Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Image

Câu chuyện một biệt kích Việt Nam Cộng Hòa
Phạm Phú Khải

Khắc đậm lời thề trên khép súng
Hẹn ngày trở lại nước nhà yên
Trần Thanh

Tôi từng có cơ hội tiếp xúc với các cựu quân nhân thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở mọi cấp tướng tá úy trước đây. Tôi cũng có cơ hội trao đổi với nhiều thành phần quân cán chính, kể cả những bác sĩ từng phục vụ trong Thủy Quân Lục Chiến. Những cơ hội này đã để lại nhiều ấn tượng đặc biệt trong tôi về tinh thần chiến đấu hy sinh, về tình yêu quê hương đất nước và cho con người Việt Nam, của người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Như đã từng chia sẻ trên Blog này, hiếm ai sống trên đời này mà không trải qua những chấn thương tâm lý hay cảm xúc (trauma) khác nhau. Người lính, dù được huấn luyện và trang bị đến bao nhiêu nữa, sự chết chóc hay thương tích trong mọi cuộc chiến tranh, hẳn sẽ ám ảnh họ mãi. Sự đụng độ và trải nghiệm càng nhiều, thì sẽ càng ghi sâu vào trong bộ óc của một người. Khi chấn thương quá nặng, khả năng bị rối loạn thần kinh, như Post-Traumatic Stress Disorder (PTSD), là khó tránh khỏi. Hình ảnh người dân bị giết chết trong chiến tranh, và các em bé mồ côi, còn ám ảnh mãi trong lòng nhiều người lính. Những người lính thuộc bên đồng minh như Mỹ, Úc v.v… có khi chỉ phục vụ hai năm rồi về lại nước, mà còn bị hệ quả của hậu chấn thương này. Còn những người lính Việt Nam Cộng Hòa thì phải phục vụ mãi, không có sự lựa chọn khi đất nước đang chìm trong khói lửa. Ngay cả khi chiến tranh chấp dứt, sự đầy đọa, trả thù bởi bên thắng trận vẫn chưa ngưng. Nhiều năm tù đầy. Mãi cho đến bây giờ, không còn tù đầy, nhưng vẫn tiếp tục bị bên thắng trận đầy đọa tinh thần, tâm lý. Người lính Việt Nam Cộng Hòa có bao giờ được nguôi ngoai, được có cơ hội lành lặn vết thương!

Mới đây, tôi đã gặp được một người lính Việt Nam Cộng Hòa thật là đặc biệt. Ông tên là Trần Thanh, cư ngụ tại Adelaide từ đầu thập niên 1980. Từ trước đến nay ông chỉ kể lại cuộc đời binh nghiệp của mình cho vợ con trong nhà nghe. Ông hiếm khi nào tâm sự với người ngoài. Có thể vì kể cho người khác nghe không phải là điều ai cũng cảm thấy thoải mái chia sẻ. Nghe vài mẩu chuyện ông kể về cuộc đời binh nghiệp, tôi mong muốn được viết lại câu chuyện này nhân ngày 19 tháng 6, ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thoạt đầu, ông không mặn mà lắm, mặc dầu ông có nói rằng ý tưởng ngồi xuống viết lại thành sách cho con cháu đã có trong ông từ lâu. Ông định vậy, nhưng cho đến nay, vì mưu toan cuộc sống, ông vẫn chưa thực hiện được. Khi biết tôi muốn viết về câu chuyện của ông, ông bảo rằng câu chuyện của ông cũng đâu khác gì câu chuyện của hàng triệu người lính Việt Nam Cộng Hòa khác. Công khó của hàng triệu người đều gian khổ, hy sinh xương máu, trong cuộc chiến. Ông may mắn còn chân tay lành lặn mặc dù những ngày vào đông, đầu ông vẫn giật lên những cơn đau từng hồi bởi những miểng đạn còn trong đầu.

Thuyết phục lắm, ông Thanh mới chịu đồng ý trao đổi cùng tôi.

Ông Thanh bắt đầu đời lính lúc còn rất trẻ. Ông chia sẻ:

Tôi sinh năm 1948, là con trai trưởng trong một gia đình khá giả ngoài Bắc. Tôi theo thầy mẹ di cư vào Nam năm 1954 và lớn lên tại xã Phước Tỉnh. Tôi tham gia đi lính vào lúc 17 tuổi. Khoảng năm tôi 20 tuổi, tôi lập gia đình, thì sau đó một năm, chúng tôi có được đứa con gái đầu lòng, sinh năm 1969. Các lực lượng tôi từng tham gia bao gồm Biệt kích Mike Force, tiểu đoàn 52, Biệt Động quân, Sư đoàn 25, rồi sau cùng là Biệt kích do Bộ Tổng Tham mưu chỉ huy. Toán Biệt kích của tôi thuộc Quân số 1, Bộ Tổng Tham mưu. Tôi phục vụ cho đến khi tôi 26 tuổi, thì bị bắt vào năm 1974.

Phạm Phú Khải: Ông đi lính lúc 17 tuổi, có phải vì ước nguyện của ông và được sự chấp thuận của ba mẹ ông vào lúc đó không?

Trần Thanh: Thành thật mà nói lúc đó tôi học rất giỏi. Nhưng một phần vì tôi giận thầy tôi, nên tôi muốn chọn con đường không còn bị ràng buộc bởi gia đình. Phần khác, tôi nghĩ trong hoàn cảnh đó, tôi không thể ngồi yên được khi đất nước đang dầu sôi lửa bỏng. Cho nên sự tham chiến của tôi cũng là điều khác thường. Tôi phải đi mượn giấy khai sinh của người khác, khai tên giả, tuổi giả, để tôi có thể được tham chiến. Khi tôi vào quân đội rồi, được phục vụ trong các binh chủng khác nhau, tôi cũng không hài lòng với những nơi này, nên lại tiếp tục mượn giấy khai sinh của bạn bè để nộp đơn xin được tuyển vào các binh chủng gây cấn. Binh chủng tôi phục vụ sau cùng là Biệt kích. Nhiều người biết đến tôi qua tên Trần Thanh, hoặc Mai Văn Kim.

Phạm Phú Khải: Vậy ông ở trong Biệt kích được bao lâu?

Trần Thanh: Tôi ở Biệt kích rất lâu, 6 năm tổng cộng trong cuộc đời binh nghiệp 9 năm. Vai trò của toán chúng tôi cũng đặc biệt. Chẳng hạn, lực lượng Trinh sát là đột nhập vào để quan sát tình hình, không được chạm súng, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng. Sau khi Trinh sát báo cáo tình hình, và trước khi đơn vị Hành quân vào, thì Biệt kích vào trước, để dọn đường và để giải quyết nếu có tình huống khó khăn.

Trong thời gian tôi phục vụ, đó là thời điểm dầu sôi lửa bỏng nhất. Hầu như đụng trận với bên địch 7 ngày trên 10 ngày. Có những đêm bị pháo đến nỗi máu tai máu mũi xịt ra. Không thể nào diễn tả được những tình cảnh như thế. Không cần nói về các vụ đụng trận, chẳng hạn khi đi hành quân, lúc phải đi vệ sinh chừng năm phút thôi là đã có cả trăm con vắt bu vào người. Nếu kể ra cho người không biết thì có thể nói mình nói bậy nói xạo. Vậy là thế nào? Tại vì Đơn vị 3 của chúng tôi đến ngay chỗ đó thì mới biết đó là cái rừng vắt. Còn đi hành quân qua miền Tây thì phải đi qua vùng sình lầy. Đỉa to bằng ngón tay. Nó bu cắn khắp người. Thật ra thì người lính trong quân đội không phải ai cũng trải nghiệm giống nhau. Cho nên, có khi mình trải qua và kể lại chưa chắc những người trong quân đội tin, nói gì người ngoài.

Phạm Phú Khải: Trong cuộc đời binh nghiệp của ông, điều gì làm cho ông không thể nào quên cho đến bây giờ?

Trần Thanh: Tôi từng chiến đấu nhiều mặt trận khác nhau. Nhưng nhớ nhất là mặt trận ở Phước Long. Vào khoảng tầm 4 giờ chiều, nơi đây bị hai trái bom bắn xuống cầu Đắk Lung, chết mấy ngàn người, già trẻ lớn bé. Toàn là dân thôi. Có những gia đình mà có ba bốn đứa nhỏ nheo nhóc, còn bố mẹ gia đình nằm chết dài dài. Thấy xác chết banh thây, không còn gì lành lặn hết. Vào cỡ 9 giờ sáng hôm sau, tôi nhìn thấy một bé gái, chừng 9, 10 tuổi, mặt tái mét, mặc áo nâu ngắn tay, quần đen, ngồi co ro ôm đứa em cỡ một tuổi. Nhìn thấy nó, tôi nghĩ đến con tôi. Tôi đoán con bé đã bế em nó suốt buổi chiều, và qua một đêm. Mà nhiệt độ vào lúc đó chỉ khoảng không độ, rất lạnh. Tôi hỏi bố mẹ con đâu, thì bé chỉ vào các xác chết nằm đó. Gia đình tám xác chết, bố mẹ nằm phơi thây. Con bé ngồi bế đứa em bị sứt mũi, máu me còn dính khô đầy trên mặt. Tôi bảo để chú ôm em cho con một chút thì đứa em dường như nghe thấy, nó vội ôm chặt lấy chị không chịu. Tôi bồi hồi xúc động khi con bé van xin: “Chú ơi chú, chú nuôi con với chú.” Tôi không biết nói sao, cứ ừ lúc đó. Con bé nói tiếp: “Chú nuôi em con nữa chú nhé”. Với tôi, thì cảnh lính chết khi lâm trận là bình thường. Nhưng cả gia đình chết, chỉ còn hai bé nhỏ, vô tội, lại nói với mình những lời như vậy, thì nó ăn sâu vào trong tâm trí, ám ảnh mình, không thể nào quên được.

Các mặt trận như suối Tàu Ô tại quốc lộ 13 (còn gọi là quốc lộ máu), xác Nhảy dù, Biệt Động quân, Thuỷ quân Lục chiến, v.v… nổi lềnh bềnh. Chuyện đó mình thấy thường trong cuộc đời binh nghiệp. Nhưng khi thấy dân làng và trẻ con như thế, sự kiện này cứ mãi ám ảnh tôi từ suốt 50 năm qua.

Phạm Phú Khải: Tinh thần đồng đội trong đời binh nghiệp của ông thì sao?

Trần Thanh: Toán Biệt kích tôi có bảy người, tôi là trưởng toán. Chúng tôi uống máu ăn thề với nhau.

Có những đêm khi xác của đồng đội mình chưa lấy về được, vì bên địch đang cách mình không bao xa, rất nguy hiểm để lấy xác về, thì tôi không làm sao yên giấc được.

Tôi còn nhớ tại Suối Tàu Ô, một người em trong đội tên Phát, to con như Mỹ, cao hơn 1.8m. Đang đi thì bị bắn, nó chết đột ngột quá, chết đứng luôn. Xong rồi Phát gục xuống. Nên đêm đến, tôi quyết định bò lên lấy xác.

Lợi dụng đêm tối trời mưa và giông bão, tôi vắt dây ba lô, dây giầy và dây võng, đủ dài, lấy nhiều sợi. Tôi bò lên một mình. Tay Phát lúc đó cứng quá, nó như gồng lên vậy. Tôi nói với Phát: “Em à, em gồng lên như thế thì anh không thể cột tay em được.” Nói xong thì tay Phát tự nhiên mềm ra. Người Phát cũng như nhẹ hẳn ra. Vì vậy, mặc dầu tôi là người Công giáo, tôi tin con người sống khôn chết thiêng.

Tôi cột xong thì tôi bò thụt lui để kéo xác Phát về. Tôi lấy được xác Phát về đêm đó.

Phạm Phú Khải: Tại sao ông lại làm điều đó, có ai ra lệnh chỉ huy không? Lúc đang làm thì ông nghĩ gì?

Trần Thanh: Tôi không nghĩ gì hết. Không ai bắt tôi làm cả. Lúc đó tôi chỉ nghĩ đến tinh thần anh em đồng đội và nhớ đến lời thề buổi ban đầu đồng sanh cộng tử. Chỉ nghĩ thấy anh em đồng đội mình bị vậy thì mình phải làm, vậy thôi. Phải lấy xác về.

Phạm Phú Khải: Trong cuộc đời binh nghiệp, ông có sợ không? Có sợ chết không?

Trần Thanh: Lúc bắt đầu nhập ngũ, thấy xác chết thì tôi cũng rất sợ. Nhưng sau một thời gian, vì nhiệm vụ của mình, vì không còn sự chọn lựa nào, nên cũng phải hết sợ thôi. Lâu ngày từ nhát thành gan dạ, từ sợ hãi lúc ban đầu khi thấy đạn bắn trên đầu mình 5, 7 mét, sợ hú vía, thì sau này, thay vì sợ, tôi tập lắng nghe tầm đạn nó bay cỡ nào để phỏng đoán, phòng ngừa. Học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm từ các mật khu như Dương Minh Châu, mật khu Hố Bò, Bời Lời, là những địa thế mà đất nó khô, có thể gài mìn, lựu đạn nhiều. Còn miền Tây đất ướt, không gài mìn được. Tuy nhiên, cộng sản nó cũng ghê lắm. Nó chờ cho mình qua bưng rồi nó phục kích, ở những chỗ hiểm nghèo.

Phạm Phú Khải: Ông có bao giờ bắt sống lính cộng sản không? Và nếu có thì cách đối xử của ông với họ ra sao?

Trần Thanh: Tôi đã từng bắt có lúc mười mấy người. Tôi còn nhớ trong người tôi có bao thuốc hút dở dang. Tôi đem phát cho mỗi người điếu thuốc. Tôi quan niệm rằng, người ta cũng vì hoàn cảnh, giống như mình ở bên này chiến tuyến, thì phải đi lính thôi. Trong sự bắt buộc, thì nếu là tôi cũng phải làm vậy. Phải bảo vệ tính mạng của mình và đồng đội thì nhiệm vụ mình phải bắn. Họ cũng thế thôi.

Tâm niệm của người lính VNCH là thêm bạn bớt thù. Không thể thù người lính. Thù là thù chế độ thôi. Không phải người đương đầu với mình trên mặt trận. Cho nên tôi phát thuốc cho họ. Hỏi thăm họ. Hành động đến từ con tim của tôi. Họ có vẻ xúc động lắm. Chính khi tôi phát thuốc cho họ, đơn vị đàn anh nhìn thấy tôi thì vẫn hài lòng hành động của tôi. Không phải tất cả, nhưng có thể nói, đa số người lính Việt Nam Cộng Hòa có tinh thần bao dung như thế.

Phạm Phú Khải: Những lúc đi hành quân như vậy, ông có nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ vợ con không?

Trần Thanh: Trong những lúc hành quân xa nhà, tối đến, ở những nơi rừng sâu nước độc, những nơi vắng lạnh, đèo heo gió hú, tôi nhớ quê nhà da diết. Hình ảnh thân thương cha mẹ, vợ con, anh chị em, cứ hiện ra. Bao nhiêu hình ảnh đó tràn ngập trong tim tôi. Ngay trong giấc ngủ, tôi vẫn nhớ gia đình khôn nguôi, thương vợ thương con. Phập phồng lo sợ sống nay chết mai, đời mình sẽ ra sao. Có chết toàn thây hay cụt chân như bạn bè mình v.v…

Cho nên có lần đi hành quân, đụng trận ở An Lộc xong, tôi được ra ngoài phố. Tôi có mang theo cây súng của mình. Tôi gặp một ông điêu khắc ngay tại chợ. Tôi nhờ ông khắc cho tôi câu thơ trên khẩu súng của mình:

“Khắc đậm lời thề trên thép súng
Hẹn ngày trở lại nước nhà yên”
Trần Thanh

Phạm Phú Khải: Khi ông bị bắt rồi, ông có bao giờ nghĩ ông sẽ có cơ hội sống sót để trở về với vợ con ông không?

Trần Thanh: Tôi còn nhớ như in, chuyến bay cuối cùng thả tôi đến Phước Long mang danh hiệu C123. Không ngờ đó là chuyến bay cuối cùng trong đời binh nghiệp của tôi.

Tôi bị bắt khi bò lên trên đỉnh núi Bà Rá. Mới lên chỉ một phần ba là bị bắn, nằm xỉu luôn. Tôi không nhớ rõ ngày tháng bị bắt, có thể là giữa năm 1974.

Khi tôi bị bắt, bị xiềng xích, đưa vào mật khu Bù Đốp. Không có cơm ăn. Chỉ có củ mì giã nát ra, trộn với chút gạo rang cháy, nấu lên, đảo với nhau, lăn ra cho dễ ăn mà người lính chúng tôi gọi là bánh xe lăn hoặc là bánh xe lãng tử. Rồi muối hột, trộn với gạo rang cháy pha vô cho có chút màu như nước mắm ăn cùng với bánh xe lăn. Trong những tháng đầu ăn như thế, mặt tôi như không còn tí máu. Tôi nghĩ tôi sẽ chết. Chết tại đó thôi. Vì ngày nào cũng thấy khiêng ra 7, 8 xác chết. Lúc đó vì bị hành hạ đối xử và vì ăn uống thiếu thốn, nên sức khỏe kiệt quệ. Có một đêm, tôi vừa rét vừa đói. Tôi thầm khấn nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa, nếu Chúa định cho con chết tại đây, con xin được chết lành; và xin Chúa cho vợ con của con biết rằng con đã chết ở trên đây.” Lúc đó tôi không nghĩ tôi có thể sống sót được. Hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ nghĩ mình sẽ chết thôi.

30 tháng 4, lúc đó tôi vẫn còn đang bị nhốt ở mật khu Bù Đốt, Phước Long.

Lúc được thả về, tôi mới hay rằng trước khi mất nước, vợ tôi đã lãnh tiền tử của tôi gần một năm trời, nên ai cũng nghĩ tôi đã chết rồi.

Phạm Phú Khải: Lúc ông tưởng mình sắp chết, ông không hề nghĩ là Việt Nam Cộng Hòa sẽ mất?

Trần Thanh: Đúng vậy. Khi tôi bị bắt, trong đầu tôi không bao giờ nghĩ Việt Nam Cộng Hòa có thể thua được Việt Cộng. Lúc đó là khoảng năm 1974. Tôi nghĩ lúc đó có thể bị thất trận, một mặt trận như tại Phước Long, bình thường thôi. Nhưng không thể nào thua cuộc chiến. Không bao giờ tôi nghĩ có thể mất nước. Không thể tưởng tượng, chứ đừng nói là nghĩ đến.

Tôi không thể nghĩ là cộng sản sẽ thắng miền Nam Việt Nam. Tại tôi từng chiến đấu, tôi biết khả năng của Việt Nam Cộng Hòa. Như trong mặt trận An Lộc, thiết đoàn của cộng sản gồm 100 chiến xa, ba công đoàn pháo, ba công trường chủ lực, tương đương với sư đoàn, như công trường 7, 9 và 325 thép và 3 trung đoàn pháo. Đánh An Lộc như vậy mà họ vẫn không lấy được. Hoặc cổ thành Quảng Trị, đánh bao nhiêu lần mà cộng sản vẫn không lấy được. Suối Máu, quốc lộ 13, họ vẫn không chiếm được. Còn Phước Long thì rất nhỏ so với An Lộc, nên không thể so sánh được. Phước Long có mất cũng chỉ là thua trận nhỏ thôi. Nên tôi luôn nghĩ mất mặt trận này là bình thường. Nhưng sẽ không bao giờ thua cuộc chiến.

Phạm Phú Khải: Nếu một ngày nào đó có cơ hội gặp lại những anh em từng sống chết với ông, thì ông sẽ nói điều gì với họ?

Trần Thanh: Cho tới giờ phút này, tôi vẫn còn thương nhớ về những đồng đội của tôi. Thằng Phước, thằng Long, thằng Bé, thằng Bẻng, thằng Phương, hiện giờ sống ở đâu, sống ra sao, trong khi chân cụt, tay cụt v.v… Trong toán thì có hai thằng cụt chân, hai thằng cụt tay, một thằng bể bụng ruột lòi ra mà tôi vừa chạy vừa vác theo, nhưng tôi biết nó vẫn còn sống, ít nhất là sau đó (Kim Hiền thì chết banh xác tại Phước Long và Phát, như đã kể trên thì chết tại trận An Lộc). Còn hiện nay, tôi không rõ các chiến hữu của tôi, các em tôi, ra sao. Tôi chỉ ước mơ làm sao gặp lại một trong những đồng đội này của tôi. Để nhớ nhau mãi trong cuộc đời binh nghiệp. Ước mơ đó không biết có thực hiện được không. Ai sống ai chết, tôi không rõ. Tôi cũng già rồi. Những điều này cứ hiện lại trong đầu tôi. Lâu lâu lại càng thấy nhớ da diết. Có những đêm, tôi vẫn gọi tên đàn em tôi trong giấc mơ.

Có một chuyện tôi nhớ vô cùng về đàn em của mình. Một lần ngồi ăn với nhau, các em ngồi dưới đất, nhường cái nón sắt cho tôi ngồi lên. Khi tôi ngồi trên nón sắt, ăn chưa được nửa chén cơm, thì bị một quả pháo ầm bên cạnh. 4 thằng em của tôi bị dính hết. Lúc đó đầu tôi đội cái nón bo, miểng pháo bay xuyên qua nón, xén một mớ tóc trên chỏm đầu mà tôi may mắn không bị hề hấn gì. Tôi nghĩ các em tôi phải chịu sự hy sinh vì tôi.

Cho nên, nếu nhận ra người từng sống chết với mình, đồng cam cộng khổ với mình, thì đầu tiên chưa nói được gì, ôm khóc trước đã. Bắt buộc thôi. Làm sao nói được. Bây giờ gặp bất cứ đồng đội nào, tôi cũng ôm khóc trước. Khóc cho đã rồi nói sau. Thương họ, như máu thịt của mình thôi. Tại vì ngày đêm sống chung nằm chung. Ở nghĩa địa, rừng sâu, núi thẳm, đều giúp đỡ lẫn nhau. Chia sẻ từng ly từng tí, từ đói no, mọi thứ. Có những đêm đói quá đi kiếm cơm ăn. Đào hầm đào hố trùm bạc ở trên để nấu miếng cơm ăn lót dạ. Nói không thể hết được. Nên tình nghĩa gắn bó sống chết có nhau.

Phạm Phú Khải: Ông muốn con cháu ông, người đời, nghĩ về ông như thế nào?

Trần Thanh: Tôi tự hào làm một người lính Việt Nam Cộng Hòa. Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải hy sinh gian khổ để chiến đấu cho sự sống còn của tổ quốc, gia đình, và chính bản thân tôi. Đối với riêng tôi, khi được hòa mình trong đời binh nghiệp rồi, dù trong bất cứ trường hợp hay hoàn cảnh nào, phải bền tâm vững chí chấp nhận mọi sự hy sinh gian khổ để làm tròn bổn phận của người lính. Phải chấp nhận thì mới hoàn thành được nhiệm vụ trong mọi khó khăn, hoàn cảnh, thử thách.

Tôi quan niệm rằng thời trai, trong hoàn cảnh đất nước loạn ly, nhiệm vụ và bổn phận của người trai là phải gánh vác trách nhiệm. Mình phải làm như thế để làm gương cho con cháu sau này. Các thế hệ mai sau hiểu rằng ông bà tổ tiên mình đã dầy công đổ mồ hôi nước mắt và xương máu bảo vệ từng mảnh đất giang sơn mà tổ tiên để lại. Như thế, sau này đất nước có lâm nguy, thì các thế hệ mai sau cũng cần phải có tinh thần như thế để bảo vệ từng tấc đất quê hương.

Phạm Phú Khải: Cảm ơn ông đã dành cho tôi cuộc trò chuyện đặc biệt nhân ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6. Mong chúc cuộc sống còn lại của ông được bình an và yên vui với gia đình. Hy vọng một ngày nào đó, ông có cơ hội ngồi xuống viết lại hồi ký về cuộc đời của mình, nhất là quãng đời binh nghiệp, để con cháu sau này hiểu rõ ông, hiểu về những người lính Việt Nam Cộng Hòa, và về lịch sử đấu tranh bảo vệ miền Nam.

Vài lời cuối: Gần 50 năm sau, ông Trần Thanh mới đồng ý công khai chia sẻ mẩu chuyện về cuộc đời binh nghiệp của mình. Tôi hiểu rằng những gì ông chia sẻ trong này, kể cả những lần đi hành quân tác chiến, tù đầy bởi cộng sản, hay dằn vặt vì trải nghiệm hậu chấn thương khi cơn đau đến, v.v… chỉ là một phần rất nhỏ và không đáng kể so với những gì đã xảy ra trong cuộc đời ông. Biệt tài, công trạng, huấn luyện (ông đã đậu thủ khoa hàng đầu trong khóa của mình về các bộ môn), nhưng ông không muốn chia sẻ nhiều lúc này. Tôi ước gì có thể viết lại, diễn tả hết được, cái bức tranh tổng thể đó, về con người ông. Những người lính Mỹ, lính Úc tham chiến Việt Nam, khi về nước, tuy bị đối xử bất công lúc ban đầu, nhưng sau này những công trạng của họ đều được chính thức ghi nhận. Còn những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu, và hy sinh, mà không bút mực nào tả xiết, nhưng cho đến nay lịch sử không đứng về phía họ. Viết lại câu chuyện của ông Trần Thành, và hy vọng những người khác, cũng là một trong những nỗ lực nhỏ nhoi để góp phần đem lại sự thật cho giòng lịch sử hiện đại của Việt Nam.
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tiendung »

đôi mắt mùa xuân

Phạm Tín An Ninh

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm. Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với dôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.

Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nược hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy đông trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!

Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Dăk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máyAluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đâp mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cữu.

Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.

Phạm Tín An Ninh
quangminh
Posts: 548
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by quangminh »

Image

Tuy Hòa – Một Thời Gió Cát
Phạm Tín An Ninh
Tôi không phải là người Phú Yên, cũng chẳng có mối tình nào gởi lại Tuy Hòa, nhưng dường như cái xứ có núi Nhạn sông Đà thơ mộng ấy đã mãi vương vấn tâm hồn tôi, in đậm trong ký ức tôi những mối tình đẹp, thật dễ thương của đám bạn bè, đồng đội, cùng bao kỷ niệm vui buồn một thời trận mạc. Khi ấy bọn tôi còn rất trẻ, đa số vừa mới rời khỏi học đường vài ba năm để bước chân vào nơi gió cát.

Ngày mang “sự vụ lệnh” về trình diện đơn vị tại Ban Mê Thuột, tôi và bốn thằng bạn cùng khóa cứ ngỡ cuộc đời mình sẽ dính liền với rừng núi của xứ “bụi mù trời” và “buồn muôn thuở”, chỉ còn biết nằm nghe tiếng chim kêu vượn hú. Ai ngờ sau hai tuần lang thang quanh quẩn trong con phố buồn hiu, ngắm mấy cô gái Thượng mang gùi đi xuống đi lên trên con đường A Ma Trang Long bám đầy đất đỏ, bọn tôi được ông Trưởng phòng 1 lái xe đi tìm chở về Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, vội vàng lấy balô quân trang, rồi đưa thẳng ra phi trường Phụng Dực, tháp tùng phi cơ của ông tư lệnh, đại tá Lữ Lan, bay xuống đơn vị đang hành quân tại Khánh Hòa, ngay vùng biển quê hương tôi.

Đơn vị tôi lúc ấy, chắc cũng thuộc loại đánh đấm có hạng nên được chọn làm lực lượng lưu động trừ bị cho Quân Đoàn. Nay đây mai đó.Trước khi di chuyển đến đây, đã có mặt khắp nơi: từ Bình Tuy, Bình Thuận, Ninh Thuận, đến Lâm Đồng, Quảng Đức…

Khi đến đơn vị, tôi rất vui. Vì ngoại trừ ông tiểu đoàn trưởng, hầu hết tất cả sĩ quan trong đơn vị đều trẻ măng, độc thân vui tính, anh nào “đàn anh” nhất cũng chỉ vừa rời ghế nhà trường năm ba năm. Ba anh trung úy đại đội trưởng đều dạn dày lửa đạn. Một anh tốt nghiệp khóa 16 VB Đà Lạt, hai anh khóa 13 Thủ Đức, một gốc Huế một gốc Bắc Kỳ di cư. Nhưng anh nào cũng đánh đấm rất gan lì và vui vẻ chịu chơi. Tôi được bổ nhậm về đại đội của anh trung úy gốc Huế nhưng lại thân thiết với anh trung úy gốc Bắc Kỳ, vì ngoài các đức tính khác anh còn có nụ cười và ánh mắt dễ làm “chết người ta”. Không biết có bao nhiêu “hồn (đã) lỡ sa vào đôi mắt…anh” rồi, nhưng tôi là thằng lính ngang tàng mà cũng phải lụy anh trong cái tình huynh đệ. Sau này và cho mãi đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn giữ cái tình “anh em tri kỷ” ấy. Đám trung đội trưởng tò te, ngoài tôi ra còn có bốn thằng cùng khóa 18 Thủ Đức với tôi, vài ba anh khóa 15, 17 và hai chàng khóa 19 VB Đà Lạt đầy phong độ, cũng vừa mới ra trường năm ba tháng trước. Tôi nhận trung đội với chỉ 25 thằng lính, nửa Kinh nửa Thượng. Ngay sau khi nhận trách nhiệm, công việc đầu tiên của tôi là dắt đám lính tráng vào QYV Nguyễn Huệ để dự đám tang, chào tiễn đưa ông Thượng sĩ già, trung đội trưởng tiền nhiệm ra nghĩa trang Đồng Đế. Ông vừa tử trận vài ngày trước đó trong một trận phản phục kích tại Tu Bông (Vạn Giã) và tôi đến trung đội để thay thế ông. Nhìn bà vợ và mấy đứa con của ông kêu gào, khóc la thảm thiết, tôi hình dung ra con đường thê lương trước mặt, và tự trấn an mình: mai này mình chết, may ra cũng không có tiếng quả phụ và trẻ thơ khóc lóc!

Thời ấy, nhờ ảnh hưởng kết quả của kế hoạch Ấp Chiến Lược còn sót lại, nên tình hình địch ở mọi nơi còn rất yếu, hầu hết là các lực lượng du kích và địa phương, nên bị tiểu đoàn chủ lực lưu động thiện chiến của tôi đánh cho tan tác. Do vậy chúng tôi đến đâu, cũng được các ông tỉnh trưởng đón tiếp nồng hậu. Sau hơn ba tháng theo đơn vị tiếp tục hành quân qua nhiều làng mạc, rừng núi và dẫm nát những mật khu Đồng Bò, Đá Bàn, Hòn Hèo của địch, đơn vị kéo về trú đóng trong một vườn dương bên bờ biển Nha Trang. Đám sĩ quan bọn tôi được ông tỉnh trưởng ưu ái dành cho bốn phòng trong khách sạn Phụng Hoàng, nằm trước ga xe lửa. Mệt và mất ngủ vì vừa trải qua cuộc phục kích đêm hôm trước, nên sau khi tắm rửa xong, tôi ngủ vùi một giấc. Thức dậy, nhìn ra ngoài, ánh đèn đường đã bắt đầu sáng. Mở ba lô tìm bộ quân phục mới để thay bộ quần áo trận còn dính đầy bùn lầy, cho hợp với khung cảnh phố phường. Dự định đi một vòng tìm lại những hang động tuổi thơ cùng dấu tích mấy mối tình học trò của vài năm trước, tôi bỗng nghe tiếng ông tiểu đoàn trưởng gọi tất cả bọn tôi lên xe trở về đơn vị, điểm danh sắp xếp lính tráng lên tàu Hải quân, đã ủi bãi ngay phía trước TTHL Hải Quân.

Ra khơi lúc 11 giờ đêm. Qua hơn một đêm lênh đênh trên biển, tàu cặp vào bến của Duyện Đoàn 24 HQ bên bờ biển Tuy Hòa. Trong số những người ra đón đơn vị chúng tôi, ngoài ông tỉnh trưởng- trung tá Trần Văn Hai, anh trung úy Duyên Đoàn Trưởng HQ, tôi còn bất ngờ nhận ra ông anh con bà cô, trung úy thuộc Tiểu Đoàn 23 BĐQ đang hành quân trú đóng ở đây. Từ khi anh vào quân đội, bao nhiêu năm anh em không gặp, bất ngờ lại nhận ra nhau ở một nơi xa lạ, vui mừng quá đỗi. Anh em vừa mới ôm nhau, hỏi han vài câu, thì đơn vị nhận lệnh lên xe di chuyển. Ông anh kéo tôi và mấy sĩ quan cùng đại đôi lên xe Jeep của anh chạy theo đơn vị. Về khu Nhà Bằng, vị trí đóng quân tạm, sắp xếp đơn vị xong, bọn tôi theo anh ra phố. “Moa đãi các toa một chầu để biết mặt Tuy Hòa – xứ nẫu”. Anh bảo thế trước khi lái xe đi.

Tôi bỗng giật mình khi nghe “xứ nẫu”. Cái tên “Nam Ngãi Bình Phú” và “Liên Khu Năm” vẫn còn hằn trong tâm trí tôi từ lúc mới lên năm, bởi cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra đây hơn ba năm khi ông là thầy giáo đang dạy trường Pháp Việt, và mẹ tôi qua đời trước đó hai năm. Kể từ ấy tôi sống với ông bà nội, thiếu vắng cả cái tình phụ mẫu.

Có lẽ đã phải trải qua những năm dài chiến tranh, nên phố xá Tuy Hòa ngày ấy còn “hoang sơ” lắm. Ngoài văn phòng Air Vietnam hai tầng và khu chợ mới xây dang dở, hầu hết là nhà cũ. Ông anh chở bọn tôi đến một cái quán nằm bên cây cầu, trên đường hướng ra Quốc Lộ 1. Tôi không còn nhớ tên, nhưng quán này nổi tiếng về món cá lóc nướng, và đặc biệt có mấy o Huế rất xinh. Để tránh tình trạng “tấn công nhầm mục tiêu”, ông anh tôi cho biết:

– Tuy Hòa có hai quán ăn nổi tiếng, đều có hai cô chủ “hoa khôi” gốc Huế, nhưng một quán đã có ông quan năm trung đoàn trưởng đóng đô, còn quán này là sào huyệt của ông chi đoàn trưởng Thiết Giáp có tiếng hào hoa.

Nhìn mặt thằng nào cũng buồn xo, ông anh tôi cười, an ủi:

-Yên chí đi! Tuy Hòa còn thiếu gì cô bé dễ thương. Trường trung học Nguyễn Huệ có biết bao cánh hoa biết nói, và mai mốt khi các toa ra vùng hành quân, sẽ có khối cậu chết mê chết mệt vì mấy cô gái quê! Bọn lính trong đơn vị moa thường kháo nhau: “Phú Yên đến dễ khó về” đấy!

Thấy trong đám bọn tôi có hai chàng khóa 19VB, ông anh cho tài xế chạy về đơn vị đón một anh cùng khóa 19 ra gặp bạn đồng môn. Hơn 20 phút sau, một thiếu úy BĐQ cao ráo đẹp trai đến nơi chạy vào tay bắt mặt mừng. Cái tình Võ Bị quả là thắm thiết. Anh được giới thiệu là ” Chương Classic” .Và để giải thích cái nick name của mình, anh mượn cây ghita của cô chủ quán, độc tấu mấy bản nhạc Tây cỗ điển. Ngón đàn của anh quả thật tuyệt vời!

Chỉ sau ba hôm ở thành phố, đơn vị tôi có lệnh di chuyển đi Hiếu Xương, đến đầu cầu Bàn Thạch để hành quân tái chiếm lại một vài nơi đã bị Cộng quân làm chủ tình hình. Ông tỉnh trưởng cũng đã cảnh báo đám sĩ quan trẻ chúng tôi:

-Ở vùng ấy nhiều gia đình có thân nhân theo VC, nên mấy chú phải cẩn thận, nhất là thấy mấy cô con gái đẹp đừng có vội nhào vô. Trước đây đã có một anh chàng sĩ quan đề lô Pháo Binh mết lòng con bé thợ may, hành quân xong cứ ra ngồi ngoài quán, cuối cùng không thấy trở về đơn vị nữa, mất tích luôn!

Đám lính trẻ bọn tôi “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên chỉ còn nhớ tới “mấy cô con gái đẹp” trong câu nói ấy của ông thôi.

Trung đội tôi được lệnh đóng quân giữ an ninh cầu Bàn Thạch và khu vực chung quanh. Cây cầu xi măng đúc đã bị VC giật mìn sập, nên vừa được Công Binh bắc cây cầu gỗ tạm. Cầu nằm gần chợ, và phía bên kia là vùng mất an ninh. Một tiểu đội của tôi nằm tiền đồn bên ấy. Ban chỉ huy trung đội và một tiểu đội bố trí ngay dưới gầm cầu.

Sắp xếp vị trí đóng quân và canh gác xong, đã gần 5 giờ chiều, tôi bảo mấy chú lính dọn cơm ăn, để tôi còn đi một vòng chợ tìm xem các cô gái có “đôi mắt người …Phú Yên” ra sao. Vừa mang mấy lon guigoz cơm ra, bốn thằng chúng tôi chưa kịp cầm đũa, thì một trái lựu đạn từ trên cầu rơi xuống. Một anh lính phát giác la lên, cả bọn kịp lăn mình qua bên kia tấm cầu đúc (bị sập xuống), nhưng trái lựu đạn không nổ! Chỉ năm phút sau, người ném lựu đạn bị toán lính của tôi bên kia cầu đuổi bắt. Đến nơi, tôi ngạc nhiên khi nhận ra, không phải một, mà là hai cô con gái quê, tuổi cỡ 14-15, một cô khá xinh, có đôi mắt đẹp. Cô bé này chính là người ngồi phía sau xe đạp, ném trái lựu đạn định giết tôi – chàng “lính trẻ hào hoa”, chỉ mới vài phút trước đây có ý định đi tìm… đôi mắt ấy. Đưa hai nữ “địch quân” đến trình diện ông tiểu đoàn trưởng. Thấy hai cô bé vừa run vừa khóc, mặt mày tái xanh, ông “tâm lý chiến”rất hay, vỗ vai hai cô bé, vừa cười vừa ôn tồn nói chuyện. Hai cô khai hết sự tình, nên được dẫn về giao cho gia đình, vừa “chiêu hồi” và cũng vừa cánh cáo, theo dõi họ. Một tuần sau, toán quân báo tiểu đoàn bắt được người đàn bà trong mũi công tác đã dụ dỗ hai cô bé làm giao liên và ném trái lựu đạn xuống cầu.

Chiều hôm sau, đơn vị có lệnh xuất phát cuộc hành quân bao vây và đánh chiếm kho vũ khí của địch tại Đa Ngư-Phú Lạc, nằm trên một khu núi đá sát biển, địa thế khó khăn hiểm trở và được phòng thủ rất kiên cố bằng nhiều ổ súng đại liên.Tin tức cho biết địch quân đã chiếm làng Thạch Tuân và khu vực Hảo Sơn hơn hai tuần nay. Bộ đội địa phương vừa tiếp nhận một số lượng lớn vũ khí từ miến Bắc chuyển vào khu núi Đa Ngư Phú Lạc bằng thuyền. Đơn vị tôi có trách nhiệm phải đánh chiếm kho vũ khí này và sau đó tảo thanh các khu vực địch trong vòng hai tuần để đưa một đơn vị Bảo An của Tiểu khu vào trấn giữ.

Đơn vị tôi được tăng cường Đại Đội 23 Thám Kích. Tất cả đều được trang bị mặt nạ chống hơi độc.Khởi hành từ tuyến xuất phát lúc 11 giờ trưa, mãi đến gần 3 giờ chiều chúng tôi mới đến khu vực mục tiêu, vì phải di chuyển qua những địa thế khó khăn hiểm trở để tránh bị phát hiện, gây yếu tố bất ngờ cho địch. Đại đội 3 của tôi đi dọc theo bờ biển đến phục dưới chân núi làm lực lượng án ngữ. Nỗ lực chính đánh chiếm mục tiêu là đại đội 23 Thám Kích và đại đội 2 của ông anh trung úy gốc Bắc kỳ. Không ngờ trận chiến lại khó khăn khốc liệt đến như thế, phải chia nhau từng nhóm nhỏ bò lên chiếm các hốc đá nằm bên ngoài căn cứ, bị địch phát hiện, cầm chân bằng đạn súng cối đủ loại và nhiều ổ súng đại liên. Vì đây là kho vũ khí, nên địch có đầy đủ các loại vũ khí và đạn dược. Cuối cùng phải nhờ đến phi yểm, mặc dù rất bất lợi vì trời chiều, sắp tối. Theo các trái sáng (cầm tay) được đồng loạt phóng lên đánh dấu vị trí bạn, cùng với sự hướng dẫn, chỉ điểm tài tình của anh phi công L19, hai phi tuần khu trục liên tiếp đánh bom rất chính xác xuống căn cứ địch, diệt các ổ súng đại liên, để lực lượng ta bám sát mục tiêu. Đại đội 23 TK và đại đội 2 của anh trung úy gốc Bắc Kỳ đánh đẹp một cuộc cận chiến, chiếm được căn cứ, một số tù binh bị bắt. Đại đôi 1 của anh trung úy Khóa 16VB kịp thời tăng cường bao vây và truy kích. Trận chiến kết thúc trước khi trời tối. Số chiến lợi phẩm thu được khá lớn, địch quân dự trù trang bị các loại vũ khí mới này cho các đơn vị thuộc Liên khu 5 của chúng. Tiểu đoàn kéo về Đông Tác dưỡng quân, được ông tướng tư lệnh Vùng và ông trung tá tỉnh trưởng đến thăm, mừng chiến thắng. Anh trung úy (nhiệm chức) gốc Bắc kỳ khóa 13 Thủ Đức được vinh thăng (điều chỉnh) trung úy thực thụ và tưởng thưởng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu. Anh trung úy khóa 16VB được ngôi sao vàng. Nhiều sĩ quan và binh sĩ có công cũng được trao gắn huy chương.

Ba ngày sau, được tiếp tế lương thực và đạn dược, tiểu đoàn trở lại Thạch Tuân. Chiếm lại ngôi làng nghèo này rất dễ dàng, cả đơn vị tiếp tục tiến quân vào Hảo Sơn, Đá Bia. Một khu vực núi non hiểm trở. Địch quân đã chiếm ngự các cao điểm trọng yếu. Trung đội tôi có lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị còn lại bung ra hai triền núi phía trước. Con đường độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn lối nào khác. Nhờ pháo binh bắn dọn mục tiêu, nên trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch quân vừa bỏ chạy, không kịp mang theo nồi cơm đang nấu và mấy cái võng nilon còn cột chặt trên cây. Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến quân hai bên triền núi. Trận chiến khá quyết liệt, vì địch quân đã có sẵn nhiều cái chốt trên các hốc đá nằm cao trên núi, bắn trung liên và ném lựu đạn xuống quân ta phía dưới. Trời đổ mưa như trút nước. Đại đội 1 của ông anh Khóa 16 VB là mũi tiến công chính. Dù ở thế hoàn toàn bất lợi, nhưng nhờ tài chỉ huy và điều quân gan dạ của chàng trai Đa Hiệu, cuối cùng cũng đã chiếm được mục tiêu. Địch quân tháo chạy, bỏ lại vài chục xác chết và trên mười khẩu súng. Bên ta, hai binh sĩ tử thương và vài người khác bị thương nhẹ. Trời tiếp tục mưa không dứt. Bóng tối đã bắt đầu phủ kín khu vực hành quân. Có lẽ lo ngại địa thế bất lợi cho một cuộc đóng quân đêm và địch quân có thể được tăng cường phản kích, nên cả đơn vị có lệnh khẩn cấp rút quân ra. Riêng trung đội của tôi phải nằm lại để yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin pháo binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra. Tôi đi theo cánh quân có lộ trình nguy hiểm hơn: theo con đường sắt. Nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ năm phút sau thì nhiều loạt đạn từ trên triền núi bắn xuống. Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân tôi, tóe lên nhiều đóm lửa. Có cả đạn súng cối. Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Cho người băng vội vết thương bằng các băng cá nhân, tôi vừa gọi xin tiếp ứng vừa xin pháo binh bắn cản hậu, rồi cõng anh lính bị thương rất nặng chạy nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm. Người tôi ướt đẫm cả máu, nước mưa, và có thể có cả nước mắt (cho người thương binh -không có chút hy vọng sống- của mình).

Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích trong làng lại bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây tứ phía, cả toán du kích không chạy kịp bị chúng tôi bắt. Xe tải thương không thể nào đến được vì không có an ninh lộ trình. Tối hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăn đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuồi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên với một nhạc sĩ tài hoa và khí khái mà sau này tôi mới biết.

Mục tiêu các cuộc hành quân đã hoàn tất, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh về đóng quân dọc theo Quốc lộ 1, từ ngã ba Phú Lâm đến hết Bàn Nham, Bàn Thạch. Trung đội tôi lại nhận lãnh cái cầu (gãy) Bàn Thạch, nơi mà tôi được cô gái Phú Yên đón chào bằng một trái lựu đạn nội hóa. Cứ vài ba hôm chúng tôi lại tổ chức các cuộc hành quân (có khi luân phiên từng đại đội có khi cả tiểu đoàn) ở Hòa Xuân, Hòa Thịnh, Sơn Thành, hay ra tận Ngân Sơn (Tuy An), Hiệp Mỹ, Tuyết Diêm, Hòa Phú, phía dưới đèo Cù Mông (Sông Cầu), giáp ranh Bình Định. Chấm dứt hành quân lại trở về “cứ điểm” Bàn Thạch. Lúc này con đường từ Bàn Thạch ra phố Tuy Hòa đã tương đối an ninh, nên những ngày không bận hành quân, bọn tôi được phép thay phiên nhau xuống phố Tuy Hòa. Cũng có những đón đưa trước cỗng trường Nguyễn Huệ, Bồ Đề. Cũng có những hẹn hò ngoài bãi dương, quán nước.Trong đám bọn tôi cũng vài thằng có những cuộc tình chợt đến chợt đi. Thì ra các cô gái Tuy Hòa trông dễ thương mà thương thì không dễ lắm. Lúc ấy, tuổi trẻ bọn tôi còn cao ngạo: “mấy thằng lính ngang tàng này thì dễ gì mà chết trong mắt em”!, nhưng khi cô đơn lại tự an ủi mình: “đời lính tráng như vậy mà vui, không nợ nần, không làm khổ một ai, vợ con làm gì cho vướng chân vướng cẳng!”, tránh cái cảnh như một ông nhà thơ sau này đã thốt lên lời bi thảm “anh trở về dang dở đời em”! Hồi còn trong lính, tôi ghét cay ghét đắng bài thơ được phổ nhạc này. Đám lính tráng về phép mà nghe được đôi lần, chắc nhiều thằng không muốn trở về đơn vị nữa. Nhưng bây giờ ngồi nghiệm lại, tôi thấy đúng, cho dù có chút đắng cay. Lính bị thương tàn phế, hay là lính bị đày ải trong tù “cải tạo” ngày trở về ít nhiều gì cũng đã làm dang dở đời em.

Dù vậy, trong đám bọn tôi cũng có ba chàng phá luật chơi. Một thằng, cùng khóa với tôi, yêu một cô bé học mới lớp đệ lục, nhà ở cạnh chợ Tuy Hòa, một tiệm bán đồ gỗ nhỏ. Bọn tôi cứ nhạo nó là “dụ dỗ gái vị thành niên” và “tiền lương của mày không đủ để mua gạo thúc cho nó lớn”! Vậy mà cuộc tình cũng gắn bó hơn một năm. Ngày đơn vị tôi từ giã Tuy Hòa, cô con gái ấy đã tốn khá nhiều nước mắt. Sau này dường như cô bé trở thành cô giáo, lấy chồng là một đồng nghiệp tốt nghiệp Sư Phạm Qui Nhơn. Thằng bạn của tôi được giải ngũ sớm vì cận thị nặng. Nó trở về tiếp tục sách đèn. Tốt nghiệp sư phạm Đại học Đà Lạt về dạy Triết tại vài trường trung học. Năm 1973, khi nghe bạn bè bảo tôi đang nằm dưỡng thương ở QYV Nguyễn Huệ Nha Trang, nó từ đâu tìm đến thăm. Khi nhắc tới thời lính tráng ở Phú Yên, đôi mắt nó sáng lên, bảo là nó vừa bất ngờ gặp lại cô bé Tuy Hòa ngày xưa, khi cả hai cùng làm giám khảo và giám thị một cuộc thi Tú Tài ở trường Nguyễn Huệ hay Cường Đễ gì đó. Nó cười, nhưng đôi mắt nó lại mơ màng nhìn về một nơi nào đó … xa xăm!

Một ông đàn anh khóa 14 Thủ Đức của tôi, SQ/CTCT Tiểu Đoàn, vốn tu xuất và bị động viên khi đang dạy ở một trường La San Taberd nào đó, lại vướng vào lưới tình của một cô giáo Bàn Thạch. Là con một của bà già góa bụa. Cô giáo có nhan sắc và hiền lành, cười nhiều hơn nói. Có lẽ lớn hơn tôi một vài tuổi. Chị tỏ ra rất thân tình với đám lính trẻ bọn tôi. Chỉ một thời gian, chúng tôi xem nhau như người nhà. Khi nào chán cơm lính, bọn tôi rủ nhau ra chợ mua thịt cá rồi kéo đến nhà chị để nhờ chị nấu cơm, rồi cùng nhau ăn uống và đàn địch ca hát cả ngày. Ông đàn anh “tu xuất” của tôi vốn làm thơ tình rất hay, đàn ca có “trường lớp” lắm. Nghe nói trước kia anh làm trưởng ca đoàn trong mấy nhà thờ. Anh thường đệm đàn cho cô giáo hát bài “Chuyện tình Lan và Điệp”. Giọng hát Phú Yên cũng não nùng ai oán lắm. Đặc biệt phía sau nhà có cái giếng nước rất trong, nên chúng tôi thường ghé vào tắm rửa sau các lần hành quân trở về. Sau này, ông đàn anh thuyên chuyển về Vùng 4 trong Nam.

Mãi đến năm 1980, tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù ngoài Bắc. Ngạc nhiên và thú vị khi nghe anh kể là anh vẫn còn độc thân, và cô giáo Bàn Thạch ngày xưa giờ cũng chưa chồng. Điều làm tôi sững sờ hơn là ông bố của cô không chết mà tập kết ra Bắc năm 1954. Sau 75 về lại Phú Yên và giữ một chức hàm khá lớn. Cô giáo bây giờ không làm nghề giáo nữa mà đang là một cán bộ, chủ nhiệm hay trưởng phòng gì đó của chính quyền CS. Anh còn khoe là cô giáo thường gởi quà cho anh, và còn cho tôi đọc ké mấy lá thư cô ấy viết, bảo là sẽ ra thăm anh, cũng như hứa hẹn bảo lãnh cho anh về Phú Yên, nếu anh thấy lo lắng không muốn trở về quê quán Mỹ Tho, và nơi ấy anh cũng chẳng còn ai, sau khi bà mẹ già đã mất. Nhưng không thấy cô đề cập đến chuyện “nối lại tình xưa”. Tôi ngại, nên cũng không dám hỏi anh. Cuộc tình “giữa hai chiến tuyến” này liệu có làm cho con tim thắng được tất cả mọi giáo điều chủ nghĩa, để vượt qua bao hận thù, tang tóc? Rất tiếc, tôi không tìm được câu trả lời này. Vì mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp lại anh ấy, mặc dù tôi đã nhắn tin và tìm hỏi rất nhiều bạn bè sang Mỹ theo diện HO. Đôi lúc, nghĩ về họ, tôi hình dung đến một đôi vợ chồng già sống hạnh phúc trong ngồi nhà ngói xưa ở Bàn Thạch, có khu vườn và cái giếng nước trong, anh đàn em hát; hay đang cùng quì xuống cầu kinh trong một ngôi nhà thờ nào đó. Cô giáo hiền thục ngày xưa không thể nào trở thành một “nữ đồng chí CS” thứ thiệt được, chắc cũng đã sớm nhìn ra cái lý tưởng hoang đường mà ông cha của cô đã mê muội theo đuổi, để đành lòng bỏ lại mẹ con cô một thời góa bụa cút côi, giờ chỉ còn lại bao hệ lụy đau lòng. Có thể cô đã từ bỏ mọi chức tước (nhờ vào thành tích”phấn đấu”của cha), để cùng người tình xưa – người lính khác chiến tuyến với cha cô – sống trong hạnh phúc bình thường. Cầu mong những người con gái Phú Yên, dù hoàn cảnh nào cũng luôn giữ trọn mối tình xưa.

Đặc biệt nhất, và cũng gắn bó nhất, chính là chuyện tình của ông đàn anh Khóa 13 gốc Bắc Kỳ, có nụ cười và đôi mắt dễ làm ” khuấy động trái tim người… ta” mà chúng tôi đã kết nghĩa anh em. Đại đội của anh là đại đội đánh đấm khá nhất, nên được ông tiểu đoàn trưởng tin tưởng, giao cho đóng quân và phụ trách vùng đất bất an nhất: từ phía nam Bàn Thạch đến tận làng Thạch Tuân, tiếp giáp Đèo Cả, ranh giới cuối cùng phía nam của tỉnh Phú Yên.

Ban chỉ huy đại đội đóng quân sau khu vườn của một ngôi nhà ngói lớn hai tầng duy nhất ở vùng này. Đối diện phía bên kia, sau con hương lộ, là ngôi trường tiểu học. Ông bà chủ nhà thuộc hàng khá giả, vừa làm chủ một cửa hàng tạp hóa ở tầng dưới, vừa làm nước mắm ở khu nhà sau. Một ngày cuối tuần, anh rủ chú lính cận vệ ra giếng tắm. Thầy trò chỉ mặc quần xà lỏn huýt sáo nhởn nhơ, bất ngờ gặp hai cô gái đang ngồi giặt áo quần bên thềm giếng. Sau khi bớt ngượng ngùng, hỏi ra mới biết là con ông bà chủ nhà, học ở Tuy Hòa, cuối tuần về thăm cha mẹ. Có lần tôi ghé lại thăm anh, được ông bà chủ nhà và hai cô con gái mời hai anh em tôi dùng bữa cơm thịnh soạn. Ông anh Bắc kỳ hào hoa nhưng rất kín miệng. Nhìn ánh mắt tôi biết là anh đang mết cô chị. Cô em còn bé lắm. Ông bà già mua hẵn một ngôi nhà khá khang trang ở phố Tuy Hòa, gần trường Nguyễn Huệ cho hai cô và một ông anh trú ngụ học hành. Là anh em kết nghĩa, vậy mà cuộc tình của anh, tôi không biết mặn nồng đến đâu. Chỉ biết lâu lâu anh lái xe bỏ bọn tôi xuống phố Tuy Hòa, lì xì vài chục uống bia, rồi phóng xe đi một mình. Đúng hẹn ghé đón bọn tôi với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi.

Hơn một năm từ ngày đổ quân xuống Tuy Hòa, cũng vào một ngày hè nắng cháy, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi Phú Yên, bàn giao trách nhiệm lại cho Trung Đoàn 47 biệt lập từ Bình Tuy ra để sáp nhập vào Sư Đoàn 22BB, mà bản doanh Bộ Tư Lệnh đóng ngoài Bình Định. Đơn vị tôi cùng chi đoàn Thiết Quân Vận của ông đại úy tài hoa Bùi Thế Dung, lại lên tàu há mổm xuôi nam, đổ quân xuống Phan Thiết.

Ông đàn anh Bắc Kỳ của tôi sau này lên làm tiểu đoàn trưởng, đánh thắng một trận lẫy lừng tại Căn Cứ 6 Pleiku đầu năm 1971, đươc ông Tướng Vùng gắn lon thiếu tá đặc cách tại mặt trận. Sau đó được ông tỉnh trưởng Ninh Thuận (vốn là cựu trung đoàn phó của chúng tôi khi còn đóng ở Phú Yên) xin đích danh anh về Phan Rang làm quận trưởng. Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thiệp hồng của anh mời đám cưới. Tôi ngẩn người khi đọc thấy tên cô dâu chính là cô hoc trò, con bà chủ quán ở Bàn Thạch ngày xưa, nơi anh đóng quân sau vườn nhà 6 năm về trước. Đến bây giờ tai tôi vẫn còn văng vẳng dư âm Bài Không Tên Số 2, với giọng hát Phú Yên thật nồng nàn cảm xúc, chị đã hát tặng bọn tôi ngay sau ngày đám cưới. Phải chăng ” đời một người con gái (Tuy Hòa) ước mơ rất nhiều, nhưng trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn một mối tình mang theo”?

Điều trùng hợp lý thú là năm 1976, khi bị chuyển tù ra Bắc, anh và tôi lại gặp nhau, ở chung một trại. Anh em thường gặp nhau tâm sự. Trong cảnh tù đày khốn khó, tình anh em gắn bó như xưa. Mỗi lần chị ra thăm nuôi anh đều mang theo thêm phần quà cho tôi. Có khi chị giả vờ đi lại trên con đê trước nhà thăm nuôi, biết chúng tôi sau một ngày lao động sẽ được về tắm giặt ở bên con đê ấy, để dúi vào tay tôi mấy tờ giấy bạc. Lòng tôi cảm động. Không ngờ cô con gái hiền lành ở vùng quê Bàn Thạch ngày xưa ấy, sau ngày chồng vào tù, đã dắt ba thằng con trai, mà đứa nhỏ nhất chỉ mới tròn 2 tuổi, vào Sàigòn bươn chãi nuôi con, tạo dựng được cơ ngơi nơi vùng đất lạ xô bồ phức tạp này. Và với chúng tôi, còn là một người bạn, người chị chí tình.

Anh chị sang Mỹ theo diện HO. Mang theo kinh nghiệm từ Việt Nam, chị sớm vào nghiệp bán buôn. Chỉ một thời gian ngắn gia đình khá giả. Ba đứa con trai đều thành đạt. Cháu trai út ra bác sĩ, cháu giữa làm luật sư, còn cháu lớn là kỹ sư, nhưng sau này đã trở thành một mục sư đi rao giảng đức tin Thiên Chúa.

Ngày đám cưới cháu trai thứ nhì, vợ chồng tôi sang tham dự. Bạn bè cùng đơn vị xưa từ khắp nơi cũng qui tụ về đây. Bất ngờ gặp một nhóm đồng môn Nguyễn Huệ của chị. Một cuộc hạnh ngộ thật kỳ thú. “Phe anh phe chị”. Chúng tôi biết thêm một số người đẹp Tuy Hòa xưa.

Đám đàn bà ngồi nhắc tên những thầy bạn cũ. Đám đàn ông bọn tôi ngồi điểm danh lại những thằng bạn lính, từng in dấu giày saut trên vùng đất Tuy Hòa thuở trước. Giờ cũng chỉ còn có hai thằng: ông anh gốc Bắc kỳ và tôi. Một số đã chết trong chiến trận: Trương Ngọc Điệp, anh trung úy gốc Huế, đại đội trưởng đầu tiên của tôi ngày ấy, đã chết tại chiến trường Thiện Giáo (Phan Thiết) sau hơn một năm rời khỏi Tuy Hòa, và sau đúng hai tuần cưới vợ, một cô giáo Ninh Hòa gốc Huế. Vài tháng sau, ông anh Thái Hữu Dư, khóa 16VB, bị thương nặng trong một trận phản phục kích rất hào hùng tại Lâm Đồng, được thuyên chuyển về Vùng 4 sau khi xuất viện. Đặng Trung Đức, khóa 19 Đà Lạt, người bạn rất thân với tôi, tử trận tại Kontum trong “mùa hè đỏ lửa” khi đang làm tiểu đoàn trưởng. Trần Công Lâm, thằng bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi, trước khi nắm tiểu đoàn từng là một đại đội trưởng trinh sát lừng danh của Quân Đoàn II, cũng đã bỏ mình tại vùng Tây Bắc Kontum, trên dãy núi Ngok Wang đèo heo gió hú. Vài thằng giải ngũ vì thương tích. Số còn lại thì bị tù đày rồi tản mát khắp bốn phương trời! Nhưng dù còn sống hay đã chết, có lẽ thằng nào cũng mang theo ít nhiều bóng dáng và giọng nói của các cô gái Tuy Hòa, cùng bao kỷ niệm hào hùng, dễ thương của một thời trai trẻ.

Ngày rời khỏi Tuy Hòa năm ấy, đơn vị tôi cũng đã mang theo một số cô dâu Phú Yên xinh đẹp. Tôi còn nhớ mãi những khuôn mặt thật xinh xắn, làn da trắng nõn nà của các cô bé ở Ngân Sơn (Tuy An), bẽn lẽn “hóa trang”làm lính, xúng xính trong bộ quân phục của chồng, đầu đội cả nón sắt, lội nước leo lên tàu Hải Quân, sợ những người chỉ huy chặn lại không cho phép. Nhưng ông tiểu đoàn trưởng đã biết trước, bảo nhỏ đám chúng tôi cứ làm ngơ cho họ được “tùng phu”, khi biết chắc đây không phải là “mỹ nhân kế” của địch, và biết đâu đơn vị lại được thêm vài tay súng, những “người lính không có số quân“!

Ông trung tá trung đoàn trưởng cao lớn bô trai của tôi cũng đã mang theo cô chủ quán hoa khôi gốc Huế nổi tiếng một dạo ở Tuy Hòa. Ông đại úy Thiết Giáp hào hoa thì xuống tàu một mình. Sau này lên đại tá, trở thành thiết đoàn trưởng chiến xa lừng danh Vùng I, và đã rước cô ca sĩ Hà Thanh của xứ Huế về dinh.

Riêng tôi, rời Tuy Hòa, không vương vấn mối tình nào, nhưng lại mang theo một cậu con trai 15 tuổi. Thời gian đơn vị hành quân ở Phú Lâm, tôi đóng quân sau nhà chú bé. Từ đó chú bé cứ theo mấy chú lính của tôi và năn nỉ xin tôi nhận cho vào lính. Học tới lớp nhì thì cha chết, bà mẹ theo người chồng mới vào Cam Ranh hơn một năm sau. Chú bé ở với vợ chồng ông chú, vừa nghèo vừa đông con, lại bị bà thím hất hủi. Tôi động lòng thương nên thường cho lính gọi đến ăn cơm chung, và lâu lâu lì xì chút tiền lẻ. Chú có khuôn mặt khôi ngô, tình tình lễ phép, gọi tôi là anh ba, và khóc lóc năn nỉ nhất định xin đi theo tôi, dù góc bể chân trời nào. Vào Phan Thiết, tôi kể cho ông tiểu đoàn trưởng nghe hoàn cảnh đáng thương của nó, ông chở tôi và nó đến một văn phòng xã làm giấy khai sanh, tăng thêm đủ tuổi để nhận nó vào lính. Ông giao nó cho tôi. Tôi chỉ cho nó đi theo, mang cho tôi một balô sách và vài thứ thức ăn. Cuộc hành quân nào ác liệt, tôi gởi nó cho anh HSQ Tiếp Tế ở lại hậu trạm. Hơn bốn tháng sau, được gởi vào Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Nó trở lại đơn vị khi tôi đã làm đại đội trưởng, nhất định xin tôi tình nguyện vào tiểu đội thám báo. Không ngờ nó lại là thằng lính đánh giặc gan dạ, lẫy lừng, đã mấy lần cùng toán thám báo cứu tôi thoát chết. Hai năm sau, nó tử trận tại mât khu Lê Hồng Phong (Phan Thiết) vào một ngày gió mưa tầm tã, khi xông vào một căn hầm của địch. Khi ấy nó vừa tròn 18 tuổi đời. Lúc hấp hối, nó thoi thóp cố mở mắt nhìn tôi, đôi môi mấp máy như muốn nói với tôi một điều gì đó. Tôi vuốt mắt nó mà nước mắt tôi ràn rụa, trong lòng tựa hổ như đang có trăm ngàn vết chém.
(Lê Xuân Tiên ơi! Bây giờ em đang ở một thế giới khác, bình an, không còn có hận thù chết chóc. Xin em hãy tha thứ cho anh. Đã mấy lần em xả thân cứu anh thoát chết, còn “anh ba”thì lại bất tài, không bảo vệ được cho em!).

Và đó cũng chính là món nợ ân tình duy nhất mà tôi không bao giờ trả được cho vùng đất Tuy Hòa – Phú Yên – của một thời chiến tranh, khốn khó.

Riêng ông trung tá tỉnh trưởng gốc Biệt Động Quân chịu chơi ngày ấy, sau này trở thành vị tướng lãnh tài ba và đã tuẫn tiết theo cùng vận nước vào cuối tháng 4/75. Còn ông anh Nguyễn Văn Tri, con bà cô, và anh “Chương Classic” của Tiểu Đoàn 23 BĐQ đã thoát chết trong một lần Tiểu Đoàn nghỉ quân trong căn cứ của một đơn vị ĐPQ, bị nội tuyến từ trong đơn vị ĐPQ này. Sau này anh Tri bị thương, được chuyển về TTHL/BĐQ Dục Mỹ. Tôi ghé thăm anh một đôi lần khi đơn vị chuyển quân ngang qua Huấn Khu này. Anh sang Mỹ theo diện HO, định cư ở Boston, có cô con gái là ca sĩ Hạ Vy. và anh đã qua đời hơn 5 năm trước. Anh “Chương Classic” khóa 19VB, sau này lên Thiếu tá, làm Tiểu Đoàn Trưởng một Tiểu Đoàn BĐQ lừng danh. Năm 1979, sau một lần chuyển trại tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù tận vùng Hoàng Liên Sơn. Hai anh em nằm gần nhau. Anh tự chế một cây đàn rất đẹp. Vẫn luôn giữ phong cách của một cấp chỉ huy, tư cách, nhẫn nhục, ít nói. Đêm đêm hai anh em uống trà tươi (giấu được khi hái trà cho trại), tôi ngồi nghe anh đàn. Trong hoàn cảnh ấy và với không gian yên ắng nặng nề, tiếng đàn Hạ Uy Cầm của anh càng thêm não nề réo rắt, chiêu dụ cả đám bộ đội canh gác, kéo nhau đến bên ngoài mê mẫn ngồi nghe. Nghe nói anh cũng đã sang Mỹ theo diện HO, nhưng nỗi buồn gãy súng vẫn chưa vơi, sống rất âm thầm với vết thương không lành được trong lòng.

Xin cám ơn Phú Yên, cám ơn Tuy Hòa, cám ơn cả ngôi trường Nguyễn Huệ đã cho tôi những kỷ niệm vui buồn của một thời làm lính, với những đồng đội, bạn bè cùng những chuyện tình lãng mạn, dễ thương. Tất cả cứ như khói như sương lãng đãng quanh tôi trong những phút giây hồi tưởng.

Phạm Tín An Ninh
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tiendung »

Mẹ Tôi, Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa



Trong mỗi chúng ta ai cũng có một người mẹ, để được yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ. Sự hy sinh cao quý của mẹ cho chồng con đã được vinh danh nhiều qua thi ca Việt Nam.

Nhưng sự hy sinh của các bà mẹ, những người vợ lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thì không có bút mực nào viết ra hết. Là một người con có mẹ là vợ lính VNCH, tôi đã trải qua nhiều kinh nghiệm về sự hy sinh của mẹ tôi và nhìn thấy sự hy sinh của các bà mẹ, của các bạn đồng cảnh. Với lòng thương yêu và trân quý sự hy sinh của mẹ, tôi đã ôm ấp trong lòng một bài viết về mẹ từ lâu. Sau khi ba tôi mất, nhìn thấy nỗi cô đơn và thương nhớ của mẹ đã thôi thúc tôi phải viết bài về mẹ.


Bài viết này chỉ là câu chuyện nhỏ trong vô số những câu chuyện về các mẹ, vợ lính VNCH. Xin được dùng bài viết như một món quà gởi đến mẹ tôi trong ngày lễ Hiền Mẫu (Mother Day) của năm 2018. Xin cám ơn mẹ cho tất cả những gì mẹ đã đem lại cho ba và anh em tụi con. Qua bài viết này, tôi xin gởi một thông điệp đến các em tôi, các bạn tôi và các thế trẻ về hình ảnh của một người mẹ trong vô số những người mẹ, vợ lính VNCH, đã hy sinh cả cuộc đời cho chồng con.

Cuộc đời của mẹ tôi đã gắn liền với thời chinh chiến ly loạn của dân tộc Việt Nam, mẹ sinh ra tại làng Tân Phú Thượng, quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa (nay thuộc tỉnh Long An) vào năm 1945. Theo lời bà ngoại tôi kể, ngôi làng nằm ngoài vùng kiểm soát của thực dân Pháp và trong vùng mà Việt Minh Cộng Sản (VMCS) hàng đêm đến cướp bóc. Quân Pháp thường xuyên mở các cuộc hành quân bố ráp, đốt nhà, và tàn phá mọi thứ. Ba, Mẹ, Tôi (Biên) và em gái kế (Thùy).


Mỗi lần như thế, ông bà ngoại phải dẫn mẹ và các dì chạy trốn trong lằn tên lửa đạn. Người dân trong làng bám đất không vì yêu thích Cộng Sản (CS), mà vì là nơi chôn nhau cắt rốn và đất đai mồ mả ông bà bao đời để lại. Nhiều người đã bỏ làng, trốn ra ngoài vùng Pháp kiểm soát, thì bị VMCS ban đêm tìm bắt, giết và treo cổ ở đầu làng để răn đe thị chúng. VMCS sợ dân bỏ làng đi hết thì bọn chúng sẽ đói vì không còn gì để cướp. Không thể sống trong cảnh bất an, ông bà ngoại tôi đã dẫn gia đình chạy trốn, đi thật xa, và lên lập nghiệp tại vùng Gia Định, thành đô.

Mẹ tôi đã trưởng thành trong nền giáo dục nhân bản của Miền Nam Việt Nam (MNVN). Sau khi hoàn tất trung học, mẹ đã vào làm thư ký cho hãng tàu thủy xuất nhập cảng hàng hóa. Đó là công ty Khánh Phát tại Sài Gòn. Mẹ, cũng như các thanh thiếu nữ khác, đã trải qua tuổi thanh xuân đẹp đẽ của mình với những tình bạn và tình yêu chân thành. Nhưng chiến tranh khốc liệt ngày một lan tràn khắp nơi trên quê hương Miền Nam, bao lớp trai trẻ phải xếp bút nghiên, rời bỏ công sở và gạt qua những ước mơ riêng, lên đường nhập ngũ, cầm súng bảo vệ sự thanh bình và tự do của Miền NamViệt Nam. Mẹ đã chứng kiến những cảnh chia tay của những người bạn, người yêu, và người thân. Thiếu nữ thời mẹ đã sớm trở thành những người bạn, người yêu, và người vợ của lính. Mẹ cũng thế.


Theo lời mẹ kể, vào một ngày thứ bảy của năm 1966, mẹ và người bạn gái tên Xuyến vào Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm một người bạn đang nằm trị thương. Đến nơi, mẹ và dì Xuyến được biết là người bạn đã ra ngoài bệnh viện dạo phố. Mẹ và dì đang cất bước ra về thì cơn mưa ào xuống để níu chân mẹ và dì ở lại. Hai người chạy vô tránh mưa ở hàng hiên, bên trong là dãy phòng trị thương.

Bên trong phòng, một thương binh lên tiếng:

- Ê tụi bây, bên ngoài có hai thiếu nữ đang đứng tránh mưa kìa.

- Để tao ra mời các cô ấy vào đây nói chuyện cho vui. Một người thương binh khác lên tiếng.

Mẹ kể, một người thương binh băng bó ở cổ đã bước ra khỏi phòng trị thương, mời mẹ và dì bước vào trong phòng. Khi bước vào trong thì mẹ gặp thêm hai thương binh nữa, một người bị thương băng bó ở tay và người kia thì băng bó ở chân. Mẹ và dì đã có dịp trò chuyện vui vẻ với họ, nhưng với mẹ tôi thì nhớ nhất câu trả lời, khi bà hỏi:

- Làm sao các anh bị thương vậy?

Người sĩ quan trẻ bị thương băng ở cổ trả lời:

- Anh đi hành quân thì bị trâu chém.

Trước khi chia tay ra về, mẹ và dì đã trao đổi địa chỉ với ba thương binh, có tên là: Đường, Đăng và Quyền, để liên lạc sau này trong tình quân dân: em hậu phương anh tiền tuyến.

Nào ngờ, ngày Chủ Nhật hôm sau, một chiếc xích lô máy đậu bên ngoài nhà ông bà ngoại. Bước trên xe xuống là ba thương binh chống nạng dìu nhau. Mẹ kể, tiếng nổ inh ỏi của xe xích lô máy cộng với hình ảnh của các thương binh khoác trên người những áo trận hoa rừng đã thu hút sự chú ý của khu xóm, vốn thường ngày yên tĩnh. Sau lần gặp lại đó, mẹ thường gặp lại người chiến binh bị thương ở cổ khi ông về phép. Tình yêu của mẹ từ từ chớm nở với người lính trận này, có họ tên là Nguyễn minh Đường, sĩ quan của binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt, Quân Lực Việt Nan Cộng Hòa (QLVNCH). Mẹ đã trở thành người yêu của lính. Ba năm sau, mẹ trở thành người vợ lính. Sau khi lập gia đình, ba mẹ tôi mua nhà ra ở tại quận 8 một thời gian. Nhưng vì ba tôi là lính tác chiến qua các binh chủng thiện chiến: Lực Lượng Đặc Biệt rồi Biệt Động Quân của Quân Lực Việt Nan Cộng Hòa, quanh năm hành quân ở biên thùy, một mình mẹ phải sống quạnh hiu với đàn con nhỏ, nên ba mẹ đồng ý bán căn nhà và mẹ dọn về ở với ông bà ngoại.

Như các người yêu và các người vợ lính khác, mẹ đã sống trong nỗi thấp thỏm lo âu về sự an nguy của chồng, trong niềm thương nhớ, và mong chờ cho ngày chồng về phép. Mẹ thay ba tôi, chăm sóc và nuôi dạy anh em tôi. Mẹ lặn lội lên những tiền đồn xa xôi thăm chồng và có khi mẹ dẫn tôi đi cùng. Có những lần đi thăm, mẹ phải lo âu chờ đợi trong tiền đồn, khi chồng vẫn còn đang hành quân giao tranh với quân thù. Mẹ đã hòa nhịp thở của mình với nỗi thăng trầm của cuộc chiến VN. Mẹ vui với những tin vui chiến thắng và được biết chồng bình an trở về sau một trận đánh và mẹ lo sợ khi biết chồng mình bị thương. Mẹ đã là chỗ dựa cho ba tôi trong việc quán xuyến gia đình, để ông an tâm, kìm chắc tay súng chống lại xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài chăm sóc gia đình, mẹ thay ba làm bổn phận người con đến song thân của hai bên.

Trong thời chiến, hạnh phúc của người vợ lính quá mong manh và nhỏ bé, nhưng sự hy sinh của người vợ lính cho chồng con và người thân thì vô cùng to lớn. Sau khi Cộng Sản xâm chiếm Miền Nam Việt Nam, sự hy sinh đó còn tăng lên gấp bội.

Sau ngày đen tối 30-4-1975 của dân tộc VN chừng một tháng, mẹ tôi hạ sanh đứa em gái út. Khi em vừa tròn 1 tháng tuổi thì ba tôi phải ra trình diện đi tù CS. Ba đi tù, để lại cho mẹ năm đứa con thơ: 5, 4, 3, 1 tuổi và một bé sơ sinh. Trong cảnh nước mất nhà tan, gia đình ly tán, ba tôi, các bác tôi, anh họ tôi lần lượt đi tù CS, và cậu tôi tử trận trong những ngày cuối của cuộc chiến. Còn cảnh thương tâm nào hơn, già khóc và trẻ khóc cho một viễn cảnh đen tối của người dân MN, chết chóc và chia lìa. Vì quá thương con, thương cháu trong ngục tù CS, bà nội tôi lâm bệnh và mất vài tháng sau đó. Trong đám tang nội, không có người con ruột nào có mặt để đưa tang. Từ một phụ nữ chân yếu tay mềm, mẹ đã nén những đau thương, bước ra ngoài xã hội bương chải để kiếm sống cho gia đình.

Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đã vơ vét, tịch thu tài sản và cơ sở làm ăn của người dân. Mọi công việc, hãng xưởng lớn nhỏ điều tùy thuộc vào sự ban phát của chúng. Chúng thi hành chính sách kỳ thị và phân biệt đối xử lên người dân MN, nhất là với những gia đình có dính líu đến chế độ VNCH. Mẹ tôi đã không thể xin được một công việc hãng xưởng, vì bị liệt kê có chồng là sĩ quan cao cấp của QLVNCH. Mẹ đã làm nhiều công việc buôn bán như xe trái cây, xe thuốc lá, bán bánh kẹo, khoai, bán củi bó… vv và vv. Mẹ phải làm nhiều việc ngõ hầu kiếm đủ tiền lo ăn mặc và những nhu cầu học đường cho anh em chúng tôi. Có những lúc mẹ đi sớm về khua, anh em chúng tôi côi cút trong sự thiếu vắng cả cha lẫn mẹ. Có những lúc buôn bán ế ẩm, mẹ phải bán đi những vật dụng có giá trị trong nhà và ngay cả những nữ trang của mẹ để có tiền trang trải gia đình. Mẹ tần tiện từng ngày để đủ tiền mua quà gởi cho ba tôi, nơi ngục tù CS. Tuổi ấu thơ, anh em tôi quá quen thuộc với những món quà, mẹ gởi cho ba, như: mắm ruốc, muối đậu, thịt chà bông, đường, và khô.

Vào một ngày của năm 1979, mẹ cho tôi biết là mẹ và tôi sẽ đi thăm ba tôi ở trại tù ngoài Bắc. Với tôi, đó là một tin vui không sau tả nổi. Mẹ phải làm nhiều hơn và phải bán đi chiếc Honda Dam hầu có đủ tiền mua vé xe lửa, mua thực phẩm để đóng quà, và làm lộ phí dọc đường. Hành trình đi thăm tù thật là gian nan, với nhiều bất trắc và nguy hiểm. Sau 3 ngày 3 đêm ngồi trên xe lửa, gần một ngày đứng trên xe đò, và gần một buổi đi bộ, mẹ với những gói quà trĩu nặng đôi tay dẫn tôi tới căn nhà trọ thăm tù, nằm chơi vơi giữa vùng đất hoang vắng với những ngọn núi cao bao quanh. Ba tôi bị nhốt tại trại tù K3, Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Qua chuyến thăm ba này, rất nhiều hình ảnh, nhiều kỷ niệm và nhiều nhận thức đã ghi lại trong tôi, một đứa bé 9 tuổi, về nỗi nhục nhằn của người tù khổ sai, về sự vất vả của vợ con thăm tù, về sự nghèo nàn lạc hậu và bần cùng của người dân miền Bắc, và về sự dối trá và dốt nát của chế độ CS. Những nhận xét ấy đã mãi theo tôi, đã làm động lực thúc đẩy tôi tìm hiểu về thể chế Quốc Gia và Cộng Sản và giúp tôi tự vươn lên sau này.

Sau khi thăm ba về, mẹ tôi lại tiếp tục buôn bán và làm nhiều hơn mới có thể sống được trong xã hội mà CS chỉ biết lo cho riêng chúng ăn no, mặc ấm, bằng cách cướp bóc và đàn áp người dân, mặc kệ cho sự nghèo khó và lam lũ của người dân. Người dân thì bị thiếu ăn nhất là bị chúng bắt ăn độn khoai và bo bo. Một năm, trừ ba ngày Tết, mẹ làm đủ 362 ngày. Làm việc quá cơ cực, ngày một mẹ càng gầy hơn. Đến một hôm mẹ tôi ngã bệnh vì lao phổi, do lao lực mà ra. Dù bệnh, mẹ không nghỉ, vẫn phải tiếp tục buôn bán hàng ngày. Không biết còn có bao gia đình khác vì quá nghèo khổ, khiến con cái phải bỏ học đi làm hoặc phụ giúp buôn bán để sinh nhai? Còn mẹ tôi, dù cơ cực đến mấy, vẫn gồng gánh, tần tảo làm việc sớm hôm cho chúng tôi được cắp sách đến trường.

Ngoài việc thay chồng, nuôi dạy một đàn con nhỏ, mẹ còn phụng dưỡng ông bà ngoại và giúp đỡ anh chị em và những người thân thương của mẹ.

Anh em chúng tôi ngày một khôn lớn trong vòng tay yêu thương và chăm sóc của mẹ và thiếu vắng hình bóng của ba. Chúng tôi sớm phụ giúp mẹ trong công việc bếp núc và buôn bán. Thương mẹ, anh em chúng tôi sống cần kiệm với những gì mẹ cho, dẹp qua những khao khát mơ ước của tuổi thơ và vươn lên trong học đường. Từ buôn bán nhỏ, mẹ hùn vốn với gia đình anh họ, mở gian hàng bán quần áo may sẵn tại chợ Bà Chiểu.

Sau 10 năm tù, ba tôi được thả về sum họp với gia đình. Ngày ba về là ngày ngạc nhiên và vui mừng nhất cho mẹ và anh em chúng tôi, vì là ngày gia đình tôi mòn mỏi mong chờ và không được biết trước. Từ ngày đó, anh em chúng tôi thật sự biết và sống bên cạnh tình yêu thương và dạy dỗ của ba. Mẹ đã chu tất lo cho ba mọi thứ và nhất là lo cho ba điều trị những căn bệnh hậu chứng của những năm tù CS như: phù thũng, đau bao tử, và gai xương sống. Mẹ còn an ủi và tạo điều kiện cho ba vui với gia đình, bạn tù, và người thân. Ba tôi đã phụ giúp mẹ trong việc buôn bán như đi bổ hàng từ các chợ lớn, như chợ Tân Bình hoăc chợ An Đông. Ngoài ra, ba tôi còn làm thêm việc bán lẻ và bỏ mối bia và nước ngọt đến các tiệm và quán ăn.

Không có sự hy sinh của mẹ, chắc tôi đã không đạt được những thành quả trong học vấn. Năm 1988, tôi thi đậu vào khoa cơ khí, Đại Học Bách Khoa Sài Gòn, trong tổng số 140 thí sinh đậu “chính quy” (hệ A) bên cạnh 310 thí sinh đậu hệ mở rộng (hệ B, phải đóng học phí). Khi nhập học, tôi mới biết là số sinh viên có cha là cựu tù CS như tôi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong hệ thống thi cử vào đại học (ĐH) của chế độ CS, chúng tôi bị phân loại vào nhóm 4, nhóm chót, nhóm cho những gia đình có dính líu đến chế độ VNCH, có cha mẹ đang bị tù chính trị, hoặc người thân vượt biên. Vì thế, chúng tôi phải đậu điểm thật cao và chỉ được nhận đậu với con số nhỏ, tượng trưng.

Cộng Sản nhận chúng tôi vào Đại Học cũng nằm trong mưu đồ chiến lược của họ, nhằm chứng tỏ với thế giới bên ngoài là họ có thay đổi trong chiều hướng mở cửa kinh tế, để qua đó, họ đón nhận trợ cấp và đầu tư từ các nước, nhất là các nước tư bản giàu có, mà chế độ CS luôn tuyên truyền chê bai. Việc thi đậu ĐH của chúng tôi đã ít nhiều đem lại niềm vui và hãnh diện cho ba mẹ, cho thế hệ chúng tôi, thế hệ con em của chế độ VNCH. Chúng tôi đã đạt những điểm cao và xếp hạng cao sau các kỳ thi ở ĐH, cho dù tình trạng lộ đề cho “con ông cháu cha” của CS xảy ra ở mỗi kỳ thi.

Để đỡ bớt gánh nặng cho mẹ, tôi đã đăng quảng cáo trên báo nhận dạy kèm và luyện thi ĐH qua các môn toán, lý và hoá. Tôi đã đi dạy học tại gia từ năm 1989 đến khi gia đình đi tỵ nạn CS vào năm 1995. Tôi rất vui là đã làm ra tiền phụ giúp mẹ và đã giới thiệu nhiều mối dạy học cho các bạn sinh viên đồng cảnh.

Ngày gia đình tôi rời VN đi tỵ nạn CS là ngày vui lớn vì từ ngày hôm đó gia đình tôi sẽ thoát khỏi ngục tù lớn của CS, thoát khỏi cái chủ nghĩa xã hội (vốn là chủ nghĩa cộng sản, được đổi tên hầu lường gạt những người nhẹ dạ) đầy hận thù, phân biệt giai cấp, và kỳ thị. Hơn hết, tôi mừng là ba mẹ sẽ không còn phải vất vả bương chải trong cuộc sống và anh em tôi sẽ có điều kiện thăng tiến trong xã hội mới, tự do và dân chủ.

Trong những năm dài tha phương nơi đất khách, mẹ vẫn luôn là chỗ dựa chính cho ba và anh em tôi. Ngoài việc quán xuyến gia đình, mẹ luôn đi bên cạnh ba tôi trong các sinh hoạt Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia (CĐNVQG). Mẹ song hành với ba trong các buổi tiệc vui cưới hỏi, các buổi họp mặt hội đoàn và đồng hương, các buổi lễ tưởng niệm của VNCH và các Đại Hội Biệt Động Quân hàng năm. Mẹ góp phần công sức cho các lễ hội và tưởng niệm của các hội đoàn và CĐNVQG. Mẹ luôn ở bên cạnh chăm sóc cho ba qua những cuộc giải phẩu, luôn thương yêu và chăm lo một đàn cháu nội ngoại.

Cuộc đời của mẹ tôi là một trong vô số những cảnh đời bi thương của người mẹ, vợ lính VNCH. Đó là những cảnh đời của những người vợ lính: là góa phụ trong cuộc chiến, là vợ thương binh VNCH, hay là vợ người tù “cải tạo”. Cho dù ở cảnh đời nào, các mẹ đã son sắt thủy chung với chồng, thương yêu và chăm sóc chồng con, thay chồng tần tảo sớm hôm nuôi dạy các con và trang bị cho các con một hành trang vào đời. Không biết có bao nhiêu người mẹ đã ngã xuống trên đường đi thăm chồng trong ngục tù CS, trên đường vượt biên tìm tự do, hoặc ngay trên quê hương VN khi mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ chồng về từ các trại tù CS? Thương quá các mẹ, vợ lính VNCH.

Dòng lịch sử VN sẽ sang trang, ngoài những trang sử nói lên hào khí anh dũng của cả dân tộc VN và nhất là Quân-Dân-Cán-Chính MNVN đã, đang, và sẽ còn tiếp tục đứng lên chống lại chế độ vô thần phi nhân CS, tôi tin chắc rằng sẽ có nhiều trang sử ghi đậm những nét hy sinh cao quý của các mẹ, vợ lính VNCH.

Sự hy sinh của mẹ tôi cũng như vô số các mẹ, vợ lính VNCH, đã là tấm gương tiêu biểu cho thế hệ chúng tôi và hậu thế noi theo, đó là sự thủy chung, sự cam chịu những bất công, vượt lên những gian truân, tần tảo làm việc, chăm lo cho chồng con và nuôi dạy con cháu nên người.

Không có sự hy sinh của mẹ, anh em tôi đã không có những gì mình có được ngày nay. Con xin đại diện các em cảm ơn mẹ.

Không có sự hy sinh của các mẹ, vợ lính VNCH, thế hệ chúng tôi sẽ không có được những thành đạt ngày nay trên đất khách quê người, đó là những kỷ sư, bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, nhà giáo, khoa học gia, chính trị gia, thương gia, nghiệp chủ… vv và vv. Nếu được, xin các bạn trẻ đồng cảnh hãy cùng tôi, nghiêng mình cảm kích và tri ân đến mẹ mình và tất cả các mẹ, vợ lính VNCH. Chúng ta hãy cùng hoài niệm về những hy sinh của mẹ, để càng yêu thương và chăm sóc mẹ trong tuổi xế chiều, bạn nhé!

Bùi Tuyên
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by nguyenvsau »

Image

Câu chuyện cảm động của một người lính VNCH sau 1975

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.


Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.

Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.

" Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng"


Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.

Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.

Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.

"Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu"


Anh nhắc lại hai lần chữ "lầm lẫn", để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"
Anh lắc đầu: "Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.. "
"Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng."


Người cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa."
Anh ấp úng: "Vâng, thưa cán bộ."
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: " Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình."
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn.. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.

Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.


Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc.. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.

Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.

Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: "Xin lỗi...xin lỗi chị".
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi.. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.

Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.

Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật.. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện...


Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?... Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.

Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.

Phan Xuân Sinh
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Tự truyện của một phi công

(Trường Sơn LÊ XUÂN NHỊ)

Trước khi vào truyện:


Bài này tôi viết vào ngày Quân lực năm 1989, cách đây 23 năm, lúc tôi mới tập tểnh cầm bút, đăng trên Tập San Ngàn Sao của anh em Không Quân Houston. Xin cám ơn Hắc Ưng 01, tức Trung Tá Nguyễn Tiến Thành, (còn được anh em âu yếm gọi là Thành... dâm - thời buổi này, ai nói mình dâm là một lời khen quý giá vô cùng) một phi đoàn trưởng F-5, một nhà thơ, một... con người đầy tình cảm đã cho tôi lại bài này sau nhiều năm thất lạc. Nếu ai chưa đọc, xin đọc. Nếu ai đã đọc rồi, đọc lại cũng chẳng sao. Điều quan trọng ở đây, tâm hồn tôi ngày đó như thế nào thì bây giờ cũng như thế thôi...


Ai biết đời đổi thay, sẽ không bao giờ thay đổi

Ai tưởng rằng đời không thay đổi, người đó thế nào cũng đổi thay...


Sau mười mấy năm di tản, tôi đã được đọc hơn chục câu chuyện viết về cuộc đời binh nghiệp của nhiều người. Chuyện nào cũng hay, cũng có nhiều kỹ niệm, nhiều hào hùng. Riêng tôi, nhớ lại quãng đời binh nghiệp dang dở của mình, dù có chủ quan đến đâu, tôi cũng thấy hơi... mắc cỡ. Kể từ ngày vòng tay giã từ bố mẹ đi đăng lính cho đến ngày leo lên tàu bay... “chạy thấy mẹ”, đời lính tôi chẳng có đoạn nào hào hùng đáng để viết ra đây cho độc giả thưởng thức. Lý do đơn giản vì tôi là phi công lái tàu bay L-19. Nếu là phi công khu trục hay trực thăng, có lẽ tôi cũng đã có nhiều kỹ niệm ghê gớm hơn đáng được kể lại cho thiên hạ nghe như lúc cắm tàu bay xuống giữa rừng phòng không để thả những trái bom xuống đầu địch, hoặc lái trực thăng xông pha lửa đạn đến để thả quân, bốc thương binh ở những vùng địa đầu giới tuyến vân vân. Tàu bay L-19 của tôi, thân hình ẻo lả chậm chạp, thường bị người ta gọi là Tàu Bay Bà Già, được dùng để thám thính và đánh trái khói chỉ điểm mục tiêu. Thám thính hay quan sát thì bay cao bay thấp gì cũng được, chẳng ai cần để ý. Mới ra trường vì “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên tôi còn hăng lắm, trận thám sát nào cũng bay thấp gần ngọn cây. Nhưng già hơn một chút nữa thì cái bu-gi của tôi nó cứ từ từ teo lại như bị mắc phải một chứng bịnh quái ác, và cao độ quan sát càng ngày tăng theo tỉ lệ nghịch của... con chim để tránh bớt phòng không. Gần đến ngày mất nước thì nó cao lắm, tôi không nhớ là mấy ngàn bộ. Tôi không thể tự dối lòng mình và dối thiên hạ để bảo rằng ngày xưa tôi là một chiến sĩ oai hùng lắm, anh dũng lắm. Đời tôi đã hèn một lần ngày 30 tháng 4, tôi chẳng thể hèn thêm nữa. Nói láo, đối với tôi là một hành động hèn nhát. Tôi nhớ đã đọc được ở đâu đó rằng một trong những đức tính quan trọng nhất của người Võ sĩ đạo Nhật Bản là không bao giờ nói dối. Vì vậy, tôi đành thành thực mà viết rằng suốt mấy năm mặc áo nhà binh ăn cơm chính phủ, những đoạn đáng nhớ nhất về cuộc đời binh nghiệp của tôi có thể viết ra đây cho độc giả thưởng thức là mấy lần ... đi ở tù.


Đời lính ngắn ngủi của tôi, kính thưa quí vị, tôi bị ở tù trước sau là 4 lần. Tôi nói ngắn ngủi bởi vì tôi đi lính năm 69, đến năm 75 thì quân đội tan hàng, tính ra là gần được 6 năm. 6 năm lính mà ở tù 4 lần, và mỗi lần một hai ngày là quá ít, nhưng đối với một thằng nhớ dai như tôi, mỗi lần như thế là một kỷ niệm. 4 lần ở tù, bây giờ ngồi nghĩ lại sau mười mấy năm, tôi chả thấy oan ức chút nào. Tôi công nhận lần ủ tờ nào cũng là do lỗi mình mà ra cả, rất đáng bị nhốt để duy trì kỷ luật quân đội và tốp bớt cái tính du côn hung hản của thằng thiếu úy trẻ. Đôi khi, tôi cảm thấy kỷ luật của quân đội đối với tôi như vậy còn là nhẹ hìu, nhẹ lắm.

Nhưng trong 4 lần ở tù này, chỉ có một lần cuối cùng là tôi leo lên xe quân cảnh mà lòng sung sướng hãnh diện đến độ có thể nói như ông Gandhi của Ấn Độ. “Đi vào tù mà vui tươi sung sướng như chú rể đi vào nơi động phòng ngày đám cưới.” Trước khi kể đến lần đi tù kỳ lạ này, tôi xin bắt đầu từ những lần ở tù đầu tiên...

Từ thuở nhỏ, tôi vốn là một thằng... chẳng giống ai. Lúc còn đi học ở tiểu học, lên đến trung học, tôi luôn luôn gây rắc rối cho thầy giáo, cho cha mẹ. Ở trường, thay vì phải lo dùi mài kinh sử để đáp đền ơn dưỡng dục của song thân, tôi chỉ thích nghiên cứu tổ chức lập đảng để đi oánh nhau. Về nhà, đã chẳng giúp gì được công việc gia đình, tôi lại ăn hiếp các em, thỉnh thoảng còn “đỡ nhẹ” một ít tiền của mẹ để tiêu hoang. Quá khứ gian ác như vậy, vào lính, chả trách gì chỉ một thời gian ngắn là tôi phải ôm mền chiếu đi ngồi tù.


Tôi được nếm mùi tù lần đầu tiên liền chỉ sau khi khoác áo nhà binh mấy tháng ở trường bộ binh Thủ Đức. Một tối nọ trung đội tôi có nhiệm vụ đi gác tuyến. Phiên gác của tôi được anh em cắt là 3 giờ sáng. Đem mùng mền khăn gói theo trung đội ra tuyến, căng lều võng xong lúc ấy mới có 9 giờ đêm. Không có chuyện gì làm, thay vì đắp chăn nằm ngủ lấy sức như những người anh em ngoan ngoản khác, tôi và vài thằng bạn trời đánh rủ nhau phú lỉnh ra khu gia binh ăn hột vịt lộn. Hột vịt lộn, muốn thưởng thức cho đúng điệu thì phải có ba thứ đi kèm: thứ nhất muối tiêu, thứ nhì rau răm và chót hết là... la de. Cái món sau cùng này nó đã hại tôi bởi khi đứng dậy đi về, trời đã quá nửa đêm, bước chân tôi xiêu vẹo lạng quạng, đi nghiêng ngã như... một thằng say rượu. Nói đúng hơn, tôi đã “xỉn mẹ nó rồi”. Mò mẫm mãi chúng tôi mới về đến nơi cắm trại. Vào tới lều thì tôi chẳng còn biết trời trăng gì nữa, nằm lăn quay ra đánh một giấc.


2 giờ rưỡi sáng tôi bị một người khóa sinh đánh thức giậy để đổi gác. Gác gỏng gì nữa vì tôi lúc ấy chỉ còn là một khúc gỗ, có đem thẩy tôi vào lửa tôi cũng cóc cần, làm sao tôi thức dậy được? Anh khóa sinh này sau 10 phút không kêu tôi được, lại lui cui thế nào để lãnh phải một bốt đờ sô của tôi té lăn cù, bèn tức mình đi báo cho trung đội trưởng. Trung đội trưởng khôn hơn, biết tính tôi nên chẳng thèm gọi nữa, liền đi thông báo sĩ quan cán bộ trực. Ông trung úy Ba (tôi nhớ rõ tên), có lẽ bị mất giấc ngủ vì một chuyện không đâu, hầm hầm xách cây Carbine M-2 chạy ra tuyến kiếm tôi. Sau 2 tiếng kêu không có kết quả, người sĩ quan cán bộ không thèm phí thì giờ, ông ta nhờ... báng súng Carbine kêu dùm. Bị dộng mấy cái đau điếng, tôi lòm còm bò dậy. Trung úy Ba xài xể tôi một thôi rồi bắt tôi ôm súng ra tuyến gác. Để trừng phạt, ông bắt tôi phải gác thế cho cho tất cả những người khác tới sáng.


Tôi ôm cây M-16 ra phòng tuyến, quên cả hỏi mật khẩu và mấy thứ lẩm cẩm khác của người lính gác giặc. Đứng được khoảng 15 phút thì tôi không còn chịu nổi nữa, cơn buồn ngủ kéo tới, tôi rớt một cái rầm xuống đám cỏ. Ôi, đất ơi là đất, sao mà êm ái và dịu dàng thế này, tôi nhắm mắt nằm ngủ thẳng cẳng.

Không biết tôi ngủ được bao nhiêu lâu thì trung úy Ba lại đi thanh tra. Lần này ông cho người dắt tôi thẳng về đồn quân cảnh. Lúc tỉnh dậy, đầu óc choáng váng, tôi nhìn thấy vừng Thái Dương đã ló dạng qua khung cửa sổ có mấy song sắt của nhà tù. Sáng hôm đó là ngày chủ nhật, ngày thăm viếng. Không biết hên hay xui cho tôi, ngàn năm một thuở, ngày ấy tôi có người đến thăm. Nhà tôi ở rất xa, mãi trên cùng cao nguyên đất đỏ, xuân thu nhị kỳ mới có người đến kiếm, nay thằng em kế của tôi lên thăm ông anh quý thì hóa ra ông ấy đang ủ tờ. Thật là chán đời. Hai anh em gặp nhau trong một tiếng đồng hồ ngắn ngủi. Tôi dặn nó về đừng có nói là lên thăm gặp tôi đang ủ tờ, sợ cha mẹ phiền. Nó cười cười, dạy khôn tôi: “Anh là cùi mà cớ sợ hủi. Đi lính mà không ở tù lính thì làm sao đáng gọi là lính?” Tôi ầm ừ và cũng đành dùng câu nói của thằng em quý để tự an ủi lòng mình.


Chiều hôm ấy tôi được thả ra nhưng đã tiêu hết ngày chủ nhật quý giá của quân trường.

Lần ủ tờ thứ hai, khoảng 2 năm sau, lúc ấy tôi đã đeo lon thiếu úy tàu bay, vừa tốt nghiệp xong khóa hoa tiêu và đang được huấn luyện hành quân ở phi đoàn. Đó là những ngày nhàn nhã. Mục đích của thời gian huấn luyện này là tập cho phi công trẻ có dịp làm quen với chiếc phi cơ L-19 càng nhiều càng tốt nên chúng tôi nhận được lệnh của phi đoàn trưởng phải bay ít nhất 6 giờ mỗi ngày. Gì chớ bay bổng và nhậu nhẹt là 2 chuyện tôi thích nhất trong cõi đời. Ngày nào tôi cũng vào phi đoàn, ký sổ phi lệnh rồi xách một chiếc L-19 cất cánh lang thang một mình trong không gian bát ngát. Khỏi cần nói chắc quí vị cũng có thể tưởng tượng được một thằng trời đánh như tôi sẽ làm gì trên trời một mình với món đồ chơi mắc tiền là chiếc phi cơ? Tôi nhào, tôi lộn, tôi bay nghiêng bay ngã, tôi hành hạ chiếc L-19 đáng thương như đứa bé con tinh nghịch đùa giỡn với món đồ chơi cũ. Đùa chán chê, tôi xách tàu ra ngoài biển đi phá đám mấy ông thuyền chài. Thấy được một chiếc ghe nào lạc lỏng một mình là tôi cắt ga biểu diễn màn bay sát mặt nước, nhắm thẳng vào chiếc ghe lao tới như các Kamikaze Nhật trong xi nê. Khi nào người ngồi trên ghe chưa chịu... nhảy xuống biển là tôi chưa thoả mãn, quay tàu lại làm vòng khác thấp hơn, thấp hơn nữa. Tôi không nhớ đã thoát chết bao nhiêu lần và đã làm không biết bao nhiêu người thuyền chài vô tội sợ hú hồn, phải nhảy tùm xuống biển.

Những hôm khác, tôi xách tàu đi xa hơn. Có khi còn lên Khánh Dương, bay dọc theo mấy dòng suối để tìm con gái Thượng tắm. Tôi ở Ban Mê Thuột nên biết đàn bà thiểu số thường tắm truồng. Tôi chả bao giờ tìm thấy ai tắm nhưng cũng xém chết mấy lần vì tàu gần đụng núi.

Đấy, tôi gian ác như vậy nhưng vẫn chưa bị vào tù vì không ai biết chuyện tôi làm cả. Nhưng thiên bất dung gian, một ngày nọ, vào khoảng giữa trưa, tôi xách nón bay ra quay máy một chiếc L-19 để bay tập. Tôi nhớ rõ hôm ấy là ngày thứ sáu và lại vào giấc trưa nên phi trường vắng vẻ vô cùng. Phi đoàn cũng vắng tanh. Tuy ở phi đoàn chưa lâu lắm nhưng tôi biết chiều thứ sáu “Vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm” được. Thử máy xong, tôi đem tàu ra so hàng ở taxiway rồi xin đài kiểm soát ra phi đạo cất cánh.

Đài kiểm soát vừa “Clear for take off” là chiếc L-19... già đã bị tôi tống ga cái rào. Con tàu như nhảy giựt người lên, lóc cóc chở ông thiếu úy cô hồn ra so hàng cuối phi đạo mau như bị ma đuổi. Tôi tống hết ga. Con tàu gầm lên, nhào tới trước. Cái giây phút thú vị nhất của bất cứ người phi công nào là lúc điều khiển con tàu chạy mau trên mặt đất trước khi cất cánh. Sự khác biệt giữa người và chim, giữa mặt đất tù túng giới hạn và không gian bao la bát ngát , giữa nguy hiểm và an toàn, giữa sống và chết là những giây đồng hồ ngắn ngủi này đây.

Tàu tăng tốc độ, phi cơ “ăn no gió” chuyền áp lực vào cần lái làm tay tôi bắt đầu cảm thấy nặng. Khỏi cần nhìn tốc kế tôi cũng biết là chỉ cần kéo nhẹ cần lái là tàu sẽ rời mặt đất từ từ bay bổng lên không. Đó là kiểu cất cánh bình thường. Nhưng đời tôi, ít khi nào tôi làm chuyện gì bình thường và giống thiên hạ. Thay vì kéo tàu lên, tôi lại hơi đè cần lái xuống cho tàu nhỏng đít chạy thằng trên phi đạo. Cất cánh như vậy coi nó mới giống Skyraider, nó mới hùng, mới đúng điệu “Pilot de Guerre.” (Tôi thường bảo bạn bè rằng, nếu là mây, anh sẽ là loài mây trắng, nếu là người, anh sẽ chết cho quê hương, nếu là phi công, anh chỉ nên lái Skyraider...) Tôi cứ ráng giữ như vậy cho đến lúc không thể nào đè phi cơ trên mặt đất nữa, mới hơi nới cần lái cho tàu bay lên.

Lần đó, tàu vừa hỏng mặt đất là tôi có một ý tưởng mới lạ. (Suốt đời tôi khốn nạn vì những ý tưởng mới lạ của mình). Bay bổng ngon lành như tôi, tại sao không làm một cái Chandel (đọc là Xăng Đeo) ở cuối phi đạo? Xin dành một vài hàng để tôi cắt nghĩa cái Chandel cho các quí vị không phải là dân bay hiểu.


Làm Chandel tức là làm một cái quẹo ngược 180 độ lên cao về phía sau. Tác diễn này giúp cho các phi công khi gặp phải chướng ngại vật phía trước có thể quẹo ngược ra sau một cách chính xác để khỏi mất hướng và vừa lấy thêm được cao độ. Muốn làm Chandel, người ta mới đầu chúi mũi phi cơ để lấy thêm tốc độ rồi vừa nghiêng vừa quẹo và vừa kéo tàu lên một lượt. Tay và chân phải hòa hợp và ăn khớp với nhau như biểu diễn một điệu nhảy đầm. Cái Chandel tuyệt hảo đặt con tàu đúng 180 độ ở cuối đường, không hơn không kém. Điểm quan trọng cần nói thêm, Chandel là một tác diễn chỉ được làm ở một độ cao tương đối, làm ở sát mặt đất lúc vừa cất cánh là một điều tối kỵ vị rất nguy hiểm và vi phạm luật an phi nặng nề.

Lúc ấy tôi nào có biết gì là nguy hiểm, cứ cho đó là một ý kiến hay. Nhưng trước khi liều mạng như vậy, vốn gian ác nên tôi tính toán cẩn thận. Tôi phải chắc chắn là không có ai ở phi đoàn giờ này thì mới an toàn. Thế là tôi tà tà cho tàu bay lên, quẹo phải hơn ngắn một chút và để ý nhìn xuống phía phi đoàn. Good. Bãi đậu xe của phi đoàn vắng tanh. Phi đoàn tôi lúc ấy có 3 người tôi ngán nhất là phi đoàn trưởng, phi đoàn phó và trưởng phòng hành quân, ông nào cũng có một chiếc xe. Tôi mừng thầm, thế này chắc là các đàn anh đã về nhà ngủ rồi hay không chừng đang chở vợ con đi tắm biển cũng nên. Riêng thiếu tá Bững trưởng phòng hành quân thì chắc đang đụng trận phé lớn ở một chỗ nào đó. Tôi ngán nhất là ông thần này, phi công gì mà mặt mày coi hung dữ chi lạ, còn ngầu hơn cả tôi, dòm cứ như là phi công Nhật. Cho chắc ăn hơn, tôi nhìn xuống bãi đậu xe của Không Đoàn. Chiếc xe díp xanh của đại tá Lạc không đoàn trưởng cũng thấy mất tiêu. Tôi mỉm cười khoái chí. Vậy là nhô con có thể múa rối được rồi.

Tôi làm vòng phi đạo xin tập đáp “Chạm Bánh cất cánh” (touch and go). Trưa thứ sáu, phi trường Nha Trang vắng khách nên các ông đài kiểm soát xem ra cũng có vẻ dễ dãi, chả bù với những lúc bận rộn, mấy ông hối nhặng cả lên. Vừa đáp xuống là tôi tống hết ga để chuẩn bị cất cánh lại. Phi cơ hổng khỏi mặt đất, tốc độ lên rất cao, có thể đến 140 Knots (quá giới hạn của L-19) là tôi trổ tài. Tôi nghiêng cánh, vừa quẹo trái vừa đạp bàn đạp trái và kéo cần lái lên. Con tàu bốc cao như một cái hỏa tiễn, người tôi bị lực G đè xuống. G càng lớn thì tôi càng cảm thấy đê mê khoái tỉ, tưởng tượng như mình đang kéo một chiếc Skyraider bay lên. Thật không thể có cái Chandel nào đẹp hơn cái Chandel vừa rồi của tôi trên thế giới này. Chao ơi, sao mà nó sướng, sao mà nó đã, sao mà nó thú, không bút mực nào tả cho hết được. Bay như thế mới gọi là bay, mới là hào hùng, mới là xứng đáng là “Ôi phi công ... danh tiếng muôn đời...”

Quẹo xong tôi theo mửng cữ soạn lại, tiếp tục vào đáp và làm thêm mấy cái Chandel nữa. Tôi cảm thấy lúc ấy tôi không còn là một người phi công mới ra trường với số giờ bay chưa tới 3 trăm, mà là một anh hùng của KQVN. Giá có thằng Việt Cộng nào ngu dốt đi lạc vào phi trường thì tôi sẽ ủi cho nó xịt khói ra quần cho chúng nó biết tay người phi công trẻ này. Tôi cảm thấy phục tôi quá chừng.

Ở vòng đáp thứ bảy, đang biểu diễn ngon lành thì tự nhiên có tiếng gọi của đài kiểm soát phi trường trong nón bay:

- Mustang Alpha đây Nha Trang đài.

- Nha Trang, Mustang Alpha nghe năm.

- Có điện thoại từ phi đoàn gọi bạn về đáp gấp và vào trình diện phi đoàn trưởng. Mustang Alpha nghe rõ không bạn?

Tôi như muốn té xỉu trong tàu bay. Thế này là tàn một đời phi công vô kỷ luật. Phi Đoàn Trưởng ôi, tôi còn lạ gì? Ông ta là một hung thần xuất thân khóa 17 Đà lạt. Bình thường gặp ông ta không có tội lỗi gì mà đã thấy ngán, bây giờ giữa trưa vắng vẻ như thế này không lý ông ấy gội tôi về trình diện để kể chuyện đời xưa? Liếc mắt thật nhanh về phía phi đoàn, tôi mới biết là cuộc đời gian ác của tôi sắp sửa bế mạc thật. Rõ ràng là chiếc xe díp đen của ông ấy đang nằm “chình ình” ngay trước cửa phi đoàn. Lúc ấy tôi mới hiểu rõ cái chữ “teo bu gi” mà thiên hạ thường dùng để chỉ những phút giây con người sợ vãi đái ra quần nó như thế nào. Thê thảm lắm.

Đang còn chới với thì đài kiểm soát phang tiếp cho một chưởng:

- Mustan Alpha nhận rõ không bạn?

Tôi... mếu máo:

- Mustang Alpha nhận năm bạn.

Con đường từ phi đạo về đến bãi đậu phi cơ sao mà ngắn quá, tôi cứ mong cho nó dài ra, đừng bao giờ hết để tôi khỏi gặp phi đoàn trưởng tôi. Nhưng rồi cái giây phút kinh khủng ấy đã sắp phải đến. Tôi cặp nón bay lủi thủi bước vào phi đoàn ủ rủ như con chuột ướt, như một đứa con hoang trở về nhà cũ để nhận lãnh hình phạt sau khi đã phung phí hết tiền của. Tôi ngạc nhiên khi thấy phi đoàn lúc ấy đã có mặt đầy đủ văn võ bá quan. Ông thiếu tá phi đoàn trưởng đang chờ tôi trong văn phòng phía sau. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi nhìn thấy ai cũng nhìn tôi bằng một cặp mắt thương hại. Chắc họ đã đoán được cơn thịnh nộ sắp sửa dành cho tôi.

Sĩ quan trực ngày hôm đó là thiếu úy Hầu Văn Thùy Dương. Nó là một thằng tôi luôn luôn cho là cù lần cả quỷnh nhưng hôm nay tôi thấy thèm được cù lần như nó quá. Nó nhìn tôi rồi bấm máy interphone báo cáo:

- Trình thiếu tá, thiếu úy Nhị vừa vào. (Ông Tám lúc ấy còn mang lon thiếu tá).

- Anh gọi nó vào đây.

Tôi sửa sang quân phục, vuốt lại tóc tai. Thằng Dương bụm miệng kề tai tôi nói nhỏ:


- Số mày xui quá, thường thường giờ này ổng đâu có vô phi đoàn làm gì. Ổng để quên cái gì đó rồi chạy vào lấy là gặp ngay. Làm sao mà giấu được, tụi tao cũng chạy ra xem. Mày làm náo động cả phi trường Nha Trang. Ai bảo ngu ráng chịu. ĐM mày chuẩn bị 2 lỗ tai để nghe “mô ran” đi. Nhiều lắm là 2 tiếng và ít nhất là 1 tiếng. Xong phần “mô ran” là phần đi ủ tờ.

Nói xong nó lắc đầu nhìn tôi cười mỉm nửa như thương hại, nửa như thán phục. Tôi không nói gì. Tôi ngu thật, đúng như lời thằng Dương nói. Trong trạng huống này, tôi cảm thấy tôi ngu hơn cả con kiến.

Bước qua chỗ Lý Bững, ông trưởng phòng hành quân còn chơi nhẹ một câu:

- Bộ hết chỗ biểu diễn rồi hay sao mà về Nha Trang biểu diễn mày, làm như ở đây không có tàu bay chắc? Người thì nhỏ một chút mà sao bay bổng dữ dằn quá chừng...

Ông Tám là một con người cẩn thận. Mặc dù tội lỗi của tôi đã rành rành như vậy nhưng ông còn muốn xác nhận lại xem thử tôi vô tình hay cố ý mà “bay bổng kiểu gì kỳ quặc” vậy? Tôi thú nhận là tôi đã làm Chandel ở cuối đầu phi đạo.

Thế là cơn thịnh nộ của ông thiếu tá giáng xuống. Suốt gần 1 tiếng đồng hồ, ông phi đoàn trưởng trẻ tuổi khi la hét, khi nhỏ nhẹ, lúc khác đập tay thình thình xuống mặt bàn để cắt nghĩa cho tôi hiểu về bổn phận và trách nhiệm của một phi công trong thời chiến. Tôi không hiểu cái vụ Chandel của tôi vừa rồi nó có liên hệ gì về quốc hội Hoa Kỳ và tiền viện trợ như thế nào và đôi khi tôi cũng nghe được 2 tiếng này. Thỉnh thoảng tôi lại còn nghe được danh từ “phản quốc” và “phá hoại” mới chết chứ. Vì đã chuẩn bị... hai lỗ tai trước khi vào đây cho nên tôi không lấy gì làm khó chịu lắm. Thằng nào đi lính một thời gian rồi cũng học được cái nước tịnh khẩu này. Cứ để cho đàn anh chửi rủa cho hả cơn tức, tới một lúc nào đó đàn anh sẽ mỏi miệng rồi sẽ tốp lại. Sau đó mình sẽ đứng lên chào cái cốp rồi bước ra...

Nhưng tôi bỗng tỉnh hẳn người và cảm thấy quặn đau trong lòng như ai đâm vào đó một con dao khi ông phi đoàn trưởng chê cái Chandel của tôi:

- Anh nói anh làm Chandel hả? Chandel cái con khỉ gì. Tôi chưa thấy cái Chandel nào sai nguyên tắc, vụng về và xấu xí như cái Chandel của anh. Đó là “Xăng đan” của ba tàu Chợ Lớn chứ “Xăng đeo” gì.


Than ôi, nếu biết tôi bay dở như vậy thì thì tôi đâu thèm biểu diễn làm gì để ra nông nổi này. Tôi không buồn bao nhiêu vì sắp đi ủ tờ nhưng tôi đau đớn vì khả năng bay bổng của mình bị đánh giá tệ quá. Trong giây phút buồn phiền thất vọng, tôi chợt bi quan nghĩ rằng hay trời sinh mình ra chỉ để lái tới xe ... GMC là hết cỡ, sao lại lái tàu bay để chuốc lấy họa?

Tôi không nhớ mình ngồi đó thêm bao lâu nữa nhưng khi leo lên xe Quân Cảnh đi về Cải Hối Thất thì trời chiều đã bớt nắng. Tối đó, thay vì ăn chơi nhậu nhẹt với bạn bè, tôi phải nằm trong tù nhìn mấy con muỗi làm ... Chandel trong mùng tôi. Xem chừng bọn muỗi đói này làm Chandel hay hơn thiếu úy Nhị trưa này nhiều vì đã mấy lần tôi đưa tay định vỗ thì chúng đã lượn một vòng tuyệt đẹp, bay ngược ra sau rồi biến mất. Vồ hụt muỗi mấy lần, tôi phát cáu chửi thề: “Tiên sư chúng mày, học ở đâu mà làm Chandel đẹp quá thể, ông mà bắt được thì ông nghiền nát chúng mày ra cho tan đời muỗi...” Có thể nói, mỗi một con muỗi là một Fighter Pilot chính hiệu. Tuy tức tối nhưng tôi phục chúng nó.

Tôi đốt thuốc lá liên miên và tuy nằm trong một chỗ gọi là Cải Hối Thất, tôi chẳng thấy muốn hối cải chút nào hết. Chẳng những không biết hối cải, tôi còn tự rút ưu khuyết điểm để lần sau, nếu tôi có hành động gian ác nữa thì không ai có thể bắt được. Tôi lại nghĩ về cái Chandel ... quê mùa và bực tức sự ngu dốt của mình. Đúng là có mắt như mù.


Ông Tám chỉ cho tôi nằm xả hơi đến sáng thứ hai thì gởi sĩ quan trực xách xe đến đón tôi về. “Ở tù ra” tôi đâm khôn, làm gì cũng ngó trước tính sau, nhất định không để sơ xẩy như lần đầu nữa.

Rồi tôi cũng được tha cho đi bay hành quân. Trước khi đi biệt phái lần đầu tiên, tôi được phi đoàn trưởng gọi vào trình diện. Một lần nữa, tôi chuẩn bị hai cái lỗ tai để nghe “mô-ran” nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy ông Tám tỏ ra thân mật với tôi. Tôi còn được mời hút thuốc lá 3 con 5 mới là ly kỳ. Ông phi đoàn trưởng tâm sự với tôi một câu mà tôi không thể nào quên được:

- Tôi biết anh là một con người ba gai nhưng anh có tâm hồn và tài năng. Tôi sẽ huấn luyện để anh trở thành một cán bộ nồng cốt của phi đoàn. Phần anh, anh phải cố gắng, đừng cậy mình có tài mà bê bối. Anh phải luôn luôn ghi nhớ mình là một sĩ quan của QLVNCH, phải giữ gìn tư cách và tác phong.

Kể từ ngay đi lính đến giờ đó là gần 3 năm, tôi luôn luôn bị nghe chửi, đây là lần đầu tiên tôi được khen là “có tâm hồn và tài năng” nên rất lấy làm sung sướng. Sẵn trớn, tôi muốn hỏi xem cái Chandel tôi làm ngày nào có quả thực là xấu xí và quê mùa không nhưng tôi tốp lại kịp thời. Không nên nham nhở với phi đoàn trưởng quá, để rồi từ từ hỏi sau cũng được...

Rồi tôi nhận phi vụ lệnh xách tàu đi biệt phái ở một chiến trường hung hản nhất của vùng II chiến thuật lúc đó: Chiến trường Tam Biên Pleiku-Kontum. Giặc vừa mở một loạt tấn công khắp các nơi để mở màn cho một trong những mùa hè tang tóc và kinh hoàng nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam mà nhà văn Phan Nhật Nam gọi là “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Tôi còn nhớ trong bay từ Nha Trang đến Pleiku lần đầu tiên ấy, leo lên 8 ngàn 500 bộ, trên tôi là mây, dưới chân tôi là đồi núi trùng trùng điệp điệp. Phong cảnh hùng vĩ và tươi đẹp của quê hương lúc trời rạng đông làm cho lòng tôi dâng lên một cảm xúc bồi hồi khó tả. Trong một thoáng, tôi cảm thấy mình không còn là một phi công vô kỷ luật nữa mà trở nên trầm lặng như một nhà hiền triết. Sau bao nhiêu tháng ngày học tập, đây là lúc tôi có thể thi thố tài năng để đền ơn cho tổ quốc. Tôi lại cảm thấy tôi mang nợ với đất nước này nhiều quá. Lúc nhỏ, tôi mang nợ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Lớn lên tôi mang nợ công ơn giáo dục của thầy. Vào lính hơn 2 năm qua, tôi chỉ cắp sách và nón đi học để trở thành một phi công. Giữa lúc mà những người cùng tuổi tôi phải nằm gai nếm mật, vượt rừng lội suối, đem máu đào ra gìn giữ từng con đường từng tấc đất của quê hương thì tôi suốt ngày hết bay lên rồi lại bay xuống. Tôi tự nguyện với lòng mình là sẽ sử dụng hết khả năng mình để làm việc đền ơn cho tổ quốc.

Bạn có bao giờ đưa cho một đứa con nít một cây súng thiệt rồi bảo nó đi săn với bạn chưa? Khổ sở lắm, vì đứa con nít đó luôn luôn hăng tiết vịt, gặp cái gì cũng muốn bắn phá, rồi hết chòng ghẹo người này lại đến phá phách người khác. Thằng con nít còn đỡ hơn là tôi, một phi công trẻ với món đồ chơi mắc tiền là chiếc phi cơ. Chỉ vài ngày sau thôi là điện thoại gọi tới tấp về phi đoàn để báo cáo và than phiền về những hành vi vô kỷ luật của tôi trên trời. Lúc ấy ở chiến trường, tôi nào co biết sợ là gì? Vùng phòng không đan kín trời ai cũng né thì tôi lại lù lù dẫn xác vô bằng một cao độ mà AK bắn chắc cũng rớt. Tôi nghĩ bọn xạ thủ Việt Cộng phải bắn dở lắm vì tôi chẳng hề bị gì cả. Chẳng phải là tôi gan dạ hay ngon lành gì, chẳng qua chỉ vì chưa biết nên chưa sợ đó thôi. Đâu đã hết, nhiều lúc tôi còn đi lạc vào vùng có tác xạ pháo binh đang TOT (Pháo tập trung bắn từ nhiều nơi đến một chỗ, một lần) của hàng trăm khẩu vừa Tây vừa Ta. Tôi nào có biết. Đến khi nhìn thấy hàng trăm đóa hoa đất tự dưng nở tung tóe ngay dưới chân mình thì mới giật nẩy mình lên, hốt hoảng ... chạy lấy người. Ai đi bay với tôi cũng đều than phiền.

Một buổi sáng, đích thân ông phi đoàn trưởng xách chiếc U-17 lên Pleiku đi điều tra tình hình. Khi chiếc tàu của ông vừa đáp thì một cơn mưa pháo của giặc cũng ào ào rớt xuống làm cho ông Tám càng giận thêm. Chỉ vì thằng thiếu úy mất dạy mà ông phải khổ sở như thế này. Gặp tôi, ông phùng mang trợn mắt xài xể và hăm dọa một lúc rồi đi một vòng thăm nơi ăn chốn ở của anh em, hỏi han dặn dò rồi ra về.

Tôi có bớt đi chút ít nhưng sau đó thì vẫn chứng nào tật ấy.

Một ngày nọ, tôi chở một ông đại úy bộ binh của phòng 2 tiểu khu Pleiku đi thám sát. Vừa quay máy tàu xong, đang tà tà di chuyển phi cơ thì phi trường bị pháo kích. Tôi nghe đài kiểm soát la ùm trong tần số, thông báo phi trường đóng cửa, tất cả các phi vụ bị tạm thời đình chỉ, yêu cấu tất cả các phi cơ đang di chuyển trở về bến đậu. Dĩ nhiên tất cả các phi cơ khác đều quay lui về ụ, chỉ còn mình tôi tiếp tục lang thang trên đường taxiway, coi lệnh lạc của đài kiểm soát chẳng ra gì, coi pháo giặc cũng chẳng ra gì luôn. Chẳng phải vì tôi ngon lành gì nhưng nghe bị pháo mà nhìn quanh tôi chẳng thấy trái pháo nào rớt cả nên cứ giả vờ như mình không biết. Quả đúng là “chưa có thằng nào ngu hơn thằng này.” Tôi không muốn trở về bến đậu vì trời Pleiku vào khoảng 2 giờ trưa, mùa hè nóng bức vô cùng. Hơi nóng từ trên cao đổ xuống, từ mặt đất bốc lên, làm cả 2 người ngồi trong phi cơ như ngồi trong lò bánh mì. Nghĩ đến cái cảnh phải trở về bến đậu rồi cà kê với mớ đồ nghề lỉnh kỉnh, tháo dù, cất dù, tôi đâm ra làm biếng. Tôi chỉ muốn cất cánh mau rồi leo lên chừng 5, 6 ngàn bộ cho nó được mát mẻ một chút. Ông sĩ quan bộ binh phòng 2 đi bay với tôi thì dĩ nhiên không có ý kiến gì rồi.


Đến cuối đường bay, tôi bấm máy gọi xin ra phi đạo cất cánh. Mấy ông đài kiểm soát nãy giờ tưởng tôi bị hư vô tuyến, bây giờ mới bật ngữa. Mấy cha la hoảng lên như bị ai bóp dái:

- Mustang 12, đài kiểm soát gọi bạn nãy giờ không được. Phi trường đóng cửa, đài kiểm soát yêu cầu bạn trở về bến đậu gấp.

- Bạn cho tôi ra cất cánh... đại cái đi bạn. May ra tôi còn tìm thấy pháo chúng nó để phản pháo.

- Negative! Đài kiểm soát thông báo một lần nữa, yêu cầu Mustang 12 trở về bến đậu gấp.

Ngay lúc đó, hình như tôi nhìn thấy được một cụm khói đen bốc lên ở đâu đó trong phi trường, dấu hiệu pháo bắt đầu rớt. Nguy cấp rồi, khỏi thèm cãi vã với mấy cha đài kiểm soát này làm chi, tôi bèn tự động tống ga nhào ra phi đạo rồi đẩy cần ga lút cán. Chiếc L-19 chồm tới trước, chỉ vài trăm thước là hỏng bánh ngay. Tôi kéo tàu lên, quẹo gắt ra khỏi phi trường, trong tai vẫn còn nghe mấy ông đài kiểm soát lải nhải. Tôi cười hì hì, nói thầm với mình: “Mẹ, biết rồi, khổ lắm, nói mãi...”


Hành động điên rồ của tôi, nếu ở một hoàn cảnh khác thì có thể đã bị treo cánh bay vĩnh viễn, nhưng ở một vùng địa đầu giới tuyến, giữa lúc cường độ chiến trường như vậy, tội của tôi được coi là nhẹ. Tuy nhẹ nhưng điện thoại cũng gọi tới tấp về biệt đội và phi đoàn. Hết ông an phi sư đoàn rồi đến ông an phi không đoàn thay phiên nhau mắng vốn về tôi. Tôi nghĩ đến cảnh ông trung tá Tám lại một phen nữa phải vểnh tai ra nghe thiên hạ xài xể vì có thằng thiếu úy du côn mà không biết dạy. Chiếu đó về biệt đội, ông biệt đội trưởng, đại úy Huy gọi tôi ra một góc, mặt mày hầm hầm:

- ĐM sao mà tôi chán cái ông quan con này quá, lại có chuyện rồi. Ông Tám mới gọi ra, xỉ vả tao tưng bừng...

- Em biết rồi, chuyện cất cánh hồi chiều chứ gì?

- Tụi an phi nó bảo ông cất cánh không có lệnh đài kiểm soát, làm bộ hư vô tuyến, đủ thứ...

Tôi đáp tỉnh queo:

- Trời đất, vô tuyến của em hư thật, lúc nghe được lúc không. Đến chừng nghe đài kiểm soát bảo đóng cửa phi trường thì pháo nó rớt gần quá, em hoảng hồn cất cánh luôn. Teo quá, chỉ sợ chết...

Nói xong tôi còn làm bộ dậm chân dậm cẳng như là mình vô tội mà bị oan ức lắm. Đại úy Huy không biết phải nói gì, đành than thở:


- Cái phi đoàn này ngày ông chưa về thì nó yên thế mà bây giờ ngày nào cũng có chuyện. Thôi chuẩn bị mồm mép đi để lúc đổi biệt đội về trình diện ông Tám. Mấy ngày còn lại, ông bay với tôi. Cấm không được lạng quạng, nghe rõ không ông thần?

Tôi gật đầu sốt sắng. Lúc quay trở vào, tôi còn nghe đại úy Huy lẩm bẩm đằng sau lưng: “Đù mẹ sao mà tôi chán ông quan con này quá, lúc nào cũng sinh chuyện được.”

Đến ngày đổi biệt đội, tôi vừa đáp xuống phi trường Nha Trang thì đã thấy chiếc xe díp của phi đoàn trưởng đậu sẵn. Người tài xế mời tôi lên xe rồi chở thằng về phi đoàn. Tôi vào trình diện ông Tám.

Tôi có thể lừa được nhiều người nhưng ít khi nào lừa được phi đoàn trưởng của tôi. Làm một cánh chim đầu đàn mà không biết mấy cái mưu chước vặt của đàn em thì làm sao trị được những thằng phi công vô kỷ luật cỡ như tôi. Chỉ vài câu hỏi hóc búa thôi là cái tội nói láo của tôi bị lòi ra ngay. Thế là một lần nữa hết đời tên gian ác.

Chiều hôm đó, sau 15 ngày biệt phái, thay vì được về nhà ăn nhậu như những người khác thì tôi lại lóc cóc leo lên xe Quân Cảnh trực chỉ Cải Hối Thất. Sao mà tôi ghét những chiếc xe díp nhà binh như thế này. Người ta thường ngồi lên đó lái đi phom phom coi rất oai phong lẫm liệt còn tôi thì chỉ ngồi lên để đi trình diện xếp lớn hay đi tù. Ngồi trên xe, tức quá mà chẳng biết làm gì, tôi đành lôi mấy thằng đài kiểm soát Pleiku ra mà nguyền rủa. Tiên sư chúng nó, đúng là chuyện bé mà xé ra to để tôi phải đi tù...


Có lẽ chỉ muốn dằn mặt ông thiếu úy du côn một chút thôi nên sáng sớm ngày hôm sau tôi được thả ra. Lần này tôi được ông Tám cho một đại úy lái xe díp (lại xe díp) đi đón tôi và tôi được tặng một tờ giấy phép 5 ngày với nhiều lời nhắn gởi...

Sau đó, bẵng đi một thời gian đến mấy năm, tôi không còn nhớ cái hình dáng của Cải Hối Thất nó tròn hay méo như thế nào nữa. Chẳng phải vì tôi trở nên tốt lành gì nhưng càng lớn thì tôi càng khôn ra, làm gì cũng cẩn thận, ngó trước dòm sau chứ không ào ào như những ngày xưa...

Tôi trưởng thành dần theo cuộc chiến cho đến lần xảy ra vụ ở tù lần thứ tư....

Khoảng đầu năm 1974, giặc bỗng tấn công và tràn ngập đồn Bu Prăng. Cái đồn địa phương quân này có một vị thế chiến lược quan trọng vì nó nằm giữa con lộ duy nhất nối liền Quảng Đức và Ban Mê Thuột.
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Quận lỵ Quảng Đức, vốn đã từ lâu “sống âm thầm cô độc” giữa những khu rừng già trùng trùng điệp điệp nên chịu số phận hẩm hiu: Chỉ là miền đất lạnh lẽo dành cho những kẻ bị lưu đày. Bộ binh ở đây toàn là những kẻ ngang tàng và hào sảng như thiếu tá Trương Minh Dũng, tham mưu trưởng tiểu khu Quảng Đức. Thiếu tá Dũng, “người anh em” của phi đoàn 114, xuất thân khóa 1 hay khóa 2 Thủ Đức, vừa ra trường là gia nhập binh chủng nhảy dù, đánh hàng trăm trận lớn nhỏ trước khi được tổng thống Diệm đưa qua địa phương quân để vừa làm cán bộ vừa nâng cao khả năng chiến đấu của những đơn vị này. Gần mấy chục năm máu lửa và sương gió trên khắp nẻo quê hương cũng chỉ được nhà nước nhớ ơn bằng cặp lon thiếu tá khiêm nhường trên cổ áo. Phi đoàn tôi từ nhỏ tới lớn ai mà không biết hoặc không quen thiếu tá Dũng với cái điếu cày thuốc lào luôn luôn có trên tay. Cái điếu cày bằng nhôm màu bạc này là vật bất ly thân của thiếu tá Dũng dù trên chiến trận, trong tàu bay L-19, nơi phòng họp hành quân với tư lệnh quân đoàn, hoặc ở các phòng trà nhảy đầm danh tiếng của thủ đô Sàigòn những lần về phép. Cái con người ngang tàng lạ lùng này của quân lực còn là một nhà thơ nỗi tiếng với những bài như “Nỗi buồn của Hạ”, “Xuân Cao Nguyên”, “Bỏ phố lên rừng...” Riêng bài Bỏ Phố lên rừng lúc ấy đã được Châu Kỳ phổ nhạc, nghe rất hay.


Về phía không quân thì đi biệt phái Quảng Đức cũng coi như khăn gói đi tu 15 ngày. Cả thành phố chỉ có được một khu chợ chính nằm trên con đường dài không quá 100 thước, khách bộ hành, vừa đi vừa nghỉ, cũng chỉ cần 5 phút là về chỗ cũ.

Nhỏ vậy, nghèo vậy, hiền lành như vậy, nhưng Quảng Đức với tôi có nhiều kỷ niệm vô cùng. Ai cũng sợ đi Quảng Đức, chỉ có mình tôi, đại úy Hưởng, đại úy Nhơn là cóc cần vì chúng tôi đã có “bùa”. Chiều chiều, chúng tôi hay rủ rê anh em xách tàu bay qua Lâm Đồng nhậu nhẹt với thiếu tá Dũng hay lên Đà Lạt hay qua Ban Mê Thuột chơi. Quảng Đức là một quận ly hiền lành, dường như giặc cũng chê cái thành phố này cho đến hôm nay.

Lấy xong Bu Prăng, con cháu giặc Hồ còn chơi bạo, tính kéo luôn quân về vây hãm Quảng Đức. Thế là chúng tôi có nhiều việc làm.

Chiến dịch tái chiếm Bu Prăng, vào lúc căng thẳng nhất, đã có đến 6 phi hành đoàn L-19 túc trực ngày đêm để làm việc với 1 liên đoàn Biệt Động Quân, 1 trung đoàn của sư đoàn 23 bộ binh và chiến đoàn III xung kích LLĐB. Rất từ từ nhưng quân ta cũng chặt đứt được khúc đuôi của giặc, giải tỏa áp lực cho Quảng Đức đồng thời tiến gần trở lại Bu Prăng.

Tôi bay lên biệt phái cho Quảng Đức một thời gian thì một buổi trưa, vừa về đáp sau một phi vụ, tôi đang nằm ngủ trong căn nhà của biệt đội. Sáng đó, tôi bay sớm và bay lâu nên về nhà thì mệt nhoài. Tôi cũng không còn nhớ lúc ấy những phi hành đoàn khác đã bỏ đi đâu mà chỉ còn có mình tôi ở lại biệt đội. Tôi nghĩ họ chở nhau đi ăn cơm.


Đang nằm thiu thiu thì bỗng có một chiếc xe díp nhà binh phóng như bay rồi thắng kít ngay trước cửa biệt đội. Bụi đỏ tung mù trời phủ mờ chiếc xe díp và hình ảnh mấy ông mặc áo rằn ri không rõ lon lá đang phóng xuống chạy như bay vào. Biệt đội Quảng Đức chúng tôi trú ngụ trong một căn nhà xây xi-măng. Từ đầu tới đuôi căn nhà, chúng tôi kê đúng 12 cái giường bố sắp thẳng băng sát cạnh nhau như trong một cái bệnh viện. Giữa nhà là một chiếc bàn con và cái điện thoại để liên lạc với trung tâm hành quân tiểu khu và sĩ quan liên lạc không quân. Chiếc bàn con này coi vậy mà làm được nhiều việc. Nó vừa là nơi họp hành quân, nơi ăn uống, nơi đánh bài và dĩ nhiên, cũng là bàn rượu khi rỗi rảnh. Giường tôi nằm khá xa phía trong.


“Mẹ, lại có chuyện rồi, thế là mất tiêu buổi ngủ trưa,” tôi vừa cằn nhằn vừa trở mình nhìn ra, chỉ hy vọng mấy ông mặc đồ rằn ri đổi hướng khác, không bước vào đây.

Nhưng họ không đổi hướng, cứ xăm xăm đi vào. Chẳng biết mấy ông muốn gì đây mà bộ tịch coi ghê quá. Tôi liền dựng người trở dậy, thọc vội cái áo bay vào người, kéo xong phẹc mơ tuya thì mấy ông rằn ri cũng vừa tới trước mặt. Thì ra toàn là những sĩ quan của Sở Liên lạc Nha Kỹ Thuật, phù hiệu đỏ chói của Tổng Tham Mưu bên tay trái và huy hiệu chiếc dù có con cọp hay con beo gì đó trước ngực. Theo trí nhớ của tôi thì có 1 ông trung úy và 2 ông đại úy, mặt mày ai nấy coi có vẻ nghiêm trọng vô cùng.

Tôi chưa kịp đưa tay chào mấy ông sĩ quan lớn lon hơn tôi theo đúng lễ nghi quân cách, chưa kịp nói gì thì một ông đại úy hỏi:

-.... Em là phi hành đoàn duy nhất ở đây?

Theo thói quen học được từ những ngày còn ở trường bộ binh Thủ Đức, tôi cung tay chào mấy quan Lôi Hổ:

- Dạ đúng đại úy, không biết mấy ông kia đi đâu hết rồi. Đại úy cần gặp ai?

Nghe như thế thì khuôn mặt mấy người sĩ quan Nha Kỹ Thuật thoáng lên vẻ thất vọng. Tôi kéo mấy cái ghế sắt:

- Mời đại úy và quí vị ngồi chơi, tôi xin phép đi xỏ đôi giày.

Họ cám ơn tôi rồi cùng nhau xầm xì to nhỏ gì đó. Tôi bình thản ngồi xuống giường mang giày vớ. Mặc áo nhà binh lâu, tôi đã quá quen với những bất ngờ, những bấc trắc của cuộc chiến nên đã học được cái tính phớt tỉnh Ăng Lê. Chuyện gì xảy ra, tin tức gì cũng chẳng làm cho tôi bận tâm. Thêm vào đó, hồi đó tôi đang trở chứng, muốn tìm hiểu và đang đọc các loại sách nói về Kinh Dịch, về luật Âm Dương của tạo hóa nên trở nên là đà, mặt mày lúc nào cũng đăm chiêu tư lự và chán đời như ông Trang Tử ngày xưa.


Mang giày xong, tôi ra kéo ghế ngồi giữa mấy ông sĩ quan Nha Kỹ Thuật, châm lửa một điếu thuốc:

- Nếu đại úy muốn kiếm ông biệt đội trưởng, đại úy có thể dùng điện thoại đây gọi về cho trung tâm hành quân tiểu khu. Mấy ông “Alo” (sĩ quan liên lạc không quân) chắc biết ổng ở đâu.

Một ông đại úy lên tiếng sau một vài giây ngần ngừ:


- Chúng tôi có một việc cần anh giúp đỡ, nếu anh giúp được chúng tôi cám ơn anh vô cùng.

Lời nói khẩn thiết và chậm rãi của vị sĩ quan Nha Kỹ Thuật làm cho tôi ngạc nhiên. Một thằng thiếu úy không quân hạng bét như tôi thì giúp gì được mấy ông rằn ri thứ dữ này ? Nhưng cứ nhìn điệu bộ và cách ăn nói thì mấy ông này giữa trưa lái xe tới đây không phải để đùa dai với tôi. Trong một giây phút, tôi cảm thấy khoái chí vì mình tự nhiên được trở nên một nhân vật quan trọng.

Tôi nhíu mày:

- Đại úy cần gì, xin đại úy cứ cho biết...


Người sĩ quan Nha Kỹ Thuật nhìn thật sâu vào mắt tôi, nói chậm rãi và bằng tất cả những sự thống thiết của một con người:


- Một toán Lôi Hổ của tôi thả xuống lần trước đã bị Việt Cộng phát hiện, bị bao vây và tấn công mấy ngày. Tụi nó đã chạy thoát được nhưng đang bị phân tán mỗi người một nơi và lạc trong rừng. Tôi muốn nhờ... thiếu úy, muốn nhờ... em giúp tôi bay lên để gom chúng nó về một LZ an toàn.

Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tưởng gì chứ đi bay kiếm Lôi Hổ bị lạc và chọn bãi đáp thì quá thường đối với tôi. Tôi chịu nhất là cái tài chiếu kiếng của mấy ông này. Nhiều khi tôi bay rất cao, giữa rừng già thăm thẳm mênh mông mà mấy ông chỉ cần chiếu một phát là tôi nhìn thấy ngay. Chà bù với mấy ông bộ binh, nhiều khi chiếu cả ngày cũng chẳng thấy đâu. Nhưng một phi vụ đơn giản như thế thì tại sao lại khổ sở vào đây để kiếm tôi?

Tôi nói ngay:


- Có gì đâu đại úy, đại úy cứ việc gọi về trung tâm hành quân, request một phi vụ là tôi cất cánh liền.


Ông đại úy lắc đầu:

- Nếu xin được thì tôi đâu có đến đây kiếm anh.

Thì ra vậy. Số là, không quân chúng tôi khi được biệt phái đi bay yểm trợ cho các đơn vị bạn, mỗi ngày trung tâm liên lạc hành quân đều thông báo cho bộ tư lệnh chiến trường biết có bao nhiêu tàu khả dụng, bao nhiêu phi vụ có thể cất cánh được. Số phi vụ này được tư lệnh chiến trường, tùy theo mức độ cần thiết và nhu cầu, chia ra cho các đơn vị tham chiến. Khi 1 đơn vị cần phi cơ yểm trợ, họ chỉ việc gọi cho trung tâm liên lạc hành quân. Nơi này, tùy theo số lượng phi vụ đã được cấp phát trước, sẽ cho chúng tôi cất cánh để làm việc với họ. Tôi không tò mò hỏi thêm nhưng biết chắc có lẽ đơn vị Lôi Hổ này đã xài hết những phi vụ của mình, hoặc vì tình trạng thiếu thốn máy bay, không xin được 1 phi vụ nào cả, đành phải đau xót nhìn những đứa con của mình bị rượt đuổi giữa rừng già.

Đối với chúng tôi, ngoài những phi vụ huấn luyện hay bay thử phi cơ, cất cánh không có phi vụ lệnh đàng hoàng là sẽ bị ở tù hoặc đưa ra tòa án quân sự. Thân bại danh liệt là cái chắc. Thật ra, trong suốt cuộc đời bay bổng, chúng tôi cũng đã nhiều lần cất cánh lậu để đi ăn nhậu hay chở bạn bè đi chơi nhưng chúng tôi đều luôn luôn có phép ngầm của trung tâm liên lạc hành quân. Nhiều khi, những người hành khách mà chúng tôi chở đi chẳng ai khác hơn là ông sĩ quan trưởng phòng liên lạc hành quân dù đi chơi hoặc bạn bè của ông ta. Nhưng đó là chuyện thời bình, khi không có việc gì để làm. Điềm quan trọng là trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng tôi không bao giờ dám cất cánh lậu mà trung tâm liên lạc hành quân không biết. Hôm nay, giữa lúc khói lửa ngút trời như thế này, không ai dám nghỉ đến việc xách tàu đi đâu.

Tôi đã tính lắc đầu. Chuyện của thiên hạ thì mắc mớ gì tới mình mà bày đặt. Hơn nữa, cái tiếng tăm của tôi trong phi đoàn lúc ấy đã quá nổi. Không phải nổi nhờ những cái hay mà toàn là những chuyện bê bối và “gian ác.”

Tết vừa rồi, ngày mùng 3, tôi bay mấy trăm dặm đường về Ban Mê Thuột để chúc Tết và nói chuyện đầu năm với thân phụ. Sau một ly trà nóng, ông đã bảo tôi bằng một giọng buồn buồn và mệt mõi rằng: “Con đã lớn tuổi, phải sửa lại tính tình để lo cho tương lai, không thể sống mãi như một người vô trách nhiệm.” Cái chết của thằng em ruột tôi, trung sĩ Lê Xuân Bích tại trận Tân Cảnh năm 1972 đã đem tang tóc vào nhà tôi và làm cho ông buồn bã vô cùng. Tôi nhớ, khi em tôi vừa ra trường Đồng Đế, về sư đoàn 23 bộ binh, nhiều người đã bảo ông sao không chạy chọt cho nó được một chỗ ấm thân. Thân phụ nghiêm mặt trả lời: “Nếu ai cũng lo chạy chọt như mình thì chính phủ lấy người đâu mà đánh giặc. Hơn nữa, nhà nghèo quá, tiền ăn còn không có thì lấy tiền đâu ra mà chạy chọt.” Thật là một lời nói đau buồn nhưng không phải không có lý. Hình như cái chết của thằng con trai đã ám ảnh ông. Thân phụ không còn như xưa nữa. Nghĩ đến thân phụ tuổi đã cao, lại khổ cực cả một đời vì con cái nên tôi có thành tâm hối cải, tính tu thân để trở thành một “cán bộ nồng cốt của phi đoàn” như lời dạy dỗ của phi đoàn trưởng. Nhưng số tôi làm như không có... căn tu cho nên lâu lâu cứ bị dây dưa vào những chuyện đâu đâu.


Tôi suy nghĩ sâu hơn nữa. Nhìn những vị sĩ quan của Nha Kỹ Thuật ngồi trước mặt, lòng tôi bỗng tự dưng dâng lên một niềm kính phục kỳ lạ. Giữa lúc có nhiều ông sĩ quan cao cấp đem bán cả gạo, cả súng đạn cho giặc thì những con người Việt Nam này, những sĩ quan trẻ tuổi này, mặt mày lo âu, mắt ai nấy ngầu đỏ vì thiếu ngủ đang ngồi chờ sự quyết định của tôi. Nếu tôi đồng ý, các vị sẽ cứu được những người lính của mình, những người tuy không phải bà con ruột thịt nhưng tình chiến hữu còn khắng khít còn cao hơn máu mủ ruột thịt. Nếu tôi từ chối, chẳng ai làm gì tôi cả và tôi sẽ không bị lôi thôi rắc rối với phi đoàn hay pháp luật. Nhưng nếu làm vậy, tôi biết những người lính Lôi Hổ anh dũng kia có thể bị giặc bắt hay tàn sát và lương tâm tôi, cái lương tâm của một sĩ quan QLVNCH, dù mang một cấp bậc rất nhỏ là thiếu úy sẽ dằn vặt sâu xé tôi suốt đời.

Tôi lại nghĩ đến những lần cất cánh trái phép để đi chơi bời, đi ăn nhậu. Xăng chính phủ, tàu bay chính phủ, tôi sử dụng trái phép như thế chẳng khác gì tôi phạm tội tham nhũng, ăn cắp của công. Tôi chửi bới người khác tham nhũng, còn tôi, ai sẽ chửi bới tôi? Lớn ăn theo lớn, nhỏ phá theo nhỏ, còn gì là cái gia tài của quốc gia?

Ông đại úy Nha Kỹ Thuật mời tôi điếu thuốc. Ông cười... cầu tài. Tôi thấy nụ cười của người đàn anh trong quân đội sao vừa buồn mà lại vừa oai dũng, vừa chịu đựng, lại vừa quyết liệt. Ông nói, giọng như người anh khuyên bảo đứa em trai:

- Thiếu úy cứ tính đi. Anh em chúng tôi không muốn làm cho thiếu úy kẹt. Nhưng nếu giúp được chúng tôi, chúng tôi sẽ cám ơn vô cùng...


Vì trách nhiệm, vì tình chiến hữu sắc son, vì muốn cứu mấy người lính của ông ta, một vị đại úy oai hùng của Nha Kỹ Thuật đã mời thuốc lá và cười cầu tài với một chú thiếu úy oắt con như tôi. Tôi bỗng thấy trái tim mình như rướm máu, lòng dạ xót xa bồi hồi. Tự nhiên, tôi thấy thương quân đội tôi, dân tộc tôi vô cùng. Ngày nào quân đội tôi còn những sĩ quan như thế này, ngày đó chúng tôi và những người đàn em của ông ta còn có lý do và để hãnh diện chiến đấu. Quân đội tôi, cái quân đội nghèo nàn bắt đầu không phải từ con số không mà từ con số trừ to lớn bởi vì đã bị bóp méo coi thường ngay từ những giây phút đầu tiên. Bọn CS đã lòe được thiên hạ để mang cái võ “Quân đội Nhân dân” bên ngoài. Chúng tôi, những chiến sĩ của nhân dân thật sự thì lại mang tiếng là lính hậu thân của quân đội thuộc địa. Hàng bao nhiêu năm qua, bạn cũng như thù, đã đem quân đội tôi ra mà nhục mạ, bêu xấu, hành hạ đủ điều.


Tôi không phủ nhận quân đội tôi đã có những thằng tướng hèn, tướng phản bội, tướng nối giáo cho giặc. Nhưng, trên cõi đời này, có cái gì là tuyệt đối? Những bê bối, những xấu xa, quân đội nào chả có đâu phải chỉ riêng mình quân đội tôi.

Chính những người sĩ quan của một binh chủng hung hãn nhất quân lực ngồi trước mặt tôi ngày hôm nay làm cho tôi nghẹn ngào mà hãnh diện, vui mà buồn. Tôi nhớ đến cái chết của thằng em tôi tại chiến trường Tân Cảnh ngập máu năm nào. Mỗi lần nghĩ về em, lòng tôi như bị ai đâm lút cán một lưỡi dao. Tôi lại nhớ đến lời nói của thân phụ: “Không thể sống mãi như một người vô trách nhiệm.” Trách nhiệm của tôi, một sĩ quan xuất thân trường bộ binh Thủ Đức, một phi công của QLVNCH trong hoàn cảnh này là gì? Là bằng mọi cách, phải cứu cho bằng được những chiến sĩ Lôi Hổ can trường kia. Tôi cũng đã suy nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra cho tôi. Đi tù, “cát xê ga lông”, ra tòa án quân sự vân vân. Và cũng có thể, sẽ chẳng có gì xảy ra cho tôi hết. “Không thể sống mãi như một người vô trách nhiệm” câu nói của thân phụ lại trở về ám ảnh lấy tôi.

Tôi gật đầu, mặt đanh lại với câu nói quyết định:


- Được, tôi sẽ cất cánh mà khỏi cần phi vụ lệnh. Đại úy cho người đi bay với tôi.

3 khuôn mặt đang buồn thảm bỗng trở nên sáng ngời như những vì sao. Vị đại úy đứng dậy, đưa hai tay ra nắm lấy vai tôi, giọng hớn hở như đứa con nít được quà:

- Em... em bay cho tụi tôi thật à? Thế thì quý hóa quá, hay quá, tốt quá. Thế mới là huynh đệ chi binh chứ. Mà cất cánh... bất ngờ như vậy có sao không? Có kẹt gì cho em không?


Đã lỡ giúp, tôi đành giúp cho trọn

- Không sao đâu đại úy, cùng lắm thì bị phi đoàn trưởng xài xể chút thôi.


Tôi đứng dậy ra đầu giường để chuẩn bị dụng cụ phi hành. Khi thấy tôi lôi cây AK-47 từ trong góc giường ra, một người hỏi:

- Anh thích xài AK ư?


Tôi hãnh diện khoe:

- Dạ, quà của trung tá Xuân, tham mưu trưởng quân đoàn cho đấy.

Tôi vốn là một thằng ngược đời. Thằng Hiệp, bạn thân nhất có lần bảo tôi: “Con người mày nó kỳ lạ làm sao ấy. Mày luôn luôn phải có tí gì khác người thì ăn cơm mới thấy ngon. Thiên hạ đeo súng ở thắt lưng thì mày đeo ở nách, đeo lon ở vai thì mày đeo ở cổ, xài M-16 thì mày lại thủ AK coi cứ như một thằng du kích Việt Cộng. Anh em khoái đánh bài thì mày tối ngày cứ ôm mấy cuốn sách mà đọc, thích nói chuyện chơi bời thì mày lại giảng Kinh Dịch, bàn chuyện tử vi tướng số hoang đường và triết lý lẩm cẩm. Không biết chừng nào mày mới khá được như chúng tao.”

Tôi phóng lên chiếc xe díp của Nha Kỹ Thuật. Ông đại úy lái xe, tôi leo ra phía sau ngồi nhưng ông ta nhất định không chịu, bắt tôi ngồi ghế trước với ông. Từ chối không được, tôi đành phải ngồi ở ghế trước. Ông đại úy và ông trung úy kia ngồi sau. Ông đại úy ngồi sau khom tới trước, đưa cho tôi coi tấm bản đồ với những khoanh màu xanh màu đỏ đủ thứ và bắt đầu briefing. Đã bay vùng này mấy năm nên tôi chẳng lạ gì, nhìn qua là tôi nhớ liền. Sau vài phút đồng hồ, tôi đưa một ngón tay lên trời ra dấu nhận và hiểu.


Xe phóng thẳng lên phi trường Quảng Đức là một quả đồi nhỏ. Tôi lên tàu quay máy, chở ông đại úy bay tới vùng làm việc.


Chừng 2 tiếng đồng hồ sau tôi đem tàu về đáp. Cả tôi và vị sĩ quan Nha Kỹ Thuật hả hê sung sướng vì phi vụ coi như thành công mỹ mãn. Ông ta đã kiếm được hết mấy đứa con đi lạc và gom họ hướng về một LZ an toàn. Ngày mai sẽ có một hợp đoàn trực thăng lên bốc họ về.


Di chuyển tàu về tới bến đậu, tôi loáng thoáng trông thấy mấy cái áo bay nhấp nhô ở đàng xa. Một dấu hiệu không tốt. “ĐM lại có chuyện rồi”, tôi lẩm bẩm. Biết thế nhưng giờ phút này không phải là giờ phút để hối hận. Muốn ra sao thì ra, tôi cóc cần.


Tắt máy xong, tôi tháo mũ bay, chụp cây AK và leo xuống tàu, bình thản, tự tín. Chiếc xe díp của Nha Kỹ Thuật ào tới như một cơn lốc. Vị đại úy Nha Kỹ Thuật nọ bước xuống, thân mật đưa tay cầm lấy nón bay của tôi:

- Để tôi đưa em về, mình ghé qua tiệm cơm kiếm chút gì bỏ bụng. Cám ơn em rất nhiều. Tối nay anh em chúng tôi ngủ yên giấc được rồi.

Khuôn mặt ông ta rạng rỡ dưới ánh nắng vàng của chiều cao nguyên Quảng Đức. Tôi đứng yên, hất đầu về phía có nhóm người đang mặc áo bay:

- Cám ơn đại úy nhưng chắc tôi phải cất cánh phi vụ kế tiếp, hình như anh em đang chờ.

Chiến trường đang ở hồi khốc liệt, chẳng ai có thì giờ cà kê lẩm cẩm, chúng tôi vội vã chia tay nhau. Mỗi người trong bọn họ siết chặt tay tôi, nói những lời cám ơn chân tình. Đáp xuống từ một độ cao cho nên hai lỗ tai tôi còn hơi bị ù, nghe được tiếng còn tiếng mất. Tôi không nghe được hết nhưng tôi nhìn thấy hết trong ánh mắt của họ vẻ trìu mến, biết ơn và cảm phục. Trước khi leo lên xe díp, vị đại úy nọ bảo tôi:

- Tôi hy vọng không có gì rắc rối cho em. Tôi có nói chuyện với ông biệt đội trưởng của em, ổng bảo đối với ổng không có gì trở ngại. Nhưng nếu có gì, cứ gọi cho tôi, tôi sẽ nhờ chiến đoàn can thiệp. Thôi cám ơn em lần nữa nhé. Ráng giữ thân mình, anh em báo cáo Việt Cộng có đem hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 về đây từ hồi đầu chiến dịch đó.

Tôi vẫy tay chào. Chiếc xe lăn bánh đi, nhưng được vài vòng bỗng ngừng lại và de lui đến trước mặt tôi. Ông đại úy hớn hở:

- Vội quá nên quên, tôi có mấy cây AK còn mới tinh, ngày mai tôi sẽ ghé qua biệt đội tặng em một cây làm kỷ niệm.

Tôi mỉm cười cám ơn ông đại úy. Thật ra thì lúc ấy tôi đã chán AK rồi, nặng bỏ mẹ, đang tính bán cây AK đang cầm để mua chai rượu. Tôi nghĩ giá ngài đại úy tặng tôi một chai rượu thì tốt hơn nhưng không dám nói ra. Chiếc xe díp lại lăn bánh. Lần này chiếc xe mất hút giữa đám bụi mù.


Tôi tà tà lê từng bước một đến chỗ bãi đổ xăng của biệt đội. Đại úy Nhơn đã “ghia ghiếc” (một danh từ chỉ phi công đã trang bị phi hành đầy đủ) xong, đang chờ đợi tôi.

Biết thân phận mình, tôi liền biểu diễn một nụ cười cầu tài để “do thám tình hình.” Đại úy Nhơn cười theo, rất thông cảm, rất chân thật. Như thế là quá tốt. Xếp “địa phương” mà thông cảm được như thế thì tôi đỡ được một gánh nặng. Đại úy Nhơn cũng chẳng hỏi tôi đi bay đâu mới về. Đúng hơn, cả hai chẳng nói gì nhiều với nhau. Ông đại úy chỉ bảo cất cánh lẹ lên để còn bàn giao với chiếc L-19 đang làm việc trên vùng.

Suốt phi vụ, ngài đại úy chẳng nói gì về chuyện cất cánh vừa rồi. Tôi cũng lờ luôn. Trước khi về đáp, ngài đại úy chỉ đề cập vấn đề của tôi hơi vắn tắt:

- Chuyện đi bay của chú anh coi như không biết. Anh đồng ý chuyện chú làm. Chỉ sợ kẹt là kẹt phi đoàn thôi. Chú biết tính ông Tám mà, ổng biết được thì thế nào cũng có chuyện.

Và phi đoàn trưởng của tôi đã biết được chuyện này ngay cả trước khi tôi về đáp với đại úy Nhơn. Biết bằng cách nào tôi không biết và cũng chẳng cần tìm hiểu. Xã hội nào, thời đại nào, tập thể nào cũng luôn luôn có những con ký sinh trùng thối tha sống bám vào máu mủ của đồng loại bằng cách báo cáo vặt để kiếm tí điểm, tí ân huệ dư thừa. Cách hay nhất để sống là đừng thèm để ý hay biết đến bọn này. Biết chỉ làm cho mình bực mình.

Ngày hôm đó, tôi bay tổng cộng hơn 10 tiếng đồng hồ nên về đến biệt đội là phóng lên giường ngủ như chết, quên cả ăn uống.


Sáng hôm sau, lệnh từ Nha Trang gọi về: “Không cho thiếu úy Nhị đi đâu hết. Bảo hắn chuẩn bị hành lý có tàu lên chở về phi đoàn.” Đại úy Nhơn đích thân nhận chỉ thị này sau khi bị xài xể thậm tệ trong điện thoại. Lúc ấy trời còn tối mịt, tôi đang nằm trên giường thưởng thức điếu thuốc Capstan đầu tiên trong ngày. Tôi chỉ nghe ngài đại úy đáp những câu vắn tắt như: “Tôi không biết trung tá,” và “Làm sao tôi biết được trung tá?”


Chừng đó thôi cũng giúp tôi hiểu được cái số phận của mình. Gác điện thoại cái cụp, đại úy Nhơn nổi máu giang hồ, đứng giữa phòng chửi đổng cho tất cả biệt đội nghe:

- ĐM thằng c... hèn hạ khốn nạn nào báo cáo thì phải báo cáo cho đúng. Chuyện thằng Nhị nó làm thì tao biết c... gì, sao lại lôi cả tao vào? ĐM tao mà biết được thằng c... chó má đó thì tao vặn cổ.

Đã biết tính tình của đại úy Nhơn, chẳng có thằng c... nào dám mở miệng. Tiếng quát tháo của ông đại úy phi công lúc trời chưa sáng như vang dội cả núi rừng Quảng Đức. Tôi hút xong điếu thuốc, nằm im nhìn lên khoảng tối âm u trên trần nhà. Âm u như đất nước tôi, dân tộc tôi. Một lần nữa, tôi lại làm phiền đại úy Nhơn. Ông đại úy này và tôi có nhiều kỷ niệm lạ lùng tôi sẽ đề cập tới trong một lúc khác.


Chửi bới một lúc xong, ngài đại úy đến bên giường tôi, kêu ra ngoài nói chuyện.

Mặt trời vùng cao nguyên hôm ấy dậy khá trễ, gần 6 giờ mà vẫn chưa chịu ló mặt ra. Tôi và đại úy Nhơn đứng hút thuốc ngoài biệt đội, trong bóng tối gần tàn của rạng đông, trên một ngọn đồi, nhìn xéo xéo xuống thung lũng mờ mờ phía trước. Gió cao nguyên thổi lồng lộng, hơi lành lạnh làm tăng thêm giá trị của hơi thuốc lá buổi sáng sớm. Giòng sông Đắp La dưới chân đồi, tuy không nhìn thấy nhưng tiếng nước chảy xiết bao trùm cả không gian. Trong một thoáng, tôi cảm thấy yêu cái cuộc đời “tang bồng hồ thỉ” của người phi công. Nay đây mai đó trên khắp nẻo quê hương, tôi thấy mình càng ngày càng gắn bó hơn với cái nơi chốn mà người ta gọi là “Tổ quốc.”

Khuôn mặt đại úy Nhơn có dấu buồn phiền mệt mõi khi đầu điếu thuốc được rít lên:

- Ông Tám kêu em về. U-17 cất cánh rồi, sắp sửa đáp bây giờ.

Tôi trả lời tỉnh bơ:

- Tù là cùng chứ gì.

- Còn phải nói, tù là cái chắc rồi thằng em. Nhưng tù cái không đáng tù mới là đáng nói.

Tôi chẳng thấy buồn phiền gì cả, lính mà:

- Em quen rồi anh Nhơn. Ông đại úy Tới coi tướng em nói số mày không đeo nổi cái long trung úy. Thiếu úy là “Danh phận tột đỉnh” rồi.

Đại úy Nhơn bỗng bật cười:


- Mày chưa bị xuống Chuẩn úy là may. Nhiều khi tao tự hỏi tại sao quân đội lại để cho một thằng ba gai như mày đeo lon thiếu úy, những thằng ngổ nghịch như tao đeo lon đại úy.

Cả hai chúng tôi cùng cười. Tiếng cười như che lấp cả núi rừng chung quanh. Khi chúng tôi quay vào, vừng thái dương vừa từ từ ló dạng. Cả không gian, cả bầu trời bừng lên một sức sống mãnh liệt. Rạng đông ở quê hương mình đẹp đẽ và hùng dũng làm sao!

Sáng hôm đó, tôi về lại Nha Trang. Trước khi đi, tôi cũng không gọi điện thoại cho mấy ông Lôi Hổ để từ giã. Tôi biết họ rất tốt nhưng sẽ chẳng giúp gì được cho tôi. Mỗi quân chủng đều có một đường lối làm việc riêng. Hơn nữa, hôm qua trước khi cất cánh tôi đã suy nghĩ kỹ và sẵn sàng chấp nhận tất cả những gì sẽ xảy đến cho mình...

Khi leo lên tàu giã từ Quảng Đức, tôi vẫy tay chào đại úy Nhơn và chẳng hề cảm thấy hối hận chút nào mà trái lại, còn cảm thấy hãnh diện nữa. Tôi đã sống như một người có trách nhiệm như thân phụ tôi đã dạy.

Vào trình diện ông Tám, tôi tỉnh bơ đưa tay lên chào mà không hề thấy sợ sệt hay mặc cảm gì cả. Ông mời tôi ngồi, nói chuyện với tôi bằng một giọng nhỏ nhẹ làm tôi hơi ngạc nhiên. Ông hỏi tôi chuyện gì xảy ra. Tôi kể lại mọi chuyện rồi kết luận:

- Thưa thầy, (tục lệ của phi đoàn quan sát gọi người dạy bay mình là thầy), chính tôi đề nghị bay giúp họ. Họ không có ép hay năn nỉ gì cả. Tôi thấy cần bay phi vụ đó nên tôi bay. Đơn giản như thế thôi. Bây giờ thì tôi chấp nhận mọi hình phạt của thầy.

Tôi nhìn thằng vào mặt ông Tám mà nói như thế. Lần đầu tiên, tôi thấy ông có vẻ hơi bối rối. Nhưng ông nắm được thế thượng phong ngay:

- Chuyện anh làm có thể... đúng. Nhưng anh nghĩ coi, quân đội sẽ như thế nào nếu ai muốn làm gì thì làm. Phi công muốn cất cánh thì cất cánh, lính thiết giáp muốn lái xe tăng đi đâu thì lái vân vân. Nếu ai cũng như thế thì làm sao có thể điều hành và chỉ huy một tập thể to lớn như quân đội được...

Lại bài mo-ran cũ rích mà lúc ấy tôi chẳng còn muốn nghe nữa. Dĩ nhiên là ông ta nói đúng, nhưng bây giờ tôi không muốn ngồi đây để nghe giảng hay cãi lý với ông ta. Mẹ, trước sau gì cũng đi tù, tôi muốn đi tù càng sớm càng tốt. Tôi cảm thấy mệt mõi. Sau hàng trăm phi vụ hành quân ở Quảng Đức gần tháng qua, tôi muốn nghỉ ngơi, muốn ngủ một giấc thật dài dù là ở Cải hối Thất hay ở đâu. Ít nhất, ở trong tù Nha Trang, tôi không sợ bị ăn đạn pháo kích của giặc. Tự nhiên, tôi đâm liều:

- Trước sau gì tôi cũng đi tù, thầy cho tôi đi sớm chừng nào tốt chừng đó. Tôi mệt mõi quá rồi, không có thì giờ ngồi đây để nghe giảng...

Trung tá Tám như khựng lại sau câu nói liều lỉnh của tôi. Phi đoàn tôi chưa có ai nói chuyện với xếp lớn kiểu này. Nhưng con người có sức chịu đựng của nó.

Suy nghĩ một lúc, ông nói:

- Được, tôi sẽ cho anh đi tù...

Câu tiếp theo sau làm cho tôi giật nẩy mình:


- Tôi đã nói anh là một người có tâm hồn và tài năng. Tôi đã không lầm.

Tôi chưa biết nói gì thì ông tiếp:

- Nói thật với anh rằng hôm qua nếu tôi là anh, thì tôi cũng làm như anh mà thôi. Anh xứng đáng là một phi công tài giỏi của Không Quân. Nhưng, với cương vị là phi đoàn trưởng của anh, tôi phải phạt anh. Phạt nhưng rất phục.

“Phục cái kiểu... mẹ gì lại bắt tôi đi nhốt,” tôi nói với lòng mình như thế và đứng lên đi ra, chẳng muốn nói gì thêm nữa.

Ra khỏi phi đoàn, tôi leo lên chiếc xe díp của Quân Cảnh đã đợi sẵn bên ngoài. Ngồi trên xe trực chỉ Cải Hối Thất sư đoàn II Không Quân, tôi lẩm bẩm: “Mẹ, lại những chiếc xe díp...”

Sáng hôm sau, tôi được thả ra kèm một sự vụ lệnh đi phép 5 ngày...

Đó là lần thứ tư và cũng là lần ủ tờ cuối cùng của tôi. Nhưng như đã nói, lần này, khác hơn những lần trước, tôi lừng lửng bước vào Cái Hối Thất, đầu ngẩng lên cao, lòng cảm thấy sung sướng, không hề hối hận, không chút gì buồn phiền...

Đó là một lần rất ít trong cuộc đời binh nghiệp khiêm nhường ngắn ngủi của tôi, tôi cảm thấy đã làm một việc gì thật sự cho quê hương đất nước. Nếu phải bắt đầu làm lại từ đầu, tôi cũng sẽ không ngần ngại làm y như cũ.

Ngày hôm sau, tôi cũng quên không gọi lên biệt đội xem có ai tặng tôi cây AK không. Và tôi cũng chẳng bao giờ có dịp gặp lại vị đại úy Nha Kỹ Thuật tận tâm nọ...

Mười mấy năm sau trên đất khách, tôi hy vọng người đại úy ngày nọ của Nha Kỹ Thuật, nếu trời còn thương để cho đại úy không tự sát ngày 30 tháng 4, hay đã không bị kẻ thù giết chết trong các trại tù, và vượt biên được sang thế giới tự do này, nếu đọc được bài này, không hiểu đại úy còn có nhớ đến một buổi trưa ngút ngàn khói lửa ngày nào tại quận lỵ Quảng Đức quê mình? Tôi chẳng dám đòi cây AK đại úy đã hứa đâu, chỉ muốn tỏ một chút lòng ngưỡng mộ đối với đại úy, với anh em Nha Kỹ Thuật. Nếu đại úy đọc được những hàng chữ này, thì dù có cách trở xa xôi, dù tâm hồn đã héo hon tàn tạ sau mười mấy năm đau thương tủi nhục, xin hãy cùng tôi cất lên tiếng cười cho một chút quá khứ đáng hãnh diện. Chúng ta là những người trai sinh nhằm thời loạn, đành phải mặc áo nhà binh để bảo vệ non sông tổ quốc. Tôi biết đại úy cũng như tôi, chúng ta nào có thích gì cái trò chơi lửa đạn, mê gì cái bông mai vàng trên cổ áo với số lương tháng không bằng một ngày làm việc của anh tài xế taxi. Ngày xưa, trong cơn binh lửa, chúng ta là những kẻ bị thiệt thòi nhiều nhất. Ngày hôm nay, tàn cuộc binh đao, chúng ta lại là những kẻ bị trả thù tàn nhẫn nhất, bị hành hạ và lăng nhục nặng nề nhất. Hàng trăm thứ tội đều được đổ lên đầu chúng ta, gọi chúng ta bằng những danh bỉ ổi hèn hạ nhất như “nợ máu với nhân dân.” Nợ gì khi chúng ta đã bỏ hết tuổi thanh xuân quý giá đi nằm gai nếm mật, băng rừng lội suối, ngủ bờ ngủ bụi ngày này qua tháng nọ để gìn giữ cho xóm làng được yên vui, cho trẻ thơ được rộn rả tiếng cười, cho buổi họp chợ ban mai được yên lành trong nắng sớm, cho mái chùa cong cong còn được gióng lên những hồi chuông tín mộ, cho ngôi giáo đường thành phố còn nhịp nhàng vang lên những bản thánh ca nghe dịu dàng thanh thoát như những tiếng hát của thiên thần?

Nợ gì đây? Đồng bào miền Nam mình chắc cũng đã thừa biết ai nợ ai rồi...

Nếu còn có thể khóc được sau tiếng cười vừa rồi, thưa đại úy, xin hãy khóc lên không phải cho chúng ta nhưng cho hơn một triệu anh em đồng đội của chúng ta đã anh dũng ngã gục dưới cờ, chết thay cho cả dân tộc. Chính những sự hy sinh cao cả này của đồng đội mà chúng ta không thể để mất niềm tin. Chúng ta không được để những cái chết cao cả đó trở thành vô nghĩa. Chúng ta sẽ không bao giờ xao lãng cái sứ mạng mà tổ quốc và dân tộc Việt Nam đã long trọng giao phó: Ngày xưa là giữ gìn và bảo vệ non sông tổ quốc và bây giờ là quang phục lại quê hương. Theo Kinh Dịch, trong đại họa là cái mầm của đại phúc, trong tận cùng thống khổ là bắt đầu của thời đại an vui sung sướng. Chúng ta phải vững niềm tin. Chúng ta đều đã thật sự trưởng thành trong nước mắt, trong tủi nhục, trong đau thương thống khổ cùng với quê hương và dân tộc mình. Càng bị sĩ nhục, càng bị hành hạ, càng bị khinh bỉ, chúng ta càng trở thành những chiến sĩ, những cán bộ tài giỏi cần thiết cho công việc quang phục quê hương sau này...

Kính thưa quí vị,

Tôi vừa kể lại cuộc đời binh nghiệp khiêm nhường của mình, rất chân thành, không giấu diếm những hèn mọn, không khoe khoang quá đáng những cái hay. Tôi có đủ can đảm của một người lính để chấp nhận mình là kẻ thua trận, xứng đáng bị lăng nhục, bị chê trách, bị chửi bới. Tôi không có gì nói để biện mình cho tôi cả. Bây giờ, mỗi lần nhìn thấy chim bay trên trời, lòng tôi cảm thấy đau xót và tiếc nuối vô cùng vô tận. Không phải tôi tiếc nuối những giây phút lồng lộng giữa trời xanh bát ngát vì bên Mỹ này, chỉ cần bỏ ra 25 đô la một giờ là tôi sẽ mướn được một chiếc phi cơ còn đẹp hơn chiếc L-19 của tôi ngày xưa nhiều, tha hồ và vung vít, tha hồ mà nhào lộn. Cũng không phải tôi tiếc nuối vì đã mất đi cái mác “Thiếu úy phi công” trong bộ đồ bay màu xanh da trời với cái khăn quàng màu trắng nơi cổ và cây Colt lủng lẳng bên hông. Tôi đau xót và tiếc nuối thật tình, lòng tôi héo hon phiền muộn vì biết mình đã phần nào chịu trách nhiệm trong việc làm mất đi cái vòm trời vô giá của tổ quốc mến yêu. Cho cái thuở xa xưa, dù đã được giáo dục đầy đủ, được quân đội cưng chiều ưu đãi, tôi đã ít khi nào biết hết lòng tận trung báo quốc. Cho cái tuổi trẻ yêu dấu đã âm thầm vĩnh biệt tôi ra đi mãi mãi không bao giờ trở lại. Và, thật sâu trong đáy trái tim rướm máu của một người phi công lưu lạc, tôi đau đớn tiếc thương cho những chiến sĩ của một quân đội kiêu hùng đã nằm xuống, chấp nhận chết thay cho cả dân tộc, trong đó có tôi.

Mỗi năm, vào độ Xuân về, khi cầm nén hương đứng trước bàn thờ tổ quốc, nhìn lá cờ vàng 3 sọc đỏ uy nghiêm giữa hương khói ngút ngàn, hai hàng lệ của tôi cứ tuôn tràn ra mãi không sao cầm được. Tôi thấy hình bóng của một triệu người anh em đồng đội tôi, trong đó có em ruột tôi, có vợ chồng chú Bốn tôi chập chờn ẩn hiện sau lá cờ đó. Và năm nào cũng thế, tôi đều thề với trời đất rằng sẽ dùng hết quãng đời còn lại của mình để phụng sự tổ quốc. Tôi biết bây giờ mình đã già, thêm nợ thê nhi chồng chất, ắt khó mà cầm súng được. Nhưng tôi còn ngòi bút, còn lá phiếu để đi bầu, còn nhiều... tài vặt, và quan trọng hơn cả, tôi còn một ý chí sắt đá trong lòng mình.


Người ta bảo là chúng ta đã thua giặc không phải trên chiến trường ở Việt Nam mà tại Hoa Thịnh Đốn, vậy thì, với một triệu người Việt Nam di tản ở đây, tại sao chúng ta sẽ không thắng được chúng cũng ngay tại Hoa Thịnh Đốn này?

Để kết luận, tôi xin viết lại một đoạn trong bài diễn văn của Thủ tướng Winston Churchill đọc trước quốc hội Anh ngày 4 tháng 6 năm 1940, sau cuộc rút lui thảm bại và ô chục của quân đội Anh tại bờ biền Dunkirk. Trong những ngày lịch sử tăm tối đó, thật tăm tối và tràn đầy tủi nhục như chúng ta bây giờ, con sư tử lừng danh của Anh Quốc đã rống lên thảm thiết với hàng nước mắt chảy dài trên má như sau:

“We shall go on to the end. We shall fight on the seas and oceans... We shall defend our country, whatever the cost may be. We shall fight on the beaches, we shall fight on the landing ground, whe shall fight in the fields and in the streets, we shall fight in the hills; we shall not surrender. We shall never surrender...”

Hôm nay, trong những ngày tăm tối u buồn của quê hương Việt Nam, hỡi những người Việt Nam lưu lạc, xin hãy cùng tôi nói với lòng mình như thế và xin hãy giữ vững niềm tin...

Trường Sơn Lê Xuân Nhị Thân mến tặng các chiến sĩ Lôi Hổ của Chiến Đoàn III Xung Kích Nha Kỹ Thuật, để cùng nhau tưởng nhớ đến một buổi chiều Tây Nguyên rực nắng quê mình...


Trường Sơn Lê Xuân Nhị
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Nhìn lại một góc của chiến trường xưa…

Image
Lam Hà .

Bài dưới đây trích từ Nhật Ký của một Tuỳ Viên Tưởng Ngô Quang Truởng.

Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uý, cựu Học Sinh TH Phan Chu Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐ1/QK 1 /VNCH.


Ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại Tá Đặng văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51, và chính ông là người đã nhận tín hiệu cuả tôi qua cái đèn bấm và cái Samsonite, ông đã can đảm đáp xuống cột cờ BTL/HQVI Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng -Tư Lịnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.

Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Trà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy Quân Lục chiến Việt Nam.

Tôi muốn giữ im lặng sau cuộc chiến, như bao nhiêu chiến binh chuyên nghiệp khác. Nhưng tôi không thể nào quên được bài báo của Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng đã đăng trong tuần báo Viet Tide cuả ông Vũ quang Ninh (chủ nhiệm) và cô Mai Khanh (chủ bút).

Là người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”, và là những người có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần chúng, xin diễn đạt vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ con cháu biết sự thật là tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đã chiến đấu như thế nào.

Bài báo đã đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)

Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đã bị phớt lờ.

Chúng tôi, những người đã tận tình phục vụ quê hương xứ sở, quên cả thân mình, cha mẹ, vợ con cùng thân bằng quyến thuộc, đã làm hết khả năng và bổn phận của người quân nhân trong cuộc chiến, rất buồn lòng khi bị đánh giá sai sự thật.

Hôm nay, giờ này, khi tôi đang viết những dòng chữ nầy thì có nhiều người đã ra đi, có nhiều người ở lại quê nhà, và cũng có nhiều người đang chịu trăm cay nghìn đắng trong khắp bốn phương trời ở xứ người.

Trong lúc đó những ngưòi bạn cũ cũng như quân thù đã tìm cách bôi nhọ, hay đổ tội cho QLVNCH , để nhằm mục đích tự tôn vinh hay che dấu mặc cảm phản bội đồng minh.

Ba câu hỏi của tôi không được trả lời thì bây giờ tôi cũng xin được nói lên để mọi người cùng biết:

1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối, tôi đã theo sát Tư Lệnh Quân Đoàn I cho đến ngày ra khỏi nước.


2. Tương quan lực lượng đôi bên.

2a. Lực lượng quân đội Cộng Sản:

Những lực lượng Tiền Phương Cộng Sản đang bao vây Đà Nẵng gồm :

– Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,

– Một Trung đoàn chiến xa,

– Hai Trung Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.

Tất cả theo Elephant Valley tấn công phía Bắc Đà Nẵng.

– Một nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711 cùng Mặt trận 44 tiến chiếm khu Kỹ Nghệ An Hòa (quận Đức Dục) và quận Đại Lộc rồi tiến về phía Nam Đà Nẵng.

Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm của địch.

Tôi nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân cử, đảng phái và thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số nầy tôi biết dân biểu Phước (cựu HS Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi là Phước Lít), Giáo sư Trần ngọc Quế (giáo sư trường Phan chu Trinh và là một người cuả một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu cầu Tư Lệnh Quân Đoàn có biện pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm chịu trận địa pháo như lòng chảo Điện Biên Phủ.

Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải Vân như:

– Các Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu? Có phải chúng đang ở sau lưng những nổ lưc chính không?

Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân Khu II dồn lên vì QĐ II đã mất trước rồi.


2b. Lực lượng phía QĐVNCH gồm có:

– Sư Đoàn 3/BB, Sư Đoàn /TQLC trừ (vì Lữ Đoàn 147 xem như đã xoá sổ ở phía bắc đèo Hải Vân).

– Không Quân thì tất cả máy bay phải xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham Mưu.

– Pháo binh còn vài khẩu.

– Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển hạn chế.

– Sư Đoàn Dù thì đã hoàn toàn rút về Nam.

Quân thất trận đi tìm gia đình, dân lánh nạn từ phía Bắc và phiá Nam đổ về Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu người. Bình thường Đà Nẵng chỉ có khoảng 300,000 dân. Người đi đứng chật đường không thể chen chân được; dĩ nhiên trong số hổn loạn nầy có cả đặc công cùng tiền sát viên pháo binh Cộng Sản..

Đến đây thì Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng cùng quí độc giả đã thấy được quân số tham chiến đôi bên.

Sơ lược những biến cố cuối cùng tại Huế và Đà Nẵng:

– Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh các lực lượng ở Huế rút về ĐN.

– Ngày 26 tháng 3 Trung Tướng Trưởng và tôi bay trực thăng dọc theo bờ biển và tôi thấy tận mắt quân dân bồng bế, gánh gồng dẫn dắt nhau di chuyển về phía Nam. Đi đầu là ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Kế đến là SĐ 1 rồi đến TQLC. Dân chúng thì chạy lẫn lộn trong đoàn quân và phiá sau. Đa số trong số họ là gia đình quân nhân. Trông thảm thương như cảnh Lưu Bị dắt dân Tân Dã chạy về Diễn Châu trong chuyện Tam Quốc Chí.

Trung Tướng Trưởng muốn tôi lên tầng số để Trung Tướng nói chuyện với Đại Tá Lương, Lữ Đoàn Truởng LĐ 147. Về sau tôi được biết qua Trung Tâm hành Quân QĐI là đoàn người đến cửa Tư Hiền thì tan tác vì không qua được cửa Tư Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận lãnh công tác đánh đắm một chiếc tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định trong buổi họp trước đó tại BTL/QĐI, nhưng họ đã không thực hiện được.

Thêm nữa đoàn người bị VC tác xạ và mạnh ai nấy chạy. Bộ Binh và ĐPQ/NQ về đến Đà Nẵng được khoảng 1/3; Nhưng số nầy tan hàng trong hổn loạn để lo đi tìm gia đình nên không còn kiểm soát được.

Sư Đoàn 1 coi như bị xoá sổ cùng với ĐPQ/NQ ở phía Bắc đèo Hải Vân.
Trong ngày 26 tháng 3, 1975 Lữ Đoàn 147 TQLC không bốc được nên Lữ Đoàn đã chiến đấu đến khi hết đạn. Một số tự tử và một số bị địch bắt.

Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đã mất.

Tình hình phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém gì Huế.
Ngày 10 tháng 3 thì hai quận Hậu Đức và Tiên Phước bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của Việt cộng.

Ngày 24 tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày nầy Tiểu khu Quảng Ngãi rút về Chu Lai.

Ngày 26 tháng 3 Sư Đoàn 2 rút ra Cú Lao Ré. Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn. Cướp bóc đã xảy ra tại kho gạo gần thương cảng.

Sáng ngày 28 tháng 3 Tư Lệnh Quân Đoàn cho triệu tập các cấp chỉ huy để tìm biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị có mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được vì không đủ quân số tác chiến, và hầu như một số lớn sĩ quan đã bỏ phòng sở để đi lo chuyện gia đình. Tôi thấy chỉ có văn phòng Tư Lệnh còn làm việc còn tất cả phòng ban trong bộ tư lệnh hầu như ngừng lại hết.

Vào khoảng 2 chiều ngày ngày 28 tháng 3 Tiểu khu Quảng Nam xem như mất liên lạc. Trung Tướng Trưởng và Tôi chỉ bay đến chi khu Hoà Vang rồi phải trở lại BTL/QĐ. Chi Khu Hòa Vang ở sát phi trường Đà Nẵng. Như vậy QĐI chỉ còn lại Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường chưa bị Việt cộng chiếm mà thôi.
Lực lượng đáng kể để phòng thủ Đà Nẵng chỉ còn Sư Đoàn 3 và 3 Lữ Đoàn TQLC mà thôi.

Trong suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung Tướng Trưởng vẫn thường gặp và đặt giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu khi ấy chúng ta tử thủ Đà Nẵng thì chúng ta có giữ được không? Và việc gì sẽ xãy ra.?

Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi nầy lại cho quí độc giả.

Đến đây tôi cũng xin nhắc đến Sư Đoàn 3:

Sư Đoàn được thành lập với chủ lực là Trung Đoàn 2 cuả SĐ1 BB cùng với quân nhân đủ mọi thành phần: quân nhân văn phòng, quân phạm, hay bị trù dập và bị tống ra Sư Đoàn 3, và Sư Đoàn nầy ra trấn ải địa đầu giời tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng “chạy làng” khi Việt cộng ồ ạt tràn qua vùng giới tuyến phi quân sự, để tấn công quân ta. Ai giỏi hơn ai để không “chạy làng”?

Khi lực lượng Đồng Minh chưa rút đi, thì lực lượng cuả họ gồm:

– Sư Đoàn 3/ TQLC/ Hoa Kỳ

– Thêm Trung Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ tăng phái.

– Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/ HK,

– Lữ Đoàn 5 Cơ Giới.

Một tiểu đoàn cuả họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoản 1,500 quân nhân – bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.

Hoả lực cuả một Sư Đoàn / Hoa Kỳ chấp cả Hoả lực cuả QĐVNCH không địch nổi. Họ có hỏa lực cuả Không, Hải, Lục yểm trợ tối đa. Mất một sư đoàn là rung chuyển cả nước Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả 250 triệu người yểm trợ cả phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo Tiểu Đoàn 3/1 TQLC /Hoa Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam thì một hồi chánh viên nói cho biết rằng các đơn vị Việt cộng rất sợ đụng trận với Mỹ. Tôi hỏi lại anh ta: vậy chúng tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải vậy không thì anh ta trả lời rằng không phải vậy – Chúng tôi ít sợ các anh vì các anh bắn ít hơn nhiều, còn Mỹ thì họ bắn như mưa. Anh xem các cây trong làng, có cây nào không đầy vết đạn chằng chịt. Thế nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC / Hoa Kỳ, tăng phái cho Sư Đoàn 3 / TQLC / Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận pháo kích 61 và 82 ly cuả quân chính qui Việt cộng mấy tháng trời.

Đám quân sinh Bắc tử Nam còn dám tấn công các đơn vị Mỹ ở vùng phi quân sự như ở Cồn Thiên, Khe Sanh huống gì một Sư Đoàn tân lập như Sư Đoàn 3?

Những ngày cuối cùng cuả Đà Nẵng nếu không có Sư Đoàn 3, thì Sư Đòan / TQLC / VN không rút xuống tàu được. Sư Đoàn 3 đã bị hi sinh ngăn chận địch và không có kế hoạch bốc Sư Đoàn 3.

Tổng Thống Thiệu đã đặt câu hỏi cho Trung Tướng Trưởng là nếu rút, thì rút được bao nhiêu quân? . Ưu tiên vẫn là rút Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn /TQLC để có lực lượng làm hơi thở cuối cùng cuả VNCH.

Lữ Đoàn I Dù còn lại sau cùng chỉ được dùng để ứng chiến nhằm nâng cao tinh thần quân dân mà không được phép xử dụng tác chiến. Sư Đoàn /TQLC cũng vậy;

Phải làm sao rút được về Sài Gòn.

Khi Tư Lệnh Sư Đoàn 3 về họp lần cuối cùng đêm 28 tháng 3 tại BTL / Hải Quân/ VIDH thì chỉ được biết bất ngờ là phải rút về vùng Horse Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di tản Sư Đoàn 3.

Phương tiện và tình thế chỉ có thể lo cho 2 Sư Đoàn tổng trừ bị mà thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn cuả Đại Tá Phạm Bá Hoa trong “Đôi Dòng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa nào khuyên đừng đánh cả. Phiá Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung Tướng Trưởng chỉ muốn bảo toàn lực lượng để lo chuyện khác về sau, và khả năng chỉ có thể lo cho hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị mà thôi. Sư Đoàn 3 đã bị làm con chốt thí.

Trong quân sử chiến tranh Cao Ly: khi chí nguyện quân Cộng Sản Trung Hoa ồ ạt tấn công thì quân Mỹ và Nam Hàn phải rút về phiá Nam. Sư Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ phải làm nút chận cho quân bạn rút lui . Sư Đoàn nầy đã chiến đấu oanh liệt; nhưng họ phải trả một giá quá đắt: hơn 800 Sĩ Quan và nhiều ngàn binh sĩ hi sinh sau khi họ tự giải cứu và rút sau cùng.

Sư Đoàn 3 cuả chúng ta không làm được như vậy, không có quân bạn gíúp đỡ, để dựa lưng, trưóc mặt là địch, sau lưng là bạn. Sư Đoàn đã phải tứ bề thọ địch.

Hơn nữa chính phủ và nhân dân cuả Sư Đoàn 1 / TQLC / Hoa Kỳ không bỏ rơi họ, trong khi các bạn (Sư Đoàn 3) hoàn toàn bị bỏ rơi. Các bạn ( Sư Đoàn 3) đã chiến đấu oanh liệt trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Xin đứng nghiêm kính chào các chiến hữu Sư Đoàn 3 đã nằm xuồng, hoặc đang quằn quoại đau thương tại quê hương Quảng Đà!


Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:

Sáng sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975 chúng tôi tiến ra bờ biển để lội lên tàu. Ngoài TQLC ra, tôi đếm BB có khoảng 13 người: Tr/T Trưởng, Tôi , Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ (Tỉnh trưởng Thưà Thiên), Đại Tá Kỳ (Tỉnh Trưởng Quảng Trị), Trung Tá Tuân (Phòng 3 QĐI) và mấy người nữa tôi không nhớ tên.

Tôi đi lòng vòng để tìm một cái phao cho TR/T Trưởng nhưng không tìm được. Các phi cơ trực thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu bằng cái mũ sắt. Họ phá hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc. Đi đến đâu thì những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.

Tôi gặp Thiếu tá Hiếu, người trước đây từng lái trực thăng cho Tr/T Trưởng, và ông la to:

“Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”

Ông hỏi: “Mầy có đi thì lên đi với tao.”

“Không,” tôi trả lời

“Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Tr/T Trưởng.”

“không, tao không có.”

“Mầy có đi không?” Ông lại hỏi

“Không, tôi còn phải lo cho Tr/T Trưởng” tôi trả lời.

Ông chúc tôi may măn và tôi cũng chúc lại ông may mắn.

https://bienxua.files.wordpress.com/202 ... .png?w=580

Tôi trở lại tìm TR/T Trưởng thì thấy Thiếu Tá Phương (TQLC) đã nhường cái phao mang cho Tr/T Trưởng mặc dù Th/T Phương không biết lội. Đại Tá Trí kẹp Tr/T trưởng một bên, một bên thì Th/T Phương kẹp. Tôi vớ một khúc gỗ cuả một cái bunker cũ để làm cái phao. Một tay tôi nắm thắt lưng TR/T Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc gỗ và cả ba chúng tôi dìu ông lội ra tàu.

Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu. Nhiều lúc sóng phủ tôi bị chìm lĩm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu thì lên được tàu.

Sau khi lên đến nơi thì TR/T Truởng mê sảng và tôi cũng ngất đi một khoảng thời gian dài vì một phần đói, một phần uống nhiều nước mặn khi sóng phủ, một phần vì quá mệt.

Theo Trung Uý Bình, Hạm Phó LST 404, thì Tr/T Trưởng đã nói trong lúc mê sảng:
“Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm gì?”

“Làm như vậy thì làm sao tôi nói với các Tướng dưới quyền tôi được.”

Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà Nẵng thì chúng tôi nhận được lệnh Tổng Thống Thiệu “phải tái chiếm ĐN”.

“Bây giờ tôi đi với ai và lấy gì để tái chiếm.”

Tr/T Trưởng nói một mình và ông ra lịnh cho HạmTrưởng đưa ông và TQLC xuôi Nam.

Trên đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn Tướng Khánh, mỗi bữa hai người chia nhau nửa muỗng cơm và nửa muỗng nước của anh em hải quân nhịn miệng để dành cho. Chúng tôi không có thực phẩm và nước uống. Theo anh em HQ cho biết tàu vừa xong công tác và trên đường về bến thì nhận được lệnh quay trở ra Đà Nẵng vận chuyển QĐ I nên không có tái tiếp tế.

Về đến Saì Gòn thì Tr/T Trưởng đã kiệt lực nên được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hoà. Vài ngày sau ông tỉnh táo lại và đã khóc khi tôi đứng bên giường bệnh cuả ông, và ông đã than thở rằng: “Nhờ trời giúp tôi với Hòa mới vào được tới đây.”

Còn nhiều chi tiết nhưng bài báo giới hạn. Một ngày nào thuận tiện tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm chấm dứt bài nầy tôi xin thưa rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” cuả Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến “Sư Đoàn 1 tự động tan hàng ở Huế” là không đúng. Đối với Tr/T Trưởng một đôi khi một đaị đội BB do một Thiếu Úy chỉ huy đang chạm địch ông cũng đáp xuống xem xét và tôi đã toát mồ hôi hột vì sợ không bảo vệ được ông. Chuyện một đại đơn vị cấp Sư Đoàn tự động giải tán mà Tr/Tướng Trưởng không biết, thì không thể nào có thể xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất nhất cuả Tổng Thống Thiệu thì có và đúng “solid 100%”. Tôi còn vài tài liệu để chứng minh điều này.

Ngày tháng qua đi, qua đi…Mọi sự rồi cũng chẳng còn gì cả. TT. Thiệu đã ra đi, Đại Tướng Viên đã ra đi, vị tướng tài ba và đức độ Tr/T Ngô Quang Trưởng ngày nào của lòng tôi kính mến cũng đã ra người thiên cổ. Các niên trưởng cuả tôi như Chuẩn Tướng Khánh, Đ/T Duệ, Đ/T Phước cũng đã ra đi, và rồi chúng tôi cũng sẽ mờ dần theo năm tháng… Nếu có còn chăng là đôi dòng lịch sử vậy xin tôn trọng “sử xanh” và đừng bẻ cong ngòi bút vì bất cứ lý do nào.

“Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết.” Nếu dẫn chứng cho lập luận cuả mình thì xin nêu rõ xuất xứ (foot notes). Xin đừng nói rằng nghe người nầy, người kia nói, là vô căn cứ.

Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã làm buồn lòng những người đã ra đi và những kẻ còn ở lại. Chúng tôi đã từ bỏ tất cả kể cả gia đình thân yêu để làm hết sức mình cho tổ quốc, cho quân đội và cho lý tưởng.

Quân đội nào cũng có một vài cấp chỉ huy hèn mọn, khi địch chưa đến đã bỏ chạy. Quân Đoàn I cũng không ra ngoài cái thông lệ tầm thường đó; nhưng không phải tất cả cấp chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về đến Sài Gòn trong lúc còn 100,000 quân còn ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.

Tôi là một cá nhân nhỏ bé tầm thường nhưng may mắn còn sống sót sau biến cố 1975. Ở một góc độ nhỏ bé nào đó tôi đã thấy, đã nghe và đã chịu đựng những điều đã xảy ra vì vậy tôi phải nói cho những người không còn nói được nữa, hay họ không bao giờ muốn nói.

Lam Hà
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tiendung »

Image

Hãy Vinh Danh Người Lính Việt Nam Cộng Hoà
Nguyễn thị Thảo An

Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu.

Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.

Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.

Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam .

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.

Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau , Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.



Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.

Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.

Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.

Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.

Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.

Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.

Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.

Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.

Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.

Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.

Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.

Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.

Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?

Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.

Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.

Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?

Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?

Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.

Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.

Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.

Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.

Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.

Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.

Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.

Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.

Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.

Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.

Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)

Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?

Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.

Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.

Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.

Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.

Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.

Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.

Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.

Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.

Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.

Nguyễn thị Thảo An
thuytrieu
Posts: 90
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:09 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by thuytrieu »

Dư âm bài hát ngày xưa (giữa trời đất bao la)

Phạm Tín An Ninh

Định cư ở Nauy hơn ba năm, sau khi ổn định công việc làm ăn và việc học hành cho mấy đứa con, tôi tổ chức một chuyến Âu du bằng xe hơi. Chiếc xe Ford của tôi vừa cũ kỹ vừa nhỏ, không thể nào vượt qua một chặng đường trên dưới bảy ngàn cây số, và dĩ nhiên cũng không đủ chỗ cho một gia đình lớn nhỏ tám người. Tôi mướn một cái xe mới toanh mười hai chỗ ngồi, có máy lạnh và kính mát đàng hoàng. Tôi không muốn bất cứ điều gì làm mất cái hứng thú cho cuộc hành trình đầu tiên của chúng tôi trên những đất nước mà trước đây tôi đã từng một thời mơ ước nhưng chẳng bao giờ nghĩ là có một ngày được đi qua. Tôi và đứa con trai lớn vừa mới đủ tuổi lấy bằng lái xe thay nhau làm tài xế. Bà xã và cô con gái lớn chịu trách nhiệm xem bản đồ và theo dõi lộ trình.

Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi rất thích thú khi đi qua những vùng đất xa lạ, mà ngày trước tôi chỉ biết mơ hồ qua sách vở. Sau một ngày, băng qua hai đất nước hiền hòa Thụy Điển, rồi Đan Mạch, chúng tôi sang Hamburg, thành phố lớn cực bắc của Tây Đức. Thời gian này nước Đức còn chia đôi, nên vừa mới đến ranh giới là không khí đã căng thẳng. Cảnh sát với súng ống đầy người, trông mặt người nào cũng đằng đằng sát khí làm tôi nhớ tới hình ảnh của Hitler trong bộ phim dài chiếu mỗi tuần trên truyền hình Nauy. Vừa mới thoát ra cảnh chiến tranh tù đày ở quê nhà, lại được định cư tại một quốc gia ban phát giải Nobel Hòa Bình, tôi không muốn phải ngộp thở trên quê hương của ông Hitler, nên sau khi qua khỏi Hamburg, tôi rẽ sang Hòa Lan. Một đất nước nghe như huyền thoại: nằm dưới mặt nước biển trung bình, có một con đập dài nhất thế giới, cũng là một xa lộ băng qua biển. Chạy xe trên con đập này, tôi cứ ngỡ mình đang lái tàu chạy giữa biển khơi. Xứ sở của hoa tulip, với những chiếc quạt gió cùng những con kênh đào thơ mộng.


Hôm sau, chúng tôi sang Bỉ, Lục Xâm Bảo, và cuối cùng đến Pháp. Điểm đến cuối cùng cũng là nơi quan trọng nhất mà chúng tôi muốn đến. Tôi dành một nửa thời gian, hai tuần lễ còn lại, cho cái xứ sở mà lúc còn nhỏ, khi học lịch sử thì tôi thù ghét, nhưng khi học văn chương thì tôi lại mê thích nó. Nào là tháp Eiffel bên dòng sông Seine tình tự, nào là nhà thờ Notre Dame cổ kính mà tôi mơ hồ thấy trong phim Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà, nào là vườn Luxembourg, nơi hẹn hò của bao cặp tình nhân.

Hơn một tuần ở Paris, chúng tôi xuôi về miền Nam nước Pháp. Thành phố Nice nằm bên bờ Địa Trung Hải, gần thành phố Cannes, nơi qui tụ những tài tử điện ảnh hằng năm, và không xa đất nước Monaco với những sòng bài và những chuyện tình nóng bỏng của mấy nàng công chúa. Mười ngày nằm trên thành phố biển này, tôi tạm quên những bất hạnh trong quá khứ và những gì đang xảy ra trên quả đất có quá nhiều phiền muộn này.

Rời Nice, chúng tôi trở lại Paris trước khi về Nauy. Trời mùa hè đang nóng, bà xã và mấy cô con gái của tôi đề nghị chạy ban đêm, vừa cho mát vừa được ngắm những thành phố rực rỡ trong ánh đèn. Nhìn trên bản đồ, tôi thấy trên đường đến thành phố Lyon, mình có thể dừng lại Grenoble rồi rẽ sang Genève của Thụy Sĩ, xem thử nơi đã cho ra đời cái hiệp định làm khốn khổ quê hương mình ra sao. Như được trở lại thời trận mạc xa xưa, tôi gọi cả bầu đoàn thê tử lại để ban bố ” lệnh hành quân”. Chúng tôi không đi theo xa lộ 85 mà chọn con tỉnh lộ nhỏ trực chỉ Grenoble. Tôi đích thân xem bản đồ hướng dẫn cho cậu con trai làm tài xế.

Rời Nice lúc 7 giờ tối. Sau hơn ba giờ từ “tuyến xuất phát”, tôi mới biết là mình đã sai lầm khi xử dụng con đường tắt này. Bởi chúng tôi bắt đầu chạy qua một khoảng rừng và những đồng lúa mì mênh mông, không thấy một bóng người. Đang mơ màng thì nhìn thấy phía đầu xe bốc khói. Tôi ra dấu cho đứa con trai dừng lại, bảo cả nhà xuống xe gấp. Khói trước xe vẫn còn bốc lên mờ mịt. Tôi tái mặt, vì bao nhiêu năm nay, từ lúc còn ở Việt Nam cũng như sang đây, ngoài việc cầm vô-lăng và đổ xăng ra tôi có biết gì về xe cộ nữa đâu. Chờ cho khói tan hết và rờ vào nắp xe thấy không còn nóng, tôi mở nắp xe lên bảo cậu con trai rọi đèn pin vào máy nhìn thử. Đến đường cùng thì làm như phản xạ tự nhiên vậy thôi, chứ tôi có biết cái gì trong máy đâu mà xem. Nhìn quanh một chặp, tôi cảm giác có điều gì lạ lạ. Cuối cùng tôi mơí phát hiện là sợi dây cu-roa không còn nữa. Nước trong bình đã bốc hơi không còn một giọt. Thấy tôi xách đèn pin trở lại, bà vợ và đám con gái đang nằm trên bờ ruộng lúa mì, ngồi bật dậy. Nghe tôi ra lệnh “đóng quân tại vị trí” vì xe hư không biết khi nào mới chạy được, bà vợ xỉ vả cho tôi một trận, bảo hèn chi ngày xưa ông đánh giặc thua là phải, đừng có đổ thừa tại tụi Mỹ nó phản bội bỏ miền Nam.

Tôi bảo đám đàn bà con gái lên xe nằm và khóa cửa lại cẩn thận, vì biết đâu khu này có thú dữ. Đàn bà coi dữ vậy chứ nhát gan, ríu rít tuân lệnh. Tôi và thằng con trai đi vòng vòng xem có nhà cửa gì không. Nhưng tất cả đều tối om, tĩnh mịch. Đến gần một giờ sáng, khi tôi đang nằm mơ màng trên ruộng lúa thì nghe có tiếng động. Dường như là tiếng của một loại động cơ nào đó, càng lúc càng gần hơn. Một lúc sau, tôi thấy có ánh đèn từ khu ruộng lúa chay ra. Một chiếc máy cày. Ai đi cày ruộng vào giờ này ? Chưa kịp tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình, chiếc máy cày đã dừng lại trước mặt tôi. Qua ánh đèn xe, tôi thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ là người Pháp, bước xuống tiến lại phía chúng tôi. Cử chỉ anh ta không phải là một người gian. Tôi yên tâm. Anh hỏi chúng tôi bằng tiếng Pháp, anh nói từng chữ vì sợ chúng tôi không hiểu :

– Chắc là xe các anh bị hư ? Có cần tôi giúp điều gì không ?

Lúc còn đi học, Pháp văn là sinh ngữ chính của tôi. Vậy mà lâu quá không xử dụng, tôi hiểu tiếng được tiếng mất, vừa trả lời vừa ra dấu :

– Xe tôi bị đứt dây cu-roa, khô hết nước, không chạy được nữa.

– Các anh ở tỉnh nào tới ?

– Chúng tôi từ Nauy sang, chứ không phải ở Pháp. Trên đường từ Nice về, thì xe bị hỏng.

Anh bảo bây giờ đã khuya rồi, nhà anh cũng ở gần đây, anh sẽ giúp chúng tôi kéo xe về nghỉ tạm, rồi ngày mai sẽ tính. Tôi mừng rỡ gật đầu. Anh ra dấu cho tất cả chúng tôi lên xe.

Chiếc máy cày kéo xe và chúng tôi chạy lòng vòng chỉ khoảng mười phút thì về đến nhà. Trời tối, tôi không thấy gì ngoài mấy cái nhà khá lớn nằm dưới những tàng cây. Anh đưa chúng tôi vào một gian phòng rộng, mang thêm vài tấm nệm và mấy cái mền mỏng. Một chặp sau anh lại mang vào bánh mì, phô- mát, và một ấm cà phê nóng, rồi chúc mọi người ngủ ngon.

Lạ nhà, nhưng có lẽ vì mệt quá, nên khi chúng tôi thức dậy thì trời đã sáng tự lúc nào. Kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường chỉ 8 giờ 10 phút. Mở cửa sổ nhìn ra ngoài, tôi mới biết đây là một nông trại khá lớn. Chưa kịp gọi bà vợ và mấy đứa con dậy xem, thì có tiếng gõ cửa. Anh bạn trẻ tốt bụng tối hôm qua đến dắt tôi chỉ khu nhà tắm, nhà vệ sinh, rồi dặn tôi khoảng 45 phút nữa, anh sẽ trở lại đón chúng tôi ăn sáng.

Ngồi vào bàn ăn, anh giới thiệu vợ và hai đứa con nhỏ. Cô vợ khá xinh, vui vẻ, lúc nào miệng cũng cười, vừa nói vừa làm dấu với mấy đứa con gái của tôi.

– Các anh là người Việt nam ? anh ta vừa bưng tách cà phê vừa hỏi.

– Nhưng làm sao anh biết được vì ở Bắc Âu cũng có nhiều người Tàu, người Đại Hàn, người Thái Lan và cả người Nhật nữa? Tôi không trả lời mà hỏi ngược lại anh.

– Tôi không nói được nhưng hiểu một ít tiếng Việt. Bà ngoại tôi là người Việt Nam mà. Mẹ tôi cũng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Lúc còn sống bà nhớ Việt Nam lắm và thường kể cho chúng tôi nghe những thắng cảnh bên ấy. Đặc biệt, bà thường nhắc đến một thành phố có tên là Đà Lạt. Bà bảo nơi đó thật thơ mộng và có những nơi hò hẹn thật dễ thương cho những cặp tình nhân. Tội nghiệp, bà mới mất hơn hai năm nay, trong một tai nạn xe hơi cùng cô em gái duy nhất của tôi.

Ăn điểm tâm xong, anh đưa chúng tôi vào thăm phòng đọc sách. Một tấm bản đồ Việt Nam thật to treo trên vách. Anh chỉ cho chúng tôi thành phố Đà Lạt mà mẹ anh thường kể cho anh và cô em gái nghe mỗi lần bà nhớ về quê mẹ.

Càng lúc chúng tôi càng thấy gần gũi và thân thiết với gia đình anh bạn trẻ có một chút gốc gác Việt Nam này. Anh bảo vợ anh đưa chúng tôi đi thăm khu nuôi bò sữa và vắt đem về vài lít sữa tươi để chúng tôi dùng thử, trong khi anh lấy xe chạy ra phố tìm mua sợi giây cu-roa để thay cho xe chúng tôi. Mấy cô con gái của tôi rất thích thú khi được cô chủ nhà chỉ cho cách vắt sữa bò. Sau đó chúng tôi vào thăm một vườn nho.

Khi trở về, thì anh ta đã sửa xong cái xe và đang cho máy nổ thử. Thấy chúng tôi, anh cười đưa ngón tay cái lên báo hiệu là xe đã tốt. Anh tắt máy xe và giao chìa khóa lại cho tôi. Tôi chưa kịp trả tiền sợi giây cu-roa và nói lời cám ơn thì anh đã vỗ vai mời chúng tôi ở lại chơi với gia đình anh vài hôm. Anh bảo là lâu lắm anh mới gặp được những người đến từ quê ngoại. Thấy ông bà chủ hiếu khách, phong cảnh ở đây hữu tình, lại có sẵn sữa tươi và rượu nho, bà xã và mấy cô con gái cười nheo mắt nhìn tôi. Tôi hiểu ý và nói với anh là chúng tôi chỉ có thể ở lại một đêm. Trưa ngày mai chúng tôi phải lên đường.

Ăn cơm chiều xong, trời dịu mát, anh đề nghị chúng tôi đi thăm khu vườn cam nằm trên ngọn đồi. Vào vườn cam, chúng tôi có cảm giác như lạc vào một chốn thiên thai nào đó. Những hàng cam thẳng tắp, trĩu vàng những quả, mùi hoa cam toả ra thơm cả một góc trời. Giữa vườn cam là một công viên nhỏ, trồng đủ các loại hoa. Bên kia công viên, ngay giữa đỉnh đồi là khu nghĩa trang nhỏ của gia đình. Vợ chồng anh mời chúng tôi đến thăm mộ của ba má anh và cô em gái. Ba ngôi mộ xây đơn giản, nhưng lại có nét đẹp cổ kính. Trên mỗi mộ bia đều có một tấm ảnh lồng trong khung kiến. Đến trước từng ngôi mộ, tôi cung kính cúi đầu, chấp hai tay trước ngực và đọc thầm từng tên khắc đậm trên bia. Khi đọc đến tên người mẹ: JACQUELINE CUVÉRO GAULTIER – tôi bỗng giật mình. Cái tên này tôi thấy quen quen. Bà mất lúc tròn 50 tuổi. Nhìn tấm ảnh thật lâu, tôi nghĩ đến một người.

Khi về nhà, tôi ngỏ ý muốn xem những tấm ảnh lúc cha mẹ anh còn trẻ. Anh bạn chủ nhà mang đến cho chúng tôi mấy quyển album. Bà xã và mấy cô con gái thì tranh nhau xem quyển album lúc ông bà làm đám cưới và nức nở khen mấy cái áo của cô dâu. Riêng tôi dành lấy tập album cũ với những tấm ảnh đen trắng mà nhiều cái đã ngã màu vàng. Bỗng tôi lạnh người khi xem những tấm ảnh của mẹ anh thời con gái, đặc biệt là tấm ảnh có mái tóc cắt ngắn giống ca sĩ Sylvie Vartan thời cô ta đang nổi tiếng. Chẳng lẽ lại là nàng ? – Không thể nào ! Tôi lắc đầu nói thầm trong miệng.

Năm học lớp đệ nhất trường Võ Tánh, Nha Trang, dù học không giỏi nhưng tôi cũng cố gắng để được trở thành một thằng sinh viên, dù chỉ là loại sinh viên hạng bét, và cũng để khỏi phụ lòng thương yêu, lo lắng của cha tôi, suốt một đời làm gà trống nuôi con.

Khi chân ướt chân ráo vào Sài Gòn, tôi chẳng có ai quen, ngoài một bà cô họ xa, trước lấy chồng Tây. Chồng chết, bà ở với mấy đứa con mang hai dòng máu ở sau khu tiệm phở Tàu Bay, Tàu Thủy, trên đường Lý Thái Tổ. Tôi không ngờ trong khu này đa số là những gia đình có con lai Pháp, trắng có đen có, được toà đại sứ Pháp cưu mang lo lắng từ việc sinh sống tới việc học hành. Hầu hết đều mang quốc tịch Pháp và được theo học ở các trường Tây Sài Gòn, Đà Lạt. Những ngày cuối tuần tôi thường ghé lại đây chơi. Đang cô đơn ngơ ngác thì được mấy người con của bà cô họ giới thiệu cho tôi nhập bầy với đám Tây lai này. Họ cũng dễ thương và dĩ nhiên là có phong cách tây lắm. Chiều cuối tuần họ thường tụ tập để ăn uống và nhảy đầm. Anh con cả của bà cô họ tôi là trưởng nhóm, chỉ định một cô bé tóc vàng, có mái tóc ngắn và đôi mắt thật dễ thương dạy tôi nhảy đầm và cũng làm partner cho tôi khi có tiệc tùng. Nghe mọi người trong nhóm gọi cô là Sylvie Vartan, tôi cũng gọi theo, nhưng biết vì khuôn mặt và mái tóc của cô giống người ca sĩ Pháp đang được ái mộ này nên bè bạn gọi đùa, chứ đó không phải là tên thật của cô.


Vừa gốc nhà quê, tiền bạc thiếu thốn, tôi ngại, nên chỉ thỉnh thoảng mới nhận lời tháp tùng ông anh. Đi chơi với nhóm được một vài lần gì đó, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Hôm lễ gắn alpha, thấy anh em mời thân nhân bạn bè nhiều quá, tôi cũng tủi thân. Gia đình tôi và một số bạn bè thân ở tận Nha Trang, còn ở Sài Gòn này thì tôi tứ cố vô thân. Cuối cùng tôi nghĩ đến ba người con lai Tây của bà cô họ và mời họ đến dự lễ gắn alpha, rồi sau đó cùng đi dự tiệc với tôi. Hôm ấy cả ba người đều đến và còn dẫn theo nàng con gái Sylvie Vartan. Họ rất thích thú với khung cảnh quân trường và sinh hoạt của lính. Ai cũng chụp chung với tôi một tấm ảnh có mang cầu đai alpha.

Sau đó, trong những lần về phép ngắn ngủi, tôi cũng có ghé thăm họ một đôi lần. Đêm ra trường, họ cũng đến dự. Sau đó đưa tôi về Sài Gòn, họ làm một buổi tiệc chia tay tôi, và lần này tổ chức tại nhà cô gái có tên Sylvie Vartan. Gia đình cô không ở trong khu Lý Thái Tổ mà có một biệt thự riêng, khá xinh, nằm trên một con hẻm lớn trên Tân Định.

Tôi không gặp ai trong gia đình của cô hôm ấy, chỉ xem tấm ảnh người cha ruột của cô chụp với mẹ cô khi còn rất trẻ, và cả tấm ảnh chụp gia đình cô bây giờ, với ông cha Việt Nam, một người em gái cũng lai Tây như cô và hai người em nhỏ cùng mẹ khác cha. Mẹ cô có nhan sắc, nên ông chồng mới sau này thuộc lọai nhà giàu. Tôi nghĩ như thế.

Tới hơn hai giờ sáng tiệc mới tàn. Khi nói lời chia tay, không hiểu vì xa họ không biết khi nào gặp lại hay vì nghĩ đến đời lính chiến nay mai trên rừng núi cao nguyên mà tôi chạnh lòng, muốn khóc. Nàng cũng nhìn tôi nghẹn ngào. Khi mọi người đi tìm áo khoác và mang giày, nàng kéo tôi ra phía sau, tặng tôi một tấm ảnh, rồi bất ngờ hôn tôi trên má.

Ngồi trên máy bay ra trình diện đơn vị, bất chợt nhớ đến nàng, tôi mở xách tay ra tìm tấm ảnh. Nàng có mái tóc thật dễ thương, nhìn kỹ đúng là giống cô ca sĩ Sylvie Vartan. Sau tấm ảnh nàng viết một câu ngắn ngủi “À toi, avec tout mon coeur.” Phía dưới cô cũng chỉ ký là Sylvie Vartan, cái tên mà bọn tôi đặt để thường gọi đùa với cô.

Nhớ tới nụ hôn bất ngờ tối hôm qua, tôi đưa tay lên sờ má, thấy vẫn còn thoang thoảng một mùi hương. Tôi mỉm cười và nói thầm một mình : Đúng là lãng mạn như Tây.

Tôi ra đơn vị đúng vào lúc chiến trưòng cao nguyên bắt đầu sôi động, cùng lúc nhóm người Thượng Fulro nổi loạn, giết một số sĩ quan, viên chức hành chánh người Kinh, chiếm một vài nơi, đặc biệt là tỉnh Quảng Đức và một vài quận lỵ. Đơn vị tôi đang tiếp viện cho chiến trường Quảng Nhiêu còn mịt mờ lửa đạn ở bắc Ban Mê Thuột thì được lệnh di chuyển về phi trường Phụng Dực, xử dụng máy bay dân sự của hàng không Việt Nam để đáp xuống Nhơn Cơ, một phi trường bỏ hoang nằm cách tỉnh lỵ Quảng Đức khoảng ba mươi cây số, do một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt mũ xanh của ta kiểm soát. Thằng trung đội trưởng mới ra trường như tôi làm sao có khả năng để ứng phó với một chiến trường nửa ta nửa địch, mà trong sách vở quân trường không hề nói tới. Lòng tôi thật băn khoăn. Nhưng cuối cùng thì mục tiêu cuộc hành quân Dân Thắng này cũng đạt được. Đơn vị tôi không hề tốn một viên đạn. Mấy lãnh tụ người Thượng thấy quân chủ lực bao vây bốn hướng, cộng với lời thuyết phục tài ba của vị chỉ huy nào đó, đã ra lệnh cho những lực lượng người Thượng buông súng.

Nằm trong cái tỉnh khỉ ho cò gáy mà dân chúng sống rải rác trong các buôn làng hầu hết là người Thượng, mấy thằng lính trẻ như tôi chỉ có buồn muốn khóc. Ai cũng mong sớm chuyển đi tỉnh khác Vậy mà riêng tiểu đoàn của tôi được lệnh nằm lại đây để giữ an ninh cho dinh điền Đạo Nghĩa nằm trong một thung lũng gần biên giới Cam Bốt. Một trong những dinh điền do tổng thống Ngô đình Diệm sáng lập vừa để thu hút di dân sau 1954, vừa là một trọng điểm chiến lược.

Ra trường đã hơn hai năm. Đời lính cao nguyên thật là vất vả và buồn. Nhiều lúc nằm giữa rừng già, nghe tiếng chim kêu vượn hú, tôi thường chạnh lòng nhớ tới thời còn đi học, và khuôn mặt những người quen. Đôi khi tôi cũng chợt nhớ tới cô con gái lai Tây và lấy tấm ảnh ra xem. Đến bây giờ tôi cũng không biết tên thật của nàng. Mà biết để làm gì. Vì giữa nàng với tôi là cả một thế giới cách biệt. Tôi, một thằng lính trận, gốc gác nhà nghèo, không biết sống chết ra sao. Còn nàng lại là một cô con gái lai Tây, xinh đẹp và quí phái. Nàng quen với tôi, thích tôi một chút, cũng là cái thích lãng mạn của một tiểu thư sống trong thành phố lâu ngày được bất ngờ ra thăm một vùng dân giả, thế thôi.

Ở Quảng Đức gần hai năm, đánh nhau một vài trận, tôi được mấy cái huy chương rồi lên làm đại đội trưởng. Trong mấy thằng đại đội trưởng, tôi là thằng trẻ nhất, và cũng nghèo kinh nghiệm chiến trường nhất. “Ra trường gần hai năm rồi mà trông mày vẫn cứ như thư sinh”. Ông tiểu đoàn trưởng bảo tôi như thế trước khi cho tôi dẫn đại đội “solo” xuống núi biệt phái cho Tiểu khu Lâm Đồng

Đoàn xe chở đại đội tôi vừa vào ranh giới Lâm Đồng, tôi nhận lệnh ông tiểu khu trưởng, trực chỉ đến khu cầu Đại Ngà để giữ an ninh cho công binh làm lại mấy cây cầu trên quốc lộ 20, từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt, vừa bị VC giựt sập hai đêm trước.

Đến vị trí, tôi phối hợp với một đại đội địa phương quân đã có mặt tại chỗ và một đơn vị công binh mới từ Đà Lạt xuống, bố trí quân theo nhu cầu. Riêng ban chỉ huy đại đội cùng trung đội vũ khí nặng nằm trên một đồn điền trà có cao độ tốt cho việc phòng thủ và yểm trợ hỏa lực. Phía duới khu đồn điền này là cầu Đại Ngà, cây cầu dài nhất vừa bị phá hoại.

Sau khi công binh làm xong mấy cái cầu tạm, lưu thông họat động trở lại. Do ứ động mấy hôm trước, nên ngày đầu tiên có khá nhiều xe đò từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt. Hơn nữa bây giờ đang là mùa hè, người Sài Gòn rủ nhau lên Đà Lạt nghỉ mát. Để bảo đảm an ninh, trước khi xe chạy vào khu quân sự, đều phải dừng lại, tất cả hành khách xuống xe để được kiểm soát giấy tờ. Trạm kiểm soát là một căn nhà bằng ván do công binh vừa mới dựng lên, toán quân báo của đại đội tôi phối họp cùng với ba nhân viên cảnh sát đảm trách. Mỗi ngày tôi lái xe đi kiểm tra các cây cầu và thường ghé lại ngồi nghỉ trong trạm kiểm soát này.

Buổi chiều, trời vừa tắt nắng, tôi định trở về vị trí đóng quân, thì một đoàn xe đò chạy tới. “Có lẽ đây là mấy cái xe cuối cùng từ Sàigon lên”. Anh cảnh sát bảo với tôi như thế. Trong số những hành khách xuống xe bước qua cái cổng chắn làm bằng kẻm gai dã chiến, tôi để ý tới một cô gái tóc vàng, mặc một cái jupe màu vàng sậm. Khi cô móc ví lấy giấy tờ, ngước mặt lên nhìn anh cảnh sát, tôi thấy thật quen và vội chạy ra

– À, cô Sylvie Vartan, cô lên đây làm gì ?

Tôi hỏi bất ngờ, rồi quay sang bảo anh cảnh sát: cô này là người nhà của tôi. Anh cảnh sát trao lại cho tôi tấm thẻ căn cước bằng tiếng tây mà anh chưa kịp hiểu.

Cô nhìn tôi cười rạng rỡ :

– Anh là anh Ninh, phải không ? Mấy năm rồi tụi mình không gặp. Em lên Đà Lạt đón cô em về Sài Gòn nghỉ hè. Nó học trên Lycée Domaine de Marie

– Tôi đóng quân trong đồn điền trà nằm trên đồi cao kia. -Tôi vừa nói vừa chỉ tay về hướng đồn điền -. Đẹp lắm, và ông chủ hình như cũng là người Pháp. Mời cô ghé lại chỗ tôi chơi. Tôi sẽ đón chuyến xe sau gởi cô về Đà Lạt.

Cô ngần ngừ một chút rồi gật đầu. Tôi đưa cô lại xe lấy túi hành lý và nói với anh tài xế:

– Cô này là người nhà của tôi, cô ở lại đây chơi với tôi rồi lên Đà Lạt sau.

Anh tài xế trẻ, nhìn tôi nhoẻn miệng cười.

Tối hôm ấy nàng ở lại với tôi. Có lẽ nàng cũng biết là chuyến xe của nàng là chuyến cuối cùng. Chẳng còn có chuyến sau nào để tôi gởi nàng lên Đà Lạt, như lúc tôi hăm hở nói với nàng, mà không biết là mình đang nói dối.

Giữa cảnh núi rừng, nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa. Không biết nàng đã nói gì vơí ông chủ người tây, ông dành riêng cho cô một phòng ngủ và mời chúng tôi dùng bữa cơm chiều với ông. Bữa cơm đầy đủ hương vị tây, mà chai rượu chát ông khoe đã gởi mua từ bên Pháp. Sau bữa cơm, tôi đưa nàng đi dạo trong đồn điền trà.

Bây giờ đang là mùa hè, bầu trời trong vắt, ánh trăng tỏa vàng xuống cả một đồi trà. Đêm cao nguyên trời bắt đầu lành lạnh, thơ mộng như một muà thu. Chúng tôi nắm tay nhau bước tung tăng dưới ánh trăng, nghe từng nhịp đâp của trái tim giữa một vùng đất trời tĩnh mịch. Nàng kể cho tôi nghe về một ước mơ của nàng: muốn có lần trở về quê cha, thăm ngôi mộ của người và bà nội già còn đang sống ở đó với mấy người cô. Quê nội nàng đẹp lắm lại là một đất nước với nhiều thi ca lãng mạn. Chúng tôi đã xuống cuối chân đồi, nghe tiếng nước chảy từ một con suối nhỏ. Nàng bảo tôi dừng lại và dìu tôi đến ngồi xuống một bãi cỏ. Bên kia con suối là một cánh đồng cỏ rộng mênh mông

– Anh có thấy gì lạ không ?

Tôi đang ngơ ngác, thì nàng chỉ cho tôi mấy hàng cây bên kia bờ suối

– Bây giờ là mùa hè, mà sao có nhiều lá vàng đang rơi. Anh không thấy sao?

Nàng âu yếm dựa sát vào tôi và hỏi tôi có biết bài thơ Les feuilles mortes của Jacques Prevert không ?

– Lúc học Littérature Francaise, anh có học, nhưng lâu quá, anh chỉ còn nhớ một đôi câu. Bài thơ thật hay và cảm động.

Tôi đã đổi cách xưng hô tự lúc nào không biết.

Nàng cất tiếng khe khẽ hát bài thơ Les Feuilles Mortes được phổ nhạc. Hát xong bài hát nàng chậm rãi đọc lại mấy câu :

Mais la vie sépare ceux qui s’aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et “le vent” efface sur la “plaine”
Les pas des amants désunis.

Tôi hỏi sao nàng dám đổi lời một bài thơ hay của tác giả. Nàng không trả lời mà ôm tôi hôn thật lâu. Trong say mê tôi cảm thấy có cái gì lành lạnh trên gò má. Tôi sờ tay lên mân mê: nước mắt.

Nàng ôm tôi ngồi khóc, nàng bảo là nàng có nhiều bạn bè, nhưng nàng có cảm tình thật nhiều với tôi từ khi nhìn tôi mặc áo lính. Nàng thấy ở tôi có cái gì khác lạ so với mọi chàng trai lai Pháp mà nàng quen. Và cũng ở nơi tôi nàng được thấy lại hình ảnh của cha nàng. Cũng làm lính cả một thời trai trẻ, rời quê hương, rồi chết sớm ở xứ người bỏ laị mẹ và hai chị em nàng.“Những người con gái mang hai dòng máu. Buồn lắm phải không anh ?” mấy lần nàng hỏi tôi như thế.

Đêm hôm ấy nàng không ngủ trong căn phòng sang trọng mà ông chủ đồn điền đã dành sẵn cho nàng. Nàng ra ngồi trong căn lều phủ poncho của tôi cùng uống trà tươi mà tâm sự thâu đêm. Nàng rủ tôi ngày mai cùng nàng lên Đà Lạt vài ngày để nàng làm thủ tục đón cô em gái về và đưa nàng đi thăm các thắng cảnh thơ mộng ở đây.

Sáng hôm sau, tôi lên máy gọi về trung tâm hành quân tiểu khu Lâm Đồng gặp ông tiểu khu trưởng, xin ông cho ba ngày phép và được xử dụng chiếc xe jeep của Tiểu Khu biệt phái, đón người vợ sắp cưới vừa mới lên Đà Lạt. Tôi tả oán thêm là cả một năm nay, phải tham dự nhiều cuộc hành quân, nên hai đứa chưa được gặp nhau. Ông tiểu khu trưởng tốt bụng, vui vẻ chấp thuận, và dặn dò tôi phải bàn giao công việc thật kỹ càng cho anh đại đội phó.

Ba ngày ở Đà Lạt là ba ngày thần tiên nhất trong đời lính của tôi. Sau khi đưa nàng đến trường thăm cô em gái và làm một số thủ tục cần thiết, chúng tôi lấy phòng ở khách sạn Palace nằm trên một ngọn đồi cao gần hồ Xuân Hương và cách khu phố Hòa Bình không xa lắm. Ban ngày chúng tôi đi tắm ở thác Cam Ly, thăm hồ Than Thở, cởi ngựa ở sân Cù, bơi thuyền trên hồ Xuân Hương. Buổi tối đi ăn bê thui, uống rượu vang, rồi ra nhà Thủy Tạ ngồi tâm tình đến khuya. Ngày hôm sau, chúng tôi rời thành phố. Sau khi thuởng thức cà phê Tùng, chúng tôi chạy về hướng thác Prenn. Nàng chỉ đường cho tôi tìm đến một hotel nằm trên núi, ông chủ cũng là một người Tây. Lấy phòng và gởi hành lý xong, chúng tôi đi bộ xuống thác Prenn, nằm không xa phía dưới. Nàng kéo tôi xuống tắm dưới dòng thác.


Hai đứa ôm nhau trong cái lạnh của nước từ trên núi cao đổ xuống. Nàng dắt tôi chạy vào khu rừng phía sau để đùa với mấy con khỉ, con gấu và cả một con cọp nữa trong vườn bách thú. Rồi nàng đi trốn, giả vờ làm nàng Jane mắc nạn để bắt tôi làm Tarzan đi cứu. Nàng hò la và ôm tôi cười vang cả một khu rừng.

Trong ba ngày, nàng đã cho tôi tất cả những gì hạnh phúc nhất mà không đòi hỏi ở tôi bất cứ một điều gì. Hôm cuối cùng, tôi đưa nàng trở lại trường Domaine De Marie để gặp lại em nàng. Ngồi trên xe, nàng trầm ngâm không nói một lời. Đến cổng trường, nàng bảo tôi dừng lại. Nàng hôn tôi thật lâu. Tôi nghe tiếng nàng khóc. Tôi định nói một lời gì đó, nhưng nàng lấy một ngón tay để trên miệng tôi, không cho tôi nói, rồi bảo tôi ngồi yên trên xe chờ nàng. Hơn hai mươi phút sau nàng chạy ra, cầm tay tôi và trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, rồi vụt chạy vào phía sau trường. Trên mảnh giấy nàng viết vội vàng bằng tiếng Việt.: “Xin cám ơn và tạm biệt anh ở đây. Em và đứa em của em sẽ về Sàigòn vào sáng sớm ngày mai. Anh hãy trở lại đơn vị, đừng chờ và cũng đừng tìm em nữa. Rồi có lúc nào đó và ở một nơi nào đó, mình sẽ gặp lại nhau. Hôn anh.”

Tôi vội vàng bước xuống xe, chưa biết gọi nàng bằng tên gì, thì nàng đã mất hút phía sau trường. Tôi ngồi trên xe nhìn thẫn thờ vào khu trường. Tất cả đều vắng lặng, chỉ nghe một vài tiếng lá rơi từ những hàng cây đứng chơ vơ im lìm trước cổng.

Tôi trở lại nhà Thủy Tạ, tìm lại bóng dáng và mùi hương của nàng. Buổi trưa, bốn bề yên lặng. Một con chim lạ, có dáng của một con hải âu, đậu xuống con thuyền bơi phía trước, kêu vài tiếng, vụt cánh bay sà xuống mặt hồ, rồi biến mất trong rừng thông. Cả một khung trời Đà Lạt nhạt nhòa trong nước mắt. Tôi không biết mình đã khóc tự bao giờ.

Tôi lái xe trở về đơn vị mang theo một nỗi buồn kỳ lạ, dường như trong lòng chỉ còn là một khoảng trống bao la.

Suốt đêm hôm ấy, tôi lang thang trong đồi trà, ngồi một mình bên bờ con suối nhỏ, nhìn mấy chiếc lá vàng rơi xuống và trôi theo dòng nước, bàng bạc dưới ánh trăng. Nửa đêm tôi trở về căn lều cũ, đun đầy một ấm trà tươi mà không uống.

Tôi ngủ vùi từ lúc nào không biết. Thức giấc, mặt trời đã lên cao. Tôi vội vã xách xe chạy xuống trạm kiểm soát. Ngồi suốt cả ngày hôm ấy, tôi vẫn không tìm thấy bóng dáng của nàng.

Hai ngày sau, khi thay bộ đồ trận ra giặt, thò tay vào túi áo lấy mọi thứ ra, bất ngờ tôi thấy tấm thẻ căn cước của nàng, viết bằng tiếng Pháp do tòa đại sứ cấp. Tôi nhớ anh cảnh sát đã giao tấm thẻ này cho tôi hôm ở trạm kiểm soát và tôi đã quên trả lại cho nàng. Đến bây giờ tôi mới biết được tên thật của nàng : Jacqueline Cuvéro.

May mắn trong tấm căn cước có cả địa chỉ. Tôi gởi trả lại nàng tấm thẻ căn cước, viết kèm theo bốn câu thơ trong bài thơ Les feuilles mortes mà nàng yêu thích.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silencieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie

Tôi phập phồng chờ thư hồi âm, nhưng không thấy. Tôi viết thêm vài cái thư nữa cho nàng nhưng tất cả đều biệt vô âm tín. Ba tháng sau tôi xin bảy ngày phép thường niên về Sài Gòn. Trước khi tìm đến nhà nàng, tôi trở lại khu đường Lý Thái Tổ thăm gia đình bà cô và rủ người anh họ cùng đi. Anh bảo là nàng cùng cô em gái đã về định cư bên Pháp hơn hai tháng nay. Không biết khi nào mới trở lại Việt nam.

Tôi lang thang ở Sài Gòn hai ngày thì lấy xe đò về Nha Trang để thăm cha tôi. Nhưng ngày nào tôi cũng đi lang thang trên bờ biển, nhìn sóng đổ vào bờ cuốn theo tất cả mọi dấu chân mình trên cát, và nhớ đến nàng.

Tôi trở lại đơn vị, đúng vào lúc đại đội tôi nhận lệnh rời khỏi Lâm Đồng để di chuyển về Phan Thiết, tăng phái cho Tiểu khu Bình Thuận, hành quân phối hợp với một đơn vị thiết kỵ của Hoa Kỳ vừa mới đến Việt Nam, giải toả mật khu Lê Hồng Phong.

Kể từ ngày ấy, trên bảng tên may trên nắp áo lính, ngay phía dưới tên tôi, có thêu một chữ nhỏ : Jacqueline, màu vàng. Mấy chú lính bảo sao tôi lại có tên con gái. Tôi giả vờ : tại vì tao ái mộ bà vợ của tổng thống Kennedy.

******

Sáng ngày mai gia đình chúng tôi phải rời nông trại GAULTIER thơ mộng này để trở về Nauy. Vợ chồng anh chủ nhà cùng mấy cô con gái của tôi đang rượt bắt mấy con gà Tây. Anh muốn đãi chúng tôi một bữa ăn Tây truyền thống. Tôi đi lang thang khắp nơi trong khu nông trại, như để cố tìm ra những dấu tích của nàng.

Buổi chiều, khi bà xã và mấy đứa con đang ngồi ở phòng khách, say mê theo dõi một cuốn phim trên truyền hình, tôi một mình lặng lẽ ra vườn cam, rồi vào khu nghĩa địa.

Tôi ngồi trước mộ nàng rất lâu, hình dung lại hình ảnh của nàng trong những ngày cùng tôi trên đồn điền trà ở bên cây cầu Đại Ngà và tung tăng khắp nơi ở bờ hồ, thác Prenn và trong rừng thông Đà Lạt.

Một cơn gió xào xạc, mấy chiếc lá vàng trên tàng cây chầm chậm rơi xuống mộ nàng.

Tôi đưa tay sờ tấm ảnh nàng trên mộ bia, nói thì thầm trong gió :

Et la chanson que tu me chantais
Toujours, toujours je l’entendrai. !

( Và bài hát mà em đã hát cho anh nghe
Mãi mãi, mãi mãi, anh vẫn còn đang nghe đây!)

phạmtínanninh
(Mùa hè 1988)
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image

KHÁNG CHIẾN PHỤC QUỐC 1

Viên tướng La Mã nhung phục tác chiến màu đỏ với chiếc nóntrên gắn chùm lông cùng màu, áo giáp sắt bó sát người,thanh kiếm lủng lẳng bên hông, giày trận với dây da quấnđến tận đầu gối. Dáng dấp hùng dũng của ông ta tượng trưng cho sức mạnh của đội quân được coi là thiện chiến nhất Âu Châu thời bấy giờ. Nhưng đôi mắt của vị tướng thì ngược lại, thẩn thờ, buồn thảm, và phủ trùm lên là nỗi uất hận tột cùng.

Cảnh tượng một vị chỉ huy quân đội đứng giữa cung điện lộng lẫyuy nghi nhưng vắng lặng lạnh tanh không một bóng ngườitrông quá đỗi bi hùng. Nơi này, chỉ vài ngày trước, vẫntấp nập những bộ quan phục áo mão xênh xang hung hăngkèn cựa nhau bỗng lộc tước vị. Nhưng hiện tại thì quânđịch đã tiến sát kinh thành, vua quan đã bỏ chạy cả lũ, rốtcuộc sẽ chỉ còn dân và lính ở lại, để cong lưng chịu đựngđòn thù từ những kẻ thắng trận.

Bao giờ chẳng vậy !
Viên tướng chầm chậm xoay người nhìn quanh cung điện một lầnnữa, bây giờ thì mắt ông rực lửa, lửa của căm hờn đồng thời cũng là lửa tủi nhục. Ông ta lặng lẽ cúi đầu bước những bước nặng nề ra khỏi cái cung điện ô nhục này. Rất nhiều khán giả đã ngồi lặng người như hóa đá, nước mắt họ sắp trào ra vì cảm nhận được nỗi niềm của vị tướng La Mã trên màn ảnh. Cái cảm xúc rờn rợn người khiến da họ nổi đầy gai.

Thập niên 1960, Hollywood trình làng hàng loạt phim cổ trangchiến sự của đế quốc La Mã ăn khách khắp thế giới, khán giả Sài Gòn cũng không ngoại lệ. Người Việt Nam xem phim chiến tranh thì “thấm” hơn nhiều dân tộc khác, bởi dân tộc Việt Nam đã phải chịu đựng chiến tranh liên miên, dài dẳng. Một ngàn năm bị lũ giặc Tầu cướp nước,một trăm năm bị đô hộ bởi bọn giặc Tây, và bây giờ là giặc Bắc Cộng. Có điều, khán giả Sài Gòn không ngờ rằng, chỉ một thập niên sau, những gì xảy ra trên màn ảnh nói trên, sẽ lập lại một lần nữa ở đời thực, vào cái ngày oan nghiệt cuối tháng Tư 1975, ngay tại thủ đô Sài Gòncủa quốc gia Việt Nam Cộng Hòa non trẻ, phần đất được Mỹ bốc thơm thành tiền đồn của thế giới tự do.

Thanh niên Phạm Châu Tài có xem cuốn phim La Mã nói trênkhông, người viết cuốn sách này không biết vì đã khônghỏi anh, nhưng vào cuối tháng Tư 1975 thì người thanh niên ấy đã trở thành Thiếu tá Lực Lượng Đặc Biệt PhạmChâu Tài, chỉ huy Chiến Đoàn 3 thuộc Liên Đoàn 81 BiệtCách Nhảy Dù có nhiệm vụ bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưucủa quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Và anh đã lâm vàohoàn cảnh giống hệt vị tướng La Mã kia. Ngày 30 thángTư, trong khi quân Bắc Cộng đánh vào Bộ Tổng ThamMưu, và trong khi quân Biệt Cách 81 đang chận đứngđịch, thì lệnh thu sẳn trong máy của Bộ liên tục phát ralệnh buộc họ không được nổ súng. Trời đất, chạm trán vớiđịch, chúng bắn không tiếc đạn còn ta thì nhận lệnhkhông được nổ súng, có khác gì cơ quan đứng đầu quânđội bảo thuộc cấp của mình … tự sát ?! Mỉa mai hơn,những quan to ban ra cái lệnh quái đản qua máy thu âm sẳn, đã biến mất như bị … bốc hơi tập thể.

Thiếu tá Tài không còn cách gì hơn là xông thẳng vào văn phòngTổng Tham Mưu Trưởng để lâm vào hoàn cảnh của vịtướng La Mã. Rồi sau đó cũng vì không còn cách gì hơnanh đã gọi thẳng đến Dinh Độc Lập, xin nói chuyện với ông Tổng thống Đại tướng Dương Văn Minh, hy vọngđược nhận lệnh từ con người chứ không phải từ con …máy. Rất “may mắn”, Thiếu Tá Phạm Châu Tài được nói chuyện trực tiếp với Tổng Thống Dương Văn Minh, ông Minh ra lệnh anh phải “chuẩn bị bàn giao”.

Như bị nện một búa thẳng tay vào giữa trán, Thiếu tá Phạm ChâuTài choáng váng, nhưng anh cũng cố trình bày (năn nỉvan xin) cho ông ta biết rằng từ sáng đến khi anh gọi vào Dinh Độc Lập, quân Biệt Cách 81 đã chận đánh địch trên khắp các ngã đường dẫn đến Bộ Tổng Tham Mưu, đã hạ 6 chiếc xe tăng của địch quân mà phía mình không có thiệt hại, vậy tại sao phải buông súng đầu hàng ? ÔngTổng Thống chận ngang “Tùy các em”, rồi cúp máy.

Thì ra là vậy, vài ngày trước anh đã nghe được tin đồn rùm khắp Sài Gòn, ông Minh sẽ giao Miền Nam Tự Do cho giặc Bắc Cộng. Đây không phải là tin đồn nữa rồi, nó là sự thật trăm phần trăm, một sự thật đau đớn nhục nhã, sau cái nhục nhã đau đớn khi quân dân miền Nam phải nghe ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (trước khi từ chức)tuyên bố trên đài truyền hình rằng Mỹ viện trợ bao nhiêu thì ông ta sẽ giữ bao nhiêu phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam tương ứng với số tiền đó.

Đến lúc này anh mới thấy quyết định đêm qua của mình là quá đúng. Ngày hôm qua 29 tháng Tư, Thiếu Tá Phạm ChâuTài được gọi vào Bộ Tổng Tham Mưu để nhận lệnh từ các tướng chưa chạy vừa lên thay các tướng đã chạy. Họnói anh chỉ cần giữ vửng Bộ Tổng Tham Mưu một đêm làcoi như … thành công. Anh không thấy như vậy, vì thế khi trở về đơn vị anh đã mời 3 vị Trưởng toán Thám sát đến đề nghị họ tình nguyện dẫn các toán thám sát trở vào rừng tìm mật cứ cho Chiến Đoàn 3 dự phòng nếu tình hình tệ đi. Bây giờ, sau khi đã nói chuyện trực tiếp với Tổng thống kiêm Đại tướng Dương Văn Minh, anh thấy không còn gì tệ hơn nữa …
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Từ phần này cho đến cuối sách, với những nhân vật từng rút vào rừng tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc mà hiện nay vẫn còn sống trong nước hay đã ra nước ngoài nhưng vẫn tiếp tục tìm cơ hội chiến đấu một lần nữa, thì tác giả sẽ dùng bí danh khi viết về họ.

Thiếu úy Danh (bí danh) là một Trưởng toán Thám sát của Chiến Đoàn 3, Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tác giả quen anh qua Thiếu tá Lực Lượng Đặc Biệt Lê Ngọc Thạch, cựu Trại phó trại biên phòng Vĩnh Gia (sau cải tuyển qua Biệt Động Quân trở thành Tiểu đoàn 93 Biệt Động Quân Biên Phòng). Thiếu tá Thạch từng ba lần vượt ngục Cộng Sản, từng chỉ huy một căn cứ Kháng Chiến của Hòa Hảo dưới chân núi Giài (chân Bắc), và sau đó mật khu Mây Tàu (Đông Sơn) trong khu vực Bà Rịa, Vũng Tàu. Nhưng cuối cùng anh đã không chết trận mà ra đi tại bệnh viện (San Jose, California) vì tai biến mạch máu não.

Thiếu úy Danh biết Thiếu tá Thạch từ trong nước, trong khi đi tìm Số Nhà Lớn (là danh từ anh gọi cơ cấu cao nhất chỉ huy toàn thể các lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc) nhằm mang anh em của anh đến gia nhập. Tác giả và anh Thạch thì biết nhau từ nửa thế kỷ trước ở vùng Thất Sơn, Châu Đốc. Gặp lại nhau tại San Jose, California, vài tháng sau anh Thạch lâm trọng bệnh, vì mất số điện thoại của tác giả anh phải nhờ anh Danh đi tìm, nhờ vậy tác giả và Thiếu úy Danh quen nhau. Hai chúng tôi thường rủ nhau cùng vào bệnh viện thăm anh Thạch, đùa giởn với anh mong cho anh quên bớt bệnh tật. Một buổi chiều sau khi đi thăm anh Thạch thấy bệnh tình anh mỗi lúc một trầm trọng hơn, hai anh em buồn bã kéo về nhà em gái tác giả, ngồi uống rượu kể cho nhau nghe những gì cá nhân mình biết về anh Thạch. Cuối cùng thì đi đến quyết định sẽ viết một cuốn sách về Kháng Chiến Phục Quốc, lấy hai câu chuyện trở vào rừng của Thiếu tá Thạch và Thiếu úy Danh làm nòng cốt cho sách.

Thật phải giật mình, ngày hôm sau anh Danh gọi cho tác giả báo tin Thiếu tá Lê Ngọc Thạch vừa qua đời. Tác giả đau lòng quá chừng, ngẫm nghĩ phải chăng anh Thạch đã “đợi” cho có quyết định viết cuốn sách mới đành lòng giả từ cuộc đời bi thảm của một người lính thất trận ? Và phải chăng anh Thạch muốn vậy bởi sợ rằng những thế hệ sau sẽ hiểu lầm các thế hệ trước vì hèn yếu nên mới bị thất trận ? Nếu anh Thạch quả thật đã lo âu như thế thì cũng đúng thôi, vì ở thời kỳ đầu của người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ, khoảng giữa năm 1976 đã có một nhà báo Nhật (lâu quá rồi tác giả không còn nhớ tên ông hay cơ sở truyền thông ông ta phục vụ) đi khắp các cộng đồng gốc Việt cư ngụ tại Nam California để tìm câu trả lời cho một dấu hỏi lớn :

Tại sao một đạo quân thiện chiến nhất vùng

Đông Nam Á (cách nói của đài BBC đêm 30 tháng Tư 1975) lại không tổ chức được một đơn vị nào rút vào rừng tổ chức Kháng Chiến tiếp tục chống lại Cộng Sản ?!

Tuy không còn nhớ tên nhà báo Nhật này cũng như tên cơ sở truyền thông ông ta phục vụ, nhưng chắc chắn sẽ có một số anh em lính Cộng Hòa không thể nào quên được điều ông thắc mắc, trong số đó có tác giả.

Ở thời điểm thắc mắc được nhà báo Nhật nêu ra, trong nước thật sự có rất nhiều tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc, do lính Cộng Hòa rút vào rừng và được dân chúng phía bên ngoài yểm trợ, tiếp tế … Chưa kể đến các đảng phái, đặc biệt có cả các tôn giáo. Phải nói rằng đây là một phong trào gây sôi nổi khắp miền Nam sau khi giặc Bắc Cộng cướp được chính quyền. Bằng chứng là giặc cũng đã ráo riết chống lại bằng cách tổ chức Kháng Chiến Giả để dụ bắt những người đi tìm kiếm gia nhập Kháng Chiến Phục Quốc, và những vụ xử án công khai các tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc để dằn mặt. Như để trả lời, cứ vài đêm thì dân Sài Gòn lại thấy xác bộ đội, cán bộ Cộng Sản bị Phục Quốc Quân giết nằm phơi thây trên lề đường.

Ở ngoài nước, từ đầu thập niên 1980 cũng đã xuất hiện một số tổ chức Kháng Chiến, nổi bật nhất là tổ chức của Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh và tổ chức do Phi công – Kỹ sư Lê Quốc Túy thành lập. Anh Tư Túy còn có được sự tham gia của những chức sắc thuộc hai tôn giáo Hòa Hảo và Cao Đài trong nước. Tổ chức của ông Hoàng Cơ Minh sau thời gian đầu khuấy động được lòng yêu nước mãnh liệt của khối người Việt tỵ nạn Cộng Sản thì bị nhiều tai tiếng về tiền bạc, vì nội bộ tự triệt phá, tố cáo lẫn nhau. Tổ chức của ông Lê Quốc Túy đã có những hoạt động đáng kể ở quốc nội, điển hình là vụ ba vị anh hùng Bạch - Bá – Quân và nhiều Kháng Chiến Quân khác thuộc Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam bị giặc xử tử tại Sài Gòn.

Hiện nay thì đã có đầy đủ dữ kiện để trả lời thắc mắc của vị nhà báo Nhật nói trên, nhưng biết tìm ông ấy ở đâu, và chắc gì ông ta còn sống ? Nhưng quả là khó quên được cái thắc mắc của ông nhà báo Nhật này hồi năm 1976, nó đã khiến cho nhiều anh em lính Cộng Hòa trong đó có tác giả phải ôm đầu chảy nước mắt trong những đêm trằn trọc về thân phận lính thất trận. (Nhất là hàng mấy trăm lính Cộng Hòa khắp California đã cùng hai cựu Trung tá Lục Phương Ninh – Huỳnh Khương An thuộc đơn vị 101 Tình Báo Chiến Trường thành lập nên tổ chức Lực Lượng Quân Nhân Việt Nam Hải Ngoại . Tổ chức này chính là cái nôi mà sau đó Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh bắt tay Đại tá Phạm Văn Liễu “cưa nó ra làm hai” để thành lập Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam hiện mang đầy tai tiếng, và đang gọi mình là đảng Việt Tân).

Nói riêng về thành phần sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, họ đã được đào tạo bởi những quân trường nổi tiếng có phẩm chất nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên, họ chưa từng được huấn luyện phải làm thế nào để có thể tiếp tục chiến đấu chống kẻ thù sau khi bị thất trận. Họ ra trường thì đã có sẳn đơn vị để chỉ huy, mọi phương tiện cần thiết cho cuộc chiến đấu đã có sẳn các đơn vị yểm trợ cung cấp. Vì vậy rút vào rừng tổ chức Kháng Chiến sau ngày ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng là một chuyện quá xa lạ đối với hầu hết sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Đó là chưa kể tinh thần ỷ lại vào Mỹ kể từ sau ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu bị nhóm tướng lãnh đảo chánh bắn – đâm chết một cách mọi rợ trong lòng một chiếc xe tăng. Vì tinh thần ỷ lại vào viện trợ Mỹ như thế, nên khi đại họa xảy ra, các vị mang cấp bậc càng cao, càng biết nhiều về thực trạng vũ khí – đạn dược – lương thực của quân đội sau khi người Mỹ cuốn gói chạy khỏi “tiền đồn của thế giới tự do” thì càng dễ mất ý chí phấn đấu trong hoàn cảnh phải tự túc tự tạo phương tiện chiến đấu trong tương lai. Đó cũng là lý do đa số các sĩ quan đã đưa anh em thuộc quyền rút vào rừng tiếp tục chiến đấu thường chỉ mang cấp bậc nhỏ, từ Thiếu tá trở xuống.

Thời thế tạo anh hùng - anh hùng tạo thời thế. Trước tháng Tư 75 chúng ta có nhiều anh hùng nhưng sau tháng Tư 75 thì lại hiếm.

Thiếu úy Danh kể :

Trong tình cảnh thê thảm hồi cuối tháng Tư 75, nhất là sau hai cuộc rút quân thất bại của Quân đoàn I và Quân đoàn II, những người lính Biệt Cách Dù trong đơn vị anh vẫn kiên cường chiến đấu, dĩ nhiên làm sao không có chút dao động phải giữ kín trong lòng. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại tá Phan Văn Huấn là một trong những đơn vị vẫn còn toàn vẹn. Đại tá Huấn chia Liên Đoàn thành 3 Chiến Đoàn : Chiến Đoàn 1 (Thiếu tá Vũ Xuân Thông), Chiến Đoàn 2 (Thiếu tá Nguyễn Sơn), Chiến Đoàn 3 (Thiếu tá Phạm Châu Tài).

Hai Chiến Đoàn 1 và 2 lãnh nhiệm vụ bảo vệ phi trường Biên Hòa. Chiến Đoàn 3 tăng phái cho Sư Đoàn 25, đang hành quân trong vùng Tây Ninh thì được lệnh ngày 26 tháng Tư phải chuyển quân về Sài Gòn nhận nhiệm vụ bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu. Chiến Đoàn 3 về tới Sài Gòn đúng ngày 26 tháng Tư, vào buổi chiều. Thiếu úy Danh cho biết Chiến Đoàn 3 đang sở hữu 10 đại bác 90 ly không giật, tăng 54 – 55 của Việt Cộng bò vào Sài Gòn bị trúng đạn sẽ giống như trái dưa hấu bị lưỡi lê đâm trúng ! (Cười hề hề).

Chiến Đoàn 3 có bốn biệt đội : Biệt đội 1 (Đại úy Lâm), Biệt đội 2 (Đại úy Ánh), Biệt đội 3 (Trung úy Hợi) ở lại Tây Ninh, Biệt đội 4 (Đại úy Thạch) do Liên Đoàn gởi tới thay thế Biệt Đội 3. Quân số mỗi biệt đội khoảng 200, chia thành ba trung đội : Thám Sát, Xung Kích, và Súng Nặng. Mỗi trung đội lại chia thành sáu toán. Các toán thuộc Trung đội Thám Sát có nhiệm vụ dò tin tức, bắt cóc, ám sát địch quân. Các toán thuộc Trung đội Xung Kích phụ trách tấn công tiêu diệt địch, giải cứu quân bạn và dân chúng. Các toán thuộc Trung đội Súng Nặng yểm trợ pháo cho các cánh quân của Biệt Đội mình trực thuộc.

Thiếu úy Danh là một Toán trưởng Thám Sát.

Đêm 29 tháng Tư 1975, sau khi dự họp trong Bộ Tổng Tham Mưu, về đến đơn vị Thiếu tá Phạm Châu Tài gọi anh đến thuật lại chuyện gặp gỡ các vị tướng vừa lên thay quyền quý vị đã bỏ chạy ra nước ngoài. Qua giọng nói Thiếu tá Tài, Thiếu úy Danh cảm nhận được sự phẩn nộ lẫn lo âu của thượng cấp. Thiếu tá Tài không ra lệnh, chỉ đề nghị Thiếu úy Danh tình nguyện dẫn toán của anh trở vào rừng tìm kiếm vài nơi thuận tiện cho Chiến Đoàn 3 trú đóng tiếp tục đánh quân Bắc Cộng trong trường hợp tình hình trở nên quá tệ. Cá nhân anh tình nguyện ngay, vì anh đã từng may mắn được nghe kể về cuốn Chính Đề Việt Nam do nhóm phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu biên soạn dựa theo những điều cá nhân ông Nhu trực tiếp thảo luận hay hướng dẫn họ. Cuốn sách được gọi là tài liệu nghiên cứu cho cán bộ quốc gia, trong đó Thiếu úy Danh nhớ hoài câu nói của ông Nhu, đại khái : Nếu Bắc Việt thôn tính được Nam Việt thì chuyện Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian mà thôi !

Không tình nguyện dẫn toán vào rừng tìm căn cứ mật cho Chiến Đoàn 3 bây giờ, chẳng lẽ đợi trong tương lai sẽ gục mặt làm công dân hạng hai của Tầu Cộng à ? Rồi lại buồn rầu ngẫm nghĩ, nếu chúng ta bại trận thì điều này không có nghĩa là miền Nam mất vào tay Cộng Sản Việt mà chính là cả nước Việt Nam sẽ sớm mất vào tay Cộng Sản Tầu. Ôi, một viễn ảnh kinh hồn.

Thiếu úy Danh trở về toán của mình, đem đề nghị của Thiếu tá Tài trình bày với sáu toán viên. Và cũng hỏi anh em, nếu tình nguyện vào rừng tìm căn cứ mật, thì anh em nghĩ tới rừng ở vùng nào ? Toán viên Linh đề nghị, trước tiên về nhà anh ở khu vực Ngã Ba Trung Tâm Tiếp Huyết, Gò Vấp, sau đó sẽ tính toán rút vào khu vực nào.

Được toàn thể toán viên đồng lòng, Thiếu úy Danh trở lại gặp Thiếu tá Tài báo cáo toán anh sẽ rút vào rừng tìm căn cứ mật cho Chiến Đoàn 3 đóng quân, và xin ấn định cách thức liên lạc trong tương lai. Chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 3 trả lời ngắn gọn : Qua anh Tư Ng.

4 giờ sáng ngày 30 tháng Tư 1975 Thiếu úy Danh dẫn Toán Thám Sát lặng lẽ len lỏi qua những con đường trong Bộ Tổng Tham Mưu ra đến Trung Tâm Tiếp Huyết đến nhà Toán viên Linh hơn 5 giờ sáng.

Mẹ Linh, bà mẹ miền Nam có con đi lính Cộng Hòa để giữ yên nước non cho bà và láng giềng của bà, thân quyến của bà được bình yên tự do buôn gánh bán bưng chờ ngày đám giặc Bắc Cộng bị đuổi khỏi miền đất hiền hòa được ông trời ban cho sự sung túc này, chờ ngày đoàn tụ với thằng con trai. Giữa lúc bà con miền Trung chạy giặc tràn về Sài Gòn, giữa lúc thủ đô Sài Gòn đang rung rinh như sắp sập, bà cầu nguyện ngày đêm cho thằng con Biệt Cách Dù của bà an lành trở về thì bất chợt nó về thật, cùng với đám bạn lính sống chết với nó. Cái bất chợt ngoài sức tưởng tượng khiến bà đứng sửng như bị “trời trồng” rồi đôi tay gầy đét của bà dang rộng ra, hai dòng nước mắt đầm đìa lả chả chạy xuống đôi gò má hóp. Cả Toán Thám Sát cũng không hơn gì mẹ Linh, bảy anh lính Biệt Cách Dù súng đạn đầy mình, cũng đứng sửng như bà, hướng những cặp mắt đỏ hoe về phía mẹ Linh. Bấy giờ thì bà như đã kềm được cơn xúc động quá cỡ này, đã biết mình đang tỉnh chớ không phải đang ngũ mơ, bà bậm môi mếu máo nhào tới vòng tay ôm chặt cứng thằng con trai, rồi tất cả nỗi niềm cố dồn nén bật tung lên, những tiếng nấc chen lấn rượt đuổi nhau tràn ra khỏi đôi môi già nua nhăn rúm, người bà run lên từng chập, nước mắt thấm ướt một bên vai thằng con Biệt Cách Dù. Cả toán không hẹn nhưng cùng xoay mặt đi chỗ khác, không dám nhìn nữa. Thiếu úy Danh không còn cố kìm hảm, anh để mặc nước mắt tuôn ra : Anh đang nhớ, nhớ muốn chết luôn, mẹ mình, ngoại mình, chị mình, các em mình. Anh muốn rên lên, mẹ ơi, ngoại ơi, chị ơi, các em ơi …

Đôi tay bà mẹ rời khỏi hai vai Linh, cái nhìn của bà thật sâu vào khuôn mặt thằng con trai mình trước khi xoay sang đám bạn lính của con. Không đãi bôi “các anh, các ông” gì ráo, giọng bà thật êm, tụi con ngồi xuống đây bác đi dọn cơm …

Một dĩa cá kho tổ chảng và một dĩa rau luộc cũng tổ chảng luôn, đám lính Biệt Cách Dù thanh toán … đẹp mắt, nghĩa là sạch trơn. Hình như bà con láng giềng xung quanh nhà mẹ Linh đã … rình rập đám lính Biệt Cách Dù rất lâu rồi, khi đôi đủa cuối cùng được thả xuống mâm cơm, hơn chục người tràn vào hỏi han tùm lum đủ thứ chuyện về tình hình chiến sự. Tụi nó có vô Sài Gòn thiệt không ? Phe mình đủ sức … làm gỏi tụi nó không ? Uýnh te gáo tụi nó đi mấy anh, mấy anh dư sức mà, phải không ? Chơi tụi nó thẳng cánh như mấy anh từng chơi ở An Lộc vậy đó …

Biết rằng nói gì thì nói chớ bà con mình cũng … run lắm chớ, miệng nói “ngầu” như vậy chớ cỡ gì thì họ cũng là thường dân thôi. Thiếu úy Danh đành phải lên tiếng :Việt Cộng không vô nổi đâu, xin mấy bác đừng lo ! Anh nói mà tự nghe như mỉa mai với chính mình, vì mình đang lãnh nhiệm vụ chuẩn bị căn cứ mật trong rừng cho Chiến Đoàn 3. Dù sao câu trả lời của anh hình như cũng làm cho bà con xóm này được một lần thở dài nhẹ nhỏm, trong khi chính anh thì cảm thấy mắc cở, nhưng biết làm gì khác hơn đây ?

Sau đó Toán viên Linh xin lệnh anh để đi gặp Trung sĩ Bình (Biệt Động Quân) đang được bà con xóm này giúp đỡ nằm dưỡng thương trong xóm. Trung sĩ Bình có nhà ở Long Khánh là vùng mà Toán Thám Sát muốn vào.


*

Thiếu úy Danh kể chuyện hàng ngày, kéo dài cả tháng cho tác giả ghi lại đầy đủ dữ kiện Toán Thám Sát Biệt Cách Dù vào rừng tìm căn cứ mật cho Chiến Đoàn 3.

Nhưng để cho nội dung cuốn sách được mạch lạc tác giả sẽ trình bày nguyên câu chuyện đó sau phần trình bày đến độc giả cuộc phỏng vấn Thiếu tá Phạm Châu Tài.
Image
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù trên đường hành quân.


3


Từ giả Thiếu úy Danh, tác giả rời San Jose xuống Orange County tìm gặp Thiếu tá Phạm Châu Tài để nối tiếp câu chuyện Biệt Cách Dù Rút Vào Rừng.

Phạm Châu Tài không phải là cái tên xa lạ đối với tác giả và cả cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại Little Saigon, nhất là với các cựu lính Cộng Hòa. Thời kỳ phong trào làm phát thanh nở rộ tại Little Saigon, các đài thường mời Thiếu tá Tài “thượng đài” kể cho thính giả nghe câu chuyện Chiến Đoàn 3 thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù về Sài Gòn bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu, và nhất là chuyện sau khi cơ sở đầu não quân lực Việt Nam Cộng Hòa trống trơn không còn một vị tướng tá nào (trong khi lệnh buông súng được thâu sẳn phát tới liên tục) thì anh buộc lòng gọi sang Dinh Độc Lập xin nói chuyện với Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh Dương Văn Minh, để được trực tiếp nghe ông ta chỉ thị anh chuẩn bị bàn giao đơn vị cho … Việt Cộng.

Lần gặp gỡ này tác giả yêu cầu Thiếu tá Phạm Châu Tài kể lại đầy đủ câu chuyện từ lúc Chiến Đoàn 3 của anh về tới Bộ Tổng Tham Mưu cho đến khi ông Tổng thống Đại tướng Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng giặc trên đài phát thanh Sài Gòn.

Dưới đây là câu chuyện từ vị Chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 3 Biệt Cách 81, Thiếu tá Phạm Châu Tài :

Chiến Đoàn 3 có bốn Biệt Đội : 811, 812, 813, 814, với hơn 1,000 quân. Đang tăng phái cho Sư Đoàn 25 của Tướng Lý Tòng Bá hành quân trong vùng Tây Ninh, Thiếu tá Phạm Châu Tài nhận lệnh đưa toàn Chiến Đoàn 3 về Sài Gòn vào ngày 26 tháng Tư 1975 lãnh nhiệm vụ bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu. Kẹt cho cả Tướng Bá và Thiếu tá Tài, vừa thấy lính Biệt Cách Dù chuẩn bị rút đi, dân Tây Ninh cũng lục tục chuẩn bị … hành quân rút theo. Tướng Lý Tòng Bá không cách gì giải quyết khác hơn là yêu cầu Thiếu tá Phạm Châu Tài chịu khó để lại một biệt đội hầu trấn an dân chúng. Anh đành để lại Biệt Đội 813 do Đại úy Hợi chỉ huy. Thật may, Đại tá Phan Văn Huấn, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, sau đó đã nhanh chóng gởi Biệt Đội 815 về Sài Gòn thay thế cho Biệt Đội 813.


Chiến Đoàn 3 về tới Sài Gòn chiều ngày 26 tháng Tư 1975 khoảng 4 giờ 30, Thiếu tá Phạm Châu Tài vào Bộ Tổng Tham Mưu trình diện Đại tá Nguyễn Trọng Tòng, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh, một đơn vị có khoảng hơn 1,000 quân nhưng có thể không có nhiều người đã từng tham dự tác chiến. Đại tá Tòng chỉ trình bày tổng quát những điều cần thiết, sau đó giao phần trình bày chi tiết lại cho Trung tá Đức, Chỉ huy phó. Trung tá Đức lái chiếc Jeep đưa Thiếu tá Tài đi quan sát một vòng bên trong vòng rào phòng thủ, từng vọng gác một rồi kết luận : Chiến Đoàn 3 của anh sẽ rãi quân bên trong vòng rào phòng thủ chờ địch. Thiếu tá Tài lập tức phản đối, anh giải thích quân Biệt Cách Dù cần đóng phía bên ngoài vòng rào phòng thủ, lại cần phải bung ra xa hơn để kịp thời chận đứng và tiêu diệt địch khi chúng đang trên các ngã đường kéo đến cơ sở đầu não của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc tranh luận khá “găng” nhưng cuối cùng các vị chỉ huy Tổng Hành Dinh cũng chấp thuận ý kiến của anh.

Thiếu Tá Phạm Châu Tài dàn quân Biệt Cách Dù như sau :

- Biệt Đội 811 do Đại úy Lâm chỉ huy đóng tại trường Quân Cụ, Gò Vấp, có nhiệm vụ chận quân Việt Cộng tiến vào từ An Phú Đông.

- Biệt Đội 812 của Đại úy Ánh đóng quân dọc theo Trung Tâm Tiếp Huyết thuộc Tổng y viện Cộng Hòa, trên đường Võ Di Nguy, tức giữ cỗng sau Bộ Tổng Tham Mưu.

- Biệt Đội 814 của Đại úy Thạch giữ từ cỗng Phi Long đến Ngã tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả.

- Biệt Đội 815 của Đại úy Lợi chịu trách nhiệm từ sân banh Quân Đội cho tới cỗng Phi Long.

Bây giờ chuyện đã qua nhiều năm, chi tiết cũng đã lần lượt được đưa ra ánh sáng. Nhưng nếu ở vào thời điểm đó mà Thiếu tá Phạm Châu Tài biết được rằng cánh quân sẽ “đánh tan hàng” Chiến Đoàn 3 của anh không phải là những cánh quân giặc Cộng mà anh đang dàn quân đánh
chận, cánh quân ghê gớm đó đặt căn cứ to lớn, uy nghi của họ không xa cỗng sau chợ Sài Gòn, thì Thiếu tá Tài sẽ làm gì ?

Người Mỹ đã và đang rút khỏi Việt Nam, đang gấp rút hoàn tất cuộc bỏ chạy khỏi … tiền đồn của thế giới tự do. Có rất nhiều cao ốc do họ sở hữu gần Bộ Tổng Tham Mưu đang bị bỏ trống, Thiếu tá Phạm Châu Tài chọn cao ốc được gọi là “Biu đinh số 1” của họ, cao sáu tầng, nằm phía bên trái cỗng vào Bộ Tổng Tham Mưu để đặt Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn 3. Gần sát nơi Chiến đoàn phải bảo vệ, lại có cả điện thoại liên lạc trực tiếp. Có một người Mỹ cao lớn, mặc đồ dân sự, đến tìm Thiếu tá Tài, ông ta muốn tặng hết tiếp liệu chứa trong “Biu đinh số 1” cho quân Biệt Cách Dù. Với cặp mắt “nhà nghề”, anh dự trù với mớ tiếp liệu này cộng với số gạo Đại tá Phan Văn Huấn từ Suối Máu gởi về, Chiến đoàn 3 dư sức “chơi” với Việt Cộng trong sáu tháng.

Trước đó, khi Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam họ đã âm thầm chuyển giao một số vũ khí ngoại lệ (ngoài bảng cấp số) cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù như đại bác chống tăng M90, súng bắn sẻ có ống ngắm (snipper), máy ngắm hồng ngoại tuyến, vv … Chiến Đoàn 3 đã được trang bị đầy đủ những vũ khí lợi hại, tối tân này.

Sự tự tin của anh dựa vào lần quân 81 Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc, chỉ với 550 quân, thiếu thốn đủ thứ vẫn giữ vững vùng trách nhiệm của mình, được dân chúng địa phương ca tụng qua hai câu thơ để đời :

An Lộc địa sử ghi chiến tích

Biệt Cách Dù vị quốc vong thân.

Huống chi là bây giờ, Biệt Cách Dù đóng quân giữ lòng thủ đô Sài Gòn với đầy đủ tiếp liệu.

Ngày đầu tiên của Chiến Đoàn 3 ở Sài Gòn, 26 tháng Tư 1975, không có biến cố, nếu không tính những tin đồn cũng là biến cố :

Trong năm ngày cuối cùng của Miền Nam Tự Do, một số người quen biết ghé ngang thăm hỏi, bàn tán, đưa thêm thông tin cho Thiếu tá Phạm Châu Tài :

- Đại úy Nguyễn Bảo Tín, em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, khuyên Thiếu tá Tài nên chuẩn bị vì sẽ không đánh nhau ở Sài Gòn nữa, quân của mình sẽ rút hết về vùng IV tiếp tục chiến đấu. Đang lãnh nhiệm vụ bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu mà nghe vậy, Thiếu tá Tài … hơi xìu, nhưng anh vẫn cứng rắn trả lời chiến đoàn của anh sẽ không rút đi đâu hết, Biệt Cách Dù sẽ hoàn thành nhiệm vụ được cấp trên giao phó.

Lời của Đại úy Nguyễn Bảo Tín không phải là tin đồn, sau này tác giả được nghe về kế hoạch tiếp tục giữ vùng IV của hai tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, nhưng hai ông tướng vùng IV đã bị một thuộc cấp thân cận phản, kế hoạch bất thành.

- Một Thiếu tá Quận trưởng ở vùng II, em vợ một vị tướng, cho biết ông tướng sẽ đi Thái Lan trong đêm, nếu muốn Thiếu tá Phạm Châu Tài có thể mang toàn gia đình mình cùng đi, ông tướng sẽ lo hết. Chuyện các quan lớn bỏ nước ra đi đang được đồn đãi cùng khắp miền Nam, anh nghe không ngạc nhiên, anh chỉ thấy buồn và phẩn nộ vì đây là hành động mà theo anh là phản bội đất nước, phản bội quân đội, cũng là phản bội thuộc cấp. Anh chỉ ngạc nhiên vì theo tin tức thì cuộc triệt thoái của Quân Đoàn 2 đã thất bại và thiệt hại nặng nề, tại sao ông Quận trưởng này có vẻ rất thoải mái tại thủ đô vậy ? Nhưng không muốn gây gỗ giữa lúc cần tỉnh táo chờ địch tới, anh trả lời nhẹ nhàng mà dứt khoát “Không đi đâu hết, bạn ơi”, rồi tiển ông quận ra về. Ông Quận trưởng ra tới cửa bỗng quay ngược lại, rút túi ra một xấp bạc, cười cười đưa cho Thiếu tá Tài “Mầy xài giùm tao”, anh cũng cười “Ừ, tiền thì tao có thể xài giùm mầy”. Khoảng 30 xấp, toàn giấy 500.

- Võ sư Nguyễn Văn Lễ, Giám đốc Võ đường Biệt Cách Dù, đến thăm Thiếu tá Tài với bộ mặt thật chán chường, hằn học nói “Thằng Dương Văn Minh bán nước cho Việt Cộng rồi, anh Tài ơi”. Anh chỉ biết lắc đầu cười buồn bã, tin này chính xác hay không, anh không biết, nhưng dù không chính xác thì cũng cho thấy lòng dân đã chán ngán mấy ông lớn lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa lắm rồi.

Ngày nay thì ai cũng biết Võ sư Lễ nói không sai, tác giả chỉ thấy cần phải dè dặt một chút khi viết về ông Dương Văn Minh, vì lúc đó, nhiều sư đoàn chính quy Bắc Cộng đang vây quanh thủ đô Sài Gòn, ông Minh là một tướng lãnh cao cấp của quân đội, có thể ông ta không còn chọn lựa nào “khá” hơn. Nhưng nói vậy thì chúng ta không nên quên đi thái độ “giành nhau” chức “Tổng thống giờ thứ 25” của ông Minh đối với cụ Trần Văn Hương. Tại sao lại vậy ? Ông Minh có nhiệm vụ phải ra lệnh cho toàn quân đội Việt Nam Cộng Hòa chính thức buông súng đầu hàng giặc Bắc Cộng ? Vì chỉ như vậy thì mới có thể nhanh chóng vô hiệu hóa quyền chỉ huy của các đơn vị trưởng những đơn vị vẫn còn có khả năng chiến đấu. Tổng thống kiêm Tổng Tư lệnh quân đội ra lệnh buông súng đầu hàng thì các vị đơn vị trưởng này làm gì được hơn là phải cùng đơn vị đầu hàng giặc hoặc lập tức giải tán đơn vị của mình để khỏi phải chịu nhục ? Đó là trường hợp của Thiếu tá Phạm Châu Tài và Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù vài ngày sau. Lại còn lý do này nữa, quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải đầu hàng trong lúc vẫn còn chút đỉnh tiếp liệu, thì người Mỹ mới có thể “chạy tội” đối với dư luận thế giới, bởi nếu miền Nam vẫn đánh mãi cho tới khi không còn phương tiện chiến đấu nữa do Mỹ cúp viện trợ thì làm gì Mỹ có thể “tự sướng” bằng tuyên bố “rút lui trong danh dự” ? Điều này giải thích được lý do tại sao Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh lạc quái đản khiến Việt Nam Cộng Hòa mất Vùng I và Vùng II trong một thời gian quá ngắn đến không ngờ, rồi đến phiên Tổng thống Dương Văn Minh “giành quyền đầu hàng” với Tổng thống Trần Văn Hương, vì cả giặc lẫn siêu cường đồng minh đều biết cụ Hương sẽ quyết đánh tới cùng !

Quân đội Việt Nam Cộng Hòa có đánh giặc giỏi đến đâu cũng phải thua thôi, với lý do vô cùng mỉa mai : Thua vì anh siêu cường đồng minh cùng hai ông tổng thống đều mang lon tướng Việt Nam Cộng Hòa. Lính Cộng Hòa không thua trận vì quân đội Cộng Sản đánh trận giỏi hơn. Còn lâu !

George Veith, tác giả cuốn “Black April : The Fall of South Vietnam, 1973 – 1975”, đã nghiên cứu 7 năm liền trước khi xuất bản cuốn sách, và đã kết luận rằng mặc dù bị Mỹ cắt viện trợ thê thảm, nhưng trong hai năm 1973 và 1974 quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn thắng trận nhiều hơn thua. Và rằng nếu được tiếp tục viện trợ hợp lý thì có lẽ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Ông Veith là một người viết về Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam War) có uy tín, đã từng được Quốc hội Mỹ mời điều trần hai lần cho các vấn đề liên quan tới P.O.W. và M.I.A.

Rốt cuộc, khổ cũng lính, mà nhục cũng lính.

Ngày 28 tháng Tư 1975 không phải là một ngày suôn sẻ, khoảng giữa trưa có điện thoại từ Trung tâm hành quân Bộ Tổng Tham Mưu gọi qua, một ông xưng cấp bậc Đại úy nói như hét vào máy : Thằng Viên bỏ chạy rồi, tôi báo cho Thiếu tá biết ! Lại thêm một ông tướng bị gọi là … thằng. Anh thông cảm với sự phẩn nộ của ông Đại úy, tuy nhiên vẫn không thể im lặng được, anh nhẹ nhàng trả lời : Chuyện đâu còn đó, anh bạn, dù sao đi nữa anh bạn cũng không nên gọi ông Tổng Tham mưu trưởng quân đội như vậy được.

Vừa cúp máy, anh vội vàng chạy sang Bộ Tổng Tham Mưu, để bị chứng kiến cảnh tượng cụ Nguyễn Du đã từng … rên : Những điều trông thấy mà đau đớn lòng …

Bộ Tổng Tham Mưu sau tin Đại tướng Cao Văn Viên đã ra đi,
là một vụ hổn loạn. Đủ các loại xe, nhiều nhất là xe gắn máy, rồi đến xe Zeep, xe Dodge, chồng chất đủ thứ ở trên, chạy ngược chạy xuôi như thể những người lái chúng đang lâm vào một cơn mê sảng, hoảng loạn. Thiếu tá Phạm Châu Tài phóng đi tìm Đại tá Nguyễn Trọng Tòng để yêu cầu dẹp cái cảnh tượng khó coi này giùm, nhưng chẳng thấy ông Tòng và ông phó của ông ở đâu hết, mà lại gặp một vị Đại tá anh chưa từng biết. Đó là Đại tá Trần Văn Thăng, Cục trưởng cục An Ninh Quân Đội, ông cho Thiếu tá Tài biết ông được cấp trên đưa về đây để “nâng cao tinh thần anh em” (vì hai quan chỉ huy Tổng Hành Dinh đã … bấm nút tàng hình ?). Rồi nói rất thật tình, tôi chẳng biết đánh đấm gì hết, đánh đấm giao hết cho Thiếu tá Tài cùng anh em Biệt Cách Dù.

Với tình hình loạn như thế ngay tại cơ sở đầu não của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, Thiếu tá Phạm Châu Tài biết kêu ca cùng ai đây ? Không có ai hết ! Anh chỉ có thể làm những gì anh thấy có khả năng giải quyết tại chỗ, đó là đưa lính Biệt Cách Dù đến phụ giúp anh em Quân Cảnh trấn giữ cỗng Bộ Tổng Tham Mưu thi hành lệnh “ngoại bất nhập nội bất xuất” rồi gọi máy cho Đại tá Phan Văn Huấn, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù (sếp trực tiếp của anh), báo cáo về tin Đại tướng Cao Văn Viên đã “vọt” cùng tình trạng hổn loạn tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Với cái tin “hết biết” này Đại tá Phan Văn Huấn lật đật từ Suối Máu chạy ngay về Sài Gòn, lúc đó khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng Tư 1975. Được Thiếu tá Tài đưa thẳng vào Bộ Tổng Tham Mưu để tai nghe mắt thấy tại chỗ, ông Huấn chắc cũng thấy như cụ Nguyễn Du ngày xưa “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, ông bèn nhắc lại như muốn trấn an Thiếu tá Tài (có lẽ cũng là tự trấn an mình), rằng mới đây Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc với chỉ 550 quân thiếu thốn đủ thứ tiếp liệu rồi ông ra lệnh “Chiến Đoàn 3 không đi đâu hết” !

Đại tá Phan Văn Huấn nói đúng “y chang” ý của Thiếu tá Phạm Châu Tài nên anh vui vẽ chào tạm biệt để sếp trở về Suối Máu. Phần anh, được ông sếp trực tiếp của mình có cùng ý nghĩ thì anh thở phào, tự nói với mình “Bây giờ thì tới luôn đi … bác Tài”. Anh chưa thể ngờ hai ngày sau anh sẽ “tới đâu”, vì anh chưa biết đến “cánh quân phục ở cỗng sau chợ Sài Gòn” được trang bị những thứ “vũ khí” mà các cánh quân của giặc đang bị Chiến đoàn 3 Biệt Cách Dù chờ chận đánh không hề có được.

Đúng lúc đó một đội chiến đấu cơ A37 mang huy hiệu Việt Nam Cộng Hòa do tên phi công phản tặc Nguyễn Thành Trung dẫn theo đám “giặc lái gió” Bắc Cộng bay ngang trên đầu anh ném bom xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Tác giả hỏi : Anh phản ứng không kịp à ? Anh Tài hực lên, tức tối : Phản ứng cái gì đây, phi cơ là loại mình xử dụng từ đó đến giờ, mang huy hiệu Việt Nam Cộng Hòa mình, lúc đó tôi tưởng là phi cơ của mình vừa xong phi vụ trở về, hoặc là của Tướng Nguyễn Cao Kỳ … đảo chánh, nên đâu có dám hét lính thủ đại liên trên sân thượng bắn tụi nó.

Đêm đến, nhưng tiếng ầm ì lên xuống của đủ loại động cơ máy bay vẫn tiếp tục từ phi trường Tân Sơn Nhất vọng đến nơi đặt Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn 3. Thiếu tá Phạm Châu Tài cho biết trong ngày anh có vài lần ghé ngang cỗng Phi Long quan sát, nhưng cảnh đoàn người đông đúc chen lấn nhau để được vào phi trường chạy ra nước ngoài chỉ khiến anh buồn bã thêm cho vận nước, vận dân, và vận lính. Vì vậy tiếng ầm ì của động cơ càng làm anh khó ngũ hơn, nhưng rồi đêm cũng qua đi. Quan trọng là chuyện gì sẽ tới trong ngày mai ?

Ngày 29 tháng Tư quân đội Việt Nam Cộng Hòa có tân Tổng tham mưu trưởng thay thế cho Đại tướng Cao Văn Viên đã ra đi, Chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù được mời đến tham dự buổi họp được tổ chức tại phòng Khánh Tiết Bộ Tổng Tham Mưu chiều hôm đó. Theo Thiếu tá Tài, buổi họp này không giống một buổi họp thường có của quân đội, nó giống tiệc tiếp tân hơn. Các vị tướng tá hiện diện khoảng hơn 20 người, chia thành nhiều nhóm nhỏ đứng bàn tán với nhau. Thiếu tá Tài đi với 4 Biệt Cách Dù, vì đang trong tình trạng hành quân nên đều vũ trang đầy
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

đủ, được Đại tá Trần Văn Thăng giới thiệu như những người hùng đang bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu. Anh Tài thì nghĩ, dù sao đi nữa sự có mặt của Trung tướng Vĩnh Lộc cũng đã mang lại chút sinh khí cho Bộ Tổng Tham Mưu sau những “cú vọt” của nhiều vị tướng khác, mặc dù anh phân vân không ít :

- Trung tướng Nguyễn Hữu Có được giới thiệu là tân Phó Tổng tham mưu trưởng, nhưng lại đã giải ngũ, và đang là Phó Giám đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng.

- Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh được giới thiệu là Phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thì từ lâu đã bị tiếng xì xào trong quân đội là “không phải phe ta” (tức thuộc phe giặc chứ gì nữa).

Tiếng xì xào về Chuẩn tướng Hạnh không phải là tin đồn nhảm, sau 30 tháng Tư chính giặc Bắc Cộng công khai ra ông này là : Một cơ sở nòng cốt đắc lực của Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam !

Một vị Chuẩn tướng khác mang bảng tên “Hỷ” thì anh không từng biết.

Trung tướng Có hỏi Thiếu tá Tài về tình trạng và khả năng của Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù. Ông Chiến đoàn trưởng thuyết trình về đơn vị của mình, khả năng đánh trong thành phố của Biệt Cách Dù (xuyên qua những trận như Mậu Thân, An Lộc, vv …) nhưng hạn chế được tối đa thiệt hại của dân chúng. Anh cam đoan với Tướng Có, với tiếp liệu anh đang có trong tay thì Chiến Đoàn 3 chắc chắn sẽ giữ vững Bộ Tổng Tham Mưu trong sáu tháng. Các vị tướng tá vui vẽ hẳn lên sau tuyên bố chắc nịch của người cầm đầu chiến đoàn.

Trung tướng Nguyễn Hữu Có đáp lời bằng một câu khiến người nghe có thể mừng, nếu muốn, hay lo buồn thì cũng có thể luôn. Ông nói : Chỉ cần giữ vững Bộ Tổng Tham Mưu một đêm nay thôi, qua ngày mai quân mình ở đâu thì ở đó, chính phủ đã có giải pháp. Thiếu tá Phạm Châu Tài xác nhận lại một lần nữa : Tôi xin nói chắc, đêm nay một con kiến cũng không lọt vào đây được, đừng nói là một thằng Việt Cộng !

Thiếu tá Phạm Châu Tài không biết rằng, trước đó mấy tiếng đồng hồ, ông Dương Văn Minh đã gởi một phái đoàn gồm Luật sư Trần Ngọc Liểng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào trại David (nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất) gặp Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn giặc Cộng, thông báo Tổng thống chủ trương “không chống cự” khi giặc Cộng tiến quân vào Sài Gòn. Theo Luật sư Liểng, như vậy thì Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa ngày 29 tháng Tư 1975 !

Vào lúc Thiếu tá Phạm Châu Tài tuyên bố một con kiến cũng không lọt được vào Bộ Tổng Tham Mưu đêm nay (29/4) thì có một vị đại tá hân hoan hô lớn : Qua ngày mai Thiếu tá Phạm Châu Tài xứng đáng được gắn thêm một mai bạc.

Đó là ý tốt của ông đại tá, thật vậy, nhưng cá nhân tác giả thì nghĩ rằng, trong tình trạng mà những ngôi sao đầy quyền uy trên cổ áo các tướng lãnh còn bị những chủ nhân của nó vất bỏ dễ dàng như vất bỏ một món đồ phế thải để ra đi trong những ngày vừa qua, thì việc hứa cho đeo thêm một mai bạc vào lúc này thật quá mỉa mai. Đi lính ai cũng muốn được lên lon, là lẽ thường tình, tuy vậy đề nghị hay hứa cho lên lon trong tình trạng hiện giờ, thì quả thật không thường tình chút nào ! Nhưng câu nói của Trung tướng Có mới thật là đáng sợ : Chỉ cần giữ vững Bộ Tổng Tham Mưu một đêm nay thôi, theo tác giả, có nghĩa là kết quả của việc giữ vững được Bộ Tổng Tham Mưu đêm nay sẽ giúp cho chính phủ Dương Văn Minh có đủ tư thế thương lượng với giặc Bắc Cộng vào ngày mai, ngày mốt, bữa kia … ? Thương lượng như thế nào đó để có thể gọi là “Chính phủ đã có giải pháp”. Nhưng sao lại là “Qua ngày mai quân của mình ở đâu thì ở đó” ? Còn giặc Bắc Cộng thì sao, họ có bị kiềm chế “ở đâu thì ở đó” như quân mình hay không ? Chắc là không, vì nhiều sư đoàn của giặc đang ép sát vào vòng đai của thủ đô Sài Gòn rồi kia mà ! “Chính phủ đã có giải pháp”, lượng theo tình hình thì có lẽ “giải pháp đã có” đó sẽ khiến cho dân chúng Miền Nam Tự Do khóc hơn là cười !

Thiếu tá Tài nhớ lại, bấy giờ thì không khí trong phòng Khánh Tiết của Bộ Tổng Tham Mưu đã đổi khác, có lại chút lạc quan, nhưng riêng trong lòng anh thì không.

Trước tiên, anh vững niềm tin về khả năng bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu trong một thời gian dài của đơn vị anh, trước khi đến đây dự họp anh đã làm một vòng thăm anh em, nhận thấy tinh thần của họ vẫn cao, vẫn vững vàng, mặc dù những cảnh tượng xảy ra chung quanh họ mấy ngày qua đã làm nản lòng phần nào những người lính chuyên đánh giặc trong rừng. (Ở trong rừng khổ nhưng đỡ ngứa mắt, ngứa tai). Nhưng, Thiếu tá Tài rất quan tâm về câu nói “ngày mai chính phủ đã có giải pháp”, anh nhận định Tướng Có nói một cách bình thản về việc này khiến anh nghĩ là ông đã biết được chuyện gì đó nhưng “chưa tiện” nói ra, hoặc phòng Khánh Tiết Bộ Tổng Tham Mưu không phải là nơi thích hợp để tiết lộ. Lùng bùng trong đầu anh lúc đó là, giải pháp này sẽ làm thiệt hại cho Việt Nam Cộng Hòa đến mức nào ?!

Thiếu tá Phạm Châu Tài rời phòng họp với tâm trạng nhất định là mình phải có ngay một quyết định quan trọng nhất trong đời làm lính của mình : Phải nói với những sĩ quan thân cận nhất về việc tìm và xây dựng những căn cứ mật để từ đó bung ra tiếp tục đánh Việt Cộng nếu có chuyển biến xấu xảy tới. Anh đã có sẳn trong đầu ba sĩ quan Biệt Cách Dù anh tin rằng có đủ nhiệt huyết và khả năng hoàn thành việc này. Thiếu úy Danh, tác giả đã nhắc tới anh ở chương trước, là một trong ba người này.

Tuy trong lòng ngổn ngang đủ chuyện, nhưng với tư cách một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa luôn coi trọng trách nhiệm được giao phó, Thiếu tá Tài đã theo dõi thật sát các biệt đội dưới quyền suốt đêm đó để đơn vị hoàn thành nhiệm vụ cũng như giúp hoàn thành mong muốn của những vị tướng tá xuyên qua lời của Trung tướng Nguyễn Hữu Có : Giữ vững Bộ Tổng Tham Mưu một đêm nay thôi.

6 giờ sáng ngày 30 tháng Tư 1975, quân ta ở đâu thì ở đó, đúng như lời Tướng Có nói trong buổi họp hôm qua. Giặc có lẽ cũng “tuân lệnh” ông tướng Việt Nam Cộng Hòa, họ cũng ở đâu thì ở đó quanh các ổ pháo và bắt đầu pháo kích vào Sài Gòn. Đại úy Ánh chỉ huy Biệt Đội 812 đóng quân giữ cỗng sau Bộ Tổng Tham Mưu gọi Thiếu tá Tài báo cáo pháo của giặc Cộng rơi trúng nhà dân chúng khiến dân chết và bị thương rất nhiều, yêu cầu gởi gấp xe cứu thương đến chỡ họ vào bệnh viện cấp cứu. Tuy biết “thằng 812” đang ở gần Tổng y viện Cộng Hòa, nhưng anh vẫn chưa quên cảnh hỗn loạn trong Bộ Tổng Tham Mưu ngày 28 tháng Tư là nơi toàn quân nhân huống chi bây giờ xung quanh “thằng 812” chỉ là đám đông thường dân chưa được trang bị tinh thần kỹ luật như lính. Thiếu tá Tài vội vã đáp ứng yêu cầu của Đại úy Ánh.

Máy truyền tin lúc này nhận báo cáo tới tấp của các biệt đội cho biết giặc Bắc Cộng được xe tăng dẫn đầu đang tiến tới các chốt chận của Biệt Cách Dù. Phải lập tức “nướng” chúng cho bằng được. Nói ngay và làm liền, hai chiếc tăng đầu tiên của địch bị bắn hạ trước cỗng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, các khóa sinh chưa kịp mãn khóa cũng bung ra đánh địch, trận đầu và cũng là trận cuối của họ. Hai chiếc bị hạ nhưng những chiếc còn lại vẫn lầm lũi tiếp tục hướng về Sài Gòn. Tới Ngã Tư Bảy Hiền thì giặc đụng độ với Biệt Cách Dù, chiếc tăng dẫn đầu lập tức bốc cháy, tuy vậy đoàn xe của Cộng Sản vẫn lì lợm tiến tới, thậm chí giặc không phản công lại các chốt chận của quân mình. Trước tình trạng kỳ quái này, quân Biệt Cách Dù vừa đánh vừa bám sát lùi theo hướng tới Bộ Tổng Tham Mưu.

Theo tưởng tượng của tác giả, nếu ngày hôm qua Trung Tướng Có tuyên bố “Chỉ cần giữ vững Bộ Tổng Tham Mưu đêm nay thôi” thì bây giờ có lẽ đám giặc Bắc Cộng đã nhận được lệnh “Phải chiếm Bộ Tổng Tham Mưu trong hôm nay thôi”. Vì nếu không chiếm được thì “cánh quân ở cỗng sau chợ Sài Gòn” sẽ không thể phóng ra được đòn độc cuối cùng ? (Giặc chưa biết bên trong Bộ Tổng Tham Mưu đã trống trơn).

Lúc này Biệt Cách Dù đã biến một chiếc xe tăng địch thành “cua rang muối” ở Lăng Cha Cả, hai chiếc khác bốc cháy bừng bừng gần cỗng Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ các biệt đội đã kịp rút về tập họp khá đầy đủ quanh Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 3, lính Biệt Cách Dù thành lập tuyến phòng thủ cuối cùng theo lệnh Thiếu tá Tài.

Nhưng trong lúc quân Biệt Cách đang chận đánh địch thì qua máy truyền tin họ nhận được lệnh từ Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu phải lập tức ngừng bắn. Thiếu tá Tài mím môi, cặp mắt anh đỏ ngầu, đây là giải pháp của chính phủ mà các ông tướng đã nói lấp lửng với anh ngày hôm qua sao ? Lệnh hành quân giao nhiệm vụ cho Chiến Đoàn 3 bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Có thì bảo rằng hôm nay quân mình ở đâu thì ở đó, và bây giờ chính Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh Biệt Cách Dù ngưng bắn trong lúc Việt Cộng tiếp tục tiến quân và bắn vào họ. Nghe có khác gì là lệnh buộc Chiến Đoàn 3 phải tự sát tập thể ?! Thiếu tá Phạm Châu Tài giận điên người, anh phóng chạy ngược vào Bộ Tổng Tham Mưu để thấy Phòng 3 và Trung tâm Hành quân đã không còn một bóng người. Anh thẩn thờ một lúc rồi tiếp tục chạy lên lầu, đẩy cửa bước vào căn phòng quyền lực nhất của quân đội, chỉ dưới quyền Tổng thống Tổng tư lệnh mà thôi : Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng.

Người sĩ quan cấp tá của Biệt Cách Dù với quân phục tác chiến, nón sắt, dây ba chạt gài đầy lựu đạn, súng lục bên hông, tiểu liên cầm tay, đứng giữa căn phòng vốn là đầu não của quân đội giờ đây vắng lặng thê lương vì ông chủ của nó đã cao bay xa chạy. Cảnh tượng này khiến những con người cứng rắn, chai lì nhất cũng phải để tuôn xuống những dòng nước mắt uất ức nghẹn ngào cùng mối phẫn nộ tột cùng. Cảnh bi hùng của người lính Việt Nam Cộng Hòa trong những giây phút cuối cùng của Miền Nam Tự Do.

Nhưng Thiếu tá Phạm Châu Tài vẫn phải tiếp

tục nhắc nhở mình, chính mình chứ không phải ông tướng ông tá nào trong Bộ Tổng Tham Mưu, là người chịu trách nhiệm đối với cả ngàn sinh mạng thuộc cấp đang ghìm súng chận địch ngoài kia. Anh nhìn quanh một vòng, cuối cùng một cái điện thoại trên bàn làm việc của ông Tổng Tham mưu trưởng gắn hàng chữ Phủ Tổng Thống lọt vào mắt anh. Vào lúc này nếu gọi điện thoại được cho Ông Trời thì anh cũng sẽ lập tức gọi không chút ngần ngại, huống chi là ông Tổng Thống Dương Văn Minh, anh chồm người chụp chiếc điện thoại. Bên kia đầu dây có người nhấc máy, ông ta xưng là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, chức vụ là “Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng”. Thiếu tá Tài sửng sốt, vậy thì Trung tướng Vĩnh Lộc đang ở đâu, ông ta cũng cao bay xa chạy rồi, hay Người Anh Cả Trường Sơn đã bị tước quyền vì không thích hợp với tình thế hiện tại ? Để Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh là người từ lâu bị dư luận trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa coi là “không phải người phe ta” lên thay quyền ? Ôi, trời đất ơi, chuyện gì đang xảy ra, Thiếu tá Tài quyết định không coi ông Hạnh là người có đủ thẩm quyền và cũng không có đủ tư cách cho anh tin cậy để nói chuyện, mặc dù cho tới giờ này anh vẫn một mực tôn trọng hệ thống quân giai không khác gì ngày vừa mới tốt nghiệp sĩ quan. Anh lên giọng cứng rắn, yêu cầu được nói chuyện gấp với Tổng thống Tổng tư lệnh Dương Văn Minh.

Sau khoảng 15 phút ông Minh lên tiếng :

- Đại tướng Dương Văn Minh tôi nghe.

Thiếu tá Tài thực hiện đầy đủ nghi lễ trình diện trước khi vào chuyện với thượng cấp cao nhất quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Anh xưng tên, số quân, cấp bậc, và nhiệm vụ của mình. Anh gấp rút trình bày với ông Minh hiện tình của Bộ Tổng Tham Mưu là không còn bóng dáng một ông tướng ông tá nào cả, còn hoàn cảnh của đơn vị anh lại thê thảm không kém : Địch đang hùng hổ tấn công còn máy từ Bộ Tổng tham mưu thì liên tục gởi lệnh ngưng bắn đã thâu sẳn. Anh nói :

- Xin Đại tướng nói rõ về lệnh ngưng bắn này.

Ông Minh trả lời :

- Mình không còn gì để đánh nữa, em chuẩn bị bàn giao đi.

Trong quảng đời làm lính, đã đối diện nhiều lần với cái chết, nhưng chỉ lần này thì anh mới thật sự “nhận diện được tử thần” : Tổng thống Tổng tư lệnh Dương Văn Minh chính là tử thần của quân, dân Việt Nam Cộng Hòa. Thiên lôi có nện anh một búa cũng không khiến anh ngất ngư như câu trả lời ngắn ngủi gọn gàng từ ông Minh. Anh cố lấy lại bình tỉnh, nặng nề gặng hỏi :

- Vậy có nghĩa là đầu hàng vô điều kiện phải không, thưa Đại tướng ?

Bên kia đầu dây không có tiếng trả lời. Cơn giận dữ bùng lên như một ngọn lửa phừng cháy trong đầu, ông tướng này trong mấy ngày qua đã thẳng tay giành giựt chức vụ lãnh đạo quốc gia từ Tổng thống Trần Văn Hương để được quyền tuyên bố buộc quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải ngưng bắn, phải bàn giao đơn vị cho bọn Việt Cộng hay sao ? Thiếu tá Tài chịu đựng hết nổi, anh “bung” luôn :

- Thưa Đại tướng, chúng tôi nhận lệnh cố thủ Bộ Tổng Tham Mưu, từ sáng tới giờ quân Việt Cộng đã bị chận đứng lại mà quân mình không có thiệt hại gì đáng kể, 6 chiếc xe tăng địch đã bị Biệt Cách Dù bắn hạ, tại sao chúng ta phải đầu hàng ? Và thưa Đại tướng, còn bao nhiêu sự hy sinh của binh sĩ hồi nào tới giờ …

Đại tướng Dương Văn Minh cắt ngang :

- Tùy các em, xe tăng địch sắp tiến vào Dinh Độc Lập rồi.

Thiếu tá Phạm Châu Tài không thể che dấu nỗi nghẹn ngào trong giọng nói :

- Thưa … Đại tướng …

Nhưng chỉ có thế, ông Tổng thống kiêm Đại tướng đã cúp máy không thèm tiếp tục nói chuyện với ông Chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù nữa. Cuốn phim buồn mang tên “Việt Nam Cộng Hòa : Tiền Đồn Của Thế Giới Tự Do” đã đến hồi kết thúc thảm thương. Phạm Châu Tài là một sĩ quan “nguyên chất”, nghĩa là không bị chính trị chi phối, do vậy cái nhìn cay đắng của anh lúc bấy giờ là ở hồi mạt vận của quốc gia người ta giành giật nhau cả … “quyền đầu hàng” !

Thiếu tá Tài xoay người nhìn quanh văn phòng Tổng tham mưu trưởng lần cuối trước khi quay phắt lại bước ra khỏi cái văn phòng ảm đạm thê lương và cũng đầy ô nhục này. Câu nói của Đại úy Nguyễn Bảo Tín mấy ngày trước bỗng liên tục chạy qua đầu anh : Sẽ không còn đánh đấm gì ở Sài Gòn nữa, chúng ta sẽ rút hết về Vùng IV và tiếp tục chiến đấu ở đó !

Còn nước còn tát … Còn nước còn tát …

Có cảm tưởng như đó là tiếng thúc đẩy từ vong linh những người lính đã hy sinh đang vang vọng lên, anh chạy thật nhanh về phòng tuyến Biệt Cách Dù. Cảnh tượng nhìn thấy ở đây càng khiến anh đau lòng thêm. Gần một ngàn quân Biệt Cách 81 tay kìm súng chặt hơn, vai dựa sát vai nhau hơn, mắt căng ra hơn để chờ địch. Trời đất ơi, tội nghiệp lính biết dường nào, lính bị dẫm đạp – lính bị phản bội – lính bị đẩy vào đường chết nhưng lính vẫn tiếp tục hiên ngang chiến đấu chống lại giặc cho đến phút cuối cùng. Thật tội nghiệp quá, cho lính, cho dân miền Nam, Ông Trời ơi …

Tinh thần của lính Biệt Cách Dù vẫn vững vàng, không suy xiểng. Họ quyết không để một tên bộ đội Bắc Cộng lọt qua cỗng Bộ Tổng Tham Mưu nếu họ vẫn còn một người sống sót. Quả thật nếu giặc Bắc Cộng muốn xuyên qua đội quân cố thủ này để lọt vào Bộ Tổng Tham Mưu, thì cái giá giặc phải trả sẽ thật nặng nề (như sau này giặc viết báo, viết sách nói dóc như thiệt để khoe công).

Còn nước còn tát … Còn nước còn tát …

Chúng ta vẫn còn hai Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng đang chờ đợi chúng ta ở Vùng IV, anh em ơi. Nhưng …

Tiếng kêu thất thanh của một lính Biệt Cách Dù khiến mọi người giật mình nhìn lại, người lính cầm trên tay chiếc radio nhỏ xíu phóng nhanh về hướng Thiếu tá Tài, từ đó đang phát ra giọng nói của Tổng thống Tổng tư lệnh Dương Văn Minh.

- Thiếu tá ơi, không xong rồi, ông nghe đây nè …

Thôi rồi, không còn nước còn tát nữa. Không còn gì nữa rồi.

Lệnh buông súng đầu hàng giặc vô điều kiện của ông Minh vừa vô hiệu hóa hết thảy quyền chỉ huy đơn vị của các đơn vị trưởng rồi. Tệ hơn nữa, nó còn đánh gục tinh thần của dân chúng miền Nam. Đòn độc của địch đã vừa tung ra bởi … ông Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, dù chẳng có một công dân Việt Nam Cộng Hòa nào bỏ phiếu cho ông ta lên lãnh đạo đất nước này.

Thiếu tá Tài buồn bã kể tiếp :

Lệnh buông súng đầu hàng giặc đã phát thanh trên đài Sài Gòn thì chỉ khoảng mười, mười lăm phút sau đã xuất hiện những nhóm dân Sài Gòn ghé qua thăm hỏi lính Biệt Cách Dù. Mới buổi sáng họ còn mang thực phẩm tới tiếp tế, thậm chí có những người còn giúp lính mình rượt bắt những tên giặc Cộng chạy lạc vào hẽm, vào xóm. Vậy mà bây giờ sau lệnh đầu hàng của ông Minh, họ cũng lại đến nhưng với quần áo dân sự trên tay, có nhiều người nước mắt chảy ròng ròng vừa trao vừa khóc : Thôi, đừng mặc quân phục nữa, thay đồ này rồi về nhà chăm lo cho gia đình đi các anh Biệt Cách 81 … Đau đớn quá mấy anh ơi …

Dân và quân ôm lấy nhau, cùng khóc …

Có nhiều người đi xe hơi cũng chạy ngang quăng quần áo dân sự vào, rồi cũng nói vọng lại những lời tương tự. Dân lo cho an nguy của lính, đẹp quá, đẹp quá nhưng cũng đau quá, đau đến nát trái tim những người lính tử thủ.

Thiếu tá Phạm Châu Tài biết tới giờ phút này thì cá nhân mình không còn đủ khả năng để làm chủ tình hình ở đây nữa. Anh cho tập họp Chiến Đoàn 3 lại, nói với họ rằng Biệt Cách Dù thì không bao giờ đầu hàng, vậy hãy tạm trở về với gia đình, hãy bí mật chôn dấu vũ khí, và chờ đợi.

Khi những người lính Biệt Cách Dù ngậm ngùi từ giả nhau, căm hờn lặng lẽ tản mác khỏi cỗng Bộ Tổng Tham Mưu thì Thiếu tá Tài cũng lên đường đi về Vùng IV, với hy vọng lời của Đại úy Nguyễn Bảo Tín sẽ trở thành sự thật. Dọc quốc lộ 4, anh thấy vẫn còn vài đơn vị Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, nhưng tới gần Bắc Mỹ Thuận thì anh được dân chúng chận lại báo động cho anh biết các chiếc bắc đã bị giặc Cộng “khóa” lại rồi.

Ngày 3 tháng Năm, anh quay lại Sài Gòn, đến tạm trú tại điểm hẹn anh đã cho các Toán trưởng Thám Sát tình nguyện trở vào rừng tìm địa điểm lập căn cứ mật cho Chiến Đoàn 3. Chỉ vài ngày sau, có lẽ do bọn “cán bộ 30” trong xóm phát giác, chỉ điểm, anh bị giặc Bắc Cộng ập tới bắt sống. Kể từ lúc đó anh mất hẳn cơ hội liên lạc lại với ba vị sĩ quan đã dẫn các Toán Thám Sát trở vào rừng.

Khung trời xám xịt lạnh giá của một trại tù khắc nghiệt nào đó ở miền Bắc đang chờ đợi Hổ Xám Phạm Châu Tài, Chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 3, một trong những con cọp đầu đàn của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù lừng danh một thuở.

Thiếu tá Phạm Châu Tài gọi cho Tổng thống Tổng tư lệnh Dương Văn Minh sau khi ông ta lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố bàn giao quyền lãnh đạo Miền Nam Tự Do cho “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam” lúc 9 giờ 30 sáng ngày 30 tháng Tư 1975.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Ông Minh đã làm đúng theo câu Tướng Nguyễn Hữu Có nói với Thiếu tá Phạm Châu Tài đêm trước : Chỉ cần giữ vững Bộ Tổng Tham Mưu đêm nay thôi, ngày mai chính phủ đã có giải pháp ! Giải pháp đó là bàn giao chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lại cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (ông Minh nói rất rõ ràng, bàn giao cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam). Ông Minh ngây thơ quá ! Nếu muốn nghĩ tốt cho ông, chúng ta có thể nghĩ rằng có lẽ ông Minh làm vầy vì muốn “nhường” trách nhiệm làm mất miền Nam cho đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Và “hay” hơn nữa là có thể giặc Bắc Cộng và đám cõng rắn cắn gà nhà Mặt Trận “Phỏng …” này sẽ đối đầu nhau giành quyền lãnh đạo miền Nam.

Nói thì nói vậy thôi, chứ từ lúc nào mà Đại tướng Dương Văn Minh từ một chính trị gia mầm non muôn thuở đã trở thành một chính trị gia thứ thiệt ?

Tội nghiệp cho ông, lên tiếng trên đài phát thanh mời đại diện Mặt Trận tới Dinh Độc Lập nhận “bàn giao” nhưng đợi mãi chẳng thấy kẻ được “biếu không” quyền lãnh đạo đất nước. Cuối cùng thì cũng tới, nhưng là giặc Bắc Cộng từ Hà Nội tới, giặc lôi ông lên đài phát thanh buộc phải tuyên bố một lần nữa : Đầu hàng chứ không bàn giao gì ráo !

Lính, trong trường hợp này là lính của Chiến Đoàn 3 thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đã trở thành con tốt thí trong ván cờ chính trị tay mơ, may mà họ phần đông đã giữ được mạng vào cái giờ thứ 25 của cuộc chiến.

Năm 1975 nghe “lời khuyên” của Thượng tọa chính trị gia Thích Trí Quang chịu khó điều đình rồi định giao quyền lãnh đạo miền Nam lại cho đám cõng rắn cắn gà nhà Mặt Trận Phỏng … Miền Nam, phải chi ông Dương Văn Minh cứ tiếp tục là một quân nhân thuần túy, thì đỡ khổ cho Miền Nam Tự Do quá ! Cả các ông trong cái gọi là Hội đồng Tướng lãnh Cách mạng hồi năm 1963 cũng thế thôi !

Vào thời kỳ lâm tử của Việt Nam Cộng Hòa, các chức vị lãnh đạo cao nhất nước đều do các ông tướng đã tham gia đảo chánh giết hai anh em cụ Ngô Đình Diệm, ông Ngô Đình Nhu. Cuộc đảo chánh do Mỹ … bảo trợ, nếu không chẳng ông tướng nào dám làm cả, cho nên thật không phải là đổ thừa nếu nói rằng chính phủ Mỹ và các ông tướng “Cách Mạng 63” cùng là đồng thủ phạm trong vụ “ám sát” quân đội Việt Nam Cộng Hòa và khai tử “tiền đồn của thế giới tự do” !
Image
81 BCD HẠ TĂNG T54 – AN LỘC
Image
81 BCD HẠ TĂNG T54 – LĂNG CHA CẢ
Từ nhà Toán viên Linh, Toán Thám Sát của Thiếu úy Danh chuẩn bị về vùng Long Khánh rồi rút vào rừng. Trung sĩ Bình thuộc binh chủng Biệt Động Quân đang dưỡng thương trong xóm, có nhà ở Long Khánh, đã đồng ý đưa toán về vùng này cũng như sẽ hướng dẫn toán rút vào những khu rừng trong vùng mà anh thành thuộc. Nhưng đi bằng cách nào ?

Thiếu úy Danh chợt nhớ tới những chiếc xe cứu thương của Tổng y viện Cộng Hòa mà anh đã nhìn thấy khi đi ngang qua. Xe chạy khơi khơi trên đường là yếu tố bất ngờ, tốc độ nhanh của xe hơi cũng là yếu tố an toàn cho toán sau lệnh buông súng đầu hàng giặc từ ông Dương Văn Minh. Thiếu úy Danh chắc chắn Toán Thám Sát của anh sẽ phải chạy đua với thời gian, bởi vì thời thế đã đổi thay, bây giờ thành phố đã thuộc về giặc, rừng mới là của lính Cộng Hòa. Chưa lọt được vào rừng thì anh vẫn tiếp tục thấp thỏm cho sự an toàn của anh em.

Họ trở lại Tổng y viện vào lúc hổn loạn nhất, giặc Bắc Cộng đang xua đuổi thương binh Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi đây. Toán Thám Sát Biệt Cách Dù nóng mặt trước cảnh thương tâm của những đồng đội kém may mắn, nhưng không thể có phản ứng vì còn phải hoàn thành sứ mạng của họ, nhất là sau khi nghe Thiếu úy Danh kể về lời phán đoán của ông Ngô Đình Nhu nếu Bắc Cộng thôn tính được Nam Việt thì chuyện Tầu Cộng thôn tính cả nước Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng chính nhờ tình trạng hổn loạn mà họ đã không bị ai để ý, và chọn được một chiếc xe cứu thương “vừa ý”. Toán viên Linh làm tài xế, Thiếu úy Danh ngồi ghế bên cạnh, cả toán dồn hết vào xe, với đầy đủ súng đạn. Họ chỉ mặc áo thun nhà binh, thẻ bài cho vào bên trong.

Chạng vạng tối thì tới nhà Trung sĩ Bình ở Long Khánh, họ gặp ông Thượng sĩ tên Kim (xin nhắc lại tất cả đều là bí danh) thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, cùng một số anh em lính của sư đoàn. Gặp được Toán Thám Sát Biệt Cách Dù giữa lúc đang phẩn nộ tột cùng vì cái lệnh đầu hàng, nhóm của Thượng sĩ Kim hăng hái tình nguyện gia nhập với toán của Thiếu úy Danh rút vào rừng tiếp tục đánh giặc Bắc Cộng. Nhưng anh Danh đành từ chối, anh thú thật với tác giả cái anh đang lo lắng nhất là anh chưa biết làm cách gì để có thể nuôi sống được toán của anh, bây giờ nhận thêm người lại càng kẹt hơn nữa, anh không dám. Thứ đến, anh chưa biết họ rành rẽ cho lắm, hơn nữa anh cũng đã thấy được nhu cầu phải có anh em mình ở lại “vùng địch” (bây giờ thành phố là vùng địch rồi) để có thể trở thành tai mắt và giúp đỡ cho anh em trong rừng, sự nối kết được giữa trong – ngoài rất quan trọng.

Mặc dù chỉ mang cấp bậc hạ sĩ quan, nhưng trình độ hiểu biết của Thượng sĩ Kim không thấp, và cũng là một con người tràn đầy nhiệt nhuyết. Nhờ nhà ở cạnh hậu cứ Sư Đoàn 18, Thượng sĩ Kim đã nhanh tay gom dấu được một số tiếp liệu trước khi giặc Bắc Cộng tràn tới, và cũng nhờ vậy mà Toán Thám Sát Biệt Cách Dù có thêm một số đạn, lựu đạn M67, mìn Claymore mang vào rừng cộng thêm một số thuốc ký ninh, mọt phin, và quan trọng nhất là hai bộ bản đồ hành quân tỉnh Long Khánh và Tuyên Đức.

Thiếu úy Danh đã trình bày riêng với Thượng sĩ Kim về một số dự tính của anh, và nhất là kể cho ông Kim nghe phán đoán của ông Ngô Đình Nhu trước ngày bị đám tướng lãnh tự gọi mình là “nhóm tướng lãnh cách mạng 63” giết chết. Như vậy, đánh đuổi quân Bắc Cộng là nhiệm vụ đoản kỳ vì đám giặc này chỉ là tay sai bán nước, còn mục tiêu tối thượng chính là toàn dân phải cùng nắm tay nhau vô hiệu hóa mộng xâm lược nước Việt Nam một lần nữa của bọn Tầu (Cộng). Ông Kim mím môi lắng nghe anh Danh nói với bàn tay mặt bóp chặt lại thành một nắm đấm. Những điều mới nghe từ anh Danh đã khiến ông vừa nhận thấy được những chuyện ông muốn làm bây giờ đã nằm ở một mức độ cao hơn, liên quan đến vận mạng của cả quốc gia. Riêng anh Danh thì khấp khởi mừng rằng các anh đã có thêm một chiến hữu đáng tin cậy, dễ mến.

Trước khi chia tay hai người ấn định với nhau phần vụ của trong – ngoài và cách thức liên lạc trong tương lai.

Toán Thám Sát bây giờ đã sẳn sàng vào rừng, Trung sĩ Bình sẽ dẫn đường cho họ tới địa điểm mà anh nghĩ là thuận lợi cho toán. Họ âm thầm nối bước nhau trong ánh đèn ngụy trang lờ mờ xuyên bóng đêm, về hướng Đông Bắc. Lính Cộng Hòa đang trãi qua một cuộc thay đổi đến chóng mặt, mới ngày nào Biệt Cách Dù nhảy toán vào núi rừng lùng tìm giặc Cộng để chỉ điểm cho các đơn vị bạn tấn công tiêu diệt, bây giờ thì chính họ lại phải đi tìm nơi xây dựng căn cứ mật giữa rừng núi trong lúc chúng đang mở tiệc ăn mừng tại những cơ sở lãnh đạo quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Lúc trước địch dùng du kích chiến, ta thì phản du kích; nay hoán chuyển lại mình sẽ đánh du kích còn địch thì phản du kích. Vì hoàn cảnh thay đổi thì cứ buồn, nhưng nhất định không được nản chí, Thiếu úy Danh tự dặn mình phải nhớ nhắc nhở để nâng cao tinh thần anh em đánh du kích cũng là sở trường của Biệt Cách Dù.

Anh nói với tác giả : Từ lúc dẫn toán ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu cho đến lúc đứng giữa rừng, đầu anh suy tính liên miên đủ thứ chuyện chưa biết phải giải quyết bằng cách nào. Tuy nhiên rừng rậm có vẻ là không gian thích hợp nhất cho lính Biệt Cách Dù, nụ cười đã trở lại thường xuyên hơn trên mặt anh em; còn cái đầu anh thì đã có chút thanh thản. Thôi, suy nghĩ chi cho nhiều, cứ nghĩ rằng mình đang phục vụ đất nước với nhiệm vụ trên vai : Phải tìm ra nơi thuận lợi lập căn cứ mật cho Chiến Đoàn 3 hầu tiếp tục chiến đấu. Những lời tâm sự của Chiến đoàn trưởng Phạm Châu Tài đêm 29 tháng Tư, nói là tùy anh quyết định, nhưng đối với anh đó là Quân Lệnh !

Tờ mờ sáng Thiếu úy Danh ra lệnh cho toán ngừng lại chọn chỗ ẩn nấp (đội hình quả trám đâu lưng lại, khoảng cách là nhìn thấy nhau). Anh, Trung sĩ Bình, cùng hai Toán viên di chuyển một khoảng về phía trái, mở bản đồ xác định điểm đứng. Rừng Việt Nam là rừng mưa nhiệt đới, nơi họ đang đứng là vùng rừng rậm bằng phẳng có hai tầng, bên trên là tàng lá cây cổ thụ dầy đặc, bên dưới là vô số cây nhỏ cùng
bụi rậm. Vùng này lại không có đồi núi nên rất khó xác nhận điểm đứng của toán lính Việt Nam Cộng Hòa vừa trở vào rừng. Có cách khác, Thiếu úy Danh bảo Toán viên Mạnh leo lên một ngọn cây quan sát và báo cho anh biết đặc điểm xung quanh. Sau một hồi quan sát trên ngọn cây, Mạnh chỉ hướng và cho biết vừa thấy một khoảng trống, sáng và rất rộng. Địa bàn chỉ đó là hướng Bắc, nhìn trên bản đồ thì Thiếu úy Danh đoán đó là một trảng tranh hoặc trảng lồ ồ. Đo ngược lại điểm xuất phát, Toán Thám Sát chỉ đi được 10 ô, tức 10 cây số đường chim bay). Vẫn còn quá gần, rất nguy hiểm nếu bị địch phát giác tại địa điểm này.

Thiếu úy Danh quay sang hỏi Trung sĩ Bình về điểm đến mà anh muốn dẫn Toán Thám Sát tới. Bình trả lời, vì Thiếu úy muốn tôi dẫn đường thì tôi dẫn, nhưng tôi chỉ đi theo quán tính thôi, đi theo hướng này và đi tới đây là an toàn nhất, bây giờ thì xin Thiếu úy tự định đoạt. Trung sĩ Bình lại nói thêm, theo anh nếu cứ giữ hướng đi suốt đêm qua thì có thể đụng mật khu của Việt Cộng đấy. Anh Danh chăm chú xem lại bản đồ, Trung sĩ Bình nói đúng, theo hướng này đi tiếp thì rất có thể chạm địch vì đây là con đường giao liên của địch từ Rừng Lá, một đường vào Bào Cối, từ đây chúng bẻ góc hướng Tây Bắc ra Phương Lâm, Định Quán; một đường khác len lỏi giữa hai Tỉnh lộ 55 và 56 xuống mật khu Mây Tàu và Hắc Dịch. Anh đứng suy tính một hồi lâu …

Cái trảng rộng Toán viên Mạnh vừa thấy, thì trên bản đồ cho thấy có nhiều đường thông thủy tụ về đó, vì vậy chắc sẽ có nước và thực phẩm, mà cũng vì vậy có thể nó từng là … hang ổ của Việt Cộng. Nhưng kinh nghiệm và trực giác của một Toán trưởng Biệt Cách Dù báo cho biết anh nên đi về hướng đó, nó sẽ dẫn toán anh vào phần đất cuối cùng sát chân dãy Trường Sơn mà anh tin chắc rằng anh và các chiến hữu của anh sẽ được an toàn hơn cả.

Cũng may là bác hù của giặc Bắc Cộng chưa kịp đốt rụi cả dãy Trường Sơn như lời hù dọa của y, kẻ tự xưng bác với cả những ông bà già Việt Nam tuổi ngang với tuổi bác của chính y.

Nghỉ ngơi và ăn sáng xong, Thiếu úy Danh quyết định cho anh em khởi hành. Vì đang là ban ngày nên toán di chuyển cẩn thận hơn đêm qua. Hai Toán viên Mạnh và Bình đi trước thám sát. Số còn lại chia thành hai tổ đi song song cách nhau mười bước, đội hình hàng dọc, toán viên đi sau cùng lãnh nhiệm vụ xóa dấu vết. Thỉnh thoảng có tiếng vượn hú, chim hót líu lo nhưng Toán Thám Sát không lòng dạ nào thưởng thức thứ âm nhạc đặc biệt này vì thỉnh thoảng thì cũng thấy dấu vết của con người, có lẽ là của Việt Cộng. Mỗi lần như vậy toán lập tức dạt ra xa, vì Thiếu úy Danh thấy rằng bấy giờ chưa phải là thời điểm để anh em mình chấp nhận đụng địch.

Đúng như anh dự đoán, vào khoảng nửa đêm hôm sau thì toán đến đích, đúng đó là một trảng tranh rất rộng, xen lẩn bụi rậm và cây rừng là những đường nước nhỏ tụ vào. Sau khi lục soát cẩn thận, họ nghĩ ngơi một lúc rồi Thiếu úy Danh chia toán thành 2 nhóm. Trung sĩ Bình cùng 3 Toán viên ở lại đây, anh và 3 Toán viên còn lại khởi hành tiếp tục đi về hướng Bắc, nơi có những đường đồng cao độ rất khít, là vùng núi cuối dãy Trường Sơn, khu vực Thiếu úy Danh tin tưởng sẽ an toàn nhất cho Toán Thám Sát và cả Chiến Đoàn 3 sau này. Nó là vùng cực Nam của dãy núi vốn là lá chắn thiên nhiên phía Tây bảo vệ giang sơn gấm vóc hình chữ S của người Việt Nam.

Trước khi lên đường, ngừa trường hợp bất trắc xảy ra cho 2 nhóm, Thiếu úy Danh giao cho Trung sĩ Bình 1 địa bàn và 1 bộ bản đồ trên đó anh đã chấm sẳn những điểm chuẩn nằm trên quốc lộ 20 và phương giác dẫn về điểm xuất phát, hầu Trung sĩ Bình có thể quay ngược lại liên lạc với Thượng sĩ Kim trong trường hợp cần thiết. Anh cũng dặn anh Bình nếu có cơ hội gặp lại ông Kim thì hãy yêu cầu ông cố gắng cung cấp cho Toán Thám Sát quân phục Việt Cộng, ba lô và giày bố xanh, vv … Cuối cùng là dặn dò nhóm ở lại phải ẩn mình cho thật kỹ chờ nhóm anh trở về.

Thiếu úy Danh tâm sự, lúc đó đầu anh ngổn ngang quá nhiều chuyện anh chưa có kinh nghiệm giải quyết. Chẳng hạn như ngoài việc giữ bí mật để Toán Thám Sát được an toàn thì còn phải liên lạc thường xuyên với bên ngoài để tạo nguồn tiếp liệu. Lại vừa phải chọn địa điểm để tạo thành căn cứ mật cho cả một chiến đoàn nhưng nó cũng phải là nơi thuận tiện để bung ra đánh địch. Ối, quá trời nhiều chuyện khó khăn, anh Danh than thở : Chưa bao giờ tôi dám nhận một trách nhiệm quá lớn như hồi tháng Tư năm đó. Tác giả chỉ có thể trả lời gọn lỏn : Tôi phục anh, anh Danh !

Từ giả nhóm ở lại Thiếu úy Danh dẫn 3 Toán viên lên đường, theo phương giác hướng Bắc Đông Bắc. Lương khô mang theo đủ cho khoảng ba tuần, nhưng dọc đường họ cũng săn được vài con vọc, là loại giống như khỉ nhưng to lớn hơn. Nguồn nước thì lấy từ dây leo của cây rừng. Càng vào sâu rừng càng lúc càng dầy đặc, nhiều nhất là những bụi mây gai, và giữa vùng hoang vu khó di chuyển như vậy, họ bỗng gặp một con đường mòn của Việt Cộng (chứ ai đi thường xuyên vào nơi khỉ ho cò gáy này ?). Nếu vẫn còn như trước đây thì họ đã mừng lắm, vì đã phát giác được một mục tiêu truy tìm, nhưng bây giờ thì …

Chọn di chuyển trên đường mòn này sẽ rút ngắn được thời gian vì dễ đi hơn nhiều, nhưng vì trên người của cả nhóm vẫn là quân phục hoa dù Việt Nam Cộng Hòa, sẽ thất lợi vô cùng nếu bị địch phát giác trước nên Thiếu úy Danh quyết định đưa nhóm đi bên trái song song với đường mòn này khoảng 20 thước, dùng vệt sáng trên vòm hàng cây bên phải làm điểm nhận diện đường mòn. Anh cũng quyết định giữ hướng Bắc Đông Bắc vì trên bản đồ cho thấy hướng này sẽ dẫn nhóm tới một vùng chứa nhiều đường xương cá (đường phân thủy và thông thủy), tức là nơi hấp dẫn thú rừng. Anh nghĩ giờ này bọn giặc lớn bé đang đua nhau kéo ra thành phố hưởng thụ cái mà giặc mỉa mai gọi là “phồn vinh giả tạo”, nhưng chỉ vài tháng sau thì thi nhau cõng rất nhiều cái “phồn vinh giả tạo” này về Bắc, nên nhóm của anh vẫn chưa chạm trán chúng. Anh thường lợi dụng những lúc tạm ngừng chân nghĩ ngơi để chấm những điểm chuẩn trọng yếu và thảo luận với cả nhóm để anh em nắm vững những đặc điểm trên đường đi.

Vào đêm thứ 3 họ ngừng lại bắt tay cười với nhau, họ vừa nghe văng vẳng tiếng nước chảy từ xa xa, hướng trước mặt. Lật bản đồ ra, có một “sợi chỉ” sắp cắt ngang hướng đi, đó là một nhánh của sông La Ngà, Thiếu úy Danh đoán chiều rộng của nó khoảng chừng 50 đến 70 thước. Vậy là họ đã đi đúng hướng. Đến trưa ngày hôm sau nhóm tới dòng sông này, anh cho lệnh dừng chân, anh em tản ra tìm chỗ ẩn nấp nghĩ ngơi qua đêm. Tờ mờ sáng họ lại lên đường, rẻ trái di chuyển dọc theo dòng sông, trên bản đồ cho thấy họ sẽ gặp một ngã ba sông. Trên đường đi nhóm tìm được một số củ hoa chuối, giống như củ bình tinh, nấu chín hoặc ăn sống đều ngon miệng. Đi khoảng nửa ngày nhóm đến được ngã ba sông, lại còn nghe được tiếng thác đổ ở phía thượng nguồn. Vậy là đã xác định được vị trí chính xác. Việc còn lại là đi ngược về vị trí xuất phát tìm cách vượt qua sông.

Về đến đoạn sông ban đầu, vượt qua điểm nhóm đã dừng chân qua đêm hôm trước họ tìm được một đoạn sông hẹp, chừng 30 thước, có ghềnh đá, Thiếu úy Danh quyết định sẽ cho nhóm vượt qua sông ngay trong đêm đó. Dùng poncho và nón sắt làm bè, mỗi người trang bị thêm một cây rừng dài khoảng 3 thước làm sào để đo độ sâu và làm gậy chống qua sông. Bốn người lính Biệt Cách Dù bốn góc giữ chặt bè trên chứa ba lô, súng choàng vai đeo ngang ngực, chống sào vào ghềnh đá “rẻ nước” giữa màn đêm. Nhờ tất cả đều biết lội và mặc dù nước chảy xiết nhưng ở những chỗ sâu nhất nước cũng chỉ lên tới ngực nên cuối cùng cả nhóm tới bờ bên kia an toàn.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Họ kiểm soát lại trang bị rồi di chuyển ngay lập tức. Đi chừng 2 tiếng đồng hồ Thiếu úy Danh mới cho nhóm dừng chân tìm chỗ ẩn nấp nghĩ ngơi, chia phiên gác. Bây giờ họ mới thấm thía cái lạnh của rừng núi về đêm, nhất là vừa lội nước vượt sông. Đêm núi rừng thường khiến người ta nhớ gia đình, nhớ ánh đèn thành phố, thanh niên trai trẻ như bốn chàng Biệt Cách Dù này thì nhớ thêm người yêu, nhớ và thèm nghe những bản nhạc tình như Phố Đêm với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy, hay giọng nhừa nhựa đẫm tình của Huỳnh Anh qua bản nhạc trứ danh Mưa Rừng do chính ông sáng tác. Nhớ, nhớ, và nhớ, những cái nhớ khiến rừng núi về đêm lạnh héo hắt thêm.

Tờ mờ sáng hôm sau anh xác định lại điểm đứng với điểm chuẩn ngã ba sông La Ngà, cho lệnh nhóm di chuyển. Họ đi cách bờ sông khoảng 300 thước, không còn phải lo lắng về nước uống. Đi như vậy sáu ngày đêm thì họ gặp một rừng tre dầy đặc. Nếu len lỏi vào để vượt qua rừng tre này thì sẽ mất rất nhiều thời gian, nhưng nếu bẻ góc trái đi sát bờ sông thì rất nguy hiểm, Thiếu úy Danh quyết định bẻ góc phải tìm chỗ trống vượt qua, và đã phải mất cả ngày trời mới tìm ra cũng như lấy lại được hướng cũ. Qua khỏi rừng tre, anh mở hướng Bắc Tây Bắc, lội rừng thêm 4 ngày nhóm gặp lại sông La Ngà (ở một đoạn khác). Nhìn trên bản đồ thì quốc lộ 20 cách nơi họ đang đứng khoảng chừng 30 cây số đường chim bay. Quan sát xung quanh, nơi này có những cánh rừng chồi và đồi cỏ tranh, cùng vài đường mòn lớn, Thiếu úy Danh đoán có lẽ được dùng cho việc vận chuyển gỗ trước đây. Như vậy, khu vực này trước đây đã từng có người qua lại, anh quyết định lấy lại hướng Bắc Đông Bắc.

Bỏ lại đàng sau khu vực này, nhóm bắt đầu đặt chân lên vùng đất cuối của dãy Trường Sơn. Rừng càng lúc càng dày đặc hơn, ẩm ướt và có nhiều hẽm vực. Chỉ mới 3, 4 giờ chiều đã không còn thấy bóng mặt trời. Thiếu úy Danh chọn một điểm gần con suối nhỏ có nhiều đường tiến sát, thuận tiện cho việc ẩn nấp, đặt tên cho nó là Chốt Số 1. Đây là một khu vực có địa thế hiểm trở, hoang vu không dấu chân người, ngoài tiếng chim chóc và thú rừng. Họ chia nhau ra thám sát khu vực, xác định những điểm trọng yếu để làm nơi ẩn nấp phòng thủ sau này cho Chiến Đoàn 3.

Sáng hôm sau để hai Toán viên Mạnh và Tiến ở lại, Thiếu úy Danh cùng Toán viên Linh tiếp tục vào sâu hơn. Vì cả toán chỉ còn lại 1 bộ bản đồ nên anh đánh dấu phương hướng trên thực địa và hướng dẫn cho hai toán viên ở lại những điều cần thiết trước khi đi. Lội rừng thêm 10 ngày sâu vào vùng rừng núi hiễm trở này anh và Toán viên Linh tìm được thêm 4 điểm có địa thế quân sự rất tốt, anh đặt tên theo thứ tự, Chốt Số 2, Chốt Số 3, Chốt Số 4, Chốt Số 5. Sau khi ghi chú cẩn thận trên bản đồ, nhận thấy đã đủ để cả Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù có thể vừa ém quân trú đóng vừa bung quân ra chiến đấu đều thuận lợi, hai anh vui vẻ chuẩn bị trở về Chốt Số 1.

Về đến nơi, anh cùng Linh – Mạnh – Tiến đối chiếu lại địa hình với bản đồ, Quốc lộ 20 cách họ khoảng 40 cây số đường chim bay, xuôi quốc lộ về hướng Nam là Phương Lâm, Định Quán. Dân chúng vùng này đa số là đồng bào di cư năm 54, chống Cộng quyết liệt, anh em Biệt Cách Dù có thể sẽ gặp lại dân mình trên những con đường mòn từng đi qua. Vì đã quyết định để hai Toán viên Linh và Tiến ở lại Chốt Số 1 còn anh và Mạnh sẽ trở lại trảng tranh ban đầu nên anh dặn Linh và Tiến nếu có cơ hội gặp gỡ dân chúng thì cố gắng tìm hiểu tình hình bên ngoài nhưng đồng thời phải bảo mật các chốt. Anh không quên giao hẹn với hai toán viên ở lại về thời gian, địa điểm, cùng dấu hiệu nhận nhau khi anh trở lại.

Sau khi đã chấm được năm địa điểm (từ Chốt Số 1 đến Chốt Số 5) thuận lợi cho Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù trú ẩn, Thiếu úy Danh liên miên nghĩ về đơn vị của mình. Chiến Đoàn 3 nay ra sao rồi sau lệnh buông súng đầu hàng của ông Dương Văn Minh ? Không cần có mặt ở trước cỗng Bộ Tổng Tham Mưu vào lúc lệnh đầu hàng ban ra anh cũng dư biết rằng Thiếu tá Phạm Châu Tài, Chiến đoàn trưởng, đã phải gặp khó khăn trong việc điều động đơn vị. Lệnh đầu hàng thì khác gì lệnh giải tán các đơn vị của quân đội Việt Nam Cộng Hòa ? Anh thầm mong Thiếu tá Tài giữ được một hai Biệt Đội rồi ém quân đâu đó chờ tin, nhưng anh cũng hiểu rằng hy vọng này vô cùng mong manh, vì mặc dù tinh thần của lính Biệt Cách Dù vẫn luôn luôn cao trong bất cứ hoàn cảnh nào nhưng vào lúc đó thì Chiến Đoàn 3 đang ở trong lòng thủ đô Sài Gòn chứ đâu phải đang ở giữa rừng. Anh không tin Thiếu tá Tài chịu bàn giao đơn vị cho bọn giặc Bắc Cộng, nhưng nếu đã giải tán đơn vị, mạnh ai nấy trở về với gia đình thì chuyện liên lạc rồi tập họp lại gần như là chuyện không tưởng.

Thiếu úy Danh biết chính mình phải trở về Sài Gòn một chuyến. Thứ nhất, tìm hiểu hiện trạng của Chiến Đoàn 3 và Thiếu tá Phạm Châu Tài. Thứ nhì, tìm hiểu xem có một cơ cấu chỉ huy thống nhất của Kháng Chiến Phục Quốc không (anh tự gọi là Số Nhà Lớn), nếu có anh sẽ đưa Toán Thám Sát và cả những anh em thuộc Sư Đoàn 18 từng muốn theo anh vào rừng (đang sống lẩn trong đám đông dân chúng vùng Long Khánh) tìm đến xin gia nhập. Thứ ba, phải về thăm gia đình một chuyến, chắc chắn ngoại, má, và chị anh đang vô cùng lo lắng khi thấy giặc Bắc Cộng đã chiếm trọn miền Nam, các anh em lính Cộng Hòa đã trở về nhà nhưng riêng anh thì vẫn bặt tăm tích. Ngoài ra anh đã có trong đầu một số vị lớn tuổi mà anh biết họ có hiểu biết rộng rãi về những đảng phái chính trị miền Nam, biết đâu họ sẽ chỉ ra được một con đường nào đó anh và anh em của anh sẽ hoạt động hữu hiệu hơn (trong đó có một vị là người đã cho anh biết phán đoán của ông Ngô Đình Nhu trước khi bị các tướng lãnh giết). Anh sẽ tìm đến những vị này.


Chia tay hai Toán viên Linh, Tiên, Thiếu úy Danh và Toán viên Mạnh đi xuyên rừng hơn 2 tuần thì về đến Trảng Tranh. Điểm hẹn là một cây tùng cổ thụ. Anh khắc dấu hiệu đã giao ước lên thân cây để báo cho Trung sĩ Bình biết anh đã về đến nơi.

Ngày hôm sau họ gặp lại nhau, Trung sĩ Bình báo cáo tình hình tổng quát trong thời gian Thiếu úy Danh vắng mặt. Sau khi anh đi, Biệt Cách Dù và Biệt Động Quân không thể ngồi yên một chỗ, bốn người tổ chức mở rộng khu vực thám sát qua khu rừng phía bên trên Trảng Tranh và đã gặp những láng trại bỏ hoang của giặc Cộng. Chắc chắn đám giặc đã nhanh nhẩu mò ra thành phố hưởng “phồn vinh giả tạo” của miền Nam rồi. Tuy biết chúng sẽ không trở lại ngay, vì ở thành phố … phê hơn, nhưng Trung sĩ Bình cũng lập tức di chuyển nhóm về hướng Bắc cách trảng khoảng 300 thước chờ Thiếu úy Danh về.

Sau khi Trung sĩ Bình tổ chức ổn định lại vị trí đóng quân, anh đã quyết định trở ra Long Khánh tìm hiểu về tình hình bên ngoài. Anh đi cùng Toán viên Sinh. Thượng sĩ Kim vô cùng mừng rỡ gặp lại họ, ông cho biết :

Dân mình đang hoang mang lo lắng trước chính sách trả thù của Ủy ban Quân quản giặc Bắc Cộng tại Long Khánh. Chúng đã tập trung sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa đem đi đâu không ai biết, giờ vẫn chưa thấy có người nào trở về. Số quân – cán – chính còn lại cùng với dân chúng mỗi sáng phải mang theo cơm đến tập trung tại trụ sở Ủy ban, bị buộc đi dọn dẹp bom, mìn, lựu đạn, vv … Dĩ nhiên số người bị tai nạn chết không ít vì họ đâu phải là chuyên viên tháo gỡ chất nổ. Mà cho dù là chuyên viên thì cũng cần phải có những thiết bị đặc biệt cho công việc vô cùng nguy hiểm này. Tóm lại, bọn giặc ác ôn đã mượn việc tháo gỡ chất nổ để công khai giết dân chúng miền Nam !

Chúng dùng bọn “cán bộ 30” chỉ điểm, lùng sục bắt bớ những người bị bọn chúng coi là “có nợ máu”. Thượng sĩ Kim yêu cầu Trung sĩ Bình đặc biệt nhận đưa thêm hai người vào rừng với anh. Đó là Thiếu úy Tính và Trung sĩ Sánh thuộc lực lượng Địa Phương Quân tại địa phương đã bị giặc Bắc Cộng kết án khiếm diện “có nợ máu với nhân dân”. Nghĩa là bắt được thì bắn bỏ lập tức, chẳng cần qua tòa án tòa iếc nào hết !

Mà tòa án Cộng Sản thì có gì khá hơn đâu, chỉ là một gánh xiệc trong đó đảng đóng vai người cầm roi ra lệnh và đám “quan tòa” thì chỉ là những con khỉ con thực thi “pháp luật” (rừng) theo nhịp roi.

Ngoài ra, với chính sách hộ khẩu và sổ lương thực, bọn giặc Bắc Cộng dùng miếng ăn xiết chặt bao tử dân chúng để dễ sai khiến. Còn để ăn cướp thì chúng lại có đòn “tư sản mại bản” chụp lên đầu những người khá giả. May mắn thì họ chỉ bị tịch thu tài sản đuổi đi “vùng kinh tế mới”. Xui xẻo hơn thì bị lôi ra cái chúng gọi là “tòa án nhân dân” lãnh án. Người dân không bị đi “vùng kinh tế mới”, không bị lôi ra “tòa án nhân dân” thì mỗi ngày sẽ “được” tập trung lùa vào rừng, bị buộc phá rừng làm rẫy, sản xuất lương thực nuôi béo bầy con đảng quỷ cháu bác hù.

Giặc tin rằng họ là những kẻ “đi mần kách mệnh” thì phải được hưởng thụ “phồn vinh giả tạo” gấp đôi ba lần để bù đắp cho những ngày nhai đá liếm muối trong những vùng chó ăn đá gà ăn muối. Cung cấp cho thật nhiều “phồn vinh giả tạo” là “nhiệm vụ vinh quang” của đám “dân ngụy” !

Nhưng dân chúng Miền Nam Tự Do thì hiểu ngược lại. Cứ vài ba đêm thì sáng ra lại có xác của vài “con bò xanh” bị làm thịt nằm phơi thây trên lề đường hoặc trong hóc hẽm nào đó. Đấy mới chính là nhiệm vụ vinh quang của quân – dân Việt Nam Cộng Hòa.

Nếu Trung sĩ Bình và Toán viên Sinh từng choáng váng khi nghe Thượng Sĩ Kim kể chuyện, thì Thiếu úy Danh cũng đã sôi máu lên khi Bình và Sinh kể lại với anh. Thật quá đau xót cho dân miền Nam. Anh thẩn thờ nhìn về bầu trời phương Nam, nơi có ngoại, mẹ, chị, các em của anh từng sinh sống. Sở dĩ anh nghĩ là “từng sinh sống” vì anh đoán nhẹ nhất gia đình anh cũng đã bị giặc Bắc Cộng tịch thu tài sản, đuổi đi “vùng kinh tế mới” nào đó rồi. Anh muốn chắp cánh bay ngay về Sài Gòn tìm họ, nhưng rồi lại nhớ tới Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù, nhớ tới sự an toàn của Toán Thám Sát dưới quyền anh, người Thiếu úy Biệt Cách đành đanh mặt nén lại cảm xúc cá nhân.

Trong chuyến ra Long Khánh lần rồi Trung sĩ Bình cũng đã chuyển lại lời hẹn gặp gỡ của Thiếu úy Danh đến Thượng sĩ Kim.

Sau khi sắp xếp lại chỗ đóng quân và nói chuyện với hai người mới vào, Thiếu úy Tính và Trung sĩ Sánh, Thiếu úy Danh hỏi mượn tạm bộ đồ trận màu xanh cùng cây Colt 45 của Thiếu úy Tính đồng thời trao cây M16 của cho anh Tính. Anh cùng Trung sĩ Bình lên đường ra Long Khánh.

Họ tới nhà Thượng sĩ Kim ban đêm, ba người ngồi bàn bạc với nhau đến nửa đêm. Cuối cùng ông Thượng sĩ của Sư Đoàn 18 lừng danh với trận đánh cuối cùng ở Long Khánh nhấn mạnh sự quan tâm hàng đầu của mình : Ông mong muốn Biệt Cách Dù giúp đưa vào rừng những người bị bọn giặc Bắc Cộng kết án khiếm diện “có nợ máu”. Còn sự quan tâm lớn nhất của Thiếu úy Danh là “Số Nhà Lớn” tức một bộ chỉ huy chung và cao nhất của Kháng Chiến Phục Quốc mà anh vẫn “gặp” trong những giấc mơ đẹp khi ngũ trong rừng. Thượng sĩ Kim nói ông cũng có nghe tin đồn về “Số Nhà Lớn” nhưng theo ông có thể chỉ là tin đồn thổi đối với hoạt động của các nhóm như nhóm của anh chẳng hạn. Thiếu úy Danh cố dấu vẻ thất vọng sắp hiện rõ ra trên gương mặt mình bằng cách trở lại với sự quan tâm của Thượng sĩ Kim : Tình hình bên trong còn quá khó khăn, nhất là thiếu thốn lương thực, vũ khí và đạn dược. (Đây là các vấn đề khiến các quan lớn phe ta lạnh cẳng, bỏ chạy ra nước ngoài). Do vậy, rất cần có thêm nhiều anh em của mình ở bên ngoài hợp pháp. Còn việc của anh em bị chúng kết án khiếm diện “có nợ máu” thì anh đề nghị ông Kim điều tra kỷ lưởng từng cá nhân một, cho họ biết trước những khó khăn phải đối diện sau khi vào rừng, phần anh thì mỗi lần chỉ có thể nhận 2 người.

Với cá nhân ông Kim, anh Danh yêu cầu ông nỗ lực hết mình kết hợp thêm anh em ở bên ngoài. Trong khi hoạt động nên luôn luôn tự đặt mình trong hoàn cảnh như đang hành quân trong vùng bị địch tạm chiếm. Và khi có cơ hội thuận tiện – an toàn thì lập tức ra tay thanh toán những “con bò xanh” đi lẻ tẻ để nâng cao tinh thần của dân mình. Cuối cùng là nhờ ông Kim tìm và cung cấp cho anh em trong rừng thêm vài cái địa bàn và giấy tờ hợp pháp phòng khi hữu sự.

Thượng sĩ Kim, người đã lanh trí và nhanh tay “dọn bớt” vũ khí, đạn dược, thuốc men chứa trong kho ở hậu cứ Sư Đoàn 18 trước khi bọn giặc Bắc Cộng mò vào hồi tháng Tư, ngay lập tức hứa sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của anh

Cuộc bàn bạc kết thúc, Thượng sĩ Kim đưa Thiếu úy Danh và Trung sĩ Bình đến nhà anh Ninh, gốc người Nùng. Họ được anh Ninh đãi món xôi gà. Ôi trời, lâu lắm mới được đụng tới thịt gà, quá đã luôn. Gần sáng anh Ninh đưa cho hai anh 2 bộ đồ mặc đi làm rẫy và 2 con dao phác. Anh Ninh và người em trai tên Vịnh chở hai anh trên 2 chiếc xe đạp vào rẫy. Tại đây hai anh được đưa thêm 2 cây cuốc giả vờ cuốc đất trồng bắp. Đến trưa họ ngưng tay ăn cơm, rồi anh Ninh trao cho anh Danh một bao chỉ xanh bên trong đựng các thứ anh đã nhờ Thượng sĩ Kim giúp vào lần trước, có cả quân phục của giặc Bắc Cộng.

Đã tới lúc Thiếu úy Danh và Trung sĩ Bình trở lại Trảng Tranh, bấy giờ anh Ninh mới lên tiếng xin cho hai em trai là Vịnh với Đinh (Biệt Kích Quân) được cùng vào rừng với hai anh. Bất ngờ nên có chút bối rối, tuy nhiên Thiếu úy Danh đồng ý. Xế chiều, anh hướng dẫn anh em lặng lẽ lên đường.

Đêm hôm sau họ về đến Trảng Tranh.

Bây giờ quân số tại Trảng Tranh là 10 người (không kể Linh và Tiên đang ở Chốt Số 1), nay có thêm Vịnh và Đinh thành 12 người, nhưng vũ khí thì chỉ có 9 (6 cây M16, 2 cây Carbine, và 1 Colt 45). Thiếu úy Danh chia Toán thành 2 Tổ. Tổ 1 do Trung sĩ Bình chỉ huy, gồm có Bình, Sinh, Mạnh, Tuấn, Vịnh và Đinh. Khu vực trách nhiệm của Tổ 1 là trảng tranh kéo dài đến khu rừng tre. Tổ 2 do anh chỉ huy.

Lôi ra những bộ quân phục giặc Bắc Cộng từ bao chỉ xanh do anh Ninh trao cho, Thiếu úy Danh đề nghị anh em vì sự an toàn nên thay quân phục của chúng. Lúc đặt những bộ đồ trận Việt Nam Cộng Hòa vào đáy ba lô, không người nào ngăn được nước mắt rưng rung. Họ thầm tự hỏi, bao giờ thì chúng ta sẽ lại mặc quân phục thân yêu của ta đi giữa các thành phố miền Nam và thủ đô Sài Gòn ?

Thiếu úy Danh quyết định dẫn Tổ 2 khởi hành trở lên Chốt Số 1. Anh cho anh em di chuyển sát theo đường mòn, nghĩa là chấp nhận có thể đụng địch. Lý do : Thứ nhất, anh em đều đang mặc quân phục của địch, tránh được tình trạng bị chúng nhận diện trước và tấn công trước; ngược lại chúng sẽ bị bất ngờ và sẽ bị lãnh đạn trước. Thứ nhì, anh muốn … kiếm thêm vũ khí và lương thực, từ địch.

Anh Danh dẫn đầu, họ di chuyển người cách người khoảng 10 thước, đi cạnh bìa rừng. Trên đường đi chỉ gặp 2 người dân của mình, tuy ánh mắt nhìn các anh không chút thiện cảm (vì đang cải trang với quân phục giặc Bắc Cộng) nhưng họ cũng cho các anh biết chiều hôm qua họ đã gặp khoảng … 20 “đồng chí của các anh”. Hướng chỉ của họ là hướng Đông Đông Bắc.

Tổ 2 đến rừng tre an toàn, Thiếu úy Danh để hai Toán viên Bình và Mạnh ở lại đây và đề nghị hai anh nên thám sát mở ba con đường dự phòng về Long Khánh, nên lấy sông La Ngà làm chuẩn. Trên mỗi đường cũng nên chấm sẳn một số điểm dự phòng cho sau này. Anh hướng dẫn Bình cách đặt hộp thư chết để liên lạc và cách mã hóa thư liên lạc. Anh dặn dò, nếu tình hình ở đây trở nên bất lợi, Mạnh có thể lập tức dẫn toán của Bình cùng lên Chốt Số 1.

Chỉ với một Toán Thám Sát và vài anh em gia nhập sau, thiếu thốn đủ thứ từ vũ khí, đạn dược, lương thực, vv … Thiếu úy Danh không biết rằng cá nhân mình đang dần dần trở thành một cấp chỉ huy mới trong hoàn cảnh quân đội của mình đã bị “ám sát”. Phải tự lực cánh sinh để tiếp tục chiến đấu.

Vài ngày sau, Thiếu úy Danh, Toán viên Ngàn, Thiếu úy Tính, Trung sĩ Sánh đến điểm hẹn gặp hai Toán viên Linh và Tiên trong khu vực Chốt Số 1. Hai anh cho biết đã gặp dân của mình, bà con mừng đến phát khóc khi gặp Biệt Cách Dù, họ muốn biết tình hình của quân mình ra sao và rất thiết tha mong lính Cộng Hòa trở lại. Bà con cho biết cuộc sống bên ngoài rất khó khăn và căng thẳng, nhất là các khu xóm đạo thì bị kỳ thị, khủng bố tinh thần liên miên qua các buổi kiểm điểm, tự thú, vv … Cũng như Thượng sĩ Kim ngoài Long Khánh, Toán viên Linh hỏi Thiếu úy Danh về những người bị giặc Bắc Cộng kết án “có nợ máu” thì mình có cách nào cứu anh em được không ?

Câu hỏi của Toán viên Linh, trước Linh là Thượng sĩ Kim, cho thấy rằng bên ngoài những người bị kết án “có nợ máu” đã lên tới một con số khiến dân miền Nam rất quan tâm đến họ. Trong lòng Thiếu úy Danh lúc này ngổn ngang đủ điều, “Số Nhà Lớn” chưa biết có hay không, bà con bên ngoài thì thiếu thốn khốn khổ, đưa thêm người vào rừng lúc này lấy gì cho họ ăn, lấy đâu súng đạn cho họ chiến đấu ? Nhưng cũng đâu thể bỏ mặc những anh em đang lâm vào hoàn cảnh hiểm nghèo. Cuối cùng, Thiếu úy Danh quyết định sẽ tìm thêm một số địa điểm cho đồng bào và những anh em bị giặc kết án tử có chỗ dung thân. Những thiếu thốn sẽ tìm cách từ từ giải quyết.

Sáng hôm sau, Thiếu úy Danh, Thiếu úy Tính, Trung sĩ Sánh nghiên cứu bản đồ rồi lên đường, họ đi vào khu vực tận cùng cuối dãy Trường Sơn. Trên đường đi họ chấm những điểm hiểm trở, gay góc có thể dùng làm chỗ ẩn nấp cho những nhóm sau này (“có nợ máu”). Đi khoảng 4 ngày, họ bất ngờ phát giác ra một con đường có tráng nhựa bỏ hoang, cỏ mọc che lấp nên rất khó phát hiện nếu không đặt chân lên. Đi thêm 3 ngày nữa họ bị chận lại bởi một vùng đồi núi hùng vĩ, toàn rừng nguyên sinh không dấu chân người. Họ dừng lại ghi chú từng chi tiết trên bản đồ những đoạn đường đã đi qua, trước khi trở về Chốt Số 1.

Năm ngày sau cả ba đã có mặt tại điểm đã xuất phát. Thiếu úy Danh cho tập họp tất cả anh em lại, bàn bạc đến những khó khăn về vũ khí, lương thực, vv … Ý kiến của Trung sĩ Sánh (Địa Phương Quân) là ban đầu họ phải tạm thời nhờ vào dân chúng nhưng về lâu dài thì chắc chắn sẽ phải có cách tự túc, bởi dân chúng bên ngoài cũng chỉ đỡ khổ hơn trong rừng một chút thôi. Nhưng tự túc thế nào đây ? Anh Danh đưa ra ý kiến, tuy đây là vùng rừng nguyên sinh nhưng thỉnh thoảng cũng thấy có những cánh rừng thưa thớt, là nơi có thể trồng xen vào với cây rừng loại lương thực ngắn hạn như khoai mì, bắp … Trung sĩ Sánh vốn từng chiến đấu một thời gian dài tại địa phương đã tình nguyện nhận nhiệm vụ nhờ đồng bào cung cấp cho một số giống khoai mì và hột bắp. Còn vũ khí ? Thiếu úy Tính (cũng Địa Phương Quân) đoán là có thể dân Long Khánh mình còn dấu đâu đó một số súng Carbine M2 từng được cấp cho lực lượng Nhân Dân Tự Vệ.

Tiếp tục, Thiếu úy Danh trình bày về các điểm thuận lợi trên địa hình có thể thành lập các chốt, cách đặt hộp thư chết, cách mã hóa thư từ liên lạc. Sau cùng anh giao việc lập các chốt trên tuyến hướng Đông Đông Bắc cho Thiếu úy Tính và Trung sĩ Sánh. Vốn thuộc lực lượng Địa Phương Quân tại địa phương thì việc liên lạc với dân chúng, đưa những người “có nợ máu” vào rừng, tổ chức nhận tiếp tế từ bên ngoài thì hai người này sẽ hoàn thành công việc tốt hơn hết. Anh Danh hỏi ý kiến hai người, Thiếu úy Tính mỉm cười “Hoàn cảnh này thì khó khăn mấy cũng phải làm thôi”.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 10 guests