư Đoàn 23 trong lúc này lại lại không thấy hoạt động.

Mười giờ 10 phút, một phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị phá hủy.

Mười giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975, một đoạn hệ thống công sự ở mặt Tây và phía Nam Bộ Tư Lệnh đã bị chọc thủng. Bộ đội và chiến xa của Cộng quân tràn vào hậu cứ Sư Đoàn 23 Bộ Binh như nước vỡ bờ. Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị thoát khỏi hậu cứ, bỏ lại Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình huống vô cùng bi thảm. Ban Mê Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn dân như một đàn gà con mất mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này cùng với nổi hải hùng và tuyệt vọng mênh mông.
Image
Picture # 10

MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN 53 BỘ BINH

Thị xã Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân từ chiều hôm qua, ngày 10 tháng 3/1975, và đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã này lúc 10 giờ 38 phút ngày 11 tháng 3/1975. Nhưng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, phòng thủ phi trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km về hướng Đông Bắc vẫn cố thủ phi trường và cương quyết chống lại lực lượng biển người và chiến xa T-54 của Cộng quân.

Cùng lúc tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân đã không bỏ sót Trung Đoàn 53. Chiến xa và bộ đội của Cộng quân, với đại bác 130 ly, và hỏa tiển 122 ly yểm trợ đã không ngừng luân phiên tấn công Trung Đoàn 53. Và sau khi đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ Ban Mê Thuột, Cộng quân càng tập trung lực lượng tấn công Trung Đoàn 53 ác liệt hơn.

Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh là Trung Tá Ân. Biết rõ ý đồ của Cộng quân, nhưng ông cũng hiểu rằng Phi Trường Phụng Dực là điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho lực lượng tổng trừ bị là sư đoàn Nhảy Dù đến giải cứu Ban Mê Thuột sau này, đồng thời đơn vị của ông là lực lượng đầu cầu và liên lạc duy nhất cho các đơn vị bạn về sau. Do vậy, ông đã ra lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm đạn dược và mọi phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của địch để chống lại kẻ địch, và phải nhất dịnh bắn trúng mục tiêu.

Trong suốt thời gian 6 ngày đêm, Trung Đoàn 53 Bộ Binh không những đã đánh tan nhiều đợt tấn công của Cộng quân, mà còn tịch thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như súng cộng đồng để tiêu diệt T-54 và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến trường. Sự tổn thất nặng nề nhất của Cộng quân trong mặt trận Ban Mê Thuột, hơn 200 nhân mạng, không biết được con số bị thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng chính B-40, B-41 của Cộng quân do Trung Đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường Phụng Dực.

Từ sáng sớm ngày 10 tháng 3/1975 cho đến hết ngày 15 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh, và trung đội Pháo Binh 105 ly đã anh dũng chiến đấu với một lượng Cộng quân nhiều gấp bội, có chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần biết đến Ban Mê Thuột đã thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14 tháng 3/1975, đã loan tin Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày 15 tháng 3/1975, một phi vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho Trung Đoàn 53 đã không rơi đúng điểm ấn định mà lại rơi xuống khu vực Vườn Ương ở Hồ Thực Nghiệm.

Ngày 16 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Hết đạn dược và thuốc men, Trung Tá Trung Đoàn Trưởng đành phải ra lệnh rút khỏi phi trường Phụng Dực. Điểm liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân. Nhưng Trung Tá Ân, đúng là người hùng của quân lực, và Trung Đoàn 53 Bộ Binh anh dũng là những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm khiếp đảm quân thù, và đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng Hòa miền Nam.

Với lịch sử của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế của mặt trận Ban Mê Thuột, nếu thị xã Ban Mê Thuột được Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh phòng thủ, thì cho dầu Cộng Sản Bắc Việt có quân số nhiều gấp ngàn lần đi nữa trong cuộc tấn công này, Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đã không rơi vào biển đêm của lịch sử dân tộc. Và Sư Đoàn 23 Bộ Binh vĩnh viễn là một đơn vị kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.

Suốt đêm nay, tôi vẫn mơ màng tự hỏi tại sao Ban Mê Thuột có thể thất thủ dễ dàng và nhanh chóng như vậy? Chỉ với một tiểu đoàn Bộ Binh của Trung Đoàn 53, đã cầm cự với lực lượng Cộng quân hơn suốt 6 ngày đêm.

Qua tin tức các hoạt động của địch được ghi nhận ở những ngày đầu chiến cuộc, và đặc biệt là trong các buổi họp tham mưu, Đại Tá Luật đã nhiều lần nhắc nhở các đơn vị về những hoạt động của Cộng quân, những đơn vị chủ lực quân Bắc Việt đã ghi nhận có mặt quanh vòng đai lãnh thổ, hoặc nghi ngờ đang di chuyển về lảnh thổ Darlac. Và điểm đặc biệt là Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật của Tiểu Khu, một đơn vị mới thành lập đã được đặt trong tình trạng báo động.

Tất cả những sự kiện đó, chứng minh rằng, các giới chức thẩm quyền ở địa phương đều biết trước, Ban Mê Thuột sẽ bị tấn công, nhưng tại sao Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh lại không được trả về Ban Mê Thuột? Tại sao Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân lại bị mất đi cơ hội xâm nhập thị xã để gải cứu Ban Mê Thuột? Những câu hỏi này, ai có trách nhiệm trả lời, và đến bao giờ mới trả lời được.

MẶT TRẬN PHÍA TÂY BẮC THỊ XÃ VÀ TRẠI ĐỊNH CƯ CHÂU SƠN

Sau khi hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã lúc 10giờ 38 phút sáng ngày 11 tháng 3/1975), Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân. Một số binh sĩ thuộc Tiểu Khu, Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp, đơn vị hành chánh tiếp vận... đã thất lạc đơn vị và chạy vào xã Châu sơn, cách thị xã 3 km về hướng Tây Tây-Bắc.

Xã Châu Sơn là tên của một trại định cư có khoảng 5,000 người, từ miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định Geneve năm 1954, được cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành lập vào khoảng năm 1956, cùng với các trại định cư khác trong toàn lãnh thổ tỉnh Darlac.

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã nhận định Ban Mê Thuột có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, không những có thể kiểm soát toàn miền cao nguyên mà còn là giao điểm nối liền cao nguyên với duyên hải, đồng thời từ Ban Mê Thuột còn có thể kiểm soát được vùng Tam Biên Việt Nam, Lào, và Cam Bốt. Vì vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thiết lập một vòng đai an toàn bảo vệ cho thị xã Ban Mê Thuột bằng một hệ thống gồm các trại định cư sau đây:

Trại định cư Châu Sơn ở mặt Tây tây Bắc thị xã Ban Mê Thuột 3 km. Phía Nam dọc theo Quốc Lộ 14, cách thị xã 5 km là trại Chi Lăng, với dân số khoảng 3,000 người, và xa hơn là Thọ Thành. Phía Đông-Nam cách thị xã 3 km có trại định cư Trần Hưng Đạo gần 2,000 người. Phía Đông khoảng 9 km có Hòa Bình, là quận lỵ của quận Ban Mê Thuột. Cũng về mặt Đông, cách Ban Mê Thuột 15 km, có trại định cư Trung Hòa với dân số 5,000 người. Xa hơn, doc theo Tỉnh Lộ số 5, đường đi Quận Lạc Thiện, có hai trại Kim Châu, Kim Phát, với dân số khoảng 6,000.
Image
Nhà thờ Giáo xứ Hà Lan Hà Lan, thuộc Quận Buôn Hô, Cách Banmê thuột 32 km về phía Bắc\
(picture # 11)

Phía Bắc Ban Mê Thuột, dọc theo Quốc Lộ 14, cách thị xã 32 km, có 3 trại định cư, chiếm tỉ lệ dân số người Kinh cao nhất trong toàn tỉnh, hơn 10 ngàn người, đó là các trại định cư Hà Lan A và Hà Lan B, Vĩnh Phước, thuộc Quận Buôn Hô, đã nổi tiếng trong trận đánh đầu Xuân năm 1972 với hai trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt trong suốt 10 ngày đêm mà chỉ với 7 trung đội Nghĩa Quân và lực lượng Nhân Dân Tự Vệ Xã.

Image
Giờ tan Lề tại Giáo xứ Hà Lan
(picture # 12)



Thị xã Ban Mê Thuột mất, xã Châu Sơn tự họ quyết định số phận của mình, cưong quyết chống lại Cộng Sản, theo tinh thần của cuc khởi nghĩa Quỳnh Lưu, Nghệ An giữa thập niên 1950 và 1960 khi người dân nổi lên chống lại xe tăng và bộ đội Cộng Sản Bắc Việt năm xưa.

Tập hợp lại những binh sĩ tản lạc chạy vào xã, Ban Chỉ Huy Liên Trung Đội Nghĩa Quân đã hô hào đồng bào đào chiến hào dọc theo hàng rào ấp chiến lược, lập tổ tam tam, 3 người một, yểm trợ lẫn nhau, để chống lại quân Cộng sản. Phụ lão và thiếu niên lo phần tiếp tế cơm ăn, nước uống và cứu thương. Thanh niên nam nữ túc trực ở giao thông hào phòng thủ. Suốt 11 ngày đêm, lực lượng Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ và toàn dân xã Châu Sơn đã đánh trả không ngừng với lực lượng Cộng quân.

Cuối cùng Cộng quân phải dùng chiến xa T-54 dàn hàng ngang ủi sập hệ thống giao thông hào và hàng rào phòng thủ. Nhiều trung đội trưởng và liên trung đội trưởng Nghĩa Quân bị thương và bị bắt. Xã Châu Sơn đầu hàng. Riêng liên trung đội trưởng nghĩa quân Nguyễn Văn Tiến bị xử án chung thân. Sau hơn 20 năm những người dân xã Châu Sơn một lần nữa, lại bị nô thuộc dưới chế độ Cộng Sản. Nhưng tinh thần chống Cộng và gương anh dũng chiến đấu của họ nhất định mãi mãi lưu truyền cho thế hệ mai sau.
Image
Cầu 14 ( nằm giữa 2 xã Thọ -Thành và Cữ-Ju’t, Cách thị xã Ban mê thuột 14 km về phía Nam
(picture # 13)
QUẬN PHƯỚC AN: CỨ ĐIỂM CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CUỐI CÙNG

Ban Mê Thuột thất thủ, quận hành chánh và các chi khu di tản về quận Phước An để thành lập một tuyến phòng thủ chiến lược nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột. Chi khu và Quận Hành Chánh Phước An nằm trên một ngọn đồi trọc phía đông bắc thị xã Ban Mê Thuột 42 km, trên Quốc Lộ 21, giáp ranh với quận Khánh Dương, tỉnh Khánh Hoà, Nha Trang là giao điểm giữa Ban Mê Thuột và Nha Trang, hay là trục nối giữa vùng cao nguyên với miền duyên hải trung phần.

Chín mươi phần trăm dân số Phước An là ngưòi thượng sống rãi rác trong các buôn làng. Trước năm 1960, hầu hết người Thượng ở quân này đều sống bằng nghề làm rẫy, trồng cây ngũ cốc, như bắp và lúa. Nhưng từ sau năm 1960, những di dân từ các miền đến lập nghiệp ở vùng này, đã khám phá ra vùng đất màu mỡ của Phước An rất thích hợp để trồng các loại cây kỹ nghệ như cà phê, cao su, tiêu, ca cao, và từ đó, những dãy đồn điền cà phê mọc lên như nấm nằm dọc hai bên Quốc Lộ 21, từ cây số 5 cách thị xã Ban Mê Thuột về hướng Đông-Bắc cho đến cây số 42 Quốc Lộ 21 và chạy sâu vào hàng chục cây số, đã làm cho Phước An trở nên một vùng trù phú bậc nhất của tỉnh Darlac.

Ngoài cà phê, Phước An còn là khu vực lâm sản quan trọng. Cây Gõ (Cà te) là mối lợi lớn nhất mà các nhà lâm sản thời bấy giờ hằng mơ ước. Quận Phước An có một trường trung học công lập, và hầu như mỗi buôn làng đều có một trường tiểu học cộng đồng, nên dân trí và sinh hoạt của quận này rất cao.

Từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, Bộ Chỉ Huy Tiẻu Khu Darlac, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, các đơn vị đồn trú tại thị xã, các quận hành chánh và chi khu của các quận đều di tản về Phước An để lập một tuyến phòng thủ và chuẩn bị tái chiếm Ban Mê Thuột.

Bốn giờ 40 chiều ngày 13 tháng 3/1975, hai Trung Đoàn Bộ Binh 44 và 45 thuộc Sư Đoàn 23 được đổ xuống quận Phước An, Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn 2 được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, lo phối trí lực lượng tái chiếm Ban Mê Thuột.

Từ 13 tháng 3/1975 đến 16 tháng 3/1975, phòng tuyến Phước An được thành lập với lực lượng của ba chi khu và hai Trung Đoàn Bộ Binh 44 và 45 trong một khí thế hết sức thuận lợi. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột được coi là hoàn tất ở giai đoạn đầu, chỉ còn đợi lệnh và chờ phối hợp với lực lượng tổng trừ bị của Bộ Tổng tham Mưu tăng viện.

Nhưng cho đến ngày 17 tháng 3/1975, lực lượng tổng trừ bị vẫn chưa được gởi đến. Trong khi đó, bộ binh và chiến xa của Cộng quân đã từ thị xã Ban Mê Thuột đổ về tấn công ráo riết phòng tuyến Phước An không một phút nào ngừng. Chiều ngày 17 tháng 3/1975, phòng tuyến Phước An bị Cộng quân chọc thủng, cứ điểm chiến lược cuối cùng của Ban Mê Thuột bị tan rã.

Ban Mê Thuột, tỉnh Darlac gồm bốn quận hành chánh và bốn chi khu cùng với 150 ngàn dân rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Tỉnh Darlac, một trong 42 tỉnh của Việt Nam Cộng Hoà bị xóa tên trên bản đồ hành chánh của nền Cộng Hòa từ ngày hôm nay.

"....................................................

Tôi lịm chết giữa điệu buồn chất ngất
Thả hồn xuôi theo kỷ niệm xa mờ
Phút vị vong thắp lại nén hương thừa
Mà tưởng nhớ một thời xưa đã sống

.................................................. "

(Thời Gian)


BAN MÊ THUỘT
NHỮNG NGÀY ÐẦU TRONG TAY CỘNG QUÂN


(Kỳ tói )

***
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

Last edited by dutu on Wed Oct 21, 2009 9:52 pm, edited 1 time in total.
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

Image

BAN MÊ THUỘT
NHỮNG NGÀY ÐẦU TRONG TAY CỘNG QUÂN

Nguyễn Định


Đã hơn một phần tư thế kỷ, thời gian trôi đi với biết bao vật đổi sao dời, nhưng trong tâm hồn mỗi người dân thành phố "Buồn Muôn Thủa", kỷ niệm xưa vẫn còn đó, thành phố quen thân của 26 năm về trước vẫn còn in sâu trong kí ức của mỗi con người. Như đại lộ Thống Nhất, chạy dài từ trung tâm thành phố ở Ngã 6 cho tới Buôn A Lê A, qua Hội đồng Tỉnh, Câu Lạc Bô Biên Thùy, Bưu Điện, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Công viên, Ty Ngân Khố, Trường Trung học Hưng Đức, là cửa ngỏ phía Nam của thành phố. Đường Lê Lợi, nối từ đại lộ Thống Nhất, bọc theo Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá Sĩ quan, cho đến trường Trung Học Tổng Hợp. Đại lộ Hùng Vương, nối từ Quân Y viện, ngang qua doanh trại đại dội 206 Cảnh sát Dã Chiến cho đến khuôn viên nhà thờ Chính Tòa, ở ngã 6 - Con đường Phan Chu Trinh, từ Ngã 6, ngang qua Trừơng Nử Trung Học Vinh Sơn cho đến Tòa Giám Mục. Đại lộ Tự Do, nối ngả 6, trung tâm thị xã với bến xe Cây Số 3, cửa Bắc thị xã, ngang qua biết bao Ty, Sở, và B Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, mà bên kia là Phi Trừơng L.19. Con đừơng Hàm Nghi dài hun hút, nối Phan Chu Trinh chạy dài cho đến ngỏ vào Xả Châu Sơn. Đường Phan Bội Châu, cũng từ Phan Chu Trinh, cắt Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Y Jút, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất Thuyết chạy dài cho đến Chùa Khải Đoan, trường Trung Học Bồ Đề và doanh trại Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp, cửa ngỏ của phía Tây Thị Xã.


Với bao tấp nập của phố phường, lộng lẩy như Khách sạn Anh Đào, Hồng Kông, Hoàng Gia, Khu Quang Trung - Hai Bà Trưng và ciné Nguyển Huệ, Khu chợ Y Jut với ciné Lo Do, Ngân Hàng Đại Á, Sàigòn Tín Dụng, và nhà hàng Thanh Thế lẩy lừng trên Ama Trang Long. Những tiệm buôn khang trang như Trúc Lâm, Minh Sơn, Thăng Long, Dân Thiên Đường ...và biết bao thực đơn nổi tiếng của Vĩnh Thuận, Hoàng Vinh, Tân Cao Nguyên, và Le Blanc de Neige....

Những cảnh vật và sinh hoạt đó không dễ gì phôi pha được trong tâm trí những người dân Banmêthuột, và còn biết bao nhiêu nữa, những phồn hoa của phố thị thủa nào, mà mỗi người, một đời đả sinh ra và lớn lên ở nơi này, hay hoặc gĩa đã 1 thời được sinh hoạt của phố phường này cưu mang và nuôi dưỡng, nhất định không thể nào quên được Banmêthuột với kỷ niệm của đời mình. Banmêthuột, đã 26 năm qua, những tang thương dâu bể đã biến dời, phố phường tấp nập xưa chỉ còn lại trong ký ức mà thôi, và 60 ngàn dân bây gìơ đang phiêu bạt khắp 4 phương trời, ai còn, ai mất, nào ai đã biết, nhưng trong tim, trong óc của mỗi dân đinh, Banmêthuột mãi mãi và bất diệt.


BANMÊTHUỘT, THÀNH PHỐ BỎ NGỎ

Thứ Hai, ngày 10 tháng 3 năm 1975

Khi đem ra cuốn nhật ký viết về trận tấn công Banmêthuột cuả Cộng quân, và tình hình thị xã Banmêthuột từ giây phút đầu tiên 2g 20 sáng ngày 10 tháng 3, năm 1975, tôi hoàn toàn chỉ muốn làm 1 người kể chuyện, không thêm bớt và bày tỏ quan điểm của cá nhân để đánh giá hoặc nhận định, những điều này nếu có chỉ là vì sự kiện bắt buộc bởi tính khách quan, phần phê phán, nếu có, hoàn toàn là quan điểm của người đọc. Tôi cũng muốn bày tỏ 1 điều, là những chi tiết đọc thấy trên những trang giấy này, sau hơn 26 năm, chỉ là nhật ký, được ghi lại trong cái nhìn về tình hình thị xã 1 cách khách quan, trên toàn thể khung cảnh và sự kiện ở thành phố Banmêthuột vào những ngày khốc liệt và khủng khiếp đó.

Tuy nhiên cái nhìn của tôi nhất định có phần khiếm khuyết, vì từ trận pháo kích mở màn, 2 giờ 20 phút sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, khi những chi tiết tin tức từ các chốt an ninh vòng đai thị xã gởi về cho các trung tâm Hành Quân, cho đến ngày tôi phải rời bỏ Banmêthuột, vẫn còn 1 vài khu phố tôi không có cơ hội đi qua vì tình hình an ninh vào những ngày đó. Nhưng những sự việc xảy ra trong khu vực tôi nhìn được, là toàn thể khu phố thị tứ, sầm uất nhất của thị xã này. Tôi cũng ao ước có ai đó kể cho tôi đoạn đường di tản mà Tiểu Khu và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia phải đi qua, từ mặt sau Tiểu Khu hay từ Quân Y viện đến trung tâm Huấn Luyện Tân Binh của Sư Đòa 23 B Binh ở Trung đoàn 45 BB, dầu thực sự tôi cũng biết rõ cái nguy hiểm và nỗi gian truân trên đoạn đường đó. Và với bằng ấy sự tình, trong tôi chỉ có nỗi cảm xúc mãi mãi không nguôi và mãi mãi không vơi.

* 2 giờ 20 sáng: Bắt đầu trận pháo kích, kéo dài liên tục cho đến 6 giờ sáng, bằng các loại đại bác: 130 ly, Hoả tiển 122 ly, đại bác 100 ly gắn trên xe tăng T.54

* 4 giờ sáng: Bộ binh và chiến xa T54 của Cộng quân tấn công mặt Bắc Phi trường L19 với chiến thuật biển người, tiền pháo, hậu xung. Lực lượng phòng thủ phi trường là đại đội Thám Sát Tỉnh, (PRU), trực thuộc Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Tỉnh, quân sồ 40 người.

* 5 giờ sáng : Đơn vị phòng thủ Phi trường L19 xin Tiểu Khu tiếp viện, Tiểu Khu chỉ thị Đại dội 1/224 Ðịa phương Quân, Đại Úy Hải là đại đội trưởng, nhưng đại đội 224 ĐPQ đã không thể tiến vào Phi Trường L19 được để tiếp cứu đại đội Thám Sát Tỉnh, vì biển người của Cộng quân.

* 6 giờ 20: Phi trường L19 thất thủ, Đại đội Thám sát Tỉnh tan hàng.

* 6 giờ 55: Cộng quân làm chủ mặt Bắc thị xã.

Cộng quân từ mặt Bắc tiến vào thị xã theo đường Phan Chu Trinh và ven vòng đai Phi trưòng L 19, khu xóm đạo, đến đường Phan Bội Châu, khu Trường Nữ Trung Học Vinh Sơn nằm giữa 2 con đường Phan Chu Trinh và đường Tự Do, mà bên kia đường Tự Do là dinh Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và bố quân tại đó.

Mặt Tây thị xã

* 7 giờ 5 phút: Cộng quân xâm nhập khu vực suối Bà Hoàng, và cuối đường Hàm Nghi, ngõ vào xã Châu-Sơn.

* 7 giờ 15: Một mủi tiến quân khác của Cộng quân tràn chiếm khu vực cuối đường Hoàng Diệu, (đường đi Bandon, Khu trung tâm xã hội, do linh mục Trương Trọng Tài, mới thành lập để nuôi người gìa tàn tật và trẻ mồ côi.



Mặt Nam thị xã -

7 giờ 30: Cộng quân chiếm khu giáo xứ Tân Mai, Buôn AlêA, nằm trên đường Thống Nhất, nối liền Quốc L 14 tại Trạm kiểm soát cửa Nam, thuộc Cục Cảnh sát Quốc Gia. Dân chúng từ mặt Nam thị xã, đổ xô nhau chạy vào khu Dân Y Viện Banmêthuột và Trường Tiểu Học Nguyễn Du tránh đạn.

Cũng vào thời gian này, dân chúng từ cửa Bắc thị xã, khu xóm đạo, bồng bế nhau chạy vào trung tâm thành phố, ở khu Ly Thường Kiệt - Ama Trang Long, chen chúc nhau ở khu vực tiệm Bida Thanh Sơn, tiệm gạo, nhà sách Văn, trên đường Lý thường Kiệt, đối diện Khách sạn Hoà Bình và tiệm chụp hình Hưng Ký. Ở mặt Tây, dân chúng đổ xô nhau chạy về khu trường Tàu nằm trên đường Y - Jut, đối diện Hội Dục Anh. Tình hình tại Trung Tâm thị xã, Từ khu vực Ngả 6, nhà thờ chính tòa (nhà thờ cha Ngoạn), Khu Quang Trung, Ciné Nguyễn Huệ, Ama Trang Long, Hai Bà Trung, Lý Thường Kiệt, Y - Jut, Ciné Lo Do, Tôn Thất Thuyết, đến khách sạn Hoàng Gia, vẫn còn yên tĩnh, chưa có bóng dáng của Cộng quân.

Cũng thời gian này, các chốt an ninh vòng đai thị xã hoàn toàn tan vở. Nhưng tin tức về các mủi tiến quân của Cộng quân, các trung tâm hành quân của Tiểu Khu, Trung tâm hành quân Cảnh Lực của Cảnh sát đã nhận rất đầy đủ.

Từ 7 giờ 30 đến 8 giờ 30 thứ 2, ngày 10 tháng 3 năm 1975, lực lượng Cộng quân đã hoàn toàn làm chủ tình hình các mặt Bắc, Tây và Nam thị xã, vành đai an toàn cho thị xã đã bị phá vở, và các chốt điểm quan yếu như Phi trưòng L19, bến xe cây số 3 ở phía Bắc, Trạm kiểm soát phía Nam và kho đạn Mai Hắc Đế đã lọt vào tay Cộng quân.

* 8 giờ 45: Lực lượng Cộng quân từ khu vực đường Phan Bội Châu và Trường Nữ Trung Học Vinh Sơn chiếm khuôn viên nhà thờ Chính Toà (trung tâm thành phố).

Một cánh quân khác của Cộng quân từ cuối đường Phan Bội Châu, có T54 cũng đang theo đường Phan Bội Châu tiến về khu vực nhà thò Chính Toà.

* 9 giờ: Lực lượng Cộng quân dùng B40, B41 và cối 60 ly bắn phá khu trungtâm thành phố trên đường Hai Bà Trưng, đoạn từ Quang Trung đến Ama Trang Long (Khu bến xe Lam cũ, cạnh khách sạn Hồng Kông, thiêu huỷ hoàn toàn khu phố này và khu phố dọc theo Quang Trung, từ Hai Bà Trưng đến Lý thường Kiệt, đối diện Khách sạn Tường Hiệp, và Ngân Hàng Đại Á cũng thành 1 biển lửa.

Khu phố trung tâm bị bắn cháy, những cư dân ở đây và dân chúng từ ngoại ô thành phố chạy về tá túc ở khu vực Lý thường Kiệt, trong các tiệm bida Thanh sơn, tiệm gạo, nhà sách Văn ... đã xô nhau chạy băng qua đường Lý thường Kiệt, theo Ama Trang Long và Quang Trung chạy xuống khu chợ, nhà hàng Vĩnh Thuận, đối diện cục Cảnh sát Quốc Gia xã Lạc Giao đễ ẩn núp.

* 9 giờ 20 sáng ngày thứ 2, 10 tháng 3 năm 1975, một đơn vị Biệt ộĐng Quân, quân lực VNCH đầu tiên xâm nhập được thị xã, qua cửa ngỏ phía bắc, rải quân ở khu vực Trường Trung Học Tổng Hợp Banmêthuột, ngã 4 đường Bà Triệu và đường Hùng Vương.

* 9 giờ 25: Lực lượng Cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính toà vượt ngả 6, tiến chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ quan, Hội đồng Tỉnh, nằm ở ngã 3 Lê Lợi và Thống nhất, đối diện khu vườn hoang của bác sĩ Tôn Thất Niệm.

Tuy nhiên, mủi quân phía Nam của công quân, sau khi chiếm khu vực xứ Tân Mai và Buôn Alê A, đã không vượt được tư dinh tỉnh Trưởng, án ngữ trên đường Thống Nhất, đã bố quân dọc theo đại lộ Thống Nhất, bắn phá khu vực Ty Ngân khố và khu Dân Y viện Banmêthuột. Tư dinh Tỉnh Trưởng là tiền đồn kiên cố nhất đối với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu lúc bấy giờ, vì tư dinh được bao quanh bằng 1 hệ thống tường xây, và phần dưới của biệt thự này là tường bằng đá tảng. Tư dinh được 1 trung đội Địa Phương Quân trấn thủ, do Trung Úy Hoành chỉ huy.

* 9 giờ 30 phút sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ binh và chiến xa T54 của Cộng quân từ khu cư xá Sĩ quan, Hội đồng Tỉnh và Câu lạc bộ Biên Thuỳ, tràn qua khu vườn hoang của bác sĩ Tôn thất Niệm tấn công Bộ chỉ Huy Tiểu Khu Darlắc ( Banmêthuột).

* 10 giờ 15: Đơn vị Biệt đng Quân đưa gia đình Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB ra khỏi thị xã để đến doanh trại Trung đoàn 45 BB (ở cây số 5).

* 10 giờ 20: T54 của Cộng quân chiếm Sân vận động và khuôn viên Toà Sơ Thẩm Banmêthuột.

* 11 giờ 20: 1 chiếc T54 của công quân bị bắn cháy trước cổng chính B chỉ Huy Tiểu Khu, đối diện Bưu Điện Banmêthuột.

* 11 giờ 30: Cộng quân chiếm hoàn toàn khu trung tâm thành phố. Suốt từ Ngã 6,đường Phan chu Trinh, chạy dài theo Quang Trung và Ama Trang Long đến Tôn Thất Thuyết... bắn phá các dãy phố dọc theo AmaTrang Long, Y -Jut và bắn cháy khu chợ Banmêthuột.

* 11 giờ 45: Cộng quân bắn cháy 2 chiếc Commando Car của Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp tại ngả 3 Tôn Thất Thuyết - Ama Trang Long, trước Bar Quốc Tế và tiệm gạo Thanh Bình.

Tình hình dân chúng ở khu Trung Tâm thành phố

Trung tâm thành phố và khu chợ bị cháy, dân chúng đổ xô nhau chạy tán loạn, nhóm chạy băng qua đường Tôn thất Thuyết, xuống suối Đốc Học, để đến Trường Tiểu Học Nguyễn Du, đối diện Dân Y Viện Banmêthuột, mong thoát khỏi thị xã bằng ngã cửa Nam thành phố, (nếu họ có thể vượt được vòng vây của Cộng quân đang bắn phá khu tư dinh tỉnh trưởng và Ty Ngân Khố). Nhóm khác, băng qua đường Quang Trung, chạy bọc sau Ciné Lo Do và dãy phố đồ gổ trên đường Y Jut để đến đường Phan bội Châu, lần về hưóng Trường Trung học Tỉnh Hạt (trường Bán công củ). Tại đường Phan bội Châu, 4 chiếc T54 đang án ngữ khu vực từ ngả 4 Phan Bội Châu - Nguyễn tri Phương đến nhà sách Văn Hoa trên đường Phan bội Châu. Thực sự lúc đó người ta không biết được T54 hay M113 của Thiết doàn 8, nhưng trong những người chạy loạn, có những sĩ quan lạc ngủ, đã hướng dẫn dân chúng chạy theo lối họ nhìn. Đòan người theo Phan bội Châu chạy đến Tôn Thất Thuyết, rồi theo Tôn thất Thuyết chạy đến đường Hòang Diệu Nguyễn thái Học. Từ ngã 4 Hoàng Diệu - Tôn thất Thuyết chạy dài đến Hoàng Diệu Nguyễn tri Phương, dân chúng tụ tập 2 bên đường nhìn về hướng Bộ Tư Lệnh Sư doàn 23 B binh như trông chờ 1 điều gì, trên bầu trời bộ tư lệnh, 2 chiếc máy bay trinh sát L19 vẫn quần quanh trên đầu Bộ Tư Lệnh, và đạn phòng không 37 ly hoặc 12 ly 7 của Cộng quân từ hướng Bandon (hướng tây thị xã) bắn lên đan chéo quanh 2 chiếc L19 như những bông dù làm thành 1 võng lưới, nhưng không 1 chiếc L19 nào trúng đạn.

* 11 giờ 50 thứ 2 ngày 10 tháng 3 năm 1975, Hậu cứ Thiết đoàn 8 di tản.

* 12 giờ Cuc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao (Cuc Cảnh Sát thị xã) tan hàng.

* 13 giờ 15: 1 tiếng nổ lớn, rồi 1 cột khói bốc cao che khuất cả khu vực Tiểu Khu, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trúng hỏa tiển 122 ly của Cộng quân, Trung tâm hành quân bị sập

* 2 giờ 20: 1 đám dân chúng chạy hớt hãi từ khu nhà Công chánh trên đường Hai Bà Trưng, cạnh Bảo Sanh Viện Bác Ái, đổ xô xuống ngã 4 Hoàng Diệu - Nguyễn thái Học, và 1 người nào đó la lớn:
“ Tiểu Khu mất rồi!", nhưng vì tiếng nói bị ngắt quảng, mãi khi họ đến gần, người ta mới hiểu được Tiểu Khu đã thất thủ!

- Còn Bộ Tư Lệnh Sư doàn mà,
- Không thể nào, sáng nay lúc mười giờ mấy, tôi còn thấy Biệt động Quân đang đánh ở khu bến xe củ (bên kia đường Hùng Vương, đối diện Tư dinh Tư Lệnh Sư doàn 23).
- Chỉ cứu gia đình ông Tường thôi, Đ. mẹ! (không rỏ trong đám đông, ai đã nói câu này.)
- Mãy "chã" đang tới kìa! Cả đám người cùng nhau nhìn về hướng Nguyễn tri Phương - Hoàng Diệu, một đám đông dân chúng chạy trước, theo sau là bộ binh và T54 của Cộng quân.

Đoàn ngừơi bỏ ngã 4 Hoàng Diệu Nguyễn thái Học chạy về hướng Hàm Nghi.

Bây giò là 3 giờ chiều thứ hai, ngày 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân đã hoàn toàn kiểm soát thành phố.

Tuy nhiên ở mặt Bắc thị xã vẫn còn Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, nhưng không hiểu Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát còn cầm cự được bao lâu khi Tiểu Khu đã di tản. Người ta nghe được tiếng súng lớn nhỏ vọng liên hồi ở khu vực đó.

* 4 giờ chiều: tin tức xôn xao cho biết Bộ Chỉ Huy Cảnh sát đã rút lúc 3 giờ 40 vì không chịu nổi mưa pháo và biển người của Cộng quân. Ở các khu tập trung đông dân chúng, người ta đang bàn tán xôn xao về tin tức tại trường Tàu ở đường Y Jut, nơi tập trung rất nhiều người chạy nạn, Cộng quân đang thanh lọc dân chúng, tìm bắt các viên chức chính phủ, quân nhân, cảnh sát.

* 6 giờ 30 chiều: một toán bộ binh và 2 chiếc T54 của Cộng quân từ cuối đường Hàm Nghi đang tiến về hướng Phan Chu Trinh, chạy trước họ vẫn là đám đàn bà, trẻ con và người gìa.

* 7 giờ 15 tối, Cộng quân chia thành nhiều toán, lục soát từng gia đình trên các khu phố: Phạm Phú Quốc, võ Tánh, Hàm Nghi, khu cư xá Lam Sơn của Sư doàn 23 B Binh. Thanh niên trai tráng đã lẫn trốn từ vườn sau nhà này sang nhà khác, hoạc trốn trên trần nhà, hầm cầu, hầm tránh pháo kích.

* 8 giờ 30, chủ chiếc xe cần câu làm cây (xe Be) thoát khỏi thị xã, lúc 2 giờ chiều qua ngã Phan Chu Trinh, xuyên qua nghĩa trang công giáo, phía sau Tòa Giám Mục, bị bắt ở Cây Số 3, xe bị tịch thu, và bị đuổi ngược về thị xã với vợ và 2 đứa con, đã chạy vào khu Võ Tánh Nguyễn thái Học, anh cho biết đã nhìn thấy rất nhiều Biệt động quân đang tiến về hướng thị xã, Biệt Động Quân đã tiến vào khoảng giữa Xã Ðạt Lý và vườn cao-su ở Cây Số 3. (Xã Đạt Lý cách thị xã 6 Km về hướng Bắc, nằm trên Quốc L 14, đường đi Quận Buôn Hô).

* 9 giờ 45, người ta nhận được tin Chi Khu Banmêthuột, (cách thị xã khoảng 7 Km) đã liên lạc được với Trung Tá Dậu, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 21 Biệt động Quân. Những tin này được truyền tai nhau khắp các khu phố, và mọi người, ai cũng tin rằng sẽ có đánh lớn, chắc Biệt động quân còn chờ Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến đến!

Suốt đêm ngày 10 tháng 3 năm 1975, người ta nhìn thấy từng đoàn xe Molotova chất đầy hàng hoá, và gạo mà Cộng quân lấy của thành phố chở vào hướng Bandon (phía Tây Thị Xã).


Thứ Ba, ngày 11 thang 3 năm 1975

* 6 giờ sáng: dân chúng đã đổ dồ về khu vực các ngã 4 đường Hoàng Diệu - Y Jut và Hoàng Diệu - Nguyễn thái Học, chạy dài cho đến đường Hàm Nghi, tất cả các loại xe, xe Lam 3 bánh, xe nhà, xe vận tải, xe cần câu... chở đầy những người, và đông đảo người đi bộ mang đầy bao, bị, nối đuôi theo xe để chạy ra khỏi thị xã, nhưng xe chỉ lăn bánh được vài chục mét là bị đuổi trở lại, và bộ đội Cộng quân mặc thường phục lẫn trong đám đông đã rút AK 47, K54 thi nhau bắn chỉ thiên từng loạt để uy hiếp và ngăn chặn. Lệnh ban ra "không ai được chạy loạn, ai về nhà nấy".

Cũng thời gian này, những người chạy xuống khu suối Đốc Học từ chiều hôm qua, 10 tháng 3 năm 1975, vẫn còn chen chúc nhau ở trường Tiểu học Nguyễn Du. Cảnh màn trời, chiếu đất, ngủ đứng, ngủ ngồi lần đầu tiên dân thành phố phải chịu trong suốt mấy mươi năm qua. Tội nghiệp nhất là trẻ em và cụ già, họ vẫn chưa thoát khỏi thị xã bằng ngã phía Nam của thành phố. Vì bộ binh và T54 của Cộng quân đang bủa vây tư dinh Tỉnh trưởng, và 1 cánh quân khác đang hướng về Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB.

* 6 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975 ,tiếng súng lớn nhỏ của Cộng quân nổ vang di nhắm vào tư dinh Tỉnh trưởng, sau 1 đêm tương đối yên tĩnh. Và cùng lúc, Cộng quân tấn công Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh.

* 8 giờ sáng ngày 11/3/1975, tư dinh Tỉnh trưởng thất thủ.

- Có lẽ Đại Tá Tỉnh Trưởng đã tử thương, ai đó đang cất tiếng hỏi đám đông,
- Từ sáng sớm ngày 10 tháng 3/1975, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh đến tìm Tiểu Khu Trưởng, thì ông ta đã chạy qua Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 rồi !

* 10 giờ 10, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB bị trúng Bom của máy bay A37.

* 10 giờ 38 phút, Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 b binh tan vở.

* 4 giờ chiều ngày 11 tháng 3 năm 1975, Cộng quân dùng xe phóng thanh và đến gỏ cửa từng nhà phát lời kêu gọi Quân nhân, viên chức chính phủ và cảnh sát Quốc gia ra đầu thú.


Thứ Tư, ngày 12 tháng 3 năm 1975

Sau khi Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB di tản, dân chúng đã không còn tụ tập nhiều ở các ngã 4 và đường phố như mấy ngày qua. Banmêthuột thực sự đã lọt vào tay Cộng quân, dầu rằng 4 chi khu (4 Quận), Banmêthuột, Lạc Thiện,Phước An và Buôn Hô vẫn còn nguyên vẹn và người ta vẫn biết Liên đoàn 21 Biệt động Quân vẫn còn ngoài vòng đai thị xã, nhưng thực sự người ta đã tuyệt vọng, và người ta đang cầu nguyện và chỉ còn cầu nguyện mà thôi.

Hôm nay những gia dình chạy khỏi trung tâm thành phố, được trở lại nhìn xem cảnh củ mấy hôm qua, Khu chợ Banmêthuột chỉ còn là 1 bãi tro tàn, những hàng quán chỉ còn chơ vơ mấy cây cột chưa cháy hết. Khu phố Quang Trung, từ ciné Nguyễn Huệ đến Lo Do, từ tiệm kem Chi Cao đến Dân Thiên Đường,Trúc Lâm, Minh Sơn tan hoang đổ nát. Và trên đường Y Jut, đối diện với khu chợ cháy, chạy qua Ama trang Long đến Tôn thất Thuyết, phố xá đều bị đâp phá, cạy cửa, cháy đổ, mặt đường còn nguyên dấu đạn cày và nám cháy, mùi khét vẫn còn xông lên nồng nặc.

Ở đâu cũng có người thanh toán nhau, cũng có nằm vùng chỉ điểm, cũng sát phạt hận thù.

* 11 giờ trưa, Cộng quân lại lục soát khu phố ở trường Bồ Đề.

* 12 giờ, 1 toán khác lại lục soát khu phố Lê văn Duyệt, Hàm Nghi, khu Tịnh thất Cao Đài ở Nguyễn tri Phương, Khu Hàm Nghi, Phạm Phú Quốc, Khu cư xá Lam sơn. Các viên chức, quân nhân, thanh niên bị săn đuổi chạy trốn từ khu phố này đến khu phố khác từ chiều tối hôm 10 tháng 3 đến nay, không lúc nào mà không bị căng thẳng, lo âu.

Trong những đêm vừa qua cũng có 1 số người chạy thoát khỏi thị xã, nhưng trong một vài nơi tụ tập dân chúng, người ta vẫn còn nhìn ra được mo^.t vài Ty Sở Trưởng và sĩ quan cùng viên chức cảnh sát.


Thứ Năm, ngày 13 tháng 3 năm 1975

Tình hình thị xã gần như đã dịu lại, nhưng cái căng thẳng và sự khủng bố vẫn còn quanh quẩn đâu đó. Dân chúng đã từ từ về nhà cũ của mình.

Tại khu cư xá sĩ quan nằm trên đường Lê Lợi, sau lưng Câu lạc bộ Biên Thùy, chạy dài đến ngả 3 Bà Triệu - Lê Lợi, Cộng quân đã đặt nhiều trạm gác, ụ phòng không, và dọc theo 2 vệ đường, các hố cá nhân đã được đào và ngụy trang, rất nhiều T54 đã đậu rải rác trên suốt con đường này.

Vũ Trường Biên Thùy hay Câu Lạc Bộ Biên Thùy, nằm trên ngã 3 Lê Lợi - Thống Nhất, đối diện Hi Đồng Tỉnh, nơi hàng đêm vang vọng tiếng hát oanh vàng 1 thời, với bóng dáng bao giai nhân ẩn hiện dưới đèn màu, giờ đây là 1 căn nhà hoang, 4 vách đổ nát, nối tiếp vũ trường là khu cư xá sĩ quan, cửa ngỏ tan tành, tủ, ghế, đồ gia dụng và giấy tờ bay bừa bải ngoài sân... nhìn cảnh tan hoang đó thật không khỏi ngậm ngùi mà thương tiếc thủa vàng son vừa qua, chỉ trong vòng 3 ngày trước. Những hoa khôi vũ trường bây giờ biết lưu lạc ra sao, rồi những khách hào hoa đa tình, những sĩ quan đọc thân, đêm đêm tìm lảng quên hay trút bỏ nỗi niềm qua men rượu hay màu mắt giai nhân để tạm quên hoài bảo 1 đời trong phút chốc, giờ đây đã là dĩ vãng, dĩ vãng qua rồi biết bao giờ trở lại!

Tại Ngã 6, khu nhà thờ Chính tòa, đường Hùng Vương chạy dài đến Quân Y Viện, đường Tự Do từ Ngâ 6 chạy dài ra Cây số 3, các hố cá nhân và ụ phòng không đã được thiết lập. Khách sạn Anh Đào, khang trang và thanh lịch nhất thành phố, chỉ mới khánh thành chưa tròn tuổi cũng đổ nát một vài nơi. Con đường Phan Chu Trinh từ Ngẫ 6 đến Phan bội Châu, cũng rất nhiều hố cá nhân và súng phòng không. Cuối đường Phan bi Châu, Hám Nghi, Vỏ Tánh, Cộng quân cũng đã thành lập các trạm gác, có T54 yểm trợ. Đặc biệt là cuối đường Hoàng Diệu, ngỏ vào BanDon, những hố cá nhân và ụ phòng không, cùng 1 hệ thống giao thông hào đã đào xong. Cộng quân đã chăng lưới 4 mặt thành phố.

Những sự việc này báo cho người dân thành phố biết: chiến tranh đang xảy đến, nhưng qủa thật trong lòng mọi người không một không ai lo sợ cuc chiến tranh này.


Thứ Sáu, ngày 14 táng 3 năm1975

Hôm nay Cộng quân bắt đầu thiết lập các tổ chức hành chánh tại thành phố này, lấy danh gọi là Ủy ban nhân dân cách mạng, Thị, Tỉnh, Phường, Khu phố và Tổ dân phố, và các chức vụ Chủ tịch Phường, Khu phố và Tổ trưởng tổ dân phố. Phường 2 đặt tại ngã 3 Phan Chu Trinh - Hàm Nghi, Chủ tịch là Trâm, chủ 1 xưởng cưa tại xã Thọ Thành cầu 14, Các chức vụ chủ tịch hay tổ trưởng là các cán b Cộng sản nằm vùng, hoạt đng trong thành phố, do đó, những viên chức, sĩ quan, quân nhân, cảnh sát đều được những người này nhận diện, đặc biệt là các chức vụ an ninh, như Phó chủ tịch an ninh phường, Tổ phó an ninh tổ dân phố...

Một Ủy ban Quân quản được thành lập gọi là Ủy Ban Quân quản Thị, do Việt Châu (bí danh) cầm đầu, đặt tai Khách sạn Darlắc của ông bà Lý trần Lý, ở số 9 Hai bà Trưng, là văn phòng Phối Trí Viên Cảnh sát Đặc Biệt củ, đồng thời lấy Trường Trung học Bồ Đề, Hội Đồng Tỉnh làm nơi ra đầu thú cho các viên chức, quân nhân, cảnh sát làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nơi tiếp nhận các sĩ quan, viên chức cao cấp lại đặt riêng ở số 9 đường Hai bà Trưng.

Những người đến trình diện đều được cấp giấy chứng nhận đã đến trình diện và cho phép trở về quê làm an sinh sống, nhưng nếu là viên chức cao cấp, sĩ quan quân đi hay sĩ quan cảnh sát thì lập tức bị bắt giữ và dẫn vào khu vực Bandon.

Tất cả các trụ sở Ủy ban nhân dân Phường, Khu phố, nơi tiếp nhận người ra đầu thú đều treo cờ Mặt trận giải phóng miền nam.

* 11 giờ 30 ngày 14 tháng 3 năm 1975: một phi vụ F105 đã oanh tạc vào các điểm treo cờ của Cộng quân, nhưng lại thả lạc vào khu suối Đốc học, rất may là không 1 người dân nào bị thương vong. Đây là lần đầu tiên trong 4 ngày qua, 1 phi vụ không nhắm vào khu vực quân sự, nhưng thực ra, khu quân sự đã không còn nữa, kể từ khi Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Doàn 23 b binh di tản.

Kể từ lúc có phi vụ oanh tạc này, tinh thần dân chúng thành phố đã lên rất cao. Người ta không nghĩ đến chết chóc, mà chỉ nghĩ đến chiến thắng. Những tin đồn về lực lượng Nhảy dù đã được đổ xuống khu nhà dòng Thiên An trên quốc lộ 21, Thuỷ Quân Lục Chiến đã mở đường khu Cư-Cúc, trên đường tới Quận Phước An, Liên đoàn 7 Biệt động Quân đã đổ bộ khu vực xã Đạt Lý, được truyền đi khắp thành phố, người ta gặp nhau ngoài đường đều đưa tay chào nhau theo kiểu nhà binh mà không hề úy kỵ.


Thứ Bảy - Lễ dọn Phục Sinh, 15 tháng 3 năm 1975

* 10 giờ 25 phút ngày 15 tháng 3 năm 1975, một phi vụ thứ 2 nhằm vào các điểm treo cờ của Cộng quân, phi vụ được coi là chính xác, trái bom thứ nhất đúng vào mục tiêu là văn phòng Xã Lạc Giao, phá huỷ trụ sở xã và cuc Cảnh sát Thị xã, trái thứ 2 rơi sau lưng trụ sở Phường 2, khu xóm đạo, làm tử thương 1 chủ xe be làm cây, ông Nguyễn Ơn, trái thứ 3 rơi đối diện trụ sở này, bên kia đường Phan Chu Trinh, lạc vào quán Café Vui Sống của Ông Bà Trung, làm tử thương 3 ngưi con gái, trong đó có bà Lài, là vợ Trung Úy Kỳ, và trọng thương 2 người khác.

Sau phi vụ oanh tạc này, Cộng quân đã hạ hết cờ ở các trụ sở và ra lệnh cho toàn thị xã, mỗi nhà phải đào hầm tránh bom trước cửa nhà. Đồng thời, người ta truyền miệng nhau Không Quân đã thả truyền đơn yêu cầu đồng bào di tản khỏi thị xã, 1 số gia đình đã di chuyển ra cây số 5, tạm ẩn trong khu nhà thờ cha Diệu, Xứ Phú Long, và Chùa Dược Sư. Tuy nhiên, ai cũng nhìn được nỗi vui mừng hiện lên khuôn mặt từng người dân thị xã.


Chủ Nhật Lễ Phục Sinh 16 tháng 3 năm 1975

Sáng sớm hôm nay, dân thành phố nhìn thấy các đường phố chính đều đầy dẫy những hố tránh bom cá nhân mà Cộng quân đã đào trong đêm qua, đặc biệt là các con đường chạy ra ngoại ô thị xã như cuối đường Phan chu Trinh, cuối Hàm Nghi và Võ Tánh, suốt dọc Đaị lộ Thống nhất và Tự Do, đường Hùng Vương và cuối đường Hoàng Diệu, tại mỗi điểm cuối đường này, đều đặt súng phòng không và T 54 trấn giữ.

Nỗi lo lắng của người dân thành phố trong lúc này chính là thực phẩm, gạo, mắm, muối. Tất cả những tiệm gạo tư nhân, kể cả kho gạo dự trữ cuả Phủ Thủ Tướng trên đường Tự Do, cạnh F đặc biệt (Sở Cảnh sát Đặc biệt cũ), cũng đã bị Cộng quân chở vào hướng Bandon trong suốt mấy đêm qua. Các nhà thuốc Tây tư nhân, thuốc của Bệnh viện, cũng đã bị công quân lấy hết, bi đát nhất là những gia đình công chức, quân nhân, cảnh sát, trước đây những gia đình này sống nhờ vào đồng lương, nay đã không còn nữa, nhiều gia đình phải ăn cháo, hoặc chạy vào rẫy kiếm một thứ gì đó ăn trừ bữa, thật là thảm hoạ đối với thành phố trong lúc này.


Thứ Hai, ngày 17 tháng 3 năm 1975

Hôm nay, mọi nỗi lo lắng của người dân thành phố hầu như đã bị vất bỏ hết, người ta lo lắng đến tuyệt vọng, nhiều người đã khóc ra tiếng vì 2 tin tức họ nhận được sau đây:

- 2 Trung đoàn bộ binh thộuc Sư doàn 23 được đổ xuống Phước An đã bỏ Banmêthuột về Nha Trang
- Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 đã rút khỏi Plei Ku.

Không ai bảo ai, mỏi ngườ lại tụ họp với nhau để bàn luận.

- Không thể nào quân đoàn 2 lại di tản, Quân đoàn 2 mất là toàn thể lảnh thổ Quân Khu 2 sẽ thuộc vào tay Cộng quân, mà trước nhất là các tỉnh KonTum, Pleiku, Phú Bổn, Quảng Đức và kế đến là các tỉnh đồng bằng Phú Yên, Bình Định mất nốt. Cộng quân sẽ tiến chiếm Cao nguyên Nam Trung phần: Đà Lạt, Lâm Đồng, uy hiếp miền Đông Nam phần, mà bước đầu là chiếm Long Khánh, để đánh Saìgòn.

Mặt khác, Nha Trang, Phan Rang khó lòng giữ được, Phan Thiết sẽ mất, như vậy làm sao có thể giữ được Sàigòn. Không có 1 chiến lược, chiến thuật nào lại sơ đẳng kiểu này.

Đặc biệt là trong khi đó, các đơn vị chủ lực cuả ta chưa hề đụng đầu với Cộng quân, như Trung đòan 44, 45 B Binh, Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Lực lượng Tổng Từ bị, Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến, Các sư đoàn không Quân, Thiết Giáp chưa hề thương tổn .

Bỏ Cao Nguyên ??? Không thể nào, Plei ku tuy không phải là 1 thành phố kinh tế hay kỷ nghệ, nhưng so với Banmêthuột, Plei ku rất lớn, và là huyết mạch của Quân đoàn 2. Thành phố này phồn thịnh nhờ những đơn vị Quân Lực đồn trú tại đây: Bộ Tư Lệnh Quân Đòan 2, Tiểu đoàn 69 Pháo binh, Pháo Binh 175 ly, Liên đoàn 6 Truyền Tin, Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Liên đoàn 72 Quân Y, Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị, Sở 2 An Ninh Quân Đội, Tiểu đoàn Quân Cảnh, Quân Nhu, Quân cụ, Quân vận, vân vân ân và vân vân... Thành phố Plei ku, từ khu Diệp Kính cho đến khu chợ Mới, thật là sầm uất. Hai con đường dài nhất có lẽ là đường Hoàng Diệu, chạy dài từ Trà Bá cho đến Tòa Án Mới, xuyên qua nhiều phố xá, khách sạn (Bồng Lai), Trường Trung Tiểu Học (Thánh Phao Lồ, Trung Học công lập Pleiku ..., Con đường thứ 2 là đường Phan Đình Phùng, chạy dài từ Cầu sồ 3 (đường vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2) cho đến nhà thờ Quân đi ở Khu Chợ Mới. Với những Câu Lạc bộ và khách sạn nổi tiếng như Thanh Lịch, Câu Lạc bộ Phượng Hoàng, Café Dinh Điền, Bún Nhà Xác, bên hẻm Dân Y Viện... mà ai nở để rơi vào tay Cộng quân.

BANMÊTHUỘT THẤT THỦ:
CÂU CHUYỆN BÊN LỀ


(kỳ tới )

8)
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

8)

BANMÊTHUỘT THẤT THỦ:
CÂU CHUYỆN BÊN LỀ

Banmêthuột thất thủ là việc không ngờ được hay không thể nào, đối với những dân đinh của thị xã này. Về phía Quân, Cán Chính của tỉnh Darlắc, họ cũng không chấp nhận nỗi sự thất bại nhanh chóng của các lực lượng phòng thủ như Tiểu Khu, Hậu cứ Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB hay Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh. Và vì vậy, người ta vẫn còn hy vọng quân đội sẽ đến giải tỏa, chỉ là nhanh hay chậm mà thôi.

Tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn còn chiến đấu ở vòng đai mặt Bắc thị Xã, Xã Đạt Lý, và hai Trung Đoàn Bộ Binh 44, 45 của Sư Đoàn 23 đã đổ xuống Quận Phước An.

Tin đồn 2 Tiểu đoàn Nhảy Dù đã đổ xuống Chi Khu Khanh Dương đang tiến về Chi Khu Phước An . . . Và cho đến lúc nhận được tin Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II di tản về Nha Trang, lúc đó tâm trạng của họ thực sự đã rơi vào cảnh bi thảm đầy tuyệt vọng !

Riêng tại Thị Xã Banmethuột những sĩ quan Quân Báo, Kỷ thuật vẫn còn hoạt động, nhưng không một ai nhận ra, nếu anh H. không bị bắt tại khu vực Cư Xá Lam-Sơn, đường Hai Bà Trưng và Võ Tánh khi đang cắt đường dây điện thoại của cộng Quân .

Anh bị tuyên án tử hình, và vợ anh bị xử chung thân trong phiên xử ngày 20 tháng 4, 1975 tại Hội Trường Thăng Long, (Rạp Hát Thăng-Long, khu bến xe củ).

Những quân nhân của các đơn vị đồn trú tại thị xã Banmêthuột và Chi Khu Đức Lập bị tản lạc còn ẩn núp quanh quẩn trong các khu rẩy Cafe, quanh vòng đai thi-xã, lần lượt trốn ra khỏi Banmêthuôt. Trong số những người may mắn trốn thoát, có những người bất hạnh bị bắt và dẫn bộ bằng đường rừng đến Thanh An, Pleku, qua bao nhiêu đồi núi, đường mòn với đôi chân trần, mà dày, vớ, bị bắt buộc cởi ra đeo trên cổ, đi chân không qua một dãi đường rừng dài hơn 420 km, len lỏi qua các đồi tranh và mật khu của cộng quân, mà mỗi dấu chân đặt lên đường đi, đã in nguyên bàn chân máu . Và mỗi ngày được ăn một bận, là hai miếng lương khô của Trung Quốc, mỗi miếng bằng hai ngón tay .

Hơn một tháng sau, kế từ 30 tháng 4, 1975, hầu hết những người lính của Vùng II Chiến Thuật đều bị bắt và tập trung đưa đến 3 trại tù lớn nhất của vùng II :

- Mê-Van, cách thi xã Banmêthuột về hướng Tây Bắc 68 Km .

- Thanh An, Tỉnh Pleiku,

- Đồng Bò, Tỉnh Phú Yên .

Và cũng từ các trại tù nầy, những người lính biết được tường tận về các mặt trận và khả năng hay lòng can đảm của các cấp chỉ huy từng đơn vị, qua lời kể của những nhân chứng sống là huynh đệ chi binh của mình.
Tại Banmêthuột, Tiểu khu Darlắc, Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tiểu Khu Trưởng, đã không trực tiếp chỉ huy Tiểu Khu từ 6g30 sáng ngày 10/3/1975, Ông qua Hậu Cứ Bộ Tư Lệng Sư Đoàn 23 BB, vì Trung Tâm Hành Quân của Hậu Cứ BTL/SĐ 23 BB kiên cố, và hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB phòng thủ có kỷ thuật hơn (?)!

Người trực tiếp chỉ huy Tiểu Khu là Trung Tá Vĩnh Hy, Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu, vì vậy mà ngay sau khi Trung Tâm Hành Quân của Tiểu Khu bị cộng quân pháo sập, không liên lạc được với các đơn vị bạn và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Tham Mưu Tiểu Khu đã bối rối, và tinh thần chiến đấu của đơn vị bị ảnh hưởng nghiêm trọng .

Người ta cũng đồn rằng, Tướng Phú chỉ Huy Quân Đoàn từ NhaTrang là Bộ Tư Lệnh Quân Khu, mà không có mặt tại thành Pleime, nơi Bộ Tư lệnh Quân Đoàn II đồn trú với các Phòng Ban Tham Mưu, Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn, và bên cạnh là các đơn vị chủ lực như Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Tiểu Đoàn 69 Pháo Binh, Pháo Binh 175 . . .

Có lẽ trong đời chúng ta chưa một ai nếm được nỗi đau đớn và nhục nhã hơn hoàn cảnh của những người lính này, những chiến sĩ chiến đấu cho tự do bị bức tử vì sự phản bội, mà không biết mai sau các thế hệ kế thừa và lịch sử dân tộc Việt sẽ nhận định thế nào .

Nhưng điều ngạc nhiên làm một số Sĩ quan tham mưu và các sĩ quan tham chiến tại mặt trận Banmethuột suy nghĩ là " Tại sao cho đến ngày 7 tháng 3, 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và Tướng Phú vẫn tin là cộng quân sẽ đánh pleiku mà không phải là Banmêthuột (? !), và toàn bộ lực lượng cơ hữu của Sư Đoàn 23 BB, Thiết Giáp, (Thiết Đoàn 8), Biệt Động Quân . . . chỉ tập trung bảo vệ Pleiku . Trong khi đó, tin tức tình báo của các đơn vị chuyên môn, của các Biệt đội Kỷ Thuật, Quân Báo, Không Ảnh, tin khai thác tù binh bắt được tại các cuộc hành quân, tin của Hồi Chánh Viên . . . ( đã được trình bày trong phần trước) đều cho biết cộng quân sẽ đánh Banmêthuột

Đặc biệt là tin do tù binh, quân hàm Thiếu Úy, thuộc Sư Đoàn 320 chính quy Bắc Việt, bị bắt tại Buôn EA-Súp, (cách thị Xã Banmêthuột 11 Km về hướng Tây, thuộc Xã Cư Ming, BanDon, Quận Banmêthuột, trong khi y đang giăng Dây Điện Thoại, cũng xác nhận các tin đã ghi nhận: "cộng quân sẽ đánh Banmêthuột" !

Thế nhưng các tin ấy vẫn chưa làm thức tỉnh các cấp chỉ huy thẩm quyền, và tệ hại hơn nữa là khi biết Sư Doàn 320 (Nông Trường 3 Sao Vàng) của cộng quân đã có mặt trên lảnh thổ tỉnh Darlắc, mà vị Tiểu Khu Trưởng, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 BB, vẫn không có biện pháp thích
đáng, đáp ứng với tình hình khẩn cấp và nghiêm trọng lúc bấy giờ. Đặc biệt là không thuyết phục được cách nhìn của vị Tư Lệnh Quân Đoàn và Bộ Tham Mưu Quân Đoàn .

- Việc đánh gía sai trận liêt và tình hình địch, đã đưa đến nhận định sai về ý đồ của địch là sai từ căn bản của nguyên tắc chỉ huy và hành quân, nhất định sẽ bị thất bại cho dù ở chiến trường nào hay bất cứ trận đánh nào, cả về chiến thuật lẫn chiến lược ! Mặt khác, những trận đánh của cộng quân nổ ra trong cùng thời điểm trên khắp lảnh thổ tỉnh Darlắc, Banmêthuột đã chỉ dấu thật rõ ràng ý đồ của cộng quân :

- Đêm ngày 4 tháng 3 năm 1975, cộng quân đánh chiếm quận Thuận Mẫn, tỉnh Phú Bổn, nằm trên Quốc Lộ 14, giáp ranh quận Buôn Hô, cắt đứt liên lạc của Banmêthuột với Pleiku, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II qua QL. 14 .

- Đêm ngày 6 tháng 3 năm 1975, cộng quân mở mặt trận Khánh Dương, ở cây số 52, Quốc Lộ 21, giáp ranh Quận Phước An, Banmêthuôt. Cách thị xã Banmêthuột 65 Km, cắt đứt liên lạc giữa Banmêthuột với Nha Trang, tức là cắt đứt huyết mạch của vùng cao nguyên với duyên hải qua cửa ngỏ Khánh Dương, Nha Trang .

- 4 giờ sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1975, cộng quân tiến đánh Chi Khu Đức Lập, thuộc tỉnh Quảng Đức, nằm trên Quốc lộ 14, cách thị xã Banmêthuột60 Km về phía Nam .

9 giờ 30 sáng cùng ngày, Chi Khu Đức Lập thât thủ, liên lạc giữa Banmêthuột với Quảng Đức về Sài Gòn bi cắt đứt . Banmêthuột như cá nằm trong chậu !

Những người lính, hay đúng ra những tù binh như chúng tôi, hôm nay 21 tháng 4 năm 1975, không hiểu có quyền, hay có nên đặt một câu hỏi " Phải mô tả cách nào hay hình dung ra sao về khả năng của các cấp thẩm quyền có trách nhiệm với chiến trường Banmethuột từ trước và cho đến khi Banmêthuột rơi vào tay cộng quân ? "

CƠ HỘI NGÀN VÀNG

Ngày 1 tháng 3 năm 1975, 9 ngày trước khi cộng quân tấn công Banmêthuột, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, ra lệnh cho chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đưa 2 Trung Đoàn 44 và 45 về phòng thủ Banmêthuột . Cả hai Trung Đoàn được lệnh khẩn cấp di chuyển về Banmêthuột rất vội vàng, nhưng khi đoàn quân xa vừ đến ranh giới tỉnh Phú Bổn, Tướng Phú lại ra lệnh cho hai Trung này quay trở lại Pleiku "cộng quân chỉ làm kế nghi binh giả bộ đánh Banmêthuột"
Lời tướng Phú,
Đó là cơ hội lần thứ nhất .

- Ngày 4 tháng 3 năm 1975, một lần nữa, tướng Phú lại ra lệnh đưa Trung Đoàn 45 BB về phòng thủ Banmêthuột, Trung Đoàn 45 BB lại một lần nữa lên xe về phòng thủ Banmêthuột, nhưng không may, khi đoàn quân xa vừa lăn bánh, lại là lúc cộng quân pháo kích Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn (Thành Pleime) và phi trường Cù Hanh (Pleiku), Tướng Phú được Phòng 3 Quân Đoàn báo cáo, liền từ Nha trang gọi về, ra lệnh cho Trung Đoàn 45 BB ở lại phòng thủ Pleiku .
Đó là cơ hội lần thứ 2 .

- 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng 3, 1975, một đơn vị Biệt Động Quân xâm nhập vào thị Xã Banmêthuột, đóng quân ở khuôn viên trường Trung Học Tổng Hợp Banmêthuột, khu vực đường Hùng Vương - va Bà Triệu, rồi tiến vào Trung Tâm Thị Xã ở Ngã 6, để chỉ giải cứu gia đình vợ, con của Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB, mà không được lệnh ở lại làm đầu cầu cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang trên đường đến giải vây cho thị xã, hoặc là tham chiến, đánh bọc hậu lực lượng cộng quân đang tấn công tiểu khu từ khu vực vực Ngã 6, Cư Xá Sĩ Quan và Câu Lạc Bộ Biên Thuỳ .

Bỏ mất cơ hội này, Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã không còn cơ hội tiến vào Thị Xã Banmêthuột một lần thứ 2 .

Đại tá Nguyễn Duy Tất, Trung Tá Dậu, hay tướng Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB đã ra lệnh cho đơn vị Biệt Động Quân này hộ tống vợ con của tướng Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB ra khỏi thị xã mà không phải là ở lại tham chiến giải nguy cho Tiểu Khu Darlắc ?

Với kinh nghiệm chiến trường, chúng tôi đoan chắc rằng, nếu đơn vị Biệt Đông Quân này được lệnh tham chiến, đánh giải toả áp lực địch cho Tiểu Khu vào giờ phút đó, thì tình hình đã được đảo ngược lại, và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã có thể tiến vào thị xã giải cứu Banmêthuột kịp thời .
Nhưng không hiểu giới chức nào chịu trách nhiệm về vụ việc này, và bây giờ Banmêthuột mất rồi, qúi vị thẩm quyền nào ra lệnh lúc đó lại đã suy nghĩ gì ?

Và đó là những cơ hội ngàn vàng mà các cấp chỉ huy lúc bấy giờ đã bỏ mất . Không hiểu vì quan điểm chỉ huy hay hoặc đã vì tình cảm cá nhân mà quên đi sinh mạng của các chiến sĩ đang tham chiến và vận mệnh của tổ quốc !

- Mặt khác, chúng ta thử điểm lại việc phối trí lực lượng phòng thủ Banmêthuột lúc bấy giờ :

- An ninh nội vi thị xã và các chốt cửa ngỏ, các trọng điểm và cao óc đều giao cho Lực Lượng Cảnh Sát Quốc gia đảm trách, một lực lượng được xem là đơn vị bán quân sự có hỏa lực rất hạn chế .

- Phòng thủ Phi trường Trực thăng L.19 là chốt điểm quân sự cực kỳ quan trọng, vì Phi trường L 19 là một dãy vòng đai mặt Bắc thị xã, được giao cho đại đội Thám Sát Tỉnh . Đơn vị này nguyên là lực lương PRU sát nhập vào Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh.

- Đại đội 224 Địa Phương quân là đơn vị trừ bị được phối trí tại Khu vườn hoang của Bác sĩ Tôn Thất Niệm, sát vòng đai Tiểu Khu, nhưng khi Đại đôi thám sát bị cộng quân tấn công và tràn ngập, Đại đội 224 đã không thể tiếp ứng và cứu viện kịp thời .

Thêm vào đó, Đại tá Tiểu Khu Trưởng không có mặt tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu là điểm đặc biệt đáng quan tâm, nên khi Trung tâm Hành Quân Tiểu Khu bị cộng quân pháo sập, quyết định tối hậu lúc đó “tử thủ hay rút lui” là quyết định thành bại của chiến trường .

Người ta cho rằng, Banmêthuôt thất thủ là vì Tư Lệnh Quân Đoàn và Bộ Tham Mưu đã nhận định sai về “điểm” và “diện” và nhầm kế nghi binh của cộng quân .

Một điền cần ghi nhớ là trong dịp Tết, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến Pleiku ăn Tết, sau khi nghe thuyết trình về tình hình địch tại Vùng II, Tổng Thống đã chỉ thị cho Tướng Phú trả 2 Trung Đoàn 44 và 45 BB về hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB phòng thủ Banmêthuột, lúc đó Tướng Phú đã trả lời là “tuân lệnh”, nhưng rồi đã không chấp hành mệnh lệnh này .
Tất cả những sự kiện trên đã góp phần tạo nên những điều kiện không thuận lợi cho chiến trường Banmêthuột.

Và câu chuyện tiếu lâm mà người tù nghe được là Tướng Tường Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB xin không ra mặt trận nữa, Ông xin từ chức Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ vì trên đường từ Chi Khu Khánh Dương về Nha Trang, trực thăng của ông bị cộng quân bắn tỉa, vào khoảng 2 giờ chiều ngày 16 tháng 3 năm 1975, ông bị thương nhẹ, nhưng đã vào Quân Y Viện Nha Trang điều trị, và lấy cớ này để xin từ chức với Tư Lệnh Quân Đoàn . Tướng Phú đã tá hỏa tam tinh tìm người thay thế, trong khi mặt trận Banmêthuột còn trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng .

Trong khoảng thời gian này, tôi lại nhớ đến khoảng đầu thập niên 1970, Sư Đoàn 22 BB gặp khó khăn tại chiến trường Kontum, Đại tá Lý Tòng Bá được lệnh đem Sư Đoàn 23 BB lên giải tỏa Kontum . Ông đã giành chiến thắng trên từng con đường phố, và đẩy cộng quân ra khỏi Kontum, Tình hình Kontum lúc đó còn khó khăn hơn tình hình Banmêthuột hôm nay , nhưng chỉ là may mắn, vì Sư Đoàn 23 BB lúc đó do Đại tá Lý Tòng Bá làm Tư Lệnh .

NHỮNG CHUYỆN KHÔI HÀI

(Kỳ tới)
dutu
Posts: 204
Joined: Sat Sep 19, 2009 8:19 pm
Contact:

Post by dutu »

8)

BANMÊTHUỘT
NHỮNG NGÀY ÐẦU TRONG TAY CỘNG QUÂN

NHỮNG CHUYỆN KHÔI HÀI


Sau khi Cộng quân làm chủ thành phố Banmêthuột, nhiều rất nhiều những chuyện thật khôi hài, nhưng lại rất thật đã xày ra trên thành phố này. Không hiểu sau này, khi con, cháu, em út tôi lớn lên, đọc lại những điều tôi viết ở đây, chúng có tin ddu*o*.c hay không, vì bây giờ đã là năm 1975, chỉ còn 25 năm nữa là hết thế kỷ thứ 20, thế giới loài người đang ở vào giai đoạn mà khoa học kỷ thuật đang tiến bộ cực thịnh, con người đã lên tận mặt trăng, và những cán bộ Cộng sản vẫn huyênh hoang vổ ngực "Xã hội chủ nghĩa là ưu việt, là đỉnh cao trí tuệ của loài người, là lương tâm của thời đại". Tôi cũng mong mỏi trong thế hệ trẻ mai sau, những người mà xã hội miền Bắc ưu đãi, có cơ hội, hoặc đã từng được du học, hay sẽ được du học ở các nước Cộng sản khác, nhìn lại xã hội miền Bắc từ 1954 đến 1975, tình trạng sinh hoạt và dân trí của miền Bắc, so sánh với xã hi của các nước mà họ đã, đang được du học, cũng như so sánh với xã hội miền Nam, dầu là với thành phố Banmêthuột nhỏ bé này, đễ thực sự nhìn rõ trình độ, dân trí của xã hội miền Bắc và hiểu rõ cái khốn khổ của những người dân Bắc.


MẤT TRỘM

Sau khi Banmêthuột thất thủ, một số dân thành phố chạy thoát khỏi thị xã, bộ đội Cộng sản đã chiếm dụng những căn nhà này cấp cho sĩ quan hoặc cán bộ. Banmêthuột tuy là 1 thành phố nhỏ so với các thành phố khác như Nha Trang, Đà Lạt, hay Đà Nặng ... nhưng nhà cửa phố xá được xây dựng trong khoảng thập niên 60, với những điều kiện căn bản của lối kiến trúc tân thời như nhà tắm, nhà bếp, phòng khách, phòng ngủ rất tiện nghi và khang trang, mà những người lính hay sĩ quan, cán bộ Bắc Việt chưa có dịp nhìn thấy ở ngoài Bắc.

Một ngày, có 2 bộ đôi chiếm dụng 1 căn nhà trên đường Hai bà Trưng, ra chợ mua 4 con cá lóc (do bạn hàng từ Quận Lạc Thiện mang ra chợ Banmêthuột bán) đem về nhốt trong hầm cầu (toilet bowl), ngày hôm sau, cá biến mất, 2 vị bộ đo^.i khả ái đã gọi những nhà lân cận ra đòi xử bắn vì tôi ăn trộm cá của lảnh đạo, hàng xóm hết cả hồn vía.

- Ai đã vào nhà ăn trộm cá, phải thành thật khai để được khoan hồng, nếu ngoan cố, dấu diếm, tất cả đều bị xử bắn.

Hàng xóm sợ quá đành đứng chịu trận để cho cán bộ thóa mạ, mãi 1 lúc khá lâu, có bác H. đã ngoài 60 tuổi, lấy hết can đảm để hỏi cán bộ:

- Thưa cán bộ nhốt cá ở đâu mà bị mất trộm?
- Đây, vào đây tao chỉ cho, cán bộ cách mạng không bao giờ nói láo

Ông cụ theo cán b vào nhà mới hay rằng cán bộ đã nhốt cá trong bồn cầu (Toilet Bowl), Cán bộ lại còn khen, nước trong thùng này mát lắm. Cụ H dở khóc dở cười và đã cố gắng gỉai thích cho cán bộ cái công dụng của bồn.

Chao ôi, qủa thật là khôi hài.


ĐÀI ĐỊCH


Ai đã từng sinh sống tại Banmêthuột, hay có dịp ghé thăm, chắc cũng hiểu rằng phố xá, nhà cửa ở Banmêthuột được xây cất theo lối kiến trúc Âu - Á lẫn lộn, đặc biệt là những căn nhà 2, 3 tầng lầu.

Là vùng cao nguyên, nên về mùa gío, các tần số gặp rất nhiều nhiễu âm, gây khó khăn cho các máy thu thanh, thu hình, do vậy để nghe đài Phát thanh Sàigon, đài BBC hay đài VOA, đặc biệt là đài Truyền Thanh Truyền hình Nha Trang, người ta phải dùng anten trời nhiều nhánh, dựng trên nóc nhà.

Những toán Cộng quân khi đi lùng xét, nhìn thấy những căn nhà có anten trời nhiều nhánh, đã gọi về bộ chỉ huy: "báo cáo ở khu này có rất nhiều đài địch" ,và lập tức bắn B40, B41 vào tiêu hủy đài địch. Đau khổ thay cho những đài địch của thành phố chúng tôi.

Sự việc xảy ra, làm cho người dân thành phố thật hốt hoảng, họ đi tìm hiểu nguyên nhân, mới hay rằng, tại miền Bắc, cho đến năm 1975, mỗi Xã chỉ có được 1 cái "đài" (Radio), đặt tại văn phòng Xã, rồi nối dây loa ra khu xóm gần nhất, và dân chúng chỉ nghe được đài phát thanh Hà ni, là công cụ tuyên truyền của nhà Nước, cho nên chiếm được Banmêthuột rồi, bộ đội mới biết cái gì là máy Radio, máy truyền hình, đồng hồ "2 cửa sổ, không người lái" (đồng hồ có lịch thứ và ngày tự động, không phải lên dây thiều). Có người dân thành phố cắc cớ hỏi, "thưa cán bộ, ở ngoài Bắc có Ti-Vi (TV) không ạ". Cán bộ đã mạnh dạn trả lời "có chứ, Ti vi thiếu gì, ngoài Hà Nội Ti-vi chạy đầy đường".

Chao ôi, chuyện thật là khôi hài.


THÂM TÌNH



Trong thời gian một năm đầu, thân nhân của những người tù cải tạo không được phép đi thăm nuôi, và tù cải tạo hoàn toàn mất hết liên lạc với thế giới bên ngoài, họ không thể biết được những gì đã đang xảy ra trên đất nước, cho phố phường hay là cho chính gia đình họ.

Một năm sau, tù cải tạo được gia đình đến thăm, và thân nhân đã kể cho họ nghe những gì đã đang xãy ra cho gia đình và thân nhân họ. Trong muôn ngàn chuyện nghe được, như là con gái miền nam 2 mông có gân, cái nồi ngồi trên cái cốc,..., tôi muốn viết ra đây câu chuyện thâm tình này.

Năm 1954, sau Hiệp định Genève 20 tháng 7, gần một triệu người miền Bắc đã chạy trốn Cộng sản vào Nam, gia đình, anh em cũng phân ly từ đó. Những ngưi vào Nam thì may mắn hơn, có điều kiện học hành để trở thành Luật sư, Bác sĩ, như Luật sư Đ. đã thành danh, thành nghiệp, căn biệt thự của ông tại TMG Sàigòn có vòng tường xây vây quanh, cửa sắt đóng kín tối ngày. Trái lại, chị của ông thì vẫn ở lại miền Bắc, sống trong hoàn cảnh của xã hội này. Miền Nam lọt vào tay Cộng quân, bà chị ông xin phép chính quyền Huyện đi thăm ông và các cháu, nhờ địa chỉ bà cất giữ ở những tấm thiệp liên lạc vào thời gian 1957 - 1958, khi mà chính quyền miền Bắc còn cho phép thân nhân 2 miền viết thiệp thăm hỏi nhau. Tìm đến địa chỉ rồi, bà bần thần lo sợ không dám kêu cửa, nhà to qúa như dinh Tổng đốc, bà nghĩ vậy thôi, nhưng thực ra bà cũng chẳng biết dinh Tổng đốc to đến thế nào. Chờ một hồi lâu, rồi bà manh dạn kêu cửa, chẳng ai trả lời, bà đập vào cánh cổng sắt, cũng im hơi lặng tiếng. Bà xuống xe lửa lúc 7 giờ 30 sáng, hỏi thăm đường đi tới đây chờ cho đến giờ này, mệt quá, bà ngồi ngủ thiếp đi trước cổng nhà. Vào năm Sài gòn mới mất, dân Sàigòn ai ở nhà nấy, họ không dám ra đường vì sợ công an để ý, theo dõi, vì thế, gia đình ông Đ ngoại trừ ông ra vào thường xuyên, vợ con ông cũng hiếm khi ra khỏi nhà, và bà chị ông gặp phải cái thời không may là vậy.

Hơn 11 giờ trưa, ông Đ lái chiếc Peugot 505 về nhà, thấy một bà nhà quê còn ngủ trước cổng, Ông xuống xe, e ngại nhìn bà và khách sáo hỏi "cụ tìm ai?" - "Tôi tìm nhà em tôi là K.N.Đ, nhưng thưa quan có lẽ tôi lầm". Sau vài ba câu hỏi thăm về quê quán và gia đình, Luật sư Đ mới rỏ lẻ thì ra chị ruột ông. Ông mời bà chị vào nhà, trước bụng bà là một bao vải, sau lưng mang thêm một bao tải khác, Luật sư Đ muốn mang hộ chị, nhưng bà không cho. Nhìn thấy căn nhà qúa to, nền nhà lót gạch bông, bà không dám bước vào và vội vàng cúi xuống cởi đôi dép bố cao su ra cầm tay, Luật sư Đ nhìn chị thương hại. Chị ông đã 63 tuổi rồi. Nhìn chị, ông chợt nhớ lại ngày nào chị tiễn ông lên tàu vào Nam năm 1954, lời chị căn dặn vẫn còn văng vẳng bên tai và hình ảnh chị em ôm nhau trong phút tiễn đưa vẫn còn in đậm trong tâm hồn ông suốt 20 năm qua “ Em hãy cẩn thận nơi quê lạ đất người, thầy me và cả nhà ta chỉ trông vào mình em” ông đã cảm xúc và vội gở tay chị ra để bước xuống tàu mà không ngăn nổi nước mắt thương tâm. Cuốn phim xưa qua vội trong trí ông và người chị thương mến đó bây giờ đang đứng trước mặt ông, thật là xúc động, ông vội vàng bảo chị:

- Chị ngồi chơi, em gọi nhà em và các cháu ra chào chị.
- Anh để mặc chị.

Ông vào nhà gọi vợ, con ra, chào bà, bà vẫn đứng khép nép không dám ngồi xuống bộ ghế Cẩm lai láng bóng.

- Đây là chị ruột của tôi, chị cả, hai con hãy chào cô cả đi.
- Chào cô ạ,
- Vâng ạ
- Chị ạ, đây là cháu Loan thứ 3, cháu 18 tuổi, cháu Trân 15, Em còn 2 cháu trai, một đã đi xa,(đi Mỹ), một đã từ trần. Ông lấy mấy tấm hình chỉ cho bà 2 người con trai vắng mặt của ông, trong đó, người con trưởng là Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến đã tử trận năm 1972.

Suốt thời gian ở tại nhà em, bà không bao giờ rời xa cái bao tải bà mang, lúc nào bà cũng ngắm chừng dưới gầm giường. Bà vợ của Luật sư Đ thấy vậy, đã dọn một cái tủ trống, giao cho chị chồng chìa khóa tủ, bảo bà hãy cất đồ qúy gía trong bao vào tủ và khóa lại, nhưng bà vẫn không chịu.

Một buổi sáng, vợ chồng ông Đ dẫn bà đi chợ, coi cảnh tàn tạ của Sàigòn, nhưng bà nói "đẹp như thiên đàng"! Hai người con gái của ông bà Đ ở nhà, nhưng trong lòng 2 chị em Loan, Trân vẫn ấm ức về cái bao tải của cô cả, hai chị em lôi bao tải ra, mở tung các thứ, thì ra trong bao tải chỉ là áo, quần, và chén:

- 4 cái quần dài, vải nhuộm nâu còn hôi mùi vải.
- 4 cái áo không còn mới, có cái đã sờn chỉ may.
- 8 cái chén sành, sờ vào hơi nhám, gói trong áo quần.
- 2 đôi dép bố cao su còn mới tinh.

Về đến nhà, bà cả trước hết là coi lại túi vải, trong khi 2 cô con gái kéo bà Đ vô phòng tường thuật cho mẹ nghe gói đồ qúi gía của cô cả. Và đến lúc này, bà chị của Luật sư Đ mới kể rõ sự tình,

- Tôi nghe người ta bảo, ở miền Nam, dân chúng khổ lắm, cơm ăn không no, áo quần không có, Mỹ, Ngụy bắt làm việc nhiều, mà tiền của làm ra thì bị bọn Mỹ lấy mang về Mỹ hết, cho nên miền Bắc phải thắt lưng buc bụng, hạt gạo xẻ làm đôi, một nửa nuôi chiến trưòng là bộ đội để họ đi giải phóng cho miền Nam, một nửa thì gởi cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Biết bao nhiêu đồng bào miền Nam vì không có ăn đã chết đói, thậm chí chén, bát, áo quần cũng không có đủ dùng. Vì vậy khi được phép vào Nam thăm em, tôi đã bán trộm Hợp Tác Xã 2 con heo, để mua áo quần, chén bát cho em và các cháu. Tôi đâu có ngờ sự thể ra là vậy.

Nghe xong câu chuyện, cả nhà, chị em, cô cháu ôm nhau mà khóc . Em gái ruột của bà Đ đi thăm chồng ở tù cải tạo đã kể câu chuyện về bà chị cả của ông Đ.

Câu chuyện này qủa là trùng hợp với câu chuyện tù binh Cộng sản bị bắt trong mạt trận Hạ Lào, các tù binh kể lại, họ được chính ủy trung đoàn cũng như chính trị viên tiểu đoàn cho biết, xe tăng của Việt Nam Cộng Hòa làm bằng giấy carton, cứ xung phong dùng lưởi lê mà đâm. Thật là khôi hài thay cho thế hệ chúng ta.

Đảng Cộng sản đã lường gạt dân miền Bắc thế nào, bây giờ vào miền Nam rồi dân miền Bắc đã rõ. Câu chuyện ở xã hội miền Bắc là vậy, nhưng xã hội miền Nam thì sao?

Tôi cũng muốn nhân đây nói ra một vài chuyện khôi hài mà những người lính Việt Nam Cộng Hòa như tôi hôm nay (cuối tháng 3/1975) nghĩ về bối cảnh của miền Nam vào những ngày tháng mất Banmêthuột - mất Quân đoàn 2, lảnh thổ đã chôn vùi thân thể, thấm máu, mồ hôi và nước mắt của chúng tôi và đồng đội.


PHONG TRÀO TỐ THAM NHŨNG
Do Ông Trần Hữu Thanh chủ xướng



Trong khoảng thời gian giữa năm 1973 và suốt năm 1974, nghĩa là sau Hiệp định Balê 27/3/1973, và đặc biệt là trước khi Banmêthuột và Quân đoàn 2 rơi vào tay Cộng quân, tại Sài gòn, đã có nhiều tổ chức và phong trào nổi lên phá rối và đe dọa nền trật tự trị an xã hội một cách nghiêm trọng, trong đó phải kể đến 3 phong trào được thành lập có qui mô và có tổ chức, đó là phong trào tố tham nhũng do Ông Trần Hưũ Thanh, một linh mục thuộc nhà dòng Chúa Cưú Thế Sài gòn cầm đầu, Phong trào đòi tự do tôn giáo của Ni sư Huynh Liên, Phong trào đòi tự do báo chí của một số ký gỉa, tổ chức 10 ngày xuống đường đi ăn mày và tuyệt thực, và còn rất nhiều những tuyên bố vung vít làm tổn hại quốc gia, hoặc hoàn toàn bất lợi cho nền Cộng hòa, làm lợi cho Cộng sản của nhiều người tự xưng là yêu nước, như ông Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan, Nguyễn Phương...

Ông Trần Hữu Thanh tố tham nhũng, chống tham nhũng, được một vài tờ báo tiếp tay, đã tố cáo những viên chức cao cấp của chính phủ, một vài sĩ quan cao cấp, và đủ mọi thành phần trong mọi ngạch trật của quốc gia đều bị ông điễm mặt.

Mục đích của ông là trong sạch hoá xã hội (?), nhưng tiếc thay, xã hôi lại là những con người, không phải là thánh nhân. Con người thì vốn là có tội, từ sinh ra thì đã mắc tội tổ tông, như giáo lý ông đã học nằm lòng. Con người vốn là tham, thâm, si, có thất tình lục dục như giáo lý đức Phật đã dạy, cần phải diệt. Và ông đã không biết cân phân nặng nhẹ giữa 2 sự việc, chống cộng sản đang gây chiến tranh xâm lược, xâm chiếm Miền Nam, và việc bài trừ tham nhũng trong xã hội đương thời .

Chủ trương và hậu qủa của việc ông làm là ly tán nhân tâm, hủy diệt lòng tin của quân đội và đồng bào đối với càc vị lảnh đạo quốc gia, làm tan rã tinh thần chiến đãu của những người lính trên chiến trường, ngoài mặt trận, để Cộng sản chiến thắngtrên từng mặt trận, dọn đường cho Cộng sản đánh chiếm miền Nam.

Đồng bộ với việc ông Trần Hưũ Thanh làm, là một số ký gỉa đòi quyền tự do báo chí, tổ chức tuần lễ tuyệt thực và xuống đường đi ăn mày.

Song song với các hành động trên đây là Ni sư huỳnh Liên xuống đường biểu tình, đòi tự do cho tôn giáo.

Đám chính trị gia xôi thịt, trí thức nửa mùa, yêu nước gỉa hiệu này không cần biết, hay không đủ trình độ nhận biết hiện tình đất nước sau Hiệp định Balê ra sao, Quốc gia miền Nam đã bị ép đến đường cùng:

- Quân phí hết sạch, ngày 14 tháng 4 năm 1974, Tổng Thống từ Mỹ về đã cho biết ngân khoản quân phí 300 triệu được chính phủ Hoa Kỳ hứa viện trợ trước đây, nay đã bị Quốc Hội Mỹ cắt bỏ.
- Nhiên liệu bị cắt giảm 50 %,
- Vũ khí cá nhân: cấp số đạn đi hành quân bị hạn chế.
- Bom đã bị rút hết ngòi nổ, nhiều phi vụ không quân yểm trợ bộ binh chỉ là xăng bột bõ vào thùng phi 200lít.

- Mặt khác, họ cũng đâu cần biết M16, không thể so sánh với AK47 - Đại bác 155 ly hay 175 ly làm sao chọi với Hõa tiển 122 ly - Thiết vận xa M113 hay M48 càng không thể đối đầu với T54, và đặc biệt là B40, B41 càng ăn đứt M72 chống tăng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi đó, vào cuối thập niên 60, đầu 70, 1 yếu nhân của VNCH đã từng tuyên bố cho ký gỉa trong và ngoài nước: "Khi tiếng súng AK của Cộng quân nổ tràn ngập trên chiến trường miền Nam thì người Mỹ mới bắt đầu viện trợ nhỏ giọt AR 16 cho chúng ta".
- Mục đích của cái gọi là Hiệp định Balê chỉ là người Mỹ muốn miền Nam chấm dứt chiến tranh, buông tay chịu chết.

Nhưng xót xa thay, những nhà chính trị này, những trí thức này, những kẻ yêu nước này, lại chưa bao giờ có mặt trên chiến trường để hiểu chiến trường là gì. Họ bỏ mặc sinh mạng của miền Nam như ngàn cân treo sợi tóc. Họ mặc xác những người lính phơi thây ngoài trận địa. Họ không cần biết đến những nguy hiểm mà người lính phải đương đầu từng giây từng phút chiến đấu để bảo vệ cho họ ở Sàigòn tha hồ biểu tình. Họ ngang nhiên không cần đếm xỉa tới việc người lính đang giành từng tấc đất của lảnh thổ với Cộng quân ngoài mặt trận. Họ cũng bỏ mặc những dân lành vô tội, những phụ nữ mang thai, những trẻ em và cụ già trong những vùng tranh chấp, chiến tranh.

Còn một số trí gỉa khác của miền Nam, lại bỏ mặc, tiêu dao tự tại, hoặc chủ quan... rồi chuyển ra chủ bại. Than ôi, chỉ tội cho người lính, bỏ đi một cánh tay, mất đi một bàn chân, tặng tổ quốc một con mắt, hiến dâng cho trí giã một đời người, họ có tội tình gì để phải trả cái nợ oan khiên này cho đám người vô dụng kia chứ ? Họ chỉ nhiệt thành, đem lòng ra đi trả nợ núi sông sao bắt họ trả luôn cái nợ oan nghiệt này. Rồi những dân lành chất phác của 12 tỉnh vùng 2, của Banmêthuột hay toàn vùng cao nguyên, họ đâu có làm ra tội tình nào.
Giờ đây có lẽ một số các vị dân cử đang mặc áo vest (vestment) và thắt cà-vạt ( Necktie), ngồi chểm chệ trong căn nhà dân cử, đang đưa tay phản đối sắc lệnh này, đạo luật nọ, hoặc đang đọc những bài diễn thuyết hùng hồn, từ ngữ thì phong phú mà ý nghĩa thì dân lính không tài nào hiểu được. Than ôi, thật là tiếu lâm thay !

Mất Banmêthuột trách nhiệm về ai, mất toàn vùng cao nguyên ai chịu trách nhiệm, mà biết đâu còn mất cả quốc gia ? Ai đây? Đúng là đám người lũng đoạn hậu phương dưới bất cứ hình thức nào, phải là tội đồ thiên cổ. Nhưng oan trái thay, những kẻ phải gánh lấy cái nợ nghiệp chướng này chỉ có những người lính. Nhưng nước là của mọi người, mỗi người đều có bổn phận phải bảo vệ, của 26 triệu dân miền Nam, chứ có phải của một triệu 200 ngàn binh lính, và cảnh sát đâu.

Than ôi thật là những chuyện khôi hài mà dân lính đành chịu !
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests