Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
Post Reply
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Được Giải Ngũ Chưa?

— Nguyễn Bách Việt
Thêm một ngày 30 tháng 4. Ba mươi hai ngày 30 tháng 4 đang qua. Thời gian có thể làm nguôi ngoai nhiều chuyện. Nhưng nỗi đau khi nhìn quê hương VN thân yêu đang tiếp tục chịu cảnh điêu linh, tan nát, nhìn dân tộc VN đang bị đoạ đầy, đau khổ, sẽ không bao giờ nguôi trong lòng chúng ta cho tới khi quê hương VN thật sự có tự do, độc lập, hạnh phúc, phú cường. Ngày 30 tháng 4, 1975 luôn luôn tạo ra biết bao ngậm ngùi, cay đắng, uất nghẹn trong lòng mọi người chúng ta, nhất là trong tâm trí người lính VNCH vì chính trong ngày này, một quân đội tinh nhuệ, thiện chiến trên thế giới đã bị bán đứng do các mưu toan chính trị quốc tế "ngắn hạn" sắp xếp. Từ việc quân lực VNCH bị buộc buông súng, ngưng chiến đấu theo lệnh ông Dương Văn Minh, đại nạn của dân tộc qua biến cố đau thương 30/4, 75 bắt đầu khởi sự và kéo dài cho tới ngày nay trên quê hương VN khốn khổ. Trong tâm tình ngày 30 tháng 4 năm nay, chúng ta hãy đặt câu hỏi:

Binh sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã được giải ngũ chưa?

Về mặt lý và tình, binh lính quân lực VNCH chưa hoàn toàn được giải ngũ.

Lý:
1- Xét theo mặt hiến pháp VNCH trước 1975, mọi người lính trong quân lực VNCH cho dù hiện nay trong độ tuổi 80, 70, 60, 50 nhưng tất cả chưa thực sự được giải ngũ. Vì trong ngày 30 tháng 4 đau thương năm 1975, khi ra lệnh cho tất cả binh lính VNCH buông súng quy hàng, ông Dương Văn Minh đã không đứng trên cương vị chính danh của vị tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội. Theo Hiến Pháp VNCH, việc Tổng Thống Trần Văn Hương trao lại quyền tổng thống cho ông Dương Văn Minh là vi hiến. Từ lập luận này chúng ta có thể khẳng định chắc chắn, quân lực VNCH vẫn chưa hề được giải ngũ. Cũng dựa trên căn bản pháp lý này, cách đây 12 năm, thượng nghị sĩ Phạm Nam Sách, người dành cả cuộc đời tranh đấu cho hạnh phúc của dân tộc, một nhà hoạt động có uy tín trong cộng đồng VN hải ngoại, khi còn sống, đã phát động phong trào Tái Dựng Nền Cộng Hòa để từ đó, có cơ sở giải thể chế độ VC đang thống trị trên hai miền Nam - Bắc VN rồi đi tới thống nhất đất nước trong hòa bình thực sự.

2- Thêm nữa, khi một người chiến binh bị địch bắt buông súng quy hàng, không có nghĩa là người lính ấy đã được giải ngũ. Người ấy không phải là Cựu Quân Nhân.


Tình:

1- Theo truyền thống, quân đội là lực lượng bảo vệ đất nước, lãnh thổ, dân tộc. Ngày nay, nhóm VC lãnh đạo VN đang bán dân, bán nước, bán biển cho quan thầy Tàu cộng. Vậy những chiến sĩ VNCH không thể khoanh tay ngồi nhìn thảm họa đang tiếp tục đổ chụp xuống đầu dân tộc và tổ quốc. Chúng ta không thể ngồi yên để nhìn dân tộc từ từ bị diệt vong dưới bàn tay những người CSVN phi dân tộc. Chúng ta không thể nhìn đất, biển tiếp tục rơi vào tay Tàu cộng, ngư dân VN vô tội tiếp tục bị Tàu cộng bắn giết.


2- Khi gia nhập quân đội, mỗi chiến sĩ VNCH luôn khắc sâu một lời thề: Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm.

Lời thề này được ghi khắc trong tim nên luôn ở trong lòng mỗi người quân nhân VNCH trên mọi nẻo đường của cuộc sống và được thực hiện trong mọi hoàn cảnh, môi trường chung quanh. Lời tâm niệm "Tổ Quốc - Danh Dự -Trách Nhiệm" vẫn luôn được các chiến sĩ VNCH thực hiện từ ngày 30 tháng 4 đau thương đó cho đến nay. Những vị tướng như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng đã chọn cái chết để bảo vệ DANH DỰ cho quân lực VNCH. Những sĩ quan như Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Hữu Thông, v.v... đã can đảm đối đầu với họng súng của VC để nêu cao khí tiết, DANH DỰ của quân lực VNCH.
Những người lính thuộc Trung đội Nhảy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái cùng nhau tự sát bằng lựu đạn sáng 30 tháng Tư, 1975.
Những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của Lữ Đoàn 147 cùng nhau tự sát ở Mỹ Khê, Đà Nẵng tháng 3, 1975 để nêu cao khí tiết.
Hơn 100 Thiếu Sinh Quân chưa hề ra trận lần nào, đã quyết chiến anh dũng với địch trong hơn nửa ngày liên tục để bảo vệ trường Mẹ tại Vũng Tàu ngày 28 tháng 4, 1975 và chỉ chịu đầu hàng khi hết đạn, làm cho VC ngỡ ngàng, cảm phục. Còn biết bao chiến sĩ khác đã anh dũng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng hay tự sát trong ngày 30/4 mà chúng ta chưa biết tên nhưng đã được một số đồng bào, đồng đội cũng như ký giả ngoại quốc tường thuật lại với lòng cảm phục vô cùng, đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người lính VNCH. Cho đến nay, những chiến sĩ VNCH còn sống tại hải ngoại hay quốc nội vẫn tiếp tục chiến đấu bằng cách này hay cách khác để thực hiện cho được lời thề: Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm.



Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã từng là một quân đội hùng mạnh đứng hàng thứ 4, 5 trên thế giới và hàng nhất trong vùng Đông Nam Á. Qua cuộc chiến tranh Quốc-Cộng vừa qua, quân lực VNCH đã chứng tỏ mình chiến đấu vì lý tưởng tự do của dân tộc, đã chứng tỏ khả năng chiến đấu kiêu hùng, dũng mãnh, sự hy sinh, chịu đựng gian khổ tuyệt vời nếu đem so với các quân đội khác trên thế giới. Vì thế, quân lực VNCH không thua tại chiến trường nhưng thua vì các sắp xếp chính trị trên bàn cờ quốc tế. Giờ đây, danh dự của quân lực VNCH đang được trả lại. Những cuộc hội thảo quốc tế (thí dụ cuộc hội thảo về chiến tranh VN tại trường đại học Texas Tech University, thành phố Lubbock, tiểu bang Texas) đã được tổ chức để trả lại Danh Dự cho quân lực VNCH. Nhiều nhà báo, học giả ngọai quốc, nhất là từ phía Mỹ, đã lên tiếng hay viết bài ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH. Tướng Norman Schwarzkopf, người chỉ huy cuộc chiến vùng Vịnh để giải phóng Kuwait năm 1991 đã từng ca ngợi các vị chỉ huy quân lực VNCH và cho biết ông học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm quý báu từ quân lực VNCH khi ông tham chiến bên VN. Tướng Collin Powel, tham mưu trưởng quân đội và là cựu bộ trưởng ngọai giao Mỹ cũng xác nhận và ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH. Thượng nghị sĩ Mc Cain, ứng cử viên tổng thống Mỹ năm 2008, từng bị VC giam 6 năm, cách đây vài năm khi sang thăm VN và thăm nhà tù Hỏa Lò, ông đã thẳng thắn tuyên bố "kẻ ác đã chiến thắng". Lời nói này là sự gián tiếp ca ngợi lý tưởng tranh đấu cho tự do, dân chủ của dân - quân - cán - chính VNCH, đặc biệt ca ngợi quân lực VNCH, lực lượng tiên phong trong công cuộc tranh đấu cho lý tưởng này. Vì thế, đã đến lúc chúng ta phải hãnh diện là chiến binh của quân lực VNCH ưu tú, đã đến lúc chúng ta hãnh diện nói cho con cháu chúng ta nghe về công sức, về sự hy sinh, chiến đấu vô bờ bến của chúng ta, của đồng đội để bảo vệ lý tưởng tự do cho dân tộc.


3- Vì Danh Dự, người lính VNCH không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền cộng sản. Vì Tổ Quốc VN yêu thương đang quằn quại trong đau khổ, tang thương, vì Trách Nhiệm của người lính VNCH đối với tổ quốc, đồng bào vẫn chưa thực hiện được nên người lính VNCH vẫn phải tiếp tục chiến đấu. Ngày nay mặt trận không nằm ở chiến trường nữa. Nó nằm ở trong cuộc sống, trong sinh hoạt đấu tranh, trong tư tưởng, trong ý chí của người lính VNCH. Nhận thức như vậy nên người lính VNCH vẫn luôn đi đầu trong các cuộc tranh đấu chống cộng. Hãy xem, trong các cuộc tranh đấu chống cộng có khi nào thiếu vắng những người lính VNCH đi tiên phong không?


4- Một vị tướng ngoại quốc có câu nói lừng danh "Người ta có thể mang tôi ra khỏi quân đội, nhưng không thể mang quân đội ra khỏi tôi". Rất đúng! Vì bất cứ lý do gì, vì bất cứ hoàn cảnh nào, lời thề "Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm" luôn luôn nằm trong tim các chiến sĩ VNCH. Vì bất cứ lý do gì, các binh sĩ VNCH suốt đời vẫn là chiến sĩ. Vậy chúng ta có thể ngồi yên, an hưởng tự do không khi quê hương VN thân yêu vẫn còn chìm ngập trong điêu linh, thống khổ, dân tộc vẫn còn sống trong đọa đầy, đàn áp? Lòng ta có thanh thản không khi bè lũ Việt cộng vẫn tiếp tục đọa đầy dân tộc, bịt miệng đồng bào, đang đưa dân tộc làm nô lệ cho ngọai bang Á châu, cho Tàu cộng?
Chúng ta chưa thể nghỉ yên vì Mẹ VN vẫn đang quằn quại, đau thương, than khóc. Chúng ta chưa thể an hưởng tự do nơi xứ người khi đồng bào còn đang bị đàn áp, chà đạp nhân phẩm, bóc lột tận xương tủy bởi VC và ngoại nhân. Nhiệm vụ đối với quê hương, dân tộc chúng ta chưa làm tròn, chúng ta chưa được nghỉ ngơi.

Hàng ngàn, hàng vạn bé gái là con, cháu chúng ta đang bị bán trong các nhà chứa bên Thái Lan, Cam Bốt, sống kiếp đọa đầy, tủi nhục, đang mòn mỏi chờ đợi sự cứu vớt của chúng ta trước khi quá trễ. Hàng ngàn các em bé khác sẽ tiếp tục bị bán nếu chế độ VC còn tồn tại. Các cô gái Việt Nam là em, cháu chúng ta đang bị rao bán trên internet, trong các lồng kính tại các quốc gia Đông Nam Á như là các con vật tình dục, buộc chúng ta không thể ngồi im để tận hưởng tự do, sung túc, êm ấm nơi xứ người mà không tìm cách tranh đấu để thảm trạng đau lòng này không bao giờ tái diễn trên quê hương VN thân yêu nữa. Các cô gái khốn khổ này không có tội tình gì hết. Chính bè lũ VC mới là tội đồ và chúng ta là tòng phạm nếu chúng ta cứ để cho thảm cảnh đau lòng này tiếp tục xảy ra.

Chúng ta không thể nhìn các cô gái VN hàng ngày bị lột truồng, đi qua đi lại như súc vật để được mua bán, chọn lựa trước những cặp mắt đầy nhục dục của các người Đại Hàn, Đài Loan, Tàu Đông Nam Á tại chính quê hương VN khốn khổ của chúng ta như vậy. Chúng ta không thể thản nhiên nhìn hàng chục ngàn công nhân VN đang bị các chủ nhân ngọai bang hành hạ, làm nhục, bị bóc lột và bị đối xử như con vật trước sự đồng lõa của VC. Chúng ta không thể cúi đầu nhìn ngoại nhân sỉ nhục dân tộc chúng ta như vậy.

Con người VN đang bị lăng nhục, dày vò, bóc lột. Lòng tự ái dân tộc VN đang bị ngoại nhân thách thức, chà đạp. Chẳng lẽ chúng ta ngồi lặng im? Chẳng lẽ dân tộc VN, chẳng lẽ chúng ta mất hết nhuệ khí oai hùng của Mê Linh Quật Khởi, của Bạch Đằng Dậy Sóng Diệt Thù, của Phá Tống - Bình Chiêm, của Sát Thát, của Bình Ngô Đại Cáo, của Quang Trung Đại Phá Quân Thanh mà tổ tiên truyền lại?
Chẳng lẽ chúng ta quen thuộc với sỉ nhục đến độ không còn cảm giác tối thiểu để đứng lên làm một cái gì đó rửa nhục cho dân tộc, cho con, em, cháu và cho chính chúng ta?

Cái nhục dân tộc đau đớn này nếu chúng ta không trả được thì chúng ta không thể ngẩng cao đầu làm người VN chứ đừng nói là chiến sĩ VNCH. Nỗi khổ đau tận cùng này của dân tộc nếu chúng ta không bắt đảng CSVN hại dân bán nước trả nợ thì suốt đời con cháu sẽ nguyền rủa chúng ta. Ai sẽ cứu dân tộc VN, ai sẽ cứu các bé gái này, ai sẽ cứu các cô gái VN này nếu không phải chúng ta? Chúng ta phải tranh đấu, phải hành động hết sức mình trước khi kêu gọi sự giúp đỡ của các quốc gia tự do trên thế giới yểm trợ cho một nước VN hoàn toàn độc lập, tự do, phú cường.


5- Vong hồn của hơn 3 trăm ngàn (300,000) chiến sĩ VNCH, của hơn 6 mươi ngàn (60,000) chiến sĩ đồng minh đã bỏ mình vì lý tưởng tự do cho dân tộc VN, oan hồn của hàng mấy trăm ngàn đồng bào chết trên đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa 1972, của dân chúng Huế Tết trong Mậu Thân 1968, của cuộc di tản đau thương 1975, cũng như tại nhiều nơi khác trên quê hương đang kêu nài chúng ta đòi lại công lý cho họ để họ không chết oan ức, để cái chết của họ không bị chìm vào quên lãng.

-Vong linh của mấy chục ngàn chiến sĩ đã bỏ mình trong các nhà tù cộng sản và trong cái-gọi-là trại cải tạo, linh hồn của hơn nửa triệu đồng bào đã bỏ mình trên biển cả, rừng sâu vì đói khát, vì giông bão, vì hải tặc trên đường đi tìm tự do đang réo gọi chúng ta phải hành động, phải tranh đấu để cái chết tức tưởi của họ không vô ích.

- Linh hồn 10 ngàn (10,000) cô gái VN bị hải tặc Thái Lan mang bán trong các nhà chứa và chết dần mòn trên đất Thái, đòi chúng ta phải lấy lại công lý cho họ để hồn họ được ngậm cười nơi chín suối.
- Vong linh của những đồng bào, chiến sĩ bỏ mình nơi đất khách quê người đang đòi chúng ta phải đứng lên chiến đấu để hồn họ được siêu thóat, để xác thân họ được chôn nơi đất Mẹ ngàn đời mến yêu.

- Vong hồn hơn 16 ngàn chiến sĩ VNCH là anh em, đồng đội chúng ta tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà đang đòi chúng ta phải bảo vệ nơi yên nghỉ cuối cùng linh thiêng của họ.

- Những thương phế binh VNCH và con cháu họ đang cần chúng ta chiến đấu cho họ, để sự hy sinh của họ không vô ích, để tương lai con cháu họ không tiếp tục nằm trong những đống rác, những nơi bán máu.

- Tất cả đồng bào, anh em, đồng đội chúng ta sẽ không nhắm mắt yên nghỉ nếu chúng ta không tiếp tục chiến đấu, nếu chúng ta buông xuôi phó mặc đất nước, dân tộc cho bè lũ VC phi dân tộc, tàn ác để chúng tiếp tục làm tay sai, bán đất dâng biển cho kẻ thù ngàn đời của dân tộc là giặc Tàu bắc phương, để chúng tiếp tục nô lệ hóa dân tộc cho ngoại bang.



Không phải ngẫu nhiên mà ông bà ta đã đặt chữ "Nước Mất" đi trước chữ "Nhà Tan" trong câu dặn dò con cháu "Nước Mất Nhà Tan". Ý ông bà ta muốn cảnh cáo chúng ta "Nếu chỉ lo cho cái nhà của mình mà không nghĩ tới dân tới nước, vào một ngày nào đó khi đất nước bị kẻ thù hay tay sai kẻ thù chiếm đọat thì gia đình của chính chúng ta cũng sẽ tiêu tan". Câu nhắn nhủ thâm sâu, chí tình này của tổ tiên đã được chứng minh hùng hồn qua biến cố 75. Sau 30/4, 1975 khi cả đất nước tan hoang thì biết bao nhiêu gia đình cũng tan nát theo và đi tới tận cùng đổ vỡ. Sau 30/4, cả đất nước thành trại tù, đói khổ tràn lan thì nền tảng gia đình VN cũng bị VC phá vỡ hoàn toàn có chủ đích. Nền đạo lý ngàn đời của dân tộc đi tới phá sản. Con cái tố cha mẹ, thầy cô. Cha mẹ, thầy cô sợ con cái, học trò, mọi người nghi kỵ, rình rập lẫn nhau. Vợ bỏ chồng theo cán bộ VC. Mọi người lừa bịp nhau, sống gian trá để mong tồn tại.


Sau 30/4, 75 cả nước biến thành chư hầu của Liên Xô, sau đó lại biến thành chư hầu của Tàu cộng để rồi lãnh đạo VC dâng đất dâng biển, dâng đồng bào cho quan thầy Tàu cộng. Đó! Hệ quả thê thảm, khốc liệt của câu "Nước Mất Nhà Tan" là vậy. Nay câu "Nước Mất Nhà Tan" sẽ lại tiếp diễn ở tại ngay các xứ tạm dung thân này, nếu chúng ta chỉ tiếp tục lo cho căn nhà, cho gia đình, cho bè nhóm của chính mình. Nghị quyết 36 của VC đang đi vào giai đọan quyết liệt. VC nhất quyết nhuộm đỏ cộng đồng, lũng đoạn con cháu chúng ta. Chúng đang len lỏi tranh các chức vụ trong chính quyền địa phương. Nếu chúng ta có thái độ cầu an, mũ ni che tai thì khi cộng đồng chúng ta bị nhuộm đỏ, khi vài chức vụ thành phố, quận hạt chúng nắm, những tay chân này của VC sẽ mời những phái đoàn VC sang thăm các thành phố có đông người Việt tị nạn để phá rối cộng đồng chúng ta. Lúc đó, chính chúng ta, chính gia đình, chính con cháu chúng ta cũng sẽ khó yên thân được với bọn VC nơi hải ngọai này.

Chúng ta phải làm gì?

Nếu biết kết hợp để cùng nhau làm việc, các chiến sĩ quân lực VNCH sẽ có sức mạnh rất lớn và làm được rất nhiều chuyện hữu ích cho công cuộc phục hưng dân tộc. Các tổ chức chính trị của người Việt hải ngoại không phát triển sâu rộng trong hàng ngũ người Việt tị nạn CS nhưng tập thể chiến sĩ VNCH thì nhất định có ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng người Việt tị nạn CS vì hầu như gia đình nào cũng có người thân hay bạn bè là chiến sĩ VNCH. Vậy hãy biến những giờ phút trà dư hậu tửu thành những giờ phút gặp gỡ, hàn huyên bổ ích. Hãy bình tĩnh và tỉnh táo để nhìn ra những biến chuyển của thời cuộc. Hãy tỉnh táo nhìn ra "Ai là bạn, ai là thù", nhận ra những hỏa mù, những đòn hiểm độc nhằm gây chia rẽ cộng đồng từ VC. Hãy tập hợp nhau lại và khi gặp gỡ trao đổi, hãy bàn những chuyện cụ thể cho đất nước trong tinh thần xây dựng, tương kính, lắng nghe nhau để đề ra những sách lược, hành động cụ thể trong việc giữ yên hậu phương hải ngoại trước những đòn tấn công liên tục, thâm hiểm của VC. Có vậy, chúng ta mới tạo được lực thống nhất, mới có đủ sức mạnh để yểm trợ tối đa cho mặt trận tự do, dân chủ, nhân quyền đang đi tới hồi quyết định nơi quốc nội trong thời gian sắp tới. Mỗi người, tùy theo khả năng, hoàn cảnh cụ thể của mình hãy hành động hết sức. Hãy thực hiện câu tổ tiên bao đời truyền dạy "Ai có dao dùng dao, ai có bút dùng bút". Tất cả hãy tập hợp trong một mặt trận chung. Hãy hướng dẫn con cháu tới nơi tới chốn để chúng cùng tham gia vào công cuộc tranh đấu chung của dân tộc và tránh được những cạm bẫy, dụ dỗ tuyên truyền của VC khi chúng đang muốn lợi dụng kiến thức và tấm lòng yêu nước của con cháu chúng ta mang về VN để phục vụ cho quyền lợi bất chính của đảng CSVN, kéo dài thêm sự khốn khổ của đồng bào.

Hơn lúc nào hết, chúng ta phải học thuộc lòng bài "Hịch Tướng Sĩ" của Trần Hưng Đạo, một vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc, được dân tộc tôn lên hàng thần thánh vì đã biết đặt quyền lợi chung trên quyền lợi riêng. Nhờ vậy, đã 3 lần lãnh đạo dân tộc chiến thắng vẻ vang giặc Tàu hung hãn:
" ......
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
........
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?"
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai. Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?



Lời của Hưng Đạo Vương nói với quân sĩ Việt Nam, 7 thế kỷ trước, rất thiết thực, chí tình và vô cùng thích hợp với hoàn cảnh, tâm trạng quân lính VNCH bây giờ. Nó phải là lời tâm niệm hàng ngày của chúng ta. Lời này cũng chính là điều nhắn gửi tha thiết của hồn thiêng sông núi cho tập thể quân lực VNCH ngày hôm nay, buộc ta phải đứng lên tiếp tục bổn phận của mình, phải thực hiện cho trọn lời thề:
"Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm" để cứu nước, cứu dân thoát cảnh nô lệ, điêu linh, nghèo đói, đoạ đầy, mất đất, mất biển, do nhóm lãnh đạo VC đang làm tay sai cho giặc Tàu gây ra cho dân tộc VN. Chúng ta phải tập hợp nhau lại, cùng đứng lên hành động để rửa mối nhục do nhóm lãnh đạo VC đang cấu kết với ngoại bang Tàu cộng, Tàu Đông Nam Á, Đài Loan, Thái Lan, Đại Hàn gây ra cho dân tộc VN.

Ai sẽ đi tiên phong trong trận chiến đòi tự do, dân chủ cho đồng bào? Ai sẽ đi tiên phong trong trận chiến rửa hờn, rửa nhục cho dân tộc?

Chẳng lẽ con cháu chúng ta sẽ đi tiên phong trong chuyện này, còn chúng ta, những người có đầy kinh nghiệm máu xương với VC, hiểu rõ bản chất dã man, xảo trá của chúng, lại phủi tay nghỉ ngơi? Nhất định không! Chính chúng ta phải làm việc này cùng con cháu chúng ta, cùng đồng bào vì chúng ta chưa được dân tộc cho giải ngũ, vì trong tim chúng ta vẫn còn khắc sâu lời thề: Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm

Chúng ta chưa thực hiện xong lời thề linh thiêng này, chúng ta không được quyền nghỉ ngơi. Câu "Bảo Quốc - An Dân" ta vẫn chưa làm tròn. Vì đất, biển - mảnh giang sơn cẩm tú tổ tiên tốn biết bao mồ hôi xương máu để lại cho chúng ta đang rơi vào tay Tàu cộng. Vì đồng bào VN vẫn tiếp tục bị đọa đầy, thống khổ. Vì bình an trong cuộc sống và trong tâm trí, người dân chưa hưởng được một ngày kể từ khi đảng CSVN xuất hiện trên quê hương thân yêu.

Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi quê hương VN không còn bị cai trị bởi bè lũ VC bán dân, hại nước, làm tay sai cho Tàu cộng.

Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi từng tấc đất linh thiêng của dân tộc do VC dâng cho quan thầy, được lấy lại.

Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi hoa dân chủ, hạnh phúc nở khắp quê hương.

Danh dự của dân tộc VN chỉ được lấy lại khi người ngoại quốc không còn dám coi thường dân tộc VN.

Danh dự của dân tộc VN chỉ được lấy lại khi người ngoại quốc biết nể trọng dân tộc VN chúng ta - những con cháu của giống Tiên - Rồng kiên cường, bất khuất.

Nguyễn Bách Việt
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Cánh Thép F5: Trần Văn Lương
Phạm Huy Sảnh

(Để tặng những người yêu Không Quân, thích bay bổng.)

"Như nước Đại Việt ta, dẫu mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có..." Nguyễn Trãi - Bình Ngô Đại Cáo.

Chiều Seattle một ngày lộng gió, bầu trời vần vũ báo hiệu sắp mưa. Ánh hoàng hôn xuyên qua tấm cửa kính, rọi trên khuôn mặt thanh thoát không một nét nhăn của người thiếu phụ ngồi đối diện với tôi: Chị Cao Hoa tức bà quả phụ Trung Úy Trần Văn Lương, phi công phản lực F5, thuộc Phi Đoàn 544, Không Đoàn 63 Chiến Thuật, Sư Đoàn 3 Không Quân.Chị Cao Hoa chỉ tách nước trước mặt tôi mời uống, và câu chuyện bắt đầu.

Cao Hoa biết anh Lương từ thuở còn là học trò vì gia đình hai người ở gần nhau. Lương sinh năm 1944. Anh say mê bay bổng, thích mạo hiểm. Anh tình nguyện vào Không Quân năm 1969 rồi trở thành Pilot phản lực cơ A 37. Năm 1971, anh chuyển sang lái F5. Năm1972, anh thành hôn với người yêu, khi đó Cao Hoa mới 20 tuổi, và đang đi dạy học. Ngày 14 tháng 6 năm 1974, hai người có đứa con trai đầu lòng, Lương đăt tên con là Trần thanh Vũ.

Ngày 9 tháng 7 năm 1974, một phi tuần 3 phản lực cơ chiến đấu F5, trong đó có phi công Trần Văn Lương thực hiện phi vụ oanh kích quân CS để yểm trợ lực lượng bộ binh tại mặt trận Tây Ninh. Chiếc F5 của Lương đã bị trúng đạn phòng không của địch bắn rớt. Sau đó, vào ngày 15/ 7/1974, chị nhận được thư báo của BTL /SDD 3 Không Quân do Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính ký cho biết:"... Trong một phi vụ hành quân, Trung Úy Trần Văn Lương đã mất tích tại tọa độ XT 140 745, vào ngày 9/7/1974 lúc 12 giờ 15..."

Khi Lương mất tích, con trai của Anh mới được 20 ngày, và người vợ trẻ chỉ mới vừa tròn 22 tuổi. Từ đó, theo vận nước nổi trôi, chị Hoa ôm nỗi đau buồn bất tận, thương con, ngóng chồng mòn mỏi... đột nhiên vào cuối năm 1976, qua bưu điện, chị nhận được thư của Lương cho biết Anh hiện đang bị CS giam ở trại giam Yên Bái, Bắc Việt. Chị tức tốc cố gắng dò hỏi để xin phép được đi thăm chồng nhưng CS không cho phép, mãi đến đầu năm 1979, chị Hoa mới được họ chấp thuận. Lúc này Lương đã chuyển về trại giam Đô Lương, Hà Tĩnh. Mùa Xuân năm 1979, chị Hoa dẫn theo con trai là Trần Thanh Vũ, 5 tuổi, đi thăm chồng, và thăm cha.

Gặp chồng tại trại tù Đô Lương, chị ngạc nhiên khi thấy sức khỏe của chồng đã quá yếu! Anh không đi nổi, phải có cán binh CS của trại tù cõng Anh ra nơi thăm nuôi. Thân hình anh gầy tọp, mắt bên phải của Anh băng kín, mặt Anh bị sưng, và biến đổi khác thường. Anh cho biết Anh bị bệnh viêm mũi nặng, phát tác trên mắt và bệnh hành khiến Anh bị nhức đầu triền miên.

Vì quá xúc cảm nên trong gần một giờ thăm viếng, chị không nói được một lời nào mà chỉ biết khóc. Phút cuối của cuộc thăm nuôi, Lương ôm chặt hai mẹ con chị vào lòng và an ủi:"Em giữ gìn sức khỏe và cố gắng nuôi con!"Chị Hoa trở về Sàigòn tìm kiếm mua thuốc trụ sinh, hai tháng sau Chị trở lại Hà Tĩnh thăm và đưa thuốc cho chồng. Kỳ thăm nuôi lần thứ hai theo Chị Hoa thì tình trạng sức khỏe của Lương còn tệ hơn kỳ trước.

Khoảng tháng 10/ 1979, trong lúc Chị Hoa đang làm việc, có một người nào đó đã để lại tại nhà Chị một bức thư, trong đó ghi vắn tắt tin Anh Trần Văn Lương đã từ trần tại trại cải tạo AH 118 NT K2, Nghệ Tĩnh, Bắc Việt, vào hồi 17 giờ 15 phút ngày 15/ 08/ 1979, kèm theo một bản nhạc mang tên"Cung buồn cho một cánh chim", thơ Trần Văn Lương, nhạc Văn Thùy.

Năm 1982, Chị Hoa và cháu Trần Thanh Vũ vượt biển tìm tự do. Chị đến Singapore, và sau đó được định cư tại Hoa Kỳ. Cháu Vũ đã có gia đình sau khi tốt nghiệp Cao Học Hóa Học và đang làm việc tại San José.

Tôi hỏi Chị Hoa có thể cho tôi coi bản nhạc ấy được không? Chị đồng ý. Trở vào phòng riêng, khi ra, Chị cầm một bao thư lớn đựng giấy tờ, hình ảnh riêng của gia đình. Chị đưa cho tôi tờ giấy cỡ 8 ½ x 11 được gập làm 8, trong đó với những hàng chữ viết chì ghi lại bài" Cung buồn cho một cánh chim". Tôi không thấy ghi nhạc và lời sáng tác năm nào, nhưng có thể vào thời điểm trước khi Lượng vĩnh viễn từ giã các bạn tù tại trại giam ở Hà Tĩnh. Người phổ nhạc tức nhạc sĩ Văn Thùy chắc cũng là bạn tù của Trung Úy Lương.

Tôi thấy Chị nâng niu bản nhạc như một di sản trân quý duy nhất của Lương để lại. Tôi đề nghị Chị Hoa hát cho tôi nghe. Bằng giọng trong vắt nhẹ nhàng và truyền cảm, không cần nhìn bản nhạc, Chị trình bày bản

“Cung buồn cho một cánh chim

Thơ Trần Văn Lương, nhạc Văn Thùy.

buồn, chầm chậm”

với các lời:

1. Người tìm vào đời đôi cánh chim bay

Phi đạo hẹn hò mở lối tung bay

Đường mây vút xa dâng đầy trong mắt ai

Ngày vui vẫn hẹn đợi chờ hòa khúc hát tương lai.

2. Người tình học trò đôi mắt như sao

Mơ vùng trời hồng gửi giấc chiêm bao

Ngày vui ái ân không dài như ước mơ

Tình trong nét mực ngọc ngà, buồn khóe mắt ngây thơ.

ĐK1. Rồi một chiều thu mây mờ che kín non xanh

Người vợ hiền mơ bé thơ nào đâu thấy mặt anh

Trời buồn lộng gio, gió âm thầm đưa lá xa cành

Trời còn in mây, tình người còn đây, cớ sao người yên giấc mơ say.

ĐK2. Người lặng tìm về hương khói mong manh

Xin một lời buồn để hát cho anh

Ngàn mây vẫn xanh như chờ mong dáng anh

Và đôi mắt buồn học trò đậm vết long lanh

Xếp đôi cánh bằng, ngàn thu an giấc cho anh.

Tôi ngồi chăm chú nghe Chị Hoa trình bày trọn bản nhạc. Lời ca thấm vào óc tôi tạo nên cảm giác vừa thương cảm vừa khâm phục tôn vinh mối tình giữa người chiến sĩ Trần Văn Lương và giai nhân Cao Hoa, theo tôi đó là một chuyện tình đẹp. Dẫu rằng định mệnh oan khiên đã bắt" nửa đường chim bằng gãy cánh", nhưng từ cổ kim những mối tình đẹp đã được thế gian truyền tụng không phải là những cặp uyên ương ăn ở đến khi đầu bạc răng long!

Không muốn kéo dài cuộc nói chuyện vì sợ tạo thêm sự xúc động đến cho Chị Hoa, tôi xin tạm biệt để về hoàn tất bài viết "Cánh Thép F5: Trần Văn Lương".

Hôm nay ngồi viết những giòng này từ nơi xa xôi cách Việt Nam cả nhiều ngàn dậm, trong óc tôi hình dung đám tang của Người Anh Hùng Trần Văn Lương 28 năm về trước tại một góc rừng nào đó gần trại tù cải tạo Đô Lương thật giản dị: Không thân nhân, không bằng hữu, không lễ nghi quân cách, không tuyên dương, truy thăng, truy tặng, không hồi kèn vĩnh biệt, không tiếng súng tiễn đưa và không có cả hòm gỗ với quốc kỳ (VNCH) !

Bài viết của tôi cũng như lời tri ân đối với tất cả những người đã hy sinh cho chúng ta, con cháu chúng ta được sống và cho miền Nam Việt Nam được tồn tại trên hai thập niên.

Seattle, ngày 22 tháng 8 năm 2007
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Ta nợ những người chết sông chết biển
Ta nợ những người ở lại để ta đi....


Video Khúc Hát Thương Binh
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Người Thương Binh -

Vũ Bôi.


Tuy mặt thằng bé lem luốc dơ bẩn nhưng nếu ai để ý kỹ vẫn thấy được làn da mịn màng trắng trẻo ẩn hiện sau một lớp bụi dày. Thằng bé cũng có đôi mắt long lanh trong sáng như hai hòn ngọc nhỏ, nhất là khi nó dáo dát ngóng nhìn những người chung quanh mong người ta cho cha con nó được nhiều tiền.

Sau khi lượm nhặt vài tờ giấy bạc rơi ngoài nón đưa cho cha nó, nó lại cười một cách hồn nhiên nghêu nghao hát theo ông những bài hát quen thuộc của những người hành khất đang đi xin ăn trên khắp mọi nẻo đường của Sài-gòn. Mặc dù nó không hiểu những lời lẽ của bài hát, nhưng nó cảm thấy chắc phải là những lời ca hay vì mỗi lần nó hát người ta cho nó nhiều tiền hơn, và đôi khi vài người cũng vỗ tay khen ngợi, rồi thầm thì với nhau tội nghiệp cho một thằng bé trông bụ-bẫm như vậy mà lại là con của một kẻ ăn mày. Sắp đến ngày Tết, cho nên phố xá có đông người qua lại. Người ta lũ lượt kéo nhau đi sắm sửa để chào đón xuân sang. Trời cũng đã gần về chiều nên xe cộ qua lại càng tấp nập hơn. Một vài nơi đèn đường cũng bắt đầu thắp sáng. Sau khi ăn miếng bánh cha nó mới vừa mua của bà bán hàng dạo kế bên, thằng bé ngủ thiếp đi trong dòng người qua lại. Vừa đắp cái chăn cho thằng bé xong thì người hành khất với nhiều thương tích hiện rõ trên da thịt cũng bắt đầu hát lại những bài hát mà thằng bé vừa mới hát xong để mong người ta chú ý đến tình cảnh của cha con anh. Không cần nói ai cũng nghĩ rằng anh là một thương binh, không những do những vết thương vẫn còn in hằng trên mặt và chân tay mà còn do nét trẻ trung cương nghị của một con người tuy rằng đã bị tàn phế hơn nữa thân người. Thật sự anh là một thương binh. Nhưng hoàn cảnh đưa đẩy anh phải lăn lộn nơi đầu đường xó chợ để ăn xin là điều chẳng đặng đừng mà anh vẫn còn ray-rức trong lòng nhiều đêm không chợp mắt. Có lẽ đêm đã về khuya, vì dòng người qua lại cũng bắt đầu thưa dần nhanh chóng. Thằng bé cựa mình sau một giấc ngủ dài, nhưng nó chỉ xoay người qua hướng trong rồi tiếp tục ngủ yên trong giấc mộng thơ ngây còn phảng-phất trong từng hơi thở. Người thương binh sau khi dọn dẹp chiếc máy hát cùng những vật dụng mang theo thì cũng ngã lưng ngay bên thằng bé, mắt nhìn đăm-đăm vào khoảng trời đen như tưởng nhớ những gì đã xảy đến cho anh trong thời gian cũng chỉ hơn một năm qua. Lẩm-bẩm một mình trong đêm anh hát lại những lời ca quen thuộc mà anh nhớ trước đây anh cũng rất thích lắng nghe. Đó là những ngày tháng anh còn ở trong nhà mẹ vợ, cùng với người vợ và đứa con thơ, mà bây giờ nó phải theo anh để đi hát dạo xin tiền mà sống. Thời gian mới hơn một năm mà tưởng chừng như dài đăng-đẳng xa xôi.

Nằm một mình ở phía sau cái nhà kho dùng để chứa những đồ phế thải, anh lắng nghe bài dân ca thương binh của những ngày tiền chiến mà anh ưa thích. Anh cứ nghe tới nghe lui để sống trong khung cảnh mà giờ đây anh chỉ có thể ước ao để được có một ngày như vậy. Hình ảnh êm-đềm của người thương binh trong ngày về đã chiếm cứ hồn anh, không những trong những cơn mơ về đêm mà ngay cả khi anh còn thức. Nó quyện trong anh như một men rượu ngon làm anh say đắm để mong quên đi một thực tại phủ-phàng. Một thực tại chua cay mà chỉ có ai sống trong hoàn cảnh của anh mới hiểu được thế nào là thế thái nhân tình do từ lòng người tạo dựng. Tuy bây giờ anh là môt thương binh, nhưng cũng chỉ còn biết sống trong hạnh phúc của một thương binh trong mộng tưởng, mà hình ảnh ngày về được thêu dệt trong lời lẽ gấm hoa của văn thơ, hay một nhạc điệu khoan thai của những lời ca mà anh chỉ có nghe chứ chưa bao giờ thấy trong hiện thực. Đôi lúc anh cũng thấy cái não-nùng làm rung động tim anh như âm điệu phai mờ từ cuộn băng đã nhão, cho dù rằng anh chẳng bao giờ đặt nặng cái tâm, cái tình hay cái lý cho những điều mà người ta thường trọng vọng. Anh vói tay điều chỉnh âm thanh nhỏ lại chỉ vừa đủ mình anh nghe, vì thằng nhỏ con anh nó vừa nghịch với cái máy hát mà anh còn giữ lại được bấy lâu nay. Thỉnh thoảng anh cũng hát theo, nhưng anh cũng vội ngưng ngay vì sợ nhỡ vợ anh nghe thấy thì sẽ có nhiều phiền phức. Nhất là anh không muốn phải nghe đi nghe lại những gì anh đã phải nghe từ vợ anh trong bấy lâu nay. Anh bị thương trở về đã nhiều năm nay, và nếu anh nhớ không lầm thì anh cũng đã ở nơi cái nhà kho nầy cũng trong khoảng thời gian ấy. Anh cũng chẳng biết phải tính như thế nào. Có lẽ cách tốt nhất là chấp nhận nó như một nghiệt ngã từ một định mệnh khắc khe mà anh không có khả năng thay đổi, hay một số phận không may như bao kẻ không nhà, mặc dầu anh không tin mấy vào những điều người ta cho rằng số phận của con người được sắp đặt bởi một đấng thiêng liêng mà con người thờ phụng bằng nhiều hình thức khác nhau. Anh chỉ còn biết tự an ủi là mình đã tự tạo cho mình cái hoàn cảnh hôm nay. Anh nhớ lúc trước dường như vợ anh cũng đã yêu anh lắm. Đúng ra anh đã lấy nàng vì nàng đã đeo đuổi mãi bên anh. Bây giờ nghĩ lại có lẽ nàng lấy anh không phải vì tình yêu chân thật mà bởi sự giàu sang cũng như quyền thế của gia đình anh. Nàng là một cô gái đẹp mà tất cả những nét đẹp trời cho đều lộ hẳn ra ngoài, cho nên nàng đã quyến-rũ được rất nhiều đàn ông con trai chỉ ham cái đẹp bề ngoài của một người con gái. Có một thời anh cũng đã say mê nàng vì nhan sắc đó. Tuy rằng mọi người trong gia đình anh, trong đó có anh, đều đã thấy rằng tính nết nàng không phải của một người đàn bà đức-hạnh. Nhưng tất cả đều đồng ý cưới nàng chỉ vì muốn cái đẹp của nàng làm hãnh-diện một giòng tộc mà gần như sự thành đạt của họ là tất cả những gì mà con người hằng mong.
Thế rồi chỉ trong một thời gian ngắn ngủi tất cả những gì anh đạt được, từ danh vọng đến của cải cùng quyền thế cao sang, đã không còn nữa. Chiến tranh cũng đã cướp đi cha mẹ, anh chị em cũng như hai cái chân, một cánh tay và một con mắt của anh. Nếu không nhờ số tài sản mà gia đình anh đã để riêng gởi bên nhà vợ để phòng hậu hoạn thì có lẽ giờ đây anh chỉ còn cách là lê lếch ra đường để ăn xin. Nay tuy anh vẫn còn người vợ và đứa con thơ, nhưng theo anh nghĩ người vợ xưa kia cũng chẳng khác gì đã mất đi từ nhiều năm về trước. Khi cả nhà anh bị tàn sát thì cũng may vợ anh lúc đó đang sinh đứa con đầu lòng còn nằm trong bệnh viện nên cả hai mẹ con nàng đều được thoát thân. Sau khi sinh nở thì vợ anh đã về bên ngoại trong khi anh vẫn còn nằm trị thương nơi quân y viện một mình. Khi xuất viện anh về bên nhà vợ thì anh mới hay vợ anh đã hoàn toàn thay đổi. Nàng đã không còn coi anh như một người chồng mà chỉ là một kẻ ăn hại làm khổ đời nàng khi nàng vẫn còn phơi-phới tuổi xuân. Không những nàng đối xử với anh rất tệ bạc mà còn phỉ-báng đủ điều với lời lẽ nhục mạ đê hèn mà anh không hiểu vợ mình đã học được từ đâu. Chỉ trong vòng một ngày mà nàng đã có thể cho anh nghe tất cả những gì thô-tục nhất trên đời. Từ cái khốn-nạn của những kẻ bần cùng cho đến lòng tham không đáy của những kẻ giàu sang, nàng đã réo gọi tổ-tiên anh từ trên trở xuống. Và thế rồi kể từ tối hôm đó anh đã phải ra cái nhà kho nầy để ở cho đến bây giờ. Nhưng dù sao thì anh cũng thấy mình còn được chút ít may-mắn vì đã không phải lê-lếch ra đường ăn xin như nhiều thương phế binh tàn phế khác. Có lẽ vì thế mà anh cũng thấy mình còn có được ít nhiều hạnh phúc cho dù cũng chỉ như bọt bèo sớm muộn rồi cũng sẽ tan đi.

Trời đổi cơn gió nhẹ. Anh xoay mình phủ thêm chiếc khăn cho thằng bé. Nhìn thằng nhỏ ngủ say anh không hiểu tại sao nó lại muốn theo anh đi ăn xin trong cảnh khốn cùng hơn là được ăn ở ấm no bên mẹ nó. Không biết vì nó thấy thương hại cho anh hay vì một tình cảm thiêng-liêng đã có sẳn trong nó tự bao giờ. Anh mong muốn dĩ-vãng đối với anh bây giờ chỉ không hơn một vết mờ trong ký ức, nhưng thực tế phủ phàng nặng trĩu cứ bám víu mãi bên anh. Làm sao anh có thể quên đi những gì mình đã có, và hơn nữa làm sao anh có thể quên đi thuở còn hạnh phúc bên người vợ mà anh đã từng say mê trong khi mỗi ngày anh phải nhìn thấy hình ảnh lạc loài của đứa con thơ. Tại sao mẹ nó lại làm như vậy thì anh cũng không muốn biết, nhưng nếu tự mình đem đến nỗi khổ cho một đứa con thơ thì làm sao anh không thấy đau lòng. Đêm đã khuya nên xe cộ trên đường cũng trở nên thưa thớt. Khu chợ vắng bóng người tạo thành hình tượng hoang vu. Tiếng kọt-kẹt của chiếc khung cửa gỗ đong đưa vọng về rõ hơn trong đêm vắng. Dưới ngọn đèm khuya có đôi chim đêm lặng-lẽ đậu bên mái hiên nhà.
Ở nơi nhà kho của mẹ vợ anh được một thời gian thì cái may mắn cũng như hạnh phúc bọt bèo mà anh ôm giữ bấy lâu cũng mai một đi nhanh. Rồi cho đến một ngày kia thì nó cũng đã không còn nữa, lúc mà vợ anh bảo từ nay anh phải đi xin ăn để tự tìm cái sống cho mình, vì những gì gia đình anh để lại nay đã không còn. Thật sự anh cũng không thể tưởng rằng đó là sự thật, vì theo anh được biết thì số tài sản gia đình anh gởi ở nhà mẹ vợ anh rất lớn. Nhưng dù muốn dù không anh cũng chẳng thể nói nên lời. Thế là từ đó anh phải lếch đi xin ăn mỗi ngày từ tờ mờ sáng, cho đến khi tối mịt anh mới dám quay về. Mẹ vợ rất thương anh nhưng sợ đứa con gái nên cũng chẳng biết làm sao hơn được. Thằng con trai nhỏ cũng thương và lo cho anh nhưng sợ mẹ đánh nên nó chỉ lén-lén đến với anh những khi mẹ đi vắng. Anh phải đưa tất cả tiền anh xin được cho vợ anh để mong nàng chăm sóc con anh. Rồi một thời gian sau cuối cùng thì sợi tơ hồng mong manh đã từng cột anh với người vợ anh đã từng đắm say rồi cũng đứt. Có một lần sau khi đi ăn xin về thì anh thấy cửa nhà kho đã bị khoá bằng một ổ khoá mới. Anh thẫn-thờ trách thầm tại sao ngày đó đã đến nhanh, vì thật sự anh cũng đã đoán được sớm muộn vợ anh cũng sẽ đuổi anh đi. Anh đã cố gắng ở lại một phần cũng vì đứa con nhỏ dại. Anh sợ một mai kia khi anh đi rồi không biết nó sẽ ra sao. Anh biết vợ anh muốn xua đuổi anh đi vì nàng muốn xây dựng cho mình một tương lai khác. Vì nàng than trách với trời đất cũng như mọi người rằng nàng còn quá trẻ để sống trong cảnh goá bụa con côi. Anh cũng chẳng biết nói gì hơn vì dù sao anh cũng còn sống sờ sờ ra đó. Nhưng đối với nàng anh không khác gì một bóng ma trơi. Tuy hằng ngày gặp nhau nhưng đối với nàng anh đã không còn tồn tại. Có một đôi lần nàng đã khẩn cầu như vậy ngay cả trước mặt anh. Anh chỉ lẳng lặng quay đi lệ rơi trong bóng tối. Anh cũng chẳng biết rằng mình có nên sống nữa hay không. Có một lần anh đã gheo mình vào con rạch nhỏ, nhưng anh cũng đã không dám tự giết mình nên cuối cùng anh cũng đã réo gọi để người ta vớt anh lên. Anh cũng không hiểu tại sao anh vẫn còn ham sống. Mà chỉ sống trong đắng-cay gian-khổ nhọc-nhằn. Mỗi lần anh muốn chết anh lại thấy hình ảnh con anh hiện về trong tâm trí. Anh không thể chết đi vì thằng bé còn quá dại khờ.

Trước khi anh ra đi anh tìm đứa con trai để nói với nó những điều anh thấy cần phải căn-dặn nó, nhưng mẹ vợ cho anh hay nó cũng đã bỏ đi từ chiều nay khi thấy mẹ nó dẫn một người đàn ông khác trở về. Thật sự thằng bé đã vô tình nghe mẹ nó và người đàn ông đó nói chuyện với nhau về việc muốn đuổi anh đi, cũng như thấy họ đã mướn người thay khoá mới. Đúng ra thì nó sợ theo cái sợ của kẻ con nên nó đã vội-vã ra đi để tìm anh nói cho anh nghe những gì nó biết. Thế rồi vì chẳng tìm gặp được anh rồi nó cũng đi lạc vào nơi chốn đông người. Nhiều lần nó cũng muốn trở về nhưng cũng chẳng biết phải làm sao. Nó có hỏi người ta nhưng không ai hiểu được những gì nó muốn nói. Có một lần người ta dẫn nó vào đồn cảnh sát để mong có ai giúp đỡ, nhưng vì sợ nó đã trốn đi, rồi từ đó nó cũng trở thành một đứa ăn mày. Nó đi lang-thang đầu đường xó chợ rày đây mai đó xin ăn để sống. Nay ngủ nơi vĩa hè mai ngủ nơi xó chợ dưới ngọn đèn khuya. Trong khi đó anh cũng lê-lếch đi ăn xin khắp nơi đồng thời mong tìm đứa con mà anh yêu quý. Nhưng ở nơi phố thị đông người thì phải biết tìm nơi đâu. Thật ra nhiều khi cha con anh cũng có lúc ăn xin ở những nơi gần nhau nhưng rồi lại vô-tình lại đi theo những hướng khác nhau vì thế rồi lại xa nhau để rồi lại phải đi tìm nhau như bóng với hình vòng quanh nơi cửa chợ. Có nhiều khi vì không tìm thấy con mình nơi phố thị đông người anh cũng đã thử lê-lếch đi tìm ở những nơi hẻo lánh ở ven biên. Ngày qua ngày vì phải chịu đựng nắng mưa hình hài con người anh đã trở nên gầy mòn thêm cho tấm thân tàn-phế. Ngày tháng qua đi rồi anh lại phải quay về để kiếm tìm con nơi thành thị, nơi mà theo anh nghĩ nếu con anh còn sống chắc phải quanh quẩn đâu đây. Có một hôm trời mưa tầm-tã khiến những người đi ăn xin như anh phải khốn-đốn vô cùng. Sau một ngày vất-vã thì anh cũng xin đủ cho mình một bữa ăn để tạm sống qua ngày. Lúc anh đang lếch vào cái xó mà anh ngủ hằng đêm để mong được nghỉ ngơi thì anh nghe thấy tiếng người la, rồi anh thấy một cái bóng nhỏ vượt qua nơi anh đang nằm xuống. Từ một giác quan vô hình anh biết rằng thằng bé đó là con anh. Anh cũng vôi kêu to lên, nhưng tiếng mưa đã át đi tiếng anh gọi tên thằng bé. Nó đã mất hút vào trong màn đêm dưới cơn mưa bao phủ. Dù sao thì anh cũng thấy mừng vì anh biết con anh vẫn còn sống. Hơn nữa anh biết nó cũng chỉ lẫn-quẫn đâu đây, vì tuổi thơ dại nó cũng không thể đi xa hơn. Thế là theo hướng nó vừa chạy qua anh lếch đi trong mưa gío để mong tìm lại nó.

Sau một thời gian thì người ta thấy nơi khu chợ người ăn xin quen thuộc nay lếch lê dẫn theo một đứa con nhỏ còn ngây thơ. Rồi sau một thời gian người ta cũng thấy nó bắt đầu hát theo cha nó bài dân ca thương binh của những người may mắn được trở về mái ấm gia đình trong sự đùm bọc của người thân. Thằng bé hát trong say mê, mĩm cười nhìn mọi người đi qua, rồi thỉng thoảng khuông mặt nó cũng trở nên rạng rỡ hân hoan khi thấy một tờ bạc được liệng nhanh vào chiếc nón

Vũ Bôi
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

CUỘC ÐỔ BỘ TRONG LÒNG ÐỊCH
Tác Giả: Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa

Kể từ sau cuộc đổ bộ bằng trực thăng của Tiểu đoàn 1 Quái Điểu vào ngày 11/7/72, tại quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, chưa một ai viết lại cuộc đổ bộ ấy, và tôi nghĩ nếu tôi không viết để nói lên cuộc chiến đấu ác liệt, oai hùng này thì ai có thể viết thay tôi ? Vì như tôi đã trình bày trong tập Hồi ký CƠN LỐC DÀI, hơn 1OO ông phóng viên thế giới, không một ông nhà báo nào dám "thi thố tài năng" đi theo chúng tôi cả. Cũng như 2 nữ phóng viên chiến trường Việt Nam là Kiều Mỹ Duyên và Lam Thiên Hương một thời ngang dọc đã lắc đầu khi tôi mời 2 cô đi "du ngoạn". Nỗi danh thì cũng muốn, nhưng nghĩ đến mạng sống như "chỉ mành treo chuông" 2 cô vừa cười vừa nói: "Thôi, tui chẳng ham đâu".

Như có một thôi thúc, ray rứt nào đó buộc tôi phải viết để nói lên sự thật oai hùng của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, đã tạo được trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Xin cho phép tôi được làm một nhân chứng lịch sử để tô đậm thêm Quân sử hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

... Phá Tam Giang vào một sáng mù sương 11/7/72

Dù đang là mùa hè nhưng trời Huế vẫn còn sương mù, một làn khói mỏng giăng đầy, bao phủ cả một vùng Vân Trình rộng lớn. Trên cánh đồng vừa mới gặt, mùi rạ thơm thoang thoảng, nếu có thêm vài cô thôn nữ xinh xắn của mẹ Việt Nam nữa là ta đã có một hình ảnh đồng quê thanh bình của bao năm cũ. .. Gia đình Quái Điểu hơn 700 tay súng đã sẵn sàng tại bãi bốc chờ lên trực thăng đi vào đất đi.ch. Những chàng Kinh Kha thời đại đang ưu tư về cuộc đời và đang chờ đón một tương lai không mấy rạng rỡ.

Đúng 7 giờ sáng, chiếc trực thăng UH-1B của chỉ huy đáp xuống cạnh nhà thờ 2 chuông Điền Môn, bốc tôi và cố vấn Mỹ bay thẳng ra biển Đông. Để tránh phòng không địch, trực thăng đã phải bay trên biển và ở cao độ vừa tầm cho chúng tôi quan sát thành phố Quảng Trị và quận lỳ Triệu Phong, nơi Tiểu đoàn 1 Quái Điểu sẽ phải đổ bộ để tái chiếm.

Quận Triệu Phong nằm về phía Đông Bắc cổ thành Quảng Trị khoảng 2 cây số, là quê hương của tên đồ tể Lê Duẩn, môn đệ kế vị già Hồ đã về chầu Diêm Vương. Vì vậy không dễ gì địch để chúng tôi tái chiếm lại Triệu Phong.

Những túi lửa B.52 chiều ngang 1 cây số và chiều dài 3 cây số được lóe lên từng chập, và khi các chùm bom chạm đất thì lửa bốc cháy cùng những tiếng nổ phụ rền vang một góc trời ... Tại đây địch cũng sẵn sàng nghêng đón chúng tôi. Đơn vị bạn gần nhất vẫn còn ở tuyến sau Mỹ Chánh mịt mù. Chúng tôi sẽ phải nhảy trên đầu địch, đánh thọc sâu vào lòng địch, bóp ngay yết hầu chúng, buộc chúng phải nhả Cổ thành Quảng Trị mà chúng đã chiếm giữ hơn 3 tháng qua. Sư đoàn Dù đã gặp phải muôn vàn khó khăn và thiệt hại nặng nề khi tái chiếm Quảng Tri.

Có lẽ thượng cấp quên đi cửa ngõ Triệu Phong, nơi mà Việt cộng phải giữ với bất cứ giá nào, để bảo vệ huyết lộ dẫn ra Cửa Việt bằng đường bộ và đường thủy dọc theo sông Thạch Hãn. Nhờ huyết lộ này mà chúng có thể tiếp tế cũng như tải thương và thay quân rất dễ dàng.

Đúng 12 giờ 5 phút ngày 11/7/72, ngày mà suốt đời tôi không bao giờ quên được. Trước khi lên máy bay, Tướng Trưởng và Tướng Lân đến bắt tay và chúc chúng tôi thành công. Lời nói của Tướng Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến như một luồng điện chạy dài theo xương sống tôi:

- Danh dự này, tôi giao cho anh và Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến.

Riêng Đại tá Bảo, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 147 nhìn chúng tôi như một người cha nhìn những đứa con thân yêu đang đứng bên bờ vực thẳm. Ông rơi nước mắt nói với tôi lời giã biệt:

- Mày cố gắng giữ gìn anh em, khuyên họ nên đọc kinh cầu nguyện theo đạo giáo của họ!

Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến với biệt danh Quái Điểu được trực thăng bốc từ nhà thờ 2 chuông Điền Môn bay ra Triệu Phong, bất thần đổ trên đầu địch, giữa những đám ruộng trước quận lỵ. Tuy bãi đáp đã được B.52 "dọn cỏ" suốt 2 tiếng đồng hồ, với 33 phi vụ đã cày nát từ Đông Hà đến Quảng Trị, mà gia đình Quái Điểu vẫn được con cháu Bác và Đảng dàn chào long trọng. Súng phòng không 23 và 37 của địch bắn lên như pháo bông.

Đại đội 4 Tiểu đoàn 1 do Đại úy Trịnh Văn Thềm chỉ huy, lãnh nhiệm vụ đổ bộ trước. Hai chiếc trực thăng khổng lồ CH.54 chạm đất một cách bất ngờ nên thoát được phòng không địch. Có 32 chiếc trực thăng đổ quân, gồm 17 chiếc CH-53 (loại Chinook Mỹ dùng để cứu con tin tại Iran) chở được 60 người và CH-46 loại Chinook chở được 20 người. Chiếc tôi đi bị lãnh 4 viên phòng không, tưởng chừng như rớt. Vừa rời khỏi trực thăng, tôi đã được chào mừng bằng một trái 57 ly không giật, vì chung quanh tôi là một rừng antenne truyền tin. Tôi bị thương ở đùi phải, máu ướt đẫm. Viên Trung úy Hải quân Mỹ bị lòi ruột ra ngoài trông thật khiếp, nhưng vẫn còn sống. Đau đớn cho Tiểu đoàn chúng tôi là 1 chiếc trực thăng bị rớt và nổ tung sau đó 2 phút lại chở nguyên Trung đội Quân y, 60 người chỉ sống sót 12 trong đó có Bác sĩ Hoàn. Ông đã lao được ra ngoài cửa cấp cứu, nhưng phải 2 ngày sau mới bò về được Bộ chỉ huy Tiểu đoàn với thân hình cháy phỏng nặng. Chúng tôi không lấy được xác những người bị chết vì chiếc máy bay này thuộc Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và đã mang theo 47 trái mìn chống chiến xa và tất cả đã tan tành theo chiếc máy baỵ. Đáng lẽ tôi đã gởi xác theo chuyến đó rồi, nhưng tới phút chót cố vấn Mỹ lại rủ tôi đi trên chiếc CH-46 để khi xuống bãi thoát ra thật nhanh, tránh được phòng không địch.

Ngay phút đầu, sau khi hoàn tất cuộc đổ quân, chúng tôi đã bị thiệt hại hơn 200 người vừa chết vừa bị thương. Người cố vấn Mỹ còn cho tôi biết trong số 32 máy bay trực thăng, có 29 chiếc trúng đạn và 2 chiếc rớt, một nổ tại chỗ và một rớt ngoài biển. Cuộc đổ bộ này đã được báo chí xem như cuộc đổ bộ Inchon tại Đại Hàn năm xưa. Tướng Lân được triệu về dinh Độc Lập để thuyết trình về cuộc đổ quân cho Hội đồng An ninh Quốc Gia. Mọi người hồi hộp theo dõi bước chân của bầy Quái Điểu gan lì.

Cánh đồng Triệu Phong đã trở thành bãi chiến trường khốc liệt. Xe tăng Việt cộng phối hợp với bộ binh của chúng bắt đầu rời vị trí phòng thủ để rượt đánh chúng tôi, và những chiếc trực thăng vũ trang "Cobra" của phe ta đã táo bạo săn đuổi chúng như những con diều hâu hung dữ. Riêng Tiểu đoàn 1 Quái Điểu lúc bấy giờ tan tác như bầy gà lạc mẹ, mạnh ai nấy đánh, dùng chiến thuật cá nhân phối hợp từng tổ nhỏ cố bám lấy bờ sông Vĩnh Định là chi nhánh của sông Thạch Hãn để làm điểm tựa, giữ lấy mạng sống mong manh. Hai con sông này đã nuôi dưỡng quận lỵ Triệu Phong, làm cho nó trở nên trù phú và sầm uất nhất tỉnh Quảng Trị, giờ đây đang ôm ấp che chở cho những toán Quái Điểu lạc bầỵ

Nhờ vào súng M.72 chống chiến xa ta đã bắn hạ được một số tăng địch, có những chiếc bốc cháy cách xa ta chỉ 50 thước, làm cho anh em an tâm hơn và tin tưởng vào loại vũ khí cá nhân hiện đại và tối tân này, mỗi Đại đội chỉ được trang bị 12 trái thôi. Những hố bom trở thành vị trí chiến đấu lý tưởng cho binh sĩ mình. Họ đứng thẳng, tỳ súng vào miệng hố nhắm vào từng đợt sóng biển người của bọn Việt cộng khát máu mà bắn.

Đại đội 1 của Đại úy Bùi Bồn đã dùng con sông Vĩnh Định như một chỗ tựa tốt để chống trả từng đợt xung phong của địch cũng như yểm trợ cho các Đại đội 2, 3 và chỉ huy còn đang phơi mình trên bãi đáp. Kết quả sơ khởi Đại đội 1 đã tịch thu 10 cây súng 37 ly phòng không của địch đã đặt hàng ngang tại bìa làng.

Trời đã vào đêm, bóng tối đồng lõa với tội ác của địch qua những đợt "cắn lén" nhưng cũng là người bạn chân tình che chở cho chúng tôi, hạn chế tầm quan sát của địch nên chúng chỉ dùng pháo đe dọa vu vơ. Đến 10 giờ Tiểu đoàn mới nắm được tay nhau, lập thành một phòng tuyến tạm thời. Chỉ còn Đại đội 4 của Đại úy Thềm bị cô lập phải tự phòng thủ bảo vệ riêng, nhưng xét về mặt chiến thuật thì rất có lợi cho Tiểu đoàn. Một cái chốt khổng lồ làm tiền đồn cho đơn vị tại Chợ Sãi, dùng Pháo binh và Hải pháo ngăn chận sự di chuyển của địch từ Cổ thành Quảng Trị qua quận Triệu Phong, cũng như quan sát được thủy lộ dẫn ra Cửa Việt. Chiếm và giữ được Triệu Phong thì sớm muộn gì tỉnh Quảng Trị cũng sẽ trở về vùng đất Tự do.

Thường thường đánh nhau với những đơn vị chính quy tuy chém giết thả giàn "mạnh được yếu thua" nhưng thích hợp với người quân tử. Một cuộc chiến tranh quy ước, có lúc đánh lúc nghỉ, ăn uống, tiếp tế, tải thương, thay đổi lối đánh cho phù hợp trận liệt, rồi trở lại đánh tiếp. Nhưng với bọn Việt cộng, các cấp chỉ huy của chúng có được đào tạo ở một quân trường nào đâu! Đã vậy đầu óc lại bị Bác Đảng nhồi nhét hận thù đầy ắp nên chúng hăng say chém giết ... từ chú du kích nhỏ bé không biết gì gặp lúc đàn anh chết nhiều quá, cũng nhảy ra thay thế chỉ huỵ Vì vậy Việt cộng chỉ biết dùng một chiến thuật rừng với lối đánh lén, cắn lén!

Triệu Phong lúc bấy giờ là vùng địch kiểm soát nên họ có nhiều lợi thế hơn ta. Chúng rình rập, tấn công không ngơi nghỉ cốt làm cho quân ta mệt, tinh thần căng thẳng, quân số tiêu hao dần mòn. Nếu không có tinh thần cao và khả năng điêu luyện sẽ bị chúng đốn ngã dễ dàng. Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đang đi trên đoạn đường chông gai ấy. Đến 11 giờ đêm quân ta tạm ngưng chém giết, mọi người lục ba-lô lấy cơm sấy ra nhơi. Ngồi trong hố cá nhân, chẳng cần cấp chỉ huy ra lệnh hay kiểm soát đôn đốc, ai nấy cũng đề cao cảnh giác và sẵn sàng lâm chiến vì đã quá quen thuộc với những đòn đen tối hạ cấp của lũ chuột Việt cộng.

Đêm khuya yên tĩnh, bỗng có tiếng la hét vang dội từ phía Chợ Sãi, nơi Đại đội 4 của Đại úy Thềm phòng thủ riêng. Một đoàn xe tăng địch với đèn pha sáng trưng, dàn hàng ngang cùng bộ binh chạy theo bên hông xe vừa bắn vừa hô xung phong. Tôi đã chuẩn bị trước các yếu tố tác xạ tiên liệu Pháo binh và Hải pháo, 42 khẩu pháo 105 ly nhả đạn cùng lúc và liên tục cộng với hàng ngàn trái hải pháo loại 500 cân Anh khổng lồ, khi nổ chụp lúc chạm nổ, trút lên đầu địch.

Vặn tần số truyền tin nội bộ của Đại đội 4 tôi theo dõi trận đánh, nghe các Trung đội trưởng liên lạc với Đại đội trưởng lòng tôi yên tâm được phần nào và cảm phục sự gan lì của họ. Trên máy PCR. 25 vang lên giọng nói bình tĩnh của Thiếu uý Tánh khi anh liên lạc với Đại úy Thềm:

- Thần Phong hãy yên tâm, chiếc tăng đầu còn cách chúng tôi 100 thước, tôi đã ra lệnh từng tổ 3 người sẵn sàng M.72 nghênh chiến ... Hiện giờ chiếc gần nhất chỉ còn khoảng 50 thước, chờ kết quả, sẽ có một số "cua rang muối" (chiến xa địch) để tặng Thần Phong và Hương Giang (danh hiệu của tôi).

Thiếu úy Tánh nói tiếp trong sự hồi hộp của tôi:

- Tôi bắn thử một viên M.72 chống chiến xa, kết quả tuyệt vời, chính tôi cũng không ngờ đạn vừa ra khỏi nòng là một tiếng nổ long trời, con cua trước mặt tôi đã nổ tung và bùng cháy.

Tất cả các Trung đội đều an tâm và phấn khởi, từng tổ tam tam chế đã dùng M.72 cải tiến để đưa đoàn cua của Bác vào chảo rang. Đại đội trưởng đã gọi máy về Tiểu đoàn tặng tôi có đến hàng chục con cua. Riêng Hạ sĩ Ích, Tiểu đội phó dùng M.79 phóng lựu, một mình anh đã rang 3 con cua ngon lành.

Song song với Đại đội 1 và 4, sự chiến đấu gan dạ của Đại đội 2 của Đại úy Duật và Đại đội 3 do Trung úy Vàng Huy Liễu chỉ huy đã tạo sức mạnh vô song cho gia đình Quái Điểu. Sư đoàn 312 của Việt cộng với quân số gấp 10 lần hơn đã không nuốt được Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến kiên cường.

Qua hai ngày song đấu, địch đã được tăng viện nhưng không vì thế mà áp đảo được quân ta. Cấp chỉ huy Việt cộng đã đánh giá sai lầm về Tiểu đoàn 1 Quái Điểu, và cho đấy là một miếng mồi ngon chúng chỉ cần nhe nanh là đã nuốt chửng được ngay. Việt cộng đâu ngờ gặp phải một miếng mồi lửa, tạo nên bởi sự đoàn kết sắt đá, gắn bó keo sơn cùng sự chiến đấu bền bỉ gan dạ của anh em binh sĩ ta. Và chúng cũng không lường được lòng yêu nước tràn đầy của những người lính Việt Nam Cộng Hòa trước sự tồn vong của đất nước. Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đã tổ chức được vị trí phòng thủ kiên cố bằng máu xương và sức mạnh tinh thần của mình cộng với sự yểm trợ hùng hậu mà chưa bao giờ Quân lực Hoa Kỳ xử dụng trên chiến trường Việt Nam.

Tôi đang liên lạc trên hệ thống Không lực để nhờ họ đánh phá căn cứ Ái Tử, (nơi mà địch đang đặt Bộ chỉ huy và căn cứ hỏa lực để yểm trợ cho chiến trường Quảng Trị) bằng những trận rải thảm B.52 tạo nên những biển lửa khổng lồ đốt cháy tham vọng điên cuồng của bọn Cộng sản cướp nước bạo tàn, thì Trung sĩ Ngữ cận vệ trung tín nhất của tôi chạy vào báo:

- Trình Thiếu tá, Trung úy Kỳ thuộc Đại đội Viễn thám vừa bắt được 2 nữ du kích Việt cộng, tịch thu 2 khẩu súng "các-bin" tại nhà mình đang đóng quân!

Thì ra căn hầm cư trú của 2 "cô bé" du kích chỉ cách hầm đóng quân của tôi và cố vấn Mỹ độ 10 thước, trong vòng 24 giờ qua các cô muốn giết chúng tôi lúc nào chẳng được. Vì thế tôi đến gặp 2 cô và được biết họ cũng như hầu hết thanh thiếu niên Quảng Trị bị kẹt lại sau khi quân ta rút về tuyến Mỹ Chánh đã bị Việt cộng đoàn ngũ hóa và trang bị thành tổ "dân quân chiến đấu". Hai cô còn cho biết họ là nữ sinh trường trung học Nguyễn Hoàng và có người anh cả là Đại tá làm việc tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòạ Tôi liền cởi trói, bảo lãnh 2 cô và gia đình họ rồi hứa sẽ đưa ra vùng tự do sau cuộc đổ bộ này. Từ đó 2 cô là những người phục vụ đắc lực cho đơn vị tôi về tình hình du kích tại địa phương. Nhờ vậy mà chúng tôi đã thanh lọc và bắt giữ cũng như tịch thu rất nhiều tài liệu và vũ khí. Thế mới hay, trong cuộc chiến, yếu tố "tranh thủ nhân tâm" cũng quan trọng không kém, và còn tiết kiệm được xương máu anh em.

Sau 15 ngày chiến đấu quên ăn quên ngủ, Tiểu đoàn 2 Trâu Điên đã giao tiếp được với Tiểu đoàn chúng tôi nhưng cách nhau bằng con sông Vĩnh Đi.nh. Vì không dùng được trực thăng nên tôi phải nhờ đơn vị bạn này tải thương bằng những bè chuối buộc dây kéo qua sông !

Sau đó Tiểu đoàn 1 Quái Điểu được đưa về Huế, chúng tôi như những người về từ cõi chết, râu tóc rậm rạp như người rừng, mắt sâu như vực thẳm, tiều tụy như những bệnh nhân lâu ngày. Chúng tôi những người lính Thủy Quân Lục Chiến đã dành phần đời trai trẻ của mình cho những chuyến đi dài không mệt mỏi: từ tuyến đầu của con sông Thạch Hãn, được chọn làm giới tuyến ngăn địch cho đến vùng đầm lầy sông Ông Đốc, chặng đường cuối của quê hương hoặc lặn lội vùng biên giới Miên Lào với núi rừng trùng điệp... với một mục đích duy nhất là bảo vệ quê hương thân yêu khỏi lọt vào tay quân Cộng sản khát máu, bạo tàn.

Nguyễn Ðăng Hòa
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

THUNG LŨNG IA DRANG
HÀ KỲ LAM
Hollywood đã dựng lại một trận đánh nổi tiếng giữa lực lượng của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ (1st Cavalry Division) và lực lượng chính qui Bắc Việt năm 1965 tại thung lũng Ia Drang, Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, qua phim "We Were Soldiers", dựa trên cuốn hồi ký chiến trường của Cựu Trung Tướng Harold G. Moore và phóng viên chiến trường Joseph L. Galloway, cuốn "We Were Soldiers Once ... and Young". Có điều đáng tiếc là người làm phim đã không thực hiện được cảnh trí thật sự của vùng Cao Nguyên Trung Phần, bãi chiến trường xưa. Khán giả nào đã từng biết ít nhiêàu về cùng cao nguyên đó hẳn dễ thấy cảnh trí một nơi nào khác - có thể là Thái Lan, Phi Luật Tân v.v. - đã được lồng vào phim; vài cựu chiến binh Mỹ cũng đã có cùng nhận xét đó. Kẻ viết bài này đã từng có cơ duyên "gặp gở" núi rừng đó xin sơ lược đôi điều về "chốn xưa".
Thung Lũng Tử Thần nổi tiếng cả nước Mỹ

Image

Năm 1965, lúc tình hình chiến sự sôi động tại Cao Nguyên Trung Phần, thì tôi đang vất vả với những tháng ngày hành quân tại Khe Sanh, Lao Bảo, vùng biên giới của tỉnh Quảng Trị với vùng Tchépone của Lào. Thời gian đó tôi nghe tin trại Lực Lượng Đặc Biệt Đức Cơ bị quân chính qui Bắc Việt vây hãm hai tháng trời (từ tháng 8 đến tháng 10), rồi đến phiên một trại Lực Lượng Đặc Biệt khác, trại Plei Me phía nam Đức Cơ, bị một lực lượng đông đảo quân Bắc Việt tấn công năm ngày liên tiếp vào cuối tháng 10, tức cuối mùa mưa Cao Nguyên. Lực lượng giải vây cho Plei Me, một cuộc hành quân cấp trung đoàn phối hợp bộ binh và thiết giáp của QLVNCH, với yểm trợ của phi pháo đã lọt vào trận địa phục kích của địch dài 4 cây số trên tỉnh lộ 5, phía nam tỉnh lỵ Plei Ku. Nhưng lực lượng hành quân đã phản kích hiệu quả, bẻ gãy kế hoạch đả viện của đối phương.

Tưởng mọi sự của chiến trường Cao Nguyên như vậy đã được "dàn xếp" ổn thỏa, và đối phương sẽ chờ mùa mưa năm sau mới giao đấu lại! Nhưng không phải thế. Tôi lại nghe tin các đơn vị của sư đoàn 1 Không Kỵ Mỹ trong chiến dịch lùng tìm "tàn quân" Bắc Việt đang rút về hướng tây của trại lực Lượng Đặc Biệt Plei Me đã chạm địch nặng tại thung lũng Ia Drang, và báo chí Mỹ đã mô tả cường độ giao tranh là đẫm máu nhất từ đầu cuộc chiến tời giờ. Lúc bấy giờ tôi chỉ biết đại khái như thế, và địa danh "Ia Drang" lọt vào tai mình một cách mơ hồ, lạ lẫm như nghe nói đến một vùng đất xa xôi nào mà mình chẳng hề nghĩ sẽ có ngày đặt chân đến. Còn đối với đa số người Việt có lẽ thung lũng Ia Drang lại còn xa lạ hơn nữa, một cái tên chưa hề nghe bao giờ. Nhưng oái oăm thay, dường như cả nước Mỹ trong những ngày cuối thu năm 1965 ấy đều nghe nói đến "Ia Drang", bởi vì đó là thời sự nóng bỏng nhất hồi đó, và một số con em họ đã bỏ mình ở đó..

Mặc dù khuôn khổ bài này là trình bày đôi điều về thung lũng Ia Drang, không phải về trận đánh tại nơi ấy, nhưng thiết nghĩ cũng cần đề cập ngắn gọn đôi giòng về chiến trận tại Ia Drang để người đọc có thể thấy vì sao thung lũng được mệnh danh là Thung Lũng Tử Thần. Vào ngày 14-11-1965 một tiểu đoàn 450 người, do Trung Tá Harold G. Moore chỉ huy, đã đổ bộ bằng trực thăng xuống một mảng rừng trống với ngụy danh là bãi đáp X-Ray (landing zone X-Ray) trong thung lũng Ia Drang, dưới chân núi Chu Pong về phía tây nam thị xã Plei Ku khoảng sáu mươi cây số. Lập tức khoảng hai nghìn quân chính qui Bắc Việt đã bao vây đánh tiểu đoàn Mỹ. Lực lượng Mỹ nhờ hỏa lực của pháo binh, không quân, và nhờ tinh thần chiến đấu, sau ba ngày đêm chống trả với nhiều đợt xung phong biển người của đối phương đã đẩy lui địch. Cả hai bên đều tổn thất nặng. Cuốn phim "We Were Soldiers" trong đó tài tử Mel Gibson đóng vai người hùng Harold G. Moore đã dựng lại cảnh chiến trường này. Ba ngày sau, cách xa bãi chiến trường X-Ray khoảng 6 cây số, tại một khoảnh rừng trống với ngụy danh bãi đáp Albany (landing zone Albany) cũng trong thung lũng Ia Drang, một tiểu đoàn khác của Mỹ bị đối phương "đánh không còn một manh giáp". X-Ray và Albany là hai trận đánh tàn bạo nhất trong chiến tranh Việt Nam đã cho thung lũng Ia Drang cái tên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp tự nhiên của nó: Thung Lũng Tử Thần (Valley of Death).

Thung Lũng Hoàng Hôn

Vào tháng Ba năm 1966 tôi rời vùng núi rừng Khe Sanh, A Shau, A Lưới của Vùng I Chiến Thuật, trôi nổi theo nhịp đời quân ngũ từ duyên hải Nha Trang, Cam Ranh, đến Dak To, Dak Sang của vùng Kon Tum. Rồi định mệnh đưa đẩy, khoảng đầu năm 1967 tôi được điều động đến Plei Me với cương vị trưởng trại Lực Lượng Đặc Biệt này. Hơn một năm trước tôi đã nghe nói đến Plei Me, tôi đã nghe nói đến thung lũng Ia Drang phía tây nó. Và bây giờ tôi sắp đặt chân lên vùng đất huyền thoại này. Vừa đến thành phố Plei Ku tôi đã "choáng ngợp" vì hai chữ "Plei Me" và "Ia Drang". Một trường học ở đây mang tên "Trường Trung Học Plei Me", doanh trại bộ tư lệnh Quân Đoàn II mang tên "Thành Plei Me", chiếc máy bay C-47 của vị tư lệnh Quân Đoàn II mang chữ "Plei Me" đỏ chói bên hông, và một bệnh viện ở Plei Ku mang tên "Dân Y Viện Ia Drang". Nếu tôi nhớ không lầm, người ta bảo đây là sáng kiến độc đáo của Trung Tướng Vĩnh Lộc, vị tư lệnh Quân Đoàn II lúc bấy giờ. Chắc vị tướng xuất thân từ binh chủng thiết giáp kia đã hãnh diện biết bao vì hai chiến trường Plei Me và Ia Drang xảy ra trong thời gian ông cầm vận mạng Quân Đoàn II!

Ngay ngày đầu tiên đến Plei Me tôi đã đi một vòng quanh tuyến phòng thủ trại để có một cái nhìn khái quát địa thế - một hành động hầu như đã trở thành bản tính thứ hai của mình sau bao năm tháng ở các đơn vị tác chiến. Và cái biển rừng cây mênh mông phía tây trại đã đập vào mắt tôi. Đã vẹt gót giày ở những khu rừng già miền Trung, ở vùng tam biên Kontum, tầm nhìn chỉ quen với lũng sâu tiếp nối đỉnh cao, tôi chưa từng thấy một cánh rừng phẳng lì đến chân trời như thế. Thực ra, xa tít tắp trong sương khói tôi vẫn thấy dãy núi Chu Pong mờ ảo ở chân trời, nhưng đó là rặng núi cao độc nhất chế ngự cả một biển rừng cây thấp mênh mông phía tây trại Plei Me chạy đến tận biên giới Việt-Miên, và phía nam đến tận miệt bắc Ban Mê Thuột. Nhưng phải mấy ngày sau đó tôi mới khám phá ra rằng đặc điểm của bình nguyên bao la phía tây Plei Me không phải là biển lá rừng mênh mông mà là ánh hoàng hôn trên đó. Tôi đứng ngắm ánh chiều tà lộng lẫy về phía tây trại lần đầu tiên một chiều nọ và nghĩ chưa có nơi nào đẹp hơn. Nếu là một biển nước mênh mông thì cảnh sắc hoàng hôn sẽ đơn điệu, nhàm chán, tầm thường. Ánh mặt trời đỏ rực rọi trên mặt phẳng lá xanh chập chùng trải đến mút tầm nhìn, với những áng mây muôn màu ở chân trời, với sương khói lung linh như mưa bụi ngũ sắc rơi trên những ngọn núi xa xa thật khó tả bằng lời. Vả chăng tôi cũng đã cố gắng vẽ lại bức tranh ấy cách đây bảy năm - năm 1996 - trong truyện ngắn "Hoàng Hôn Trên Thung Lũng Ia Drang", và bây giờ chả lẽ lại lặp lại điệp khúc ấy. Với lại, viết về thung lũng Ia Drang hôm nay, tôi chỉ muốn làm một bài ký sự ngắn, xoay quanh sự kiện nhiều hơn. Một điều thú vị là chả riêng gì tôi bị mê hoặc vì vẻ đẹp của thiên nhiên kia, mà viên sĩ quan trưởng toán cố vấn Mỹ, Đại Úy Scott, cũng đã từng say sưa ngắm nhìn hoàng hôn phía tây trại. Mỗi lần nhìn cảnh đẹp ấy ông ta đều thốt lên "sunset on Ia Drang Valley", một sự việc đã khiến cả toán Mỹ làm đề tài hài hước mỗi hoàng hôn vắng mặt ông. Đại để, một anh lính bưng ly rượu hoặc lon bia đến bên cửa sổ nhìn ra thung lũng tắm nắng chiều và lặp lại câu nói, "sunset on Ia Drang Valley" để cả nhóm cười ầm lên.
Vị Trí Địa Dư của Thung Lũng Ia Drang

Image
Dãi đất về phía tây nam tỉnh lỵ Plei Ku là rừng thấp, chằng chịt suối, trải hằng mấy chục cây số đến tận biên giới Việt-Miên, và đến tỉnh Ban Mê Thuột kế cận. Trong toàn vùng chỉ có rặng núi Chu Pong là chi tiết địa hình nổi bật, tuy cao độ khoảng dưới một nghìn thước. Đó là một dãy núi chạy từ đông sang tây dài khoảng hai mươi lăm cây số, mà phần nằm trong đất Miên chiếm khoảng bảy cây số. Chiều nam bắc của dãy núi đo khoảng hai mươi cây số. Chu Pong là một tập hợp những hang động, những vách núi, những vực sâu, những thác nước, những thung lũng - một căn cứ địa rất tốt. Trong hai cuộc chiến tranh đã qua - chiến tranh Đông Dương 1945-1954, và chiến tranh Việt Nam 1965-1975 - Hà Nội đã dùng núi Chu Pong để trú quân và chứa kho tàng cho các chiến dịch ở Cao Nguyên Trung Phần. Dọc theo sườn phía bắc của dãy Chu Pong - từ chân núi đổ về mạn bắc - là một thung lũng khá rộng. Con sông Ia Drang, phát nguyên từ vùng gần đồn điền trà Catecka phía nam thị xã Plei Ku, cắt đôi thung lũng đó, lượn khúc qua thác ghềnh, chảy về tây, đổ vào đất Miên. Trải dài dọc đôi bờ con sông ở đoạn gần chân núi Chu Pong là thung lũng Ia Drang. Thung lũng này nằm về hướng nam-tây-nam tỉnh lỵ Plei Ku, và ở cách xa độ sáu mươi cây số. Đối với vị trí trại Lực Lượng Đặc Biệt Plei Me, nó nằm ở hướng chính tây, và cách xa khoảng trên hai mươi cây số. Như vậy, để chính xác hơn, cái biển rừng cây mênh mông phía tây cứ điểm Plei Me gồm nhiều thung lũng họp lại, và xa tít trong sương khói ở chân trời với dãy núi Chu Pong xanh lơ làm nền mới chính là thung lũng Ia Drang. Nhưng người ta quen gọi cái biển lá rừng trùng điệp phía tây trại là Thung Lũng Ia Drang, vì dòng Ia Drang là con suối quan trong trong vùng.

Vẻ Đẹp của Thiên Nhiên Ia Drang

Tôi "đến" với thung lũng Ia Drang trong một chuyến bay không thám (visual reconaissance). Chiếc L 19 chỉ có hai người, tôi và anh chàng phi công Mỹ. Cất cánh từ phi trường Plei Me, chúng tôi hướng về phía biên giới Việt-Miên, lướt trên một bề mặt rừng xanh thẫm khi thì bằng phẳng, khi thì lượn sóng, điểm xuyết bằng những con suối bạt lấp lánh, bằng những mảng rừng trống. Nhưng tuyệt nhiên không có một bóng người, hay một túp lều. Trong thời chiến bộ mặt rừng núi càng thêm hoang vu và bí hiểm!
Vùng mục tiêu quan sát là một đoạn của thung lũng Ia Drang mà tọa độ đã được xác định trên bản đồ. Phi cơ bay dọc theo con sông Ia Drang một đoạn rồi đánh nhiều vòng trên thung lũng tràn ngập ánh nắng, và bay trên các đỉnh núi lân cận. Thảo mộc hai bên bờ sông phần lớn là loại lau lách cao trên một thước, và vài nơi chỉ toàn một thảm cỏ xanh. Thỉnh thoảng những cây cổ thụ mọc ven sông nghiêng cành đến tận mé nước. Nhìn tổng quát, khung cảnh thật thanh thoát. Vẳng bên tai tôi qua cái headset giọng anh phi công khen phong cảnh đẹp. Tôi nhớ đại khái anh nói rằng đất nước này đẹp thật. Tôi nhớ lúc bấy giờ mình đã liên tưởng đến khúc nhạc "Suối Mơ" của Văn Cao:

Suối mơ, bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng

Nhân nhắc đến lời của anh phi công Mỹ, tôi muốn trích lời của hai người nữa, hai đồng bào của anh phi công kia, khi họ nói về thung lũng Ia Drang. Người thứ nhất là vị sĩ quan đã dự trận đánh ở Thung Lũng Ia Drang năm 1965, kể lại trong cuốn hồi ký chiến trường của Tướng Harold G Moore và Joseph L. Galloway. Cựu Đại Úy John Herren kể lại cảm nhận lúc ngồi trên trực thăng để ra trận: "Việt Nam đẹp thật, thậm chí trong chiến tranh, với rừng xanh, đồi rậm, với suối nguồn hoang dã chằng chịt". (Vietnam, even in war, was scenic, with the green jungle, heavy forested mountains, and wild-looking rivers crisscrossing the terrain). Người thứ hai chính là Cựu Trung Tướng Harold G. Moore, tác giả của thiên hồi ký chiến trường "We Were Soldiers Once ... and Young" vừa nêu trên. Tướng Moore, qua mấy dòng thư riêng cho kẻ viết bài này, cho biết ông đã trở lại thăm chiến trường xưa, thung lũng Ia Drang, hai lần, vào năm 1993 và 1997. Ông mô tả: "Hoa dại bây giờ phủ đầy thung lũng của những cái chết tức tưởi ngày xưa. Vùng Ia Drang từ phía tây Plei Me không có người ở, ngoại trừ một số ít người Thượng đang được di dân về hướng đông, gần Plei Ku. Vùng núi rừng Ia Drang/Chu Pong bây giờ được gọi là 'rừng oan hồn', vẫn bí hiểm và đẹp". (Wild flowers now grow in those places of violent death. The Ia Drang from Plei Me west is uninhabited except for a few Montagnards who are/have been driven out to the east near Plei Ku. The Ia Drang/Chu Pong area is now known as "The forest of Screaming Souls" and remains mysterious and beautiful). Không biết nhóm chữ "Forest of Screaming Souls" do chính tướng Moore nghĩ ra để dịch ý tưởng của người Việt hay do một thông dịch viên/hướng dẫn viên du lịch người Việt dùng để thuyết trình với du khách, nhưng dù sao thì hiển nhiên thung lũng Ia Drang đã đi vào lịch sử chiến tranh của nhân loại, lưu danh thiên cổ một trận chiến, và một nét đẹp của thiên nhiên. Có lẽ điều sau mới trường tồn hơn ...

HÀ KỲ LAM
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

MƯỜNG GIANG
Kính chào mừng Thiếu Tường Lê Minh Ðảo và Ðại Hội Toàn Quân Kỳ II
của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH vào tháng 10-2007 tại Nam CA Hoa Kỳ

Buổi sáng khánh thành tượng đài Nhớ Ơn Chiến Sĩ VNCH tại phố Tiểu Sài Gòn, miền Nam California, Hoa Kỳ. Tại đây, quanh quanh không có mộ chí trùng điệp như trong Nghĩa Trang Biên Hoà, cũng không hề thấy xác người hay quan tài trên nền cỏ uá nhưng không hẹn mà sao mọi người tham dự hôm đó, đã khóc nức nở xen lẫn tiếng đọc kinh, niệm Phật. Trong cái ánh nắng chói chang và luồng gió nồm Nam hiu hiu trầm mặc, giữa khoảng không gian tĩnh lặng buồn buồn này, bỗng dưng từ đâu không biết, xuất hiện mấy cánh chim lạ nổi trôi nghiêng nghiêng trên nền trời xanh thẳm, như muốn tìm một lối về. Nhiều người đã bảo nhau, vong linh của chiến sĩ ta đó. Tin hay không tin cũng được nhưng có một sự thật, là sau mấy mươi năm biển dâu trầm thống, từ đây hồn linh của những chàng lính VNCH, bị VC hèn mọn trả thù, làm xiêu mồ lạc nấm tại quê nhà,nay đã có một chốn đi về và sự nhắc nhớ trân trọng, biết ơn của muôn vạn trái tim Việt Nam hải ngoại. Hỡi ôi, tất cả rồi ra cũng chỉ là một kiếp người VN nhược tiểu, một thân phận bọt bèo trong thời nhiểu nhương loan lạc, nên kẻ thắng hay người thua, ngoại trừ cái đám sâu dân mọt nước của cả hai phía, thời nào cũng ăn trên ngồi trước, tất cả đều nổi trôi theo dòng định mệnh của vận nước, trong cái bể khổ ngập đầy máu lệ chúng sinh, khó có ai thoát được và không ai biết được họa phúc vô thường.

Ðời người VN thời nào cũng buồn như vậy, nên Tố Như đã viết:

“ trải qua một cuộc bể dâu,
những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”

Nói lên cái mông mênh cùng tận của trời đất và sự bé nhỏ tội nghiệp của kiếp người trước thiên nhiên. Cho nên cũng đừng lạ gì hôm qua còn ngựa xe võng lọng nghênh ngang, uy quyến tột đỉnh. Thế rồi chỉ qua đêm sau giấc ngủ, đã biến thành kẻ tội đồ, có khi đầu rơi long lóc giữa chợ.

Các bậc chính nhân quân tử xưa nay, thấu hiểu cái sự đời “ được làm vua, thua là giặc”, nên đã chọn cho mình một lối sống khác đời, xem nhẹ lợi danh phù phiếm, dấn thân vào con đường an dân, cưú nước, bởi “ nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử” nên làm trai, làm người phải “ lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Ðây cũng là một quan niệm sống của thanh niên nam nữ VN thời tao loạn, lúc quốc gia nguy biến nhất là trong giai đoạn 1955-1975, cọng sản quốc tế quyết tâm nhuộm đỏ toàn cõi Lạc Hồng. Hai câu thơ cổ trên , trích từ thiên hùng ca Chính Khí của Văn Thiên Tường,một đại quan cũng là một thi nhân sĩ phu yêu nước nồng nàn thời mạt Tống, trước đại họa xâm lăng cuả Mông Cổ. Năm1278, Ong và vua Tống Ðoan Tông bị giặc bắt và cầm giam tại Yên Kinh nhưng lòng dạ son sắt, không đầu hàng địch nên cuối cùng bị thảm sát. Trong tù, Ong đã làm thiên Chính Khí Ca nói lên cái tiết tháo của kẻ sĩ :

“ Thâm tâm nhất phiến từ châm thạch,
Bất chỉ Nam Phương, bất khẳng hưu
Tòng kim biệt khúc Giang Nam lộ
Hoá tác đề quyên, đái huyết qui..”

Có nghĩa là “ lòng ta như mãnh nam châm, nếu không được trở về cố quốc ở miền Nam, thì ta chết đâu yên dạ. Sau này quyết làm con chim Ðỗ Quyên đêm ngày thương nhà nhớ nước, khóc cho tới máu rỉ tan xương gục chết bên trời. “

Cảnh ngộ trên có khác gì hoàn cảnh của QLVNCH trong giờ thứ 25, khi Dương Văn Minh nắm vận nước, dùng quyền tổng tư lệnh Quân Ðội và tổng thống để bắt VNCH đầu hàng Cộng Sản quốc tế. Vì Tổ Quốc, Danh Dự , Trách Nhiệm và tuân theo kỷ luật mà Quân Lực Miền Nam từ Tướng Lãnh xuống tới Nhân dân tự vệ phải buông súng theo lệnh cấp lãnh đạo, trong máu lệ miên trường. Noi theo chí cả hùng anh trong dòng sử Việt, một số tướng lãnh và các chiến sĩ anh hùng như các Tướng Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng.. không để sa cơ vào tay giặc, đã quyên sinh làm rạng danh Người Việt, Nước Việt. Một số không nhỏ may mắn di tản được ra ngoại quốc. Phần lớn QLVNCH còn lại, hiểu thấu những quy luật chính trị trong Sử Việt, đã chấp nhận sống tạm để trả thù. Ba mươi hai năm qua trong cái thiên đường xã nghĩa đói rách lầm than, dân bình thường còn không đủ cơm ăn áo mặc, người còn hãm hại người để tranh sống thì trong cái địa ngục trần gian, nơi mà : “Kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không hay, kêu ông giám thị.. thì ông giám thị ngủ say..”, khiến ta phải nghiêng mình ngưỡng mộ trước những mảnh gương tiết nghĩa chói rang trong chốn ngục tù. Bao năm qua đã không biết bao nhiêu anh hùng bỏ thây trên đất Bắc, số còn lại rốt cục cũng trở lại được nam phương và tiếp tục cuộc sống không nhà không nước khắp chân trời góc bể.

Ngoại trừ một số không đáng kể, đếm được trên mười đầu ngón tay, tuy nay vẫn sống nhưng họ bị tập thể xem như đã chết hẳn tại ngục tù cọng sản, vì hèn nhát, ham sống sợ chết, bán đứng đồng đội cho giặc Hồ. Còn tuyệt đại anh hùng QLVNCH xứng đáng để chúng ta vinh danh. Theo “ VN qua lăng kính 24 nhân vật thời đại” của Nguyễn vạn Hùng, Thời Luận xuất bản năm 1996, ngày 27/1/1990 tại phi trường Los Angles,CA, Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, người hùng trong trâ.n chiến Kontum 1972 mùa hè đỏ lửa, tư lệnh SD25BB chống giặc đến phút cuối cùng, sau 13 năm tù ngục cọng sản khắp miền bắc cùng với các tướng lãnh VNCH, cũng là vị tướng lãnh đầu tiên bị kẹt tại VN, tới Mỹ bằng viện HO. Chuẩn tướng đã trả lời phỏng vấn của tác giả sách trên, cũng là cựu SQ/QLVNCH khoá 17/SQTB/TD, tù nhân cọng sản từ 1975-1982, về câu hỏi “ có tướng lãnh VNCH nào đầu hàng VC trong ngục tù hay không ? “.Câu hỏi trên đã được Tướng Bá đáp lại bằng một tiếng “ KHÔNG” .

Cũng liên quan tới vần đề này, được Ðại Úy Cao Khắc Tiệp, nguyên phục vụ tại Thiết Ðoàn 2 Kỵ Binh, một tù nhân Cộng Sản nhiều năm và nhiều nơi trên đất Bắc (ông hiện sống tại Hạ Uy Di) đã kể lại câu chuyện mắt thấy tại nghe tại trại Hà Tây. Các vị tướng lãnh lúc đó bị cầm tù trong khu biệt giam. Cuối năm 1981, VC xây một trạm cứu thương trong khu vực tù. Ðể trình diễn gạt bọn da trắng kiếm tiền, VC bắt ba Tướng Lê Minh Ðảo, Phạm Văn Tất và Nguyễn Vĩnh Nghi tới trạm xá chụp hình quảng cáo. Theo lời kể của nhân chứng trong một dịp tình cờ khi xuống bếp ăn nằm kế khu biệt giam để gánh nước uống cho anh em đang lao tác, Ðại Úy Tiệp đã nghe được lời từ chối quyết liệt của ba vị tướng lãnh trên với tên Thượng Uý, phụ trách trại. Ðặc biệt Tướng Ðảo đã nói “Muốn bắn thí bắn, chứ không bao giờ chụp hình để bị đem ra tuyên truyền bôi nhọ QLVNCH". Ông Hồ Sĩ Khuê trong tác phẩm “HCM, NDD và MTGP” cũng viết : ”Dân miền Nam đã nói đến tướng tự thất thủ.. Họ sống vì nước chết vì nước như Tướng Nguyễn Khoa Nam.. Thua thì chấp nhận số phận đầy đoạ như Tướng Lê Minh Ðảo, họ không chạy hay đi đâu (trang 399, dòng 8-12). Nhưng có lẽ thắm thiết và có ý nghĩa nhất là bài thơ “ Những Cột Trụ Chống Giữ Phương Nam“ đăng trong KBC 14 của nhà văn Quân Ðội nổi tiếng cũng là đại úy Nhảy Dù/QLVNCH Phan Nhật Nam, một người tù kiệt xuất, đã viết tặng 4 vị Tướng lãnh VNCH bi tù lâu nhất: Mười bảy năm“. Ðó là các Tướng Ðổ Kế Giai, Lê Văn Thân, Trần Bá Di và Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo. Trong 4 vị trên, Tướng Ðảo là tư lệnh SD18BB cũng là Tư Lệnh chiến trường Xuân Lộc vào tháng 4/1975, đã cùng với quân dân Miền Nam, tạo một chiến thắng lừng lẫy trong dòng sử Việt, qua cuộc chiến chống xâm lăng Cộng Sản.

Caí đáng nói nhất, đó là nhờ Sư Ðoàn 18 BB và các đơn vị tăng phái cho Mặt Trận Xuân Lộc Tháng 4-1975 như Lử Ðoàn 1 Nhảy Dù, Tiểu Ðoàn 82 BÐQ, SÐ3 và 4 KQ.. nên QLVNCH đã cầm chân được Cộng Sản Bắc Việt gần 2 tuần lễ. Nhờ vậy đã giúp cho một số lớn người VN hậu phương, có cơ hội ‘ di tản ‘ ra nước ngoài để đồi đời.

+THIẾU TƯỚNG LÊ MINH ÐẢO VÀ CHIẾN TRƯỜNG XUÂN LỘC THÁNG 4-1975

Sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết vào tháng 1-1973, cũng là lúc VNCH coi như đã bước vào tử lộ vì bộ đội Hà Nội được Mỹ cho phép công khai ở lại Miền Nam. Ba mươi năm chinh chiến, tất cả gian khổ hiểm nguy đều vượt qua được , không ngờ lúc chiến thắng gần kề, thì phút cuối lại bị sụp đổ oan nghiệt trong thời gian ngắn ngủi 55 ngày. Thảm trạng trên chỉ là kết cuộc tất yếu của một quân lực luôn luôn trực diện với thù trong giặc ngoài.

Tại chiến trường, lợi dụng cái vô duyên bất xứng của đám bốn bên bốn bè và tai ngơ mắt nhắm của Hoa Kỳ nên Hà Nội ngang nhiên tha hồ chuyển quân, vũ khí qua đường bộ dường biển, để tấn công QLVNCH trên khắp bốn vùng chiến thuật, dành dân, chiếm đất và khủng bố dân lành. Tại hậu phương an bình, người dân thờ ơ đứng bên lề cuộc chiến, coi cái sự ngăn chận chống VC là chuyện của Lính. Tệ hơn là lúc đất nước sắp mất vào tay giặc thù,lại có một ít trí thức miền nam quen hoang tưởng, sống no cơm ấm cật, bị bọn thân cộng VC nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Kiên Giang Hà Huy Hà, Phong Ðạm.. trên các báo đảng Tin Ðiển, Tia Sáng, Thần Chung,Ðối Diện.. dựa vào Luật Uỷ Quyền của Quốc Hội, cho phép TT.Nguyễn văn Thiệu được quyết định cơ mật quốc gia trong thời chiến cũng như sắc lệnh 007/SLU/TT về báo chí, để xuí giục các ký giả xuống đường vào ngày 10-10-1974 tại Sài Gòn, đòi tự do, quyền lợi như các nước Aạu Mỹ tiền tuyến và đang sống hoà bình. Nhưng nhức nhối nhất vẫn là viện trợ Mỹ, lúc đó đang trở thành chiếc thòng lọng, siết cổ VNCH. Trên trường quốc té, bọn nhà báo da trắng bất lương, vô liêm sỉ nhất là báo chí truyền thông Hoa kỳ như Morley Saper, David Halbertan, Water Cronkite.. loan tin bừa bãi, uốn cong ngòi bút , a dua xu thời, thân cộng, kết bè với cái gọi là thành phần thứ ba, hầu hết trốn quân dịch hay thuộc thành phần trí thức mạt vận, phá nát hậu phương miền nam.

Trong lịch sử Hồng Lạc, chưa bao giờ người Việt phải đau xót về cái thân phận nhược tiểu của dân tộc mình nhiều như bây giờ. Tại miền Bắc, VC chỉ là một tên đánh thuê cho khối XHCN, trong lúc đó miền Nam cũng thảm thê không kém. Chính nghĩa dân tộc đã bi Hoa Kỳ đánh lạc hướng, để có lý do coi VNCH như một thuộc địa. Bởi vậy người Mỹ đã độc đoán, tự mình quyết định vận mệnh của nước khác, theo chính sách chỉ có lợi cho Mỹ mà thôi. Dùng quân viện để hù dọa và trói tay QLVNCH, cuối cùng thì bán đứng cho VC để đổi lấy thị trường Trung Cộng, vừa làm giàu vừa có đồng minh tiêu diệt Liên Sô. Ngày 25/5/1974, Hạ Viện Hoa Kỳ bác bỏ ngân sách quân viện VNCH tài khóa 1975 dự định là 1 tỷ 400 triệu đô la. Số tiền này sau đó được biểu quyết, có hiệu lực sau ngày 1/7/1974, chỉ còn 700 triệu đô la, trong số này có 300 triệu trả lương cho người Mỹ đang phục vụ tại VN. Ngoài ra cũng hủy bỏ lời giao kết 1 đổi 1, trong việc thay thế quân trang dụng cho QLVNCH, trong lúc đó giá xăng dầu lại tăng, nên cuối cùng quân viện của miền Nam từ 1 tỷ 700 triệu đô, kể từ tháng 7-1974 chỉ còn 300 triệu. Ngày 9-8-1974, Tổng Thống Nixon từ chức vì vụ Watergate, kéo theo xuống mồ những giao kết với Tổng Thống Thiệu. Ford lên thế chức nhưng không có uy tín vì không phải là tổng thống dân cử, nên cũng đành khoanh tay bất lực, đứng nhìn cái Quốc Hội do bon dân cử đảng Dân Chủ thân Cộng, tác quái giết chết VNCH. Ngày 18-12-1974, Hà Nội nhận quân viện của Liên Sô, bắt đầu tổng tấn cống chiếm miền nam theo lệnh quan thầy. Cũng từ đó, máu bắt đầu chảy khắp chiến trường, mở màn Phước Long thất thủ ngày 2-1-1975, kế tiếp Ban Mê Thuột ngày 10-3-1975, dẫn tới hai cuộc lui quân của QD2 và QD1 trong những ngày đầu tháng 4/1975, kéo theo sự sụp đổ toàn diện của Vùng 1 và 2 chiến thuật, mà tỉnh cuối cùng thất thủ là Phan Thiết vào ngày 19-4-1975.

Nhưng tất cả các lộ quân của VC đã bị chận đứng và đánh tan tành tại mặt trận Long Khánh và trong thị xã Xuân Lộc, từ ngày 9-4-1975 bởi Sư Đoàn 18BB và các đơn vị tăng phái , do Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy.

Theo tài liệu từ Chiến Sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh, Chiến Tranh VN Toàn Tập của Nguyễn Ðức Phương, cũng như nhiều sách báo khác, thì ông Lê Minh Ðảo sinh năm 1933 tại Sài Gòn, khóa 10 trường VB/QGDL. Trong cuộc đồi binh nghiệp, ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng như huấn luyện viên Trung Tâm Trường Hành Quân QD4, tỉnh trưởng Long An, Chương Thiện, Ðịnh Tường. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, cố vấn trưởng QD2 Vann đã đề nghi Trung Tướng Ngô Du chấp thuận cho ông và Ðại Tá Lý tòng Bá giữ chức tư lệnh SD22 và 23 BB nhưng Tướng Du chỉ chấp nhận Ðại Tá Bá làm tư lệnh SD23BB thế Chuẩn Tướng Võ văn Cảnh tuổi tác hơi lớn. Riêng SD22BB, tư lệnh phó lúc đó là Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, một sĩ quan kỵ binh trẻ và tài giỏi, nên có thể thay Chuẩn Tướng Triển tuổi già. Cũng vì vậy, tháng 3-1972, Tổng Thống Thiệu đã cử Ðại Tá Ðảo giữ chức tư lệnh SD18BB kiêm tư lệnh khu 31 chiến thuật, thuộc Quân Khu 3. Ông vinh thăng chuẩn tướng ngày 1-11-1972 và Thiếu Tướng ngày 23-4-1975, được ân thưởng 48 huy chương đủ loại, trong đó có các huy chương cao quý như Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng, đệ tứ Đẳng và Đệ Tam Đẳng cùng nhiều huy chương của chính phủ Hoa Kỳ như Silver star, Bronze star.. Hai cái lon chuẩn và thiếu tướng được đổi bằng máu tại An Lộc trời long đất lở năm 1972 và Xuân Lộc địa ngục A Tỳ vào những ngày cuối tháng Tư đen máu lệ 1975.

Sư Đoàn 18 BB được thành lập từ tháng 10/1965 tại Xuân Lộc, với danh xưng đầu tiên là SD10BB, do Tướng Lữ Lan làm tư lệnh với 3 trung đoàn bộ binh biệt lập là TrD43, 48 và 52, đều là những đơn vị kỳ cựu thiện chiến của QLVNCH, có trước ngày chia đôi đất nước 1954. Năm 1966, SD10BB đổi danh hiệu là SD18BB và trải qua các cấp tư lệnh như tướng Nguyễn Văn Mạnh, Ðổ Kế Giai, Lâm Quang Thơ cuối cùng là Tướng Lê Minh Ðảo. Trước đây, sư đoàn sở dĩ bị xếp cuối sổ phong trần, không phải vì các vị tư lệnh hay quân nhân các cấp không chịu đánh giặc, mà vì hầu như các đơn vị của sư đoàn luôn bị cắt xén, biệt phái hành quân hết tỉnh này đến vùng khác.. khiến quân sĩ mỏi mệt chán nản, vì vậy lúc nào cũng mang ấn tượng mình là đơn vị bị trừng giới lưu đầy. Ai đã từng sống trong các đơn vị bị biệt phái mới biết những thiệt thòi. Tiểu Ðoàn 1/43BB được coi như một đơn vị trừng giới, đã bị Khu Chiến Thuật biệt phái khắp vùng, từ Di Linh tới Phan Thiết, Bình Tuy, Long Khánh,Bình Dương, Tây Ninh, Hậu Nghĩa và tháng 5/1965 mới được trở về với mặt trời, khi toàn bộ Trung Ðoàn 43 biệt lập, lúc đó do Thiếu Tá Nguyễn Dương Huy làm TDT, trách nhiệm Củ Chi và tỉnh Hậu Nghĩa. Tháng 3-1972, Ðại Tá Ðảo về làm tư lệnh thế Tướng Lâm Quang Thơ, SD 18 BB lúc đó thật sự chỉ còn 1 TDBB của TrD48, 1 DD trinh sát của TrD48 và DD18 Trinh sát. Còn Trung Ðoàn 48BB thì biệt phái TK.Bình Tuy, TrD43 biệt Phái Tây Ninh, Hậu Nghĩa, TrD52 đang biệt phái SD5BB trong An Lộc. Thế nhưng nhờ biết vận dụng chiến lược và khai thác khả năng chiến đấu của DPQ-NQ diện địa, SD 18BB đã bình định xong Long Khánh và Phước Tuy. Tháng 6-1972, SD18BB vào An Lộc thay thế SD5BB của Tướng Lê văn Hưng, rút về Bình Dương dưỡng quân. Nhờ vậy Quân Ðoàn 3 đã trả lại các TrD43,48 và TrD52 cho SD18BB. An Lộc lúc đó còn có LD5BDQ của Trung Tá Ngô Minh Hồng tăng phái. SD18BB đã cùng LD5BDQ chiếm lại lãnh thổ đã mất, khai thông QL13 như trước. Cũng kể từ đó, những người lính thần nỏ vùng đất đỏ Xuân Lộc như cá gặp nước, rồng thấy mây, tung hoành khắp khu 31 chiến thuật, từ Bình Long, Dầu Tiếng, Bời Lời, Hố Bò,Tây Ninh, Ðức Huệ, cho tới Ðất Ðỏ, Mây Tào, Võ Xu, Ðịnh Quán, gót chân người lính 18BB, vừa súng, vừa thơ, tay đàn, tay kiếm, ngang dọc một trời, mang lại an bình và niềm vui cho cả vùng chiến thuật.

“Ðêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết,
như một vành trăng trắng đất trời
chân theo quân rút hồn ta ở
nghe nước La Ngà cuồn cuộn trôi..”

(Nguyễn Phúc Sông Hương, Trung Đoàn 48/SD18BB),

Danh hiệu 18 đã được hồi phục, gắn liền cùng tên tuổi những sĩ quan tài danh trẻ tuổi của QLVNCH từ Trung đoàn, tiểu đoàn, thiết giáp, pháo binh.. cũng như tên tuổi Chuẩn Tướng tư lệnh Lê Minh Ðảo.

Tại mặt trận Xuân Lộc, nhờ tinh thần quyết chiến của quân nhân các cấp, lại được chuẩn bị chu đáo chờ giặc. Tất cả gia đình binh sĩ kể cả bệnh viện đều được di chuyển về Biên Hòa, nên không làm vướng bận tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Về chiến lược, trước khi cuộc chiến xảy ra, quân ta đã chiếm lĩnh những cao điểm do giặc đóng từ trước, đem pháo binh bố trí tại các điểm cao và quan trong, bí mật tránh phản pháo. Trong thành phố Xuân Lộc, chỉ có DD18 trinh sát, TD1 và 3/43 phòng thủ trong các công sự chắc chắn, kiên cố. Còn lại các đơn vị hùng hậu như Thiết Ðoàn 5 của Trung Tá Nô và Trung Ðoàn 48 của Trung Tá Công thì nằm ở ngoài, nội ngoại đồng loạt tấn cộng địch khi chúng lọt vòng vây, nên đã giữ được phòng tuyến trong những ngày đầu, trước khi Lữ Ðoàn Dù tăng phái. Ngoài ra SD3KQ ở Biên Hoà đã hợp đồng với pháo binh , oanh kích, xạ kích vào các vị trí giặc chính xác như trên xa bàn, khiến VC không biết đâu mà mò. Chiến đoàn 52 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng vì phải trải dài vị trí chiến đấu từ Túc Trưng về tới Ngã Ba Dầu Giây, lại gặp toàn là đồng bằng và phải đối chọi với một lực lượng gấp 10 lần, nhưng ta đã giữ vững được vị trí từ ngày 10-15/4/1975, nhất là tại Ðồi Móng Ngựa. Cuối Cùng Chiến Ðoàn 52, tuy bị hao hụt quân số nhưng cũng rút được về Biên Hoà.

Kết quả sau nhiều ngày tử chiến, từ 8 đến 20-4, SD18BB, Lữ Ðoàn 1 Dù của Ðại Tá Nguyễn văn Ðỉnh, Tiểu Ðoàn 82 BÐQ của Thiếu Tá Vương Mộng Long, LLDB, Pháo Binh, DPQ-NQ, SD3,4KQ.. đã giữ vững được Xuân Lộc-Long Khánh, chận đứng cuộc tiến quân của Bắc Việt từ cao nguyên đổ xuống và miền Trung đổ vào, hơn 8000 bộ đội bỏ xác tại chỗ, 37 chiến xa T54 bị phá huỷ bởi các loại bom CBU 55 và 4 trái tiểu nguyên tử “Daisy Cutter”, nhưng trên hết là dạy cho quân xâm lăng một bài học để đời trong dòng chiến sử Việt.

Sau ngày 20-4-1975, Long Khánh không còn là vị trí chiến lược, vì các lộ quân Bắc Việt không thể đương đầu nổi với các cánh quân tại đây cũng như bức tường thép của Lực Lưọng 3 Xung Kích cuả Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi và Trung Ðoàn 8/SD5BB, nên Lê Duẩn đã ra lịnh tìm đường khác về Sài Gòn. Vì vậy QD3 ra lệnh rút quân về bảo vệ Biên Hòa. Trong những ngày cuối cùng của trận chiến, ta có hai cuộc lui quân thành công, một do TK/Bình Thuận rút bằng bằng đường biển tại bến tàu Kim Hải sáng 19-4-1975, song song với cánh quân bộ của Trung Tá Quận Trưởng Hàm Thuận là Dụng văn Ðối, từ Ngả Hai tới La Di, Phước Tuy. Cuộc rút quân thứ hai của SD18BB và các đơn vị tăng phái Xuân Lộc cũng như TK.Long Khánh do Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy , trên Lien tỉnh lộ 2 , Tân Phong-Bà Rịa vào đêm 20-4-1975. Nhờ có tổ chức, có tư lệnh chiến trường là Tướng Lê Minh Ðảo cùng đi bộ với binh sĩ, nên cánh quân của Ðại Tá Hứa Yến Lến, TMP Hành Quân/SD18 đã bảo vệ được nguyên vẹn cơ giới, kể cả hai khẩu đại bác 175 gắn trên xe xích của QÐ3 tăng phái. Cuộc lui quân an toàn ngoài sự thiệt hại nhỏ của cánh quân Dù và TK/LK bị phục kích. Ðại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc bị bắt và học tập tận ngoài bắc suốt 13 năm. Trong cuộc lui quân này, TD2/43 của Thiếu Tá Chế vì đóng quân tận Núi Thị, nên không theo kíp cánh quân đoàn hậu của Lử Ðoàn 1 Nhảy Dù như kế hoạch lui quân. Nhưng cuối cùng nhờ tài thao lược của vị Tiểu Ðoàn Trưởng và các cấp chỉ huy, cũng như sự gan da và thiện chiến của đơn vị, nên cuối cùng TÐ tự hành quân rút về đươc Long Thành sau ba ngày chiến đấu.

Tóm lại, chiến thắng Xuân Lộc đã cho thế giới biết rõ là quân dân miền Nam rất muốn chiến đấu để chiến thắng giặc Cộng xâm lăng, nhưng họ đã nhiều lần phải bỏ lỡ cơ hội chiến thắng, bởi đồng minh Hoa Kỳ và chính đồng bào mình tìm đủ mọi cách ngăn cản, phá hoại làm hỏng lý tưởng và cuộc chiến thắng sau cùng. Theo ký giả chiến trường Nguyễn Tuyến, làm vệc tại Ðài phát thanh Sài Gòn, người đã nhảy vào thị xã Xuân Lộc đang trong cơn bão lửa, theo sát DD18 trinh sát, sau đó cùng với cánh quân dù suốt đọan đường lui quân từ Tân Phong về Bà Rịa, đã trực tiếp phỏng vấn Tướng Ðảo khi Oạng ngồi nghĩ tại cánh rừng cao su , viết rằng :” Oạng Tướng rất tự tin, không hề giận dữ hay tỏ vẻ sợ hãi khi điều quân.”.

Rồi ngày quốc hận đã tới, bấy giờ ngoài Trung Ðoàn 43 tại Trảng Bom, tất cả sư đoàn đều đóng quanh quẩn gần Long Bình. Chiều 29-4-1975, BTL Sư Ðoàn 18 mất liên lạc với BTL/QD3 làm xao động các cấp chỉ huy nhưng Thiếu Tướng Ðảo vẫn còn bình tĩnh phối trí các đơn vị dưới quyến, cho tới lúc đó vẫn chưa có ai bỏ ngũ. Trung Ðoàn 43 vẫn giữ Trảng Bom, Trung Ðoàn 52 giữ Tam Hiệp và Tân Mai, Trung Ðoàn 48 cùng BCH giữ Tổng Kho Long Bình và các yếu điểm lân cận trong đêm. Lúc này Tướng Ðảo có trực thăng và đầy đủ phương tiện. Quan lớn quan nhỏ kể cả linh tráng cũng có phương tiện và điều kiện nếu có ý định chạy, vì căn cứ Hải Quân Cát Lái rất gần, đường bộ đường thủy còn thông; nhưng tất cả không ai có ý định chạy, kể cả những lúc mạng sống mỏng manh trong biển máu An Lộc, Xuân Lộc.

8 giờ tối cùng đêm, Tướng Ðảo nhận điện thoại của Trung Tướng Vĩnh Lộc, lúc đó là quyền tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH của Dương Văn Minh, với lệnh đem toàn bộ Sư Đoàn 18 Bộ Binh phòng thủ bên này sông Ðồng Nai (mé Sài Gòn) và căn dặn phải giữ vững vị trí trong vòng 3 ngày để chờ phép lạ đưa chim bồ câu trắng tới ban hòa bình trong biển lửa. Do lệnh trên, Tướng Ðảo đã bố trí Pháo Binh SD tại Nghĩa Trang Biên Hòa cho tiện yểm trợ Biên Hòa lẫn Long Bình, đồng thời ngay trong đêm ra lệnh cho Thiết Đoàn 18 Tiếp Vận cùng các Ðơn Vị Yểm Trợ di chuyển ngay về Biệt Khu Thủ Ðô,để sẵn sàng xuống Vùng 4 Chiến Thuật tiếp tục chiến đấu, nếu Sài Gòn thất thủ. Lúc đó trong thâm tâm ông cùng các cấp chỉ huy SD đều tin tưởng V4CT có các SD7,9,21, Thiết Kỵ, BDQ, Pháo Binh và nhất là các Liên Ðoàn DPQ, các Liên Ðội NQ thiện chiến dũng cảm, nồng nàn yêu nước, giống như các cấp tướng lãnh Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai.. thì QLVNCH có thể cố thủ cầm cự vài tháng chờ quân viện.

Sáng ngày 30-4-1975, Sư Đoàn 18 Bộ Binh chuyển quân nhưng không thể giật sập cầu xa lộ. Gần trưa, khi đoàn quân tới Cầu Sơn thì dài phát thanh qua giọng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi QLVNCH, tuân hành lệnh của tổng thống, tổng tư lệnh buông súng đầu hàng VC. Tin trên khiến cho lính tráng khóc lóc, nhiều người đập gãy súng hay bắn điên cuồng vào VC, khiến nhiều kẻ thương vong. Lúc bấy giờ theo ông còn 1 Trung Ðội nhưng Tướng Ðảo cho mọi người tan hàng, riêng ông về nhà của Mẹ thay đồ rồi trốn xuống V4, nhưng tại đây đại cuộc đã định khi Dương Văn Minh đầu hàng giặc. Các Tướng Nam, Hưng, Hai vì thi hành kỷ luật quân đội đã tự sát làm rạng danh kỷ cương của một quân đội nhân bản, vì tổ quốc, danh dự, trách nhiệm. Ông trở lại Sài Gòn ngày 9-5-1975, ra trình diện và lãnh án mười bảy năm tù.

+ LÊ MINH ÐẢO, ÐỜI TRAI NGHIỆP LÍNH TRONG CÕI TRĂM NĂM:

Giờ cuối cùng bổng tới như trời sập, nhưng vẫn còn một số lớn đơn vị Dù, TQLC, BDQ, LLDB... bất tuân lệnh của Dương Văn Minh, chận đánh VC khắp các ngả đường dẫn tới Dinh Ðộc Lập, nơi tổng thống và chính phủ đang quỳ chờ dâng biểu quy hàng. Theo Nguyễn Khắc Ngữ trong NGCCCVNCH, nơi trang 385, ghi lại những cái hèn của đám xôi thịt, trước bọn cán binh vào ngày 2-5-1975 như sau: ”Minh nói là công dân một nước VN, đất nước được GIẢI PHÓNG, tôi rất vui mừng. Huyền nói tôi vui mừng khi thấy DÂN TỘC được giải phóng. Riêng tên Nguyễn Văn Hảo, kẻ đem 18 tấn vàng của Ngân Hàng QGVN dâng cho Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, nói tôi nghỉ đây là một ngày LỊCH SỬ, Hảo hiện ở TX, Hoa Kỳ..” Sài Gòn đã chết lúc 12 giờ 30, dân chúng hờ hững nhìn chủ mới và những con khỉ người sút chuồng, quàng khăn đỏ, tay cầm cờ máu, võ trang súng đạn lượm được của lính quăng khắp đường, cỡi xe Jeep, la ó muá rối khắp thành phố.

Ðồng lúc có 125 nhà báo Tây phương cũng chen lấn đi xem Bộ Ðội Giải Phóng Miền Nam, mà bấy lâu nay họ hết lòng ca tụng chỉ vì có thành kiến với QLVNCH, nhờ vậy phe ta mới té ngửa ra khi xác nhận tất cả đều là BỘ ÐỘI BẮC VIỆT. Trên tờ Los Angles times, ký giả Norman Pohrets nói Nam VN mất không do bất mãn nội bộ mà là sự xâm lăng của Bắc Việt. Một nữ ký giả Pháp Brigitte Friang mai mỉa rằng trưa 30-4-1975, xe tăng Cộng Sản vào Sài Gòn, thành phố đã chết, chỉ có lũ con nít và 125 nhà báo. Giặc cướp gọi ta là ngụy thì có chi là lạ nhưng nỗi đau nhức nhối trong đời trai kiếp lính của những thanh niên thời đại, là bị Dương văn Minh cùng đám phản tặc VNCH bán đứng để đổi chút hư danh.

Cuối cùng còn nước thì còn tất cả, mất vào tay Cộng Sản rồi ai cũng trở thành cánh lục bình trôi giạt muôn phương.. cũng may tuyệt đại dân chúng miền Nam sau giấc trầm kha máu lệ, đã nhận diện rõ những bộ mặt khả ái trong chốn tam quân và gọi đích danh Hà Nội mới chính là những tên lính tiền phong đánh thuê cho Nga, Tàu, Xã Hội Chủ Nghĩa. Ba mươi hai năm qua, người Việt thông thái có biết có không, có đi lính hay suốt đời mang áo chùm thâm, cạo đầu trốn lính, đã thi nhau múa bút viết hồi ký và lịch sử chiến tranh VN dựa vào núi tài liệu trong các thư viện mà đa số là của ngoại quốc và VC.

Thời chiến VNCH làm gì có nhà văn nhà báo, nhà trí thức viết những dòng khen lính như việc Tướng Nguyễn Ngọc Loan can đảm phi thường đã bắn chết tên Bảy Lốp tại ngã ba vườn Lài. Ðây là một tên VC khát máu và ác ôn nhất trong trận Mậu Thân tại Sài Gòn. Chuyện bắn VC giết hại dân lành trên bị ký giả Eddie Adams chụp hình và phóng ảnh khắp thế giới. Thế là báo ta, báo giặc hùa với hệ thống truyền thông thân Cộng và đám phản chiến Hoa Kỳ làm lớn chuyện, mà vô duyên nhất là hai dân biểu đảng Dân Chủ Mỹ lúc đó là mụ Elizabeth Holtzman và chàng Harold Sawyer nộp đơn kiện giùm Bảy Lốp và đòi Hoa Kỳ trục xuất Tướng Loan năm 1976, nhưng vô hiệu. Cũng may trong cái đống sách báo tả pí lù này, tìm mãi chẳng thấy một trang nào viết về VNCH bán Cam Ranh hay đất đai cho Mỹ, cũng chẳng có ai nói các tướng lãnh VNCH bị tù ngoài Bắc, đầu hàng hay làm nhục quân đội vì sợ chết, sợ đói hay hám danh bị dụ dỗ, mà chỉ toàn là lời đồn đãi xuyên tạc vì ganh tị nhỏ nhen, vì thù hận cá nhân và vì cảm thấy mình quá thấp kém từ cấp bậc, tư cách cũng như hành trình muốn vươn lên làm ‘anh hùng đất Việt‘.

Tóm lại những nhà viết sử chỉ mai mỉa cái đám Từ Hải tân thời ngơ ngơ ngáo ngáo,ông ông con con trước Nam Long, Công Trang, Bùi Tín và cái đám bộ đội mén thuộc Lữ Đoàn Thiết Giáp 203 Bắc Việt là Bùi Văn Tùng, làm mất hết thể thống của con người đã một thời làm trùm cả nước. Tất cả cũng là ý trời, Sài Gòn tự thất thủ nên quần chúng không tổng khởi nghĩa, bởi vậy quân Hồ không còn lý do gì để tàn sát và tắm máu miền Nam như đệ tử ruột của Hồ Chí Minh là Polpot đã làm tại xứ chùa Tháp. Hơn nữa theo dự đoán của văn hào Nga lưu vong Soljenitsyne, nếu ra tay khủng bố trắng trợn, chưa chắc tập thể QLVNCH chịu bó tay chờ chết, nên đảng ta bèn giã ơn nhân đạo, chỉ TẬP TRUNG HỌC TẬP CẢI TẠO rồi về.

Biết trước sự tàn ác của bọn thắng trận chiếm đóng qua dòng việt sử như Tàu, Chiêm, Tây , nên người miền Nam nô lệ, giả bộ vồn vã miễn cưỡng giao tiếp với giặc Bắc, nhận chúng là đồng bào, cũng như thái độ giả ngộ hăng say ghi danh học tập của quân công cán cảnh. Tất cả chỉ vì thời thế phải thế thời, nên ai cũng nén nhục giữ mạng, chờ ngày theo gót Hưng Ðạo, Lê Lợi, Quang Trung .. đánh đuổi giặc Hồ quang phục đất nước. Nay thì cả nước VN chẳng riêng gì lính, trừ ai may mắn chạy kịp, đều ít nhiều nếm mùi cải tạo, tẩy não, nhồi sọ con người. Nói chung mục đích của Cộng Sản Hà Nội bắt VNCH học tập là để hăm dọa trấn áp người dân bình thường, hạ nhục trả thù người lính. Học tập quần chúng khác cải tạo trí thức, cho nên cùng là cải tạo, tướng lãnh khác cấp tá, uý.. Bởi vậy đừng lấy ta suy bụng người, vì trong cái thiên đường xã nghĩa và chốn bụi hồng, thấy vậy mà không phải vậy, cay đắng và tủi nhục hằng hằng bao chục năm chưa đủ sao hỡi trời ? Hơn nữa với bản chất bạo ngược, nói láo và bêu xấu những thần tượng của VNCH đã và đang được quần chúng trong ngoài nước kính trọng, thì cái chuyện vu vơ chê ghét nay còn mấy ai tin, sau khi đã biết qua những hình ảnh khủng khiếp của tù nhân khi đọc Goulas mà văn hào Soljenitsyne diễn tả. Máu bắt đầu đổ lại từ những ngày hoan lạc, hoà bình tháng 5-1975, không biết Dương Văn Minh có trình diện VC hay không nhưng tại trụ sở Hạ Nghị Viện đường Tự Do, Lý Quý Chung qua cái gọi là Tổng Trưởng thông tin 2 ngày đến trình diện đầu tiên. Sáng đó y mặc đồ lớn có mang súng lục và đã để lộ bộ mặt vô liêm sỉ cùng tận khi bị tên VC trong cái Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn chất vấn, sợ đến nỗi phải vấp té trên sàn nhà trước đông đủ các phóng viên ngoại quốc (NNCCVNCH của Nguyễn Khắc Ngữ, trang 386). Riêng tướng lãnh và cấp tá VNCH ngày 8-5-1975 trình diện tại Viện Dự Bị Ðại Học Sài Gòn số 91 Trần Hoàng Quân. Ngoại trừ Tướng Nguyễn văn Vỹ bị bệnh nặng, tất cả bị giữ lại để học tập đợt 1 tại Ðại Học Xá Minh Mạng, Chợ Lớn. Sau đó 27 tướng ra trình diện và tướng Lý Tòng Bá bị bắt tại Củ Chi được giam chung tại TTHL Quang Trung. Cũng tại đây còn có đông đảo sĩ quan các cấp. Rồi thì các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay, các cấp còn lại đi tàu thủy,xe lửa nhưng dù đi bằng phương tiện gì, thì cũng gặp nhau tại các tầng địa ngục trần gian ở thượng du Bắc Việt: Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam Hà, Thanh Nghệ.

Những người quen sống ngoài đời nên chưa biết những gì thật sự có trong nhà tù, nhất là nhà tù Cộng Sản. Ðây là một xã hội thu hẹp, chung quanh là rào gai mìn bẩy, họng súng và cái tâm địa lang sói của bọn cai tù. Ðây cũng là một trường học để chung quanh lột trần muôn mặt, hoặc tự ta nhưng phần lớn đều do Cộng Sản gài đặt. May mắn thay trong cái thế giới ti tiện, bẩn thỉu, ngoài một số ít không chịu nổi đã chết vì cúi đầu, tuyệt đại tù nhân VNCH đã ưỡn ngực bước ra địa ngục; họ không hề bị cải tạo, tẩy não nhưng họ học được trong chốn lao tù sự chịu đựng để coi thường tủi nhục, cay đắng và tình thương đồng đội đồng bào.

Ðâu có ai ngu để ở tù trừ khi vạn bất đắc dĩ. Bởi thế tù ngục không bao giờ là nơi để khoe thành tích rồi vu cáo cho kẻ khác là thua mình, là đầu hàng giặc trong khi mình chưa chắc có ở tù hay không. Các vị tướng lãnh VNCH trong đó có tướng Lê Minh Ðảo và gần hết quân công các cấp VNCH đã làm hết nhiệm vụ đời trai, nghiệp lính. Họ là trí thức, sĩ phu, là anh hùng trong lòng dân tộc đáng kính trọng và thương quý, cho nên ta cũng đừng đòi hỏi gì hơn, bởi ho đã làm hết sức mình rồi.

Thật thắm thía biết bao qua lời tâm tình của Tướng Lê Minh Ðảo tại Nam CA, trong lần hội ngộ đầu tiên với các quân nhân cũ của SD18BB sau cuộc bể dâu. Ông nói nếu có kiếp sau, chỉ xin được tiếp tục làm người lính VNCH.

Ðể chào mừng Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo và Ðại Hội Toàn Quân kỳ II của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH được tổ chức vào tháng 10-2007 tại Thủ Ðô Người Việt Tị Nạn Cộng Sản ở miền Nam Tiểu Bang California Hoa Kỳ, người lính già ngoài biên tái xin gửi tất cả tấm lòng thương kính đến tất cả Quý Niên Trưởng, Quý Chiến Hữu với lời chúc ‘THÀNH CÔNG và ÐOÀN KẾT‘.


từ khu bưu chính ngoài quan tái
theo biển, thuyền tôi gởi bến lòng
người lính già còn sau chiến cuộc
cười nghiêng quán lẽ, nhớ mênh mông

nên bảo làm sao nguôi thống hận ?
miên trường, sông núi vẫn quan hà
cũng may trên bước đường lưu lạc
tình lính làm vơi bớt xót xa

nay chỉ còn đây manh aó cỏ
theo ta trôi dạt khắp sông hồ
tàn cơn binh lửa thân làm khách
khóc hận, sầu đau cuộc tỉnh, mơ

tôi, lính bộ binh khu chiến củ
lang thang đi hái những vô thường
bút nghiên dựng lại trang hùng sử
đời, chắc ngày mai sẽ xót thương

Anh, bốn quân khu về với nhé
để nghe trống trận giục mười phương
luân hồi dù chịu thêm ngàn kiếp
lính phải làm vui, đẹp phố phường

xưa lính tay đàn, tay kiếm thép
nay moi tim óc hiến dâng đời
từ khu bưu chính xa muôn dặm
thư viết cho nhau, nước mắt rơi


Xóm Cồn
Tháng 9-2007
MƯỜNG GIANG



TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Những ngày cuối cùng của VNCH-Nguyễn Khắc Ngữ

25 Năm Khói Lửa - Lý Tòng Bá

Hồ Chí Minh, Ngô Ðình Diệm - Hồ Sĩ Khuê

Lê Minh Ðảo - Nguyễn Tuyên

Lê Minh Ðảo - KBC Hải Ngoại

VN Qua Lăng Kính 24 Nhân Vật - Nguyễn Vạn Hùng

Chiến Tranh VN Toàn Tập - Nguyễn Ðức Phương

Chiến Sử QLVNCH - Phạm Phong Dinh

Bia Miệng - Cao Khắc Tiệp

Chuyện dài Vũ Thành An trên các diễn đàn
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

SINH VI TƯỚNG, TỬ VI THẦN
Tác Giả: Nguyễn Lý Tưởng
Khởi đi từ việc quân Pháp đã cho tàu chiến đến gây hấn và đánh chiếm nước ta vào thế kỷ 19 và những nhà ái quốc đã hô hào duy tân tự cường, nâng cao dân trí để cùng đấu tranh dành lại độc lập cho đến khi Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa Cộng sản áp đặt lên đất nước ta, gây nên cuộc nội chiến giữa những người quốc gia yêu chuộng tự do và những người Cộng Sản chủ trương bành trướng chủ nghĩa duy vật, làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng. Kết quả là ngày Quốc hận 30-4-1975 và sự có mặt của gần 2 triệu người Việt Nam ở hải ngoại hiện nay. Vì không thể sống chung với chế độ Cộng Sản độc tài, họ đã bỏ hết nhà cửa tài sản, bỏ cả quê hương mồ mả tổ tiên, bạn bè, người thân v.v. để vượt biển đi tìm tự do. Cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền vẫn được tiếp tục nhằm xóa bỏ chế dộ Cộng Sản tại Việt Nam.

Trong biến cố 30 tháng 4, 1975, Cộng Sản VN đã thắng về quân sự, nhưng chúng không thắng được chí khí bất khuất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và toàn thể nhân dân Miền Nam. Vì thế chúng đã lập ra các nhà tù cải tạo để giam giữ, hành hạ những người đã phục vụ cho chế độ VNCH trước đây. Chúng đã đày đọa anh em chúng ta tận những nơi rừng thiêng nước độc ở miền Bắc. Ðói rét, bệnh hoạn, xa gia đình, xa quê hương, một số anh em đã bỏ xác trong các trại tù tập trung cải tạo, một số sống sót sau hàng chục năm bị ngược đãi, đã được trở về trong cảnh gia đình tan nát, đất nước lầm than.

Nhờ sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc, của các quốc gia yêu chuộng tự do và nhất là các phong trào đấu tranh cho nhân quyền trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, nên sau 15 năm dưới chế độ CS, một số các cựu sĩ quan, viên chức của chế độ VNCH cùng với gia đình đã được đoàn tụ với thân nhân ở nước ngoài hoặc được định cư tại Mỹ.

Thực tế đã cho chúng ta thấy rõ, chủ nghĩa CS đã đem lại cho Việt Nam một nền kinh tế suy sụp, dân chúng phải sống trong cảnh nghèo đói, bị áp bức. Nền luân lý, đạo đức, văn hóa của tổ tiên hoàn toàn bị suy đồi, con người sống với nhau không còn tình cha con, tình vợ chồng, tình làng xóm nữa, mà đã trở thành những kẻ gian dối, phản bội, hận thù giai cấp, duy vật, mất niềm tin vào Thượng Ðế, vào các tôn giáo nhất là đạo thờ kính ông bà tổ tiên.

Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng ta không quên công lao và xương máu của chiến sĩ đồng bào đã đổ ra vì tự do, độc lập và để ngăn chận chủ nghĩa CS vô thần.

Trong số những anh hùng vô danh đó, có một số người đã được báo chí, sử sách nêu tên như các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ và một số sĩ quan, binh sĩ đã lấy tấm thân đền nợ nước, thà chết vinh hơn sống nhục, đã tự tử không chịu đầu hàng, không chịu trao thân cho kẻ thù bắt bớ, giam cầm, tù tội. Tuy thân xác họ ngày nay đã ra tro bụi, nhưng tên tuổi của họ, tinh thần của họ vẫn còn sống mãi trong sử sách, sống mãi trong lòng mọi người.

Cứ mỗi lần kỷ niệm ngày quốc hận 30 tháng 4, báo chí, đài phát thanh và qua các cuộc họp mặt của đồng bào trong các buỗi lễ, các cuộc meeting, người ta lại nhắc nhở đến họ, vinh danh họ.

Người xưa thường nói: "Sinh vi tướng, tử vi thần" nghĩa là khi còn sống làm tướng chỉ huy quân đội, khi chết trở nên thần thánh được nhân dân tôn thờ). Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Ðại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Quang Trung v.v. là những anh hùng trong sử sách Việt Nam, tuy đã chết nhưng vẫn còn được sùng kính như những vị thần thánh của các tôn giáo. Họ là những vị thần của dân tộc Việt Nam và sẽ phù hộ cho chúng ta trong cuộc tranh đấu chống xâm lăng, chống CS, đem lại tự do, thanh bình và thịnh vượng cho dân tộc.

Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng ta hãy nhớ đến một số các vị anh hùng đã chứng tỏ tinh thần bất khuất trước kẻ thù, đã nêu gương trung liệt đối với tổ quốc và đồng bào. Hôm nay, chúng tôi xin được phép nói về "Ngày Quốc Hận 30-4" bằng nhắc lại cuộc sống và những giây phút cuối cuộc đời của những vị tướng đã hy sinh mạng sống mình để chứng tỏ lòng trung thành với tổ quốc bất khuất trước kẻ thù:
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật tại Cần Thơ
Ông là một người xuất thân từ một dòng họ danh giá ở đất Thừa Thiên (Huế), tổ tiên từ đời nầy qua đời khác có công giúp chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc Nam tiến, đánh dẹp loạn lạc, đem lại thái bình cho dân chúng. Sử sách còn nhắc đến Quan Nội Tán Nguyễn Khoa Ðăng có công phá được giặc cướp ở Truông Nhà Hồ qua câu ca dao mà dân gian thường truyền tụng:
"Yêu em, anh cũng muốn vô,

Sợ Truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang"

Ðó là lời người con trai ở Ðàng Ngoài nhắn gởi cho người con gái ở Ðàng Trong và người con gái đáp lại:

"Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,

Truông nhà Hồ Nội Tán dẹp yên".

Nguyễn Khoa Nam lớn lên là một người con hiếu thảo, đạo đức, một học sinh tốt, một sĩ quan có tinh thần trách nhiệm. Ông ở bất cứ đơn vị nào cũng được anh em binh sĩ và cấp chỉ huy kính phục. Với nhiều công lao trên các chiến trường, từ thiếu úy ông đã được thăng dần lên tới Thiếu Tướng và được làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, bộ chỉ huy đóng tại Cần Thơ, chịu trách nhiệm bảo vệ khu vực Miền Tây (Ðồng bằng sông Cửu Long) là nơi dân cư đông đúc, ruộng đất phì nhiêu, là một vùng chiến lược quan trọng.

Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương rồi trốn chạy ra ngoại quốc, cụ Trần Văn Hương cũng từ chức vào trao quyền lãnh đạo quốc gia cho Ðại Tướng Dương Văn Minh. Dương Văn Minh đã phản bội lại lời cam kết bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tuyên bố đầu hàng CS mà không có một nỗ lực chiến đấu nào mặc dầu quân đội vẫn còn, lãnh thổ vẫn còn, chưa mất hết tất cả. Trước lệnh buông súng đầu hàng của Dương Văn Minh, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã bình tĩnh, tập họp quân đội dưới cờ, thông báo tình hình. Sau đó ông đã ngồi tại văn phòng tư lệnh, dùng súng tự sát để trở về với tổ tiên anh hùng, cương quyết không để cho tấm thân làm tướng phải bị sỉ nhục bởi quân thù.

Tất cả sĩ quan, binh lính và đồng bào nghe tin đó đều không cầm được nước mắt. Tướng Lê Văn Hưng, Tự Lệnh Phó cũng đã tự tử theo vị chỉ huy của mình để tỏ rõ cái chí bất khuất của một vị tướng lãnh anh hùng của quân đội VNCH. (Ghi chú của Tòa Soạn: Theo các nhân chứng và tài liệu đáng tin cậy, Tướng Hưng tự sát TRƯỚC Tướng Nam. Căn cứ vào bài viết của Bà Phạm Thị Kim Hoàng, phu nhân của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng thì ông tự sát hồi 8 giờ 45 tối 30/4/75, lúc đó Tướng Nam còn sống, có gọi điện thoại chia buồn và an ủi. Sách Nguyễn Khoa Nam cho biết Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát vào khoảng 7 giờ sáng ngày 1/5/75).
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng
Sinh năm 1933 tại Hóc Môn, Gia Ðịnh, xuất thân từ trong một gia đình trung lưu, nhưng gương mẫu đạo đức, được cha mẹ giáo dục nên người trung, tín, hiếu, để. Là học sinh giỏi tại trường Trung Học Huỳnh Khương Ninh, Ða Kao, Saigòn, lớn lên trong cảnh chiến tranh, ông nhập ngũ theo lệnh tổng động viên năm 1954 trước hiệp định Genève (20-4-1954), tốt nghiệp sĩ quan và phục vụ quân đội dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm từ 1954 đến 1963 chỉ huy từ đại đội đến tiểu đoàn. Năm 1967, ông chỉ huy Trung Ðoàn với cấp bậc Trung tá, năm 1968 lên Ðại Tá, năm 1971 tư lệnh sư đoàn 5. Năm 1972 ông có công bảo vệ tỉnh Bình Long, giải tỏa áp lực Việt Cộng bao vây tỉnh nầy và được báo chí thời đó gọi là "anh hùng tử thủ Bình Long-An Lộc", tiêu diệt hàng chục ngàn lính Việt Cộng. Năm 1973 tư lệnh sư đoàn 21 Bộ binh ở miền Tây. Năm 1974 ông làm Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV dưới quyền tướng Nguyễn Khoa Nam.
Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi được tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Việt Cộng, các tướng ra đầu hàng hoặc chạy trốn, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lịnh vùng IV tự tử, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng trở về nhà gặp vợ con và bạn bè, sĩ quan, binh sĩ dưới quyền, ông đã tự tử tại tư dinh của Phó Tư Lệnh Quân Ðoàn vào lúc 8 giờ 30 tối hôm đó để lại một người vợ và bốn ngươi con, ba gái, một trai.
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Xuất thân từ một gia đình trung lưu tại miền Bắc Việt Nam. Sau khi học hết chương trình Trung học, ông tình nguyện vào trường võ bị Ðalat, là trường đào tạo sĩ quan hiện dịch, mãn khóa với cấp bực thiếu úy và được chọn vào binh chủng nhảy dù, một binh chủng thiện chiến của quân đội. Năm 1954, trong lúc tình hình chiến sự rất sôi động tại các chiến trường miền Bắc, ông được thả dù xuống căn cứ Ðiện Biên Phủ, nơi có khoảng hai mươi ngàn lính Pháp Việt đang trấn giữ và bên ngoài có khoảng 60.000 lính Việt Minh đang bao vây tấn công. Tại đây ông được thăng Trung Úy tại mặt trận. Ngày 7 tháng 5, 1954, căn cứ Ðiện Biên Phủ bị Việt Minh chiếm, ông và các sĩ quan, binh sĩ bị Cộng Sản bắt làm tù binh. Sau hiệp định Genève 20-7-1954, nhờ sự can thiệp của Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Ðông Dương can thiệp, ông và các bạn được trao trả và được trở về miền Nam.
Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng của Lực Lượng Ðặc Biệt do Ðại Tá Lê Quang Tung chỉ huy. Sau 1963, ông được đưa ra Quảng Ngãi giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 2 Bộ binh. Năm 1966, ông được thuyên chuyển về Huế làm Tư Lệnh Phó cho Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng tại Sư Ðoàn 1 Bộ Binh. Sau Tết Mậu Thân 1968, ông làm Tư lệnh biệt Khu 44 tại Ðồng Tháp Mười, năm 1970, ông trở về Huế làm Tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ binh với cấp bậc Chuẩn Tướng, sau đó được thăng Thiếu Tướng. Sau các trận đánh của VC vào vùng giới tuyến Quảng Trị mùa hè 1972, ông được về làm Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Quang Trung gần Saigon, sau đó lại về làm Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, vùng núi rừng Cao Nguyên miền Trung.

Sau hiệp định Paris 1973, Việt Cộng lợi dụng quân Mỹ rút, đã tăng cường xâm nhập quân lính, xe tăng từ Bắc vào Nam theo đường Trường Sơn và dọc biên giới Lào đã tạo áp lực nặng nề cho vùng cao nguyên Pleiku, Ban mê thuột. Năm 1974, Việt Cộng đánh chiếm tỉnh Phước Long và vùng Ba Biên Giới Việt-Miên-Lào, tháng 3, 1975, Việt Cộng tấn công vào thị xã ban Mê Thuột đồng thời chiếm Quảng Trị. Trước tình hình đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái khỏi Pleiku để giữ vùng Duyên Hải. Quyết định sai lầm đó đã khiến cho cả một quân đoàn VNCH tan rã, hàng triệu cán bộ, công chức và gia đình cũng như đồng bào phải bỏ nhà cửa, tài sản chạy thoát thân, gây nên tình trạng hỗn loạn toàn miền Trung.

Nhân đà thắng lợi đó, Cộng Sản Hà Nội ra lệnh đem quân ào ạt tiến vào miền Nam...Ngày 30 tháng 4, 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đang nằm điều tri tại bệnh viện Ðồn Ðất (Grall) Saigòn, nghe tin Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trốn ra khỏi nước, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh và Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tướng lãnh, sĩ quan, các cấp chính quyền, dân chúng mạnh ai nấy chạy thoát thân, ông quyết định tự tử để trọn lòng trung với quốc gia. Trước mặt vợ con, bạn bè ông đã nói lời từ giả, căn dặn mọi người đừng hợp tác với CS, sau đó ông uống thuốc độc tự tử, không để cho CS bắt ông lần thứ hai. Vợ con, bạn bè của ông, những người đã chứng kiến giây phút đau lòng đó không ai là không cảm thương cho một vị tướng khi sa cơ thất thế, chỉ có đem cái chết đền nợ non sông mà thôi.

Sau khi ông chết rồi, Việt Cộng đã tịch thu hết nhà cửa, tài sản của ông khiến cho vợ con phải cảnh không nhà của, tiền bạc, đành tìm đến nương tựa bà con bạn bè rất nhục nhã. Người biết chuyện, không ai mà không thương mến ông.
Thiếu Tướng Trần Văn Hai
Xuất thân từ một gia đình trung lưu, sau khi học hết Trung Học, tình nguyện vào quân đội, trải qua các đơn vị được tiếng là một người tư cách, gương mẫu, tận tụy phục vụ cho quốc gia. Ông cũng có tác phong một người cách mạng, ngày từ tuổi trẻ ông đã gia nhập đảng Ðại Việt để tranh đấu giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, xây dựng cho đất nước một chế độ tự do dân chủ.
Ông đã từng giữ các chức vụ Tỉnh Trưởng, Tư Lệnh Biệt Ðộng Quân và Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trải qua các chiến trường, ông chứng tỏ là một cấp chỉ huy có khả năng và trong sạch. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền ai cũng thương và phục ông.

Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và Việt Cộng trên đường tiến vào Saigòn, ông trở về nhà tắm rửa sạch sẽ, thay áo quần mang đầy đủ quân phục, huy chương và quân hàm Thiếu Tướng, rồi cho gọi vợ con, thân nhân lại, nói rõ ý định và tự tử bằng súng. Trước khi chết, ông cũng đã chuẩn bị chỗ nằm xứng đáng với danh giá của một vị tướng. Ðược tin đó, bà con bạn bè cũng như nhiều người đã từng phục vụ dưới quyền ông rất thương tiếc và chạy đến thăm viếng. Cùng với cái tang của đất nước, gia đình ông cũng chịu một đại tang của người chồng, người cha, người anh đã sống cuộc đời trong sạch, gương mẫu đạo đức, nêu cao tiết nghĩa, trung thành với quốc gia dân tộc. Những hạng người như thế, trên đời nầy đã dễ gì có được.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ
Sinh trưởng trong một gia đình Nho học, danh giá tại thị xã Sơn Tây, dòng họ Lê nhiều người đỗ đạt, đã từng giữ chức vụ lớn trong chính quyền quốc gia như Trung Tướng Lê Nguyên Khang v.v...
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ là con đầu trong một gia đình gồm hai em gái cùng mẹ và một em trai cùng cha khác mẹ, hiện còn ở Việt Nam. Ông gia nhập quân đội và được đưa vào học trường Ðập Ðá Huế, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy (1951), về phục vụ tại tiểu đoàn 19 BVN dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Ðỗ Cao Trí (sau nầy là Trung Tướng), lên đại úy được đi làm quận trưởng Bến Cát (Bình Dương) sau lên đến Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5, năm 1972 Phụ Tá hành Quân cho Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc. Ông là người đầu tiên dùng M.72 hạ xe tăng của Việt Cộng tại mặt trận Bình Long An Lộc, từ đó binh sĩ mới thêm tin tưởng trong việc sử dụng loại vũ khí mới nầy. Sau đó được thăng cấp Ðại tá về làm tư lệnh phó Sư Ðoàn 21, bị thương trong khi ngồi trên trực thăng quan sát hành quân, máy bay bị bắn rơi, gãy chân phải nằm bệnh viện. Khoảng 1974 về làm Tư lệnh Sư Ðoàn 5 thay tướng Trần Quốc Lịch.

Trung Tá Văn, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Ðoàn 5, đã kể lại cho ông Lê Nguyên Hoàng (anh con bác của Tướng Lê Nguyên Vỹ) giờ phút cuối của chuẩn tướng như sau:

Ngày 30 tháng 4, 1975, khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng thì chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ đã họp Bộ Tham Mưu và các trưởng phòng lại và nói với anh em rằng:"Mặc dầu có lệnh trên, nhưng tôi cương quyết không đầu hàng. Tôi sẽ có cách tự xử trí riêng đối với tôi. Anh em ai lo thân nấy, chạy được thì chạy". Trong khi bên ngoài, Việt Cộng bắc loa kêu gọi đầu hàng nhưng ông vẫn bình tĩnh và ra lệnh cho nhà bếp tổ chức một bữa tiệc rượu mời anh em. Sau khi ăn uống no say, ông đứng dậy đi vào phòng bên cạnh. Lát sau có tiếng súng nổ, mọi người chạy vào thấy ông ăn mặc quân phục tề chính, mang huy chương và quân hàm chuẩn tướng nằm chết trên giường. Ông đã dùng súng bắn xuyên cằm lên đầu, tự tử. Tất cả sĩ quan đều có mặt khi Việt Cộng vào, tướng Việt Cộng thấy như vậy đã nói :"Ðây mới xứng đáng là con nhà tướng".

Anh em xin đem chôn tại sân bộ tư lệnh bên cạnh cột cờ, nhưng Việt Cộng không cho. Cuối cùng phải đem chôn trong vườn cao su, ở ngoài đồn.

Trong lúc chiến trận xảy ra thì vợ con của ông đã chạy theo dòng người di tản ra ngoại quốc. Hai ngày sau khi ông chết, người vợ của Trung Tá Tuân (quận trưởng Bến Cát, là anh ruột bà Lê Nguyên Vỹ) đi gặp Việt Cộng, nói dối là vợ của ông Lê Nguyên Vỹ, xin nhận xác chồng về chôn. Bà con đã đào mộ, lấy xác đem về chôn ở Hạnh Thông Tây, có lập bia mộ rõ ràng. Năm 1987, bà mẹ của ông ở Bắc vào cùng ông Lê Nguyên Hoàng đi cải táng, lấy cốt của chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ đem thiêu để mang về thờ ở từ đường họ Lê tại quê nhà ở Sơn Tây. Ông Lê Nguyên Hoàng đã quan sát kỹ thấy sọ của chuẩn tướng có vết đạn xuyên qua.

Chúng tôi viết lại mấy dòng nầy, qua lời kể của ông Lê Nguyên Hoàng hiện đang sinh sống tại thành phố Garden Grove, California.

Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng tôi xin đốt nén hương tưởng niệm các bậc anh hùng "sinh vi tướng, tử vi thần" và những sĩ quan, binh sĩ cũng như những người yêu nước và đồng bào vô tội đã chết trong ngày 30 tháng 4, 1975 và trong suốt cuộc chiến từ 1945 đến nay. Sau ngày 30-4-1975, máu của những người yêu nước vẫn còn đổ ra trong các cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Gương trung dũng của quí vị là gương sáng cho muôn đời noi theo.

Nguyễn Lý Tưởng
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Lễ Giỗ 10 Năm BS Nhảy Dù Tô Phạm Liệu

Trường Sơn Lê Xuân Nhị


Vong hồn anh linh thiêng, xin về phù trợ cho anh em ráng sống hết cuộc đời còn lại của mình, nếu không được hào sảng và ngang tàng như anh thì cũng đừng làm gì ô uế đến thanh danh của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đừng phản bội anh linh những bằng hữu của mình đã bất hạnh nằm xuống...
*
Thường thường, những người đã từng mặc đồ lính thì luôn luôn yêu đời lính. Tôi cũng thế, nhưng tôi chưa hề thấy một người nào yêu đời lính như ông bác sĩ nhảy dù Tô Phạm Liệu. Anh Liệu yêu đời lính đến độ, phải mặc đồ dù rồi tròng áo saut vào người thì rượu uống mới thấy ngon, cử động ăn nói mới thoải mái tự nhiên được... Những câu chuyện mà anh nói trên bàn rượu, nói tới nói lui, nói đi nói lại rồi thì cuối cùng cũng trở về lính và tất cả những thứ gì có dính dáng tới lính. Đủ thứ lính nhưng dĩ nhiên, lính nhảy dù thì nhiều nhất. Lạ một điều là không bao giờ nghe thấy anh khoe cái nghề tu bíp của mình...
Những ngày lưu vong nơi xứ người, bác sĩ nhảy dù Tô Phạm Liệu làm việc cho nhà thương VA ở thành phố Alexandria, tiểu bang Louisiana. Alexandria là một thành phố nhỏ nằm ở giữa 3 thành phố lớn, thứ nhất là Houston, thứ nhì là Dallas và thứ ba, nhỏ hơn cả nhưng tình hơn cả là New Orleans. Điều đáng nói là từ Alexandria đi đến ba thành phố này, khoảng cách hầu như gần bằng nhau, khoảng 300 dặm...
Có lẽ vì thế, vào những ngày cuối tuần, ông bác sĩ giang hồ này thường có mặt tại một trong ba thành phố này nhiều hơn ở nhà. Tuần thì Dallas, tuần thì Houston và tuần thì New Orleans. Nơi nào cũng có bạn bè của anh, nơi nào anh em cũng nồng hậu đón tiếp anh, nơi nào cũng hứa hẹn những cơn say nghiêng ngửa, những trận cười tới đất.
Những ngày anh Liệu xuống New Orleans, dĩ nhiên, đối với những bạn bè và anh em của anh Liệu như chúng tôi thì thành phố bỗng trở nên tưng bừng như những ngày hội...
Anh Liệu thường đến chiều thứ Sáu và tiệc rượu bắt đầu liền, kéo dài sang ngày thứ bảy, sang đến tối chủ nhật hoặc có khi đến sáng thứ hai, tùy theo hoàn cảnh...
Tôi không thể nào quên được chiếc xe Van màu xanh da trời của anh. Xe không cũ, cũng không mới, chỉ chạy được, coi được. Nhưng nó đưa anh đến tất cả những nơi anh muốn đến...
Lần nào cũng thế, sau khi dừng xe, anh bước xuống, miệng cười hớn hở và tay thì xách cái... túi quân trang vào nhà. Anh vào phòng tắm, rửa mặt mày rồi cởi bộ thường phục ra, tròng bộ đồ hoa rừng của nhảy dù vào người. Tùy theo thời tiết nóng lạnh, anh có thể thêm chiếc áo saut vào...
Lúc anh trở ra trong bộ đồ dù, ai cũng thấy mặt mày anh sáng rỡ. Đó chính là lúc anh sẵn sàng ngồi xuống uống rượu và vui đùa với anh em...
Ai uống rượu với anh Liệu rồi, đều phải công nhận anh uống rượu rất là dễ thương. Anh luôn luôn có những mẩu chuyện cười thủ sẵn trong túi mình và khi cần thì lấy nó ra, kể cho anh em nghe. Nghe xong thì ai cũng ôm nhau rũ ra mà cười. Cười đến đổ cả rượu, cười đến chảy cả nước mắt...
Nhưng không phải anh Liệu chỉ biết uống rượu. Anh còn bênh vực và lo lắng cho bạn bè nhảy dù của anh. Tôi xin kể lại một chuyện.
Năm 1992, Phan Nhật Nam vừa chân ướt chân ráo sang Mỹ, không hiểu vì một lý do gì đó, nhà văn chống Cộng nổi tiếng của của quân đội bị thiên hạ đánh tơi bời trên báo chí và trên internet. Chúng nó bảo anh Phan Nhật Nam là Việt cộng nằm vùng, là đủ thứ. Khốn nạn thật.
Một buổi chiều nào đó khoảng năm 1992, tôi cùng anh Liệu và một nhóm bạn nhà binh ngồi uống rượu. Tôi bảo:
-Anh Liệu, ngay cả một nhà văn chống Cộng nổi tiếng như anh Phan Nhật Nam mà chúng nó còn dám đội nón cối vào đầu thì khốn nạn thật.
Nhiều người bạn lính tôi chửi thề. Người khác, có lẽ cũng bắt đầu xỉn rồi, đòi... bắn chết mẹ chúng nó.
Anh Liệu chỉ ngồi im, khuôn mặt anh nhăn nhúm lại, đau khổ. Có lẽ anh nghĩ mình bất lực. Anh trầm ngâm một lúc rồi bảo chúng tôi:
-Tao biết thằng Nam từ hồi còn nhỏ, hai đứa tao cùng ở một nhà, đi học chung một trường. Nó làm sao là Việt cộng được...
-Thì ai lại chẳng biết thế...
Rồi anh bảo:
-Tụi mình phải làm một cái gì cho Phan Nhật Nam. Mình không thể ngồi yên nhìn chúng nó đánh Phan Nhật Nam như thế.
Có người nhát gan, bảo nếu mình bênh PNN thì chúng nó đánh mình luôn sao. Anh Liệu lắc đầu cười:
-Mẹ kiếp, thằng nào muốn đội nón cối vào đầu ông xin cứ tự nhiên, ông đây cóc sợ.
Chúng tôi ngồi nói chuyện một lúc và bỗng nhớ ra một chuyện. Thành phố New Orleans hồi đó đã được nổi tiếng là thành phố đầu tiên làm lễ Thượng Kỳ ngày quân lực tại tòa thị sảnh thành phố. Hôm thượng kỳ đầu tiên có cả tướng Westmoreland và nhiều nhân vật cao cấp Việt Mỹ đến tham dự. Theo thông lệ đó, hàng năm, chúng tôi tiếp tục làm lễ thượng kỳ tại tòa Thị Chính. Mỗi một lần thượng kỳ như thế, chúng tôi thường mời một nhân vật quan trọng trong cộng đồng Việt hay Mỹ đến đọc diễn văn.
Chúng tôi nẩy ra ý kiến mời nhà văn Phan Nhật Nam đến đọc diễn văn vào buổi lễ thượng kỳ năm ấy. Trong bàn rượu hôm ấy vô tình có mặt ông chủ tịch hội Cựu Quân Nhân tại Louisiana là ông Nguyễn Văn Phú, trưởng ban tổ chức Lễ Thượng Kỳ. Nghe chúng tôi đề nghị, ông vui vẻ nhận lời ngay.
Nửa tiếng đồng hồ sau, anh Liệu và anh em nhảy dù còn thêm một tiết mục ra mắt sách cho nhà văn Phan Nhật Nam sau khi chào cờ vào buổi tối hôm đó.
Mười lăm năm rồi nhưng tôi còn nhớ lại như mới ngày hôm qua. Ngày hôm đó là một ngày vui. Thật là vui. Anh em lính tráng khắp nơi đổ về tham dự lễ Thượng Kỳ. Phan Nhật Nam hiên ngang và dõng dạc lên đọc diễn văn trong bộ quân phục nhảy dù. Chiều hôm đó là lễ ra mắt sách, và sau đó, chúng tôi nhập tiệc, nhậu nhẹt gần đến sáng...
Kể từ ngày đó, bọn khốn nạn nào đã đánh Phan Nhật Nam bỗng dưng chùn tay lại và từ từ im tiếng, rút vào bóng tối luôn.
Một kỷ niệm vui khác về anh Liệu, xin cho phép tôi kể ra đây. Hồi thân phụ tôi mới sang Mỹ, gia đình chúng tôi làm một bữa tiệc đãi bác sĩ Liệu. Tuy chúng tôi coi nhau như anh em nhưng khi thân phụ biết con mình quen ông bác sĩ nổi tiếng Tô Phạm Liệu thì lấy làm hãnh diện lắm, nhất định phải mời ông bác sĩ tới nhà dùng cơm cho được.
Tiệc vui bắt đầu rất nhộn nhịp. Thân phụ ngồi ở đầu bàn bên kia, bác sĩ Liệu ngồi ở đầu bàn bên này, tôi ngồi... kẹt ở giữa một đám anh em, mọi người cười cười nói nói vui vẻ, chan gắp ào ào, nốc rượu liên miên, tưng bừng vui vẻ...
Đến một lúc nào đó, giữa bữa ăn, tôi bỗng nghĩ ra một chuyện để chọc bác sĩ Liệu và có thể đùa với thân phụ một chút. Tôi làm mặt nghiêm trang, rầu rầu hỏi bác sĩ Liệu giữa bàn tiệc:
-Anh Liệu, anh là bác sĩ, em có bị chứng bịnh này mà chữa hoài không khỏi, bây giờ gặp ông bác sĩ ở đây, không biết nói ra anh có thể chữa được cho em không?
Cả nhà tôi khi nghe như thế, nhất là mẹ tôi và thân phụ nhìn tôi lo lắng, không biết tôi có bịnh gì mà cả nhà chẳng ai biết. Chỉ có mình anh Liệu có lẽ đoán tôi sắp sửa đùa giai nên liếc nhìn tôi và cười cười bí mật.
Anh bảo, làm như chẳng biết gì:
-Thì cậu cứ kể bệnh tôi nghe thử. Nếu có thuốc thì tôi cho, không thì tôi giới thiệu đến bác sĩ khác chữa cho cậu. Mình ở trên đất Mỹ mà.
Tôi nói, vừa nói vừa làm bộ mặt nghiêm trang, ráng giữ cho đừng cười:
-Anh Liệu, em bị cái bệnh gì không biết mà đi đâu, hễ gặp... đàn bà con gái đẹp thì cứ phải quay đầu lại mà nhìn, nhìn mãi không thể nào bỏ được. Anh có thuốc gì cho em uống cho bỏ cái bệnh... nhìn gái này...
Cả nhà cười rộ lên. Anh Liệu chờ cho tiếng cười lắng xuống rồi mới bình thản trả lời:
-Trời ơi, nếu cậu gặp đàn ông đẹp giai mà nhìn như thế thì thật là nguy hiểm, cần phải cho thuốc uống gấp gấp chứ gặp đàn bà con gái đẹp mà nhìn như thế thì... tốt lắm, chẳng có bệnh gì cả. Thú thật là tôi cũng giống cậu, gặp đàn bà con gái đẹp là cứ lõ mắt ra mà nhìn. Cậu cứ tiếp tục nhìn đi, chẳng sao cả...
Cả nhà lại cười rộ lên một lần nữa...
Đấy, những lần đi uống rượu với anh Liệu, dù ở trong hàng quán, dù ở trong nhà, hay dù bất cứ ở đâu, anh Liệu cũng tếu và lanh trí như thế cả.
Kiến thức về y học của anh Liệu như thế nào thì tôi không biết, nhưng kho tàng tiếu lâm và chuyện đời của anh Liệu thì sâu thăm thẳm, không bao giờ hết. Hơn thế nữa, hễ nói về nhảy dù thì anh Liệu có thể nói đến cả ngày mà vẫn chưa hết chuyện. Nhảy dù Việt Nam được thành lập như thế nào, bắt đầu ra sao, anh kể vanh vách từ ngày thành lập, từng người tiểu đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng, không thiếu một ai. Không phải chỉ có nhảy dù Việt Nam mà ngay cả nhảy dù Anh, nhảy dù Pháp, nhảy dù Lê Dương, nhảy dù Mỹ, nhảy dù Do Thái anh cũng đều biết tường tận, rõ ràng từng chi tiết. Anh kể tụi SAS (Special Air Service) của Ăng Lê được huấn luyện kỹ lưỡng như thế nào, bọn SEAL Mỹ trưởng thành ra sao từ đệ nhị thế chiến v.v...
Ngồi nói chuyện với anh, nếu không biết anh là bác sĩ thì ai cũng tưởng anh là một nhà nghiên cứu quân sự. Anh là dân bộ binh mà anh lại biết rất nhiều về phi cơ, từ trực thăng cho đến phóng pháo phản lực của Không Quân. Không Quân đã rành, Hải quân cũng rành luôn. Những tàu chiến của Hải quân như tiềm thủy đỉnh, hàng không mẫu hạm anh cũng biết rành rẻ. Chiếc hàng không mẫu hạm này trọng tải bao nhiêu, có bao nhiêu mã lực, anh đều biết rõ. Chưa hết, ai muốn biết hỏa tiễn ICBM của Mỹ tầm bắn bao nhiêu ngàn dặm, mang đầu đạn nguyên tử bao nhiêu Mega-ton anh cũng cắt nghĩa cho nghe...
Tôi biết anh đã bỏ rất nhiều thì giờ để nghiên cứu những chuyện này vì đó là một đam mê của anh...
Dĩ nhiên, trong những tiệc rượu, một trong những đề tài mà anh em thường hỏi anh nhiều nhất là trận đánh đã đi vào quân sử ở đồi Charlie, nơi đã đón nhận hình hài của đại tá Nguyễn Đình Bảo và đồng thời cũng đưa tên tuổi anh cùng vài người khác lên hàng những anh hùng của quân dân Việt Nam qua ngòi bút tuyệt vời của Phan Nhật Nam.
-Ngày tiểu đoàn xuống Charlie, tao đang còn chống gậy vì bị trật chân...
Anh luôn luôn bắt đầu như thế rồi cười khì một phát:
-Mẹ... tụi tao vừa đi hành quân về, đang dưỡng quân ở vườn Tao Đàn. Bố khỉ, lính uống rượu say lấy súng bắn chỉ thiên thế nào không biết, ngày hôm sau tiểu đoàn bị bốc đi. Mẹ, thế là hết dưỡng quân, đành khăn gói lên đường.
Hôm đó, anh bị trật chân chưa lành, nhảy xuống đồi Charlie còn phải chống gậy, đi khập khiễng. Nếu anh muốn, anh có quyền xin dưỡng thương ở nhà nhưng anh không muốn. Anh muốn đi với anh em...
Tiểu đoàn 11 dù đã bị pháo của Bắc Quân cường tập như thế nào, mọi người đã biết, nhưng phải nghe đích thân anh Liệu kể mới thấy thấm thía. Từng giây từng phút một trên ngọn đồi Charlie, quân ta đã oằn oại chịu đựng những cơn mưa pháo của đối phương. "Mẹ, chúng nó bắn không trật một quả ra ngoài," anh Liệu bảo thế, mặt hơi nhăn lại.
Một lần, trong một đợt tấn công, anh Liệu đứng lên khỏi giao thông hào, móc cây Colt .45 của người y sĩ ra, bắn vào Việt cộng. Ông trung tá cố vấn tiểu đoàn người Mỹ tên Duffy nhìn thấy. Sau trận đó, ông cố vấn làm một bài thơ tả lại trận đánh và kể chuyện ông bác sĩ nhảy dù dùng Colt .45 để bắn nhau với Việt cộng. Sau khi sang Mỹ, ông gởi tặng anh Liệu một tập thơ và anh Liệu đã đem tặng tôi. Tôi quý tập thơ lắm và gìn giữ như một báu vật.
Bài thơ của ông trung tá nhảy dù Hoa Kỳ tên Duffy nguyên văn như sau trong tập thơ Warman, tôi xin copy lại nguyên bản để tặng anh em:
Courage
The Doc have been shot at
Oh, Lord! He has his gun out!
Sighting, Aiming and Shooting
At a cannon with a Forty-Five
He is hit and down
But not for long,
Back up again,
Sighting, Aiming and Shooting
Trying to knock out a cannon,
With his Forty-Five
God, isn't he rediculous?
But he has courage.
Duffy (Warman)
Tạm dịch:
Can Trường
Ông bác sĩ bị bắn
Trời đất ơi, ổng rút cây súng ra
Chuẩn bị, nhắm và bắn
Vào cây đại pháo bằng khẩu 45
Ông bị bắn và té xuống,
Nhưng không lâu
Lại đứng lên trở lại,
Chuẩn bị, nhắm và bắn
Ông gắng tiêu diệt cây đại pháo,
Bằng cây súng 45
Trời hỡi, ông ta thật là nực cười
Nhưng ông ta thật là can trường.
Đọc bài thơ này của một người cố vấn Mỹ, tôi không ngờ anh Liệu lại can trường như thế. Điều đặc biệt là anh không bao giờ kể lại sự can trường của mình. Anh luôn luôn bảo, rất thành thực "Tao chả ngon lành gì, nhưng người ta sao thì mình vậy."
Một ngày anh Liệu cùng tôi ngồi cưa mấy chai vang của anh đem xuống. Tự nhiên anh nhìn tôi nói:
-Đức Khổng Tử bảo "Khi tiễn đưa nhau, kẻ tiểu nhân tặng nhau lễ vật, nhưng người quân tử thì tặng nhau những lời hay ý đẹp." Mày là nhà văn, tao có cuốn sách muốn tặng cho chú mày."
Rồi anh mở va li lấy tập thơ "Warman" của ông trung tá cố vấn Duffy đã tặng cho anh, đưa cho tôi. Đây là một chuyện lạ nhưng tôi lúc ấy tôi không để ý lắm vì rượu đã ngà ngà say.
Sau này nghĩ lại về tập thơ tôi mới thấy giật mình kinh hãi. Điềm gở gì đây? Tại sao đương không anh lại tặng cho tôi tập thơ rồi lại còn kéo ông Khổng về để bảo "Người quân tử dùng lời hay ý đẹp để tiễn đưa nhau…" Tại sao lại "tiễn đưa." Bình thường, anh Liệu là một người rất kiêng cử. Mỗi khi sưu tầm được một cái áo saut đẹp, anh lấy tặng cho tôi nhưng luôn luôn bảo: "Tặng áo là một dấu hiệu của sự chia tay. Tao bán cho mày cái áo này chứ không tặng. Lấy đưa tao một đô la rồi ra ngồi uống rượu." Tại sao bây giờ bỗng dưng anh lại tặng cho tôi một tập thơ quý giá nhất của anh? Tôi cảm thấy có điều gì không ổn.
Thật thế, lần uống rượu hôm ấy là lần cuối cùng tôi uống với anh. Sau hôm đó, anh không còn xuống New Orleans thường nữa. Có khi cả mấy tháng anh không xuống một lần, nhưng xuống là đi ngay, không ghé ai cả.
Tôi không biết chuyện gì xảy ra nhưng tôi nhớ lại một chuyện như thế này.
Hồi đó, anh Liệu xuống New Orleans thường ngủ lại nhà tôi và một buổi sáng, sau khi anh đi rồi, vợ tôi vào dọn phòng và tìm thấy một ống Insulin, loại ống chích dành cho người bị tiểu đường. Vợ tôi ngày xưa làm trong nhà thương nên biết rõ loại này. Nàng hỏi:
-Ông bác sĩ bạn anh bị bệnh tiểu đường phải không anh?
Hồi đó tôi đâu biết gì, nên lắc đầu. Nàng đưa ống thuốc cho tôi coi và nói:
-Nếu không thì làm sao ảnh lại sử dụng ống chích này. Đây là ống chích dành cho những người bị bệnh tiểu đường…
Chúng tôi nhìn nhau im lặng, không nói gì thêm. Một lúc, vợ tôi phê bình một câu, vô thưởng vô phạt:
-Bị tiểu đường mà uống rượu được như thế thì hay thật.
Năm cuối cùng và không lâu trước khi anh vĩnh viễn ra đi, một ngày thứ bảy, tôi đang ngồi viết thì chuông điện thoại nhà reo vang. Tôi nhấc máy lên và mừng húm khi nghe tiếng anh Liệu trong ống nói. Hình như đã hơn một năm rồi tôi chưa được gặp anh. Tôi tưởng anh ghé nhậu nên hỏi anh đang ở đâu, chừng nào đến tôi hay tôi sẽ tới bất chỗ nào đó mà anh đang ngồi nhậu.
Anh Liệu trả lời, giọng buồn buồn:
-Anh đang ở Phở Hòa ngồi nói chuyện với Thinh và Thắng nhỏ nhưng anh phải đi liền…
Nghe nói anh ngồi với Thinh và Thắng thì tôi càng mừng hơn nữa vì hai tay này cũng là dân nhảy dù, cũng là dân bợm nhậu… tới bến. Nhưng những tay đại hảo hán nhảy dù này gặp nhau vào một buổi sáng thứ bảy, nếu không nhậu thì để làm gì mà anh Liệu phải đi liền? Chuyện này khó hiểu.
Tôi cực lực... phản đối:
-Anh nói thế nghe không được anh Liệu. Anh không tới đây thì chờ đấy em ra liền…
Anh Liệu ngập ngừng một chút rồi nghẹn ngào cất giọng, buông một câu mà tôi nghĩ là câu nói đau đớn trong đời anh:
-Anh không uống rượu được nữa rồi Nhị ơi...
Tôi hoảng kinh, thở phì ra một phát, ngờ ngợ một chuyện gì kinh khủng lắm đã xảy ra. Im lặng một lát, anh tiếp:
-Anh có chuyện phải ghé qua New Orleans, gọi thăm em chút mà...
Tôi bàng hoàng đau đớn, hỏi dồn dập. Anh không trả lời, chỉ vắn tắt gởi lời thăm anh em tôi và gia đình tôi. Thấy anh như không muốn gặp tôi, tôi không dám ép. Gác điện thoại lên giá, tôi ngồi thừ ra suy nghĩ, thấy lòng mình chùng xuống, đau đớn vô cùng.
Sau đó, tôi tìm hiểu và nghe anh Liệu bị bệnh nặng lắm, bụng xưng to lên. Thỉnh thoảng anh vẫn còn về New Orleans để khám bệnh hay làm gì đó nhưng anh không còn muốn gặp anh em nữa. Nhiều người không hiểu vì sao nhưng tôi hiểu. Con người của anh Liệu là hiện thân của sự vui đùa sung sướng. Bây giờ anh không còn vui được, không còn uống rượu được, hơn nữa, hình hài bị tàn phá, anh không muốn anh em nhìn thấy anh như thế, sợ anh em buồn. Anh cao cả làm sao!
Rồi một ngày, anh Liệu nằm xuống. Nơi anh nằm xuống là thành phố Alexandria, tiểu bang Louisiana. Alexandria là một thành phố rất khiêm nhường của một tiểu bang khiêm nhường nhất Hoa Kỳ. Alexandria một thành phố nhỏ nằm hiu quạnh như bị chôn kín giữa những rừng thông chập chùng bất tận. Alexandria với những người nông dân chất phát quê mùa của miền Nam nước Mỹ. Alexandria nơi người Việt ở đếm không quá mười đầu ngón tay. Alexandria, nơi bác sĩ Liệu âm thầm sinh sống và âm thầm hành nghề tu bíp sau khi đặt chân đến Hoa Kỳ. "Alexandria chả có mẹ gì", anh Liệu thường nói như thế, cặp mắt buồn buồn. Alexandria, thành phố u buồn ấy, cuối cùng, đã đón nhận hình hài của một người y sĩ, một người lính nhảy dù Việt Nam...
Alexandria, hay A Lịch Sơn thành, ngậm ngùi và đau đớn làm sao...
Tô Phạm Liệu, người bác sĩ nhảy dù, người đã tham dự không biết bao nhiêu trận đánh lớn nhỏ trong một binh chủng hung hãn và tài giỏi nhất của quân lực, người đã lê đôi giày trên khắp bốn vùng chiến thuật để bảo vệ tổ quốc và đồng bào mình, người đã trở thành anh hùng sau trận Charlie, người mà pháo giặc dù cho hung hãn đến mấy cũng không hề đụng đến được một sợi lông ở đồi Charlie, người mà cuối cùng, đã đi nửa vòng thế giới để làm một người tị nạn, người ngày xưa đã chữa trị và cứu sống không biết bao nhiêu binh sĩ dưới bầu trời lửa đạn, và người bây giờ đem niềm vui cùng nụ cười đến cho không biết bao nhiêu anh em đồng đội, đã vội vàng và âm thầm nằm xuống ở một lứa tuổi còn quá trẻ.
Anh Liệu đi rồi, chén rượu bọn em uống bây giờ không còn thấy như ngày xưa nữa, như thiếu thiếu một cái gì...
*
Mùa hè (lại mùa hè) năm 2005, bão Katrina tàn phá thành phố tôi ở, làm tôi khăn gói lên đường tị nạn. Tôi lái xe lên hướng bắc, rồi kẹt đường phải vòng về Tây Nam rồi sau đó lấy hướng đi Dallas. Đoạn đường chỉ có 500 dặm mà tôi lái hơn hai ngày chưa tới vì hàng chục ngàn chiếc xe dồn dập, chen lấn nhau. Tốc độ trung bình khi nào mau lắm là 30 dặm.
Một ngày sau vào buổi chiều gần tối, xe đang chạy phom phom trên đường, tôi bỗng ngạc nhiên khi nhìn thấy tấm biển trước mặt: "Alexandria chào mừng quý khách." Tiếp theo đó là tấm biển khác đề như sau: "Alexandria Next Three Exit."
Tôi giật mình và nghĩ đến anh Liệu. Đây chính là nơi anh đã sống những ngày cuối cùng. Trời về chiều, tôi đưa mắt nhìn chung quanh, chỉ thấy rừng rậm xanh rì. Tôi nhớ đến cái tên của thành phố nơi anh ở, thành phố PineVille, tức thành phố những cây thông. Alexandria, hay A Lịch Sơn Thành, thành phố của anh Liệu. Hồi còn sống, anh thường đùa với chúng tôi, nói như sau trong những buổi tiệc rượu:
-Biệt hiệu của tao là: A Lịch Sơn Thành, Cuồng Thái Y, Việt Nhảy Dù, ẩm sĩ Tô Phạm Liệu.
Sợ chúng tôi không hiểu, anh cắt nghĩa như sau:
-Này nhé, A Lịch Sơn Thành tức là thành phố Alexandria, Cuồng Thái Y tức là bác sĩ chữa bệnh điên, Việt Nhảy Dù bởi vì tao là lính Việt nhảy dù, ẩm sĩ tức là người uống rượu, Tô Phạm Liệu chính là tao.
Chúng tôi ai nấy cười rộ. Anh có vẻ khoái cái biệt hiệu này lắm, cứ lập đi lập lại hoài trong những lần nhậu, ra chiều rất đắc ý về cái tên của mình...
Chiều hôm đó, một buổi chiều oi bức và một mình tôi trong một chiếc xe hơi chạy đi trốn bão, tôi cảm thấy nhớ anh vô cùng. Tôi toan ghé vào một exit nhưng thành phố nhỏ quá, chỉ chớp mắt chiếc xe của tôi đã vượt qua 3 cái ngõ vào. Tôi đi luôn và định bụng, khi hết bão trở về, tôi sẽ ghé thăm thành phố anh ở.
3 tuần sau cơn bão, tôi quay trở về và lúc lái xe ngang qua Alexandria thì trời đã tối đen như mực. Tôi quẹo vào ngõ rẽ và dừng xe ở cây xăng đầu tiên. Tôi xuống xe đi một vòng và chẳng nhìn thấy gì ngoại trừ bóng đêm dày đặc. Tôi bước vào đổ xăng và tự hỏi lòng mình, không biết anh Liệu đã dừng xe ở đây để đổ xăng bao nhiêu lần trước khi anh đi nhậu hoặc khi anh đi nhậu trở về. Anh đã nghĩ gì trong những lần ấy?
Tự nhiên, tôi thấy nơi anh ở buồn quá. Buồn và cô quạnh, và không hiểu sao, tôi có thể nói là thê lương nữa. Tôi không biết anh nghĩ gì trong đầu mỗi lần đứng ở đây bơm xăng. Anh nghĩ gì không biết nhưng chắc anh phải cô đơn và nhớ bạn bè lắm. Có cô đơn như thế anh mới phải đi nhiều. Đi nhiều để tìm những trận cười, để nói chuyện và tán dốc với anh em bạn bè... Đi để tìm lại những vùng trời đã bị đánh mất.
Sau đó, vì công việc, tôi phải lưu vong về thành phố Dallas sống, làm một anh cao bồi bất đắc dĩ. Tháng 9 năm ngoái, 2006, anh em nhảy dù ở Dallas làm lễ giỗ anh Liệu. Tôi đến nơi thấy bàn thờ anh đã được trang hoàng tề chỉnh, bạn bè đang đứng thành từng nhóm nói chuyện. Tôi tới trước bàn thờ anh Liệu, tính đốt nhang nhưng nhìn lại, tôi thấy hình như bàn thờ còn thiếu thiếu một cái gì. Nhìn kỹ hơn, tôi thấy nhang đèn hoa quả đầy đủ và biết thiếu cái gì liền. Tôi chạy ra xe, lấy hai chai rượu mình mang theo lễ mễ đặt lên bàn thờ anh.
Một người nào đó lột cái mũ đỏ mình đang đội trên đầu và đội lên tấm hình của anh...
Bây giờ thì tôi có thể đốt nhang và khấn vái. Tôi niệm với linh hồn anh đang tiêu diêu ở một nơi nào đó, xin anh về đây chứng dám cho tấm lòng thành của những người bạn, người em của anh.
Anh ra đi lúc tuổi còn quá trẻ, để lại không biết bao nhiêu là thương nhớ trong lòng mọi người. Sinh ra trong thời ly loạn, anh đã mặc áo nhà binh để phụng sự tổ quốc mình và đã trở thành một anh hùng cho thế hệ chúng tôi. Anh chính là một Lệnh Hồ Xung của đời. Lệnh Hồ Xung của nhảy dù Việt Nam. Tôi may mắn và hãnh diện biết bao khi được quen biết với anh, được anh coi như một đứa em, một người bạn.
Nhà văn Phan Nhật Nam đứng lên tuyên bố lời khai mạc. Sau đó, từng người một lên nói về anh. Tôi cũng lên, lí nhí vài lời, kể lại vài kỷ niệm với anh, nhưng không nói được nhiều. Nước mắt tôi chan hòa.
Mùa Xuân năm 2007, tôi bay sang Santa Anna đi nhậu với em của anh Liệu, ông Tô Phạm Thái. Trời đất, tôi tưởng ông Thái, em ông Liệu thì chắc phải biết uống rượu không nhiều thì ít. Nào ngờ, ông ấy chỉ uống cô ca làm cho tôi… thất vọng vô cùng. Ông Thái cũng có máu tếu giống như anh Liệu nhưng nói chuyện chẳng biết chửi thề, mặt mũi coi hiền lành ngoan ngoãn như một ông bụt. Chán bỏ xừ. Hình như, trong thiên hạ có bao nhiêu bồ rượu thì anh Liệu đã giành uống hết rồi, chẳng để cho ông em được bao nhiêu.
Chúng tôi ngồi ở một quán phở và tôi nói chuyện về tập thơ "Warman" mà anh Liệu tặng tôi hôm nào. Tôi bảo anh Thái đây là một sản phẩm vô cùng quý giá và tôi tự cảm thấy mình không đủ vinh hạnh để lưu giữ. Tôi muốn hoàn trả báu vật này lại cho gia đình anh Liệu. Đây không phải là một tập thơ thường mà một tập hồi ký trung thực viết dưới dạng thơ của một ông trung tá trong quân đội Hoa Kỳ. Không phải viết bằng mực mà bằng máu và nước mắt của những người lính nhảy dù Việt Nam…
Đây là một minh chứng hùng hồn về những can trường, những hy sinh vĩ đại, những uất hận khôn nguôi qua những trận đánh đẫm máu đến độ kinh hoàng của những người lính Việt Nam, không phải do một người lính Việt Nam viết mà một người lính Mỹ đã từng phục vụ với những người lính Việt Nam viết lại. Cuối cùng, đây một thiên hùng sử ca trung thật nhất dành cho một binh chủng oai hùng nhất của một quân lực cô đơn nhất, bất hạnh nhất trên thế giới. Một quân lực đã bị phản bội trắng trợn và bị bỏ rơi dễ dàng...
Con cháu anh Liệu cần có những tài liệu này làm hành trang cho chúng nó bước xuống cuộc đời. Với tập thơ này, chúng nó sẽ hãnh diện mà ngẩng mặt lên để nhìn đời, để chiến đấu và để hy vọng… Một tập thơ nhỏ không thể nào nói lên hết một cuộc chiến bi hùng kéo dài hàng chục năm với hàng triệu người ngã gục, nhưng cũng nói lên được một phần nào, dù rất nhỏ, cuốc chiến đấu và sự hy sinh can trường của cha anh, của một thế hệ…
Thôi nhé anh Liệu. Cuộc đời mà. Ai trong chúng ta rồi cũng đến một ngày phải chia tay mà thôi. Tử Biệt Sinh Ly. Sinh ra là chia lìa, chết đi là từ biệt, người xưa đã nói vậy. Điều quan trọng và đáng kể là ngày xưa anh đã sống một cuộc đời oai dũng và ngoại hạng. Ngày hôm nay lưu vong trên xứ người, tuy sống âm thầm lặng lẽ, nhưng anh vẫn giữ được tâm hồn hiên ngang bất khuất, coi rẻ tiền tài danh vọng, một lòng tận trung với tổ quốc, hết lòng với anh em bạn bè.
Trên đời này, dễ thử, có bao nhiêu người được như anh, anh Liệu?
Vong hồn anh linh thiêng, xin về phù trợ cho anh em ráng sống hết cuộc đời còn lại của mình, nếu không được hào sảng và ngang tàng như anh thì cũng đừng làm trò gì ô uế đến thanh danh của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đừng phản bội anh linh những bằng hữu của mình đã bất hạnh nằm xuống. Vong hồn anh bất khuất, xin trở về phù trợ cho những chiến sĩ chống Cộng được thành công trong việc quang phục quê hương, lật đổ chế độ Cộng Phỉ bạo tàn đang làm tan nát quê hương...
Hỡi A Lịch Sơn Thành Cuồng Thái Y, Việt Nhảy Dù, Ẩm Sĩ Tô Phạm Liệu ơi, Trường Sơn Lê Xuân Nhị này thương nhớ anh vô cùng…

TRƯỜNG SƠN LÊ XUÂN NHỊ
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Một ngày của tổng trừ bị Mũ Xanh
Chủ nhật vừa qua, buổi trưa ở nhà hàng Sam Kee tại San Jose người ta thấy có nhiều bóng dáng quân phục một thời đứng bên nhau.

Trở đi trở lại toàn là các anh em đã từng sinh hoạt suốt bao năm qua. Nhảy dù, Biệt động quân, Lực lượng đặc biệt, Thủy quân lục chiến, Thủ đức, Nữ quân nhân ...

Trên sân khấu, một tấm bảng giăng ngang che cả rồng phượng của nhà hàng mừng đám cưới. Trên nền xanh có hàng chữ trắng. Sinh Nhật Thủy Quân Lục Chiến. Mũ xanh ra đời 53 năm về trước. Đại tá Ngô Văn Định lữ đoàn trưởng là một trong những người hạ thành Quảng Trị đứng lên nói đôi lời. Bên dưới cử tọa còn lao xao. Từ trên bục nhà hàng cơm Tàu, người chỉ huy lữ đoàn đã từng đội mũ xanh suốt 53 năm nhìn xuống. Ông chợt thấy mắt mờ đi, đâu đây là hình ảnh những người lính cũ đã hy sinh. Hai mươi mốt năm đi lính, Ngô Văn Định chỉ biết có binh chủng mũ xanh. Tuổi lính của người trai Hà Nội là tuổi đời của Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Bốn lần bị thương, 21 ngành dương liễu, đệ tam đẳng bảo quốc huân chương, 4 lần đặc cách mặt trận. Ba mươi hai năm di tản lưu vong, 22 năm làm điện tử. Còn lại 10 năm về hưu nuôi vợ ngày đêm. Người em gái hậu phương ngày xưa nay chỉ còn xác phàm ở lại mà hồn xuân đã bao năm lãng đãng chân trời.
Image
Ngày xưa mũ xanh Ngô văn Định từ Trung Đội Trưởng lên Đại Đội Trưởng qua Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên rồi đến lúc chỉ huy các lữ đoàn, bao nhiêu là chiến binh thuộc quyền đã hy sinh. Hơn 30 năm trước, chiến tranh chính trị Việt Nam Cộng Hòa đã làm con tính cộng. Theo đài Cộng sản Hà Nội phóng đại con số Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến bị hy sinh cộng lại thì bên ta chết hết 10 sư đoàn mũ đỏ và 10 sư đoàn mũ xanh.

Nhưng tại sao mà hai sư đoàn tổng trừ bị của Miền Nam vẫn còn đầy đủ và luôn luôn có mặt khắp các chiến trường từ Nam ra Bắc.

Trên thực tế phòng nhì Tổng Tham Mưu của ta thống kê cứ mỗi người lính tổng trừ bị hy sinh thì phía chính quy Miền Bắc tổn thất bốn lần nhiều hơn.

Phòng nhất Tổng Tham Mưu ước tính suốt 20 năm chinh chiến từ 1954 đến 1974 hai sư đoàn Tổng Trừ Bị thay quân 3 lần. Số tổn thất của Dù và Thủy Quân Lục Chiến cao hơn tất cả các binh chủng. Số thương vong của Mũ Xanh và Mũ Đỏ trong chiến tranh Việt Nam tương đương với 6 sư đoàn chia đều cho hai binh chủng trong một phần tư thế kỷ chiến tranh. Và như thế hàng chục ngàn thanh niên mũ đỏ mũ xanh đã ra đi.

Vào trưa chủ nhật cuối tháng 9, ông lính già mũ xanh nhìn xuống anh em, chỉ còn lại một số chiến binh may mắn chưa chết thuộc thành phần sau cùng của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Người trẻ nhất trên 50 tuổi, người cao niên đã tới bát tuần. Phải mà cuộc chiến tiếp tục thì chắc hẳn những người này cũng sẽ không có mặt tại nhà hàng hôm nay.

Vì vậy nên ông đơn vị trưởng lữ đoàn đã nghẹn ngào nói chẳng nên lời. Ông đứng đó mà hồn bay về với hàng ngàn chiến binh mũ xanh đã ngã xuống bên cổ thành Đinh Công Tráng tại Quảng Trị. Anh em ta còn ngồi ở đây, sau cùng cũng chỉ là những người lính chưa chết.

Những vì sao, ai còn ai mất
Chúng tôi ngồi dự Sinh Nhật Thủy Quân Lục Chiến bên cạnh tướng Nguyễn Khắc Bình. Có danh sách gần 200 tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa trong tay. Chúng tôi điểm qua xem ai còn ai mất! Đây là tài liệu dành cho Bảo Tàng Viện của Việt Nam Cộng Hòa tại San Jose .

Trải qua 21 năm Miền Nam xây dựng hai nền Cộng Hòa, tướng lãnh trở thành một giai cấp tiêu biểu cho thành phần lãnh đạo quốc gia trong chiến tranh. Vừa chiến đấu vừa xây dựng, cả nước mặc áo lính. Đêm đêm nghe tiếng đại bác. Khắp quê hương hỏa châu thắp sáng chân trời. Ở đâu cũng toàn là chinh phu và chinh phụ. Lính chết mà dân cũng chết. Đi lại thì chết vì mìn, sống trong nhà thì chết vì pháo kích.

Tướng lãnh là giới chức cao niên và thâm niên trong quân đội cũng lần lượt hy sinh. Cũng xếp hàng vào tù cải tạo. Cũng lưu vong trong tủi nhục.

Tôi hỏi anh Bùi Đức Lạc. Lạc nói chỗ này ghi sai. Bên nhảy dù trung tướng Dư Quốc Đống người Rạch Giá còn sống, thiếu tướng Lê Quang Lưỡng là tư lệnh cuối cùng mới chết. Các trung tướng gốc nhẩy dù đã ra đi là ông Trưởng, ông Thi. Ông đại tướng Viên vẫn còn ở lại.

Ngô Văn Định bên thủy Quân Lục Chiến còn nhớ khá nhiều về các cấp chỉ huy. Anh nói ông Lê Nguyên Khang thì đi rồi, nhưng ông Bùi Thế Lân vẫn điện thoại với tôi, chưa đi đâu, còn lâu!

Có chỗ danh sách ghi tên vị tướng lãnh mà sao không ai nghe nói. Đó là các vị đại tá chết trước 1975 đã được truy thăng nên không có nhiều tin tức phổ biến.

Đọc tên các niên trưởng tướng lãnh thấy cả một chân trời chiến tranh đầy kỷ niệm trở về. Mỗi cấp chỉ huy là một huyền thoại. Từ đơn vị cho đến chiến trường. Từ thời binh lửa cho đến giai đoạn lao tù rồi di tản, HO hay đoàn tụ. Hào hùng, đắng cay và nhục nhã. Xấu và tốt. Lúc tốt lúc xấu. Có ông trước sau như một. Có ông tiền hậu bất nhất. Ai thì cũng là con người. Con người thuộc vào một thế hệ lạ lùng. Quả thực không có thế hệ thanh niên nào trải qua một thời kỳ thử lửa tàn khốc như người Việt hậu bán thế kỷ 20.

Anh cả Trường Sơn
Sau khi dự Sinh Nhật của Thủy quân lục chiến về nhà, mở máy điện toán để vào Thế Giới Ảo đọc truyện anh em. Chợt có tin báo trung tướng Vĩnh Lộc qua đời ở Texas tuổi thọ đã ngoài 80. Khi một vì sao đã lên đến bát tuần đại khánh thì chuyện ra đi cũng không phải là điều bất ngờ. Tuy nhiên, sân khấu của anh em cựu chiến binh càng về khuya tình nghĩa lại càng rạt rào.

Cánh nhà binh xôn xao hỏi thăm nhau để viết lời ai điếu kèm theo đôi hàng tiểu sử. Đặc biệt phe sân khấu văn học nghệ thuật lại có vẻ chú trọng khác thường. Hóa ra anh chị em nhớ đến danh ca Minh Hiếu, vốn là cô hạ sĩ danh dự một thời của người anh cả Trường Sơn. Ca sĩ Minh Hiếu hiện nay là phu nhân của Tướng Vĩnh Lộc. Giới ca nhạc sĩ của cộng đồng Việt Nam hải ngoại là một thành phần đông đảo nên chắc chắn sự chia buồn cũng sẽ vang dội khắp bốn vùng chiến thuật.

Tuy nhiên, bạn Hà Mai Việt thiết giáp đã phối kiểm nguồn tin với Minh Hiếu và cho biết tướng Vĩnh Lộc dù trên 83 tuổi nhưng vẫn an nhiên tự tại. Hiện nay ông không có đau ốm hay ra vào bệnh viện gì cả.

Và như vậy, vị tư lệnh quân khu Cao Nguyên cùng thời với khói lửa Pleime trở thành một trong số người hiếm hoi còn sống được đọc tin mình đã ra đi.
Nhạc sĩ Trần thiện Thanh ngày xưa viết lời ca cho chiến trường Tây Nguyên, dù nay đã ra đi vẫn để lại di ngôn bất hủ "Anh không chết đâu em".

Thế giới ảo của các bản tin trên Internet bây giờ cải chính rối rít.

Tin tức trên thế giới ảo này đi quá nhanh. Quả thực đúng là điện báo.

"Rằng nhanh thì thực là nhanh,
Xem ra có lúc quá nhanh, lại phiền"

Tuy nhiên các niên trưởng tướng lãnh bây giờ đã đạt cả rồi.

Chuyện tử sinh là lẽ thường của trời đất. Chúa gọi thì về. Trời kêu ai nấy dạ. Sớm muộn cũng lên phiên, chấp gì ba cái lẻ tẻ. Sự ra đi mà làm thành một chuyện thời sự như ngọn sóng lăn tăn trên mặt hồ, âu cũng xong một kiếp người. Danh sách trong Viện Bảo Tàng chúng tôi sẽ theo dõi để ghi cho chính xác.

Một chút thú vị là chú em nhà binh báo tin vội vàng về người đã ra đi. Sau khi xem lại bèn sửa chữa cáo lỗi rằng đây là tin vịt trời "Người vẫn chưa chết" (Nguyên Văn). Chữ nghĩa đến thế thì thôi. Thôi thì vì tình Huynh Đệ Chi Binh, xin tư lệnh bỏ qua cho bọn nhỏ. Cũng may mà các chú chưa đưa tên anh vào cái danh sách vội vàng để chia buồn cùng vị niên trưởng vẫn còn ở lại với anh em.

Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Nhà cách mạng Nguyễn Ngọc Huy khi ra đi để lại khá nhiều bài lập thuyết về chính trị, sao tôi chẳng nhớ được câu nào. Nhưng bên trong con người của ông có một chàng thi sĩ viết những lời thơ sao mà mênh mông bát ngát. Tôi nhớ mãi suốt 60 năm dài. Viết về Trịnh Nguyễn phân tranh, ông mở đầu.

"Đây Sông Gianh, đây biên cương thống khổ.
Đây sa trường đây nấm mộ trời Nam".

Viết về vụ Pháp xử tử 13 liệt sĩ Quốc Dân Đảng, ông kết luận:

"Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc"

Anh em ta đã là lính Việt Nam Cộng Hòa, trẻ hay già, dù chết trước hay chết sau, tôi vẫn ước mong có một ông thần chết hiền lành đứng nghiêm chào kính để ghi tên các chiến sĩ chúng ta vào bia người tuẫn quốc.

Năm 2004, chúng tôi là những ông già 70 tuổi họp mặt, đề tài 50 năm ghi dấu quân trường. Giao Chỉ đã viết đôi lời như sau, xin dùng làm kết luận cho chuyện tử sinh.

Hôm nay...
"Chúng tôi về đây dành lại một ngày
Cho 50 năm họp khóa ngậm ngùi
Để đếm đầu người, xem ai còn ai mất
300 chàng trai đất Bắc, giờ đây còn lại 70 vị cao niên
Già thật là già, lão ơi là lão
Nước mắt đã khô rồi, gặp nhau chỉ cười thôi
Chẳng phải lần đầu, nhưng biết đâu đây sẽ là lần cuối
Sợ thì ông đếch sợ, nhưng buồn thật là buồn".

Giao Chỉ San Jose
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Biệt Đội Thiên Nga, Nữ Chiến Sĩ Tình Báo
Image
Cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy.


TUYẾT MAI

Tôi được dịp gặp Cựu Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt Nguyễn Thanh Thủy, Nguyên Biệt Đội Trưởng, Biệt Đội Thiên Nga TrungƯơng, một cơ quan tình báo phụ nữ thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, trong ngày Đại Hội Nữ Quân Nhân kỳ IV ở California. Qua cuộc tiếp xúc với Cựu Thiếu Tá Thủy, tôi cảm thấy vô cùng cảm kích và thật hãnh diện về tinh thần phục vụ của những người phụ nữ VN trong Biệt Đội Thiên Nga. Các chị đã can đảm chấp nhận sự nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình trong cuộc chiến ngăn chặn CS xâm nhập và xâm lăng Miền Nam.
Cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy cho biết, trong năm 1968, sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và cuộc tấn công vào Tháng Năm, 1968, Chính Phủ VNCH thấy cần tăng cường các lực lượng Cảnh Sát trong việc bảo vệ an ninh đất nuớc để ngăn chận VC xâm nhập Miền Nam bằng đường bộ cũng như đường thủy. Từ đó vai trò của Cảnh Sát quan trọng hơn, đặc biệt là cần có sự bổ sung một số phụ nữ để thành lập một tổ chức toàn những Nữ Cảnh Sát, hoạt động trong các công tác tình báo, hoạt động riêng rẻ hoặc phối hợp với Nam Cảnh Sát.
Do đó Tháng 8, 1968, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát QG quyết định thành lập một tổ chức toàn là phụ nữ có tên là Biệt Đội Thiên Nga , trực thuộc Khối Đặc Biệt, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát QG VNCH. Tổ chức này hoạt động độc lập. Nhiệm vụ của Biệt Đội Thiên Nga là sưu tầm tin tức các tổ chức VC xâm nhập và phá vở các tổ chức hạ tầng cơ sở của VC tại Thủ Đô Saigon cũng như tại địa phương ở các tỉnh trên toàn lãnh thổ Miền Nam VN.
Vế tổ chức thì Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương có văn phòng tại Khối Đặc Biệt, Bộ Tư Lệnh CSQG VNCH. Biệt Đội Thiên Nga Thủ Đô gồm mười một quận của Đô Thành, có văn phòng tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thủ Đô và BCH Cảnh Sát Quốc Gia ở các Quận trong Đô Thành. Ngoài ra còn có Biệt Đội Thiên Nga Vùng I, Vùng II, Vùng III, Vùng IV và tại các tỉnh trong toàn quốc. Từ Quảng Trị đến Cà Mau đều có Biệt Đội Thiên Nga.
Biệt Đội Trung Ương có bốn ban như Ban Hành Chánh, Ban Tổ Chức, Ban Huấn Luyện, Ban Hoạt Vụ. Nhiệm vụ của Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương là tuyển mộ và huấn luyện, tìm đầu mối phát triển công tác, đôn đốc và hướng dẫn cán bộ, thành lập đội Thiên Nga địa phương của mười một quận trong Đô Thành và tại các tỉnh.
Các đội Thiên Nga địa phưong tuyển mộ nhân viên gởi về Saigon, Biệt Đội Thiên Nga Trung Ương gởi những chị em mới được tuyển mộ đi thụ huấn các khóa tình báo tại Trường Tình Báo Trung Ương ở đường Cộng Hòa, Saigon.
Về trình độ văn hóa, các chị em Thiên Nga ít nhất phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp hay cao hơn. Ngoài trừ quả phụ của Cảnh Sát thì không đòi hỏi điều kiện văn bằng như trên, nhưng ít nhất phải có bằng tiểu học . Các sĩ quan Thiên Nga thì phải có bằng Tú Tài hay cao hơn.
Các nhân viên được tuyển lựa gồm các chị em ở mọi lứa tuổi , mọi thành phần khác nhau trong xã hội, từ người bán hàng rong cho đến thư ký văn phòng hay cô giáo, vũ nữ …các nữ nhân viên tình báo lần luợt được học qua các lớp “ tình báo căn bản” là bốn tuần, khóa “ theo dõi “ sáu tuần và “cán bộ điều khiển “ thì tám tuần…các khóa sinh phải đủ điểm ở lớp thấp trước rồi mới được lên lớp kế tiếp và trong thời gian huấn luyện thì các khóa sinh phải ở nội trú và mang ám số.
Việc giảng dạy do các trường tình báo phụ trách, còn giám thị thì do các nhân viên Thiên Nga đảm nhận. Sau khi đã học xong thì các nhân viên tình báo trở về Biệt Đội Trung Ương hoặc địa phương để hoạt động.
Các công tác đều có ám danh, vì là phụ nữ nên các ám danh có tên của các loài chim như sơn ca, hoạ mi, hải âu, hoàng oanh, hoàng yến vv… những công tác phối hợp chung với nam Cảnh Sát thì có tên như Trùng Dương hay Trường Sơn …
Do sự thay đổi của tình hình chính trị, Biệt Đội Thiên Nga có ám danh mới để hoạt động cho dễ. Song song với những công tác được huấn luyện, Biệt Đội Thiên Nga thi hành nhiều công tác như xâm nhập, len lõi vào các hội đoàn phụ nữ VN hoặc hội hè ở các chợ hoặc lên lõi vào những phong trào phụ nữ đòi quyền sống, hoặc lực lượng thứ ba chống chính quyền VNCH… để kịp thời ngăn chận VC nằm vùng và phá vỡ những âm mưu nguy hại an ninh quốc gia. Ngoài ra Biệt Đội Thiên Nga cũng xâm nhập vào tận mật khu của VC để thu thập tin tức tính báo, góp phần tiêu diệt các cơ sở đầu não của CS.
Để thi hành công tác, các chị em Thiên Nga luôn chấp nhận sự hiểm nguy, tính mạng lúc nào cũng bị đe dọa. Qua tài liệu thì VC bị thất bại nhiều từ khi Biệt Đội Thiên Nga được thành lập, vì vậy VC luôn đề cao cảnh giác vè hoạt động của Biệt Đội Thiên Nga. Để đối phó vấn đề này VC luôn tìm cách bắt cốc, gây tai nạn xe, tạo án mạng hay ám sát những ai mà chúng nghi ngờ là thuộc Biệt Đội Thiên Nga.
Các nhân viên Thiên Nga phải có những ngụy tích (lý lịch) và ngụy thức (cách trang phục) để len lõi vào các hội đoàn, tham dự các cuộc biểu tình nên cũng phải chịu hơi cay hay dùi cui của Cảnh Sát.
Một trong những công tác điễn hình là vấn đề cung cấp thực phẩm cho phái đoàn bốn bên VC, CS Bắc Việt, Mỹ và VNCH sau khi hiệp ước đươc ký ở Paris. VC và CS Bắc Việt đòi để họ chọn nhà thầu. Biệt Đội Thiên Nga cử người vào thầu giống như những nhà thầu tư nhân. Đội Thiên Nga đã hoạt động âm thầm cho đến ngày cuối cùng. Công tác đó có ám danh là Trùng Dương.
Cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy cho biết trong thời gian hoạt động với các cán bộ nằm vùng, các chị em cố thuyết phục và có những người CS đã giác ngộ, quay lại họp tác với các chị em Thiên Nga. Công tác này gọi là công tác Hoàng Oanh.
Biệt Đội Thiên Nga có rất nhiều nhân viên chính thức khắp các vùng chiến thuật, nhưng sau 1975 Cộng sản không tìm ra đuợc nhiều người vì hồ sơ đã được hủy trước khi Miền Nam mất. Vấn đề tình báo luôn được giữ bí mật, trong thời gian thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Tình Báo các chị em có bí danh, bí số. Sau khi ra trường, trở về đơn vị các chị em hoạt động độc lập, nhận lệnh và báo cáo với cấp chỉ huy trực tiếp, chứ giữa các chị em trong Biệt Đội Thiên Nga không có sự liên lạc với nhau như ở các đơn vị Cảnh Sát sắc phục hay các quân binh chủng khác.
Các Nữ chiến sĩ tình báo Thiên Nga bị CS liệt kê là thành phần phản động, nguy hiểm, tích cực chống Cộng chứ không phải vì hoàn cảnh, vì sinh kế mà gia nhập ngành này. Sau 1975, chị em người nào bị bắt thì bị trừng trị rất nặng, ở tù rất lâu. Riêng Cựu Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy bị tù mười ba năm và bị biệt giam hơn một năm, mãi ba năm sau mới được giam chung với các chị em nữ quân nhân từ cấp bực Đại Uý trở lên.
Các Nữ chiến sĩ tình báo Thiên Nga thật xứng đáng là con cháu của hai Bà Trưng, Bà Triệu; là niềm hãnh diện của người phụ nữ Việt Nam, đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc tô thấm màu cờ và làm vẻ vang những trang sử oai hùng của dân tộc Vịệt.

TUYẾT MAI
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »


Image

Chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

Phạm Bá Hoa

Thưa quí vị,
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa thi hành bổn phận công dân, từ vĩ tuyến 17 xuống tận Mũi Cà Mau, từ duyên hải quanh năm sóng vỗ đến rừng già heo hút đội sương, từ Cao Nguyên rậm rạp xuống đồng bằng sông rạch Cửu Long, xin mời quí vị lần theo dấu chân để đến, và nhận ra chân dung Những Người Lính ấy.

Xin bắt đầu với Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cơ quan đầu não của quân đội thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1952, có nhiệm vụ tổ chức, trang bị, huấn luyện, nuôi dưỡng, hoạch định, và điều khiễn quân đội thi hành nhiệm vụ bảo vệ quốc gia dân tộc. Đứng đầu quân lực là Tổng Tham Mưu Trưởng. Vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh, lần lượt là Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Nguyễn Khánh, Trung Tướng Trần Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Đại Tướng Cao Văn Viên, và sau cùng là Trung Tướng Vĩnh Lộc. Thời gian giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng lâu nhất là Đại Tướng Cao Văn Viên 9 năm rưỡi, và vị có thời gian ngắn nhất là Trung Tướng Vĩnh Lộc chỉ 18 tiếng đồng hồ!

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với 1.100.000 quân, gồm ba quân chủng Hải Quân, Lục Quân, và Không Quân. Trong Lục quân có đầy đủ các binh chủng cho nhu cầu tác chiến và yểm trợ tác chiến, và các binh sở yểm trợ từ hành chánh nhân viên, hành chánh tài chánh, đến hành chánh tiếp vận. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trải qua 4 giai đoạn:

- Giai đoạn hình thành từ năm 1952 đến 1954.
- Giai đoạn phát triển lần 1 từ năm 1955 đến 1967.
- Giai đoạn phát triển lần 2 từ năm 1968 đến 1972.
- Giai đoạn phát triển lần 3 là năm 1973.


Vào thời gian cuối cùng, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có:

Lục quân, với:
- 4 Quân Đoàn trách nhiệm các Quân Khu, bao gồm các đơn vị và đại đơn vị trực thuộc: 11 Sư Đoàn Bộ Binh + hơn 20 Liên Đoàn Biệt Động Quân + 4 Lữ Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp + 4 Liên Đoàn Công Binh Chiến Đấu.
- 1 Sư Đoàn Biệt Động Quân thành lập vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975.
- Các tiểu đoàn Pháo Binh biệt lập, và một hệ thống Pháo Binh diện địa tại 48 Tiểu Khu, Đặc Khu, Biệt Khu.
- Địa Phương Quân, Nghĩa Quân.
- Lực lượng tổng trừ bị trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, có: 1 Sư Đoàn Nhẩy Dù + 1 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến + 1 Liên Đoàn Biệt Động Quân + Liên Đoàn Biệt Cách Dù.

Không quân, với:
- 5 Sư Đoàn tác chiến.
- 1 Sư Đoàn vận tải.
- Những Phi Đoàn đặc nhiệm.

Hải quân, với:
- Lực lượng Hải lực.
- Lực lượng Giang lực.
- Lực lượng Đặc nhiệm.

Về "binh sở yểm trợ". Trong Lục Quân có "Tổng Cục Tiếp Vận" với 8 ngành chuyên môn, có khả năng sửa chữa và tân trang toàn bộ quân dụng sử dụng chung trong các quân chủng, và khả năng xây dựng cơ sở thông thường lẫn kiến trúc đặc biệt. Không Quân có "Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo". Hải Quân có "Hải Quân Công Xưỡng".

Về trang bị. Khối lượng dụng cụ chiến tranh trang bị cho quân lực, gồm: 2.000.000 vũ khí cá nhân và cộng đồng. Hơn 1.000 khẩu đại bác từ 105 ly và 155 ly xe kéo, đến 175 ly cơ động, và đại bác phòng không. 1.200 xe chạy xích kể cả chiến xa M48. Hơn 1.600 chiến hạm chiến đỉnh, hoạt động trên sông, trên biển, và dọc duyên hải. Hơn 2.000 phi cơ các loại, từ tác chiến, yểm trợ tác chiến, yểm trợ tình báo kỹ thuật điện tử, đến liên lạc, và vận tải. Từ phi cơ cánh quạt, phi cơ phản lực, đến phi cơ trực thăng. Nói chung, khối dụng cụ chiến tranh trang bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tính đến năm 1973 trị giá khoảng 7 tỷ mỹ kim.

Về huấn luyện. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có một hệ thống quân trường, đào tạo từ người chiến binh đến chỉ huy cấp bộ đại đơn vị, đào tạo sĩ quan và chuyên viên cho các quân chủng, binh chủng, binh sở.

Về quản trị. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được quản trị bởi:
- “Cơ Quan Điện Toán" Tổng Nha Tài Chánh & Thanh Tra Quân Phí thuộc Bộ Quốc Phòng, quản trị toàn bộ quân phí.
- “Trung Tâm Điện Toán Nhân Viên" thuộc Phòng Tổng Quản Trị/Bộ Tổng Tham Mưu, quản trị toàn bộ nhân viên.
- “Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận" thuộc Tổng Cục Tiếp Vận/Tổng Tham Mưu, quản trị toàn bộ quân trang quân dụng chung, từ tiếp liệu, tồn trữ, cấp phát, vận chuyển, đến bảo trì, tân trang, tổn thất, và phế thải.
- Quân chủng Không Quân, Hải Quân, có cơ quan điện toán quản trị quân dụng riêng của quân chủng.
Trong hơn 20 năm chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc xâm lăng của nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạo nhiều chiến tích vẻ vang. Có thể nhận định mà không sợ sai lầm rằng, thế giới chỉ biết thành tích của chúng ta qua hai trận chiến điển hình, là cuộc phản công toàn diện trong cuộc “tổng công kích” của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, và cuộc phản công đánh bại 3 trục tấn công do lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ Hà Nội, xua quân chính qui vượt vĩ tuyến 17 trực diện tấn công Việt Nam Cộng Hòa vào mùa hè 1972. Chớ họ không thể hiểu được những chiến thắng với biết bao trận chiến đơn lẻ xảy ra hằng ngày hằng đêm, đánh nhau từng người, từng tổ, từng tiểu đội, trung đội, của Địa Phương Quân, Nghĩa Quân trong nội địa lãnh thổ, những chiến thắng của "lực lượng Dân Sự Chiến Đấu", của "Lực Lượng Đặc Biệt", của những "Toán Lôi Hổ", của "Liên Đoàn Biệt Cách Dù", ..v..v.. trong những cánh rừng già hoang dã dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Nơi mà quân chính qui cộng sản từ miền bắc, theo hành lang biên giới mà chúng gọi là "đường Trường Sơn", xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Image

Họ cũng không thể hiểu sâu những trận chiến thầm lặng với sắc thái du kích mà Người Lính Việt Nam Cộng Hòa phải đối phó. Phải rình mò tìm địch mà đánh. Bất ngờ gặp nhau là đánh. Đánh nhau bất luận bao nhiêu tay súng, bất kể ngày đêm, bất cứ nơi nào. Chiến trường không chỉ là trận tuyến trong chiến tranh qui ước, mà chiến trường diễn ra ngay trong nhà, ngoài ngõ, chiến trường là bụi chuối trong vườn, là đám bắp trong rẫy, là ruộng lúa đồng sâu. Chiến trường cũng là góc núi, bụi cây, là rừng rậm cao nguyên, là bãi lầy đất Mũi (Cà Mau), là "biển cạn" Tháp Mười. Từng góc phố, căn nhà, từng con đường trong thành phố, từng bến đậu phi cơ hay nơi tàu cặp bến, đâu đâu cũng là chiến trường của quân cộng sản trong mục đích xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa.

Nói chung là người ngoại quốc, cho dù là những phóng viên hay những nhà lãnh đạo chính trị, họ không thể nào hiểu được những chiến thuật trên chiến trường Việt Nam và cách vận dụng chiến thuật đó của "Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", trong khi 500.000 quân Đồng Minh rất khó thích ứng với cuộc chiến mà bản chất của nó là "chiến tranh tổng thể" trên chiến trường Việt Nam chúng ta, trong khi chiến lược chiến thuật của quân bạn chỉ trông vào bom đạn.

Vậy, “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa là ai?” “Họ”, là những nông dân chất phác hiền hòa, là những ngư dân miền duyên hải quanh năm sóng vỗ, là những công nhân nơi thành phố, là những học sinh tốt nghiệp trung học, là những sinh viên hay đã tốt nghiệp đại học, là những viên chức cán bộ đam mê đời sống quân ngũ, là những người chuyên môn trong các ngành nghề tự do. “Họ”, theo tiếng gọi quốc gia, tình nguyện vào các trường quân sự. "Họ", tuân lệnh chánh phủ, trình diện các trường quân sự. "Họ", là quân nhân hiện dịch, là quân nhân trừ bị, là quân nhân đồng hoá, là những nữ quân nhân. "Họ", là những chuyên viên, những chiến binh, những hạ sĩ quan, sĩ quan, tướng lãnh. "Họ" có mặt trong các quân chủng, binh chủng, binh sở, các cơ quan tham mưu, quân trường. Khi tổ quốc lâm nguy, "Họ" phụng sự tổ quốc, phục vụ dân tộc. Tất cả được gọi một cách thân thương trìu mến là "Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", những người lính trong một hệ thống tổ chức chặt chẻ, kỷ luật nghiêm minh là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa: Là Người Lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, ngày đêm quanh năm suốt tháng hơn 20 năm ròng rã, âm thầm, lặng lẽ, trấn giữ hệ thống giao thông và bảo vệ hạ tầng cơ sở. Là Người Lính Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Cách Dù, lặn lội vùng biên giới hoang vu để ngăn chận quân thù. Là lực lượng Giang Lực, canh giữ trên khắp miền sông rạch. Là Người Lính Không Quân, từ trên không đánh xuống. Là Người Lính Nhẩy Dù, từ trên không xuống đánh. Là Người Lính Hải Quân, từ ngoài biển đánh vào. Là Người Lính Thủy Quân Lục Chiến, từ ngoài biển vào đánh. Là Người Lính Bộ Binh, Người Lính Biệt Động Quân, đánh địch ngay trên bờ nam Bến Hải trong tầm đạn quân thù. Đánh địch dọc biên giới Tây Nguyên núi rừng rậm rạp. Đánh địch trên chót Mũi Cà Mau quanh năm ngập nước, trên biển cạn Tháp Mười, trong Rừng Sát sình lầy gai gốc, giữa đồng bằng trù phú Cửu Long. Đánh địch để giành lại từng góc phố của thủ đô, từng ngôi nhà giữa cố đô cổ kính, từng bờ tường của cổ thành Quảng Trị. "Họ" miệt mài với chiến trận, và mệt nhoài sau chiến trận. "Họ" đã đánh địch đến giây phút cuối cùng! Và "Họ", xứng danh là "Người Lính Việt Nam Cộng Hòa".
Image

Người lính Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hi sinh nhưng không được yên bình vĩnh cữu trong các nghĩa trang mà tổ quốc ghi công, vì quân cộng sản đào mồ cuốc mả. Là những chiến sĩ đã để lại một phần thân thể góp phần gìn giữ giang sơn, nhưng bị kẻ thù nhục mạ đọa đày. Là những quân nhân có vầng trán nhăn nheo với mái tóc già nua trước tuổi. Là những người tù chính trị bị cộng sản lưu đày trong các trại tập trung nghiệt ngã trên khắp miền quê hương đất nước, gánh phân người làm phân bón rau xanh, khiêng nước tiểu tưới lên hoa màu, nhưng "Họ" chỉ được ăn những cọng rau do phân và nước tiểu của "Họ" mà vươn lên. Để rồi nhiều người trong số "Họ", đã chết trong đau thương, đói khổ, nhọc nhằn!

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, khi rời đất nước lưu vong với hai bàn tay trắng, chỉ còn lại tình thương của vợ của con, của đồng hương đồng đội, che chở cho nhau nơi xứ người xa lạ.

Đó, là "chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", mà người phương Tây chưa thể nào nhận ra được. Bởi, họ chưa hiểu được chiều sâu của lịch sử và văn hoá Việt Nam, họ chưa hiểu được chiều sâu tính chất tráo trở lật lọng với bản chất độc tài tàn bạo của cộng sản Việt Nam, họ cũng chưa hiểu được chiều sâu của cuộc chiến tranh tự vệ về phía chúng ta. Do vậy mà người phương Tây chưa thể đánh giá được chiều sâu của cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Một cuộc chiến mà trong đó, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xua quân vượt biên giới xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa. Không thể nói khác được, dù cùng chủng tộc, nhưng hai quốc gia đều được thế giới công nhận với những tòa đại sứ thiết lập trên mỗi quốc gia. Quân của quốc gia này sang đánh chiếm quốc gia kia, ngoài chữ "xâm lăng" ra, không có chữ nào khác để chỉ hành động đó cả.
"Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa", hình thành "Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Một quân lực hình thành trong chinh chiến, rèn luyện trong chiến chinh, nhanh chóng trưởng thành trong chiến trận. Và từ trong chiến trận, đã tạo nên những chiến tích vang danh, những anh hùng được toàn dân ngưỡng mộ. Vào giờ thứ 25 của một giai đoạn chiến đấu, vẫn tạo thêm những anh hùng cho lịch sử đương đại của tổ quốc, “thành mất chết theo thành”. Vì vậy:

''Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa rất xứng đáng được vinh danh, dù ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã bị bức tử sau hơn 20 năm dũng cảm chiến đấu tự vệ, nhưng đã thể hiện cao nhất về khả năng và tinh thần chiến đấu nối tiếp dòng lịch sử vẻ vang của tổ quốc, thể hiện vẹn tròn đạo nghĩa và truyền thống bất khuất kiêu hùng của dân tộc Việt Nam”.



Houston, tháng 4 năm 2005
Bổ túc tháng 8 năm 2006

Phạm Bá Hoa
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Chiếc ống điếu thuốc lào

— Phan Nhật Nam
Chiếc xe đò vừa ngừng trước khu Chợ ABC, Đường Bolsa, Thành Phố Westminster, Nam Cali, đám hành khách vội vã bước lên. Mỗi người ngoài ghế cơ hữu sát cửa sổ thuộc những hàng ghế đầu, còn chiếm dụng thêm một chỗ ngồi bên cạnh như thể để giành cho thân nhân, người quen (sẽ cùng đi theo chuyến xe). Nhưng thực ra không là như vậy, mà chỉ do ý hướng muốn có thêm chỗ ngồi rộng rãi, trường hợp hành khách không mấy đông vào những ngày trong tuần. Xong, tất cả lại tuần tự bước xuống xe với vẻ mặt bình an, hài lòng như vừa thủ đắc được một điều hợp ý nguyện. Hoá ra những người Việt luôn cầu một nguồn vui. Ông khách nhận ra điều nầy khi chậm rãi lên xe tìm chỗ ngồi nơi những hàng ghế cuối. Thì ngồi đâu cũng được, rồi thế nào cũng tới, không cần gì phải vội. Ông hiểu ra và áp dụng điều đơn giản nầy như một cách khôn ngoan sau nhiều lần thất bại (cũng có tính tất nhiên, không thể nào từ chối, điều chỉnh) vào buổi cuối đời.
- Tôi có thể ngồi đây không? Ông chỉ vào chiếc ghế trống bên cạnh người đàn ông ước chừng cùng lứa tuổi.
- Bác cứ ngồi. Không có ai. Người khách đồng hành đáp gọn, sau khi xếp lại hai chân, nới rộng khoảng trống giữa hai người.
Khi đã yên chỗ, ông bắt đầu gợi chuyện do người kia có nét mặt bình thản, vui hoà; tóc hớt ngắn, động tác nhanh gọn của giới quân nhân, kẻ quen nghề chỉ huy, và sẵn lòng tuân lệnh. Ông có ngay nhận xét và tin vào suy đoán của mình. Cũng bởi, ông với họ vốn có những liên hệ sâu xa từ thuở xa xưa.
- Bác đi San José?
- Thì xe nầy chỉ chạy đến đấy. Người đồng hành trả lời mau mắn, tỏ ý buồn cười vì câu hỏi dư thừa, vô ích.
- Nó còn chạy đến Sacramento. Ông khách điều chỉnh.
- Chiếc khác chứ không là chiếc nầy. Đến San José, ai đi Sacramento sang xe nhỏ hơn. Người đồng hành giữ chắc ý kiến. Chiếc nầy chỉ tới San José thôi.
- Vậy bác thường đi xe đò nầy? Ông chuyển câu hỏi để tránh điều không cần bàn cãi. Cách né tránh của người ngại đụng chạm.
- Ông bạn tôi trên kia nói vậy. Tôi lên San José tìm ông ta sau mấy mươi năm. Người đàn ông tỏ ý muốn chấm dứt câu chuyện bằng cách ngó mông ra ngoài xe.
Đám hành khách lần lượt lên. Từ tốn, chậm rãi bởi tất cả đã giành sẵn những chỗ tốt (có thêm chỗ ngồi trống bên cạnh)... Mời cô bác lên xe, còn mười phút nữa xe chạy. Anh tài phụ nói to nhắc nhở; tài xế cho nổ máy, động cơ chạy đều, khí lạnh lan toả. Người tài phụ bắt đầu phát những phần thức ăn. Bánh mì kẹp thịt, chả lụa, hoặc xôi của hàng thực phẩm khô nổi tiếng, Lee's Sandwich.
- Xe chạy thì mở băng ca nhạc nghe chú. Mà phải là băng hài mới được! Một bà khách lên tiếng sành sõi. Phụ tài đáp nhanh.
- Có liền dì hai, để con chia bánh và nước xong. Ông khách có cảm giác gần gũi, ấm áp thân tình như đang sống lại sinh hoạt của những chuyến xe đò đi lục tỉnh miền Nam từ bến xe Petrus Ký Sàigòn ở những năm 60, trước khi chiến tranh trở nên nặng độ. Ông liếc sang người bạn đồng hành, muốn chia sẻ ý nghĩ, nhưng người nầy đã úp chiếc nón lưỡi trai lên mắt.



Xe chạy ra Xa Lộ 405 North, những rèm cửa che nắng kéo xuống, những màn ảnh ti-vi treo cao trước hàng ghế ngồi bắt đầu hoạt động. Đám hành khách chăm chú theo dõi, thỉnh thoảng rộ cười thích thú khi những vai hài bắt đầu màn lắc lư, nhún nhẩy theo điệu nhạc disco với y phục áo dài, khăn đóng cổ truyền người Việt. Ông khách muốn tiếp tục câu chuyện với người đồng hành vì nhớ lại câu nói "...mấy mươi năm nay không gặp...", cũng do đang nhìn lên màn ảnh vô tuyến với những vai nam, nữ vui nhộn, nên ông thấy lại cảnh tượng danh hài Thanh Việt ngồi rũ bên ly rượu trong quán Thanh Thế Đường Nguyễn Trung Trực Sàigòn sau ngày Ban Mê Thuộc bị Bắc quân chiếm đóng (10 tháng Ba, 1975). Hôm ấy, bộ râu đen dày của Thanh Việt không còn là nét sinh động kích thích cơn cười vỡ như mỗi khi anh nhếch mép, diễu màn vui trên sân khấu, hoặc màn ảnh, nhưng đã là dấu hiệu một sự sống đang dần bị đe doạ, suy hoại, vất bỏ... Thêm chiếc đầu cạo trắng loang lỗ. Thanh Việt sụp xuống thảm hại trông như bức tranh Anh Hề Thảm Thiết của Rouault (*). Hề thì vui thiệt, nhưng khi buồn thì hề trông tội hơn ai hết. Ông cũng nhớ món đồ chơi nhỏ nhận được (*) Rouault (1871-1958), Hoạ sĩ Pháp, nổi tiếng với những hoa phẩm mang đường nét mạnh mẽ, bi thảm, kỳ bí vào dịp lễ Giáng Sinh đầu đời lính ở quân trường. Một con lật-đật tượng hình thằng hề, và cảm giác hiu hắt khi mân mê hình thằng hề trên tay. Hình như sau đó mình gởi cái ấy kia về cho em - Đứa nhỏ không hề có đồ chơi từ tấm bé. Trí nhớ vụt chuyển qua một tình thế bất ngờ, ông không muốn nhớ thêm những điều khó khăn, nên quay mặt về phía người bạn đồng hành. Đúng lúc, người nầy cất chiếc nón lưỡi trai ra khỏi mặt.
- Bác dễ ngủ quá há! Ông nói bâng quơ làm như không để ý, và tiếp vào câu chuyện đang muốn theo dõi. Bác lên chơi trên ấy, bạn bè lâu lâu gặp lại chắc vui lắm. Ông nhấn mạnh chữ "lâu lâu gặp lại" một cách cố ý.
Người đồng hành có ngay phản ứng. Lấy đâu mà gặp lại, từ năm "bảy-lăm" tới giờ. Tính chính xác của người thuộc giới nhà binh càng được xác định. Ông khách cười thầm thích thú, tiếp tục câu chuyện với cách thân tình.
Ông hỏi không ngần ngại, ông đi HO mấy? Bác được chuyển qua ông một cách cố ý.
- Đúng là HO12, nhưng rốt cuộc cứ trầm trầy, trầm trật miết sau nầy mới đi RD4 ngang với HO22. Vi-xi chơi khó thiệt. Lời đánh giá mang ý vui khách quan chứ không là phê phán tức bực.
Được thúc dục bởi cách nói cởi mở, thẳng thắn từ người đồng hành, ông khách vào thẳng vấn đề muốn nghe đến. Vậy tại sao ông với ông ở trên San José không gặp được nhau; đi tù về, ông nào cũng chân trong, chân ngoài, phe ta tập trung suốt ngày trước công viên Dinh Độc Lập bàn chuyện đi Mỹ.
- Tôi đi tù về chưa bao lâu thì giả đã vượt biên, thêm cảnh vợ con quá kẹt nên tôi xuống làm rẫy dưới Suối Nghệ, Bà Rịa để có cái ăn, đâu lên Sàigòn gặp giả được. Gia đình tôi chạy từ Quảng Trị vào đó từ "bảy hai".
- Ông người Quảng Trị hay sao, tôi ở Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông khách bày tỏ cảm thông, gần gũi, bắt đầu với những địa danh miền Trung.
- Không, tôi người Bình Dương, dạy ở Búng, năm Mậu Thân bị động viên đổi ra Sư Đoàn I, gặp bà xã tôi ngoài đó. Bả là em của ông kia. Giả ngầu lắm, trong nhảy dù, mấy đơn vị bộ binh, thiết giáp ngoài Huế, Quảng Trị nghe đến tên giả ai cũng kính nể. Đây, tôi cho ông coi cái nầy. Người đồng hành mở chiếc xắc cầm tay để dưới chân.
Ông khách không ngờ được mau chóng dự phần vào câu chuyện, hăm hở nhìn xuống chiếc xắc đang được day day mở ra.
- Thấy chưa, cái điếu đẹp không? Người bạn đồng hành chuyển cho ông chiếc điếu cầy hút thuốc lào bằng ống tre vàng óng, đầu và cuối ống bịt vòng kim loại, thân ống chạm trỗ huy hiệu các quân binh chủng quân lực miền Nam. Nét khắc tinh xảo chứng tỏ người tạo hình có tính thẩm mỹ cao, và lòng nồng nhiệt yêu quý quân đội.
- Tôi cũng đã thấy nhiều ống điếu loại nầy, nhưng quả tình cái điếu nầy đẹp thật, khắc hoạ đủ hết các quân, binh chủng chiến đấu. A mà có đến cả huy hiệu đơn vị tiểu đoàn của bên nhảy dù. Ông khách nhận ra khi đọc đến lời trang tặng. Trung Tá Sông Lô, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. KBC 4919.
- Thì giả là tiểu đoàn trưởng dù mà. Nhưng cái điếu nầy còn cứu mạng được bốn ông thần liều nữa! Người đồng hành vuốt vuốt dọc thân ống như đang cầm vật linh thiêng, quý giá. Đáng lẽ tôi gửi trả bằng đường bưu điện, nhưng tiện dịp đi Cali, nên nay đem trả luôn tiện để gặp mặt giả. Ông ấy gởi người đem về Bà Rịa cho bà xã tôi giữ từ khi ra trại; ra trại là tính chuyện vượt biên liền. Một anh, một em, gia đình không còn ai. Để tôi kể cho ông nghe, bốn giờ chiều mới tới San José, bây giờ mới mười-hai giờ kém hai-mươi. Sự chính xác thời giờ được lập lại như bảo đảm tính thật của câu chuyện.
Sáng 29 tháng Tư, 1975, Trung Tá Lê Lô, danh hiệu truyền tin "Sông Lô", Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Dù, kiêm nhiệm chức chỉ huy Chiến Đoàn Đặc Nhiệm Số 7 gồm những đơn vị pháo binh, thiết kỵ do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III tăng phái có nhiệm vụ chận hướng tiến của những sư đoàn Bắc quân theo trục Xa Lộ Biên Hòa - Sàigòn. Danh xưng một chiến đoàn nhưng thật sự chỉ là những thành phần không còn hệ thống chỉ huy của Quân Khu III, nay viên tư lệnh quân đoàn giao hẳn cho lực lượng nhảy dù điều động vào những giờ phút cuối cùng của trận chiến. Sông Lô vừa chận địch vừa lui binh về gần Sàigòn với lời gầm quyết liệt:
"Thằng nào chết để tại chỗ, thằng nào bị thương sống được thì bò theo đơn vị. Không tản thương. Không tiếp tế. Không tăng viện. Không yểm trợ."
Mười giờ mười phút sáng ngày 30, khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, Sông Lô đứng trên cầu xa lộ nhìn suốt bình nguyên, những dãy đồi thấp từ Thủ Đức đến Biên Hòa, Long Thành qua những vị trí hằn sâu vào thị giác, lên khối não bộ. Trường Bộ Binh, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Dù, Nghĩa Trang Quân Đội Long Bình, doanh trại hậu cứ tiểu đoàn ở Tam Hiệp, và đằng xa phi trường Biên Hòa bốc khói mù. Mười hai năm kể từ ngày ra trường, ông đã sống với vùng đất nầy không một giờ khắc vắng mặt. Lê Lô thấy cái chết thực dần xâm chiếm từng phần thân xác một cách cụ thể. Ngày 15 tháng 6, 1975 cùng những người bạn lính, Trung Tá Lô đi trình diện cơ quan quân quản theo lệnh gọi tập trung cải tạo với thái độ bình tĩnh, thản nhiên. Không gia đình, không tài sản. Ông đã mất tất cả từ buổi sáng ngày 30 tháng trước, nay không còn gì để phải mất thêm. Tháng 6, 1967 Lô đến Sơn La với tâm trạng cùng đành sau chuyến đi địa ngục từ Tân Cảng, nơi chân cầu Sàigòn đến Hải Phòng bằng tàu Sông Hương. Năm ngàn con người ngồi nêm cứng trong hầm chứa than; đại tiểu tiện tại chỗ suốt hai ngày đêm di chuyển. Tiếp chuyến xe lửa từ Hải Phòng lên vùng thượng du xuyên miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong toa dùng chở than đá và súc vật nay đóng kín để nhồi nhét 200 con người xếp đứng, ép khít vào nhau. Chiều ngày 23 tháng 6, 1977, Nguyễn Lô đến ga Yên Báy với hơi người chết, phân, nước tiểu từ những thây người chung quanh lấm loét, đọng nghẹt hơi thở, dưới lớp da, sâu chân tóc. Từ tình trạng sống trong cảnh chết chịu đựng từ ngày trình diện đi tù tại Trường Lê Văn Duyệt, Gia Định suốt hai năm qua, nên khi qua phà Âu Lâu trên Sông Hồng vào hẻm núi Hoàng Liên Sơn, đi giữa hai hàng dân quân (gồm cả đàn bà, trẻ con) với những viên đá ném dày, tiếng chưởi không ngắt nhịp, Lô chấp nhận, đồng thuận với cái chết ắt sẽ đến như một điều tự nhiên, hợp lý nơi hẻm hốc núi rừng xa xôi u thẩm xa lạ nguy biến nầy. Thế nên, vào buổi học tập toàn trại do cán bộ chính trị cấp trung ương từ Hà Nội phái đến (phụ trách giảng huấn hệ thống trại cấp tá), Lô cáo bệnh, buông màn nằm ngủ. Ông bị dẫn giải đến giữa hội trường với lời chất vấn: "Tại sao anh trốn tránh học tập?" Trung Tá Lê Lô trả lời dứt khoát cụ thể: "Tôi chẳng có gì để học hết, các ông chỉ nói đi nói lại những điều đã nghe nhiều lần từ trong Nam. Tôi đã đem thân đi trình diện ở tù, các ông muốn làm gì thì làm." Lô bị tống giam vào nhà kỷ luật vô thời hạn với vị thế thân người kéo căng cứng bởi một hệ thống cùm đục thủng từ những khúc cây. Tay, chân, phần bụng đồng bị siết chặt giữa những vòng khớp gỗ sù sì thô nháp. Con người tênh hênh, trần truồng phơi trên nền đất nện với khí lạnh miền thượng du Bắc Việt đóng băng mờ kín ô thông hơi chắn nan tre tô đất sét. Hai tháng sau, trước mặt hội trường đông người ngồi im lặng để đợi nghe kiểm điểm, Lê Lô vẫn chắc giọng: "Tôi không có điều gì phải học. Cũng không có điều chi phải kiểm điểm."
Để áp dụng một biện pháp xét ra là khôn ngoan, trại viên Lê Lô được chuyển vào đội nhà bếp với điều kiện: Không được ra khỏi phạm vi khu vực nhà giam - Bởi ban giám thị trại đã hiểu rõ một điều: Hệ thống hàng rào trại, rừng núi Hoàng Liên Sơn, thượng du Bắc Việt không ngăn nổi ý định sẽ trốn trại của Lô đã hiện thực qua hành vi kiên trì không khuất phục. Những ngày bị giữ chân trong đội nhà bếp không hoàn toàn vô ích: Lô được anh em cựu tù nhân, những biệt kích quân hoạt động trên đất Bắc bị bắt giữ trước 1975 hết lòng bảo vệ và bồi dưỡng, ông lấy lại sức lực sau hai tháng nằm hầm kiên giam cấm cố. Hơn thế nữa, ông còn nhận được những chỉ dẫn cần thiết về địa thế rừng núi miền Bắc, đường đi qua Lào mà các biệt kích quân vốn quen thuộc từ thập niên 60. Và quan trọng nhất, ông có cơ hội lén lút tích trữ muối và ngô, khoai, sắn khô. Cũng trong dịp nầy, chiếc điếu hút thuốc lào được viên chỉ huy trưởng toán biệt kích (đang giữ nhiệm vụ trưởng toán nhà bếp) trao tặng với lời kính trọng: "Ông thầy rửa mặt cho tụi em! Ông thầy rửa mặt cho cả quân đội để chúng nó không thể coi thường anh em mình." Lê Lô nhận ống điếu, hút hơi mở đầu xong trả lại: "Cám ơn anh em, tôi giữ không tiện. Sau nầy sẽ hay, bây giờ không nên". Viên trưởng toán biệt kích dẫu không hiểu hết ý của Lô, song với phản ứng sắc xảo của người quen trận chiến bí mật, đơn độc, anh nhận lại chiếc điếu với lời cẩn mật: "Khi nào ông thầy muốn thì em đưa lại. Bây giờ em giữ cho ông thầy."
Một tháng sau, Lô vượt trại với bốn người bạn chiến đấu, hai trung tá, Khôi và Bằng; hai thiếu tá Hạnh và Thức (mà mỗi người lại là một câu chuyện kể khác). Vụ vượt ngục rúng động toàn bộ hệ thống trại tù miền Tây-Bắc và đã minh chứng: Người lính quân lực miền Nam có đủ ý chí cao hơn những đỉnh núi hiểm nghèo ẩn trong mây, vùng rừng nguyên thủy chưa hề có dấu chân người của hệ thống Hoàng Liên Sơn trùng trùng cao ngất từ Vân Nam đổ xuống. Người lính miền Nam có năng lực vượt qua nỗi đọa đày, hoàn cảnh lăng nhục thậm tệ được thực hiện một cách có hệ thống qua phân công những viên sĩ quan cấp tá vào đội trồng rau xanh mà không có một vật dụng canh tác nào ngoài hai bàn tay trần với những thúng phân người - Phân người được gọi bằng một danh từ chính xác - Phân Bắc.
Những người tù sống trong mối phấn khởi hãnh diện âm thầm ngày mỗi lên cao, khi qua hơn một tuần, ban giám thị trại, bộ đội an ninh canh gác dẫu đã phân công lùng sục khắp toàn vùng, đường lên Sơn La, Nghĩa Lộ, xuôi về đồng bằng, vẫn không tìm ra dấu tích toán vượt thoát. Nhưng đến tuần thứ hai, đám cán bộ, và vệ binh trại như được uống chất lên men cực mạnh. Bắt được chúng nó rồi! Bắt được chúng nó rồi! Những viên đạn súng tay bắn liên hồi trong lũng núi; kẻng trại đánh dồn; tập thể tù được lệnh bỏ bãi lao động, khẩn cấp tập trung vào hội trường chứng kiến cảnh nhục hình năm thân con người bị đánh dập bởi hai -mươi lăm cây nứa do một trung đội lính thay phiên trừng trị. Thân nứa đập vào thân người đến độ vỡ toang, bẹp dúm. Viên trưởng trại chắc giọng thách thức: "Các anh trông đó làm gương. Tôi đố các anh trốn được tai mắt nhân dân!" Ông ta nói thật, bởi toàn thể dân chúng trong vùng kể từ ngày năm người vượt trại đã ra đồng, vào rừng với cuộn giây thừng và ống tù và, vì họ được hứa hẹn: "Nếu bắt được năm người tù sẽ được miễn thuế nông nghiệp năm năm, thưởng năm mươi cân thóc, và năm lít nước có vị mặn gọi là nước mắm!" Tổng cộng số lượng hiện vật thưởng nếu tính ra tiền Mỹ không vượt quá vài đô-la lúc ấy hay thời giá hôm nay, đầu thế kỷ 21. Năm thân người, đúng ra năm chiếc thây bị kéo lê vào phòng kỹ luật, nay được khoét sâu trong sườn núi đợi ngày ra cột xử bắn. Nhưng sau vài tuần giam giữ, có đêm, toàn trại đang yên lặng như khối mồ lớn thì nghe ra tiếng gọi đùa cợt trao đổi từ những căn hầm kỷ luật.. Hê, hê.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Cố gắng! Cố gắng!.. Đường trường xa ta quyết đi cho tới cùng... Muôn đời Lục Quân Việt Nam...!
Buổi hành quyết được tổ chức nơi sân tập họp chính của trại. Trại viên được lệnh nghỉ lao động, thay đồng phục tù mới phát. Viên trưởng trại còn ra lệnh giết heo để ăn mừng thành quả cải tạo giáo dục của trại - Lá cờ đầu của phong trào Học Tập Tốt-Lao Động Tốt-Kỷ Luật Tốt của hệ thống bảy liên trại giam giữ toàn bộ Ngụy quân - Ngụy quyền miền Nam tập trung nơi đất Bắc. Năm quan tài được lệnh đóng khẩn cấp; trưởng trại còn có ý tốt "khoan hồng nhân đạo" nên cho lệnh chuẩn bị những chén cơm gạo tẻ (không độn ngô, khoai, sắn), và những cây hương để cắm lên quan tài sau khi hành quyết, trước khi đem chôn. Có người nhắc nhở với ông ta: Theo lễ tục người miền Nam, phải có quả trứng gối đầu đặt trên những chén cơm kia. Trại không nuôi gà, vịt nên không thể kiếm đâu ra những quả trứng, trưởng trại bèn có sáng kiến táo bạo: Lấy những quả bóng bàn thay thế quả trứng, chôn xong lấy bóng chơi lại! Sau khi đã chuẩn bị đủ "nghi lễ" cho cuộc xử bắn, năm tử tội được đưa ra trước hội trường để nghe tuyên án: "Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc... Xét bốn tiêu chuẩn của tập trung cải tạo, các tên Lê Lô, Trần Đình Khôi, Phạm Công Bằng, Trần Quang Hạnh, Chế Đức Thảo can tội ngụy quân... Không thành tâm hối lỗi, học tập lao động cải tạo; không chấp hành kỷ luật trại giam, âm mưu thực hiện trốn trại. Tuyên án: Tử Hình!"
Toán tử tội được dẫn đến trước những chiếc cột. Các anh có muốn nói điều gì không? Trưởng trại thoáng bối rối trước sự im lặng bình thản của năm người. Không một ai có dấu hiệu sợ hãi. Không có gì? Lô thay mặt các bạn trả lời (Bởi khi chấp cung, Lô đã xác nhận ông là người trách nhiệm độc nhất tổ chức vụ trốn trại). Nhưng đột nhiên, ông cười nhẹ... Nếu cho hút điếu thuốc lào thì tốt lắm! Trưởng trại trầm mặt nghĩ ngợi (không hiểu Lô có ẩn ý gì vì yêu cầu quá nhỏ nhoi, bất ngờ) trước khi chấp thuận. Lô biết ý, giải thích: "Tôi có cái điếu mới, gởi ở các anh BK (đọc là Bê-Ka, Biệt Kích), tôi muốn hút cái điếu đó một lần chót!"
- Có đây! Có đây! Thưa ban (Ban giám thị), chúng tôi hiện giữ cái điếu của anh Lô. Viên trưởng toán biệt kích mau lẹ đứng dậy từ đám tù ngồi chật hội trường.
Chiếc điếu được đưa tới, Lô cầm lấy ung dung. Mình chơi một điếu nghe mấy ông. Những người bạn đưa mắt nhìn nhau. Hạnh nói nhỏ chán nản: Hút làm gì Lô? Thì cứ hút đi, trước sau cũng chết! Lô ngồi xuống, cho thuốc vào nỏ điếu, châm cây đóm, kéo sâu hơi thuốc, thở khói lên trời. Ông cười nhẹ, đứng dậy, trao điếu cho các bạn. Làm một bi đi! Trung Tá Lê Lô nhìn quanh hội trường, đến với mỗi người tù, mặt ông không biến sắc. Ấp Bắc, 1963; Pleime, 1965; Cầu An Hòa Mậu Thân Huế, Tổng Công Kích đợt 2, Nghĩa Trang Người Pháp, Ngã Tư Bảy Hiền, Sàigòn, 1968; Hạ Lào, Động Ông Đô, Chu Pao, La Vang, Quảng Trị, 1972; Long Khánh, tháng 4, 1975.. Đoạn đường mười-hai năm một đời chiến đấu ông đi qua không một lần yếu đuối. Vậy coi đây chỉ là trận chiến cuối, trận không vũ khí, chỉ với những người bạn từng sống-chết, và những người bạn tù ngồi im lặng dưới xa. Lê Lô thở hắt như lần trái đạn 57 ly bắn tung chiếc chiến xa và thân hình ông trước Thánh Đường Đức Mẹ La Vang, nơi quê hương Quảng Trị, chiều tháng 7, mùa Hè 1972. Ngày ấy, cũng nắng như hôm nay. Nhưng nắng miền Nam ấm, vàng tươi, sáng rỡ hơn.
Có chiếc xe đỗ nhanh dưới lưng đồi, trước bộ chỉ huy trại. Bóng người chạy vội lên hội trường... Dừng lại! Dừng lại!
Lô tỉnh lạnh bảo Hạnh, Bằng, hai người bạn đứng gần. Cứ hút đi, đừng để ý làm gì.

***
Xe bỏ Tỉnh Lộ 152 nhập vào Xa Lộ 101, địa giới giữa Gilroy (thủ phủ tất cả sản phẩm tỏi của Mỹ) và San José. Người bạn đồng hành chấm dứt câu chuyện: Tôi phải đưa cái điếu tận tay ông ấy vì như vừa kể, nó cứu đến năm mạng người lận.
Ông khách im lặng, gật đầu đồng ý, nhưng thật ra có ý nghĩ khác: Có thể cán bộ cộng sản bày ra vụ xử bắn để hù dọa mà thôi. Bởi họ vốn rất tinh xảo dàn dựng nên nhiều "biến cố để đánh lạc cả lịch sử, lừa được toàn thế giới", chứ ăn nhằm gì vài trăm anh tù khổ đã bó tay hàng phục. Điều đáng nói là cách hút điếu thuốc trước cái chết của Sông Lô.

Phan Nhật Nam
(Mạch Sống Số 62 - 09/07)
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Cựu quân nhân thương phế binh, anh là ai?

Trần Quỳnh Lưu
Marcel Proust nói “Quá khứ không phải chỉ thoáng qua, nó vẫn còn tại chỗ”. Thật vậy, quá khứ luôn luôn tồn tại và đeo đuổi chúng ta, dù chúng ta có đi đến chân trời góc bể nào hay chúng ta có sống với bất cứ môi trường nào thì “quá khứ vẫn nằm nguyên đó, không mất” đôi khi nó còn là một ám ảnh trong suốt cuộc đời. Trong mỗi con người ai cũng đều có một quá khứ riêng để giữ và để nhớ. Có những quá khứ vinh quang để hãnh diện, để nhắc nhở với con cháu, nhưng cũng có những quá khứ bi thảm mà con người cố quên, càng cố quên nó lại càng hiện rõ, đậm nét như Marcel đã nói “nó vẫn còn tại chỗ”. Nó vẫn còn tại chỗ là hiện hữu của những “mảnh đời rách nát, cơ khổ”. Những mảnh đời đã bị thời thế, chủ nghĩa và con người ruồng bỏ thảm hại. Những mảnh đời “hôm qua còn nguyên vẹn, hôm nay bỗng dưng lại là người ăn xin” ngay trên chính quê hương mình. Quá khứ một thời đó đứng nguyên tại chỗ với tên gọi “Thương Phế Binh Miền Nam ” hiện diện mỗi ngày trên các đường phố. Bởi vì quá khứ của họ đứng nguyên vẹn tại chỗ cho nên họ là những người không có tương lai, con cái họ cũng thế. Tương lai có chăng là những miếng cơm thừa canh cặn của những quan chức Cộng Sản quyền thế, ác độc bố thí, ban phát. Cái họ cần là làm sao có được ngày hai bữa cầm hơi.
Chúng ta những người Quốc Gia Miền Nam đang sống trên đất khách quê người có còn nhớ đến họ hay không? Và nhớ đến họ với tên gọi Thương Binh bằng những tuyên dương chỉ có trên ngôn ngữ và những tổ chức vinh danh không phải để đánh bóng cái quá khứ bi hùng đã qua hay là vì cái gì? Có phải chúng ta đang sống chỉ để mà tưởng nhớ thiếu thực tế, chỉ cần lập ra cho họ một ngày Thương Binh là đủ trả hết món nợ máu xương hay nợ ân tình của những người lính muôn năm trước. Món nợ đó có phải chăng là một nghĩa vụ và trách nhiệm mà hầu hết quân dân miền Nam cần báo trả. Và trả bằng cách nào để cho những người thương binh được hưởng những ân tình của những người dân miền Nam nhớ ơn họ. Trả bằng cách nào và phải trả làm sao cho những người thương phế binh và con cháu họ không bị những đòn thù của Cộng Sản giáng xuống đầu thêm một lần nữa.
Thực sự, Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa có cần những người Việt hải ngoại tổ chức rầm rộ một ngày vinh danh hay họ chỉ cần giúp đỡ về vật chất một cách cụ thể, cách nào để họ nhận được sự trợ giúp đó mà không bị Cộng Sản làm khó dễ?
Rất nhiều câu hỏi cần phải được làm sáng tỏ.
Nhân chúng tôi được biết có một số anh em cựu quân nhân hải ngoại có ý định lập một ngày để “Vinh Danh Thương Phế Binh VNCH”.
Ðây là một vấn đề rất nhạy cảm. Xét cả về tinh thần lẫn pháp lý. Cả hai vế đều cần phải mang tính Chính Danh, nếu không như thế sẽ gây ra nhiều ngộ nhận và hiểu lầm, có khi gây thêm hiềm khích và chia rẽ. Do đó trong phần quan điểm này xin được nêu ra những dữ kiện với mục đích đóng góp thêm những ý kiến xây dựng và làm sáng tỏ những vấn đề lịch sử và không hề có ý công kích hoặc đả phá bất cứ một cá nhân hay một nhóm nào. Quan điểm này cũng chỉ muốn nói lên những hiểu biết về một vấn đề mang tính thời sự mà trước đây ít có người nhắc đến, hoặc vì họ thiếu quan tâm hay vì không được biết tường tận nên có những ý kiến làm ngược lại những gì đã có từ trước vì một dụng ý riêng tư hay vì một thúc đẩy nào đó từ những tham vọng cục bộ. Nếu những nhận xét sau đây thiếu chính xác, tôi xin được đón nhận những cao kiến của quý vị trong tinh thần tương kính và học hỏi.
Cựu Quân Nhân-Thương Phế Binh-Anh là ai?
Theo định nghĩa của Phòng Tổng Quản Trị/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Chiếu theo Huấn Thị Ðiều Hành Căn bản 230-600 về Tái Ðăng, Giải Ngũ được tu chính trong Ðại Hội Tổng Quản Trị/TTM năm 1971 và được Tổng Tham Mưu Trưởng, Ðại Tướng Cao Văn Viên ký ban hành (Huấn Thị Tái Ðăng-Giải Ngũ chỉ là một trong nhiều Huấn Thị được ban hành trong thời gian này) quy định thể thức Tái Ðăng và cho Giải Ngũ các quân nhân nằm trong các điều kiện như sau và những quân nhân này khi được giải ngũ sẽ mang danh xưng là cựu quân nhân.
1. Giải ngũ vì đáo hạn tuổi.
2. Giải ngũ vì bất khiển dụng và tàn phế vĩnh viễn do chiến tranh, sau khi được Hội Ðồng Y Khoa thuộc Cục Quân Y giám định mức độ tàn phế (chiếu theo tường trình ủy khúc và báo cáo tổn thất QÐ-22 của sĩ quan quản trị nhân viên và đơn vị trưởng, Hội Ðồng Giám Ðịnh Y Khoa sẽ chiếu theo báo cáo tổn thất này để phân định cấp độ tàn phế và cũng phải căn cứ trên hồ sơ bệnh lý của các quân y viện). Giải ngũ vì lý do này được gọi là “thương phế binh”.
3. Giải ngũ vì lý do thi hành xong nghĩa vụ quân dịch pháp định (thời bình).
4. Giải ngũ vì lý do kỷ luật (không được hưởng những quyền lợi dành cho cựu quân nhân).
5. Giải ngũ vì thâm niên cấp bậc quá lâu, trên 8 năm mà không được thăng cấp, đơn vị trưởng đề nghị thuyên chuyển về một đơn vị khác có bảng cấp số cao hơn để hội đủ điều kiện thăng cấp. Nếu vẫn không được thăng cấp, mặc nhiên sẽ được giải ngũ (điều khoản này được tu chính năm 1971).
Riêng quân nhân loại 2 không được giải ngũ, đương sự sẽ được thuyên chuyển về đơn vị chuyên môn không tác chiến.
Trước khi được giải ngũ, hồ sơ quân bạ do các trung tâm quản trị các quân khu và trung tâm quản trị trung ương tại Sài Gòn quản trị. Sau khi được giải ngũ tất cả các hồ sơ được chuyển về Bộ Cựu Chiến Binh. Do đó thương phế binh được nằm trong thành phần cựu chiến binh theo như huấn thị điều hành căn bản của Bộ Tổng Tham Mưu quy định.
Ngoài các huấn thị của quân lực, chính phủ Ðệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, nhằm nhớ đến công lao của những người đóng góp máu xương cho sự tự do, no ấm của đồng bào và đất nước. Ông đã ban hành luật Nhớ Ơn, Tương Trợ Cựu Chiến Binh và Cô Nhi Quả Phụ ngày 18 Tháng Giêng 1962. Và cũng kể từ năm này, chính thể Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa hàng năm đều tồ chức Lễ Ghi Ơn Cựu Chiến Binh, Thương Phế Binh và Cô Nhi Quả Phụ. Ngày 18 Tháng Giêng đã trở thành luật dành cho thương phế binh và nhằm vinh danh những người đã hy sinh một phần thân thể bảo vệ giang sơn, tổ quốc. Năm 1973 khi chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ban hành Luật Người Cày Có Ruộng, các thương phế binh trong ngày 18 Tháng Giêng 1973 đã xuống đường biểu tình với sự cầm đầu của TPB Nguyễn Rô, Chủ Tịch TPB/VNCH đòi thương phế binh có nhà (theo niên biểu lịch sử VN thời kỳ 1945 - 1975 của soạn giả Vân Phố Hoàng Ðống do Ðại Nam phát hành).
Căn cứ trên những tài liệu lịch sử đã dẫn chứng. Chúng tôi rất cảm thông với những tấm lòng của một số cựu quân nhân muốn chọn một ngày khác vinh danh cho thương phế binh đều không mang tính chính danh.
Nếu chúng ta còn mang danh xưng Việt Nam Cộng Hòa như là cựu quân nhân QLVNCH, thì chúng ta không nên chọn một ngày khác ngoài cái ngày mà hai nền Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa đã ban hành thành luật và đã từng tổ chức hàng năm để vinh danh thương phế binh và cựu quân nhân cô nhi quả phụ. Thực sự, nếu chúng ta còn một chút tấm lòng dành cho những người đã từng hy sinh một phần thân thể trên chiến trường đang sống cơ cực tại quê nhà. Một món “Nợ Máu Xương” chúng ta có nghĩa vụ phải đền đáp và chúng ta còn muốn mang danh xưng Việt Nam Cộng Hòa thì chúng ta nên giữ ngày lễ của VNCH đã có trước đây. Ðó là chưa muốn nói đến yếu tố tâm lý lẫn chính trị, nếu chúng ta cố tình chọn một ngày khác theo ý muốn của một số quân nhân (có thể vì tấm chân tình với những thương phế binh còn ở lại) thì sự chọn lựa này đều không chính đáng.
Chúng tôi cũng được nghe nói đến một lý do mà một số anh em quân nhân có ý muốn chọn ngày 16 Tháng Chín làm ngày vinh danh cho thương phế binh khắp nơi tại hải ngoại. Ðể đóng góp ý kiến cho vấn đề này. Xin được chia làm hai phần, thứ nhất nói về Tình, thứ hai nói về Lý (quân sử ).
Trước khi phân tích hai phần trên, theo sự nhận biết của người viết bài này. Có một số anh em cựu quân nhân muốn chọn ngày 16 Tháng Chín làm ngày “Vinh Danh Thương Phế Binh” vì theo luận cứ của các anh em này cho rằng 16 Tháng Chín là ngày Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến VNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị trong Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và theo họ, mức thương vong trong trận đánh này lên rất cao.
Có thật như vậy hay không? Tôi xin được trình bày như sau:
- Thứ nhất: Theo Tình thì đã là người dân VNCH, chúng ta luôn phải nhớ ơn những người lính Cộng Hòa Miền Nam đã xả thân vì đại nghĩa dân tộc, nhất là những người lính đã hy sinh một phần thân thể trên chiến trường. Họ là những thương binh bị bỏ lại và bị quên lãng trong một thời gian khá lâu, và đã sống trong một hoàn cảnh nghiệt ngã trong chế độ Cộng Sản chỉ biết có trả thù. Việc nhớ đến họ là điều cần thiết phải có, không những chỉ vinh danh mà còn phải giúp họ về vật chất để họ có thể sống chuỗi ngày còn lại trong sự biết ơn của đồng bào miền Nam. Ðây là nghĩa vụ của mỗi người, nhất là các vị chỉ huy của họ mà hầu hết hiện đang sống ổn định tại hải ngoại. Một món nợ “Máu Xương” mà tất cả nhân dân miền Nam thiếu họ.
Do đó, rất thông cảm với một số anh em cựu quân nhân có ý định phát động ngày ghi ơn các thương phế binh, nhằm cho mọi người nhớ đến những thương phế binh cùng khổ này. Việc làm này thật đáng khích lệ. Nhưng chúng tôi thiết nghĩ, như đã trình bày trong phần trên, mong các vị cựu quân nhân có ý định như thế nên nhìn vào thực tế đã có từ trước, như vậy có thể tránh được mọi ngộ nhận đáng tiếc có thể xảy ra làm phân hóa tiềm năng chiến đấu của người Việt Quốc Gia hải ngoại.
- Thứ hai: Nói về Lý thì trong quân sử do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH ấn hành nhận định tình hình của Trung Tâm Hành Quân Bộ TTM, trận tổng tấn công Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 do CS Miền Bắc phát động và tiến hành cùng một lúc trên 3 mặt trận, Kontum, Bình Long-An Lộc và Quảng trị cho thấy mặt trận Kontum và Quảng Trị chỉ là diện nhằm phân tán và xé mỏng các binh chủng ưu tú của quân lực VNCH. Mặt trận An Lộc mới chính là điểm vì các lý do sau:
Về Chính Trị: Nhằm áp lực với Mỹ ở thế mạnh trong lúc đang thương thảo về một hiệp ước ngưng bắn tại Paris (ký ngày 17 Tháng Giêng năm 1973 ) do đó, CS đã tung vào chiến trường An Lộc 3 sư đoàn chủ lực 5, 7, và 9 cộng với các trung đoàn chiến xa T-54, pháo binh cố chiếm cho bằng được An Lộc với mưu đồ dùng An Lộc làm thủ đô cho cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch, nhưng thực chất là con cờ của Hà Nội, do Hà Nội đẻ ra, với ý đồ chính trị như thế, và nhằm đánh tan âm mưu của CS, nên chính phủ VNCH và QLVNCH bằng mọi giá quyết giữ An Lộc.
Về Quân Sự: Bộ Tổng Tham Mưu đã tung vào chiến trường An Lộc 3 Sư Ðoàn Bộ Binh 5,18, 21, Trung Ðoàn 15 Sư Ðoàn 9, 3 Liên Ðoàn BÐQ, 2 Lữ Ðoàn Nhảy Dù, Chiến Ðoàn Xung Kích Quân Ðoàn III, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, các đơn vị Thiết Giáp, Pháo Binh v.v... Với quyết tâm và cường độ chiến tranh như thế, mức thương vong về phía QLVNCH được lượng định cao hơn 2 chiến trường Trị-Thiên và Kontum rất nhiều, do đó, tình trạng thương bệnh binh cũng hơn hẳn 2 mặt trận kia. Ðây là sự thật được viết trong Quân Sử và cũng được rất nhiều báo chí thời đó tường thuật rất tỉ mỷ, rõ ràng. Luận cứ dùng ngày 16 Tháng Chín 1972 chọn làm ngày vinh danh các thương phế binh, vì cho rằng trong mặt trận tái chiếm Cổ Thành, sự thương vong của các quân nhân dù và Thủy Quân Lục Chiến cao nhất trong Mùa Hè Ðỏ Lửa là không đúng sự thật. Giả dụ nếu chúng ta chối bỏ luật ngày 18 Tháng Giêng 1962 “Nhớ Ơn Cựu Quân Nhân, TPB và Cô Nhi Quả Phụ” do chính phủ VNCH ban hành, để chọn một ngày khác, thì nhất định phải chọn là ngày Giải Tỏa An Lộc chứ không phải là ngày Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị, đó là chưa nói đến yếu tố Chính Danh.
Thực tế, với cuộc sống khó khăn của các thương phế binh VNCH tại quê nhà, và với sự trù dập của chế độ Cộng Sản. Nếu chúng ta vẫn dùng các ngày lễ của VNCH, Cộng
Sản VN vẫn không có cái cớ để đàn áp anh em thương phế binh, cho rằng Cộng Sản sẽ không từ bỏ bất cứ một hành động nào nhằm đàn áp và bóc lột người dân trong nước. Cho dù chúng ta có tổ chức rầm rộ hay âm thầm trợ giúp thương phế binh, thì bản chất ăn cướp của Cộng Sản vẫn thế, không thay đổi. Có điều, những người Việt Quốc Gia vẫn còn tâm tình yêu thương những người lính Cộng Hòa, nhất là các thương phế binh đang sống trong nước, chúng ta nên chọn ngày mà chính phủ Cộng Hòa đã tuyên dương họ, bởi vì tự chính những người lính ấy đã được người dân Việt trong cũng như ngoài nước vinh danh họ lâu rồi! Họ vẫn sống trong lòng mỗi người dân Việt biết nhớ ơn và trả ơn! Nếu chúng ta có lòng nhớ đến những người lính bất hạnh ấy thì “Xin hãy trả họ về cái ngày mà lịch sử đã ghi công, ngày mà toàn dân miền Nam nhớ ơn họ, kể từ 18 Tháng Giêng 1962”.
Xin một chút thinh lặng trong nỗi niềm tri ân, và cũng bởi vì như Marcel Proust đã nói “Quá khứ không phải chỉ thoáng qua, nó vẫn còn tại chỗ”.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Người Lính Năm xưa
Năm 1979, sau khi ra khỏi trại tù ở Hương Mỹ của Việt gian cộng sản tại Bến Tre, tôi về quê quán ở Gò Công sinh sống. Một lần đi mua thuốc lá ở thị xã, bất ngờ tôi gặp lại người lính cùng tiểu đoàn 182 pháo binh, mà đã có thời gian mang ba lô đi theo nấu cơm cho tôi trong những lúc tôi đi đề lô cho các cánh quân bạn của chiến đoàn 52, sư đoàn 18.

Trong lúc bất ngờ nầy, anh sững sờ ôm chầm lấy tôi rồi la lên: “Trời ơi! Thiếu úy ơi! Sao ra nông nỗi vầy?” Anh lính nầy tên là Ðạt, còn rất trẻ và cũng rất dễ thương khi xưa trong đơn vị. Tôi chợt nổi da gà khi nghe có người gọi cấp bậc cũ của mình, trong vòng kiềm toả của cộng sản, một lời nói trái tai đều có thể mạng vong hay vào tù lao dịch. Tội nghiệp Ðạt không cầm được nước mắt khi thấy tôi mặc áo vá 9, 10 mảnh, cái quần nhà binh thùng thình, chân thì không có được 1 đôi dép, tay xách túi đệm, đầu trần ngoài nắng. Tôi ra dấu cho Ðạt đi ra xa xa chỗ vắng người. Hai thầy trò tay nắm tay, mừng mừng tủi tủi tâm sự với nhau và cùng rơi nước mắt trước tình cảnh bấy giờ.

Lúc chia tay, Ðạt móc trong túi anh ta tờ giấy 5 đồng của vc, bảo tôi đừng từ chối, để ông thầy uống cà phê mà! Tôi nghẹn ngào cầm lấy đồng tiền của Ðạt, nửa cảm động vì nghĩa xưa, nửa mắc cở vì tôi cần nó, thật ra tôi phải mất 2 ngày làm công (xay nước mía mướn) mới kiếm được số tiền nầy. Trước lúc khuất bóng sau bãi xe lam, Ðạt còn ráng nhắn với tôi một câu “Ráng nghe ông thầy, tụi em chỉ còn có mấy ông thầy mà thôi, đừng để tụi em thất vọng…!”

Ôi! câu nói của người lính nầy ám ảnh tôi cho đến bây giờ, 25 năm trời như giấc ngủ trưa, giờ tôi yên ấm xứ người… Đạt ơi! Tôi vẫn hẹn với lòng cố gắng trong khả năng mình để đóng góp cho ước nguyện của bao nhiêu đồng bào còn đang sống dưới ách cai trị nghiệt nghã, vô luân của bọn Việt Gian Cộng Sản trong đó có cả Đạt và gia đình. Đạt ơi! Tôi sẽ cố gắng hết sức mình.

Nguyễn Quân Nhân
Massachusetts, 2005
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 5 guests