Posted: Mon Nov 20, 2017 3:28 am
Đến Lai Khê ngày 5 tháng 4, 1972, Lữ Đoàn 1 Dù nhập cuộc ngay ngày sau. Đại Tá Lê Quang Lưỡng nhìn con đường sáu-mươi cây số trước mặt với những hiểm
nghèo cao nhất đang chờ đợi. Lê Lợi di chân lên mặt đường như thể đo độ cứng của con đường, sự chịu đựng của mặt nhựa, nhưng thật ra ông đang ước tính bao
nhiêu mìn bẩy, ổ phục kích nơi những cây số phía Bắc.. Ở Bầu Bàng, Bầu Lòng, Chơn Thành, Suối Tàu Ô. Ông nói cùng Ngọc Long (Danh hiệu truyền tin của
Trung Tá Ngọc, Lữ Đoàn Phó) và Tố Quyên (Thiếu Tá Bùi Quyền, Trưởng Ban Hành Quân) : Con đường dài quá, tụi nó có đủ yếu tố thuận lợi.. Địa thế, quân số,
hỏa lực để chơi mình bất cứ lúc nào, ở đâu, nếu chúng muốn. Mình có ba tiểu đoàn, nghe thì nhiều, thực tế không bao nhiêu, mình lại phải phân tán.. Nhưng nhiệm
vụ phải thi hành khẩn cấp, mình chỉ còn có được con đường khốn nầy - Vậy mình phải đi lên nó.. Đi theo kiểu chân chim: “Thằng 8” (Tiểu Đoàn 8 ) đi trước, đóng
quân lại; “Thằng 5” theo đường cũ leo cao hơn.. “Thằng 6” đi sau hết. Pháo sẽ theo thằng 5 ở bước đầu; thằng 8 ở bước sau. Giai đoạn I, mục tiêu 1 là Bầu Bàng;
mục tiêu 2 là Chơn Thành. Đến Chơn Thành, lập thêm đầu cầu phía Bắc mình sẽ qua giai đoạn II.
Các tiểu đoàn trưởng 5, 6, 8, cùng gật đầu đồng ý, vì họ cũng không thấy có biện pháp tốt hơn kế hoạch “Bước chân chim” với ý chí “Cố Gắng” như khẩu hiệu của
binh chủng. Ngày 7 tháng 4, Tiểu Đoàn 8 vượt tuyến xuất phát, lấy con đường làm chuẩn, mở rộng đội hình ra hai bên, đến hoành độ 48 thì ngừng lại. Tiểu Đoàn 5
vượt qua mặt TĐ8, bung quân tối đa để lục soát và tránh phục kích. Mấy trăm con người chìm hẳn vào vũng xanh đậm của rừng dày đan lá. Tiểu Đoàn Trưởng
Nguyễn Chí Hiếu kẹp sát ống liên hợp vào mang tai, linh cảm nguy biến hẳn sẽ tới.. Súng nổ, thoạt đầu chỉ có hướng trước mặt, đoàn quân dừng lại, lập tức hướng
cánh trái súng dồn dập đổ xuống: Tiểu đoàn cộng quân dựa thế vào giải mô đất của đường rầy xe lửa cũ (Lộ trình Sàigòn-Lộc Ninh, đã bị bỏ phế từ đầu thập niên
60) để tấn công chia cắt đội hình nhảy dù. Chỉ còn một phương cách - Phản tấn công vào thế trận đối phương. Trận chiến kéo dài nửa ngày, cuối cùng Bắc quân
rút lui về hướng tây; thương binh nằm chật vùng rừng, ngỗn ngang trên đất. Tiểu Đoàn Trưởng Hiếu nhìn vào bản đồ: Bàu Hót, toạ độ 78051.. Còn bao nhiêu cái
bàu nữa mới tới được An Lộc? Chiến trường mới qua được một ngày.
Từng cây số đường được nhích lên khó khăn, gần đến Chơn Thành độ căng cứng chiến trường càng hiện rõ. Lê Lợi đã nghe ra “mùi” địch - Mùi của pháo, cối mà
chắc chắn sẽ mãnh liệt không kém như kỳ ở Hạ Lào - Chỉ mới đây. Năm ngoái. Đại Tá Lưỡng cau cau chiếc trán.
..Quyền nầy, cố gắng xin mấy trực thăng, ngày mai mình “thẩy” Thằng 6 lên trên Chơn Thành, xong cho lục soát về ngược lại. Đâu ai bắt buộc mình phải đi từ dưới
nầy đi lên để rơi vô phục kích của tụi nó?! Bùi Quyền (Sĩ quan thủ khoa Khóa 16 Đà Lạt), Thiếu Tá Trưởng Ban 3 (Ban Hành Quân) nhìn người chỉ huy kính
phục.. Anh nghĩ thầm: Lê Lợi hay thật, biết cách chuyển đổi thế trận để đối thủ không thể lường được.
Ngày 9, có trực thăng, Tiểu Đoàn 6 bất thần nhẩy lên phía Bắc Chơn Thành, xong quay ngược lại để đón Tiểu Đoàn 5 từ Bầu Bàng vọt lên. Đúng hai giờ chiều, hai
tiểu đoàn “bắt tay” nhau cái rụp ở Chơn Thành. Lê Lợi gật gù tự đánh giá: Tụi nó kông biết mình làm trò gì với cú nhẩy của Thằng 6.. Đi lên hay đi xuống? Thêm
một ngày tương đối bình yên đi qua. Đại Tá Lưỡng cởi đôi giày. Toàn ban tham mưu lữ đoàn bắt chước. Mỗi chiều được cởi giày là một hạnh phúc !
Thêm hai ngày đẹp đẽ đi qua, lữ đoàn đi được ba-mươi cây số về phiá bắc. Đối với một địa thế bằng phẵng, tốc độ tiến quân hiện tại kể là quá chậm, nhưng Lê Lợi
không muốn đơn vị tăng phái, Thiết Đoàn Kỵ Binh 1/5 của Đại Tá Đức mở vào quá sâu, dễ bị lún lầy, và bộ binh nhẩy dù không bảo vệ cạnh sườn được. Ngày 12,
lại theo chiến thuật “bước chân chim”: TĐ8, pháo binh Dù, và thiết kỵ nhảy bước lớn từ cực Nam (của đoàn quân) qua mặt Chơn Thành, đến ngang TĐ5 bỏ pháo
binh lại, tiếp tục “mu” lên hướng Bắc. Lê Lợi nói lời hy vọng: Nếu “Thằng 8” tới được Suối Tàu Ô, thì hy vọng tuần sau mình “đụng” nó- Nó, tức là An Lộc với
quảng cách còn lại khoảng mười cây số.
Nhưng hy vọng của ông vỡ tung như bọt nước: Tiểu Đoàn 8 vừa chạm tới “Hoành độ 72”, cách con suối khoảng hơn một cây số thì đụng. Quân cộng sản không
cần ngụy trang, chựïc sẵn ở vị trí phục kích. Lê Lợi rung tay, ép sát ống liên hợp máy truyền tin vào tai nghe các đơn vị báo cáo dồn dập: Tụi nó gom tôi và con cái
ông Đức (Thiết Đoàn Trưởng 1/5 Chiến Xa) thành vòng tròn.. Pháo dữ quá, đề-lô tụi nó theo sát đây.. Chúng bắn không phí một quả! Đào Thiện Tuyển, Tiểu Đoàn
Phó Tiểu Đoàn 8 nói nhanh giữa tiếng đạn. Sau TĐ8 là TĐ5, Nguyễn Chí Hiếu bảo cáo đỉnh đạt, điềm tỉnh: Trình Lê Lợi, tôi chưa có vị trí, pháo binh cũng thế.
Chúng pháo từ xa, cối gần hơn, và B40, 75(Ly) Không Giật chỉ cách tôi khoảng 50 thước. Dứt.
Ngày 13 tháng 4, tình hình bế tắc nghẹt thở: Tiểu Đoàn 8 bị vây kín; 5 bị cô lập; 3 Pháo Dù chưa thiết lập xong các vị trí pháo; bộ chỉ huy lữ đoàn và TĐ6 kẹt cứng
trong vòng đai chi khu Quận Chơn Thành. Như nước tràn chiếc ly rạn nức, Đại Tá Trương Hữu Đức, Thiết Đoàn Trưởng 1/5 tăng phái hành quân với Lữ Đoàn 1
tử nạn trực thăng, và người em thân thiết của Lê Lợi: Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù tử trận nơi Căn Cứ Charlie, chiến trường
Kontum. Đại Tá Lưỡng có cảm giác “tê cứng” trong khoảng khắc rất rõ. Lữ Đoàn 1 trở lại Chơn Thành, giao vùng trách nhiệm cho đơn vị bạn, Sư Đoàn 21 Bộ
Binh để nhận nhiệm vụ mới - Phải vào An Lộc bằng một đường khác. Đến nhanh hơn. Khẩn thiết hơn. Bởi lúc 7 giờ 15 sáng ngày 13 “khốn nạn” nầy, xe tăng T54
cộng sản đã vào sát hầm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Toàn bộ chỉ huy mặt trận không còn ai, không còn thời gian (tính theo từng ngày, giờ một) để giải bài
toán An Lộc ngoài LêLợi Lê Quang Lưỡng và những tiểu đoàn nhảy dù thuộc quyền của ông.
Chiếc trực thăng chỉ huy ở một cao độ rờn rợn lạnh người lượn vòng thứ năm trên An Lộc. Đại Tá Lưỡng hỏi Thiếu Tá Quyền..
- Thấy cái đồi ở phía đông-nam không?
- Thấy đại tá.
- Chỗ đó.
Vâng, mình đi thêm một vòng để thấy rõ hơn đại tá.. LêLợi gật đầu đồng ý, ra dấu cho Quyền bảo phi công quay lại đường bay. Không cẩn thận không được. Bao
tính mạng quân binh tùy thuộc vào quyết định về vị trí nầy: Bãi đáp trực thăng đổ quân. Cũng là đầu mối để thực hiện kế hoạch tăng viện, giải vây An Lộc, chứng
thực cùng cả nước và thế giới sức chiến đấu của người lính Miền Nam.
.. Mình sẽ xuống cái ấp gì đây Quyền; ấp tên nghe lạ quá? Lê Lợi chỉ xuống xóm nhỏ nằm ẩn dưới màu xanh của khói rừng mờ đục và cũng do đạn pháo liên tục..
- Dạ, ấp Srok Ton Cui, chắc là tên Miên. Quyền kiểm chứng lại trên bản đồ.
.. Ừ, cái ấp đó được dãy đồi phía tây-bắc che dấu; trực thăng khi vào vùng sẽ bay sát ngọn cây từ dưới lên, tránh được “đề-lô” tụi nó quan sát. Thả ở đó mình có
bất ngờ vì nó cứ tưởng mình không bao giờ dám đỗ quân ở hướng đông (Đông Thị Xã An Lộc); nó giữ chặt phía nam vì đó là đường về của mình.. Mình nhẩy
xuống ấp đó, xong chiếm ngay mấy cái đồi chung quanh là giữ được đầu cầu. Phải hết sức cẩn thận trong líp đầu tiên thả “Thằng 6”.
Vâng đại tá. Quyền không bàn gì thêm. Lê Lợi đã “đánh hơi” chiến trường không chút sơ hở.
Ngày 14 tháng Tư, bãi đáp là một đoạn đường nhựa ở Ấp Srok Ton Cui, Đường 245 nối từ Xa Trạch vào đồn điền Quản Lợi, tây-nam An Lộc, cách nhau bởi hệ
thống đồi với cao độ 150 thước. 14 giờ 30, chiếc trực thăng đầu tiên đỗ Đại Đội 62/Tiểu Đoàn 6 Dù do Đại Úy Ngô Xuân Vinh chỉ huy xuống vùng ruộng của Ấp
Suối Rô dưới chân đồi không tên (Cao độ 176 thước) thay vì nơi Ấp Ton Cui như đã ấn định. Vinh lúng túng không biết điều quân theo hướng nào do lộn bãi đáp;
nhưng Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh và bộ chỉ huy tiểu đoàn đã xuống kịp.. Đánh lên đồi đi! Giữ lấy nó để làm an ninh bãi đáp cho mầy thằng (đại đội) xuống sau..
Đỉnh dục Vinh gấp vì đang lúc khó khăn nhất của cuộc hành quân không vận.
Để em xin trong An Lộc bắn lên trên đó mấy trái cho ăn chắc, lên khơi khơi ngán quá! Vinh vào thẳng tầng số pháo binh An Lộc xin tác xạ yểm trợ. Pháo An Lộc
đã “tiêu” gần hết, “rỏ giọt “ cho vinh đúng ba trái! Dứt tiếng nổ, Vinh xua quân lên đồi.. Địch chỉ là một toán tiền đồn nên Đại Đội 62 thanh toán trong mấy mươi
phút chóng vánh. Đỉnh đưa bộ chỉ huy lên đồi đặt tên “Đỉnh E” (Chữ thứ Sáu-Con Số 6 của tiểu đoàn). Đại Đội 61 xuống tiếp, chiếm cao độ đông-bắc của E, đặt
tên E2. Nhưng chiến trận không chỉ lànhững thắng lợi bình yên suông xẻ nầy, phát hiện được cuộc trực thăng vận, pháo cộng sản từ phía bắc, và 75 ly không giật từ
cơ sở cao-su Tân Lợi (Ba cây số đông-bắc An Lộc) cùng dập xuống E và E2. Lính Tiểu Đoàn 6 vội vàng đào hố dưới giàn lưới đạn với chiếc ba-lô là vật che chở
chiếc đầu mong manh. Tiểu đoàn trưởng Đỉnh; Nghiêm (Sĩ quan Ban 3); Cố vấn Morgan tất cả đồng bị thương vì mảnh pháo.. Đỉnh đè tay lên miếng băng, nói
nhanh với Vinh: Mầy gắng giữ thằng E nầy, tao xuống dưới kia, có bãi tải thương, và giữ bãi cho ngày mai. Mầy thâm niên coi luôn “Thằng 1” bên E2. E cũng có
tên nguyên thủy, Đồi Gió - Gió lửa và gió bão như một tên tiền định.
Ngày 15 tháng 4, bộ chỉ huy lữ đoàn, hai Tiểu Đoàn 5, và 8 xuống bãi bình an. Lê Lợi lên Đồi E họp với hai tiểu đoàn trưởng 5 và 8 Dù..
- Mình đi liền, anh Ninh (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 ), đưa thằng con vào An Lộc, nhưng khoan vào hẳn, tới ngang chỗ con suối thì đợi tôi. Tôi và Hiếu (TĐ5) vào Ấp
Sóc Gòn, mình dọn đường vào thật sạch, có gì bung ra lại, hoặc để cho đơn vị khác sau nầy vào dễ dàng hơn. Đồi Gió-An Lộc chỉ cách quảng bốn cây số qua
những sườn đồi thoai thoải của rừng cao su Phú Hòa, chuyển quân bình thường chỉ mất khoảng hơn hai giờ.. Nhưng vì đây là An Lộc, Đại Tá Lưỡng hiểu rõ độ
chật của chiến trường, và đấy cũng là chiếc bẩy đang siết chặt nên ông không thể không cẩn thận khi đến với nó. Ngày 16, để Tiểu Đoàn 6 ở lại giữ Đồi Gió, Lê
Lợi sấn hai “Thằng 5 và 8” song song tiến vào An Lộc. Tiểu Đoàn 5 chia làm hai cánh vào ấp Sóc Gòn, quân đang đà di chuyển bỗng nhiên khựng lại.. Dân ùa ra
như thác lũ băng qua con đê nhỏ.. Lính mình.. lính mình.. Toàn là đàn bà, con nít, những người đàn ông già lão. Tiểu Đoàn Trưởng Hiếu (TĐ5) dạn dày kinh
nghiệm, dặn các đại đội trưởng: “Cẩn thận, nó lùa dân đi trước để mình bị trói tay, thế nào cũng đụng ở đây. Đợi đến sát ấp là nhào vào, không cần tiền pháo yểm.”
Bìa làng đến gần.. 100, 80, 50.. thước, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù - Đơn vị Nhảy Dù Việt Nam hai lần nhảy xuống Điện Biên Phủ 1954. Tiểu đoàn đã khai sinh bốn vị
tướng lãnh cho quân lực - Và cũng là đơn vị đầu đời của Đại Tá Lê Quang Lưỡng, vị tướng tương lai của trận chiến 1972 là Người Thứ Năm - Con Số Năm định
mệnh của chính nó cũng như của Người Lính Đại Diện: Lê Lợi Lê Quang Lưỡng. Đơn vị bách thắng hôm nay đứng trước Ấp Sóc Gòn với một trạng huống kỳ dị:
Họ phải xung phong vào một mục tiêu với tư thế cá nhân chiến đấu để giữ an toàn cho người dân.. Hai lần, ba đợt.. Tiểu đoàn không sao dứt điểm mục tiêu. Cuối
cùng, khi chắc chắn những người dân còn kẹt lại đã rời ấp, Lê Lợi quyết định dội trận lửa. Hai-mươi phi tuần khu trục Việt Nam và Mỹ lần lượt thay nhau vào
vùng. Khu vực của ấp từ một dạng hình lục giác (Ấp Chiến Lược kiểu mẫu xây dựng từ đầu thập niên 60) nay không còn một hình thù nào nữa, ngỗn ngang gò
đống bốc khói điêu tàn.Nhưng so với An Lộc bên cạnh, Ấp Sóc Gòn chỉ là một lò than nhỏ.
Ngày 17, Bộ chỉ huy lữ đoàn cùng TĐ5 rời bỏ Ấp Sóc Gòn, di chuyển song song với TĐ8 theo đường Tỉnh Lộ 303 vào An Lộc. Từ suối Quản Lợi, Tiểu Đoàn 8
vào thẳng vòng đai thị xã lúc 7 giờ sáng sau khi diệt xongnhững chốt nhỏ.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Người lính Tiểu Khu Bình Long nhảy ra khỏi hố phòng thủ, anh báo
hiệu cho những ngưòi lính cùng tuyến.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Phải ở trong cảnh chết mới hiểu được độ xúc động khi nhìn thấy bạn đến tiếp cứu. Phải từ sự chết,
người dân mới thấy ra nỗi hân hoan sống lại khi nhìn ra vóc dáng anh lính cộng hòa giữa vũng lửa. Một Giờ, chiều ngày 17 tháng 4, 1972 Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng
Lữ Đoàn 1 Dù bước chân vào trong vòng đai An Lộc. An Lộc được cứu viện lần thứ nhất.
.. Không còn gì hết Quyền hả?
- Vâng. Kinh thật.
Hai người trao đổi câu nói ngắn. Đại Tá Lưỡng mượn chiếc xe jeep của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân do Quyền cầm lái chạy như bay qua gò đống, hầm hố và xác
người. Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh còn hai hộp bia và chai bia lớn..
- Mời anh Lưỡng. Tốt quá. Có được anh tôi vững tâm. Ông tướng mới nhất quân lực cười tươi trên nét mặt lo âu.. Có anh, tôi mừng lắm!
Trên đường đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long của Đại Tá Trần Văn Nhật, Đại Tá Lưỡng hỏi Quyền.. Mầy biết tao vào An Lộc bằng cách nào không?
Quyền không hiểu ý câu nói, anh đưa mắt hỏi thầm.. À, tao vào bằng lưng, chân bị vọt bẻ quá, phải xoay lưng đi ngược.. Cái mặt mà sưng bằng cái lưng là không
khá. Khó lắm đó mầy. Quyền nghĩ thầm.. Lê Lợi 612 biết nói đùa quá. Cách đùa rất chính xác.
Vượt hẳn hết ý niệm từ trước, bỏ xa trí tưởng tượng đã xếp đặt, An Lộc không “hư” từng khu, không đổ từng khóm, An Lộc vỡ nát, vỡ tan tành, vỡ vụn... Không
còn sự sống trên mặt đất, không còn dấu vết người trên mặt đất, thành phố chìm dưới hầm, sâu dưới đất, càng sâu càng tốt như một ổ mối khổng lồ dưới lớp đất bùn
bề mặt. Một diện tích rộng chưa tới cây số vuông đã có lần nhận được 8000 viên đạn như trong đêm 11 rạng 12 tháng 5; 8000 viên đạn loại xuyên phá chưa kể hỏa
tiễn và cối tung hoành trên mảnh đất chỉ bằng khu vực Đa Kao. Mỗi thước vuông đất phải nhận hơn 10 trái đạn. Đạn delay (công phá, nổ chậm) xuyên xuống đất
hơn một thước mới nổ. Không cần phải trúng ngay hầm chỉ cần nổ bên cạnh cũng đủ xô ngã vách hầm. Dân và lính thụ động co rút dưới hỏa ngục đổ từ trên trời
xuống trong hơn hai tháng. Pháo không phải từng cơn, từng giờ, từng loạt, pháo đầy trời như mưa, pháo ào ạt như gió, pháo kín mít như mây. Pháo không vạch từng
đường như Mậu Thân, pháo không đi từng luồng như ở Hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn lẫn như mưa bay giăng giăng che kín không gian của những ngày xuân
mưa bụi. Dưới bầu trời đầy những đóa hoa tử thần đó. An Lộc co quắp, vật vã, tan thành mảnh, phất phới bay như tờ giấy xé nát được tung lên giữa trời gió lớn.
Một hỏa tiễn nâng chiếc xe jeep bay bổng, khối sắt nặng 1/4 tấn vừa rơi xuống chạm mặt đất lại bị thổi ngược lên cao, nhẩy lên một mái hầm như hộp thiếc nhỏ bị
quay cuồng vì những viên đạn tinh nghịch chính xác trong phim cao bồi Mỹ..
Lê Lợi và Tố Quyên đứng im, nhìn kỹ thêm một lần trước An Lộc điêu tàn. Hai người lính không thể nói thêm một lời nào. Họ cúi thấp người, bước xuống chiếc
hầm của Đại Tá Trần Văn Nhật - Bộ chỉ huy Tiểu Khu Bình Long (20)
Không phải đợi đến lúc bước xuống căn hầm chỉ huy ngột ngạt của Tiểu Khu Bình Long, Đại Tá Lưỡng mới thấy ra sự chật chội thụ động của chiến trường, nhưng
từ khi cùng Quyền bay trực thăng trên các cao độ vùng đông-nam An Lộc, ông đã biết rất rõ độ ngặt nghèo thu hẹp của trận địa. Ông cần một nút thoát hơi cho
An Lộc, và đối với đơn vị của ông - Đồi Gió, cao độ “E” của Tiểu Đoàn 6 Dù là điểm thở quan yếu nầy. Vì từ cao điểm “E”, An Lộc có được một bàn đạp để
khai triển lên Bắc hay xuống Nam do được dãy cao độ 160, 175, 140 bảo vệ cạnh sườn phía Đông. Vì lý do nầy, Tiểu Đoàn 6 và pháo đội 105ly của Tiểu Đoàn 3
Pháo Dù giữù nhiệm vụ trấn đóng yết hầu mặt trận An Lộc là những đơn vị hứng chịu những mũi nhọn tiến công nặng nề nhất kể từ ngày bước xuống Đồi Gió.
Chúng ta theo dõi diễn tiến chiến trận của đơn vị nầy.. Khi Đại Đội 62 của Vinh “con” lên Đồi Gió chiều ngày 14 tháng Tư thì bộ chỉ huy cộng sản mặt trận Bình
Long cũng nhận ra cuộc đổ quân tăng viện, và dồn tất cả hỏa lực của vùng Bắc; Tây-Bắc An Lộc đồng đổ xuống vùng Đồi Gió, nơi có ba cao độ nổi rõ lên tạo
điểm chuẩn để pháo binh địch rơi xuống không trật một trái ra ngoài mục tiêu. Cũng bởi, phía chỉ huy cộng sản tại mặt trận đã xác định rõ qua một công điện gởi
về Trung ương cục R: “Một D (Tiểu Đoàn) Ngụy Dù chiếm Đồi Gió, gây khó khăn cho việc chiếm Bình Long, phải diệt gọn “D Ngụy” với tất cả phương tiện”(21)
Song song với chỉ thị của Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng qua việc để lại Đồi Gió bộ chỉ huy nhẹ của lữ đoàn với Lữ Đoàn Phó Trung Tá Lê Văn Ngọc, Đại
Đội 3 Trinh Sát, và pháo đội 105ly ND; Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Tiểu Đoàn Trưởng 6 Dù cũng không hoàn toàn thụ động đối với tình thế ngặt nghèo dưới cơn
mưa pháo. Đỉnh nhận định: “Nó phân tán pháo binh, tập trung hỏa lực để bắn mình.. Tại sao mình không phân tán các “đứa con” ra ngoài để tránh pháo, cũng để
phòng thủ lưu động được toàn miền? Đỉnh phối trí các “đứa con” theo thế trận: Đại Đội 63 của Đại Úy Hoàng trấn giữ ngã Ba đường 245, Bắc của Ấp Ton Cui;
Trung Úy Cao Hoàng Tuấn chỉ huy ĐĐ64 giữ phần chính của ấp. Khi các đại đội đã vào vị trí. Đỉnh tự hỏi: “Dẫu đã có một hàng rào phía đông của “E”, nhưng
không hiểu đồi có giữ được không?” Thắc mắc của Đỉnh không kéo dài lâu, phía cộng sản cho liền đáp số. Đại Đội 63 bị tấn công trước, ngay vào lúc buổi trưa
ngày 17 với một lự c lượng quân số áp đảo, bởi phía chỉ huy cộng sản cũng đã hiểu ra rằng: Ấp Ton Cui là “bãi đáp trực thăng hữu dụng để tăng viện An Lộc”;
nhưng thêm ước tính nhầm là bộ chỉ huy TĐ6 vẫn còn ở tại ấp nên họ đã sử dụng một quân số vượt trội để quyết “diệt gọn” bộ chỉ huy tiểu đoàn. Đại Đội 63 có
được vị trí phòng thủ nên giữ tuyến chắc chắn; đến chiều tối, Đại Đội 64 được lệnh kéo lên tăng cường bởi Trung Tá Đỉnh hiểu rõ thêm ý đồ của đối phương.
Quảng cách hai đại đội khoảng chừng 600 thước, nhưng Trung Úy Tuấn phải mất năm giờ mới “bắt tay” được đại đội bạn. Hai viên đại đội trưởng nói cùng nhau:
“Một mình tao nó đánh không xong, nay hai đứa sức mấy tụi mình bị lũng.” Từ An Lộc, Đại Tá Lưỡng theo dõi diễn tiến trận đánh của Tiểu Đoàn 6, và ôn gcũng
thấy ra rằng nếu TĐ6 bị bứng khỏi khu vực Đồi Gió có nghĩa, các đơn vị của lữ đoàn hoàn toàn mất hẳn với liên lạc bên ngoài - Lần tiếp vận của Lữ Đoàn 1 hoá ra
chỉ tăng cường quân số cho đạo quân bị vây ở An Lộc thêm đông đảo. Ông trầm ngâm bảo Quyền: Hỏi bên Mỹ, rồi xin ở quân đoàn phi vụ “Daisy Cutter - Bom
BLU-82B” (22) thả xuống cho tụi “Thằng Đỉnh”.. Phải có thứ nầy mới ăn thua đủ với bọn chúng!! Trái bom từ bụng chiếc phi cơ vận tải võ trang AC130 (Phi cơ
AC130 thiết trí giàn phóng lựu 20, 40ly; đại liên 7.26ly; đại bác 105ly, chuyên trách công tác yểm trợ cận phòng, thả bom dọn bãi, phá chướng ngại vật (thiên nhiên)
lớn, thả trái sáng yểm trợ tác chiến đêm) chứa 15,000 cân Anh thuốc nổ và mãnh thép rơi bằng dù chính xác vào giữa đội hình đơn vị cộng sản chấm dứt cuộc
huyết chiến rạng sáng ngày 18 giữa tiếng reo hò của binh sĩ hai đại đội 63, 64.
Ngày 18 tương đối bình yên, Trung Tá Đỉnh đưa Đại Đội 61 xuống thay thế để hai Đại Đội 63, 64 trở lại đồi với lời khen ngợi: “Làm trưởng ấp một đêm là giỏi lắm
rồi.. Lấy được hai K54 (súng ngắn của người chỉ huy) như vậy nó đánh hai toa phải là cấp tiểu đoàn, và thằng tiểu đoàn trưởng thế nào cũng đã về với bác nó!”.
Hai-mươi bốn giờ “bình an” của ngày 18 đi qua nhanh chóng để bão lửa phục thù của Bắc quân ào xuống. Đồi Gió hay cao độ 175 dần nát vụn dưới cơn pháo
cường tập liên hồi, đồng thời phá nổ tung kho đạn dã chiến của pháo đội 105ly của pháo đội/TĐ3Pháo Dù. Tiểu Đoàn Trưởng Đỉnh và cố vấn Peyton đồng bị
thương cùng với 32 quân binh.. Trong hầm chỉ huy của Đại Tá Nhật, Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng biết đã đến lúc địch quyết tâm dứt điểm Đồi Gió, khóa
cửa ngõ vào thị xã trước khi thanh toán mục tiêu chính: Cứ điểm trung tâm phòng thủ An Lộc. Ông mau mắn quyết định: Tiểu Đoàn 6 không còn nhiệm vụ giữ
pháo binh, tiểu đoàn trưởng toàn quyền điều động đơn vị để giữ thế trận. Trên Đồi Gió, Đỉnh lẫm bẩm:”Chỉ 48 giờ mất toi sáu khẩu pháo và ngàn quả đạn, thêm
một lô thương binh không tải thương.. Ở làm gì nơi cái đồi quái quỷ nầy nữa.” Dọt! Đỉnh để lại hai Đại Đội 63, 64 do Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng trấn giữ, đẩy
Vinh “con” xuống lại Ấp Ton Cui với lời dặn: “Mầy cố gắng bắt tay “Thằng 1” (ĐĐ 61) dưới kia để có bãi tản thương, tiếp tế, ở trên nầy nó pháo mờ người không
làm ăn gì được.” Từ chân đồi đến ấp chỉ khoảng 400 thước nhưng Vinh với ĐĐ62 phải mất hẳn một đêm 19 mới đi thấu. Quân binh hai bên trộn với nhau như gạo
và trấu, chỉ còn cá nhân chiến đấu qua cách sờ nón sắt để phân biệt ta hay địch! Đêm 19 chuyển qua ngày 20 với tiếng kèn thúc quân vang dội dọc Đường 245,
cùng lúc, đầu con đường, nghe rõ tiếng động cơ máy nổ của tăng T54 rầm rầm di chuyển.. Đỉnh rung tay: Bỏ mẹ, nó dứt điểm mình rồi! Tăng T54 ầm ầm tiến lên
Đồi Gió trước (ý hẳn phía cộng sản ước tính bộ chỉ huy TĐ6 vẫn còn ở trên đồi) .. Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng cùng hai đại đội trưởng Hoàng, Tuấn cùng ra
giao thông hào với khinh binh, đợi chờ những chiếc tăng lố nhố lính Bắc quân tùng thiết xông lên. Trận chiến không cân sức dần tàn vào trưa ngày 20 với kết thúc
bi thảm: Tiểu Đoàn Phó Bằng bị bắn tung một mắt; Đại Đội Trưởng Tuấn hứng ngay quả 75 ly, giã từ đời ở số tuổi 23. Bằng buông ống liên hợp máy truyền tin
thều thào bảo Hoàng khi máu chảy xuống ướt đẫm mặt: “Thay tôi, dẫn hai đại đội về Đồi 169, đem theo thương binh, chết để lại.”
Thanh toán xong Đồi Gió, quân cộng sản tập trung, điểm danh, chuyển lệnh ngay trên Đường 245 trước khi thanh toán phần còn lại của Tiểu Đoàn 6 ở Ấp Ton Cui.
Không lẽ đời mình tàn tại cái chỗ khốn nạn nầy hay sao Nghiêm? Đỉnh than nhẹ với Nghiêm, sĩ quan Ban 3 khi chờ lệnh Lê Lợi. Hơn hai-mươi bốn giờ của ngày
19 và 20 tháng Tư, Đại Tá Lưỡng không hề chợp mắt, ông ngồi cạnh máy truyền tin theo dõi và ra từng lệnh ngắn cần thiết đến Tiểu Đoàn 6 bởi ông biết rõ: Sinh
mạng đơn vị đang đụng trận ngoài kia hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi quyết định của ông. Ông cũng phải dấu đi mối đau riêng tư về tin Thiếu Tá Bằng bị thương
nặng - Bằng là một trong đại đội trưởng thân yêu của ông từ ngày mở trận Tiểu Đoàn 2 ở năm 1965 - Ông sống cùng, với bao nhiêu người đã nằm xuống, tưới máu
lên từng ngày, giờ chiến địa. Phải vô cùng khó khăn Lê Lợi mới lập lại được liên lạc với Đỉnh (do các tầng số âm thoại bị phá bởi phía Bắc quân dò được các tầng
số âm thoại đang xử dụng) qua hệ thống máy cố vấn Mỹ với trạm chuyển tiếp trên Núi Bà Đen (Tây Ninh), nơi cách An Lộc 100 cây số đường chim bay..
..Đây Lê Lợi 612.. Đỉnh chong đôi mắt mệt mỏi nghe rõ từng chữ: “Sẽ có ba line B52 đánh xuống chỗ anh, cách anh chỉ 500 thước thôi (phi cơ B52 dùng trong
công tác yểm trợ chiến thuật CAS (Close Air Support) trên lý thuyết phải có khoảng cách an toàn hai cây số), ở ba hướng, Bắc, Đông, và Nam, xong anh theo
hướng Đông-Nam đến bờ Sông Bé có trực thăng rước về.. Gắng lên, đời anh và tôi chỉ có một lần”. Ba line B52 đánh xuống như cơn địa chấn, 500 thước đối với
bom 500 cân Anh thả một loạt 24 trái (số lượng tối thiểu tùy theo cự ly bay, và giờ hoạt động trên mục tiêu) (23) quả thật không còn “khoảng cách an toàn” nào
nữa. Những chiếc B52 vừa đi qua, Đỉnh báo cáo cùng “612”: Xong rồi, xin Lê Lợi màn khói. Không có khói, thôi anh và con cái dọt đi. Tôi nghe. Đỉnh nói với hơi
thở hụt
Rừng còn nguyên độ nóng trận bom, nồng mùi lửa, khói trộn tro than bốc dày che khuất bầu trời xanh ánh trăng.. Đại úy đại đội trưởng Vinh “con” đi khi binh số 1;
Thiếu tá trưởng Ban 3, Nghiêm tiếp làm khinh binh số 2; và người thứ ba, Tiểu đoàn trưởng Đỉnh. Tiểu Đoàn 6 Dù, hậu thân của 6th B.E.P, đơn vị đầu đời của
viên sĩ quan kiệt liệt Đại Úy Đỗ Cao Trí lần đầu tiên buộc phải chấp nhận thất bại, im lìm rời khỏi chiến trường. Khởi đi từ 01 giờ 42 phút ngày 21 tháng Tư, tiểu
đoàn bị phục kích thêm hai lần nữa, bởi đi theo suối thì gặp các căn cứ cộng sản; đi trên cao độ thì bị pháo.. 5 Giờ chiều tại trãng trống để đợi trực thăng đến bốc
đi, đơn vị lại bị phục kích thêm một lần thứ ba - Lê Lợi biết rõ những điều nầy nhưng ông chấp nhận - Bởi chỉ tìm được đường sống trong ngã chết, vì hướng Đông-
Nam là an toàn khu nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của mặt trận Bình Long, nên phía cộng sản không thể nào nghĩ ra rằng: Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang lưỡng đã
chọn làm hướng lui quân cho Tiểu Đoàn 6 khi ông đã dội B52 xuống những hướng đối chiếu.
Tan hàng ngày 21 tháng Tư, nhưng Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù với châm ngôn của binh chủng đã thực hiện và hoàn tất sự cố gắng qua từng người lính - Phần đông lại
là tân binh, quân phạm được ân xá cho trở về quân đội trong thời buổi nước nhà nguy biến. Với quân số 412 người vừa được bổ sung sau thiệt hại Đồi Gió mà3/4 là
tân binh.. Có cậu lính trẻ vốn là Nhân Dân Tự Vệ tập bắn XM16 cặp hông như bắn súng Thompson thời Thế chiến thứ Hai. Nhưng “tập bắn” cũng chỉ là cách nói
để tạm yên lòng vì một tháng nơi Căn Cứ Lai Khê (Bộ tư lệnh tiền phương của Quân Đoàn III), thành phần tân binh khác lạ kia của Tiểu Đoàn 6 chỉ được huấn
luyện kỹ thuật tác chiến, tác xạ bằng.. lý thuyết suông! Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Đỉnh thúc dục các đại đội trưởng..Các ông cố gắng dạy tụi nó được phút
nào hay phút đó.. Tập tháo ráp súng, tập tác xạ, nhận thủ lệnh khi giữ đội hình khi di chuyển.. Tập riết bằng miệng rồi cũng nên quen chứ bộ. Mình cố gắng dạy
đám lính mới nầy để đánh phục hận vụ Đồi Gió hôm tháng Tư. Không có gì thay đổi thì đầu tháng Sáu mình go! Trước sau gì tiểu đoàn mình cũng phải trở lại An
Lộc.
Ngày 4 tháng Sáu, 1972 như một câu chuyện thần kỳ về lần chuyển hóa những con người bình thường bỗng nhiên hóa thân nên những chiến sĩ lẫm liệt. Với đám
tân binh chưa được một lần tác xạ đạn thật, Tiểu Đoàn 6 Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đỉnh với giàn đại đội trưởng, trung đội trưởng sống sót từ trận Đồi
Gió như được thúc dục bởi một nguồn lực muốn chứng tỏ quyết tâm lập lại danh dự người lính, nên từ khi xuống bãi đáp Bàu Đồng Lô, tiểu đoàn dưới sự dẫn đầu
của Lộc, Đại Đội Trưởng Đại Đội 61 đã đi như ánh chớp qua các mục tiêu..Ấp Đức Vinh1, Đức Vinh 2, cách An Lộc đúng năm cây số đường thẳng. Để hiện
thực trong trận chiến cuối cùng ngày 6 tháng 6, 1972.. Hai Đại Đội 61, 62 rời khỏi khu đóng quân , xếp hàng hai bên ven đường. Gần hai trăm con người lẫn nhanh
vào kku rừng phía tây..Nhào vào..Nhào vào sâu hơn nữa.. Hai đại đội trưởng hét vang thúc lính tấn công theo hướng Tây-Đông. Đại đội 62 của Vinh bảo về bộ chỉ
huy tiểu đoàn bố trí qua theo mặt Bắc- Hướng An Lộc. Khi tất cả đã ở yên trên các vị trí chỉ định. Tiểu Đoàn Trưởng Đỉnh hạ lệnh lần cuối: 63 bọc xuống phía
Nam, không cho tụi nó chạy lui; 61, 62, 64 dánh từ Tây sang Đông, bao giờ đến đường rầy thì ngừng lại đợi lệnh. Dàn hàng ngang và đánh thật nhanh. Nhanh đến
mức có gã lính mới lần đầu tiên thấy lính Miền Bắc quá gầy yếu, nhỏ bé.. Hắn ta nhào vào quên cả tác xạ! Pháo địch bắn cản đổ xuống như trút. Mặc! Đỉnh thúc
tiểu đoàn ào tới theo cách bộ đội cộng sản tránh bom “bám chặt thắt lưng kẻ thù mà đánh”. Bị thương ném lui ra đằng sau để Tiểu Đoàn Phó Tùng (đã bị thương
khi xuống bãi trực thăng ngày 4) thâu nhặt, bảo vệ.. Ào tới ! Ào tới! Đánh kiểu “Blích -kiết” của tụi Đức, bảo lính vừa đi vừa bắn.. Đừng cho tuị nó ngóc đầu!!
Chiến trận chấm dứt sau năm giờ tiến quân thần tốc với kết quả, tiểu đoàn 1 chết, 63 bị thương đổi lại 90% địch chết tại hầm. Và cuối cùng ngày 8 tháng 6.. Cứ
theo chiến thau65t như ngày hôm kia..Xung phong! Xung phong! Tiếng hét, đạn nổ.. Lựu đạn M26; phóng lựu M79; hoả tiễn M72 chêm vào với đạn súng tay như
một chuỗi pháo liền bất tận.. Những cán binh cộng sản còn sống thuộc hai đại đội C7, C8 bỏ giao thông hào, từng cặp một (bị xiềng vào nhau bởi một dây xích - để
không cho phép bỏ chạy khi tac chiến) chạy tản ra đồng trống.. Bỏ ba-lô.. Bỏ ba-lô đuổi theo.. Đuổi theo đừng cho thằng nào chạy thoát!! Lính tân binh thâm niên
công vụ 16 ngày lần đầu đụng trậân không biết sợ, cặp súng vào hông đuổi theo đám cán binh thất thế.. Hai đại đội bị “dứt nọc” sau 2giờ12 phút chiến trận với một
tù binh độc nhất sống sót còn lại: Tù binh Nguyễn Văn Tiền.
Thừa thắng xông lên, Vinh trở quân đánh vào mục tiêu hướng Bắc - Mục tiêu chính nằm ở ngã tư đường vào đồn điền Xa Cam - Cửa ngỏ An Lộc. Bộ phận cộng
sản bố trí hướng về phía Bắc (hướng của Tiểu Đoàn 8 Dù) xây lưng về hướng tiến quân của đại đội của Vinh.. Tất cả để cò vào vị trí “auto”.. Bắn! Bắn! Những
tấm lưng thịt người nẩy lên bừng bực..Đạn đi qua thịt người, găm vào đất. Đất vốn màu đỏ sậm trở nên đỏ tươi. Đỏ gắt. Đỏ ướt. Đơn vị cộng sản chạy dạt về
hướng tây. Gặp Đại Đội 63 của Thái Tường. Lính Tiểu Đoàn 8 cách nơi đụng trận khoảng 800 thước, đứng dậy khỏi hố chiến đấu hoan hô lính Tiểu Đoàn 6 dứt
điểm, diệt gọn mục tiêu.
17 giờ 45 Vinh “con” bắt tay Hồng Ni (TĐ8 ) cách tấm bảng “Đồn Điền Xa Cam” 100 thước. Trước mặt hai người bạn (cùng Khóa 20 Thủ Đức) An Lộc được
buổi chiều bình yên bốc khói bếp nấu cơm.
Trên trực thăng bay đến An Lộc, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 (Chỉ huy tổng quát cuộc hành quân giải tỏa An Lộc), Nguyên Tư Lệnh Phó
Sư Đoàn Dù, cũng là Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù có câu trả lời với Lê Lợi..
- Hoàn Mỹ (Chuẩn Tướng Hậu) xem con cái tôi đánh có đẹp không?
- Không, không thể nói chúng nó đánh đẹp, mà phải nói là quá đẹp. Cũng không được nữa, phải nói lỗi lạc và phi thường. Đại Tá Lưỡng vốn quen biết Chuẩn
Tướng Hậu từ rất lâu, ngày cùng ở Tiểu Đoàn 5.. Nhưng chưa bao giờ nghe ông Hậu nói một câu với những tỉnh từ nồng nhiệt như thế.
Nhưng theo ý của người viết đoạn ký nầy, món quà “đẹp” nhất là cảnh người lính nhảy dù đem cơm khô, trái cây hộp; bác sĩ, y tá ra trực hai bên Đường 13 để
chửa bệnh, biếu phần “cơm dằn đường” cho đồng bào. “Cơm dằn đường” - Ai sinh ra loại cơm đau đớn tội nghiệp như thế hở trời?!(24)
4. Trận chiến tàn cuộc
Suốt năm 1972, Lữ Đoàn 1 trong khuôn khổ Sư Đoàn Dù là một trong những đơn vị của toàn quân lực đã có mặt trên toàn ba vùng đất lửa: Trị-Thiên; Tân Cảnh,
KonTum, và nhất là chiến công vừa kể trên trong kỳ tích giải cứu, phá vòng vây của địch tại An Lộc. Riêng về vùng Trị Thiên, kể từ tháng 5, 1972 sau khi Tướng
Ngô Quang Trưởng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I, toàn bộ Sư Đoàn Nhảy Dù được chỉ định tăng phái hành quân dài hạn tại Vùng I, là đại đơn vị trách nhiệm
toàn vùng Tây-Bắc mặt trận Trị-Thiên với vùng hành quân bao gồm từ tây Quốc Lộ I vào Trường Sơn trấn giữ mặt núi, đối diện với những sư đoàn chính quy
cộng sản trên cao độ Động Ông Đô, đỉnh cao nhất của Trường Sơn, trấn giữ thế trận hai sườn đông- tây để những đơn vị bạn, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân, lực lượng Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Trị dựng nên kỳ tích lịch sử: Dựng Cờ Vàng lên Cổ Thành Quảng Trị, 14 tháng 9,
1972.
Sau Hiệp Định Paris, 1973 Sư Đoàn Nhảy Dù là lực lượng chiến lược chống giữ cả hai mặt Bắc và Nam đèo Hải Vân. Vùng trách nhiệm kéo dài qua ba tỉnh
Quảng Trị-Thừa Thiên-Quảng Nam, chịu áp lực từ phía cộng sản có thể tập trung quân dứt điểm toàn vùng theo chiến thuật Đông-Tây: Cắt Thừa Thiên (Bắc Hải
Vân) theo chiều ngang của Sông Bồ (An Lỗ, Quảng Điền, Thừa Thiên); hoặc từ Quận Thường Đức đổ xuống đồng bằng Quảng Nam (Trận Mật Khu Đỗ Xá, 1964
kể bên trên là hiện thực bước đầu của ý niệm chiến lược nầy của phía cộng sản - Không phải chỉ riêng đối với giai đoạn chiến tranh 1960-1975, mà xuyên suốt
trong diễn tiến chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) để hoàn tất sự chia cắt Vùng I Chiến Thuật theo chiều ngang Nam Hải Vân. Với tình thế chống
địch cả hai đầu, sư đoàn nay đặt dưới quyền tư lệnh của Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng. Thêm một lần Tướng Quân phải tìm cách thế để đơn vị tồn tại, chiến
đấu, và vượt thắng bằng khả năng quân sự độc đáo, bản lãnh riêng. Do hạn chế bởi các điều khoản Hiệp Định Paris: Không được tăng quân số và áp dụng biện
pháp thay thế “Một Đổi Một” (Chương II-Điều 7); cùng sự cắt giảm viện trợ Mỹ (Điển hình từ 1Tỷ47 rút xuống còn 1Tỷ, xong 700 Triệu, để kết thúc với 654Triệu
cho tài khóa 1975) (25) - Tướng Lưỡng cùng ban tham mưu sư đoàn sáng tạo nên kế hoạch: Tạo dựng những “Đại Đội Đa Năng” với quân số cơ hữu của sư
đoàn bằng cách giảm thiểu đến mức tối đa các thành phần tham mưu, yểm trợ, kể cả trung tâm huấn luyện. Thế nên, cuối năm 1973, sư đoàn đã có đến 12 Đại
Đội Đa Năng làm thành phần trừ bị cho chính mình - 12 đại đội hay là 3 tiểu đoàn - Tức là một lữ đoàn trừ bị. Với cách biên chế, tổ chức mới mẻ nầy, sư đoàn
hoàn tất được một lần hai nhiệm vụ: Bảo vệ mặt Bắc Hải Vân với Lữ Đoàn II và một Tiểu Đoàn Đa Năng; thành phần còn lại của sư đoàn chiếm đóng, bảo vệ
mặt Nam Hải Vân qua cuộc tiến công từ Đại Lộc lên Cao Điểm 1062 - Chế ngự toàn vùng Thường Đức, vùng núi cực tây Quảng Nam-Đà Nẵng. Quận Thường
Đức cách Đà Nẵng 50 cây số đường chim bay, với những cao điểm 1235 và 1062 kiểm soát được toàn vùng cận sơn và đồng bằng. Nhưng không chỉ như thế -
Nếu chiếm giữ được Thường Đức, lực lượng cộng sản sẽ mở một được một đường hành lang thông suốt chạy từ Bắc Kontum (vùng Dak To, Dak Pek, Dak Nhét
đã chiếm được từ tháng 4/1972) xuống vùng bình nguyên (khỏi phải dùng đường từ Kontum, Pleiku ở phía Nam, xa xôi, với quá nhiều trở ngại); chưa hết con
đường nầy còn nối với mặt trận Trị-Thiên (Bắc Hải Vân) mà không cần băng qua đất Lào. Vùng Cao Độ 1062 do đơn vị tinh nhuệ nhất của quân đội Miền Bắc
trấn giữ: Sư Đoàn 304 Điện Biên, và SĐ2CS tăng cường từ Mặt Trận B3 (Tây Nguyên). Trận chiến trên các cao điểm chung quanh 1062 bắt đầu từ ngày 8 tháng
8/ 1974 chấm dứt vào cuộc phản công cuối cùng ngày 8 tháng 11 cùng năm do bảy Tiểu Đoàn Nhảy Dù 1, 2, 3, 6, 7, 8, 9 trong số chín tiểu đoàn có mặt tại vùng
hành quân đã liên tục tác chiến, đánh ngày, đêm, cận chiến, du kích, đột kích, trận địa chiến.. Có thể nói đây là chiến trận lớn nhất sau cái gọi là “Hiệp định tái lập
hòa bình tại Việt Nam”. Người lính nhảy dù trả giá cho ngọn đồi và hòa bình với sinh mạng 500 chiến sĩ; 2000 người bị thương trận.
Cuộc huyết chiến tại cao điểm 1062 tạm kết thúc đợt giao tranh thứ nhất (cuối tháng 8/ 1974) với 200 xác bộ đội cộng sản (kiểm kê sơ khởi); 40 tù binh bị bắt tại
trận địa. Trương Công Phê, Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 304 (còn có danh hiệu “Sư Đoàn Thép”) có kết luận: “Sư Dù là một sư mạnh”. Nhưng phần thưởng lớn lao
nhất, hãnh diện là lời của đồng bào Đại Lộc: “Nhảy Dù tới bà con ơi! Nhảy Dù tới! Chúng ta không chạy nữa, quay lại làm ăn như cũ, đừng sợ gì nữa!” (26) Phải,
đồng bào đã từng nói như thế ở Huế, Mậu Thân 1968; và mới đây, năm 1972 ở An Lộc, Bình Long, và tiếp theo ở Quảng Trị chỉ trong khoảng tháng 4, tháng 5.
Ngày 1/1/1975, một lần nữa để đáp ứng tình hình chiến trường càng ngày càng trở nên khốc liệt khó khăn, dưới quyền tổ chức và quyết định của Tướng Lưỡng, Sư
Đoàn Nhảy Dù thành lập Lữ Đoàn IV Nhảy Dù, và tiếp theo sẽ là Lữ Đoàn V Nhảy Dù. Lữ Đoàn IV Nhảy Dù do Trung Tá Lê Minh Ngọc giữ chức lữ đoàn
trưởng, gồm:
- Tiểu Đoàn 12ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm.
- Tiểu Đoàn 14ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu tá Nguyễn Đức Tâm.
- Tiểu Đoàn15ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Phú.
- Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Đặng Hữu Minh.
- Đại Đội 4 Trinh Sát do Trung Úy Trần Chí Mỹ giữ chức đại đội trưởng đang hình thành.
Riêng kế hoạch phát triển thêm Lữ Đoàn V Nhảy Dù đang được hoàn chỉnh, bởi chưa có lữ đoàn trưởng, chỉ thành lập được ba Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn gồm có
các Tiểu Đoàn 16, 17 và 18 với dự tính: Tiểu Đoàn16ø do Trung Tá Phạm Kim Bằng làm Tiểu Đoàn Trưởng. Tiểu Đoàn 17ø, Thiếu Tá Lê Hữu Chí; Tiểu Đoàn
18ø do Thiếu Tá Hồng Thu dự trù đảm nhiệm. Tiểu Đoàn 5 Pháo Binh; Đại Đội 5 Trinh Sát chưa được thành hình. (27)
Sau ngày 10, tháng 3, 1975 khi mặt trận Vùng II suy sụp trầm trọng bởi lần di tản bộ tư lệnh cùng toàn thể các đơn vị khỏi Tây Nguyên bắt đầu từ ngày 17 tháng 3,
1975. Tình hình quân sự Miền Nam trở nên cầm đầu đã mất hết khả năng kiểm soát, lãnh đạo đất nước. Riêng Bộ Tổng Tham Mưu, quyền điều hành, quyết định
nằm trong tay một viên tướng chuyên ngành tiếp vận, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân - Một trong những nhân tố chính
của tổ chức siêu tài chánh-kỹ nghệ “Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội”với đồng tiền máu của mỗi người lính góp vào trong những năm 1968-1972. Trong tình huống cực kỳ
khó khăn, nguy biến kia, Sư Đoàn Nhảy Dù lại được lệnh rời bỏ Đà Nẵng, và bị xé ra từng mảnh nhỏ, dàn mỏng trên những trận địa không chiều sâu, hở cạnh
sườn, thiếu yểm trợ không quân, thậm chí đến không có pháo binh diện địa hỏa yểm tiếp cận. Cuối cùng không thành phần trừ bị, tiếp ứng (28 ).. Tất cả để thực
hiện một sách lược gọi là “Đầu bé - Đít to” của chính đương kim Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. “Đầu bé”ù là vùng Quảng Trị, Thừa Thiên,
vùng đông dân cư Bình Định, Khánh Hòa; và “Đít to” tức là vùng Sài Gòn-Chợ Lớn, đồng bằng Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ. Nhưng thực tế diễn tiến
chiến sự đã cho thấy: Không có một kế hoạch nào tồn tại được, bởi đây là một kế hoạch đặt trên sự lừa dối, và bất lực trước tình thế - Cũng như không một thân
thể nào tồn tại được khi đã bị bẻ gẩy sống lưng - Thủ phủ vùng Tây Nguyên, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thị Xã Pleiku hoàn toàn bị bỏ ngỏ, rơi vào tay
cộng sản không tiếng súng kể từ ngày 17 tháng 3, 1975. Trước tình trạng cực độ vô lý: “Chưa đánh đã có lệnh tháo chạy” đã có lúc, Tướng Quân Lê Quang
Lưỡng ngỏ ý thẳng với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: Hãy để Sư Đoàn Dù về Sài Gòn (đang tăng phái hành quân tại Vùng I của Tướng Trưởng) lật đổ con
người đã không còn năng lực lãnh đạo, và càng ngày càng lộ rõ ý đồ phá vỡ sức chiến đấu của quân lực điển hình qua việc xé lẻ hai Sư Đoàn Nhảy Dù, TQLC;
Lữ Đoàn Thiết Kỵ, các Liên Đoàn Biệt Động, Biệt Kích.. Những lực lượng xung kích, tổng trừ bị quốc gia.(28Bis) Điển hình Lữ Đoàn 147/Sư Đoàn TQLC vừa bị
bức tử nơi bến phà Thuận An chưa xong việc đếm xác, đến lượt hai Lữ Đoàn 258 và 369 vô cớ rút từ Huế vào Đà Nẵng, xong từ Đà Nẵng vào Sài Gòn.. Tàu thủy
đến ngang NhaTrang lại được lệnh trở lui tái chiếm Đà Nẵng!! Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù không còn được quyền ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc, bởi tất cả
lệnh điều động (cấp tiểu đoàn) chỉ được phát xuất từ Dinh Độc Lập.
Rời Huế (cuối tháng 3) trong hoàn cảnh hỗn loạn của cuộc rút quân vô cùng phi lý, và vô kế hoạch của người nắm giữ vận mệnh quốc gia, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu; lại tiếp nhận lệnh điều động trực tiếp từ “Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nguyễn Văn Thiệu”, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Văn
Phát gồm các Tiểu Đoàn 2 (Thiếu Tá Trần Công Hạnh); Tiểu Đoàn 5 (Trung Tá Bùi Quyền): Tiểu Đoàn 6 (Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành - Khác với Nguyễn Văn
“Thành Râu”, Tiểu Đoàn Trưởng 11). Gọi là ba tiểu đoàn nhưng thực sự toàn bộ các đơn vị phải phân tán dọc trục lộ Quốc Lộ 21 thành những chốt nhỏ cấp tiểu
đội để có thể liên hoàn yểm trợ nhau trong tình huống đơn độc chiến đấu. Đối lại phía cộng sản, sau khi chiếm xong toàn bộ Ban Mê Thuộc kể từ 15 tháng 3, và
không cần phải củng cố vị trí vừa chiếm xong (rút kinh nghiệm của Mậu Thân 1968; Tổng Công Kích 1972) hai Sư Đoàn 320, và F10 đồng lần rời bỏ Ban Mê
Thuộc, bôn tập theo Quốc Lộ 21 về phía bình nguyên duyên hải. Hai Sư Đoàn F10 và 325 với một lực lượng tấn công từ Miền Bắc vào gồm: 2376 xe các loại, trong
đó có 100 xe tăng; thiết giáp; gần 185 pháo lớn từ 85 đến 155 ly; hơn 100 khẩu cao xạ.. (29) Số lượng quân trang, vũ khí nầy chỉ riêng cho mặt trận Ban Mê
Thuộc, chứ thật sự để xâm lăng Miền Nam, quân đội cộng sản Hà nội đã chuyển vào Miền Nam từ 1974 đến tháng Tư/1975 một tổng số 823,146 tấn quân dụng vũ
khí “gấp 1.6” số lượng tiếp vận trong 13 năm từ 1960 đến 1973!! Về quân số, chỉ hai năm 1973-74 đã nhập ngũ thêm 150.000 tân binh để gởi vào Nam thay thế
68,000 quân thiệt hại, với 8000 cán bộ chuyên môn các ngành (30). Tóm lại 16 sư đoàn bộ binh của miền Bắc kéo vào không thiếu một đơn vị mà đích thân
Kissinger đã phải kêu lên ngao ngán sau khi nghe báo cáo từ tướng Weyand sau lần qua lượng định tình hình Việt Nam (28/3 đến 4 tháng /4) tại buổi họp tại Phòng
Bầu Dục tòa Bạch Ốc với hầu hết quan chức cao cấp của chính phủ Mỹ: “Hiện tại, toàn thể quân lực Bắc Việt Nam đã ở Miền Nam... Chỉ cần một Lữ Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến (Mỹ) là đủ chiếm đóng hết Miền Bắc. Rõ ràng Hiệp Định (tái lập) Hòa Bình Paris đã bị vi phạm trầm trọng” (31) Phải có học vị tiến sĩ
(xuất thân ở Đại Học Harvard), với chức vụ ngoại trưởng Liên Bang Bắc Mỹ mới biết được điều đơn giản nầy thì quả tình con người được tiếng là tài giỏi, thông
minh nầy cũng không “khá” hơn bao nhiêu người tầm thường khác. Ba Tiểu Đoàn 2, 5, 6 không yểm trợ, không trừ bị tiếp ứng bị lực lượng hai sư đoàn cộng sản
tràn qua như một điều tất nhiên sau ngày Nha Trang bỏ ngỏ, 31 tháng 3. Cũng là ngày Huấn Khu Dục Mỹ (gồm các Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động; Pháo
Binh, Bộ Binh) tự tan rã.
Phòng tuyến của chiến lược “Đầu bé- Đít to” kia lại thêm lần điều chỉnh, củng cố với một “cái đầu” tại Phan Rang (quê nội của Nguyễn Văn Thiệu). Vùng Phan
Rang với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân không hề là vị trí phòng thủ hữu hiệu của bất cứ hình thái chiến tranh nào. Bởi đối phương có thể hành quân tiếp
cận đến Phan Rang bằng nhiều hướng: Quốc Lộ I (Hướng Bắc từ Cam Ranh, Nha Trang đánh vào); Quốc Lộ 11 từ Đà Lạt đánh xuống từ phía Tây-Bắc; từ bờ
biển đổ bộ vào (hướng Đông); hoặc đánh vòng từ hướng Nam lên theo Quốc Lộ I. Thành phần binh lính trách nhiệm phòng thủ Phan Rang vốn là những đơn vị đã
bị thiệt hại lớn ở mặt trận Vùng I (Trung Đoàn 4, 5/SĐ2BB); các Tiểu Đoàn 31, 36, 52 Biệt Động đã mất sức do đã phải tác chiến liên tục từ mặt trận Chơn Thành
(Vùng III); Về phía nhảy dù, Lữ Đoàn 2 vừa bị thiệt hại ở mặt trận Khánh Dương, nay được thay thế bởi Lữ Đoàn 3 với Đại Tá Nguyễn Thu Lương Lữ Đoàn
Trưởng; Trung Tá Trần Văn Sơn Lữ Đoàn Phó, chỉ huy ba Tiểu Đoàn 3, 7, 11. Toàn thể đạo quân nầy phải chiến đấu tự tồn, không tiếp tế, không yểm trợ đối mặt
với đại quân của Quân Đoàn 2 Bắc Việt do Trung Tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, gồm hai đơn vị chủ lực SĐ325 và SĐ3 của Tây Nguyên (vẫn tiếp tục làm thành
phần mũi nhọn tấn công mãi cho đến mặt trận Long Khánh (cuối tháng 4) sau nầy), ngoài ra còn có Đoàn 968 vừa thành lập từ Lào bôn tập về), cùng lực lượng
chủ lực, du kích địa phương. Với tương quan lực lượng quá chênh lệch như thế, nên dù người lính cộng hòa có nỗ lực chiến đấu kiên trì bao nhiêu cũng không thể
giữ vững các vị trí chiến thuật dọc Quốc Lộ I, có thể ngăn cản đà tiến quân của phía cộng sản (chưa kể đến tình trạng suy sụp, đỗ vỡ tinh thần do lo lắng về gia
đình của những đơn vị di chuyển từ Miền Trung vào). Ngày 16/4 toàn bộ cấp chỉ huy cao cấp của mặt trận gồm Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn Tướng
Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương, và nhiều liên đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng đều bị bắt.
Trong tình hình ngặt nghèo dồn dập diễn ra, “Đích Thân Lê Lợi 612” đúng danh hiệu “Đích Thân” luôn có mặt cùng mỗi người lính trong những giờ phút gay go
nhất. Tướng Quân bay ra Phan Rang, trên chiến địa Khánh Dương đầu tháng 4 để trực tiếp chỉ huy các phi vụ “móc” con cái “Thằng Quyền (Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 5); Thằng Hạnh (TĐ2); Thằng Thành (TĐ6).. Tướng Quân tiếp nặng lòng đau đớn cùng lần lui quân bi phẫn của Lữ Đoàn 2 từ phi trường Phan Rang
với kết quả, TĐ11ND mất liên lạc toàn bộ, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành, cùng một số chiến sĩ trung kiên đồng lọt vào tay địch! Trong trận chiến tuyệt vọng này,
Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó, và nhiều chiến hữu khác của đoàn quân nhảy dù đồng bị hy sinh với niềm uất hận không thể đền bù. Chỉ mỗi TĐ3Dù do
Trung Tá Lã Quý Trang chỉ huy còn 100 chiến sĩ được trực thăng được trực thăng bốc từ bãi bể nam Thị Xã Ninh Chữ, Phan Thiết. Riêng TĐ7ND của Trung Tá
Nguyễn Lô bảo toàn quân số do được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu rút ra khỏi Phan Rang trước khi trận đánh khai diễn.
Lữ Đoàn I ND do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Lê Hồng Lữ Đoàn Phó gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8, 9NDø, Đại Đội 1 Trinh Sát, Tiểu Đoàn
3 Pháo Binh, Đại Đội 1 Quân Y, Đại Đội 1 Công Binh tăng phái Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ huy tổng quát, trấn giữ
Quận Lỵ Xuân Lộc, chận đứng bước tiến từ hướng bắc của quân đoàn cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn. Lươc lượng diện địa phòng thủ Long Khánh LĐ1ND đã làm
tròn trách nhiệm giao phó, không để cho địch quân tiến thêm được một tấc đất, buộc đoàn quân “Sinh Bắc - Tử Nam” của dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đại
Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải trả một giá đắt với 6000 xác chết; 37 chiến xa bị phá hũy. Riêng đối với một đơn vị cấp lữ đoàn, với thiệt hại nghiêm trọng
phải chịu đựng sau hơn gần hai tuần chiến đấu liên tục (10/4-21/4) chống chọi nhiều đợt tấn công của Quân Đoàn 4 CS gồm ba sư đoàn bộ binh 6, 7, 431 được hai
lữ đoàn xe tăng 203, 204 tăng cường hành quân, dưới yểm trợ của đại pháo tầm xa, có các đơn vị đặc công đánh xuyên phá, mở cửa.. Cuối cùng Lữ Đoàn 1 Dù lại
phải đảm nhận thên nhiệm vụ cuối cùng: Bảo vệ tập hậu đoàn quân rút lui gồm các thành phần của Sư Đoàn 18 Bộâ Binh, Tiểu Khu Long Khánh, các thành phần
pháo binh cơ hữu và diện địa, lại thêm hàng chục ngàn dân chúng đi theo.. Nên bất chấp ngăn cản của phủ tổng thống do đích thân Tổng Thống Thiệu ra lệnh; bộ
Tổng tham mưu với Tổng Tham Mưu Trưởng Khuyên, Đại Tá Lưỡng điều động trực tiếp, xử dụng TĐ 7 Dù và hai chi đoàn chiến xa M113/ Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ
của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi làm thành phần tiếp cứu. Lực lượng hỗn hợp nầy xuất phát từ Phước Tuy (Bà Rịa) đi ngược lên Tỉnh Lộ 2, đón thành phần
triệt thoái của Sư Đoàn 18, Tiểu Khu Long Khánh, và Lữ Đoàn I Dù về Bà Rịa an toàn. Nhưng cuối cùng, đêm 28 rạng ngày 29/4/75, quân CSBV cường tập tấn
công vào lực lượng Nhảy Dù ở Láng Cạn, Bà Rịa, lính các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 đánh trả quyết liệt, liên hoàn bảo vệ đơn vị đến Giờ Thứ 25 mới rút xuống Vũng Tàu
để lui về Gò Công, từ đây di tản ra hạm đội. Có thể nói Lữ Đoàn 1 ND là đơn vị có quân số đông đảo nhất đã di tản ra khỏi nước.
Được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, Lữ Đoàn 2 Dù sau khi rút khỏi Phan Rang về Sàigòn, đặt thuộc quyền điều động của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh
QĐIII/QKIII. Tướng Toàn đã tạm thời chỉ định Trung Tá Nguyễn Lô, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7ND kiêm nhiệm chức vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ2ND trách nhiệm,
điều động hai Tiểu Đoàn 5 và 7, chận đứng địch trên tuyến Biên Hòa - Xa lộ Đại Hàn - Sàigòn do Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ
Binh/Lực Lượng Xung Kích/QĐIII (LĐ3KB/LLXKQĐIII) chỉ huy tổng quát. Nhiệm vụ chính của LĐ2ND là tiến quân bên phải đường sắt hướng về Sàigòn; đến
ngoại ô Bắc Sàigòn, co cụm lại, bố trí dọc xa lộ Biên Hòa, chặn địch vào thủ đô. Sau 30 tháng Tư, 1975 người đi qua vùng nầy vẫn còn thấy những xác Lính Nhảy
Dù chết trong trận chiến giờ cuối cùng bảo vệ Miền Nam.
Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Trần Đăng Khôi làm Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Bùi Quyền Lữ Đoàn Phó với ba Tiểu Đoàn 2, 5, 6 Nhảy Dù từ Phan Rang
được rút về đóng ở trại Hoàng Hoa Thám, Tân Sơn Nhất. Đây là đơn vị đã đánh trận cuối, vô cùng ác liệt ngay trong lòng Thủ Đô Sài Gòn-Chợ Lớn, tiêu diệt
nhiều chiến xa T54, T59, và PT76 của địch từ Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả, Trường Đua Phú Thọ, và Chợ Lớn v.v.. Tới giờ phút chót của buổi sáng
30 tháng Tư, các chiến sĩ LĐ3ND vẫn vững tay súng giữ vị trí được giao phó, đơn vị chỉ buông vũ khí sau khi Dương Văn Minh nghe lệnh đầu hàng. Tất cả cấp chỉ
huy của lữ đoàn, và các tiểu đoàn đều cùng ở lại cùng anh em binh sĩ, chịu hoàn cảnh tù tội khắc ngiệt nơi Miền Bắc, không người nào dưới mười năm đày ãi, khổ
sai: Các Trung Tá Phạm Kim Bằng, Trần Đăng Khôi, Nguyễn Lô, Bùi Quyền.. Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Đức Tâm, Ngô Xuân Vinh..
Cấp đại úy, trung úy không thể kể đủ vì quá đông. Điều đáng hãnh diện là hầu hết sĩ quan nhảy dù đồng chứng tỏ bản lĩnh kiên cường của Người Lính Mũ Đỏ trong
hoàn cảnh khắc nghiệt của trại tù làm đối phương dẫu đang ở vị thế kẻ thắng trận cũng phải kiêng dè, kính nể. Trường hợp của các Trung Tá Phạm Kim Bằng,
Nguyễn Lô; Thiếu Tá Trần Công Hạnh là những điển hình rõ nét nhất.
Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù tân lập do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng, với ba Tiểu Đoàn 12, 14 và 15 Nhảy Dù, có đầy đủ quân số tác chiến và đã đưa
vào hoạt động thật sự ở Đà Nẵng, Quân Đoàn I/Quân Khu I. Được rút về Sài Gòn giữa tháng 2/75, biệt phái cho Biệt Khu Thủ Đô để ngăn chận CSBV ở cửa ngõ
Thủ Đô Sài Gòn qua cư xá Thanh Đa, xa lộ Biên Hòa, cầu Tân Cảng.
nghèo cao nhất đang chờ đợi. Lê Lợi di chân lên mặt đường như thể đo độ cứng của con đường, sự chịu đựng của mặt nhựa, nhưng thật ra ông đang ước tính bao
nhiêu mìn bẩy, ổ phục kích nơi những cây số phía Bắc.. Ở Bầu Bàng, Bầu Lòng, Chơn Thành, Suối Tàu Ô. Ông nói cùng Ngọc Long (Danh hiệu truyền tin của
Trung Tá Ngọc, Lữ Đoàn Phó) và Tố Quyên (Thiếu Tá Bùi Quyền, Trưởng Ban Hành Quân) : Con đường dài quá, tụi nó có đủ yếu tố thuận lợi.. Địa thế, quân số,
hỏa lực để chơi mình bất cứ lúc nào, ở đâu, nếu chúng muốn. Mình có ba tiểu đoàn, nghe thì nhiều, thực tế không bao nhiêu, mình lại phải phân tán.. Nhưng nhiệm
vụ phải thi hành khẩn cấp, mình chỉ còn có được con đường khốn nầy - Vậy mình phải đi lên nó.. Đi theo kiểu chân chim: “Thằng 8” (Tiểu Đoàn 8 ) đi trước, đóng
quân lại; “Thằng 5” theo đường cũ leo cao hơn.. “Thằng 6” đi sau hết. Pháo sẽ theo thằng 5 ở bước đầu; thằng 8 ở bước sau. Giai đoạn I, mục tiêu 1 là Bầu Bàng;
mục tiêu 2 là Chơn Thành. Đến Chơn Thành, lập thêm đầu cầu phía Bắc mình sẽ qua giai đoạn II.
Các tiểu đoàn trưởng 5, 6, 8, cùng gật đầu đồng ý, vì họ cũng không thấy có biện pháp tốt hơn kế hoạch “Bước chân chim” với ý chí “Cố Gắng” như khẩu hiệu của
binh chủng. Ngày 7 tháng 4, Tiểu Đoàn 8 vượt tuyến xuất phát, lấy con đường làm chuẩn, mở rộng đội hình ra hai bên, đến hoành độ 48 thì ngừng lại. Tiểu Đoàn 5
vượt qua mặt TĐ8, bung quân tối đa để lục soát và tránh phục kích. Mấy trăm con người chìm hẳn vào vũng xanh đậm của rừng dày đan lá. Tiểu Đoàn Trưởng
Nguyễn Chí Hiếu kẹp sát ống liên hợp vào mang tai, linh cảm nguy biến hẳn sẽ tới.. Súng nổ, thoạt đầu chỉ có hướng trước mặt, đoàn quân dừng lại, lập tức hướng
cánh trái súng dồn dập đổ xuống: Tiểu đoàn cộng quân dựa thế vào giải mô đất của đường rầy xe lửa cũ (Lộ trình Sàigòn-Lộc Ninh, đã bị bỏ phế từ đầu thập niên
60) để tấn công chia cắt đội hình nhảy dù. Chỉ còn một phương cách - Phản tấn công vào thế trận đối phương. Trận chiến kéo dài nửa ngày, cuối cùng Bắc quân
rút lui về hướng tây; thương binh nằm chật vùng rừng, ngỗn ngang trên đất. Tiểu Đoàn Trưởng Hiếu nhìn vào bản đồ: Bàu Hót, toạ độ 78051.. Còn bao nhiêu cái
bàu nữa mới tới được An Lộc? Chiến trường mới qua được một ngày.
Từng cây số đường được nhích lên khó khăn, gần đến Chơn Thành độ căng cứng chiến trường càng hiện rõ. Lê Lợi đã nghe ra “mùi” địch - Mùi của pháo, cối mà
chắc chắn sẽ mãnh liệt không kém như kỳ ở Hạ Lào - Chỉ mới đây. Năm ngoái. Đại Tá Lưỡng cau cau chiếc trán.
..Quyền nầy, cố gắng xin mấy trực thăng, ngày mai mình “thẩy” Thằng 6 lên trên Chơn Thành, xong cho lục soát về ngược lại. Đâu ai bắt buộc mình phải đi từ dưới
nầy đi lên để rơi vô phục kích của tụi nó?! Bùi Quyền (Sĩ quan thủ khoa Khóa 16 Đà Lạt), Thiếu Tá Trưởng Ban 3 (Ban Hành Quân) nhìn người chỉ huy kính
phục.. Anh nghĩ thầm: Lê Lợi hay thật, biết cách chuyển đổi thế trận để đối thủ không thể lường được.
Ngày 9, có trực thăng, Tiểu Đoàn 6 bất thần nhẩy lên phía Bắc Chơn Thành, xong quay ngược lại để đón Tiểu Đoàn 5 từ Bầu Bàng vọt lên. Đúng hai giờ chiều, hai
tiểu đoàn “bắt tay” nhau cái rụp ở Chơn Thành. Lê Lợi gật gù tự đánh giá: Tụi nó kông biết mình làm trò gì với cú nhẩy của Thằng 6.. Đi lên hay đi xuống? Thêm
một ngày tương đối bình yên đi qua. Đại Tá Lưỡng cởi đôi giày. Toàn ban tham mưu lữ đoàn bắt chước. Mỗi chiều được cởi giày là một hạnh phúc !
Thêm hai ngày đẹp đẽ đi qua, lữ đoàn đi được ba-mươi cây số về phiá bắc. Đối với một địa thế bằng phẵng, tốc độ tiến quân hiện tại kể là quá chậm, nhưng Lê Lợi
không muốn đơn vị tăng phái, Thiết Đoàn Kỵ Binh 1/5 của Đại Tá Đức mở vào quá sâu, dễ bị lún lầy, và bộ binh nhẩy dù không bảo vệ cạnh sườn được. Ngày 12,
lại theo chiến thuật “bước chân chim”: TĐ8, pháo binh Dù, và thiết kỵ nhảy bước lớn từ cực Nam (của đoàn quân) qua mặt Chơn Thành, đến ngang TĐ5 bỏ pháo
binh lại, tiếp tục “mu” lên hướng Bắc. Lê Lợi nói lời hy vọng: Nếu “Thằng 8” tới được Suối Tàu Ô, thì hy vọng tuần sau mình “đụng” nó- Nó, tức là An Lộc với
quảng cách còn lại khoảng mười cây số.
Nhưng hy vọng của ông vỡ tung như bọt nước: Tiểu Đoàn 8 vừa chạm tới “Hoành độ 72”, cách con suối khoảng hơn một cây số thì đụng. Quân cộng sản không
cần ngụy trang, chựïc sẵn ở vị trí phục kích. Lê Lợi rung tay, ép sát ống liên hợp máy truyền tin vào tai nghe các đơn vị báo cáo dồn dập: Tụi nó gom tôi và con cái
ông Đức (Thiết Đoàn Trưởng 1/5 Chiến Xa) thành vòng tròn.. Pháo dữ quá, đề-lô tụi nó theo sát đây.. Chúng bắn không phí một quả! Đào Thiện Tuyển, Tiểu Đoàn
Phó Tiểu Đoàn 8 nói nhanh giữa tiếng đạn. Sau TĐ8 là TĐ5, Nguyễn Chí Hiếu bảo cáo đỉnh đạt, điềm tỉnh: Trình Lê Lợi, tôi chưa có vị trí, pháo binh cũng thế.
Chúng pháo từ xa, cối gần hơn, và B40, 75(Ly) Không Giật chỉ cách tôi khoảng 50 thước. Dứt.
Ngày 13 tháng 4, tình hình bế tắc nghẹt thở: Tiểu Đoàn 8 bị vây kín; 5 bị cô lập; 3 Pháo Dù chưa thiết lập xong các vị trí pháo; bộ chỉ huy lữ đoàn và TĐ6 kẹt cứng
trong vòng đai chi khu Quận Chơn Thành. Như nước tràn chiếc ly rạn nức, Đại Tá Trương Hữu Đức, Thiết Đoàn Trưởng 1/5 tăng phái hành quân với Lữ Đoàn 1
tử nạn trực thăng, và người em thân thiết của Lê Lợi: Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù tử trận nơi Căn Cứ Charlie, chiến trường
Kontum. Đại Tá Lưỡng có cảm giác “tê cứng” trong khoảng khắc rất rõ. Lữ Đoàn 1 trở lại Chơn Thành, giao vùng trách nhiệm cho đơn vị bạn, Sư Đoàn 21 Bộ
Binh để nhận nhiệm vụ mới - Phải vào An Lộc bằng một đường khác. Đến nhanh hơn. Khẩn thiết hơn. Bởi lúc 7 giờ 15 sáng ngày 13 “khốn nạn” nầy, xe tăng T54
cộng sản đã vào sát hầm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Toàn bộ chỉ huy mặt trận không còn ai, không còn thời gian (tính theo từng ngày, giờ một) để giải bài
toán An Lộc ngoài LêLợi Lê Quang Lưỡng và những tiểu đoàn nhảy dù thuộc quyền của ông.
Chiếc trực thăng chỉ huy ở một cao độ rờn rợn lạnh người lượn vòng thứ năm trên An Lộc. Đại Tá Lưỡng hỏi Thiếu Tá Quyền..
- Thấy cái đồi ở phía đông-nam không?
- Thấy đại tá.
- Chỗ đó.
Vâng, mình đi thêm một vòng để thấy rõ hơn đại tá.. LêLợi gật đầu đồng ý, ra dấu cho Quyền bảo phi công quay lại đường bay. Không cẩn thận không được. Bao
tính mạng quân binh tùy thuộc vào quyết định về vị trí nầy: Bãi đáp trực thăng đổ quân. Cũng là đầu mối để thực hiện kế hoạch tăng viện, giải vây An Lộc, chứng
thực cùng cả nước và thế giới sức chiến đấu của người lính Miền Nam.
.. Mình sẽ xuống cái ấp gì đây Quyền; ấp tên nghe lạ quá? Lê Lợi chỉ xuống xóm nhỏ nằm ẩn dưới màu xanh của khói rừng mờ đục và cũng do đạn pháo liên tục..
- Dạ, ấp Srok Ton Cui, chắc là tên Miên. Quyền kiểm chứng lại trên bản đồ.
.. Ừ, cái ấp đó được dãy đồi phía tây-bắc che dấu; trực thăng khi vào vùng sẽ bay sát ngọn cây từ dưới lên, tránh được “đề-lô” tụi nó quan sát. Thả ở đó mình có
bất ngờ vì nó cứ tưởng mình không bao giờ dám đỗ quân ở hướng đông (Đông Thị Xã An Lộc); nó giữ chặt phía nam vì đó là đường về của mình.. Mình nhẩy
xuống ấp đó, xong chiếm ngay mấy cái đồi chung quanh là giữ được đầu cầu. Phải hết sức cẩn thận trong líp đầu tiên thả “Thằng 6”.
Vâng đại tá. Quyền không bàn gì thêm. Lê Lợi đã “đánh hơi” chiến trường không chút sơ hở.
Ngày 14 tháng Tư, bãi đáp là một đoạn đường nhựa ở Ấp Srok Ton Cui, Đường 245 nối từ Xa Trạch vào đồn điền Quản Lợi, tây-nam An Lộc, cách nhau bởi hệ
thống đồi với cao độ 150 thước. 14 giờ 30, chiếc trực thăng đầu tiên đỗ Đại Đội 62/Tiểu Đoàn 6 Dù do Đại Úy Ngô Xuân Vinh chỉ huy xuống vùng ruộng của Ấp
Suối Rô dưới chân đồi không tên (Cao độ 176 thước) thay vì nơi Ấp Ton Cui như đã ấn định. Vinh lúng túng không biết điều quân theo hướng nào do lộn bãi đáp;
nhưng Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh và bộ chỉ huy tiểu đoàn đã xuống kịp.. Đánh lên đồi đi! Giữ lấy nó để làm an ninh bãi đáp cho mầy thằng (đại đội) xuống sau..
Đỉnh dục Vinh gấp vì đang lúc khó khăn nhất của cuộc hành quân không vận.
Để em xin trong An Lộc bắn lên trên đó mấy trái cho ăn chắc, lên khơi khơi ngán quá! Vinh vào thẳng tầng số pháo binh An Lộc xin tác xạ yểm trợ. Pháo An Lộc
đã “tiêu” gần hết, “rỏ giọt “ cho vinh đúng ba trái! Dứt tiếng nổ, Vinh xua quân lên đồi.. Địch chỉ là một toán tiền đồn nên Đại Đội 62 thanh toán trong mấy mươi
phút chóng vánh. Đỉnh đưa bộ chỉ huy lên đồi đặt tên “Đỉnh E” (Chữ thứ Sáu-Con Số 6 của tiểu đoàn). Đại Đội 61 xuống tiếp, chiếm cao độ đông-bắc của E, đặt
tên E2. Nhưng chiến trận không chỉ lànhững thắng lợi bình yên suông xẻ nầy, phát hiện được cuộc trực thăng vận, pháo cộng sản từ phía bắc, và 75 ly không giật từ
cơ sở cao-su Tân Lợi (Ba cây số đông-bắc An Lộc) cùng dập xuống E và E2. Lính Tiểu Đoàn 6 vội vàng đào hố dưới giàn lưới đạn với chiếc ba-lô là vật che chở
chiếc đầu mong manh. Tiểu đoàn trưởng Đỉnh; Nghiêm (Sĩ quan Ban 3); Cố vấn Morgan tất cả đồng bị thương vì mảnh pháo.. Đỉnh đè tay lên miếng băng, nói
nhanh với Vinh: Mầy gắng giữ thằng E nầy, tao xuống dưới kia, có bãi tải thương, và giữ bãi cho ngày mai. Mầy thâm niên coi luôn “Thằng 1” bên E2. E cũng có
tên nguyên thủy, Đồi Gió - Gió lửa và gió bão như một tên tiền định.
Ngày 15 tháng 4, bộ chỉ huy lữ đoàn, hai Tiểu Đoàn 5, và 8 xuống bãi bình an. Lê Lợi lên Đồi E họp với hai tiểu đoàn trưởng 5 và 8 Dù..
- Mình đi liền, anh Ninh (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 ), đưa thằng con vào An Lộc, nhưng khoan vào hẳn, tới ngang chỗ con suối thì đợi tôi. Tôi và Hiếu (TĐ5) vào Ấp
Sóc Gòn, mình dọn đường vào thật sạch, có gì bung ra lại, hoặc để cho đơn vị khác sau nầy vào dễ dàng hơn. Đồi Gió-An Lộc chỉ cách quảng bốn cây số qua
những sườn đồi thoai thoải của rừng cao su Phú Hòa, chuyển quân bình thường chỉ mất khoảng hơn hai giờ.. Nhưng vì đây là An Lộc, Đại Tá Lưỡng hiểu rõ độ
chật của chiến trường, và đấy cũng là chiếc bẩy đang siết chặt nên ông không thể không cẩn thận khi đến với nó. Ngày 16, để Tiểu Đoàn 6 ở lại giữ Đồi Gió, Lê
Lợi sấn hai “Thằng 5 và 8” song song tiến vào An Lộc. Tiểu Đoàn 5 chia làm hai cánh vào ấp Sóc Gòn, quân đang đà di chuyển bỗng nhiên khựng lại.. Dân ùa ra
như thác lũ băng qua con đê nhỏ.. Lính mình.. lính mình.. Toàn là đàn bà, con nít, những người đàn ông già lão. Tiểu Đoàn Trưởng Hiếu (TĐ5) dạn dày kinh
nghiệm, dặn các đại đội trưởng: “Cẩn thận, nó lùa dân đi trước để mình bị trói tay, thế nào cũng đụng ở đây. Đợi đến sát ấp là nhào vào, không cần tiền pháo yểm.”
Bìa làng đến gần.. 100, 80, 50.. thước, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù - Đơn vị Nhảy Dù Việt Nam hai lần nhảy xuống Điện Biên Phủ 1954. Tiểu đoàn đã khai sinh bốn vị
tướng lãnh cho quân lực - Và cũng là đơn vị đầu đời của Đại Tá Lê Quang Lưỡng, vị tướng tương lai của trận chiến 1972 là Người Thứ Năm - Con Số Năm định
mệnh của chính nó cũng như của Người Lính Đại Diện: Lê Lợi Lê Quang Lưỡng. Đơn vị bách thắng hôm nay đứng trước Ấp Sóc Gòn với một trạng huống kỳ dị:
Họ phải xung phong vào một mục tiêu với tư thế cá nhân chiến đấu để giữ an toàn cho người dân.. Hai lần, ba đợt.. Tiểu đoàn không sao dứt điểm mục tiêu. Cuối
cùng, khi chắc chắn những người dân còn kẹt lại đã rời ấp, Lê Lợi quyết định dội trận lửa. Hai-mươi phi tuần khu trục Việt Nam và Mỹ lần lượt thay nhau vào
vùng. Khu vực của ấp từ một dạng hình lục giác (Ấp Chiến Lược kiểu mẫu xây dựng từ đầu thập niên 60) nay không còn một hình thù nào nữa, ngỗn ngang gò
đống bốc khói điêu tàn.Nhưng so với An Lộc bên cạnh, Ấp Sóc Gòn chỉ là một lò than nhỏ.
Ngày 17, Bộ chỉ huy lữ đoàn cùng TĐ5 rời bỏ Ấp Sóc Gòn, di chuyển song song với TĐ8 theo đường Tỉnh Lộ 303 vào An Lộc. Từ suối Quản Lợi, Tiểu Đoàn 8
vào thẳng vòng đai thị xã lúc 7 giờ sáng sau khi diệt xongnhững chốt nhỏ.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Người lính Tiểu Khu Bình Long nhảy ra khỏi hố phòng thủ, anh báo
hiệu cho những ngưòi lính cùng tuyến.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Phải ở trong cảnh chết mới hiểu được độ xúc động khi nhìn thấy bạn đến tiếp cứu. Phải từ sự chết,
người dân mới thấy ra nỗi hân hoan sống lại khi nhìn ra vóc dáng anh lính cộng hòa giữa vũng lửa. Một Giờ, chiều ngày 17 tháng 4, 1972 Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng
Lữ Đoàn 1 Dù bước chân vào trong vòng đai An Lộc. An Lộc được cứu viện lần thứ nhất.
.. Không còn gì hết Quyền hả?
- Vâng. Kinh thật.
Hai người trao đổi câu nói ngắn. Đại Tá Lưỡng mượn chiếc xe jeep của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân do Quyền cầm lái chạy như bay qua gò đống, hầm hố và xác
người. Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh còn hai hộp bia và chai bia lớn..
- Mời anh Lưỡng. Tốt quá. Có được anh tôi vững tâm. Ông tướng mới nhất quân lực cười tươi trên nét mặt lo âu.. Có anh, tôi mừng lắm!
Trên đường đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long của Đại Tá Trần Văn Nhật, Đại Tá Lưỡng hỏi Quyền.. Mầy biết tao vào An Lộc bằng cách nào không?
Quyền không hiểu ý câu nói, anh đưa mắt hỏi thầm.. À, tao vào bằng lưng, chân bị vọt bẻ quá, phải xoay lưng đi ngược.. Cái mặt mà sưng bằng cái lưng là không
khá. Khó lắm đó mầy. Quyền nghĩ thầm.. Lê Lợi 612 biết nói đùa quá. Cách đùa rất chính xác.
Vượt hẳn hết ý niệm từ trước, bỏ xa trí tưởng tượng đã xếp đặt, An Lộc không “hư” từng khu, không đổ từng khóm, An Lộc vỡ nát, vỡ tan tành, vỡ vụn... Không
còn sự sống trên mặt đất, không còn dấu vết người trên mặt đất, thành phố chìm dưới hầm, sâu dưới đất, càng sâu càng tốt như một ổ mối khổng lồ dưới lớp đất bùn
bề mặt. Một diện tích rộng chưa tới cây số vuông đã có lần nhận được 8000 viên đạn như trong đêm 11 rạng 12 tháng 5; 8000 viên đạn loại xuyên phá chưa kể hỏa
tiễn và cối tung hoành trên mảnh đất chỉ bằng khu vực Đa Kao. Mỗi thước vuông đất phải nhận hơn 10 trái đạn. Đạn delay (công phá, nổ chậm) xuyên xuống đất
hơn một thước mới nổ. Không cần phải trúng ngay hầm chỉ cần nổ bên cạnh cũng đủ xô ngã vách hầm. Dân và lính thụ động co rút dưới hỏa ngục đổ từ trên trời
xuống trong hơn hai tháng. Pháo không phải từng cơn, từng giờ, từng loạt, pháo đầy trời như mưa, pháo ào ạt như gió, pháo kín mít như mây. Pháo không vạch từng
đường như Mậu Thân, pháo không đi từng luồng như ở Hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn lẫn như mưa bay giăng giăng che kín không gian của những ngày xuân
mưa bụi. Dưới bầu trời đầy những đóa hoa tử thần đó. An Lộc co quắp, vật vã, tan thành mảnh, phất phới bay như tờ giấy xé nát được tung lên giữa trời gió lớn.
Một hỏa tiễn nâng chiếc xe jeep bay bổng, khối sắt nặng 1/4 tấn vừa rơi xuống chạm mặt đất lại bị thổi ngược lên cao, nhẩy lên một mái hầm như hộp thiếc nhỏ bị
quay cuồng vì những viên đạn tinh nghịch chính xác trong phim cao bồi Mỹ..
Lê Lợi và Tố Quyên đứng im, nhìn kỹ thêm một lần trước An Lộc điêu tàn. Hai người lính không thể nói thêm một lời nào. Họ cúi thấp người, bước xuống chiếc
hầm của Đại Tá Trần Văn Nhật - Bộ chỉ huy Tiểu Khu Bình Long (20)
Không phải đợi đến lúc bước xuống căn hầm chỉ huy ngột ngạt của Tiểu Khu Bình Long, Đại Tá Lưỡng mới thấy ra sự chật chội thụ động của chiến trường, nhưng
từ khi cùng Quyền bay trực thăng trên các cao độ vùng đông-nam An Lộc, ông đã biết rất rõ độ ngặt nghèo thu hẹp của trận địa. Ông cần một nút thoát hơi cho
An Lộc, và đối với đơn vị của ông - Đồi Gió, cao độ “E” của Tiểu Đoàn 6 Dù là điểm thở quan yếu nầy. Vì từ cao điểm “E”, An Lộc có được một bàn đạp để
khai triển lên Bắc hay xuống Nam do được dãy cao độ 160, 175, 140 bảo vệ cạnh sườn phía Đông. Vì lý do nầy, Tiểu Đoàn 6 và pháo đội 105ly của Tiểu Đoàn 3
Pháo Dù giữù nhiệm vụ trấn đóng yết hầu mặt trận An Lộc là những đơn vị hứng chịu những mũi nhọn tiến công nặng nề nhất kể từ ngày bước xuống Đồi Gió.
Chúng ta theo dõi diễn tiến chiến trận của đơn vị nầy.. Khi Đại Đội 62 của Vinh “con” lên Đồi Gió chiều ngày 14 tháng Tư thì bộ chỉ huy cộng sản mặt trận Bình
Long cũng nhận ra cuộc đổ quân tăng viện, và dồn tất cả hỏa lực của vùng Bắc; Tây-Bắc An Lộc đồng đổ xuống vùng Đồi Gió, nơi có ba cao độ nổi rõ lên tạo
điểm chuẩn để pháo binh địch rơi xuống không trật một trái ra ngoài mục tiêu. Cũng bởi, phía chỉ huy cộng sản tại mặt trận đã xác định rõ qua một công điện gởi
về Trung ương cục R: “Một D (Tiểu Đoàn) Ngụy Dù chiếm Đồi Gió, gây khó khăn cho việc chiếm Bình Long, phải diệt gọn “D Ngụy” với tất cả phương tiện”(21)
Song song với chỉ thị của Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng qua việc để lại Đồi Gió bộ chỉ huy nhẹ của lữ đoàn với Lữ Đoàn Phó Trung Tá Lê Văn Ngọc, Đại
Đội 3 Trinh Sát, và pháo đội 105ly ND; Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Tiểu Đoàn Trưởng 6 Dù cũng không hoàn toàn thụ động đối với tình thế ngặt nghèo dưới cơn
mưa pháo. Đỉnh nhận định: “Nó phân tán pháo binh, tập trung hỏa lực để bắn mình.. Tại sao mình không phân tán các “đứa con” ra ngoài để tránh pháo, cũng để
phòng thủ lưu động được toàn miền? Đỉnh phối trí các “đứa con” theo thế trận: Đại Đội 63 của Đại Úy Hoàng trấn giữ ngã Ba đường 245, Bắc của Ấp Ton Cui;
Trung Úy Cao Hoàng Tuấn chỉ huy ĐĐ64 giữ phần chính của ấp. Khi các đại đội đã vào vị trí. Đỉnh tự hỏi: “Dẫu đã có một hàng rào phía đông của “E”, nhưng
không hiểu đồi có giữ được không?” Thắc mắc của Đỉnh không kéo dài lâu, phía cộng sản cho liền đáp số. Đại Đội 63 bị tấn công trước, ngay vào lúc buổi trưa
ngày 17 với một lự c lượng quân số áp đảo, bởi phía chỉ huy cộng sản cũng đã hiểu ra rằng: Ấp Ton Cui là “bãi đáp trực thăng hữu dụng để tăng viện An Lộc”;
nhưng thêm ước tính nhầm là bộ chỉ huy TĐ6 vẫn còn ở tại ấp nên họ đã sử dụng một quân số vượt trội để quyết “diệt gọn” bộ chỉ huy tiểu đoàn. Đại Đội 63 có
được vị trí phòng thủ nên giữ tuyến chắc chắn; đến chiều tối, Đại Đội 64 được lệnh kéo lên tăng cường bởi Trung Tá Đỉnh hiểu rõ thêm ý đồ của đối phương.
Quảng cách hai đại đội khoảng chừng 600 thước, nhưng Trung Úy Tuấn phải mất năm giờ mới “bắt tay” được đại đội bạn. Hai viên đại đội trưởng nói cùng nhau:
“Một mình tao nó đánh không xong, nay hai đứa sức mấy tụi mình bị lũng.” Từ An Lộc, Đại Tá Lưỡng theo dõi diễn tiến trận đánh của Tiểu Đoàn 6, và ôn gcũng
thấy ra rằng nếu TĐ6 bị bứng khỏi khu vực Đồi Gió có nghĩa, các đơn vị của lữ đoàn hoàn toàn mất hẳn với liên lạc bên ngoài - Lần tiếp vận của Lữ Đoàn 1 hoá ra
chỉ tăng cường quân số cho đạo quân bị vây ở An Lộc thêm đông đảo. Ông trầm ngâm bảo Quyền: Hỏi bên Mỹ, rồi xin ở quân đoàn phi vụ “Daisy Cutter - Bom
BLU-82B” (22) thả xuống cho tụi “Thằng Đỉnh”.. Phải có thứ nầy mới ăn thua đủ với bọn chúng!! Trái bom từ bụng chiếc phi cơ vận tải võ trang AC130 (Phi cơ
AC130 thiết trí giàn phóng lựu 20, 40ly; đại liên 7.26ly; đại bác 105ly, chuyên trách công tác yểm trợ cận phòng, thả bom dọn bãi, phá chướng ngại vật (thiên nhiên)
lớn, thả trái sáng yểm trợ tác chiến đêm) chứa 15,000 cân Anh thuốc nổ và mãnh thép rơi bằng dù chính xác vào giữa đội hình đơn vị cộng sản chấm dứt cuộc
huyết chiến rạng sáng ngày 18 giữa tiếng reo hò của binh sĩ hai đại đội 63, 64.
Ngày 18 tương đối bình yên, Trung Tá Đỉnh đưa Đại Đội 61 xuống thay thế để hai Đại Đội 63, 64 trở lại đồi với lời khen ngợi: “Làm trưởng ấp một đêm là giỏi lắm
rồi.. Lấy được hai K54 (súng ngắn của người chỉ huy) như vậy nó đánh hai toa phải là cấp tiểu đoàn, và thằng tiểu đoàn trưởng thế nào cũng đã về với bác nó!”.
Hai-mươi bốn giờ “bình an” của ngày 18 đi qua nhanh chóng để bão lửa phục thù của Bắc quân ào xuống. Đồi Gió hay cao độ 175 dần nát vụn dưới cơn pháo
cường tập liên hồi, đồng thời phá nổ tung kho đạn dã chiến của pháo đội 105ly của pháo đội/TĐ3Pháo Dù. Tiểu Đoàn Trưởng Đỉnh và cố vấn Peyton đồng bị
thương cùng với 32 quân binh.. Trong hầm chỉ huy của Đại Tá Nhật, Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng biết đã đến lúc địch quyết tâm dứt điểm Đồi Gió, khóa
cửa ngõ vào thị xã trước khi thanh toán mục tiêu chính: Cứ điểm trung tâm phòng thủ An Lộc. Ông mau mắn quyết định: Tiểu Đoàn 6 không còn nhiệm vụ giữ
pháo binh, tiểu đoàn trưởng toàn quyền điều động đơn vị để giữ thế trận. Trên Đồi Gió, Đỉnh lẫm bẩm:”Chỉ 48 giờ mất toi sáu khẩu pháo và ngàn quả đạn, thêm
một lô thương binh không tải thương.. Ở làm gì nơi cái đồi quái quỷ nầy nữa.” Dọt! Đỉnh để lại hai Đại Đội 63, 64 do Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng trấn giữ, đẩy
Vinh “con” xuống lại Ấp Ton Cui với lời dặn: “Mầy cố gắng bắt tay “Thằng 1” (ĐĐ 61) dưới kia để có bãi tản thương, tiếp tế, ở trên nầy nó pháo mờ người không
làm ăn gì được.” Từ chân đồi đến ấp chỉ khoảng 400 thước nhưng Vinh với ĐĐ62 phải mất hẳn một đêm 19 mới đi thấu. Quân binh hai bên trộn với nhau như gạo
và trấu, chỉ còn cá nhân chiến đấu qua cách sờ nón sắt để phân biệt ta hay địch! Đêm 19 chuyển qua ngày 20 với tiếng kèn thúc quân vang dội dọc Đường 245,
cùng lúc, đầu con đường, nghe rõ tiếng động cơ máy nổ của tăng T54 rầm rầm di chuyển.. Đỉnh rung tay: Bỏ mẹ, nó dứt điểm mình rồi! Tăng T54 ầm ầm tiến lên
Đồi Gió trước (ý hẳn phía cộng sản ước tính bộ chỉ huy TĐ6 vẫn còn ở trên đồi) .. Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng cùng hai đại đội trưởng Hoàng, Tuấn cùng ra
giao thông hào với khinh binh, đợi chờ những chiếc tăng lố nhố lính Bắc quân tùng thiết xông lên. Trận chiến không cân sức dần tàn vào trưa ngày 20 với kết thúc
bi thảm: Tiểu Đoàn Phó Bằng bị bắn tung một mắt; Đại Đội Trưởng Tuấn hứng ngay quả 75 ly, giã từ đời ở số tuổi 23. Bằng buông ống liên hợp máy truyền tin
thều thào bảo Hoàng khi máu chảy xuống ướt đẫm mặt: “Thay tôi, dẫn hai đại đội về Đồi 169, đem theo thương binh, chết để lại.”
Thanh toán xong Đồi Gió, quân cộng sản tập trung, điểm danh, chuyển lệnh ngay trên Đường 245 trước khi thanh toán phần còn lại của Tiểu Đoàn 6 ở Ấp Ton Cui.
Không lẽ đời mình tàn tại cái chỗ khốn nạn nầy hay sao Nghiêm? Đỉnh than nhẹ với Nghiêm, sĩ quan Ban 3 khi chờ lệnh Lê Lợi. Hơn hai-mươi bốn giờ của ngày
19 và 20 tháng Tư, Đại Tá Lưỡng không hề chợp mắt, ông ngồi cạnh máy truyền tin theo dõi và ra từng lệnh ngắn cần thiết đến Tiểu Đoàn 6 bởi ông biết rõ: Sinh
mạng đơn vị đang đụng trận ngoài kia hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi quyết định của ông. Ông cũng phải dấu đi mối đau riêng tư về tin Thiếu Tá Bằng bị thương
nặng - Bằng là một trong đại đội trưởng thân yêu của ông từ ngày mở trận Tiểu Đoàn 2 ở năm 1965 - Ông sống cùng, với bao nhiêu người đã nằm xuống, tưới máu
lên từng ngày, giờ chiến địa. Phải vô cùng khó khăn Lê Lợi mới lập lại được liên lạc với Đỉnh (do các tầng số âm thoại bị phá bởi phía Bắc quân dò được các tầng
số âm thoại đang xử dụng) qua hệ thống máy cố vấn Mỹ với trạm chuyển tiếp trên Núi Bà Đen (Tây Ninh), nơi cách An Lộc 100 cây số đường chim bay..
..Đây Lê Lợi 612.. Đỉnh chong đôi mắt mệt mỏi nghe rõ từng chữ: “Sẽ có ba line B52 đánh xuống chỗ anh, cách anh chỉ 500 thước thôi (phi cơ B52 dùng trong
công tác yểm trợ chiến thuật CAS (Close Air Support) trên lý thuyết phải có khoảng cách an toàn hai cây số), ở ba hướng, Bắc, Đông, và Nam, xong anh theo
hướng Đông-Nam đến bờ Sông Bé có trực thăng rước về.. Gắng lên, đời anh và tôi chỉ có một lần”. Ba line B52 đánh xuống như cơn địa chấn, 500 thước đối với
bom 500 cân Anh thả một loạt 24 trái (số lượng tối thiểu tùy theo cự ly bay, và giờ hoạt động trên mục tiêu) (23) quả thật không còn “khoảng cách an toàn” nào
nữa. Những chiếc B52 vừa đi qua, Đỉnh báo cáo cùng “612”: Xong rồi, xin Lê Lợi màn khói. Không có khói, thôi anh và con cái dọt đi. Tôi nghe. Đỉnh nói với hơi
thở hụt
Rừng còn nguyên độ nóng trận bom, nồng mùi lửa, khói trộn tro than bốc dày che khuất bầu trời xanh ánh trăng.. Đại úy đại đội trưởng Vinh “con” đi khi binh số 1;
Thiếu tá trưởng Ban 3, Nghiêm tiếp làm khinh binh số 2; và người thứ ba, Tiểu đoàn trưởng Đỉnh. Tiểu Đoàn 6 Dù, hậu thân của 6th B.E.P, đơn vị đầu đời của
viên sĩ quan kiệt liệt Đại Úy Đỗ Cao Trí lần đầu tiên buộc phải chấp nhận thất bại, im lìm rời khỏi chiến trường. Khởi đi từ 01 giờ 42 phút ngày 21 tháng Tư, tiểu
đoàn bị phục kích thêm hai lần nữa, bởi đi theo suối thì gặp các căn cứ cộng sản; đi trên cao độ thì bị pháo.. 5 Giờ chiều tại trãng trống để đợi trực thăng đến bốc
đi, đơn vị lại bị phục kích thêm một lần thứ ba - Lê Lợi biết rõ những điều nầy nhưng ông chấp nhận - Bởi chỉ tìm được đường sống trong ngã chết, vì hướng Đông-
Nam là an toàn khu nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của mặt trận Bình Long, nên phía cộng sản không thể nào nghĩ ra rằng: Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang lưỡng đã
chọn làm hướng lui quân cho Tiểu Đoàn 6 khi ông đã dội B52 xuống những hướng đối chiếu.
Tan hàng ngày 21 tháng Tư, nhưng Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù với châm ngôn của binh chủng đã thực hiện và hoàn tất sự cố gắng qua từng người lính - Phần đông lại
là tân binh, quân phạm được ân xá cho trở về quân đội trong thời buổi nước nhà nguy biến. Với quân số 412 người vừa được bổ sung sau thiệt hại Đồi Gió mà3/4 là
tân binh.. Có cậu lính trẻ vốn là Nhân Dân Tự Vệ tập bắn XM16 cặp hông như bắn súng Thompson thời Thế chiến thứ Hai. Nhưng “tập bắn” cũng chỉ là cách nói
để tạm yên lòng vì một tháng nơi Căn Cứ Lai Khê (Bộ tư lệnh tiền phương của Quân Đoàn III), thành phần tân binh khác lạ kia của Tiểu Đoàn 6 chỉ được huấn
luyện kỹ thuật tác chiến, tác xạ bằng.. lý thuyết suông! Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Đỉnh thúc dục các đại đội trưởng..Các ông cố gắng dạy tụi nó được phút
nào hay phút đó.. Tập tháo ráp súng, tập tác xạ, nhận thủ lệnh khi giữ đội hình khi di chuyển.. Tập riết bằng miệng rồi cũng nên quen chứ bộ. Mình cố gắng dạy
đám lính mới nầy để đánh phục hận vụ Đồi Gió hôm tháng Tư. Không có gì thay đổi thì đầu tháng Sáu mình go! Trước sau gì tiểu đoàn mình cũng phải trở lại An
Lộc.
Ngày 4 tháng Sáu, 1972 như một câu chuyện thần kỳ về lần chuyển hóa những con người bình thường bỗng nhiên hóa thân nên những chiến sĩ lẫm liệt. Với đám
tân binh chưa được một lần tác xạ đạn thật, Tiểu Đoàn 6 Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đỉnh với giàn đại đội trưởng, trung đội trưởng sống sót từ trận Đồi
Gió như được thúc dục bởi một nguồn lực muốn chứng tỏ quyết tâm lập lại danh dự người lính, nên từ khi xuống bãi đáp Bàu Đồng Lô, tiểu đoàn dưới sự dẫn đầu
của Lộc, Đại Đội Trưởng Đại Đội 61 đã đi như ánh chớp qua các mục tiêu..Ấp Đức Vinh1, Đức Vinh 2, cách An Lộc đúng năm cây số đường thẳng. Để hiện
thực trong trận chiến cuối cùng ngày 6 tháng 6, 1972.. Hai Đại Đội 61, 62 rời khỏi khu đóng quân , xếp hàng hai bên ven đường. Gần hai trăm con người lẫn nhanh
vào kku rừng phía tây..Nhào vào..Nhào vào sâu hơn nữa.. Hai đại đội trưởng hét vang thúc lính tấn công theo hướng Tây-Đông. Đại đội 62 của Vinh bảo về bộ chỉ
huy tiểu đoàn bố trí qua theo mặt Bắc- Hướng An Lộc. Khi tất cả đã ở yên trên các vị trí chỉ định. Tiểu Đoàn Trưởng Đỉnh hạ lệnh lần cuối: 63 bọc xuống phía
Nam, không cho tụi nó chạy lui; 61, 62, 64 dánh từ Tây sang Đông, bao giờ đến đường rầy thì ngừng lại đợi lệnh. Dàn hàng ngang và đánh thật nhanh. Nhanh đến
mức có gã lính mới lần đầu tiên thấy lính Miền Bắc quá gầy yếu, nhỏ bé.. Hắn ta nhào vào quên cả tác xạ! Pháo địch bắn cản đổ xuống như trút. Mặc! Đỉnh thúc
tiểu đoàn ào tới theo cách bộ đội cộng sản tránh bom “bám chặt thắt lưng kẻ thù mà đánh”. Bị thương ném lui ra đằng sau để Tiểu Đoàn Phó Tùng (đã bị thương
khi xuống bãi trực thăng ngày 4) thâu nhặt, bảo vệ.. Ào tới ! Ào tới! Đánh kiểu “Blích -kiết” của tụi Đức, bảo lính vừa đi vừa bắn.. Đừng cho tuị nó ngóc đầu!!
Chiến trận chấm dứt sau năm giờ tiến quân thần tốc với kết quả, tiểu đoàn 1 chết, 63 bị thương đổi lại 90% địch chết tại hầm. Và cuối cùng ngày 8 tháng 6.. Cứ
theo chiến thau65t như ngày hôm kia..Xung phong! Xung phong! Tiếng hét, đạn nổ.. Lựu đạn M26; phóng lựu M79; hoả tiễn M72 chêm vào với đạn súng tay như
một chuỗi pháo liền bất tận.. Những cán binh cộng sản còn sống thuộc hai đại đội C7, C8 bỏ giao thông hào, từng cặp một (bị xiềng vào nhau bởi một dây xích - để
không cho phép bỏ chạy khi tac chiến) chạy tản ra đồng trống.. Bỏ ba-lô.. Bỏ ba-lô đuổi theo.. Đuổi theo đừng cho thằng nào chạy thoát!! Lính tân binh thâm niên
công vụ 16 ngày lần đầu đụng trậân không biết sợ, cặp súng vào hông đuổi theo đám cán binh thất thế.. Hai đại đội bị “dứt nọc” sau 2giờ12 phút chiến trận với một
tù binh độc nhất sống sót còn lại: Tù binh Nguyễn Văn Tiền.
Thừa thắng xông lên, Vinh trở quân đánh vào mục tiêu hướng Bắc - Mục tiêu chính nằm ở ngã tư đường vào đồn điền Xa Cam - Cửa ngỏ An Lộc. Bộ phận cộng
sản bố trí hướng về phía Bắc (hướng của Tiểu Đoàn 8 Dù) xây lưng về hướng tiến quân của đại đội của Vinh.. Tất cả để cò vào vị trí “auto”.. Bắn! Bắn! Những
tấm lưng thịt người nẩy lên bừng bực..Đạn đi qua thịt người, găm vào đất. Đất vốn màu đỏ sậm trở nên đỏ tươi. Đỏ gắt. Đỏ ướt. Đơn vị cộng sản chạy dạt về
hướng tây. Gặp Đại Đội 63 của Thái Tường. Lính Tiểu Đoàn 8 cách nơi đụng trận khoảng 800 thước, đứng dậy khỏi hố chiến đấu hoan hô lính Tiểu Đoàn 6 dứt
điểm, diệt gọn mục tiêu.
17 giờ 45 Vinh “con” bắt tay Hồng Ni (TĐ8 ) cách tấm bảng “Đồn Điền Xa Cam” 100 thước. Trước mặt hai người bạn (cùng Khóa 20 Thủ Đức) An Lộc được
buổi chiều bình yên bốc khói bếp nấu cơm.
Trên trực thăng bay đến An Lộc, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 (Chỉ huy tổng quát cuộc hành quân giải tỏa An Lộc), Nguyên Tư Lệnh Phó
Sư Đoàn Dù, cũng là Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù có câu trả lời với Lê Lợi..
- Hoàn Mỹ (Chuẩn Tướng Hậu) xem con cái tôi đánh có đẹp không?
- Không, không thể nói chúng nó đánh đẹp, mà phải nói là quá đẹp. Cũng không được nữa, phải nói lỗi lạc và phi thường. Đại Tá Lưỡng vốn quen biết Chuẩn
Tướng Hậu từ rất lâu, ngày cùng ở Tiểu Đoàn 5.. Nhưng chưa bao giờ nghe ông Hậu nói một câu với những tỉnh từ nồng nhiệt như thế.
Nhưng theo ý của người viết đoạn ký nầy, món quà “đẹp” nhất là cảnh người lính nhảy dù đem cơm khô, trái cây hộp; bác sĩ, y tá ra trực hai bên Đường 13 để
chửa bệnh, biếu phần “cơm dằn đường” cho đồng bào. “Cơm dằn đường” - Ai sinh ra loại cơm đau đớn tội nghiệp như thế hở trời?!(24)
4. Trận chiến tàn cuộc
Suốt năm 1972, Lữ Đoàn 1 trong khuôn khổ Sư Đoàn Dù là một trong những đơn vị của toàn quân lực đã có mặt trên toàn ba vùng đất lửa: Trị-Thiên; Tân Cảnh,
KonTum, và nhất là chiến công vừa kể trên trong kỳ tích giải cứu, phá vòng vây của địch tại An Lộc. Riêng về vùng Trị Thiên, kể từ tháng 5, 1972 sau khi Tướng
Ngô Quang Trưởng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I, toàn bộ Sư Đoàn Nhảy Dù được chỉ định tăng phái hành quân dài hạn tại Vùng I, là đại đơn vị trách nhiệm
toàn vùng Tây-Bắc mặt trận Trị-Thiên với vùng hành quân bao gồm từ tây Quốc Lộ I vào Trường Sơn trấn giữ mặt núi, đối diện với những sư đoàn chính quy
cộng sản trên cao độ Động Ông Đô, đỉnh cao nhất của Trường Sơn, trấn giữ thế trận hai sườn đông- tây để những đơn vị bạn, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân, lực lượng Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Trị dựng nên kỳ tích lịch sử: Dựng Cờ Vàng lên Cổ Thành Quảng Trị, 14 tháng 9,
1972.
Sau Hiệp Định Paris, 1973 Sư Đoàn Nhảy Dù là lực lượng chiến lược chống giữ cả hai mặt Bắc và Nam đèo Hải Vân. Vùng trách nhiệm kéo dài qua ba tỉnh
Quảng Trị-Thừa Thiên-Quảng Nam, chịu áp lực từ phía cộng sản có thể tập trung quân dứt điểm toàn vùng theo chiến thuật Đông-Tây: Cắt Thừa Thiên (Bắc Hải
Vân) theo chiều ngang của Sông Bồ (An Lỗ, Quảng Điền, Thừa Thiên); hoặc từ Quận Thường Đức đổ xuống đồng bằng Quảng Nam (Trận Mật Khu Đỗ Xá, 1964
kể bên trên là hiện thực bước đầu của ý niệm chiến lược nầy của phía cộng sản - Không phải chỉ riêng đối với giai đoạn chiến tranh 1960-1975, mà xuyên suốt
trong diễn tiến chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) để hoàn tất sự chia cắt Vùng I Chiến Thuật theo chiều ngang Nam Hải Vân. Với tình thế chống
địch cả hai đầu, sư đoàn nay đặt dưới quyền tư lệnh của Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng. Thêm một lần Tướng Quân phải tìm cách thế để đơn vị tồn tại, chiến
đấu, và vượt thắng bằng khả năng quân sự độc đáo, bản lãnh riêng. Do hạn chế bởi các điều khoản Hiệp Định Paris: Không được tăng quân số và áp dụng biện
pháp thay thế “Một Đổi Một” (Chương II-Điều 7); cùng sự cắt giảm viện trợ Mỹ (Điển hình từ 1Tỷ47 rút xuống còn 1Tỷ, xong 700 Triệu, để kết thúc với 654Triệu
cho tài khóa 1975) (25) - Tướng Lưỡng cùng ban tham mưu sư đoàn sáng tạo nên kế hoạch: Tạo dựng những “Đại Đội Đa Năng” với quân số cơ hữu của sư
đoàn bằng cách giảm thiểu đến mức tối đa các thành phần tham mưu, yểm trợ, kể cả trung tâm huấn luyện. Thế nên, cuối năm 1973, sư đoàn đã có đến 12 Đại
Đội Đa Năng làm thành phần trừ bị cho chính mình - 12 đại đội hay là 3 tiểu đoàn - Tức là một lữ đoàn trừ bị. Với cách biên chế, tổ chức mới mẻ nầy, sư đoàn
hoàn tất được một lần hai nhiệm vụ: Bảo vệ mặt Bắc Hải Vân với Lữ Đoàn II và một Tiểu Đoàn Đa Năng; thành phần còn lại của sư đoàn chiếm đóng, bảo vệ
mặt Nam Hải Vân qua cuộc tiến công từ Đại Lộc lên Cao Điểm 1062 - Chế ngự toàn vùng Thường Đức, vùng núi cực tây Quảng Nam-Đà Nẵng. Quận Thường
Đức cách Đà Nẵng 50 cây số đường chim bay, với những cao điểm 1235 và 1062 kiểm soát được toàn vùng cận sơn và đồng bằng. Nhưng không chỉ như thế -
Nếu chiếm giữ được Thường Đức, lực lượng cộng sản sẽ mở một được một đường hành lang thông suốt chạy từ Bắc Kontum (vùng Dak To, Dak Pek, Dak Nhét
đã chiếm được từ tháng 4/1972) xuống vùng bình nguyên (khỏi phải dùng đường từ Kontum, Pleiku ở phía Nam, xa xôi, với quá nhiều trở ngại); chưa hết con
đường nầy còn nối với mặt trận Trị-Thiên (Bắc Hải Vân) mà không cần băng qua đất Lào. Vùng Cao Độ 1062 do đơn vị tinh nhuệ nhất của quân đội Miền Bắc
trấn giữ: Sư Đoàn 304 Điện Biên, và SĐ2CS tăng cường từ Mặt Trận B3 (Tây Nguyên). Trận chiến trên các cao điểm chung quanh 1062 bắt đầu từ ngày 8 tháng
8/ 1974 chấm dứt vào cuộc phản công cuối cùng ngày 8 tháng 11 cùng năm do bảy Tiểu Đoàn Nhảy Dù 1, 2, 3, 6, 7, 8, 9 trong số chín tiểu đoàn có mặt tại vùng
hành quân đã liên tục tác chiến, đánh ngày, đêm, cận chiến, du kích, đột kích, trận địa chiến.. Có thể nói đây là chiến trận lớn nhất sau cái gọi là “Hiệp định tái lập
hòa bình tại Việt Nam”. Người lính nhảy dù trả giá cho ngọn đồi và hòa bình với sinh mạng 500 chiến sĩ; 2000 người bị thương trận.
Cuộc huyết chiến tại cao điểm 1062 tạm kết thúc đợt giao tranh thứ nhất (cuối tháng 8/ 1974) với 200 xác bộ đội cộng sản (kiểm kê sơ khởi); 40 tù binh bị bắt tại
trận địa. Trương Công Phê, Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 304 (còn có danh hiệu “Sư Đoàn Thép”) có kết luận: “Sư Dù là một sư mạnh”. Nhưng phần thưởng lớn lao
nhất, hãnh diện là lời của đồng bào Đại Lộc: “Nhảy Dù tới bà con ơi! Nhảy Dù tới! Chúng ta không chạy nữa, quay lại làm ăn như cũ, đừng sợ gì nữa!” (26) Phải,
đồng bào đã từng nói như thế ở Huế, Mậu Thân 1968; và mới đây, năm 1972 ở An Lộc, Bình Long, và tiếp theo ở Quảng Trị chỉ trong khoảng tháng 4, tháng 5.
Ngày 1/1/1975, một lần nữa để đáp ứng tình hình chiến trường càng ngày càng trở nên khốc liệt khó khăn, dưới quyền tổ chức và quyết định của Tướng Lưỡng, Sư
Đoàn Nhảy Dù thành lập Lữ Đoàn IV Nhảy Dù, và tiếp theo sẽ là Lữ Đoàn V Nhảy Dù. Lữ Đoàn IV Nhảy Dù do Trung Tá Lê Minh Ngọc giữ chức lữ đoàn
trưởng, gồm:
- Tiểu Đoàn 12ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm.
- Tiểu Đoàn 14ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu tá Nguyễn Đức Tâm.
- Tiểu Đoàn15ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Phú.
- Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Đặng Hữu Minh.
- Đại Đội 4 Trinh Sát do Trung Úy Trần Chí Mỹ giữ chức đại đội trưởng đang hình thành.
Riêng kế hoạch phát triển thêm Lữ Đoàn V Nhảy Dù đang được hoàn chỉnh, bởi chưa có lữ đoàn trưởng, chỉ thành lập được ba Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn gồm có
các Tiểu Đoàn 16, 17 và 18 với dự tính: Tiểu Đoàn16ø do Trung Tá Phạm Kim Bằng làm Tiểu Đoàn Trưởng. Tiểu Đoàn 17ø, Thiếu Tá Lê Hữu Chí; Tiểu Đoàn
18ø do Thiếu Tá Hồng Thu dự trù đảm nhiệm. Tiểu Đoàn 5 Pháo Binh; Đại Đội 5 Trinh Sát chưa được thành hình. (27)
Sau ngày 10, tháng 3, 1975 khi mặt trận Vùng II suy sụp trầm trọng bởi lần di tản bộ tư lệnh cùng toàn thể các đơn vị khỏi Tây Nguyên bắt đầu từ ngày 17 tháng 3,
1975. Tình hình quân sự Miền Nam trở nên cầm đầu đã mất hết khả năng kiểm soát, lãnh đạo đất nước. Riêng Bộ Tổng Tham Mưu, quyền điều hành, quyết định
nằm trong tay một viên tướng chuyên ngành tiếp vận, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân - Một trong những nhân tố chính
của tổ chức siêu tài chánh-kỹ nghệ “Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội”với đồng tiền máu của mỗi người lính góp vào trong những năm 1968-1972. Trong tình huống cực kỳ
khó khăn, nguy biến kia, Sư Đoàn Nhảy Dù lại được lệnh rời bỏ Đà Nẵng, và bị xé ra từng mảnh nhỏ, dàn mỏng trên những trận địa không chiều sâu, hở cạnh
sườn, thiếu yểm trợ không quân, thậm chí đến không có pháo binh diện địa hỏa yểm tiếp cận. Cuối cùng không thành phần trừ bị, tiếp ứng (28 ).. Tất cả để thực
hiện một sách lược gọi là “Đầu bé - Đít to” của chính đương kim Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. “Đầu bé”ù là vùng Quảng Trị, Thừa Thiên,
vùng đông dân cư Bình Định, Khánh Hòa; và “Đít to” tức là vùng Sài Gòn-Chợ Lớn, đồng bằng Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ. Nhưng thực tế diễn tiến
chiến sự đã cho thấy: Không có một kế hoạch nào tồn tại được, bởi đây là một kế hoạch đặt trên sự lừa dối, và bất lực trước tình thế - Cũng như không một thân
thể nào tồn tại được khi đã bị bẻ gẩy sống lưng - Thủ phủ vùng Tây Nguyên, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thị Xã Pleiku hoàn toàn bị bỏ ngỏ, rơi vào tay
cộng sản không tiếng súng kể từ ngày 17 tháng 3, 1975. Trước tình trạng cực độ vô lý: “Chưa đánh đã có lệnh tháo chạy” đã có lúc, Tướng Quân Lê Quang
Lưỡng ngỏ ý thẳng với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: Hãy để Sư Đoàn Dù về Sài Gòn (đang tăng phái hành quân tại Vùng I của Tướng Trưởng) lật đổ con
người đã không còn năng lực lãnh đạo, và càng ngày càng lộ rõ ý đồ phá vỡ sức chiến đấu của quân lực điển hình qua việc xé lẻ hai Sư Đoàn Nhảy Dù, TQLC;
Lữ Đoàn Thiết Kỵ, các Liên Đoàn Biệt Động, Biệt Kích.. Những lực lượng xung kích, tổng trừ bị quốc gia.(28Bis) Điển hình Lữ Đoàn 147/Sư Đoàn TQLC vừa bị
bức tử nơi bến phà Thuận An chưa xong việc đếm xác, đến lượt hai Lữ Đoàn 258 và 369 vô cớ rút từ Huế vào Đà Nẵng, xong từ Đà Nẵng vào Sài Gòn.. Tàu thủy
đến ngang NhaTrang lại được lệnh trở lui tái chiếm Đà Nẵng!! Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù không còn được quyền ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc, bởi tất cả
lệnh điều động (cấp tiểu đoàn) chỉ được phát xuất từ Dinh Độc Lập.
Rời Huế (cuối tháng 3) trong hoàn cảnh hỗn loạn của cuộc rút quân vô cùng phi lý, và vô kế hoạch của người nắm giữ vận mệnh quốc gia, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu; lại tiếp nhận lệnh điều động trực tiếp từ “Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nguyễn Văn Thiệu”, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Văn
Phát gồm các Tiểu Đoàn 2 (Thiếu Tá Trần Công Hạnh); Tiểu Đoàn 5 (Trung Tá Bùi Quyền): Tiểu Đoàn 6 (Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành - Khác với Nguyễn Văn
“Thành Râu”, Tiểu Đoàn Trưởng 11). Gọi là ba tiểu đoàn nhưng thực sự toàn bộ các đơn vị phải phân tán dọc trục lộ Quốc Lộ 21 thành những chốt nhỏ cấp tiểu
đội để có thể liên hoàn yểm trợ nhau trong tình huống đơn độc chiến đấu. Đối lại phía cộng sản, sau khi chiếm xong toàn bộ Ban Mê Thuộc kể từ 15 tháng 3, và
không cần phải củng cố vị trí vừa chiếm xong (rút kinh nghiệm của Mậu Thân 1968; Tổng Công Kích 1972) hai Sư Đoàn 320, và F10 đồng lần rời bỏ Ban Mê
Thuộc, bôn tập theo Quốc Lộ 21 về phía bình nguyên duyên hải. Hai Sư Đoàn F10 và 325 với một lực lượng tấn công từ Miền Bắc vào gồm: 2376 xe các loại, trong
đó có 100 xe tăng; thiết giáp; gần 185 pháo lớn từ 85 đến 155 ly; hơn 100 khẩu cao xạ.. (29) Số lượng quân trang, vũ khí nầy chỉ riêng cho mặt trận Ban Mê
Thuộc, chứ thật sự để xâm lăng Miền Nam, quân đội cộng sản Hà nội đã chuyển vào Miền Nam từ 1974 đến tháng Tư/1975 một tổng số 823,146 tấn quân dụng vũ
khí “gấp 1.6” số lượng tiếp vận trong 13 năm từ 1960 đến 1973!! Về quân số, chỉ hai năm 1973-74 đã nhập ngũ thêm 150.000 tân binh để gởi vào Nam thay thế
68,000 quân thiệt hại, với 8000 cán bộ chuyên môn các ngành (30). Tóm lại 16 sư đoàn bộ binh của miền Bắc kéo vào không thiếu một đơn vị mà đích thân
Kissinger đã phải kêu lên ngao ngán sau khi nghe báo cáo từ tướng Weyand sau lần qua lượng định tình hình Việt Nam (28/3 đến 4 tháng /4) tại buổi họp tại Phòng
Bầu Dục tòa Bạch Ốc với hầu hết quan chức cao cấp của chính phủ Mỹ: “Hiện tại, toàn thể quân lực Bắc Việt Nam đã ở Miền Nam... Chỉ cần một Lữ Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến (Mỹ) là đủ chiếm đóng hết Miền Bắc. Rõ ràng Hiệp Định (tái lập) Hòa Bình Paris đã bị vi phạm trầm trọng” (31) Phải có học vị tiến sĩ
(xuất thân ở Đại Học Harvard), với chức vụ ngoại trưởng Liên Bang Bắc Mỹ mới biết được điều đơn giản nầy thì quả tình con người được tiếng là tài giỏi, thông
minh nầy cũng không “khá” hơn bao nhiêu người tầm thường khác. Ba Tiểu Đoàn 2, 5, 6 không yểm trợ, không trừ bị tiếp ứng bị lực lượng hai sư đoàn cộng sản
tràn qua như một điều tất nhiên sau ngày Nha Trang bỏ ngỏ, 31 tháng 3. Cũng là ngày Huấn Khu Dục Mỹ (gồm các Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động; Pháo
Binh, Bộ Binh) tự tan rã.
Phòng tuyến của chiến lược “Đầu bé- Đít to” kia lại thêm lần điều chỉnh, củng cố với một “cái đầu” tại Phan Rang (quê nội của Nguyễn Văn Thiệu). Vùng Phan
Rang với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân không hề là vị trí phòng thủ hữu hiệu của bất cứ hình thái chiến tranh nào. Bởi đối phương có thể hành quân tiếp
cận đến Phan Rang bằng nhiều hướng: Quốc Lộ I (Hướng Bắc từ Cam Ranh, Nha Trang đánh vào); Quốc Lộ 11 từ Đà Lạt đánh xuống từ phía Tây-Bắc; từ bờ
biển đổ bộ vào (hướng Đông); hoặc đánh vòng từ hướng Nam lên theo Quốc Lộ I. Thành phần binh lính trách nhiệm phòng thủ Phan Rang vốn là những đơn vị đã
bị thiệt hại lớn ở mặt trận Vùng I (Trung Đoàn 4, 5/SĐ2BB); các Tiểu Đoàn 31, 36, 52 Biệt Động đã mất sức do đã phải tác chiến liên tục từ mặt trận Chơn Thành
(Vùng III); Về phía nhảy dù, Lữ Đoàn 2 vừa bị thiệt hại ở mặt trận Khánh Dương, nay được thay thế bởi Lữ Đoàn 3 với Đại Tá Nguyễn Thu Lương Lữ Đoàn
Trưởng; Trung Tá Trần Văn Sơn Lữ Đoàn Phó, chỉ huy ba Tiểu Đoàn 3, 7, 11. Toàn thể đạo quân nầy phải chiến đấu tự tồn, không tiếp tế, không yểm trợ đối mặt
với đại quân của Quân Đoàn 2 Bắc Việt do Trung Tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, gồm hai đơn vị chủ lực SĐ325 và SĐ3 của Tây Nguyên (vẫn tiếp tục làm thành
phần mũi nhọn tấn công mãi cho đến mặt trận Long Khánh (cuối tháng 4) sau nầy), ngoài ra còn có Đoàn 968 vừa thành lập từ Lào bôn tập về), cùng lực lượng
chủ lực, du kích địa phương. Với tương quan lực lượng quá chênh lệch như thế, nên dù người lính cộng hòa có nỗ lực chiến đấu kiên trì bao nhiêu cũng không thể
giữ vững các vị trí chiến thuật dọc Quốc Lộ I, có thể ngăn cản đà tiến quân của phía cộng sản (chưa kể đến tình trạng suy sụp, đỗ vỡ tinh thần do lo lắng về gia
đình của những đơn vị di chuyển từ Miền Trung vào). Ngày 16/4 toàn bộ cấp chỉ huy cao cấp của mặt trận gồm Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn Tướng
Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương, và nhiều liên đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng đều bị bắt.
Trong tình hình ngặt nghèo dồn dập diễn ra, “Đích Thân Lê Lợi 612” đúng danh hiệu “Đích Thân” luôn có mặt cùng mỗi người lính trong những giờ phút gay go
nhất. Tướng Quân bay ra Phan Rang, trên chiến địa Khánh Dương đầu tháng 4 để trực tiếp chỉ huy các phi vụ “móc” con cái “Thằng Quyền (Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 5); Thằng Hạnh (TĐ2); Thằng Thành (TĐ6).. Tướng Quân tiếp nặng lòng đau đớn cùng lần lui quân bi phẫn của Lữ Đoàn 2 từ phi trường Phan Rang
với kết quả, TĐ11ND mất liên lạc toàn bộ, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành, cùng một số chiến sĩ trung kiên đồng lọt vào tay địch! Trong trận chiến tuyệt vọng này,
Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó, và nhiều chiến hữu khác của đoàn quân nhảy dù đồng bị hy sinh với niềm uất hận không thể đền bù. Chỉ mỗi TĐ3Dù do
Trung Tá Lã Quý Trang chỉ huy còn 100 chiến sĩ được trực thăng được trực thăng bốc từ bãi bể nam Thị Xã Ninh Chữ, Phan Thiết. Riêng TĐ7ND của Trung Tá
Nguyễn Lô bảo toàn quân số do được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu rút ra khỏi Phan Rang trước khi trận đánh khai diễn.
Lữ Đoàn I ND do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Lê Hồng Lữ Đoàn Phó gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8, 9NDø, Đại Đội 1 Trinh Sát, Tiểu Đoàn
3 Pháo Binh, Đại Đội 1 Quân Y, Đại Đội 1 Công Binh tăng phái Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ huy tổng quát, trấn giữ
Quận Lỵ Xuân Lộc, chận đứng bước tiến từ hướng bắc của quân đoàn cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn. Lươc lượng diện địa phòng thủ Long Khánh LĐ1ND đã làm
tròn trách nhiệm giao phó, không để cho địch quân tiến thêm được một tấc đất, buộc đoàn quân “Sinh Bắc - Tử Nam” của dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đại
Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải trả một giá đắt với 6000 xác chết; 37 chiến xa bị phá hũy. Riêng đối với một đơn vị cấp lữ đoàn, với thiệt hại nghiêm trọng
phải chịu đựng sau hơn gần hai tuần chiến đấu liên tục (10/4-21/4) chống chọi nhiều đợt tấn công của Quân Đoàn 4 CS gồm ba sư đoàn bộ binh 6, 7, 431 được hai
lữ đoàn xe tăng 203, 204 tăng cường hành quân, dưới yểm trợ của đại pháo tầm xa, có các đơn vị đặc công đánh xuyên phá, mở cửa.. Cuối cùng Lữ Đoàn 1 Dù lại
phải đảm nhận thên nhiệm vụ cuối cùng: Bảo vệ tập hậu đoàn quân rút lui gồm các thành phần của Sư Đoàn 18 Bộâ Binh, Tiểu Khu Long Khánh, các thành phần
pháo binh cơ hữu và diện địa, lại thêm hàng chục ngàn dân chúng đi theo.. Nên bất chấp ngăn cản của phủ tổng thống do đích thân Tổng Thống Thiệu ra lệnh; bộ
Tổng tham mưu với Tổng Tham Mưu Trưởng Khuyên, Đại Tá Lưỡng điều động trực tiếp, xử dụng TĐ 7 Dù và hai chi đoàn chiến xa M113/ Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ
của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi làm thành phần tiếp cứu. Lực lượng hỗn hợp nầy xuất phát từ Phước Tuy (Bà Rịa) đi ngược lên Tỉnh Lộ 2, đón thành phần
triệt thoái của Sư Đoàn 18, Tiểu Khu Long Khánh, và Lữ Đoàn I Dù về Bà Rịa an toàn. Nhưng cuối cùng, đêm 28 rạng ngày 29/4/75, quân CSBV cường tập tấn
công vào lực lượng Nhảy Dù ở Láng Cạn, Bà Rịa, lính các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 đánh trả quyết liệt, liên hoàn bảo vệ đơn vị đến Giờ Thứ 25 mới rút xuống Vũng Tàu
để lui về Gò Công, từ đây di tản ra hạm đội. Có thể nói Lữ Đoàn 1 ND là đơn vị có quân số đông đảo nhất đã di tản ra khỏi nước.
Được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, Lữ Đoàn 2 Dù sau khi rút khỏi Phan Rang về Sàigòn, đặt thuộc quyền điều động của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh
QĐIII/QKIII. Tướng Toàn đã tạm thời chỉ định Trung Tá Nguyễn Lô, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7ND kiêm nhiệm chức vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ2ND trách nhiệm,
điều động hai Tiểu Đoàn 5 và 7, chận đứng địch trên tuyến Biên Hòa - Xa lộ Đại Hàn - Sàigòn do Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ
Binh/Lực Lượng Xung Kích/QĐIII (LĐ3KB/LLXKQĐIII) chỉ huy tổng quát. Nhiệm vụ chính của LĐ2ND là tiến quân bên phải đường sắt hướng về Sàigòn; đến
ngoại ô Bắc Sàigòn, co cụm lại, bố trí dọc xa lộ Biên Hòa, chặn địch vào thủ đô. Sau 30 tháng Tư, 1975 người đi qua vùng nầy vẫn còn thấy những xác Lính Nhảy
Dù chết trong trận chiến giờ cuối cùng bảo vệ Miền Nam.
Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Trần Đăng Khôi làm Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Bùi Quyền Lữ Đoàn Phó với ba Tiểu Đoàn 2, 5, 6 Nhảy Dù từ Phan Rang
được rút về đóng ở trại Hoàng Hoa Thám, Tân Sơn Nhất. Đây là đơn vị đã đánh trận cuối, vô cùng ác liệt ngay trong lòng Thủ Đô Sài Gòn-Chợ Lớn, tiêu diệt
nhiều chiến xa T54, T59, và PT76 của địch từ Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả, Trường Đua Phú Thọ, và Chợ Lớn v.v.. Tới giờ phút chót của buổi sáng
30 tháng Tư, các chiến sĩ LĐ3ND vẫn vững tay súng giữ vị trí được giao phó, đơn vị chỉ buông vũ khí sau khi Dương Văn Minh nghe lệnh đầu hàng. Tất cả cấp chỉ
huy của lữ đoàn, và các tiểu đoàn đều cùng ở lại cùng anh em binh sĩ, chịu hoàn cảnh tù tội khắc ngiệt nơi Miền Bắc, không người nào dưới mười năm đày ãi, khổ
sai: Các Trung Tá Phạm Kim Bằng, Trần Đăng Khôi, Nguyễn Lô, Bùi Quyền.. Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Đức Tâm, Ngô Xuân Vinh..
Cấp đại úy, trung úy không thể kể đủ vì quá đông. Điều đáng hãnh diện là hầu hết sĩ quan nhảy dù đồng chứng tỏ bản lĩnh kiên cường của Người Lính Mũ Đỏ trong
hoàn cảnh khắc nghiệt của trại tù làm đối phương dẫu đang ở vị thế kẻ thắng trận cũng phải kiêng dè, kính nể. Trường hợp của các Trung Tá Phạm Kim Bằng,
Nguyễn Lô; Thiếu Tá Trần Công Hạnh là những điển hình rõ nét nhất.
Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù tân lập do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng, với ba Tiểu Đoàn 12, 14 và 15 Nhảy Dù, có đầy đủ quân số tác chiến và đã đưa
vào hoạt động thật sự ở Đà Nẵng, Quân Đoàn I/Quân Khu I. Được rút về Sài Gòn giữa tháng 2/75, biệt phái cho Biệt Khu Thủ Đô để ngăn chận CSBV ở cửa ngõ
Thủ Đô Sài Gòn qua cư xá Thanh Đa, xa lộ Biên Hòa, cầu Tân Cảng.