Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Cổ tích ngày Xuân: Truyện người đi tìm mùa Xuân bất diệt …
Lời người kể chuyện:


Gần đến mùa xuân đầu tiên của những người tù cải tạo, trong không khí hoang mang sau đợt chuyển trại,cũng như sau bản án tử hình định sẵn cho Đ/U Lê phúc Thịnh vì chuyển thư khi đi lao động, lệnh từ trên xuống, lán 9 sẽ phụ trách làm “báo tường” (bích báo) cho cả đội, và người chịu trách nhiệm cũng đã được trên phân công: cải tạo viên Dzư văn Tâm, tức nhà thơ nhà văn Thanh Tâm Tuyền. Một buổi họp nhanh gọn để quản giáo Thanh phổ biến mục đích yêu cầu của tờ báo tường: làm cho mọi người thấy được sự vĩ đại của đại thắng mùa Xuân 75, sự khoan hồng của Cách mạng, cũng như nhiệm vụ của mỗi CTV là phấn đấu học tập tốt để trở về xum họp với người thân cũng như tìm lạimột vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc. Chúng tôi ngồi nghe một tai, bởi ngay người cả tin nhất hình như cũng đã đánh rớt niềm tin sau đợt học tập những bài chính trị cùng những bản tự khai khai đi khai lại nhiều lần vẫn bị kiểm điểm là chưa đạt… Trước khi kết thúc, quản giáo Thanh hỏi ai có thắc mắc giơ tay. Anh TTTuyền nẫy giờ ngồi im lặng, mới thủng thỉnh đưa ý kiến, “đề nghị anh quản giáo cho anh em nghỉ lao động để sáng tác”. Nhíu mày một chút, rồi quản giáo Thanh đồng ý, “cũng phải, thế này nhé, tùy bài dài ngắn, từ một đến hai ngày nghỉ lao động”. Trước khi ra về, anh không quên nhấn mạnh, “nhưng nhiều nhất là hai ngày lao động thôi nhé”…


Tôi biết anh Thanh Tâm Tuyền khi anh thỉnh thoảng đến nhà trò truyện cùng cha tôi, lúc ông đang thời kỳ gom góp tư liệu để thực hiện quyển Văn Thi Gia Phổ Trạng Lược Khảo. Biết đây chỉ có nghĩa là tình cờ đi về nhà gặp anh thì lên tiếng chào rồi né đi chỗ khác, chứ chưa hề được làm quen hay trò truyện, dù đã đọc thơ và văn anh trên Sáng Tạo, Văn.. . Chả thế, khi bị biên chế về chung lán, thấy mặt anh quen quen, lại thêm tên Dzư văn Tâm, phải hỏi dò mới biết đích thị anh là Thanh Tâm Tuyền (Trong lán còn có em anh, Phạm văn Chất, Thẩm Phán Tòa An Quân sự Vùng – là hai anh em ruột nhưng vì hoàn cảnh nên mang khác họ…). Anh sống rất ung dung điềm đạm. Suốt thời gian ở chung chỉ một lần tôi thấy anh nổi nóng là trong một ván mà chược (thuở chưa bị trại cấm, vì còn được ngụy trang là chơi bài Trung quốc..), ván ấy có một người chơi hơi xấu tính.


Sáng hôm sau anh bảo tôi, “cậu cũng nên nghỉ lao động ở nhà viết một bài”. Tôi cười, “thưa anh, em nghĩ đi ra ngoài khỏe hơn, cả tay chân lẫn đầu óc”. Anh cười, “thế à”. Bẵng đi vài ngày, một buổi chiều lao động về, anh vẫy tay gọi nhỏ, “cậu lại đây tôi cho xem cái này”. Tôi theo về chỗ anh nằm. Bên cạnh cái điếu dã chiến bằng nhôm chạm rồng của một người bạn làm cho anh (anh có tham gia gọt nõ), bừa bãi những tờ giấy sáng tác mừng Xuân của các CTV. Bài dài ngắn khác nhau, đủ các kiểu chữ, từ nguệch ngoạc chiếu lệ(cho phải phép hai ngày nghỉ lao động), đến nắn nót o bế, dù cùng một loại giấy do trại cung cấp. Anh chờ tôi hút xong bi thuốc, lơ mơ nhả khói mới nhỏ nhẻ, “thế này thì chuế quá, cậu ạ”. Tôi nhìn anh dò hỏi. Anh hất hàm, “cậu đọc thử đi”. Tôi cầm lên một vài tờ, cả văn xuôi lẫn … thơ. Và càng đọc tôi càng phục con người lúc nào cũng ung dung điềm đạm trước mặt tôi là anh. Chiêu một ngụm nước trà, anh thong thả, “ai thì cũng phải sinh tồn, thân cá chậu thì cũng phải “gặp thời thế, thế thời phải thế”, nhưng ca tụng họ như thế này …”, anh ngập ngừng im lặng như không muốn nói tiếp. Chợt anh lẩm bẩm, “chim mà hót được trong lồng mới là chim …”. Tôi ngậm ngụm trà đắng ngắt trong miệng, chia nỗi buồn cùng anh. Anh bỗng phá tan sự im lặng, “họ bảo tôi phải viết một cái gì…”. Trong ánh chiều mơ, anh ngồi yên lặng như một pho tượng mặt đăm chiêu nhẫn nại. Con người tài hoa ấy mới hai tuần trước đã khiến tôi thật sự tâm phục khi nghe anh đọc bài thơ mới làm, nhân một trưa thứ bẩy đi … nhà xí. Lời thơ đã lâu không còn nhớ, nhưng ý thơ thì không bao giờ tôi quên. Đại ý, anh ngồi trong không khí tù hãm, hôi thối của cái nắng gió Long giao, và phân người tù cải tạo của những hố xí tự đào giữa bát ngát cỏ tranh thiên nhiên, nơi mà ai cũng vội vào và vội ra … Từ những lá cỏ tranh cong vòng vì chĩu nặng những con nhặng xanh, trong ý thơ anh đã nhìn ra chuỗi ngọc biếc quanh chiếc cổ cao trắng ngần của người con gái năm xưa, hồn nhiên và thánh thiện … Tưởng tượng như thế thì chỉ có anh thôi ! Có tiếng gọi đi lãnh cơm. Tôi đứng dậy ngập ngừng, “hay anh cho đăng bài thơ chuỗi ngọc hôm nọ”. Anh bỗng đặt tay lên vai tôi "cậu viết cho tôi một bài nhé”. Tôi ngần ngừ. Anh nhìn thẳng vào mắt tôi, “tôi biết cụ DL. Cậu là con của cụ DL, tôi tin cậu...”.


Gia đình Viên ngoại họ Nguyễn lập nghiệp ở kinh thành, nhiều đời làm quan khá danh giá. Đến Viên ngoại, thuở sinh ra, tiên thiên bất túc, không theo đuổi được nghiệp đèn sách ông cha, đường hoạn lộ ngưng lại từ đó. Khi phương trưởng, bèn mở một cửa hàng buôn bán tơ lụa cho nhà giầu lẫn giấy, bút mực cho danh nhân sĩ tử, cuộc sống cũng trên bậc trung. Viên ngoại thành gia thất sớm, nhưng lớn tuổi mới sinh được một con trai, cưng như trứng mỏng. Nguyễn công tử thông minh dĩnh ngộ từ thuở nhỏ, càng lớn lên tinh hoa càng phát lộ. Viên ngoại mừng lắm, đặt hết kỳ vọng vào con, mong một ngày cháu nối nghiệp ông, đường hoạn lộ từ nay lại thênh thang ngẩng mặt cùng thiên hạ.

Nguyễn công tử đọc rộng hiểu nhiều, bên cạnh cái học từ chương, tài nghề cầm, kỳ, thi, họa nghề nào cũng đi đến chỗ tuyệt đỉnh. Chỉ có điều tự nhỏ tính đã gàn bướng, điều gì đã quyết không ai ép được. Nhiều lần Viên ngoại dục giã con tham dự khoa cử để công danh sớm đạt, công tử đều lắc đầu quầy quậy. Hỏi mãi thì mới thưa, thời buổi nhiễu nhương, cung vua, phủ Chúa, vua quan chẳng giữ đúng cương vị, thiên hạ sắp đại loạn đến nơi, sá gì một chút đỉnh chung để hại đến thân, thậm chí có thể tuyệt luôn dòng dõi. Và Nguyễn công tử cứ thế ngao du sơn thủy, trau dồi, phát triển nghề riêng, đặc biệt là nghệ thuật hội họa cũng như đàn cầm đã vang danh xa khắp, nhiều nghệ nhân từ phương Bắc cũng phải lần mò đến để gặp gỡ trao đổi học hỏi, ai nấy đều bội phục. Không ép được chí hướng con, hai vợ chồng Viên ngoại không khỏi buồn phiền, lại thêm giặc giã chiến chinh ngày một gia tăng khiến công việc làm ăn buôn bán đi đến khó khăn thua lỗ. Chẳng bao lâu, hai ông bà lần lượt theo nhau qua đời.



Lo hậu sự cho cha mẹ xong, Nguyễn bán hết cơ nghiệp, từ bỏ chốn đô hội nhộn nhịp, lại mua một miếng đất ở mé thành Tây, ngoại ô Thăng Long thành, cùng tiểu đồng lui về cư ẩn. Nơi đây phong cảnh hữu tình, cỏ cây hoa lá mơn mởn, non xanh suối trong chạy quanh, Nguyễn lấy làm đắc ý, mặc cho tiểu đồng vẫn buồn lòng vì phải xa chỗ đông vui. Từ đó bên lều cỏ, Nguyễn ngày ngày khi đàn ca hát sướng, lúc vung bút đề thơ, thỉnh thoảng mài mầu múa cọ, cuộc sống rất an nhiên tự tại, tưởng non Bồng xứ tiên cũng chỉ đến thế.

Một hôm, Nguyễn đang vẽ, chợt tiểu đồng chạy lên gặp, thưa rằng nhà hết gạo, rượu, mà tiền cũng chẳng còn. Tiện tay Nguyễn cuộn tròn bức tranh vừa vẽ xong, dặn tiểu đồng mang đi đổi lấy đồ ẩm thực. Tiểu đồng đi đến chiều tối mới về, khệ nệ mang theo, ngoài gạo, rượu, thịt, còn là những đồ thường dùng hàng ngày. Nguyễn đắc ý, họa sĩ xưa nay ít khi nuôi nổi thân mình, vậy mà chỉ với bức tranh nguệch ngoạc "chim núi hứng sương hoa" của Nguyễn, đồ ẩm thực của hai thầy trò khỏi phải lo trong vài ngày, quả là trời có ban cho mình chút tài mọn. Từ đó càng ngông nghênh, khỏi bận tâm vì cuộc sống, tiếp tục vui vầy cùng thiên nhiên, không hay rằng cái gì nhiều quá cũng nhàm, kể cả tác phẩm của nhà danh họa.

Lại một hôm, tiểu đồng khẽ thưa, "tranh lợn gà, chim chóc hoa quả dạo rầy khó bán, xin công tử vẽ tranh mỹ nữ bán thử". Nguyễn lấy làm khó nghĩ. Chàng vẽ tranh theo hiện thực, nhìn thấy gì vẽ nấy. Với Nguyễn, vẽ theo tưởng tượng cũng tỉ như gieo câu thơ sáo rỗng, của kẻ chưa hề trải qua thì làm sao mà động tâm để sinh tình thành tứ thơ, ý họa. Tuy nhiên vì đời thường mà cố. Nguyễn theo tiểu đồng ra ngoài chợ, ngó nhìn những thôn nữ qua lại nhóm chợ, ghi khắc hình ảnh trong tâm, về nhà vung cọ theo ký ức, những bức họa vì thế cũng sống động và đổi ra rất được giá. Người nghệ sĩ không vẽ chỉ vì miếng cơm manh áo. Từ lúc bắt đầu vẽ thiếu nữ, Nguyễn bỗng có một thôi thúc là vẽ được một bức tranh mỹ nhân toàn bích, để vài ba trăm năm sau tên tuổi còn lưu lại cùng bức họa. Bên cạnh những tranh vẽ cho cuộc sống đời thường, Nguyễn năng ra ngoài gặp gỡ quan sát đàn bà con gái nhiều hơn, để dành dụm chất liệu cho đại tác phẩm đã thành hình trong trí tưởng. Chất liệu đã tràn trề: người để lại một khóe mắt môi, kẻ cho chàng mũi cao dọc dừa, người đánh rớt một tiếng cười với hàm răng ngà ... Và ngày để khởi đầu cũng đến. Nguyễn dặn tiểu đồng đừng quấy nhiễu làm mất sự chuyên tâm cũng như hứng khởi của mình. Trước giấy dó trắng tinh, chàng bắt đầu vung cọ, để sau đó, miệt mài chạy theo sự lôi kéo của những đường nét, mầu sắc tự đến... Cuối cùng, sau những ngày mê mải, một buổi chiều nọ bức tranh cũng hoàn thành. Lùi lại ngắm nghía tác phẩm của mình, Nguyễn bỗng ngẩn người nhận ra cái không toàn. Khi vẽ, Nguyễn đã lục lọi khắp ký ức để tổng hợp tất cả vẻ đẹp của riêng mỗi người đã gặp, phổ lên gương mặt của mỹ nhân. Này là tóc, tai, môi, mắt, mũi, miệng ... của từng người đã có đó, tưởng như hóa công cũng không thể làm hơn được. Vậy mà, mỹ nhân tuy đẹp từng chi tiết, nhưng hình như những cái đẹp lại không hoà được cùng nhau, khiến gương mặt như không hồn, tẻ nhạt, ngay cả nỗi buồn vui cũng không tỏ rõ được ... Nỗi thất vọng ập tới như sóng vỡ bờ. Nguyễn đâm ra nghi ngờ tài năng của chính mình, không hay rằng người nghệ sĩ lớn nào cũng chỉ bằng lòng tác phẩm của mình khi còn đang thai nghén. Sẵn vò rượu đầy bên cạnh, chàng bê lên uống cạn một hơi. Rượu thấm, thêm sự phẫn uất, Nguyễn ngã lăn chiêng bên bức tranh bất toàn ...

Trong cơn mê thiếp, có tiếng nhạc ngựa leng keng. Có những bước chân nhè nhẹ của người đến. Có tiếng thì thầm nho nhỏ nhưng vẫn rõ ràng giọng nữ. "Phải chốn này không ?". Một giọng nữ trẻ con khác, "vâng, thưa tiểu thư chính nơi này.. A, công tử đây, thưa tiểu thư". Nguyễn cố ngước nhìn lên, ngây người choáng váng. Trước mặt chàng là một nhan sắc tuyệt thế toàn bích. Cũng mắt, môi, mũi, miệng này... dư một chút cũng hỏng, mà thừa một chút lại càng hỏng hơn, e rằng ngoài bàn tay của hóa công, con người không ai có thể tưởng tượng nổi chứ đừng nghĩ đến vẽ ra được. Thấy chàng cứ ngây người nhìn, cô bé a hoàn đi theo che tay bụm miệng khúc khích. "Tiểu thư nói gì đi chứ ...". Nữ lang quay sang cau mày gắt nhẹ, "cái con bé này, không được thất lễ ...". Cả cái cau mày cũng đẹp như sóng nước hồ thu. Nguyễn lắp bắp, "thưa, thưa ... tiểu thư con cái nhà ai, vãn sinh thật là vạn hạnh, vạn hạnh". Bấy giờ nữ lang mới nghiêng mình thi lễ, miệng nhoẻn cười chúm chím thưa, " Công tử dọn đến thành Tây này đã lâu, là hàng xóm với nhau, nhưng tiện thiếp gần đây công việc đa đoan, nên mãi hôm nay mới có cơ hội sang chào hỏi ....". Nguyễn cứ như bị hớp hồn, miệng dạ dạ, vâng vâng, mà kỳ thực ba hồn chín vía như đã chín tầng cao mây gió, ngay cả kéo ghế mời ngồi cũng lúng túng. Nữ lang thong dong tiếp, "tiện thiếp tuy ở cõi trên, nhưng cũng nghe tiếng công tử, cầm kỳ thi họa, tài hoa tuyệt thế, nên vẫn mong mỏi có ngày được tương ngộ". Nguyễn dần dần lấy lại bình tĩnh, chuyện trò cùng nữ lang, hai bên càng lúc càng tương đắc. Nguyễn cho nữ lang coi những bức tranh còn lại trong thư phòng, đủ mọi thể loại, nhưng tuyệt nhiên không dám đưa ra một bức tranh vẽ người nữ nào khác ngoài bức họa bất toàn đã lỡ thấy. Chàng tự nghĩ, với nhan sắc và phẩm cách của nữ lang, các bức họa về người nữ của chàng chỉ là những nét cục mịch, thô kệch. Chợt lại có tiếng nhạc ngựa từ xa. Nữ lang đứng dậy nghiêng mình tạ từ, "chắc phu quân của thiếp đã cho người đến đón ...". Nguyễn hốt hoảng bước theo, miệng lắp bắp, "xin cô nương cho biết phương danh ...". Chỉ thấy cả hai thoắt rời xa ... Lẫn trong tiếng cười khúc khích của cô bé a hoàn là một giọng thanh trong như ngọc, "Thành Tây có cảnh Bích Câu .... Tiện thiếp là Giáng Kiều xin cáo biệt. Mong công tử bảo trọng ". …

Nguyễn giật mình tỉnh giấc. Ngọn đèn dầu tiểu đồng thắp sáng đã cạn nửa, vò rượu rỗng không lăn trong góc. Có thể nào chỉ là một giấc mơ ? Nhưng mùi hương thanh khiết còn vương lại đâu đây, và nhất là gương mặt, dáng vẻ của nữ lang vẫn hiện rõ mồn một trong tâm trí. Rồi còn những câu chuyện trao đổi, thơ văn đàm đạo, đặc biệt câu nói của nữ lang khi an ủi chàng về sự bất toàn của tác phẩm, “người nghệ sĩ lớn không bao giờ bằng lòng về những tác phẩm đã hoàn thành của mình, vì thế, nhân gian mới luôn luôn được thưởng thức những kiệt tác mới của họ”. Nguyễn gọi khẽ, “Giáng Kiều, Giáng Kiều …”. Bỗng chợt một ý tưởng vụt đến. Chàng đánh thức tiểu đồng dậy lấy thêm rượu, rồi loay hoay căng lụa trên khung vẽ …

Trong hơi men sảng khoái, những nét cọ vung lên khoan nhặt … Và khi ánh dương ló dạng, bên ao sen hồng lá xanh vào hạ, Giáng Kiều như đang đứng trước mặt, mắt long lanh, môi chúm chím nhìn chàng ! Nguyễn hét to sung sướng. Chàng quỳ xuống nhìn vầng dương cảm tạ, rồi đứng dậy với tay cầm chiếc cọ vẽ bẻ làm đôi không chút do dự. Nguyễn biết, sau bức tranh này, suốt đời còn lại chàng sẽ không bao giờ có thể hoàn thành thêm được một tác phẩm hội họa nào khác nữa. ..

Từ đó, Nguyễn như người ngớ ngẩn, ngoài sự ăn ngủ, lúc nào cũng say đắm thẫn thờ bên tranh. Đọc sách, làm thơ, tách trà, chén rượu khi nào cũng như đối ẩm tương thân tương kính, mọi sinh hoạt thường ngày phó mặc một tay tiểu đồng. Tiểu đồng nhìn chủ lúc thương lúc sợ. Thương vì lòng trung, mà vẫn canh cánh sợ tà ma đã nhập vào thân xác chủ, sẽ di lụy cả hai. Có lần tiểu đồng đánh bạo rụt rè xin Nguyễn đi gặp thầy pháp để khu trục tà ma quỉ ám. Nguyễn nghe qua ơ hờ. Chỉ những lúc ngồi trước mặt Giáng Kiều chàng mới thật sự là Nguyễn công tử sống động và tài hoa một thời.



Một hôm sau khi nguệch ngoạc vài bức tranh dân gian để tiểu đồng mang đi đổi chác – tuy Nguyễn đã bẻ bút, nhưng chàng và tiểu đồng, cả hai không thể uống nước lã trừ cơm, vì thế tiểu đồng đã phải sắm cho chàng không chỉ một mà nhiều cọ vẽ khác – Nguyễn vội vã trở vào thư phòng ngồi trước Giáng kiều, vì muốn chia sẻ cùng nàng bài thơ mới làm. Vừa ngâm xong một câu đắc ý, Nguyễn ngẩng nhìn lên chờ đợi một nụ cười chúm chím khen thưởng của nàng, bỗng chàng thấy ngờ ngợ. Nguyễn lại gần, rồi lui ra xa chăm chú nhìn thật kỹ, và sắc mặt chàng tái hẳn, trống ngực đập thình thịch, không dám lưu lại trong thư phòng. Màu hồng sen lợt đi, lá bớt xanh, và còn thấy vài cọng bắt đầu héo úa. Hôm sau, đợi khi mặt trời lên cao, nắng đã theo các khung cửa rọi sáng thư phòng, Nguyễn mới bước vào. Lần này chàng săm soi nhìn ngắm người đẹp trong tranh thật kỹ. Giây lâu, chàng hốt hoảng thiệt tình, bụng bỗng lên cơn đau thắt. Không còn là nỗi nghi ngờ, mà chính là sự thật: cùng với ao sen bắt đầu héo úa, Giáng Kiều trong tranh “hình như” đã có những nét tuy còn ẩn hiện, nhưng rõ ràng là có già đi theo tháng ngày … Té ra chàng có thể vẽ được nét tiên, nhưng không thể đóng khung được thời gian … Cứ nghĩ đến ngày bức tranh “trăm tuổi”, lòng Nguyễn đau đớn không yên. Hình như càng lo sợ, chuyện đến càng mau. Một buổi sáng, châm trà đối ẩm, Nguyễn choáng váng khi thấy vết chân chim đầu tiên đã hiện mờ bên khóe mắt trái …. Nguyễn bỏ ăn, bỏ ngủ … đầu óc chỉ nghĩ suy tìm cách cứu vãn nữ lang trong tranh cũng là để tự cứu lấy chính mình. Mấy hôm sau, không kịp dặn dò tiểu đồng, Nguyễn cuộn tròn tranh trong ống nứa đeo trên vai, nhắm hướng kinh thành lẳng lặng ra đi khi trời còn mờ sáng. Nguyễn tìm đến những nhà sưu tầm danh họa, những lái buôn tranh, những người chơi cổ vật. Nơi nào chàng cũng nài nỉ chuyện trò, trình bầy về bức họa của mình, và tha thiết hỏi mọi người phương cách cứu lấy tranh khỏi bàn tay của vị thần thời gian. Nơi đâu chàng cũng được tiếp đãi rất ân cần, một phần vì tiếng xưa, phần khác cũng vì bức họa chàng đưa ra, ai cũng trầm trồ ngợi khen, thậm chí có người còn đòi mua lại bằng những giá rất cao. Nhưng buồn thay, không ai có thể chỉ cho Nguyễn một biện pháp khả dĩ có thể thắng được vị thần thời gian. Nguyễn thất vọng, từ chối tất cả những chiêu đãi trọng vọng hay kỳ kèo nài nỉ. Chàng quyết định đi tìm những nhân vật dị kỳ hơn như các thuật sĩ hay đạo sĩ …, những người mà dân gian đồn rằng họ có những công trình tu luyện đặc biệt, pháp thuật thần thông, thậm chí cải tử hoàn sinh hay cải lão hoàn đồng … Và Nguyễn rời kinh thành, bắt đầu cuộc hành trình đi về những vùng hẻo lánh, non cao nước sâu, nơi chàng có hy vọng gặp được những người này ở ẩn tu luyện. Một bữa, có hai kẻ vô lại thấy Nguyễn cứ khư khư nâng niu ôm giữ ống tranh, tưởng là của quý, theo dõi đến một khe vắng, rình đập đầu Nguyễn, giật ống nứa bỏ chạy. Nguyễn ôm đầu, máu túa che cả mắt, vẫn cố gắng đuổi theo, miệng vừa la hét, vừa van xin chúng trả tranh lại. Máu ra nhiều, Nguyễn ngất xỉu bên một tảng đá. Còn hai tên vô lại chạy một quãng xa không bị rượt đuổi, mới dừng lại, mở ra xem định chia nhau của. Đến khi khám phá chỉ là một bức tranh vô dụng (?), chúng bèn chửi tục, quăng phạch xuống đất, bỏ đi. Trong cơn mơ màng vì đau thiếp, Nguyễn thấy thoang thoảng một mùi hương xưa quen thuộc. Và một giọng dịu dàng thanh tao. “Thiếp xin lỗi, không ngờ chỉ một lần tương kiến lại gây nên mối họa cho công tử”. Nguyễn nhìn lờ mờ thấy Giáng Kiều đang kế bên, ánh mắt thương xót. Rồi bàn tay tiên mát rượi lau rửa, xé vạt xiêm y băng bó, rịt thuốc vết thương. Các đau đớn thân xác bỗng chốc tan sạch, và hồn Nguyễn cũng lâng lâng dịu êm. “Thiếp tu luyện chưa tới, nên đã mang chuyện bức tranh gặp ngược đãi thời gian ra vấn kế phu quân. Người cho thiếp hay, chỉ có mùa Xuân bất diệt và trường cửu mới giữ cho bức tranh trường tồn, trẻ mãi không già. Thiếp có hỏi thêm nơi nao có thể có được mùa Xuân bất diệt để công tử đi tìm thì phu quân thiếp lặng thinh… Thiếp chỉ biết đến thế và bây giờ thì phải tạm biệt, xin chúc công tử gặp nhiều may mắn”. Khi Nguyễn tỉnh lại, mười phần đã khỏe được bẩy. Nhìn xuống, bức tranh ai đã xếp lại trong ống nứa, đặt ngay ngắn cạnh chỗ chàng nằm. Nguyễn ngẫm nghĩ về những dặn dò của Giáng Kiều, quyết định sẽ mang tranh về nhà cho tiểu đồng cất giữ để chàng yên tâm khởi đầu một cuộc hành trình chắc chắn sẽ rất dài, đi tìm cho được một mùa Xuân bất diệt và trường cửu để giữ mãi vẻ đẹp của người trong tranh, làm quà tặng cho muôn đời mai sau …

Sau khi đã dặn dò tiểu đồng việc nhà, không quên vẽ thêm một số tranh đủ để y làm kế sinh nhai, một buổi sáng sớm đầu mùa thu, Nguyễn đứng trước tranh, khấn thầm cùng Giáng Kiều, “tiểu sinh đau lòng phải rời xa cô nương một thời gian, nhưng đã nguyện với lòng mình, đời còn lại, dù chân trời góc biển, dù có phải hy sinh cả mạng sống của mình, tiểu sinh cũng quyết tìm thấy và đem về một Mùa Xuân Bất Diệt để đền đáp những ân tình tri kỷ. Mong Trời đất dun dủi sẽ có ngày sớm tái ngộ cùng cô nương”. Tạ từ xong, khăn gói trên vai, Nguyễn cất bước ra đi. Chàng đi trong niềm hy vọng thì mong manh mà nỗi tuyệt vọng lại khôn cùng. Trời đất quá lớn, nơi đâu Nguyễn sẽ tìm thấy được Mùa Xuân Bất Diệt, cho dù tia hy vọng tái ngộ tuy leo lét nhưng vẫn cháy âm ỉ trong lòng chàng.



Nguyễn cứ thế đi mãi, lang thang từ phố phường đến thôn xóm, từ chốn đô hội đến nơi hoang dã, những non cao, động sâu… không nơi nào chàng không lần mò đến. Người xưa có câu, “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, Nguyễn hỏi cả trẻ lẫn già. Nơi nào bước chân chàng đặt đến, câu hỏi đồng thời cũng được đưa ra cho những người Nguyễn gặp, là nơi nao chàng có thể tìm được Mùa Xuân Bất Diệt ? Mọi người nhìn chàng lạ lẫm với câu hỏi kỳ cục. Có người cười chế diễu cho chàng là kẻ dở hơi, có người lại nổi giận coi chàng như kẻ quấy phá trêu trọc. Cũng không ít người nhìn Nguyễn thương hại, xót cho chàng là kẻ chẳng may bị trời sinh ra ngây ngô khờ dại, nên không chỉ cho Nguyễn miếng ăn, có khi còn giúp chàng một chỗ nằm tạm qua đêm. Nhưng điều quan trọng nhất là câu hỏi về Mùa Xuân Bất Diệt, mục đích của chuyến đi của Nguyễn, thì không ai – kể cả một vài người có tiếng là học giả Nguyễn đã gặp – có thể trả lời được.

Những ngày như mây trôi, những tháng như lá rụng… Cứ thế Nguyễn mải miết đi, mải miết hỏi, để rồi mệt mỏi rã rời cùng nỗi tuyệt vọng khi bóng đêm đổ xuống, phấn chấn vui vẻ trở lại với niềm hy vọng để cất bước tiếp tục ra đi khi ánh dương vừa lên….

Trời đã vào cuối đông. Một buổi chiều nọ, sau một ngày dài, Nguyễn thấy người váng vất, cổ họng rã khô vì khát. Nhìn xa về phía trước, thấy một căn nhà tranh nhô bên đường, Nguyễn bèn lần đến, định tạm dừng chân xin một chút nước mát cho dịu cơn khát. Phên tre cửa sổ mở ra khi Nguyễn cất tiếng gọi, rồi một bà lão hiện ra trong khung cửa, mặt mũi phúc hậu nhìn chàng. Nguyễn chưa kịp cất tiếng, bà cụ thật là người tinh tế, đã quay nhanh vào trong nhà để trở ra với một bát nước trong cùng một vốc cơm còn bốc khói. Ngụm nước vừa chiêu, Nguyễn theo thói quen, câu hỏi bật ra khỏi miệng. Bà lão thở dài, “đời nhà nông gặp chiến chinh loạn lạc, đứa con trai duy nhất cũng bị giặc bắt đi, cảnh cơ khổ, một ngày xuân cũng không tưởng tới, nói chi là cả một mùa xuân …”. Và bà lão nhìn Nguyễn tò mò, “ thấy công tử cũng có dáng dấp của người đọc sách, hà cớ gì người lại cố công đi tìm chuyện huyễn hoặc như thế ?”. Nguyễn thật thà kể lể chuyện bức tranh của mình. Đang nói, bỗng dưng, bát nước bị giằng lại, cả nắm cơm chưa ăn cũng bị giật lấy, quăng xuống đất tung tóe. Mắt quắc lên, người rung rung cơn giận, bà lão lớn tiếng mắng, “Nay giặc Thanh từ phương Bắc sang chiếm đóng nước ta, hung hãn như sài lang. Chúng có phải cùng chung máu mủ gì đâu mà thương xót dân ta, chuyện tàn ác đến đâu cũng chẳng từ nan. Chúng giết người, cướp của, đốt nhà, trẻ không tha, già không thương, cảnh nước mất nhà tan ai không xót thương, ai không căm phẫn, uất hận. Đến như lão già nhà này cũng không thể ngồi yên cho giặc hoành hoành, bỏ nhà cửa vườn tược cho già trông coi để cùng mọi người đi cứu nước…. Còn ngươi, tuổi trẻ lưng dài vai rộng, có đọc sách mà chẳng biết đạo thánh hiền, “đất nước nguy nan, ai cũng phải góp phần”, chỉ chìm đắm trong những nhỏ mọn riêng tư, không coi đất nước là chuyện chung, không biết rằng mất nước là mất tất cả, già này có dư nước cũng chẳng phí hoài cho loại u mê ám chướng như ngươi”. Nói đoạn, sẵn bát nước trong tay, bà lão hất thẳng vào mặt Nguyễn, hầm hầm hạ cánh liếp cửa sổ, đóng xập lại …

Nguyễn đứng sững như trời trồng, rồi ngẩn ngơ bỏ đi. Lời bà lão như trì kéo, mỗi bước chân mỗi nặng nề. Đi được một quãng, Nguyễn dừng lại, ngồi bệt xuống dưới một gốc cây to gần đó, đầu óc miên man suy tưởng. Nguyễn cứ ngồi như thế, bất động. Mất nước là mất tất cả. Tất cả, kể cả Nguyễn và bức tranh người đẹp đã vẽ … Những câu mắng của bà lão văng vẳng bên tai như những ngọn roi vụt xé tâm can. Nguyễn thiếp đi trong trăm ngàn nỗi trăn trở mâu thuẫn …

Khi Nguyễn mở mắt ra, bình minh vừa chợt tới. Trong tiếng chim rộn rã đầu ngày, xa xa có tiếng hát ca hòa vang. Rồi một đoàn người lũ lượt đi ngang. Nguyễn nhận thấy đủ cả, già trẻ, lớn bé, nam nữ, quần áo giầu nghèo, sang hèn lẫn lộn, gậy gộc giáo mác trên tay, miệng cất cao lời ca, mắt hãnh diện ngước nhìn những ngọn cờ đào được giương cao bởi một số quân binh áo vải … Nguyễn chạy theo hỏi thăm, mới hay đây là dân chúng nhiều nơi tình nguyện gia nhập nghĩa binh, đang trẩy đến tụ hội cùng quân binh của vua Quang Trung hiện đóng tại đèo Tam Điệp, bàn luận kế sách chuẩn bị phá giặc. Hòa theo đoàn người lúc nào không hay, Nguyễn cùng cất cao tiếng hát. Chưa bao giờ lòng chàng thanh thản và sảng khoái đến thế ! Quân đi đã xa, khúc ca hùng tráng như vẫn còn đọng lại đâu đây trên không gian báo hiệu một mùa xuân sẽ về …



Lịch sử ghi lại rằng, năm 1789, trước khi xuất binh đuổi giặc, vua Quang Trung cho mở tiệc khao và tuyên bố cùng ba quân tướng sĩ, “nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến trễ nhất là ngày mồng 7 Tết, vào đến Thăng Long sẽ mở tiệc lớn khao quân”. Đêm trừ tịch, quân Tây sơn vượt sông Gián Thủy, tiêu diệt đồn tiền tiêu của địch, khởi đầu sự triệt hạ hệ thống đồn phòng ngự của giặc. Đêm mồng 3 Tết, vây chặt Hà Hồi, buộc địch phải đầu hàng. Mờ sáng 5 Tết, quân binh quyết chiến với giặc ở đồn Ngọc Hồi. Tượng binh xung trận phá tan đội kỵ binh của giặc. Quân Thanh rút vào cố thủ trong lũy cao hào sâu, dùng đại bác và cung tên bắn ra ngăn cản. Những đội nghĩa binh dùng lá chắn che mình, cảm tử đột nhập vào trong chiến lũy xáp chiến cùng địch, mở cửa cho đại binh ào ạt tràn theo, san bằng đồn Ngọc Hồi, tiêu diệt một số lớn giặc, khiến cho toàn bộ hệ thống phòng ngự của giặc hoàn toàn tan rã. Ngày mùng 5, Đô Đốc Long bao vây tiêu diệt đồn Khương Thượng khiến tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử. Gò Đống Đa trở thành nấm mồ lớn chôn xác giặc. Thế như chẻ tre, quân Đô Đốc Long tràn vào Thăng Long, Thống soái của giặc, Tổng đốc Tôn sĩ Nghị phải bỏ hết ấn tướng để chạy thoát thân. Buổi trưa ngày mồng 5, vua Quang Trung cùng đại binh kéo vào Thăng Long Thành, áo bào nhà vua nhuốm đen thuốc súng của những ngày ác chiến. Trong nắng xuân gió xuân, nhà vua đã nâng chén cùng ba quân tướng sĩ uống mừng Xuân ca khúc khải hoàn.



Trong lúc quân tướng còn hò reo say men chiến thắng cùng vua, thì Nguyễn, nay đã trở thành một bộ tướng tham mưu của Tây sơn, đang đứng lặng người ngoài đại sảnh, hồn lâng lâng cảm động với những giây phút lịch sử đã trải qua. Trở về kinh thành, lòng chàng không khỏi bùi ngùi nhớ lại những chuỗi ngày thơ ấu sống cùng cha mẹ khi xưa. Và bóng dáng thành Tây nơi chàng ẩn cư cũng chập chờn hiện về như một lời gọi. … Nguyễn bảo người hầu dắt đến cho chàng một con ngựa. Rồi để nguyên áo bào còn vương mùi thuốc súng, Nguyễn phóng mình lên con chiến mã, ra roi phi nhanh về hướng thành Tây…



Nguyễn buộc ngựa bên khóm trúc, lòng cực kỳ bối rối cảm động nhìn lại căn nhà xưa của một thời “Nguyễn công tử”. Căn nhà hoang vắng nhưng không tẻ lạnh, mà vẫn tràn sức sống của cỏ hoa mùa xuân đang nở rộ chung quanh. Chàng hồi hộp bước vào trong sân. Trên cửa ra vào vài mạng nhện giăng tơ, có gắn một bức tranh “độ nhật” khi xưa cùng mấy dòng nguệch ngoạc của tiểu đồng, “tiểu nhân không thể ở lại chờ công tử lâu hơn nữa, vì còn phải lên đường đuổi giặc. Xin công tử thứ lỗi và mong có ngày thầy trò gặp lại”. Nguyễn mỉm cười khoan hòa, gỡ bức tranh, đẩy cửa đi vào. Đến trước thư phòng, chàng dừng lại, trống ngực đập liên hồi, tay giơ lên nửa chừng lại buông thõng xuống. Nguyễn biết, chỉ một cái đẩy nhẹ, cửa thư phòng sẽ mở ra, ở đó … Ở đó, Nguyễn không dám nghĩ tiếp … Điều gì chờ đợi chàng sau cánh cửa ? Bức tranh chắc vẫn còn nguyên đó, nhưng có ai đợi chàng ? Nguyễn thở hít dài mấy lần sâu tận, rồi quả quyết đẩy cửa… nhắm mắt tiến lại gần bức tranh. Khi Nguyễn mở mắt ra cả thế giới như xoay quanh chàng cùng niềm vui vỡ òa tưởng bể tan lồng ngực. Trước mắt Nguyễn là một Giáng Kiều của lần gặp gỡ đầu tiên, đẹp thanh khiết như một cành lan, mắt long lanh, môi chúm chím nhìn chàng. Những bông sen trong hồ cũng tươi nhuận trên những chiếc lá xanh mướt như ngọc. … Nguyễn tiến lại gần Giáng Kiều, lòng cảm động với nỗi biết ơn tràn trề. Chàng vừa ngộ ra một điều, không có mùa xuân bất diệt và trường cửu mà chỉ có người làm nên mùa xuân bất diệt và trường cửu….

Lịch sử đã ghi thêm, cuộc hành binh thần tốc với chiến thắng lẫy lừng của anh hùng Quang Trung Hoàng đế đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, giải phóng quê hương dân tộc thoát khỏi sự thống trị của giặc ngoại xâm phương Bắc đã biến mùa Xuân năm Kỷ Dậu, 1789 thành một mùa xuân bất diệt và trường cửu trong những trang sử hào hùng của dân tộc Việt …

lhtc
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Tiếng Sáo
Phạm Tín An Ninh
( Huỳnh Phong chuyển bài )

Tôi đến thăm Cali vào những ngày mưa, mưa tầm tã. Đài phát thanh Little Saigon, trong chương trình dự báo thời tiết, cho biết cả tiểu bang Cali đang bị ảnh hưởng một cơn bão nhiệt đới. Nằm nhà người bạn cùng đơn vị xưa ở thành phố Garden Grove, trong khu Little Saigon, cả ngày hai thằng thi nhau kể chuyện chiến trường, chuyện bạn bè, tù tội, làm cho những cơn mưa như càng dài ra thêm.

Anh bạn rủ tôi ra Hội Trường Nhật Báo Viễn Đông tham dự buổi ra mắt sách của một nhà văn nữ. Anh tỏ ra am tường về mọi thứ chuyện, bảo ở hải ngoại thời buổi này văn chương chữ nghĩa rẻ như bèo, mà nhà văn nhà thơ thì cứ mọc lên như nấm. Đúng là người Việt nam nào cũng có đầy thơ văn trong bụng. Nhưng nhà văn hôm nay là người quen, một cô bạn học cũ, sau này anh bất ngờ gặp lại khi cô đang làm phóng viên chiến trường, nên tới để cho cô ấy vui. Chúng tôi đến trễ, may mà còn mấy chiếc ghế trống phía sau để không phải đứng. Trên sân khấu, một diễn giả, dường như cũng là một nhà văn lão thành có tiếng tăm, đang giới thiệu tác giả và tác phẩm. Lại thêm một tác phẩm nữa về chiến tranh! Cuộc chiến chấm dứt đã hơn 30 năm, nhưng bao nhiêu nỗi oan khiên dường như vẫn còn nguyên trong lòng người tha phương, như những vết thương không bao giờ lành được. Người MC rất khéo léo, khi muốn tạo một không khí gây nhiều cảm xúc trước khi nhân vật chính, nhà văn nữ, lên trình diện và tâm tình vài lời cùng cử tọa, nên chương trình được nối tiếp bằng tiết mục ngâm thơ. Bài thơ "Ngày Ta Về" của nhà thơ Tô Thùy Yên được diễn ngâm bằng giọng rất truyền cảm của nữ sĩ Bích Loan. Cá nhân tôi cũng rất thích bài thơ "Ngày Ta Về" này. Bài thơ hay mà tác giả lại là người bạn cùng tù mà tôi rất quý, nên lắng tai chú ý nghe. Cả hội trường im lặng khi tiếng sáo cất lên cao vút. Anh MC vừa giới thiệu đó là tiếng sáo của Hồ Ngọc, tiếng sáo điêu luyện, nổi tiếng của miền Nam Cali. Lời giới thiệu này quả không cường điệu chút nào. Tiếng sáo trầm bổng, réo rắt, thiết tha, như vừa du hồn tôi vào một cõi hư vô nào đó. Rõ ràng tiếng sáo đã làm cho bài thơ gây cảm xúc tột cùng trong lòng người nghe, mà hầu hết đều từng mang tâm trạng của những kẻ “ta về”. Tôi đứng lên, nhìn về hướng sân khấu.

Hồ Ngọc, người cao lớn, đầu cúi xuống, các ngón tay như đang múa trên cây sáo nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy mái tóc hoa râm bồng bềnh. Tôi thích thổi sáo từ nhỏ, khi mê tiếng sáo Nguyễn Đình Nghĩa trong chương trình Tao Đàn của Tô Kiều Ngân trên đài phát thanh Sài gòn, vào những đêm khuya thuở trước. Sau tháng 4/75, qua bao nhiêu vật đổi sao dời, dường như đây là lần đầu tiên tôi được nghe lại một tiếng sáo hay và buồn như thế.

Tiết mục ngâm thơ chấm dứt, tiếng vỗ tay như muốn vỡ cả hội trường. Tôi cúi mình đi vòng về phía sau sân khấu, tò mò nôn nóng muốn biết Hồ Ngọc và cũng muốn được bắt tay ca ngợi anh một tiếng. Vừa đúng lúc Hồ Ngọc đang cầm chai nước lọc đưa lên miệng, thì cả hai chúng tôi đều nhận ra nhau. Anh chưa kịp uống một hớp nước, kêu tên tôi và ôm chầm lấy tôi. Hồ Ngọc, là nghệ danh của Hồ Ngọc Phú Hội, người bạn thân của tôi từ thời thơ ấu. Hai thằng ở cùng làng. Nhà ông bà nội tôi cách nhà Hội chỉ một vạc ruộng, con mương và đặc biệt là những hàng tre cao, mà buổi tối những đàn có trắng thường kéo nhau về ngủ ở đây, gây chút rộn rã cho một vùng không gian tĩnh mịch và tạo những nét chấm phá trên nền xám đen của khung trời sắp tối như một bức tranh thủy mặc. Vào mùa đông, những buổi chiều gió mưa tầm tã, tôi thường đứng bên cửa sổ nhà ông bà nội, nhìn ra hàng tre với những cái đọt cao vút theo gió chao qua đảo lại mà thấy tội nghiệp và lo lắng cho những chúcò trên ấy. Cha tôi và cha của Hội là hai người bạn cùng trường thời Pháp thuộc. Sau này cả hai ông đều làm thầy giáo. Cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra Liên Khu 5. Hai năm sau ông được thả về với cơn bệnh sốt sét, đành phải nghỉ dạy, nên gởi tôi theo học với cha của Hội, mà trong làng và cả bọn học trò chúng tôi thường gọi ông là thầy giáo Tám.

Ông là một vị thầy nổi tiếng dạy giỏi, nhưng rất nghiêm khắc. Đám học trò nhỏ của Thầy sau này vào đại học khá nhiều, và một số rất thành công trong nhiều sự nghiệp. Trong lớp hình như đứa nào cũng từng bị đánh đòn hoặc bị phạt ở lại quét sân trường, trồng cây vào những ngày thứ bảy chủ nhật, ngoại trừ tôi. Có lần làm sai mấy bài toán tôi suýt bị tát tai, nhưng rồi Thầy kịp dừng tay lại. Có lẽ Thầy ngại làm buồn lòng cha tôi, hơn nữa lúc ấy tôi mồ côi mẹ, nên Tiếng sáo ông cũng động lòng thương. Đứa học trò bị đòn nhiều nhất lại chính là Hội, đứa con trai lớn của Thầy. Mặc dù Hội học khá giỏi, nhất là môn toán. Thầy đánh con mình để làm gương. Lúc ấy, tôi nghĩ thầm như thế và thấy rất thương Hội và tội nghiệp cho Hội. Ngược lại với Thầy, mẹ của Hội lại là một người đàn bà phúc hậu, hiền lành và rất cưng chiều con. Những ngày nghỉ, tôi thường đến nhà Hội chơi, nhưng không dám bước vào ngôi nhà trên vì sợ gặp Thầy. Bọn tôi thường chơi phía sau vườn, mẹ Hội làm vài thứ bánh mang ra cho hai đứa chúng tôi ăn. Có lần hai thằng rủ nhau đi tìm những tổ sáo, mang về nuôi hai con sáo con, giấu nó phía sau hè. Mẹ Hội giúp tìm thức ăn và chăm sóc hai chú sáo. Hội tập cho những con sáo con biết bay và biết nói. Khi hai con sáo lớn lên, nó bay theo chúng tôi, đậu trên vai, theo bọn tôi tới trường, hót líu lo, và bập bẹ vài tiếng: chào anh! chào chị! Cả đám học trò bu quanh, thèm thuồng. Có thằng còn theo năn nỉ, cho quà chúng tôi chỉ để được sờ hay ôm con sáo. Hội còn dạy cho tôi làm bẫy phía sau bờ mương, bên hàng tre, để bắt được mấy con cuốc khi tìm theo tiếng “gọi hè” của nó.

Một lần, mang con cuốc về nhà nội, bất ngờ gặp cha tôi. Ông bảo con cuốc còn được gọi là Đỗ Quyên hay Từ Quy, theo tích xưa là hóa thân của Vua Thục Đế bên Tàu, mất nước nên đã khóc đến chảy máu mắt, chết đi hóa thành con cuốc kêu lên những tiếng khắc khoải não nùng. Nghe cha tôi kể lại chuyện xưa, Hội cảm động quá, bảo tôi đem con cuốc thả lại chỗ cũ, và từ đókhông bao giờ chúng tôi bẫy những con cuốc nữa. Từ nhỏ, tôi đã phục Hội có tính nhân từ và nhiều tài, dạy cho tôi nhiều chuyện hay, mặc dù Hội nhỏ hơn tôi đến hai tuổi. Khi hết bậc tiểu học, tôi phải rời quê vào Nha Trang, vì ở đây mới có trường trung học. Nhưng chỉ vài năm sau, chúng tôi lại gặp nhau ở thành phố này. Hội ở trọ nhà một người quen trên đường Âu Cơ, khu Xóm Mới. Thỉnh thoảng vào những ngày cuối tuần, tôi đạp xe đến thăm. Có khi hai thằng rủ nhau đi “cọp” xe lửa về thăm quê và lũ bạn nhỏ ngày xưa.

Lần đầu tiên tôi gặp Hội ở nhà trọ, đúng vào lúc anh ta đang tập thổi sáo. Hội mang ra khoe tôi cây sáo trúc rất đẹp, được giữ cẩn thận trong một cái hộp bao bằng vải nhung đen, Cây sáo được ông thầy người Huế tặng cho Hội, “một cậu học trò có năng khiếu, sẽ tạo cho chiếc sáo này có một linh hồn”. Ông Thầy bảo như như thế. Mặc dù lúc ấy, tiếng sáo của Hội chưa có gì đặc sắc. Sau khi xong trung học, tôi rời Nha Trang vào Sài gòn học thêm một vài năm, rồi xếp bút nghiên vào lính. Ra trường, được bổ sung về một đơn vị tác chiến lưu động ở Cao Nguyên. Năm tháng sống chết với đồng đội, núi rừng, nên chúng tôi không có dịp gặp nhau. Sau này, trong một lần bị thương, xuất viện được vài ngày phép trước khi ra đơn vị, tôi về thăm quê nội và ghé lại thăm cha mẹ Hội. Lúc này thầy Tám không còn dạy học nữa, mà ở nhà làm chủ, cho thuê các loại nông cơ: máy cày, máy gặt. Thầy đón tiếp niềm nở, tôi không còn thấy sợ như ngày xưa. Thầy cho biết là Hội cũng đã vào lính và đang phục vụ tận dưới Vùng IV đồng bằng sông nước. Cả năm cũng chỉ về phép một đôi lần ngắn ngủi. Thấy mẹ Hội bồng một đứa bé gái chừng một, hai tuổi, tôi lấy làm lạ, hỏi bà, và được biết đó là đứa con đầu lòng của Hội. Khuôn mặt đứa bé trông giống ông nội như đúc.

Không hiểu tại sao lúc ấy tôi không hỏi gì về vợ của Hội, và tại sao bà nội lại phải nuôi đứa cháu sơ sinh. Rồi từ đó cho đến ngày 30/4/75, tôi cũng không gặp lại Hội. Cho mãi hơn tám năm sau,khi tôi trở về từ những trại tù, và chính quyền Cộng Sản không cho tạm cư cùng với vợcon ở thị trấn Ninh Hòa (quê vợ), bắt buộc phải về “quản chế” nơi sinh quán, tôi mới gặp lại Hội. Hội bị tù ở trại A30 trong Nam, và được thả về trước tôi một năm. Anh ở một mình trong căn nhà tranh nhỏ, vốn làcái kho chứa vật dụng nông nghiệp hư hỏng lâu năm của cha anh, nằm ngay trên vùng đất của ngôi trường mà ngày xưa thầy Tám dạy học. Hội kiếm sống qua ngày bằng việc làm vườn trồng rau và sửa chữa xe đạp cho khách qua đường. Chúng tôi lại trở thành đôi bạn như ngày xưa. Có điều bây giờ gần như cả hai thằng phải sống bên lề xã hội. Cứ vài ngày phải đi làm thủy lợi, sửa chữa các con đường trong xã. Tối đến phải ra trình diện công an trước khi đi ngủ. Lúc này, cha tôi đã chết trong một trại tù khác trong Nam, còn thầy Tám, cha của Hội, bị kết tội “phá hoại công cụ sản xuất” khi ông không chịu giao nạp cho chính quyền những chiếc máy nông cơ của ông, và phá tháo ra từng mảnh nhỏ, chôn giấu rải rác khắp trong vườn, nên bị cưỡng bách làm việc đo đạc cho một hợp tác xã nông nghiệp, mà tên chủ nhiệm lại chính là một thằng hoc trò rất dốt của ông ngày xưa, học đâu chỉ tới lớp nhì rồi nghỉ. Trước 75, hắn ta là lính hải thuyền đào ngũ, do tội ăn cắp chất nổ, không dám trở về đơn vị, trốn ngoài một hòn đảo nhỏ, sống bằng nghề làm rẫy và đánh cá, rồi bị móc nối theo giặc. Sau tháng 4/75, nhờ tài nịnh hót, chỉ điểm mà từ một tên du kích, hắn ta trở thành chủ nhiệm HTX có tiếng hống hách và tàn ác nhất huyện. (Sau này lên đến chức trưởng ban thương nghiệp huyện, bị tù vì tham nhũng và đã chết sau vài năm được thảra).

Một hôm, vợ chồng tôi đến thăm, bất ngờ gặp vợ và hai đứa con trai rất dễ thương của Hội. Hội cho biêt là vợ con sống ở Nha Trang, chỉ lâu lâu ra thăm một lần. Vợ Hội là một người đàn bà đẹp, có nét đài các, dù trải qua cảnh đời cơ cực, nhưng nhan sắc không mấy tàn phai. Thấy vợ chồng con cái đoàn tụ, hạnh phúc, tôi mừng cho Hội. Chúng tôi cùng làm thịt con gà do vợ Hội mang về, hái rau thơm trồng sẵn sau vườn, ăn một bữa cơm chung “thịnh soạn”. Chỉ hai hôm sau, vợ con Hội lại trở về thành phố. Sau khi đưa vợ con lên xe đò, Hội theo chúng tôi về nhà ông bà nội tôi, nơi tôi đang “tạm trú”. Thấy anh không vào nhà ngay, mà đứng nhìn trời buồn bã, vợ tôi đùa:
- Mới đưa người đẹp đi mà lại nhớ rồi hay sao đây? Hội cười, nhưng nét buồn vẫn còn nguyên trên mặt. Buổi trưa hôm ấy, ba chúng tôi ngồi uống trà tâm tình dưới gốc cây xoài già, nơi ngày xưa tôi và cô Út thường ngồi đọc truyện cho bà nội tôi nghe. Khi vợ tôi hỏi vìsao mà vợ Hội không ở lại với anh nhiều hơn, Hội buồn bã trả lời:
- Bà phải về trông con, vì bà còn một đứa con gái nhỏ ở nhà. Nhưng nó không phải là con của tôi. Bất ngờ nghe qua điều này, vợ chồng tôi biết đây là một câu chuyện buồn.

Thấy chúng tôi trầm ngâm im lặng, Hội kể cho chúng tôi nghe về cuộc tình đẹp, nhưng trắc trở trong hôn nhân và những biến cố đau buồn của vợ chồng anh. Trước khi vào lính, nhờ trình độ Anh văn khávà lý lịch tốt, Hội được nhận vào làm thông dịch viên cho Cơ quan Mỹ phụ trách Chiến Dịch Phượng Hoàng tại một tỉnh Cao Nguyên. Với công việc này, anh có nhiều dịp gặp gỡông Phó ty Cảnh sát, và được ông nhờ anh, cứ ba buổi tối trong tuần, đến nhà dạy kèm cho cô con gái môn Anh văn và toán. Cô bé đang học lớp đệ ngũ. Hội cao lớn, đẹp trai, lại đàn hát hay, nhưng không phải vì thế mà chỉ mới hai tuần cô học trònhỏ đã “ái mộ” ông thầy. Sau này cô bé cho biết cô mê ông thầy chính vìtiếng sáo, “tiếng sáo ru hồn người ta”- lời cô bé nói. Cô bé rất xinh, có cái tên hơi kiếm hiệp “HàThị Triệu Minh”. Có thể ngày xưa phụ thân cô thích đọc chuyện chưởng và ái mộ nhân vật Triệu Minh? Dường như khi biết yêu thì các cô con gái “trổ mã”, lớn nhanh hơn và đẹp ra nhiều hơn. Chỉ một năm sau, khi lên lớp đệ tứ, Triệu Minh là hoa khôi trong đám nữ sinh trong tỉnh. Những ngày nghỉ học, cô học trò Triệu Minh nói dối mẹ, đi học nhóm, làm báo tường, tập hát với các bạn cùng lớp, nhưng thực ra là hẹn hò và dung dăng dung dẻ với ông gia sư trẻ. Trong thành phố này, góc núi, bờ sông, khu vườn, khe đá nào thơ mộng đều có in dấu chân, nghe lời tình tự, chứng kiến lời thề non hẹn biển của hai người.

Và tất nhiên ở những nơi ấy cũng còn cả dư âm “tiếng sáo ru hồn người ta” nữa. Khi cuộc tình của hai người đến thời kỳ say đắm nhất, cũng là lúc ông Phó Ty được các thám tử báo cáo tình hình. Có đứa con gái cưng xinh nhất tỉnh, không thể nào ông chịu để làm người tình với một chàng lãng tử, mà lương thông dịch chỉ ba cọc ba đồng. Ông bèn nhốt cô con gái trong nhà, mỗi lần đi học đều có người hộ tống. Ông xách súng đi tìm Hội, và bắn tiếng là sẽ không để yên, nếu Hội không chấm dứt với Triệu Minh và rời khỏi Cao Nguyên. Triệu Minh biết rõ tính khí của cha mình, nên nhờ một cô bạn thân tìm Hội, trao cho anh mảnh giấy, bảo Hội phải ra đi ngay và hẹn thề sẽ tìm gặp lại ở một nơi nào đó sau này, không ai biết. Mọi liên lạc đều qua trung gian của cô bạn học chí thân này.

Nghe lời Triệu Minh, Hội xin chấm dứt ngay hợp đồng làm việc, theo máy bay Mỹ rời khỏi Cao Nguyên và sau đó xin vào trường Thủ Đức, mà trước đây Hội tạm thời được hoãn động viên nhờ Cơ quan DAO can thiệp. Ra trường, Hội xin về phục vụ tại Tiểu Khu An Xuyên, tỉnh cực nam của đất nước và xa cách muôn trùng với Cao Nguyên. Trong suốt thời gian này, hai người vẫn liên lạc nhau, qua cô bạn trung gian. Mỗi tuần Hội đều nhận được một lá thư ướt đẫm nước mắt của Triệu Minh. Cuối cùng, Triệu Minh giữ lời thệ ước, sau khi thi đỗ tú tài, vờ vào Sài gòn xin vào đại học, rồi trốn cha mẹ, xuống Cà Mau sống với Hội.

Sau khi sinh đứa con gái đầu lòng, Triệu Minh viết thư thú tội với cha mẹ, bảo là mình đã chọn đúng người chồng xứng đáng để yêu thương và sẽ cùng nhau tự lực xây dựng hạnh phúc gia đình, không hề xin mẹ cha bất cứ điều gì, ngoài sự cảm thông và bao dung tha thứ. Triệu Minh nghĩ là dù sao ván cũng đã đóng thuyền, hơn nữa mình cũng đã sinh cho cha mẹ một đứa cháu ngoại, chắc chắn ông bà sẽ động lòng thương và chấp nhận cuộc hôn nhân. Nhưng cô đã lầm. Ông bà xuống tận nơi, xỉ vả Hội và Triệu Minh một trận, bắt phải tìm người cho đứa bé sơ sinh và Triệu Minh theo ông bà trở lại Cao Nguyên. Triệu Minh nhanh trí, cầu cứu cô bạn thân đến nhận trách nhiệm bồng đứa con cho bà cô ruột hiếm muộn ở Sàigòn, nhưng kỳ thực là giao cho mẹ của Hội, từ quê vào đóng vai cô của người bạn quý này. Đó là lý do vì sao cô con gái đầu lòng của Hội sống ở nhà ông bà nội từ lúc sơ sinh, cho mãi đến sau này. Con bé không muốn về với cha mẹ nữa. Cuộc tình lại một lần nữa chia ly.
Triệu Minh bị bắt buộc lên xe về Cao Nguyên cùng cha mẹ. Một thời gian sau, có lẽ vì đau buồn quá, Triệu Minh trải qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Gia đình phải đưa vào Sài gòn điều trị, nhưng bệnh tình ngày thêm trầm trọng, Triệu Minh ngày một tàntạ hơn. Cô đòi được gặp Hội một lần. Lời thỉnh cầu được ba cô chấp nhận, như là ân huệ cuối cùng cho một tử tội. Không ngờ sau khi gặp lại Hội, Triệu Minh bỗng khỏe lại. Chẳng hiểu vì động lòng trước mãnh lực của tình yêu hay là lo lắng sự sống còn của cô con gái, ông Phó Ty hứa sẽ cho làm đám cưới sau khi Triệu Minh bình phục. “Câu chuyện thật của tôi mà nghe sao giống như những chuyện tình buồn trong tiểu thuyết!”- lời Hội nói.

Lần này, ông bà giữ lời hứa. Nhưng người từ chối lại là ông thầy Tám, cha của Hội. Ông vừa tự ái, vừa phẫn nộ cung cách hành xử của cha mẹ Triệu Minh. Cuối cùng, vì thương con trai mình, và lòng thủy chung của Triệu Minh, ông chấp nhận cuộc hôn nhân, nhưng cả hai ông bà đều không có mặt trong ngày đám cưới. Đại diện họ nhà trai hôm ấy lại chính là cha mẹ của cô bạn quý của Triệu Minh. Sau đám cưới, cha của Triệu Minh dự định nhờ vào sự quen biết, xin kéo Hội về ngành Cảnh Sát và làm việc với ông. Lúc này ông không còn làm Phó ty mà đã nhận mộtnhiệm vụ khác và chuyển xuống làm việc ở thành phố Nha Trang. Nhưng Hội nhất quyết khước từ. Hơn nữa, nhờ có trình độ Anh văn và một số kinh nghiệm trong thời gian làm việc trong Chiến Dịch Phượng Hoàng, Hội vừa được chọn theo học một khóa tình báo ở Cây Mai. Sau khi mãn khóa được điều về một cơ quan tình báo ở Quân Đoàn IV, làm việc tại tỉnh lỵ Cần Thơ. Trong một căn nhà nhỏ thuê bên bờ sông thơ mộng, vợ chồng Hội thực sự sống những ngày hạnh phúc. Hai đứa con trai khôi ngô lần lượt ra đời ở đó. Cuối năm 74, cha của Triệu Minh lại được chuyển ra Vùng I nhận một chức vụ mới. Ông đi trước một mình, để gia đình vẫn ở lại Nha Trang, ông sẽ thu xếp đi sau. Nhưng chỉ hơn ba tháng sau, ngày 10 tháng 3/75, Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, các tỉnh Kontum, Pleiku, có lệnh di tản, tái phối trí chiến thuật. Rồi tướng Ngô Quang Trưởng đau đớn nhận lệnh bỏ cả Vùng 1 trong tức tưởi. Cha của Triệu Minh liên lạc vợ con cho biết ông đang tìm phương tiện di tản, bảo cả nhà chờ ông.


Nhưng rồi họ không bao giờ còn gặp lại ông nữa. Ông được ghi nhận đã mất tích. Sau ngày mất nước, Hội đưa vợ và hai con từ CầnThơ về Nha Trang, tạm sống chung với gia đình vợ. Hội vào tù khi cả nhà được tin cha Triệu Minh đã chết ở bờ biển Thuận An, do mấy anh cảnh sát cộng sự với ông cho biết, nhưng không ai biết xác thân ông bị vùi lấp ở đâu cùng với mấy ngàn người bất hạnh khác. Khi tổ chức vươt biển cùng mấy người bạn tù, tôi có báo cho Hội biết, và vì chiếc ghe quá nhỏ, nên Hội chỉ có thể đi một mình, hay nhiều lắm là với một đứa con. Sau nhiều ngày suy nghĩ, cuối cùng Hội đã từ chối. Anh bảo là dù sao, anh cũng không thể bỏ vợ con ở lại được. Sau gần một năm ở các trại tị nạn Singapore rồi Bataan/Phi Luật Tân, gia đình tôi được sang định cư ở Na-Uy. Khoảng hai năm sau, tôi bất ngờ nhận lá thư từ đảo Palawan, phía sau trên bì thư, ghi tên người gởi là Hà Thị Triêu Minh. Cái tên dễ nhớ. Nội dung chỉ báo là mẹ con đã vượt biển và đến được Palawan, đang chờ thanh lọc, cần sự giúp đỡ của chúng tôi trong thời gian mẹ con phải sống ở đảo.

Biết chính xác đây là vợ con Hội, tôi băn khoăn không biết vì sao Hội lại không viết thư cho tôi mà lại là vợ. Hay là vì một bất hạnh nào đó mà Hội không đến được đất liền. Trong thư không hề nghe nói tới Hội. Tôi liền ra ngân hàng gởi 300 đô la và viết lá thư ngắn, mừng mẹ con Triệu Minh đến đảo và hỏi có Hội cùng đi không, tại sao không thấy nhắc đến trong thư? Hơn một tháng sau tôi nhận thư hồi âm. Trong gần hai trang giấy, Triệu Minh kể không biết bao nhiêu tội của Hội. Nào là ngoại tình với vợ của người ta, trở lại với cô bồ cũ, lấy tiền bạc từ mồ hôi nước mắt của vợ con để bài bạc, nhậu nhẹt say sưa cả ngày, không hề có trách nhiệm gì với mấy đứa con, nên ở lại không chịu cùng đi! Tôi khá ngạc nhiên, vì biết tính nết Hội từ thời ấu thơ cho đến hết trung học, và gần gũi Hội cả một năm sau khi hai đứa ở tù về. Cho dù nếu có buồn phiền, hay bất mãn cuộc đời đến đâu, Hội sẽ không làm như thế. Từ nhỏ, Hội là một người được sự giáo dục của cha, một vị thầy giáo nghiêm khắc. Sau này, dù trong hoàn cảnh nào, Hội vẫn luôn trọng danh dự và giữ tư cách của mình.

Tôi liên lạc với đám bạn thân còn ở Việt Nam. Tất cả đều nói về Hội với những điều ngược lại. Họ còn bảo “nếu có một người không bao giờ đi tu mà thành Phật, thì đó chính là thằng Hội”. Tôi gởi thêm cho Triệu Minh một số tiền nữa, vì nghĩ tới hai đứa con của Hội, nhưng không nhận được hồi âm. Sau này tôi được tin Hội đã sang Mỹ theo diện HO-10, nhưng không ai biết Hội ở đâu. Mấy năm sau, vào một mùa hè, vợ chồng tôi sang Florida dự đám cưới con trai của anh bạn chí thân, cùng đơn vị lúc xưa và sau tháng 4/75 lại là bạn cùng tù. Chị vợ của anh là một trong hai cô con gái của ông bà chủ nhà ở một quận lỵ, mà trước kia, lúc còn là hai thằng lính trẻ, chúng tôi đã đóng quân trong vườn nhà. Chúng tôi thân thiết và thương mến nhau còn hơn cả anh em, nên khi được anh chị báo tin làm đám cưới cho con, nhân cơ hội này, muốn họp mặt bạn bè của hai người sau bao nhiêu năm lưu lạc, vợ chồng tôi bay sang Florida ngay. Đích thân anh chị đón chúng tôi ở phi trường. Anh em bao nhiêu năm gặp lại nhau, chúng tôi ôm lấy nhau mà nước mắt trào ra lúc nào không biết. Về nhà, khách khứa đã khá đông. Bên phía đàn ông, hầu hết những người bạn cùng đơn vị cũ, còn cánh đàn bà, đa số là bạn học của chị vợ. Đang giới thiệu, bắt tay hỏi chào vui vẻ, tôi nghe chị vợ nói với mấy cô bạn:
- Bây giờ, bọn mày ở nhà chơi, tao ra phi trường đón con nhỏ Triệu Minh.

Nghe hai tiếng Triệu Minh, tôi và bà xã giật mình nhìn nhau. Cái tên vừa hiếm hoi dễ nhớ, vừa còn lại trong ký ức chúng tôi, với đôi điều khó hiểu. Cả vợ chồng tôi tò mò, nôn nao chờ đợi trong hơn 30 phút. Quả nhiên, người khách đàn bà vừa bước vô nhà chính là Hà Thị Triệu Minh tuy bây giờ ốm hơn và nhan sắc có tàn phai. Để chắc chắn, tôi hỏi nhỏ chị bạn:
- Có phải Triệu Minh này trước có ông già làm lớn bên Cảnh sát?
- Đúng rồi, dường như nó có chồng ở Nha Trang với ông đó, nhưng thằng chồng nó bồ bịch lôi thôi quá nên nó bỏ lâu rồi!
Nghe chị nói, tôi có chút bực mình, nhưng chỉ cau mày, không nói. Chị dắt Triệu Minh đến. Cô không nhận ra chúng tôi. Sau khi được chúng tôi giới thiệu về mình, Triệu Minh nắm tay mừng rỡ, nhưng trong đôi mắt vẫn u buồn và có điều gì đó không mấy tự nhiên. Triệu Minh cám ơn chúng tôi đã gởi biếu tiền cho mẹ con cô khi còn ở đảo Palawan. Cô cho biết mẹ con đang định cư ở thành phố Salt Lake City, thuộc tiểu bang Utah, đứa con đầu vừa mới vào đại học. Chúng tôi chúc mừng cô và hỏi tin tức về Hội, Cô khựng lại giây lát rồi cúi xuống, trả lời:
- Nghĩ tình cha của mấy đứa nhỏ, em bảo lãnh anh ấy về ở với mẹ con em, nhưng cũng với cái tánh trai gái rượu chè, chẳng lo lắng gì cho con, nên em tống ra khỏi nhà. Nghe nói bây giờ đang ở đâu đó dưới Cali!

Tôi ngỏ ý xin địa chỉ hay là số điện thoại của Hội, nhưng cô ta bảo đã không còn liên lạc từ lâu lắm. Và đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp Triêu Minh.

Hôm nay, gần hai mươi năm sau, tôi bất ngờ gặp lại Hội. Không ngờ bây giờ tiếng sáo của Hội hay đến mê hồn người như vậy. Buổi ra mắt sách chưa chấm dứt, Hội bảo tôi ra xe để Hội đưa về nhà. Anh em xa cách bao nhiêu năm, giờ gặp lại sẽ có biết bao nhiêu điều để nói. Tôi dắt tay Hội đến giới thiệu với người bạn, và bảo Hội cho anh ta địa chỉ để nhờ anh đến đón tôi trước tám giờ tối, vì Hội cho biết phải đi làm ca đêm. Hội ở trong một garage thuê của một người quen ở thành phố Anaheim. Cái garage được sửa sang lại, đủ để một cái giường nhỏ và một cái bàn. Tất cả phần còn lại, là một phòng thu âm nhỏ, với một số máy móc. Hội bảo đây là nơi thu âm tiếng sáo của Hội đệm cho những giọng ngâm, giọng ca của bạn bè văn nghệ. Đặc biệt có nhiều ca sĩ nổi danh từng ra vô cái garage chật hẹp, nghèo hèn này. Thấy trên tường có tấm ảnh của một cô gái phóng lớn. Trông đẹp và quí phái. Mới nhìn, tôi tưởng một cô ca sĩ nào đó, nên hỏi Hội. Anh cười không trả lời mà hỏi lại tôi:
- Bạn không còn nhớ là ai đó hay sao?
Thấy tôi chau mày suy nghĩ, Hội bảo:
- Là Triệu Minh đó, lúc còn con gái, trước khi tụi này làm đám cưới!
Tôi à lên một tiếng rồi cười trêu Hội:
- Coi bộ vẫn còn yêu nàng hay sao mà treo ảnhnàng trang trọng thế?
Hỏi câu ấy, tôi không ngờ vô tình chạm tới vết thương trong lòng Hội. Anh tắt mất nụ cười, buồn bã:

- Sau khi mình vào tù hơn một năm, thì Triệu Minh có con với tên thiếu tá công an VC ở Nha Trang. Cha mẹ mình biết rõ điều này. Mặc dù Minh cho biết là trong một chuyến đi buôn cà phê, cô ta bị bắt và cả một bọn công an gài bẫy để phải uống thuốc mê cho gã thiếu tá trưởng đồn cưỡng hiếp, vì hắn ta quá mê mệt trước nhan sắc của nàng. Trước hoàn cảnh này, ba mẹ mình dù rất đau lòng nhưng cũng đành phải im lặng, khóc thầm. Những tưởng đến đó cũng đủ làm cho mọi người thấm thía tận cùng đau đớn, nhưng rồi tên thiếu tá công an không từ bỏ dục vọng. Hắn ta càng mê Triệu Minh hơn. Quyết định ly hôn với bà vợ quê mùa còn ngoài Hà Nội, và chiếm đoạt Minh vĩnh viễn cho mình. Hắn ta bỏ một số tiền lớn cho Triệu Minh mở sạp buôn khá lớn ở chợ Đầm. Vừa dùng quyền lực gian manh, vùa tung tiền tham nhũng được, sau một thời gian quỳ mọp dưới chân nàng, hắn ta gần đạt được mục đích. Ba mẹ mình biết được điều này. Mẹ mình thì hiền lành chỉ khóc, nhưng Ba mình thì đến thẳng nhà đòi bắt hai thằng cháu nội và dứt khoát từ Minh, không chấp nhận nàng là con dâu nữa. Riêng đứa con gái lớn được cha mẹ mình nuôi từ lúc mới sinh, từ chối về với mẹ mà xin được ở luôn với ông bà nội nó. Đúng thời điểm bi đát ấy, thì mình được ra tù. Khi được ba mình kể lại mọi điều, lòng mình đau đớn lắm, nhưng dù sao cũng còn mấy đứa con chung, và nhất là trong lòng mình vẫn còn in đậm hình ảnh của Triệu Minh trong những ngày nàng sống chết để được làm vợ mình. Mình xin cha mẹ mình tha thứ cho nàng, nếu từ nay nàng dứt khoát rời bỏ tên công an vô lại. Tranh luận thật nhiều, cuối cùng vì hai đứa cháu nội, ông đồng ý cho mình gặp lại Triệu Minh, nhưng nàng không được phép đến nhà ông. Chính vì vậy mà ông cho mình ra ở căn nhà kho, mà ngày xưa vợ chồng bạn có đến thăm.

Tôi nôn nao, ngắt lời Hội:
- Rồi sau đó Minh có dứt khoát với hắn ta không?
Hội buồn bã trả lời:
- Minh nói là không hề yêu hắn ta, ban đầu còn thù ghét hắn, nhưng dần dà từ tội nghiệp rồi đến thương hại khi thấy hắn ta quá si mê mình. Hắn bảo sẵn sàng bỏ đảng, bỏ ngành, bỏ mọi chức tước để chỉ được nàng. Hơn nữa dù sao hắn ta với nàng cũng đã có một đứa con gái. Minh thường bảo cái trợt chân ấy đã đưa cuộc đời nàng đi đến một ngã rẽ quá xa, khó mà đứng lên lại được. Hắn còn đòi được gặp mình để xin mình ký giấy ly dị, giao Minh cho hắn. Hắn bảo đảm sẽ lo cho Minh và cả mấy đứa con của mình được sung sướng.
- Rồi bạn có gặp hắn ta?
- Không! Dù cái tì vết quá lớn, nhưng mình không thể để mất Minh. Mình sẵn sàng bỏ qua hết mọi chuyện, làm khai sinh cho đứa con gái riêng của Minh là con ruột của mình, khuyên Minh nên trả tiền bạc tài sản lại cho hắn ta, và trả hắn ta về cho vợ con của hắn, đang khốn khổ ở Hà Nội. Nhưng khi Minh đến gặp hắn để nói lại điều này, hắn trở giọng hăm dọa, bảo là sẽ cho đàn em bắt mình vào tù trở lại, hay sẽ tìm cách thủ tiêu mình, làm Minh càng thêm lo sợ tai ương sẽ ụp xuống trên đầu mình. Sau đó lòng mình luôn bất an, không tin là trong hoàn cảnh khó khăn, Triệu Minh có thể dễ dàng trút bỏ mọi sợ hãi và cám dỗ tiền bạc để về sống với mình, bây giờ chỉ còn hai bàn tay trắng, nên mình đi chạy vạy vay mượn bà con bè bạn ít tiền, hùn hạp làm đìa nuôi tôm để vợ chồng cùng làm ăn, sinh sống. Nhưng đúng vào lúc đó, thì Minh và gia đình nàng xảy ra tai họa. Bà vợ Bắc kỳ của tên thiếu tá công an từ ngoài Hà Nội vào, dẫn theo một đám xã hội đen, chuyên đâm thuê chém mướn, đến tận sạp buôn của Minh đập phá, đánh đập Minh tàn nhẫn, lột cả áo quần và cắt hết tóc. Đã vậy còn lôi về nhà mẹ Minh hành hung, và bắt buộc trong vòng một tuần, tất cả mọi người phải biến khỏi thành phố này, đi đến một nơi nào đó thật xa, không ai được biết, nếu không sẽ lãnh tai họa.

Triêu Minh bán gấp nhà cửa và tất cả đồ đạc, cùng cả nhà chạy vào nhà bà dì ở Rạch Giá và tìm mối vượt biển sau đó. Hơn một tuần sau, mình dắt đứa con gái lớn vào thăm, ngôi nhà đã đổi chủ, và chẳng biết mẹ con Minh và gia đình nàng đã đi đâu.
- Như vậy tại sao sau này Triêu Minh lại đối xử tàn tệ và đi nói xấu về bạn?
Tôi thắc mắc.
- Ban đầu chính mình cũng không hiểu. Dần dà mình nghĩ là Triệu Minh tìm mọi cách để làm mình phải xa lánh mẹ con Minh. Có thể từ mặc cảm tội lỗi, nhưng muốn giữ thể diện với bạn bè, và nhất là với các đứa con ngày càng khôn lớn, nên nàng đã đổ hết bao nhiêu tội lỗi lên đầu mình. Khi nàng và gia đình vượt biển đến được đảo Palawan, đúng vào thời kỳ Cao Ủy Tị Nạn LHQ đóng cửa các trại, tất cả đều phải qua thanh lọc. Mẹ con Minh và cả gia đình đều bị từ chối vì chẳng có giấy tờ gì chứng minh là vợ con của sĩ quan VNCH, lúc ấy Minh mới viết lá thư gởi về cầu cứu mình, Cha mẹ mình và tất cả bạn bè ai cũng can ngăn, nhưng mình đã âm thầm làm bản sao Giấy Ra Trại và gởi gấp cho nàng. Nhờ có tấm giấy này của mình mà cả nhà mới được đến Mỹ.
- Vậy tại sao khi bạn đi HO đến Mỹ, lại không ở với mẹ con nàng. Chính cô ta bảo là đã tống bạn ra khỏi nhà?
Hội cười hiền lành, như chẳng có điều gì phiền muộn:
- Thực ra cô ấy không hề xô đuổi mình. Lo lắng và chăm sóc mình, nhưng luôn tìm cách lẫn tránh mình. Xa lạ đến lạnh lùng. Nhiều lần mình nghe tiếng nàng khóc. Và không biết ba đứa con, hai đứa của mình và một đứa con riêng của cô ta, bị ảnh hưởng thế nào, nhìn mình như một người xa lạ. Trong nhà không bao giờ nghe được tiếng cười. Mình có cảm giác như địa ngục. Hơn ba tháng, dù với tất cả nhẫn nhịn, chiều chuộng, cuối cùng mình đành phải bất lực ra đi, với hy vọng trả lại niềm vui và không khí gia đình cho mấy mẹ con nàng. Trong ba tháng ấy, chỉ có cậu em của cô ta thường gần gũi tâm sự với mình. Chính cậu ta đã kể lại tất cả những gì đã xảy ra. Hôm tiễn mình lên xe về đất Cali này, cậu đã trao lại cho mình một số tiền và lá thư của Triệu Minh nhờ chuyển cho mình. Lá thư chỉ là tấm giấy nhỏ, ghi vỏn vẹn một dòng: “Xin hãy tha thứ cho em, và xem như Triệu Minh đã chết từ lâu rồi, không còn trên trần gian này nữa”. Và đến nay cậu ấy là người duy nhất giữ liên lạc với mình, luôn tỏ ra kính mến mình.
- Sau này, Hội có dịp nào gặp lại Triêu Minh hay hai đứa con trai của Hội?
- Có một lần, khi thằng con trai lớn làm đám cưới, mình có nhận được thiệp báo tin và thiệp mời. Mình cũng vui mừng lắm, dù đọc trong thiệp báo tin, không thấy có tên mình, mà chỉ có tên mẹ nó. Mình vội vàng đi mua một bộ đồ veston mới, mượn trước một số lương, để bay lên mừng con, và cũng có dịp gặp lại Triệu Minh. Nhưng buổi tối trước ngày đi, thằng con lại gọi phôn (ông cậu cho nó số phôn), bảo là mình không nên lên, vì cái thư mời là do cậu nó bảo nó gởi, chứ không có ý kiến của mẹ. Nếu mình muốn đi, thì phải gọi xin phép mẹ nó. Nhưng rồi nó lại hạ giọng: “Con không có chút hy vọng gì là má sẽ OK!”. Cuối cùng đành phải bỏ chiếc vé máy bay. Mình buồn, nhưng không trách Triệu Minh. Rồi mới đây, bất ngờ lại gặp thằng em của nó. Nghe nói cũng tốt nghiệp kỹ sư hàng không và đang làm cho hãng Continental. Nó sắp cưới vợ, nên rủ con vợ tương lai đi chơi một vòng ở Las Vegas, rồi sau đó ghé lại Little Saigon mua một ít nữ trang và vật dụng dành cho ngày cưới. Nó gọi phôn hẹn gặp mình phía trước Phước Lộc Thọ. Mình mừng lắm, quên hết mọi chuyện, chỉ mong gặp lại thằng con ruột thịt, để xem bây giờ mặt mũi nó ra sao.

Tôi lái xe đến gặp nó và vị hôn thê. Cô dâu chào bắt tay tôi vui vẻ, nhưng thằng con thì nhìn tôi dửng dưng xa lạ. Tôi thoáng buồn nhưng kịp trấn tĩnh, vì nghĩ là từ lúc mới sinh ra cho đến bây giờ, nó có sống với tôi bao lâu đâu. Mời hai đứa đi ăn, nó từ chối, bảo chỉ cần uống nước. Chúng tôi ngồi tạm trong cái quán nhỏ bên trong Phước Lộc Thọ. Nó bảo là tụi nó sẽ làm đám cưới vào hai tuần tới tại Maryland. Trước khi đi cậu nó cho số phôn của tôi và dặn nó nhờ tìm gặp tôi khi ghé lại Little Saigon. Uống nước xong, nó đứng dậy móc bóp cho tôi tờ giấy 100 đô la. Con bồ của nó nói một tràng tiếng Mỹ, tôi hiểu là “tại sao lâu ngày mày gặp lại daddy của mày mà mày chỉ cho có 100!”. Nó móc bóp lấy thêm tờ 50 đưa cho tôi. Tôi ngượng ngùng, định từ chối, nhưng rồi sợ nó buồn, hơn nữa nghĩ tới đứa con gái lớn, là chị ruột của nó, đang sống thiếu thốn ở nhà ông bà nội bên Việt Nam, tôi nhét vào túi áo, nói cám ơn hai đứa. Sau đó tôi bảo nó chờ vài phút, rồi chạy đến tiệm hoa gần đó mua một bó huệ trắng. Quay lại, tôi xúc động nói với hai đứa: "Nhà ba ở rất gần đây, chạy xe chỉ chừng bảy, tám phút. Ông nội con vừa mất, hôm nay là 49 ngày. Lúc con còn nhỏ, ông nội rất thương con. Bây giờ hai đứa con có mặt ở đây lại sắp làm đám cưới, ba muốn hai con ghé lại thắp cho ông nội cây nhang. Ở nơi chín suối, chắc ông vui lắm”. Con bồ nhìn nó gật đầu, nhưng tôi rất bất ngờ và hụt hẫng khi nghe nó nói: “Để lần khác, hôm nay con không có nhiều thì giờ!”

Kể xong câu chuyện khá dài, Hội vẫn dửng dưng nhìn lên trần nhà như đang tìm kiếm một vật gì, trong lúc lòng tôi đau như dao cắt. Để cho Hội trầm ngâm một lúc, tôi lên tiếng:
- Tôi tội nghiệp bạn, nhưng không hiểu được bạn. Tại sao trước một nỗi đau như thế mà nhìn bạn vẫn thấy bạn thản nhiên, có khi còn cười nữa, cứ như không?
Hội nắm tay tôi, xuống giọng:
- Mình đã quen rồi. Hơn nữa cả dân tộc đều tan tác bi thương qua cuộc thăng trầm quá lớn ấy, nỗi đau của mỗi một chúng ta đâu còn có nghĩa gì. Tất cả chỉ đáng thương hơn là đáng trách!
Tôi nhìn Hội, lắc đầu:
- Nhưng ít nhất, bạn cũng phải giải thích, nói lên sự thực, để mấy đứa con của bạn nó hiểu chứ. Chẳng lẽ cứ để các cháu cứ nghĩ xấu về bạn, thờ ơ, đối xử tệ bạc với cha của nó mãi như vậy hay sao?
Im lặng một lúc, Hội lên tiếng:
- Thôi, chuyện đã như vậy rồi. Vả lại dù sao mẹ chúng nó cũng đã chịu đựng bao nhiêu khổ cực đắng cay để nuôi nấng bọn nó từ thuở còn tấm bé, đến bây giờ đã thành đạt, nên người. Đó chẳng phải là điều mà những người cha bất hạnh như bọn mình mong ước hay sao? Tốt nhất là hãy để chúng nó luôn nghĩ tốt và hết lòng kính trọng, yêu thương mẹ nó!
Nhớ tới lời mấy thằng bạn còn ở quê nhà, tôi buột miệng:
- Hèn gì đám bạn bè bảo là bạn không hề đi tu mà đã đắc đạo rồi.
Hội nở một nụ cười, nhưng không trọn, rồi như mới nhớ ra điều gì, anh kể tiếp:
- Cách nay vài tháng, Triệu Minh có dắt đứa con gái riêng về Việt Nam để gặp cha ruột của nó. Nghe nói hắn ta cũng đã tìm cách móc nối tổ chức vượt biển sau ngày Minh đến đảo Palawan, nhưng bị bắt vào tù, mất hết đảng tịch và bị sa thải khỏi ngành công an. Sau đó làm nhân viên bảo vệ cho một khách sạn nào đó ngoài Hội An, Đà Nẵng, nhưng đang bị bệnh rất nặng. Ung thư phổi thời kỳ cuối.
- Như vậy Triệu Minh vẫn còn nghĩ đến hắn ta?
Trầm ngâm một lúc, Hội lên tiếng:
- Cô ta làm thế cũng phải. Dù gì cũng là tình phụ tử mà. Hơn nữa cũng vì nàng mà hắn ta mới ra nông nỗi. Sau đó cô ta có về quê mình thăm đứa con gái đầu lòng. Từ lúc mới sinh cho đến bây giờ nó vẫn ở nhà ông bà nội. Nối nghiệp ông nội: dạy học, và đã có chồng con. Nó là đứa con duy nhất hiểu rõ chuyện của mình với mẹ nó, nên thường viết thư, gọi điện thoại hỏi han an ủi mình. Mấy lần nó phản đối mẹ nó và có ý định nói hết sự thực cho hai đứa em nó biết, nhưng mẹ nó năn nỉ và chính mình cũng can ngăn. Tôi bảo nó nên hiểu và thương mẹ nó. “Vì một mình phải nuôi dạy các con lớn lên ở quê người, mẹ cần sự kính trọng và vâng lời của các em con, mà đành phải đổ hết tội lên đầu ba. Ba nghĩ làm như vậy, chắc mẹ con cũng đau lòng ghê lắm. Người cần yêu thương và an ủi, chính là mẹ của con, chứ không phải là ba”.
- Vậy mẹ nó có tâm sự gì với nó về bạn hay không?
Tôi tò mò hỏi.
- Cháu có bảo là mẹ nó cũng ân hận lắm. Bà cũng nhớ tôi và mặc cảm tội lỗi quá lớn, khi ít nhiều gì cũng đã phản bội tôi mà còn phải nói với mọi người và nhất là với các con những điều xấu xa không đúng về tôi. Bà thường nhờ con gái chở bà ra nghĩa trang thắp hương trước mộ cha mẹ tôi và ngồi khóc sụt sùi. Nhiều lần bà có ý định đi tìm tôi, xin tha lỗi và trở lại với nhau, nhất là sau khi các con đã lớn và ra sống riêng, bà cô đơn một mình. Nhưng rồi bà không đủ can đảm, khi nghĩ là tất cả mọi thứ đều đã vượt quá xa giới hạn của nó rồi. Bà bảo, “Chiếc bình cổ đã vỡ tan tành, không thể nào có thể hàn gắn từ những mảnh vụn, mà một số cũng đã mất mát rơi rớt theo thời gian”. Bà có ý định về lại Viêt Nam, sau khi cô con gái út lấy chồng. Sẽ quy y, tu ở một ngôi chùa trên Cao Nguyên. Nơi mà ngày xưa, lúc gặp phong ba trắc trở trong tình yêu với mình, bà đã đến đó để cầu xin và thệ ước.
Tôi hơi bất ngờ và thoáng một chút ngậm ngùi:
- Dù sao cũng tội nghiệp! Tất cả cũng chỉ là hệlụy từ một cuộc chiến phi lý mà đám người thắng trận lại là một lũ bất lương. Tôi nghĩ bạn nên tìm gặp nàng, nói một câu thứ tha cho nhẹ lòng. Không phải nhẹ lòng cho riêng nàng mà cho chính cả bạn nữa. Và nếu được, thì sống lại với nhau, coi như đôi bạn trong tuổi già.
Hội cúi xuống, đôi mắt dường như nhắm lại. Suy nghĩ một lúc rồi hạ giọng:
- Mình đã nhờ đứa con gái nói với nàng điều ấy. Nhưng nàng chưa muốn gặp mình, chỉ xin cám ơn và khuyên mình hãy cố quên đi tất cả. Nàng bảo: ”Đời là bể khổ. Giờ đã cuối đời thì vướng bận thêm nữa mà làm gì”. Cả đứa con gái của mình cũng đồng tình. Cháu bảo “con thấy như thế vẫn hay hơn, chứ mỗi ngày ba má nhìn thấy nhau, dễ nhớ lại chuyện xưa rồi cũng chỉ buồn khổ hơn thôi!”
Nghe Hội nhắc tới cô con gái còn ở quê nhà, tôi hỏi:
- Sao bạn không bảo lãnh gia đình cháu gái lớn sang Mỹ sống với bạn cho vui?
Hội lắc đầu:
- Vợ chồng nó không muốn. Dường như nó ngại phải chọn ở với cha hay với mẹ. Vậy cũng hay. Chứ sang đây nó thấy mình cơ cực lại buồn thêm. Còn mình, khi nào rảnh rỗi, chạy đến viện dưỡng lão săn sóc, giúp đỡ cho mấy ông bà cụ đã quá già mà chẳng có con cái chăm nom, mình cũng thấy vui.

Tôi định nói một câu để khen và an ủi, thì Hội vội xem qua đồng hồ rồi kéo tôi đứng dậy. Đúng lúc cả hai thằng đang đối diện với bức ảnh lớn của Triệu Minh treo trên vách. Tôi hỏi lại Hội một câu đã hỏi lúc mới vào nhà:
- Nghĩa là bạn vẫn còn yêu Triệu Minh?
- Đúng, mình vẫn thiết tha yêu Triệu Minh, nhưng mà Triệu Minh ngày xưa, cái thời nàng và mình mới yêu nhau, và nhất là vì yêu mình mà dám bỏ tất cả. Cuộc tình đó đẹp quá đi chứ, phải không? Đến bây giờ, nhiều đêm mình vẫn nằm mơ thấy nàng. Chỉ những giấc mơ ấy thôi cũng đủ cho mình thấy hạnh phúc và quên hết mọi biến cố sau này.
- Bây giờ bạn đã có cô bạn gái nào, và có tính kiếm một cô vợ khác để có nhau trong tuổi già?
- Có chứ, mình đang có cô bạn, Bích Loan vừa ngâm thơ với mình chiều nay đó. Giọng ngâm của cô hay lắm. Trước kia là cô giáo ở Pleiku. Nhưng tụi mình chỉ xem như là bạn cho vui, chứ trong lòng mình không còn có tình yêu, trái tim của mình không còn biết rung động kể từ sau cuộc tình với Triệu Minh. Bỗng nhớ tới một điều, tôi hỏi Hội:
- Và dường như nhờ tình yêu ấy mà tiếng sáo của bạn mới tuyệt vời?
Hội cười, đưa tay lên vách lựa lấy một cây sao trúc đưa lên miệng thổi một đoạn trong bài Love Story. Khi chấm dứt, Hội hỏi tôi:
- Bạn có còn nhớ ra cây sáo trúc này không?
Tôi lắc đầu. Hội chìa cây sáo ra trước mặt tôi:
- Chính là cây sáo cũ, mà ngày mình còn đi học ở Nha Trang, ông thầy ngưởi Huế đã tặng mình, khi bảo mình là “đứa học trò có năng khiếu sẽ tạo cho chiếc sáo này có một linh hồn”.
Tôi gật đầu đắc ý, định khen Hội một lời, nhưng dường như Hội đã đọc được ý nghĩ đó, anh xua tay:
- Không, ông Thầy nói không đúng hẳn. Có thể là mình có chút năng khiếu, nhưng năng khiếu không thể tạo được linh hồn.
Thấy tôi ngớ ra chưa kịp hiểu, Hội tiếp lời:
- Chính hình ảnh của Triệu Minh, cùng với tất cả những hạnh phúc, đắng cay ấy đã làm nên linh hồn cho cây sáo! Tôi cầm săm soi cây sáo đã khá cũ, đưa lại cho Hội rồi buột miệng:
- Không ngờ qua biết bao thăng trầm, bạn vẫn còn giữ được cây sáo…mà lại không giữ được Triệu Minh. Vừa nói xong, biết mình lỡ lời, định nói một câu xin lỗi thì điện thoại reo.

Người bạn báo đã đến chờ phía trước. Tôi đứng lên nắm tay Hội, nhắc lại một kỷ niệm xưa, lúc hai thằng còn nhỏ. Chuyện Hội đã bảo tôi đem thả con cuốc chúng tôi vừa vui mừng bẫy được, sau khi nghe cha tôi bảo con cuốc ấy là hóa thân của Vua Thục Đế, vì mất nước mà khóc đến chảy máu mắt, chết đi hóa thành chim, cất lên những tiếng kêu khắc khoải, não nùng. Hội ôm chặt vai tôi:

- Không ngờ bây giờ bọn mình cũng là hai con quốc quốc.
Chia tay Hội, mở cửa bước ra ngoài. Đang giữa mùa hè mà sao những ngọn gió làm tôi buốt lạnh. Và dường như trời cũng vừa mới đổ thêm xuống một cơn mưa.

Phạm Tín An Ninh
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Những trận đánh cuối cùng và Chân dung người Lính Việt Nam Cộng Hòa

Sơn Tùng


Quân đội VNCH chính thức buông súng và tan rã vào trưa ngày 30/4/75, sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm, hầu như vẫn còn in rõ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang theo.

Bốn mươi năm sau khi tan hàng rã ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân dung thật của người lính VNCH vẫn còn bị che mờ sau những màn khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đã buông súng hằng chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã bám theo mình.

Tuyên truyền CS vu cáo họ là “những tên lính đánh thuê”, là bọn “ngụy quân” phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ. Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công – qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng – vẽ lên hình ảnh những người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và “không chịu chiến đấu”. Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ. Kẻ thù, sau khi “lượm được chiến thắng”, đã tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những người lính bại trận. “Bạn bè”, khiếp sợ trước “chiến thắng thần thánh”của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của mình, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đã bị bắt buộc phải buông súng.

Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH. Chưa hết, còn sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài nước, những người đã nhờ máu của người lính VNCH mà được hưởng tự do trong hơn 20 năm để viết ra những gì họ nghĩ, cái tự do trong giới hạn trong một xã hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn nầy đã và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sĩ hơn nữa, vu cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát máu, không nhân tính, không lý tưởng. Đâu là chân dung thực của người lính VNCH?

Năm 1984, trước bộ phim được gọi là “tài liệu lịch sử” dài 13 giờ chiếu mang tên “Vietnam: A Television History” (Việt Nam: Một Bộ sử Truyền Hình) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đã viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ý của những người làm phim. Cuốn sách của ông nhan đề là “Losers Are Pirates” (Thua là giặc), rút từ câu tục ngữ Việt Nam “được làm vua, thua làm giặc”. Cái tựa đề ấy đã xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong “thế giới tự do” đã đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người lính VNCH.

Cũng trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn “Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực VNCH”, dùng những chất liệu lịch sử và những bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ gãy những sự vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đã chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho là “kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa con đường Vạn Lý Trường Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý còn vượt xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ.

Chân dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở bìa cuốn sách, với hình ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới đầu gối và cây súng thô sơ trên vai. Qua gần 300 trang sách với thật nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đã đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đã đi, từ những ngày đầu được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt thòi bất công vô lường, cho đến cái chết tức tưởi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.
Image
Người lính VNCH: biểu tượng cho sự chịu đựng gan dạ và bền bỉ trong cuộc chiến chống cộng ròng rã suốt 3 thập niên.


Ngay sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đã có rải rác những cái nhìn công bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.

Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kahn, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đã viết một bài bình luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề “Truy điệu Nam Việt Nam”, trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau:

“.. .Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ. Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc, Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ…

Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương… Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn.”

Không phải đợi tới ngày nay, 40 năm sau, người ta mới khẳng định được rằng, “phía mạnh hơn không phải là phía tốt”. Phía tốt hơn đã trở thành phía yếu hơn và đã bị đánh bại trên chiến trường chỉ vì đã trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bội. Người lính VN đã chiến đấu cho tự do đã bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất.

Trong cuốn “Not with guns alone”, nhà báo lão thành người Úc Denis Warner đã lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng.
linh
Image
Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ còn được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nã vào các căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.
Tác giả Mỹ Louis A. Fanning cũng viết như sau trong cuốn “Sự phản bội tại VN” (Betrayal in Vietnam):
“Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiều. Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái”.

Những kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ đã kết tội người lính ấy “không chịu chiến đấu” trong khi cả “thế giới tự do” không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng võ lực. Sự hèn nhát nầy đã bị nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, vì ý chí tự vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới còn thua xa ý chí chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam, phần đất đã bị bỏ rơi với lời biện hộ “không thể bảo vệ những người không có ý chí để tự bảo vệ!”

Sự hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng “bộ đội giải phóng” để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì họ viết ra.
Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:

“Thứ Hai 28/4/75
Saigon sáng nay yên tĩnh.
Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao.
Ông trả lời:
– Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”

Sau khi Dương văn Minh đã tuyên bố đầu hàng, Lartéguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QĐVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:
“Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe.
Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.”
Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa.
“Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng”.

Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:
– Các anh có biết là sắp bị giết chết không?
Một thiếu úy trả lời:
– Chúng tôi biết chứ.
– Vì sao?
– Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

” …Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa… Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều. Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon: một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có bốn người lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi tự sát.
Đến chiều tối. 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng.”

Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại.
Nhà báo lão thành người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:
“…Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liên lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”.
Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, ký giả Mỳ Alan Daeson thuật lại:
“…Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe Tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, Tướng Nam đã chiến đấu cho đến phút chót… Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.

Tướng Nam chẳng có gì để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một chiến binh. Ông đã thật sự dâng cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu ấy. Trong vòng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lệnh đầu hàng trên đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp cò. Ông ta chết ngay tại chỗ.”
Những trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong đó theo viên tướng Pháp Vanuxem thì cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được sống tự do trong 1/4 thế kỷ.
Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đã trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đã được “những con người may mắn” thủ đắc.

Và đây là cái “phần thưởng” mà xã hội miền Nam ngày trước đã đền đáp cho sự hy sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ngòi bút của Phan Nhật Nam:
“Người chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát, 30 đêm ngủ võng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một người đàn bà và 4 đứa con trong tháng”.
Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, thì đây là thân phận vợ con người lính:

“Người lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính. Không chết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặc cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những rễ cây khẳng khiu.. Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ…”

Cuộc chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Những người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạo. Đui, què, mẻ sứt… không còn được ai nhắc tới, biết tới, những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.
Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào bức chân dung thực của người lính VNCH?

Sơn Tùng
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Image

HƯƠNG XƯA NGÀY ẤY.
Vi Vân.
Những cơn mưa cuối mùa ở thành phố tôi buồn hiu hắt, cái giá lạnh từ đâu bỗng về xâm chiếm tâm hồn.Tiếng mưa rơi nhẹ, đều đều trên mái nhà khiến tôi liên tưởng đến những cơn mưa của một thời áo trắng. Tôi nhớ mãi những chiều mưa ngồi bên song cửa đọc thư anh mà xót xa thương cảm cho người yêu ở một góc trời nào đó đang lặn lội dưới mưa rừng gió núi. Những nỗi nhớ nhung, mong đợi, lo lắng, bâng khuâng của một thời làm người yêu lính trận bây giờ nghĩ lại thật đẹp, thơ mộng làm sao! Tôi chợt đưa tay sờ lên mặt mình, những vết sẹo đã biến mất, không còn nữa.Thật may mắn cho tôi nếu không được đặt chân lên đất Mỹ thì không biết giờ nầy cuộc đời tôi sẽ ra sao, về đâu? Tuy những vết sẹo ngày xưa đã hủy diệt tương lai và mộng ước của cả đời tôi nhưng tôi vẫn luôn hoài niệm về khoảng thời gian đó, những ngày tháng thật êm đềm, ngọt ngào với những nỗi vui, buồn, đớn đau và nước mắt của một thời con gái…

Tôi là con lớn trong một gia đình gồm 8 anh chị em, Ba tôi là một công chức nhỏ nên cuộc sống gia đình có phần chật vật. Để giúp đỡ phần nào cho Ba, tôi phải đi làm thêm mỗi tối, việc làm đó là hát cho một quán café ca nhạc. Trời phú cho tôi một giọng ca truyền cảm, trầm ấm nên tiền thù lao khá hậu hỉ. Lẫn lộn trong đám người phức tạp nơi đó tôi hết sức dè dặt, giữ gìn ý tứ để khỏi mang tai tiếng vì mình còn là một nữ sinh đang cắp sách đến trường. Sau khi xong mỗi bài hát, trong khi chờ đợi hát tiếp tôi thường mở sách ra đọc để tránh nói chuyện với người khác. Nhưng một hôm có người bước vào hậu trường và đi thẳng tới trước mặt tôi, đó là một anh lính trẻ mặc đồ rằn ri với một bông mai trên cổ áo. Anh đứng nhìn tôi đang đọc sách, nhìn tựa quyển sách “ Hàn Yên Thúy” tức “Bên Bờ Quạnh Hiu” của Quỳnh Dao anh buông một câu không mấy lịch sự:
- Sao cô lại thích đọc loại sách nầy? Ủy mị lắm.
Tôi khó chịu vì thái độ của anh ta nên sẳng giọng:
- Anh quen với tôi sao?
Anh ta trả lời rất tự nhiên:
- Chưa, nhưng sẽ quen mà. Tôi xin tự giới thiệu tôi tên là Thế Phương đang phục vụ cho binh chủng Nhảy Dù, mong được làm bạn với cô.
Tôi chưa biết trả lời sao nên lặng thinh.
Phương giục:
- Sao rồi? Cô có chấp nhận lời tôi không?
Tôi nhìn anh dè dặt:
-Anh nói bạn là thế nào? Nếu anh đến đây nghe nhạc thường xuyên thì cũng coi như là bạn của tôi rồi mà.
- Không, tôi muốn nói là bạn riêng thôi.
Tôi thấy anh chàng nầy có vẻ sổ sàng quá nên nghiêm mặt lại:
-Xin lỗi anh, tôi chưa nghĩ đến điều đó, vì tôi chưa quen biết anh nên tôi không thể chấp nhận, mong anh hiểu cho.
Anh chàng vẫn lầm lì:
- Đêm nay tôi đưa cô về nhà nhé!
- Không được đâu anh, Ba tôi sẽ đến đón tôi.
Anh ta nhún vai nhìn tôi:
- Ông già giữ con gái kỹ thế .
Tiếng người nhạc sĩ điều khiển chương trình vọng vào:
- Bích Liên ơi, tới phiên cô rồi đó nghe.
Tôi từ giã anh lính:
- Xin phép anh, tôi phải ra sân khấu rồi.
- Hẹn gặp cô sau.
Tôi bước trở ra sân khấu với bản nhạc “Thuở Ấy Có Em” :
“…Thuở ấy có em anh chưa từng sầu. Chưa đi âm thầm ngoài phố đêm thâu chưa mang hoang lạnh ngoài bến vắng. Hỡi em, em về đâu cho đời còn luôn nhớ nhau…”

Tôi nhìn xuống thấy anh đứng ở một góc của quán nhạc, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía tôi, tự nhiên tôi thấy lòng có chút xúc động. Chắc anh có một nỗi niềm, một tâm sự riêng nên trông anh có nét buồn xa vắng.

Khi Ba tôi đến đón tôi, anh lặng lẽ nhìn theo không nói lời nào. Mấy đêm sau liên tiếp anh đều đến, đều tìm cách nói chuyện với tôi nhưng tôi cố giữ khoảng cách với anh vì tôi rất sợ mình sẽ yếu lòng, sẽ vướng vào tình yêu của lính, nhất là lính Nhảy Dù như anh.Tôi biết dù có lưu luyến, thương nhớ bao nhiêu rồi anh cũng ra đi, anh phiêu lưu trên khắp nẻo đường đất nước, khắp bốn vùng chiến thuật, bất cứ nơi nào khi chiến trường cần đến anh. Tôi phải tự thương lấy mình, thương cho thân phận của một người con gái sinh ra trong thời loạn.
Quả đúng như vậy, vào một ngày cuối tuần anh đến từ giã tôi để trở về đơn vị. Kỳ đi phép về thăm ông ngoại nầy đối với anh rất thú vị, rất vui. Tôi cũng có chút ngậm ngùi, lưu luyến vì những ngày qua anh thường nói chuyên với tôi, tôi cũng được hiểu về anh đôi chút.
Con chim xanh đã trở lại núi rừng, người đã xa rồi tôi cũng không còn gì vương vấn. Những đêm sau giờ đi hát, trên đường về tôi chợt nhận ra mình cô đơn quá, thiếu người san sẻ những ưu tư, lo lắng trong cuộc sống. Đêm bỗng buồn lê thê như những bài tình ca dang dở, và tôi trở lại với nếp sống hằng ngày tẻ nhạt.

Hai năm sau, vào mùa hè tôi lên Sàigòn thăm dì ruột của tôi. Dì có một người con gái tên Hồng Phượng lớn hơn tôi hai tuổi, chị em tôi rất thân với nhau.
Có một ngày chị Phượng khoe với tôi:
- Để hôm nào bạn trai của chị từ chiến trường trở về chị sẽ giới thiệu cho em biết mặt nhé!
Tôi chọc chị:
- Bạn trai thường hay là người yêu? Chị đừng giấu em, khai thật đi em sẽ ủng hộ hết mình.
Chị lườm tôi:
- Cái con nhỏ nầy. Ừ, thì…là người yêu. Em đã lớn chắc cũng có chàng nào trong tim rồi phải không?
Tôi giơ tay lên trời:
- Em xin thề, chưa có chàng nào cả.
- Vậy để chị nói với chàng giới thiệu cho em một người nhé? Bạn của ảnh đông lắm, lính Nhẩy Dù, Thiên Thần Mũ Đỏ em chịu không?
Tôi cười:
- Chà, ca ngợi binh chủng của chàng như vậy chắc là chị “đậm” với người ta lắm rồi, cầu mong cho chị gặp người tốt. Ngày trước em cũng có quen sơ sơ với một anh nhưng… chẳng tới đâu cả.
Hai chị em chúng tôi huyên thuyên tâm sự. Chị Phượng luôn nhắc đến người yêu: một Trung Úy trẻ, đẹp trai, oai dũng, can trường trên trận địa…Chị đã gặp anh ta năm trước khi đi làm dâu phụ cho một người bạn lấy chồng là một sĩ quan Nhảy Dù.
Hai tuần sau đó chị vui vẻ báo cho tôi biết người yêu của chị đã về phép, nhà anh ở cư xá Đô Thành nhưng anh hẹn gặp chị ở phòng trà Mỹ Phụng. Chị Phượng bảo tôi đi cùng, tôi từ chối vì không muốn làm “ kỳ đà cản mũi” cho hai người nhưng chị nói:
- Anh Tùng có một người bạn đi chung, có em trò chuyện cùng anh ấy thì chị và Tùng sẽ được nhiều thời giờ tâm sự hơn.
- Thì ra chị cần em “ đỡ đạn” cho chị.
- Được rồi, tùy em nghĩ. Em chịu đi chứ?
- Dạ, cũng được thôi.

Hôm ấy chị Phượng thật đẹp trong chiếc áo dài màu vàng thêu hoa kim tuyến, còn tôi thì “chìm sâu” với chiếc áo dài màu tím đơn sơ, buồn lặng lẽ. Tôi nghĩ rằng chị cần mặc đẹp, nổi bật vì có người yêu, còn tôi chỉ đi ké thôi nên chẳng quan tâm đến việc mặc đẹp hay xấu. Khi chúng tôi đến trước cửa Mỹ Phụng thì đã thấy hai anh chàng mặc quân phục Nhảy Dù đứng đợi sẵn. Chị Hồng Phượng có vẻ xúc động đưa tay chỉ về một anh:
- Anh không mang kính đen là Tùng của chị đó.
Tôi nhìn theo tay chị, anh chàng cao ráo, phong độ làm sao. Hèn nào chị hết lời ca tụng chàng. Còn anh kia thật …đặc biệt, trời đã tắt nắng rồi mà còn mang cặp kính râm to tướng, chiếm cả gần 1/4 khuôn mặt.
Khi chúng tôi đến trước mặt, anh Tùng chào hỏi và giới thiệu thì anh chàng kia cũng vừa gỡ cặp kính râm ra, tôi bỗng giật mình lùi lại miệng lắp bắp:
- Anh là…Thế Phương phải không?
Anh chàng cũng vừa nhận ra tôi:
- Ồ! Cô Bích Liên ở Cần Thơ chứ gì! Mấy năm rồi mà Liên không thay đổi lắm, còn tôi…
- Tôi nhận được anh chứng tỏ anh cũng không già thêm đâu.
Anh Tùng nói:
- Hay quá, không ngờ là người quen xưa.

Bốn người chúng tôi cùng vào trong phòng trà. Anh Tùng và chị Phượng cứ tíu tít kể lể với nhau vô tình đẩy tôi phải trò chuyện với Phương. Chuyện ngày ấy, dù có một chút bâng khuâng thoáng qua hồn nhưng tôi cũng đã quên rồi con chim xanh chỉ dừng chân chốc lát trên một nhánh cây nhỏ để ngắm trời mây rồi bay đi. Giờ gặp lại Phương trông anh phong trần dày dạn hơn, đôi mắt đăm chiêu như có chút chán nản, muộn phiền. Anh nhìn tôi:
- Gặp lại Bích Liên tôi mừng lắm. Bích Liên vẫn còn đi học chứ? Có còn đi hát thêm vào buổi tối không?
- Dạ, Liên không còn đi hát nữa để dành thì giờ học hành vì Liên đang học Đại Học Sư Phạm. Anh Phương có gì vui không?
Trông anh già dặn và buồn hơn trước.
- Liên nói đúng, tôi đang buồn vì người yêu vừa đi lấy chồng. Ngày trước khi tôi muốn làm bạn với Liên thì Liên lạnh nhạt hờ hững, tôi cũng không có dịp để bồi dưỡng tình cảm thêm với Liên. Sau đó tôi quen một người con gái khác ở Sàigòn và chúng tôi yêu nhau được hơn một năm rồi. Nàng học trường Régina Pacis, con nhà giàu, có lẽ vì vậy mà gia đình nàng chê lính như tôi nên cuối cùng thì tôi đành hát bài “Sayonara” để tiễn nàng về chốn cao sang. Giờ tôi chỉ còn tìm vui với máu lửa sa trường thôi.

Tôi nhìn anh, một chút xót xa thương cảm:
-Xin lỗi anh, ngày đó không phải Liên chê anh mà vì Liên còn nhỏ, còn bổn phận với gia đình. Hơn nữa Liên sợ làm người yêu của lính, lính cứ đi biền biệt, liệu mình có giữ nổi không? Nhưng bây giờ nhìn lại thấy chung quanh toàn là lính, bạn bè ai cũng có người yêu là lính cả nên Liên cũng… bớt sợ rồi.
Phương cười có chút giễu cợt:
- Thế bây giờ Liên có dám làm người yêu của lính không?
Biết Phương chọc mình tôi cúi đầu lí nhí:
- Cũng phải xem là ai, có hợp tánh tình với mình không chứ anh.
Phương gật gù:
- Câu trả lời thật khôn ngoan. Liên à, mình có thể làm bạn không? Tôi chưa dám nói tới chuyện xa xôi, chỉ làm bạn bình thường để an ủi, chia xẻ vui buồn với nhau thôi.
- Được chứ anh. Chúng mình chả là bạn từ ngày trước rồi sao?
- Ừ nhỉ, Liên đã xem tôi là bạn rồi mà. Liên à, tôi có thể gọi Liên bằng “ em” được không, Liên nhỏ tuổi hơn Phương nhiều.
- Dạ, cũng được. Coi như anh là anh trai của Liên vậy.
Phương nheo mắt:
- Cô nầy gớm thật, định gài anh vào thế kẹt phải không? Anh không sợ đâu, lính Nhảy Dù thứ thiệt đó nha!
Cả hai chúng tôi cùng cười lớn. Chị Phượng và anh Tùng nhìn sang ngạc nhiên vì sự thân mật của chúng tôi. Từ trên sân khấu giọng một người nam ca sĩ thật ngọt ngào, trầm ấm, nồng nàn với bản “ Love Story”.
“ Where do I begin, to tell the story, of how great a love can be.
The sweet Love Story, that is older than the sea….
….. There’d never been another love, another time.
She came into my life and made the living fine.
She fills my heart, she fills my heart.
With very special things, with angel songs, with wild imaginings, she fills my soul, with so much love…”
Phương nhìn vào mắt tôi và nói nhỏ “ you fill my heart”. Tôi quay mặt chỗ khác:
- Cái anh nầy, giỡn hoài.

Nhưng rồi suốt những ngày đi phép của Phương, anh cứ quấn quít bên tôi. Anh đưa tôi đi xem phim ở Rex, Đại Nam hoặc vào hẻm bên hông rạp Casino ăn các món ăn miền Bắc. Có những chiều đứng trên bến Bạch Đằng nhìn những chiếc tàu Hải Quân rời bến, anh mơ ước được lướt sóng ra khơi như những chàng thủy thủ. Những lần ngồi bên nhau trong quán kem Lan Phương hay Givral anh kể cho tôi nghe về cuộc đời chinh chiến của anh, những vui, buồn , gian khổ, hiểm nguy, những trận đánh ác liệt anh đã tham dự. Anh kể về những sự hy sinh đầy dũng cảm của bạn bè ngoài sa trường, sự đau đớn, xót xa và nỗi uất hận khi nhìn đồng đội gục ngã… Nghe anh kể tôi hối hận vì ý nghĩ sai lầm về lính trước đây của tôi. Tôi không còn sợ lính nữa và cảm thấy hình như gần gủi với anh hơn. Nhà anh ở trên đường Trần Quang Khải -Tân Định, anh dẫn tôi về nhà giới thiệu với Mẹ anh, Mẹ anh có vẻ mến tôi lắm làm tôi thật ngại vì bà tưởng tôi là người yêu của anh.

Rồi anh trở lại với núi rừng, với những trận chiến ngoài kia còn tiếp diễn, tôi quay về nhà nối tiếp những ngày dài thầm lặng bên sách vở. Kỷ niệm của những ngày bên nhau đã làm tâm tư tôi bắt đầu thay đổi, tôi biết buồn bã bâng khuâng nhìn chiều nắng nhạt, biết thao thức thâu đêm sau những giờ miệt mài học hành, biết ưu tư lo lắng khi nghe tiếng súng vọng về từ xa xa, và cảm thấy một chút nhớ nhung ai đó. Những lá thư liên tiếp bay về từ chiến trường với những thương mến, quan tâm đã tôi làm tôi gục ngã trước tình yêu của anh, tôi không thể phủ nhận tình cảm của mình được nữa. Rồi từ đó thư đi, thư về ngày càng nhiều hơn đã khiến tình cảm chúng tôi thêm đậm đà, gắn bó. Tôi đã trở thành người yêu của lính từ đó.

Chuyện tình của chúng tôi kéo dài gần hai năm mà Phương vẫn chưa về phép để thăm tôi. Chiến trường sục sôi máu lửa, những tin tức về anh tôi chỉ được biết qua những cánh thư viết vội vã. Đơn vị anh được điều động đi khắp các mặt trận như: Kontum, Pleiku, Quảng Trị, Khe Sanh, Lao Bảo… Đêm từng đêm tôi âm thầm cầu nguyện cho anh được bình yên nơi tuyến đầu trận địa. Nhớ nhung, lo lắng từng ngày cho chàng nhưng tôi không biết phải làm sao. Và một lần đó, lần duy nhất trong đời, tôi đã đi đến nơi dừng quân của chàng, cũng là chuyến đi định mệnh đời tôi khi chàng báo tin cho tôi biết chàng đang đóng quân ở Tây Ninh. Tôi đã hỏi thăm và dò dẫm đường đi, tôi bất chấp dư luận, lén cha mẹ, nhất quyết phải gặp chàng cho cả hai vơi thương nhớ. Vào thời bấy giờ những con đường quốc lộ thường bị VC đắp mô, gài mìn để phá hoại làm cản trở sự lưu thông của dân chúng và những đoàn công-voa chuyển quân tiếp viện đến các mặt trận của quân đội ta. Ngày đó tôi đang đi trên chuyến xe đò từ Cần Thơ về Sàigòn, vừa đến quận Cái Bè thuộc tỉnh Định Tường ( Mỹ Tho) trên quốc lộ 4 thì chiếc xe đi trước xe tôi bỗng ngừng lại thình lình vì có các anh binh sĩ địa phương ra chận lại bảo rằng phía trước có mìn, các chiến sĩ đang lo gỡ mìn để cứu đồng bào.

Bác tài xế xe tôi trong lúc hoảng sợ, hấp tấp gài thắng thế nào làm chiếc xe bị lật ngang, lăn mấy vòng rồi rơi xuống đám ruộng khô bên đường. Kính xe bị bể nát văng vào hành khách gây thương tích rất nhiều người trong số đó có tôi. Sự việc xảy ra đột ngột làm tôi kinh hoàng, hãi hùng không còn biết gì nữa, chỉ biết mặt tôi đau buốt, máu chảy đầm đìa. Người ta đem tôi ra khỏi xe và đưa các bịnh nhân chúng tôi ngược về bệnh viện Vĩnh Long vì không thể đến Mỹ Tho được. Lúc đến bệnh viện, bác sĩ khám xong tôi mới biết là mặt tôi đã bị nhiều vết thương do miểng kính xe cắt. Ôi! Một người con gái đang tuổi đôi mươi với bao ước mơ, bao mộng đẹp mà phải mang gương mặt đầy vết sẹo thì còn đau khổ nào hơn? Tôi chợt khóc lớn, khóc thật lâu với viễn ảnh hãi hùng trước mặt.

Khi tôi được xuất viện trở về nhà tôi đã bỏ dở học hành, trốn tránh bạn bè và cả Phương nữa, tôi sẽ không bao giờ cho anh gặp mặt. Sau một thời gian dài không được thư tôi, Phương đã hiểu lầm là tôi phụ bạc nên anh giận dữ viết cho thư tôi bằng những lời trách móc nặng nề. Tôi tan nát cõi lòng, đầm đìa nước mắt để vĩnh biệt một cuộc tình đẹp như mơ.
Sáu tháng sau tôi được chị Phượng báo tin, anh Tùng cho biết là Phương đã cưới vợ, một người mà anh Tùng bảo rằng Phương chưa hề quen biết, đó là con gái của người bạn mẹ Phương. Thế là hết, là mãi mãi chia phôi, là trọn đời xa cách, là muôn thuở nhớ nhung, kiếp người bạc mệnh, bất hạnh như tôi số trời đã định còn biết sao hơn? Em chúc anh hạnh phúc bên người tình mới Phương ơi! Em chưa bao giờ phụ anh. Nhiều đêm thức trắng bên chồng thư cũ, bên những tấm ảnh của người yêu tôi nghe một nỗi tái tê dâng ngập tâm hồn. Thuở ấy mình bên nhau cùng xây bao mộng ước, cùng hướng về một tương lai tươi sáng. Nhưng giờ đây trong bóng đêm lệ em tuôn chảy âm thầm anh nào hay biết. Tất cả đã xa rồi phải không anh? Em nhớ làm sao thuở ấy, thuở anh còn ngồi hằng đêm trong quán nhạc để nghe em hát:
“…Từ lúc vắng anh nên em thường buồn. Hay lang thang ngoài đường nhỏ không tên, hay ghi câu nhạc tình héo hắt với tâm tư sầu đau kể từ ngày xa cách nhau…”

Rồi thời gian cứ lạnh lùng trôi, tôi vẫn theo dõi bước chân anh trên vạn nẻo đường sương gió. Anh oai hùng, anh chiến thắng, danh vọng, tên tuổi anh càng sáng chói… còn tôi lu mờ trong bóng tối âm u.
Đến ngày tang thương mất nước, tôi theo người cậu di tản sang Mỹ. Tôi muốn trốn chạy những người thân quen, trốn chạy nơi đã cho tôi quá nhiều kỷ niệm để lòng vơi bớt não nề băng giá. Nơi đây tôi may mắn được quen với ông Anthony Saleno một bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ gốc người Italy, ông đã giúp đỡ chữa trị khuôn mặt của tôi. Sau cuộc giải phẩu, tôi rất ngạc nhiên và sung sướng: mặt tôi đã trở lại gần như bình thường. Tôi vui mừng viết thư báo tin cho Ba Mẹ biết để các người yên tâm, bớt đau khổ vì tôi. Nhưng có những chiều lái xe từ sở về nhà, nhìn con đường trước mặt chạy dài hun hút, nhìn dãy Big Bear Mt. mờ mờ ẩn hiện dưới chân mây, hoặc những lần lang thang một mình bên bờ Redondo Beach tôi bỗng thấy lòng nhớ anh da diết. Chính tôi đã hủy hoại tình yêu mình, chính tôi đã xô đẩy anh đến với người khác, giờ đây mọi việc đã lỡ làng, đã muộn màng làm sao tìm kiếm lại những ngày xa xưa ấy? Nước mắt tôi cứ mãi tuôn rơi trong những đêm sầu trăn trở, tôi đã sống với những ngày tháng buồn tênh và những kỷ niệm ngập tràn nhung nhớ.

Mười lăm năm sau, tôi đi dự lễ giỗ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Quân Khu 4. Trước đó ông từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, vì kính trọng, thương mến ông nên các anh trong Sư Đoàn 7 BB làm lễ giỗ cho ông hằng năm ở Nam California. Thật bất ngờ, trong số người tham dự tôi đã gặp lại người xưa như một cơn mơ. Tôi lặng người, run rẩy đứng nhìn anh từ xa, anh không thay đổi nhiều, già dặn, trầm tỉnh hơn, da dẻ hồng hào hơn ngày xưa nhưng ánh mắt vẫn buồn buồn như thuở nào tôi mới gặp, và chính nét buồn đó đã làm gục chết trái tim tôi.
Tôi tiến lại gần anh và hỏi:
- Anh Phương có còn nhận ra tôi không?
Phương nhìn tôi, mở to đôi mắt, miệng lắp bắp:
- Trời ơi! Lẽ nào tôi nằm mơ? Bích Liên đây sao? Có thật là em không?
- Anh vẫn còn nhớ tới Liên sao? Liên cứ tưởng thời gian đã làm nhạt nhòa hình bóng Liên trong anh rồi. À, sao anh lại có mặt ở đây? Anh là dân Nhảy Dù mà, đâu phải là đệ tử của ông Tướng Nam?
- Anh theo một người bạn đến thắp nhang cho ông Tướng, người mà anh rất ngưỡng mộ.Thôi chúng ta ra ngoài kia nói chuyện tiện hơn, anh có biết bao điều muốn nói với em.
Chúng tôi ra ngồi ở một băng ghế sau nhà và đã cùng nhau trút cạn nỗi niềm tâm sự. Phương cho tôi biết là sau khi tưởng tôi phụ bạc anh, anh tức giận muốn trả thù tôi nên đã cưới vợ.
Anh buồn bã trầm giọng:
- Anh đi biền biệt suốt tháng quanh năm nên người vợ chưa từng thương yêu của anh cũng chán nản bỏ anh theo người khác. Có lần anh được anh Tùng kể rõ hoàn cảnh em cho anh nghe, anh đã hối hận và viết cho em rất nhiều thư nhưng không có sự hồi âm nào (lúc đó tôi đã dời chỗ ở). Rồi trước biến cuộc 30 tháng 4- 1975 xảy ra vài ngày, anh từ Đà Nẵng chạy về tới Nha Trang gặp một người bạn là thuyền trưởng Hải Quân đang chuẩn bị di tản, anh đã ở lại và cùng đi với các anh em Hải Quân đó. Khi đến Hoa Kỳ anh ở miền Bắc Mỹ mấy năm, sau đó anh tìm cách về California sinh sống và hy vọng gặp người quen để biết tin tức về em vì ở Cali có nhiều người Việt Nam.

Anh được biết tin Tùng đã chết trong tù, còn chị Phượng thì vì quá nhớ thương chồng và nhiều gian khổ nên cũng đi theo Tùng sau một cơn bịnh nan y. Anh vẫn chờ em, vẫn luôn cầu mong có ngày gặp lại em, không ngờ chúng ta ở cùng trong một thành phố mà trời cao thật trớ trêu. Thời gian dài đăng đẳng không có tin tức gì về em cả, anh đã tuyệt vọng. Vì cần người nương tựa nhau để sống cho qua những ngày tháng buồn nơi xứ người nên hai năm trước đây anh đã kết hôn với một phụ nữ cùng làm chung sở. Anh không yêu cô ta nhiều nhưng nàng cũng là một người vợ hiền. Bây giờ gặp lại em anh hối hận sao mình quá hấp tấp….
Tôi ngắt lời anh:
- Thôi anh đừng nói nữa. Em biết đời em vô duyên, bất hạnh không dám mơ ước cùng anh chung bóng chung đôi.
Lòng tôi chợt thấy xót xa, cay đắng và đau đớn vô cùng. Bao nhiêu năm chờ đợi trong mỏi mòn tuyệt vọng, dù biết rằng chuyện tái hợp với người xưa không thể nào có nhưng khi nghe anh đã có người đàn bà khác tim tôi quặn thắt, tái tê.
Phương hỏi tôi:
- Anh nghe Tùng nói em bị tai nạn … anh thấy em đâu có gì khác lạ? Sự thật là thế nào?
- Anh còn tìm hiểu làm chi khi chúng ta đã không về cùng chung hướng đường. Đời đã chia hai lối rẽ, coi như một giấc mơ, tỉnh mộng rồi sẽ không còn gì tất cả.
- Em giận anh phải không? Sao không kể lại chuyện ngày đó cho anh nghe?
- Đúng thế! Em giận lắm. Anh đâu hiểu được cũng vì lặn lội đi thăm anh em mới bị tai nạn. Anh đâu hiểu được những nỗi đắng cay, đau khổ, tuyệt vọng mà em âm thầm chịu đựng, em cô đơn trong suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng. Em vẫn cầu mong được gặp lại anh, vẫn chờ, vẫn đợi…nhưng tất cả chỉ là bọt biển, và một cơn sóng lớn vô tình, tàn nhẫn đã vùi dập chúng không chút luyến thương…

Tôi cảm thấy thật tủi thân, bỗng dưng tôi oà khóc và ôm mặt chạy ra đường. Phương hốt hoảng chạy theo hết lời năn nỉ. Tôi không màng đến anh nữa, không cần nghe anh nói gì hết, tôi lên xe đóng mạnh cửa và gục xuống tay lái. Tôi cứ mặc cho nước mắt tuôn rơi, mặc cho con tim rên rỉ, đớn đau. Tôi hận anh, tôi oán hờn anh, tôi trách anh là kẻ bội tình, đã hai lần bóp chết trái tim vô tội đáng thương của tôi. Cả tuổi xuân của tôi vì ai mà phôi phai tàn tạ, vì ai mà tôi lưu lạc tha phương xa cha nhớ mẹ? Vì tình yêu khờ khạo của tôi thôi.

Tôi ngẩng đầu lên, lau khô nước mắt. Phương vẫn đứng bên ngoài xe miệng lẩm bẩm gì đó tôi không nghe. Tôi nổ máy cho xe chạy…hình như anh muốn chạy theo nhưng xe tôi đã rẽ qua con đường khác, một con đường rưng rưng buồn với hai hàng phượng tím giăng giăng. Hết rồi, một cuộc tình đã đi qua không bao giờ trở lại, có chăng là nước mắt và thương đau. Thôi, người ơi xin gĩa từ, bây giờ và mãi về sau trong tim tôi chỉ còn một Trần Thế Phương của ngày xưa thân ái, của hương xưa tình cũ. Nhưng Thế Phương đó đã chết rồi, chết trong ngày đất nước tan hoang, sụp đổ, và mối tình si của tôi cũng đã theo người thiên cổ…

Từ ngày đó tôi không bao giờ gặp lại Phương nữa. Chiều nay đứng nhìn cơn mưa ngoài trời dai dẵng, lê thê không dứt, tôi bỗng thở dài. Ngoài kia những chiếc lá vàng đang bay lả tả sau một cơn gió mạnh vừa thổi qua, không gian vẫn một màu xám ngắt… Tôi bước tới giàn máy hát đưa tay mở nhạc, những lời hát sao thật buồn như cuộc tình của tôi:
“Chuyện tình mười mấy năm qua, nay bỗng xót xa, những khi sầu giăng.

Còn đâu ngày quen biết nhau, đã yêu anh rồi, yêu cả cuộc đời.
Khi anh đã phụ lòng em… đã phụ lòng em, đau thương anh để lại, xót xa vô vàn, chỉ là bội ước những lời hẹn thề mà lòng tái tê…” (Tình Phụ)

VI VÂN .
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »


Image

NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN
Trần như Xuyên


Tối đó, tôi dẫn Đại đội tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi nắm Đại đội, sáng nay có cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người Đại đội trưởng tiền nhiệm,cũng là khóa đàn anh của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.

Ra trường được sáu tháng, từ anh Thiếu úy mới tò te ra trường, giờ đã lên nắm Đai đội, quả là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các binh chủng khác như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến..., có lẽ họ vẫn còn đang thực tập ở Trung đội hay là Trung đội trưởng mà thôi. Tôi nắm Đại đội hơi nhanh không phải vì mình tài giỏi gì mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn đi Bộ binh, các đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại đội xử lý là một Chuẩn úy, gọi là xử lý cũng không đúng vì trong cấp số coi Đại đội thì tối thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ quan quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt mới ra trường là các đơn vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46 thì một ông đàn anh khóa 16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về. Ông tên Hồ Trang, khóa 16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam vì dính dáng tới vụ Phật Giáo, ngoài đó ông đã là Tiểu đoàn phó nên vị Tiểu đoàn Trưởng cũng có hơi nể, quay quắt vì việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng như mắm tôm, ông nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí tình trong việc chỉ bảo cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng còn quá mới, quân trường dậy là một chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.

Cứ như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho xuống trung đội để thưc tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đã tàm tàm gọi là đủ lông, đủ cánh bay solo được, ông nói với Tiểu đoàn Trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho tôi, trước đó, ông đã thu xếp người Đại đội phó đi học để tôi coi Đ.Đ được danh chính ngôn thuận.

Nói về tối đầu tiên tôi dẫn Đ.Đ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân đêm cùng các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên đường tôi thấy có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, thường vụ đại đội, ông ta đi lính hồi tôi còn học Tiểu học:

- Ai vậy ông Hội, sao có đàn bà lẫn lộn vào đây?

- Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với Đại Đội lâu rồi, hồi còn Trung úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn xuống sống với chồng nó.

- Tôi thấy không được rồi đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công thì làm sao, thằng Nở chỉ lo cho vợ nó thì còn đánh đấm gì được..

- Thiếu uý đừng lo, vợ nó phụ nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên, biết tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu úy coi, hễ rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên nữa.

- Nhưng lỡ có chuyện gì làm sao mình báo cáo.

Hôm sau tôi gọi Nở lên trình diện:

- Sao cậu không để cho vợ cậu ở nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy, lỡ có chuyện gì thì sao?

- Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ nhỏ, không có nhà, em đã đưa nó về với má em rồi nhưng má em không ưng nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy cũng bất tiện, em biết chứ.

Nở thực hiện lời"em biết chứ", vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi chung trong toán đại liên nữa, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ ra bến xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải, lỡ có chuyện gì thì làm sao, rồi má con sẽ phải hòa thuận với nhau chứ.

Một hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó tôi có dặn anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu có đứa bị móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ thì Nở không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các Trung đội xem còn ai không biết chữ gom tất cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT mua tập vở về dậy họ học,"ngày mãn khóa", tôi kêu từng người đưa tờ Chiến sĩ Cộng Hòa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, Hạ sĩ Nở biết chữ từ ngày đó.

Có bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở mấy nhà quen trong xã, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.

Tôi mở lá thư của Nở ra đọc:

Long Xuyên, ngày...
Anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi mình hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái gì quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố chìu chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.
Em, Ba.

Một tuần lễ sau khi đọc lá thư của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại Đội đi đóng quân, tôi lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng quân, không biết anh Hai có trả lời, trả vốn gì không hay nhớ chồng lên đại, tôi thấy chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nhìn thấy, hoặc có thể biết tôi đã thấy nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ mà là bộ đồ trận rộng thùng thình, đầu còn đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang che mắt tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại liên quanh người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin gì cả, chẳng thà để tôi lờ đi như không biết còn hơn là hợp thức hóa cho khó xử.

Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh thường có ba Đại đội tác chiến, chia nhau vùng trách nhiệm họat động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ, đôi khi có cuộc hành quân cấp Tiểu đoàn thường là nhẩy trực thăng và xa hơn. Ba Đại đội trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đình Hà (ĐĐ1), Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3.

Một tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long Thượng về Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà(ĐĐ2) khoảng 500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc với Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rõ vì đã từng đóng quân ở đây, chắc chắn là địch tấn công từ ngã rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy băng lên vì tình người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch, nhưng vì không liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn,, tôi chạy lại cây đại liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc, tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng bóp cò, nhả từng loạt đạn về hướng địch.

Như tôi đã nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai chục tên, đợi mình ơ hờ, liều lĩnh tấn công.Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau, ĐĐ tôi hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng vì địch tụ ở đâu về, ém quân trong đám dừa lá dầy đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng tập trung ở đây, đợi đêm xuông có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Hòa, Đức Huệ rồi qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả.

Đám dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng trống, suốt vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba binh sĩ bị thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi máy bay ném bom còn là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế chiến, toàn là Garant, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của Hạ sĩ Nở cũng có tác dụng. Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một mình vác cây đại liên cả với chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là anh ta chạy nhào lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch còn lo núp. Khi đã rất gần mục tiêu và có gò đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được hiệu quả của nó, từng loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được, cộng thêm pháo và trực thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối, địch bỏ lại 6 xác và một số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể gì so với sau này khi SĐ 25 rời Long An di chuyển về vùng trách nhiêm mới là Tây Ninh, cuộc hành quân vượt biên năm 1970 cũng như ở Bình Long mùa hè đỏ lửa thì chiến trận lên tới cấp Sư đoàn, Quân đoàn.

Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận đánh và gắn huy chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng Tướng Chinh là người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng cấp, Nở chỉ được cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng huy chương vàng của các nơi khác(!)

Hai ngày sau ĐĐ còn được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả toán đang ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng, thấy tôi, chị có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá tôi có quyền, tôi sẽ tặng cho chị ấy một cái huy chương của buổi tối yểm trợ cho Vũ đình Hà.

Đầu năm 1968, tôi được đề cử theo học khóa Tác chiến trong rừng ở Mã Lai, tôi còn gắn bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một buổi sáng, đang đứng trước cửa ĐĐ thì vợ Nở bất chợt ngang qua, chắc đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại muốn thối lui nhưng không kịp, chị ta làm gạo bước tới và khi ngang qua tôi, vợ Nở mím môi lại và dơ tay chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc nhiên, trong một phản xạ, tôi chào lại, chào xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ: sao mình lại chào nhỉ, hóa ra ĐĐ này có một nữ quân nhân ư? Có lẽ chị ta thấy mọi người trong ĐĐ chào tôi nên khi gặp, chị cũng chào để cho giống như những người kia chăng! Tôi thấy hình như bụng vợ Nở có hơi to ra. Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ Hội thì ông ta bảo: có vẻ như vậy Trung úy.

Tôi gọi Nở lên:

- Vợ cậu có bầu phải không?

- Dạ, thưa Trung úy.

- Vậy thì cậu phải đưa cô ta về với bà già đi chứ, bầu bì rồi đi theo ĐĐ mãi sao được, phải lo sức khỏe cho cô ta.

- Dạ, em cũng tính tháng này lãnh lương xong, Trung úy cho em cái phép để em đưa nó về gởi bà già.

- Được rồi, lúc nào muốn cứ lên đây.

Hai ngày sau, Đại Đội được lệnh đóng quân đêm và tổ chức một cuộc phục kich ở sau lưng quán Năm Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự khuấy rối của VC nơi đây, tối đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ bọn chúng gặp toán phục kích, hai tên bị bắn hạ, số còn lại nhập qua toán kia thì đụng phải ĐĐ, nhờ toán phục kích nổ súng trước nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch bắn rất rát nhưng không chủ ý tấn công nên sau một hồi, chúng rút lui, hình như có chuyện gì xẩy ra ở cây đại liên vì tôi thấy nó nổ được một chập thì im bặt, tôi đảo nhanh vòng quanh tuyến phòng thủ, không có tổn thất nào, nhưng khi tới cây đại liên, tôi thấy có mấy người lố nhố, linh tính cho tôi biết có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng:

- Gì vậy Nở?

Không có tiếng trả lời, tôi bước vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ đang loay hoay băng vết thương nơi ngực chị ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào:

- Vợ em nó chết rồi Trung úy ơi!

Tôi ngồi xuống, chị ấy bị trúng đạn ở ngực, máu ướt đẫm cả cái áo trận, y tá Thọ đứng lên:

- Chết rồi Trung úy.

Tiếng thằng Năm trong toán đại liên:

- Súng bị kẹt đạn, thằng Nở kéo mãi đạn không lên, con Ba nó chồm dậy mở nắp cơ bẩm, em la nó nằm xuống nhưng không kịp Trung úy.

Tôi thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, từng chứng kiến nhiều cái chết nhưng lần này tôi thật xúc động. Thôi, chị Nở, từ nay chị hết cần phải tránh né tôi nữa rồi, sao tôi lại không cứng rắn hơn nữa với chị, giá tôi đừng tình cờ đọc được lá thư chị viết cho chồng, ừ, đáng lẽ tôi phải cứng rắn hơn, nhất định không cho chị đi theo ĐĐ như vậy.

Tôi báo với Thiếu tá Hải, Tiểu đoàn Trưởng về sự việc xẩy ra, ông có biết vợ chồng Nở, ông cho Sĩ quan CTCT/TĐ mua cái hòm, cấp cho Nở một cái xe Dodge để đưa vợ về quê mai táng. Tôi lấy hết tiền có thể có được, cả tiền quỹ ĐĐ đưa cho Nở, buổi trưa cuối năm, trời hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và quan tài vợ đi ngang qua ĐĐ, tôi đứng nghiêm chào như một lần chị đã chào tôi, chị chết đi mà cái hòm không có phủ cờ, không được mười hai tháng lương, không cả được lên cấp chỉ vì chị là NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN.

Mười ngày sau, Nở trở lại đơn vị, trước ít ngày tôi về SG để chuẩn bị đi học, Nở đào ngũ, có lẽ Nở không chịu được cái cảnh mỗi tối vác cây đại liên tới chỗ đóng quân mà không có vợ bên cạnh.

Chị Nở thân mến, 40 năm sau ngày chị mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện này về chị, chỉ là một sự tình cờ thôi, hôm nọ tôi đọc loáng thoáng đâu đó người ta nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một người không phải là quân, cũng không hoàn toàn là dân, gọi chị là gì nhỉ, chị lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến đấu như một người lính thực thụ và đã hy sinh.

Một lý do nữa để tôi viết về chị là vì mới đây, Cộng Sản Việt Nam đã làm ầm ĩ lên câu chuyện về Đặng thùy Trâm, một nữ cán binh CS xâm nhập vào Nam và đã chết ở chiến trường Quảng Ngãi, cô Trâm này chết ở đây nhưng không ai biết nắm xương khô vùi chôn nơi đâu, một người lính Mỹ hành quân qua nơi cô chết và nhặt được cuốn nhật ký của Đặng thùy Trâm, cuốn nhật ký này, như một kỷ niệm chiến tranh của người lính, anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau, nó mới được đưa ra ánh sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy Trâm ở Hà Nội.

Nhà nước CSVN chụp được cơ hội này cho xuất bản cuốn nhật ký, dĩ nhiên với nhiều thêm thắt để khơi động lòng yêu nước của đám thanh niên càng ngày càng rời xa chủ nghĩa CS.. Đặng thùy Trâm là một Bác sĩ, nhưng không hiểu có được học hành tử tế để thành một Bác sĩ không, tôi đã đọc được một truyện khi ở tù ngoài Bắc là có một anh công nhân được tặng danh hiệu anh hùng lao động vì đã phục vụ 15 năm trong phòng bào chế thuốc, và vì phục vụ hăng say và lâu như vậy, anh được thăng lên làm dược sĩ vì quen với công việc bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta mới đi học bổ túc văn hóa vì anh ta viết chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy, tôi không biết Bác sĩ Thùy Trâm này trình độ có khá hơn y tá Thọ của Đại Đội mình năm xưa không, hay cũng như mấy bà mụ vườn ở nhà quê.

Thưa chị Nở, cả chị và cô Đặng thùy Trâm này là hai người đàn bà ở hai chiến tuyến chết trong cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và độ tuổi cũng gần như nhau, nhưng hai cái chết mang hai ý nghĩa khác nhau, Thùy Trâm bị bắt buộc và tự đi tìm cái chết, còn chị, chị bị chết vì người ta ở mãi đâu vô đây tìm để giết chị, chị chỉ là tự vệ, chị không hận thù ai, không ai dậy chị oán thù, không ai tuyên truyền với chị về chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ và cũng không nhân danh chủ nghĩa để chém giết người khác, chị rất đôn hậu, còn cái cô Thùy Trâm kia đã từ ngoài đó vào đây, mang trong lòng sự thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi nhét, miền Nam này nào có cần ai phải giải phóng đâu, cho mãi nhiều năm sau này, người miền Nam vẫn khẳng định rằng họ không cần ai giải phóng cả.

Chị Nở có thấy điều buồn cười này không là trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm viết là sao quân Mỹ Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị Nở có thích chém giết ai không hay người ta vào đây tìm giết chị, từ ngoài đó lần mò vào tận trong này để tìm giết người ta lại còn hô hoán là sao người ta thích chém giết mình, thật kỳ lạ. Cũng trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm than phiền là phấn đấu đã lâu nhưng chưa được kết nạp đảng, đây cũng là lý do vì sao Thùy Trâm đi B, cố gắng trong công tác để chỉ mong được đảng kết nạp, chị Nở có biết cô ta mong được kết nạp để làm gì không, thưa là để có cơ hội được làm lớn, có đảng mới được làm lớn, có làm lớn thì mới có quyền và có tiền, bây giờ cả cái nước Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi nhau vơ vét tiền bạc của người dân, chúng giầu lắm rồi, hồi trước mỵ dân, chúng đem những người giầu có ra đấu tố, gọi họ là địa chủ, giờ thì ai đấu tố chúng? Thùy Trâm này nếu mà không chết và giả như có ô dù, giờ có thể là Bộ trưởng Y tế hay làm Giám đốc một bệnh viện nào đó thì cũng là những con giòi, con bọ đang tham gia đục khoét thân thể Việt Nam.

Cũng là cái chết nhưng chị chết trong vòng tay người chồng, có mồ yên mả đẹp, có nhang, có khói, tội cho cha mẹ cô Thùy Trâm, không biết nắm xương khô con giờ ở chỗ nào, họa chăng là cái bàn thờ với tấm hình cô ấy mà thôi.

Bốn mươi năm đã qua, bây giờ nhiều thay đổi lắm rồi chị Nở ạ, ông Thiếu úy trẻ năm xưa giờ là ông cụ già rồi, vẫn khó tính như trước và đang phiêu bạt nơi xứ người, Thượng sĩ Hội đã mất, Nở từ ngày đào ngũ tôi không gặp lại, chắc đã có vợ khác, xin được tạ lỗi cùng chị là đã không giữ được đất nước để rơi vào tay quân thù, thật không xứng đáng với sự hy sinh của chị, chúng tôi làm mất nước không phải vì hèn kém, không chiến đấu, mất nước vì bị phải mất nước.

Quên kể cho chị nghe,mấy tháng sau ngày chị mất, vũ khí được tối tân hóa, những cây Garant cổ lỗ sĩ được thay bằng súng M16, còn cây đại liên 30 nặng chình chịc chị biết đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ hơn, bắn nhanh hơn và không hay bị kẹt đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả đã qua, chúng tôi vẫn không bao giờ quên những người đã hy sinh vì mảnh đất miền Nam thân yêu, không bao giờ quên được những gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong việc chống lại quân Bắc phương xâm lược, hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.

Trần như Xuyên
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Image

24 giờ ở Liên Đội Chung Sự!

Đoàn Xuân Thu
Ngày 13 Tháng 8 năm 1971, trưa hầm hập nóng. Cái nóng của Sài Gòn, hừng hực mái tôn, như chảo lửa đun… sôi. Chiến tranh… khói… khói… lãng đãng mặt người. Trong căn nhà trọ trong hẻm 482 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, mình nằm chịu trận như một con cá mắc cạn, ngóc lên mà thở trong cuộc chiến khốc liệt nầy… thì nhận được thơ anh. Bức thơ nhầu nhĩ, bì thơ là một tờ giấy, người viết chỉ việc viết vào mặt sau, xếp lại, rồi đề địa chỉ ở mặt trước, có in tem sẵn, dán lại, gởi đi cho nó gọn mà những người lính từ mặt trận thường dùng để gởi về thân nhân là ba, má, vợ hay người yêu hoặc mấy đứa em thơ ngây còn ở hậu phương. Thơ anh viết từ ngọn núi Ba Hô nào đó, khoảng 17 cây số đường chim bay về phía Tây Bắc Quảng Trị, án ngữ đường 9 Nam Lào. Ai kiểm soát độ cao nầy là kiểm soát đường chuyển quân phía dưới. Và muốn tấn công, xâm nhập vào Quảng Trị thì phải tìm cách nhổ sạch quân trú phòng ở đỉnh Ba Hô! Anh nói những ngày ở đây thật là gian khổ và ác nghiệt nhưng gian khổ nhứt là đi lấy nước vì địch quân rình bắn sẻ. Anh nói: Gió Lào mùa nầy ác nghiệt cũng không kém mấy thằng Bắc Quân bên kia núi rình bắn lén. Bầu trời trên đầu, ngày lại ngày, không một đám mây, không mưa… khô khốc! Nước!

Đại đội 1, Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến của anh nằm trên đỉnh Ba Hô đó. Anh không biết ngày về vì hành quân liên miên như vậy và đóng chốt ở đây không biết đến bao lâu mới có đơn vị khác đến thay?

Thơ anh đến, chưa kịp trả lời, thì 21 tây, xác anh đã về tới. Người anh bà con bạn dì, trên chiếc xe Honda, mượn của thằng bạn học khác, chở mình lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Chạy trong cái nắng đổ lửa của Sài Gòn mà không nghĩ gì hết. Không tin gì hết. Đầu óc như cứng lại, khô khốc, đặc quánh lại… như cơn gió Lào vi vút, u u… thổi ngoài kia của dãy Trường Sơn.

Xe qua tượng Thương Tiếc, quẹo vào con đường vòng cung. Phía trên đồi là Nghĩa Dũng Đài sừng sững, rồi ngừng lại ở tiền sảnh của Nhà Quàn Liên Đội Chung Sự Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa! Không có ai chỉ dẫn. Như linh tính của tình anh em ruột thịt, mình đến ngay chiếc quan tài hình chữ nhựt màu xanh biển thẫm, đã phủ quốc kỳ. Đầu hòm có một chữ Hán không hiểu nghĩa là gì? Anh bà con đi chung đang học năm thứ hai Văn Khoa nói: “Chữ Thượng nghĩa là trên. Đầu nó nằm đây nè!”

Mặt trước quan tài có đính một tờ giấy. Trên đó viết vài hàng chữ: Cấp bậc: Thiếu Úy. Họ tên: Đoàn Xuân Hòa. Sanh ngày 14 tháng 9 năm 1949. Đại đội Phó, Đại đội 1, Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến. Tử trận ngày 15 tháng 8 năm 1971 tại Quảng Trị.

Nằm kế bên anh là Chuẩn Úy Lê Định, sanh năm 1952, sanh quán Huế, cùng chung đơn vị. Phía sau lưng anh là khoảng hai mươi chiếc quan tài nữa, chia làm hai hàng, có một vài cái thuộc Sư Đoàn 5, còn bao nhiêu đều là lính Đại Đội 1 với anh. Sau nầy, nghe kể lại, ngày 15 tháng 8 một trận đánh khốc liệt đã xảy ra trên đỉnh Ba Hô giữa bộ đội quân chánh quy Bắc Việt và Đại Đội của anh. Đại Đội bắn hết đạn, bị tràn ngập. Trận đánh xáp lá cà bằng lưỡi lê đã diễn ra và kết thúc bằng phi cơ phản lực đến ném bom. 24 chiến sĩ Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Cảm Tử tử trận! 24 chiến sĩ ngã xuống và bao nhiêu vành khăn tang đội lên đầu của thân nhân tử sĩ? Nào ai biết được con số chính xác. Nỗi đau người lính không còn đau nữa, đã đền xong nợ nước, mà nỗi đau của cha mẹ, vợ con, anh em của người chiến sĩ thì còn đau mãi đến tận bây giờ!

Quanh quẩn bên chân anh, nhang tàn rồi thắp nhang khác, nến tàn rồi đốt ngọn nến khác. Một cọng chân nhang, cắm vào đó một điếu thuốc thơm! Mời luôn những người đồng ngũ của anh mỗi người một điếu! Hà tiện chi nữa! Hết thuốc, lại dốc hết tiền trong túi ra, xuống câu lạc bộ nhà quàn mua cho anh hút trước khi xác thân các anh về với đất. Phía sau tiền sảnh là một căn phòng tối lù mù, chiếu sáng bằng những ngọn đèn tròn, vàng vọt. Rồi có tiếng trực thăng sơn chữ thập hồng, phầm phập xuống bãi đáp. Hai người lính cứu thương, quân y, bước ra, chuyển từ trong trực thăng xác một người lính thuộc Sư Đoàn 5, phù hiệu ngôi sao trắng và số 5 màu đỏ máu trên tay áo!

Xác tử sĩ nằm trên băng ca, một tay thòng xuống, còn đòng đưa theo nhịp đi của hai người lính đang khiêng… chứng tỏ anh vừa mới chết, xác hãy còn nóng hổi, chưa lạnh, nên chân tay hãy còn dịu nhỉu. Quần áo trận của anh vẫn còn ướt sũng và vấy đầy bùn đất! Xác anh được mang vào phòng và những người lính Quân Nhu thuộc Liên Đội Chung Sự xúm lại làm phần việc của mình trong im lặng. Trước hết dùng kéo cắt quần áo trận ra để tắm rửa cho tử sĩ lần cuối. Cái vòi nước xịt vào khuôn mặt giờ hơi tai tái nhưng vẫn còn lật qua lật lại được theo tia nước. Sau đó là lau khô xác, hớt tóc cho ngắn gọn, dùng phấn và son tô lại khuôn mặt, môi người tử sĩ để thân nhân nếu có lên nhìn mặt cho đỡ tủi. Mặc cho người lính vừa ngã xuống một bộ ka ki vàng còn hồ cứng. Công đoạn cuối cùng là đổi cáng. Hai chiếc thẻ bài đeo trên ngực tử sĩ được rứt ra. Một sẽ giao lại cho thân nhân và một gắn trên đầu hộc tủ, một trong khoảng ba trăm cái của phòng lạnh, để biết mà mở ra cho thân nhân lên nhận diện Năm giờ chiều thì Ba, Má dẫn mấy đứa em từ Mỹ Tho lên. Lúc đó thấy Má đi không nổi nữa. Chân như khuỵu xuống; phải tựa vào vai Ba mà bước! Mấy đứa em còn nhỏ quá nhìn quanh… ngơ ngác. Thấy Má như vậy, nước mắt mình bây giờ, trưa tới giờ có khóc được giọt nào đâu, mới trào ra như suối:

“Ảnh nằm đây nè! Má!”

Má chỉ kêu: “Con ơi!” Rồi khóc! Nghe thảm làm sao! Ba chỉ im lặng, không nói gì, mặt nhăn nhúm lại!

Đêm xuống, Ba, Má và mấy đứa em vô nhà khách nghỉ để bình minh, rạng sáng mai đưa xác anh về quê cũ. Mình không ngủ được, mặc chiếc áo ba-đờ-xuy cho đỡ lạnh. Trên đồi, gió nhiều quá, thổi u…u. Mình ngồi bó gối, dưới chân anh. Nhang tàn thắp khuya. Thuốc tàn lại đốt. Tiếng con vạc sành bám trên nóc sảnh lâu lâu lại rơi xuống, đập cánh xè xè, nghe như hơi người chết từ những chiếc quan tài chập chờn ánh nến, thoát ra.

Nhìn lên đồi cao nơi mộ ông Tướng Đỗ Cao Trí đèn thủy ngân sáng choang. Nhìn xuống dưới, những hàng bia mộ người chết trận… lặng im… chìm trong tối. Dọc đường từ nhà quàn vào khu gia binh của Liên Đội Chung Sự, những mảnh ván quan tài đang đốt dở, cháy leo lét trong gió. Những mảnh ván quan tài đang cháy dở là do việc thân nhân mướn những người thầu tư nhân rửa xác tử sĩ lại để còn nhìn mặt lần cuối. Hòm cũ bỏ đi, sau đó xác được đặt vô cái hòm kẽm mới, hàn chì lại để ngăn mùi tử khí không thoát được ra ngoài, có người nằm lại nghĩa trang cùng đồng đội, có người được mang về quê an táng.

Ba không muốn khui nắp quan tài anh ra nữa, không phải sợ tốn tiền. Mà ba sợ ảnh chết như vậy chắc không còn nguyên vẹn gì… mà nếu Má nhìn thấy thì làm sao chịu cho nổi!

Hai là hy vọng người tử sĩ nằm đó không phải là xác của con mình. Một hy vọng hão huyền là có thể ngày nào đó anh sẽ về, gặp lại Ba, gặp lại Má chăng? Rõ ràng hy vọng đó chỉ là ảo vọng; dù vậy Ba vẫn còn ráng nắm níu, ráng mà bám víu theo?!

Sáng hôm sau, một bán tiểu đội lính, 6 người, ông Trung Úy già, Trưởng Hậu Cứ Tiểu Đoàn chỉ huy và chiếc GMC mười bánh đến! Những người lính kê vai, vác, đưa chiếc quan tài lên xe! Và anh về quê cũ. Tiếng kèn đồng nghe u uất. Trước đầu xe có tràng hoa cườm và băng vải tím.

Người yêu anh, chị Loan, y tá Bệnh Viện Lê Hữu Sanh của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nức nở: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!” lúc di quan! Tình nồng thắm của anh chị như bọt nước đã đành tan theo vận nước sau đó.

Lại theo xác anh. Xe qua những đường phố Sài Gòn nhộn nhịp. Người lính tử trận… lẳng lặng đi qua. Có người dừng lại, chào kính xác người chiến sĩ. Có người dừng lại, ngả nón cúi đầu! Đa số vẫn tiếp tục đi. Và xe chở xác vẫn đi!

Mang anh về lại quê nhà, Mỹ Tho… nơi, anh vì nước phải bỏ nó mà đi chỉ mới có 4 năm!

Mình không nghĩ được gì hết! Cuộc chiến tranh nầy ai gây ra ư? Tại sao vậy? Làm sao cắt nghĩa được tham vọng của một lũ điên? Chỉ biết một điều là một thanh niên mới vừa xong trung học là lên đường nhập ngũ, từ Mỹ Tho ra tận Miền Trung gió Lào khô khốc thổi, rồi ngã xuống ở Đỉnh Ba Hô nào đó của Quảng Trị để ngăn chận Bắc Quân tràn vào thị xã.

Ngày 25 tháng 8, ôm tấm di ảnh của anh, thằng em kế, thứ năm, nối bước theo sau, trên hai tay là chiếc gối nhỏ, màu vàng viền đỏ, màu cờ, có cặp lon trung úy và chiếc bảo quốc huân chương đệ ngũ đẳng kèm anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, đưa anh đến huyệt mộ! Thòng dây đưa quan tài anh xuống kim tĩnh mà mấy ông thợ hồ vừa mới xây xong, xi măng chỉ vừa kịp khô nước.

Ba loạt tiếng M-16 bắn chỉ thiên, chào vĩnh biệt người chiến sĩ.


Lại tiếng kêu khóc của người yêu anh ở giờ hạ huyệt: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!”

Đất lấp lại! Và năm ấy mình vừa 20 tuổi. Ngày chôn anh, ngày 25 tháng 8, là ngày sinh nhựt của mình!

Đoàn Xuân Thu
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Năm Năm Bến Cũ
Trần Như Xuyên

(Kính tặng hương hồn cố Trung Úy Lê Đình Long, K21 Võ Bị Đà Lạt )
Vầng trăng từ độ lên ngôi
năm năm bến cũ em ngồi quay tơ

( Huy Cận )
Nguyện bước xuống xe, trời đã về chiều, Đà Lạt đang giữa mùa đông, chưa tối mà thành phố đã mơ màng như sương khói phủ, Nguyện co ro cài lại chiếc áo len mà từ lúc xe ra khỏi Blao nàng chỉ khoác hờ trên vai, bến xe hơi vắng, có lẽ chuyến xe của mình là chuyến cuối cùng từ Sài Gòn ra, nàng sách chiếc va li lững thững bước đi.

Nguyện cũng không hiểu sao giờ này mình lại ở đây, mới mấy ngày trước thôi, dù những khẩn khoản của Long mời nàng lên dự lễ mãn khóa của chàng, Nguyện vẫn giữ ý định là sẽ không đi, Nguyện ngại vì chưa bao giờ nàng đi xa một mình. Vậy mà…chả là tuần trước buổi chiều đi làm về, nàng có thói quen ngày nào cũng vậy, thả bộ dọc theo đường Tự Do đầy lá me, đúng là con đường có hàng cây lá xanh gần với nhau. Nguyện thích con đường này từ hồi còn đi học, giờ, từ ngân hàng nơi nàng làm việc, Nguyện đi bộ dọc suốt con đường, tới Bưu điện, nàng chờ xe bus để về Đa Kao.

Hôm đó, đang ngang qua cái công viên xéo La Pagode ngó qua, buổi chiều còn chút nắng, hình như trời sắp mưa, một cơn mưa cuối mùa còn sót lại. Nguyện bước trên con đường sỏi nhỏ, gió thổi tung bay mái tóc, nàng đưa tay giữ lại, Nguyện chợt nhớ lời Long nói:” em lên đây với anh, gió sẽ mừng vì tóc em bay đó”, cái anh chàng Như, bạn của Long còn chêm vào:” cả thành phố này cũng sẽ mừng vì tóc Nguyện bay nữa!”, Nguyện mỉm cười nhớ tới sự lém lỉnh của họ, "lính mà cũng bầy đặt lãng mạn".

Nguyện cúi nhặt một chiếc lá trên lối đi, mình cũng lãng mạn đấy thôi, hay là tại Long, hay mình đang nghĩ tới chàng? Mấy hạt mưa bắt đầu rơi, Nguyện bước vào một mái hiên đứng núp, ngắm nhìn những hạt mưa trên lá me, Nguyện nghe trong lòng như có tiếng hát:” em bước chân qua thềm, mưa vẫn rơi êm đềm…”nàng nghĩ thầm: lòng mình cũng êm đềm quá chứ phải không, vậy sao mình không lên thăm Long và dự lễ mãn khóa của chàng! một quyết định bất chợt như cơn mưa bất chợt ùa đến.

Đâu phải tại cơn mưa- Nguyện đỏ mặt- nếu không là tình yêu!

*****

Long quen Nguyện trong một dịp tình cờ, hôm về Sài Gòn diễn hành Quốc Khánh cuối năm thứ nhất, ghé thăm người anh thì gặp Nguyện ở đó, Long đi với Như, một người bạn thân cùng khóa. Nguyện làm chung sở với người chị dâu, hôm đó nàng tới để tập hát cho buổi liên hoan tất niên.

Long, Như ngồi nói chuyện với người anh, Nguyện và người chị hát nho nhỏ: vầng trăng từ độ lên ngôi, năm năm bến cũ em ngồi quay tơ, em ngồi quay tơ….

Chị đang hát chợt ngừng lại:
– Long, chú thấy tụi này hát có đúng không?
Long cười:
– Em biết gì về hát với hò, chị hỏi thằng Như này này, nó là trưởng ban văn nghệ của trường đó.
Chị quay sang Như:
– Vậy hả, sao, Như thấy thế nào? tụi này chỉ hát thôi, còn đám khác múa, không biết có ra gì không..
Như đáp:
– Nếu thế chị phải phối hợp với mấy người múa nữa chứ, lời hát và động tác múa phải ăn khớp với nhau, còn bài hát thì chị và cô Nguyện phải luyến láy cho rõ thì mới thấy được cái guồng tơ đang quay.
Như với lấy chiếc guitar để cạnh đó:
– Nào, chị và cô Nguyện hát đi, tôi chỉ thêm cho.
Đấy, Long gặp Nguyện trong trường hợp như thế, thực ra từ lâu, anh chị cũng muốn giới thiệu Long với Nguyện nhưng chưa có dịp. Nguyện còn trẻ, dáng dấp như một nữ sinh hơn là một người đi làm, mái tóc xõa dài, làn da trắng mịn là điểm nổi bật nơi Nguyện. Hôm sau, anh chị mời Long và Như tới nhà ăn cơm và dĩ nhiên có cả Nguyện, lúc ngồi uống nước, người chị kéo Như ra một chỗ làm như có điều gì hỏi, để mặc Long cùng Nguyện, sự sắp xếp như thế dù có vẻ như vô tình nhưng cũng đủ cho Nguyện hiểu. Nguyện hồn nhiên hỏi Long:
– Sao Nguyện thấy các anh ăn mặc khác với các người lính khác vậy, ở Sài Gòn này, Nguyện chỉ toàn thấy các ông lính mặc quần áo xanh hoặc rằn ri thôi, đằng này mầu kaki, áo bốn túi, lại có cầu vai mầu đỏ nữa.
– Thế Nguyện thấy xấu hay đẹp?
– Dĩ nhiên là đẹp rồi, không phải nịnh đâu, trông các anh có vẻ thư sinh hơn, không dữ dằn như mấy ông kia.
– Đây là bộ dạo phố mùa hè, tụi anh nhiều quần áo lắm, càng nhiều càng khổ, còn dữ dằn thì làm gì có lính nào dữ dằn.
– Thật đấy, trước kia Nguyện cứ thấy mấy ông lính là Nguyện thấy thế nào ấy, không hiểu vì sao.
– Nguyện nói trước kia thì như vậy, thế còn giờ thì sao?
– Anh khéo cài người ta, thôi được cũng cứ nói, nhưng một lần nữa, không phải nịnh đâu, các anh nói chuyện hay hơn, có vẻ hiền hơn, và – Nguyện cười khúc khích – bảnh bao hơn.
Long nói như mời:
– Vậy thì mấy ngày nữa, anh đi diễn hành, Nguyện đi coi đi, sẽ thấy tụi anh còn bảnh bao hơn thế này nhiều.
– Nguyện biết chỗ nào đâu mà coi.
– Nguyện tới đây đi với anh chị Thanh, anh chị ấy cũng đi coi, chắc Nguyện sẽ không nhận ra tụi này đâu vì trông ai cũng giống ai, khó mà nhận ra.

Nguyện chỉ có hai chị em gái, không biết tí gì về lính tráng, bố là công chức bộ tài chánh. Sau ngày diễn hành, Long chỉ còn có bốn ngày nữa phải trở về Đà Lạt, chưa có gì là rõ ràng cả nhưng bốn ngày còn lại đó, họ gặp nhau thường hơn, Long đưa Nguyện đi chơi để có dịp tìm hiểu hơn về nhau, có những điều không cần phải nói, cả hai cùng nghĩ như vậy, nhưng buổi cuối cùng, khi Long nhắc
– Mai anh phải về Đà Lạt rồi.
Mắt Nguyện chợt thăm thẳm, bàng hoàng, Nguyện không muốn Long cho mình là vội vàng, dù quen biết nhau chưa được bao lâu nhưng những lần nói chuyện, Nguyện mơ hồ thấy nhen nhúm trong mình một tình cảm nào đó, rất nhẹ nhàng, nàng thấy vui những lúc có Long, ánh mắt nhìn nhau mà họ hiểu chẳng cần phải nói nhiều.
Long hỏi như một lời ướm:
– Chắc chỉ sau ngày mai thôi, Nguyện sẽ quên tụi này ngay mà, dù sao thì cũng cám ơn Nguyện đã cho anh những ngày thật vui, về lại Đà Lạt, anh sẽ đem theo biết bao kỷ niệm đẹp.

Trong một cử chỉ bất ngờ dù nhủ lòng đừng để Long hiểu lầm mình là người quá vội, Nguyện cầm tay Long áp lên má mình, một điều đó thôi, không cần phải nói gì cả mà như là đã nói rất nhiều, có phải thế không anh – Nguyện nói thầm – mưa vẫn rơi êm đềm, và lòng em cũng rất êm đềm.

Tết năm đó, Long được về phép 15 ngày, giờ thì không còn gì gọi là quá vội để bầy tỏ tình cảm cho nhau. trong những lần đi chơi, Long thường dẫn Nguyện vào Givral:
– Hồi còn đi học, anh cùng bạn bè hay ngồi ở đây ngắm các cô làm ở ngân hàng về, tà áo dài đồng phục làm mát cả đường phố.
– Hóa ra anh đã để ý đến em từ hồi nào, đùa vậy chứ lúc đó em vẫn còn ở mãi đâu đâu, em thì chiều nào làm về cũng ngang qua đây, đi suốt con đường Tự Do này để nhớ đến anh, có lần chị Thanh trông thấy em gọi mà em cũng chẳng nghe thấy, hôm sau vào, chị trêu quá trời.
Long nhìn Nguyện nồng nàn và nàng cũng vậy.
– Chừng nào anh mãn khóa?
– Tháng 11, cuối năm.
– Rồi anh ra mặt trận?
– Anh ra đơn vị chứ không phải ra mặt trận.
– Anh ạ, em mới đọc cuốn “Đêm nghe tiếng đại bác” của Nhã Ca, em sợ quá, sao lại có chiến tranh để làm gì nhỉ?
– Có gì đâu em, đâu phải ai cũng vậy, đừng nghĩ vẩn vơ, tôi đứng lên, mình dạo phố một lát.
Những ngày phép qua nhanh, họ có nói với nhau về tương lai, tuy chỉ mơ hồ. Long nói với Nguyện là sau ngày ra trường, nếu chúng ta còn nghĩ đến nhau, chúng ta sẽ chính thức sống chung, Long thấy Nguyện run lên trong tay mình.

*****
Ba người ngồi trong một quán cà phê nhỏ cuối dốc Duy Tân, Long rối rít:
– Sao em lên mà không cho anh hay, anh cứ nghĩ lễ mãn khóa này anh sẽ chán chết, thằng Như còn có bà cụ nó lên nữa là.
– Vậy hả, cụ đâu rồi Như?
– Bà đang trong nhà người quen, mấy hôm nay thằng Long cứ đòi đưa cụ đi chơi, giờ thì chắc thôi rồi phải không Long!
– Em, tụi anh lúc này rất bận, vừa tập lễ mãn khóa, vừa tập vở kịch, sẵn có người quen của thằng Như ở đây, anh nhờ họ dẫn em đi chơi, tuần sau mãn khóa thì anh hoàn toàn thong thả.
– Eo ơi, trông các anh sao mà đen thế, hết đẹp trai rồi, sao em lại quen với mấy ông chà và này nhỉ.
– Tụi này mới ở Dục Mỹ về chưa được bao lâu, đó là trung tâm tàn phá sắc đẹp mà Nguyện, không sao, tháng sau lại đẹp trai như thường, lúc đó ai cần ai không biết.
– Ông Như, Nguyện lên đây mà có thấy ai mừng vì tóc Nguyện bay đâu, ông chỉ khéo làm thơ, nghe Long nói ông biết làm thơ nữa hả, hôm nào làm cho Nguyện bài thơ đi.
– Long nó ngâm thơ cho Nguyện nghe nhiều rồi, cô còn cần thơ ai nữa.
Nguyện vỗ vỗ tay Long:
-Em nghe nói trên này có cà phê Tùng ngon lắm phải không? cho em lại đó đi.
– Không được đâu, chỗ đó toàn tụi anh không hà, em vào đó chẳng khác nào hoa lạc giữa rừng gươm.
Nguyện cười:
– Thì cứ cho em lại đó, các ông đen thui như thế này thì ai nhìn thấy ai, thế nào trước khi về Sài Gòn, anh phải dẫn em lại đấy đấy.
*****

Hôm mãn khóa, Nguyện đi cùng với mẹ Như vào trường Võ Bị, buổi lễ rất trang trọng và đông thân nhân tham dự, mẹ Như hỏi Nguyện:
– Cô có thấy thằng Như nó đứng chỗ nào không?
– Con cũng không biết nữa, trông người nào cũng như người nào, cả Long con cũng chẳng thấy đâu nữa.

Buổi lễ xong, Như đưa mẹ Như và Nguyện ra lại Đà Lạt, tối dạ vũ ở Palace, Nguyện theo Long và Như, líu ríu như cô gái nhỏ, tối nay, Nguyện mặc chiếc áo dài mầu vàng, khoác cái manteau mầu chocolat đậm, Nguyện cứ nhắc đi, nhắc lại:
– Nhớ nhé, em nhẩy không giỏi đâu đấy, đừng có mà "phăng" lung tung làm em té lăn quay ra là chết, bạn bè nó dậy em mới lơ tơ mơ thôi.
Lúc Long mời nàng, Long mới thấy Nguyện thực không nhẩy giỏi, chứng tỏ Nguyện cũng không đi chơi nhiều.
Rời Palace, đêm mát lạnh, Nguyện đi giữa Long và Như, gió khuya thổi bay tóc Nguyện, Như nói:
– Giờ thì Nguyện có thấy nhiều người mừng vì tóc Nguyện bay chưa?
– Có thấy gì đâu Như!
-Nguyện không thấy mấy đứa bạn tụi anh ngắm Nguyện quá chừng à, không có anh và Long thì phải biết.
Long đỡ lưng Nguyện:
-Em có đói bụng không, mình kiếm cái gì ăn nghe, tối nay em là "la plus belle pour aller manger" đấy.
– Ừ, em cũng thấy đói rồi, em đề nghị thế này, mình về thay quần áo, xuống phố đi ăn bụi ngoài đường một bữa, cứ ăn tiệm mãi phát chán.

Cả ba thay quần áo, lang thang ngoài phố ăn cháo khuya, hột vịt lộn…xong lại kéo nhau về cái quán cà phê dưới con dốc Duy Tân. Hai ngày sau, Đà Lạt vắng hẳn bóng dáng các Sĩ quan vừa mãn khóa, mọi người háo hức về với gia đình. Như đưa mẹ ra bến xe về lại Sài Gòn, còn chàng phải đi máy bay vì vấn đề an ninh. Long và Nguyện cứ giữ Như ở lại chơi với họ ít ngày nữa nhưng Như từ chối, để họ được tự do.
*****

Long và Như chọn cùng Sư Đoàn 25, mấy ngày phép còn lại, Long và Nguyện quấn quýt bên nhau, Nguyện đưa Long về giới thiệu với Ba, Má. Cùng tình yêu say đắm nhưng không làm chùn bước người sĩ quan trẻ mới ra trường, Long mang tình yêu đó ra đơn vị, những bỡ ngỡ ban đầu qua đi rất nhanh, Long dần vững vàng trong vai trò của một sĩ quan chỉ huy đơn vị tác chiến. Sau 6 tháng vừa là Trung đội Trưởng vừa là Đại Đội Phó, như đa số K21 ra BB lúc đó, đều nắm Đại Đội Trưởng. Năm 1967, Long An VC chưa nhiều, SĐ 25 nhận trách nhiệm bình định đúng với trên của khóa là ” Chiến thắng nông thôn”.
******

Long ngồi trên bờ ruộng, nheo mắt nhìn vào hàng dừa nước trước mặt rồi nhìn vào bản đồ để xác định mục tiêu, chỗ này, theo tin tình báo, địch tập trung tới cấp Đại Đội, hồi nãy đi ngang xóm nhà phía ngoài, Long thấy dân chúng hớt hải bồng bế nhau chạy ra phía đường lộ, chẳng cần phải hỏi chàng cũng biết tình hình như thế nào rồi.
Đám lá cao ngất rước mặt, che kín cả một vùng sông rạch, Long càu nhàu:
– Mẹ nó, xứ gì mà chỗ nào cũng là lá với lá, hôm nay có chuyện lớn đây.
Chàng gọi máy nói chuyện cùng Tiểu đoàn Trưởng, bộ chỉ huy TĐ đặt ngoài con lộ:
– Đại bàng có thấy dân họ chạy ra ngoài đó không, chắc tụi nó khá đông đấy.
– Tôi thấy rồi, xử dụng pháo thật nhiều rồi hãy cho con cái vào, tôi đã xin cả phi cơ cho anh.
Long quay sang sĩ quan "đề lô" đứng cạnh:
– Cậu kêu tất cả các khẩu pháo của Cần Giuộc, Cần Đước, Rạch Kiến ưu tiên cho mình, đọc tọa độ cho họ đi, hôm nay là em khô cổ đó em.
Long biết, nếu cho quân từ ruộng trống như thế này mà vào thì chỉ tổ làm bia cho địch bắn, còn tạt trái mà men theo rạch thì tiến rất chậm, còn bị mìn bẫy nữa.
Chàng gọi Đoàn, Trung đội Trưởng trực chính hôm nay, Chuẩn úy ra trường gần một năm, đánh giặc cũng ngon lành, bị thương mới về lại đơn vị;
– Cậu có thấy đám lá trước mặt đó không, tụi nó ở trong đó đó, tôi sẽ kêu pháo bắn rồi cậu cho mấy đứa nhấp thử xem sao.

Pháo từ Cần Đước bắn vào mục tiêu, từng loạt đạn nổ vang rền, khi pháo ngưng, năm người lính thuộc Trung đội Đoàn chạy băng lên phía trước, nước lấp xấp tung tóe dưới chân họ, khi còn cách đám lá khoảng 50 thước, họ đồng loạt khai hỏa, ngay lúc ấy, từ trong đám dừa lá, đạn VC bắn ra như mưa, cả năm người lính mất hút sau một bờ ruộng, không biết ai trúng đạn, ai không.

Tiểu Đoàn cho lệnh Long ngừng lại, sĩ quan ban ba gọi Long trên máy:
– Thẩm quyền chờ cho pháo bắn thêm nữa, sẽ có phi tuần lên cho mình.

Lúc sau, pháo từ ba, bốn phía bắn dồn dập vào mục tiêu, những thân cây dừa nước bị mảnh pháo chém bay tung lên trời, đám lá đã quang đi được một ít, đất bụi mù mịt, Long không biết có phá được nhiều hầm không nhưng chắc chắn là chúng có thiệt hại. Không chờ phi cơ, Long nói với TĐT cho mình lên thử, chàng gọi Đoàn cho Trung đội tiến lên, Đại Đội sẽ theo ngay sau. Đoàn dẫn Trung đội chạy ngang qua thửa ruộng, khôn khéo hơi chếch về phía trái một chút, mấy người lính đầu tiên đã bám được bờ rạch, không thấy địch phản ứng, Long cầm bản đồ, phất ĐĐ theo ngay sau Đoàn, khi Long còn cách con rạch khoảng 15 thước, một loạt AK tứ trong đám lá bắn ra, đang chạy, Long thấy như có một sức thật mạnh đẩy chàng bật ngược trở lại, Long vật xuống bờ ruộng, người lính mang máy chạy sau Long hốt hoảng la to:
– Y tá đâu, y tá đâu, thẩm quyền bị thương rồi!
Không, anh ta lầm, Long không bị thương, chàng đã không kịp nghe người lính gọi y tá, không cả kịp kêu lên hai tiếng đáng kêu nhất: Nguyện ơi. Khi người lính mang máy chạy tới ôm lấy chàng, một dòng máu từ thái dương thấm ướt cả áo anh ta, anh ta kêu lên:
– Trời ơi, ông thầy ơi!
*****

Sài Gòn, ngày…tháng…năm…
Như thân mến, vậy là Long chết rồi, chết thật rồi, Như có hiểu nỗi đau của Nguyện như thế nào không. Nguyện giờ là chiếc bóng của chính mình, em sợ quá, biết thế em không thèm đọc cuốn đêm nghe tiếng đại bác làm gì, nó đã ứng nghiệm vào em, biết thế cũng đừng quen Long để giờ em khỏi phải đau khổ, sao định mệnh khắc nghiệt quá. Như có biết không, gió đâu còn mừng vì tóc em bay nữa vì em đã cột tóc mình lại, cột cả trái tim mình lại. Như ơi, sẽ chẳng còn ai mừng vì tóc em bay nữa đâu.
Nguyện vẫn mỗi chiều đi lại con đường cũ, hàng me vẫn vậy, công viên vẫn vậy, chỉ có lòng em thay đổi vì chẳng còn gì làm em tha thiết cả, em giờ đây như rừng thu. Ngày xưa mỗi bước chân em còn quấn quýt với hình bóng của Long, giờ mất hết rồi, ngày xưa những chiếc lá me lăn tròn chia vui dưới chân em, giờ chúng lặng lẽ u sầu, em cũng lặng lẽ u sầu. Em nghĩ lại cũng chẳng hối tiếc gì sao lại gặp Long, anh ấy đã cho em bao là êm đẹp, hai mươi tuổi đầu em mới thấu hiểu thế nào là đau thương, trời bắt em đau thương quá sớm, Long mới ra trường chưa được bao lâu, em mới ngụp lặn trong tình yêu chưa được bao lâu.
Em không còn viết nổi nữa, chẳng lẽ than van với anh mãi sao, em sẽ cầu nguyện cho anh đừng bị như Long, em thấy thương những người như anh, như Long, thương tất cả những người ngày đêm cận kề với cái chết mà vẫn bình thản, chẳng hề than vãn, các anh thật lạ lùng, chưa bao giờ thấy các anh nói về những hiểm nguy mà các anh phải chịu đựng, các anh sợ những người thân lo âu chăng, các anh đã lựa chọn một cuộc sống, trời ơi, một cuộc sống mà cái chết có thể đến bất cứ lúc nào và Long đã bình thản đi vào nơi đó. Như ơi, em lại khóc nữa rồi, thôi em ngưng đây.

*****
Ba tháng sau ngày Long chết, Như mới có dịp về phép, chàng tới thăm Nguyện, khi ngồi nói chuyện, nàng nhìn Như đăm đăm như cố tìm lại một hình bóng nào.
– Anh có vẻ ốm đi, chắc hành quân nhiều lắm phải không?
– Cũng vậy thôi, ngày nào cũng là ngày hành quân cả, ngay cả lúc nghỉ dưỡng quân, ai nghỉ chứ anh có nghỉ đâu mà mập nổi.
– Anh khác hẳn ngày trước, ý em muốn nói lúc hãy còn trong trường Đà Lạt, mặc quần áo trận vào cộng với sự gian khổ trông có vẻ dầy dạn hơn, dạo còn sống Long về thăm em, em cũng thấy như vậy, các anh lạ lùng quá, không sợ chết à?
– Nói không sợ cũng không đúng, nhưng ngày nào cũng như ngày nấy riết rồi nó quen đi, rồi lại thấy vui nữa là đằng khác, em nhớ tụi anh là sĩ quan hiện dịch mà.
– Anh đưa em ra phố đi, lâu rồi, em chẳng đi đâu cả.

Như đưa Nguyện ra phố, nàng mặc lại cái áo vàng ngày nào ở Palace, lúc nói chuyện vẫn phảng phất nụ cười nhưng không còn tươi tắn như ngày xưa. Nguyện đòi Như đưa nàng vào Givral, nàng chọn cái bàn gần nơi cửa kính:
– Long và em vẫn thường ngồi ở đây.
Trầm ngâm một lúc, chợt Nguyện nói một câu rất mơ hồ:
– Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ, buồn quá hả anh.
Bên cạnh Như, Nguyện thấy thật gần gũi, nàng cảm tưởng như có Long bên cạnh, hai người là bạn thân, cuộc tình của Nguyện và Long, Như tham dự nhiều trong đó, Nguyện chợt giật mình, nàng thấy hai người như là một.

Buổi tối, Như đưa Nguyện vào vũ trường Tự Do, vũ trường này, cả ba đã từng vào đây nhẩy mấy lần hồi mới ra trường. Như kéo ghế, rót nước cho nàng, trong bóng tối, mắt Nguyện vẫn long lanh như đêm nào ở Palace, khi Lệ Thu xuất hiện:” ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi ” thì Nguyện chợt nắm tay Như, Như hiểu, không phải Nguyện cố ý, nàng đang xúc động, một cái nắm tay vô thức, Nguyện đang nhớ tới một kỷ niệm nào đó, khi bài hát hết, Nguyện hỏi Như:
– Sao anh không mời em nhẩy bản này
– Lệ Thu hát hay quá, ngồi nghe thôi, nhẩy nó phí đi.
Trong bóng tối, khi hai người đang dìu nhau giữa piste, Nguyện đã nép vào Như:
– Anh và Long thân nhau nên khi ở cạnh anh, em thấy có sự êm ấm lạ thường, may sao mất Long, còn anh như một chỗ dựa tinh thần cho em.
Nguyện định nói gì thêm nhưng nàng ngưng lại, có tiếng thở dài, Như thấy ươn ướt ở ngực áo, Nguyện đã khóc tự hồi nào.

*****
Năm 1970, đang tham dự cuộc hành quân vượt biên ở Kampuchia thì Như nhận được thư Nguyện:
…………....anh vẫn khỏe chứ, sao lâu quá anh không về thăm em làm chẳng có ai đưa em đi chơi cả, vậy chứ coi chừng có ngày anh về sẽ chẳng còn em để đi chơi nữa đâu, đừng giật mình, em nói thật đấy, đừng có cười. Để em kể anh nghe chuyện này, hôm nọ tới thăm mẹ anh, có lúc cụ nắm tay em nói: ước gì con là con dâu của bác, em thấy lòng xốn xang, đừng cười em nghe, em có xốn xang thì có gì là không phải đâu, em đã nói rồi mà, chẳng lẽ em cứ ngồi đếm thời gian để mà quay tơ mãi sao. Cụ bảo thằng Như cũng đã đến lúc cần có người bên cạnh. Anh có cần ai ở cạnh không hay cứ mãi ôm mộng công hầu khanh tướng. Tối ngủ nghe tiếng đại bác từ xa vọng về, cụ nói chỗ đó chắc là chỗ thằng Như đóng quân, em phải gạt ngang: không phải đâu mẹ, đấy là tiếng đại bác anh Long con vẫn còn tiếp tục gọi bắn lên đầu quân thù đó, anh Như thì chắc chẳng nghĩ gì tới ai đâu mẹ ạ. Em gọi mẹ là mẹ đấy, kệ, dù cho anh có không bằng lòng. Em nghe tin tức thấy tình hình chiến sự có vẻ nặng lắm, ráng giữ gìn sức khỏe, em vẫn hàng đêm cầu nguyện cho anh, nhớ về thăm em.

*****

Chiến sự trở nên sôi động khi Tướng Minh thay Tướng Trí bị tử nạn máy bay, đang từ chủ động, ta trở thành bị động, cứ lui dần, lui dần. Trận đầu tay của Tướng Minh là trận Dambe của TĐ 11 Dù, Dũng, K22A chết trong trận đánh này. TĐ Như vừa rút về gần Thiện Ngôn được hai ngày, chưa kịp nghỉ ngơi, chỉnh đốn thì được lệnh lên giải tỏa căn cứ Krek do TĐ 30 BĐQ đóng giữ đang bị bao vây, Th/Tá Thủy, K19 là TĐT bị tử thương, bạn cùng khóa với Như, Hoàng kim Truy(H21) là ban ba của TĐ này. Tại sao ta cứ co dần không còn như thời còn Tướng Trí, Thiện Ngôn bị cắt đứt, Dù đổ vào hành quân ở đây để khai thông quốc lộ 22 từ Tây Ninh lên, một NT khóa 20 của Lữ đoàn Dù bay trên CNC trúng đạn VC từ dưới bắn lên bị tử thương.

Đang lúc quay cuồng như thế, Như nhận được thư của Nguyện trong chuyến trực thăng tiếp tế, kèm theo một thiệp cưới.
Sài Gòn, ngày…tháng…năm 1971.
Anh thân mến, em biết anh cũng chẳng buồn khi nhận được thư này, Như ơi, người con gái của Huy Cận ngồi bên khung cửi để dệt tơ, còn em ngồi mãi với tháng năm để dệt nỗi buồn, thôi, em không thể ngồi mãi, bây giờ em đứng lên đây, ngồi mãi chờ anh mà anh có thèm đưa tay để đỡ em dậy đâu. Anh ạ, em cứ ước ao phải chi người bên cạnh em mãi mãi sẽ là anh, nhưng em biết anh chưa muốn thế, ở anh chưa có biên giới, anh còn lãng đãng như mây trời, em không thể ngắm mây cứ mãi trôi. Giả như anh có tội nghiệp mà nhận em, em biết sẽ làm vướng bận anh thôi, anh còn nhớ cuốn phim Cimaron không, anh là chàng lãng tử Glenn Ford, còn em sẽ là Maria Schell sầu muộn, những lần đi chơi với nhau, nhìn vào mắt anh, em đọc được như thế. Anh còn nhớ tối hôm ở Tự Do không, em đã khóc vì sung sướng khi nghĩ rằng thật may cho em khi mất Long còn có anh, nhưng em đã lầm.
Thôi anh nhé, mừng cho em đi, người em sắp lấy làm chồng cũng ở trong quân đội, ông ấy là Thủy thần mũ xanh, eo ơi, thủy thần gì mà không biết bơi, quăng xuống nước là chìm nghỉm. Em không muốn ông ấy là thần, là thánh gì cả, em chỉ muốn ông ấy đừng bỏ em như Long, đừng vời vợi như anh, trước đây cứ sợ những người lính nhưng giờ lại thật thương họ, mà bây giờ không lấy lính thì lấy ai hả anh, cả nước đi lính mà, không lẽ lấy mấy ông nhà đèn Chợ Quán!
Như nhớ về dự đám cưới em nghe, cho ta được thấy nhau lần cuối.
*****

Nhưng họ không thấy nhau được lần cuối như Nguyện mong muốn, Như không về dự đám cưới Nguyện được, cuộc chiến càng thêm mãnh liệt, cái hòa đàm Paris đổ thêm lửa vào các trận đánh. Mùa hè đỏ lửa, mấy tháng liền lăn lộn từ Bầu Bàng lên Chơn Thành, rồi suối Tầu Ô, khai thông Quốc lộ 13 để giải tỏa Bình Long, lá thư theo chàng cùng năm tháng, đôi lúc có phút rảnh rỗi, Như lại mở ra đọc, lãng mạn như một bài hát tiền chiến, mà là thư cứ dần vàng đi thật, cứ lấy ra, lấy vào mãi, mỗi lần đọc xong, Như lại thừ suy nghĩ: không biết Nguyện giờ như thế nào.

1973, hiệp định Paris được ký két, cứ ngỡ là hòa bình rồi nhưng lúc này đánh nhau còn hăng hơn bao giờ vì những vi phạm liên tục của VC. Ngưng bắn da beo, một từ quái lạ mà đánh nhau lúc này cũng quái lạ, có đụng thì pháo binh chỉ bắn ba trái thôi, hết đạn rồi, bây giờ chiến tranh theo kiểu nhà nghèo.

Như giờ là Tiểu Đoàn Trưởng, sau hiệp định Paris mấy ngày, chàng dẫn TĐ về bảo vệ Dầu Tiếng, một quận nhỏ lẻ loi, chung quanh là mật khu Dương minh Châu, Bời Lời, Tam giác Sắt…Giữa năm 73 Như được cái phép về thăm bà cụ đau nặng, một cái phép hiếm hoi cho một TĐT, thực ra cũng lâu lắm rồi, Như có biết phép tắc là gì đâu, chàng tìm lại Đa Kao thăm Nguyện, nhà đã dọn đi nơi khác, nhớ lá thư Nguyện viết: coi chừng có ngày anh sẽ không gặp lại em nữa đâu, quả thực, mình mất Nguyện thật rồi, sao trong ta nhiều mâu thuẫn quá.

Như vào Givral, ngồi lại cái bàn Nguyện vẫn thích ngồi, buổi chiều nắng đã nhạt, chàng hi vọng Nguyện đi làm về sẽ ngang qua đây, "em biết rằng sẽ không bao giờ giữ được anh", đúng đấy Nguyện, chính anh cũng không hiểu mình muốn gì, anh không ôm mộng công hầu khanh tướng gì cả, cũng chẳng có hoài bão chi lớn lao nhưng cuộc đời lính có nhiều bấp bênh, những bất trắc luôn chờ nơi tụi anh. Có mấy người làm ngân hàng ngang qua, không thấy Nguyện đâu cả.

Như đi dọc theo con đường Tự Do , những chiếc lá me lăn tròn như một điệu nhạc luân vũ, gió vẫn mừng vì tóc em bay đó chứ Nguyện, em vẫn còn trong sáng nơi anh, chỉ có anh là u mê, cái gì mất đi rồi mới tiếc.
Trở lại Givral ngồi nữa, người tài xế thấy tối mà chưa thấy chàng ra, ló cổ vào tìm, Như uể oải đứng dậy.

*****

Mười năm đi tù CS, cuối 88, Như vượt biên tới Úc, chàng không đi Mỹ vì có người em ở Úc bảo lãnh, nhờ vậy, như một phép lạ, trong một lần đi phố ở khu người Việt, Như gặp Nguyện, Nguyện sững sờ một lúc mới thốt lên được:
– Như, phải Như đấy không! trời ơi, em thật không ngờ.
Nguyện khác đi nhiều, dĩ nhiên, thấy Như nhìn mình đăm đăm, Nguyện cười:
– Em thay đổi nhiều lắm phải không anh, ba chục năm rồi còn gì.

Tóc Nguyện đã có sợi bạc, mắt vẫn ánh lên nét nghịch ngợm nhưng đã có vài vết nhăn. Nguyện đi cùng với một bé gái khoảng 4,5 tuổi, thấy Như nhìn đứa bé, Nguyện nói:
– Nó là cháu ngoại em đấy.
– Anh ấy đâu rồi Nguyện?
Mắt Nguyện chợt xa xăm:
– Em cũng không biết nữa, trong cuộc lui quân ở Đà Nẵng, không thấy anh ấy trở về, em có ra ngoài đó dò tìm nhưng không có tin gì cả, em có mỗi đứa con gái, đây là con của nó. Còn anh, được mấy cháu rồi, cuối năm 74, em đọc được tin vui của anh trên báo, cũng gan lì nhỉ, mãi tới lúc đó mới chịu lấy vợ, chị đâu?
– Bà ấy ở nhà.
– Hôm nào dẫn chị lại em chơi.
– Vâng, để hôm nào tôi sẽ dẫn bà ấy lại thăm Nguyện, tôi có kể cho nhà tôi nghe về Nguyện.
Nguyện cười:
– Thế anh có kể cho chị ấy nghe chuyện em đã khóc làm ướt áo anh không?
– Giờ Nguyện sống với ai?
– Em ở vậy một mình từ ngày anh ấy mất, giờ thì già rồi, hơn nữa đã hai lần để tang, một lần tang trong lòng, một lần tang trên mái tóc, em không lấy được Long nên Long vẫn nhiều hình ảnh đẹp trong em, em không lấy được anh (cười), anh vẫn đẹp trong em, giá mình mà lấy nhau, giờ biết đâu hai đứa đã chẳng ly dị từ hồi nào rồi (lại cười), tháng sau em sẽ về Việt Nam thăm đứa em gái, Nga đó, anh còn nhớ không? À mải nói chuyện quên mất, cụ như thế nào anh?
– Cụ mất lâu rồi, khi tôi còn trong tù.

Trước ngày Nguyện về Việt Nam, Như tới thăm, chàng đưa Nguyện một bài thơ:
– Gửi Nguyện, Nguyện yêu cầu tôi làm cho Nguyện một bài thơ hôm Nguyện lên dự lễ mãn khóa, còn nhớ không? hơn ba chục năm sau, giờ bài thơ mới làm xong, tặng Nguyện trước khi về Việt Nam.
Nguyện đọc bài thơ rồi ngẩng lên:
– Vâng em sẽ thắp dùm anh nén nhang cho Long, cho những người đã nằm xuống.

Ngày về Việt Nam, Nguyện đáp xe lên Đà Lạt tìm về kỷ niệm cũ, cũng là những ngày của tháng 11, chiếc áo len khoác hờ, lững thững sách chiếc va li, nàng thấy mình một cô Nguyện bé nhỏ của năm 1966, ngày lên dự lễ mãn khóa của Long. Nguyện tìm lại quán cà phê cuối con dốc Duy Tân, quán vẫn còn đó, nàng ngồi xuống gọi ba ly cà phê, người bán hàng ngạc nhiên khi chỉ thấy có mỗi mình Nguyện, nàng khoanh tay lại, nhắm mắt, gió se lạnh, Nguyện thấy như có Long và Như đang ngồi trước mặt mình, bên ly cà phê, như năm nào, họ còn rất trẻ, nụ cười rạng rỡ trên môi với mầu đỏ alfa nơi vai áo.

Úp mặt vào hai bàn tay, giọt nước mắt ứa trên khóe mắt, Nguyện kêu lên nho nhỏ: Đà Lạt ơi!

Trần Như Xuyên
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Image

Đồn lẻ

Thanh Sơn
Đồn nằm trên ngọn đồi cao, xung quanh là rừng thông bát ngát. Một vài cây khô nằm trơ trọi sau đồn. Nhìn xuống phía dưới là con đường thiết lộ ngoằn ngoè uốn lượn. Nơi đó ngày hai lượt có chuyến tàu đi về.
Tàu không dài, chỉ chừng bốn năm toa, nhưng chạy nghe chừng nặng nhọc. Vì đoạn đường sắt khoảng này dường như dựng đứng, nên tàu được giữ bằng những đoạn răng cưa. Tốc đô tàu đến đó chỉ được chạy 5cs/g. Tuy không ai nghĩ có người tán tận lương tâm đặt mìn cho tàu đổ, song trong chiến tranh nào ai lường nổi tai ương, nên đồn được lập ra. Lính đóng độ khoảng chừng một trung đội, do một sĩ quan cấp uý điều hành. Nhiệm vụ vủa đồn là sáng sáng mở đường, để bảo đảm mọi điều yên ổn, chờ đón tàu qua. Lính chia nhau đi dọc theo hai bên đường sắt, kiểm soát từng tà vẹt, bù lon và luôn cả các đoạn mối nối. Công việc trông dản dị mà đòi hỏi sự chăm chỉ rất nhiều. Phải thức dậy thật sớm, uống chút cà phê cho ấm bụng rồi thầy trò tất tưởi ra đi. Vừa đi vừa về khoảng chục cây số mà có khi về đến đồn là trời sắp tối. Rồi trời lạnh nữa, ra đi sương sớm còn dày, nắng lên mà cái rét vẫn còn bén ngọt. Có hôm mới đi đựoc nửa đường, tàu đã chạy ngang qua. Hành khách thấy mấy anh lính đưa tay chào vẫy vẫy. Rồi chiều về đến đồn, chưa kịp ăn bữa tối thì đã nghe còi tàu hú dưới khúc quanh. Công việc chỉ có thế, suốt quanh năm ngày tháng. Ấy vậy mà ngày nào không thấy tàu về là lòng những ngóng, những trông. Đó là những ngày đoạn đường sắt nào đó dưới xuôi bị đắp ụ, tàu khựng lại không đi. Những hôm đó, thầy trò nẳm trong đồn, ngóng dài cả cổ. Cho đến khi nghe điện báo tàu trở ngại thì thày trò như ngẩn như ngơ.


Anh ra trường, nhận nhiệm vụ về trấn đồn thay cho một sĩ quan xin thuyên chuyển nơi khác. Ngày đâu tiên nhận sứ mạng, vài anh lính đã nói với anh ” ở đây heo hút, buồn lắm ông thày. Không mấy người chịu trụ lâu, được ít lâu là xin chuyển. Tụi em ở lâu quen rồi. Đời lính đi đâu cũng vậy, nên nhẫn nhục cho qua. Vả chăng, sống đâu quen đó. Ở đây vợ con còn có chỗ ở đàng hoàng “. Đàng hoàng đây là mấy căn nhà do ga làm cho công nhân hoả xa ở, nay dành cho gia đình lính làm chỗ trú thân. Ngày ngày các bà vợ vào rừng quanh đó hái măng làm món. Quanh khu nhà trồng cái cau, cái củ ăn thêm. Gạo, mắm do ga tiếp tế, góp lương nhà họ mua và gởi theo tàu. Dăm tuần, nửa tháng, tàu dừng lại khoảng mươi phút cho xuống hàng rồi đi tiếp. Khách trên tàu nghe lao xao và khi nhìn thấy cảnh chuyển hàng cũng trố mắt ra xem. Không rõ trong trí họ mang ảnh hình nào của cuộc đời ” trấn thủ lưu đồn “.

Anh nhận nhiệm vụ buổi sáng thì chiều đến lính đưa cho lá thư rơi. Anh đọc thấy có lời đe doạ sẽ tấn công đồn. Lính biết được nói với anh ” ối hơi đâu ông thày tin ba cái chiện bá láp đó. Ai mới tới cũng bị mấy chả hăm he làm gỏi, mà em ở đây từ bao năm rồi có thấy mấy chả làm được gì đâu “. Nói vậy chớ đôi khi đêm khuya cũng thấy bực mình. Giữa trời đất tối thui bỗng nghe tiếng gõ vào đường ray ong ong như có người đang phá. Lắng tai nghe nhận định xem tai vạ nơi đâu, rừng lồng lộng khó đoán ra phương hướng. Lính sành đời báo cho anh ” thường bọn chúng hay phá phía tây nam “. Anh ra lịnh cho cối nã về hướng đó. Những tiếng đề pa trong đêm nghe u u như gió. Được chừng vài lần là tiếng gõ nghe ngưng. Sáng đi kiểm, chẳng có đoạn nào bị bóc. Có lẽ chúng muốn uy hiếp tinh thần kẻ đóng đồn, khiến lâu dần sẽ chán nản.

Một hôm, nhân tàu ngưng, anh cùng vài người lính đi dạo quanh đồn. Không xa lắm là một con thác đổ. Nước từ trời cao chảy qua những tảng đá rồi tuôn ầm xuống khoảng trống bao la. Anh sững người trước vẻ đẹp núi rừng. Nghĩ giá quê hương không có chiến tranh, thỉnh thoảng đưa người yêu lên đây xem trời mây, cây cỏ. Những người lính lâu quanh quẩn trong đồn, nay được ra thiên nhiên cũng cảm thấy vui lâng. Qua rừng thông xanh mướt, những ngọn lá thông như những chiếc kim nhọn lủng lẳng trên đầu. Dăm giọt sương chưa tan chốc chốc vẫn nhỏ đều giọt xuống. Ai cũng trầm trồ trước vẻ đẹp quê hương. Len vào sâu chút nữa là rừng mai trắng muốt. Mùa xuân đã qua mà những cánh hoa muộn chưa tàn. Anh nhặt một cánh hoa rơi cho vào túi áo. Nghĩ đến khi về sẽ gửi kèm bông hoa núi với lá thư cho người bạn nhỏ phương xuôi.
Image
Gia đình lính khoảng chừng có 3, phần còn lại là đọc thân, lính trẻ. Cuộc sống vào ra chỉ có bấy nhiêu đó nên coi nhau như ruột thịt, người nhà. Lâu lâu các bà nấu nướng món ăn, mời cả đám cùng dự cho vui. Ở rừng ăn món gỏi măng trộn dấm cũng thấy ngon như món gỏi thu đủ dưới đồng bằng. Không biết mấy bà gởi mua hay xoay sở ở đâu ra món rượu đế nóng rân, thày trò dzô cũng sật sừ tới bến. Những tối đó anh vẫn thường phải cố thức, chỉ sợ đàn em quá chén, say ngủ rồi giặc bò vô làm thịt cả đồn.

Nhưng hổng lẽ cấm cản hoài thì nỗi buồn chịu sao thấu. Một mình thức với rừng, rới bóng tối, anh nhớ mung lung. Bắt gặp lại một góc phố nào hò hẹn, một thánh đường dự lễ misa hay những buổi chiều ngồi bên nhau trong quán. Mới đó thành phố đã xa tắp, mịt mùng. Anh ước mong một năm được nghỉ vài ngày phép, trở về nơi chốn xưa để cho con người bớt thui chột, tan hoang. Nhưng cứ đến gần ngày là anh lại ngại ngùng. Lính tráng dưới quyền đã mấy năm nào có ai tính chuyện xin đi phép, chẳng lẽ mới về lại lo chuyện riêng tư. Cứ lần khân như thế mà kỳ phép lại trôi qua thêm bận nữa.
Cho đến một lần chợt nhìn lại đã thấy anh ở với đồn được mấy năm liền. Những mùa hoa mai trắng vẫn nở sau đồn với những bữa gỏi măng, nhậu rượu. Tàu bây giờ cũng không chạy để mặc cho gió rít trên đường ray. Lâu quá không còn nghe tiếng còi tàu nên nhớ. Chiều đứng trên đồi nhìn suốt theo con đường sắt quanh co trơ trọi mà thấy hun hút sầu dâng. Đôi khi cũng muốn nghe tiếng gõ ong ong trong đêm để được cho vài trái mót chê làm vang động núi rừng mà vẫn vắng hoe, vắng hoắc. Đồn vẫn nằm lẻ loi một mình như chiếc bóng trơ vơ bên núi rừng cô quạnh. Dường như người ta cũng đã quên đi sự hiện diện của chiếc đồn lạc lõng trên đèo. Lâu lắm mới loáng thoáng nghe có tiếng còi xe đang lên dốc hay một vệt đèn mờ ảo qua sương. Đó là lúc anh thấy cái nhớ như thôi thúc, đâm nhói tim mình…

Thanh Sơn
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

03 Tháng 3: Nhân ngày Tử trận của Chuẩn uý Nguyễn Thiên Trường

Đó là năm 1969. Đại đội Trinh sát 46 của tôi vừa đi hành quân dài ngày từ mật khu Hố Bò trở về.
Đến hậu cứ ( Bộ chỉ huy tiền phương của Trung đoàn 46BB ) ở Chà Rầy, tôi bảo chú hiệu thính viên:
- Nói Trung đội trưởng Viễn thám cho Chuẩn uý Trường lên lấy giấy phép.
Thời điểm đó, sau biến cố Mậu thân 1968, lệnh cấm phép kể cả phép thường niên vẫn còn hiệu lực . .
Trường cầm tờ giấy phép 07 ngày với lý do cưới vợ đang tính chào tôi để ra xe. Tôi vỗ vai Trường rồi đưa cho anh một phong bì:
- Chúc mừng Trường hạnh phúc. Trong này có một tờ giấy phép 3 ngày tặng thêm cho cậu. . .
Trường chào tôi rồi ôm ba lô vội vã lên chiếc xe dodge của đại đội ra Trảng Bàng
Trung uý Mãng, Đại đội phó cười:
- Thêm 3 ngày nữa là 10 ngày, thơm quá. Mười ngày với Tân giai nhân ca sĩ NG.M. nào thấm béo gì. Cha này không trễ phép, ông chặt đầu tôi. . .

7 ngày sau Trung đoàn 46 thành nỗ lực chính của Chiến đoàn 333 được lệnh hành quân tức tốc tràn chiếm Chi-Phu. . .
Đoàn xe của Bộ Chỉ huy có Đại đội Trinh sát đi đầu, 2 chiếc GMC phía trước chậy đến ngã tư Trảng Bàng thì bỗng dưng chậm hẳn lại đủ cho tôi trông thấy bóng to con của Chuẩn uý Trường nhẩy lên phía trước, rồi anh lần theo khung xe lên phía sau. .
Cái speaker từ máy PRC 25 vang lên:
- Trình thẩm quyển Hải Điểu, thẩm quyền " Tăng Gô" của tôi đi phép trở về.
Tôi rút vội sổ tay, ghi:
- Đến nơi đóng quân, gọi Trường lên Ban Chỉ huy gấp.
Tôi bỏ quyển sổ tay vào túi áo. Lại thấy có chút gì không ổn. Tôi lấy quyển sổ ra ghi thêm: " Vụ đám cưới"


" Vụ đám cưới" : Trường với NG.M. là một cặp tình nhân lý tưởng trước khi thành thân. Cả 2 người đều say mê âm nhạc. Trước khi bị động viên vào Thủ Đức. Anh đã từng đệm đàn, sau đó còn say mê phối khí cho những bài Ng.M. hát. Những ngày Đại đội Trinh sát về hậu cứ. Ng.M. thường rủ những ca sĩ bạn bè lên để hát cho đồng đội của Trường nghe. . .
Những tiếng hát có hoà âm bằng những tiếng đạn pháo từ xa rung rinh bóng dừa nước làm cả người nghe, người hát có cảm giác như đang hăm hở với tiếng kèn thúc quân. . .


Thế nhưng, tôi phải viết thêm " Vụ đám cưới" là vì, Từ ngày ra trường, tôi vẫn thường phải chứng kiến những tân lang khi trở lại chiến trường. . ." tai nghe tiếng súng trận mà vẫn còn âm ỉ tiếng pháo hồng ngày cưới" đã phải hi sinh vì đạn thù. . .
Tôi đã định đưa Trường về Ban Chỉ huy, rồi cho Trường đi học. . .


. .Khi những đứa con đầu chạm vào những rặng thốt nốt. Tôi biết mình đã vào đất Căm Bốt. . .Tôi nghe tiếng của Đại tá Lều Thọ Cường, Chiến đoàn trưởng 333:
- Sẽ có " thằng 2 của thằng 10" ( Chi đoàn 2/Thiết đoàn 10) đến đón anh. Từ giờ phút này, anh tùng thiết, cẩn thận khi chiếm mục tiêu. . .
Khi cánh quân tiến gần đến chùa NealPuong. Khi những chiếc thiết giáp chồm lên những gò cao để yểm trợ cho những toán viễn thám chiếm khu vực chùa. Bỗng từ 3 phía trước, phải và trái những tiếng đạn cá nhân và cộng đồng của địch bắn ra xối xả...
Chiếc trực thăng của Tướng Đỗ Cao Trí, lảo đảo đáp ngay chỗ Ban chỉ huy của tôi cùng lúc với một lằn đạn mầu xanh của trái B 41 xẹt tới làm nổ tung chiếc thiết vận xa M77 ( loại của Chi đoàn truởng). Bỗng đầu tôi tê dại. " Lại bị thương nưã sao? " nhưng chỉ một tích tắc sau đó. Tôi biết đó là do cây can của Tướng Trí, kèm theo tiếng quát của ông:
- Mỏng quân ra, thằng thiết giáp không tiến nữa. Lại một cái đánh đầu nữa nhưng lần này dịu hơn kèm theo:
- Chú mày cho một toán Viễn thám đi vòng phía Tây, chiếm ngay gác chuông chính cho moa. . .Đó hoả lực chính và toán bắn sẻ của chúng ở đó đó. . .


Ông nói xong, và mặc cho những lằn đạn bắn cầy đất chung quanh. Ông đủng đỉnh đi về phía sau.Lên máy bay rồi cứ thế chiếc máy bay ấy bay rất thấp quanh gác chuông nhả những tràng đại liên và những chùm M79 vào đấy.
Tôi nghe rõ tiếng chuẩn uý Trường:
- Báo tin vui cho Thẩm quyền, chúng tôi đả làm chủ. . .
Bỗng tiếng anh im bặt...( rồi gần 5 phút im lặng vô tuyến rợn người)... là tiếng của hiệu thính viên lạc giọng:
- Thẩm quyền tôi " Hai Lần Tư Tưởng" ( tử thuơng) rồi. .
Đó là buổi chiều đầu tháng 3, năm 1969, gió đã se lạnh.

Đồ Ngu

( HNPĐ )
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Người Vợ Tù Cải Tạo
Thụy Vi Tự Thuật

Image
Một cảnh thăm nuôi tù ở các trại tù miền Bắc vào các năm cuối thập niên 1970.
Con người ta khi đã có một quảng đời dằng dặc khổ đau, một quảng đời dằng dặc ưu phiền… Đáng lẽ không nên ngoái đầu nhìn lại. Bởi vui vẻ thì hiếm hoi, còn chuỗi ngày cơ khổ thì dài vô tận. Cũng như muốn nói về nó, cũng không thể nói hết một lần, chỉ còn cách kể lại những biến cố chính bằng chút chữ nghĩa với tất cả xúc động cùng tâm tình, ý tưởng…

* * *

Bị Đuổi Ra Khỏi Ngôi Nhà Của Mình……

Khi hay tin Việt Cộng bắt hết anh em cùng chồng tôi tại ty Cảnh sát, cảm giác của tôi lúc đó thấy mình y hệt như trái banh bị ném quật một cách mạnh bạo phũ phàng. Sau giây phút chới với, tôi bắt đầu hốt hoảng, nhưng biết cầu cứu với ai, vì chung quanh tôi trống không – những người thân giờ kẻ còn người mất, người ra đi mất hút nơi nào không ai biết… Cuối cùng tôi chỉ biết khóc lặng thinh trong tuyệt vọng và thấp thỏm chờ đợi những bất hạnh chắc chắn sẽ theo nhau kéo tới…

Biến động Ngày 30, Tháng Tư, Năm 1975 chưa hết bàng hoàng. Không khí ghê rợn cuộc xử bắn Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn còn nặng nề u ám. Đột nhiên rộ lên tin đồn sẽ xử bắn thêm vài người nữa trong nay mai khiến mọi người trong tỉnh càng hoang mang sợ hãi. Một buổi sáng thức dậy nhìn qua bên đường thấy một khán đài dựng lên sừng sững hồi nào, Tôi vừa ngờ ngợ, đột nhiên có tiếng gọi ngoài cổng rồi vài người cầm súng xông vào nhà tôi với nét mặt hằn học ra lịnh cho Tôi phải ở yên trong nhà không được đi ra ngoài. Thấy thái độ hung hăng của họ, hai đầu gối Tôi run lên vì biết tai họa tới rồi. Khán đài dựng ngoài kia và họ canh giữ Tôi đây là ngày xử án chồng tôi rồi! Nghĩ đến đó tôi cảm thấy mặt đất dưới chân tôi như đổ ụp xuống khiến thân hình tôi lảo đảo phải ngồi bệt xuống ghế tìm điểm tựa. Sau phút điếng hồn, chợt nhớ ra sự thật, chợt nhớ chồng tôi sắp chết, đột nhiên hết sợ, tôi đứng lên, bế đứa con bươn bả đi ra cửa về phía đám đông đang tụ họp, mặc kệ họ hầm hì kè súng chạy theo.

Tôi chen vào phía khán đài chong mắt tìm chồng nhưng chỉ thấy mấy tên cán bộ mặt mày lạnh tanh đầy sát khí lớp đứng lớp ngồi lố nhố. Không tìm thấy anh nhưng tôi thật bình tĩnh kiên nhẫn quan sát chung quanh. Giờ phút này tôi nhứt định không khóc, nhất định không để mắt tôi nhoè nhoẹt, phải ngẩng đầu nhìn cho rõ mặt kẻ thù dã tâm giết chết chồng mình.
Trong khi mọi người lao xao bàn tán, hồi hộp đợi chờ. Bỗng một tốp người chạy dạt ra hai bên rồi tiếng la hét lao xao khi chiếc xe bít bùng chở tử tù xuất hiện chậm chậm tiến vào. Tôi xốc nách đứa con len lỏi vào dòng người mặc kệ tiếng thằng du kích gọi giựt giọng sau lưng “đứng lại! đứng lại!…” để áp sát nhìn vào khung cửa sổ hai bên xe. Qua lớp kính màu xám đục tôi nhận ra ông trung tá Trưởng Ty Cảnh sát Võ Văn Đường, bên kia là chú Thiên làm sở Mỹ có tiệm café Con Chồn gần đó. Lấp ló bên vai ông Đường là khuôn mặt Đại úy thám sát Lê Văn Bé. Vừa lúc đó có tiếng khóc sát bên tôi, quay lại thấy vợ và bầy con ông Bé rũ rượi khóc kêu chồng kêu cha bò lê bò càng dưới đất thật thảm thiết. Dù đã tự chủ là không khóc, nhưng nhìn thấy cảnh thê lương bất nhẫn, tôi chịu không nỗi, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt cho tới khi một tốp lính ôm súng hung hản chạy rầm rập bao quanh chiếc xe… Một người bước tới mở cửa… Tôi lau mắt nín thở, cổ họng nghẹt cứng… Tiếng ồn ào, tiếng khóc rộ lên từng hồi khi từng người bị lôi ra, ông Đường xuống trước, kế tới ông Bé, kế tới chú Thiên… Ai nữa ? Tim tôi như ngừng đập… Tôi thấy cửa xe toang hoát không còn người nào… tưởng hoa mắt… Tôi nhóng cổ… chồng tôi đâu ? Lúc cửa xe đóng lại… Tôi còn mơ hồ, khi biết chắc không có anh, tôi mừng đến ngẩn ngơ, hai bàn chân không nhấc nổi đứng im sững nhìn đám đông rồng rắn ùa theo sau những tử tù. Tôi đứng như thế không biết bao lâu cho tới có tiếng ồm ồm của công tố viên trên loa phóng thanh, tôi mới lủi nhủi nôn nao bế con đi về nhà rồi lập cập khoá cửa lại, vội vã đi pha cho con bình sữa rồi đặt con lên giường vừa ôm con vừa dỗ cho con ngủ mà đầu óc còn mông lung không tin đây là sự thật !?

Tôi bị treo tim thêm vài phiên xử bắn nữa, nhưng cuối cùng tạ ơn Trời chồng tôi vẫn thoát chết. Tuy nhiên, sau đó không lâu, tôi nhận được lịnh của Ủy ban Quân quản cho biết nhà tôi bị tịch thu. Trước khi từ giã mái ấm được xây cất do đồng tiền chắt chiu của hai vợ chồng – Tôi không biết mình đứng chết lặng như cái xác không hồn trong bao lâu, rồi dắt díu đứa con trai bốn tuổi cùng với một mầm sống trong bụng và chút tư trang khiêm nhường để bắt đầu bước vào đời sống vô vọng mịt mù…

Trong cơn Quốc phá Gia vong khiến bà con của tôi tán lạc kẻ còn người mất. Không còn cách chọn lựa, tôi đành phải đưa con đến tá túc nhà mẹ ruột đang sống cùng ông dượng ghẻ tại Cần Thơ. Thời gian đầu, ông dượng ghẻ cư xử với tôi thật tử tế, nhưng càng ngày ông dượng ghẻ tôi càng lộ ra sự khó chịu, ông bắt đầu đay nghiến chưởi chó mắng mèo và thẳng tay đánh đập con tôi mặc dù cháu bé không hề gây ra lỗi gì quá đáng. Mẹ tôi không biết vì bất lực hay a tòng cũng nín thinh. Người hàng xóm đoán được ý ông dượng ghẻ muốn gì nên mách nước … Thế là tôi móc hết tiền bạc, bông tai nhẫn cưới… vội vàng giao nạp!

Sinh con chưa được hai tuần tôi phải trở ra buôn bán Thuốc Lá nơi đầu đường để phụ thêm tiền chợ cho mẹ vui. Tưởng yên thân, nhưng ông dượng ghẻ không để tôi yên vì ông nghĩ vợ chồng tôi có rất nhiều tiền và đang cất giấu đâu đó. Thật ra, nếu chồng tôi không thanh liêm, với chức vụ của anh, chắc chắn anh có hàng trăm cơ hội làm giàu. Thấy tôi không “xùy” Tiền, ông dượng ghẻ càng làm dữ. Tôi chịu đựng hết nỗi nên quyết định thu xếp ít quần áo, ba mẹ con tôi bồng chống ra đi !
Ra khỏi nhà. Tay ôm con, tay mang bọc hành lý, đứa con lớn lẽo đẽo sau lưng. Tôi bơ vơ, đi như người thất thần – Tôi đi tới, đi lui, lầm lủi đi, đi mãi mà không biết đi đâu? Ghé đâu? Sống đâu? Tôi cứ đi như thế và đầu óc bắt đầu nghĩ tới con đường chết!

Ý tưởng chết manh nha trong trí càng lúc càng thôi thúc khiến tôi quay ngoắt lại, quày quả đi ra hướng bến phà Cần Thơ.
Chiếc phà từ từ trôi ra giữa sông. Tay ôm đứa con sơ sinh, tay nắm cứng đứa con lớn, Tôi mon men ra phía chỗ không có những hàng lan can chắn giữ rồi lầm lì đứng im miên man nhìn xuống làn nước chảy xiết bên dưới. Tôi dự định sẽ ôm chặt hai con và phóng xuống thật nhanh. Gió lạnh làm con tôi rùng mình co ro. Tôi cúi ôm con và nói: “Mẹ con mình chết với nhau nghe con!” Thằng bé 4 tuổi không biết có hiểu chết là gì không bỗng nhiên khóc rống, lắc đầu quầy quậy “Con không chịu ! Con không chịu ! …” Tiếng la khóc xé lòng của con như một tia chớp lóe, khiến tôi giật mình, sửng người chợt tỉnh. Tôi còn nhớ, mãi mãi, cái cảm giác của tôi lúc đó là một nhói buốt kinh hoàng ở ngực. Tôi sợ hãi, ôm các con lùi vội vô phía trong rồi hôn con như điên như dại với nước mắt giàn giụa và lòng chưa hết nỗi bàng hoàng.
Ba mẹ con Tôi vừa thoát qua được cái chết trong giây phút ngu muội, oan uổng, vì thế tôi cảm thấy mình cần phải sống. Đối với tôi từ giờ phút này – Hai con chính là lẽ sống duy nhất của tôi trên đời này!
Tôi đến kiếm người bạn tên Duyên xin tá túc. Gia đình Duyên không khá giả, nhưng sẳn lòng chia cho mẹ con tôi một chỗ ở… Sợ bạn vì lòng tốt sẽ bị phiền hà với công an khu vực vì dám chứa “Vợ Ngụy” nên tôi xin dọn ra ở trong căn chòi đựng củi phía sau nhà.

Đêm đầu tiên ngủ trên vạt giường đóng vội bằng những cây tràm cong queo nên tôi phải lôi hết khăn khíu, quần áo để lót cho con tôi nằm đỡ cấn… Nửa đêm trời bỗng đổ mưa, mưa vật vã dập những dòng nước cuồng bạo vào các vách nhà và gió lăn lộn thổi thốc khiến mái lá dựng đứng đưa những giọt nước xối xuống làm mùng chiếu ướt đẫm và ngọn đèn dầu tù mù một hồi rồi tắt ngấm. Tôi mò mẫm trong bóng tối ôm kín hai con đang giật mình khóc tấm tức rồi vơ vội cái mền lết tìm chỗ nào đỡ dột nhất ngồi thu lu phủ trùm cái mền cho con ấm rồi nhẹ nhàng đung đưa dỗ cho con ngủ tiếp. Tội nghiệp hai đứa con gầy gò như hai cọng cây non rút sát trong ngực tôi thiếp trong giấc ngủ chập chờn.

Lát sau gió lui xa, nhưng mưa còn chập chùng. Tôi ngồi trong ngôi chòi quây kín bằng lớp lá dừa chằm mỏng manh nặng mùi ẩm mốc mà tôi tưởng như đang ngồi trong chiếc thuyền vật vờ lênh đênh trong giông bão ngoài biển khơi mịt mùng. Trong hoàn cảnh này, tôi không còn nước mắt đâu để khóc, cũng không còn cảm xúc để kêu trời hay gọi đất, chỉ mong mưa tạnh, trời mau sáng – Như chị Dậu, một nhân vật của Ngô Tất Tố – Tôi cô đơn tê tái nhìn chung quanh khuất chìm sau màn đen dầy kịt.

Kiếm Sống

Cứ sáng sáng là ba mẹ con tôi có mặt ngoài chợ Cần Thơ. Tấm ny-lon trải dưới đất nơi góc chợ với mớ quần áo cũ là nghề kiếm sống mà tôi có thể nuôi con và tiếp tế cho Chồng. Một hôm đang ngồi tháo chỉ quần áo thì gặp Vợ Anh La Phú Xương đi ngang qua. Bạn thân lâu ngày gặp mừng lắm, đến chừng quay lại thấy hai con tôi nằm chèo queo ngủ thiêm thiếp bụi đời dưới bóng nắng hắt trên chiếc xe ba bánh thì chị không dằn được nên bật khóc. Rồi chị khuyên tôi nên dọn tới nhà chị ở. Trong khi tôi mua bán ngoài chợ, các con tôi ở nhà với các con chị, khỏi phải dầm mưa dãi nắng.
Nghe chị Xương đề nghị hợp lý, phần Duyên cũng đốc thúc nên tôi ngậm ngùi chia tay với căn chòi tình nghĩa, nơi, đã cưu mang mẹ con tôi trong những ngày cùng khổ nhất.

Chị Xương đùm bọc mẹ con tôi giống như lá rách đùm lá nát vì hoàn cảnh chị có hơn gì tôi đâu? Anh Xương đi TÙ CẢI TẠO, ở nhà bốn mẹ con chị phải cạy từng lớp gạch bông, từng lớp gạch bếp ra đổi gạo. Sau khi không còn gì để bán thì thằng con trai út phải ra ngoài chạy xe đạp ôm. Chị Xương tập tành đi buôn – Chị bó từng cục thịt trong người đi buôn lậu từ chỗ này tới chỗ kia.
Trong mỗi mảnh đời của những người đàn bà có chồng bị TÙ CẢI TẠO không có mảnh đời nào sướng hơn mảnh đời nào, không có mảnh đời nào “Nhục” hơn mảnh đời nào. Bởi vì cuộc đời những người đàn bà như chúng tôi bây giờ nếu không là mưa nắng thì là gió táp vập vùi. Cho nên người đàn bà dang thân ra đứng bán chợ trời thì gặp trăm ngàn cay đắng do bạn hàng o ép có khác gì người đàn bà dãi dầu đi buôn từng bịch gạo, ký thịt cũng đắng cay bởi những tên lơ xe, tài xế, đứng bến tiểu nhân đắc ý quyền hành.

Thời gian này chiến tranh cơm gạo mới tồi tàn làm sao. Đó chính là sự đổi thay rộng lớn của cuộc đời và con người. Đó chính là sự đổi thay tàn nhẫn, ghê gớm đến cái độ tan biến, đảo lộn hoàn toàn nề nếp cũ khiến người đàn bà khác hẳn – sẵn sàng xù lông giương móng dành nhau từng ký bo bo, từng ký mì sợi, từng lít nước muối pha màu để giữ chặt phần ăn cho con mình.
Tôi sống như thế cho đến một ngày, cuộc trùng phùng với vợ chồng người nhân viên cũ như một cơn mơ làm thay đổi cuộc đời của tôi. Xin được kể lại một chút về sự liên hệ ân tình này:

… Năm đó chú Sáng là tài xế lái xe cho chồng tôi. Như thường lệ, mỗi sáng chú lái chiếc Scout đậu trước nhà chờ. Xe lúc nào cũng nổ máy, nhưng hôm đó chú loay hoay lau xe nên không thấy một đứa bé trai ba tuổi, con của Thiếu tá Nguyễn Thanh Tòng trưởng ty Cảnh sát đang lon ton theo người nhà đi mua điểm tâm. Đang đi như vậy, bỗng thằng bé chun vô ngồi trong gầm xe hồi nào không ai hay. Chồng tôi từ nhà bước ra, vô ý, mở cửa leo lên, xe vọt tới, có người la hoảng, nhưng đã trễ! Xe cứu cấp tới thì thằng bé đã chết. Chú Sáng bị câu lưu rồi được thả để chuẩn bị ra toà. Mặc dầu ông bà Trưởng ty hứa sẽ bãi nại, nhưng chú không yên tâm. Một buổi chiều chú ghé thăm, mặt mày có vẻ nôn nóng muốn bỏ trốn. Tôi thông cảm, lén chồng dắm dúi đưa chú ít tiền làm vốn để về quê nuôi vợ con. Từ đó chúng tôi bặt tin.
Sau năm 1975 vợ chồng chú Sáng xúc động khi nghe người ta kể lại những biến cố trong gia đình tôi nên vợ chồng chú quyết tâm tìm cho ra tung tích vợ con người chỉ huy cũ để giúp đở. Gặp nhau giữa chợ. Chúng tôi nhìn nhau mừng mừng tủi tủi. Sau đó vợ chồng chú ân cần đề nghị đón mẹ con tôi về sinh sống nơi quê vườn của chú. Trong lúc này, thôn dã là nơi trú ẩn an toàn hiền hoà nhất cho một người Vợ nuôi con đợi Chồng. Vả lại, cảnh dang thân dầm mình giữa chợ và cuộc sống không một tờ giấy tùy thân đã khiến tôi thấm mệt. Con tôi lại sắp đến tuổi đi học và tờ Hộ khẩu là tờ giấy bức thiết để con tôi vào trường. Lời đề nghị của vợ chồng chú Sáng ngay lúc này như cái phao trong tầm tay. Tôi muốn từ đây chấm dứt cuộc sống lưu lạc như mèo mẹ bơ vơ tha con mình đi cùng khắp.

Nghe tôi nhận lời, vợ chồng chú hối hả về quê dựng liền mái nhà rồi tức tốc trở xuống Cần Thơ đón mẹ con tôi. Ngày chia tay lại là một ngày toàn nước mắt. Gia đình Duyên, gia đình chị Xương và gia đình tôi bịn rịn không rời.
Chúng tôi về Vàm Cống, ở trong ngôi nhà tranh kín đáo, cất giữa đồng. Trong nhà chúng tôi có giường cây, bàn cây, ghế cây, tuy chỉ những loại gỗ tạp rẻ tiền nhưng tôi cảm thấy mình thật giàu có và bắt đầu học bài học biết ơn mọi thứ. Tôi như sống trong một gia đình, tôi có người bao bọc, giúp đỡ mọi mặt. Những ngày tháng tù đầy phơi rốn cứ thế êm đềm qua. Tôi là người sống động, nên cho dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù phải nếm qua bao khốn khó tủi nhục gì, dù đang ở một nơi thiếu tiện nghi nhất – như vùng quê này, không điện, không nước máy, không TV, nhưng tôi lúc nào cũng tìm một cái gì vui để quên khốn khó, vẫn thêu dệt nhiều mộng đẹp, thí dụ mái chòi tranh tôi đang ở thi vị hoá là “lều thơ” và biến nó thành một nơi ở thơ mộng, là một nơi an toàn cho các con tôi có chỗ chạy nhảy nô đùa. Ở chung với ba mẹ con tôi còn có cháu Thủy con gái của vợ chồng chú Sáng. Cứ sáng sớm tôi lên chợ Long Xuyên bán buôn thì mấy chị em ở nhà với nhau. Chiều chiều tôi xách gạo, thức ăn về nấu, cả nhà xúm lại ăn với nhau thật vui rồi tụm lại nghe tôi đọc truyện trước khi đi ngủ. Thằng con trai lớn của tôi lúc đó biết mê Thủy Hử. Những cuốn truyện xưa còn sót lại thằng bé đọc đến thuộc lòng. Biết con thiếu cha là một thiệt thòi rất lớn, nên tôi phải làm tất cả, hết sức mình để bù đắp. Hôm nào có gánh hát, tôi và Thủy đạp hai xe chở hai con đi coi hát, sau những cơn vui nho nhỏ, đêm tối thức giấc vò võ nghe ếch nhái rền rã ồm ọp kêu than thãm thiết mới thấy nỗi hiu quạnh. Cái âm điệu đó ám ảnh tôi cho tới tận hôm nay, khi Tôi đã sống đoàn viên trên nước Mỹ – nhiều đêm ngủ tôi còn nghe văng vẳng đâu đây, giật mình hoảng hốt choàng dậy, lắng nghe… may quá, chỉ là tiếng gió! Tôi trồng một số cây ăn trái chung quanh nhà đang sơn sởn thì trận lụt kinh hồn năm 1978 nhận chìm nghĩm. May nhờ có hàng xóm trước đó đến làm cho mẹ con tôi cái sàn để kê đồ đạc cho khỏi ướt và làm chỗ cho mẹ con tôi và cháu Thủy ở. Cái sàn tuy áp sát mái nhà nhưng an toàn. Để đề phòng đêm khuya nguy hiểm, vợ chồng chú Sáng còn treo cái kẻng có gì thì tôi khua lên cho hàng xóm chạy tới. Mấy tháng nước nổi nhưng các con tôi không hề thiếu ăn, thiếm Sáng ngoài tiếp tế bánh trái, thiếm còn cho canh cho cá… Có lần thiếm cho ăn món canh chua Xiêm La, ngon tuyệt, nhớ suốt đời!

THĂM NUÔI

Đời sống trôi qua một cách vật vã. Những ngày tháng tất tả chạy ngược chạy xuôi, thăm nuôi cha, thăm nuôi chồng, nuôi con và nuôi mình, khiến tôi tàn tạ không ngờ. Người vợ “Thục nữ yểu điệu” ngày nào giờ bơ phờ cằn cỗi. Nhà tôi cách phà Vàm Cống đúng hai cây số. Mỗi chuyến thăm nuôi chồng, tôi phải dậy lúc nửa đêm, hai mẹ con khiêng vác những bao bị giỏ xách khệ nệ đi bộ ra tới bến phà, đập cửa nhà ông thuyền câu, nhờ ông chở qua sông trước ba giờ sáng để kịp đón xe tài nhất từ Long Xuyên chạy xuống Cần Thơ.
Chúng tôi qua con sông bắc Vàm Cống bằng chiếc thuyền câu chèo tay mỏng manh. Bây giờ ngồi nhớ lại, không hiểu sao tôi có can đảm đưa con ngồi trên chiếc thuyền băng ngang dòng nước chảy xiết trên khoảng sông rộng mênh mông dập dềnh những con sóng cơ hồ nhiều lần nhận chiếc thuyền xuống nước trong đêm tối chập chờn như thế?

Có lần tôi kể cảnh tám năm thăm nuôi trong bài Khóc Lặng Thinh là tám năm tôi và đứa con trai đầu lòng vừa bốn tuổi có rất nhiều kỷ niệm tủi cực trong những chuyến thăm nuôi chồng tôi ở trong TÙ CẢI TẠO… Trong những lần đó, mẹ con chúng tôi nhiều đêm phải ngủ ngoài lề đường, hoặc là ngồi bó gối suốt đêm ngoài bến xe, ngủ lăn lóc ngoài bến tàu, ngủ bờ, ngủ bụi… thậm chí tôi cũng thường xuyên tòn ten đeo cửa xe đò trên quảng đường đầy ổ gà dài vài chục cây số. Có một lần xe đò bể bánh, lật nhào, lăn nhiều vòng, tôi ôm chặt lấy con tôi mà tưởng hai mẹ con cùng chết. Khi chiếc xe nặng nề nằm im thôi không lăn nữa và biết mình còn sống, hai mẹ con lóp ngóp run rẩy chen chúc bò ra, tôi vội vàng rờ rẫm khắp cùng mình mẩy Con để chắc coi con mình có bị gì không, miệng năn nỉ hỏi coi con đau chỗ nào. Biết con không sao, tôi yên tâm rồi thảng thốt đi như người mộng du bươi tìm trong đống ngổn ngang lôi ra bao thức ăn thăm nuôi bẹp rúm rồi kéo lê kéo lết lên bờ đường. Tai nạn tuy không có người chết nhưng chung quanh tôi mọi người kêu réo lao xao. Lúc này tôi mới cảm thấy thân thể tôi rã rời, vừa ôm dỗ đứa con bé bỏng xanh xao nằm thiêm thiếp mệt nhọc trên ngực mà tôi tê tái, buồn đến quặn thắt đau xót ruột gan. Tôi lặng lẽ ôm con mà khóc.

Trại Tù Kinh Năm tại xả Hoả Lựu tỉnh Chương Thiện là một tập đoàn ăn hối lộ trắng trợn. Tù muốn đi phép về thăm vợ? Tù muốn đi công tác ngoài tỉnh? Tù muốn vượt biên? Những điều kiện này Tù cứ việc đóng vàng cho cán bộ phụ trách theo quy định giá cả hẳn hòi. Kể cả việc Vợ Tù muốn ngủ đêm với Chồng. Kế bên nhà trại dựng sẳn nhà một cán bộ, vợ Tù cứ mang “Bao Thư” hay “Giỏ Quà” đến đó thì sẽ toại ý muốn ngủ lại với chồng hai ba đêm gì cũng được!

Năm đó, chồng Tôi bị thổ huyết, mỗi lần ho, máu ộc từng ngụm nhiều lần tưởng chết nhưng vẫn phải bắt buộc lao động nặng. Tôi lo lắng, lần đi thăm nuôi, tên Công An quản giáo lân la gợi ý bắt mối cho biết muốn chồng tôi được lao động nhẹ thì nên “lo lót” cho vợ Hai Râu trưởng Trại Tù. Thế là tôi chạy sất bất sang bang, nhà nào tôi cũng gõ cửa, cuối cùng gom được hai lượng vàng. Duyên bạn tôi e ngại vợ trưởng trại chê ít, nên chu đáo cho thêm 200 con cá giống Chép và Trắm Cỏ rồi kêu xe chở tôi cùng hai bịch cá khổng lồ vô nhà vợ ông ta đang sống tại Phụng Hiệp.

Tôi loay hoay thật lâu bên lề đường trước khi may mắn được mấy người chăn trâu phụ khiêng hai bọc cá khổng lồ đầy nước với Oxy vô nhà vợ Hai Râu. Mặc dù nắng trên đầu như đổ lửa nhưng tôi không thấy mệt chút nào. Tôi mang niềm hy vọng đi lấp xấp quẹo vô ngõ, bỗng đụng mặt một người đàn bà vẻ khinh khỉnh đứng đó. Tôi chưa kịp chào, bà hất mặt “Bưng gì đó?” Tôi khựng lại, cảm thấy nhục, nhưng cố dằn cái bất bình xuống, mềm mỏng “Tôi có ít Cá giống tốt tặng chị, mong chị thơm thảo nhận dùm”. Con mụ vợ trưởng trại tù Kinh 5 nói giọng kiểu tiểu nhân đắc ý “Chèn ơi ! mấy con vợ Tá, vợ Úy của tụi Ngụy tặng tui xe Honda, tủ lạnh lủ khủ tui còn hông thèm, chị cho chi mấy con cá này !” Tôi tức uất lên, nếu không thể chửi mụ vài câu thì cũng bỏ bịch cá đang lội lờ đờ dưới chân đi thẳng… Nhưng nhớ đến thân hình gầy guộc của chồng, nhớ đến cơn bịnh không biết cướp mạng chồng mình lúc nào nên tôi dằn cơn giận xuống, tay như run nhẹ trong túi áo khi móc gói hai lượng vàng ra đưa mụ. Tôi nói “Lần đầu tặng Chị làm quen, mai mốt Chị muốn gì tôi đem vô… thêm” Con vợ thằng trưởng trại lấy gói vàng lật ra chăm chú xem rồi nhét vô túi, miệng cười hệch ra. Nhưng lúc đó mụ cũng vừa liếc thấy chiếc vòng cẩm thạch của tôi đeo dấu trong tay áo bà ba, mụ liền nắm tay tôi kéo vô nhà vừa cười mơn vừa vén tay áo của tôi để săm soi chiếc vòng, miệng nói ngọt sớt “Chèn ơi! chị em không mà, chiếc vòng xanh dữ hén, chắc màu lý. À chồng chị tên gì, cấp bậc gì, trại TÙ CẢI TẠO mấy, nói tui giúp liền…” Câu giúp liền của mụ là tôi biết tỏng mụ rồi, nhưng tôi biết làm gì hơn đành phải bấm bụng kêu mụ lấy nước với cục xà bông, mụ mừng lắm, hối mấy đứa con lè lẹ. Nước xà bông đem tới, mụ sà bên tôi vừa bóp vừa thoa vừa cật lực kéo chiếc vòng Cẩm Thạch cho tuột ra. Tôi đau điếng, chịu đựng, ngồi kể lể tình cảnh của chồng mình. Lột được Chiếc Vòng Cẩm Thạch, tôi thấy hai con mắt mụ sáng rực, không biết mụ có nhớ tôi nhờ gì không ? Sợ mụ quên, tôi nhắc tên và cấp bậc, phòng, Trại Tù Cải tạo của Chồng Tôi lần nữa rồi lủi thủi ra về với bàn tay sưng đỏ.

Sau đó chồng tôi được điều vào tổ khác: Đôi ngày ngồi cưa củi, lột vỏ tràm. Vài ngày chuyển qua dầm mình dưới sông để vớt rong, lục bình về cho tổ rẩy. Công việc này tuy chưa phải là lao động nhẹ, nhưng dù sao cũng đỡ hơn đi đào đất, móc gốc cây rất nhiều.

Những đợt kiểm kê tịch thu thuốc men, quần áo, vải vóc đã cạn kiệt. Bây giờ một viên ABC sổ mũi nhức đầu không có mà uống nên các loại Trụ Sinh chỉ mua bán lén lút chợ đen. Hôm đó đi thăm nuôi về, Duyên bạn tôi giới thiệu có lô thuốc Trụ Sinh trị cầm máu. Tôi suy nghĩ một chút hứa sẽ trở lại lấy rồi dắt tay đứa con kêu xe kéo đến bịnh viện để bán máu. Y tá rút tôi một ống máu, thấy mình còn khoẻ, tôi năn nỉ họ rút thêm ống nữa. Có lẽ thấy tôi tội nghiệp cho nên rút máu xong, họ tặng thêm cho cái bánh ú. Ra đến cổng tôi thấy hơi chóng mặt, nên ngồi xuống lề đường, hai mẹ con lột cái bánh ra ăn, kêu thêm ly trà đá. Vừa uống hết ly trà, con tôi khều tay chỉ “Họ múc nước này trong cầu tiêu kìa mẹ” Tôi quay lại thấy mấy người xách xâu đựng ly trên tay, vừa múc nước trong hồ dội cầu để pha trà. Nhưng không hiểu sao, Tôi cảm thấy ăn cái bánh này, uống ly nước này thật ngon nhất trong đời, y như ông hoàng tử được ăn “Cháo bắp, mắm hến” của ông nhà văn nào đó viết.

ĐOÀN VIÊN

Sau bảy năm bốn tháng, chồng tôi được thả ve. Cảnh vợ chồng, cha con đoàn viên không sao tả xiết hết nỗi vui mừng hạnh phúc. Xóm giềng tôi dù nghèo nhưng nhà này nhà kia đem gà đem vịt tới ăn mừng. Ai cũng chúc phúc từ giờ vợ chồng tôi khổ tận cam lai. Vui được mấy ngày, chúng tôi bắt buộc phải về nguyên quán Mỹ Tho theo quy định nhà Nước Việt Cộng. Mới chân ướt chân ráo lại lâm vào cảnh không nhà. Người em bà con cám cảnh, kêu cho cái vũng sình trồng rau muống khuất trong hẻm gần chợ Cũ. Thế là con cháu, chị em xúm lại đổ đất đấp nền nên chẳng mấy chốc chúng tôi có được một nơi chốn kín đáo, ấm cúng, sạch sẽ mát mắt lạ thường.
Sau khi giải quyết được cái ở, chúng tôi bắt đầu lo tới cái ăn. Với bản tánh nhạy bén, tôi thấy chỗ của mình có lợi thế về mua bán quà bánh thức ăn, nên bày ra bán cháo huyết. Thế là chồng tôi hộc tốc về quê mượn bàn ghế nồi niêu tô chén để gian hàng cháo của tôi kịp khai trương ngay đầu hẻm.
Bán cháo có ngày đắt ngày ế. Ế thì cả nhà húp cháo thay cơm, nhưng ế hoài thì mất vốn. Thấy tôi bán cháo cứ bị ế nên chồng tôi lén vợ đi bán kem. Mấy ngày đầu tưởng anh về quê phụ làm ruộng, nhưng một ngày anh bê nguyên thùng kem… vô đãi mẹ con ăn vì… ế, thì tôi thật ngỡ ngàng. Cứ hình dung mặt mày anh bơ phờ, dáng vóc còm cõi vừa rung cái chuông leng keng, vừa đạp khắp làng cuối xóm để bán mà ứa nước mắt.
Chúng tôi phải vật lộn với gian khổ từng ngày như thế hơn mười năm sau….
Khi cuộc sống đã yên lành no ấm trên một đất nước tự do, có Nhân Quyền của miền Đất Mới là Quê Hương Thứ Hai, tôi thấy một cuộc đổi đời nào cũng là một cuộc đổi thay to lớn cho một đời người.
Vì thế, tôi càng thấm thía về cái được cái mất, về giá trị của sự sinh tồn.
Nhất là giá trị một quãng đời sống, phải trong sự rún ép, cay độc, nhục nhã, bị phân biệt đối xử của chế độ Cộng Sản Việt Nam mà nếu viết hết thì chỉ vài trăm trang giấy không làm sao nói hết, ngày xưa sống trong ác mộng …

Thụy Vi
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Quay lại cuốn phim tại sao mất Ban Mê Thuột

Image
Nguyễn Ngọc Tuấn
ĐĐT/CSDC Kiêm Chỉ Huy Phó Cảnh Sát
Tỉnh DARLAC đặc Trách Hành Quân
Ngày 1-3-1975
-"Thiếu Uý Đức đâu ?" Tôi vừa bước vào doanh trại Trung Đội CSDC quận Buôn Hộ, DARLAC vừa hỏi vợ Thiếu Uý Đức đang ngồi cho con bú trong phòng .
-"Anh ấy dẫn trung đội vô rừng tìm thằng Ngạn bị Việt Cộng bắt hôm qua rồi . Đại Uý ơi , em giữ không được, em nói là đợi Đại Uý xuống nhưng anh ấy cú đi".
Tôi thở dài, ngồi bịch xuống ghế, buồn và bực ."Lên Chi Khu hỏi xem hành quân ở đâu mới được!" Tôi nghĩ và bảo tài xế cùng hai cận vệ lái xe đưa tôi lên chi khu "Cách đường cái 6 cây số sâu trong rừng" . Trưởng ban 3 Chi Khu Buôn Hô cho tôi biết nhu thế . Không còn cách nào khác hơn, tôi cùng Quỳ tài xế và Khương, Tiến hai cận vệ cũng là trưởng ban 1, ban 2 DĐ 206CSDC đi kiếm chỗ ăn cơm . Lúc ấy là 1 giờ trưa, trời bắt đầu cơn mưa nặng hạt của vùng Tây Nguyên, Khí hậu còn phảng phất gió bấc của ngày Tết . Tôi đang cầm ly bia vội buông xuống vỡ tan: thằng Hiên, tiểu đội trưởng chùm "pông sô" từ đầu đến chân đứng ở cửa nhìn tôi; linh tính của một người đã đi hành quân nhiều lần báo cho biết có điềm không lành .
-"Trình Đại Uý, Thiếu Uý Đức, Thượng Sĩ Mầu bị thương nặng, hai nhân viên tử thương!"
Hiên nói cộc lốc và ngừng lại . Tôi đứng lên nhìn nó trừng trừng gằn từng tiếng:"Anh nói rõ tôi nghe".
-Thưa Đại Uý, Trung Đội bị phục kích chỉ cách 10 mét, không kịp phản ứng nên bị thiệt hại, địch bắn như mưa . Em cũng trình luôn là mình đụng với Chính Quy !
-"Anh nói Trung Đội CSDC Buôn Hô đụng với Chính Quy hả ? Anh chỉ báo cáo láo . Quân anh đánh dở thì chịu dở, còn nói là đụng Chính Quy".
Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng tiểu khu Darlac quạt tôi sau khi tôi thuyết trình về kết quả ghi nhận được liên quan đến tình hình địch tại Buôn Hô, một quận phía Bắc Ban Mê Thuột gồm 9 xã trong đó có một xã Kinh là Hà Lan ABC .
-"Đại Tá muốn nghĩ sao thì nghĩ, tôi chỉ có nhiệm vụ tường trình"/
Ngồi uống bia với Thưông Sĩ Quỳ, tài xế của tôi, nhìn ly bia có cục đá trong suốt, nghe tiếng đá cục đập vào nhau kêu lách cách mỗi lúc cầm lên uống một hớp và đặt xuống bàn, tôi lại nhớ đến Thiêu Uý Đức . Nghĩ cũng buồn , mình đã phải điều 2 Trung Đội Nghĩa Quân thuộc Buôn Hô, một Đại Đội Thám Sát Đặc Biệt tỉnh do Đại Uý Y Jie B Ya chỉ huy, 3 Trung Đội CSDC lên đồi tại một vùng chi khu Buôn Hô chỉ để mong cứu Thiếu Uý Đức và Thượng Sĩ Mầu, tụi nó bảo là còn sống chưa chêt mà, lên lúc 6 giờ chiều, Việt Cộng pháo cho một chập phải lui xuống . Cũng tại thằng Lâm chỉ sai đồi, tao mới phải lui, may không có đứa nào chết thảm . Đêm về phải xin Đại Bàng (Trung Tá Trần Quang Vĩnh, chỉ huy trưởng Cảnh Sát Darlac) thêm 2 trung đội CSDC, một đại đội Địa Phương Quân .
Mới mở mắt ra ở quận lỵ, đã có người báo "Việt Cộng mời Đại Uý Tuấn lên lấy 4 xác cảnh sát".
-"Chết bỏ!" Đó là câu bùa của tôi mỗi khi chuẩn bị đi đánh Việt Cộng . " Tao chấp nhận đổi thêm 10 thằng nữa để lấy xác Thiếu Uý Đức và ba thằng con chứ không để kên kên nó ăn thịt". Nói với lính như thế để tụi nó khỏi run . Tôi biết là tí nữa sẽ căng vì địch đang đợi tôi và quân lên . Sau khi họp với Trung Uý Lại DĐP/CSDC , Đại Uý Y Jie B Ya CHT/Thám Sát, hai trung đội trưởng Nghĩa Quân, tôi quyết định đánh vòng, dùng pháo binh của chi khu Buôn Hô yểm trợ và mở một đường cho Việt Cộng chay.Bịt chặt nó, thì hao quân mà lâu nữa .
-"Đại Bàng Tango phải không ? Thiếu Uý Hồng đây, em là pháo đội trưởng của TD/Pháo SĐ23 tăng cường tại Buôn Hô đây . Trời ơi! tưởng ai, Đại Bàng thi… líp "
Tiếng Hồng e é trong ống loa PRC 25. Tôi cười mỉm và nói :"Dành cho tôi bao nhiêu quả? 100 nhé, OK ?"

Lên từ 8 giờ sáng, vòng ngang và bọc vào . Hai trung đội Nghĩa Quân làm đe và trừ bị. Tôi dẫn CSDC và TSĐB (PRU) và một ĐĐ/ĐPQ vào . Pháo đánh và đập liên tục ngay mục tiêu, thế mà mãi tới 4 giờ chiều mới thấy chúng nó . " Đức ơi sao mày nặng thế ? Có linh thiêng thì nhẹ bớt lại cho lính khiêng"
Bốn thằng nằm 4 chỗ, giầy thì "anh hai" lột hết, đồng hồ cũng mất tiêu luôn . Thương quá vì chưa bao giờ thua cộng sản . Tôi chuyên môn cho lính đi phục kích Việt cộng mà bây giờ để chết lính . " Đức ơi, mày ngu quá, Trương Phi chết vì muốn cứu Kinh Châu trả thù cho Quan Công, lính mà không th&oc
irc;ng binh pháp làm sao ăn được tụi nó . Bây giờ vợ con mày ai nuôi đây! Thôi tao uống cho mầy một chai nữa, tao về ngủ đây . Mày có nghe thấy không ? Đại Tá bảo tao báo cáo láo, ổng nói tình hình Darlac trăm phần trăm ngon lành khi không lại nói có…Chính Quy !

Ngày 9-3-1975
9 giờ sáng tôi và Trung Tá Vĩnh Chỉ Huy trưởng CSDC Darlac ra phi trường L.19 đón Tướng Phú, Tướng Tư Lệnh vùng ỊI . Ra đến nơi đã thấy Đại Tá Luật, Trung Tá Thành, Tiểu Khu Phó, các trưởng phòng thuộc tiểu khu có mặt . Tướng Phú xuống phi cơ, tôi thấy ông có vẻ gầy chứ không to cao và béo như Tướng Toàn .
Lại lục tục nối đuôi nhau chạy về trung tâm Hành Chánh quân tiểu khu họp .
-"Tôi là trung ương của vùng II là cái rốn , nêu nó đánh anh, tôi cho quân cứu chứ nếu tôi chuyển Su Đoàn 23 bộ binh về đây, nó đánh Pleiku, làm sao anh có phương tiện chuyển quân lên cứu tôi . Tôi quyết định giữ Sư Đoàn 23 lại Pleiku"
Tướng Phú đã phát biểu nhu vậy sau khi nghe Đại Tá Luật trình bầy rằng địch kéo quân về phía đường mòn **** khoảng 200 Molotova, nghi ngờ tụ quân 20 cây số Bắc Xã Quảng Nhiêu, Đại Tá Luật xin Tướng Phú đưa một hoặc hai trung đoàn thuộc SD 23 về Ban Mê Thuột vì hiện chỉ có 9 trung đội Nghiã Quân, một nửa đội Trinh Sát, 20 Lôi Hổ thuộc chiến đoàn 3 Xung Kích, một trung đội CSDC, một tiểu đoàn 224 DPQ để giữ thị xã Ban Mê Thuột .
11 giờ, tôi và Trung Tá Vĩnh về BCH/CSDC Darlac tập họp các cấp chỉ huy:"Các anh nên đưa vợ con về Saigon để dễ dàng chiến đấu . Việt Cộng sắp đánh thị xã, có thể là ngày mốt 11 tháng 3. Đêm nay Đại Uý Tuấn chỉ huy ty mới về cho báo động".

Đưa vợ con đi đâu được!
Ở Air Viet Nam nguời đông như kiến, tôi bảo vợ tôi ngồi xe đợi và vào trong hỏi Nguyệt :"Anh Hội đâu", "không thấy", Nguyệt đáp . Thế là anh Hội cũng trốn rồi vì ở cái thành phố Buồn Muôn Thuở này ai mà không quen nhau.
Về đến nhà, vợ tôi hí hửng vì không phải về Đà Lạt với mẹ . Con tôi thì cũng vỗ tay, lấy cái bê rê đội lên đầu, đeo kính của tôi và giơ tay "Chào Đại Uý"
12 giở 30, tôi được Y Hoc Eban báo cho biết địch đã về đến Ea Hneh, vợ nó đi rẫy gặp Việt Cộng đang giăng giây điện thoại . Phone cho Đại Tá Luật biết gấp và xin trấn núi Châu Sơn làm thế ỷ dốc . Ăn cơm trưa xong, chạy xe vội qua ty CSDC ở đường Tự Do kiểm soát và phổ biến cho toàn thể nhân viên, tôi mệt nhoài vội vào phòng ngủ đánh một giấc.
-"Thưa Đại Uý, Đại Tá tỉnh trưởng đến", thằng truyền tin báo tôi biết .
-"Anh cho tôi xem qua hệ thống phòng thủ một chút" Đại Tá Luật cùng đoàn tuỳ tùng đi xem quanh trại giống như đi thanh tra . Tôi đi theo và hướng dẫn cách phòng thủ. "Tôi báo cho anh biết, doanh trại CSQG tôi sẽ dùng làm địa điểm thứ hai, nếu Tiểu Khu mất, anh nhớ nhé . Còn Thiếu Tá Trọng(Quận trưởng BMT)đêm nay điều đại đội ĐPQ cơ động của quận lên đóng trên đồi Châu Sơn , Tiểu Khu chỉ còn Tiểu Đoàn 224 thì đã phải trấn tại mặt Nam đồi La San, một đại đội tại tiểu khu, và một tại vườn ông Tôn Thất Niệm" .
Quay sang Thiếu Tá Song, Tiểu đoàn trưởng Pháo Binh, Đại Tá Luật tiếp :"Bắt đầu 8 giờ tối nay anh cho gà con mổ khoảng 20 bắc Châu Sơn nhé . Địch đã xuất hiện rồi".

8 giờ tối, lùa nốt miếng cơm cuối cùng, tôi đứng lên mặc áo . "Ăn dessert đã anh" Vợ tôi nói. "Bố đi hả bố?" Thằng Cuky con tôi mới hơn hai tuổi, nhưng nó không bao giờ đòi đi theo tôi khi nó thấy tôi mặc đồ rằn ri và đeo súng cả . Tôi cúi xuống hôn con, hôn vợ "Anh đi qua ty, anh dặn em lại là nếu có gì, em, bố và con chạy ra nhà ông bà Chí Thành nhé, mai anh về" Chẳng bao giờ có ngày mai cả, vì từ ngày đó đến nay tôi không còn thấy nàng và con nữa!!!
-"Oành ! Oành !" Tôi bật dậy, Khương ngủ cạnh tôi lắp bắp "Nó đánh, Đại Uý". Tôi bảo Tiểu Ban Đại Đội: "Báo động và đi kiểm soát, địch pháo". Quả pháo đầu tiên vào phi trường L19 lúc 3 giờ 20 sáng, 10 tháng 3-75, cách tôi khoảng 200 mét. Ra ngoài tôi thấy thành phố nhu rực lửa, không phải vì cháy mà vì địch pháo quá nhiều. Lính tráng nằm hết ở hố cá nhân. Hà! Thế mà tốt, nhờ hỏi tân binh Phước Long nên tôi đã thực hiện mỗi người một hố éch nhỏ xíu. Cho mày pháo đến mai.
5 giờ sáng, tôi dùng PRC 25 liên lạc với thằng PRU trấn phía Bắc L19. Quyền , chỉ huy phó báo cáo hai cánh quân ở phía Bắc mà nó tung ra ngoài từ đêm qua theo lệnh tôi đã phải
lui vào, đụng mạnh quá chịu không nổi, 30 thằng còn có 6 thằng chạy vô, bây giờ nó trấn hai hầm. Tôi cho Quyền biết là đang xin Tiểu Khu điều ĐĐ1/224 do Đại Uý Hải chỉ huy vào phi trường L19 bắt tay với nó, đừng lo. Ngay lúc đó tôi liên lạc được với Hải, Hải cười trong máy và hỏi tôi ở đâu để nó bắt tay. "Tao ở Bóng Chim Hồng, thằng sắp bắt tay mày là thằng con tao, Tư Tuởng, Sơn Tây, Tư Tưởng (Thám Sát Tỉnh) mày làm cho ngon nghe Hải".
Mới ngừng mấy phút châm điếu thuốc trong hầm, cầm máy liên lạc lại với thằng 224 thì nó câm. Đổi qua giải toả cũng câm luôn. "Lê Lai" với thằng Quyền PRU thì nó nói, giọng nhẹ chút xíu và nghe yếu xìu: "Chưa thấy, Đại Bàng, tụi Vịt Con đã vô em rồi, nó đang đốt phá ầm ầm". Hỏi tình hình của nó Quyền cho biết , nó còn 12 con, 6 bị thương, 6 lành, hiện đang thủ hai hầm vì địch tràn vô L19 rồi. Tôi "lê lai" với Trung Tá Vĩnh xin lệnh:"Cho nó tự ý hành động". Tôi lập lại lệnh của ông Vĩnh cho Quyền.

6 giờ sáng, đang liên lạc với các toán thì được Cuộc CSQG xã Lan Giao(thị xã) báo cáo : "Có địch xuất hiện trong phố, từng toán 5, 10 tên, mặc đồ lính, chân không, bảng tên trắng". Cầm cái máy FM5 liên lạc với cao tốc 01 đến 10, tất cả đều câm hết. Đang cầu nhầu với thằng lính truyền tin về vụ máy móc dởm quá thì tôi giật mình khi nghe mấy tiếng AK ngay cổng Đại Đội 206. Nhìn qua cửa hầm, tôi thấy thằng Khoái CSDC trung đội Buôn Hô đang rớt từ hàng rào. Một tên nữa (Thiếu Uý Tâm) nằm trước cổng. Thằng Hùng vội nhẩy xuống hố nhưng hình như không kịp nữa. Tôi bảo Trung Uý Lai cho hai quân ra trám chỗ. Thằng Tiến chạy vô " Thưa Đại Uý, việt cộng ở nhà Hướng Đạo bắn ra" "Tao biết rồi, để nó đó tính sau, để tao lo xong cái thằng PRU đã." Tôi cầu nhầu và tiếp tục gọi thằng Hải 224, Im lặng! Hỏng rồi!Địch mà chiếm L19 là thành phố mất. Tôi gọi Tiểu Khu báo cáo và xin hỏi thêm về thằng Hải. Tiểu Khu nói nó cũng không thây Hái đâu cả. Tôi vội xin gà cồ gáy vào L19 để chận địch. Gà mình lại mổ tới tấp vào L19. Ngay lúc đó 3 chiếc trực thăng đầy lính vọt lên không ngang đầu tôi. Tụi Vịt Con bắn theo đỏ trời. Thoát được 2 cái, 1 cái rơi ngay đồi phía sau.
-"Alô Đại Bàng xin Tiểu Khu xin Nha Trang yểm trộ phi tuần đánh bom đừng để mất L19" Tôi gọi Trung Tá Vĩnh. Ông Vĩnh nói:"Yoa yên tâm, tôi sắp qua gặp Đại Tá đây, còn vợ con toa và gia đình moa đã cho ra ngoài hết rồi, cứ bình tĩnh"

Dùng M79 và M60 diệt xong 3 thăng ở nhà Hướng Đạo, tôi thấy mệt nhoài. Mới 9 giờ sáng, phát lương khô cho lính ăn và thêm trái sáng để chuẩn bị đón Vịt Con đêm nay. Nó vẫn pháo như mưa. Cả ba thằng của tôi đều chết, 3 thằng Vịt con thường mạng.
11 giờ trưa, Trung Tá Vĩnh bảo tôi là Đại Tá Luật chỉ thị CSDC ra đóng Biệt Điện. " Ông ấy có điên không? Ở đây còn nhìn thấy nó lấp ló, dẫn quân đi một cây rưỡi dọc L19 để đến bùng binh, may lắm còn mình tôi. Địch đang thiếu bia tập bắn" tôi nói. Ông Vĩnh:" Tuỳ toa, moa cũng từ chối rồi"
11 giờ 30, địch ngớt pháo, nó cũng đói bụng, tôi nhủ thầm.
-"Thưa Đại Uý, từ nẫy đến giờ, tiểu khu im lặng, em gọi mãi không được". Thằng Tồn truyền tin báo cáo. Tôi gọi lại Trung Tá Vĩnh, ông cũng xác nhận như thế. Mất rồi chăng?
12 giờ 30, Cọp tới. Qua ống nhòm tôi thấy Biệt Động Quân từ phía chùa Dược Sư đi sau lưng trái tôi, tôi báo cáo nhưng ông Vĩnh nói "Việt Cộng đó, quân ta không tới đâu" Tôi ra lệnh Bộ chỉ huy Cảnh sát chuẩn bị tấn công, thằng Minh M79 khai hoả. Cao đánh thấp, thủ đánh công, không chột cũng què, tôi nghĩ. Minh bắn nhưng không thấy nổ. Bịch ! cầm lên, viên đạn M79 đụng nóc garage chẻ làm đôi Tôi hay tin dị đoan, nói với lính " Thằng nào hy sinh ra, nếu là cọp thì vô cho tao biết, còn là nó thì ‘mo’." Quỳ tài xế nai nịt nhảy 10 mét hàng rào ra.
-"Thưa Đại Uý, Cọp chính cống, em gặp Thiếu Tá Bảo, tiểu đoàn trưởng 1/21 rồi, danh hiệu đài đây"
Tôi thở phào, suýt nữa thì đánh nhau mệt nghỉ vì lầm.
14 giờ 30: Trung Tá Vĩnh cho biết: 2 tăng T 54 tấn công ty cũ (trung tâm Hành Quân Cảnh Lực) Ông nói đã bắn hết 8 M72 nhưng không hiệu quả, ông rút và trao quyền chỉ huy cho tôi. Tôi hỏi tình hình và xin lệnh sau cùng:"Tuỳ nghi xử trí"
Thế là hết, chưa bao giờ như thế cả! Đã chán thì chớ, bên Thiếu Tá Thành , chỉ huy phó CSQG Hành Chánh gọi tôi qua họp với bộ tham mựu
Bước chân vào hầm, mọi người đề nghị rút :"Đ.M.! Địch chưa đánh mà
rút đi đâu ?". Ông Thành nói: "Tỉnh đã mất hết, mình cứ rút ra ngoài rồi trụ lại chứ đêm nay nó đánh bằng tổng lực chịu sao nổi !" 13 sĩ quan nhao nhao đòi rút .
16 giờ 30 : Vịt Con bắt đầu đánh bằng pháo và đại liên . Vỡ quân ! Cảnh sát bên ty chạy ùa qua bên doanh trại đại đội, sợ quá mà vỡ quân . Dã chiến đoạn hậu, ra ngoài chùa Dược Sư đã . Cọp thì ở trung học Tổng Hợp rồi .

6 giờ chiều đi ngang Buôn Koier, tôi gặp Trung Uý Xuân, trưởng phòng 2 tiểu khu, Đại Uý Chương ANQĐ, lại thằng Hải nũa chứ . Nó nói" Tao đụng một dàn B40, tụi nó nằm sẵn trong L19 . Đại đội còn có 46 thằng . Sao giờ này mày mới ra ? Tiểu khu bị 5 chiếc . T54 đánh lúc 11 giờ 30 . Tụi nó bắn 52 quả M72 hạ được 4 chiếc, chiếc sau cùng đứt xích thì mình hết đạn . Nó dùng đại bác 100 ly phơ sập hết . Đáng lẽ minh chưa "out" Nhưng có thằng A 37 khỉ gió thay vì bỏ bom con cua Việt Cộng, lại nhè cho hầm trung tâm hành quân một quả 250 cân, thế là "mo" . Tụi mình còn một ít chạy hết trọi"
-"Đại Tá Luật chết trong đó hả ?" Tôi hỏi .
-"Sức mấy, ông tỉnh chắc ăn, nên lúc gần sáng ổng phóng từ tư thất qua bộ Tư Lệnh SD 23 (lúc đó chỉ có hậu cứ) thay vì qua tiểu khu . Bây giờ ổng còn ở trỏng "
Hải xin tôi một bản đồ và một địa bàn vì nó vứt lúc bị phục kích trong L 19 rồi . Tôi lấy của Trung Uý Lai đưa nó xài đỡ .
Đêm 10-3-75, tôi và Hải đóng trong chùa Dược Sư cùng với một ít dân chúng đã chạy ra lúc chiều

Ban đêm, nằm trên các tảng đá quanh chùa Dược Sư hút thuốc nhìn lên bầu trời . Sao đêm đó tôi thấy nhiều vì sao chạy thế nhỉ! Tôi nhớ ngày xưa người ta thường nói mỗi khi có người chết là một vì sao bản mệnh của người đó tan đi . Tôi nhớ đến vợ con, không biết đang chạy ở đâu trong vùng khói lửa của đạn thù! Tôi nhớ đến Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã chôn sống 10 ngàn Quân Cán Chính VNCH . Thôi không nghĩ nữa, nghĩ nữa sẽ xụm không thể cầm quân được .
Quanh tôi lúc này là những chiến sĩ Cảnh Sát đang trông vào tôi để hy vọng, để chiến đấu mong đẩy được tụi nó, tụi Việt Cộng ra, 11 giờ đêm, mà mọi người, già trẻ, lớn bé chưa ai ngủ . Người nào quần áo cũng xốc xếch, có cô còn mặc áo ngủ, có người vừa ôm con vừa ôm vợ, vừa cầm cây carbin M1 với một băng đạn . Tôi dụi thuốc và nhắm mắt nghỉ ngơi một chút .

9 giờ sáng 11-3-75; tôi kéo đại binh cảnh sát khoảng 300 nhân viên vào nhà thờ Phú Long đóng quân . Trung Uý Lại trách nhiệm chỉ huy 50 CSDC phòng thủ quanh tường nhà thờ . Tôi nhìn quanh, chỉ chịu đựng đưọc một giờ nếu địch có trọng pháo yểm trợ .
Gặp cha Diệu, cha xứ Phú Long :"Mời Đại Uý dùng cơm" Cha Diệu bảo tôi . "Cảm ơn cha, con không đói, có lẽ con vào Bộ chỉ huy TT Huấn Luyện Trung đoàn 45 đóng quân" Tôi đáp . Tôi ra ngoài nói Tôn truyền tin mở tần số ra liên lạc, gần một giờ sau mới bắt được tần số ."OK cho vào trú quân nhưng toa nhớ điểm từng người,nếu không Ve Chai nó trà trộn vô " Trung Tá Phùng lên tiếng trên máy .
12 giờ 30 trưa, tôi dẫn quân vào Trung tâm giao tuyến giữa cho Thiếu Tá Lê Văn Hoan, Trưỏng F Đặc Biệt cùng 200 CSDB và CSSP . Thiếu Tá Thành chỉ huy phó hành chánh ở hầm trung ương . Tôi cùng 50 CSDC, 5 quân cảnh( tôi lụm được dọc đường), thủ tuyến A . Tôi hỏi một chuẩn uý, cán bộ Trung Tâm về quân số, được biết chỉ có 100 khoá sinh . Tôi xin lại thùng lụu đạn ra phân phát cho các hầm . Sờ vào nắp hầm, chà!! mỏng quá, tôi nghĩ chỉ chịu nổi 82 ly thôi . Chết, bỏ vậy!!
3 giờ 30, một quả pháo đầu tiên rớt vào sân Trung Tâm, rổi tiếp đó bắt đầu như mưa . Qua ống nhòm tôi thấy một tên để lộ. VC mặc đồ lính chạy loanh quanh trong khụ nhà dân cách tôi khoảng 300 mét . "Minh đâu rồi! Minh M79 nhắm bắn cho tao coi mày ?" – Thưa Đại Bàng, thằng này khôn quá, nó né hoài, em bắn không được"
Nhìn ra đường QL1 dọc cổng Trung tâm bên trái tôi, vắng hoe .
Địch pháo liên tục . Oành! Đại uý Đoàn chủ sự phòng hành quân bị thương . Hai nhân viên khiêng Đoàn vào bệnh xá trong mưa pháo . Tôi vỗ vai Tôn, truyền tin cười nói: Đừng nghĩ gì nũa, đây là đất cuối cùng của thầy trò mình, hãy bình tĩnh .
6 giờ chiều, khẩu pháo 105 và xe đạn của trung tâm trúng đạn . Mưa pháo nở giống như pháo đùng ngày Tết . "Hồng Hà 8! Trung Tâm rút ngõ sau rồi!" Tiếng Hoan rè rè trong máy . Tôi đáp "8 nghe rồi" Ngay lúc đó tôi thấ
y Cọp của Thiếu tá Bảo, một rồi cả trăm . Họ nằm bẹp trước mắt tôi vì pháo . Tôi nhìn Bảo lúc đó còn đeo Ray-Ban gọng vàng . Ra dấu hỏi, Bảo lắc đầu . Cọp bắt đầu di chuyển ngang tôi ra phía mặt sau Trung tâm và tụ quân trên các tường sân bắn . Cọp lì thiệt, giờ này mà nấu cơm .
6 giờ 30 chiều, trời sụp tối, Hoan chạy ra gặp tôi: "Nó vọt hết rồi, bộ mày tính thủ một mặt, Cọp một mặt, còn bỏ lủng hai mặt hả Tuấn ?’ Tôi ậm ừ "Ông vào gặp Ông Thành coi sao" Hoan nói Thiếu tá Thành đã vọt rồi . Suy nghĩ một lúc, tôi quyết định rút khỏi Trung tâm vì rộng quá, mà mình chiếm có một mặt, đêm nó giám uýnh lắm . Nhưng đi đâu đây ? Tôi cho quân rút ra xưởng cưa Công Binh cách Trung Tâm Huấn luyện TD 45 khoảng 200 mét
9 giờ đêm tối, Đại uý Xuận trưởng phòng 2 tiểu khu, Trung uý Liên quân cảnh, Thiếu Tá Hoan CSDB họp và quyết định di quân về quận Phưóc An cách thị xã 32 Km về hướng Nha Trang .
Trong lúc này ở phía phi trường Phụng Dực, chi khu Ban Mê Thuột rền súng và lửa .
Trên đường di chuyển đêm theo QL1, tôi gặp hàng hàng lớp lớp dân chạy giặc .

Ngày 12/3/75:
7 giờ sáng, tại Phưóc An . Ô hô!! xe cộ và dân chúng đầy đường! Thiếu uý Lân,(Trung đội trưởng CSDC Phưóc An) và Trung Uý Liệu chỉ huy trưởng cảnh sát ra trình diện tôi cho biết Thiếu tá Hoàng Đình Tập, quận trưởng Phưóc An quyết định lui binh, chạy . Tôi hỏi ông Liệu : Ai cho lệnh chạy ? Liệu lắc đầu đưa hai tay lên trời .
8 giờ sáng, tôi gặp Đại Uý Ba, chỉ huy trưởng CSQG Buôn Hô, "Địch đêm qua tiền pháo, hậu xung, ta chết khoảng 1/2, mở đường máu chạy băng 30 Km rừng sang Phước An"
8 giờ 30 tôi gặp Thiếu tá Trọng, Quận trưởng Ban Mê Thuột cùng Thiếu uý Đức CSDC:"Đêm qua địch sáp lá cà, chi khu vỡ, còn sống duy nhất 13 CSDC và quận trưởng sau khi đột phá vòng vây ra Buôn Kô Tam"
12 giờ đại binh không đầu chạy bộ, chạy xe từ cây số 32 Phưóc An đến 62 M’Rong Hô định về Nha Trang thì ngừng lại, một phần để nghỉ, một phần vì địch chận tại cây số 72 . Tôi hỏi tình hình, địch đóng chốt kiềng một trung đoàn .

Ngày 14/3/75
12 giờ trưa Trung tá Thạnh, tiểu khu phó, mặc áo may ộ xà lõn chạy xe Jeep lùn từ đồi 62 xuống và ra lệnh " Tất cả về Phước An để tái chiếm Ban Mê Thuột . Vui quá vì lại gặp vợ con . Quân lính đâu chuẩn bị . Tôi kéo quân về Phước An lúc 6 giờ chiều, nghỉ tại ngã ba ban đêm .
Sáng 15/3/75, lúc 7 giờ di chuyển 2 km vô chi khu .

10 giờ chi khu mời họp .
"Báo cáo Đại tá, tôi hiện có 300 quân Cảnh Sát, vũ khí đầy đủ, gồm 120 CSDC, khoảng 100 CSDB, còn lại là CSSP" Tôi trình diện Dại tá Tiếu, người vừa được Quân Đoàn II đưa xuống thay Đại tá Luật mất tích . Các quân binh chủng lần lượt báo cáo quân số . Đại uý Hải tặng tôi một bộ bản đồ, tỉ lệ 1/100000 có Nha Trang, Hải nói để đền ơn tôi đã tặng bản đồ hôm trước . Cũng nhờ bộ bản đồ này mà tôi mới đi được tới Khánh Dương sau này .
Đại tá Tiếu cho biết sẽ tử thủ ở Phước An, đợi quân cứu viện, địch đến là đánh . Tôi được cắt trú quân tại chợ Phước An làm thế ỷ dốc cho chi khu . Tôi về chia quân làm 16 chốt vòng tròn rộng 150 m, mìn Claymore cài lung tung .

-Sáng 16/3/75: Tại đất trống trước chi khu tấp nập trực thăng lên xuống, chở người đi, đến Vùng ỊI . CSQG Nha Trang cử lên 3 ông để thanh tra, uỷ lạo . Tội nghiệp Thiếu tá Lê Văn Diệu trưởng E, yểm trợ vùng cũng lót tót lên mong gặp vợ con . Ai có vợ con đều được ưu tiên cho đi Nha Trang bằng trực thăng . Vợ con tôi đâu ? Sao không chạy ra nhỉ ? Cũng tại tôi đã nói với vợ là cứ an tâm, ta không thua đâu .

-Sáng ngày 17/3/75: 7 giờ sáng Trung uý Lai, Thiếu tá Thành xin ra ngoài ngã ba, kiếm và thăm vợ cọn . OK! Nhưng về sớm nghe các ông .
Ngay sau đó, khoảng 15 phút, tôi thấy tiếng súng lớn nổ rền vang ngoài ngã ba Phưóc An, kèm theo tiếng súng nhỏ . Khoảng 1 giờ sau, Thiếu tá Thành chạy vào báo cho tôi biết . Tăng Việt Cộng đến nơi . Vào chi khu thôi vậy . Thiếu tá Thọ mời tôi vào họp . Tôi bảo ông Thành vô, vì tôi không thể rời quân lúc này, mà rời thì quân tan ngay . Thiếu tá Thành nói: Đại tá Tiếu chỉ thị cho CSDC vào chi khu tử thủ ngay lập tức, ông cũng cho biết bộ chỉ huy Tiểu khu và Chi khu đã rút chạy ngõ hậu .Thiếu tá Thọ phía hai pháo 105 ly .
Đã 7 năm lính, tôi đâu có khờ để mà làm chốt cho hai ông quan . Tôi ra lệnh quân r&uac
ute;t theo đường rừng ra Buôn Phê ở cây số 42, dừng chân nghỉ trong môt vựờn chuối lúc 1 giờ trưa . Đến cây số 62 lúc 7 giờ tối 17/3/75 . Lại kéo quân lên chiếm đồi 62 lần thứ hai .
-"Hưng, mày đó hả ?" Tôi gọi PRC cho Hưng, Thiếu tá TĐT DPQ M’Rong Ho(Chư Kuk) . "Tao đây, cần gì không ?" Nghe tiếng Hưng, tôi mừng quá . Tôi được biết bộ chỉ huy Chi Khu và tiểu khu nằm ở Chư Kuk đầy đủ cả .
Đứng trên đồi nhìn dân Ban Mê Thuột chạy ra, họ đốt lửa trên quốc lộ vòng vèo như con rồng lửa dài khoảng 2 km . Buồn quá, tái chiếm cái gì kỳ quá! Thua đơn giản quá! Dù đâu ? Biệt Cách đâu ? TQLC đâu ? Sao Saigon không gửi lên ? Vợ con đâu ? Nuôi 3 năm, dùng 1 ngày không lẽ tôi đào ngũ, trà trộn với dân ? Không được, cả tỉnh trông vào mình , một súng không đủ, 1000 súng sẽ mạnh .

-Ngày 18/3/75
Tôi xuống dưới đường gặp một vài lính SD 23 cầm M16. Họ nói là thuộc trung đoàn 44 trực thăng vận về cứu Ban Mê Thuột (?) Không gặp cấp chỉ huy (?) Đi lang thang .
7 giờ tối, tôi liên lạc Hưng . Thiếu tá Hưng cười trong máy khi tôi xin mua dùm gạo "Gạo cái gì mày! Có ăn bò thì lên tao cho vài con ăn chơi, gạo thì mậu, tao báo cho mày biết sáng mai tao "gô" Nha Trang đây . Tiểu đoàn gì mà còn có 17 lính Kinh, 42 lính Thượng . Tụi Tiểu khu vù hết về Nha Trang hồi chiều bằng trực thăng rồi mày ơi! Tại đây còn có mỗi tao và mày là còn súng còn đơn vị đó, có đi thì đi đi"
8 giờ tối, tôi tập họp các sĩ quan tham mưu của CSDC Darlac lại trong căn lều chì huy . Đi thôi các bạn ơi, 10 ngày không có quân lên cứu . Về hướng đi rừng

-Sáng 19/3/75
8 giờ sáng, trời Tây Nguyên còn mù sương núi, đứng trên đồi cao nhìn lại Ban Mê Thuột . Vĩnh biệt em và con yêu dấu !. Vĩnh biệt thành phố buồn !
Trung uý Lai đưa cho vợ và 3 con 50 ngàn đồng "Em ở lại, anh đi theo Đại uý" Nhiều nhiều nữa . Tăng đến cây số 52 nhìn thấy rồi, đánh không nổi đâu vì có ai đâu mà đánh, quân không đầu, cầm PRC 25 gọi khản cổ, vặn đủ tần số . Không có là không .
8 giờ 30, tôi đi đầu đưa 300 quân và 1500 dân chui vào rừng Chu Prong trực chỉ Khánh Dương .
Vĩnh biệt Tây Nguyên! Vĩnh biệt núi rừng! Vĩnh biệt người thân!

GHI THÊM CỦA NGƯỜI VIẾT

Sụ viết này đưọc viết bằng sự mắt thấy tai nghe cũng như bằng sự hạn chế của một người sĩ quan trẻ . Qua một số chiến hữu kể lại, tôi được biết Chiến Đoàn 3 Xung Kích (Lôi Hổ Vùng II) gồm 20 quân đã chiến đấu trong bộ Chỉ huy của họ cho đến khi biết rằng không có quân cứu viện . Một số ĐPQ, Nghĩa quân đã cùng cha xứ Châu Son(2 km bắc thị xã BMT) chiến đấu được 3 ngày cho đến lúc Việt Cộng phải dùng pháo và tăng đánh . 40 PRU đã mất tích tại Quảng Đức . Một đại đội thuộc Trinh Sát Sư đoàn 23 đã chiến đấu 3 ngày ở Phụng Dực (phi trường chính cách BMT 6 km) v…v…

Và còn nhiều nhiều, rất nhiều người đã ngã xuống, đã bắn địch đến viên đạn cuối cùng để bảo vệ tự do . Tôi rất cảm phục sự hy sinh vô bờ bến của họ . Chúng tôi chỉ muốn hỏi các ông Tướng : Tại sao không đưa quân lên tái chiếm Ban Mê Thuột trong lúc địch chỉ có 45 tăng T54, hai sư đoàn bộ binh, trong đó SD32 Thép chỉ còn tên chứ lính thì toàn mới . SD 316 Thiếu Nhi, nòng cốt chỉ có Trung đoàn 968 Đặc Công!! Vậy mà để sau đó hàng chục ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ đã phải rên xiết trong ngục tù khổ sai của Cộng sản trong suốt 10 năm qua . Hàng ngàn chiến sĩ đã chết trong ngục tù vì đói, lạnh, kiệt sức, bệnh tật (80% do kiết lỵ) hàng vạn con cái chiến sĩ đã phải đi bán xổ số, nhặt bao nylon bẩn, nhặt giấy vụn dù tuổi chưa được lên mười .
Tôi nhớ trong kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ có câu:

"Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương
Làm sao cho bách thế luu danh
Trưóc là sĩ sau là khanh tướng
Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giai phận sự
Nam nhi đáo thử thị hào hùng "

Tiếc thay! tài hèn sức mọn, quân không đồng lòng rồi còn cái gì nữa nhỉ! Bây giờ treo cờ VNCH cũng phải xin phép . Bao giờ thì cờ vàng ba sọc đỏ lại tung bay ở Việt Nam yêu dấu . 10 năm rồi đó các ông Tướng ơi!

Nguyễn Ngọc Tuấn
Nguyên Đại Đội Trưởng CSDC
Kiêm Chỉ Huy Phó Hànnh Quân BCH/CSQG Darlac
( Sinh Tồn chuyển )
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Hải Quân VNCH 30/4/1975 - nghiệt ngã & kiên cường

Bài của cựu Hải Quân Nguyễn Văn Phước -
Hạm Trưởng HQ 231


Lời nói đầu

Tôi chưa hề có ý dịnh viết lại cũng như không muốn nhớ tới những ngày cuối cùng của Tháng Tư Đen. Vì đến bây giờ, lịch sử đã phô bày rõ ràng là các nỗ lực chiến đấu của QL/VNCH nói chung và các thành viên trong đó nói riêng, đều vô vọng trong một ván bài đã được định sẵn của các cường quốc. Họ tạo ra một không khí hoảng loạn để các đơn vị QL/VNCH buông súng. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, vẫn có những nỗ lực kiên cường và những quyết tâm đơn độc để duy trì sức chiến đấu cho đơn vị đến tận giây phút cuối cùng trong những ngày của “Tháng Tư gọi là nghiệt ngã” đó.

Ăn cơm xong, tôi cầm túi xách nhỏ, từ biệt mẹ tôi để xuống tàu đi công tác. Bà nói: “Má thấy kỳ nầy nguy hiểm lắm nghe con. Đà Nẵng mất rồi. Má mua mấy bao gạo để dành. Con rán giữ gìn nghen”. Tôi gắt lời với bà cụ: “Má lúc nào cũng lo, làm tụi bán chợ đen có dịp thao túng.” Bà thẫn thờ nhìn tôi rời nhà chiều ngày 30/3/1975. Tàu tôi, HQ 231, đang sửa chữa đại kỳ, theo chương trình đến tháng 5/1975 mới xong. Nhưng vì biến động miền Trung, Bộ Tư Lịnh Hạm Đội [BTL/HD] ra lịnh HQCX sửa chữa gấp để HQ 231 lên đường tham dự chiến trận. Sau đây là những ngày giờ sau cùng của HQ 231.
Tàu tách bến lúc 5 giờ chiều, từ từ chạy qua tượng Đức Trần Hưng Đạo. Tôi đưa tay chào kính Ngài. Tôi thấy Ngài đưa tay chỉ xuống dòng sông và hình như Ngài nói: “Không đuổi được giặc đừng về đây”. Tôi nhận được lịnh hành quân đi Cam Ranh [BTL/ V2DH]. Cảm thấy chuyến đi nầy nhiều bất trắc, tôi ngồi thừ trên đài chỉ huy đến 12 giờkhuya. Lại có công điện thay đổi công tác: “Neo Vũng Tàu chờ lịnh mới”.

Sáng hôm sau, tôi lên trình diện BTL/V3DH tại Cát Lở, để nhận lịnh công tác khác. TMP/HQ là Thiếu tá Lê khánh Dư bảo: “Cam Ranh đang di tản, HQ 231 chưa ra đó được, chờ lịnh mới. Tạm thời đi tuần bảo vệ dàn khoan.” Cầm lịnh hành quân về tàu, tôi chuẩn bị nhổ neo đi công tác thì nhận được lịnh hủy bỏ. Tối hôm đó, tàu nhận được lịnh pháo mấy điểm ở Gành Ráng, mật khu địch quân. Tiếng đại bác 76,2 ly ầm ì, tôi có cảm giác như tiếng gầm rống cuối cùng của con sư tử, chúa tể rừng xanh, trước khi hậm hực bỏ vào rừng mất dạng.

Mấy ngày sau đó, chiến hạm được lịnh tuần tiễu canh chừng các thương thuyền và xà lan chở người di tản từ miền Trung về. Trên đó lúc nhúc đầy người. Các bà mẹ ôm các đứa con gầy rạc, thiểu não dơ lon ra xin nước uống. Tôi nhận được lịnh không được cập vào các xà lan và thương thuyền vì trên đó có bọn cướp giết người, đoạt của. Chúng tôi tận dụng mọi thứ, cái gì đựng nước được là đem ra xử dụng, rồi quăng qua các xà lan, tiếp tế một cách tuyệt vọng cho đồng bào trên đó để chia xẻ một chút tình người. Cảng Vũng Tàu náo động hẳn lên, đầy nghẹt thương thuyền và chiến hạm. Ngoài khơi, 2 chiếc LST của Đài Loan, im lìm đang neo chờ đón kiều bào của họ. Lính TQLC Đài Loan canh gác trên tàu, đứng im như các pho tượng.

Cuối cùng HQ 231 được lịnh đi Cam Ranh. Tàu rời Vũng Tàu cùng lúc với một Tuần Dương Hạm [WHEC] tiến vào. Đại Tá Nguyễn xuân Sơn, TL/HD, đang đứng trên đài chỉ huy của chiếc WHEC. Khi hai chiếc chạy ngang qua, tôi đưa tay chào kính. Tiếng Đại tá Sơn vang vang lên, hòa trong gió biển, vọng xuống: “Rán lên nghe Phước”. Đây là một hãnh diện vì trong bốn, năm chục ông hạm trưởng dưới quyền, ông vẫn nhớ đến tên tôi.

Trên đường đi Cam Ranh, công điện BTL/HD gởi ra tới tấp, dặn các hạm trưởng đích thân giữ chìa khóa kho súng, đề phòng phản loạn. Tôi bình tĩnh, kín đáo dặn riêng trung úy Hiển, sĩ quan trọng pháo, bảo ông giữ chìa khóa thay vì hạm trưởng, xem như tình hình vẫn bình thường. Mỗi sáng có công điện kỹ thuật, báo cáo tình trạng kỹ thuật của chiến hạm, tôi dặn hạm phó, tất cả các mục đều ghi tốt để tỏ thiện chí phục vụ và tránh gây ra ưu phiền cho BTL/HD. Vì vậy mà tàu phục vụ liên tục ngoài khơi gần một tháng.
Chiếc HQ 08 báo cáo hai máy bất khiển dụng, neo khẩn cấp ngoài khơi Phan Rang. Tôi cặp tàu vào, ghé thăm hạm trưởng thiêu tá Nguyễn Trường Yên. Anh là sĩ quan, chuyên nghiệp giỏi nhứt khóa tôi. Tàu đến Cam Ranh, BTL/V2DH đã di tản còn chơ vơ lại chiếc HQ605, hạm trưởng thiếu tá Trịnh như Toàn. Trên tàu có thiếu tá Đặng quang Lạc TMP/HQ/BTLV2DH. Tôi phỏng vấn anh Lạc, tình hình ra làm sao. Anh Lạc, một người năng nổ, đã từng bắt sống VC lúc còn là thiếu úy, bây giờ xuống sắc thấy rõ: “Tình hình kỳ cục lắm. Tao theo Đề Đốc Minh để đổ bộ Qui Nhơn. Đến nơi thì Qui Nhơn mất rồi. Lẹ không thể tưởng tượng được”. Tôi cười cười với anh: “Mất rồi thì lấy lại”. Bây giờ mới thấy là tôi quá ngốc nghếch.

Nha Trang vào tay địch, HQ 605 và HQ231 nhận lịnh án ngữ phòng tuyến phía bắc Cam Ranh, đề phòng tàu địch xâm nhập. Toàn rủ tôi vào vịnh Nha Trang quan sát, nơi mà chúng tôi theo học suốt hai năm, xem bây giờ ra sao.
HQ 605 chạy trước khuất vào trong vịnh giữa Bãi Dài thuộc Cam Ranh và Hòn Lớn. Tôi chuẩn bị quẹo theo anh thì nghe tiếng đại bác rít lên và tiếng Toàn trong máy: “Nó bắn tao Phước ơi”. Còi nhiệm sở tác chiến dồn dập, đại bác 76,2 ly và các khẩu 40 ly chỉa vào Cầu Đá Nha Trang tìm kẻ địch. Chiếc HQ 605 chạy ngược chiều trở ra, vải bố phía sau tàu bị bắn tơi tả. Tôi nhìn ống dòm quan sát, không thấy kẻ địch đâu, chỉ thấy dân chúng đi qua lại trên bờ thong thả. Trong tích tắc tôi quyết định quay ngươc lại trở ra vì tiến vào chỉ đưa đầu cho kẻ địch núp bắn, còn bắn ẩu thì chỉ chết dân.

HQ 605 được lịnh về Sài Gòn, HQ 231 ở lại đơn độc thi hành nhiệm vụ. Cam Ranh mất, tôi được lịnh về Phan Rang. Một chiếc tàu buôn Mỹ 20.000 tấn, tiến vào vịnh Phan Rang. Tàu tôi chớp đèn hỏi, nó trả lời, đến để di tản dân chúng. Cần ghi nhận ở đây, lúc đó Phan Rang chưa mất. Lúc đó thì ngạc nhiên, nhưng bây giờ thì thấy chương trình đã xếp đặt sẵn. Chiến hạm đi liên tục ngoài khơi nửa tháng, thức ăn tươi đã hết. Tôi xin cho tàu đi chợ Phan Rang. Chiếc tiểu đỉnh của tàu chở nhân viên đi chợ. Mai tiếng đồng hồ sau trở về. Mặt họ lộ vẻ hoảng hốt: T54 của địch xuất hiện ở chợ Phan Rang. Trên bầu trời, một trực thăng bay vần vũ gần một chiếc WHEC rồi một bóng người nhảy xuống biển. Sau đó mới biết là Thiếu Tướng Trần văn Nhựt TL/SD2BB. Mặt trận Phan Rang tan vỡ. Tàu tôi về trấn ở eo biển Cà Ná, phía nam Phan rang. Trên tàu, ngoài khơi, đặt ống dòm nhìn thấy quốc lộ 1 chạy dài dọc song song với bờ biển. Một làn không khí hăm hở thổi đến khi HQ 11 xuất hiện, hạm trưởng là Trung Tá Phạm đình San, ông là một sĩ quan dũng cảm, đã từng là hạm trưởng PT chở biệt kích ra Bắc.

Ban đêm, quốc lộ 1 sángrực lên, kéo thành một vệt dài như con rắn, uốn khúc theo sườn núi. Quân xa của địch, mở đèn sáng trưng, chạy nườm nượp như vào chỗ không người. Tôi thở dài: Phan Thiết chắc chắn rồi sẽ mất. Nhưng là chiến sĩ là phải chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. HQ 11 và HQ 231 tắt đèn tối om, tiến vào bờ và bắn trực xạ vào cái đám lúc nhúc đó. Nghe tiếng đại bác, chúng vội vàng tắt đèn đứng im. Chúng tôi cũng ngừng bắn vì không thấy bọn chúng. Khi chúng mở đèn tiếp tục chạy, chúng tôi lại bắn. Thỉnh thoảng một chiếc xe cháy đõ rực lên là biết trúng đạn của chiến hạm. Địch hoạt động suốt đêm. Chúng tôi cũng bắn phá suốt đêm không biết mệt vì nghỉ đến sự sống còn của đất nước. Chắc có lẽ địch bị thiệt hại nặng và bị ngăn chận không tiến nhanh được.

Sáng tờ mờ đã thấy nhiều chiếc T54 của chúng xuất hiện. Trung Tá San quả thật là một hạm trưởng gan lì và nhiệt huyết. Ông cho tàu tiến gẩn sát bờ đấu súng với T54. Nhưng chiến hạm bị bất lợi vì mục tiêu lồ lộ, còn bọn chúng núp vào khe núi bắn ra. Chúng tôi còn một bất lợi nữa là muốn tác xạ chính xác, chiến hạm phải luôn luôn di chuyển để giữ đúng hướng. Ngừng tại chỗ, gió và sóng biển sẽ làm chiến hạm xoay, không thể bắn chính xác được. Còn nếu tiếp tục chạy đưa mũi tàu vào bờ, đến một lúc nào đó, phải quay ra, lúc đó là mục tiêu cho địch bắn. Cho tàu chạy song song với bờ thì cũng là mục tiêu tốt cho địch.

Chúng tôi chỉ có hai, còn chúng vô số kể. Tàu HQ11 bị bắn trúng pháo tháp 40 ly và hầm máy. Một thượng sĩ đứt đầu chết tại chỗ, vài thủy thủ bị thương nặng. Trong khi đó, một trung đoàn của sư đoàn 2 bộ binh, án ngữ mũi Cà Ná, bị VC tràn ngập, các đơn vị của ta rút xuống biển, Dương vận hạm HQ503, hạm trưởng trung tá Nguyễn văn Lộc, có nhiệm vụ bốc các chiến sĩ của ta lên. Địch quân đặt đại bác trong khe núi bắn ra. Một viên trúng đài chỉ huy, hạm trưởng bị thương nơi đầu bất tỉnh.

Chúng tôi được lịnh rút ra khơi. HQ11 về Sài Gòn còn HQ231 đi Phan thiết. Trên đường đi, một máy bay thám thính không biết từ nơi đâu xà xuống trên đầu chiến hạm, lúc đó đang ở tình trạng ứng chiến. Thủy thủ chưa bao giờ đối phó với không chiến, có vẻ hoảng sợ. Tôi trấn an bằng cách truyền đạt cho thủy đoàn biết: “Can đảm thì có cơ hội sống còn và máy bay địch luôn luôn tìm cách bắn đài chỉ huy trước”. Thủy thủ lên tinh thần. Máy bay đi một vòng xa, quay trở lại lượn trên đầu chúng tôi. Các khẩu pháo chỉa lên trời tua tủa. Máy bay vội vàng lảng xa. Sau đó mới biết là máy bay KQ/VNCH vì trong lúc hoảng loạn, truyền tin không liên lạc lẫn nhau được nên tưởng lầm chúng tôi là Hải Quân Bắc Cộng.

Tàu về Phan Thiết vào buổi chiều, lại nhận lịnh pháo kích núi Tà Cú ở phía nam Phan thiết. Có thể đây là điểm tập trung của Cộng quân. Đo trên hải đồ, tầm xa khoảng 22.000 yards trong khi đó tầm bắn của 76,2 ly là 20.000 yards .Tôi báo cáo cấp trên. Lại nhận lịnh cứ thi hành. Mệt mỏi vì pháo suốt đêm, tôi ngủ gà ngủ gật trên đài chỉ huy. Sáng hôm sau bừng tỉnh dậy, một cảnh tượng thật huy hoàng, khoảng 30 chiến hạm HQ/VNCH đang chỉa mủi tàu vào bờ biển phía nam Phan Thiết, các khẩu đại bác với tư thế sẵn sàng nhả đạn. Cảnh tượng hung vĩ giống như trận đổ bộ của Đồng Minh ở Normandie. Hào khí dâng lên trong lòng tôi. Đang ngất ngây với cảnh tượng đó thì nhận được lịnh về Vũng Tàu nhận tiếp tế nhiên liệu và đạn dược.
Buổi chiều về neo ở Vũng Tàu. Sáng hôm sau, một số đoàn viên lên bờ nghỉ xả hơi vì đi liên tục 20 ngày rồi. Vũng Tàu hơi lao xao nhưng sinh hoạt vẫn bình thường. Tôi và một số sĩ quan vào ăn hủ tiếu ở bồng binh trước chợ gần phòng thông tin. Khi xong, tôi từ giã các sĩ quan đi thăm một người bạn. Bước ra ngoài, có một người chận tôi lại. Anh ăn mặc tươm tất và trông phương phi. Anh nói: “Tôi muốn nói chuyện với hạm trưởng”. Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Làm sao ông biết tôi”. Anh chỉ vào huy hiệu hạm trưởng mà tôi đeo trên nắp túi áo bên trái. À ra thế, tôi cười cười với anh ta: “Như vậy là anh có nghiên cứu trước”. Anh đưa tôi vào tiệm kem kế bên rồi đề cập thẳng: “Miền Nam sẽ mất, tôi là người Hoa kiều buôn bán, tôi không thể sống dưới chế độ cộng sản. Tôi muốn đi Singapore. Ông có phương tiện. Tôi trả tiền ông mỗi đầu người 5 lượng vàng. Qua Singapore, tôi giúp ông kiếm việc làm”. Tôi lại cười cười hỏi: “Bao nhiêu người”. Anh trả lời: “Khoảng 40 người, có thể hơn”. Tôi nhẩm tính: “200 lượng vàng”. Lúc đó tôi không mường tượng được một lượng vàng ra làm sao. Tôi có bao giờ thấy nó đâu, tính là tính vậy thôi. Tôi trả lời cho qua chuyện: “Ông ở chỗ nào, cho tôi biết tôi sẽ liên lạc sau”. Anh đưa tôi một visiting card đề tên phía trước, mặt sau anh viết tay tên khách sạn và số phòng ở tại Vũng Tàu. Tôi từ biệt, anh bịn rịn cứ nhắc: “Nhớ nghe ông hạm trưởng”. Nhưng tôi có nhớ gỉ đâu rồi quên hẳn đi.

Tôi đi Cát lở, ghé Duyên Đoàn 32 thăm thiêu tá Nguyễn hữu Thiện CHT/DD. Ở đó bảo anh đi hành quân ở Bình Tuy rồi. Tôi trở về tàu. Buổi chiều tôi vận chuyển tàu cập vào HQ802 để tiếp tế nhiên liệu và nước ngọt. Tôi ở lại tàu vì không quen ai ở HQ802. Một sĩ quan qua chơi về cho tôi biết Tổng Thống Thiệu nói chuyện trước Quốc Hội, trực tiếp truyền hình. Tôi trèo qua HQ802, đến phòng ăn sĩ quan đông nghẹt người. Hình ảnh Tổng Thống Thiệu thấp thoáng, hình như ông ấy khóc. Tôi thẫn thờ, bao nhiêu biến cố dồn dập. Tôi không biết suy nghĩ gì chỉ cảm thấy đất nước đang lâm nguy.

Sáng sớm hôm sau, HQ231 nhổ neo đi Căn Cứ Hải Quân Đồng Tâm trình diện BTL/Lực Lượng Thủy Bộ, cùng lúc với HQ228 đi Cần Thơ (BTL/V4SN ), hạm trưởng là thiếu tá Nguyễn hoàng Be. Gần đến Mỹ Tho, tôi nhận lịnh xuống cù lao An Long (Long Xuyên) biệt phái cho Bộ Chỉ Huy Liên Giang Đoàn ở đó, CHT là thiếu tá Nguyễn Thìn (nhạc sĩ Trường Sa). Tàu vừa neo, một chiếc LCVP chờ sẵn đón tôi qua Cơ xưởng hạm gần đó, CHT là đại úy Phạm văn Bảy. Anh có một bữa cơm nhỏ chờ tôi. Anh cho biết ở đây yên tĩnh, dân xung quanh theo đạo Hòa Hảo, VC không hoạt động được. Tôi cũng cảm thấy thế, không khí thật thanh bình.

Sáng sau, tôi gặp thiếu tá Thìn. Ông ngạc nhiên: “Không biết tại sao họ đưa ông xuống dưới nầy. Tình hình ở đây yên lắm đâu cần tàu ông”. Tôi cũng thắc mắc tình trạng kỳ quái đó. Tình hình chiến sự và chính trị ở đất liền dồn dập hàng ngày. Tôi ở ngoài biển suốt gần một tháng đâu biết gì. Sẵn dịp tôi nói với thiếu tá Thìn: “Nếu không cần, cho tôi về Sài Gòn một, hai ngày, xem sao”. Thiếu tá Thìn nói: “Ờ, ông đi đi. Tôi cấp cho ông một PCF đưa ông về Bắc Mỹ Thuận, từ đó ông đi đường bộ về Sài Gòn cho lẹ”. Ông viết một bức thơ nhờ tôi đưa về gia đình.

Về tàu, tôi dặn Hạm Phó chăm sóc tàu và chọn một sĩ quan đi theo tôi để mang thơ từ của sĩ quan và đoàn viên về Sài Gòn. Tôi đặt chân về nhà xế chiều ngày 26 tháng 4, ăn một bữa cơm gia đình ấm áp. Sáng 27 tôi vào BTL/HQ thì gặp thiếu tá Toàn, hạm trưởng HQ605. Chúng tôi đi ăn sáng, Toàn ra vẻ thạo về chánh trị: “Sẽ có giải pháp chánh trị, mầy yên tâm về tàu đi”. Tôi yên chí, vui vẻ đi thăm người anh ruột làm việc ở sở Hàng Hà. Anh ngây thơ, hiền lành không có suy nghĩ gì chỉ biết làm việc thôi. Tình hình Sài Gòn rất lộn xộn, người nói nầy, kẻ nói khác. Không ai nghĩ rằng người Mỹ sẽ rút bỏ. Riêng tôi cứ cho là chánh phủ sẽ rút về Cần thơ tiếp tục đánh.

Sáng ngày 28, tôi ra bến xe đò Phú Lâm để đi Long Xuyên. Bến xe đầy nghẹt người, không có chiếc nào khởi hành được vì cầu Bến Lức bị VC chận. Tôi trở về Sài Gòn đến hãng HKVN gần chợ Bến Thành xếp hàng mua vé đi Cần Thơ. Đến đúng phiên tôi lại hết vé, cô nữ tiếp viên nhã nhặn xin phép đóng cửa quày. Tôi lại trở ra Phú lâm, cũng không có kết quả. Bỗng nhiên có người nói lớn: “Ngả Gò Công đi được”. Tôi trở về đến bến xe Gò Công ở Ngả Bảy. Người ta chạy tới chạy lui nhộn nhịp. Tôi kiếm một quán nước ngồi xem tình hình. Bỗng có một anh chàng lái xe Honda, phía trước ôm một sac marin. Anh rồ ga rùum ...rùum...rùum, hất hàm hỏi tôi: “Anh đi Gò Công hả”. Tôi gật đầu. Anh bảo: lên đây đi với tôi. Tôi phóng lên ngồi phía sau anh. Sau đó anh cho biết anh là nhân viên quân cảnh, rời đơn vị từ Tây Ninh về đơn vị ở Gò Công, đi một mình lạnh cẳng, anh rủ tôi đi cùng cho vui. Quốc lộ 4 vắng tanh, một vài chiếc xe đò bị giật mìn nằm dọc đường. Anh lái bạt mạng, lạng qua bên nầy, lạng qua bên kia, tôi ôm cứng eo ếch anh. Vậy mà cũng đến được bến phà Gò Công. Anh quân cảnh bỏ tôi ở đó. Tôi qua phà, đến Mỹ Tho trời chạng vạng tối.

Ngủ đêm tại Mỹ Tho, 5 giờ sáng ngày 29, tôi lò mò ra bến xe. Hai bữa rồi không có chiếc nào chạy được, tài xế đói meo. Trời xui đất khiến thế nào, chiếc xe đò tôi mua vé, tài xế quyết định chạy. Quốc lộ 1 vắng tanh, không khí chiến tranh thấy rõ. Không một xe đạp, không một xe gắn máy, không một bòng người, Xe chạy được một đoạn đường lại ngừng, chờ xe đò đi ngược chiều, hỏi thăm có sao không rồi chạy tiếp. Đoạn đường qua Cai Lậy mới là hồi hộp. Cuối cùng tới Bắc Mỹ Thuận, tôi thở phào một cái.

Qua Bắc, không khí khác hẳn, cảnh vật thật thanh bình, người dân hình như không biết đến chiến tranh là gì. Rồi đến Long Xuyên, rồi đến Tân châu vào chiều tối. Tôi gặp thiếu tá Ngô như Chương CHT Giang Đoàn Tuần Thám đóng tại đây. Tôi và anh nói chuyện tới 10 giờkhuya rồi anh đưa tôi về tàu. Bước lên tàu, sĩ quan trực đưa mấy công điện “hỏa tốc”, là độ khẩn cao nhứt, bảo nhổ neo về Đồng Tâm, Mỹ Tho. Công điện cuối cùng bảo thi hành ngay và báo cáo. Điểm danh nhân viên, thiếu hạm phó và vài thủy thủ. Tôi quyết định nhổ neo vì nếu chậm trễ trong khi căn cứ Đồng Tâm bị tấn công thì sao”. Cứu binh còn hơn chữa lửa. Vả lại, những người vắng mặt, ngày mai có thể liên lạc với Cơ xưởng hạm tìm biết vị trí của chiến hạm để tìm đường về, nếu họ muốn.

Tàu giang hành ban đêm, tôi thức suốt đêm trên đài chỉ huy. Vào khoảng 2 giờ sáng, gặp một đoàn công voa của Quân Vận đi ngược chiều, dài mấy cây số. Đi sát gần bên, tôi hỏi lớn: “Từ đâu đến, đi về đâu”. Họ trả lời: “Từ Sài Gòn, đi Cần Thơ”. Tôi lại đinh ninh là chánh phủ sẽ di chuyển về Cần Thơ. Tự suy diễn để an tâm chiến đấu.

Sáu giờ sáng, tàu đến Đồng Tâm. Căn cứ Hải Quân Đồng Tâm đồn trú bên một cái hồ rất lớn, thông ra dòng sông cái. Tôi chuẩn bị quẹo tàu vào thì ở trong ùa ra hàng trăm tiểu đỉnh đủ mọi loại: thủy bộ, ngăn chận, LCVP... giống như một đàn cá tuồn qua một cổ chai. Không phải một cuộc di chuyển bình thường mà là một cuộc tháo chạy. Tôi ngạc nhiên quá, cho tàu ngưng máy và thả trôi lềnh bềnh. Một chiếc tiểu đỉnh cặp vào tàu, một viên trung úy đến chào tôi: “Trong căn cứ không còn ai. Một thiếu tá trở cờ, đang khống chế căn cứ. Họ sẽ kêu hạm trưởng vào để bắt giữ chiến hạm. Hạm trưởng ở đây thâm niên nhứt. Chúng tôi đặt dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng.”
Tôi mất bình tĩnh, không ngờ sự việc xảy ra diễn tiến như vậy. Giải quyết sao đây. Tôi bảo ông trung úy: “Ông ra lịnh cho các tiểu đỉnh ủi bãi vào cù lao, chờ đó”. Ở đây cần nhấn mạnh đến tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Hải Quân, đồn trú ở CCHQ/Đồng Tâm, là bằng chứng hùng hồn lòng kiên cường của binh sỉ QLVNCH.

Tôi bảo phòng vô tuyến liên lạc với BTL/HD. Phòng vô tuyến trả lời, tất cả đều đổi tần số không liên lạc được. BTL/HD là nơi chỉ huy chính gốc của tôi, BTL/LLTB là nơi biệt phái. Một nơi không liên lạc được, một nơi bị khống chế. Làm sao đây. Vào lúc đó CCHQ/DT gọi qua máy âm thoại PRC25: “Yêu cầu HQ231 vào cặp cầu căn cứ để nhận tiếp tế và nhận chỉ thị”. Tôi cầm ống liên hợp hỏi lại: “Cho tôi nói chuyện với ông số 1”. Tiếng trên máy trả lời: “Ông sô 1 đi họp với sư đoàn 7 rồi”. Tôi hỏi tiếp ông số 2 đâu. Trả lời: ông số 2 cũng đi rồi. Tôi hỏi dồn, còn ông số 3. Trên máy trả lời là không có luôn. Như vậy là quá rõ ràng, họ muốn bắt giữ HQ231. Tôi gằn giọng: “Anh là ai, anh không có thẩm quyền chỉ huy tôi”. Tiếng trên máy đổi giọng đe dọa: “Anh không tuân lịnh, tôi kêu mấy con chuồn chuồn bắn anh”. Tôi biết tỏng tòng tong là hắn hù tôi. Trên trời có mấy chiếc trực thăng, nhưng họ cũng lo bấn xúc xích, hơi đâu mà đi bắn đơn vị bạn.

Tôi cười thành tiếng trên máy “Anh lòi đuôi anh ra rồi, anh không phải là sĩ quan Hải Quân chính cống, không biết một tí gì về Hải Quân. Anh không biết hỏa lực con cá tôi mạnh đến mức nào. Hai con chuồn chuồn không ăn thua gì đâu, anh phải kêu 10 con chuồn chuồn mới hạ được tôi”.

Tiếng nói trên máy im bặt, hình như hắn bối rối. Tôi nạp thêm: “Anh cho tôi biết ý định của anh đi, nếu anh còn tiếp tục chiến đấu, tôi sẵn sàng yểm trợ anh. Còn không, anh đừng gọi tôi”. Đến phiên tôi, tôi bối rối khủng khiếp. Bây giờ làm sao đây. Tôi cảm như rơi xuống một vực thẳm tối om, có một lực nào đó lôi tôi tuồn tuột xuống, không bám víu vào đâu được. Các tiểu đỉnh bơ vơ, còn bám lấy tôi. Còn tôi bơ vơ, tôi bám vào đâu”.

Chiến hạm vẫn chạy tới, chạy lui trước Mỹ Tho và căn cứ Đồng Tâm. Một thủy thủ mang một radio lên đài chỉ huy, mở lớn cho tôi nghe. Tiếng Tổng Thống Dương văn Minh làm nghẹn lòng người: yêu cầu QLVNCH buông súng ngừng chiến đấu, ai ở đâu thì ở đó. Lời nói của Tổng Thống Minh như muôn ngàn mũi tên cắm vào thân thể tôi. Tôi như Từ Hải chết ngoài trận tiền. Một làn khí lạnh chạy suốt xương sống. Mồ hôi đổ ra đẵm ướt đầy mình. Tôi ngồi bất động, không biết bao nhiêu lâu, có thể là 5 phút, có thể là 10 phút mà cũng có thể hơn. Hoàn hồn lại, tôi nghĩ ngay là phải cứu con tàu. Biết đâu được, có một lực lượng nào còn chiến đấu thì sao. Sực nhớ tới hàng trăm tiểu đỉnh đang ủi bãi ở cù lao, nhưng Tổng Thống Minh đã tuyên bố đầu hàng rồi, tôi không còn trách nhiệm nữa. Còn sinh mạng họ. Tôi không thể tập họp, hỏi ai đi ai ở. Vì như vậy, cộng quân đủ thời giờ phong tỏa một khúc sông nào đó trên đường tàu ra cửa biển.

Tôi quyết định quay tàu ra cửa biển. Hai máy tiến full, động cơ nổ ầm ầm, nước rẽ sóng hai bên mũi tàu trắng xóa. Tàu đang ở nhiệm sở tác chiến. Khi nghe Tổng Thống Minh tuyên bố đầu hàng, thủy thủ đoàn tự động tan hàng. Họ đứng tụm năm, tụm ba bàn tán, có người mang hành lý ra sân tàu. Tôi biết tình hình bất ổn, không khéo có nổi loạn. Cuối cùng việc gì đến sẽ đến. Họ cử thiếu úy Long lên nói chuyện với tôi. Ông đứng dưới cầu thang nói vọng lên đài chỉ huy, giọng nói to tiếng hơn ngày thường: “Hạm trưởng, quay tàu về Mỹ Tho cho tụi tôi lên bờ”.

Nghĩ cho cùng, cách cư xử và lời nói của thiếu úy Long hoàn toàn đúng. Quân đội tan hàng rồi, thủy thủ có quyền đòi hỏi trở về với gia đình. Mục đích của tôi là muốn gìn giữ con tàu. Nếu tàu cặp bến Mỹ Tho, thủy thủ rời tàu, lập tức HQ231 sẽ là đống sắt vụn. Mục đích thứ hai là tôi thầm mong được tiếp tục chiến đấu, dại gì nộp con tàu cho kẻ địch. Làm theo lời thiếu úy Long là không được mà cứng rắn với thủy thủ đoàn lại càng không xong. Phải dùng tình cảm thôi.

Tôi nghiêm sắc mặt nói với thiếu úy Long: “Mặc dù chúng ta ở tình hình như thế này, nhưng truyền thống của Hải Quân, một sĩ quan đàn em nói với đàn anh như vậy sao”. Bình thường thiếu úy Long là một sĩ quan năng nổ, làm việc chăm chỉ và rất kỷ luật. Ông đã trui rèn hai năm ở quân trường, thấm nhuần truyền thống của Hải Quân, vì vậy ông thấm ý lời tôi nói. Ông đứng im. Tôi nói tiếp: “Thôi ông tập họp nhân viên cho tôi nói chuyện”.

Quân số thủy thủ đoàn vào khoảng 80 người. Họ đứng im phăng phắc, gương mặt rất nghiêm trọng. Chỉ có mình tôi là còn mặc áo giáp, đội nón sắt. Bỗng nhiên hôm đó, tôi nói rất hùng hồn. Đại khái: “Mọi người thấy rõ, tôi làm việc cho con tàu, cho Hải Quân, cho Quân Đội. Thủy thủ đoàn ở dưới tàu được chăm sóc đầy đủ quyền lợi. Tôi quyết định ra biển có 2 lý do: thứ nhứt là gìn giữ con tàu. Quay trở lại cặp bến, người ta sẽ phá con tàu, đây là tài sản của quốc gia. Thứ hai là bảo vệ sinh mạng các anh. Mặc dù quân đội tan hàng rồi, tôi vẫn còn trách nhiệm. Trong lúc tranh sáng, tranh tối các anh lên bờ có thể bị giết. Tôi hứa với các anh là, khi ra biển rồi, tình hình bình yên, ai muốn về tôi cho về. Phương tiện ghe đánh cá nhiều lắm. Tôi hứa”.

Tôi biết, phần đông các cuộc loạn trên tàu là do hạm trưởng hoặc thuyền trưởng o ép quá đáng. Tôi muốn làm cho rõ trắng đen để mọi người đều hả dạ. Nhưng để lái theo ý mình, phải khôn khéo một tí xíu cộng thêm một tí tình cảm. Tôi quyết định trưng cầu dân ý. Tôi nói: “Bây giờ, tôi lấy ý kiến các anh, bên nào đa số tôi làm theo. Tôi đặt ra 2 câu hỏi, thứ nhứt, ai muốn quay lại Mỹ Tho lên bờ, thứ nhì, ai theo tôi ra biển rồi sau đó muốn về thì về”. Tôi biết cái gì đưa ra đầu tiên, người ta bỡ ngỡ, ngập ngừng, ngại quyết định. Tôi nắm tâm lý đó. Vả lại, ý kiến thứ hai hấp dẫn hơn, đi thì cứ đi rồi sau đó muốn về thì về. Tôi biết chắc là tôi sẽ thắng. Nhưng để chắc ăn, tôi nêu câu thứ nhứt trước: “Ai muốn quay tàu lại Mỹ Tho”. Không ai đưa tay lên. Tôi lập lại lần thứ nhì rồi lần thứ ba. Không có người nào đưa tay. Tôi mừng thầm trong bụng vì biết là mình thắng rồi.

Tôi nói tiếp: “Bây giờ tôi sang câu thứ hai, ai theo tôi ra biển rồi muốn về thì về”. Một người đưa tay, hai người rồi ba rồi cả tàu. Một chiến thắng tuyệt đối. Nhấn mạnh ở đây là không có cò mồi. Tôi vẫn trầm tĩnh, nhẹ nhàng: “Như vậy là các anh đồng ý với tôi hết rồi, phải không” Các anh tiếp tục làm việc. Nhớ là ai muốn vào bờ cứ gặp tôi. Thôi tan hàng”. Mọi người vui vẻ mà tôi không bận tâm nữa.

Chiến hạm ra cửa biển bằng cửa Tiểu vào buổi chiều. Nhạc sĩ Trường Sa bập bềnh sóng nước trên chiếc Coast Guard. Ông gọi tôi, tôi ngừng lại để ông lên tàu. Tối hôm đó, bắt được tần số của Hạm Đội, tất cả tàu đang tập trung tại Côn Sơn. Trên đường đi, tôi gặp HQ228, hạm trưởng thiếu tá Vương thế Tuấn, cũng lạc loài bơ vơ như tôi. Chúng tôi ngừng lại cứu hai chiếc LCM, chết máy thả trôi lềnh bềnh, từ cửa Định An đi ra. Mỗi chiếc khoảng hai trăm người. Chúng tôi đến Côn Sơn rồi theo đoàn tàu qua Subic. Đến Subic, tôi là người cuối cùng rời tàu.

Một viên đại úy bộ binh, trong đám người di tản trên chiếc LCM, cố chờ tôi trên bờ, đến bắt tay tôi: “Tôi di tản từ miền Trung về, chưa thấy tàu nào có kỷ luật như tàu của ông”. Tôi cầm tay ông siết nhè nhẹ. Tôi thẫn thờ không nói được lời nào. Tôi muốn chia xẻ tình chiến hữu với ông. Nhưng trong lòng trăm mối ngổn ngang. Tình nước, tình nhà còn đó. Nhưng từ đây tất cả bỏ lại sau lưng. Bỏ lại quê hương yêu dấu, bỏ lại Hải Quân, bỏ lại biển xanh lồng lộng, bỏ lại Mẹ già và bỏ lại con tàu thân yêu.

Nguyễn Văn Phước
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Image

NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT VỀ LÝ TỐNG.

Năm 1975, sĩ quan còn ở lại đều phải vào “tù” hay cải tạo, sở dĩ tôi phải đề hai chữ cải tạo và tù vì cũng trên diễn đàn này, cách đây vài năm tôi đã tranh cãi về hai chữ này, và sau đó, một đề tài đăng trên biệt động đã đồng quan điểm với tôi,
vì vậy tôi viết chữ cải tạo trong những điều tôi biết về Lý Tống, như một người có một thời cải tạo tại tổng trại 6, tổng trại 5 và trại A 30.
Tôi không biết Lý Tống trước nắm 1975, sau năm 1975,
khi vào tổng trại 6 tại trung tâm huấn luyện Lam Sơn, tôi cũng chưa biết Lý Tống là ai.
Tổng trại 6 chia làm nhiều trại, trại cấp tá hay những thành phần cộng sản cho là đối tượng quan trọng vào trại 1, sau đó kế tiếp là 2, 3, 4, 5.
Lý Tống ở trại 4 hay 5,
tôi không chính xác.
Các trại nằm dọc theo đường từ cổng trung tâm huấn luyên Lam Sơn, chạy dài hơn cây số. Mấy tháng đầu bọn cai trại cho thoải mái, hàng ngày lao động nhẹ, chặt củi, chặt lá kè,
lợp nhà, đào giếng nước… hàng ngày, buổi trưa, tới chiều ai có người nhà đều được thăm, tại khu thăm nuôi.
Bỗng có tin từ trại 4, có Lý Tống vượt trại, trong thời kỳ này, thật ra nếu ai muốn đi,
cũng không khó khăn lắm vì việt cộng còn lơi là, nghe tin từ dưới trại 4, tôi biết Lý Tống là pilot A 37, bị bắn rơi tại Phan Rang.
Lý Tống đã lợi dụng lơi lỏng trong quản lý, Tống không biết móc nối hay làm sao mà chui nằm dưới bụng chiếc xe tải, thật ra chỉ nghe nói,
không hình dung Tống nằm như thế nào. Xe chạy ngược lên Ban Mê Thuột, tại đèo Phượng Hoàng, Việt cộng bắt Tống, giải giao về trại 4,
khi biết Tống trốn trại.
Tại trại 4, bọn quản chế, bắt Lý Tống quì xuống đất,
Tống không thi hành, và banh ngực ra, nói các anh muốn bắn, cứ bắn, không chịu quì,
câu chuyện này nổi lên và từ đó ai cũng nghe tên Lý Tống, sau này tại trại tôi, cùng tổng trại với Lý Tống, có hai thiếu tá bị tên Sơn Khói gài rủ vượt trại và bị bắn chết, sở dĩ biết bị gài vì 3 người vượt trại, bọn bảo vệ bắn chết 2, và mang tên Sơn khói, làm bộ nhốt nhà cùm nhưng được ăn uống đầy đủ, và được cho thuốc lá,
nhiều người bị nhốt đều trông thấy.
Khi tên Sơn khói được thả,
về làm đội trưởng đội cấp tá cho tới khi trại này chuyển lên Củng Sôn, Tuy Hòa, Sơn khói vẫn làm đội trưởng.
Khi tổng trại 6 di chuyển lên tổng trại 5 tại Sơn Hòa, Củng Sơn, Lý Tống cũng đi theo và ở trại 54.
Tôi theo trại cấp tá, ỡ trong rừng, là trại 53.
Tại đây cải tạo viên vẫn đi làm, nhưng một hôm nghe anh em trại 54, khi ra ngoài chặt cây gặp những người trại 53, Lý Tống không chịu học tập và chống đối, bị cùm, biệt giam. Tống bị nhốt tại một dãy nhà cùm, nằm ngoài vòng đai của trại 54, nhưng có mấy vọng gác của cảnh vệ.
Một hôm, vào khỏng 5 giờ sáng, anh em tại trại 54 la rất lớn:
“các anh em ơi, tụi việt cộng muốn giết tôi”,
người nghe kể lại, buổi sáng nên ai cũng nghe rất rõ,
nhưng không ai làm gì được, trong khi đó Lý Tống vẫn tiếp tục la cho tới sáng, mọi người đều thức dậy, nhưng không nghe tiếng súng, ai cũng hy vọng Lý Tống không bị đánh chết.
Thật ra sau này Lý Tống kể chuyện cho anh em trại 53
(trại tôi) nghe, đêm hôm đó,
trời còn tối, hai tên cảnh vệ,
tới nhà cùm, nói, anh Tống,
trại tha anh rồi, ra khỏi nhà cùm theo tụi tôi về với anh em cải tạo viên,
Lý Tống biết, đây chỉ là bọn cảnh vệ dụ Tống ra khỏi nhà cùm là bắn, rồi đổ tội Lý Tống cố tình trốn nhà cùm, buổi tối và bắn bỏ.
Lý Tống không ra, và nói với hai tên cảnh vệ, các anh thả tôi,
chờ trời sáng, trại viên ngủ dậy, mọi người đầu biết, tôi sẽ theo ra, còn bây giờ, tôi không ra khỏi nhà cùm này.
Nói xong, Tống nằm và la làng, Tống nói bị mấy báng súng nhưng vẫn không ra, càng la to.
Mấy ngày sau, Lý Tống bị chuyển trại, lên trại 53, trại cấp tá và thành phần thuộc đối tượng nguy hiểm nhất,
trong đó có đại tá Lương,
lữ đoàn trưởng Dù, và Thành khóa 19, tiểu đoàn trưởng Dù, cùng chung trại.
Tôi biết Tống từ đó, vì chung trại 53, nhưng tôi và Tống không cùng chung lán, tuy vậy hàng ngày nhiều khi đi làm chung,
tôi biết thêm về Tống, Tống nói chung, cao ráo, đẹp trai, trắng và hơi thư sinh, khi nói chuyện,
hay khôi hài, nhưng không có gì là khác với anh em, tôi hỏi Tống, hồi làm sao mày bị bắt năm 75,
Tống cười, máy bay tao bị bắn, nhảy dù rơi trên một rẫy mía ngút ngàn, tao cuộn dù, dấu trong đám mía, tính theo đám mía chờ tối là đi, không ngờ tụi chăn bò, thấy từ trên trời, tao đi đâu,
tụi chăn bò theo đó,
cuối cùng du kích tới bắt.
Tại trại 53, Tống không có ai thăm nuôi, con bà sơ 100/100, những người khác 3 tháng được thăm một lần, thỉnh thỏang, anh em cũng chia chút đường, chút bánh cho Tống.
Tống ăn rất mạnh, ăn hết phần mì của mình, ăn thêm mì của anh em, nó để một cái nón nhựa,
buổi sáng ai thấy mình dư mì,
cứ để vào đó, Tống cặm cụi lấy chày nhào quết thành một trái banh nhỏ và ăn lần.
Qua trại 53, Tống bắt đầu học thổi sáo, ai đã từng nghe tiếng sáo của người mới tập thổi,
thì mới thấy khó chịu ghê gớm,
cứ trưa hè mà nghe tiếng sáo Tống thổi là muốn điên, ai nói sao thì nói, Tống không giận hờn và tiếp tục…
Vào dịp Tết, mọi người được thăm nuôi, đội nào cũng đi làm, nhưng khi có người nhà,
cảnh vệ sẽ gọi tên cho thăm,
Lý Tống được kêu tên,
người thăm, nghe nói là anh ruột của Tống, dạy đại học ở Hà Nội, bọn cán bộ trại biết như vậy nên rất sốt sắng, cho người kêu Tống,
Tống nói:
“tôi không có bà con, anh em gì hết, làm sao ai thăm tôi được. Trại cho tên quản giáo gọi Tống, Tống nhất định không đi,
cuối cùng đành chịu, và anh Lý Tống phải về. Tống có một đặc điểm, không bao giờ đi dép cao su do trại phát mà chỉ đi chân đất, đôi dép quàng trên cổ tòn ten, phải nói, không dễ gì, khi đi rừng, khiêng súc, chặt tre mà không có dép.
Hỏi Tống, sao mày không mang dép Tống, nó trả lời gọn:
“Da Chân mòn thì còn mọc da khác, dép mòn ai phát dép mới mà đi “,
Tống là người nổi danh với câu nói:
“Con gì nhúc nhích là ăn hết”, cóc nhái, ễnh ương, rắn rít mà gặp Tống, coi như xong, nó lột da cóc, giã thịt cho thật nát,
cho chút muối, nướng ăn ngon lành.
Đặc biệt Tống ít nói về trốn trại hay ý định gì, vì vậy không ai biết Trong đầu Tống nghĩ gì,
Tống không có bạn thân,
nhưng không có người ghét,
một người bề ngoài, không khác ai trong anh em cải tạo.
Trại 53 khi giao lại cho Công An, được di chuyển về Tuy Hòa,
nằm trên một đồng bằng chung quanh là lúa và rẫy, thuộc ấp Thạch Thành, trại A 30.
Về A 30, tôi khác lán với Tống, nhưng đều bị trong trại, ra vào trại đều phải qua nhà gác của công an, chung quanh hàng rào trại có chòi canh,
và hàng rào kẽm gai, những đội mộc, đội rau, đội văn nghệ,
gọi là đội tự giác, ở ngoài,
hàng ngày vào trại lảnh cơm và nước.
Đội tôi và đội Lý Tống, làm ruộng, sáng phải ra ruộng, chiều tối,
tắm rửa, đếm số, vào trại.
Tuy không chung đội nhưng gặp nhau vẫn chào hỏi, như đã nói, Tống không có bạn Thân.
Hai đội làm ruộng gần nhau,
Tống vẫn không có thăm nuôi, nhưng nghe nói, khi Tống làm đội xay sát gạo, có một cô trong đội văn nghệ rất thích Tống, ai cũng nói đầu dây mối nhợ là do người này báo cho Tống, tôi không tin, vì tuy hai đội văn nghệ và xay sát gạo gần nhau, nhưng không được tự do nói chuyện.
Một hôm, vào năm 1980,
tôi nấu nước cho đội tôi,
sau giờ trưa, anh em nghỉ trưa,
ra ruộng làm buổi chiều, tôi bắt đầu đi lấy củi để nấu nước cho anh em cải tạo ngày hôm sau,
tôi đi khá xa, vào các rẫy lấy củi, nhờ vậy mà tôi quen nhiều người làm rẫy, trồng mía,
tới mùa làm đường, tôi mang hai ba loong gô theo, nhiều cô làm mai xin tiếp đường cho tôi đường non mang về, tôi chia cho mấy bạn thân cùng lán ăn thoải mái, ngày mai xin tiếp (phải nói, lúc này dân chúng thấy rõ cộng sản rồi, nên rất cảm tình với người cải tạo), mới có dịp ăn đường non mệt nghỉ.
Mấy cô làm mía, tiếc gì một loong gô đường.
Đây nói chuyện Tống, một hôm tôi đi ngang qua mấy bụi chuối trồng theo bìa ruộng, lúc đó anh em đã ra ruộng lúa hết,
tôi thấy Tống, mặc bộ đồ tù sọc đỏ, nằm ngay gốc chuối,
tôi tưởng Tống ngủ quên,
tôi lấy chân lay Tống dậy, nói:
-Tống “Đội mày đi làm hết trơn rồi, sao mày nằm đây”,
Tống vẫn nằm, trả lời:
Tao đau đầu quá, tao xin ông Lía (cán bộ quản giáo) đội 9,
nghỉ buổi chiều nay, ngủ chút xíu cho đỡ đau đầu ,
rồi nó hỏi tôi, mày đi lấy củi hả, tôi ừ, rồi nói với Tống, thôi mày nghỉ cho khỏe, tao đi đấy”.
Hôm đó, nếu không lầm là thứ sáu, ngày hôm sau nghỉ lao động.
Hôm sau, theo lệ thường,
ngày nghỉ, thường ai có thăm nuôi thì nấu ăn, không có gì thì chạy qua mấy lán, gặp bạn bè, nói chuyện, ai có cà phê thì rủ nhau, mấy thằng một ly cà phê, nhâm nhi, nói chuyện đời,
A 30 cho thăm nuôi xả láng, không hạn định bao nhiêu quà bánh, gạo, đường đều được mang, nhiều nhà khá giả mang cả gánh thăm nuôi.
Tụi tôi đang, mỗi người một nơi, trong hàng rào dây thép,
thì khoảng 10 giờ trưa,
nghe tiếng kẻng tập họp, ai về nhà nấy, điểm danh. Số là, thường ngày nghỉ, 10 giờ mọi người đều lãnh cơm, cơm do người trực của đội gánh từ nhà bếp, tới từng lán chia.
Thường ai không có mặt thì nhờ bạn nằm gần lãnh dùm, hôm đó, lán của Lý Tống, khi chia cơm, người chia cơm thấy không có đồ lãnh cơm của Tống, nên kêu inh ỏi, Lý Tống đâu rồi, không lãnh cơm, người chia cơm, hỏi Tống có nhờ ai lãnh cơm không?, kêu hoài kêu hủy, người đội trưởng Tù, báo cáo cho chòi canh ngoài cổng, cảnh vệ bèn đánh kẻng kêu tập họp điểm danh từng nhà, ai cũng có mặt, chỉ thiếu Lý Tống, cảnh vệ báo lên trại, lệnh truy nã tù trốn trại bắt đầu. Ai trong anh em, cũng mong cho Tống đừng bị bắt,
và trốn được, và quả thật cả tuần, cả tháng, và cả năm, không bao giờ bắt được Tống.
Năm 1981, khi tôi ra khỏi A 30,
tôi vẫn mang một câu hỏi trong đầu, Tống ra khỏi trại bằng cách nào, và đi ra sao?
Tôi không là bạn thân của Tống, nhưng cùng chung trại mấy năm, tôi phục Tống khi nghe và thấy những hành động của Tống, Tống là một người vượt trại giỏi, nhưng tiếc thay, Tống không kết hợp được nhiều người, trước sau vẫn hành động đơn độc, sau này khi nghe, đọc một bài báo Mỹ nói về Tống, tôi thấy Tống phi thường, nếu có bạn nào đi Mã Lai, mỗi chiều thứ Sáu, rời khỏi trại huấn luyện JWS “Jungle Warfare School”, tại Johore bahru, Malaysia, qua chiếc cầu thật dài giữa eo biển Malaysia và Singapore, các bạn mới cảm phục Lý Tống,
không những về ý chí, mà phải thán phục vì sức khỏe của Tống, khi Tống bơi qua eo biền này, dưới dòng nước xanh, sóng mạnh,
Tống đã tới tòa đại sứ Mỹ tại Singapore, bằng một câu tiếng anh trôi chảy:
“Tôi xin gặp đại sứ Mỹ”, tôi là một sĩ quan không quân VNCH, đã đi từ VN qua nhiều nước,
và vừa bơi qua eo biển Mã Lai tới đây.
Lý Tống được lệnh từ Mỹ, ra khỏi singapore chỉ sau vài tiếng đồng hồ...

*Phạm Văn Lương K20
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

KHU TRỤC BỌC THÂY
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Để tưởng nhớ cố Trung úy phi công khu trục Hoàng Phi Hùng, thứ nam Bác Sĩ Hoàng Văn Đức, đã “về với đất…” tại chiến trường An Lộc năm 1972.

Đồng thời, xin thân tặng các phi công Thái Dương phi đoàn 530 khu trục, Pleiku, những “đao phủ thủ lừng danh” của vòm trời Tam Biên với những định mệnh nghiệt ngã và đau đớn cuối cùng …

Người sĩ quan ban 3 thuyết trình xong, phòng họp hành quân của sư đoàn trở nên im lặng lạ thường. Người ta nghe rõ được tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ treo cuối phòng. Bỗng trung tá trung đoàn trưởng đứng dậy, tiến lên bục thuyết trình. Ông là một sĩ quan trẻ, mới về nắm trung đoàn chưa tới ba tháng. Áo quần ông nhăn nhúm, mắt ông ngầu đỏ, tóc ông rối bời.

Đứng trên bục, ông đưa mắt nhìn xuống phòng họp, đặc biệt ở dãy bàn có lố nhố mấy chiếc áo bay. Cái nhìn của ông thật khó hiểu. Người sĩ quan trung đoàn trưởng bộ binh trẻ tuổi đứng lặng yên như vậy một lúc. Mấy ông phi công của sư đoàn VI Không Quân tự nhiên thấy mình được để ý, liền sửa thế ngồi, ngoan ngoãn nhìn lên.

Ông trung tá lên tiếng:

-Các ông tiểu đoàn trưởng của tôi chắc biết hai ngày sắp tới sẽ quan trọng như thế nào rồi, khỏi cần phải nói…

Rồi ông mỉm cười. Nụ cười chẳng ai mong đợi nở lên lúc này không làm giảm bớt được bầu không khí căng thẳng của phòng họp. Ông nói liền như sợ mất đi cái giá trị của nụ cười mình vừa biểu diễn:

-Thuyết trình xong, tôi sẽ có vào lời tâm tình với mấy anh em Không Quân một chút…

Mấy người mặc áo bay phía sau nghe tới đó lại …sửa thêm thế ngồi một lần nữa, mặt mày ai nấy đều cố gắng làm ra vẻ nghiêm trọng. Một trong những người mặc áo bay đó là đại uý Trần anh Trí, trẻ măng, phi tuần trưởng sáng giá nhất của Không Lực Việt Nam vùng II chiến thuật, người vang danh là “đệ nhất đao phủ thủ” của phi đoàn khu trục 530.

-Các anh em biết, cách đây vài ngày, tổng thống ta vừa tuyên bố một câu rất …giật gân là chúng ta phải “đánh giặc theo lối con nhà nghèo”…

Đây không phải là lần đầu tiên Trí đi họp hành quân với bộ binh. Thông thường những buổi họp này rất giống nhau. Mới đầu, sĩ quan ban 3 của trung đoàn hay sư đoàn lên thuyết trình. Đại khái ông sẽ trình bày một lô tin tình báo như: Sư đoàn sao vàng sư đoàn sao đỏ hay gì đó đã xâm nhập, trang bị những vũ khí nặng đủ cỡ với những cái tên mà Trí không thể nào nhớ hết. Tiếp đến là ý đồ “thâm độc” của địch, âm mưu cắt khúc này, đánh chỗ nọ. Phần thứ ba là quân ta đang mở một cuộc hành quân tại tọa độ … Mục đích của mọi cuộc hành quân, dĩ nhiên là để tiêu diệt và bao vây địch, là “đánh chết mẹ nó ra”. Hào hứng nhứt là phần hội thảo và kế hoạch. Sau đó, thông thường là một vị cấp bậc cao nhất trong phòng họp lên cho chỉ thị hay phương thức tấn công và cuối cùng, trước khi chấm dứt buổi họp thì thế nào cũng có màn yêu cầu khu trục yểm trợ tối đa, hay trực thăng bốc cho thật đẹp v.v…

Hôm nay, Trí thấy phòng họp có không khí lạ vì ông trung đoàn trưởng này mới tinh. Gặp lần đầu là thấy chịu liền. Trí nhận xét ông ta có khẩu khí hoàn toàn khác hẳn những ông trước. Sĩ quan trẻ xuất thân từ lò Đà Lạt ra có khác. Dám chê tổng thống là ăn nói giật gân thì ắt phải là “nhân tài.” Mà ông ta muốn tâm tình gì với anh em khu trục đây, Trí thắc mắc.

-Anh em biết, tổng thống nói đúng, nhưng chỉ đúng …một phần. Thứ nhất, trên chiến trường không có vấn đề giàu nghèo mà chỉ có thắng bại, sống hay chết, tủi nhục hay vinh quang. Nhưng, anh em cũng như tôi, chúng ta đều biết rằng từ ngày hiệp ước ngưng bắn ký xong, chính phủ Hoa kỳ cúp bớt viện trợ cho chúng ta rất nhiều…

Ông dừng lại một chút như chờ cho mọi người thấm ý câu nói rồi tiếp tục:

-Tôi không ngu đến độ không biết những gì đang xảy ra trên đất nước mình. Tiếp tế và tiếp liệu của chúng ta càng ngày càng cạn đi. Ngay cả chiếc xe díp của tôi, thiếu cái bình điện mà còm măng cả tháng chưa có, phải lấy xe của người khác đi… Nói như vậy để anh em hiểu tình hình bi đát như thế nào. Ngày xưa chúng ta đánh giặc kiểu Mỹ, bây giờ, tôi không muốn nói chúng ta phải đánh giặc kiểu con nhà nghèo, nhưng chúng ta phải đánh giặc kiểu Việt Nam. Đúng. Tôi nhấn mạnh, đánh kiểu Việt Nam. Ý tôi muốn nói là mình phải “Suy nghĩ ba lần trước khi bắn một trái pháo, suy nghĩ bẩy lần trước khi thả một trái bom…”

Thật là một câu “châm ngôn” nghe rất tới nhưng không kém đau thương. Trí nhớ lại câu tục ngữ của người Pháp: “Uốn lưỡi bẩy lần trước khi nói” mà thuở xa xưa có lần thầy giáo đã bắt chàng chép 500 lần vì tội ăn nói bậy bạ trong lớp.

Rồi ông trung tá trẻ tuổi xoay người, cầm lấy cây thước, chỉ vào một cao độ trên tấm bản đồ treo phía sau. Khỏi cần nhìn Trí cũng biết cái “hột lạc” mà ông ta nhắc đến là ngọn đồi chiến lược 982 nằm ở phía bắc Kontum, nơi chàng đã đánh xuống không biết nhiêu là trái bom suốt mấy năm qua. Ngọn đồi chiến lược này là “con mắt” của thành phố Kon Tum. Ai đứng trên này có thể nhìn thấy hết được thành phố. Ngày xưa ngọn đồi này được một đơn vị LLĐB Hoa Kỳ trấn đóng, nhưng sau khi Mỹ rút đi thì ta và giặc thay phiên nhau làm chủ ngọn đồi này.

-Trước khi đi vào chi tiết, anh em cho tôi bắt đầu bằng câu này: Bằng mọi giá, vào lúc 1800 giờ ngày mốt, anh em phải …”đem nó về cho tôi.” Để tôi lập lại một lần nữa lệnh của tôi cho quí vị tiểu đoàn trưởng nghe rõ: Trễ lắm là 1800 giờ ngày mốt, chúng ta phải chiếm được ngọn đồi này.

Ông đưa mắt nhìn xuống cuối phòng, nơi có treo cái đồng hồ:

-Bây giờ là 17 giờ 45 phút. Các anh có 48 giờ 15 phút đúng để “đem” ngọn đồi đó về cho tôi.

Một “dàn” bốn ông tiểu đoàn trưởng và mấy ông tá khác đen đủi sạm nắng trong bộ đồ nhà binh bạc màu ngồi ở bàn đầu im lìm nhìn lên. Cũng như Trí, mấy ông tiểu đoàn trưởng này đâu có lạ gì với cao điểm 982. Giày họ đã vẹt gót khắp “giang sơn” của vùng hai chiến thuật, nhiều người bạn đồng đội của họ đã nằm xuống, hoặc đã bị tàn phế để gìn giữ những địa danh vô nghĩa như tên của ngọn đồi máu này.

-Sĩ quan ban 3 vừa trình bày cho các anh biết tình hình địch. Với quân số 3 tiểu đoàn của ta tấn công 1 tiểu đoàn của chúng, theo binh pháp thì quá ít. Con số lý tưởng là 7-1 chứ không phải 3-1. Anh em thấy chốt nó nằm dài dài bắt đầu từ dưới chân đồi lên tới trên đỉnh. Mấy hôm nay bay trực thăng quan sát chiến trường, tôi đã đi đến một kế hoạch tấn công như thế này…

Ông lật tấm bản đồ thứ hai. Trí nhìn lên thấy toàn những ô vuông đánh dấu vị trí của quân bạn và địch.

-Trước khi tiếp tục, tôi xin giới thiệu với anh em một nhân vật quan trọng của cuộc hành quân này.

Ông đưa tay ra, hướng về phía một người sĩ quan bộ binh nãy giờ ngồi im lặng trong một góc phòng:

-Mời Trung úy An đứng dậy.

Một ông trung uý bộ binh trẻ tuổi, nhỏ người đứng lên dơ tay chào mọi người. Tất cả đều quay nhìn nhân vật được giới thiệu. Trí cũng nhìn sang và thoáng giật mình vì khuôn mặt của người này thấy hơi quen quen. Chắc chắn Trí đã gặp hắn ở một nơi nào đó…

-Tôi xin giới thiệu với anh em, trung úy An là đại đội trưởng đại đội 45 trinh sát của trung đoàn, đơn vị nắm phần quyết định cho trận đánh này. Trung úy có thể ngồi xuống được rồi.

Trí nhìn người trung uý trẻ hơn tuổi mình ngồi xuống và cố moi óc để nhớ xem đã gặp anh chàng này ở đâu.

Tất cả các đơn vị bộ binh từ cấp trung đoàn trở lên, đều có một đại đội trinh sát. Hai chữ trinh sát thôi đủ nói lên sự hiểm nghèo. Đơn vị này luôn luôn là con cưng của trung đoàn trưởng. Trong quân đội, người ta không có thì giờ để đi “cưng” bậy bạ. Được “cưng” thì phiền toái lắm. Những công tác nguy hiểm, những công việc không ai làm nổi đều giao khoán cho mấy đứa con cưng này. Vì thế, tuổi thâm niên trung bình của lính trong đại đội trinh sát rất thấp và cấp chỉ huy thì thay đổi luôn luôn. Có vinh quang nào mà không được xây bằng máu kìa?

Trí biết trung uý trẻ măng như vậy mà nắm được đại đội trinh sát thì phải là “nhân tài.” Mà chắc phải là tài lắm vì bộ binh ít có khi nào thèm biểu diễn mấy cái màn giới thiệu vớ vẩn như vậy.

Vị trung tá chỉ vào một chỗ phía đông ngọn đồi tiếp tục:

-Nội trong sáng mốt, tiểu đoàn một phải sẵn sàng ở tuyến xuất phát tại đây, tiểu đoàn hai bên này, tiểu đoàn ba sẽ nằm ngay đây làm trừ bị và để chặn luôn quân cứu viện của chúng nó nếu có. Khu trục tiền oanh kích xong là hai ông một và hai cho chúng nó xung phong lên…

Tới đây, ông dừng lại, và nhìn xuống hàng ghế có mấy chiếc áo bay. Cả phòng họp lại im lặng như tờ.

Rồi ông chỉ cây thước vào lưng chừng phía Đông của ngọn đồi trên bản đồ, tiết lộ một bí mật bất ngờ:

-Vào khoảng giữa trưa hay tùy theo tình hình cho phép, tôi sẽ cho thằng 45 Trinh sát nhảy vào đây, ngay chỗ này này. Từ trên cao, chúng nó sẽ đánh xuống, vòng ra hai bên để bắt tay với anh một và hai.

Cả phòng họp im lặng đến rợn người. Biết ngày mà, trong quân đội, hễ có chút vinh quang thì thế nào cũng có một cú “chết người” như vậy kèm theo.

-Tiểu đoàn một và tiểu đoàn hai phải ráng làm cho đẹp. Mấy thằng nhỏ trinh sát của tôi đánh thọc xuống mà không gặp được các anh để bắt tay thì hết đường quay lui…

Trí liếc mắt nhìn qua bàn ông trung úy An, thấy gã vẫn ngồi yên, bình thản.

Ông trung tá xoay người, bước vài bước tới trước, thảy cây thước trên bàn thuyết trình rồi hỏi:

-Những chi tiết nhỏ khác, anh em có thể liên lạc và phối hợp với ban 3 Trung đoàn để giải quyết. Có ai thắc mắc gì không?

Một ông tiểu đoàn trưởng bộ binh dơ tay lên liền.

-Mời anh.

-Thưa trung tá, trung tá vừa nói tiền oanh kích, xin trung tá cho biết sẽ có bao nhiêu phi tuần và sẽ đánh vào đâu?

Một nụ cười gượng hiện ra trên khuôn mặt ông trung tá. Hình như ông biết câu hỏi này sẽ được hỏi, và ông thì không muốn trả lời.

-Phòng không trợ Sư đoàn cho tôi biết chúng ta sẽ có hai phi tuần A-1 sẽ làm việc với chúng ta. Một phi tuần tiền oanh kích và một phi tuần đánh yểm trợ tiếp cận.

-Vậy là chỉ có một phi tuần A-1 tiền oanh kích?

-Đúng, một phi tuần A-1.

Lần đầu tiên kể từ khi bước vào đây, Trí nghe được những tiếng xì xầm to nhỏ.

Trả lời xong câu này, ông trung đoàn trưởng thấy nhói trong tim. Rừng núi tam biên dày đặc, chúng nó lại có công sự phòng thủ vững chắc, hai chục phi tuần còn chưa thấy thấm thía vào đâu thì hai phi tuần nghĩa lý gì? Lính của ông làm sao đánh giặc nổi? Ông lại nhớ đến những ngày còn quân đội Đồng Minh yểm trợ. Chỉ cần nhắc cái điện thoại lên thì nào là “F-4”, “F-111” đủ thứ “F” bay trên trời, thậm chí nếu muốn có cả B-52 cũng được. Nhưng tình thế bây giờ đã khác rồi.

Ông trung tá gõ nhè nhẹ ngón tay vào bục thuyết trình. Chờ cho phòng họp lại trở lại yên lặng, ông tiếp:

-Các anh em có nhớ khi bắt đầu buổi họp, tôi có nói là tôi có vào lời muốn tâm tình với anh em Không Quân?

Ông dừng lại một chút rồi tiếp tục:

-Lời tâm tình rất chân thật của tôi với anh em Không Quân là: Mong anh em ráng giúp chúng tôi. Anh em biết pháo của ta bắn không xa bằng pháo địch, chúng ta lại không được chọn chiến trường. Vậy, sự chiến thắng tùy thuộc rất nhiều vào các anh em Không Quân. Nếu anh em cố gắng giúp, chúng tôi sẽ tiết kiệm được rất nhiều xương máu của binh sĩ tôi, bằng không, chúng tôi vẫn đánh được chúng nó, nhưng cái giá của chiến thắng có thể sẽ rất mắc…

Đi họp hành quân đã bao lần, Trí chưa bao giờ nghe được một lời nói thống thiết của một vị chỉ huy như ngày hôm nay. Trí nhìn lên bục chỉ huy. Chàng cảm thấy khâm phục hơn khi nhận ra vẻ bơ phờ mệt mỏi của ông trung đoàn trưởng trẻ tuổi. Mắt ông quầng sâu vì thiếu ngủ, áo quần nhăn nhó dính đầy bụi đỏ cao nguyên.

Ông kết luận:

-Nếu không còn gì, anh em có thể ra về liền bây giờ để chuẩn bị cuộc hành quân. Mong anh em hiểu rõ những gì tôi nói. 18 giờ ngày mốt, chính tôi sẽ có mặt trên đỉnh ngọn 982. Cám ơn tất cả các anh em.

Từng người một, họ từ từ rời phòng họp, không ai nói với ai một câu nào. Ngay cả những cái bắt tay thông thường cũng không có. Trí đón được trung úy An khi hắn vừa leo lên xe díp:

-Tôi thấy anh quen quen.

An cũng nói:

-Tôi thấy đại úy cũng quen quen…. Đúng rồi, phải hồi xưa đại úy học La San Tabert không?

Trí cười hớn hở:

-Tôi nhớ ra rồi, anh học Lasan Tabert sau tôi hai lớp phải không?

-Dạ phải. Đại úy hay lái chiếc Vélo Solex đen. Ngày đại úy tình nguyện đi lính Không Quân, cả trường đều biết…

-Gọi tôi là anh đi, đại úy mẹ gì… Có rảnh không, mình ghé vào câu lạc bộ này làm một ly cà phê?

-Dạ rảnh thì không nhưng với đại úy thì được.

-Đại úy mẹ gì, mình học chung trường, gọi anh em cho tiện.

Trí quay lui kêu mấy người bạn mình về trước rồi cùng An bước vào câu lạc bộ. Khi người hầu bàn xuất hiện, thay vì gọi cà phê, Trí dơ 2 ngón tay:

-Cho hai chai 33 đi “cưng”…

Hai người nói đủ chuyện đời xưa của tuổi học trò yêu dấu. Trí hỏi:

-Ông tình nguyên đi lính à?

-Dạ không… Ngu gì. Em thi rớt tú II hai lần, bị lọt sổ phong trần.

Trí uống một ngụm bia:

-Ông làm gì mà trung đoàn trưởng để ý dữ vậy? Vài hôm nữa được thay lon là cái chắc.

An lắc đầu, cười:

-May mắn thôi anh. Ông này hồi trước là tiểu đoàn trưởng của em. Năm 72, tiểu đoàn bị chúng nó vây kín ở Võ Định, tưởng tan hàng rồi. Tối đó, ổng dụ em: “Đù mẹ đàng nào cũng chết. Tụi nó vây mình mấy ngày nay rồi, đang chắc ăn như bắp. Tối nay chú mày bất ngờ dắt lính đột kích thẳng vào bộ chỉ huy chúng nó. Không xanh cỏ thì thế nào cũng đỏ ngực. Tao sẽ thừa cơ đánh thốc ra, mình có hy vọng dọt về…”

Nghe như chuyện thời tam quốc. Trí hỏi:

-Rồi có đỏ ngực được không?

-Không nhưng tụi em đánh một trận ra gì, phá tan nát bộ chỉ huy của chúng nó. Tiểu đoàn thoát về được gần hết… Ổng lên nắm trung đoàn là giao trinh sát cho em liền.

-Làm ăn gì được chưa?

An mồi điếu thuốc, lý luận:

-Đại đội còn nhiều lính mới quá. Người cũ chết hết rồi. Từ sĩ quan xuống tới lính, ông nào thâm niên nhất là 6 tháng chiến trường. Cần phải huấn luyện nhiều thì mới đánh giặc tới được.

-Bây giờ sẵn sàng chưa? Đủ khả năng để từ trên đánh thốc xuống chưa?

-Nói sẵn sàng thì chẳng bao giờ được như ý mình cả, nhưng cũng tạm được. Nhưng em có thể bảo đảm với anh là trận này mình nhất định thắng.

-Chắc ăn vậy? -Có gì đâu, ông trung đoàn trưởng đánh “xa luân chiến”, đem mấy tiểu đoàn thay phiên nhau quần chúng nó cả tháng nay rồi, bây giờ xông vô dứt điểm làm sao chúng nó chịu nổi?

Trí uống cạn ly bia, tính kêu thêm thì nghe tiếng gọi tên mình. Tưởng ai, té ra thiếu tá Quân, người bạn thân trong phi đoàn đang lù lù bước vào. Ông tướng này từ ngày đeo lon thiếu tá làm việc gì cũng có vẻ nghiêm trọng như… đi hỏi vợ.

-Bố Trí, tụi tôi kiếm bố mãi.

-Kiếm làm gì, ngồi xuống đây làm một ly đã.

Quân lắc đầu, giọng có vẻ nghiêm trọng, pha lẫn một chút buồn phiền:

-Phi đoàn trưởng kêu về họp liền, có chuyện không hay rồi.

Nhìn sắc mặt và lời nói, Trí biết Quân không đùa. Chàng gọi bồi tính tiền nhưng An cản lại:

-Anh để đó cho em.

Khỏi cần khách sáo từ chối, Trí đứng lên ngay, xiết chặt tay An:

-Chúc ông may mắn. Ngày mốt tôi sẽ cố gắng đánh thật đẹp cho ông.

-Cám ơn anh. Anh ráng đánh cho đẹp giùm. Chỉ sợ trực thăng đáp không được. Nếu chạm được đôi bốt đờ sô xuống đất, con cái sẽ làm đẹp.

-O.K. Hẹn lúc khác mình gặp lại.

Ngồi bên phải chiếc pick up do Quân lái, Trí hỏi dồn dập:

-Có chuyện gì mà gấp vậy mày, lâu lâu gặp lại một người bạn học cũ mà mày cũng không cho tụi tao có thì giờ uống với nhau vài chai bia.

Quân im lặng. Trí biết xưa nay ông phi công này là một người có tật ham đấu. Chuyện gì cũng vậy, chưa ai hỏi là đã mở miệng ra bô bô lên rồi. Vậy mà hôm nay hắn câm như thế thì nhất định là có chuyện rồi, mà phải là chuyện lớn chứ chẳng chơi. Trí thắc mắc:

-Có việc gì thế? Hay có thằng nào mới rớt tàu?

Quân vẫn im lìm không nói gì. Quái lạ, phi đoàn lâu lâu cũng có đứa “đi không ai tìm xác rơi” mà Quân đâu có phản ứng kỳ cục vậy? Vào phi trường, Trí nhìn thấy những chiếc khu trục A1 nằm im lìm thành từng dẫy. Dưới trời chiều cao nguyên đang tắt nắng, coi chúng oai hùng như những con mãnh hổ đang nằm thiêm thiếp ngủ sau một ngày chiến đấu oanh liệt.

Tự nhiên, Trí để ý thấy hai hàng nước mắt ứa ra từ đôi mắt Quân. Quen biết Quân từ bao nhiêu lâu, chàng biết bạn không phải là hạng mau nước mắt. Ngày thằng Sanh, bạn thân nhất của Quân bị SA-7 bắn nổ tung giữa trời, hắn đã không khóc. Nhất định phải có chuyện lớn rồi. Đù mẹ bạn bè với nhau từ đời nào, có cái gì không biết mà lại giấu kỹ vậy. Trí bực tức, gầm lên:

-Có chuyện gì? Đù mẹ có chuyện gì thì nói mẹ nó ra, sao mày cứ giấu tao. Đù mẹ lớn hết rồi, đủ sức lái tàu bay đánh giặc thì đủ can đảm để nghe bất cứ nguồn tin nào dù nó bi thảm đến đâu. Mày nói đi, thằng nào vừa chết?

Quân thắng xe, quẹo vào bờ cỏ rồi tắt máy. Vẫn không thèm nói năng gì, chàng leo xuống, bước từng bước một tới phía hàng rào, đứng nhìn vào bãi đậu có những chiếc khu trục A-1 của phi đoàn. Trí lắc đầu, mở cửa phóng xuống theo.

Đứng bên cạnh Trí nơi hàng rào, Quân lắc đầu nói:

-Chẳng có đứa nào trong phi đoàn mình chết cả…

Rồi chàng đưa tay chỉ vào những chiếc tàu bay, giọng nói thẩn thờ như người mất hồn:

-Đúng ra, tất cả những con chim kia đều sắp chết hết. Chúng nó đều sắp sửa bị bức tử hàng loạt, chỉ trong vòng vài ngày thôi.

Trí kinh hoảng:

-Mày nói gì? Ai giết chúng nó? Không có nó thì mình làm sao sống được?

Lần này thì hai hàng nước mắt Quân xuất hiện rõ ràng trên gò má:

-Bộ tư lệnh vừa đánh điện ra, cho lệnh ground hết tất cả phi cơ của phi đoàn mình.

Trí gầm lên, phẫn nộ:

-Ground, ground, đù mẹ lệnh lạc c… gì mà ngu vậy? Chúng nó vừa mở một loạt các cuộc tổng tấn công ở khắp nơi. Tại sao lại ground?

Giọng Quân lạc đi, chua xót và buồn thảm:

-Đơn giản lắm: Hết xăng và không có phụ tùng thay thế. Không ground thì cũng chẳng kiếm đâu ra xăng mà bay. Chính phủ không còn đủ xăng cho khu trục cơ A1 nữa. Phi vụ của mày là phi vụ cuối cùng. Sau đó, A-37 sẽ bao vùng. Chúng nó xài Jet Fuel, nên còn nhiều…

Không còn gì để cãi nữa. Trí đưa hai tay bưng lấy mặt. Cái tin này quả kinh khủng hơn chàng nghĩ. Có sống đến một ngàn năm nữa, Trí vẫn không tưởng tượng được chuyện này sẽ xảy ra. Dù từ ngày hiệp ước ngưng bắn ký, Trí đã biết tiếp liệu của quân đội bị cắt rất nhiều. Tàu bay hư không có cơ phận thay thế, phải lấy từ chiếc này để sửa chiếc khác. Bom đạn nếu không đánh được thì phải đem về mà đáp. Nhưng ai có thể ngờ được lại có một ngày như hôm nay. Ngay đến cả xăng cũng không còn.

Trí hỏi Quân, lần này thì chính giọng của chàng lạc đi:

-Mày nói thật, mày không đùa giai với tao đấy hả Quân?

Quân không trả lời nhưng Trí cũng biết là bạn mình không đùa. Ai thèm đùa cái chuyện đau thương như vầy. Chàng hỏi để mà hỏi, buồn quá mà hỏi. Chẳng cần nghe trả lời.

Hai người phi công khu trục đứng yên lặng bên nhau cạnh hàng rào, nhìn đăm đăm vào nơi bãi đậu phi cơ. Dưới những tia nắng yếu ớt của trời chiều cao nguyên, đoàn khu trục cơ A-1 vẫn nằm im lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng cao cả và oai hùng như những con cọp già trở về hang mình nằm yên chờ chết sau một đời tung hoành ngang dọc…

Trí thấy đôi mắt mình ngứa ngứa, chàng đưa tay lên chùi theo phản ứng và nhận ra là mặt mình đã đầm đìa nước mắt…

Cả hai người đứng đó thẫn thờ nhìn vào đàn chim sắt và đốt thuốc lá liên miên cho đến khi mặt trời lặn, phi trường lên đèn. Cuối cùng, Trí hỏi:

-Mày kêu tao về họp cũng chỉ để nghe chuyện này thôi phải không?

-Ờ. Nhưng giờ này thì họp hành gì nữa, trễ rồi.

Trí quay lại nhìn Quân, giọng chắc nịch:

-Vậy thì đi. Đù mẹ đi. Mày đi với tao ra phố, tao cầm cái đồng hồ rồi hai đứa mình kiếm một chỗ nào ngồi uống rượu tới sáng để ghi nhớ ngày đại tang của mấy con chim sắt yêu quí này.

-Sáng mốt, tao và mày sẽ dẫn hai phi tuần đánh 2 phi vụ cuối cùng…

Hai người trở lại, leo lên chiếc pick-up. Lần này Trí lái. Chàng sang số nhấn ga, miệng vẫn còn lẩm bẩm:

-Phi vụ cuối cùng…



**********

Sáng ngày N, ngày tấn công đồi 982, Trí thức dậy vào lúc 5 giờ. Tối qua, chàng thức đến 3 giờ sáng để biên lá thư gởi cho Trang, người yêu của Trí. Trí có một thói quen đáng yêu là những khi gặp chuyện buồn bực, chàng hay lấy giấy bút ra để biên thư tâm sự cho người yêu. Mỗi lần gởi lá thư đi, Trí cảm thấy tâm hồn nhẹ nhỏm thư thái. Tối qua, Trí viết thư cho Trang như sau:

Pleiku ngày 24 tháng 10 năm 1974

Trang yêu dấu,

Nhận được thư anh, chắc thế nào em cũng nhăn mặt nói: “Mon petit prince lại có tâm sự u uẩn rồi đây…” Không, lần nay em trật lất. Chiều nay biên thư cho em, anh chẳng có tâm sự gì u uẩn cả mà chỉ có một tin buồn muốn nói cho em biết. Nghe xong, anh cấm Trang không được khóc, không được than vãn gì cả vì phần số nước mình nó như vậy rồi em ạ.

Em biết là anh mê nghiệp bay bổng như thế nào rồi. Anh mê lái tàu bay như người nghiện á phiện nhớ thuốc. Đối với anh, đời anh, kể từ ngày anh được đeo cánh, anh chỉ biết có một cách sống. Đó là sống ngang dọc trên trời, trong không gian bát ngát, với mây ngàn gió lộng…

Nhưng, khốn nạn thay, tất cả những chuyện đó sắp hết rồi Trang ơi. Bộ tư lệnh vừa ra lệnh ground tất cả các phi cơ của phi đoàn anh lại. Tại sao em biết không? Vì một lý do mà có sống đến ngàn năm anh cũng không thể nào ngờ được: Mình không còn loại xăng đó cho phi cơ nữa.

Nhưng em đừng vội sợ cho anh thất nghiệp. Quân đội không bao giờ để cho những phi công như bọn anh ngồi chơi xơi nước. Bọn anh sẽ được thuyên chuyển qua các phi đoàn khác để bay A-37, loại phi cơ phản lực mà anh thường gọi là “tàu bay con rệp” vì nó có hình dáng giống con rệp.

Chắc em sẽ thắc mắc, tàu bay gì cũng là tàu bay, sao lại u buồn quá sức như vậy?

Trang yêu dấu,

Em chưa bao giờ lái tàu bay, nên em chắc sẽ không thể hiểu được sự ràng buộc kỳ lạ giữa con người và chiếc phi cơ mình đang lái. Mỗi lần cất cánh đem tàu lên cao giữa không gian bát ngát, với mây ngàn và gió lộng, anh luôn luôn coi chiếc phi cơ của anh là một con thiên mã mà anh là người chiến sĩ cỡi nó. Nó đã gần gũi anh suốt bao nhiêu năm qua, đã cùng anh xông pha khắp nơi trong cõi sơn hà, đã chia sẻ với anh từng hòn tên mũi đạn, đã đem vinh quang đến cho anh khi chiến thắng, cũng như đã cùng anh nghẹn ngào xót thương khi nhìn thấy bạn mình tan nát giữa trời…

Anh nhớ mãi một lần, sau trận yểm trợ tiếp cận đồn Dakto, con thiên mã bị bắn rách bươm. Nó khục khặc, nó ho ra khói, nó mửa ra dầu nhớt văng đầy cả kính tàu bay. Vậy mà, dù sắp chết, nó vẫn gượng hết sức tàn để khập khểnh đưa anh về bến đậu. Em biết không, khi anh leo xuống tàu, nhìn thấy thân thể nó rách tươm, thịt da nát nhừ từng chỗ mà cảm giác như chính người mình bị ai dày xéo hành hạ. Lớn nhỏ gần một trăm lỗ đạn, chắc gì ai sẽ vá nổi. Và anh đã ngậm ngùi khi biết người ta quyết định đưa nó vào ụ phế thải để chết già ở đó…

Sáng ngày mai, anh sẽ cỡi con thiên mã yêu dấu của anh một lần cuối cùng. Sau đó, người ta sẽ leo lên bịt mắt nó lại, lấy vải phủ kín thân người nó như người ta tẩm liệm những xác chết. Anh còn nhớ, khi làm lễ đón nhận nó từ tay những người bạn Hoa Kỳ, chúng ta đã mở party, đã khui sâm banh, đã đọc diễn văn diễn từ rất là long trọng. Bây giờ, sau bao nhiêu năm góp công sức để gìn giữ và phục vụ tổ quốc chúng ta, chúng ta chôn sống chúng đồng loạt mà không thổi được một hồi kèn đưa linh… Riêng anh, ngày mai đi bay về, anh sẽ đốt cho chúng nó vài cây nhang rồi cắm trong phòng lái. Người Việt Nam mình vốn trọng lễ nghĩa tình cảm mà em, anh không thể bạc như thế được.

Trang,

Cổ truyện có nhiều điển tích mà khi còn bé anh không thể nào hiểu nổi, như chuyện Chung Bá Nha và Trương Tử Kỳ. Chắc em còn nhớ chuyện này. Bá Nha đánh đờn hay, và Tử Kỳ thì biết nghe đờn nên hai người trở thành tương đắc. Một ngày, Bá Nha nghe tin Tử Kỳ chết, ông liền đập cây đờn liệng đi và từ đó về sau chẳng bao giờ rờ tới đờn nữa. Hồi còn đi học, anh luôn luôn cho rằng là Chung Bá Nha đã quá “quân tử tàu”. Chiều hôm kia, khi đứng với anh Quân nơi hàng rào để ngắm nhìn những chiếc khu trục sắp sửa bị bức tử, anh đã thấm thiá hiểu được tâm trạng đau khổ của Chung Bá Nha ngày nào. Và, Trang ơi, có lẽ em không thể nào hiểu nổi nhưng anh lại đang có một tâm trạng như Chung Bá Nha ngày xưa vậy. Nếu không lái được A-1, anh có lẽ sẽ chẳng bao giờ thèm lái một thứ tàu bay nào khác nữa. Có lẽ anh sẽ xin xuống đất để chôn đời mình trong bốn bức tường, treo một chiếc áo bay đen trong văn phòng để cho thiên hạ biết là ta đây cũng đã một thời “cỡi gió lướt mây” như ai, và sống bình dị âm thầm như những anh công chức nhà binh khác. Hoặc anh sẽ xin ra bộ binh, hay, khốn nạn hơn, anh sẽ đào ngũ…

Nói vậy thôi nhưng anh biết nỗi buồn nào cũng qua đi, nỗi nhớ thương nào rồi cũng theo thời gian mà âm thầm chìm xuống, kể cả sự mất mát này. Anh không viết lá thư này chỉ để nói bấy nhiêu. Điều làm anh lo sợ đến mất ăn mất ngủ là, Trang ơi, nếu ngày hôm nay chúng ta không có đủ xăng cho phi cơ A-1 thì ai dám chắc rằng ngày mai chúng ta sẽ còn đủ xăng cho phi cơ A-37? Anh theo dõi báo chí hằng ngày và mơ hồ cảm thấy một ngày như vậy sẽ xảy ra. Chỉ cần nghĩ đến đó là anh thấy lạnh mình. Anh muốn nhấn mạnh một lần nữa cho em hiểu là anh như mơ hồ nhìn thấy một chuyện gì đại bất hạnh sẽ xảy ra cho đất nước mình. Anh thấy như vậy.

Bây giờ là 1 một giờ sáng. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là anh lên yên ngựa để rong đuổi nơi cõi trời thênh thang lần cuối cùng với con thiên mã yêu dấu của anh. Anh thường nói với em, đời anh, anh chỉ biết một cách sống. Anh hiểu, khi anh đem tàu trở về đáp, đời anh sẽ chẳng còn bao giờ như xưa nữa. Sau ngày mai, cả em nữa, chúng mình phải bắt đầu học lại từ đầu để sống một cách khác… Một cách sống khác mà chúng ta chưa bao giờ biết tới, chưa bao giờ nghĩ đến…

Trước khi dừng bút, Trang này, anh có bao giờ nói là anh yêu em chưa nhỉ? Anh quên rồi. Nếu chưa, cho phép anh tâm tình là “Anh yêu em từ lúc mới gặp em”. Còn nếu đã, thì cho anh nói thêm là, anh chưa bao giờ thấy mình cô đơn và cần em như sáng hôm nay…

Bức hình em tặng hồi tết, anh để trong bóp, nằm ngay trong túi áo bay bên trái, sát ngay trái tim anh.

Yêu em,

Trần anh Trí

Đọc lại lá thư thêm một lần nữa, Trí bỏ vào phong bì rồi dán lại, viết địa chỉ lên. Vừa cất lá thư vào túi, Trí chợt nhớ đến một điều gì, liền phóng như bay chạy ra ngoài nhìn lên trời. Hãy còn tối mịt, chưa thấy gì cả. Trí chỉ sợ thời tiết xấu, phi vụ bị trì hoãn thì coi như không cất cánh phi vụ cuối cùng được. Đúng hơn, Trí sợ người ta cúp luôn cái phi vụ cuối cùng của chàng. Thời buổi này, lệnh lạc ra rất bất ngờ, bất cứ chuyện gì cũng có thể thay đổi.

Trí là người có mặt đầu tiên trong phi đoàn. Ông thiếu úy sĩ quan trực đêm còn đang nằm ngủ ngáy khò khò trên đi văng, cây P-38 để dưới tấm nệm lòi cán ra ngoài làm như đang ở trong rừng vậy. Những anh chàng thiếu úy sữa mới về phi đoàn luôn luôn là như vậy. Thích mặc áo bay đi tán gái, thích đeo súng trệ trệ như Dăng Gô trong phim cao bồi và vô tư yêu đời một cách hồn nhiên, chân thật. Trí lắc đầu cười và nhớ lại lúc chàng mới ra trường, cũng trực phi đoàn và cũng nằm ngủ như vậy ban đêm. Chàng bỏ lá thư vào hộp thư, nhẹ nhàng đánh thức sĩ quan trực dậy rồi gọi điện thoại lên phòng khí tượng để xin tiên đoán thời tiết trong ngày.

Tốt. Trời hôm nay tương đối khá, tuy buổi sáng có mây broken ở khoảng 8000 bộ. Trí trao đổi vài câu nói bâng quơ với người sĩ quan trực rồi lặng lẽ qua phòng locker để trang bị phi hành.

Vừa xách nón ra khỏi phi đoàn, nhìn thấy một dàn phi cơ A-1 nằm im lìm dưới ánh đèn của bến đậu, Trí lại thấy nhói trong tim. Dù đã chuẩn bị trước, tâm hồn Trí vẫn không tránh khỏi những thổn thức.

Sinh hoạt của phi đạo hôm nay cũng có một vẻ buồn thảm lạ lùng. Không khí tang tóc như bao trùm cả không gian. Những người cơ khí viên xưa nay ưa cười ưa nói vậy mà bây giờ mặt mày ai nấy cũng thấy ủ rủ. Ủ rủ đến độ Trí phải bắt chuyện với họ để kiếm vài nụ cười.

Trí leo cánh con tàu được cắt cho chàng bay ngày hôm nay: chiếc NB 167. N-B tức November-Bravo, đọc theo âm thoại truyền tin của hàng không thế giới, hay “Non Nước-Bắc Bình” theo âm thoại của QLVNCH. Trí vừa đẩy kiếng cokpit ra sau vừa lẩm bẩm: “Non Nước Bắc Bình, Non Nước Bắc Bình…”

Mặt trời rồi cũng từ từ ló lên ở đằng xa. Trí chầm chậm làm các phương thức tiền phi của người phi công trước khi cất cánh. Chàng làm việc chậm rải và trịnh trọng như ông linh mục thi hành các nghi lễ thờ phượng ở trong nhà thờ.

Kiểm soát trong phòng lái xong, Trí leo ra, đứng trên chiếc cánh đầy dầu mỡ của chiếc phi cơ, nhìn lên những cao độ chập chùng của dãy Trường Sơn mờ mờ sau làn sương mỏng. Núi non hùng vĩ như thế này, giang sơn cẩm tú như thế này mà biết chừng nào mới được gặp lại? Gió cao nguyên buổi sớm thổi phần phật vào chiếc khăn quàng cổ màu trắng của chàng…

Trí leo xuống tàu, đánh một vòng thật chậm chung quanh để kiểm soát tiền phi. Chàng gõ gõ vào thân tàu mà cảm thấy như mình đang vỗ vào lưng một người bạn già thân thiết. Càng vỗ thì lòng càng thấy dâng lên một niềm nhớ thương và tiếc nuối vô vàn. Rồi không cầm được, nước mắt Trí tự nhiên ứa ra. Ôi, hỡi con tàu vô tri giác, không biết ngươi có linh hồn hay không mà sao làm cho lòng ta sao xuyến quá đỗi. Trí có cảm giác như mình là người nông phu cần mẫn vì túng quẫn đành phải đem con trâu yêu quí nhất đời ra chợ bán. Trí vuốt ve thân tàu, nghẹn ngào tâm sự: “Người bạn già thân thiết, người bạn đã cùng tôi sống qua một quãng đời, tôi biết nói gì để diễn tả hết tâm trạng của tôi cho bạn hiểu? Bạn là sản phẩm của một nền văn minh giàu mạnh, một quốc gia phú cường bậc nhất thế giới. Còn tôi, một “anh lính” của một nước nghèo. Bạn đã đến đây từ một chân trời xa lạ và chúng ta đã trở thành một đôi bạn thân khắng khít. Bạn và tôi, chúng ta đã cùng nhau chia sẻ những giây phút vinh quanh cũng như những khoảnh khắc u buồn để làm hết bổn phận mình, đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi qua bao nhiêu ngày tháng. Tôi biết rằng trước sau gì chúng mình sẽ có ngày chia tay nhau nhưng không ngờ lại trong một hoàn cảnh như thế này. Sau chuyến bay này, người ta sẽ xếp cánh bạn, đẩy vào ụ để bạn chìm vào quên lãng…”

Trí đã ra đến đầu phi cơ, đưa tay cầm cánh quạt và ngước nhìn lên đầu máy như ngắm nhìn một kiệt tác bất hủ, một kỳ công tuyệt hảo của nhân loại: “Số phận bạn vậy, còn tôi chưa chắc đã hơn gì. Tôi cũng không biết ngày mai đời mình sẽ ra sao?”

Trí vuốt ve thân cánh quạt: “Thôi, dù sao thì cũng xin chúc bạn được yên nghỉ an bình. Sinh Ly Tử Biệt bạn ạ. Bạn đã làm xong bổn phận của mình. Còn tôi, bạn biết, vẫn còn trách nhiệm nặng nề của một người trai thời loạn. Tôi sẽ bay một loại phi cơ khác…”

Trí nhìn ra xa, nơi mặt trời vừa từ từ ló dạng đàng sau dãy Trường Sơn, giọng đanh lại: “Tôi sẽ chiến đấu đến giây phút cuối cùng để bảo vệ quê hương tôi. Nếu ngày nào đó, không còn điều kiện để bay nữa, tôi sẽ xuống đất cầm súng. Hoặc, ví dù có ngày chẳng còn súng đạn nữa, chúng tôi sẽ mài đá làm dao để bảo vệ mảnh đất thân yêu này…”



* * * *



Chừng mười lăm phút trước giờ phi tuần thứ nhất cất cánh, Trí, Quân, Dương và Hiển tụ tập chung quanh tấm bản đồ trải trên mặt đất. Quân bắt đầu phần briefing:

-Mấy ông biết hết mục tiêu rồi, ngọn đồi này đây, đánh nó cả ngàn lần rồi, còn lạ gì nữa. L-19 sẽ cho biết đích xác đánh chỗ nào. Thời tiết sáng nay tương đối tốt, có một ít mây broken ở khoảng 8 ngàn bộ. Mình sẽ piqué từ trên 8000. Quân báo cho biết phòng không của chúng nó rất dữ dội, đan kín bầu trời. Ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA -7, lần đầu tiên họ ghi nhận có đại bác phòng không 100 ly bắn bằng Ra Đa. Súng này bắn cả B-52 cũng rớt chứ nói gì khu trục mình. Anh em nên cẩn thận, có gì thay đổi L-19 sẽ thông báo thêm. Có ai hỏi gì không?

Ngừng một chút, Quân nhìn Trí tiếp:

-Tôi và Hiển sẽ bay phi tuần đầu, đánh tiền oanh kích. Ông Trí và ông Dương bay phi tuần thứ hai đánh yểm trợ tiếp cận. Còn ai có ý kiến gì không?

Bốn năm cái đầu… phi công cùng cúi xuống im lìm, không ai nói với ai một lời nào. Quân chép miệng than:

-Phi vụ cuối cùng trước khi gói tàu bay lại trả cho chính phủ… Đù mẹ chúng nó đặt súng dầy đặc như rừng để chờ mình vào mà tập bắn, bom thì chỉ có mấy trái 500 cân và quân ta thì nhất định lấy cho được ngọn đồi này… Rắc rối quá, lần cuối cùng, mấy ông cố gắng đánh cho đẹp một phát để… làm kỷ niệm. Vài hôm nữa muốn chụp một tấm hình đứng cười nhe răng dưới chân chiếc A-1 chưa chắc đã có mà chụp.

Họp xong, Quân và Hiển lững thững xách nón bay ra phi cơ. Trí hỏi trung uý Dương, người phi tuần viên của chàng:

-Còn lâu mới tới phiên mình, ông cà phê cà pháo gì chưa?

-Dạ rồi.

-Rồi thì uống thêm một ly cũng chả chết thằng Tây nào, ông vào đây tôi mời ông một ly…

Hai người sóng bước vào căn nhà nhỏ dùng làm nơi làm việc của anh em phi đạo. Tại đây, bên cạnh chiếc bàn dài có một bộ domino và vài bộ cờ tướng, một anh thợ máy nào đó đã nẩy ra sáng kiến kê cái bình cà phê bí tất lớn cỡ… 15 lít. Cà phê đen được bán với giá 25 đồng một ly. Ai muốn uống sữa, xin chi thêm 5 đồng. Rẻ chán và uống rất ngon. Trí có hơi thắc mắc là từ khi về phi đoàn đến giờ, chàng chưa bao giờ nhìn thấy người ta lôi cái bít tất ra thay. Phi công khu trục vốn là những người ít thắc mắc những chuyện lặt vặt nên không ai để ý. Miễn cà phê uống ngon và có tí mùi… cà phê là được.

Trí mua cho Dương một ly cà phê. Hai người thả bộ ra sân bay, ngồi trên mặt đất ngó mông lung ra phi trường. Xa xa, hình ảnh của hai chiếc A-1 nối đuôi nhau tà tà ra phi đạo. Chong chóng đánh từng vòng đều đặn chậm rải, con tàu run lên nhẹ nhàng sau làn khói xanh của động cơ.

Trí lại thấy nhói trong tim. Chàng hỏi Dương:

-Ông có biết là sau phi vụ này mình sẽ xếp cánh mấy chiếc Skyraider lại không?

-Dạ biết.

Rồi cả hai bỗng im lặng như vừa cắn phải một trái đắng không thể nào nuốt nỗi. Trí cắn răng che dấu một nỗi nghẹn ngào vừa xông lên. Suốt từ khi được tin phi đoàn sẽ ground mấy chiếc phi cơ, tâm hồn chàng đâm ra thờ thẫn như người vừa bị mất mát một cái gì to lớn lắm. Chàng hỏi Dương:

-Thất nghiệp, ông tính làm gì?

Dương dụi điếu thuốc lá:

-Em tốt nghiệp trường bộ binh Thủ Đức, có bằng trung đội trưởng bộ binh. Nếu không đánh nhau trên trời được thì mình đánh nhau dưới đất…

-Ông thấy rồi tương lai đất nước mình sẽ như thế nào?

-Đen tối quá. Tụi Mỹ đã phủi được bàn tay của họ. Quốc hội Hoa Kỳ càng ngày càng siết chặt cái vòng viện trợ quanh cổ mình. Nước mình bây giờ như một con bệnh bị xuất huyết trầm trọng, đang nằm chờ tử thần. Cái bi kịch đau đớn nhất của mình là biết rằng trước sau gì cũng chết mà không ai đủ sáng suốt và can đảm tự tìm lấy cho mình một con đường nào để tự giải thoát…

Trí cảm thấy hơi ngạc nhiên về những nhận định của ông trung úy trẻ tuổi:

-Theo ông, mình sẽ tự giải thoát được bằng cách nào?

-Có gì khó đâu, đằng nào cũng chết, mình đem hết lực lượng đổ ra miền Bắc sống mái với chúng nó một trận “trời sầu đất thảm.” Mày đốt nhà tao thì tao đốt nhà mày, nếu có chết thì cũng chết được một cái chết ra hồn, đỡ hơn chờ chúng nó đến cắt cổ…

-Còn yếu tố Mỹ…

Mắt Dương long lên, oán hận:

-Xin lỗi đại úy, đấm c… thằng Mỹ. Nó bắt mình chết, mình có quyền chọn lựa cách chết cho mình. Mình có quyền bắt hàng khối đứa đi theo…

Trí đã nhiều lần nghĩ đến chuyện này nhưng làm gì được? Mình chỉ là một đại úy phi công hạng bét. Nói lạng chạng không vừa ý chúng nó đì cho hộc máu. Chàng cười:

-Ông biết muốn chơi chúng nó, có cách nào làm chúng nó sợ nhất không?

-Cách nào?

-Chỉ có đem bom thả tận nhà chúng là chúng mới sợ. Mình cứ chờ vào ngày lễ lao động hay lễ quốc khánh, đúng lúc cha con chúng nó tập họp đầy đủ, lẳng lặng chất vài trái bom con heo lên C-130, bay tuốt ra Hà Nội, biến cái Bắc bộ phủ của chúng nó thành một cái hố bom khổng lồ thì có hoà bình liền chớ gì.

Dương khoái chí nhe răng cười, nhưng nghĩ ra điều gì, gã chặc lưỡi:

-Hay quá đại úy nhưng bom con heo của Mỹ, sức mấy mà nó đưa cho mình khơi khơi như vậy.

-Tôi đã nghĩ đến chuyện này, mình chế lấy cũng được. Có gì khó đâu, chỉ việc gom chừng vài chục trái bom 500 pound lại cột thành một chùm, tăng cường thêm chừng chục phuy xăng ở chung quanh, đóng chung chúng nó lại thành một thùng rồi mở cửa C-130 đẩy lên. Tới nơi cứ việc bung cửa ra mà cho nó rớt xuống. Bom con heo cũng nổ đến như vậy là hết cỡ…

-Ý kiến hay vậy mà sao không thấy mình áp dụng nhỉ?

Trí lắc đầu:

-Ông biết rồi. Lãnh đạo của mình là một bọn tham nhũng, hèn nhát và thụ động. Chúng nó đâu biết rằng chúng nó đang xé nát cái quê hương này ra hàng trăm mảnh…

Mắt Dương tự nhiên thoáng một tia nhìn bí ẩn:

-Vậy thì diệt chúng đi. Mình lái khu trục, mình làm được.

Trí nói nhỏ vào tai Dương:

-Nói nhỏ thôi, tai vách mạch rừng. Tôi đã nghĩ đến chuyện này rồi nhưng ông nghĩ coi, diệt nó đi thì biết ai đủ khả năng để lên thay thế? Ông không nhớ cái thời “Đông châu liệt quốc” ở Sài Gòn sau năm 1963 à?

Dương nhún vai, nhìn lên trời:

-Tôi nghĩ thời thế sẽ tạo được anh hùng đại úy. Có nhiều người muốn làm chuyện này mà không bao giờ có cơ hội. Mình lái khu trục, có bom đạn trong tay nếu không dám xả thân một lần thì sau nay chắc sẽ hối hận…

Trí vỗ vai Dương:

-Ông muốn “làm” thiệt không?

Dương nhìn thẳng vào mắt Trí:

-Một người biết mình sắp chết chẳng có gì để sợ cả.

-Nếu vậy thì tối nay qua barrack tôi, anh em mình bàn lại. Vài hôm nữa lái A-37 mình có nhiều cơ hội hơn…

Ngồi tán gẫu một lúc mà mặt trời lên cao lúc nào không hay. Quân đã dắt thằng em về đáp. Thân tàu loang lổ những lỗ đạn. Chàng nhìn đồng hồ rồi nói với Dương:

-Tới giờ cất cánh rồi ông, mình ra quay máy. Phi vụ cuối, ráng đánh cho đẹp.

Dương cười:

-Tôi đánh phi vụ này mà không đẹp thì nghỉ ăn lương chính phủ.

Trí trịnh trọng leo lên tàu, ngồi vào phòng lái. Chàng đeo đôi găng tay vào rồi run run nâng từng sợi dây an toàn, thắt vào người. Trí siết dây thật chặt, và càng chặt thì càng cảm thấy mình như gắn liền với con chim sắt yêu dấu này. Trí ra dấu cho người thợ máy dưới đất chuẩn bị rồi mở nút xăng, nhấn động cơ quay máy. Con chim sắt khổng lồ khục khặc cái đầu, run mình, cánh quạt quay uể oải vài vòng. Trí nói nhỏ:

-Ráng lên bạn, phi vụ này là “kỷ niệm cuối cùng của đôi ta”.

Chiếc khu trục bỗng thở ra một mớ khói đen rồi máy nổ lên dòn dã. Chong chóng đánh những vòng tròn đều đặn, “quí phái.”

Dù đã bay hàng ngàn phi vụ, mỗi lần nghe tiếng động cơ nổ lên ròn rã lòng Trí tự nhiên lại rộn lên một nổi niềm cảm khoái lâng lâng khó tả. Đó là âm thanh của niềm vui, của ngày xanh êm ái lúc nghe mẹ gọi tên để cho một món quà, của thuở học trò trắng tinh màu giấy khi nghe tên mình vừa trúng tuyển một kỳ thi, của tuổi đôi mươi chất ngất khi nghe một người con gái thì thầm kêu tên mình một cách bẽn lẽn. Những tiếng động cơ của máy móc vô tri giác mà sao nghe ấm cúng, thân thiện, hiền hoà. Một lần nữa, Trí lại tự hỏi rằng không biết chiếc phi cơ này có linh hồn hay không. Sao nó làm người ta xao xuyến quá đỗi…

Và ngàn lần như một, hễ chong chóng bắt đầu quay đều thì Trí liền biến thành một con người khác. Giống y như một cái radio đang khò khè bỗng được vặn vào trúng băng tần có đài phát thanh cực mạnh. Chàng thấy bình tĩnh, tự tin, lạc quan và thoải mái như một con người mới. Mọi ưu phiền, mọi khó khăn vụn vặt của kiếp người bỗng biến mất.

Đâu đây, xa thẳm trong đáy trái tim của Trí, hình như dậy lên bài hát “Xuất quân”.

“Này, bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu quyết chiến…”

Hai bàn tay của Trí chuyển động mau lẹ, nhịp nhàng. Điều chỉnh máy, sửa lại đồng hồ, mở vô tuyến, check in với thằng hai.

-Pleiku đây Thái Dương 22, thử vô tuyến và xin chỉ thị di chuyển hai phi cơ A1-H.

-Thái Dương 22 đây Pleiku. Bạn di chuyển ra đầu phi đạo 26, gió êm, áp lực là 30.03.

Trí “Roger” rồi ra đưa hai tay trỏ lên trời. Hai người thợ máy dưới đất nhận được dấu hiệu, gỡ chèn bánh ra…

“Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành, quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành…”

Chàng mớm nhẹ tay ga, con tàu ngoan ngoãn nhào tới. Trí đạp nhẹ thắng. “Từ từ, làm gì gấp vậy bạn hiền, trước sau gì mình cũng lên trời…”

Dương nối đuôi Trí đem phi cơ đến cuối cầu phi đạo, hai chiếc đậu xéo xéo bên nhau thử máy lần cuối cùng. Trí kéo cần lái vào người, đạp mạnh thắng, tống ga lên 1700 vòng phút. Con tàu rung chuyển và gầm lên dữ tợn như cọp rống. Gió đánh phần phật vào thân tàu, thổi rạp cả một bãi cỏ rộng phía sau. Tay chân Trí cử động nhịp nhàng theo từng động tác phải làm. Tốt, máy móc và tất cả mọi cơ phận trong phi cơ hoạt động hoàn hảo. Trí cười. Con chim sắt này ra đời khi đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, đến bây giờ tuổi hạc đã cao mà vẫn còn oai phong lẫm liệt không thua lão tướng Hoàng Trung thời Tam Quốc.

Thử máy xong, Trí quay đầu phi cơ vào núi, thòng hai tay ra ngoài phòng lái cho chuyên viên vũ khí được… an tâm tháo chốt an toàn. Buổi sáng hôm nay trời trong xanh và đẹp lạ thường trong không khí gây gây lạnh của những ngày tháng mười…

-Pleiku, Thái Dương 22 số một cuối đường bay xin ra phi đạo cất cánh hai phi cơ A1.

-Thái Dương 22 chấp thuận ra phi đạo, gió yên. Chúc bạn may mắn.

“Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành. Đi là đi chiến đấu, đi là đi chiến thắng, đi là mang mối thù thiên thu…“

Trí hạ cánh cản, đóng cửa phòng lái rồi mớm chút ga cho tàu ra so hàng nơi phi đạo. Dương lái chiếc thứ hai bám theo như một cái đuôi. Chờ cho số hai xếp hàng ngay ngắn, Trí quan sát phi cụ một lần chót rồi đẩy hết cần ga tới trước, lút cán. 2800 mã lực của sản phẩm cơ khí tuyệt hảo và vĩ đại được xử dụng tận lực, rống lên một tiếng gào khủng khiếp tưởng có thể xé nát không gian. Trí cảm thấy như máu tự nhiên chảy rần rần trong người chàng. Cánh quạt xoay tít như điên cuồng, ép gió thổi ra sau, biến hơi nước trong không khí thành những đường chỉ trắng chạy dài chung quanh. Chiếc phi cơ run lên, lồng lộn như con ngựa chứng.

Trí giữ cần lái và nhả thắng ra. Con chim sắt vĩ đại với cái bụng đầy ắp bom ào tới trước, hung hãn và dũng mãnh như một con bò mộng.

“Đi là đi chiến thắng, đi là đi chiến đấu, bước lên đây người Việt Nam…”

Hai chiếc phi cơ A-1H cùng bốc lên cao một lúc ở khoảng giữa phi đạo. Tiếng gầm thét của động cơ sáng hôm nay nghe như những gầm than thở oai oán của hai chú mãnh hổ biết mình chỉ được rong chơi lần cuối cùng. Trí nghiêng phi cơ rời vòng kiểm soát không lưu phi trường. Ôi, quê hương đất nước dưới cánh chiếc khu trục đẹp không làm sao nói được. Đồi núi chập chùng xanh biếc với những con sông con lạch nhỏ. Theo luật địa lý, đã có núi cao, thì phải có sông rộng đi kèm mới hoà hợp. Núi của dãy Trường Sơn quá cao, mà sông lạch thì ít, lại ngoằn ngèo đứt khúc nên chả trách gì lòng người có những ý chí phi thường nhưng hẹp hòi ít quảng đại, khó tha thứ. Hơn mấy chục năm chiến tranh chưa làm ai thấy mệt mỏi.

Trí leo lên 10 ngàn bộ, Dương bám sát phía sau. Trí rời tần số đài kiểm soát Pleiku sang đài kiểm báo Peacock. Giọng chàng ồ ồ vang vang:

-Peacock đây Thái Dương 22!

-Thái Dương 22 Peacock! nghe.

-Thái Dương 22, hai phi cơ A 1 -H, cất cánh được 5 phút lên làm việc với Sao Mai 10 ở toạ độ Zulu Papa …

-Roger! Sao mai 10 chờ bạn ở tần số 226.7

Rồi Peacock… im luôn, không thấy thông báo tác xạ pháo binh. Trí thấy nhói trong tim. Vậy là quân ta ngay đến đạn pháo binh cũng gần hết. Chàng nhớ ngày xưa,đánh lớn như thế này thì một đoạn đường từ Pleiku đến Dakto có ít những khoảng vài trăm khẩu pháo đặt khắp nơi gây thành một trận địa pháo như thiên la địa võng. Bây giờ mọi chuyện đã đổi khác. “Đánh giặc kiểu con nhà nghèo” là như vậy sao?

Đường đến điểm hẹn với cô Lan 19 bay không đến mười phút là tới nơi. Đang đấu loạn cào cào với mấy cánh quân dưới đất, nghe Trí lên, người phi công L-19 mừng rỡ:

-Thái Dương 22 đây Sao Mai 10.

-Nghe năm. Hai A 1-H, tám trái 500 pounds và hai… trái tim rực lửa căm thù.

Có tiếng cười hềnh hệch trong máy:

-Thái Dương nói nghe được. Phòng không của chúng nó dày đặc như thế này, không rực lửa thì nên về nhà mà ngủ cho nó được việc.

-O.K., chúng tôi đang ở phía bắc mục tiêu khoảng 10 ngàn, cho biết tình hình đi bạn.

-Tình hình đại khái như thế này: bộ binh xung phong lên hai lần mới mớm được một chút nơi chân đồi. Đù mẹ chưa kịp làm ăn gì thì pháo chúng nó đã lồng khung sẵn rớt tùm lum xuống quân mình.

Mình cũng phản pháo đẹp đáo để, hai bên đang đấu pháo loạn xị xà ngầu.

-Bây giờ bạn muốn tôi đánh đâu?

-Đánh đâu thì dễ quá, có khoảng vài trăm mục tiêu cho bạn đánh. Nhưng chuyện quan trọng nhất hiện giờ là tụi chuồn chuồn sắp vào để đổ thằng 45 trinh sát, kẹt một cái là cây phòng không 100 ly nằm trên đỉnh đồi. Từ trên đó, nó có thể quất sụm bất kỳ một hợp đoàn nào của mình.

Khỏi cần suy nghĩ lâu Trí cũng hiểu được sự thành công của lối đánh diều hâu táo bạo này tùy thuộc vào yếu tố… chuồn chuồn. Trực thăng không vào được thì lấy gì mà nhảy? Cũng không thể vào lần thứ hai vì yếu tố bất ngờ sẽ bị mất. Chúng nó sẽ gom súng trên đỉnh đồi chờ mình vào để tập bắn… tàu bay lên thẳng.

Trí đề nghị:

-Vậy bạn muốn đánh nó phải không?

-Biết còn phải hỏi. Bạn bứng giùm nó thì may ra hợp đoàn trực thăng mới vào được.

-Xong ngay. Vào cho trái khói đi bạn.

-Có ngay.

Trí lắc nhẹ cánh và hỏi Dương qua vô tuyến:

-Hai đây một.

-Nghe năm.

-Ông nghe Sao Mai nói rồi chớ gì, mình qua combat formation.

-Hai nhận rõ. Combat formation.

-Mình sẽ piqué ở 10 ngàn. Phòng không như thế này thì phải đánh 60 độ bank.

-Hai rõ.

Chiếc L-19 quẹo một vòng rất quí phái nhàn nhã rồi tự nhiên cắm đầu thẳng xuống từ 8 ngàn bộ. Nàng lắc lư thân mình rồi xịt ra một trái khói. Trí mỉm cười. Ông nội nào lái chiếc L-19 này chắc là có máu khu trục trong người. Bắn rất đẹp, gần ngay trên đỉnh ngọn đồi.

-Thái Dương 22 đây Sao Mai mười.

-Thấy trái khói rồi bạn.

-O.K. phía bắc trái khói khoảng 200 thước là cây phòng không 100 ly đó. Phòng không mạnh quá, bạn muốn đánh trục nào cũng được. Chúc bạn may mắn, coi chừng súng chúng nó đặt khắp mọi nơi.

Hình như Trí lại nghe được bài tiến quân văng vẳng trong nón bay:

“Cờ vang thay tiếng tiếng chân đang dồn dập xa xa, tiếng gào, thiết tha…”

Trí sửa lại đôi găng tay, mở nút bom, nói thật chậm vào máy vô tuyến:

-Số một Dô.

Trí nghiêng cánh, cắt ga. Con tàu rơi xuống gần như thẳng đứng. Ở khoảng 8 ngàn bộ hoa khói bắt đầu nở chung quanh tàu. Đù mẹ bắn gì… sớm vậy? Trí lẩm bẩm. Rõ là quân thừa đạn bắn vãi.

Trí tiếp tục cho tàu cắm xuống. Kia rồi, từ đàng xa, Trí nhận rõ được vị trí của ít nhất mười mấy cây phòng không. Tất cả đồng loạt nổ vang rền. Đù mẹ sao chúng nó lắm súng thế này. Những giây phút đối diện với tử thần thật là khủng khiếp. Thằng nào lái tàu bay mà nói coi phòng không giặc không ra gì là những thằng nói phét. Làm người, ai lại không sợ chết, tại sao lại phải phét lác nhỉ?

Xuống thêm một chút nữa, Trí vẫn không nhìn thấy cây 100 ly đâu cả. Câu nói của ông trung đoàn trưởng bộ binh lại vang vang trong đầu chàng: “Suy nghĩ bảy lần trước khi thả một trái bom…” Không thể được, mình phải kéo tàu lên làm một vòng khác. Mấy cây 12 ly 7 nhí này không xứng đáng để lãnh bom của chàng. Trí tống hết ga, lướt tàu qua mục tiêu rồi kéo lên. Phòng không vẫn bám cứng lấy phía sau.

-Sao mai đây Thái Dương.

-Nghe năm, không thấy bom của một nổ.

-Có thả đâu mà nổ. Không tìm thấy súng của nó, thả uổng bạn ơi.

-Thái Dương hôm nay đánh lì quá. Lúc nãy bạn xuống, tôi thấy nó khạc lửa lên đó bạn.

-Để thằng hai xuống tôi quan sát thử coi.

Dương thông báo rồi cũng nghiêng cánh nhào xuống như một cành lá. Trí quẹo ngược trở lại, đảo mắt quan sát. Nhìn chúng nó bắn thằng số hai Trí mới thấy xót ruột. Vừa lớn vừa nhỏ, ít nhất cả trăm khẩu. Phòng không chúng nó không những chỉ đặt trên ngọn đồi 982 thôi, ngay cả những ngọn đồi chung quanh nó cũng đầy những súng.

Chiếc phi cơ của Dương như con thuyền nhỏ bé ngụp lặn trong một biển lửa hãi hùng. Nó kia rồi, cây 100 ly mà chàng đang tìm kiếm vừa khạc lửa ra dữ dội. Ông đã thấy rồi thì mày có chạy đàng trời.

Dương xuống sâu thêm nữa rồi bấm rớt bom, kéo lên. Hai đoá hoa khói đen nở tung trên mặt đất. Sao mai la ùm trời đất:

-Số hai đánh trúng mấy cây phòng không rồi đó bạn. Số một thấy cây 100 ly của nó chưa?

-Thấy rồi bạn, số một “Dô” lại đây.

Lần này Trí nhắm thẳng vào hướng cây 100 ly, cứ thế mà tới. Hình như chúng nó cũng biết đã bị lộ mục tiêu, nên khạc lửa lên rất dữ dội. Trí nhìn thấy những viên đạn lửa bay lên, tưởng như cắm thẳng vào mặt mình nhưng khi đến gần thì lại biến mất. Và tiếng nổ mới là khiếp đảm. Tiếng nổ phát ra từ họng súng đang chĩa thẳng vào người mình khác hẳn bất cứ một loại tiếng động nào khác trên thế giới này mà chàng đã nghe được. Nó lạnh, sắc, khô và rờn rợn.

6 ngàn bộ, Trí biết mồ hôi trán mình toát ra đầy trong nón bay. Chàng còn biết là có vài viên đạn đã ghim vào thân tàu. Mặc kệ, “Mày sinh Bắc Tử Nam” thì tao “Sinh Nam chôn sống mày”. Tiếng Sao Mai la chói lói trong tần số:

-Thái Dương 22, bạn xuống thấp quá bạn ơi, nguy hiểm lắm.

5 ngàn, Trí bấm rớt bom rồi nghiến răng kéo phi cơ lên. Tốc độ quá cao, cả người chàng bị một tảng đá nặng nghìn cân đè dính vào ghế. Trí nghe tiếng nói của người phi công L-19:

-Đẹp quá bạn ơi, nhưng… hụt mẹ nó rồi.

Chưa lấy hết cao độ nhưng Trí đã thấy muốn nhào xuống trở lại ngay. Công dã tràng. Chàng bấm máy:

-Hai đây một.

-Nghe năm.

-Ông thấy cây 100 ly của nó không?

-Thấy!

-Pass cuối cùng, ráng làm đẹp đi.

-O.K. roll.

Dương nghiêng cánh chúi mũi xuống. Lại một lần nữa Trí căm phẫn nhìn những tràng đạn của quân thù bắn lên như muốn xé cả bầu trời ra hàng trăm mảnh. Chàng cứ suy nghĩ và không hiểu sao chúng nó chuyển được hàng núi súng vào đây được.

Số hai vừa kéo tàu lên, Trí biết ngay là Dương đánh không trúng. Chúng nó bắn rát quá, làm sao thả bom cho chính xác? Trí mím môi nghiêng cánh vào thử một lần chót....
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Quái lạ, từ lúc cất cánh đến giờ, Trí mới để ý là văng vẳng trong nón bay có bài hát “Tiến quân ca” như đến từ một cõi vô hình.

“Này bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu quyết chiến, bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành, quân Việt Nam đem hồn non nước xây thành…”

Lần này, với một quyết tâm trong đầu Trí bình thản lượn chiếc phi cơ hầu __như thẳng góc xuống mặt đất. Dù đã cắt hết ga, chỉ trong phút chốc, tàu đã đạt đến tốc độ tối đa. Gió ép vào thân tàu, làm cặp cánh như uốn cong lên. Đến 6 ngàn bộ, Trí hơi kéo nhẹ cần lái. Tàu hơi chếch mũi lên, tốc độ giảm vừa đủ để Trí đưa cây 100 ly của giặc vào đường nhắm.

Có tiếng la hốt hoảng của Sao Mai trong nón bay:”Thái Dương 22, bạn xuống thấp quá, coi chừng…” Nhưng Trí đâu còn nghe thấy gì nữa. Ở gần 400 dặm một giờ trên vùng địch, giữa những lằn đạn thù nổ chung quanh, người phi công không còn nghe thấy gì ngoại trừ tiếng gọi của non sông và trách nhiệm. Phi cơ chàng cứ nhắm cây súng mà vùn vụt lao tới như một mũi tên sắt. Trời đất như trở thành mờ ảo ở chung quanh. Cuối cùng thì nó cũng nằm trên đường bắn của chàng. Trí bấm rớt bom, tống hết ga và kéo phi cơ lên. Cú này không trúng không ăn tiền. Chàng thoáng nhìn thấy nhiều bộ đồ ka ki Nam Định từ trong ổ súng bỏ chạy loạn cào cào.

Vừa bốc tàu lên, Trí đã nghe được hai tiếng nổ liên tiếp và tiếng hò reo vui mừng của Sao Mai 10 “Xong rồi, Thái Dương 22, xong rồi.” Đù mẹ thật là sướng hơn… chơi. Trí ôm cần lái sát vào bụng, người chàng bi áp lực như đè lún sâu vào trong ghế ngồi nhưng lòng chàng lâng lâng một niềm cảm khoái vô bờ bến.

Số hai không bỏ phí một giây đồng hồ nào, lật ngửa tàu bay, cắm đầu thẳng xuống như một chiếc lá tre để tiếp tục trò chơi dang dở. Có qua có lại, cuộc tranh hùng bắt đầu trở hào hứng kể từ giây phút này. Trí mỉm cười: “Ai bảo đi bay là khổ, đi bay sướng lắm chứ…”

Lấy được một chút cao độ, Trí xoay đầu nhìn lại “tác phẩm” của mình. Một cục lửa lớn cháy bùng lên, khói đen bốc cao thành từng cụm. Trí đang quan sát Dương thì nghe được tiếng gọi của hợp đoàn trực thăng. Một C & C, 12 slick và 4 gunship đang xình xình bay tới.

Trí cảm thấy yên bụng khi thấy Dương kéo tàu lên. Thêm hai ổ phòng không bị bứng mất gốc. Tốt. Chúng nó chỉ còn mấy cây 12 ly 7 lẻ tẻ này làm sao bắn lại Minigun của Gunship. Thua là cái chắc.

Dương đã kéo tàu lên, vào hợp đoàn trở lại với Trí. Hết bom rồi, coi như nhiệm vụ đã xong nhưng Trí vẫn chưa muốn đi về. Phi vụ cuối cùng thật hào hứng nhưng ngắn quá. Trí muốn kéo dài thời gian ly biệt này để được gần gũi với người bạn già càng lâu càng tốt.

Dương hiểu ý Trí, cho tàu bay vào thật sát bên người phi tuần trưởng. Sát đến độ nếu rờ tay ra, Dương có thể chạm vào cánh bay của Trí. Trong phòng lái phi cơ, Trí như một chàng dũng sĩ trên yên ngựa bách thắng của mình. Lúc nãy, nhìn những tràng đạn thù bắn lên, ít ai có thể tưởng tượng được chiếc phi cơ sẽ “còn nguyên một miếng”. Vậy mà không có một viên nào trúng tàu mới là tài.

Trí lượn những vòng tròn lớn quanh tàu, đưa mắt nhìn xuống hợp đoàn trực thăng đang nối đuôi nhau tiến tới. Ủa, sao chúng nó không bay thẳng vào đỉnh đồi mà lại bay ngược lên hướng Bắc làm gì kìa? Bọn chuồn chuồn chấm lộn toạ độ chăng? Nhưng rồi Trí nghĩ ra liền. Ra là mấy anh bay như vậy để đánh lạc hướng địch quân. Xuất kỳ bất ý, làm cái quẹo gắt rồi “rớt” gọn gàng xuống đỉnh thì ai mà biết được. Hay lắm, hay lắm. Quả đúng là “Ôi phi công danh tiếng muôn đời…”

Trí xuống 8 ngàn bộ, Dương bám sát phía sau, đánh những vòng lớn ngay trên mục tiêu. Địch quân trên đồi 982 hình như đang bối rối vì tiếng động cơ trực thăng xuất hiện bất ngờ. Phòng không bắn đã thấy rời rạc. Cú này cho chúng mày đi theo Bác luôn. Bỗng Trí nẩy ra một ý tưởng ngộ nghĩnh. Chàng bấm máy hỏi Dương:

-Hai đây một.

-Nghe năm.

-Phi vụ cuối cùng rồi, ông muốn xuống dưới đó “ngao du một vòng” không?

-Sợ thằng Tây nào mà không xuống. Xuống để coi thử phòng không chúng nó bắn hay tới cỡ nào.

-Ông nhớ bám cứng theo tôi.

Trí gọi máy cho Sao Mai, thông báo mình sẽ xuống thấp để quan sát một vòng. Phi công L-19 có lẽ đang bận rộn điều chỉnh pháo cho bộ binh nên không có ý kiến.

Trí nghiêng cánh và đạp bàn đạp cho tàu trượt xuống. Hàng chục đoá hoa khói vây lấy con tàu liền. Dương bám theo cứng ngắc như nhựa đường. Thằng này bay hay thật, không thua gì Pilot Navy, Trí thầm nghĩ. Trí cứ để cho tàu trượt xuống, rơi mãi cho đến gần sát ngọn cây, mới lấy thăng bằng lại. Thấp như thế này thì mấy chú có muốn bắn cũng không biết đường đâu mà mò.

Nhìn “thiên hạ” ở cao độ trên ngọn cây coi thấy rõ ràng quá. Phi cơ chàng lướt qua trên những hàng cây dầy đặc bằng một tốc độ nhanh như hỏa tiễn. Dưới cánh chàng, thỉnh thoảng là hình ảnh của những giao thông hào và hầm hố cá nhân không hiểu của ta hay của địch lướt qua thật mau.

Trí lượn một vòng ra quốc lộ, nơi phe ta vừa mớm được một tí ở chân đồi. Đây rồi, mấy ông bộ binh đang đánh nhau tưng bừng cũng phải ngạc nhiên dở nón sắt nhìn lên hai chiếc khu trục bay sát ngọn cây, chơi trò chơi táo bạo…

Lượn đến vòng thứ ba Trí mới có một ý niệm về tình hình bên dưới. Quân ta vừa hùng hổ xung phong lên, không biết lần thứ mấy sau một loạt pháo mở đường. Hình như họ muốn đánh lạc hướng để hợp đoàn trực thăng có thể vào đáp bất ngờ. Trí nghe tiếng C & C vừa chỉ thị cho hợp đoàn trực thăng đổi hướng, bay thẳng vào mục tiêu. Trí thoáng nhìn được những cây 12 ly 7 từ trên cao, chĩa nòng xuống nổ ròn rã vào những người lính của sư đoàn 23 bộ binh. Còn 300 viên cà nông để làm gì, Trí gọi máy cho Dương, bảo mở nút cà nông và chuẩn bị tấn công. Chàng ước lượn mấy con chuồn chuồn phải ít nhất 15 phút nữa mới đến mục tiêu được, dư sức cho chàng cùng Dương làm vài straffing pass. Trí lắc cánh, Dương hiểu ý, nới rộng khoảng cách để chuẩn bị cho trò chơi mới.

Hết vòng thứ tư, Trí quẹo ra xa để chuẩn bị một đường bắn dài. Dương làm một vòng lớn hơn ở phía sau. Bỗng chàng kinh ngạc suýt reo lên một tiếng. Cặp mắt thần của người phi công khu trục vừa thoáng nhìn thấy một đám bộ đội bu quanh cây súng ở ngọn đồi kế bên ngọn đồi 982. Cây súng lớn lắm, không biết là bao nhiêu ly với cái nòng dài thòng lòng. Tiên sư, chúng nó giấu kín như thế này thì tàu bay nào kiếm ra được? Trí thấy toát mồ hôi lạnh. Rõ ràng là chúng nó dấu súng ở đây để yểm trợ cho ngọn đồi 982. Từ cao điểm đó, nếu chúng nó bắn thì nãy giờ chắc chàng và Dương đã rụng từ lâu rồi. Vậy tại sao nãy giờ chúng không bắn mình kìa? Trí thắc mắc.

Trí bấm máy báo cho Dương “Ông ở ngoài này chờ tôi một chút” rồi bất thình lình đổi mục tiêu, lấy cây cao xạ vừa nhìn thấy làm chuẩn, quẹo một vòng tròn lớn chung quanh đó. Cha con chúng nó đang hì hục quay nòng xuống hướng về phía đỉnh ngọn 982. Chàng có thể nhìn thấy rõ hai ba thằng xạ thủ cầm mấy cái tay quay quay lấy quay để.

Đù mẹ chúng mày, muốn quay súng để bắn ông sao? Câu chửi thề vừa dứt thì Trí biết ngay là mình lầm. Tàu bay khu trục mà hết bom thì cũng như con rắn không có nọc, chỉ có nước đi bay duyệt binh cho đẹp, chúng nó đâu thèm bắn. Bọn khát máu này đang quay súng để chờ đón một món mồi ngon hơn gấp ngàn lần hai chiếc khu trục… già nua ốm yếu: Một hợp đoàn trực thăng mười mấy chiếc với hàng trăm chiến sĩ trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn 23 bộ binh.

Trí quẹo tàu trở ra, thầm cám ơn trời đất. Chàng ráng bình tĩnh để suy nghĩ thật mau những gì mình phải làm. Trước hết, Trí có thể gọi máy cho C & C để kêu họ cho hợp đoàn trực thăng… thôi đáp, chở lính về nhà. Không được. QLVNCH ít khi nào làm như vậy, dù ngay cả khi biết rằng đi là chết. Hơn nữa, nếu bỏ về thì chừng nào cờ ta mới cắm được trên ngọn 982 đồi. Và chưa chắc đã còn xăng để làm chuyến thứ hai. Hoặc chàng có thể gọi cho Sao Mai biết để hắn xin pháo binh hỏa tập. Dẹp chuyện này đi. Mấy ông nội bay tuốt trên mây xanh làm sao điều động pháo kịp. Hợp đoàn trực thăng lại đang xình xình tống hết ga bay vào, phải nghĩ ra cách nào để khoá họng cây súng này liền lập tức trước khi đại họa xảy ra.

Một lần nữa, văng vẳng trong nón bay của Trí, bài tiến quân ca lại vang lên. Lần này nhịp nhàng dồn dập:

“Đi là đi chiến đấu, đi là đi chiến thắng, đi là mang mối thù thiên thu…”

Xong rồi, Trí đã có quyết định. Trận này thắng hay bại là do Trần Anh Trí này đây! Chàng nghiến răng tống hết ga, vừa quẹo vừa kéo tàu lên để chuẩn bị tấn công.

Nhưng, người phi công khu trục của QLVNCH với mấy ngàn giờ bay vừa phạm phải một lỗi lầm nặng quá. Ở những nơi mà “phòng không kèm cứng một rừng” như vậy, ngoại trừ những khi tấn công, một là bay thật thấp, hoặc là bay thật cao, ai lại kéo tàu lên đưa cái bụng trắng hếu cho chúng nó tập bắn bao giờ? Cái chuyện căn bản này thằng phi công mới ra trường cũng biết, nhưng Trí quên mất.

Tàu vừa quẹo lên được vài ngàn bộ thì Trí nghe hàng loạt đạn chát chúa của ít nhứt một chục cây súng nổ lên dòn dã. Trí biết là mình vừa phạm một lỗi lầm không thể nào tha thứ được, tàu bị trúng đạn nặng lắm. Và chính chàng, chàng cũng thấy đau nhói nơi ba sườn. Trí chưa bao giờ bị đau như vậy trong đời mình.

Phản ứng tự nhiên của người phi công gần mười năm bay bổng, bày tay Trí ôm cần ga đẩy mạnh tới và đồng thời tay kia đè mũi con tàu xuống và lộn một vòng tránh đạn. Khốn nạn thay, mấy chục cây súng quái ác kia vẫn bám cứng chàng như sam. Trí nhận thêm vài chục viên nữa.

Có tiếng la hốt hoảng của Dương trong máy:

-Một đây hai, một đây hai, nghe không trả lời…

Ngay lúc đó, khi hai chiếc gunship đang xình xình bay vào, vừa cách mục tiêu độ 5 dặm thì một tràng đạn từ cây súng bí mật dấu ở sườn đồi bên cạnh nổ lớn lên nghe khủng khiếp.

Đạn đạo này chúng nó đã nghiên cứu và lồng khung bao nhiêu ngày nên bắn làm sao trật được. Loạt đạn nổ chưa hết đã thấy một chiếc gunship bốc cháy bùng lên như bó đuốc, cắm đầu xuống. Chiếc kia hốt hoảng cho tàu rớt xuống theo để mong tránh tràng đạn. Mấy cây Minigun cũng trả đủa như mưa nhưng đâu có thấm thía gì. Chúng nó dấu súng trong hầm trong hố làm sao đạn của minigun lách vào nỗi.

Hợp đoàn đổ quân từ phía sau vẫn chưa biết tại họa, đang xếp hàng dọc xình xình quẹo vào. Hai chiếc gunship còn lại của hợp đoàn đang hùng hổ bắn phá trên đỉnh ngọn đồi 982. Hình như chưa ai biết những gì đang chờ đón họ ở cao điểm kế cận.

Giây phút quan trọng và hãi hùng nhất của cuộc đổ quân đã bắt đầu. C & C, L-19, pháo binh và bộ binh gọi nhau trên tần số nghe loạn xạ. Không hiểu tại sao trong giây phút mà ai cũng căng thẳng tột cùng đó, dù tàu vừa bị trúng đạn, Trí thấy bình thản lạ thường. Chìa khoá của cuộc đổ quân ngày hôm nay là cây phòng không quái ác kia. Khoá họng được nó là thành công. Bằng không thì có vào cả sư đoàn cũng chết nữa, nói gì một hợp đoàn lẻ.

Hợp đoàn trực thăng bây giờ đã bay gần đến nơi phòng không lồng khung của chúng nó lắm rồi. Trễ một chút là từng chiếc một của hợp đoàn sẽ rụng như sung chín cho mà coi. Trí xuống thấp được một chút, không có thì giờ kiểm soát phi cụ và tình trạng tàu, quẹo lại thật gắt, mở nút cà nông nhắm cây cao xạ lao tới.

Bây giờ thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Ra là bọn chúng nó đã bố trí sẵn súng để yểm trợ lẫn nhau. Mình nhắm thằng này thì thằng kia ở phía đối diện bắn sang, đánh thằng kia thì thằng này bắn tới. Đạn đan kín cả bầu trời. Trí vẫn nghiến răng lao tới như một con thuyền giữa con bão.

Nhìn thấy mục tiêu, chàng bóp cò, kéo một tràng cà nông dài từ phía ngoài vào tới tận cây súng rồi quẹo tàu lên. Ngay lúc ấy, chàng nghe thấy một tiếng nổ to khủng khiếp trong phòng lái. Mặt chàng như bị ai đấm vào một trái thôi sơn.

Cặp mắt Trí nhắm tít lại theo phản ứng tự nhiên. Khi mở ra, Trí nhận ra kính phòng lái đã vỡ nát, gió, khói, và dầu của tàu bay ùa vào khắp nơi trong phòng lái.

Chàng chỉ còn thấy mờ mờ nhưng trí óc thì minh mẫn vô cùng. Phải thoát ra khỏi nơi này cái đã rồi sẽ nhảy dù. Chàng kéo tàu lên nhưng quái lạ, sao mà nó nặng thế này. Dù đã dùng hết hai tay mà kéo, con tàu chỉ lơ lững lướt qua đỉnh mấy ngọn cây. Hơn ai hết, Trí biết nếu không lên kịp thì tàu sẽ đâm vào núi. Mà con chim sắt như bị thương nặng quá rồi, nhất định không thèm lên nữa. Trí đành nghiến răng đạp hết bàn dạp trái và nghiêng hết về bên trái.

Chiếc A1-H quẹo sát ngọn cây, cánh phi cơ móc theo một mớ lá. Trí lại nghe tiếng la hốt hoảng của Dương trong máy:

-Một đây hai, một đây hai, tàu của một bốc khói rồi. Nhảy đi, nhảy đi…

Nguy hiểm nhất là chàng không biết mình đang ở đâu và ở cao độ nào. Trí bấm máy tính hỏi Dương nhưng radio không còn làm việc nữa. Đó là lần cuối cùng chàng nghe được tiếng gọi của Dương. Kể từ giây phút này, Đại úy Trần Anh Trí đơn độc một mình trên bầu trời, không liên lạc được với ai và không biết mình ở đâu.

Mắt mình sao mờ vậy kìa? Trí đưa tay lên dụi và nhận ra là mặt mũi tay chân toàn những máu là máu. Càng dụi càng không thấy đường. Thế này thì đành phải nhảy dù ra vậy. Vĩnh biệt người bạn già thân thiết. Chẳng còn gì để suy nghĩ nữa. Phải nhảy ra ngoài trước khi tàu đâm vào núi hay nổ tung trên trời bởi đạn phòng không. Có thể mình sẽ nhảy ngay xuống đầu địch và sẽ được đi “du học Bắc Việt” nhưng ít nhất, xuống dưới đất còn có hy vọng sống để lập kế thoát hiểm.

Trí thò tay xuống nắm chặt cần thoát hiểm và kéo mạnh. Không thấy gì. Trí kéo lần nữa, và lần nữa cũng chẳng thấy gì. Tiên sư, hoả tiển bắn ghế thoát hiểm ra ngoài đã xì mẹ nó từ đời nào rồi.

Vậy là hết. Chàng bị kẹt cứng trong phòng lái, không biết mình bị thương ở đâu, mắt không thấy đường và con tàu chỉ bay nghiêng mà không bay lên được. Lần đầu tiên, Trí nghĩ đến cái chết. Đời người trước sau ai cũng một lần chết mà. Điều quan trọng là cái chết của mình có hữu ích cho gia đình, cho tổ quốc, cho tha nhân hay không kìa?

Chàng nhận ra là mình đã bay nghiêng như vậy được hai phút mà không đụng núi. Với độ nghiêng này, hai phút là đủ để làm thành một vòng tròn. Sách hình học dạy rằng quỹ tích của những điểm cách đều một điểm cố định sẽ là vòng tròn mà điểm cố định là tâm. Sách cơ học phi hành dạy rằng nếu quẹo một phi cơ và giữ mãi ở một độ nghiêng cố định, phi cơ sẽ làm một vòng tròn và quan trọng nhất, sẽ trở về điểm khởi hành.

Trí bỗng tìm ra đáp số cho số mạng của mình và cây súng phòng không khốn nạn kia. “Ông sẽ lao nguyên chiếc phi cơ này vào chúng mày, coi thử còn bắn được không cho biết.”

Dù chỉ thấy đường mờ mờ, Trí biết là nếu mình giữ được tàu ở một độ nghiêng cố định, mình sẽ trở về được điểm khởi hành tức là điểm có cây cao xạ của chúng nó, lúc chàng vừa kéo tàu lên.

Bằng cảm giác, Trí giữ cho tàu quẹo ở một độ nghiêng không thay đổi.

Giữa cảnh bi đát thê lương đó, tự nhiên lòng Trí thấy thanh thản vô cùng. Thanh thản như lần đầu tiên được lái máy bay đi solo, rong đuổi con tàu một mình trong vùng trời thênh thang im vắng. Nếu lấy cái chết của đại úy Trí để thế cho mấy trăm cái chết của các anh em bộ binh và trực thăng thì mình lời chán. Từ những ngày bắt đầu bay khu trục, Trí chưa bao giờ phục hay thích cái hình ảnh đâm tàu bay vào mục tiêu để tự sát của các phi công Nhật. Chàng cho như vậy là bất trí và dã man. Nhưng trong hoàn cảnh này, mình đã chiến đấu hết sức để làm trọn bổn phận, đã làm mọi cách để sống còn nhưng không được, thì sự lựa chọn “đâm cả phi cơ vào chúng mày” là một quyết định can đảm và sáng suốt, không phải là một cuộc tự sát điên cuồng.

Quyết định xong là thực hành liền. Khi quẹo đến vòng thứ hai, nhờ chút nhãn quan lờ mờ và tiếng tiếng nổ to lớn dị thường phát ra từ họng cây súng vĩ đại, Trí tìm được vị trí nó ngay.

Nhìn thấy là mắt Trí long lên sòng sọc, mắt tóe lửa ra, uất hận thấu trời. Bọn khốn nạn! Chúng mày đem quỷ thuyết ngoại bang về đầu độc dân tộc, đem súng đạn ngoại bang về tàn phá và giết chóc đồng bào anh em, đã biến cả một nửa quê hương thành một địa ngục tăm tối nhất trần gian, chúng mày chưa biết hối hận hay sao mà còn muốn nuốt thêm cả mảnh đất thân yêu còn lại này? Tội lỗi này của bọn chúng mày biết mấy giòng sông mới rửa cho sạch? Bốn ngàn năm dựng nước của dân tộc có bao giờ đất nước lại lầm than và khốn nạn như thế này chưa? Tao chỉ tiếc lãnh đạo miền Nam yếu hèn để đến nổi quê hương gấm vóc phải tả tơi như thế này, và số mạng tao nửa đường đứt gánh, nhưng Trần Anh Trí này chết đi thì vẫn còn trăm ngàn Trần Anh Trí khác sẵn sàng đem máu đào ra để bảo vệ mảnh đất này.

Chẳng còn gì để suy nghĩ và tiếc nuối nữa. Ai rồi cũng một lần chết. Được chết mà lấy xác khu trục bọc thân mình như ngày xưa người ta lấy da ngựa bọc thây là một vinh hạnh của người chiến sĩ. Đời người mấy ai được chết như thế?

Trí nghiến răng, thét lên một tiếng kêu bi ai rùng rợn rồi lật úp tàu bay, cắm đầu thẳng xuống, nhắm cây phòng không đang nổ ròn rã lao tới. Làm sao trật được. Tuy nhản quan bị giới hạn nhưng trước khi phi cơ đâm vào ụ súng, Trí còn nhìn thấy rõ ràng mấy thằng lính bộ đội xâm lược hoảng hốt bỏ chạy lấy thân khi chiếc phi cơ lao tới…

Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên khi chiếc Skyraider A1-H cắm đầu xuống ổ súng. Bụi và khói bốc lên cao đến nổi từ dưới chân đồi 982, các chiến sĩ của trung đoàn 45 bộ binh ai ai cũng nhìn thấy rõ. Trên cao, bất kể phòng không, chiếc A 1 còn lại bay những vòng tròn dài nặng nhọc chung quanh đám bụi đất điêu tàn. Giữa những tiếng súng nổ, tiếng pháo rớt, tiếng cánh quạt trực thăng vừa đáp trên đỉnh đồi, tiếng động cơ lẻ loi của chiếc khu trục đơn độc trên bầu trời nghe u buồn và ai oán như tiếng tru thảm thiết của một con diều hâu khóc bạn…

16 giờ chiều ngày hôm đó, đúng như lời hứa, trung tá trung đoàn trường trung đoàn 45 bộ binh đáp trực thăng, đặt chân lên đỉnh ngọn đồi 982 để gắn lon đại uý cho trung úy An, đại đội trưởng đại đội 45 trinh sát.

Trận này, dù hiếm xăng hết đạn, quân ta đã thắng lớn. Xác chúng nó nằm dài dài khắp nơi…

Trường Sơn Lê Xuân Nhị
(nguồn:Phi Đoàn Quan Sát 114)
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 7 guests