Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
TRA-MAI
Posts: 20
Joined: Sun Jun 03, 2007 7:27 pm
Location: San Diego
Contact:

Post by TRA-MAI »

Anh cả-Gia Ðình 81 BCD-Những cây tùng trước bão*
Vũ Ánh

Image

Chúng tôi chưa từng là thuộc cấp của ông, nhưng vẫn gọi ông là anh cả. Nhân cách và hình ảnh của ông chế ngự trong tôi suốt thời gian tôi được chuyển về sống tại Z-30A (trại C) năm 1986 và được “biên chế” vào đội rau xanh cùng ông. Thời gian của những năm tù cuối thập niên 80s tương đối bớt khắt khe hơn. Sắp bước sang năm thứ 12, nhưng trại C vẫn còn đầy ắp những sĩ quan cao cấp mà thời gian chinh chiến của họ dài gấp đôi gấp ba những năm tù. Giai đoạn cuối một đời “học tập cải tạo” nhưng “không bao giờ thuộc bài” của chúng tôi có nhiều điều đáng nói, nhiều hình ảnh cần nhớ và nhiều hình ảnh cũng cần quên để giữ vững tinh thần. Ði trên một đoạn đường không nhìn thấy đích, phải khó khăn lắm một người tù mới bảo toàn giá trị duy nhất còn lại của mình: tới hay không tới một điểm dừng nào đó, vẫn phải đứng thẳng lưng trước kẻ thù, bảo toàn được nhân cách.

Những bạn tù nào đã sống chung với các sĩ quan cao cấp đàn anh thường có niềm vui và nỗi buồn bất chợt. Vui khi thấy một đàn anh xứng đáng, đàng hoàng và chỉ một lời trách nhẹ của họ, chúng tôi cũng coi như một lệnh phải thi hành. Buồn khi thấy một đàn anh khúm núm một cách không cần thiết trước mặt những kẻ thắng trận. Số người này ít nên nỗi buồn cũng chỉ thoáng qua. Số giữ được tư cách vẫn rất nhiều và làm cho lớp đàn em chúng tôi vững tin.

Số phận chung của chúng tôi là khi vào trong trại tù, không người nào còn cấp bậc hay quyền hành để cư xử với nhau cho có trên có dưới. Nhưng trên dưới vẫn được tôn trọng căn cứ vào tư cách và nhân cách của các sĩ quan đàn anh cũng như đàn em. Không có được hai yếu tố vừa kể, đám tù chúng tôi rất dễ trở thành “những dây bìm bìm leo trên bờ giậu đổ”. Chúng tôi hiểu rằng, nỗi đau của thất trận đã như vết dao chém trong tâm can chúng tôi, nếu lại thêm một vài đàn anh thiếu tư cách, thêm vài đàn em hỗn hào hèn nhát, cái vết thương ấy chảy máu nhiều hơn, không phương hàn gắn.

Những bạn tù của tôi, người công giáo, nói rằng, anh cả Phan Văn Huấn là người vác thánh giá cho lũ em. Mà quả thật đi chung với anh một đường, lòng thấy nhẹ đi, phơi phới hơn, tin tưởng hơn. Con đường khó cũng bớt khó. Dáng người cao, gầy (dĩ nhiên), nước da đen xanh (dĩ nhiên), nhưng đôi mắt sáng và nụ cười bao giờ cũng là đầu câu chuyện. Giọng Huế còn “chay” lúc nào cũng nhỏ nhẹ, ý nhị, cười vui vừa phải, anh cả dẫn chúng tôi vào những câu chuyện buồn vui đời lính của chính ông và các sĩ quan binh lính thuộc cấp. Những kỷ niệm ông nói ra là những bài học không lúc nào mất giá trị.

Trang phục của ông trong tù khi quay về với cái nóng ở phương Nam là quần áo may bằng bao cát xám. Chuyện mưu sinh chứ không phải là mốt thời trang. Người nào từng là tù cải tạo ra Bắc hoặc xuôi Nam đều biết loại quần áo tù bền muôn thuở này. Lúc đầu được phát năm 2 bộ quần áo trận của quân đội VNCH, nhưng túi và cầu vai bị xé hết. Thời gian sau, họ phát quần áo tù bằng vải thô có đóng dấu cải tạo sau lưng. Mồ hôi của lao động khổ sai có thể xé rách bất cứ loại quần áo nào. Phải vá thôi, nhưng vải đâu. Thấy loại bao cát xám hay bao cát màu olive đem về giặt đi để đắp đỡ lên những chỗ rách trên áo tù. Thấy loại bao cát xám, càng giặt đi càng mịn có thể may quần áo được, tha hồ bền nên vài người tù trở thành thợ may bất đắc dĩ. Chúng tôi không được giữ vật bén nhọn, nhưng tìm trong vài ba lô vẫn có được những mảnh thép quí, mài đi thành dao nhỏ, cắt bao cát thay kéo, mài những cộng sắt làm kim, chỉ thì rút từ chính những sợi từ những bao cát bằng ni-lông, thế là có một bộ đồ “ăn chơi quá thú”.

Anh cả Phan Văn Huấn quanh năm suốt tháng mang trang phục rất “mốt” may bằng bao cát xám. Tôi để ý thấy ông còn giữ được bộ đồ trận tương đối tươm tất nhưng chỉ thấy ông mặc nó vào ngày 19 Tháng Sáu. Ở những trại trước, chúng tôi tổ chức kỷ niệm 19 Tháng Sáu bằng một phút im lặng chào quốc kỳ và chào nhau kiểu nhà binh trước khi bọn cai tù mở cửa buồng giam điểm số để ra lao động. Ở trại Z-30A vào ba năm cuối của thập niên 80s, ngày Quân Lực được tổ chức theo từng nhóm riêng. Tôi mang áo lính nhưng binh chủng của tôi lại là đạo quân phóng viên, biên tập viên của hệ thống Truyền Thanh Quốc Gia, nên cả trại chỉ còn mình tôi. Phần lớn đồng nghiệp với tôi đã trở về sớm hơn, có đứa vào năm 1986 đã tốt nghiệp đại học ở Mỹ và làm lại cuộc đời rồi.

Anh cả Phan Văn Huấn quí tôi nên thường mời tôi tham dự những bữa cơm đoàn kết cùng với một số các sĩ quan thuộc cấp của Biệt Cách Dù/LLÐB cùng bị giam ở trại Z-30A. Ở đội rau xanh, tới giờ nghỉ giải lao, chúng tôi thường tụ tập hút với nhau điếu thuốc lào, nói dóc hay kiếm ếch nhái để “cải thiện”. Riêng anh cả Huấn thì không nghỉ, anh dùng giờ giải lao để chăm bẵm một giàn mướp và vài bụi mồng tơi ở bên cạnh “lãnh thổ” của đội rau xanh. Viên cán bộ quản giáo, còn một chút hiểu biết, nên cũng dễ dãi cho phép tù “cải thiện”. Mỗi đợt thu hoạch, anh Huấn hái về năm bảy trái mướp vừa độ, vài nắm lá mồng tơi. Về trại anh chia đều cho những sĩ quan thuộc cấp.

Ngày Chủ Nhật, trại nghỉ lao động là dịp anh biểu diễn tài nấu nướng khi còn quà thăm nuôi. Anh mời hết đồng đội trong Biệt Cách Dù có mặt ở trại và một vài vị tiền nhiệm của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù. “Tiệc” chỉ là cơm gạo sấy, canh mồng tơi, mướp bỏ vào vài con tôm khô, chút bột ngọt, đôi khi có chút thịt kho mặn... Vậy mà thần tiên hơn bất cứ bữa tiệc nào mà tôi đã dự ở Hoa Kỳ này. Ăn xong, nhấp chút trà, hút với nhau vài điều thuốc lào rồi chia tay, mỗi người có việc riêng của mình. Sau đó, anh lui cui rửa chén, bát, xếp lại “đồ nghề”. Không ai trong số người dự được quyền làm công việc này thay anh. Có người tranh, anh nói: “Tôi là chủ nhà, các vị là khách”. Khi nghe anh đổi ngôi thứ một cách trịnh trọng, chúng tôi hiểu là anh cương quyết giữ một hình ảnh: bây giờ không còn là thượng cấp và thuộc cấp nữa mà là tình chiến hữu, huynh đệ chi binh nặng hơn. Cũng chính vì chỉ còn tình cảm này mà khi anh than phiền nhẹ nhàng một điều gì đó, chúng tôi hiểu rằng, anh ra lệnh “các cậu đừng... như thế nữa”. Tôi nghĩ rằng, tư cách đàn anh của anh lúc đó mạnh và có ảnh hưởng hơn những lúc anh còn binh quyền.

Có một lần vào ngày đầu tuần lễ, tôi bị bệnh được cho nghỉ nằm nhà. Anh Huấn được gọi ra thăm gặp gia đình. Bốn mươi phút sau, anh cả trở vào gọi tôi sang và dúi vào tay tôi những tờ giấy gói hàng. Ðó là những tờ báo của tờ Tuổi Trẻ mà gia đình khéo léo bọc ngoài những món đồ khô. Chúng tôi tập họp lại thành một số báo để đọc cho đỡ ghiền, vì ngay từ thời đó, tờ báo này vẫn là thứ cấm được mang vào trại. Giỏ quà thăm nuôi của anh gồm rất nhiều gói nho nhỏ, mỗi thứ một chút: một ít mắm ruốc kho với tóp mỡ, chút ít cá khô chà bông, ít mì vụn, một hũ nhỏ nước mắm kho quẹt, ít thịt heo băm nhỏ rim mặn, ít ruốc sả theo kiểu Huế... Phía trong mỗi gói đều có một mảnh giấy với vài hàng chữ. Anh cho tôi đọc một lá thư, ngắn ngủi nhưng chứa đựng một tấm lòng thương kính của gia đình quả phụ tử sĩ đối với anh. Chỉ đọc lá thư đầu để trong một gói mắm ruốc kho với tóp mỡ, nước mắt tôi đã trào ra. Chữ nguệch ngoạc bằng bút chì trên một miếng giấy kẻ ô đã vàng xé ở đâu đó: “...Gia đình em, cha mẹ của cố binh nhất.. kính thăm đại tá. Chỉ có chút quà nhỏ do lòng thành của gia đình gởi biếu đại tá dùng lấy thảo. Vẫn nhớ đại tá và mong đại tá khỏe mạnh, sớm về với gia đình...” Tôi tiếc là không thể nhớ hết được nội dung của những lá thư ngắn ngủi kèm theo gói nhỏ đạm bạc, nhưng đầy ắp tình thương và quí mến của gia đình tử sĩ Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, dù rằng, vào lúc đó đại gia đình này đã tan đàn, sẻ nghé. Trường hợp như người anh cả của gia đình Biệt Cách Dù không phải là số nhiều. Nó chứng tỏ rằng, trong thời chiến, cựu Ðại Tá Phan Văn Huấn đã hành xử đúng vai trò người anh cả trong một đại đơn vị chiến tích lẫy lừng ấy. Trận mạc gan lì nhưng trái tim ông đầy lòng nhân ái, sống gắn bó với những người lính của mình, chia sẻ những mất mát không gì bù đắp được của các gia đình tử sĩ, cô nhi quả phụ.

Trong trại, chưa bao giờ anh cả Huấn là một người tỏ ra giận dữ về những trò hành hạ của người thắng trận đối với cá nhân anh. Anh nói: “Họ thắng thì muốn nói gì, muốn làm gì cũng được, có sao đâu mà phải giận dữ. Hãy cố gắng chia sẻ với nhau những khốn khó và đứng thẳng lưng. Chúng ta sẽ thua trận cuối cùng này nếu chúng ta cúi đầu vì những trò hành hạ của họ”. Lời lẽ anh giản dị, nhưng trong đêm khuya thanh vắng, nằm trong buồng giam nghĩ lại thấy thấm thiá nhưng có “chất” để cho niềm tin vào chính nghĩa lớn hơn.

Anh cả được trở về với gia đình sau tôi vài tháng. Một người họ hàng với mẹ tôi là phụ huynh của một thương binh trước đây là lính của anh cho tôi biết, anh sống khó khăn và việc tìm cách đến thăm có thể làm cho mối hoài nghi của bọn công an phường gia tăng thêm. “Cậu đến thăm chắc ông ấy vui lắm, nhưng chị thấy là nên tránh cho ông ấy”. Bà chị họ tôi nói như vậy. Tôi đi định cư ở Mỹ trước anh cả Huấn. Cơm áo nặng nề quá trong những năm mới tới không cho tôi nhiều thời gian nghĩ ngợi về chuyện tù đày. Rồi một hôm, đang ngồi làm việc ở tòa soạn của nhật báo Viễn Ðông của anh Nguyễn Ðức Quang, thì anh cả Huấn đẩy cửa bước vào. Tôi nhận ra anh ngay và chào kính. Vẫn nụ cười, anh cho tôi biết qua về đời sống hiện tại của anh ở Mỹ. Anh nói: “Lớn tuổi rồi, nhưng anh vẫn OK. Có chuyện này nhờ Ánh”. Chuyện anh nhờ thực ra anh không cần nhờ, tôi cũng có bổn phận phải làm. Ðó là một thư mời họp mặt Gia Ðình 81 Biệt Cách Dù/LLÐB. Anh cả Huấn nói: “Bây giờ anh ngồi nhà, làm công việc kêu gọi anh em ở đây trợ giúp những người trong Gia Ðình 81 còn kẹt và gia đình quả phụ tử sĩ. Khó đấy, nhưng cố gắng tới đâu hay tới đó”. Tôi được hân hạnh tham dự họp mặt của Gia Ðình 81 Biệt Cách Dù, nhưng các lần sau đó thì không còn cơ hội. Năm nay, một phụ tá của anh cả Huấn đến đưa một thiệp mời và bản mới in của tuyển tập “Ðời Chiến Binh” mấy ngày trước Chủ Nhật 8 Tháng Bảy. Tôi kẹt trong ngày này ở một nơi ngoài quận Cam thành thử không đến chào kính anh và các vị cựu sĩ quan Biệt Cách Dù từng cùng anh vào sinh ra tử suốt trong cuộc chiến dài đằng đẵng cũng như đã từng chia sẻ với anh những nhọc nhằn trong những trại giam.

Tuyển tập “Ðời Chiến Binh” dày tới 539 trang, bìa rất đẹp với hình bìa sau là hình chụp Nghĩa Trang Biệt Cách Dù tại An Lộc năm 1972 với đề chữ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Nhưng thực ra, nổi nhất ở khu nghĩa trang này là chữ đề của một nữ giáo chức:

“An Lộc địa sử ghi chiến tích

Biệt Các Dù vị quốc vong thân”

Việc hình thành khu nghĩa trang này là cả một lịch sử được viết bằng máu và tình huynh đệ tương thân. Chúng ta hãy đọc một đoạn trích từ bút ký “Nhớ Về An Lộc” dưới bức hình: “Ðây là nghĩa trang Biệt Cách Dù trong thị xã An Lộc, với những ngôi mộ mà chúng tôi đã đắp lên cho bạn bè bằng tất cả tình huynh đệ thân thương... Có những đêm mưa tầm tã, lẫn lộn với pháo rơi, chúng tôi đã phải mò mẫm từng tấc đất trong bóng đêm để bới những cái hố nhỏ chôn mình tránh pháo rồi mới đào những huyệt lớn để chôn xác bạn bè sau đó...”

Ðọc “Ðời Chiến Binh”, chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh của những cây tùng trước bão tự thân kể lại những kỷ niệm của thời chinh chiến. Mà nói đến chinh chiến thì có được có thua. Nhưng khi đọc lại những kỷ niệm của những người lính trận Biệt Cách Dù, chúng ta sẽ thấy rằng, được thua đều có những cách nhìn khác nhau, nhưng tổ quốc, danh dự và trách nhiệm chỉ có một cách để diễn tả.

Trước khi đọc “Ðời Chiến Binh”, tôi đã đọc “Cây Tùng Trước Bão” của nhà văn Hoàng Khởi Phong nhiều lần. Nhưng đoạn văn ngắn tạo cho tôi một ấn tượng mạnh nhất vẫn là đoạn tôi xin phép được trích thuật dưới đây:

“Trong ánh sáng và bóng tối của một ngày vừa tàn và đêm đang tới, tôi mơ hồ nhìn thấy ông trong bộ quân phục. Cái mũ kết trên đầu ông có một cái khiên và trong cái khiên này, tôi nhớ có hình chạm nổi của một con chim đại bang và một hàng chữ: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm. Ðó là 3 tín niệm mà một sĩ quan phải đội ở trên đầu. Không hiểu xưa kia và bây giờ, trong chúng ta đã có bao nhiêu người còn nhớ? Bao nhiêu người đã quên? Qua kính chiếu hậu, tôi nhìn thấy ông trở vào trong nhà. Lưng thật thẳng, mặt ngước cao, ông có dáng của một cây tùng chẳng cong lưng khi gặp bão”.

Vâng, đó chính là hình ảnh đích thực của anh cả Phan Văn Huấn và những đồng đội của anh trong Gia Ðình 81 Biệt Cách Dù/LLÐB. Tới nay, dù tuổi đã cao, họ vẫn sống như những người lính đích thực của thời còn trận mạc. (V.A.)

Chú thích: *Mượn nhan đề của tác phẩm “Cây Tùng Trước Bão” của nhà văn Hoàng Khởi Phong
.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Bụi Ðỏ Ngày Xưa

"Nơi quê hương nghe lòng đà khắc khoải;
Tên quê nhà ai lại gọi ra;
Âm vang tê tái lòng ta"
Hôm nay, chợt nghe có người nhắc đến địa danh của quê tôi, lòng chợt se thắt lại. Sự nhắc nhở không phải như một lời giới thiệu bình thường về một danh lam thắng cảnh của Việt Nam; nhưng là gợi lại một quá khứ đau buồn của những ngày tàn khốc trong cuộc chiến. Nơi tôi ở là một tỉnh lỵ nhỏ bé vùng biên giới, thuở thanh bình người dân sống đơn sơ bình thản gắn bó với nhau, gắn bó với núi rừng, nhất là rừng cao su ba mùa xanh ngát, riêng mùa Đông thì lá rụng trơ cành, chờ mùa Xuân sang lại đâm chồi nẩy lộc.
Image
Mùa Xuân năm 1972, rừng cao su vừa chuẩn bị thay lá thì "Mùa hè đỏ lửa" lan tràn khắp trên quê hương đất đỏ . "An Lộc chiến trường đi không hẹn", nhưng đổ nát, tang thương và chết chóc đổ ập xuống trong nỗi kinh hoàng của người dân hiền hòa An Lộc. Rừng cao su không ra lá được, nên màu xanh của sự sống không còn, Đất đỏ quê tôi đẵm thêm màu máu, nên càng đỏ thêm mà trong đó có cả máu của tôi. Trong chiến trận mùa hè 1972, tôi đã chứng kiến biết bao nỗi kinh hoàng khủng khiếp, không ngờ chiến tranh lại tàn bạo đến như vậy, biết bao sinh linh vô tội đã gục chết trên đường chạy loạn, hay trong hầm tối tránh những cơn mưa pháo. Cái chết đến thật dễ dàng, không kịp suy nghĩ, không kịp sợ hãi, và không kịp trốn chạy. Vừa nhìn thấy nhau, ngoái đầu nhìn lại thì đã có kẻ gục ngã bên đường, đôi quang gánh chạy loạn vẫn đè trên vai. Cái chết xuất hiện ở mỗi xó xỉnh trong thành phố, và người dân thì chạy quanh quẩn trong nỗi kinh hoàng sợ hãi. May mắn thay, chúng tôi đến được chỗ đóng quân của LĐ 81BCD. Gia đình tôi cùng một số đồng bào đã được các chiến sỹ BCD che chở, bảo bọc trong suốt thời gian chiến trận tại đây. Các anh đã chia sẻ từ miếng cơm manh áo, chăm sóc y tế cho những người yếu đau hoặc bị thương trên đường lánh nạn. Người dân An Lộc đã vô cùng cảm kích và luôn ghi ơn những chiến sĩ can trường của QLVNCH, mà trong đó hình ảnh oai hùng của các chiến binh Biệt Cách Nhẩy Dù đã khắc sâu trong lòng người dân An Lộc.
Image
Riêng tôi, trong một lần có dịp về thăm lại quê hương, tôi đã trở về An Lộc, để mong tìm lại một chút dư âm của những ngày ly loạn khó quên, và nhất là được quỳ xuống trước nghĩa trang của 68 anh hùng BCD đã "Vị Quốc Vong Thân", để tưởng nhớ và thắp lên một nén nhang truy điệu. Tôi đã không cầm được nước mắt khi thấy cảnh xưa đã đổi thay! Nghĩa trang xưa, nơi biểu tượng cho lòng trung liệt nay đã biến thành nơi thị tứ. Lũ "vô thần" đã hận thù, đào sới hài cốt các anh đem đổ ngoài cổng Xa Cam. Lòng buồn bã thê lương, tôi tìm đến cổng Xa Cam, trước mặt tôi chỉ có rừng cao su u buồn lặng lẽ, những con đường đất đỏ bụi mờ, những con đường mà ngày xưa tôi đã cùng chúng bạn tung tăng chạy nhẩy cho bụi đỏ tung bay, những con đường mà ngày xưa dân An Lộc đã kinh hoàng trốn chạy, những con đường đã thấm máu xác thù và xác bạn, tôi thầm thì khấn nguyện cho hương hồn các anh, những anh hùng dân tộc, cho hương hồn của tất cả những người Việt Nam đã tử vong trong cuộc chiến tương tàn thảm khốc, cho Tổ Quốc tôi sớm thoát khỏi đời sống ngục tù.

Hôm nay ở nơi xứ người, mỗi lần có ai nhắc về An Lộc, lòng tôi lại dâng lên biết bao nỗi cảm xúc. Hình ảnh một quê hương điêu tàn đổ nát, hình ảnh oai hùng của các chiến binh QLVNCH, đặc biệt là các anh trong LĐ 81/BCND. Các anh đến rồi các anh lại ra đi, có biết cho chăng là các anh đã mang theo rất nhiều "bụi đỏ" của An Lộc ngày xưa . . .
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Người lính miền Nam và cuộc chiến cũ

Mũ xanh Phạm đình Tiến

Ngày quân lực 19-6 năm nay được tổ chức trễ hơn thường lệ tại đia phương Dallas- Fort worth vào ngày thứ bảy 23-6-07 tại thành phố Arlington Texas. Lý do là để cùng kết hợp với buổi ra mắt “Phong trào giáo dân đòi trả tên SàiGòn”với sự hiện diện của linh mục Nguyễn hữu Lễ, người sáng lập phong trào cùng chiến hữu Hải Quân Trần quốc Bảo trưởng ban điều hành. Buổi lễ được số người tham dự ít hơn mọi năm vì đa số còn bận đi làm và một số người khác trong hai Cộng đồng, Liên hội chiến sĩ, truyền thông báo chí đang tham dự ngày diễn hành quốc tế “Ða văn Hóa” tại Newyork, sau khi đã hòan thành cuộc biểu tình lịch sử “Chống phái đòan đảng CSVN do chủ tịch nước Nguyễn minh Triết cầm đầu”tại tòa Bạch Ốc Washington DC. Nghi thức khai mạc buổi lễ do Liên hội chiến sĩ VNCH tại địa phương điều hành và phần ra mắt Phong Trào Giáo Dân thì do đoàn thanh niên Hồn Việt trình bày.

Linh mục Nguyễn hữu Lễ, người nặng tình với quê hương dân tộc qua câu nói để đời đáng suy ngẫm: “Trước khi làm Linh mục, tôi là một người Việt Nam”.
Vì là người Việt Nam, nên ông đã mạnh dạn gióng lên tiếng nói:”Hỡi đồng bào Việt Nam trong nước và trên tòan thế giới! Không lẽ nào Dân tộc Việt Nam kiêu hùng tiếp tục cúi đầu cam tâm chịu nhục, trước hành vi bạo ngược của một tập đòan chính trị đã đặt quyền lợi của đảng lên trên Dân Tộc và ngang nhiên chà đạp giá trị tinh thần của Dân Tộc hay sao?”

Lịch sử đã chứng minh : “Triều đại nào rồi cũng qua đi, chế độ nào rồi cũng sẽ sụp đổ, chỉ có Dân Tộc là trường tồn”.

Ngày 2-7 năm 1976 sau hơn một năm cưỡng chiếm miền Nam. Quốc hội bù nhìn khóa 4 của chế độ CS đã ra nghị quyết đổi tên thành phố Sàigòn- Gia Ðịnh là thành phố Hồ chí Minh. Ðây là một hành động vô cùng thô bĩ do Trường Chinh, chủ tịch Quốc hội CS ký và ban hành. Với sự việc nầy, chúng muốn xóa sổ hình ảnh một thủ đô SàiGòn xinh đẹp của Chính phủ Tự Do miền Nam, một thành trì chống Cộng của tòan vùng Ðông Nam Á.

Là con dân Việt Nam, chúng ta có quyền đòi hỏi kẻ cướp phải trả lại những gì mà chúng đã lấy cướp đi, trong đó có biểu tượng thiêng liêng của thành phố Sàigòn, thủ đô miền Nam, một thời là “Hòn Ngọc Viễn Ðông”của cả dân tộc. Ðây là một trong những việc đấu tranh hợp lý mà chúng ta cần nuôi dưỡng, phát huy, và tiếp tục, song hành với các phong trào đấu tranh đòi Tự Do, Dân Chủ của người dân trong nước.

Trang sử Việt Nam Cộng Hòa đã bị lật qua, cùng với một lực lượng quân đội hùng mạnh. Chúng ta, những chiến sĩ QLVNCH một thời xông pha lửa đạn, hơn 250 ngàn đồng đội đã hy sinh vì Tổ Quốc trong cuộc chiến bảo vệ Tự Do cho miền Nam suốt hơn 20 năm. Chúng ta đã tận lực chiến đấu, đem xương máu mình để bảo vệ mảnh đất cha ông, trước sự xâm lăng thô bạo của chủ nghĩa CS tòan cầu.Tuy chưa tròn phận sự vì vận nước nổi trôi, chúng ta không thành công nhưng chúng ta cũng đã thành nhân. Như một văn hào đã nói: “Những cái chết cho Tổ Quốc, chỗ xứng đáng nhất là .. đặt trên bàn thờ”.Vinh quang thay cho những người đã anh dũng nằm xuống vì lý tưởng Tự Do cho tổ quốc và dân tộc của mình.

Bên cạnh những phong trào lợi dụng phương tiện truyền thông phản chiến, may thay, chúng ta còn không ít người còn chút lương tâm, Jean Lacouture một nhà báo Pháp đã rơi nước mắt khi tường thuật lại những gì ông đã tận mắt chứng kiến tại mặt trận Xuân Lộc trong những giờ phút sau cùng. Những người lính của sư đòan 18 Bộ binh, bằng hết sức mình đã đánh những trận đánh tuyệt vời, trong những giờ phút cuối cùng hấp hối của miền Nam. Ông đã phải thốt lên “Cái Quân lực đó quả thật gan dạ và anh hùng. Họ chiến đấu vô cùng ngọan mục và tôi thật lòng kính phục!” Hơn 20 năm ròng rã chiến đấu khốc liệt, có khi hai bên chỉ để giành giật nhau từng cánh rừng, dòng sông, con đường, gốc phố. Anh em bà con dòng họ tìm kiếm nhau để chém giết, bằng sức mạnh và vũ khí ngọai bang. Ðể rồi kết quả sau cùng Người lính miền Nam buộc phải thua trận, bị thua mà không biết vì sao mình phải thua? Còn kẻ chiến thắng thì bàng hòang ngơ ngác, cũng không biết tại sao mà mình có thể chiến thắng nhanh, và quá dễ dàng như vậy!

Cuộc chiến của chúng ta vừa qua là một cuộc nội chiến, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa điều thiện và cái ác, mọi thắng bại trên chiến trường chẳng có giá trị gì khi mà quyền quyết định nằm trong tay các thế lực ngọai bang. Người Mỹ và các nước bạn Ðồng Minh một khi đã không còn tìm được bất cứ lợi lộc nào nữa, và vì quyền lợi tư riêng của quốc gia bản xứ, nên sẵn sàng rút bỏ những chiến hữu, đồng đội mình không do dự, không thương tiếc. Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử, bị bán đứng bằng một hiệp định ngưng bắn buộc phải ký tại Paris vào ngày 28-1-73. Ðừng bao giờ đem thành bại luận anh hùng, sự thất bại trong quá khứ là là tích lũy mọi thành công của tương lai, vì ai chiến thắng mà không hề chiến bại! Có nhiều người bi quan mà hỏi rằng: “Chúng ta hôm nay còn gì nữa để mà đấu tranh, trong khi CS đang nắm quyền cai trị đất nước, được các tổ chức quốc tế công nhận?” Xin thành thật trả lời:


- Chúng ta còn, còn nhiều thứ lắm, trong đó có lòng tự hào về một dân tộc anh hùng, về những đồng đội đã anh dũng hy sinh.
- Chúng ta còn sĩ khí của một tập thể quân đội kiêu hùng đã từng làm nên nhiều chiến thắng lịch sử.
- Chúng ta còn niềm kiêu hãnh về những cái chết oanh liệt của các tướng lãnh chỉ huy.
- Chúng ta còn đầy đủ chính nghĩa để tiếp tục trách nhiệm chưa hòan thành đối với quốc gia dân tộc.


Ngày nào chế độ CS còn là ngày đó chúng ta còn chiến đấu, vì chính nó là nguyên nhân của sự nghèo đói, lạc hậu, điêu đứng, lầm than của cả dân tộc chúng ta. Cuộc chiến chống chủ nghĩa CS Việt Nam của chúng ta chưa chấm dứt, nó vẫn còn và hiện đang tiếp tục một cách khốc liệt hơn, không phải bằng vũ khí mà bằng hình thức đàn áp, giam cầm, bịt mồm, bịt miệng người dân một cách dã man mà trong lịch sử dân tộc chưa có chế độ nào tàn tệ như thế.
Người chiến sĩ miền Nam chưa bao giờ nhận được lệnh giải ngũ, và vì vậy mỗi một chúng ta cần phải tiếp tục bổn phận và trách nhiệm của mình, dù sức tàn lực kiệt cũng phải chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng ta không được phép đứng bên ngòai cuộc đấu tranh vì Tự Do, Dân chủ của dân tộc. Ðào ngũ trong lúc nầy là khiếp nhược, hèn nhát, không xứng đáng là một chiến sĩ QLVNCH.

Hơn 32 năm cai trị người dân theo chủ nghĩa Marx- Lenin và “Bác Hồ vĩ đại”, là hơn 32 năm người CS đưa đất nước đến chỗ diệt vong. Hơn 32 năm bần cùng hóa nhân dân theo một chủ thuyết không tưởng. Những lãnh tụ gian ác già nua đã chết đi lại được thay vào những thành phần trẻ khát máu, để tiếp tục củng cố một chế độ chẳng thuận lòng người. Cả khối quốc tế CS thay nhau sụp đổ, chỉ còn một vài nước lạc hậu lỗi thời. Bất hạnh thay cho dân tộc chúng ta, nước Việt Nam vẫn còn nằm trong danh sách đó.

Nhiều chính trị gia đã từng nói, sự lừa dối là thứ thuốc phiện của chủ nghĩa CS. Chúng lừa dối người lẫn mình, bưng bít thông tin để lừa người trí thức, nói láo với nông dân để nâng họ lên tận trời xanh, tâng bốc người ít học để họ làm điều ác, con lên án cha mẹ, vợ đấu tố chồng để rồi sau khi đạt được mục đích tất cả đều trở thành vật hy sinh, bị chính con người CS thanh trừng giết hại chẳng gớm tay. Chế độ CS cai trị người dân bằng vũ lực như lời khẳng định của Mao trạch Ðông: “Súng đạn đẻ ra chính quyền, hay quyền lực đặt trên nòng súng”.

Người CS huênh hoang chiến thắng miền Nam bằng hình ảnh “Có O du kích dương cao súng, thằng Mỹ lom khom bước cúi đầu”, để rồi bây giờ đây hết thủ tướng Phan văn Khải, rồi mới đây chủ tịch Nguyễn minh Triết sang cầu cứu van xin Mỹ để tiếp tục củng cố chế độ bạo quyền Chuyến đi ô nhục nầy sẽ để lại muôn đời trong ký ức mỗi người dân Việt Nam với tất cả niềm đau dân tộc. Trước chuyến đi vỏn vẹn mấy ngày, đã bị tổng thống Goerge W Bush dằn mặt bằng cách tiếp đón hội kiến các nhà đấu tranh Dân Chủ trong nước cũng như tại hải ngoại, ngay cả việc đòi dẹp bỏ rút lại lời mời của phó tổng thống Dick Cheney. Trong một bức thư hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ gửi nhà đấu trong nước Ðỗ nam Hải ngày 25-5-07, đã ca ngợi những hành động dũng cảm mà các nhà đấu tranh đã và đang làm của phong trong trào 8406 vì dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Trên đường đi dự hội nghị G-8, vào ngày 05-06-2007 khi dừng chân tại thủ đô Praha Tiệp Khắc, trong bài diễn văn về Dân chủ, Nhân quyền, tổng thống Bush đã long trọng cam kết là Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ nhân dân các dân tộc bị áp bức, những chiến sĩ dân chủ đang bị giam cầm là những nhà yêu nước, chính họ sẽ là những nhà lãnh đạo đất nước trong tương lai, đã nhiều lần nhắc đến và đòi trả tự do ngay cho bà Aung San Suu Kyi và Linh mục Nguyễn văn Lý. Ông hãnh diện để nhận mình là vị tổng thống của các nhà bất đồng chính kiến vì tự do dân chủ trên tòan thế giới. Cũng chưa hết, trong lễ khánh thành tượng đài kỷ niệm nạn nhân CS tòan thế giới ngay trên đồi Capitol, đúng một tuần lễ trước khi Nguyễn minh Triết đến, cũng chính tổng thống Bush lên án chế độ CS tòan cầu, đã giết hại hàng triệu người trên toàn thế giới, trong đó không quên nhắc đến chế độ CS Việt Nam. Ðồng quan điểm với hành pháp Hoa Kỳ, chủ tịch Quốc hội, bà Nancy Pelosi và các vị dân cử đồng viện, cũng đã có cuộc hội kiến gấp với các nhà đấu tranh dân chủ hải ngoại, để lắng nghe tìm hiểu sự thật về hiện trạng đàn áp dữ dội tại Việt Nam, đặc biệt qua bức hình “bịt miệng không cho nói” trong phiên tòa trá hình ngày 30-3-07 của Linh mục Nguyễn văn Lý.

Với những chuẩn bị kỹ lưởng như vậy của nước chủ nhà, người khách bất đắc dĩ Nguyễn minh Triết đứng trước một hòan cảnh khó xử, tiến thối lưỡng nan, không còn con đường nào khác hơn thôi thì đành xâm mình, chịu đấm để ăn xôi vậy. Là chủ tịch đại diện cho một quốc gia được nước chủ nhà mời đến, nhưng bị coi thường về những việc làm gian ác không thuận lòng người, nên đã bị khinh rẻ xấu hổ vô cùng. Không có 21 phát súng chào mừng, không có cờ xí, không dạ tiệc thiết đãi, không có thông cáo chung sau cuộc hội kiến, phải trốn chui, trốn nhũi, trước sức mạnh của cuộc biểu tình phản đối, lên án, bởi hàng ngàn người đồng hương của mình, phải đi vào bằng cửa hông, cửa hậu. Chưa hết, trong suốt buổi gặp gỡ trao đổi, đã bị vị chủ nhà quay như quay dế, rất nhiều câu hỏi tại sao được đặt ra. Tại sao muốn phát triển kinh tế, muốn nước giàu dân mạnh mà không tôn trọng nhân quyền, tại sao bắt giữ những người chỉ vì họ đòi tự do, dân chủ? Tại sao?.. tại sao?. “Tôi cũng nói rõ ràng là nếu muốn quan hệ giữa hai bên phát triển sâu hơn, một điều quan trọng là các người bạn (Việt Nam) của chúng ta phải cam kết mạnh mẽ hơn trong vấn đề nhân quyền và tự do, dân chủ. Tôi đã giải thích niềm tin tưởng mạnh mẽ của tôi là các xã hội sẽ phong phú hơn lên nếu nhân dân được phát biểu tự do và tín ngưỡng tự do”( tổng thống George W. Bush).

Tha hương ngộ cố tri, lần nầy không thể dành cho chủ tịch Nguyễn minh Triết. Từ Wasington đến Newyork về miền Nam California, nơi nào cũng có hàng ngàn người vẫy cờ quốc gia đả đảo ông và gần 200 người trong phái đòan tùy tùng. Người ngọai quốc sẽ nghĩ sao khi người dân Việt Nam biểu tình phản đối một vị nguyên thủ quốc gia cũng là người Việt Nam, nhưng họ không chấp nhận người đó xứng đáng đại diện cho mình. Làm sao trả lời trước công luận quốc tế về những bưng bít thông tin, về chuyện thay nhau ăn cướp tài sản nhân dân, về chuyện cắt đất dâng biển, triều cống Trung Quốc, buôn bán thân xác phụ nữ, trẻ em, xuất khẩu lao động làm tôi tớ nước ngoài, và nhất là khống chế đàn áp các phong trào đòi Tự do, Dân chủ.

Ðể khỏi bị ngượng miệng chỉ còn cách trả lời chống đỡ :“Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn tồn tại một số ý kiến khác nhau, về quan niệm và phương thức đảm bảo quyền con người là điều bình thường do hòan cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa và tập quán khác nhau. Sự khác biệt nầy là rất nhỏ so với lợi ích chung và tiềm năng hợp tác rộng lớn giữa hai nước”. Dầu là kẻ ngu dốt nhất, ai cũng phải biết thế nào là nhân quyền, đã là quyền con người thì bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng đều giống nhau, trừ khi đó là xã hội loài vật, nếu khác nhau thì làm sao có bản “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền Liên Hiệp Quốc”. Không gì trơ trẽn bằng khi cố chối quanh là ở Viêt Nam không có chuyện đàn áp bắt bớ người dân, không có tù chính trị, tất cả người đã bị giam giữ đều phạm tôi hình sự, họ đã vi phạm điều luật do nhà nước quy định, và việc bắt giữ xử lý họ là điều đúng theo hiến pháp. Thế thì tại sao bịt miệng cha Lý trước phiến tòa không cho phát biểu. Trong một thư gửi cho cụ chủ tịch Nguyễn minh Triết của tòa Giám mục Nha Trang đề ngày 7-7-07 Cha Phaolồ Nguyễn văn Hòa thay mặt hội đồng Giám mục Việt Nam đã phản đối việc tờ báo Tuổi Trẻ đã ghi lại câu trả lời của cụ với đài CNN Hoa Kỳ về vụ xử Cha Lý “Hội đồng Giám mục Việt Nam và tòa thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi” là không đúng sự thật . Cuối cùng rồi Sự Thật cũng được nói ra.

Ðã là người Việt Nam dù trong nước hay tại hải ngoại, không ai có thể không ứa lệ trước nghĩa cử bất khuất, can đảm, giàu lòng yêu nước của nữ luật sư Lê thị Công Nhân. “Sống thế nào thì sống, phải giữ lòng tự trọng và lương tâm của mình. Ðồng bào ơi! Hãy cứu lấy tôi, bọn công an CS sắp bắt tôi rồi, tôi không bao giờ thỏa hiệp, chứ đừng nói chuyện tôi đầu hàng. Tôi sẽ không bao giờ đầu hàng dù chỉ còn một mình tôi chiến đấu”. Có lời nói nào cao đẹp và cảm động hơn lời nói nầy trước những ngày cuối cùng em bị bắt. Ngòai bức ảnh lịch sử CS bịt miệng cha Lý, chúng ta thấy gì nơi những nụ cười ngạo nghễ thách thức của bác sĩ Lê nguyên Sang với hai tay bị cùm khi bị các tên công an dẫn đi. Nguyễn Phong, Nguyễn bình Thành, Nguyễn bắc Truyền, Nguyễn văn Ðài, Lê thị Công Nhân, Hòang thị Anh Ðào... những người con yêu quý của tổ quốc vẫn bình thản, hiên ngang đi vào nhà tù nhỏ để dân tộc sớm thoát khỏi nhà tù lớn.
Hành động biểu tình phản đối vừa qua là một nghĩa cử phải làm của cả tập thể Người Việt Quốc gia, để tỏ tấm lòng biết ơn và chia xẻ những đau đớn mất mát mà những người đấu tranh đang gánh chịu, theo tinh thần: “Máu chảy ruột mềm, một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Như lời khẳng định của giáo sư Nguyễn Chính Kết “Ðồng bào hải ngọai biểu tình chống CS càng nhiều, thì trong nước các chiến sĩ đấu tranh càng ấm lòng chừng nấy”. Chúng ta sẽ không bao giờ từ bỏ bất cứ cơ hội nào để “Ðả đảo bọn CSVN”, bao vây và rượt đuổi chúng cho đến tận sào huyệt cuối cùng, đòi chúng phải thả ngay không điều kiện những nhà đấu tranh dân chủ mà chúng đang giam giữ, đừng dùng những người yêu nước Việt Nam như một món hàng trao đổi, mua bán để chế độ được sống còn.
Chủ tịch Nguyễn minh Triết cùng phái đoàn tùy tùng đã về lại trong nước. Ðã có quá nhiều bàn tán, xôn xao về chuyến đi nầy. Phía CS thì cho rằng họ đã kết thúc một chuyến đi thành công, còn Người Quốc Gia thì cho rằng một chuyến đi đầy tủi nhục. Mặc dầu dưới áp lực của Hoa Kỳ và dư luận, họ vẫn ù lỳ bảo thủ lập trường cố hữu, dù tổng thống Bush hay bà chủ tịch quốc hội Nancy Pelosi hoặc các vị dân biểu, kêu gào phải thả ngay vô điều kiện các nhà bất đồng chính kiến mà hàng đầu là linh mục Nguyễn văn Lý , họ vẫn không nghe. Họ hứa trả tự do cho 3 nhà đấu tranh dân chủ, được quốc tế quan tâm trước chuyến đi. Nhưng rồi họ chỉ thả 2, chẳng những thế còn tiếp tục bắt thêm nữa. Họ ngang nhiên chà đạp, thách thức trước công luận Quốc tế.

Trên thế giới nầy, trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại cho đến bây giờ, tự do, dân chủ chưa bao giờ xin mà có, chờ mà được. Không có thứ Nhân quyền nào mà người ngọai quốc mang đến cho dân tộc mình. Việc hỗ trợ bên ngòai là cần thiết, nhưng không quan trọng bằng chính lòng dân.

Nhà cầm quyền CSVN đang ngồi trên đống lửa về nhiều cuộc biểu tình khiếu kiện của người dân. Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN đang có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Chúng đã đẩy người dân đến bước đường cùng và giờ đây không ai còn sợ hãi nữa. Không những chỉ các bà Mẹ chiến sĩ, những người có công với “Cách mạng” mà ngay cả những người dân Việt Nam Cộng Hòa, từ một nhóm nhỏ vài ba chục người nay đã lên đến hàng ngàn người, khắp nơi tỉnh nào cũng có. Ða số họ bị cướp nhà, cướp đất, bị áp bức bất công bởi những cấp chính quyền địa phương tham nhũng. Từ trụ sở Quốc hội 2 tại Sàigòn đến vườn hoa Mai xuân Thưởng Hà Nội, thảm cảnh màn trời chiếu đất vẫn còn phải tiếp diễn dài dài. Ðã đến lúc chế độ bạo quyền không còn dám mạnh tay trấn áp.” Bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào, phong trào nhân dân đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền nếu nhà cầm quyền thống trị không diệt được trong buổi ban đầu thì sẽ trưởng thành trên tro tàn của chế độ thống trị.

Bên cạnh những thống khổ của người dân trong nước, bên cạnh những hào khí kiêu hùng của tiền nhân để lại cho những nhà đấu tranh trong nước. Bên cạnh nhiều tổ chức hội đòan đã hết lòng hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chung. Chúng ta còn thấy gì ở những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma CS. Tờ báo Việt Weekly tại nam Cali đã điên rồ ca tụng chế độ CS và suy tôn thần tượng gian ác Hồ chí Minh. Một nhục tướng Nguyễn cao Kỳ bẩn thỉu tanh hôi xum xoe nịnh hót đòi xóa bỏ lằn ranh Quốc Cộng.
Một nhóm Quốc Gia Nghĩa Tử Heritage quỳ lạy van xin thỉnh cầu chế độ CSVN “Quý Ngài mở rộng lòng nhân ái cho phép chúng tôi được cơ hội trùng tu nghĩa trang Bình An để được đền ơn công sinh thành, dưỡng dục của cha anh chúng tôi. Nếu được sự chấp thuận, xin quý Ngài nhận nơi đây lòng biết ơn của chúng tôi. Kính chúc quý Ngài được dồi dào sức khỏe”.

Tại sao các em không thương và giúp đỡ người còn sống, các TPB lầm than khổ cực, những đồng đội của cha anh các em bị kẻ thù bạc đãi thậm tệ tại quê nhà. Các em nhỏ những giọt nước mắt “khô” vào thân xác của người chết để mưu toan ý đồ gì?

Các em có biết là các em đang tiếp tay để duy trì và bảo vệ một chế độ gian ác, theo đúng nghị quyết 36 về những “khúc ruột ngàn dặm”, xóa bỏ hận thù, nối gót hèn tướng Nguyễn cao Kỳ hay không? Những bức hình khúm núm trình thưa dạ bẩm của các em tại tòa đại sứ CS, trước một tên tà lọt vô danh tiểu tốt nào đó nằm chễm chệ trên bộ salon, đã được các báo CS trong nước đăng tải nhiều lần. Tại sao các em tự xưng là con cháu của các tử sĩ VNCH lại đi làm chuyện đó, các em có thấy nhục không? Các em có thấy mắc cỡ với những người trẻ đấu tranh trong nước, đặc biệt là nữ luật sư Lê thị Công Nhân không? Chỉ cần thôi không tranh đấu là cũng đã có một đời sống bình thường, chứ đâu quá tệ như các em! Với áo mão cân đai, các em đã làm một chuyện sai trái, là sỉ nhục vong linh những chiến sĩ anh hùng. Ai chỉ dạy các em làm như vậy? Các em có biết rằng bọn CS muốn xóa sổ nghĩa trang Quân Ðội lần cuối với cái tên dân sự “Nghĩa đia Bình An”, điều nầy có nghĩa rằng những tử sĩ VNCH nằm trong đó là những người dân sự, chết vì bệnh tật hay theo kiểu xe cán chó, chó cán xe. Chứ làm gì còn là “Nghĩa trang Bình An” mà các em xin xỏ để trùng tu! Người Cộng Sản cưởng chiếm miền Nam, cướp nhà cướp đất người dân, xua đuổi Thương bệnh binh VNCH ra khỏi cá quân y viện khi vết thương còn đang rĩ máu, phá tan hoang các Nghĩa trang tử sĩ VNCH, đào mồ cuốc mã để trả thù. Đây là lúc họ phải chính thức xin lỗi, bồi thường thỏa đáng, nếu họ muốn chúng ta quên đi quá khứ. Tại sao lại phải van xin, cám ơn họ! Các em có thấy nghịch lý không?

Hãy mở mắt mà xem những người dân cùng khổ, khố rách áo ôm, đang quyết tâm đấu tranh đòi lại quyền sống con người hiện đang diễn ra khắp nơi trong nước. Họ đâu có phải tự xưng là kỷ sư, bác sĩ như các em, trắng trợn ca ngợi lòng nhân từ của chế độ CSVN

Những người lính miền Nam đồng đội cha, anh, các em vẫn còn đây chưa chết hết, mặc dầu đã có một vài vì sao rơi rụng ở cuối cuộc đời. Những người đồng hành còn lại vẫn tiếp tục chiến đấu, vì cuộc chiến chống Cộng Sản của họ vừa qua chưa chấm dứt. Tại sao các em không tiếp tay cùng cha anh để hòan thành sứ mạng cao cả thiêng liêng đó, mà sớm vội quy hàng?

Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình tính sao
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi ! ( Nguyễn Du)

Ngày nào chế độ CS còn là ngày đó tòan dân Việt Nam còn chiến đấu. Nơi nào có CS xuất hiện là nơi đó có sự phàn đối, biểu tình của người lính VNCH. Dù bao lâu chăng nữa, người lính miền Nam vẫn phải tiếp tục cuộc chiến cũ của mình. Vì chủ nghĩa“Cộng Sản không thể nào thay đổi được, chỉ có tiêu hủy chúng đi thôi”(Boris Yelsin)
Danh tướng Mac- Arthur đã nói “Người lính già không bao giờ chết, chỉ mờ đi mà thôi”, và đó cũng là hình ảnh người chiến sĩ miền Nam Tự Do.
Đất nước còn đó ta còn đây.
Còn lòng dân là ta còn có ngày phục quốc

Arlington tháng 7-2007
Mũ xanh Phạm văn Tiền
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Nhân Ðại Hội 6 Biệt Cách Dù/LLÐB:
Nhớ lại kỷ niệm đắng cay trong giờ phút cuối cùng cuộc chiến
Người-81

Thủ đô VNCH trong những giờ phút cuối cuộc chiến, chỉ còn hai điểm kháng cự ở Ngã Tư Bảy Hiền và Lăng Cha Cả. Chẳng bao lâu sau đó, tiếng súng cả hai nơi không còn nổ nữa, anh em rời vũ khí và chia tay nhau mỗi người mỗi ngả.

Bộ chỉ huy 1 chiến thuật do Trung Tá Vũ Xuân Thông chỉ huy, bộ chỉ huy 2 chiến thuật do Thiếu Tá Nguyễn Sơn chỉ huy cùng với bộ chỉ huy Liên Ðoàn 81 do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy với quân số khoảng trên 2,000 quân nhân đang đóng quân ở phía Bắc phi trường Biên Hòa. Ngày 28 Tháng Tư năm 1975, lúc 12 giờ trưa, Ðại Tá Huấn được lệnh của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn gọi về Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III họp khẩn, nhưng Liên Ðoàn 81 không còn có trực thăng tăng phái ngày hôm đó và đường xe đến Bộ Tư Lệnh QÐ III không còn chạy được nên Trung Tướng Toàn đã cho trực thăng đến đón Ðại Tá Huấn về họp. Trung Tướng Toàn chủ tọa buổi họp với các sĩ quan gồm có Ðại Tá Lưu Yểm tỉnh trưởng Biên Hòa, Trung Tá Lô tiểu đoàn trường TÐ 7 Dù, Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy trưởng Liên Ðoàn 81 BCND và chừng 20 sĩ quan của Bộ Tư Lệnh QÐ III.

Trong phòng họp, không khí thật căng thẳng và hồi hộp. Trung Tướng Toàn nói: “Ngày mai 29 Tháng Tư chúng ta rút khỏi Biên Hòa để về phòng thủ tuyến Thủ Ðức, các đơn vị tuần tự rút lui, nhưng phải có trật tự không được lộn xộn như ở vùng I và vùng II. Liên Ðoàn 81 BCND là lực lượng đi sau cùng và có nhiệm vụ phá hủy chiếc cầu trên xa lộ Ðại Hàn gần phi trường Biên Hòa”.

Sau khi họp ở QÐ III về, đêm 28 Tháng Tư, 1975 Liên Ðoàn 81 BCD liền di chuyển vào phi trường Biên Hòa bố trí quân ở đó. Riêng Biệt Ðội 812 do Ðại Úy La Cao chỉ huy có nhiệm vụ phải giữ an ninh và kiểm soát lưu thông trên cầu Mới cho đến khi các đơn vị bạn và Liên Ðoàn 81 BCD qua khỏi cầu để tiến về Thủ Ðức lập tuyến phòng thủ. Sáng 29 Tháng Tư, 1975 đơn vị di chuyển qua cầu xa lộ Ðại Hàn, rút khỏi thành phố Biên Hòa đúng theo lệnh Trung Tướng Toàn đã nói (phi trường Biên Hòa do Phi Ðoàn 3 Không Quân trấn đóng nhưng không quân đã rút đi từ mấy ngày trước). Ðúng 8 giờ sáng thì LÐ 81 BCD qua khỏi cầu mới và đội 812 cùng toán công binh của Ðại Úy Hoàng tăng phái cho LÐ 81 là đơn vị sau cùng qua cầu và đã hoàn tất nhiệm vụ dùng chất nổ phá chiếc cầu đó. Ðơn vị vừa qua khỏi cầu thì nghe lệnh ông Vũ Văn Mẫu, tân thủ tướng Việt Nam yêu cầu người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.

Trước một diễn biến quan trọng bất ngờ trong giờ phút hấp hối của miền Nam, LÐ 81 BCND liền rút thẳng vào rừng Cò Mi bố trí và tìm cách liên lạc với thượng cấp và các đơn vị bạn để tìm hiểu rõ tình hình, hầu có thể đối phó với tình hình đột biến. Suốt đêm hôm đó, bộ chỉ huy và ban truyền tin của LÐ 81 BCND đã cố gắng liên lạc với các đơn vị bạn qua các tần số nhưng không có kết quả.

Sáng 30 Tháng Tư, 1975 Liên Ðoàn men theo đường rừng di chuyển dần về hướng Thủ Ðức để hy vọng gặp được đơn vị bạn nhưng hoàn toàn tuyệt vọng. Trên đường di chuyển Liên Ðoàn 81 BCND chỉ thỉnh thoảng bắt gặp các quân trang quân dụng của các đơn vị bạn bỏ lại. Khi LÐ 81 BCND đến gần Lăng Chú Hỏa (gần núi Châu Thới), đơn vị dừng quân và tung các toán thám sát ra các xa lộ Lái Thiêu, Ðại Hàn quan sát tình hình.

Các toán thám sát báo về bộ chỉ huy LÐ 81BCND rằng, quân xa của Việt Cộng đang chạy công khai trên các trục lộ mà không gặp một sự kháng cự nào của đơn vị trách nhiệm trong vùng. Tất cả các nơi như là đều đã rã ngũ hết rồi.

Sau đó Ðại Tá Huấn liền họp các cấp chỉ huy và nói: “Chúng ta đã cố gắng liên lạc với cấp trên và các đơn vị bạn nhưng tất cả đều vô vọng, bây giờ tình hình như thế này xin anh em cho biết ý kiến”. Ðại đa số anh em đều nói: “Một con én không làm nổi Mùa Xuân, hơn nữa chúng ta không nhận được lệnh gì của thượng cấp hết, nếu bây giờ chúng ta vẫn tiếp tục chiến đấu mà không còn đơn vị yểm trợ thì cuối cùng đơn vị ta sẽ bị Việt Cộng tập trung tiêu diệt mà thôi, không còn cách nào khác chúng ta phải bắt buộc làm theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh”.

Ðại Tá Huấn yêu cầu các cấp chỉ huy tập họp anh em chung quanh một ngôi mộ có gò mả khá cao. Ðứng trên gò mả Ðại Tá Huấn bùi ngùi nói trước hàng quân: “Chúng ta sinh trưởng ở miền Nam, chúng ta có bổn phận phải bảo vệ miền Nam, bây giờ chúng ta thua rồi, chúng ta phải cay đắng tuân lệnh Tổng Thống Dương Văn Minh, giao nạp vũ khí cho Việt Cộng. Thưa anh em, chúng ta là một đơn vị ưu tú của QLVNCH, qua bao nhiêu năm chiến đấu bên nhau, trong giờ phút lịch sử này, chúng ta phải chứng tỏ là một đơn vị có kỷ luật không như những đội quân ô hợp, vậy yêu cầu anh em theo tôi tiến ra xa lộ Ðại Hàn, các biệt đội xếp hàng tư và di chuyển hướng về Sài Gòn để tiếp xúc với đơn vị Việt Cộng mà bàn giao vũ khí rồi anh em chúng ta giải tán và chia tay nhau. Xin anh em nhớ rằng, anh em không có tội gì cả, vì anh em phải tuân hành lệnh của tôi, tôi sẵn sàng nhận tội và tôi sẽ đi đầu, nếu Việt Cộng có bắn thì họ sẽ bắn tôi trước”.

Trên xa lộ Ðại Hàn gần Lăng Chú Hỏa, quân nhân của LÐ 81 BCND sắp hàng tư tiến về Sài Gòn. Hai bộ chỉ huy chiến thuật và bộ chỉ huy Liên Ðoàn 81 quân số gần 2,000 quân nhân, đội hình hàng tư dài hơn một cây số. Ðoàn quân yên lặng di chuyển trên xa lộ, không khí thật ngột ngạt khó thở, những người lính súng đạn còn trên tay nhưng cái lệnh đầu hàng đã làm cay cay lòng mắt. Những hình ảnh nhạt nhòa của những người dân đứng trước mái nhà tranh nhìn đoàn quân não nề tiến bước. Khi LÐ 81 BCND đang di chuyển trên xa lộ Ðại Hàn thì xe Việt Cộng cũng di chuyển ngược xuôi bên đội hình LÐ 81 BCND, các cán binh cộng sản trên xe nhìn LÐ 81 BCND với nét mặt tò mò và ngạc nhiên khi thấy quân nhân của LÐ 81 BCND trên tay vẫn còn mang vũ khí. Khi liên đoàn đã di chuyển khá xa thì thì có 2 xe từ hướng Sài Gòn chạy đến, trên mỗi xe có đặt máy quay phim. Việt Cộng quay phim từ đầu đội hình cho đến cuối và ngược lại từ cuối lên đầu đội hình, Việt Cộng quay nhiều về toán quân đi đầu gồm nhiều cấp chỉ huy của Liên Ðoàn 81 BCND.

Khi liên đoàn dừng lại cho anh em nghỉ ngơi thì đơn vị Việt Cộng đến tiếp xúc và quân nhân liên đoàn để vũ khí tại chỗ và giải tán...

Xin viết thêm là khi LÐ 81 BCND đang di chuyển trên xa lộ thì thấy rất nhiều thanh niên từ hướng Sài Gòn chạy ngược về Biên Hòa, đầu trần đi chân không, mặc áo quần lót, tay cầm các giấy tờ tùy thân và tiền bạc cá nhân, Ðại Tá Huấn đi đầu đội hình liền kéo một anh chạy gần và hỏi: “Các anh chạy đi đâu mà ăn mặc như thế?”, anh đó liền trả lời: “Chúng tôi là lính, Việt Cộng tước vũ khí rồi bắt phải cởi áo quần giầy dép và cho về nhà”. Chính đó là lý do mà khi tiếp xúc giao nạp vũ khí cho Việt Cộng, Ðại Tá Huấn đã yêu cầu đừng bắt anh em 81 BCD làm như thế vì sợ anh em chạm tự ái vì bị sỉ nhục mà sẽ không tuân theo lệnh giao nạp vũ khí. Việt Cộng đã đồng ý và cho xe đến chở các sĩ quan về nhà.

Riêng Biệt Ðội 812 do Ðại Úy La Cao chỉ huy, binh sĩ dưới quyền đã được đại úy chỉ thị: “Các anh em khi tháo băng đạn ra khỏi súng nhưng nên để lại một viên trong buồng đạn để tránh sự tấn công bất ngờ hoặc trường hợp khi gặp Việt Cộng nếu bị sỉ nhục quá đáng và nếu anh em không dằn lòng được, anh em có thể sử dụng viên đạn cuối cùng.”

Sau đó có hai chiếc xe đến chở các sĩ quan về Sài Gòn, khi xe chạy đến làng đại học Thủ Ðức, Ðại Tá Huấn yêu cầu xe dừng lại và nói với Việt Cộng: “Sĩ quan chúng tôi có nhà ở trong khu này”. Thật tình thì anh em sĩ quan đâu có nhà ở trong khu sang trọng đó, nhưng vì anh em sĩ quan không muốn cho Việt Cộng biết nhà ở của mình. Tại nơi đây, anh em đã ngậm ngùi chia tay nhau!

Người-81

(Trích một phần trong bài “Liên Ðoàn Biệt Cách Dù, Những Ngày Tháng Tư” đăng trong đặc san kỷ niệm Ðại Hội “Ðoàn Kết” Biệt Cách Dù/Lực Lượng Ðặc Biệt năm 2001)
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Người Lính Nghĩa Quân trong tim tôi
Nguyễn Thanh Thủy


Năm tôi được 10 tuổi , gia dình tôi bỏ ruộng vườn vào ở trong khu Ấp chiến lược, được bao bọc bởi một vòng thành kiên cố có kẽm gai , có hào sâu chung quanh. Ở hai đầu ấp có hai cái đồn nghĩa quân nhỏ . Ba má tôi thỉnh thoảng trở về nhà làm ruộng, gặt lúa ban ngày, rồi ban đêm vào xóm ở .

Lúc nầy VC bắt đầu nổi dậy mạnh ở miền Tây, thâu thuế, giết hại dân thường, ám sát Xã trưởng, Ấp trưởng của VNCH gây kinh hoàng cho dân chúng, gây mất ổn định cho xã hội miền Nam đang sống trong thanh bình . Họ bịt mắt, chặt đầu hay chôn sống bất cứ người nào họ nghi ngờ là đang cộng tác với chính quyền VNCH. Khu ấp chiến lược tôi ở được bảo vệ bởi một trung đội nghĩa quân, gồm có 3 tiểu đội . Các chú lính hay ở trong đồn còn vợ con họ sống trong các căn nhà nhỏ trong xóm. Nhà tôi ở gần nhà ông Tiểu đội trưởng , tôi kêu là chú Tấn.

Lúc mới vào ấp tôi chỉ là một đứa con gái nho,ũ quê mùa ngơ ngác. Nhưng lần lần tôi cặp bè bạn chơi với mấy đứa bạn, gái có, trai có, lớn tuổi, lanh lợi hơn, tôi học được nhiều thứ mới mẽ. Tôi biết cả tên cây súng nào là cây carbine, cây nào là garant, thomsomp, cây nào là cây súng phóng lựu .

Tôi biết tên hầu hết các chú lính nghĩa quân trong tiểu đội của chú Tấn, nào là chú Tường, chú Sanh, chú Đúng, chú Quít, chú Mực ... Các chú rất hiền và chú nào cũng nghèo . Bộ quân phục được các bà vợ vá nhiều chổ. Tôi hay lân la đến nhà các chú chơi với con của họ . Với đồng lương nghĩa quân khiêm tốn, các chú ăn uống rất đạm bạc, thường là cá linh, cá lòng tong kho, với rau lang luộc hoặc chút ít canh bí, canh bầu . Hầu như chú nào cũng có vợ và vài ba đứa con. Khi rãnh rỗi tôi thấy các chú hay giúp việc nha,ụ cho vợ buôn bán chút đỉnh kiếm thêm tiền. Có chú giữ con cho vợ ngồi bán rau ngoài chợ . Có chú xay bột cho vợ làm bánh tầm, bánh bò bán cho dân trong xóm.

Chú Tấn còn trẻ, nhưng ít nói . Thím Tấn là một người đàn bà hiền lành, có đôi mắt đẹp, to và dễ khóc. Chú hay xay đậu nành làm thành bánh đậu hủ cho thím ủ chao, ủ tương, rồi thím đem bán vào những buổi chợ rằm, chợ ba mươi cho người ta ăn chay . Chú thím Tấn có hai đứa con. Thằng Dũng được 6 tuổi, con Lan 3 tuổi . Khi bận bán tương, chao , thím Tấn hay gởi 2 đứa nó nhờ tôi giử dùm. Tôi hay chơi đùa và coi chúng nó như em. Tụi nó rất cũng thương tôi .

Rất ít khi dân trong xóm gặp các chú nghĩa quân ra đi hành quân, các chú lặng lẽ ra đi khi trời sụp tối để giử bí mật. Họ âm thầm canh gác đâu đó dọc theo bờ thành ấp chiến lược, sáng sớm mới trở về. Họ đi về im lặng như những cái bóng mờ . Có những sáng tôi hay gặp các chú trở về, thường thì chỉ có cái áo khô, quần các chú ướt đẫm, sình bùn lên trên đùi . Các chú thường đi dép hay đi chân không, chẳng mấy ai có được đôi giầy .

Có khi đang đêm, tôi nghe súng nổ dòn giã. Sáng hôm sau các chú lính quen thuộc mang về hai cây súng chiến lợi phẩm của VC cùng với vài trái lựu đạn . Các chú kể cho mọi người trong xóm nghe là đêm rồi một toán VC băng qua ruộng phá hàng rào định đột nhập vào ấp chiến lược thu thuế và bắt dân đi làm dân công, qua sự hướng dẫn của một tên giao liên là người trong ấp. Các chú bắn chết hai tên, thây còn bỏ ngoài bìa ấp. Chúng tôi rủ nhau đi coi xác VC. Có lần các chú bắn chết cả một xuồng VC đang băng qua sông . Nhờ các bác ghe chài vớt lên, được nhiều súng. Sáng hôm sau ông Quận trưởng bất ngờ đến đồn nghĩa quân xóm tôi, khen ngợi và thưởng tiền mua một con heo quay thật lớn . Các chú được dịp ăn nhậu vui vẽ . Mấy đứa con các chú nghĩa quân cũng hí hửng được dịp ăn thịt heo quay .

Một ngày nọ tôi đi học về thấy cả xóm nhốn nháo lên, mấy thím vợ lính hớt hãi lo lắng. Thím Tấn nước mắt đoanh tròng. Tôi hỏi thì thím cho tôi hay Trung đội nghĩa quân vừa bị tấn công và 2 chú nghĩa quân hiền lành của xóm tôi vừa hy sinh, đền nợ nước. Chú Mực mà tôi quen thì bị đạp mìn VC gảy giò . Thật là một cái tang lớn cho cả xóm tôi . Linh cửu của 2 chú được quàng tại chùa, vợ con lối xóm khóc lóc tỉ tê . Đến chiều thì người ta chôn 2 chú ngoài bờ rào ấp. Một hàng 6 chú nghĩa quân đứng chào trên bờ huyệt . Quan tài hạ xuống, các chú bắn 6 loạt đạn điếc tai . Mặt các chú rất đau khổ, gầm lại khác hẳn các khuôn mặt hiền từ hàng ngày mà tôi thấy . Vợ con hai chú đòi nhảy xuống huyệt chết theo chồng . Nhiều người phải xúm lại kéo các thím lên, khó khăn lắm mới dẩn được họ về nhà. Bọn chúng tôi và mấy đứa con trai ngày thường hay chạy nhảy, phá phách, la hét, mà giờ cũng đứng im ru . Tôi không biết VC là ai, nhưng tôi lờ mờ hiểu rằng họ là người không tốt, vì họ bắn phá mà gia đình tôi phải bỏ thôn xóm vào đây . Giờ họ còn theo định đột nhập vào cái ấp chiến lược nầy làm chi nữa ?

Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt . VC bắt đầu tấn công miền Nam ở cấp số lớn hơn. Họ đặt mìn giật xe chạy trên quốc lộ , họ giật xập cầu , bắt dân chúng đi đắp mô cản đường xe chạy . Có khi họ giật mìn chết cả một chiếc xe đò. Nhiều người chết có cả đàn bà và trẻ em, thịt xương văng tung tóe . Có lúc họ pháo kích hay đặt mìn giật xập trường học của học sinh miền Nam . Tiểu đội của chú Tấn phải đi kích liên miên. Thím Tấn lo âu thấy rõ . Trung đội nghĩa quân lập được nhiều chiến công . Nhưng các chú nghĩa quân mà tôi quen biết cũng vơi dần . Họ đã âm thầm ra đi như những người chiến sĩ vô danh và trở về im lìm, trong những chiếc chiếu, những cái poncho, trong cái cảnh da ngựa bọc thây .

Rồi cái ngày đau thương của thím Tấn và 2 đứa con dại đã đến. Chú Tấn và một chú nghĩa quân nữa hy sinh trong một cuộc đụng độ dữ dội với VC năm 1965. Xác chú được khiêng để trên bộ ván trong căn nhà nhỏ của chú . Khi tôi đi học về , tôi thấy người ta đang tắm rửa thay đồ rồi để một nải chuối lên bụng chú, ngọn đèn dầu leo lét được thắp trên đầu nằm có để một chén cơm và một cái trứng vịt . Đầu chú được băng bông trắng. Máu còn rĩ ra bên màng tang . Vợ con chú vật vã khóc than, đau đớn không thể nào kể xiết . Tôi đến mắm tay 2 đứa nhỏ . Thằng Dũng thỉnh thoảng hỏi tôi "Bộ Ba em chết rồi hả chị ?" , tôi chỉ "Ừ", không biết trả lời làm sao !

Đến khi chôn chú Tấn, hàng loạt đạn đưa tiễn vang rền. Thím Tấn chết lên chết xuống, bộ đồ tang trắng bê bết bùn sình. Người ta phủ lên cái mã đất của chú Tấn một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà thật dài . Bốn phía có cắm bốn lóng trúc có gạo và muối . Tôi phải dẩn con Lan và thằng Dũng về nhà... Nước mắt tôi tuôn rơi . Cuộc sống chúng tôi đang êm đềm hiền hòa , thì tại sao người ta phải tấn công thô n ấp, giết hết người nầy người nọ . Để làm gì ? Miền Nam độc lập tự chủ , có ai chiếm đóng miền Nam đâu, mà phải giải phóng chúng tôi . Cuộc đời dân miền Nam không hạnh phúc, sung sướng gấp chục lần dân miền Bắc hay sao ? Tại sao các người phải giết chú Tấn của chúng tôi để cho cuộc đời mẹ con thằng Dũng từ đó ảm đạm, sa sút hẳn đi . Thím Tấn khóc hoài không dứt ...

Năm sau , gia đình tôi dời đi chổ khác . Tôi ít được gặp lại Thím Tấn, thằng Dũng và con Lan . Năm năm sau, tôi mới được về thăm ấp cũ , tôi mừng rỡ gặp lại thím Tấn và 2 đứa con. Bây giờ ngày nào thím cũng phải ra chợ bán tương chao nuôi con . Thằng Dũng vẫn còn nhớ tôi nhưng con Lan thì không nhận ra tôi nửa .

Sau nầy tôi có dịp tiếp xúc với nhiều binh chủng oai hùng khác của quân lực VNCH, nhưng lòng tôi vẫn còn nhớ về các chú nghĩa quân hiền lành mà tôi đã biết năm nào . Hơn phân nửa các chú đã nằm xuống để bảo vệ làng xóm, quê hương tôi . Số còn lại có người gẫy chân , có người cụt tay, sống đời tàn phế...

Việt Cộng đã chà đạp lên Hiệp Định Hòa Bình Paris mà họ vừa ký kết năm 1973, cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, đưa cả nước xuống 10 tầng địa ngục . Thân tôi giờ xa xứ xa quê, đã hiểu được ý nghĩa sự hy sinh cao cả của các anh, các chú quân nhân quân lực miền Nam, thỉnh thoảng tôi nhớ lại các chú lính nghĩa quân tôi quen biết mà thấy lòng thương lắm . Cùng với bao nhiêu binh chủng khác của quân đội, các chú âm thầm lặng lẽ hy sinh, cho dân chúng trong ấp tôi được sống trong yên bình. Các chú đem xương máu ra bảo vệ nền tự do, dân chủ mới được thành hình trên miền Nam yêu dấu . Các chú đã nằm xuống - bỏ lại con thơ, vợ dại - để ngăn cản bọn quỷ đỏ hung tàn trong công cuộc tiến chiếm miền Nam, áp đặt cả nước trong một chế độ độc tài, hung bạo, không lối thoát . Các chú đã đem sinh mạng, xương máu của mình, để ngăn cản bọn bán nước buôn dân đày đọa cả dân tộc, và đưa đất nước Việt Nam đi ngược dòng tiến hóa cũa nhân loại . Các chú đã anh dũng hy sinh, ngăn cản bọn CSVN chiếm đoạt đất nước làm tài sản riêng tư cho đảng, rồi tự ý dâng hiến đất đai, hải đảo của tiền nhân cho quan thầy Trung Cộng .

Hởi cô, hởi bác, hởi anh, hởi chị ơi ! Nếu vị nào may mắn, có cuộc sống bình yên xin đừng quên các chú lính nghĩa quân đang sống đời tàn phế . Xin đừng quên các chú nghĩa quân đã lặng lẽ hy sinh để bảo vệ tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam. Xin đừng quên vợ con họ , bị bỏ lại sau lưng với cuộc đời đau khổ.

California ngày 10 tháng 6, năm 2002.

Nguyễn Thanh Thủy .
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Hai tháng tử-thủ An-Lộc

Đỗ-đức-Thịnh
Những ngày cuối tháng tư ở Boise khi hậu ấm lạ thường. Ánh nắng sáng chan-hoà trên khắp vạn vật nhờ ở hiện-tượng El Nĩno đã xoa đi khí lạnh của mùa Đông, đây đó trong vườn những khóm hoa Locust, Daffodills, Tullips đã nở rộ khoe sắc thắm và lũ ong bướm đi về báo hiệu Xuân sang. Tháng tư trong tôi có nhiều kỷ-niệm quá, kỷ niệm êm đềm cũng như những cay đắng ê chề của người lính VNCH vào ngày cuối của tháng tư năm 1975, hay nhớ xa hơn 3 năm nữa, vào tháng tư năm 1972 là ngày Liên-Đoàn 81/BCND chúng tôi tiến vào An-Lộc để phản-công và giải tỏa thành phố đang bị xâm chiếm bởì Việt-Cộng. Đã 26 năm qua, tuổi đời dài theo năm tháng, tóc đã điểm muối tiêu, trên khuôn mặt đầy thêm những vết nhăn nhưng hình ảnh của trận chiến An-Lộc vẫn không xóa nhoà trong tâm tưởng. Tôi xin được trở lại thời gian xa xưa ấy để viết lên vài giòng gửi đến các bạn, xin hãy cùng tôi nhớ về thành phố An-Lộc để tưởng niệm đến những người dân, người lính đã nằm xuống trong thành-phố nhỏ ấy và nhất là 68 đồng đội của chúng tôi đã gác súng tại chiến trường với bia đề do cô giáo Pha cảm tặng.

"An-Lộc địa sử ghi chiến-tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân"
Ngày 16/4/72 đơn vị chúng tôi còn đang hành quân xâm nhập toán thám sát ở vùng Đầu Chó giáp biên giới Miên, căn cứ hành quân đóng tại phi trường Trảng-Lớn Tây-Ninh. Các toán thám sát phát hiện nhiều chiến xa địch đang di chuyển trong vùng. Những điểm nóng đó được báo cáo về bộ chỉ-huy, quân đoàn III và bộ TTM. Tại trung tâm hành quân, sau khi chấm toạ độ dừng quân của các toán trong rừng, tôi và mấy thằng bạn xin phép ra phố Tây-Ninh ăn trưa và mua một vài vật dụng cá-nhân. Đang lang thang trong thành phố dưới cái nóng nung người đột nhiên một chiếc xe jeep ngừng ngay chỗ chúng tôi, trên xe có đại-úy Nguyễn Sơn. Lệnh của anh Sơn:

-Mấy anh lên xe về căn cứ gấp, có lệnh hành quân mới

-Cho tôi mua thêm hai cuốn phim nữa mà mình đi đâu vậy đại úy? Tôi hỏi.

-Về căn cứ sẽ biết.

Chiếc xe jeep đảo thêm vài vòng trên các con đường chính và gom được thêm vài ba đứa nữa, nhíp xe đã oằn xuống vì sức nặng và chỗ ngồi cũng chật cứng đại úy Sơn mới lái về phi trường Trảng-Lớn. Tại đây các Đại-Đội, bộ Chỉ-Huy, Liên Toán Thám Sát đang tập họp điểm danh quân số. Sau đó trong lều thuyết trình hành quân tôi được biết Liên-Đoàn 81/BCND sẽ vào An-Lộc để giải vây. Theo dõi báo cáo hành quân tôi được biết Lộc-Ninh đã thất thủ 9 ngày trước đó, quốc lộ 13 đã bị Việt Cộng kiểm soát từ phía Nam của Lộc Ninh và cắt đứt giao-thông từ phiá Nam của thị xã An-Lộc. Tự nhiên tôi có cái linh-cảm trước sự thử thách gay go, những gian nguy trước mặt. Đơn vị chúng tôì là đơn-vị được hành quân trong cuộc chiến bất qui-ước gồm các toán nhỏ được thả vào các mật khu an-toàn của VC để thu thập tin-tức, bắt cóc các VC đi lẻ tẻ hay chỉ điểm cho các phi-pháo, B52 v.v...Khi có đầy đủ tin tức và lượng sức mình, đơn vị sẽ mở cuộc đột kích chớp nhoáng, quân số đột kích có thể từ Trung-Đội, Đại-Đội hay Tiểu-Đoàn Trừ như lần phục kích đoàn xe 8 chiếc của Việt-Cộng ở thung-lũng Ashau vào tháng 4 năm 1968. Nay đơn vị được chỉ-định vào cuộc chiến đại qui mô nên tôi cũng phân vân, giao-động đôi chút. Nhưng các bậc đàn anh của tôi đã dự trận Cây Quéo, Cây Thị ở Gia-Định vào năm 68 với chiến thắng vẻ vang trong chiến thuật tác chiến trong thành phố đã cho tôi niềm tin vững mạnh. Cũng ngày hôm ấy tôi được lệnh khỏi phải làm bảng tổng kết hành quân để gửi về Bộ TTM. TS1 Trịnh Dân ở trại Bắc-Tiến sẽ đúc kết công việc tôi đang làm. 8 toán thám sát đang hoạt động trong vùng địch được lệnh tìm bãi đáp để triệt xuất và sẽ vào An-Lộc sau với Chỉ-Huy phó là trung-tá Trần-phương-Quế (ngày 20/4 khi các toán này cùng Tr/tá Quế đến được Lai-Khê, họ nhận được lệnh của tr/tá Huấn chỉ thị cho các toán này trở về hậu cứ ở Trung-Chánh). Căn cứ hành quân ở Trảng Lớn sẽ được đại-đội chỉ huy yểm trợ tháo gỡ và chuyên chở về trại Bắc Tiến...

Chúng tôi được cấp phát thêm khẩu phần lương khô, đạn dược và mỗi toán 40 quân nhân được trực thăng vận bằng máy bay Chinook đến Lai-Khê. Tiếng cánh quạt chém phần phật vào không khí, thêm vào những giao động của phi cơ đang chao đảo trên không, những nét mặt ưu tư của người lính chiến tạo nên một sự chờ đợi căng thẳng. Sự ngột ngạt ấy đã được đánh tan bằng một bản nhạc quân hành do bạn nào đó cất giọng: "Đây khúc ca vang nơi quân-trường đầy hào hùng, vai ghé vai ta thi tài trong tình quân ngũ, đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm.1..2..3..4..1..2..3..4.." Đã từ lâu lắm nay tôi mới được hát và nghe lại một nhạc khúc quân-hành, những khuôn mặt khắc khổ và thân thương trong giây phút ấy được ghi nhận trong ánh mắt của những ngườì lính chiến và sẽ còn mang mãi cho đến ngày cuối đời. "Thao trường đẫm mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, cố lên, cố lên dù nhọc nhằn đem mồ hôi pha máu hồng viết vào sử xanh...."

Tại phi trường Lai Khê chúng tôi lại chia thành toán 10 ngườì rải dọc dài theo phi đạo để chờ phi đoàn trực thăng Việt-Nam bốc vào An-Lộc. Cái nắng nóng không một ngọn gió vào 2 giờ trưa thật tai ác, nhìn phi đạo dài với hơi nóng hun hút bốc lên, mặt nhựa đường chẩy dính và nhất là chẳng có một bóng mát khả dĩ nào cho mình tạm trú. Mở bi đông xấp nước ướt vào khăn mặt xong phủ lên đầu tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Chợt hai tiếng nổ long trời và hai cuộn khói đen bốc lên cao bên kia rừng cao su. Qua máy truyền tin tôi được biết kho đạn ở Lai-Khê đã bị đặc công VC phá huỷ. Tiếng rè rè ở ống liên hợp máy truyền tin ngưng bặt và có lệnh cho chúng tôi sẵn sàng, trực thăng sẽ đến trong vòng mười phút nữa. Tôi mừng quá vì ít nhất mình sẽ hưởng được chút nào gió mát khi trực thăng cất cánh. Chúng tôi lên tầu rất nhanh vì đã quá quen thuộc với chiếc trực thăng UH1B này. Tôi và con nhà Lễ (TS1) ngồi phía trái của trực thăng thả hai chân ra ngoài cho gió đong đưa thật thú vị. Đoàn trực thăng bay ở cao độ thấp, 20 đến 30 mét trên đồn điền cao su dài và xanh thẩm. Có tiếng súng bắn lên trực thăng từ dưới rừng cao su, chúng tôi cố quan sát và lắng nghe hướng xuất phát ra tiếng nổ nhưng vận tốc nhanh của con tầu cùng tiếng ồn ào của động cơ đã không cho chúng tôi định hướng được để trả lễ vài tràng M16. Người xạ thủ đại liên trên tầu chúng tôi bắt đầu chong súng khạc đạn xuống những điểm khả-nghi, chợt khẩu đại liên bung khỏi tay anh và gục xuống trên trụ súng lắc lư theo sức gió của con tầu. Ôm cánh tay bị thương anh nói "ĐM. Trúng đạn rồi" Nhờ có sợi dây an-toàn nịt từ người vào khoen sắt trên trần nên anh đã không bị rơi xuống đất.. Tôi và Lễ lấy dao sẻ tay áo anh lên để làm đai chỉ huyết, cánh tay bị bể xương phía dưới khuỷu tay còn dính lại với phần trên nhờ bắp thịt và da, chúng tôi chẳng có một vật gì dài cứng để cột cánh tay lại để tránh di động. Chẳng ai bảo ai chúng tôi phân định lại chỗ ngồi để nhường anh xạ thủ đaị liên ấy một chỗ nằm hơi thoải mái trên sàn tầu.

Bãi đáp là một thửa ruộng khô hướng Đông của đồi Gió và đồi 169, đoàn trực thăng cùng lúc "hover" khoảng 1 mét trên bãi đáp, chúng tôi tức tốc nhẩy xuống và tản nhanh vào bìa rừng trước mặt. Lúc này những quả đạn súng cối nhỏ của VC đã nổ quanh bãi đáp. Địch không ngờ chúng tôi đáp ở đó nên những trái đạn súng cối của chúng chưa chỉnh được mục tiêu nên không gây sự thiệt hại nào cho chúng tôi và phi hành đoàn trực thăng. Chúng tôi rải quân làm an-ninh cho bãi đáp và báo cáo về cho toán còn lại ở Lai-Khê để chọn bãi đáp khác. Trời đã về chiều, phi cơ phải tiếp tế thêm nhiên liệu nên phân toán còn lại sẽ đổ bộ trễ hơn dự định. Chúng tôi được lệnh chọn các cao-điểm và phân tán mỏng để quan sát. Buổi chiều trong rừng vắng nghe tiếng đại bác VC đều đều pháo vào An-Lộc, lúc đó còn cách chúng tôi khoảng 5 km đường chim bay. Chúng tôi không còn nghe tiếng AK và súng cối quanh suối Ró nữa nên chúng tôi đoán chỉ có các đơn vị nhỏ của VC thôi, hơn nữa có lẽ VC đoán chúng tôi đã rời khỏi suối Ró và tiến xa khỏi vị trí.

Nhìn con nhà Leã ngồi hí hoáy ghi chép nhật ký hành quân phía trước mặt, thằng Khoẻ ngồi kế bên. Chúng tôi ngồi, tay ôm súng, balô còn đeo trên lưng dựa người vào những tảng đá xanh rêu, khung cảnh thật hữu tình tự nhiên tôi quên đi cảnh chiến tranh. Tay quẹt quẹt trên khẩu M16 như đang chơi guitar, tôi hát nhỏ vưà đủ cho ba thằng nghe bản nhạc "Vó câu muôn dặm" của nhạc sĩ Văn Phụng: "Anh em ta đi muôn phương xa, non xanh bao la, ta vui câu ca những đêm xa nhà cùng ngồi bên đá. Nhịp đàn vui hoà vang khắp nơi..đem chí trai can trường..." Chúng tôi chuyền tay nhau hút điếu thuốc trong ngày sao ngon tuyệt. Một điều cấm kỵ của mùi hương nhưng làn gió nhè nhẹ thổi đúng về cái hướng Nam an toàn đã cho chúng tôi phì phà một cách thật thoải mái. Phần Liên Đoàn còn lại từ Lai Khê được trực thăng vận cách chúng tôi khoảng 1 cây số và chúng tôi hẹn gặp nhau tại đồi 169.

Chúng tôi lấy phương hướng và bắt đầu zulu đến điểm hẹn, hàng dọc tác chiến, phân tán mỏng để tránh pháo. Trên lộ trình chúng tôi bị một quả bom do Không-Quân thả vào vị trí địch lại rơi gần đội hình di chuyển của đơn vị, thiếu úy Lê đình chiếu Thiện bị một mảnh xuyên qua bàn tay trái, báng súng bể được thượng sĩ Tụng trong ban quân-y băng bó. Sau đó chúng tôi tiếp tục vượt rừng để đến đồi 169.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Trị Giá Của Một Chiến Thắng

Phan Nhật Nam
Ngày 14 tháng 9, năm 1972 cách đây đúng 30 năm tại Thị Xã Quảng Trị, thành phố cực Bắc của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, đã diễn ra trận chiến của giai đoạn cuối cùng, quyết định đối với hình thái quân sự, để từ đó kết thúc vận mệnh chính trị Miền Nam, giải quyết vấn đề Việt Nam. Chiến trận mở đầu cuộc tổng công kích toàn miền Nam do Bộ Tổng Quân Ủy Hà Nội trực tiếp chỉ huy mang danh hiệu Nguyễn Huệ với ba điểm mục tiêu: Quảng Trị, An Lộc (Bình Long) và Kontum, Tây Nguyên.

Hôm nay, chúng ta chỉ giới hạn với mục tiêu vùng trận địa nam sông Bến Hải thuộc hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên. Đúng vào trưa ngày Lễ Phục Sinh, 30 tháng 3, 1972 hệ thống pháo, cối, hỏa tiễn cộng sản gồm súng cối 82 ly, hỏa tiễn 122 ly, pháo 122, 130 ly, và 152 ly đồng loạt đổ xuống năm căn cứ hỏa lực do các Trung Đoàn 2, 56, 57 Sư Đoàn 3 Bộ Binh, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến, và Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân trấn giữ - phần đất phía nam khu Phi Quân Sự ngăn đôi hai miền Nam-Bắc, chạy dài từ bờ biển vào biên giới Lào Việt. Cùng ngày, cùng giờ, căn cứ Aùi Tử, bản doanh Sư Đoàn 3, đơn vị chỉ huy tổng quát lực lượng mặt trận giới tuyến cũng cũng chịu chung một hoàn cảnh thụ động tan tác - nằm im hứng đạn pháo. Bởi một điều đau đớn khắc nghiệt đã xẩy ra và không phương cứu vãn: Pháo binh quân lực Miền Nam không có khả năng phản pháo đến những vị trí pháo kia của bộ đội Miền Bắc vì tầm bắn ngắn hơn - mà dẫu có với tới đi chăng nữa thì cũng không chắc phá hũy được vì những vị trí pháo nầy đã được thiết lập, củng cố, bảo trì từ sau Mậu Thân 1968, rút kinh nnghiệm từ trận Hạ Lào, Khe Sanh (1971). Nương theo đợt pháo kích kéo dài liên tục trong suốt 6 ngày kể từ ngày giờ kể trên, một lực lượng gồm hai Sư Đoàn 304, 308 bộ binh phối hợp cùng những trung đoàn địa phương, đặc công, độc lập của Mặt Trận B5, có sư đoàn 324 B làm trừ bị (mặt trận vùng Trị-Thiên do Bộ Tổng Quân Ủy Hà Nội đặt ám danh) có khoảng 200 xe tăng tùng thiết, đồng loạt tấn công những vị trí hỏa lực của quân đội Miền Nam. Cần nói rõ thêm, Sư Đoàn 3 Bộ Binh lại là một đơn vị tân lập, số đông binh sĩ (kể cả sĩ quan) là thành phần quân phạm, hoặc lao công đào binh, nên đơn vị thiếu hẳn khả năng, kinh nghiệm chiến đấu trên những chiến truờng quy mô - Thế nên, việc rút bỏ Quảng Trị vào những ngày cuối tháng Ba phải xẩy đến như một điều hẳn nhiên, sau khi dãy căn cứ hỏa lực tiền phương Nam sông Bến Hải bị phá vỡ. Nhưng lần lui binh bi thảm tàn khốc nầy được ngừng lại tại phòng tuyến sông Mỹ Chánh (địa giới thiên nhiên giữa Quảng Trị - Thừa thiên) với Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến chỉ huy bởi TrungTá Nguyễn Xuân Phúc. Đơn vị và người chỉ huy được đánh giá là biễu tượng hàng đầu của sức chiến đấu quân lực Miền Nam - Không chỉ từ phía dân, quân VNCH mà chính bởi thành phần cán binh bộ đội cộng sản khi vào khi đoạt chiếm phần đất nầy (tháng Ba 1975) qua lần báo thù sát hại không nương tay đối với "Trâu Điên- Tiểu Đoàn 2 TQLC".

Từ phòng tuyến Mỹ Chánh, ngày 28 tháng 6, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn ra lệnh khai diễn chiến dịch tái chiếm Quảng Trị với kế họach Lôi Phong trãi một màn lưới lửa, bão thép tới mục tiêu cuối cùng - Cổ Thành Đinh Công Tráng, khối gạch nung mỗi cạnh dài 500 thước, với năm thước cao và bề dày- lên tới hai bờ nam, bắc sông Bến Hải; từ bờ biển vào sâu trong Trường Sơn, dọc theo đường tiếp vận của Bắc quân với huy động tất cả hỏa lực, phi pháo có được ở đất liền, ngoài biển Đông: Hạm Đội 7, những phi cơ B52 nơi các phi trường Guam, ngoài khơi Thái Bình Dương, hoặc ở Utapao, Udon, Thái Lan. Vào giai đoạn Hai của Lôi Phong, trong suốt 48 giờ kể từ 12 tháng 9, không quân chiến lược B52 liên tục trải thảm từ sông Thạch Hãn (bắc cổ thành) đến Đông Hà (Bắc Quảng Trị 50 cây-số) để dập nát tất cả vị trí pháo binh, hoả tiễn, bộ chỉ huy, điểm tiếp vận của phía cộng sản; tiếp đến hải pháo từ Hạm Đội 7 bắn vào các điểm nghi ngờ vào những lúc phi cơ tạm rời vùng; pháo binh diện địa 175 ly từ Phong Điền tăng cường quấy rối, đặc biệt chiếu cố thật kỹ vị trí toạ độ cổ thành; 12 khẩu đại bác 155 ly, 54 khẩu 105 ly cơ hữu của Sư Đoàn TQLC được lệnh tác xạ không ngừng một phút, pháo thủ chỉ thay nhau ngủ vài giờ nửa đêm, từng khẩu pháo được điều chỉnh để không một trái đạn rớt ra ngoài bờ thành. Tám tiểu đoàn của hai Lữ Đoàn 147, và 369 TQLC sau khi thay thế lực lượng nhảy dù kể từ ngày 27, tháng 7, đã chiến đấu qua từng tấc, từng phân vuông của mục tiêu chiến trận để tiến tới khu vực cổ thành. Và trong 48 giờ cuối cùng nầy, người lính giữa cảnh chết, vượt sự chết đã tiến lên, xốc tới để xác chứng minh cùng lịch sử, quốc dân, cùng thế giới:

QUÂN LỰC VNCH LÀ MỘT QUÂN ĐỘI CÓ SỨC CHIẾN ĐẤU THẦN KỲ VÀ HỌ ĐÃ OAI HÙNG CHIẾN THẮNG.

Rất nhiều quân lực, binh đoàn của lịch sử thế giới được nhở sau chiến tích. Nhưng quân đội VNCH đã bị lãng quên. Rất nhiều đơn vị được tuyên công. Nhưng tập thể quân đội VNCH đã bị xúc phạm. Nhiều đoạn quân sử hằng hằng ca ngợi biểu dương. Nhưng thật có một đời dài chiến đấu bị xóa bỏ và tàn nhẫn hạ nhục. Đơn vị đó là của Chúng Ta. Tập thể đó là Chúng Ta. Đoạn quân sử bi hùng đó do chính Chúng Ta viết nên bằng xương máu của triệu người Việt Nam chết thảm, với mỗi Đơn Vị, của từng Người Lính.

Nhưng bởi trị giá của chiến thắng lẫm liệt ngày 14 tháng 9, 1972 vừa kể trên chỉ được xem như là viên đá tảng giúp người Mỹ đặt xuống bàn hội nghị tại Paris để hoàn thành Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam (đúng thời hạn dự dịnh, tháng 10) trước kỳ bầu cữ tổng thống Mỹ - qua nhận định tự tin, đắc chí của Ngoại Trưởng Kissinger:"Quả thật, chưa bao giờ chúng ta có được vị thế thượng phong như thế khi bàn thảo trong giai đoạn chiến tranh. Bởi vì ngày 15 tháng 9, quân lực miền Nam đã chiếm lại QuảngTrị, thị xã bị mất vào tay Hà nội trong cuộc tấn công trước đây"(*). Hoặc chỉ để Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mạnh dạn tuyên bố (đối với những áp đặt của chính phủ Mỹ) trong ngày 20 cùng tháng vào buổi lễ mừng chiến thắng ở Huế: "không ai có quyền bàn thảo và chấp nhận một giải pháp", ngoại trừ dân chúng Miền Nam"(**).

Trong khi cả hai cùng biết rõ rằng: Vào giai đoạn bản văn hiệp định sắp sửa hoàn thành thì cộng sản Hà Nội đã lợi dụng cơ hội, công khai đưa vào Nam khối lượng lớn quân trang, quân cụ, vũ khí, nhân, vật lực để chuẩn bị lần xâm lược toàn diện; như chỉ trong một ngày 26 của tháng Hai, 1973 một số lượng gồm 175 xe vận tải chở đầy người, vũ khí bình thản vượt qua sông Bến Hải, vùng Phi Quân Sự, hoặc 223 chiến xa đi ngã đường mòn Hồ Chí Minh, chạy ngang đất Lào. Bởi cả hai phía (Mỹ lẫn Việt) đồng quan niệm: "Chiến thắng quân sự kia chỉ giúp họ thế mạnh chính trị, giữ vị trí quyền lực lâu thêm một đoạn thời gian", chứ không là cơ hội xây dựng, củng cố đội ngũ chiến đấu cho Miền Nam, của lực lượng bảo vệ Tự Do-Dân Chủ." Thế nên, thất bại ngày 30 tháng Tư 1975 không riêng đối với Dân Tộc Việt, người Miền Nam nhưng là hiện thực lần chiến thắng của Bạo Lực và sự khiếp nhược tinh thần của toàn thế giới đã im lặng đồng lõa đối với Sự Ác. Hãy nhìn vào tình cảnh lầm than, đau thương đã xẩy ra đối những dân tộc trên bán đảo Đông Dương, ở Nicaragua, Salvador, Rawanda, Ethiopia, Apghanistan.. Chính sách khủng bố đang tràn lan khắp địa cầu hiện tại không là hiện tượng ngẫu nhiên, đột phát. Riêng những người lãnh đạo Miền Nam thì tự thân bày ra mục tiêu cá nhân mà lâu nay họ che dấu dưới những chiêu bài "quốc gia, tự do, dân chủ" - Họ không nghĩ tới, không đủ sức đi tới cùng đích cao cả của Lịch Sử, hoàn tất sứ mệnh lớn lao của toàn Dân Tộc: Sống-Chiến Đấu để Bảo Vệ Tự Do - Phẩm Giá Con Người. Những cụm danh từ, tỉnh từ hàm súc, thiêng liêng nầy nầy hoàn toàn không là chữ nghĩa, khẩu hiệu suông - Chúng được xác chứng với máu, xương của lớp lớp Người Việt liên lũy ngày, đêm (kể từ 30 tháng 4 đến 14 tháng 9, 1972 và tiếp theo cho mải đến ngày 30 tháng 4, 1975) nằm chung với xác chết (nếu như họ chưa phải chịu cơn lâm tử rất chắc chắn xẩy ra ở phút, giờ kế tiếp), hít thở không khí đầm đìa mùi người chết, uống nước hố bom lây lất máu thịt thây người. Nhưng những con người trong hoàn cảnh nguy nan kiệt cùng kia vẫn sắc son, bền bỉ lòng tin: "Mình về Quảng Trị. Mình ở lại cùng Quảng Trị bởi lính mình đã đổ bộ nơi Mỹ Thủy, ở Hải Lăng, lấy lại Cổ Thành..."

THẾ NÊN, GIÁ TRỊ CHIẾN THẮNG 19 THÁNG 4, 1972 Ở QUẢNG TRỊ VẪN SỐNG MÃI TRONG LÒNG MỖI NGUỜI DÂN NƯỚC VIỆT. NƠI MIỀN NAM.

(*ø**): White House Years, Henry Kissinger, Little, Brown Co, 1979; pp 1333, 1335.

Phan Nhật Nam
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Chuyện ông Funseth 30 năm, một cái bắt tay, một lời cảm tạ.

Friday, Giao Chỉ – San Jose

Như quý vị đã có dịp nghe nói tới, vào đầu tháng 4-2005, các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa cao niên chúng tôi sẽ gặp nhau tại Thủ Đô Hoa Kỳ dưới danh hiệu đơn giản là Họp Mặt 30 Năm Của Trại Trần Hưng Đạo.
Tuy nhiên, vì doanh trại này là Bộ Tổng Tham Mưu nên trong các chiến hữu có rất nhiều vị cao niên và đồng thời rất cao cấp. Ngoài đại tướng tổng tham mưu trưởng đã hơn 80 tuổi còn có thân hữu và chiến hữu khác cũng trên 80 tuổi về bắt tay nhau. Đại sứ Bùi Diễm phía ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa năm nay ngoài bát tuần nhưng cũng đến với Trại Trần Hưng Đạo. Tướng Huỳnh Văn Cao nhắc ban tổ chức rằng đừng quên người lính già này đã là Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị đầu tiên cũng thuộc TTM.

Trung tướng Đồng Văn Khuyên và Trung tướng Ngô Quang Trưởng thì cũng chẳng còn trẻ trung gì. Nói tóm lại là đa số về họp mặt đều là các cụ cựu chiến binh già của một cuộc chiến điêu linh trong cái chiến trường tồi tệ. Và trong số đó, ban tổ chức chúng tôi chỉ mời có một vị thân hữu duy nhất không phải là người Mỹ gốc Việt.

Nói đúng ra là đã dự trù mời hai vị, nhưng Thượng nghị sĩ John McCain bận công vụ. Còn lại người khách danh dự duy nhất của chúng tôi là ông Mỹ già. Một chính khách lão thành trong ngành ngoại giao Hoa Kỳ nay đã về hưu.

Đó là ông Robert Funseth. Năm nay ông bạn của chúng tôi đã thuộc hạng bát tuần đại khánh. Từ nhiều năm qua cũng như Đại tướng Cao Văn Viên, ông Funseth chẳng hề tham dự hội hè đình đám bên ngoài.

Có thể quý vị thường ngày còn nghe nói đến Thượng nghị sĩ John McCain vì sinh hoạt chính trường của ông và đặc biệt là các đạo luật mang tên ông giúp cho con cái tù cải tạo tiếp tục vào Mỹ.

McCain vốn cũng là tù binh của hỏa lò Hà Nội hơn 5 năm khi máy bay của ông bị bắn rơi năm 1967. Từ vai trò một tù binh anh hùng, ông đã trở thành một thượng nghị sĩ nổi danh và cũng từng tự nhận là một HO gốc Mỹ để hết lòng lo cho HO gốc Việt.

Từ Cali đến Sài Gòn, không ai đi theo diện cải tạo mà không từng nghe đến McCain.
Tháng 4 năm nay, nhân buổi họp của lính cao niên Trại Trần Hưng Đạo chúng tôi sẽ gửi lời cảm tạ đặc biệt đến ông thượng nghị sĩ. Tuy nhiên, riêng với cụ Funseth thì phải mời ông bà đến để anh em bắt tay.
Đến đây, có thể vẫn còn quý vị không biết cụ Funseth là ai.


Xin nhắc lại rằng, vào ngày 30 tháng 7-1989, có một nhà ngoại giao Mỹ mang tước vị phụ tá thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đã đặt bút ký bản thỏa ước với Hà Nội để lấy tù cải tạo ra khỏi trại và lần lượt bốc đi Mỹ.
Người đó chính là ông Funseth.

Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, cho đến khi đặt bút ký thỏa hiệp chính thức, nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã mất một thời gian thảo luận nhì nhằng, lúc gay cấn, lúc hòa hoãn với hàng trăm phiên họp, và hàng ngàn trang hồ sơ trong suốt 7 năm kể từ 1982.

Ngay sau khi hàng trăm ngàn sĩ quan và cán bộ của Việt Nam Cộng Hòa phải đi trình diện cải tạo từ 1975 thì đến năm 1977 người Việt hải ngoại đã bắt đầu vận động đấu tranh cùng với đoàn thể tiên phong là Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị của chị Khúc Minh Thơ.

Sức ép của dư luận Hoa Kỳ và thế giới ngày một mạnh mẽ. Cho đến năm 1982 thì Hà Nội qua lời Nguyễn Cơ Thạch và Phạm Văn Đồng phải lên tiếng thách thức. Họ cho biết: “Nếu Mỹ nhận thì Hà Nội sẽ thả tất cả để cho đi Mỹ.”

Trong vai trò niên trưởng của phụ tá thứ trưởng ngoại giao, ông Robert Funseth bắt đầu mở văn phòng đặc nhiệm tại Hoa Thịnh Đốn.
Sau khi ký bản thỏa hiệp với Hà Nội vào tháng 7-1989, cây bút lịch sử được ông Funseth đem về tặng bà Khúc Minh Thơ, Hội trưởng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam.

Tiếp theo đó Hà Nội thả tù cải tạo trong Nam và chuyển trại từ miền Trung vào miền Nam trước khi cho tự do lập hồ sơ đi Mỹ.
Tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn hội nghị do bộ ngoại giao tổ chức bàn về việc đón tiếp và định cư tù cải tạo bắt đầu.

Tại San Jose có chúng tôi, Vũ Văn Lộc và ông Ngô Đức Diễm tham dự. Từ Texas có Nguyễn Ngọc Linh, Chicago có Nguyễn Hà, Seattle là Nguyễn Kim Long, Nam Cali có Nguyễn Nghi, Nguyễn Quỳ và Kiêm Thêm.
Thuyết trình viên là ông Funseth đã kể lại toàn bộ câu chuyện 7 năm thảo luận để tìm đường đem các chiến hữu Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi ngục tù.
Đợt HO đầu tiên đến phi trường San Francisco vào 6 giờ sáng thứ Bảy 13 tháng 1-1990 với 55 tù nhân chính trị và gia đình. Liên Hội Người Việt Quốc Gia, Hội Quán Việt Nam IRCC và các anh em cựu tù nhân vượt biên đến trước đã phối hợp ra đón tại phi trường. Chúng tôi phát cho mỗi gia đình một lá cờ vàng, quà tặng 50 đồng. Thấy người mới đến nhà nào nhà nấy ngơ ngác vui mừng như đi trên mây. Chủ gia đình với những năm tháng tù đày nhìn thấy lá cờ và đồng hương Việt Nam đã không ngăn được nước mắt.

Khi chuyến bay của United Airline chở tù cải tạo đến đất Mỹ, văn phòng Tổng thống George Bush cha đã ra ngay một bản thông cáo chào mừng. Đồng thời ngoại trưởng Hoa Kỳ lúc đó là ông James A. Baker gửi tuyên dương công trạng cho Robert Funseth.

Cũng nhân dịp này, cơ quan IRCC của chúng tôi có nghiên cứu và thực hiện một bản ước tính riêng về quân đội Việt Nam Cộng Hòa có con số bị cộng sản giam giữ như sau: 32 tướng lãnh, 366 đại tá, 1,700 trung tá, 5,500 thiếu tá và 72,000 sĩ quan cấp úy. Đó là con số ước tính riêng về quân đội.

Cho đến nay sau 30 năm, có thể nói là đa số các sĩ quan đi cải tạo trên 3 năm mà còn sống đều đã đi Mỹ hoặc các nước khác. Chỉ còn số rất ít ở lại.
Tổng số tù nhân chính trị và gia đình nhập cư và Hoa Kỳ theo thỏa ước từ năm 1989 rồi tiếp theo cho đến các đợt gia hạn những năm gần đây là 300,000 người.

Tất cả mọi cuộc đổi đời, từ miền đất ngục tù đến bến tự do trong suốt 30 năm qua đã ảnh hưởng đến biết bao nhiêu gia đình đều do chữ ký thỏa hiệp của một cụ già thân mến. Đó là lão trượng đã hồi hưu: Robert Funseth.

Ngay sau khi đợt tù chính trị đầu tiên đến đất Mỹ, cơ quan IRCC chúng tôi có tổ chức một buổi hội thảo đặc biệt tại San Jose vào cuối năm 1990 và ông phụ tá thứ trưởng có về tham dự với tư cách là khách thuyết trình chính.

Tháng 5-1991, sau 39 năm phục vụ đất nước, ông Funseth về hưu.
Tháng 7-1999, nhân dịp kỷ niệm 10 năm ký thỏa ước bốc tù cải tạo qua Mỹ, ông Funseth qua Texas dự buổi tiệc vinh danh dành cho riêng ông là người đã mở cửa ngục tù Hà Nội cho chiến hữu của ta về bến tự do.
Và bây giờ, một lần nữa, sau 30 năm, những người lính già của Trại Trần Hưng Đạo Sài Gòn, trong số đó có cả các niên trưởng đã bị cầm tù lại mời ông đến để tìm về một cái bắt tay và nói thêm một lời cảm tạ.
Trong câu chuyện thân mật, bà Khúc Minh Thơ có dịp tâm tình với bà Funseth. Được biết là nhà ông bà có một cái thư viện rất quý và trong đó treo khá nhiều tấm bản tuyên dương và kỷ niệm.

Như vậy là lần này, trong bộ sưu tầm của cụ Funseth thân mến sẽ có thêm một tấm bảng kỷ niệm đặc biệt hơn cả. Trên một khung hình bằng bạc, sẽ có một tấm hình tù cải tạo đang đi lao động.
Đây là bức hình được các đạo diễn trẻ Việt Nam dàn dựng lại như thật trong cuốn phim có tựa đề Journey of the Fall – Hành trình đổ vỡ, nói về câu chuyện bi thảm sau 30 tháng 4-1975. Dưới tấm hình này là hàng chữ bằng Anh ngữ. “Xin tặng cho ông Robert Funseth, người đã đem cha tôi đến bến tự do.” Dưới đề là “Một người con gái của tù cải tạo kính tặng.”
Cũng vào dịp họp mặt đầu tháng 4-2005 tại Thủ Đô Hoa Kỳ, bà Khúc Minh Thơ đem đến trình diện cây bút ký thỏa ước tháng 7-1989 để sẽ trao tặng cho Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa, cùng với hình ảnh buổi ký kết tại Hà Nội.

Đó là ý nghĩa đích thực của một ngày họp mặt với những cái bắt tay, lời cảm ơn thay mặt cho 300,000 người Việt của gần 100,000 gia đình thuộc diện HO đã an cư lạc nghiệp tại Hoa Kỳ.
Có thể ban tổ chức chúng tôi cũng chưa đủ tư cách để nhân danh tất cả mọi gia đình HO. Nếu có sự lạm xưng thì đây sẽ là khiếm khuyết cuối cùng của chúng tôi. Xin có đôi lời cáo lỗi.
Sau này con cháu chúng ta có hỏi là ai đem gia đình ta vào Mỹ thì quý vị tùy trường hợp mà trả lời rằng đó là McCain hoặc là Funseth chứ chẳng phải là các ông Tổng Thống Hoa Kỳ.
Sau cùng là câu chuyện bên lề. Cũng trong buổi họp mặt kể trên, ban tổ chức sẽ mang hai bông hồng Cali về trao tặng cho hai vị nữ lưu Việt Nam của Hoa Thịnh Đốn.
Vị tham mưu trưởng cuối cùng của Bộ Tổng Tham Mưu là bác Chúc Thành - Đồng Văn Khuyên sẽ gửi bông hồng Sư đoàn 5 Bộ binh cho bà Lê Nguyên Vỹ. Người con gái Hải Phòng lấy chồng chiến binh Sài Gòn trở thành góa phụ ngày 30 tháng 4-1975 lúc chưa đầy 30 tuổi. Bà Vỹ đã ở vậy nuôi con suốt 30 năm. Bà sẽ có mặt trong đêm hội ngộ trên bàn tiệc dành riêng cho Sư đoàn 5 Bộ binh.


Trong đêm Chủ Nhật hội ngộ 30 năm, cô Yến Hải Phòng sẽ là một nhân chứng để Trại Trần Hưng Đạo chúng tôi lại nhìn thấy các niên trưởng và bao nhiêu quân nhân khác đã tuẫn tiết vào ngày 30 tháng 4-1975. Từ Nguyễn Khoa Nam (Thừa Thiên), Lê Nguyên Vỹ (Sơn Tây) đến Nguyễn Văn Hưng (Sài Gòn) và biết bao nhiêu anh hùng liệt sĩ khác.


Người nhận bông hồng thứ hai là bà Khúc Minh Thơ. Ngày xưa bà là cô Bé ở Sađéc. Cựu đại úy Biệt kích Nhảy Bắc Nguyễn Hữu Luyện với 21 năm tù sẽ trao bông hồng cho người vợ lính suốt 30 năm đấu tranh cho tù cải tạo.
Người đã lập hội tranh đấu cho chồng được tự do chứ không chịu đứng chờ để thành tượng đá. Đó là nàng Tô Thị không hóa đá. Và cuộc đấu tranh đã thành công.

Hai bông hồng California gửi cho hai người phụ nữ để tượng trưng cho hàng trăm ngàn bông hồng gửi cho các phụ nữ Việt Nam Cộng Hòa ở bốn phương trời.

Giao Chỉ – San Jose
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Chiến hữu

Tưởng Năng Tiến
Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.
Trung úy Đỗ Lệnh Dũng



Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cấp bực làng nhàng, như ông Dũng, tôi quen cả đống. Bạn cùng khoá cũng độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) thì chắc … vài ngàn!

Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố một câu (ngon lành) dữ vậy.

Cỡ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm … đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi - với bất cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng chuồn êm – không lâu – sau đó.

Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác. Cách hành xử của ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ.

Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài. Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân - sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung - đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người - toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch - nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được … hoàn toàn giải phóng.

Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố với đám đông: ”Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một … tù binh! Rồi ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân Luân, một tên gọi khác (mỹ miều hơn) của Đồng Xoài, và đưa từ Nam ra Bắc - theo đường mòn Hồ Chí Minh - để đi cải tạo. Gần muời năm sau, năm 1982, trung úy Đổ Lệnh Dũng được chuyển trại từ Bắc vào Nam – và tiếp tục … ở tù!

Cuộc đời (rõ ràng và hoàn toàn ) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được viết lại bởi nhà văn Lê Thiệp, bằng một cuốn sách - dầy đến bốn trăm trang - lấy tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất bản Quê Hương đã cho phát hành phẩm này (1) vào cuối năm 2006, với lời giới thiệu - như sau:

“Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.” Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.

Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và úc được gặp lại cha mẹ thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đoạ đầy tại những trại tù …

Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.

Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt vào ngày 21 tháng 1 năm 2007, ở thành phố San Jose, California. Hôm đó, tôi đã hân hạnh được nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái - chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân - người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này thất thủ.

Thiếu tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần qua, một số những người lính năm xưa - đang tản mát khắp năm Châu - đã tìm lại được nhau. Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị - hiện cũng đang có mặt tại hội trường.

Tôi ngồi ở xa, không nhìn rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều đang ngấn lệ. Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao là còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân đến được một quốc gia an bình phú túc nên cảm thông (thấm thía) sự xúc động của họ.

Trong giây phút đó (có lẽ) mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế. Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

Nửa khuya, tôi thức dậy. Đêm nào tôi cũng thức dậy vào giấc đó. Và đó cũng là lúc mà tôi thường lò mò trở về … chốn cũ. Như một công dân “part – time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới. Gần ba mươi năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một cách mộng mị) đều đều - theo kiểu “ngày ở / đêm về” - như thế.

Tôi thường trở về Đà Lạt. Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.

Có dạo tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai - bao quanh trại cải tạo Tân Rai - ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa.

Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một bài báo ngắn - của ký giả Bùi Bảo Trúc:

Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc. Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.

Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Ðơn vị cuối của ông là Trung Ðoàn 49, Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn. Ông không còn chân tay. Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay.

Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân. Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.

Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.” Mãi sau này tôi mới biết là … muộn thật! Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây vài năm, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn.

Chừng một tháng sau, vài người báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn … kịp nữa. Ông bạn đồng đội của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác:

Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô … Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?”

Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống …

Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội.”

Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay. Tôi xúc động quá và cho biết là: Thưa anh chị chính tôi đây… Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấytôi mà khóc.

Vợ anh cũng khóc, tôi cũng khóc, người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân.

Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc…

Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều như vậy e hơi (bị) lố. Làm người Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ bạc đến đâu chăng nữa vẫn (có thể) được khối kẻ khát khao. Tôi liên tưởng đến số phận te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng: đó là cảnh đời mà phế binh Dương Quang Thương có nằm mơ cũng không thấy được.

Và hiện tại ở quê tôi còn bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa (cũng tàn phế đến độ không thể đi xin ăn được) đang nằm chờ chết ở một xó xỉnh nào đó, ước mơ đến ngày có người đồng đội cũ (chợt) nhớ đến mình và ghé thăm chơi - như chiến hữu Nguyễn Cảnh Tân đã ghé thăm bạn Dương Quang Thương, vào một buổi chiều cuối năm 2006.


Tưởng Năng Tiến

(1) - Cuốn Đỗ Lệnh Dũng giá 28 Mỹ Kim, kể cả cước phí, có thể đặt mua tại Tủ Sách Tiếng Quê Hương, P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.

(2) - Địa chỉ liên lạc của ông Nguyễn Cảnh Tân

Hội Thiện Nguyện Cứu Trợ Thương Phế Binh Bị Lãng Quên Ở Việt Nam 42 Cardwell St – Canley Vale. NSW, Australia.

Điện thoại: (02) 9728 3640,

Điện thư: VASFIVV@yahoo.com.au.
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

Tô Phạm Liệu
Người trở lại Charlie


Lật qua tờ Nhật báo Người Việt ngày 5 tháng Mười 1997, một tin cáo phó làm tôi giật mình chú ý đọc ngay:"...Tô Phạm Liệu (1941-1997) Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù...đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 tháng Chín1997..."

Vậy là anh Liệu đã từ giã cõi đời này!

Hình ảnh của Tô Phạm Liệu trở về từ dĩ vãng xa xưa.

Lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu đã lâu lắm rồi, đã hơn 27 gần 28 năm trước đây.

Ngày đó, vừa học xong lớp Y Khoa Năm Thứ Nhất ở trường Ðại học Y Khoa Sài Gòn, tôi đã có một số khá đông bạn bè cùng lớp rủ nhau nộp đơn, đi thi và đỗ vào trường Quân y.

Một ngày tháng Giêng 1970, ngày nhập ngũ, chúng tôi rủ nhau nao nức đi trình diện ở trường Quân Y. Một đám sinh viên Y Dược Nha đến và được tập trung ở cổng trường chỗ gần trạm kiểm soát ra vào. Chúng tôi là những tân sinh viên quân y. Người đầu tiên ra gặp chúng tôi là một sinh viên sĩ quan quân y. Anh mặc quân phục xanh bộ binh, đeo lon trung uý có hai bông mai vàng trên một nền nhung đỏ thẫm ở trên vai với dấu hiện con rắn vàng, của ngành quân y, và dấu hiệu một cánh dù màu xám, bằng nhảy dù, trên ngực áo. Thoáng gặp anh, chúng tôi cũng phải để ý ngay, vì anh là một người to lớn, vừa to vừa cao trông như là một "ông hộ pháp."

Không cười đón niềm nở chút nào cả, với giọng nói to, vang vang trong buổi chiều nắng gió, anh tự giới thiệu. Tôi nhớ đại khái rất ngắn và gọn. Anh cho biết tên là Tô Phạm Liệu, sinh viên sĩ quan quân y năm thứ sáu và anh được cấp trên đề cử làm Sinh Viên Sĩ Quan Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Tân Sinh Viên.

Anh Liệu dẫn khoảng bốn năm chục người chúng tôi vào một sân rộng lớn của trường Quân Y, nơi có một cột cờ với lá cờ vàng ba sọc đỏ khá cao. Ðó là Vũ Ðình Trường của Trường Quân Y và ở đó đã có thêm sẵn hai sinh viên sĩ quan quân y khác đứng chờ sẵn từ lâu.Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ba ông đàn anh dẫn chúng tôi chạy vòng quanh sân cờ cho đến khi tất cả hết sức lực và có một người phải ngất xỉu.

Ðó là kinh nghiệm đầu tiên của đa số chúng tôi đối với quân đội. Ðó là lần đầu tiên hành xác để mở đầu cho Tám Tuần Lễ Huấn Nhục của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Sĩ Quan Quân Y. Ðối với những "thư sinh trói gà không chặt" mà còn "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm," chỉ biết việc sách đèn, đây quả là một thử thách khá lớn lao.

Và đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu. Trong tám tuần lễ của "mồ hôi, nước mắt" chúng tôi đã được các đàn anh của các khóa trước "chỉ dạy"một cách rất tận tình bằng mọi cách. Chúng tôi được học qua căn bản quân sự, căn bản thao diễn. Và mọi người được thay nhau tập hít đất, tập thở, tậpchạy, tập cười... theo lệnh các huynh trưởng!

Các đàn anh chia ra từng toán ba người. Anh Tô Phạm Liệu đích thân làm trưởng một toán. Mỗi toán có nhiệm vụ hướng dẫn các tân sinh viên một ngày. Riêng anh Liệu hình như ngày nào cũng có mặt để quan sát các hoạt động, tiến triển trong việc huấn luyện các tân sinh viên Quân Y. Anh Tô Phạm Liệu rất tận tâm bỏ khá nhiều thì giờ vào việc dẫn dắt đàn em mới nhập ngũ. Những người nào mà có vẻ lười biếng công việc tập tành là khó qua khỏi mắt của đàn anh. Ai đau thật hay chỉ ốm giả anh cũng biết. Hình như anh biết rõ về bản chất, tính tình của từng người một. Anh là người gần gũi với chúng tôi nhất trong những ngày đầu tiên khi mới gia nhập quân ngũ.

Sinh hoạt với anh một thời gian ngắn, chúng tôi nhận thấy ngay ngoài "cái vỏ" lạnh lùng nghiêm nghị của anh còn có một bề trong khác hẳn với một tâm hồn đầy tình cảm và hiểu biết. Anh Liệu thường thấu hiểu gần như mọi chuyện xẩy ra trong đại đội tân sinh viên quân y và thường giải thích hay giải quyết, thường là bằng tình cảm, những vấn đề khó khăn hay khó nói nhất. Nhiệm vụchỉ huy hướng dẫn đôi khi làm anh có vẻ khó khăn và khô khan nhưng những lúc nói chuyện với anh Liệu trong kh irảnh rang đã làm chúng tôi thấy anh là một người rất nhiều tình cảm, rộng lượng và rất thương mến những anh em trong gia đình Y Dược Nha trong ngành Quân y. Một điều đặc biệt nhất là Tô Phạm Liệu nói chuyện rất hay, rất lôi cuốn người nghe, nhất là khi anh Ðứng trước hàng quân. Tôi được biết anh đã còn là một huynh trưởng trong ngành Hướng Ðạo Việt Nam. Sự việc anh giỏi về diễn thuyết hay chỉ huy là đã có kinh nghiệm từ lâu.

Nhiệm vụ khó khăn của anh là cho chúng tôi được có những khái niệm ban đầu về Quân Ðội rồi cũng thành công. Tất cả đám tân sinh viên Y Nha Dược đều qua khỏ itám tuần lễ huấn nhục gian lao. Chúng tôi được tổ chức lễ gắn alpha và trở thành những sinh viên Quân y hiện dịch thực thụ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.Ðêm hôm gắn alpha, anh có nói chuyện riêng khá cảm động với một vài người chúng tôi. Anh cho biết rất hà ilòng với kết quả và nhắn nhủ công chuyện tương lai.Tô Phạm Liệu có nói ngày nào đó chúng tôi sẽ hiểu rõ đàn anh hơn khi đứng ra hướng dẫn những đàn em sau này. Riêng tôi về sau này rất thông cảm anh vì chính bản thân tôi lại "được" cử ra làm nhiệm vụ của anh,dẫn dắt các tân sinh viên quân y, khi khóa sinh viên sĩ quan của chúng tôi trở thành khóa đàn anh lớn nhất trongtrường Quân Y.

Năm chúng tôi vào Quân Y cũng là năm khóa 16 Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y ra trường. Anh Tô Phạm Liệu chọn binh chủng Nhảy Dù và nhiệm sở đầu tiên là một tiểu đoàn Nhảy Dù. Tô Phạm Liệu đã chính thức trở thành y sĩ của một tiểu đoàn tác chiến của binh chủng nhảy dù.

Những ngày sau đó tôi rất ít gặp anh Liệu. Chúng tôiở lại hậu phương hoàn tất công chuyện học hành ở những trường Y Nha Dược. Anh Liệu và các anh khác tản mác trong những đơn vị của quân đội khắp bốn vùng chiến thuật. Và tôi chỉ gặp lại anh Liệu một hai lần gì đó trong một khoảng thời gian gần hai năm trời khi an hvề ghé thăm trường quân y trong những dịp nghỉ phép giữa những ngày ở mặt trận. Những ngày đó anh vẫn cao lớn và mặc quần áo rằn ri nhẩy dù trông rất oai hùng. Chúng tôi cũng chỉ có dịp nói chuyện chào hỏi chút ít và tôi chỉ biết là anh đã trải qua khá nhiều thử thách ngoài mặt trận nhưng không có nhiều chi tiết.

Và đến một ngày tháng, ở một nơi... của định mệnh.

Thời điểm là năm 1972, vào mùa Hè nắng cháy.

Ðịa điểm là Charlie, Cao Nguyên Nam Việt Nam.

Tôi được nghe đến, được biết đến, được hiểu... Tô Phạm Liệu nhiều hơn.

Bốn năm trước đó, năm 1968, năm bầu cử Tổng thống Mỹ là khi Bắc Việt cho tổng tấn công và thất bại trên các chiến địa Tết Mậu Thân nhưng phải nói họ đã có ảnh hưởng trong việc tuyên truyền chính trị. Hình ảnh chiến tranh Việt Nam tràn ngập trên đất Mỹ theo vào từng nhà riêng của dân Mỹ bằng máy vô tuyến truyền hình. Dân chúng Hoa Kỳ đã bắt đầu chán sợ cuộc sống chiến tranh đẫm máu và dai dẳng cách xa một nửa trái đất. Ðầu óc thực tế của họ đã đếm nhiều đến số tiền trang trải cho cuộc chiến. Hình ảnh quan tài những người Mỹ chết ở Việt Nam đem về Mỹ được chiếu rõ trên truyền hình làm nao núng cả quốc gia. Cá cphong trào phản chiến Mỹ hoạt động mạnh hơn. Ứng cử viên Tổng thống Mỹ đều biết rõ tầm quan trọng của việc cần phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Năm 1972, một lần nữa là năm bầu cử Tổng thống Mỹ.Do đó, một lần nữa, cũng là lúc Bắc Việt cần có tiếng vang vọng với bất cứ giá nào. Ðại tướng Bắc Việt Võ Nguyễn Giáp còn nghĩ là có thể chiếm đoạt miền Nam vào lúc này.

Cũng như Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân năm 1968, Tướng Giáp đã lại "thí quân" và lần này quyết định tấn công với ba mặt trận lớn được bùng nổ vào mùa Hè 1972.

Thứ nhất: Mặt Trận Giới Tuyến tại vùng Phi Quân Sự. Việt Cộng đã bất chấp tất cả mọi ký kết của chính họ ở Hiệp định Genève 1954. Họ đã cho hai Sư đoàn 304 và 308 tăng phái bởi bốn Trung Ðoàn Ðặc Công với hơn 200 chiến xa của Trung đoàn 203 và 204 và thêm ba Trung đoàn Pháo Binh vượt khu Phi Quân Sự đánh chiếm Quảng Trị.

Thứ hai: Mặt Trận Biên Giới chiếm đánh Lộc Ninh, An Lộc do các Sư đoàn Cộng Sản 5, 7 và 9 cùng với hơn 200 xe thiết giáp. Trong khi Sư đoàn 1 Bắc Việt quấy rối vùng Ðồng bằng Cửu Long để cầm bớt quân đội Việt Nam lại vùng IV chiến thuật.

Thứ ba: Mặt trận Cao Nguyên thì có hai Sư đoàn 2 và 320v ới cùng một trung đoàn chiến xa đánh chiếm vùng Kontum, Pleiku. Trong khi Sư đoàn 3 Cộng Sản đánh vùng Bình Ðịnh.Tại Cao Nguyên, tướng Võ Nguyên Giáp mưu định cắt Miền Nam thành hai mảnh.

Thời điểm là Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972.

Ðịa điểm là Charlie của Chiến Trường Cao Nguyên.

Trong quyển sách viết về chiến tranh Việt Nam "Mùa Hè Ðỏ Lửa," Phan Nhật Nam đã viết trong đoạn đầu tiên "Charlie, tên nghe lạ quá":

"Quả tình nếu không có trận chiến mùa hè 1972, thì cũngchẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie hay Cải Cách hay"C" đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Poko và đường 14, Ðông Bắc là Tân Cảnh, với 12 cây số đường chim bay, Ðông Nam là Kontum thị trấn cực Bắc của Tây Nguyên... Charlie lọt giữa bị bao vây bởi căn cứ 5, căn cứ 6, ở phía Bắc, những mục tiêu quân sự nổi tiếng, những vị trí then chốt giữ cửa ngỏ vào Tân Cảnh mà bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa hè,mùa "mưa rào," báo chí hằng ngày trong và ngoài nước phải nhắc tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi xuống miền núi non xương sườn cực Tây của quê hương Việt Nam..."

Năm nay, sau bao nhiêu lần thử thách từ mùa mưa của năm1971 qua đầu xuân của 1972, Bắc Quân vẫn không vượt qua hai cửa ngỏ. Căn cứ 5, Căn cứ 6... Cộng quân đổi hướng tiến lòn sâu xuống phía nam của hai căn cứ trên để tiếp tục sự nghiệp "giải phóng" với mục tiêu cốđịnh: Tân Cảnh, cắt đường 14..."

Lữ đoàn 2 Nhảy Dù được cử đến lập một vòng đai để giữ những yếu điểm trong vùng quanh Quốc Lộ 14 và Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù có nhiệm vụ đóng giữ Charlie. Tô Phạm Liệu, người y sĩ trưởng của Tiểu đoàn, một người sĩ quan Nhảy Dù, đã được thả đến Charlie cùng với Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù, Tiểu đoàn Nhảy Dù mới nhất của Sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam, vào ngày 2 tháng Tư.

Sau đó, tại Charlie, một trận đánh oai hùng và bi thương của người lính Nhảy Dù đã xẩy ra.

Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù là Trung tá Nguyễn Ðình Bảo tốt nghiệp khóa 14 Trường Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Trung tá Bảo cótính tình giản dị và là người chỉ huy rất giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ông gia nhập Nhảy Dù ngay sau khi ra trường võ bị, dự nhiều trận chiến khốc liệt chiến thắng nhiều và đã bị thương hai lần ở mặt trận.

Tuy vậy, lần này Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù bị bao vây bởi cả một Sư đoàn Bắc Việt, Sư đoàn 320 có mang danh là Sư đoàn Ðiện Biên và cũng được gọi là Sư đoàn Thép tăng phái thêm Trung đoàn 64 của Sư đoàn Sao Vàng CộngSản. Không phải đoán cũng thấy ngay là một chiến thuật thí quân lấy thịt đè người. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo bây giờ có lẽ giống như một con hổ trong lồng.

Ngày 11 tháng Tư là lúc Cộng Sản sửa soạn tấn công.Hàng trăm quả pháo rót vào Charlie kể cả đại pháo 130mm với đạn xuyên phá "delay." Ðây là loại đạn đặc biệt nguy hiểm, không nổ ngay khi chạm đất mà sẽ nổ sau khi đã xuống dưới mặt đất khoảng hơn một thước để tàn phá những hầm trú ẩn.

Ngày 12 tháng Tư, Cộng Quân tiến đánh. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù kể cả Bác sĩ Quân y Tô Phạm Liệu đã quần thảo với lính Cộng của Sư đoàn Ðiện Biên tranh thủ từng thước đất.

Trung tá Nguyễn Ðình Bảo, nhiều sĩ quan và binh sĩ nhảy dù đã hy sinh tại mặt trận.

Ngày 15 tháng Tư 1972 Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã. Chính bản thân Tô Phạm Liệu cũng bị thương ở chân. Tô Phạm Liệu và Thiếu tá Tiểu đoàn phó đã dẫn một nhóm nhỏ còn lại và các thương binh rút khỏi Charlie. Và nhóm này cuối cùng được trực thăng "bốc" đi thoát. Một số khác chạy bộ băng rừng về.

Xác chết của nhiều quân nhân và của Trung tá Nguyễn Ðình Bảo đã không đem được về và đã để lại ở Charlie.

Nhiều chiến sĩ nhảy dù đã anh dũng "ở lại" Charlie.

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sau này đã cảm hứng vì sự hy sinh của Trung tá Nguyễn Ðình Bảo và những chiến sĩ nhảydù khác tại mặt trận Charlie mà đã sáng tác "Người - Lại Charlie," một bản nhạc khá hay và cảm động:

"Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí.
Vâng chính anh là ngôi sao mới, một lần này chợt sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng.
Này anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
Anh! Vâng, chính anh là loài chim quí.
Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý, một lần dậy cánh bay, người để cho người nước mắt trên tay..."

Sự kiện Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Charlie khi bị hơn một Sư đoàn bộ đội Bắc Việt tấn công với đại pháo và chiến xa là chuyện dĩ nhiên phải xảy ra. Nhưng điều quan trọng hơn là sự hy sinh dũng cảm của nhữn gngười lính Việt Nam Cộng Hòa đã gây tổn thất nặng cho đối phương và ảnh hưởng đến tinh thần của Cán Binh Bắc Việt.

Tuy là ngay sau đó, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù phải bỏ cả TânCảnh về Kontum. Tuy là các Sư đoàn Bắc Việt kiểm soát được Quốc lộ 14. Tuy là họ đã bao vây thành phố Cao Nguyên Kontum. Tuy là họ dốc toàn lực đánh Kontum hai lần ngày 14 và 25 tháng Năm. Nhưng họ vẫn thất bại. Cuối cùng Cộng Sản Việt Nam vẫn không đạt được mục tiêuvào năm 1972 và phải rút lui tại mặt trận miền Cao Nguyên.

Mặt trận Biên Giới nổ lớn tại An Lộc - Bình Long. Bộ đội Cộng Sản hàng hàng lớp lớp biển người được yểm trợ bởi hàng trăm chiến xa tối tân và đại bác hỏa tiễn hùng hậu đã tràn ngập mặt trận. Nhưng họ đã phải đứng khựng lại ở quận An Lộc, cứ điểm quan trọng ngăn cản đường tiến của Bắc Quân đến Quốc lộ 13 để về "giải phóng" Sài Gòn. Trong khoảng 100 ngàygần 60 ngàn quả đại bác đã bắn vào độ một cây số vuông của quận lỵ nhỏ bé An Lộc. Năm lần Việt Cộng đã mở những cuộc tấn công. Cả năm lần Bắc Quân phải chùn bước. Người hùng Chuẩn tướng Lê Văn Hưng và các lực lượng phòng thủ với sự phụ lực của Ðại tá LêQuang Lưỡng và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ với sự phụ lực của Ðại tá Lê Quang Lưỡng và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ hữu hiệu Của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã choBắc Việt một bài học cay đắng, họ cho tướng Võ Nguyên Giáp biết thế nào là "tử thủ." Ngày 8 tháng Sáu 1972 Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù tiến vào thành phố, đã "bắt tay" được với Tiểu đoàn Nhảy Dù "bạn," Tiểu đoàn 6 NhảyDù là đơn vị đã được trực thăng vận đến An Lộc mấy ngày trước.

An Lộc hoang tàn. Nhưng An Lộc vẫn đứng vững.

An Lộc đẫm máu. An Lộc đầy lửa khói. Nhưng An Lộc vẫn còn.

Cuối cùng Bắc Quân phải rút lui.

Mặt trận Vùng Hỏa Tuyến. Ngay những ngày đầu tiên Việt Cộng đã tràn ngập Quảng Trị và Sư đoàn 3 Bộ BinhViệt Nam sau đó phải tan rã chạy về phía Nam. Dân chúngQuảng Trị ghét sợ cộng sản chạy theo quân. Hỗn loạn! Kinh hoàng! Máu đổ nhiều! Quân dân chạy giặc dưới làn đạn làm hàng ngàn người chết ở Ðại Lộ Kinh Hoàng. Bắc Quân tràn lan đánh chiếm khắp nơi.

Nhưng họ đã bị chận đứng ở sông Mỹ Chánh. Nơi đây ngày 2 tháng Năm, Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đã bắn hạ 17 chiến xa Bắc Việt. Cùng một lúc Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được cử ra giữ chức Tư LệnhQuân Ðoàn I. Thế cờ được lật ngược.

Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Tân Cảnh nhưng không biến mất mà đã phối trí lại. Và chỉ độ một tháng sau ngày tan rã ở Charlie, Tô Phạm Liệu và Tiểu đoàn 11 NhảyDù đã có mặt ở miền Hỏa Tuyến. Tháng Sáu 1972, Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư đoàn 1 Bộ Binh cùng với sự yểm trợ của Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã mở chiến dịch tổng phản công.

Cuộc chiến đẫm máu kéo dài đến tháng Chín 1972 khi lá cờ vàng ba sọc đỏ được những người lính Thủy QuânLục Chiến dựng lại tại Cổ thành Quảng Trị và khi tàn quân Bắc Việt chạy ngược trở về bên phía Bắc dòng sông Thạch Hãn.

Giấc mơ chiếm đoạt miền Nam vào mùa Hè 1972 của tướng Võ Nguyên Giáp đúng là "chỉ là một giấc mơ thôi."

Có lẽ nhiều ngàn hay có thể đến hàng chục ngàn người đã "sinh Bắc" và được "tử Nam" trong mùa Hè này.

Y sĩ Ðại uý Tô Phạm Liệu đã được Sư đoàn Nhảy Dù trao tặng danh hiệu "Quân Nhân Xuất Sắc Nhất Của Sư Ðoàn Nhẩy Dù."

Tô Phạm Liệu, tên tuổi hào hùng của ngành Quân Y "con rắn" chúng tôi, cũng lừng danh trong những đơn vị Nhảy Dù "mũ đỏ" của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó.

Chiến dịch mùa Hè 1972 đã làm Bắc Việt tổn thấ tnặng. Phải một thời gian khá lâu họ mới hồi phục lại được sức mạnh. Những ngày tháng ngay sau đó họ đã không tạo thêm được tiếng vang gì đáng kể. Ngoại trừ một cố gắng khác, nhưng vẫn thất bại, ở Sa Huỳnh ở vùng Quảng Ngãi - Bình Ðịnh đầu năm 1973.

Nhưng năm 1973 cũng là năm của Hiệp định Paris ký kết bởi Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ. Năm của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam. Hiệp định Paris đã đẩy Việt Nam Cộng Hòa vào con đường cùng. Hoa Kỳ dần dần rút khỏ iViệt Nam. Viện trợ quân sự Mỹ cho Quân đội Việt Nam cũng giảm dần theo. Ðạn dược, súng ống của Quân đội Việt Nam trở thành thiếu thốn. Xe tăng lỗi thời. Máybay cũng ít dần và cũ kỹ dần. Bắc Quân ngày càng nhiều khí giới tối tân. Nga Sô và Trung Cộng cùng các nước Cộng Sản trên thế giới vẫn tiếp tục ủng hộ tiếp tế Hà Nội một cách tích cực. Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu hầu như một mình với Cộng Sản Bắc Việt và cả một thế giới Cộng Sản đứng đằng sau. Ðó là kết quả của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam, chính sách của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon.

Hiệp định Hòa Bình Paris 1973 và giải Nobel được trao tặng cho Lê Ðức Thọ và Henry Kissinger chỉ là những trò hề. Bắc Quân tiếp tục xâm phạm những gì họ ký kết.Ðường mòn Hồ Chí Minh "đông người như đi chợ"chuyển quân và vũ khí thiết giáp vào miền Nam.

Tô Phạm Liệu tốt nghiệp Khóa 16 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch gia nhập Nhảy Dù năm 1970.

Khóa 21 Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y, khóa cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, khóa của chúng tôi ra đơn vị năm 1975.

Năm năm sau tình hình đã đổi khác hoàn toàn. Những tân Trung uý Y Nha Dược ra đơn vị đúng lúc ngày tàn củacuộc chiến. Tỉnh Phước Long đã rơi vào tay Cộng Sản tháng Hai 1975.

Chuyện gì đã xẩy ra đã xẩy ra. Chuyện mất miền Nam vào tay Cộng Sản ngày 30 tháng Tư 1975 đã đến. Có điều chuyện xẩy ra hơi sớm, một cách rất ngạc nhiên, ngoài sự dự liệu của tất cả mọi người trong và ngoài cuộc. Lịch sử sẽ cho dần những câu trả lời. Nhưng làm sao có ai, có những lý do nào... mà có cho đủ được những câ utrả lời cho chuyện bỏ chạy một cách nhanh chóng như vậy?

Ða số chúng tôi Khóa 21 Quân Y chỉ đến đơn vị được một, hai tháng thì cuộc đời nhà binh cũng chấm dứt.

Ðể sửa soạn dư luận cho cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹnăm 1976, Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng đã bắt đầu Chiến Dịch Mùa Xuân năm 1975. Nhưng chính những người cầm đầu Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thể biết có kết quả nhanh và bất ngờ ngoài dự liệu như vậy.

Miền Nam Việt Nam sụp đổ dần như một căn nhà không có nền móng trong khoảng 55 ngày.

Ngày 10 tháng Ba 1975 Bắc Quân bắt đầu tiến đánh Ban Mê Thuột.

Ban Mê Thuột mất ngày 17 tháng Ba 1975.

Theo đó là Quảng Trị mất 20 tháng Ba.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ Huế 23 tháng Ba.

Rồi Ðà Nẵng di tản ngày 29 tháng Ba...

Bắc Việt tiến chiếm dễ dàng dần dần từ Bắc xuống Nam. Bắc Quân vào nhiều thành phố bỏ trống như chỗ không người. Tình hình thật là hỗn loạn. Những câu chuyện cười ra nước mắt được kể lại. Như là một thành phố ở miền Trung được di tản đến cả ba, bốn ngày sau một đơn vị quân đội nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa quay lại cũng vẫn còn y nguyên vì Cộng Sản cũng không đến kịp vào để tiếp thu! Hoặc là có những thành phố được phát ngôn viên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã di tản nhưng sự thật dân quân vẫn còn nguyên tại chỗ! Hầu như tất cả mọi người đều không làm được gì cả.

Chúng tôi bất lực. Chúng tôi không làm được gì ngoài việc chỉ cố tránh né để mái nhà hay bức tường vỡ khỏi rơi vào người.

Ngày 20 tháng Tư 1975 tiền đồn cuối cùng ở Xuân Lộc bị phá vỡ. Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo và Sư đoàn 18 phải rút quân. Sài Gòn hầu như rối loạn hoàn toàn. Nhìn trước ngó sau chỉ thấy nhiều người tìm cách đi khỏi nước Việt Nam hơn là tìm cách chống trả giữ Sài Gòn.

Sài Gòn coi như đã mất. Thành phố như là một thành phố đang chết! Chỉ còn vấn đề thời gian. Một thời gian ngắn thôi.

Những ngày cuối của tôi ở thành phố Sài Gòn là như vậy. Ngày ngày nghe được những tin tức những nguời nào đã đi, những người nào sắp đi.

Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Trung tướng Nguyễn VănThiệu từ chức. Trong diễn văn gửi đến các nước ôngThiệu đã không hết lời trách móc "đồng minh" Hoa Kỳ.Trung tướng Thiệu tuyên bố "...sẽ trở lại Quân Ðội khoác áo nhà binh cùng các anh em chiến đấu..." Vài ngày sau thì được tin "người" đang ở Ðài Loan!

Thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố đại khái là: "...nhất định ở lại Việt Nam ăn cà, tương, mắm...vì qua Mỹ ăn phó mát và uống sữa tươi sẽ đau bụng!"Vài ngày sau "người" cũng bay mất!

Tân Tổng tư lệnh Quân Ðội Trung tướng Vĩnh Lộc cho phát thanh một nhật lệnh đến toàn thể Quân Ðội ViệtNam Cộng Hòa hùng dũng kêu gọi "...mọi người hãy bỏ ý định chạy trốn như những đàn chuột nhắt..." Nhưng khi bài nói chuyện được phát thanh trên đài thì "người"đã ngồi ở trên một chiến hạm ngoài khơi trên đường ra ngoại quốc!

Mỗi ông "tuyên bố một câu xanh rờn."

Toàn là những lời câu nói "để đời"!

Ðông phương đã dạy làm tướng thì phải biết cách tự xử khi mất thành. Tây phương cũng có viết làm thuyền trưởng khi tầu chim thì phải ở lại chìm theo tầu. Tô ikhông hy vọng những "người trên đây làm được như những Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng PhạmVăn Phú, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng TrầnVăn Hai, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ... là nhữngvị tướng đáng kính phục tự xử khi mất nước. Nhưng phải chi những "người đó cứ im lặng mà "đi" thì cũngchả có mấy ai cay đắng mỗi khi nghĩ đến chuyện những người ở lại hy sinh mạng sống hay nằm trong những trại cải tạo của Cộng Sản Việt Nam hằng bao năm trời.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, Tân Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.

Tôi may mắn thoát được lên chiến hạm Hải Quân Việt Nam HQ 1. Chỉ độ mười phút sau đó tầu rời bến BạchÐằng cùng cả những chiến hạm còn lại ở bến của Hạm đội Hải Quân Việt Nam sau khi binh sĩ Hải Quân chặt cầu vì không đủ chỗ cho hàng người đang đứng đợi lên tầu.

Thế là hết! Vĩnh biệt Sài Gòn! Vĩnh biệt Việt Nam!

Tầu Việt Nam đến Subic Bay ở Phi Luật Tân thì chúng tôi được chuyển ngay sang một tầu Hoa Kỳ rộng lớn hơn để đi đến đảo Guam.

Bước lên chiếc tầu Hoa Kỳ đầy người. Ðủ loại người. Dân sự có, quân sự có. Người nằm, kẻ đứng ngồi. Hỗn loạn. Tôi tìm đến một góc nhỏ để trán hné phiền phức. - đây tôi thấy một người khá to lớn nằm trên một chiếc võng mắc vào những cái cột của tầu. Lại gần nhận ra đó là Huynh trưởng Tô PhạmLiệu. Tôi không ngờ gặp nhau trong hoàn cảnh này.

Tôi buồn nhớ lại những ngày xưa người anh từ chiến trường về thăm trường Quân Y với binh phục nhảy dù oai hùng. Bây giờ Tô Phạm Liệu vẫn mặc binh phục nhảy dù Việt Nam, nhưng bẩn và nhầu nát. Anh Liệu không giống anh Liệu những ngày trước khi anh trở về từ những chiến thắng nữa. Tô Phạm Liệu nằm trên võng, anh vẫn tỉnh giấc nhưng mắt nhắm như để quên đi những hình ảnh nào đó. Anh Liệu hình như muốn ngủ triền miên. Nhưng làm sao mà ngủ được? Rồi sau đó Tô Phạm Liệucũng mở mắt ra. Anh kể lại những lúc cuối cùng.

Tô Phạm Liệu nói rất ít. Tôi cũng chả nói nhiều. Ðau khổ đã làm tê liệt con người.

Nhưng thật ra còn có gì khác để đáng nói đến nữa đâu?

Anh em nhìn nhau thẫn thờ! Bàng hoàng! Sững sờ! Giọt lệ nào đó hình như vòng quanh khóe mắt làm mờ mắt của cả hai chúng tôi!

Ngày hôm sau tôi trở lại chỗ cũ không thấy anh đâu cả.Chiếc võng cũng biến mất. Tôi để ý tìm mà không gặp.Tô Phạm Liệu chắc cũng chả muốn gặp lại ai nữa. Tôicũng không muốn tìm thấy người quen nào nữa.

Những ngày đầu tiên đến đất Mỹ là những lúc vậtlộn với cuộc đời mới cũng như các bạn bè khác trong giới Y khoa để tìm đường trở về nghề cũ. Và cũng như đa số bạn bè y khoa tôi cuối cùng cũng trở lại nghiệp Y.

Thỉnh thoảng tôi cũng được nghe đến anh Tô Phạm Liệu.Tôi được biết anh đã quay lại hành nghề ở một nhà thương điên (state hospital) nào đó ở Kansas. Tôi được biết anh uống rượu nhiều, rất nhiều. Tôi muốn nhưng chả bao giờ có dịp liên lạc.

Năm 1989 tôi đi dự cuộc họp Hội Y Sĩ Quốc Tế Việt Nam Tự Do ở một khách sạn lớn ở Little Saigon, California.Ðang đi vớ vẩn trong khách sạn thì có tiếng gọi tên. Tôi nhìn ra thấy Huynh trưởng Tô Phạm Liệu. Anh em gặp nhau mừng ứa nước mắt.

Anh dẫn tôi vào ngồi ở một quầy rượu. Anh uống rượu mạnh liên miên. Tô Phạm Liệu lần này nói chuyện nhiều hơn, nói khá nhiều. Có khi là người nói, có Khi là "rượu nói." Anh nhìn tôi và nói, và nhắc nhở đến Ðoàn Trung Bửu (Biệt Ðộng Quân, chết trên đường ra đơn vị 1975), Vũ Ðức Giang (Thủy Quân Lục Chiến, tự tử chết trong trại học tập 1976)... Ðó là những bạn cùng lớp Khóa 21 Quân Y của tôi, những đàn em của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Quân Y 19 năm trước của anh, đã hy sinh trong những ngày vừa qua.

Anh Tô Phạm Liệu bây giờ ốm hơn trước. Anh Liệu cho biết là anh đang bị bệnh đái đường (diabetes mellitus).Nhưng anh vẫn uống rượu liên miên. Anh cho biết "có lẽ"đã bị chứng đau thần kinh vì đái đường(diabeticneuropathy). Tô Phạm Liệu bảo những cơn đau rất gần nhau và khá nặng. Nhưng anh vẫn không uống thuốc giảm đau.Tôi hiểu anh muốn có đau thể xác đó để cho mất cái đau tinh thần.

Tô Phạm Liệu nói là cảm thấy lẻ loi ở cái Ðại Hội Y Sĩ có nhiều những người "mặc quần mới áo đẹp" và"ăn to nói lớn," thích "nhảy đầm" và "xếp hàng để lên hát"... Trong cơn say anh nói là phải chi trước kia mườ imấy năm trước anh được "ở lại Charlie" với Trung tá Nguyễn Ðình Bảo, với các bạn nhảy dù thì "sướng hơn nhiều."

Tô Phạm Liệu chỉ thích uống rượu và "không muốn làm gì nữa cả."

Tôi không uống được nhiều rượu nhưng cũng uống hai ba ly rượu để làm vừa lòng anh. Tôi chú ý nghe anh nói. Anh nói chuyện vẫn hay và hấp dẫn. Mười chín năm trước đó, khi anh đang huấn luyện tâ nsinh viên quân y, mỗi lần nghe anh nói chuyện tôi hầu như thấy anh nói đều có lý cả. Lúc này thì khác. Có nhiều chỗ tôi thấy anh nói đúng. Có nhiều lúc tôi nghĩ là anh nghĩ sai. Nhiều lúc là "rượu nói" chứ không phải anh nói nữa. Nhưng tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều.

Giữa tiệc rượu của hai anh em, sau 15 năm mới gặp gỡ, Tô Phạm Liệu làm tôi ngạc nhiên khi nói là muốn đọc thơ cho tôi nghe. Anh nói là anh chả có thích thơ và cũng chả nhớ bài thơ nào nhưng chỉ thích và nhớ một đoạn trong bài thơ "Nhớ Rừng" của Thế Lữ:

"...Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi dứng uống ánh trăng tan
Ðâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới..."

Tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều hơn. Tôi vẫn kính trọng anh. Tôi vẫn thương mến anh như những ngày xưa, và cót hể là hơn những ngày xưa nữa.

Nhưng vẫn có những điểm tôi không đồng ý với anh Liệu.

Lần gặp gỡ đó là lần sau cùng tôi gặp người anh lớn của khóa tân sinh viên sĩ quan quân y ngày nào của chúng tôi.

Sau này tôi được biết anh đã dọn về ở tiểu bang Lousiana và làm việc ở một nhà thương nào đó.

Và đến bây giờ Huynh trưởng Tô Phạm Liệu đã vĩnh viễn ra đi.

Tờ cáo phó của tờ báo Người Việt trên tay tôi trở thành mờ nhạt:

"Vô cùng thương tiếc bạn chúng ta, Tô Phạm Liệu (1947-1997) Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù... đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 tháng Chín năm 1997... Cầu Anh Linh bạn quên phiền hà, coi như trở lại Charlie..."

Tôi nhìn qua khung cửa sổ.

Xa xa trên bầu trời trong xanh, gần những đám mây trắng ở trên thật cao, hình như mờ ảo có một cánh dù nhỏ bé...

Anh trở lại tìm Nguyễn Ðình Bảo và những anh em nhảy dù khác, những đồng đội đã "ở lại Charlie."

Tô Phạm Liệu: Người Trở Lại Charlie.

Tháng Mười 1997, Santa Maria, California

Phạm Anh Dũng
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Cái bóng của Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản
Hay là truyện Người lính nhỏ mà chính khí lớn
Vũ Tiến Quang

Yên Tử Cư Sĩ Trần Ðại Sỹ
(Trích Trong Bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)

Vũ Tiến Quang sinh ngày 30 thánh 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là Hạ Sĩ Ðịa Phương Quân Vũ Tiến Ðức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Ðức bị trúng đạn tử thương khi tuổi vừa mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với 2 con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang, 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Ðức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hòa có đăng bài: "Ngôi Sao Sa Trường, Thượng Sĩ Sữa: Trần Minh - Thiên Thần U Minh Hạ".


Bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường Minh về phục vụ tại Tiểu Ðoàn Ngạc Thần (tức Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 31, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh). Mà Tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nẩy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: "Mình phải như anh Minh".

Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì ... nguy lắm! Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là Ðịa Phương Quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Ðã không giúp bà Ðức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Ðức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3 Tiểu Khu Chương Thiện, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu Tá Lê Minh Ðảo, Tiểu Khu Trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Ðảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Ðức, xin Bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang. (Ghi chú: Thiếu Tá Lê Minh Ðảo hồi 1974 được thăng Thiếu Tướng, giữ chức Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Sau biến cố 1975, ông bị tù một thời gian dài. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1966, Thiếu Tá Ðảo giữ chức Giám Ðốc Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật. Bấy giờ tôi có dịp thăm Cần Thơ, được ông tiếp tại căn nhà tranh nổi bên sông, rồi ông đánh đàn cho nghe. Tôi mắc nợ ông món nợ văn nghệ từ hồi đó đến giờ mà chưa trả được. Nếu tính cả lời, chồng chất lên, e không trả nổi).


Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân mà không phải thi. Bà Ðức thân dẫn con đi Vũng Tầu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhẩy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao cho đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh và học Anh Văn. Trong lớp, môn Anh Văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết Ðệ Lục mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói chuyện lưu loát với cố vấn Mỹ.

Giáo Sư Việt Văn của Quang là Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:
"Nhân sinh tư cổ thùy vô tử,
Lưu thủy đan tâm chiếu hàn thanh."
(Người ta sinh ra, ai mà không chết. Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử.)
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.

Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, Thánh Tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Ðô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Báo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu đậm.

Suốt các niên học từ 1969 - 1974, mỗi kỳ hè được phép hai tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đành anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể chuyện chiến trường cho nghe. Một số ông anh uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một chuyện động trời, đến nỗi Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, Bộ Tư Lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu truyện như thế này:


Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Ðỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Ðược phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều... cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào các ông cũng dẫn Quang theo.

Trong một cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Ðơn vị Quang theo là Trung Ðội Trinh Sát của Trung Ðoàn 31. Trung Ðội Trưởng là một Thiếu Úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là Thiếu Úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung Ðội tiến vào trong làng thì lọt trận địa phục kích của Trung Ðoàn chủ lực miền, tên Trung Ðoàn U Minh. Trung Ðội bị một Tiểu Ðoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được 10 phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung Tâm Hành Quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nả vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.

Thông thường tại các quân trường Hoa Kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học những phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nả vào trận địch, nhiều rockets (hỏa tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới 7 viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có 4 vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không Quang đã ô hô ai tai rồi. Viên thứ bẩy trúng... chim. Viên đạn chỉ sớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.

Trung Tá J. F. Corter, Cố Vấn Trưởng Trung Ðoàn được Trung Ðội Trưởng Trinh Sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11:15 giờ mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung Tá J. F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.


Ðúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì "Không có tư cách mà lại chỉ huy." Nhưng các vị sĩ quan trong Sư Ðoàn 21, Trung Ðoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!


Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường mang cấp bậc Trung Sĩ. Quang nộp đơn xin về Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về Tiểu Ðoàn Ngạc Thần, tức Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 31, Tiểu Ðoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thật.

Trung Ðoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi) . Các cựu Thiếu Sinh Quân trong Tiểu Ðoàn 2 - 31 dẫn Quang đến trình diện Anh Hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau. Cẩn đuổi tất cả tùy tùng ra ngoài để anh em tự do xả xú bắp.

Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt Cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng... thì vuốt của anh phải sắc lắm!
- Hồi đó suýt chết, thế bi giờ mày ra trận có sợ không?
- Nếu khi ra trận, anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ, anh Thời Thẹo không có nhà.

Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu, uy quyền biết mấy, thế mà một Trung Sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào như không biết tới những người chung quanh. (Ghi chú: Thiếu Tá Thời, cựu Thiếu Sinh Quân, gốc người Huế, tính tình ôn nhu văn nhã, nhưng rất can đảm, hiện ông định cư tại Boston, Hoa Kỳ) .

Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

Tại Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Ðợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm Tiểu Ðội Trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm Trung Ðội Phó ngay, dù hầu hết cả Tiểu Ðội Trưởng đều ở cấp Trung Sĩ, Trung Sĩ Nhất, mà những người này đều vui lòng tuân lệnh Quang răm rắp!


Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng Trung Sĩ Nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Ðỏ. trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải Tiểu Ðoàn Tây Ðô. Ðây là một Tiểu Ðoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam... huấn luyện. Quang đã được Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
"Tây Ðô là Tiểu Ðoàn cơ động của tỉnh cần Thơ. Tiểu Ðoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp Ðại Ðội, Tiểu Ðoàn chúng không hơn các đơn vị khác là bao. Nhưng tác chiến cấp Trung Ðội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba Tiểu Ðội ra, chỉ Tiểu Ðội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai Tiểu Ðội hai bên xung phong. Nếu yếu thế thì chúng lui. Ta không biết đuổi theo thì sẽ dẵm phải mìn, rồi bị hai Tiểu Ðội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong thì dùng vũ khí cộng đồng nả vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mới phản công."

Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả Ðại Ðội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút Ðại Ðội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy Trung Ðội. Trung Ðội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Ðến đây thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
"Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả."

Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Ðại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ Trung Ðội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loat đạn, toàn bộ pòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong!
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ trên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Ðến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là Ðảng Bộ và Ủy Ban Nhân Dân của Huyện Châu Thành Cần Thơ. Trong đó có viên Huyện Ủy và viên Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Huyện.

Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Ðoàn Thị Ðiểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó là Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp Ðệ Ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Ðôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết chuyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý: Ðợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi thì cho cưới nhau.


Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử...
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất. Quân Ðoàn 2 rút lui khỏi cao nguyên, rồi Quân Ðoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29 tháng 4, trung Ðội của Quang chỉ còn 10 người. Tiểu Ðoàn Trưởng, Ðại Ðội Trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Chương Thiện trình diện Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội Miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ tẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sàigòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Ðúng lúc đó tại Chương Thiện, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các Quận Trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
"Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu."
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn, vì mất tinh thần. Chỉ còn lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, có một Ðại Ðội Ðịa Phương Quân cùng nhân viên Bộ Tham Mưu. Ðến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làm sóng cộng quân tràn vào trong Bộ Chỉ Huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng, kiêm Tiểu Khu Trưởng và một Trung Sĩ mới 19 tuổi. Trung Sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.


Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên Ðại Tá Chính Ủy của đơn vị có nhiện vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Ð.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Ðại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung Sĩ Quang chỉ Ðại Tá Cẩn:
- Thưa Ðại Tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Viên Chính Ủy chỉ những xác chết nói với Ðại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Ð.M, chúng mày sẽ phải đền tội.
Ðại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung Sĩ Quang ngang tàng:
- Ðại Tá có lý tưởng của Ðại Tá. Tôi có lý tưởng của tôi. Ðại Tá theo Karl Marx, theo Lenin; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi... Tôi không gọi Ðại Tá là tên Việt Cộng. Tại sao Ðại Tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của Ðảng Cộng Sản?
Viên Ðại Tá rút súng kê vào đầu Quang:
- Ð.M. Tao hỏi mày, bi giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Ðại Tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại Tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Ð.M. Mày có chịu nhận mày là tên Ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là Ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là Ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.

Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu Ðại Tá có chính nghĩa tại sao Ðại Tá lại dùng lời nói thô tục với tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Ð.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Ð.M. mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?

Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Ðộc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cười đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn? (Ghi chú: Nhân chứng quan trọng nhất chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân Bác Sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.)


Cái lúc mà Quang ngã xuống thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ Thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.

Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm, Quỳnh Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Ðích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.


Năm 1998, tôi có dịp đi công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp Các Viện Bào Chế Châu Âu (CEP - Coopérative Européenne Parmaceutique). Tôi đem J. M. Bodoret cùng đi. Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sàigòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thi mua tiên cũng được. Giấy phép có, Quỳnh Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiến Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Ðức. Quỳnh Chi muốn bỏ hài cốt Quang-Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạng. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.

Ngôi mộ của ông Ðức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
"Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi.
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng"

Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng.
Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.¨


Yên Tử Cư Sĩ Trần Ðại Sỹ
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Phận Bọt Bèo -
Nguyễn văn B. T
Càng ngày thời tiết càng khắc nghiệt hơn. Mấy năm nay mưa lớn, gió to xảy ra triền miên nên thường sinh ra bảo lụt . Không hiểu sao quê hương tôi chịu đựng quá nhiều tai biến. Bao nhiêu năm bị đô hộ, bao nhiêu năm chiến tranh, biết bao nhiêu người gục xuống dưới những lằn tên mủi đạn. Biết bao nhiêu chiếc khăn tang chít lên đầu những cô nhi, quả phụ.

Máu đào chảy khắp non sông, nước mắt úng tràn đất mẹ . Những cảnh máu đổ thịt rơi,xác người gom không đầy chiếc nón, chôn vội chôn vùi giửa núi cao rừng sâu đã làm Mẹ Việt Nam tuôn trào nước mắt. Những tưởng chấm dứt chiến tranh, con người sẽ được sống trong ấm no hạnh phúc, nhưng trớ trêu thay, chẳng những không khá hơn mà còn tồi tệ hơn đối với những người dân lương thiện vốn nghèo lại càng khốn khó thêm . Đời nào cũng vậy, Kẻ nào càng nghèo mạc bao nhiêu thì giai cấp càng thấp hèn bấy nhiêu . Người giàu có, may mắn tranh nhau vượt biển vượt biên, người thất thời thì khăn gói lên đường gọi là học tập cải tạo, ráng sống còn để rồi đi HO sang Mỹ. Còn những thân phận bọt bèo của chúng tôi thì ngàn thu vẫn thế. Vẫn đói, vẫn nghèo, vẫn hèn, vẫn bị nguyền rủa, miệt thị, vẫn bị lãng quên, vẫn bị cho là làm bẩn mắt, vẫn bị cho là kẻ thù , vẫn bị cho là sống thừa và còn trăm ngàn cái đắng cay khác mà họ muốn trút lên đầu những người bất hạnh như chúng tôi.

Đã 32 năm dài trôi qua, từ ngày Quân Lực miền Nam nghe lệnh bỏ súng, và cũng là ngày tôi được một người đồng cảnh cùng là thương bệnh binh dìu đở tôi ra khỏi Quân Y Viện một cách vội vàng trong lúc chân tôi máu vẫn còn đầm đìa vì mới cưa cắt hai hôm trước. Thế mà vẫn sống bên cạnh một người bạn lúc nào cũng ôm đùm ruột còn nằm trong bọc nylon đã đỗi màu đen thâm vì bụi đất mà chẵng có được một viên thuốc trụ sinh hay một lọ thuốc khử trùng. Hai đứa cùng tâm trạng là sợ gia đình buồn nên quyết định không về quê mà lang thang lếch thếch sống nhờ vào lòng từ tâm của những người còn kẹt ở lại ...

Hai tháng sau, người bạn đời đã vĩnh viễn ra đi vì đùm ruột nhiểm độc nặng sưng to và sình thối . Ba ngày trước khi chết anh ấy rên la trăn trở dử lắm. Tuy chân tôi đã lành nhưng hoàn cảnh quá đói rách tôi cũng bó tay ngồi khóc nhìn bạn đau đớn ra đi không nhắm mắt. Xác bạn được sở vệ sinh đô thành đến cuộn trong bao nylon ném lên xe rác chở đi ...? Lúc đó tôi cầm lòng không được, tôi khóc thật lớn - biết bao nhiêu cặp mắt nhìn tôi đầy vẽ thương hại và hỏi thăm hoàn cảnh hai đứa tôi . Nhiều người tốt bụng giúp cho tôi một số tiền khuyên tôi hảy về quê với người thân dầu gì cũng có người săn sóc và cận kề mỗi khi trái gió trở trời . Lời bà con khuyên cũng đúng , nhưng với thân hình què quặt cụt 1 tay và 1 chân làm sao cha già mẹ yếu chịu nỗi cái cảnh nhìn con nát tan như tàu lá chuối...

Nhiều năm trôi qua, dạ cầu chử Y là nơi tá túc lý tưởng nhất của đám nghèo mạc cùng đinh của chúng tôi. Nhiều gia đình trốn từ kinh tế mới về chen chút nhau sống dài dọc dưới gầm cầu như một xóm thân quen kẻ ở góc nầy người ở góc nọ không vách rào nhưng không ai xâm phạm lảnh thổ của ai, tự chia đất lớn nhỏ theo đầu người không ai đòi hỏi hay thắc mắc gì , thương nhau lắm có lẽ vì cùng hoàn cảnh. Không hộ khẩu, không có bất cứ cái gì mà bình thường con người ở trên hoàn vũ nầy phải có ít nhất dù chỉ là cái giường nằm hay cái nhà tắm hoặc cầu tiêu để cho việc vệ sinh cá nhân.

Chúng tôi hoàn toàn chẳng có gì cả mà cái xóm tự lập nầy có thể lên đến mấy trăm con người lương thiện bị đẩy cuộc sống ra ngoài vòng pháp luật vì nghèo quá không còn gì để họ ngó ngàng đến. Sống đơn độc ngày ngày khập khểnh mưu sinh qua những trái tim từ ái của bá tánh cũng tạm qua ngày. Nhưng cuộc đời của những kẻ thua cuộc có bao giờ được bình yên để an phận đâu . Lâu lâu có 1 ngày làm đẹp lòng lề đường để tăng vẽ mỹ quan thành phố thì lũ chúng tôi trốn chui trốn nhủi, mấy anh ngồi vá xe đạp bị tịch thâu đồ nghề, các chị gánh hành rong bị rượt đuổi như bắt cướp thấy mà xót xa cho những người dân nghèo .

... Nhớ ngày nào còn trên chiến địa, bao năm xông pha đễ giử yên bờ cỏi. Có lẽ tại chúng tôi bị thương, tập thể thương binh chúng tôi rời tay súng nên mới xảy ra mất nước. Vì chúng tôi là những bia thịt ở tuyến đầu, còn các vị tư lệnh hay, Tổng Tham Mưu Trưởng hay Tổng Thống họ đánh giặc bằng mồm nhiều hơn nên không có những chục ngàn bia thịt của chúng tôi thì họ chạy làng, rồi ung dung sống sa hoa nơi xứ người không còn màng đến chúng tôi, những thân tàn ma dại mà họ đã từng ra lệnh Tổng Động Viên, bắt quân dịch v.v.. Chiến trận cũng như bàn cờ có lúc thắng lúc thua. Tôi không than thở vì mình phải thua, nhưng làm tướng phải chết theo thành chứ ai đâu mà chạy làng ra hải ngoại trước người ta với gia sản kếch xù đã chuẩn bị trước.

30 năm đơn độc có lắm khi mệt mỏi quá tối ngủ vùi ngoài bến xe, nhà ga hay sạp chợ. Cuộc sống đã quen và chai lỳ đối với mưa nắng gió sương. Ngày ngày vác bị chống nạng lếch thếch đi khắp mọi nơi để mưu sinh cầu thực. Một hôm tôi gặp lại người bạn cùng đơn vị, cũng phế binh, nhưng may mắn hơn là có vợ và 2 con sống trong một chòi lá nghèo nàn sơ xác. Nhìn thấy căn chòi lá xiêu vẹo, tơi tả được chèn vá bằng mấy tấm giấy thùng và bao ny lon dưới lùm cây trong nghĩa địa mà thương bạn vô cùng. Hai vợ chồng bạn mời gọi tôi về ở chung cho vui. Thoạt đầu tôi ngần ngại, sau đó tôi đồng ý về đó ở chung cho thêm phần ấm cúng. Ngay ngày đầu tiên tôi về ở chung trong nghĩa địa, có mấy anh em cũng là lính cũ cùng gia đình tá túc nơi ấy đến hỏi thăm tôi và có mời tôi một chung rượu đế gọi là buổi sơ giao của những con người không phải là công dân của một đất nước Đảng lảnh đạo nhà nước quản lý.

Từ đó trong xóm nhà lá không số ở nghĩa địa Phước Bình có tôi gia nhập sống chung với ma, những lúc hè nóng nực rủ nhau ngũ trên mã cho mát là thói quen của chúng tôi. Sáng sớm mạnh ai nấy bung ra đi kiếm sống. Tối về quay quần lại nấu ăn chung cho vui. Cuộc đời chúng tôi chỉ có thế mặc thế sự nhân tình có đổi thay, thay đổi thế nào đi chăng nửa chúng tôi cũng chẳng còn ham muốn gì hơn. Mới đó mà tôi đã về tá túc nghĩa trang gần sáu năm trời, thời gian qua cũng vùn vụt nhưng lắm khi uể oải trôi đi trong ngao ngán sự đời.

Chúng tôi là lũ người hạ cấp nhất đã bị bỏ quên bao nhiêu năm nay ở chốn địa ngục trần gian không còn bút mực nào viết hết được những đắng cay tủi nhục của một con người sống vào thế kỷ 21 này. Hôm qua được chủ nhà tốt bụng ở xóm bên kia nghĩa trang cho chúng tôi mượn địa chỉ liên lạc Hội cứu trợ TPB, nhắn hôm nay người giao tiền do Hội gởi sẽ trở lại xem đúng người mới giao tiền . Nôn nóng cả đêm không ngũ được, mới tờ mờ sáng hai chúng tôi đã chực chờ bên hiên nhà người cho mượn địa chỉ. Đến trưa chiếc xe HonDa chở 2 người dừng lại, tìm gặp hai đứa tôi và trao cho mỗi người chín trăm bảy mươi ba ngàn, may mắn cho chúng tôi quá đúng lúc quê mình đã bắt đầu vào mưa cần để sữa nhà và mùa mưa khó kiếm sống lắm.

Nhờ có chút tiền chúng tôi mua lá về che thêm cho kín gió kín mưa. Nhờ cho số tiền to lớn đó tôi nhờ một cháu trong xóm nhà không số trên chuyến đi buôn trên xe lữa ghé thăm ba mẹ tôi và tôi gởi biếu ông bà bảy trăm ngàn đồng và nhắn nhủ rằng tôi đi làm ăn xa, sắp về xứ lại thời gian không xa lắm và thăm hỏi sức khoẻ tưng người trong gia đình. Lá thư tôi viết lung tung bởi rối bời trong lòng vì xúc động thương cha nhớ mẹ từ ngày ấy đến nay. Hai hôm sau cháu bé đi bán hàng đã về, em chạy lại cho tôi hay là Ba tôi đã mất từ lâu còn Mẹ tôi mắt mờ đi đứng run rẩy phải chống gậy không đi xa được. Tôi la Trời lên, tay đấm ngực khóc ròng chỉ vì mặc cảm cụt què không về để rồi Cha chết không hay, Mẹ già không ai săn sóc. Lão đão, cố đứng lên đi từ biệt từng người để về quê phụng dưởng Mẹ già. Tội nghiệp những con người không hộ khẩu, không có giấy chứng minh nhân dân đã chắt mót, gom góp biếu tặng cho tôi một số tiền làm lộ phí về quê nuôi Mẹ. Tôi ra đi trong giọt ngắn giọt dài, vừa khóc thương Mẹ nhớ Cha vừa khóc cho tình người trong nghỉa địa nghèo nàn nhưng đầy ấp tình thương.,..

Khập khểnh quanh co, nhiều thay đổi nên phải hỏi thăm mới tới được nhà mình. Tôi nhào lại ôm mẹ tôi khóc không ngưng, Mẹ tôi quỵ mọi xuống ôm con khóc không ra tiếng, Mẹ nói Mẹ và cả nhà tưởng tôi đã chết trong những ngày cuối cùng triệt thoái cao nguyên. Hai Mẹ con ôm nhau khóc mấy tiếng đồng hồ , chòm xóm hay tin chạy sang chút mừng đoàn tụ cũng ngồi khóc theo khi nghe tôi tường thuật lại bao năm sống bụi bờ. Mẹ tôi vừa khóc vừa nói : “ Tội tình gì con ơi ! " . Bác Tư kế nhà vỗ vai tôi khuyên nhủ và nói thôi mọi chuyện đã rồi, nay lo cho những ngày kế tiếp. Tôi đứng dậy tựa vào cột nhà cám ơn bác Tư và bà con chòm xóm đã đến chia xẻ với gia đìmh tôi.

Mọi sự lắng dịu chưa đầy mươi phút, có Ông Công An Khu Vực đến hỏi tôi chứng minh nhân dân và giấy tạm vắng tạm trú. Tôi hơi bàng hoàng vì làm gì tôi có. Ông Công An nói tiếp rằng : " Anh không có các giấy tờ trên thì coi như anh là người sống ngoài vòng pháp luật, mọi người phải biết rằng nếu không có chứng minh nhân dân tức là không có quyền công dân , tôi mời anh theo tôi về Công An Xả để xử Lý ...”

Ngoài trời gió mưa mù mịt, lòng tôi tái tê khi thấy Mẹ tôi quỳ khóc, van xin, lạy lục trước sự chứng kiến của bà con chòm xóm. Tôi lếch thếch chống nạn đi theo Ông Công An với cỏi lòng tái tê chết lặng mà quên cả ngoài trời đang cơn mưa giông gió lớn . Tôi không dám quay lại nhìn mẹ, vì tôi không còn đủ can đảm...

... Ông Công An lấy tấm cao su trùm lên người đi phăng phăng phía trước thỉnh thoảng quay lại hối tôi “ Nào ! đi nhanh lên... " ...

"Mẹ ơi, con mẹ chưa già,
Giữ quê quê mất, giữ nhà nhà tan"

Thơ Hà Huyền Chi
TRA-MAI
Posts: 20
Joined: Sun Jun 03, 2007 7:27 pm
Location: San Diego
Contact:

Đoàn Nữ Quân Nhân Của QLVNCH

Post by TRA-MAI »

Đoàn Nữ Quân Nhân Của QLVNCH
TUYẾT MAI .

Image
Trong những năm chiến trường VN sôi động, hàng hàng lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ, để đáp lời sông núi, bên cạnh những thanh niên hăng say cũng có hằng ngàn thiếu nữ, mang trong tim dòng máu kiêu hùng của Nhị Vị Trưng Vương, của Bà Triệu đã tình nguyện gia nhập vào Đoàn Nữ Quân Nhân của QLVNCH.

Sau 30 Tháng Tư, 1975, cùng chung thân phận của các quân nhân trong QLVNCH, các chị em Nữ Quan Nhân cũng tan hàng rã cánh, người bị kẹt lại VN phải tù cải tạo, kẻ vượt biên chôn mình trong biển thẳm rừng sâu, người phiêu dạt bốn phương trời. Để có cơ hội gặp lại nhau, duy trì tình thân thương đoàn kết, hồi tưởng những kỷ niệm vui buồn trong quân ngũ và cũng để tưởng nhớ những chị em đã quá vãng, các chị em Đoàn Nữ Quân Nhân QLVNCH cứ ba năm tổ chức một kỳ đại hội . Đại Hội I được chức ở Bắc Cali năm 1998, Đại Hội Kỳ II ở Nam Cali năm 2001, Đại Hội III ở Washington, D.C. năm 2004.

Đại Hội kỳ IV 2007 sẽ tổ chức :
- Họp nội bộ sáng Thứ Bảy 25/8 tại phòng họp Báo Người Việt từ 9Am – 2PM.
- Dạ tiệc từ 6Pm – 11Pm , ngày 26 Tháng 8, 2007, tại
Nhà Hàng Paracel Seafood Restaurant
15583 Brookhurst Street
Westminster , CA 92683

Mặc dầu với quân số khá đông, một phần trăm của nam quân nhân trong QLVNCH , Đoàn Nữ Quân Nhân đã góp phần tích cực trong cuộc chiến chống Cộng Sản xâm lăng, tuy nhiên nhiều người có một ý niệm rất mù mờ về vai trò của người nữ quân nhân trong quân đội. Các chị em được coi như “hoa lạc giữa rừng gươm”, nhiều người nghĩ sự hiện diện của các chị em là để tô điểm cho Quân Đội thêm tươi mát.

Sự thực thì, cứ mỗi một nữ quân nhân gia nhập vào quân đội thì một nam quân nhân ở hậu phương được thuyên chuyển ra chiến đấu ở tiền tuyến. Các chị em nữ quân nhân đã được huấn luyện và yểm trợ một cách hữu hiệu ở hậu phương.

Mặc dầu nữ quân nhân không tác chiến hiểm nguy như những nam quân nhân ngoài mặt trận, nhưng xương máu của các chị em cũng thấm đẩm trong lòng đất mẹ qua những chuyến công tác liên tỉnh, liên vùng, bị giật mìn, bị pháo kích, bị bắn rớt phi cơ…Trong Nghĩa Trâng Quân Đội có mộ của Hồ Thu Hương, của Ngọc Sương, của Thiếu Uý Quỳnh Hoa… Và người chị cả của Gia Đình Nữ Quân Nhân là Cố Đại Tá Trần Cẩm Hương đã bị đi tù cải tạo mười năm. Sau khi được trả tự do, về nhà Bà tiếp tục bị đày đọa và đã từ giả chị em, về cõi vĩnh hằng năm 1986 .

Tưởng cũng nên nhắc lại sơ lượt về sự hình thành của Đoàn Nữ Quân Nhân trong QLVNCH. Theo lời của Cố Trung Tá Hồ Thị Vẻ, từ năm 1950 ở Miền Trung, quân đội địa phương có Việt Binh Đoàn Trung Việt, Bộ Tham Mưu đặt tại Huế. Ở đây người ta có thu nhận nữ nhân viên làm việc, và đồng hóa với nam quân nhân.
Tổng số những nữ nhân viên này có khoảng vài trăm, họ làm việc trong các văn phòng như thư ký, đánh máy, kế toán, y tá trong quân y viện…

Năm 1952 Ban Nữ Phụ Tá Bộ Tổng Tham Mưu được thành lập do một Nữ Sĩ Quan Pháp Melle Arlette Arnaud và Chuẩn Uý Nguyễn Thị Hằng là người đặt nền móng cho Đoàn Nữ Phụ Tá, trực thuộc Phòng Nhất Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Sau đó có rất đông phụ nữ được tuyển mộ vào phục vụ trong các văn phòng Tham Mưu, Ban, Ngành và các Cơ Quan trong Quân Đội Miền Nam kể cả Bộ Tư Lệnh Không Quân và Hải Quân.
Đoàn Nữ Phụ Tá gồm các ngành :
1. Tham Mưu: Thư ký, đả tự viên.
2. Quân Y: Y tá và các chuyên viên khác trong ngành
3. Truyền Tin: Tổng Đài viên điện thoại, viễn ấn tự viên, mật mã viên..
4. Quân Nhu: gấp và sửa chữa dù, kế toán quân trang quân dụng .
5. Xã Hội: Cán sự và Nữ Trợ Tá Xã Hội.
Trong ngành Quân Nhu, một số NQN sửa chữa dù được huấn luyện nhảy dù nếu muốn, để tham gia nhảy dù biểu diễn tại các vùng chiến thuật.
Về ngành Xã Hội, người đầu tiên được mời làm Sở Xã Hội Quân Đội là Bà Trần Cẩm Hương, Cán sự Xã Hội từ Dòng Nữ Tu Saint Vincent de Paul. Sau này có nhiều cán sự xã hội đựơc đào tạo từ trường Cán Sự Xã Hội Caritas ở đường Tú Xương.
Từ Tháng 10, 1959 Nha Xã Hội được phép tổ chức khoá Sĩ Quan Xã Hội Quân Đội , thời gian thụ huấn là hai năm rưỡi. Các ứng viên phải có bằng Tú Tài và khi tốt nghiệp được mang cấp bậc Chuẫn Úy và được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Phòng Xã Hội Sư Đoàn.

Năm 1959 Bộ Quốc Phòng quyết định hủy bỏ ba trong năm ngành chuyên môn của Đoàn Nữ Phụ Tá, chỉ còn giữ lại Quân Y và Xã Hội.

Đến 1965 chiến tranh leo thang, cần thêm quân số nên Bộ Quốc Phòng cho thành lập Đoàn Nữ Quân Nhân để tuyển phụ nữ vào quân đội, thay thế nam quân nhân ở hậu phương. Sau đó Nữ Phụ Tá được sáp nhập vào Đoàn Nữ Quân Nhân. Văn Phòng Trưởng Đoàn và Trung Tâm Huấn Luyện NQN được đặt tại đường Nguyễn Văn Thoại, ranh giới Quận 10 – 11 Saigon và dưới sự chỉ huy của Bộ TTM/QLVNCH.
Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân kiêm Trung Tâm Huấn Luyện/NQN đầu tiên là Thiếu Tá Trần Cẩm Hương. Trung tâm Huấn luyện NQN đảm nhận việc tuyển mộ phụ nữ từ 18 tuổi trở lên. NQN được huấn luyện căn bản quân sự, tổ chức quân đội, cơ bản thao diễn… học chút ít về vũ khí ở Trung Tâm huấn luyện Quang Trung .

Tùy nhu cầu, nữ quân nhân được huấn luyện chuyên môn tại các trường Tổng Quản Trị, Quân Y, Hành Chánh Tài Chánh, Quân Nhu, Xã Hội …Về sĩ quan Nữ Quân Nhân, Trung Tâm Huấn Luyện NQN đã đào tạo được bảy khóa. Bốn khóa căn bản sĩ quan Nữ Điều Dưỡng cho Không Quân và Hai khóa sĩ quan cho ngành Cảnh Sát .
Một số sĩ quan căn bản và cao cấp NQN được huấn luyện ở Hoa Kỳ như ở Fort Mc Clellan, Alabama; khóa Dân Sự Vụ ở Fort Gordon, Georgia; Khóa Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị ở Foprt Bragg, North Carolina; Tổng Quản Trị tại Fort Benjamin Harrison, Indiana.

Quân số Nữ Quân Nhân trên lý thuyết dự định là 10 ngàn người, đã thực hiện gần 6000, riêng sĩ quan kể cả Chuẩn Uý là 600 trước 1975.

Như trình bày trên đây, sự hiện diện của Nữ Quân Nhân trong QLVNCH không phải chỉ là những bông hoa để tô đẹp cho Quân Đội mà họ là những chuyên viên, là những người được huấn luyện để có thể hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp ở hậu phương.
Trong hai lãnh vực Y Tế và Xã Hội, không phải chỉ đòi hỏi người NQN có khả năng chuyên môn mà đòi hỏi một tấm lòng thiết tha với tình người và đất nước. Người Nữ Quân Nhân phục vụ trong ngành Y tế làm công việc của một “nữ cứu thương”, để hàn gắn, để xoa dịu nỗi khổ đau của chiến tranh, thể hiện trên thân thể của người lính chiến, những anh em Thương Phế binh. Các chị em là những thiên thần áo trắng .
Người Nữ Quân Nhân trong ngành Xã Hội, không phải chỉ lo về những vòng hoa chiến thắng và mấy gói quà ngày xuân …mà họ là những người thật sự giúp đỡ gia đình để người lính an lòng chiến đấu ngoài mặt trận. Trong lúc người lính đi hành quân xa nhà , gần như bất cứ việc gì vợ con cần giúp đỡ, họ đều đến phòng xã hội, từ việc đưa trẻ con đi khám ở bệnh xá cho đến việc học hành của trẻ con lớp mẫu giáo, trong các trại gia binh.

Khi người lính bị thương được tải về bệnh viện ở xa, người vợ làm sao đi thăm chồng, ăn ở đâu lúc xa nhà, làm sao lãnh lương của chồng, ai lo phương tiện cho người thương binh trở về đơn vị cũ? … mọi việc được điều hành bởi bàn tay và tâm huyết phục vụ của người nữ trợ tá xã hội.

Trong những trận đánh lớn, xác tử sĩ được chuyển thẳng về Quân Y Viện hay Nghĩa Trang Quân Đội . Nữ trợ tá xã hội là người giúp các quả phụ nhận diện xác chồng, liên lạc với phòng Tuyên Úy để mời vị lãnh đạo tinh thần đến làm lễ, quấn lên đầu trẻ mồ côi những vành khăn tang, lắng nghe để chia sẻ và dìu đỡ những bà mẹ khổ đau, tiễn con ra nơi an nghĩ cuối cùng…

Dưới cái nắng thiêu đốt của miền nhiệt đới, nhiều xác chết chưa có thân nhân đến nhận xình chương, hôi thối không thể tưởng và người nữ trợ tá phụ với các nam quân nhân lo chôn cất, làm việc ngày này qua ngày khác trong cái môi trường nặc nồng ám khí …người nữ trợ tá xã hội phải là những người rất nặng tình với đất nước. Họ là những nàng tiên áo xanh, đã đem bàn tay bé nhỏ và trái tim dào dạt tình người ra phục vụ quê hương.

Trong cuộc chiến chống xâm lăng của CS, Nữ Quân Nhân đã không tạo được chiến tích vẻ vang lừng lẫy ngoài mặt trận, nhưng đã hỗ trợ tích cực ở hậu phương, rất xứng đáng và hãnh diện mình là con cháu của hai Bà Trưng, Bà Triệu, góp phần không nhỏ trong việc tô thắm màu cờ và những trang sử oai hùng của dân tộc Việt.

Ban tổ chức Đại Hội Nữ Quân Nhân kỳ IV rất mong mỏi các chị em nữ quân nhân thuộc các ngành, cơ quan, phòng , sở , trong các Quân Binh Chủng QLVNCH , các chị em CSQG (Đoàn Thiên Nga) cùng về tham dự , để cùng nhau sống lại những ngày xưa thân ái và cùng chia sẻ những buồn vui của quãng đời còn lại tha hương.
Muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc với
Nguyễn Thị Hạnh Nhơn (714) 539-3545
Nguyễn Thanh Thủy (714) 891-4359
Trần Thị Huy Lễ (714) 893-4971
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Mặt trận Khánh Dương: 19 tháng Ba đến 2 tháng Tư, 75

Khánh Dương là một thị trấn nhỏ, nằm ở độ cao khoảng 1,000 mét, cạnh quốc lộ 21, nối liền vùng cao nguyên Ban Mê Thuột với vùng duyên hải tỉnh Khánh Hòa, cách QL 1 khoảng 60km. Khánh Dương là vùng đất đồi núi trong khung cảnh thiên nhiên bao quanh bởi những khu rừng già thật hùng vĩ, như che chở sự sống bình yên cho những người dân di cư trú ngụ từ bốn phương trời. Hầu hết, họ là những gia đình quân nhân di hành theo bước quân ngũ đến đây lập nghiệp sinh sống. Quanh Khánh Dương là những bản Thượng có nhiều sắc dân thiểu số hiền hòa sinh sống.

Cách Khánh Dương về hướng Ðông dọc theo quốc lộ 1 không bao xa, núi Ðá Bia nằm trên Ðèo Cả thuộc Phú Yên, sừng sững khối đá lớn trông như tạc hình ảnh mẹ bồng con đứng nhìn ra biển gọi là hòn Vọng Phu, hay còn gọi là núi Mẹ Bồng Con (sự tích Hòn Vọng Phu dựa theo câu chuyện dân gian: Trong thời tao loạn, có hai anh em ruột vì chạy giặc phải ly tán từ thuở nhỏ. Khi chàng trai và cô gái gặp nhau vì không nhận ra nhau nên thương yêu nhau và kết duyên vợ chồng, sinh hạ được đứa con, ăn ở với nhau rất hạnh phúc. Thế rồi một ngày, người chồng gội đầu cho vợ, thấy có vết sẹo, lần mò câu chuyện, người chồng mới vỡ lẽ vết sẹo đó do chính chàng gây ra cho cô em gái từ thuở nhỏ. Người chồng đau khổ, ân hận, không dám nói cho vợ biết, lặng lẽ ra đi. Biệt tăm chàng, người vợ thương nhớ chồng, ôm con lên núi đứng chờ cho đến khi hóa đá).
Vào những ngày đầu năm 1975, dưới áp lực của địch đè nặng của địch trên cao nguyên, phòng thủ Khánh Dương được tăng cường Trung Ðoàn 40 thuộc SÐ22BB do Ðại Tá Thiều làm trung đoàn trưởng và hai Tiểu Ðoàn ÐPQ thuộc Liên Ðoàn 922 Ðịa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Khánh Hòa trấn giữ. Sau khi chiếm lĩnh trọn vùng Cao Nguyên gồm các tỉnh Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, cộng quân muốn tiến về vùng duyên hải để tiến chiếm Khánh Hòa, Phú Yên và Qui Nhơn nên bằng mọi giá họ phải bứng Khánh Dương.

Lực lượng địch:

- SÐ F10 chủ lực tấn công BMT.
- SÐ320 đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với nhảy dù ở Thượng Ðức.
- SÐ316 CSBV từ Nam Lào tiến sang.
- 5 trung đoàn pháo binh gồm 48 khẩu pháo đủ loại và phòng không.
- 1 trung đoàn chiến xa, một trung đoàn đặc công.
- 2 trung đoàn công binh, một trung đoàn thông tin.

Lực lượng bạn:

- Trung Ðoàn 40/SÐ22 Bộ Binh do Ðại Tá Thiều làm trung đoàn trưởng.
- Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù, LÐT là Trung Tá Lê Văn Phát gồm:
Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù, TÐT Thiếu Tá Trần Công Hạnh.
Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, TÐT Trung Tá Bùi Quyền.
Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, TÐT Trung Tá Nguyễn Văn Thành.
Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, TÐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Triệu.
Ðại Ðội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ÐÐT là Ðại Úy Nguyễn Viết Hoạch.
- 2 tiểu đoàn thuộc Liên Ðoàn 922 Ðịa Phương Quân/Tiểu Khu Khánh Hòa.
- 1 chi đoàn M113.

Diễn tiến:

Trưa ngày 14 Tháng Ba, 1975, trong khi Sư Ðoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Ðại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ðặng Văn Quang, phụ tá an ninh quân sự của tổng thống, đã họp mật với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Ðoàn 2-Quân Khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân Ðoàn 2/Quân Khu 2 khỏi cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lãnh thổ Quân Khu 2.
Vào lúc 5 giờ 10 chiều ngày 14 Tháng Ba 1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với thành phần tham dự gồm có: Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, phụ tá hành quân; Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh Sư Ðoàn 6 Không Quân; Ðại Tá Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt Ðộng Quân Quân Khu 2 (gồm 5 liên đoàn biệt động quân); Ðại Tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng QÐ 2 & Quân Khu 2.
Mở đầu cuộc họp đặc biệt này, Tướng Phú đã thừa lệnh tổng thống VNCH gắn cấp chuẩn tướng cho Ðại Tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dung cuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm và tân Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao Nguyên.
Sáng ngày 15 Tháng Ba 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Ðoàn 2/Quân Khu 2 cùng với một số sĩ quan trưởng phòng và sĩ quan tham mưu đã bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ Tư lệnh Quân Ðoàn 2/Quân Khu 2 tại đây.

Sau khi tấn chiếm hoàn toàn thị xã Ban Mê Thuột, cộng quân gấp rút điều động các Sư Ðoàn 320, 316, 968, và F10 di chuyển tiến chiếm Pleiku và khi biết được Pleiku bỏ ngỏ họ điều quân tấn công thẳng xuống khu vực đồng bằng dọc theo duyên hải qua hai ngã QL 19 và QL 21.
Ngày 15 Tháng Ba 1975, LÐ3ND đang trấn đóng tại Ðại Lộc Quảng Nam sau chiến trận Thượng Ðức, được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho Lữ Ðoàn 369 TQLC và xuống 2 tàu Dương Vận Hạm HQ504 và HQ404 của hải quân tại cảng Ðà Nẵng để xuôi Nam về phòng thủ Sài Gòn theo lệnh triệt thoái của bộ TTM. Trong lúc đó, Thiếu Tướng Phú xin bộ tổng tham mưu cho LÐ3ND tăng viện để lập phòng tuyến mới tại Khánh Dương. Cùng một lúc LÐ2ND được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm phía Bắc đèo Hải Vân cho TQLC và được không vận thẳng về Sài Gòn.
Theo lịch trình di tản của Quân Khu 2, ngày 16 Tháng Ba 1975, một số đơn vị tiếp vận, pháo binh, công binh của Quân Ðoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của đơn vị Lữ Ðoàn 2 Kỵ Binh, Liên Ðoàn 7 BÐQ đã khởi hành ra khỏi thị xã Pleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái khỏi Pleiku.

Khi Tiểu Ðoàn 58/LÐ7BÐQ tiến chiếm đỉnh đèo Cheo Reo và làm chủ tình hình trận địa thì CQ dùng chiến xa tấn công và bao vây lực lượng BÐQ ở phía dưới chân đèo hướng tỉnh lỵ Phú Bổn. Các tiểu đoàn 32 và 85BÐQ, pháo binh và phân đội hỏa tiễn TOW đã dàn đội hình chống trả quyết liệt. Trận chiến càng lúc càng khốc liệt. Liên đoàn 7 BÐQ xin phi pháo yểm trợ, 40 phút sau, oanh tạc cơ của không quân VNCH đến oanh kích CQ quanh trận tuyến. Ðến 18 giờ 05 phút, chiến trường mới tạm im tiếng súng, nhưng cộng quân vẫn còn áp lực quanh đoàn quân di chuyển.

Chiều 18 Tháng Ba 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 về đến Hậu Bổn, tỉnh lỵ tỉnh Phú Bổn, nơi Quân Ðoàn 2 đặt bộ tư lệnh nhẹ để điều động cuộc triệt thoái, điểm đến là vùng duyên hải còn cách hơn 160km. Trong khi công binh chưa làm kịp cầu phao bắc qua sông Ê-Pa.
Tối 18 Tháng Ba 1975, cộng quân lẻn vào khu vực Tây Nam của vòng đai tỉnh lỵ Hậu Bổn, sử dụng súng cối pháo kích vào một số vị trí dừng quân của các đơn vị triệt thoái. Phi trường Hậu Bổn cách bộ tư lệnh nhẹ Quân Ðoàn 2 chưa đến 2km bị cộng quân chiếm. Liên đoàn 7 BÐQ được điều động phản công, đẩy lùi cộng quân ra khỏi khu vực Tây Nam của tỉnh lỵ. Kịch chiến diễn ra suốt đêm và kéo dài đến ngày hôm sau.
Chiều ngày 19 Tháng Ba 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Một số lớn chiến xa M 48 và M 41 của Lữ Ðoàn 2 Kỵ Binh bị kẹt lại tỉnh lỵ Hậu Bổn.

Trong ngày này, đang trên đường xuôi Nam sau 2 ngày và 3 đêm hải hành, LÐ3ND được lệnh đổ quân xuống Cầu Ðá Nha Trang để tăng viện cho mặt trận Quân Khu 2. Sau khi cập Bến Nha Trang, Trung Tá Lê Văn Phát LÐT/LÐ3ND nhận lịnh từ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú: Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù điều động 3 tiểu đoàn cơ hữu 2, 5 & 6 nhảy dù cùng một tiểu đoàn pháo binh 105 ly và Ðại Ðội 3 Trinh Sát Nhảy Dù đến lập tuyến phòng thủ dọc theo QL21 trên đèo M'Drak khởi đầu từ chân đèo Phượng Hoàng đến Khánh Dương.
Trong khi cuộc triệt thoái của lực lượng Quân Ðoàn 2 đang diễn ra trên liên tỉnh lộ 7B, thì tại tỉnh Quảng Ðức, vào trưa ngày này, cộng quân đã tấn công cường tập vào tỉnh lỵ và chi khu Kiến Ðức, chi khu trưởng Kiến Ðức bị thương. Ðến 3 giờ 20 chiều 20 Tháng Ba 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 mất liên lạc với Ðại Tá Nghìn - tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Quảng Ðức.
Cộng quân áp lực Khánh Dương
Cùng lúc tấn công vào Quảng Ðức, trong ngày 20 Tháng Ba 1975, cộng quân đã áp lực nặng ở Bắc Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa. Tin tức tình báo ghi nhận sư đoàn 968 CSBV và hai trung đoàn của sư đoàn 320 CSBV đã từ Ban Mê Thuột di chuyển xuống Khánh Dương, cách địa điểm này 8km về hướng Tây Bắc.

Ngày 20 Tháng Ba 1975 Trung Tá Lê Văn Phát ra lệnh cho BCH/LÐ3ND, TÐ2ND, TÐ3PBND, ÐÐ3TSND theo đường bộ kéo lên Dục-Mỹ, Ninh Hòa. TÐ5ND và TÐ6ND rải quân bố trí từ núi Chu Kroa (3100m) dọc theo QL21 dài khoảng 30 cây số về Khánh Dương. Phía Nam của LÐ3ND có một TÐ Ðịa Phương Quân trấn giữ. Tại đèo Cả trên QL1 có TÐ34BÐQ trách nhiệm trấn giữ.
Mặt trận Quân Khu 2 cuối Tháng Ba 1975
Sáng ngày 21 Tháng Ba tất cả đơn vị thuộc LÐ3ND đều sẵn sàng tại vị trí chiến đấu của mình. Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá Bùi Quyền làm TÐT trấn ngự tại phía Nam Thị trấn Khánh Dương cạnh QL21; Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Thành làm TÐT trấn ngự tại cao điểm 957m Buôn Ea Thi. Và Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù trấn ngự ngay tại chân đèo Phượng Hoàng. BCH Lữ Ðoàn, TÐ3 Pháo Binh và Ðại Ðội 3 Trinh Sát đóng tại Dục Mỹ.
Vào lúc 12 giờ 15 ngày 21 Tháng Ba 1975, phi trường Khánh Dương bị pháo kích. Một đơn vị CQ di chuyển về vị trí cách phi trường Khánh Dương khoảng 1km về hướng Nam. Tin tức tình báo cho biết 2 Sư Ðoàn Cộng Sản F10 và 320 từ Ban Mê Thuột sẽ tiến đánh Khánh Dương bứng nút chặn LÐ3ND để dọn đường tiến thẳng về Sài Gòn.
Sau khi quan sát trận địa, Trung Tá LÐT yêu cầu Quân Ðoàn tăng viện ít nhất một sư đoàn bộ binh hậu thuẫn để cho Lữ-Ðoàn 3 Nhảy Dù có thể xung kích ngăn chặn đà tiến quân của địch quân. Quân đoàn đã trả lời không còn quân để tăng viện.

17 giờ 45, một trung đoàn của SÐF10 CSBV tấn công vào TÐ2/40/22BB tại 10km phía Tây Khánh Dương (cây số 62). Gần 100 cộng quân bỏ xác tại trận và 2 tù binh. Ðây chỉ là trận đánh dò dẫm của cộng quân.
Sáng ngày 22 Tháng Ba 1975, mặt trận Khánh Dương bị áp lực nặng. Lực lượng CQ đã dốc toàn lực mở cuộc tấn công phòng tuyến Khánh Dương.
7.30 giờ cộng quân mở trận địa pháo kinh hồn vào các đơn vị phòng thủ phía Tây Khánh Dương. Hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại tới tấp rơi vào các căn cứ phòng thủ của Trung Ðoàn 40BB và 2 Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân Tỉnh Phan Rang. Sau đó SÐF10/CSBV dốc toàn lực biển người với xe tăng yểm trợ tấn công vào các đơn vị này. Sau một giờ giao tranh các đơn vị phòng thủ bị tràn ngập và cắt ra từng mảnh nhỏ, trên phân nửa quân số bị thương vong, một sô tàn quân của các đơn vị này rút về phía Nam của phòng tuyến nhảy dù rồi tiếp tục rút về Diên Khánh.
9 giờ 00 sáng cộng quân tiến về Chi khu Khánh Dương với 12 chiếc xe tăng hỗ trợ không cần ngụy trang. Sau đó CS pháo đại bác 122 ly vào quận Khánh Dương, đến 9 giờ 30 thì chi khu Khánh Dương mất liên lạc. Ðến 10 giờ, quận trưởng Khánh Dương báo cáo phải di tản chiến thuật vì cộng quân tràn ngập.

Ngày 23 Tháng Ba 1975 tại mặt trận Khánh Dương, cộng quân đã gia tăng áp lực tại tuyến phòng ngự của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù. Lữ đoàn trưởng LÐ3ND yêu cầu phi pháo oanh kích đoàn chiến xa CSBV khoảng 20 chiếc trên đường kéo lên đèo M'Drak và xin tăng cường lực lượng thiết kỵ cũng như trang bị hỏa tiễn TOW chống chiến xa.
16 giờ 30, nhiều chiến xa của cộng quân xuất hiện ở vị trí cách trung tâm quận lỵ Khánh Dương 2km về phía Tây Bắc. Ở phía Ðông Nam Khánh Dương, phi cơ quan sát của không quân VNCH ghi nhận có 2 chiến xa T-54. Ở phía Bắc có nhiều xe kéo đại pháo cách quận lỵ khoảng 3km. Không quân đã thực hiện nhiều phi xuất oanh tạc chính xác ngăn chặn mức độ tiến quân của cộng quân.
Sau đó các đơn vị tiền sát của LÐ3ND bắt đầu chạm địch, với thế tấn công ào ạt của CSBV trên QL21, nhưng gập sức kháng cự dũng mãnh của các chiến sĩ nhảy dù với những trận cận chiến ngoạn mục địch quân đã bị tổn thất nặng ngay trận đầu với 5 chiến xa T54 bị hạ tại trận và hằng trăm xác công quân bỏ lại chiến địa.

Với kinh nghiệm già dặn chiến trường đoán chắc cộng quân sẽ tập kích sau đó, LÐT/LÐ3ND cho ÐÐ3TSND của Ð/U Nguyễn Viết Hoạch bung rộng ra dọc hai bên sườn quốc lộ 21 sẵn sàng nghinh chiến.
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 25 Tháng Ba 1975, đúng như dự đoán của lữ đoàn trưởng LÐ3ND, trong ngày này, Sư Ðoàn F-10 CSBV mở cuộc tấn công toàn diện vào phòng tuyến của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù với quân số gấp 6 lần. Các chiến sĩ nhảy dù không hề nao núng chống trả mãnh liệt đôi khi phải dùng thế cận chiến để đối đầu với cộng quân tại Khánh Dương, sau cùng lực lượng nhảy dù đã đánh bật cộng quân ra khỏi phòng tuyến sau những trận kịch chiến.

Ngày 28 Tháng Ba 1975 một đoàn xe tiếp tế thực phẩm và đạn dược cho LÐ3ND đã bị cộng quân phục kích đánh tan trên Quốc lộ 21 dưới chân đèo Phượng Hoàng. TÐ5ND được lịnh lui quân về vị trí TÐ6ND và TÐ2ND trở thành đơn vị cơ động ứng chiến và được lịnh giải tỏa QL21 từ đèo Phượng Hoàng đến Dục Mỹ để an ninh lộ trình tiếp tế.

Ngày 29 Tháng Ba 1975 vào lúc 3 giờ sáng, pháo binh cộng sản đủ loại dập lên tuyến phòng thủ của Tiểu Ðoàn 5 và 6 Nhảy Dù sau đó cộng quân tập trung toàn lực lượng biển người với các Sư Ðoàn 316, 320 và F10 quyết dứt điểm LÐ3ND từ 3 phía. LÐT/LÐ3ND ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc lập “phòng tuyến thép” không lui. Cho đến 21 giờ đêm 4 chiếc Thiết Vận Xa M113 tự ý rời khỏi vị trí được chỉ định liền bị bắn cháy ngay tức khắc. Ðó là kỷ luật thép của “Ðoàn Quân Mũ Ðỏ” khi lâm chiến.
LÐ3ND sau những thiệt hại tại Thường Ðức Quân Khu 1 và hơn một tuần lễ đương đầu với ba sư đoàn CSBV đông gấp 10 lần, không được bổ sung, không được tiếp tế, không chiến xa, không pháo binh hạng nặng hỗ trợ, chỉ còn lại khoảng hơn 1,000 chiến binh.

Tuyến đầu tiên là TÐ5ND và TÐ6ND bị địch bao vây tứ bề. Ðịch quân đông như kiến cùng quân phòng thủ đánh cận chiến “xáp lá cà” suốt đêm đến 7 giờ sáng mà tuyến phòng thủ vẫn còn giữ vững. Sáng ngày hôm sau 30 Tháng Ba 1975, trên 20 phi tuần A37 bay lên yểm trợ làm giảm bớt áp lực của địch quân. Quân dù gấp rút tổ chức lại hệ thống phòng thủ.
2 giờ 15 chiều ngày 30 Tháng Ba 1975, cộng quân lại mở cuộc tấn công cường tập mới vào phòng tuyến của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương. Lữ đoàn trưởng báo cáo khẩn về tình hình cho Thiếu Tướng Phú. Vị tư lệnh Quân Ðoàn 2 ra lịnh “Lữ đoàn dù cố gắng giữ phòng tuyến”, và hứa sẽ có lực lượng tăng viện. Một cây cầu trên QL21 dẫn đến Khánh Dương bị không quân VNCH phá sập.

Trận chiến cuối cùng tại Qui Nhơn

Ngày 31 Tháng Ba 1975, sáng sớm tình hình tại Khánh Dương vô cùng nguy ngập, LÐT/LÐ3ND báo cáo cho Tướng Phú: tuyến phòng thủ TÐ5ND bị cộng quân cắt đứt thành nhiều mảnh, nếu không có quân tăng viện LÐ3ND sẽ bị địch quân tràn ngập.
Tướng Phú gọi về Bộ Tổng Tham Mưu khẩn cầu gởi quân tăng viện gấp cho Khánh Dương. Xin tăng cường 2 TÐ/BÐQ trấn đóng tại đèo Cả và cho LÐ3TQLC vào vùng trách nhiệm tại Khánh Dương ngay ngày hôm nay.
Trong khi đó cộng quân đã tràn chiếm các quận lỵ của tỉnh Bình Ðịnh. Tại Qui Nhơn, SÐ3CSBV đã chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Lực lượng Sư Ðoàn 22 Bộ Binh với Trung Ðoàn 41 và Trung Ðoàn 42 đã nỗ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu hải quân ở ngoài biển, nên địch quân bị đánh bật ra khỏi khu ven bờ biển, vùng kiểm soát của lực lượng VNCH được mở một khoảng rộng dài chừng 4 dặm về phía Nam, để tạo an ninh cho tàu hải quân cập bến đón các đơn vị còn lại của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh triệt thoái khỏi tỉnh Bình Ðịnh.

LÐ3ND trấn ngự từ đèo Phượng Hoàng đến Khánh Dương
Trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 Bộ Binh tự sát tại bờ biển Qui Nhơn; trung đoàn trưởng 41 cùng 2/3 cấp SQ chỉ huy được ghi nhận là tử trận hoặc mất tích: Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, vị trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 Bộ Binh là Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông đã không chịu đi, từ chối cuộc di tản và sau đó ông đã tự sát bằng súng Colt 45. SÐ22BB tổn thất khoảng 70% quân số.
Một tiểu đoàn trưởng địa phương quân tỉnh Bình Ðịnh tự sát ngay trước quận đường Phù Cát. Cùng lúc diễn ra trận chiến tại Qui Nhơn tại căn cứ không quân Phù Cát, sau 2 ngày đêm tổ chức cố thủ, Trung Ðoàn 47/Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đã bị CQ tấn công cường tập. Trong đêm, trung đoàn này rút về Qui Nhơn thì bị phục kích tại quận lỵ Phù Cát, bị thiệt hại gần 50% lực lượng, trung đoàn trưởng là Ðại Tá Lê Cầu đã tự sát khi thấy không còn lối thoát. Cộng quân đã chiếm quận lỵ này vào buổi chiều. Thi hài của vị tiểu đoàn trưởng địa phương quân (các tài liệu không ghi rõ tên) vẫn còn nằm nguyên trước văn phòng quận Phù Cát. Thay vì đầu hàng địch quân, vị tiểu đoàn trưởng này quyết định tự sát.

Sáng ngày 1 Tháng Tư 1975, nhiều vị trí phòng thủ của các đơn vị Quân Lực VNCH tại Khánh Hòa bị tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Lê Văn Phát chỉ huy đã kịch chiến với 4 trung đoàn CSBV (thuộc hai sư đoàn khác nhau). Lực lượng của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù gồm có một tiểu đoàn pháo binh và 3 tiểu đoàn bộ-chiến dù đã giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư Ðoàn F-10 và SÐ 320 Bắc Việt. Các tiểu đoàn nhảy dù đã chống trả dữ dội bất chấp đạn pháo binh của cộng quân bắn khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các tiểu đoàn thuộc Lữ Ðoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.

Trung Ðoàn 25/SÐ10CSBV đồng loạt tấn công vào vị trí của TÐ6ND do Trung Tá Nguyễn Hữu Thành làm TÐT, Thiếu Tá Trần Tấn Hòa làm TÐP. Tuyến phòng thủ của TÐ6ND bị tràn ngập sau đó. Trung Tá Thành, Ð/Úy Triết, cùng một số quân nhân ND bị bắt tại trận.
TÐ5ND do Trung Tá Bùi Quyền TÐT và Thiếu Tá Võ Trọng Em làm TÐP bị Trung Ðoàn 28 CSBV vây hãm và tràn ngập. Thiếu Tá Võ Trọng Em đã hướng dẫn được khoảng 200 chiến sĩ lui vào rừng, vượt núi xuyên rừng về Nam, 5 ngày sau toán quân này mới được trực thăng giải cứu bốc về Phan Rang, một số quân ND khác tháp tùng Thiết Ðoàn M113 về được Dục Mỹ.
Trong tình hình sôi động và trước áp lực nặng của cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1 Tháng Tư 1975, Trung Tá Phát trình với Thiếu Tướng Phú là nếu không có tăng viện, không được cấp phát thêm đạn dược và hỏa tiễn TOW chống chiến xa thì tuyến Khánh Dương sẽ bị cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với một trung đoàn của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh được tái chỉnh trang.

Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù đã bị địch quân bao vây rất ngặt, đã hạ được 4 chiến xa địch nhưng phòng tuyến đã bị lùi xa lại phía sau. Tướng Lê Quang Lưỡng gọi Tướng Phú yêu cầu gởi quân tăng viện cho LÐ3ND. Ông cũng cố gắng liên lạc với các nơi khác tìm cách trợ giúp thêm quân cho LÐ3ND.
Trong ngày này Trung Tá Phát gọi xin thêm viện quân khẩn cấp lần thứ năm và được Thiếu Tướng Phú trả lời không còn quân để tăng viện và ra lệnh cho LÐ3ND di chuyển về phía Nam.
Lúc 15 giờ 30, Tướng Phú ra lệnh cho 2 phi tuần khu trục đến yểm trợ mặt trận Khánh Dương để giải tỏa bớt áp lực của địch lên cánh quân nhảy dù. Ðây là những trái bom cuối cùng được sử dụng trên chiến trường Quân Khu 2.
Ðến 4 giờ 10 chiều ngày 1 Tháng Tư 1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương thì Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là cộng quân đã tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị nhảy dù, tuyến phòng thủ đã bị cắt nhỏ. Sau đó cuộc điện đàm đã bị gián đoạn.
Trong khi đó Trung Ðoàn 66 CSBV quyết tâm diệt gọn TÐ2ND do Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm TÐT và Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương làm TÐP. TÐ3PBND do Thiếu Tá Nguyễn Văn Triệu làm TÐT và ÐÐ3TS do Ðại Úy Nguyễn Viết Hoạch làm ÐÐT. Các đơn vị này đang trấn giữ dọc theo chân đèo Phượng Hoàng thì bị địch quân tấn công tràn ngập. TÐ3PBND được linh phá hủy một số đại bác 105 ly cơ hữu.

Sau những đợt tấn công biển người liên tục và ác liệt của địch, tuyến phòng thủ bị chia cắt ra thành nhiều mảnh nhỏ, lại không được tiếp tế lương thực và đạn dược. LÐT/LÐ3ND phải triệt thoái đơn vị về bãi biển dưới chân hòn Son và men theo đường bộ về Phan Rang lập phòng tuyến mới.
Tính đến sáng ngày 1 Tháng Tư 1975, khu vực trách nhiệm của Quân Khu 2 chỉ còn lại một phần tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, (quân khu 2 có 12 tỉnh). Về quân số, ngoài Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù đang bảo vệ phòng tuyến Khánh Dương, chỉ còn một trung đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn biệt động quân. Tuy nhiên, 2 liên đoàn địa phương quân của hai tiểu khu Ninh Thuận và Bình Thuận cùng một số đại đội biệt lập vẫn còn khả năng tham chiến.

Buổi tối cùng ngày, Trung Tá Lê Văn Phát, lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3 Dù cùng bộ chỉ huy lữ đoàn và một phần của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, trên đường rút từ Khánh Dương ra QL1 không còn liên lạc được với BTL QÐ2 nên liên lạc thẳng về Sài Gòn bằng hệ thống GRC106 và được lịnh liên lạc với Tướng Sang để vào phòng thủ Phi Trường Phan Rang. Ðến ngày 4 Tháng Tư 1975 LÐ2ND được không vận từ Sài Gòn đến Phan Rang thay thế LÐ3ND và ngày hôm sau LÐ3ND được phi cơ bốc về Saigon bổ sung quân số và sẵn sàng ứng chiến cho Biệt Khu Thủ Ðô.

Tài liệu tham khảo:

- Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương, Làng Văn xuất bản tại Canada 2001.
- Những Ngày Cuối Của VNCH, của Cao Văn Viên Bản dịch Việt Ngữ của Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản Vietnambliography 2003.
- Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975 của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn-Ðại Tá Lê Bá Khiếu-Tiến Sĩ Nguyễn Văn.
- Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn, tác giả xuất bản năm 1987 và giữ bản quyền.
- Và Phỏng Vấn Các Chiến Hữu Nhảy Dù.
Ðại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Ðoàn Truyền Tin SÐND-(714) 856-9202
Ðại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù-(714) 724-8933
Chúng tôi rất mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn đề thời gian đã trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. Ðiện Thoại: (714) 545-0105; E-mail: votrungtin@hotmail. com.

__._,_.___
TRA-MAI
Posts: 20
Joined: Sun Jun 03, 2007 7:27 pm
Location: San Diego
Contact:

Post by TRA-MAI »

Quận Cam: Tưng Bừng Đại Hội Nữ Quân Nhân Hải Ngoại kỳ IV
TUYẾT MAI .
Việt Báo Thứ Hai, 8/27/2007, 12:02:00 PM

Image

Hình lưu niệm nữ quân nhân.

Đại hội Nữ Quân Nhân kỳ IV được tổ chức ở Westminster CA trong hai ngày, họp nội bộ 25/8/07 và dạ tiệc vào lúc 7 giờ chiều ngày 26/6, 2007.

Trong buổi họp nội bộ sáng 25/8, có khoảng hơn hai trăm chị em Nữ Quân Nhân từ nhiều nơi trên thế giới như Úc Châu, Pháp, Canada, Đan Mạch…và nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ về tham dự. Đặc biệt trong số những chị em nữ quân nhân có chị Đạm Trang là già nhất, tóc bạc phơ, 89 tuổi, từ Arizona về họp mặt cùng chị em. Cựu Trung Tá Hạnh Nhơn gần 80 tuổi. Trong buổi họp mặt này cũng có sự hiện diện của Cựu Trung Tá Hoàng Ngọc Liên, Trưởng Phòng 5 Dù, là huấn luyện viên của TTH/NTT/XH.

Nhiều chị em cho biết, đây là lần đầu tiên được gặp lại nhau kể từ ngày ra trường. Mấy mươi năm rồi các chị em mới được gặp lại nhau, nên không thể nào diễn tả được niềm vui hội ngộ. Mới ngày nào các chị em hăng hái đến Trung Tâm huấn Luyện, lúc đó các chị em là những bông hoa tươi thắm, đầy nhiệt huyết. Nay qua bao bể dâu, đổi thay cuộc sống, tóc đã điểm sương, nét mặt có nhiều nếp nhăn, nên các chị em khó có thể nhận diện được nhau qua dung nhan, hình dáng bên ngoài.

Mãi đến khi mỗi chị em đứng lên tự giới thiệu, tên và khóa học cũng như đơn vị phục vụ của mình trước đây thì các chị em mới nhận được nhau. Thôi thì có biết bao vui mừng, biết bao cảm động, đàn bà vốn nhiều tình cảm nên nhiều chị em đã khóc ròng khi cầm micro giới thiệu về mình. Có người nghẹn gào không nói đựoc nên lời, làm nhiều chị em khác cũng rơi lệ theo, tạo một không khí thật cảm động, thắm thiết tình chị em, tình chiến hữu.
Trong ánh mắt, trong nụ cười, gương mặt người nào cũng rạng rỡ niềm vui , niềm hãnh diện mình là con cháu của Hai Bà Trưng , Bà Triệu, đã góp phần tích cực cho đất nước, cho quê hương trong công cuộc đấu tranh chống Cộng Sản xâm lăng.

Các chị em tay bắt mặt mừng, ôm nhau, cuời nói không dứt, chụp hình kỷ niệm… Có biết bao nhiêu chuyện vui, chuyện buồn để kể nhau nghe từ ngày xa nhau, rồi thăm hỏi những bạn bè khác, đứa nào đi, đứa nào còn ở lại , bây giờ ra sao? Câu chuyện cứ tiếp nối dài dài ..đến nỗi MC kêu gọi mãi…chúng ta còn hai ngày để tâm sự, để chụp ảnh lưu niệm, xin các chị em vào chỗ ngồi để chúng ta có thể bắt đầu nghi lễ chào quốc kỳ… không khí thậttưng bừng, thật vui tươi.

Các chị em Nữ Quân Nhân Bắc Cali phụ trách lễ chào Quốc Kỳ, Mỹ, Việt. Những chị mặc quân phục chào tay lúc chào quốc kỳ, trông rát trang nghiêm và đẹp mắt. Sau đó tất cả cùng đồng ca bản “Nữ Quân Nhân Hành Khúc” và “Cô Gái Việt”. Các chị em NQN người già bên cạnh người trẻ cũng cùng nhau cất cao giọng hát một cách hùng dũng, trang nghiêm…gợi nhớ những ngày thân yêu ở quân trường và những ngày tháng giải dầu sương gió trên bước đường phụng sự quê hương.

Trong phần phát biểu của Đại Diện cho Ban Tổ Chức Đại Hội Nữ Quân Nhân Hải Ngoại kỳ IV, Cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn cho biết, sau 1975 Đoàn NQN tan tác mỗi người mỗi ngã, trải qua bao nhiêu thăng trầm, hơn 32 nam qua, nay đã gượng dậy để tiến lên thật vững vàng ở hải ngoại, các con cháu đã trưởng thành, hội nhập vào xã hội của quê hương thứ hai, không thua kém dân bản xứ.

Bà Hạnh Nhơn cảm ơn tất cả các chị em NQN đã không quản ngại tốn kém và thì giờ để về đây họp mặt, để thắt chặt thêm tình đồng đội thăm thiết .

Cựu Trung Tá Hạnh Nhơn cho biết vì tuổi già, vài năm nữa sẽ không kham nỗi việc tổ chức, vì vậy bà kêu gọi các chị em khác thay vì theo truyền thống ba năm tổ chức một lần, có lẽ chúng ta nên rút ngắn lại hai năm một lần.

Bà nhắc lại nỗi buồn thương tiếc vì vắng bóng Cựu Trung Tá Hồ Thị Vẻ, một người rất có lòng với chị em NQN, bất ngờ từ bỏ chị em NQN trong năm 2005.

Cựu Trung Tá Hạnh Nhơn cho biết, tất cả số tiền thặng dư sau khi kết toán, sẽ chuyển qua “Quỹ Tình Thương NQN” do chị Trần Thị Bích Nga phụ trách, để gởi về giúp đỡ các chị em NQN đang sinh sống khó khăn và bệnh hoạn ở quê nhà. Trong dịp này đặc san Nữ Quân Nhân cũng được giới thiệu với nhiều bài rất là cảm động. Một DVD về những buổi họp cũng được giờithiệu với các chị em.

Bà Hạnh Nhơn cũng không quên chào mừng các cháu thế hệ thừ hai đã rất cố gắng tiến thân trong xã hội mới, đem lại niềm an ủi và hãnh diện cho Bố Mẹ và Đoàn Nữ Quân Nhân /QLVNCH.

Cuối cùng Bà Hạnh Nhân chúc tất cả chị em NQN có nhữngngày vui ở California.

Chiều ngày 26 Tháng Tám các cựu nữ quân nhân tham dự buổi dạ tiệc Gia Đình Nữ Quân Nhân.


TUYẾT MAI
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 2 guests