Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Ôi, tinh thần của các sĩ quan – hạ sĩ quan “nhí” quân đội Việt Nam Cộng Hòa thật tuyệt vời, đáng khâm phục quá chừng.

Thiếu úy Danh lại đưa thêm ý kiến cho Thiếu úy Tính và Trung sĩ Sánh : Nên lập các chốt bên kia con đường nhựa bỏ hoang họ đã gặp vì địa thế đó hiểm trở lại tựa lưng vào dãy núi lớn, rất tiện cho ẩn nấp phòng thủ và rút đi nhanh chóng vào rừng khi bị một đơn vị lớn của giặc Bắc Cộng tấn công. Ba Toán viên Linh, Ngàn và Tiên được anh giao trách nhiệm hướng dẫn dân cách bảo mật trong khi tiếp tế lương thực cho lực lượng Kháng Chiến trong rừng, và ba người còn chịu thêm trách nhiệm nhận thêm người tình nguyện vào rừng. Anh dặn dò Linh, Tiên, và Ngàn mỗi lần chỉ nhận tối đa 6 người, bước đầu rãi mỗi điểm 2 người, chỉ rãi 6 người vào một điểm trong trường hợp bất khả kháng, và phải lập tức huấn luyện cho những người mới vào cách thức liên lạc, yễm trợ cho nhau.

Buổi họp cuối với cả Thiếu úy Tính, Trung sĩ Sánh, cùng ba Toán viên Linh, Tiên và Ngàn, anh nhấn mạnh, khi liên lạc với dân chúng thì không được quên nói với họ về phán đoán của ông Ngô Đình Nhu trước khi bị mấy ông tướng lãnh “cách mạng 63” giết : Nếu Bắc Việt thôn tính được Nam Việt thì việc Tầu Cộng thôn tính cả nước Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian !

Đây là điều anh nơm nớp lo sợ kể từ ngày 30 tháng Tư 1975.

Sau khi anh em nhận nhiệm vụ xong, Thiếu úy Danh và Toán viên Ngàn lên đường rà lại các chốt và tiếp tục thám sát sâu vào tuyến Đông Đông Bắc. Lương thực mang theo của hai anh chỉ đủ cho ba ngày, Linh và Tiên tình nguyện đưa phần lương thực của mình cho hai anh. Lần này họ đi trên đường thông thủy cho dễ quan sát. Thỉnh thoảng họ gặp một vài đồng bào Thượng, những người này cũng nhìn hai anh với ánh mắt không thiện cảm, chắc chắn là vì quân phục giặc Bắc Cộng hai anh đang mặc trên người. Vùng hai anh đi qua có vài nơi có địa hình rất tốt, chung quanh là những hẽm vực, lại có một số suối, rất thuận tiện để dưỡng và dấu quân. Họ cẩn thuận ghi chú lại những địa điểm này trên bản đồ, trước khi quay về.

Trở lại Chốt Số 1, Thiếu úy Danh chỉ gặp được Tiên và được biết : Linh đã gặp dân chúng địa phương tìm vào rừng, đại diện của họ mặc dù được cho biết tình trạng nguy hiểm và thiếu thốn ở bên trong nhưng nhất quyết yêu cầu được cho gia nhập, vì số người “có nợ máu” ở bên ngoài bị giặc Bắc Cộng truy lùng càng lúc càng nhiều. Phần lớn là các viên chức làng xã, nhân dân tự vệ, và dĩ nhiên phải có anh em Địa Phương Quân. Ngoài ra còn có một số anh em thuộc Sư Đoàn 18. Những người này nếu bị bắt sẽ bị giặc Bắc Cộng bắn bỏ lập tức, không thông qua xét xử.

Tiên cho biết thêm, Linh đã chia họ thành 4 toán. Thiếu úy Tính, Trung sĩ Sánh và Linh mỗi người phụ trách một toán, anh em Sư Đoàn 18 tự sắp xếp phụ trách toán thứ 4. Tình trạng vũ khí thì chỉ có 5 M16, 1 Colt 45, 9 Carbine M2, và vài cây dao phác đi rừng. Linh còn cho Tiên biết thêm, hiện tinh thần chống Cộng của dân mình rất cao và tin rằng cần phải gấp rút chuẩn bị cho họ thực hiện những hoạt động chống phá, tuyên truyền, rỉ tai, nhằm gây hoang mang cho bọn giặc Bắc Cộng đang cố gắng “thuần hóa” dân chúng miền Nam. Cũng như tạo niềm tin cho mọi người. Linh đặc biệt quan tâm đến những vụ trừng trị lũ chó săn “cán bộ 30” một cách cụ thể là giết xong liệng xác nằm lề đường như bọn “bò xanh” đã và đang tiếp tục bị, để chấm dứt hành động vô liêm sĩ làm chó săn cho giặc giết hại dân chúng của bọn này. Đợi Toán viên Linh trở về, Thiếu úy Danh và Linh bàn luận, lập kế hoạch hoạt động cho các anh em Kháng Chiến Phục Quốc Quân đang sống hợp pháp trong lòng địch (bên ngoài rừng). Anh nói muốn Linh phụ trách công tác này và Linh hăng hái nhận lời. Rồi dặn Linh phải cẩn thận tìm hiểu cặn kẻ về người đại diện bên ngoài đang liên lạc trực tiếp với Linh, vì hiện nay ta đang bước vào một mặt trận mới mà lãnh vực tình báo phải được đặt lên hàng đầu.

Anh cho biết mình sẽ thực hiện một chuyến đi có thể khá lâu một chút, nhưng chắc chắn sẽ an toàn trở lại với anh em.

Sáng hôm sau Thiếu úy Danh lại lên đường đến vùng trách nhiệm của Trung sĩ Bình, ở khu Rừng Tre. Toán của Trung sĩ Bình đang ra sức mở đường xuyên rừng tre gai, Bình cho biết trong thời gian anh vắng mặt quân số của toán tăng thêm 10 người với súng đạn đầy đủ, trong đó có 2 khẩu súng săn hai nòng rất tốt cho việc săn bắn tìm thực phẩm. Về tình hình địch Bình báo cáo : Có hoạt động của địch tại Trảng Tranh, chúng đã mở một con đường từ tỉnh lộ đi vào trảng. Mạnh, Sinh, Vịnh, và Đinh đang liên tục bám theo dõi tình hình. Thiếu úy Danh nghe vậy liền quyết định nhanh chóng đi đến Trảng Tranh sau khi đã trao đổi với Trung sĩ Bình tất cả những điều cần thiết.

Thiếu úy Danh diễn tả cảm xúc khi anh gặp lại Toán viên Mạnh tại Trảng Tranh bằng giọng thật cảm động, nói rằng lúc đó anh mới thực sự cảm nhận được tình huynh đệ chi binh của hai người lính cùng đơn vị. Mạnh cho hay cách đây năm ngày đã tiếp cận sát mục tiêu và đã biết được giặc Bắc Cộng đang mở một con đường từ tỉnh lộ vào khu Trảng Tranh nhằm lập “khu kinh tế mới” mà chúng sẽ lùa dân Việt Nam Cộng Hòa vào buộc phải cất nhà, phá rừng làm rẫy. Anh cũng thấy hàng ngày có một cặp nam nữ cán bộ của giặc đạp xe đạp “mát đờ in Tầu Cộng” đi vào mục tiêu và trở ra vào lúc xế chiều, trông có vẻ như cán bộ cấp cao gì đó, chẳng hạn như … kinh tài. Anh liền tổ chức phục kích “làm thịt” cặp này, và đúng như vậy, anh tịch thu được 1 cây K54 và một cặp táp chứa đầy tiền. Xác đã vùi sâu trong rừng, xe đạp thì được tháo rời đem dấu phòng khi cần tới. Thiếu úy Danh nghe thì nghĩ ngay đến việc Toán Thám Sát Biệt Cách Dù hiện diện trong vùng này có thể bị địch phát giác, anh dặn Mạnh phải cẩn thận hơn nữa. Nhưng ngày hôm sau khi có mặt ngoài Long Khánh thì Thượng sĩ Kim cho anh biết tin rò rỉ từ trại giặc là có hai cán bộ nam nữ trên đường vào ra “khu kinh tế mới” đã … “thụt két” ôm tiền trốn đi lập “tổ uyên ương”.

Sau khi dặn dò Mạnh phải cố bảo toàn lực lượng và nếu tình hình trở nên nguy hiểm thì phải lập tức đưa anh em rút ngay lên Chốt Số 1, Thiếu úy Danh cho Mạnh biết anh phải vắng mặt một thời gian, ý của anh là sau khi đã tìm được những địa điểm có thể thành lập căn cứ mật cho Chiến Đoàn 3, bây giờ là lúc anh phải trở lại thủ đô tìm những gì còn lại của chiến đoàn, nhất là cố dò tìm ra “Số Nhà Lớn” và những tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc khác. Mạnh liền giao lại cho anh khẩu K54 và cặp táp tiền.
Image
Long Khánh trước 1975

Chặng đầu tiên của anh, có Đinh đi theo, là ra Long Khánh để gặp Thượng sĩ Kim. Ông đã lo xong giấy tờ tùy thân cho anh về Sài Gòn và giới thiệu Tân, người thân cận của ông, là người thích hợp để đi với anh chuyến này. Bản đồ và địa bàn anh gởi lại cho Thượng sĩ Kim, chỉ giữ lại cây K54. Đinh cũng giao cặp táp tiền lại cho ông Kim.

Tối hôm đó Thiếu úy Danh và Tân nhảy xe lửa đi Sài Gòn. Anh kể, trên đường về lòng anh nôn nóng, hồi hộp không biết gia đình mình hiện giờ thế nào, giá mà xe lửa có thể … bay như máy bay, thì tốt quá. Cuối cùng rồi cũng tới Sài Gòn, Tân đưa anh về nhà cậu Ba của Tân. Lần đầu gặp nhau, có lẽ đã được cho biết trước sơ sài về hoạt động của anh, cậu Ba đã nhìn anh với ánh mắt lóe sáng niềm tin và hy vọng. Ông tự giới thiệu mình là đảng viên Quốc Dân Đảng kỳ cựu. Hai người nói chuyện với nhau suốt đêm, qua ông anh Danh được biết thêm về tình hình chính trị, lòng dân bên ngoài. Phần Thiếu úy Danh, anh cũng cho cậu Ba biết tổng quát tình hình bên trong, dĩ nhiên chỉ sơ lược thôi vì có nhiều chi tiết bắt buộc phải giữ bí mật tuyệt đối.

Sáng hôm sau Tân mượn chiếc Honda Dame của nhà ông cậu chở Thiếu úy Danh đến nhà anh Tư Ng theo lời dặn của Thiếu tá Phạm Châu Tài. Anh Tư Ng kể : Chiều ngày 3/5/75 Thiếu tá Tài đã đến và được anh chị Tư dấu ở đây. Nghe nói Thiếu tá Tài phải chờ ai đó, nhưng chỉ được vài ngày thì bị đám cán bộ quân quản Việt Cộng ập vào bắt dẫn đi tới giờ vẫn chưa về. Có thể bị bọn “cán bộ 30” phát giác và chỉ điểm.

Anh Tư Ng cũng cho biết Thiếu tá Tài có dặn nếu Thiếu úy Danh đến thì yêu cầu để lại địa chỉ liên lạc. Anh Danh quay sang hỏi Tân có thể dùng địa chỉ cậu Ba được không, Tân gật đầu. Được sự đồng ý, anh dặn anh Tư Ng : Đến địa chỉ này hỏi mua “2 cái radio Ấp Chiến Lược màu đỏ” và người nhà sẽ trả lời “Chỉ còn 1 cái màu xanh, được không”.

Rời khỏi nhà anh Tư Ng, Thiếu úy Danh thất vọng ê chề. Như vậy chắc chắn Thiếu tá Phạm Châu Tài đã bị chúng nhốt vào tù rồi, có lẽ những sĩ quan khác của Chiến Đoàn 3 cũng không tránh khỏi, về phần lính thì phân tán mỗi người một ngã biết đâu mà tìm. Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù mà anh và Toán Thám Sát lặn lội vào rừng tìm nơi lập căn cứ mật hầu nó có thể tiếp tục chiến đấu đã thật sự không còn nữa !

Nhưng anh biết mình không thể buông xuôi được, còn Toán Thám Sát và anh em từ các đơn vị khác của quân lực Việt Nam Cộng Hòa vừa gia nhập, tức anh vẫn còn mang trách nhiệm trên vai.

Tân tiếp tục chở Thiếu úy Danh đến khu nhà của anh. Nhưng vừa chạy qua được hai lốc đường thì thấy xa xa phía trước có một toán kiểm soát quân sự với AK trên vai đang chận xe xét giấy tờ. Anh lập tức bảo Tân tấp xe ngay tên Thiếu úy bộ đội có vẻ là trưởng toán đứng cạnh một thùng bán thuốc lá, anh xuống xe hỏi mua một bao Bastos xanh rồi mời anh ta, vừa nói “Các đồng chí vất vả quá”. Anh ta nhận điếu thuốc, trả lời “Không sao, đồng chí ạ”. Thuốc lá đúng là “thần dược trị miễn xét hỏi” nên hai anh lại lái xe ra đi thoải mái.

Tân cho anh xuống ngay chợ Bến Thành, anh chỉ khu nhà anh cách đó không xa nhờ Tân đến hỏi thăm giùm, còn anh thì đứng đó chờ. Anh đi vào chợ, bà con nhìn bộ đồ anh đang mặc trên người với ánh mắt lạnh lùng, e dè. Nhờ những ánh mắt này, anh lại thấy lên tinh thần : Bà con mình vẫn thế !

Khoảng chừng nửa giờ sau Tân trở lại cho biết gia đình của Thiếu úy Danh đã bị giặc Bắc Cộng đuổi đi “kinh tế mới”. Có biết vùng nào không ? Tân trả lời bà con xung quanh nói không biết, và chỉ có thể lên phường hỏi mới biết. Nghe tới đây máu Thiếu úy Danh sùng sục lên, đầu nóng bừng bừng, anh kêu Tân chở anh chạy ngược lại hướng toán kiểm soát quân sự Việt Cộng đã gặp lúc nãy. Tân giật mình vì biết anh đang lận khẩu K54 trong mình, bèn đánh đòn tâm lý “Dứt một toán Việt Cộng đâu có đuổi được hết tụi nó về Bắc, rồi còn anh em anh đang ở trỏng thì sao đây ?”. Đây là lần đầu tiên sau ngày 30 tháng Tư anh không kiểm soát được mình, nhưng nghe xong câu nói của Tân thì anh khựng lại liền, cố nuốt “cục căm hờn” đang ghim giữa cổ họng.

Anh gật đầu, buồn rầu nhờ Tân chở đến nhà một người bạn từ thời niên thiếu tên Viên. Viên có người chị là Dược sĩ Tám, từ lâu anh đã biết chị có liên hệ với Hòa Hảo dưới vùng IV. Gặp chị, chị trợn trừng mắt nhìn bộ đồ trên người anh hằn học hỏi “Em là Việt Cộng hồi nào vậy, nằm vùng hay cán bộ 30 ?”. Vì biết rõ gia đình bạn mình, anh trả lời thẳng “Em trốn tù cải tạo, phải ngụy trang qua mắt tụi nó”. Bấy giờ chị mới cho anh biết, gia đình anh vô sự, đang ở Hốc Môn trong … nghĩa địa, khu chôn cất của dòng họ. Nghe vậy, Thiếu úy Danh nhẹ cả người, bây giờ chỉ còn tập trung đi tìm “Số Nhà Lớn”. Về phần gia đình Dược sĩ Tám thì nhà thuốc của chị đã bị giặc đánh “tư sản mại bản” tịch thu rồi, nhưng nhà cửa thì chúng chưa đụng đến vì cha mẹ chị có quốc tịch Pháp. Thì ra bọn giặc tuy thản nhiên đày đọa người mình nhưng lại không dám đụng đến người nước ngoài. Đúng bản chất của hạng tay sai, như lời Lê Duẫn thú nhận sau này : Đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Tầu Cộng !

Chị Tám lại hỏi “Bây giờ em đang sống ra sao ?”, anh trả lời nửa thẳng nửa … hơi lệch đi một chút “Em đang tìm đường vào rừng, nhưng khó quá”. Câu trả lời của Thiếu úy Danh khiến đôi mắt của Dược sĩ Tám sáng rực lên, chị đưa cho anh một địa chỉ trong Chợ Lớn cùng một ít tiền, hẹn gặp ở đó lúc 8 giờ tối. Chị nói “Có thể nhà chị lúc nào cũng bị theo dõi, em nên đi ngay và phải thật cẩn thận”.

Thiếu úy Danh và Tân dắt xe ra bằng cửa vườn sau nhà, anh chỉ cho Tân chạy trong ngõ hẽm trổ qua khu Bàn Cờ, chạy lòng vòng nhằm “cắt đuôi” (nếu có), rồi ra đường Cao Thắng để trở về nhà cậu Ba.

Trong buổi cơm chiều, cậu Ba hỏi Thiếu úy Danh về việc đưa người vào chiến khu, anh trả lời nhất định là phải thật cẩn thận đề phòng địch xâm nhập, rồi quyết định giao chuyện này cho Tân. Cậu Ba khuyên anh nên tìm tiếp xúc với các tổ chức chống Cộng khác để phối hợp hành động, và sau này ông đã dàn xếp cho anh gặp một số tổ chức như Mặt Trận Phục Hưng, Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết, Mặt Trận Liên Tôn, … Nhưng vào lúc nói chuyện với cậu Ba thì anh đã quyết định rồi, anh sẽ tìm Mặt Trận Hòa Hảo trước tiên vì biết họ có mối thù không đội trời chung với giặc Cộng, đồng thời anh tin rằng trong buổi hẹn tối nay thì chị Dược sĩ Tám sẽ cho anh manh mối chính xác.

Sau khi chạy lòng vòng nhằm “cắt đuôi” bọn giặc (nếu có), Thiếu úy Danh có mặt tại điểm hẹn trong Chợ Lớn trước 15 phút, anh quan sát thật lâu trước khi bước vào. Tân đợi ở bên ngoài. Chị Tám lập tức đưa anh ra cửa sau, qua vài con hẽm, họ vào một căn nhà lụp xụp mái lót tôn. Tiếp anh là một người đàn ông tên HT, sau này anh mới biết ông HT chính là Chủ tịch Mặt Trận Hòa Hảo. Anh trình bày mình là sĩ

quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang trốn trình diện đi tù Cộng Sản, muốn tìm sự giúp đỡ vào rừng tiếp tục chiến đấu. Ông HT đưa cho anh một địa chỉ ở Long Xuyên và mật khẩu, bảo đến đó sẽ có người lo cho anh. Anh cám ơn rồi tạm biệt.

Tối đó anh hỏi cậu Ba về tình hình miền Tây, nhất là vùng Long Xuyên. Ông cho biết trên đường về miền Tây bọn giặc Bắc Cộng đặt rất nhiều trạm kiểm soát, rất nguy hiểm mặc dù mục đích chính của chúng là ngăn chận dân chúng mang thực phẩm về thủ đô Sài Gòn. Phải có đủ giấy tờ hợp pháp mới qua lọt, ông nhận định chỉ bộ quân phục giặc Cộng trên người anh thì chưa đủ. Tình hình Long Xuyên, Châu Đốc rất căng, Khờ Me Đỏ đang lăm le lùa quân qua biên giới lúc nào chưa biết, do vậy giặc Bắc Cộng cũng đang tập trung quân hầu kịp có phản ứng, tuy nhiên chúng còn nhằm tìm cơ hội tiêu diệt các lực lượng chống Cộng địa phương, nhất là Hòa Hảo.

Tuy mới biết nhau nhưng Thiếu úy Danh tin tưởng cậu Ba, trước đây Tân từng nói với anh cậu Ba có đường dây thu thập tin tức khắp miền Nam, ông cũng đang nhờ chuyên viên trường kỹ thuật Cao Thắng nghiên cứu chế tạo ống hãm thanh xử dụng cho các cuộc trừng trị “bò xanh, bò vàng” trong thủ đô Sài Gòn. Thiếu úy Danh nhận định cậu Ba có khả năng tổ chức và kiến thức tình báo ở trình độ cao mặc dù anh không biết ông thuộc cơ quan nào của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước đây.

Anh lại nhờ Tân chở anh đến nhà anh Hạnh, giáo sư Đại học Khoa Học, từng du học bên Mỹ. Anh muốn nhờ anh Hạnh bằng cách nào đó báo tin cho bạn bè bên Mỹ biết được hoàn cảnh thê thảm của những người lính Việt Nam Cộng Hòa ở trong nước, cũng như tình trạng khốn khổ của dân chúng miền Nam. Mục đích là nhờ họ cho thế giới biết để tìm cách giúp đỡ. Anh Hạnh nói đấy cũng là công việc anh đã và đang cố gắng hết mình. Chuyện nữa Thiếu úy Danh muốn nhờ anh Hạnh là làm giúp một số “giấy tờ hợp pháp” để đi miền Tây. Chuyện này dễ dàng hơn, anh Hạnh dùng mực hóa học biến mấy tờ giấy đi đường hợp pháp cũ thành “giấy tờ hợp pháp mới” với tên anh Danh và địa điểm đến cũng mới luôn. Ngon lành hơn nữa anh cũng biến anh Danh thành sinh viên Đại học Khoa Học với thẻ sinh viên thứ thiệt.

Sau đó thì đến nhà anh Đoàn, vốn là phi công F5 vừa học bên Mỹ về chưa kịp gắn lon thì Việt Nam Cộng Hòa đứt bóng. Anh Đoàn có người anh là Trung sĩ Hải Quân từng phục vụ trong Giang Đoàn Ngăn Chận tại Châu Đốc và có vợ chánh gốc Long Xuyên. Gặp anh, Đoàn hô to “Mừng hết lớn” rồi hỏi anh đã về nhà chưa, ngoại và má anh khóc hết nước mắt vì tưởng anh đã tử trận. Anh trả lời “Tao chưa về được, nhờ mầy báo tin giùm tao còn sống nhăn, mạnh khỏe, và cũng “được miễn” đi tù “cải tạo”. Đoàn nhận lời, cho anh địa chỉ người quen tên Biên ở Long Xuyên, và hướng dẫn anh cách đi vào cù lao Ông Hổ.

Xong mọi việc, anh trở về tạm biệt cậu Ba.

Đường từ Sài Gòn đi Long Xuyên có khoảng 20 trạm kiểm soát đang thực hiện chánh sách “ngăn sông cách chợ” của giặc Bắc Cộng. Chúng không hỏi gì đến anh nên anh … mèo khen mèo dài đuôi là mình “vào vai quá nhuyễn nhừ”. Đến
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Đến Long Xuyên anh mướn xuồng vào nhà anh Biên, chị Biên vốn là con gái một chức sắc Hòa Hảo, nên sau khi biết hoàn cảnh anh trốn tù “cải tạo” muốn vào rừng thì chị sốt sắng giúp, nhất là sau khi nghe anh kể về cuộc gặp gỡ giữa anh và ông HT. Anh chị Biên cho biết bọn chúng đang lùng sục rất hung hản, mục tiêu của chúng là “tàn quân” và tín đồ võ trang của Phật Giáo Hòa Hảo. Anh Biên không muốn Thiếu úy Danh trở ra Long Xuyên, ngược lại đề nghị vợ anh đưa những người anh Danh cần gặp vào đây gặp tại nhà anh Ba Cán Bộ. Nghe hai chữ “cán bộ”, Thiếu úy Danh buộc miệng hỏi liền, cán bộ nào. Anh Biên cười trả lời, cán bộ của nó nhưng người của mình, đừng lo.

Buổi chiều chị Biên trở về, cho biết : Họ sẽ đợi Thiếu úy Danh ở nhà anh Ba Cán Bộ. Tối đến, anh theo chị Biên chèo xuống đến điểm hẹn. Qua hai con rạch khá dài, chị đưa anh vào một căn nhà vắng tanh, họ ngồi đợi anh ở gian ngoài. Lát sau, một người đàn ông trung niên bước ra. Nhìn ông ta, Thiếu úy Danh lập tức chắc chắn ông ta từng là một chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vì cái nét ngang tàng và gan lỳ của ông ta hiện ra rất rõ trên gương mặt, mặc dù có nụ cười mỉm rất dễ gây cảm tình. Nhưng có điều đặc biệt, nụ cười này còn nói lên một điều, cũng rất rõ ràng : Nó sẽ không còn là nụ cười dễ gây cảm tình nữa nếu đối tượng có “lôi thôi gì đó”. Vẫn giữ nụ cười trên môi, ông ta cất tiếng hỏi : Chú mầy ở Sư Đoàn 320 hay Sư Đoàn 308, vào đây làm gì, định bắt tụi tao hả ? Và … vẫn cười cười. Thiếu úy Danh nghĩ bụng, đúng tầng số của mình rồi, và trả lời : Dạ thưa Sư Phụ, nhiệm vụ của em là tìm diệt Sư Đoàn thép chớ không bắt bớ ai hết. Ông ta nhìn anh, dịu giọng hỏi tiếp: Em ở đơn vị nào, tại sao bị Việt Cộng lùng bắt ?. Anh đáp : Em ở 81 Biệt Cách Nhảy Dù, Chiến Đoàn 3, Thiếu tá Phạm Châu Tài là Chiến đoàn trưởng, Đại tá Phạm Văn Huấn là Liên đoàn trưởng. Ông hỏi thêm về tình hình của Biệt Cách Dù vào ngày 30 tháng Tư, dĩ nhiên anh chỉ biết có một phần, sau đó ông ta cho biết những người anh nhắc tới ông đều quen biết vì ông trước thuộc Lực Lượng Đặc Biệt sau cải tuyển qua Biệt Động Quân Biên Phòng.

Nghe ông ta nói, Thiếu úy Danh mừng thầm trong bụng, đúng tầng số thật rồi. Anh gọi ông ta là Sư Phụ không trật chút nào.

Người anh Danh vừa gặp chính là Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, từng làm việc một thời gian ngắn cùng tác giả trong văn phòng Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân vùng IV. Một sĩ quan “dưới mến nhưng trên không ưa”, rất gan lỳ nhưng điềm đạm đúng như Thiếu úy Danh nhận định lúc mới gặp.

Lúc này thì chị Biên ngõ ý muốn đưa Thiếu tá Thạch và Thiếu úy Danh trở về nhà chị. Sư Phụ bằng lòng ngay. Tới nhà, Thiếu úy Danh giới thiệu Sư Phụ với anh Biên, Sư Phụ hỏi gần đây có chỗ nào … bán rượu không, rồi móc tiền nhờ người nhà đi mua. Nhưng chị Biên cản lại, chị mang ra chai rượu đế rồi đi nướng khô cá lóc gọi là cho anh Danh ra mắt Sư Phụ. Anh vốn không muốn uống rượu nhưng không biết Sư Phụ sẽ nghĩ sao về mình, đành làm vài ly, phần còn lại anh Biên thay anh “cưa” với Sư Phụ.

Trời còn tờ mờ, mới 2 giờ sáng, chị Biên đã kêu mọi người thức dậy ăn cháo cá trước khi lên đường. Chị đưa Sư Phụ và anh ra sông lớn, lên ghe bầu vào mật khu. Sư Phụ đưa cho anh bộ đồ dân sự, lúc anh thay đồ Sư Phụ thấy anh lận cây K54 thì tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi ở đâu mà có. Anh đành phải kể những chuyện đã xảy ra với anh cho Sư Phụ nghe, bắt đầu từ lúc Thiếu tá Phạm Châu Tài gợi ý cho anh vào rừng chuẩn bị căn cứ mật cho Chiến Đoàn 3. Sư Phụ gật đầu không nói gì. Trời vẫn chưa sáng hẳn thì ghe bầu cập bờ, Sư Phụ đưa anh vào một căn nhà cạnh mé sông, anh đoán nơi đây thuộc thị xã Châu Đốc. Chờ đến sẩm tối họ đi đến một ngôi nhà khác, Sư Phụ cho biết họ đang rất gần với biên giới Miên. Sư Phụ ra sau nhà giở đống rơm lôi ra cây AR15 rồi nói với anh “Go”.

Lội đồng đến khoảng nửa đêm họ tới nơi. Sáng ra Sư Phụ giới thiệu Thiếu úy Danh với khoảng 40 anh em Kháng Chiến Phục Quốc Quân, ngang ngữa với quân số anh đang có ở rừng Long Khánh. Anh em ở đây đến từ Sư Đoàn 9, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, Biệt Kích Quân, Nghĩa Quân, có cả anh em Nhân Dân Tự Vệ. Mật khu là một khu vực dưới chân phía Bắc núi Dài, xa về hướng Tây Bắc là xã Ba Chúc. Xạ trường thật rộng kéo dài tới biên giới Việt – Miên. Tác giả biết Thiếu tá Lê Ngọc Thạch quá tường tận vùng này vì anh đã từng là Trại phó trại biên phòng Vĩnh Gia nằm sát kinh Vĩnh Tế (Sau trở thành Tiểu Đoàn 93 Biệt Động Quân Biên Phòng).

Sư Phụ cho Thiếu úy Danh biết giới hạn rút quân của anh em chỉ tới chân núi Dài mà thôi. Sau này anh mới biết trong núi có lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc của Hòa Hảo mà Sư Phụ phải chấp nhận sự sắp đặt của họ. Theo anh Danh, giới hạn đường rút quân như vầy rất dễ bị giặc tiêu diệt nếu chúng mang một lực lượng lớn đến bao vây cô lập rồi cho dội bom nả pháo vào thì anh em khó lòng thoát ra được, tuy nhiên anh cũng tin tưởng Sư Phụ đã có phương cách của ông. Anh hỏi còn dân chúng địa phương thì sao, Sư Phụ nói có thể có tình báo địch trà trộn vào, sau đó giao cho anh một cây AR15 bảo anh đi một vòng làm quen với anh em, vài ngày nữa nếu có tin tình báo thuận lợi thì anh sẽ có dịp lâm trận.

Anh Danh kể, anh em cho anh biết Sư Phụ đã ba lần vượt tù Cộng Sản, và đang bị chúng truy lùng rất gắt gao, tội còn nặng hơn cả “có nợ máu”. Anh yêu cầu tác giả khi viết hai chữ Sư Phụ anh dùng gọi Thiếu tá Lê Ngọc Thạch xin đừng để vào giữa hai dấu ngoặc kép để tỏ lòng
kính trọng của anh đối với Thiếu tá Thạch.

Rồi anh cũng được lâm trận như Sư Phụ hứa hẹn, cuộc phục kích thành công, anh em vô sự, phía giặc bỏ chạy kéo theo 3, 4 thây ma “sinh Bắc tử Nam”. Cùng lúc thì tình hình biên giới ngày càng căng theo sự xung đột giữa Việt Cộng – Miên Cộng. Thiếu úy Danh trình bày với Sư Phụ cái nhìn của cá nhân anh “Tình hình như vầy, trước sau gì bọn giặc cũng sẽ đánh mình”. Sư Phụ trầm ngâm, hỏi lại “Vậy theo Danh thì làm sao ?”. Anh liền trình bày những điểm lợi hại về địa hình, thực lực hai bên, rồi đề nghị vài phương cách giải quyết. Sư Phụ vỗ vai anh “Từ từ chúng ta sẽ giải quyết hết”.

Nhưng thời gian không cho phép Sư Phụ và anh em “từ từ giải quyết” nữa, lực lượng của đồng chí Pol Pot từ bên Kampuchia đã liên tục nả pháo qua biên giới phía Nam khiến đồng chí Việt Cộng phải điều động thêm quân chủ lực miền rãi dài dọc biên giới. Với tình hình này Thiếu úy Danh tin chắc bọn chúng sẽ sớm tổ chức một cuộc hành quân diện địa ở cấp độ lớn mà mật khu của Sư Phụ chắc chắn cũng sẽ là một mục tiêu của chúng. Phía trong núi Dài lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc của Hòa Hảo lớn mạnh như thế nào anh không biết, nhưng mật khu này như là một tiền đồn, khả năng phòng thủ so với lực lượng giặc thì không khác dê trước miệng chó sói. Anh báo cáo với Sư Phụ mấy ngày gần đây có một số dân đi đồng đã tới gần mật khu trông rất khả nghi, có thể là địch trá hình dọ thám, đề nghị tốt nhất phải dời đi nơi khác gấp.

Những điều Thiếu úy Danh kể về Sư Phụ rất đúng theo những gì tác giả từng biết về Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, Trại phó trại biên phòng Vĩnh Gia. Anh Thạch vốn khởi đầu binh nghiệp trong ngành tình báo của Lực Lượng Đặc Biệt một thời gian trước khi trở thành sĩ quan chỉ huy tác chiến. Đóng trại biên phòng sát kinh Vĩnh Tế, trại Vĩnh Gia có nhiệm vụ phát hiện và bám theo các toán giặc Bắc Cộng xâm nhập từ bên Kampuchia qua. Vì vậy cả một vùng Thất Sơn và Rừng Tràm Trà Tiên là khu vực sở trường của anh, lần trước anh trả lời “Từ từ chúng ta sẽ giải quyết hết” là do tự tin sự thấu đáo địa hình của khu vực đến tận chi tiết cộng với bản tánh gan lỳ của anh mà dân Lực Lượng Đặc Biệt ai cũng biết. Nhưng lần này kinh nghiệm tình báo đã cho anh biết rằng nhận định của Thiếu úy Danh rất chính xác.

Chiều hôm đó Sư Phụ tập họp tất cả anh em Phục Quốc Quân lại, ra lệnh di chuyển mật khu đến nơi khác ngay trong đêm. Vì đa số anh em là dân địa phương nên Sư Phụ bằng lòng cho một số chọn ở lại miễn là phải rời mật khu lập tức, số còn lại theo Sư Phụ và Thiếu úy Danh ra đi. Thật may mắn cho họ, tờ mờ sáng khi đến một trạm liên lạc thì đã nghe được tiếng đạn pháo kích nổ dồn dập ở hướng họ vừa rời đi, đúng như Thiếu úy Danh dự đoán, bọn giặc Bắc Cộng đang pháo vào mật khu. Anh thay lại bộ quân phục của giặc, Thiếu tá Thạch cũng đưa lại cây K54 cho anh, còn anh thì đưa “giấy tờ đi đường hợp pháp” của mình cho Sư Phụ, anh hối Sư Phụ phải đi thật gấp. Khi đến thị xã Châu Đốc họ chia thành hai nhóm tạm trú trong những nhà cảm tình viên của Kháng Chiến Phục Quốc vài ngày để tiếp tục theo dõi tình hình.

Với tình cảnh của Thiếu tá Lê Ngọc Thạch bị buộc phải làm tiền đồn cho lực lượng chính của Hòa Hảo đóng trong núi, anh bàn bạc với Sư Phụ về việc này thật kỷ, cuối cùng cả hai đồng ý là Thiếu úy Danh nên trở về Long Khánh ngay để tiếp tục lo cho anh em mình, phần Thiếu tá Thạch anh cũng sẽ lần về Sài Gòn sau đó đi tìm một mật khu không quá xa với địa điểm của Thiếu úy Danh nhằm còn có cơ hội tái ngộ và phối hợp với nhau.

Sau khi trao đổi cách thức liên lạc với Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, Thiếu úy Danh trở lại cù lao Ông Hổ. Ở đây, anh được anh Biên cho biết trong trận giặc Bắc Cộng đánh vào núi Dài, lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc Hòa Hảo bị tổn thất nặng, nhưng tổn thất về phía chúng cũng không nhẹ chút nào. Vì vậy chúng bèn … trả thù xác chết. Câu chuyện anh hùng nhất của trận đánh này thuộc về người nữ Phục Quốc Quân con gái ông Cò Đ. Chị nhất quyết không đầu hàng và đã dùng lựu đạn “cưa” với hai tên bộ đội. Chúng đã cột xác chị và những chiến hữu chiến đấu sát bên chị vào phía sau xe kéo lê lết trên mặt đường nhằm … trả thù, tiện thể dằn mặt luôn dân chúng địa phương.

Đã xuống tới Vùng IV, Thiếu úy Danh quyết định ở lại nhà anh chị Biên mấy tuần lễ liền chờ anh chị giúp thử liên lạc với những nhóm Kháng Chiến Phục Quốc khác, nhưng cuối cùng không có kết quả. Anh hỏi anh chị Biên đường qua Mỹ Luông, Chợ Mới (đất thánh của Hòa Hảo) để tìm người quen là anh Hai Ngân, nguyên là Thượng sĩ nhất của Quân trường Đồng Đế. Chị Biên tình nguyện đích thân đưa anh đi và họ đã gặp được anh Hai Ngân. Gặp nhau vừa mừng vừa tủi, anh Hai Ngân cho anh Danh biết con trai anh là một Đại úy xuất thân Võ Bị Đà Lạt phục vụ tại Sư Đoàn 7 đã vào tù Cộng Sản tới nay chưa biết tăm tích. Anh Hai Ngân đề nghị anh Danh ở lại sống với anh vì dù sao địa phương này cũng được giặc Bắc Cộng … chê, ít dám bén mảng vào. Anh không biết anh Danh đang chỉ huy một nhóm Kháng Chiến Phục Quốc, cũng không biết anh Danh đang đi tìm các nhóm đang tiếp tục chiến đấu khác. Anh Danh đã ở lại với anh Hai Ngân thêm vài tuần lễ nhằm tìm hiểu thêm về tình hình địa phương, rốt cuộc cũng không thấy gì thuận lợi, anh quyết định trở lại Sài Gòn.

Thiếu úy Danh lắc đầu nói với tác giả “Vậy là việc tìm Số Nhà Lớn và kế hoạch mang anh em tôi về miền Tây đã phá sản !”.

Đối với tác giả, khi nghe nhắc về miền Tây và Hòa Hảo thì không thể nào quên được quyết định vô cùng khó hiểu của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu giải thể Tổng Đoàn Bảo An Hòa Hảo do ông Lê Chơn Tình làm Tổng đoàn trưởng vào thời gian cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Sau 30 tháng Tư 1975 rất nhiều người thắc mắc về vụ này nhưng chưa nghe ai đưa ra được sự giải thích hợp lý. Nếu vũ khí, đạn dược của Tổng Đoàn Bảo An chưa bị tịch thu thì việc tiếp tục chiến đấu của Hòa Hảo sẽ thuận lợi hơn nhiều !

Mặc dù giấy tờ đi đường đã giao cho Thiếu tá Thạch, Thiếu úy Danh vẫn may mắn vượt qua được những trạm kiểm soát của giặc, về đến Sài Gòn an toàn.
Trước tiên anh đến nhà Định và Ngôn, người anh đã nhờ chuyển tin tức cá nhân anh đến gia đình trước khi xuống Long Xuyên. Ngôn cho biết đã đến thăm gia đình anh, cả nhà vẫn bình an và rất mong gặp lại anh. Ngoại và chị anh ở nhà may đồ mướn, mẹ và em gái anh thì đi bán thuốc lá dạo, còn thằng em trai vốn là Kỹ sư Thủy Lâm nay nhờ “ơn cắt mạng” đã “được lên chức” tài xế xe ôm. Cả nhà khóc ngất khi được Ngôn báo tin Thiếu úy Danh vẫn còn sống và “được miễn” tù cải tạo.

Sẩm tối Ngôn chở anh về nhà, đến chợ Hóc Môn Ngôn tấp vào một quầy nhỏ bán thuốc lá, nói với người đàn bà ngồi sau quầy “Bác nhìn coi ai đây”. Má anh ngước lên nhìn đúng vào thằng con trai tưởng đã không còn bao giờ gặp lại được, đôi chân bà khụy xuống, hai tay chỏi lên quầy thuốc lá chịu lấy thân người đang run bần bật, rồi tiếng nấc nghẹn ngào bật ra, hai dòng nước mắt tuôn xuống như nước vỡ bờ, người mẹ già nua miền Nam đứng lặng đến cả phút sau mới có thể chạy lao vào thằng con trai Biệt Cách Dù yêu dấu. Bà ôm chầm lấy nó, nức nở. Người lính chai lỳ chiến trận không còn cầm được nước mắt, anh để mặc nó đầm đìa trên hai má, nhìn thật sâu vào khuôn mặt thân yêu vẫn hiện đến với anh trong từng giấc ngũ co ro lạnh lẽo giữa núi rừng. Xung quanh, cặp mắt của những bạn hàng kề bên đang tò mò hướng về phía hai mẹ con, má anh quay lại, gật đầu, khàn khàn nói “Con trai tôi”. Chút xíu nữa thì bà quên, bà đã quen miệng tính nói thêm một cách hãnh diện “Nó là lính 81 Biệt Cách Dù, các bà à”. Thật ra chuyện trùng phùng bất ngờ như vầy đã không còn lạ lẫm gì nữa với bà con mình sau ngày trời đất đảo điên 30 tháng Tư, mắt họ cũng ướt, họ gật đầu mỉm cười với hai mẹ con, như muốn nói chúc mừng đoàn tụ.

Anh hối má mau dẫn mình về nhà. Ngôn chở bà trên xe, Thiếu úy Danh đi bộ theo. Bước vào nhà, anh thấy ngoại mình tóc đã bạc phơ, tấm lưng còng nghiêng xuống bàn máy may, chị anh ngồi bên cạnh đang đơm nút áo, người chị nhìn khô héo như chiếc lá mùa thu. Còn đâu người phụ nữ xinh tươi của Sài Gòn xưa. Xưa, phải rồi, chỉ vừa hơn nửa năm mà đã như xưa thật là xưa, như thể người Sài Gòn bị hất tung khỏi trái đất, lạc đến một hành tinh lạ hoang sơ, tiêu điều, bởi bàn tay phá hoại của giặc Cộng từ phương Bắc.

Nghe có tiếng động, ngoại và chị anh nhìn ra phía cửa, má anh lên tiếng trước “Má coi ai về nè”. Ngoại nhìn anh trân trân rồi cất tiếng như tiếng rên rỉ ngắn ngủn vọng tới anh “Danh đó hả con ?”, Không ai nói nên lời nữa, chỉ còn nước mắt, nước mắt của trùng phùng, của sum hợp hạnh phúc …

Nhà làm gì còn đồ ăn. Sau 30 tháng Tư, giặc Cộng vào, nhà nào cũng vậy, làm gì còn chuyện nhà thừa đồ ăn sẳn sàng cho những dịp bất ngờ, như hồi trước. Má anh sai bà chị đến lò bánh trong xóm mua bánh khoai mì cho anh, bấy giờ ngoại mới nói thêm được câu thứ nhì “Con về luôn hay đi nữa ?”, anh trả lời thì thầm vào tai bà “Con ở lại không được đâu ngoại”. Nước mắt ngoại lại ứa ra, chảy dài xuống hai gò má hóp, bà gật đầu, bà hiểu hết, ngoại và má anh đã từng là nạn nhân của Cộng Sản mà.

Mặc dù muốn tránh gây nguy hiểm cho gia đình nhưng Thiếu úy Danh buộc phải nán lại thêm chút nữa. Anh cần gặp em trai và em gái mình, anh cần dặn dò hai đứa rất nhiều điều đã chạy tới chạy lui trong đầu anh trong lúc cùng anh em đồng đội vượt sông trèo núi để tìm địa điểm dựng căn cứ mật cho đơn vị.

Sau khi thực hiện được những điều anh mong muốn bấy lâu nay, Thiếu úy Danh dằn lòng chấp nhận giờ chia ly giả biệt. Sau nước mắt trùng phùng thì đến nước mắt giả từ mà không ai dám chắc đến lúc nào họ mới lại có dịp gặp nhau lần nữa. Má anh bùi ngùi bắt anh phải nhận chút tiền và gói cái bánh khoai mì cho anh đem đi theo. Anh cầm nhưng không muốn nhận chút nào, anh làm gì không biết gia đình anh, cũng như hầu hết các gia đình dân miền Nam, đã biết sợ cách trả thù của giặc Bắc Cộng : Bỏ đói ! Rõ ràng nhất là chính sách “trại cải tạo” của Cộng Sản, đó là những trại tù bỏ đói tù nhân chớ “cải tạo” và “cải tạo viên” cái gì ?! Vậy mà sau này có một số anh em mình vì quen tai quen miệng vẫn tiếp tục nói rằng “Tôi đi cải tạo …”, nghe phát nản hết biết luôn. Nhưng cũng có một ông trùm băng đảng, Trùm Năm Cam nguyên là Hạ sĩ Việt Nam Cộng Hòa, khi bị chúng bắt đưa ra tòa thì hơn một chục lần tên quan tòa giặc Cộng đều nói trước mỗi câu hỏi “Sau ngày cách mạng thành công thì …”, Trùm Năm Cam từ tốn trả lời “Dạ, thưa quan tòa, sau ngày đất nước hòa bình …”; ông trùm du đảng liên tục “chơi chữ” với tên “quan tòa” Cộng Sản nghe rất đã tai mặc dù với cấp bậc cũ của anh thì chắc là trình độ học vấn không cao mấy. Chính là “đại học hè phố” đã dạy và cấp cho anh Năm Cam bằng cấp “tiến sĩ ngành nghĩa khí”.

Trên đường về, Ngôn giữ im lặng như để tôn trọng nổi niềm riêng tư đang dày vò anh Danh. Mãi một lúc sau Ngôn mới bắt đầu nói, là anh đang làm ăn buôn bán với một hợp tác xã ở Định Quán và có quen với một người tên Hiền, Ngôn muốn giới thiệu anh với Hiền với lý do có thể người này có thể sẽ thích hợp với anh.

Được thôi, chuyến đi của anh coi như đã thất bại, thêm một cuộc gặp gỡ nữa cũng không làm nó xấu hơn được. Tại nhà Hiền gần chợ Bà Quẹo, Thiếu úy Danh được biết Hiền đang cung cấp lương thực và cuốc xẻng cho những người làm rẫy ở Phương Lâm, Định Quán. Như muốn tạo sự tin tưởng cho Thiếu úy Danh, Hiền dắt anh ra sau nhà, giở miếng lót sàn lên, lôi ra hai cây M16 được bọc cẩn thận trong bao ni lông ra cho anh xem. Trong khi anh Danh còn đang phân vân không biết thực hư, Hiền tiếp tục nói về những điểm liên lạc, dấu hiệu, mật khẩu, vv … Hiền cũng hứa ngày mai sẽ cung cấp giấy tờ đi đường cho anh.

Người bạn mới này có vẻ thích làm việc nhanh và trực tiếp.

Trên đường về Ngôn nói thêm về nhân vật Hiền. Trước 30 tháng Tư gia đình Hiền có nhà trong khu gia binh, Hiền là sinh viên Luật, vì là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa nên ba Hiền đi tù Cộng Sản tới nay chưa được thả. Ngôn ngõ ý muốn Thiếu úy Danh nên tin Hiền như tin anh. Thiếu úy Danh gật đầu tuy trong bụng nói thầm “Vẫn còn phải thử thách qua thời gian và việc làm nữa đấy”.

Sáng hôm sau Thiếu úy Danh đi xe bus đến Lăng Cha Cả rồi cuốc bộ đến nhà cậu Ba. Ông cho biết Tân đã trở về Long Khánh và đã đưa theo một số anh em vào rừng với anh em của Thiếu úy Danh. Anh “dạ” với cậu Ba nhưng không nói cho ông biết anh đang chớm có một kế hoạch mới cho Kháng Chiến Phục Quốc của nhóm mình. Anh trình bày về tình hình kháng Cộng ở những vùng anh đã đi qua trong chuyến đi tìm Số Nhà Lớn vừa rồi. Nghe xong, cậu Ba trầm ngâm một hồi rồi kết luận :

- Khó lắm rồi ! Phải tự lực cánh sinh thôi !

Đúng vậy, Thiếu úy Danh cũng đã nghĩ như vậy sau khi sau khi chia tay với Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, và trên đường từ Long Xuyên trở lại Sài Gòn.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Những ngày sau, cậu Ba giới thiệu với Thiếu úy Danh một số tổ chức chống Cộng khắp miền Nam. Người anh gặp đầu tiên là Đại úy Bền, đảng viên Cần Lao Nhân Vị của ông Ngô Đình Nhu trước đây. Đại úy Bền thú nhận, cũng như anh, tổ chức của ông đang cố gắng liên tục đi tìm Số Nhà Lớn nhưng chưa gặp. Hiểu tâm trạng của Đại úy Bền, vì chính anh vừa đã trãi qua, anh an ủi ông, nếu thật sự có một Số Nhà Lớn thì trước sau chúng ta cũng sẽ gặp, chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng trong khi chưa gặp thì chúng ta vẫn phải tiếp tục tự tổ chức, tự hành động (như cậu Ba đã gợi ý). Mục tiêu của chúng ta là giặc Bắc Cộng, chiến binh của chúng ta là dân chúng. Vì ngoài thành phần quân – cán – chính Việt Nam Cộng Hòa thì tất cả dân miền Nam cũng bị giặc Bắc Cộng liệt vào thành phần phải bị trả thù ngoại trừ … bọn “cán bộ 30”. Như thế thì chúng ta không thiếu Kháng Chiến Phục Quốc Quân. Đặc biệt nên nhắm tới những người mà chúng ta gọi là du đảng còn giặc Bắc Cộng thì liệt họ vào thành phần cặn bã xã hội. Những người này đa số có bản chất trọng nghĩa khí, nếu được huấn luyện và trang bị họ sẽ rất thích hợp với hoạt động chống Cộng tại thành phố trong thời thế hiện nay. Nghe nhắc tới trang bị, Đại úy Bên liền hỏi Thiếu úy Danh về tình trạng vũ khí, anh trả lời vũ khí sẽ không thiếu vì súng địch sẽ là của chúng ta, chỉ cần chúng ta biết cách đoạt lấy, không cần tới viện trợ của ai hết. Đại úy Bền gật đầu đồng tình, sau đó họ bàn qua những vấn đề khác cũng liên quan tới việc đánh Cộng, diệt Cộng.

Sau đó cậu Ba còn tổ chức cho anh gặp được đại diện của các Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết, Liên Tôn, Phục Hưng, Phục Quốc … Hầu hết đều có tinh thần chống Cộng quyết liệt, hầu hết đều cố tìm Số Nhà Lớn nhưng không gặp, và hầu hết đều muốn thành lập mật khu. Anh đã trình bày với đại diện các tổ chức rằng thành lập mật khu trong rừng là một vấn đề lớn (nhóm anh đã xong phần tìm địa điểm thích hợp nhưng việc thành lập thì phải nhận là chưa), không đơn giản chút nào. Một điều nữa luôn phải nằm lòng về việc thành lập mật khu trong rừng : Cộng Sản là chuyên viên về mật khu, việc chúng ta muốn làm chúng đã từng làm, và đã làm trong một thời gian dài. Nếu chúng đã rành rõi như vậy thì việc tiêu diệt mật khu của chúng ta sẽ không quá khó đối với chúng.

Đối với Thiếu úy Danh, sau khi thất bại trong việc tìm gặp Số Nhà Lớn, anh đã tự hỏi mình : Nếu thật sự không có một Số Nhà Lớn nào cả, thì sao ?! Anh và anh em của anh có tiếp tục chiến đấu nữa không ?! Nếu tiếp tục thì với phương cách nào ?!

Và anh cũng đã tự trả lời : Toán Thám Sát của anh đã quyết định vào rừng vào lúc chưa hề nghĩ tới Số Nhà Lớn, vậy có thì quá tốt mà không có thì đối với nhóm của anh cũng chẳng xấu đi. Tiếp tục chiến đấu là việc phải làm bằng mọi giá. Và phương cách tiếp tục là Mật Khu Thành Phố (thay vì trong rừng).

Thiếu úy Danh cảm thấy nhân vật Hiền do Ngôn giới thiệu có thể hữu ích với quan niệm mới của anh về vấn đề mật khu.

Vài ngày sau anh nhận được tin nhắn của Sư Phụ Lê Ngọc Thạch nên vội đến điểm hẹn trên đường Nguyễn Văn Thoại, nhưng không gặp. Người ở điểm hẹn cho biết vì anh nhận được tin nhắn quá trễ nên Sư Phụ chờ không được, đã “đi làm ăn xa” rồi. Anh đành để lại lời nhắn rồi ra về.

Ngày hôm sau Thiếu úy Danh cùng Hiền lên đường đi Phương Lâm. Trên đường đi anh thấy hai bên đường, từ Hố Nai đến Định Quán, vẫn còn có những căn nhà có Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẽ bằng sơn trên cửa chính. Anh thắc mắc, Hiền hứa sẽ tìm hiểu. Đến nơi, Hiền giới thiệu anh với cơ sở làm ăn, hai bên cẩn thận thảo luận những điều khoản hợp tác. Xong việc, hai bên ngồi nói chuyện chơi với nhau, họ cho anh biết cách đây không lâu có hai cán bộ nhà nước Việt Cộng ăn cắp một số tiền lớn, bỏ trốn, đến nay vẫn chưa bắt được (là hai cán bộ nam nữ đã bị nhóm của Toán viên Mạnh ở Trảng Tranh ‘làm thịt’). Và gần đây, dân chúng địa phương cho hay có những toán “tàn quân” mặc đồ bệt (giống quân phục Thủy Quân Lục Chiến) trang bị súng AK47, M16, lảng vảng trong rừng. Thiếu úy Danh thầm nghĩ anh em mình đang có mặt nhiều nơi trong rừng này, phải chăng bọn giặc Cộng đang giả dạng phe ta để truy sát anh em ?

Thiếu úy Danh muốn báo tin này lập tức cho Liêm và Bình, anh hỏi Hiền có biết nhà Xuân (trước là nhân dân tự vệ) không ? Hiền gật đầu, đêm đó dẫn đến gặp được em gái của Xuân. Anh nhờ cô nhắn gấp với Xuân tin nhắn : “CĐ 3 : Đám khoai lang tím đang bị sâu của loài bướm đêm bệt đen xanh phá hoại, phải tìm hiểu và ngăn chận, nếu cần thì tìm cách tiêu diệt ngay”. Anh từ giả Hiền rồi gấp rút đến nhà Thượng sĩ Kim, cho ông biết tình hình mới. Ông Kim cho anh hay Trung sĩ Bình cùng anh em vẫn bình thường, đang chờ tin anh. Ông đưa lại bản đồ, địa bàn cho anh.

Anh gặp lại Hiền, nói rằng anh quyết định sẽ đích thân điều tra vụ “bướm bệt xanh đen”, đề nghị Hiền yễm trợ. Hiền đồng ý, họ vào rừng ngay trong đêm cùng với hai người của Hiền. Bốn ngày sau anh đến điểm hẹn của Chốt Số 1, gặp Linh thì được biết Linh có liên lạc với Trung sĩ Bình, toán của anh Bình vẫn kiểm soát được tình hình.

Bây giờ nhóm của Thiếu úy Danh đã có thêm hai Toán viên Linh và Ngàn nhập vào. Mục tiêu thám sát của nhóm nằm ở khoảng 40 cây số đường chim bay về hướng Đông Đông Bắc. Vì hai người của Hiền chưa quen lội rừng nên mãi 5 ngày sau họ mới đến được vùng thám sát.

Toán viên Linh chỉ trên bản đồ cho biết vùng và đặc tính hoạt động của “bướm bệt xanh đen”. Tiếp cận khu vực khả nghi để truy tìm “bướm”, nhóm phát giác ra vài căn chòi lá mới cất, ẩn mình trong đám rừng thưa, không có chòi canh. Rình quan sát thêm, nhóm Thiếu úy Danh biết được đám “bướm” có khoảng 20 “con” và có thói quen đi săn thú rừng vào ban đêm. Anh quyết định ngay, chúng săn thú rừng vào ban đêm thì nhóm sẽ săn chúng vào lúc chúng săn thú, sẽ dễ xác định mục tiêu nhờ ánh đèn săn trên đầu chúng.

Linh, Ngàn và Hiền sẽ là nỗ lực chính, anh và hai người của Hiền yễm trợ. Sau hai đêm theo dõi, cơ hội đã đến. Việc bắt cóc này đối với Biệt Cách Dù như Linh và Ngàn thì dễ dàng như trở bàn tay. Nhóm đưa hai “bướm” bị bắt đến vùng an toàn cho việc tra hỏi.

Trong quân phục bộ đội Bắc Cộng với giọng Thanh Hóa, Linh bắt đầu khai thác bằng những câu hỏi :

- Chúng mày là tàn quân ? Có bao nhiêu người ? Trước 75 ở đơn vị nào ? Xâm nhập vào đây bằng đường nào, phương tiện gì ? Nhiệm vụ như thế nào ? Nhận yễm trợ vũ khí, lương thực từ đâu ?

Hai “bướm” bị tóm cổ là người miền Nam, cung khai :

- Không phải tàn quân mà là bộ đội của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Được lệnh trực tiếp từ Ủy ban Quân quản Miền Nam vào rừng lập mật khu chờ lệnh. (Vị trí láng trại của ‘bướm bệt xanh đen’ là vùng trọng yếu, nối từ biển vào, từ cao nguyên xuống, và mở được nhiều hướng về các tỉnh đồng bằng miền Nam. Từ đây có thể mở những cuộc hành quân diện địa tìm diệt Lính Cộng Hòa đã rút vào rừng hoặc quân của Fulro).

Linh nạt lớn :

- Không thể tin, chúng tao trách nhiệm vùng này sao không được thông báo ?

Hai “bướm” co rúm :

- Có thể các đồng chí chưa nhận được thôi, hoặc Trung Ương không phổ biến.

Thiếu úy Danh suy tính thật nhanh, tuy biết chúng nói thật vì chúng tin rằng nhóm của anh là … bộ đội Bắc Cộng, nhưng tha mạng cho hai tên này có nghĩa là chấp nhận sự hiện diện của anh em anh trong rừng này sẽ bị lộ bất cứ lúc nào. Còn đối với gần 20 tên còn lại đang ngũ trong láng trại của chúng, nếu tấn công chúng thì với lực lượng 1 chọi 3 nhưng nắm được yếu tố bất ngờ, Biệt Cách Dù sẽ “làm gỏi” chúng không khó; tuy nhiên sẽ làm lộ sự hiện diện của anh em mình trong rừng này.

Suy tính nhanh, quyết định cũng thật nhanh, Thiếu úy Danh giao 2 “bướm” bị tóm cho Hiền và Ngàn. Một lát sau Ngàn báo cáo “Đã giải quyết xong”.

Vậy là Toán Thám Sát 81 Biệt Cách Dù có thêm 1 AK47, 1 CKC, đạn và đèn săn. Nhóm Thiếu úy Danh khởi hành trở lại điểm xuất phát. Ở đây anh Danh yêu cầu Hiền và các anh em còn lại thảo luận, lập kế hoạch hoạt động tương lai, đồng thời tiếp tục bám sát theo dõi đám “bướm bệt xanh đen”. Anh nghĩ có lẽ hai tên vừa bị giết cũng có thể sẽ bị đồng bọn nghi là … đã đào ngũ, cũng như cặp nam nữ cán bộ bị Biệt Cách Dù hạ ở Trảng Tranh đã bị đồng bọn của chúng kết án … thụt két ôm tiền đi xây tổ uyên ương.

Để mọi người ở lại đây, cá nhân Thiếu úy Danh lội về Rừng Tre thăm nhóm Trung sĩ Bình.

Trên đường đi, anh suy nghĩ về vụ “bướm bệt xanh đen”. Sau 30 tháng Tư không bao lâu, dân miền Nam biết được đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bất mản bọn Cộng Sản Bắc Việt, vì bị giành công, bị hất cẳng trong vụ “phỏng giày” miền Nam. Bọn giặc Bắc Cộng đã biến đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành một đám ngây thơ cụ cõng rắn cắn gà nhà. Vì vậy có thể “bướm bệt xanh đen” đã nhận lệnh tổ chức mật khu chuẩn bị chống lại … rắn, cho đỡ uất cái công … cõng.

Nhưng chính Cộng Sản Bắc Việt cũng là bọn cõng rắn cắn gà nhà. Ngay vừa sau tháng Tư 1975 thì Tầu Cộng xúi giục, hỗ trợ cho đám khùng Pol Pot pháo kích, đưa quân Khờ Me Đỏ chớp nhoáng vượt qua biên giới Tây Ninh, Anh Giang, Châu Đốc, vv … đốt nhà, giết dân Việt, rồi rút nhanh trở về Kăm Pu Chia. Sắp tới thì thấy khó tránh khỏi một cuộc chạm trán trực tiếp giữa Việt Cộng – Tầu Cộng. Tuy vậy, trong tương lai sau khi sự căng thẳng giữa Liên Xô và Tầu Cộng không còn nữa (vì Liên Xô tan rả) thì Bắc Bộ Phủ sẽ quỳ xuống trước Tầu Cộng tình nguyện tiếp tục cõng con rắn khổng lồ này cắn gà nhà (toàn dân Việt, toàn cõi Việt Nam) như chúng ta hiện chứng kiến.

Giả thuyết thứ nhì thì “bướm bệt xanh đen” chính là mồi nhữ do Lê Đức Thọ tổ chức. Sau khi Sài Gòn thất thủ, đã có nhiều tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc nổi dậy, tên trùm tình báo kia tổ chức kháng chiến giả, lập mật khu giả nhữ bắt những người vào rừng tìm Kháng Chiến Phục Quốc xin gia nhập. Những cái bẫy của tên ác ôn Thọ đã bắt và giết được nhiều người dân yêu nước của miền Nam. Đây là một trong các lý do đưa đến quyết định “dứt dây” hai tên “bướm bệt xanh đen” bị tóm cổ.

Từ khu Rừng Tre, sau khi được Trung sĩ Bình báo cáo nhóm của anh vẫn nắm vững tình hình tại đây, nhất là vụ “bướm bệt xanh đen” đã giải quyết được một phần, Thiếu úy Danh và Toán viên Đinh trở ra Long Khánh. Vì đã quyết định chọn giải pháp Mật Khu Thành Phố, kể từ đây anh Danh sẽ có mặt ở phía ngoài nhiều hơn trong rừng, anh cũng dự tính sẽ mang vài toán viên Biệt Cách Dù ra ngoài hỗ trợ anh thực hiện giải pháp mới. Lần này trở ra Long Khánh anh gặp lại người bạn tên Bằng, cấp bậc Thiếu úy, bị giặc bắt làm tù binh trước 1975. Anh Bằng vừa được chúng thả. Sau ngày “sập trời”, gia đình Thiếu úy Bằng bị chúng buộc phải rời khu gia binh lên vùng kinh tế mới Long Khánh phá rừng làm rẫy sống qua ngày. Anh Danh cho Bằng biết anh cũng đang lang thang, đi làm mướn sống qua ngày. Bằng rủ anh về sống với gia đình mình, làm rẫy, có khoai cùng ăn khoai, có bắp cùng ăn bắp. Anh Danh đồng ý.

Lúc này Hiền cũng đã giả từ Chốt Số 1 trở ra ngoài, anh và Hiền tổ chức lại hệ thống liên lạc, tiếp tế cho anh em của hai anh ở trong rừng.

Khi mọi chuyện đã đâu vào đấy, vì muốn tìm gặp lại Sư Phụ Lê Ngọc Thạch, Thiếu úy Danh làm một chuyến trở lại Sài Gòn. Sau hai ngày chờ đợi, anh gặp được Sư Phụ. Thiếu tá Thạch cho biết phía Hòa Hảo đã giúp anh và anh em tổ chức mật khu mới ở vùng Bà Rịa, Vũng Tàu. Ngày hôm sau anh Thạch đưa anh Danh đi Bà Rịa, ở tại nhà một người quen cách núi khoảng chừng 10 cây số đường chim bay, chờ đêm tối sẽ vào núi. Tại mật khu, anh Danh chỉ hỏi Sư Phụ về vấn đề lương thực, anh Thạch cho biết tiền và gạo nhận được từ đồng bào, về chuyển vận thì anh em tuột núi cõng lên. Anh Danh không dám hỏi thêm, cũng như không trình bày về giải pháp mới “Mật Khu Thành Phố”, vì anh dự tính mình sẽ bắt tay vào làm trước, khi nào đã có triển vọng thành công thì sẽ trình bày với những nhóm khác.

Trước khi chia tay, Thiếu tá Thạch nói nếu cần liên lạc thì đến địa điểm cũ, Thiếu úy Danh cũng cho Sư Phụ những điểm và “code” của mình. Hai anh em chia tay, anh lên đường trở lại Sài Gòn tìm gặp cậu Ba.

Gặp nhau, cậu Ba cho biết tình hình đang rất căng và dặn Thiếu úy Danh phải cẩn thận hơn nữa. Ông cho anh biết vụ nổ súng ở nhà thờ Vinh Sơn, ngoài số anh em bị tử trận hình như còn có một Thượng sĩ Biệt Cách Dù và một Trung sĩ Nhảy Dù (Có thể là Thượng sĩ Hiệp sau này bị giặc Cộng bắn chết ở trại tù Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai). Tổn thất về phía giặc chắc chắn có nhưng không thể có con số chính xác (Cộng Sản, tổ sư nói dóc). Và còn có một vụ nổ súng khác, giặc Bắc Cộng nổ súng giết một số em Chủng Sinh ở chợ Ông Tạ, sau đó chụp mũ những người chết là băng cướp có vũ khí, thật khốn nạn.

Vụ Nhà Thờ Vinh Sơn bắt đầu ngay sau ngày 30 tháng Tư 1975, đồng thời với việc trở vào rừng của Toán Thám Sát thuộc Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù do Thiếu úy Toán trưởng Danh chỉ huy.

Bởi vì các vị chủ chăn Công Giáo ở Việt Nam không lạ gì với phán đoán của ông Ngô Đình Nhu trước khi bị giết “Nếu Bắc Cộng thôn tính được Nam Việt Nam thì việc Tầu Cộng thôn tính cả nước Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian”, nên đã có rất nhiều linh mục lập tức khởi động Kháng Chiến Phục Quốc ngay sau ngày 30 tháng Tư 1975. Do vậy rất sớm xãy ra vụ Nhà Thờ Vinh Sơn vào tháng Hai 1976.

Chính Linh mục Chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn là Nguyễn Quang Minh và Linh mục Nguyễn Hữu Nghị cùng hai sĩ quan Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Xuân Hùng thành lập lên Tổ Chức Dân Quân Phục Quốc đặt căn cứ ngay tại nhà thờ Vinh Sơn trên đường Trần Quốc Toản, Sài Gòn. Tổ Chức Dân Quân Phục Quốc chủ trương lật đổ nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng bằng vũ lực. Họ đã tổ chức được lực lượng võ trang, chọn quốc hiệu, quốc kỳ và quốc ca.

Ngày 13 tháng Hai 1976, giặc Bắc Cộng bao vây, tấn công vào nhà thờ Vinh Sơn bằng một lực lượng hùng hậu. Phía bên trong chống trả lại quyết liệt, bằng cả súng đại liên M60 đặt trên tháp chuông, với rất nhiều lính Việt Nam Cộng Hòa tham chiến, trong đó có một Thượng sĩ 81 Biệt Cách Dù mà Thiếu úy Danh đoán là Thượng sĩ Hiệp sau này bị chúng bắn chết ở trại tù Z30A trong khi vượt ngục.

Ba bản án tử hình vào tháng Chín 1976 dành cho Linh mục Nguyễn Hữu Nghị và hai sĩ quan VNCH Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Xuân Hùng.

Một tu sĩ Công Giáo khác, Linh mục Trần Học Hiệu, đã cùng với Thiếu tá Nguyễn Bá Đề thành lập Lực Lượng Nhân Dân Vũ Trang Phục Quốc Việt Nam bắt đầu tấn công các đơn vị giặc Bắc Cộng trú đóng ở Long Khánh và vài nơi khác thuộc tỉnh Đồng Nai vào tháng Tám 1976. Qua tháng Mười, giặc tổ chức hành quân truy tìm – tiêu diệt vào Xuân Lộc, Đồng Nai, nơi trú quân của Lực Lượng Nhân Dân Vũ Trang Phục Quốc Việt Nam. Chúng bắt được Linh mục Trần Học Hiệu và Thiếu tá Nguyễn Bá Đề cùng khoảng 30 Phục Quốc Quân.

Vì vụ Nhà Thờ Vinh Sơn chỉ mới xãy ra vào tháng Hai cùng năm, bọn giặc đã phải dấu kín vụ Linh mục Trần Học Hiệu để ngăn chận bớt tin đồn đang tràn lan về Kháng Chiến Phục Quốc. Theo các tín đồ lớn tuổi ở địa phương, chúng đã lặng lẽ xử tử Linh mục Trần Học Hiệu ngày 5 tháng Mười Một 1979, phần mộ của ngài hiện tọa lạc tại giáo xứ Bùi Vĩnh, Biên Hòa.

Năm 1976 còn có Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam do Giáo sư Trần Thanh Đình kết hợp với đảng viên Đại Việt Duy Dân Phạm Nhật Khánh và các chiến sĩ (như ông Vũ Văn Nghi) đã thoát trong vụ Nhà Thờ Vinh Sơn thành lập. Mặt Trận thu hút được khá nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Theo biên bản của tòa án rừng của giặc Bắc Cộng, Mặt Trận đã có một kế hoạch lớn để xây dựng một lực lượng quân sự lên đến hàng trăm ngàn người ở khắp miền Nam, bình thường là dân khi cần thì biến thành quân chiến đấu nhằm lật đổ nhà cầm quyền Cộng Sản.

Đến tháng Mười 1976 hoạt động của Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam bị lộ, những vị cầm đầu bị giặc bắt. Hai ông Trần Thanh Đình và Phạm Nhật Khánh lãnh án tử hình, các vị khác bị kêu án tù từ 10 năm đến chung thân.

Các chiến sĩ Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam thoát được sau đó kết hợp được với Linh mục Nguyễn Văn Vàng và Thiếu tá Nguyễn Văn Viên thành lập một tổ chức vừa mang tên cũ nhưng vừa có thêm một tên nữa là Mặt Trận Liên Tôn. Đặt thêm cho tổ chức cái tên mới này, ý Linh mục Vàng muốn có được sự liên hợp với những tôn giáo khác cũng đang chiến đấu chống giặc Cộng Sản như tổ chức của ông.

Đến cuối năm 1977 thì Mặt Trận Liên Tôn cũng bị lộ, những người cầm đầu bị bắt. Biên bản tòa án giặc Cộng kết tội Mặt Trận Liên Tôn đã dùng các tu viện, nhà thờ để hội họp, cất dấu tài liệu và vũ khí. Có đến sáu vị linh mục bị bắt gồm các Linh mục Nguyễn Văn Vàng, Bùi Thành Long, Nguyễn Tiến Khẩu, Phan Quang Hồng, Lê Văn Đào, và Nguyễn Viết Linh. Còn có một nhân vật quân sự rất đặc biệt là Thiếu tá Nguyễn văn Viên, em ruột của Linh mục Nguyễn Văn Vàng.

Theo bài “Vị Anh Hùng Kiệt Liệt” của Mũ Đỏ Phạm Huy Sảnh viết vào năm 2009 tại Nam California thì nhiều người khi nhắc đến ông cựu Tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù Nguyễn Văn Viên thường chỉ nhớ đến cấp bậc Đại úy của ông lúc bị giải ngũ vào năm 1957 khi ông Viên đang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, do một lỗi lầm của thuộc cấp mà ông phải chịu trách nhiệm. Ông Viên tốt nghiệp khóa 6 Võ Bị Đà Lạt. Đến năm 1972, một số cựu sĩ quan được gọi tái ngũ, trong đó có Đại úy Nguyễn Văn Viên. Đã 15 năm trôi qua, các đàn em của Đại úy Viên trong binh chủng Nhảy Dù nay đã là Tướng, Tá … Thí dụ như Thiếu úy Vũ Văn Giai nay là Chuẩn tướng Tư lệnh Sư Đoàn 3 BB. Thiếu úy Lê Quang Lưỡng đang là Tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù. Đặc biệt Thiếu úy Ngô Quang Trưởng, một sĩ quan đàn em thân tín của ông thời cùng phục vụ tại Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù (ông Viên cũng từng là Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5 ND), ông Trưởng nay là Tư lệnh Quân đoàn 4 mà Sư đoàn 9 BB là một đơn vị cơ hữu. Sau khi tái ngũ Thiếu tá Viên được bổ sung về Sư Đoàn 9 với chức vụ Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh.

Khi xét hồ sơ của những sĩ quan tái ngũ, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên, cũng xuất thân từ Nhảy Dù, không đồng ý với bản án 1957 Đại úy Nguyễn Văn Viên đã phải chịu, ông Viên (Đại tướng) đã thăng ông Viên (Đại úy) lên cấp Thiếu tá nhiệm chức trước khi về trình diện Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Có lẽ Tướng Viên làm vậy vì thấy việc kêu một Đại úy Tiểu đoàn trưởng tái ngũ sau 15 năm bị buộc giải ngũ là một việc như thể làm khó đương sự, cũng như thấy được sự khó khăn của cá nhân Đại úy Viên khi gặp lại các đàn em Nhảy Dù.

Mũ Đỏ Phạm Huy Sảnh viết, một vị tướng gốc Nhảy Dù từng là bạn thân cùng binh chủng của Thiếu tá Nguyễn Văn Viên đang có mặt ở Hoa Kỳ đã từng kể rằng sau 30 tháng Tư 1975
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Thiếu tá Viên đến thăm ông tại nhà riêng ở Sài Gòn. Ông Viên cho ông tướng biết mình sẽ không đi trình diện giặc, mà sẽ tiếp tục chiến đấu, rồi xin ông tướng nếu có vũ khí hãy cho ông hết. Ông tướng lục lọi ra được một mớ súng đủ loại : Súng lục hãm thanh, súng Colt 45, súng carbine, tiểu liên, cùng một số đạn dược. Đó là “kho vũ khí” đầu tiên của Thiếu tá Viên cho công cuộc Kháng Chiến Phục Quốc. Ngoài ra, khi thấy ông tướng có một máy đánh chữ hiệu Olivetti Thiếu tá Viên cũng xin, ông tướng cho luôn.

Thiếu tá Viên đã góp tay thành lập chiến khu Phụng Thiên 18 trong vùng Gia Kiệm, Phương Lâm, và chiến khu Phụng Thiên 27 trong vùng giữa bắc Vàm Cống, bắc Mỹ Thuận, và bắc Cần Thơ. Còn có Linh mục Phan Quang Hồng chịu khó chịu khổ đi truy tìm thu lượm vũ khí bị bỏ lại rãi rác khắp miền Nam để trang bị cho các chiến sĩ Mặt Trận Liên Tôn.

Kế hoạch lớn của Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam được Mặt Trận Liên Tôn tiếp tục thực hiện. Mặt Trận còn phát hành (lậu) được 6 số báo Vì Dân để kêu gọi dân chúng.

Nhưng cuối cùng Mặt Trận Liên Tôn cũng bị giặc phát giác. Thiếu tá Nguyễn Văn Viên và Nhà báo Hà Văn Thành bút hiệu Hà Tùng Linh bị chúng tử hình, các vị khác bị kêu án tù từ 4 năm đến chung thân (Linh mục Nguyễn Văn Vàng, tù chung thân, chết trong khám Chí Hòa).

Thiếu tá Nguyễn Văn Viên bị giặc xử bắn vào cuối năm 1976 tại một vườn điều ở Thủ Đức với sự chứng kiến của một số dân địa phương. Nhân chứng kể, Thiếu tá Viên vẫn hiên ngang tuyên bố chính nghĩa của dân quân Việt Nam Cộng Hòa, nói lời từ biệt đồng bào, rồi yêu cầu không bị bịt mắt trước khi giặc Bắc Cộng nổ súng bắn ông.

Rời nhà cậu Ba Thiếu úy Danh trở lại nhà anh Tư Ng một lần nữa hy vọng sẽ có được tin tức của Thiếu tá Phạm Châu Tài. Anh Tư Ng cho hay chưa có tin tức gì từ Thiếu tá Tài. Anh cũng tìm đến nhà một số anh em Biệt Cách Dù hỏi thăm thì các câu trả lời đều như vậy cả. Thất vọng ê chề, anh chờ đến tối lẻn về thăm gia đình. Anh đưa cho má anh chút tiền từ số tiền công làm rẫy mướn trong thời gian qua. Ngoại anh hỏi lại câu hỏi lần trước, chừng nào thì con về nhà ở luôn ? Anh buồn bã, thưa ngoại, chưa phải lúc này đâu.

Câu trả lời khiến cả nhà buồn thiu, không ai nói thêm được lời nào.

Từ giả thủ đô, anh trở về rẫy tiếp tục công việc của mình. Về đây anh được biết gia đình Thiếu úy Bằng vừa bị ép phải nhận thêm 2 mẫu đất rừng, phải khai phá nó trở thành đất rẫy. Cây rừng hạ xuống, gỗ tạp gia đình được hưởng, gỗ quý thì “được” … con đảng quỷ cháu bác hù trưng thu. Nông sản, dân chúng … có quyền bán với giá bèo cho nhà cầm quyền giặc Cộng; người dân nào từ chối “quyền” này sẽ được cho thêm “quyền” … vào tù. Ngoài ra lại còn có thêm “quyền” đóng thuế nặng không cho thiếu một xu. Dân miền Nam dưới thời khỉ nhảy bàn độc cầu nguyện ngày đêm cho Lính Cộng Hòa trở lại “tước giùm” những “quyền” họ đang “được” giặc Bắc Cộng chụp cho.

Trong thời gian này Toán viên Linh liên lạc cho Thiếu úy Danh biết các vùng trách nhiệm của Linh, của Thiếu úy Tính, và của anh em Sư Đoàn 18 tương đối ổn định, lương thực tạm đủ, tuy nhiên có đụng độ vài trận lẻ tẻ với quân giặc địa phương, không đáng kể. Vùng thuộc trách nhiệm của Trung sĩ Bình thì yên ổn hơn. Nghe vậy, Thiếu úy Danh dặn Linh phải cẩn thận hơn, phải cố tránh những trận đụng lẻ tẻ vì có thể giặc đánh để thăm dò tìm vị trí đóng quân của mình. Phải đặt sự an toàn của anh em 81 và các Chốt 1, 2, 3, 4, 5, và vùng trách nhiệm của Thiếu úy Tính lên trên hết.

Ngoài những lúc làm việc với anh em và làm rẫy, anh Danh hay lôi cây K54 do nhóm của Toán viên Mạnh đoạt được từ giặc ở Trảng Tranh ra mài giủa để “giải phóng” sạch trơn tất cả dấu tích nguồn gốc, lý lịch của nó. Anh đã làm một việc không vô ích chút nào.

Gia đình Thiếu úy Bằng trồng bắp, khoai mì, thêm vài dây bầu, bí chung quanh chòi để có thêm món canh cho những bữa ăn quá đạm bạc. Thỉnh thoảng cô Ngọc An, em gái anh Bằng, mang ít con khô, hủ mắm vào rẫy tiếp tế. Mỗi lần gặp cô Thiếu úy Danh cảm thấy xót xa cho một nữ sinh đô thị với những ước mơ đẹp đẽ tuổi mới lớn đã bị tham vọng ám muội ngu si của lão già râu cà chớn dập tắt phủ phàng. Tất cả đã tan tành thành mây khói đối với thanh thiếu niên ba miền, nạn nhân của một lão già vừa ác vừa ngu. Cô và gia đình bị tịch thu nhà cửa, bị đuổi đến chốn khỉ ho cò gáy này sống dật dờ qua ngày tháng, những ngày tháng đáng ra là đẹp nhất của tuổi chớm xuân. Mùa Xuân không còn nữa sau cái ngày trời đất đảo điên đầu năm 1975. Cô Ngọc An đã khiến lòng anh Thiếu úy Biệt Cách Dù rộn ràng xao xuyến mà chính cô thì cũng xao xuyến rộn ràng không kém, mỗi khi họ có dịp gặp nhau. Sự xao xuyến rộn ràng mà gái Sài Gòn nhất quyết không dành cho … khỉ rừng xanh khọt khẹt về thành.

Cái khốn khó của vùng thôn quê hẻo lánh cạnh núi rừng nhưng lại giàu vẻ đẹp hoang sơ thơ mộng đã ươm lên một mối tình rực rỡ.

Có những đêm trăng rừng mờ ảo, bên cạnh người yêu, cô thủ thỉ “Em chỉ cần tình yêu của anh, ngoài ra em không cần gì nữa đâu”. Anh Danh bị dằn xé giữa tình và lý, giữa vui và buồn. Anh vui vì được yêu bởi người con gái mình yêu, buồn vì chính sự thông cảm của người yêu mình. Ngọc An biết rõ hoàn cảnh của anh, anh có gì đâu ngoài tình yêu của anh dành cho cô. Tương lai anh mù mịt, hiện tại đối đầu với hiểm nguy sống chết hàng ngày, và bên cạnh tình yêu trai gái anh còn có trách nhiệm của một người đầu đàn đã đưa anh em thuộc cấp vào rừng chống lại đám giặc tay sai của ngoại bang vốn chuyên “nghề xâm lược”. Mỗi lần ôm người yêu trong vòng tay anh đều muốn nói ra hết những thực tế đau lòng đó, nhưng đây là mối tình đầu của một thiếu nữ mới lớn, làm sao nỡ ? Cô và gia đình đã mất tất cả, sao nỡ để sự thật phủ phàng làm mất thêm những mộng mơ đang nẩy nở từ mối tình đầu với anh Thiếu úy Biệt Cách Dù tuy không biết thốt lên những câu yêu đương hoa mỹ nhưng đôi mắt thiết tha đã thay thế vạn lời khiến cô sẳn sàng tất cả cho người yêu. Anh Thiếu úy lắm lúc động lòng, một đôi nam nữ Sài Gòn lẻ loi giữa rừng khuya mờ ảo đã thúc giục nỗi ham muốn dâng trào lên trong anh, nhưng lúc nào anh cũng kịp thời tự ngăn chận chính mình : Phải gìn giữ cho Ngọc An, một viên ngọc trong sáng quý giá, phải chờ đợi cho đến khi mình có đủ điều kiện bảo đảm hạnh phúc cho cô !

Nhưng cuối cùng thì định mệnh đã an bài, Ngọc An vĩnh viễn giả từ cuộc đời bất hạnh của mình sau một cơn bạo bệnh năm 1981, khi Thiếu úy Danh không có mặt ở Long Khánh. Lúc anh trở lại chốn xưa thăm mộ người yêu, mẹ Ngọc An đã nói với anh một câu vẫn theo anh đến tận bây giờ :

- Dì tiếc là Ngọc An chết mà chưa được thành thân với con như ước ao của nó, Danh ơi !

Câu nói của mẹ Ngọc An là viên đạn lòng bắn nát trái tim của người chiến sĩ Kháng Chiến Phục Quốc, anh muốn chân mình phải khụy xuống, tay mình phải ôm lấy ngực, nước mắt mình phải chảy dài xuống trước mộ người yêu. Nhưng không hiểu vì sao cả người anh chùng xuống không động đậy, không còn chút sinh lực, anh chỉ cảm nhận gió rừng hôm ấy sao lạnh quá, lạnh thấu tim gan. Chỉ có đầu anh thì nóng hừng hực, bọn giặc … bọn giặc …, hai chữ ngùn ngụt căm hờn đó liên tục chạy tới chạy lui trong đầu người sĩ quan Biệt Cách Dù.

Ông Trời ban cho loài người một đặc tính đáng nể : Khổ cách mấy cũng vượt qua mà sống. Đối với con người Việt Nam thì đặc tính này còn vượt trội hơn vì lịch sử của chúng ta là lịch sử liên tục bị chiến tranh chết chóc triền miên. Vì vậy dù bị Tầu đô hộ hàng ngàn năm nhưng Việt Nam vẫn hiên ngang hiện diện trong lịch sử thế giới cho tới tận bây giờ, ngôn ngữ Việt tiếp tục là ngôn ngữ của người Việt Nam; trong khi một số quốc gia láng giềng khác của Tầu đã trở thành tỉnh lỵ của chúng, dân tộc của họ đã bị đồng hóa.

Giặc Tầu đã vậy thì giặc Bắc Cộng cũng sẽ thế thôi. Thế thì bị đày đọa khốn khổ cách mấy thì người Việt cũng cố sống mà vượt qua, như cuộc sống của dân chúng vùng Long Khánh lặng lẽ trôi qua từng ngày, từng ngày, để đợi tới một ngày quét sạch sẽ đám giặc ngoại lai cùng đám cháu tên quốc tặc họ Hồ với chính sách “trăm năm trồng ngợm” làm khó đất nước làm khổ nhân dân.

Giữa dòng sống lặng lẽ đó, bỗng nổi lên một cơn “động đất 9 chấm” chấn động tỉnh Long Khánh cùng cả nước. Kho đạn Long Khánh nổ tung. Các loại đạn pháo văng đi tứ tung, trong vườn nhà anh Bằng đầy lựu đạn M26, 67, đạn cối 60, 81, vv … Anh em gom thành đống, sau khi lựa lọc coi thử có thứ gì mình có thể làm cho nó … nổ thêm một lần nữa không. “Động

đất 9 chấm” chưa dừng lại, vài tháng sau kho đạn Long Bình ầm ầm nổ ngày 19 tháng Ba 1977, kéo dài mấy ngày trời, rồi toàn bộ các kho đạn miền Nam đồng loạt nổ tung lên.

Những vụ nổ kho đạn không phải chỉ mới xãy ra trong năm 1977. Ngay trong đêm giao thừa Tết 1976, một nhóm anh em Biệt Động Quân cộng tác với một tình báo viên người Việt (cũng gốc Biệt Động Quân) do quân đội Mỹ gài lại Việt Nam đã phá nổ một kho đạn nằm trong hậu cứ cũ của Tiểu Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến cũ, vụ nổ kéo dài cho đến chiều Mùng Một mới im tiếng. Cũng nhóm anh em này, được chỉ huy bởi một hạ sĩ quan Biệt Động Quân, lại cùng người tình báo viên vừa nhắc bên trên tổ chức cho nổ kho đạn Long Bình vào đúng ngày 30 tháng Tư 1976. Câu chuyện bắt đầu từ khi họ biết được bọn giặc Bắc Cộng canh gác kho Long Bình đã biết ăn … cọc sắt, kẻm gai và nhiều thứ khác nữa đang chứa trong tổng kho này. Trước khi ra tay, chính vị hạ sĩ quan Biệt Động Quân và người tình báo viên giả dạng làm người đi mua cọc sắt, kẻm gai, để thăm dò đường đi nước bước. Tới đêm 29 tháng Tư thì họ hành động. Sáu cốt mìn đã được mua từ những thợ khai thác mõ đá chính thức làm việc cho nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng. Trong vai người đi mua hàng lậu, sáu người đã vào tận bên trong cho nổ tung một kho chứa đạn pháo 155 ly.

Sự kiện nổ kho đạn liên tiếp khiến dân miền Nam lên tinh thần, họ biết đây là “tác phẩm” của Kháng Chiến Phục Quốc, Lính Cộng Hòa đã chính thức lên tiếng !

Phía giặc Bắc Cộng hoảng lên, vì chúng tin chắc chắn có bàn tay của Mỹ nhúng vào sự kiện các kho đạn ở miền Nam đồng loạt phát nổ. Dĩ nhiên là phải có người Việt đứng ra thực hiện, vì vậy danh sách những người Việt làm tình báo viên cho Mỹ còn đang có mặt ở Việt Nam là mục tiêu của nhà cầm quyền giặc. Nhưng mãi đến thập niên 1990 thì người của chúng mới có cơ hội mượn cớ sang Mỹ vận động giao thương để dò la tìm danh sách này. Chỉ đến khi Bộ trưởng Thương Mại Mỹ là Ron Brown bị rớt máy bay chết ở Croatia ngày 3 tháng Tư 1996, rồi đến phiên William Colby (cầm đầu chiến dịch Phượng Hoàng tại Việt Nam trước 1975) cũng chết bí ẩn trên sông Potomac thì vụ truy tìm danh sách lực lượng tình báo viên người Việt đang còn ở lại Việt Nam chấm dứt trong thất bại. Tên cầm đầu nhóm này nhanh nhẩu vọt trở về Việt Nam, riêng nhà cầm quyền Hà Nội thì không biết có bị mất toi 700 triệu đô (một số tiền lớn tính vào thời điểm đó) chưa. Bốn tên đồng bọn hiện vẫn đang len lỏi trong cộng đồng người tỵ nạn Cộng Sản gốc Việt ở miền Nam California. Thái độ của chính phủ Mỹ cho tới nay là “chưa cần sờ đầu bọn tép riu”, một tên trong bọn vẫn đang tiếp tục bám đít các vị dân cử gốc Việt.

Sau khi các kho đạn thay phiên nhau nổ liên tục, phong trào vào rừng tìm gia nhập Kháng Chiến Phục Quốc dậy lên như vừa sau ngày 30 tháng Tư 1975. Tin đồn các tướng đã ra hải ngoại nay đã trở về như các Tướng Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Cao Kỳ, Lê Quang Lưỡng, Bùi Thế Lân, vv … nhanh chóng truyền đi từ người này sang người khác, cùng khắp miền Nam. Tên giặc Lê Đức Thọ lại bận bịu hơn, y cho ra đời thêm những tổ chức Kháng Chiến giả, các mật khu giả, các vụ lừa bắt người – giết người xảy ra thường xuyên hơn.

Lúc đó hầu như nhà nào cũng có chuẩn bị dao, búa, cuốc xẻng, chờ cơ hội góp sức với Lính Cộng Hòa. Nhưng rất tiếc, cơ hội được toàn dân trân trọng mong chờ đó đã không tới.

Ở Long Khánh cũng như trên toàn miền Nam, giặc Bắc Cộng thúc đẩy dân chúng phải biến rừng thành đất nông nghiệp. Chúng ra sức ép buộc dân miền Nam sản xuất thêm thực phẩm hầu thỏa mản những cái họng tham ăn dọng, những cái ruột dư khả năng tiêu hóa luôn cả bê tông - xi măng – sắt thép của bọn con đảng quỷ cháu bác hù. Mảnh đất gia đình anh Bằng bị giặc ép buộc phải khai phá bây giờ đã lùi xa về phía sau, hướng rừng núi. Trước đây Thiếu úy Danh từng thường xuyên nhắc nhở anh em “Sự sống của anh em mình phụ thuộc hoàn toàn vào rừng, vậy phải tìm hiểu cặn kẻ về rừng để sống chung với nó”, nhưng bây giờ thì tình hình đã khác. Khi mà sự khai phá từ hướng Đông và hướng Tây gặp nhau, thì anh em anh trong rừng Long Khánh này hết đất sống. Anh gấp rút tìm Toán viên Linh và Trung sĩ Bình, sau đó là Thượng sĩ Kim, để thảo luận về vấn đề này hầu tìm lối thoát. Quyết định cuối cùng là :

- Kêu gọi anh em còn ở bên ngoài hãy tìm mọi cách hợp pháp hóa cá nhân và sống trộn lẩn vào đám đông dân chúng để hoạt động giữa lòng các thành phố, tạo thêm phương tiện yểm trợ cho anh em bên trong.

- Phần anh em trong rừng, Toán viên Linh và Trung sĩ Bình sẽ chia anh em ra thành nhiều nhóm nhỏ, như là những nhóm “làm rẫy mướn”. Hiền sẽ phụ trách cung cấp giấy tờ tùy thân cần thiết. Số người “có nợ máu” rất khó lòng qua mặt được bọn giặc ở địa phương thì Linh và Bình sẽ đưa họ lên khu vực trách nhiệm của Thiếu úy Tính nằm rất sâu trong núi.

Bàn thảo, và đã có quyết định chung, thì Linh lên tiếng nói về một vấn đề khác. Linh nói : Ở Phương Lâm có một số tên an ninh giặc Cộng rất hung ác khát máu, bọn này cướp bóc hành hạ dân chúng thẳng tay và truy lùng tìm diệt “tàn quân” rất gắt gao. Cần phải ra tay trừng trị chúng ! Thiếu úy Danh trả lời : Tùy Linh, nhưng phải rất cẩn thận, và tránh để anh em 81 Biết Cách Dù tham gia trực tiếp để tránh tổn thất cho nhóm nồng cốt lúc khởi đầu.

Vì câu chuyện của Toán viên Linh, Thiếu úy Danh chợt nhớ đến Hiền. Trong thời gian gần gủi với Hiền, anh tự hỏi có thể nào Hiền có liên hệ chút ít với Số Nhà Lớn hay không ? Anh quyết định trở lại Sài Gòn tìm gặp Hiền một lần nữa.

Gặp Hiền, Thiếu úy Danh không hỏi thẳng, anh lòng vòng mãi thì Hiền hiểu, hiểu rồi thì Hiền cũng … lại lòng vòng, bằng những cái gật gù nhưng không lên tiếng. Tình cảnh sau tháng Tư 75 là như vậy đó, nếu chưa hiểu nhau thật cặn kẻ thì người ta sẽ phải lòng vòng như vậy thay vì trực tiếp vào vấn đề với nhau. Cũng chỉ vì không muốn để lộ bí mật hoặc không muốn lãnh vạ vào thân. Câu trả lời của Hiền là dẫn anh tới khu kinh tế mới Kinh Xáng, giới thiệu anh với anh Lành, nhân viên Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo trước 75. Anh Lành hiện là đội trưởng đội thủy lợi, công việc ở đây là đào kinh. Sau khi dẫn Thiếu úy Danh đi xem nơi ăn chốn ở và trình bày về công việc, lương bổng, vv … anh Lành làm thủ tục cho anh gia nhập đội cùng cấp giấy chứng nhận anh đang làm thủy lợi tại khu kinh tế mới này (để trình báo địa phương). Anh Danh hẹn anh Lành một tuần sau sẽ trở lại. Trên đường về anh hỏi Hiền về đội thủy lợi của anh Lành, Hiền trả lời “Cứ xâm nhập đi, từ từ tìm hiểu”.

Bây giờ là lúc trở về Long Khánh, khi gặp lại anh em, anh cho họ biết những chuyện anh đã gặp trong chuyến đi cũng như chỗ ở mới.

Thiếu úy Danh đang từ từ khai triển kế hoạch Mật Khu Thành Phố.

Sau khi sắp xếp lại công việc ở Long Khánh và dấu khẩu K54, anh về thăm gia đình nhằm báo cho má anh biết anh đang làm thủy lợi ở khu kinh tế mới. Ý má anh muốn anh nhập hộ khẩu của gia đình cho hợp pháp, anh bằng lòng vì tin rằng giấy chứng nhận đang làm thủy lợi ở khu kinh tế mới sẽ khiến việc xin nhập hộ khẩu thuận lợi hơn. Ngoài ra bà ngoại anh còn có quen biết với Năm Trung là Trưởng công an Hóc Môn vì má Năm Trung là bạn bà. Chính Năm Trung ký tên bảo lãnh cho anh được nhập hộ khẩu, nhưng nhà cầm quyền địa phương đòi phải có giấy chứng nhận “học tập cải tạo” (lại ‘cải tạo’, rõ khỉ). Tính tới tính lui, má anh bảo bà chị anh về chỗ làm cũ, Nha Lộ VậnViệt Nam Cộng Hòa, để nhờ Đông (kẻ ‘tiếp quản’) rất mê chị anh. Sau rốt anh cũng có được một giấy chứng nhận “học tập” 3 ngày với cấp bậc Chuẩn úy, rồi được nhập hộ khẩu quận Hóc Môn. Tất nhiên với bọn cầm quyền địa phương thì phải chịu khó trả lời câu hỏi … đầu tiên !

Anh trở lại khu kinh tế mới Kinh Xáng nhận việc và nhờ anh Lành cung cấp thêm giấy chứng nhận cho Trung sĩ Bình cùng ba Toán viên Tuấn, Sinh, Mạnh, rồi nhờ Hiền tìm trao lại cho anh em trong rừng. Sau đó anh đến điểm hẹn của Sư Phụ Lê Ngọc Thạch với mục đích sẽ cung cấp giấy tờ hợp pháp cho anh em của Sư Phụ. Nhưng tới lui cả tuần mà chưa thấy Sư Phụ xuống núi.

Không gặp được Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, anh đành tìm Hiền hỏi thăm về tình hình bên cánh Bà Rịa, Vũng Tàu. Hiền nói đang có một tin rất đặc biệt, vùng này gần đây xuất hiện một hung thần, chuyên xử tội những tên giặc Cộng ác ôn với dân, nhất là mấy tên “cán bộ 30”. Tin đồn nói rằng hung thần này là một cựu thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Thiếu úy Danh mỉm cười một mình, anh cũng như tác giả đã biết rất rõ tật mê súng của Thiếu tá Thạch, người trước năm 75 từng có một sưu tập súng rất giá trị, và anh Thạch còn là một tay thiện xạ có hạng, bắn sẻ thì rất khó trật. Hung thần này không ai khác, chính là Sư Phụ !

Anh trở lại khu kinh tế mới, được xếp vào toán của một nhân vật rất lỳ tên Thinh. Sau khi nhận đồ nghề gồm cuốc, xẻng, len, và một cái mền mỏng, Thinh dẫn anh xuống láng, giới thiệu với anh em : Tổ mình vừa có thêm một Chuẩn úy Việt Nam Cộng Hòa. Anh Danh cười chào hỏi anh em.

Mỗi sáng sau khi điểm tâm xong (mì lát, bo bo, sang hơn thì bánh bột mì ăn với muối ớt), cả toán thủy lợi ra đồng. Ở đây anh Lành đã đo sẳn cho mỗi người một khu đất (3m x 5m x 1.5m), cứ thế mà đào. Tổ hùn tiền mua gạo và thức ăn, thay phiên nhau nấu cơm. Thời gian cứ trôi qua, anh em thì giử kẻ với nhau nên Thiếu úy Danh không khai thác được gì.

Nhưng rồi có một hôm, em anh Lành tên Chuân đến gặp riêng anh và Thinh, đưa cho Thinh một xấp truyền đơn với nội dung tố cáo (có chứng minh) chính sách tàn ác của giặc đối với dân và kêu gọi bà con vùng lên diệt Cộng. Xấp truyền đơn gói trong bọc ni lông, Chuân chuyển lời yêu cầu là rãi ở khu vực chợ Bến Thành. Anh Danh hỏi Thinh đã có làm việc này chưa và làm bằng cách nào ? Câu trả lời là đã có vài lần, bằng cách đi Honda hoặc để xấp truyền đơn trên mui xe bus vào buổi tối, sáng ra xe chạy gió sẽ thổi truyền đơn bay tứ tán. Anh Danh thì nghĩ cách đi xe Honda rãi truyền đơn rất dễ bị giặc bắt, còn cách thứ nhì thì di hại tới tài xế xe bus. Và cả hai cách lại rất dễ cho bọn chúng thu hồi lại truyền đơn.

Anh đề nghị một cách mới : Sẽ rãi truyền đơn từ trên trời rơi xuống.

Cả Thinh lẫn Chuân ngạc nhiên, anh giải thích là sẽ rãi bằng dù. Truyền đơn được gói trong dù làm bằng vãi ni lông. Dù được bắn lên thật cao, khi dù bọc, truyền đơn sẽ rơi xuống trên một diện tích rất rộng, nếu là một khu vực dân cư thì sẽ rớt vào sân hoặc trên mái nhà dân, lượm đọc thoải mái hơn không sợ bị công an Việt Cộng bắt, ngược lại thì chúng muốn thu hồi truyền đơn cũng rất khó khăn. Dùng ná để bắn dù, hai cánh ná là ghi-đông xe đạp được lật lên. Thinh và Chuân thích ngay sáng kiến mới của anh Danh.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image
Bản đồ “Biển Tầu Cộng” sau khi Việt Nam Cộng Hòa thất thủ.

Lúc bấy giờ Bộ chỉ huy Trung đoàn Chiến Thắng của giặc đóng trên đường Gia Long, phụ trách an ninh cho toàn Sài Gòn. Chúng tổ chức thành nhiều toán, mỗi toán 3 tên, thường xuyên đi tuần tra khắp thành phố vào ban đêm. Anh em cần phải theo dõi, nghiên cứu cẩn thận hầu tránh thất bại và nhất là thiệt hại nhân mạng trong lúc ra tay hành động. Thinh thì cho rằng việc theo dõi, nghiên cứu chưa chắc sẽ có ích vì những lần trước vẫn thành công dù không có làm vậy. Thiếu úy Danh trả lời, làm như thế có thể an toàn trong những lần đầu, nhưng trở về sau thì cơ hội bị phát giác sẽ là 80% và cái giá phải trả là mạng sống của anh em mình.

Cuối cùng cả ba người đồng thuận chọn phương cách rãi truyền đơn mới của anh Danh. Chuân móc ra đưa cho anh Danh cây ru lô ngắn nòng. Anh nhận nhưng giao lại cho Ngôn giữ, trước ngày hành động anh trở về Long Khánh lấy khẩu K54.

Sau khi thử bắn dù nhiều lần vào ban đêm ngoài đồng trống, toán rãi truyền đơn chọn địa điểm “hành quân” : Khu chợ Bến Thành. Diễn tiến theo sự sắp xếp như sau : Thinh và cô bạn gái cựu Thiên Nga của anh đóng vai vợ chồng, là nổ lực chính. Thiếu úy Danh và Ngôn lái xe Honda theo yểm trợ. Cặp vợ chồng chỡ nhau về bằng xe đạp trong đêm sau một ngày làm việc vất vả. Trên một khúc đường vắng trong khu vực chợ Bến Thành, bánh xe trước bị mềm, vợ giữ xe cho chồng bơm bánh. Lúc này giàn thun được móc vào gi-đông, dù được bắn lên thật cao. Dù bung, truyền đơn bung theo được gió đưa đi xa, vì vậy dân chúng lượm được có thể tung tin đồn : Có máy bay thả truyền đơn. Và tin đồn thì lúc nào cũng vang xa, mọi người sẽ lên tinh thần trong lúc bọn giặc Bắc Cộng thì hoang mang.

Lần ra tay này thành công tốt đẹp, cách rãi truyền đơn “từ trên trời rơi xuống” trở thành phổ biến khắp miền Nam.

Lúc này Kháng Chiến Phục Quốc Quân hoạt động mạnh khắp thủ đô Sài Gòn. Thỉnh thoảng có những vụ nổ trong doanh trại giặc Bắc Cộng, chúng giải thích do bộ đội đốt cỏ dọn dẹp bom mìn phòng thủ do “ngụy quân” gài còn sót lại, nhưng thật ra đó là những tiếng nổ từ đầu đạn M79 được Kháng Chiến Phục Quốc Quân từ bên ngoài “gởi” vào trại giặc. Những vụ chạm súng trên đường phố xảy ra thường xuyên khiến báo, đài giặc Cộng cũng phải thường xuyên rêu rao “Cách mạng” đã tiêu diệt được băng cướp này, băng đảng kia, vv … Chúng luôn luôn tránh né nhắc tới Kháng Chiến Phục Quốc Quân. Để trả đủa, các vụ rãi truyền đơn “từ trên trời rơi xuống” đã có những bản tin tường thuật đúng địa điểm và ngày giờ đã xảy ra những cuộc chạm trán giữa lòng thủ đô cùng tổn thất thật sự của giặc, vì chúng là “đỉnh cao trí tuệ” của … bộ môn láo khoét. Dân chúng được tường tận trò đánh lận con đen của giặc, tinh thần họ lên rất cao.

Có lần nhân anh Lành tới phát lương cho anh em, Thiếu úy Danh bất ngờ hỏi thẳng về Số Nhà Lớn. Rất bản lỉnh, anh Lành bình tỉnh trả lời “Trên danh nghĩa Mặt Trận Phục Hưng, Số Nhà Lớn chỉ thị phải tập trung nổ lực gây tổn thất cho Việt Cộng bằng mọi phương tiện sẳn có, tuyên truyền cho đồng bào thấy rõ sự tàn ác phi nhân của Cộng Sản”. Anh Lành còn nhấn mạnh thêm “Người của Mặt Trận Phục Hưng đang có mặt trong nước”.

Câu nhấn mạnh thêm của anh Lành khiến Thiếu úy Danh lóe lên niềm hy vọng, như vậy là đã có người từ hải ngoại về, có lẽ mình đã chọn đúng đường đi ?

Anh vẫn tiếp tục liên lạc với cậu Ba để trao đổi, phối kiểm, đánh giá những nguồn tin hầu yểm trợ cho nhau giữa các tổ chức hoạt động tại Sài Gòn và các vùng phụ cận. Anh hỏi cậu Ba về vụ chế tạo nòng hảm thanh, ông nói chưa xong, vì còn phải nghiên cứu về một bộ phận có thể tháo ráp để có thể xữ dụng cho nhiều loại súng khác nhau. Anh thầm tiếc, vì nếu vụ chế tạo nòng hảm thanh thành công thì số lượng thương vong của giặc Bắc Cộng sẽ tăng cao, trong khi thiệt hại về phía ta sẽ giảm. Về tình hình, cậu Ba cho biết gần đây đã có xuất hiện thêm nhiều tổ chức mới, song song với sự gia tăng các vụ thanh toán bọn cán bộ giặc Cộng. Nhưng trong số này cũng có thể có những tổ chức Kháng Chiến giả do chúng dựng lên.

Khi chia tay ông không quên căn dặn, nhắc nhở Thiếu úy Danh phải thật cẩn thận, cẩn thận nhiều hơn nữa.

Về phần ba Toán viên Tuấn, Sinh, Mạnh, sau khi sắp xếp xong công việc trên Long Khánh, đã đến khu kinh tế mới Kinh Xáng làm thủy lợi với Thiếu úy Danh. Đó là công việc ban ngày, ban đêm họ tổ chức “đi săn” rất bài bản, với sự yểm trợ của Hiền. Và săn được khá nhiều “thú lớn” mà họ gọi là để làm quà cho Số Nhà Lớn.

Về tình hình trên Phương Lâm, Định Quán, Hiền cho Thiếu úy Danh biết Phục Quốc Quân đã quyết định tổ chức một cuộc đột kích vào một xã ở Phương Lâm, và đề nghị Biệt Cách Dù yễm trợ. Anh Danh đồng ý. Sau khi đã chọn hai mục tiêu là ủy ban xã và kho gạo của hợp tác xã, Hiền bàn với anh Danh về phương cách hành động và đi đến đồng thuận : Toán của Hiền phụ trách tấn công và di chuyển gạo, Toán Biệt Cách Dù của anh Danh chịu trách nhiệm ngăn chận, tiêu diệt lực lượng truy kích của giặc Cộng.

Anh Danh xin phép anh Lành cho toán anh nghỉ hai tuần. Anh Lành gật đầu nở một nụ cười đầy ý nghĩa.

Đây là một cuộc hành quân quan trọng, vì chẳng những tiêu diệt địch mà còn phải cướp gạo chuyển đến cho anh em trong rừng. Toán Biệt Cách Dù đã sớm lên vùng trách nhiệm để thám sát trong bộ dạng là những thợ rừng đi tìm gỗ. Rừng bây giờ đã lùi sâu vào trong, nhường chỗ cho những rẫy bắp, khoai mì của đồng bào mình khắp nơi bị giặc đày lên đây. Nhóm của Hiền phải vận chuyển gạo trên đường xe be, qua những rẫy bắp, mì, khoảng 3 cây số trên địa hình trống trãi mới tới được bìa rừng. Vô cùng nguy hiểm. Nhưng vì đánh đêm và có yếu tố bất ngờ nên toán Biệt Cách Dù hy vọng mức độ rủi ro cho toán của Hiền sẽ không cao.

Sau khi đã thu nhận đủ tin tình báo về tình hình địch, Hiền ra quyết định và thông báo cho toán Biệt Cách Dù giờ H (mở màn), mật khẩu, dấu hiệu liên lạc, vv … Nhóm Hiền quân phục xanh lá cây, băng trắng đeo bên cánh tay trái, nón tai bèo. Nhóm Thiếu úy Danh quân phục bộ đội Bắc Cộng. Khi đến điểm hẹn, nhóm Hiền sẽ nhá đèn một ngắn, hai dài; nhóm Thiếu úy Danh đáp trả bằng một dài, một ngắn.

Biệt Cách Dù trang bị mỗi người 1 cây M16, 2 lựu đạn M67, 3 cấp số đạn, với 2 mìn Claymore. Sáu giờ chiều họ đến vùng trách nhiệm, 2 trái lựu đạn M67 được gài xuống hai lỗ hai bên đường xe be nhưng chưa căng dây. Tiến về phía trước 300 thước, ngay một khúc quanh, họ gài thêm mìn Claymore theo nguyên tắc kéo thả (chưa nối vào pin tép). Thiếu úy Danh và Sinh phía trước, Tuấn và Mạnh phía sau cách 10 thước. Nhóm Biệt Cách Dù men theo rẫy, dọc theo đường xe be tới điểm hẹn. Khoảng nửa đêm có lửa bùng lên và tiếng lựu đạn nổ, tiếp liền sau đó là tiếng AK nổ dồn dập ở hướng ủy ban xã, đồng thời tiếng loa vang xé màn đêm yêu cầu đồng bào ở yên trong nhà, tuyệt đối không ra ngoài. Một lúc sau trên con đường xã có hai xe tiến về hướng Biệt Cách Dù. Xe đầu phát tín hiệu, Thiếu úy Danh đáp trả, họ đã xác định được con đường dẫn vào rừng. Khi chiếc xe thứ hai còn cách ngã ba đường vào rừng chừng vài chục thước thì bọn du kích xã đã ra đến đường đuổi theo, chúng bắn xối xả về hướng xe. Ngay lập tức Tuấn và Mạnh khai hỏa chận lại, họ bắn từng viên một, di chuyển hỏa lực theo hàng ngang. Toán truy kích của Việt Cộng khựng lại, chuyển hướng bắn liên tục về hướng Tuấn, Mạnh. Có lẽ bọn chúng là cán bộ địa phương và “cán bộ 30”, không có bao nhiêu kinh nghiệm chiến đấu, nên chúng không chịu di chuyển hỏa lực, 3 điểm lửa cứ trụ tại chỗ bắn liên miên về hướng Tuấn, Mạnh. Mục tiêu quá lộ liễu, Thiếu úy Danh và Sinh men theo rẫy bắp tiến sát vào bọn này, khi vừa tầm họ “đế” 2 quả M67 vào hai điểm lửa, tiếng súng lập tức im bặt (có lẽ tên thứ ba quá sợ nên đã … tự im luôn). Chờ một chút, không thấy động tỉnh gì, Thiếu úy Danh giả hai tiếng chim cú kêu, ra hiệu cho Tuấn và Mạnh rút. Trên đường rút họ thấy có nhiều bao gạo được rãi xuống dọc hai bờ đường xe be, chắc là nhóm Hiền muốn tặng cho đồng bào, vì ở thời điểm này gạo là loại hàng … xa xỉ phẩm ! Nhóm Biệt Cách Dù về tới địa điểm đã cài mìn Claymore. Sau khi vào vị trí phục kích, họ căng dây mìn, kết nối mạch vào pin tép. Và họ nằm đó suốt đêm chờ lực lượng truy kích (muộn) của giặc. Trời vừa hừng sáng thì có 5 “em” lọt vào tầm ngắm của Biệt Cách Dù. Họ nín thở chờ đợi, rồi thì Claymore gầm lên một tiếng ầm, 5 “em” đi đầu dính miểng, kêu la chói lói. Bọn đi sau phóng lẹ vào bìa rừng lập tức rơi vào lưới đạn phục kích. Biệt Cách Dù siết chặt cò súng, có tiếng AK đáp trả nhưng rời rạc rồi im dần. Thiếu úy Danh ra hiệu cho nhóm rút về địa điểm đã chôn hai trái M67, sắp xếp vị trí phục kích, căng dây giữa hai trái lựu đạn, rút chốt và chờ đợi. Khoảng giữa trưa mới có tiếng lao xao trộn lẫn tiếng máy xe nổ, thì ra giặc buộc dân đem xe máy cày kéo theo rờ mọt để “trưng thu” các xác đã hy sinh vì đảng quỷ của bác hù. Thiếu úy Danh và Sinh bò lên thám sát tình hình, thấy bọn giặc lố nhố Sinh ra dấu xin khai hỏa, nhưng Thiếu úy Danh không cho vì có dân mình trộn lẫn trong đám giặc Cộng. Đồng thời chỉ cho Sinh thấy có đến vài chục tên địch đang lảnh vảng trong bìa rừng hai bên đường xe be, thì ra bọn xã đã được bọn huyện đến tăng viện. Nếu họ bị lộ, vài chục cây AK này chỉa về hướng hai anh rồi đồng loạt khai hỏa thì hết đường … né. Họ rút nhanh về lại địa điểm chôn M67, thu hồi lựu đạn, gài lại chốt, tức tốc rời khỏi hiện trường. Nhóm Biệt Cách Dù di chuyển trong bìa rừng cách đường xe be khoảng 10 thước. Thiếu úy Danh nôn nóng muốn biết tình trạng hai chiếc xe chỡ gạo, cuối cùng cũng bắt kịp chúng trên một bãi gỗ, vì hết đường nên nhóm Hiền đành bỏ lại. Trên thành xe có ghi hàng chữ “Đồng bào được quyền xử dụng số gạo này”.

Thiếu úy Danh xác định lại điểm đứng rồi dẫn nhóm về lại điểm xuất phát, dấu xong vũ khí ở đây nhóm rút ra Long Khánh, nhảy xe lửa về Sài Gòn.

Hai tuần sau Thiếu úy Danh gặp Hiền và Linh, Hiền nói liền “Biệt Cách Dù đánh quá đẹp” rồi cho biết kết quả trận đánh : Về nhân mạng giặc có 5 im lặng vĩnh viễn, 2 bất khiển dụng; Kháng Chiến Quân 2 bị thương nhẹ do dính đạn truy kích. Ủy ban xã đã biến thành tro, 2 xe gạo dùng phát cho cán bộ bị Kháng Chiến Quân … mượn tạm. Gạo phần lớn đã được kịp thời chuyển vào rừng, một số khác thuộc về những gia đình đồng bào gan dạ và nhanh tay, giặc Cộng đành chịu khó vác về vài bao còn lại.

Hiền báo động thêm, đã có tin bọn giặc sẽ tổ chức hành quân càn quét cấp quân khu trên toàn vùng. Phía Kháng Chiến Quân đang chuẩn bị đón “khách”. Linh xen vào hỏi tình hình như vầy thì ý kiến của Thiếu úy Danh như sao ? Anh đáp : Nếu địch đã quyết định hành quân tới cấp quân khu thì rõ ràng chúng muốn tiêu diệt sạch sẽ lực lượng Kháng Chiến Quân. Nếu mình quyết định đánh, mà mà muốn tránh tổn thất nặng, thì không nên đối đầu trực diện. Nên bí mật bám theo chúng, lợi dụng địa hình dùng mìn bẫy và bắn sẻ làm tiêu hao lực lượng của chúng. Riêng 81 Biệt Cách Dù, anh nói riêng với Linh, phải rút sâu, tránh chạm địch, bảo toàn lực lượng và giữ bí mật cho các Chốt.

Với Thiếu úy Danh, anh luôn luôn giữ quyết định phải bảo vệ tuyệt đối sự toàn vẹn của nhóm anh em đã cùng anh khởi đầu chuyện rút vào rừng ngay trong ngày 30 tháng Tư 1975. Anh hy vọng sẽ có đầy đủ anh em này trong hành trình chiến đấu mới : Mật Khu Thành Phố, kể cả Trung sĩ Bình (Biệt Động Quân) và Thượng sĩ Kim (Sư Đoàn 18) vì Toán Thám Sát Biệt Cách Dù đã nhờ rất nhiều vào sự trợ giúp của hai anh ngay từ lúc ban đầu. Về khu vực do Thiếu úy Tính cùng Trung sĩ Sánh (Địa Phương Quân) chịu trách nhiệm, vì có địa thế sâu thẳm và hiểm trở, anh tin nó sẽ được bọn giặc Cộng … chê. Các Chốt từ số 1 đến số 5 chỉ là những điểm được chọn nhưng chưa xây dựng gì nên chỉ cần giữ bí mật cho chúng, không phải mất công bảo vệ.

Bọn giặc Bắc Cộng hành quân càn quét thật. Khoảng ba tuần sau chúng xua quân càn quét từ ngã ba Dầu Giây, dọc quốc lộ 20 kéo dài lên Định Quán, Phương Lâm, trãi rộng ra đến Bà Rịa, Vũng Tàu, Bình Thuận, Bình Tuy, vv … Cuộc hành quân của chúng còn được tăng phái thêm Trung đoàn Chiến Thắng từ Sài Gòn, có cả trực thăng võ trang và pháo binh yểm trợ.

Sau trận đánh Thiếu úy Danh được Hiền cho biết : Đã xảy ra nhiều trận đánh khốc liệt, quyết tử của Kháng Chiến Quân và lực lượng Fulro trong vùng hành quân của địch. Giặc tổn thất nặng, nhưng phía chúng ta cũng bị nặng không kém. Mật khu Mây Tàu (Đông Sơn) của Sư Phụ Lê Ngọc Thạch cũng đã tan hàng. Độ khốc liệt của những trận đánh lên đến mức cao nhất : Không có tù binh ! Xác giặc và xác ta đều bị chúng thiêu hủy hoặc chôn trong rừng để phi tang chứng tích về kết quả của cuộc hành quân, nhất là che dấu sức mạnh của những tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc Quân. Sự kiện này cho thấy chúng ta có nhiều lực lượng Kháng Chiến nhưng rất tiếc đã không liên lạc và kết hợp lại với nhau.

Thiếu úy Danh hỏi Hiền tin tức của Toán viên Linh và anh em trong rừng. Hiền nói Linh không tham chiến, và có thể đã dẫn hết anh em vượt sông Đồng Nai, quốc lộ 14, băng qua biên giới Kăm Pu Chia. Anh tạm yên lòng, chỉ còn lo âu cho Sư Phụ Lê Ngọc Thạch nhưng Hiền không có tin tức về phía mật khu Mây Tàu.

Có lẽ sự thiệt hại về phía Kháng Chiến Phục Quốc đã khiến cho Hiền mất đi niềm tin và hy vọng, anh nói với Thiếu úy Danh anh sẽ vượt biên bằng đường biển, hỏi Thiếu úy Danh có muốn cùng đi không. Câu hỏi của Hiền chụp xuống Thiếu úy Danh sự buồn rầu không thể diễn tả nổi. Một người đầy ý chí và đảm lược như Hiền, người cùng anh bàn thảo vẽ ra các kế hoạch đánh địch là Hiền, dẫn đầu các cuộc tấn công cũng là Hiền; người như thế bây giờ quyết định bỏ nước ra đi, lại rủ anh cùng ra đi thì chắc Hiền đã thẩm định những toan tính của Thiếu úy Danh cho hoạt động trong tương lai sẽ không thành công. Ôi, đau quá Hiền ơi, Kháng Chiến Phục Quốc miền Nam sắp mất đi một thanh niên cao ý chí, thừa đảm lược. Cá nhân anh mất đi một chiến hữu cùng sát cánh tiếp tục đánh địch trong thời kỳ thê thảm nhất của Miền Nam Tự Do. Đau, đau thật là đau !

Với nỗi buồn đau này Thiếu úy Danh tìm đến cậu Ba để hỏi thêm tình hình. Ông nói, có vài anh em của Đại úy Bền từ trong rừng chạy về đang cần sự giúp đỡ để tiếp tục hoạt động. Anh Danh lắc đầu : Sau khi quyết liệt đánh vào các lực lượng Kháng Chiến trong rừng núi gần kề thủ đô Sài Gòn, bây giờ chắc chắn chúng đang giăng lưới chờ bắt những Kháng Chiến Quân chạy về đây, vì vậy không nên hành động bây giờ. Tốt nhất, những người từ các mật khu chạy về nên nhờ đồng bào, nhất là các giáo xứ, giúp giấu họ một thời gian. Khi nào êm trở lại thì ta tính tiếp.

Cậu Ba gập đầu khen nhận định chính xác, phải làm như vậy thôi.

Thế là Thiếu úy Danh trở lại khu kinh tế mới Kinh Xáng, án binh bất động, cùng ba Toán viên Sinh, Tuấn, Mạnh, ở ẩn chờ ngày tái khởi. Sau mấy tháng nhàm chán, một hôm anh Lành tìm anh cho biết vừa gặp được người của Tướng Bùi Thế Lân từ hải ngoại về, bắt đầu tổ chức lại anh em tiếp tục chiến đấu. Anh Lành nói em trai của anh trước là dân Thủy Quân Lục Chiến đã nhận diện và xác nhận đấy là người thật của Tướng Lân. Thiếu úy Danh lại đụng thêm chuyện như chuyện buồn cũ về Hiền, khi anh Lành nói lẽ ra anh đã vượt biên cùng gia đình, nhưng vì vụ người của ông tướng trở về khiến cá nhân anh quyết định ở lại. Anh Danh hỏi, vụ này có liên quan tới Mặt Trận Phục Hưng không, anh Lành trả lời không. Một lúc sau được anh Lành hỏi hiện có cần gì không, anh Danh lập tức trả lời “Súng hảm thanh và giấy chứng nhận cho anh em”. Anh Lành gật đầu “Sẽ cố gắng”.
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by quaichao »

Vài tuần sau anh Lành đến trao cho anh 20 giấy chứng nhận để trống tên, Thiếu úy Danh có thể điền thêm vào bất cứ lúc nào. Súng hảm thanh sẽ nhận sau. Anh Lành cho biết tổ chức yêu cầu Kháng Chiến Quân “đốt pháo” cho đồng bào ăn Tết, mục tiêu là đài phát thanh Sài Gòn. Tuần sau sẽ nhận được TNT, kíp nổ, và súng hảm thanh. Thiếu úy Danh hỏi lại “Nhận TNT và súng hảm thanh ở đâu, ai đưa, và tôi có thể đi theo anh không ?”. Anh Lành suy nghĩ một lúc rồi trả lời “Có thể”. Thiếu úy Danh nôn nóng chờ đợi ngày đốt pháo cho đồng bào ăn Tết. Năm ngày sau anh Lành tới, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ sáng mai ở chợ Bà Chiểu để nhận TNT từ người của Số Nhà Lớn, nhưng Thiếu úy Danh chỉ được quan sát từ xa, không được gặp trực tiếp. Anh đồng ý.

Sáng hôm sau Ngôn chở Thiếu úy Danh đến điểm hẹn, anh Lành đang đứng chờ bên trạm xe bus. Vừa thấy anh Danh, anh Lành quay lưng bước vào chợ, anh Danh xuống xe bước theo, cách sau anh Lành khoảng 5 thước. Anh Lành tấp vào gian hàng bán quần áo may sẳn, anh Danh dừng lại gian hàng bên cạnh, hỏi mua bật lửa và quan sát. Đứng cạnh anh Lành bây giờ là một phụ nữ đang nói chuyện với chủ gian hàng. Anh Lành cúi xuống xách một túi ni lông màu đen người phụ nữ nọ vừa thả xuống cạnh chân, rồi bước đi. Anh Danh rời gian hàng đi theo, đi ngang qua người phụ nữ, anh thấy bà rất đẹp, khoảng chừng 35 tuổi. Đây là người của Số Nhà Lớn ?

Thiếu úy Danh và Ngôn theo sau anh Lành đến Chợ Lớn, vào một căn nhà sâu trong ngõ hẽm. Được hỏi về người phụ nữ ban nãy, anh Lành xác nhận đúng là người của Số Nhà Lớn. Trong bao ni lông có 9 thanh TNT và 3 ngòi nổ, vậy thì 1 ngòi dành cho 3 thanh. Anh Lành nói, đây là ngòi hẹn giờ, chỉ cần dùng răng cắn dẹp đầu ngòi, gắn vào khối TNT thì khoảng 1 phút sau ngòi sẽ kích hỏa. Anh Danh lại hỏi, sao không thấy súng hảm thanh, anh Lành nói “Chưa có” và hỏi lại “Muốn tham gia không ?”. Anh khá thất vọng nhưng vẫn gật đầu.

Ngôn chở anh trở lại khu kinh tế mới Kinh Xáng chờ. Vài tuần sau anh Lành cho hay mọi chuyện đã chuẩn bị xong, nhưng để tránh gây tổn thương đến đồng bào mục tiêu đã chuyển qua khu vực đài phát thanh Quân Đội cũ của Việt Nam Cộng Hòa nay là khu có nhiều cơ sở quân sự của giặc, và sẽ đánh vào ban đêm. Ngõ đột nhập và rút ra sẽ là cỗng từ đường Phan Đình Phùng. Người của anh Lành sẽ đặt TNT, nhóm Biệt Cách Dù chịu trách nhiệm yễm trợ, Thiếu úy Danh thầm nghĩ có lẽ Số Nhà Lớn vẫn còn nhớ thành tích của Biệt Cách Dù trong vụ yễm trợ tấn công ủy ban xã và “mượn” gạo ở Phương Lâm trước đây chưa lâu. Lệnh còn yêu cầu nhóm tấn công chỉ rời mục tiêu 20 giây trước khi ngòi nổ kích hỏa, ngày giờ đánh sẽ cho biết sau.

Trong khi chờ đợi, Thiếu úy Danh đưa anh em đến thám sát khu vực đài phát thanh Quân đội cũ nhiều lần để lập kế hoạch yểm trợ cho trận tấn công. Trước Tết 1978 vài ngày anh Lành đến cho biết ngày mai sẽ có buổi họp với Số Nhà Lớn để lập kế hoạch phối hợp giữa nhóm đặt TNT và nhóm yểm trợ. Ngày giờ đánh có thể là vào đêm giao thừa 1978. Anh Lành dặn 8 giờ sáng hôm sau nhóm Biệt Cách Dù gặp anh ở sau chợ Bến Thành, sẽ có xe đưa đến điểm họp.

Vì anh Lành không nhắc gì đến vụ súng hảm thanh, nhóm Biệt Cách Dù đành tự lo trang bị, gồm 1 khẩu Colt 45 của Sinh và 1 khẩu K54 của Thiếu úy Danh.

Mặc dù ngày mai chưa phải là ngày N, nhưng không hiểu sao Thiếu úy Danh bỗng cảm thấy bồn chồn, lo lắng. Anh nghĩ, có thể vì đây là một trận đánh mình không nắm chủ động, nhưng rồi tự nhủ, cùng lắm là hy sinh cho tổ quốc thôi, cũng giống như hàng vạn chiến sĩ vô danh Việt Nam Cộng Hòa : Chết không ai hay, mồ mã không ai biết ! Tâm trạng của ba Toán viên Tuấn, Sinh, Mạnh cũng không khác gì anh, anh Danh dặn anh em : Nếu lỡ có thua mà còn sống thì phải một mực khai là theo anh Lành đi làm thủy lợi kiếm tiền ăn Tết, ngoài ra không biết gì cả.

Hôm sau Hiền và Ngôn thả nhóm Biệt Cách Dù xuống đường Gia Long đoạn bên hông trái Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn (cũ), từ đây nhóm tà tà đi bộ đến điểm hẹn rất gần đó, là ngã tư Gia Long – Thủ Khoa Huân cách cửa sau chợ Bến Thành chỉ vài trăm thước. Điểm hẹn này khiến những người tham dự phải lên máu vì nó cũng là nơi đặt bản doanh của bọn đầu sỏ Trung Đoàn Chiến Thắng của giặc Bắc Cộng. Thiếu úy Danh đã thắc mắc và phân vân về nó, nhưng đây là chọn lựa của Số Nhà Lớn, anh tin rằng họ có lý do của họ.

Hiền cùng Ngôn và hai Kháng Chiến Quân khác lái xe chạy phía sau yểm trợ. Vài phút sau khi nhóm Biệt Cách Dù đã đến điểm hẹn, Thiếu úy Danh thấy anh Lành đã đứng chờ sẳn đó cùng hai người của anh ấy cùng người phụ nữ đã bí mật giao TNT cho anh Lành trong chợ Bà Chiểu. Một chiếc microbus dừng lại, tài xế xuống xe mở cửa sau cho 4 anh em Biệt Cách Dù lên. Anh Lành lên băng trước ngồi cạnh tài xế, hai người của anh ngồi băng sau, người phụ nữ kia không lên xe với các anh. Còn lại hai băng trống, Tuấn và Mạnh lên băng trên, Thiếu úy Danh và Sinh ngồi băng sau. Xe bắt đầu chạy về hướng Quận 5, đến ngã tư Gia Long – Lê Văn Duyệt tài xế quẹo phải đường Lê Văn Duyệt chạy về hướng Ngã Tư Bảy Hiền. Tuy không biết địa điểm buổi họp, nhưng khi chiếc microbus từ Ngã Tư Bảy Hiền quẹo phải vào đường Võ Tánh chạy về hướng Lăng Cha Cả rồi lại từ đây ôm phải để tiếp tục giữ đường Võ Tánh, tức sẽ chạy ngang Bộ Tổng Tham Mưu (cũ) mà hiện nay đã bị biến thành một căn cứ quân sự của giặc Bắc Cộng, thì Thiếu úy Danh đâm sinh nghi. Anh vội rút cây K54, kéo nhẹ cơ bẩm cho đạn lên nòng. Sinh cũng làm theo anh. Tài xế có vẻ rất thính tai, quay lại hỏi “Cái gì vậy ?”, anh Danh đáp nhanh “Không có gì”. Trái với sự đề phòng để có thể có phản ứng kịp thời của Thiếu úy Danh, chiếc microbus chạy ngang cỗng chính Bộ Tổng Tham Mưu cũ nhưng … không quẹo vào, nó chạy thẳng về hướng Ngã Tư Phú Nhuận. Chạy đến Ngã Tư Phú Nhuận chiếc microbus ngừng lại chờ đèn đỏ, nhìn xuyên qua kiếng cửa sau Thiếu úy Danh thấy Ngôn và Hiền vẫn theo sau. Lúc này khoảng 9 giờ sáng nên tại ngã tư xe cộ dồn lại, bộ hành qua lại đông đảo. Bất thình lình tên tài xế mở cửa xe nhảy ra ngoài, đóng ầm cửa lại. Đồng thời từ bên lề phải 3 tên kiểm soát quân sự (thuộc Trung đoàn Chiến Thắng) vọt ra, súng chỉa vào mạn phải chiếc microbus. Lúc này anh Lành đang ngồi băng trước cạnh tên tài xế đã bỏ chạy, Thiếu úy Danh hét lớn “Lái xe vọt nhanh đi anh Lành”, nhưng nhận được giọng trả lời thật thảm “Nó rút chìa khóa theo nó rồi !”. Anh em Biệt Cách Dù đồng loạt chồm người lên, họ đã sẳn sàng. Không chần chờ, Thiếu úy Danh rút cây K54 ra, nháy mắt với anh em, rồi tức tốc nhào ngược lại chụp mở hai cánh cửa sau : Cửa cũng đã bị khóa ! Anh lập tức tung chân phải tống một đạp hết sức mình : Hai cánh cửa vẫn không thèm nhúc nhích ! Tiếng AK nổ giòn bên phải chiếc microbus, đám giặc Cộng bắn chỉ thiên cảnh cáo, bà con dạt ra tứ phía tìm chỗ núp, tài xế các xe chung quanh đồng loạt phóng ra ngoài nằm vội xuống mặt đường. Bấy giờ từ lề đường bên kia thêm 5 tên khác xông qua, 3 tên ập vào mạn trái xe, 2 tên vọt xuống chận phía cửa sau. Đồng thời trên lề phải bỗng xuất hiện thêm gần chục tên quỳ một gối tay ghìm chặt AK47 hướng nòng về chiếc microbus. Thiếu úy Danh nghe một tên giặc ở bên ngoài hét lớn “Tụi này là tàn quân”. Dân Sài Gòn lạ lùng thiệt, đang phóng tìm chỗ tránh đạn nhưng nghe giặc hô “Tàn quân” thì họ bỗng quay phắc lại, rấn tới như muốn nhìn tận mặt những anh hùng của họ vừa sa cơ.

Chỉ có hai cánh cửa đàng trước, phía tài xế và phía người hành khách ngồi bên cạnh là có thể mở được, nhưng anh Lành thì ngồi cứng đơ vì một tên giặc Cộng đứng bên ngoài đang dí họng súng AK sát vào tấm kiếng ở phần trên cửa, nghĩa là ngay mặt anh. Tất cả đành thúc thủ. Thiếu úy Danh và Sinh lau vội vân tay trên hai khẩu súng, bỏ nhanh vào cái khe bên hông xe. Ngôn, Hiền và anh em vẫn còn ở phía sau, nhưng với lực lượng giặc quá hùng hậu, họ không thể làm gì hơn là đứng nghiến răng nhìn anh em mình lâm nạn. Vài phút sau, hai chiếc U-oát trờ tới, thêm 8 tên trang bị đầy đủ bước xuống xe, tên giặc mang hàm Thượng úy bước đến sát bên cửa tài xế chiếc microbus hỏi lớn “Ai nái xe được ?”, một trong hai người đi với anh Lành giơ tay lên đáp “Tôi”. Tên tài xế bỏ chạy hồi nảy bỗng xuất hiện, đưa chùm chìa khóa cho tên Thượng úy, hắn cầm lấy đưa vào trong xe, tay còn lại chỉa nòng K54 vào đầu người đã giơ tay, ra lệnh “Nái chầm chầm”. Ít phút sau chiếc microbus đã nằm trong sân phường đội 3 Phú Nhuận gần đó. Cửa trước chiếc microbus mở ra, anh Lành bị lôi xuống trước. Chân chưa chạm đất thì hai tay anh đã bị còng bập vào. Kế tiếp là hai người của anh, bị còng chung. Một tên mặc thường phục cầm chùm chìa khóa đi về phía sau xe, mở cửa, Thiếu úy Danh và Sinh mỗi người một còng, Tuấn và Mạnh bị còng chung. Đặc điểm của giặc Cộng là còng hai tay phạm nhân về phía trước.

Ba tên giặc chui vào chiếc microbus bắt đầu khám xét. Bảy người bị bắt bị đẩy vào trụ sở, bị chúng dí súng buộc tất cả ngồi bệt xuống đất. Một lúc sau có tiếng la từ bên ngoài vọng vào “Chúng nó có súng”, tiếp theo là hàng loạt tiếng kéo cơ bẩm vang lên, Thiếu úy Danh nhìn ra cửa, cả chục nòng AK đang chỉa vào họ sẳn sàng bóp cò. Tình trạng này kéo dài chưa tới 5 phút thì có một xe bít bùng dùng chỡ tù chạy vào sân. Họ bị lùa hết lên xe, bị chỡ về trại giam cầu Băng Ky (Trung tâm Thẩm vấn Phượng Hoàng của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975). Anh Danh biết tới đây là hoạt động Kháng Chiến của Toán Thám Sát trực thuộc Chiến Đoàn 3 Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chấm dứt ! Anh không lo ngại về phần mình vì như anh đã kể anh bồn chồn lo lắng một ngày trước khi đến điểm hẹn tham dự vụ này. Anh chỉ thấy thương ba anh em Tuấn, Sinh, Mạnh, đã theo anh từ đầu, đã vào sinh ra tử cùng nhau từ trước 30 tháng Tư 75 cho mãi đến hôm nay.

*

Mặc dù gặp nhau tại San Jose, California, và nghe Thiếu úy Danh kể lại chuyện Toán Thám Sát của Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù rút vào rừng Long Khánh tìm địa điểm thành lập căn cứ mật cho Chiến Đoàn; nghĩa là đã biết trước đoạn kết của câu chuyện rồi. Nhưng nghe kể đến đoạn anh em lọt bẫy giặc Cộng bị bắt, tác giả vẫn bị dấy lên một nỗi ngậm ngùi, và tiếc nuối.

Đối với tác giả, Thiếu úy Danh và anh em của anh trong rừng Long Khánh đã thất bại kể từ lúc giặc Bắc Cộng mở trận càn quét Long Khánh và một vùng rộng lớn xung quanh nó. Bởi sau trận càn quét này, tuy thiệt hại hai bên ngang ngữa nhau, nhưng các lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc chỉ đang ở trong thời kỳ đầu tạo dựng thì quân số chắc chắn là không nhiều. Đó là một gia tài gốc rễ cho việc bùng lên phát triển lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc. Gia tài này bị bứng gốc, những người có tâm huyết nhất, có khả năng nhất, đã xuống tinh thần rất rõ rệt. Như Hiền, người có mặt trong ba người bắt cóc hai tên “bướm bệt xanh đen”, người dựng lên kế hoạch và chỉ huy toán tấn công vào Phương Lâm đoạt gạo; vậy mà sau trận càn quét kia đã nói với Thiếu úy Danh anh sẽ vượt biên ra nước ngoài. Tuy vậy vẫn dùng những ngày tháng còn lại trong nước tiếp tục hoạt động yễm trợ cho anh em Biệt Cách Dù, và có mặt ở đàng sau chiếc microbus khi anh em sa lưới Cộng. Anh xuống tinh thần, muốn ra ngoại quốc, là một mất mát quá sức lớn cho Kháng Chiến Phục Quốc Việt Nam ! Lại như anh Lành, một Kháng Chiến Phục Quốc Quân xâm nhập vào làm việc hợp pháp cho một khu kinh tế mới của giặc Cộng, sẳn sàng giúp anh em Kháng Chiến Phục Quốc không thuộc nhóm anh giấy tờ chứng minh hợp pháp, từng dám ký khống đến cả 20 tờ, và cũng là người đòi hỏi “Số Nhà Lớn” của anh cướp thuốc nổ TNT cho kế hoạch đánh vào khu vực đài phát thanh Quân Đội cũ. Người như vậy mà sau trận càn quét nói trên cũng đã xuống tinh thần dự định vượt biên ra nước ngoài, và chỉ quyết định ở lại sau khi gặp được người của Tướng Bùi Thế Lân từ hải ngoại trở về.

Thiếu úy Danh cũng không khác gì Hiền hay anh Lành, anh cũng xuống tinh thần, nhưng quyết tâm thì khác : Dù gì đi nữa cũng sẽ ở lại trong nước chiến đấu đến cùng !

Vì kết quả của trận càn quét kia, các anh đều như nhau, đặt hết hy vọng vào Số Nhà Lớn, vì đặt hết hy vọng như vậy cho nên họ đã trở nên liều lĩnh, không còn coi là quan trọng những điều cần phải cẩn trọng. Điều này chứng minh được qua việc sau khi không thấy anh Lành đá động gì đến súng hãm thanh thì Thiếu úy Danh vẫn quyết định tiếp tục tham dự một cuộc tấn công đầy nguy hiểm với hai khẩu súng ngắn, một Colt 45 và một K54. Một sĩ quan Biệt Cách Dù như Thiếu úy Danh chắc chắn hiểu được hai khẩu súng ngắn làm được cái gì trong một khu vực quân sự quan trọng của giặc Bắc Cộng có ít nhất cũng là vài trung đội an ninh, phòng thủ. Có lẽ anh Danh, trong hoàn cảnh như vừa diễn tả ở trên, đã chấp nhận “được ăn cả ngã về không”, và đau đớn cho anh và anh em, các anh đã “ngã về không” !

Trong câu chuyện “ngã về không” này, tác giả tin rằng người phụ nữ mà Thiếu úy Danh diễn tả là đẹp và khoảng 35 tuổi chính là một tình báo viên của địch. Sau 30 tháng Tư 75 giặc Cộng đã dùng tình báo tối đa để diệt các nhóm Kháng Chiến Phục Quốc. Chính một tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc ở hải ngoại có thực lực thật sự, có hoạt động thực sự trong nước, cũng như đã kết hợp được với Hòa Hảo, Cao Đài trong nước, cũng đã bị bọn giặc gài tình báo viên vốn từng mang cấp bậc Đại úy Việt Nam Cộng Hòa vào nội bộ; đó là Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam do anh Tư Lê Quốc Túy làm Chủ tịch. Khiến các anh Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh xâm nhập vào Việt Nam đã rơi vào tay địch để đi đến kết quả cuối cùng là anh Trần Văn Bá, em ruột anh Tư Túy là anh Lê Quốc Quân, anh Hồ Thái Bạch, cùng nhiều anh em Hòa Hảo, Cao Đài, đã bị chúng xử tử tại Sài Gòn.

Người phụ nữ đẹp khoảng 35 tuổi trong câu chuyện tấn công khu đài phát thanh Quân Đội (cũ), tác giả tin rằng mình đoán không lầm, bà ta là ai ! Ở thời điểm bây giờ bà ta cũng đã ở tuổi sắp đi làm hộ lý cho bác hù, và cũng đã quậy cú cuối cùng trong một vụ đánh nhau trong nội bộ giặc Cộng ở Hà Nội.

Bà ta cũng đã … “ngã về không” mà thôi.

Anh Lành cũng có lỗi một phần vì đã cố làm cho Thiếu úy Danh tin rằng anh đang làm việc cho “Số Nhà Lớn” (chưa phải là thật), vì cố như vậy nên ngày qua ngày chính anh Lành đã tự gạt mình cũng phải tin như vậy.

Trong trận chiến chống Tầu xâm lược ở giai đoạn phôi thai đang diễn ra trong nước, và có thể bùng dậy lớn lao hơn trong tương lai, tình báo phải được đặt lên hàng đầu. Ví dụ như, nếu chủ trương Mật Khu Thành Phố của Thiếu úy Danh hồi trước bây giờ gặp cơ may nào đó được người trong nước xử dụng, tình báo lại càng quan trọng hơn nữa, không phải nên được đặt ở hàng đầu mà còn phải ở một nấc cao hơn hàng đầu !

Nhân nói đến tình báo thì tác giả nhớ ngay đến hai vị Trung tá Lục Phương Ninh, Huỳnh Khương An, thuộc đơn vị 101 Tình Báo Chiến Trường. Vào lúc các tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc nở rộ tại hải ngoại trong thập niên 80 thế kỷ 20, có lẽ chỉ có anh Ninh và anh An quyết định tổ chức các lớp tình báo cho đoàn viên Lực Lượng Quân Nhân Việt Nam Hải Ngoại. Hai vị đàn anh này đã thấy được ngay từ lúc đó tình báo sẽ đóng vai trò rất quan trọng cho cuộc chiến sau 1975. Dĩ nhiên còn có rất nhiều vị khác cũng thấy như vậy, nhưng khổ nổi, từ thấy tới ra tay giải quyết thì đoạn đường tuy không xa mà cũng chẳng gần gũi gì.

Biết đâu hải ngoại sẽ lại có các khóa huấn luyện tình báo ngay trong năm nay, 2019 ?

Số Nhà Lớn, niềm hy vọng của các lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc của Miền Nam Tự Do chỉ là tin đồn không có thật, đó là sự thật bây giờ chúng ta đều biết rõ. Mà chỉ có rất nhiều những toán quân lẻ tẻ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa không chấp nhận lệnh buông súng đầu hàng từ ông Dương Văn Minh, đã rút vào rừng tiếp tục chiến đấu chống Cộng Sản. Nhớ lại thời kỳ đầu thành lập nền Đệ I Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm vì e ngại giặc Bắc Cộng liều lĩnh tổ chức vượt sông Bến Hải đánh toàn diện xuống miền Nam, đã tổ chức cuộc thực tập lớn cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa chống trả, bao gồm chôn dấu quân lương vũ khí, chọn các vùng rừng núi thuận tiện tiếp tục đánh lại giặc nếu phía chúng ta thất thế. Rất tiếc, sau khi cụ Diệm bị chính các tướng lãnh của ông sát hại, kế hoạch nói trên cũng bị chết theo. Để rồi các ông lãnh đạo mới từ đó về sau dựa hẳn vào Mỹ trăm phần trăm, hậu quả là khi Mỹ ù té chạy khỏi miền Nam thì Việt Nam Cộng Hòa lập tức đứt bóng. Và vì Tổng thống Ngô Đình Diệm đã có sự chuẩn bị như đã nói, nên ông cũng cho thành lập một Bộ Tư Lệnh Hành Quân nhằm trực tiếp điều hành phối hợp quân đội của các vùng chiến thuật, các binh chủng, trong trường hợp xảy ra một trận đánh toàn diện. Cụ Diệm chỉ định Tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân này, nhưng rất tiếc ông Minh lại nhìn việc cá nhân ông phải chỉ huy một cơ cấu không có lính cơ hữu dưới tay, nỗi bất mản của ông Minh dấy lên từ đó. Bất mản sinh …

Cuộc Kháng Chiến Phục Quốc Chống Tầu Xâm Lược đã bắt đầu ngay sau 30 tháng Tư 1975 tại miền Nam và kéo dài đến tận bây giờ trên toàn quốc. Người dân đã dùng hỏa công cảnh cáo các đơn vị làm kinh tế của chính phủ Tầu Cộng đang có mặt mai phục tại Việt Nam. Cuộc chiến đấu chung cần có được một cơ cấu cao nhất, hay một Số Nhà Lớn như các lực lượng Kháng Chiến Phục Quốc mong muốn trong hai thập niên 70, 80 của thế kỷ trước. Chúng ta buộc phải bắt đầu bằng tự chính mình trước tiên, với chủ trương : Quân chúng ta sẽ có từ dân, vũ khí chúng ta sẽ có từ … địch. Như chủ trương của Thiếu úy Danh xuyên qua kế hoạch Mật Khu Thành Phố.

Quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam chỉ có thể có nếu chúng ta tự lực cánh sinh trước, sự giúp đỡ từ các nước khác tới sau !


8 giờ tối ngày hôm đó anh Lành bị gọi đi hỏi cung với cái bụng trống rỗng. Thiếu úy Danh đã chuẩn bị tinh thần, vì có lẽ sau anh Lành sẽ là anh ? Hơn 4 giờ sau, nghĩa là sau 12 giờ đêm, hai tên giặc Cộng lôi anh Lành về phòng, anh trông giống như một con mèo bị mắc mưa.

Sau tháng Tư 1975, bọn giặc Bắc Cộng bế quan tỏa cảng với thế giới tự do, bọn Tầu Cộng và Miên Cộng (Khờ Me Đỏ) thì đã “tạm thời” trở thành … hai thằng địch đồng chí của Cộng Sản Việt Nam; một thằng dí ở phía Bắc, một thằng thọc sườn phía Tây. Do chẳng ai thèm quan tâm đến nước Việt Nam từ sau khi trở thành Cộng Sản từ Bắc chí Nam cho nên giặc Bắc Cộng mặc sức giở đủ mọi thủ đoạn rừng rú đối với dân cả nước, đặc biệt dân miền Nam mà chúng gọi là dân Ngụy. Huống chi đối với những tù nhân tiếp tục cầm súng chống lại chúng ! Nhớ lại trước đây Việt Nam Cộng Hòa đã nhiều lần bị dư luận thế giới tự do bắt bẻ cho là đối xử không nhân đạo với tù Cộng Sản mà không khỏi cảm thấy mỉa mai hết sức.

Thiếu úy Danh đã đoán đúng, sau anh Lành thì tới phiên anh … được mời, mặc dù đã quá nửa đêm. Lời mời từ một tên giặc Bắc Cộng nhỏ tuổi nhỏ con là “Mầy theo tao”. Mặt anh nóng bừng vì câu mất dạy của thằng Việt Cộng con, anh nhìn nó căm thù, với phản ứng tự nhiên của một võ sĩ Taekwando những ngón tay của anh ngọ nguậy chuẩn bị xỉa thẳng vào cặp mắt ti hí láo liên, nhưng rồi kịp lấy lại bình tỉnh đứng lên đi theo nó. Có lẽ vì cặp mắt căm thù của Thiếu úy Danh, giặc đã “mời anh ăn tối” thật no nê, no đến chịu không nổi lăn ra bất tỉnh. Chúng đành lôi ngược anh về phòng giam, chưa khai thác được gì. Hai ngày sau anh mới tỉnh hẳn, anh Lành cho biết trong cơn mê man, anh đã thều thào “Tôi chỉ theo anh Lành làm thủy lợi kiếm sống, tôi không biết gì cả”. Trưởng phòng giam tên Thơm, là một tên giặc Cộng bị ở tù vì tội bắn chị vợ ngoại tình với một cựu Trung sĩ Việt Nam Cộng Hòa, và tên Thơm cũng từng thú nhận với các tù nhân chung phòng năm 1972 chính nó tự tay bắn chết Sinh viên Luật khoa Lê Khắc Sinh Nhật theo lệnh đảng ủy nhằm răn đe cũng như xúi giục các tổ chức sinh viên chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Chiều ngày thứ ba Thơm đem cho anh một tô cháo trắng và cục đường thẻ, nó nói “Anh ăn đi cho có sức, tối nay tụi nó sẽ hỏi cung anh, đừng chống lại vô ích, chỉ có hại cho mình thôi”.

11 giờ khuya hôm đó, Thiếu úy Danh bị đưa lên phòng thẩm vấn. Rút kinh nghiệm, anh cố sẽ không để bị ăn đòn bầm dập như lần trước. Thằng chấp pháp nhỏ con tự giới thiệu nó là sinh viên đại học Vạn Hạnh, rồi khoe vì vậy nó rất rành những việc trong miền Nam. Nó đề nghị anh khai thật thì nó sẽ thả anh … về ăn Tết với gia đình. Anh Danh chửi thầm trong đầu, tổ cha thằng con nít. Nó lại hù, nếu anh khai man thì sẽ ở tù “mút chỉ cà tha”. Câu “tổ cha thằng con nít” lại chạy ngang đầu Thiếu úy Danh. Nó đưa cho anh xấp giấy và cây viết bảo khai theo mẫu này, sau đó bỏ ra ngoài. Anh khai đúng theo những gì anh từng khai khi nhập hộ khẩu. Khoảng chừng một tiếng đồng hồ sau nó trở lại, cầm xấp giấy lên chăm chú đọc rồi nhìn anh cười hỏi “Anh khai thật ?”, anh không trả lời, chỉ gật đầu. Trong thời gian gần một tháng trời hỏi cung, có lúc nó nhẹ nhàng êm ái xưng hô em em anh anh, lúc thì hung hăng giận dữ tao tao mầy mầy, đi kèm tra tấn. Thằng Thơm trưởng phòng đã cho anh biết tên của thằng chấp pháp là Nguyễn Hoàng Dân.

Lần hỏi cung sau cùng do một tên giặc Cộng lớn tuổi, có lẽ tên này chỉ có phận sự đút kết lại hồ sơ. Kết quả điều tra tất cả chỉ là những chi tiết từ bảng lý lịch lúc nhập hộ khẩu và giấy chứng nhận công nhân thủy lợi của anh Danh. Kết quả về phía cá nhân anh là lỗ tai bên phải bị điếc, bao cơ tay phải bị rách, mười ngón tay sưng vù nhiễm trùng bưng mủ, có ngón tay có thể nhìn thấy xương bên trong. Thằng Việt Cộng con có cách tra tấn rất … hiện đại, đơn giản nhưng sự dã man thì … không đang giởn chút nào. Nó dùng cây viết bic có cạnh lục giác để vào giữa hai ngón tay người bị tra tấn, tay trái nó ép hai ngón tay nạn nhân, tay phải nó xoay cây viết. Da, gân tay bị cuốn theo cạnh cây viết khiến nạn nhân đau vọng lên tận óc.

Anh Danh chỉ có thể chập chờn cầm đủa lại sau hơn một tháng trời tập luyện lại mấy ngón tay, riêng hông trái anh thì tiếp tục đau nhức tới tận bây giờ mỗi lần trái gió trở trời. Lúc dẫn anh trả về phòng giam, tên chấp pháp Nguyễn Hoàng Dân còn chúc anh … lên đường bình an, anh bình tỉnh nhìn nó, trả lời chắc nịch “Hẹn gặp mầy ở bên ngoài”.

Bị giam đến tháng thứ ba thì Thiếu úy Danh được gọi lên thăm nuôi. Thời Việt Nam Cộng Hòa, đi thăm tù thì nói là thăm tù, qua thời giặc Bắc Cộng thăm tù đổi thành thăm nuôi, bởi cả nước cùng biết đám con đảng quỷ cháu bác hù vốn là … đỉnh cao bỏ đói tù nhân. Anh chỉ được gặp hai người, má anh và Ngọc An; ngoại anh và dì Tư má Ngọc An phải ở bên ngoài chờ. Má anh gầy rọc đi vì quá lo cho anh, bà hỏi “Trong người con thấy sao ? Có dầu nóng và thuốc rượu trong giỏ”. Anh nghẹn ngào “Con không sao đâu má”. Má anh nói tiếp là có nhờ người “chạy” cho anh, nhưng anh lắc đầu “Má đừng lo tốn tiền, không có kết quả đâu”. Quay sang Ngọc An đang khóc tức tưởi, anh đau lòng hết sức nhưng vẫn phải nói “Em đừng buồn, em nên quên anh đi, Ngọc An à”. Không có câu trả lời, anh chỉ nghe được tiếng khóc tức tưởi thêm. Vì ở đây không tiện nói nhiều, anh chỉ hỏi thăm tình trạng gia đình mình và gia đình Ngọc An.

Hết giờ thăm nuôi, Thiếu úy Danh trở về phòng giam với giỏ đồ ăn đã bị giặc “khám xét” trước đó. Hai chữ khám xét được bỏ trong hai dấu ngoặc kép là bởi vì hai chữ này hiện nay đồng nghĩa với hai chữ … chôm chỉa. Anh lục mãi trong giỏ đồ nhưng không thấy chai dầu nóng và chai thuốc rượu như má anh cho biết, là hai thứ rất cần cho những vết thương do bị tra tấn của anh. Anh nhờ tên Trưởng phòng Thơm hỏi trại giam để xin lại, nhưng ba ngày sau bọn giặc chỉ trả lại anh chai thuốc rượu. Chai dầu nóng bị tịch thu, chúng nói là ngừa phạm nhân dùng để tự tử. Thiếu úy Danh cười gằn, chưa đâu bọn giặc tay sai Tầu Cộng, tao còn nhiều việc phải làm lắm !

Vài ngày sau vụ thăm nuôi, chúng chuyển anh và anh Lành qua khám Chí Hòa, tại đây anh gặp lại đủ mặt “bá quan văn võ”. Trong đó có Sư Phụ Lê Ngọc Thạch, Đại úy Bền, một Đại úy Pháo Binh bị bắt ở Hạ Lào năm 1971, có luôn Trung úy Khoa người được mệnh danh là hung thần của bọn ăng ten trong tù. Gặp lại Sư Phụ và Đại úy Bền anh mừng lắm vì biết được hai anh còn sống (ở tù Cộng Sản thì còn sống có nghĩa là … chưa chết thôi). Nhưng nhớ tới ba Toán viên Tuấn, Mạnh, Sinh, không gặp được họ ở đây khiến anh lo lắng vô cùng, không biết số phận của anh em thế nào.

Họ phải làm mặt lạ với nhau trong thời gian đầu để tránh không cho bọn cai tù Việt Cộng biết anh em đã biết nhau từ trước. Hơn tuần lễ sau Sư Phụ cho Thiếu úy Danh biết mật khu Mây Tàu (Đông Sơn) của Sư Phụ bị tấn công bởi một lực lượng giặc quá đông đảo, một số anh em tử trận, những anh em còn sống chạy tứ tán thoát thân. Sư Phụ và anh Khoa (bí danh của một Trung úy Bộ Binh) chạy được về Sài Gòn, nhưng rồi Sư Phụ cũng đã bị giặc bắt tại đây.

Vốn gốc tình báo của Lực Lượng Đặc Biệt, Thiếu tá Lê Ngọc Thạch ít khi chịu nói nhiều, sau này Thiếu úy Danh gặp Trung úy Khoa mới được anh Khoa kể lại vụ mật khu Mây Tàu bị giặc Bắc Cộng đánh tan hàng vào cuối năm 1976 :

… Trung úy Khoa đã từng cùng Thiếu Tá Thạch lặn lội đi vào những mật khu, chiến khu của những chiến hữu Hòa Hảo ở miền Tây, hết sức gian nan và nguy hiểm, mạng sống như chỉ mành treo chuông mà lần cuối cùng là mật khu Đông Sơn. Thật sự đây là một đỉnh núi khá cao, cách 10 km đường chim bay về hướng Tây của tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa), có người còn gọi là mật khu Mây Tàu. Có vào khoảng 40 anh em đồn trú chiến đấu trên đỉnh núi này, hầu hết là cựu quân nhân, công chức, nhân dân tự vệ, và một số rất ít thành phần dân sự Việt Nam Cộng Hòa không đi trình diện tù “cải tạo” theo lệnh của nhà cầm quyền giặc. Vũ khí hiếm hoi, họ chỉ có vài khẩu Colt và vài khẩu M16. Cuối năm 1976 mật khu Đông Sơn bị một tiểu đoàn giặc Bắc Cộng tấn công dữ dội bằng B40, M79, lựu đạn, vv … vào giữa đêm tối trời. Một chiến hữu gốc Hoa tên Tường là người đầu tiên tử trận bởi quả B40 đầu tiên của giặc, trong khi anh dậy sớm nấu cơm sáng cho anh em. Vì cường độ pháo của giặc quá dữ dội, một số anh em đã hy sinh trước khi trực tiếp đụng địch, Sư Phụ Lê Ngọc Thạch quyết định cho tan hàng hầu bảo toàn nhân mạng những anh em còn lại. Anh và Trung úy Khoa vượt núi băng rừng trong đêm tối chạy về hướng Long Thành, mãi đến 10 giờ sáng hôm sau họ thấy một ngôi chùa phía trước mặt, không xa lắm. Quá mệt mõi và đói khát, hai anh phải giả dạng là những người làm rừng đi lạc, vào chùa xin cơm ăn và nước uống.

Ngôi chùa nằm cheo leo lưng chừng núi, chung quanh không có bao nhiêu dân cư. Trụ trì là một vị sư già khoảng chừng 70 – 75 tuổi, ngài bảo Thiếu tá Thạch và Trung úy Khoa tắm rửa sạch sẽ trong khi chờ chú tiểu dọn cơm chay cho họ dùng. Trong khi họ đang ăn cơm, ngài trụ trì ngồi cùng bàn nói vài ba câu chuyện bâng quơ, bất ngờ ngài đứng lên ngó xung quanh trước khi bước tới đóng cánh cửa phòng lại rồi trở lại bàn ngồi xuống tiếp tục nói chuyện với hai anh em “Tôi biết các anh là ai và từ đâu đến, bởi vì tôi đã nghe rất nhiều tiếng súng nổ hồi đêm. Các anh yên tâm, ăn cơm xong hãy vào phòng kế bên nghỉ ngơi, tuyệt đối không được ra khỏi phòng. Khuya nay tôi sẽ đưa hai anh xuống núi để các anh đón xe về Sài Gòn”. Anh Khoa nói anh và anh Thạch về được Sài Gòn bình an là nhờ ngài trụ trì, trên đường xuống núi anh có hỏi pháp danh của ngài nhưng ngài chỉ lắc đầu với một nụ cười hiền hậu của người tu hành. Ra ơn bất cầu báo chính là thái độ của những bậc chân tu. Trung úy Khoa kể thêm, năm 1985 sau khi ra khỏi tù Cộng Sản anh đã leo núi thăm chùa để cám ơn thâm ân của ngài đối với anh và anh Thạch. Thật chẳng may, ngài đã viên tịch vài năm trước rồi. Nhìn hình và pháp danh ngài trên bàn thờ, anh ngậm ngùi rơi nước mắt, chỉ còn có thể đọc vài câu kinh gởi đến ngài ở cõi vĩnh hằng.

Thiếu tá Lê Ngọc Thạch bị bắt ngay trung tâm Sài Gòn sau một thời gian được một chủ tiệm giày che dấu. Trung úy Khoa bị bắt ở xa cảng miền Tây. Cuối cùng họ gặp lại nhau ở trại tù Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai.

Về phần Đại úy Bền, ông kể sau cuộc đọ súng với giặc tại Ngã Ba Ông Tạ (vụ các Chủng Sinh bị giết rồi bị giặc Bắc Cộng chụp mũ là băng đảng có súng, đã nói ở một chương trước), ông lặn sâu. Sau một thời gian dài, ông đến thăm cậu Ba. Đến nơi, người nhà cho hay cậu Ba đã bị giặc bắt ba ngày trước, biết không ổn ông vội vàng từ giả ra về, nhưng vừa ra khỏi cỗng thì một đám giặc Cộng ập tới còng Đại úy Bền tại chỗ. Sau này khi ra khỏi tù, Thiếu úy Danh được biết thêm, cậu Ba đã bị bọn giặc đưa ra giam ở miền Trung. Khoảng hai năm sau chúng thông báo người nhà ra đưa ông về vì bệnh ung thư phổi của ông đã vào giai đoạn cuối. Chúng nói láo, chúng kêu người nhà ra miền Trung đưa xác cậu Ba về thì đúng hơn. Đồng tù của cậu Ba cho biết, ngay sau lệnh phóng thích chúng đã chích cho ông một mũi thuốc gọi là … thuốc hồi sinh. Mũi kim vừa rút ra thì cậu Ba sùi bọt mép, mắt trợn trắng, tắt thở tức khắc. Vì vậy người nhà và cậu Ba đã không hề nói được với nhau lời cuối cùng nào. Những lời cuối cùng mà Thiếu úy Danh tin rằng sẽ có liên quan đến chuyện Phục Quốc của những con dân Miền Nam Tự Do. Nhưng không có gì cả, anh thất vọng và nhớ ông quá sức, một người đàn anh lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bọn giặc Bắc Cộng sẽ giao nộp nước Việt Nam cho bọn giặc xâm lược Tầu Cộng, luôn luôn nhắc nhở những người trẻ tuổi như anh phải nhớ nằm lòng điều này mà chiến đấu tới cùng.

Thiếu úy Danh và các chiến hữu của anh bị giam ở Chí Hòa vài tháng thì giặc chuyển họ đến trại tù Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai. Đêm cuối cùng ở khám Chí Hòa là một đêm nhớ đời, các tù nhân Kháng Chiến Phục Quốc Quân bị giam ở các phòng giam kế cạnh đã làm một đêm Văn Nghệ Kháng Chiến thật đặc sắc với những bài đồng ca như Xuất Quân, Lục Quân Việt Nam, Khúc Ca Quân Trường, Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị, Trên Đầu Súng Quê Hương, vv … vang dội khắp bốn phương tám hướng vang vượt khỏi “lò bát quái” Chí Hòa, vì thế mà đồng bào bên ngoài loan tin đồn “nổi dậy đã xảy ra trong khám Chí Hòa”. Lúc chuyện xảy ra, bọn giặc cai tù tuy được vũ trang cùng mình nhưng chỉ dám đứng bên ngoài song sắt tức tối gầm gừ, chỉ chỏ la hét, chửi rủa hăm dọa, nhưng không dám mở cửa vào phòng giam. Chỉ tới tờ mờ sáng hôm sau, sau khi được tăng cường lực lượng chúng mới dám xông vào, một đoàn molotova tới đưa hết các tù nhân can cường này đi đâu không ai biết.

Đến trưa, tới phiên Thiếu úy Danh và các chiến hữu bị đưa đến trại tù nổi tiếng khắc nghiệt ở miền Nam : Trại tù Z30A. (Trước kia là hậu cứ của Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Việt Nam Cộng Hòa). Họ bị xé lẻ bổ sung vào các đội tù khổ sai ở đây. Nhưng khoảng 30 người không được kêu tên bị lùa vào một căn nhà mái tôn, vách ván. Đây là một đội vừa thành lập mang tên “Đội Trừng Giới” gồm từ sĩ quan cấp tá xuống tới binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã tiếp tục chiến đấu sau tháng Tư 75, thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, 81 Biệt Cách Dù, Nha Kỹ Thuật, Không Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Các Sư Đoàn Bộ Binh 5 – 7 – 9 – 18, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. Dân sự thì có nhóm luật sư tranh đấu đòi nhân quyền như Luật sư Trần Danh San, Dung, Giao, Thiệp, Uyên. Hai Luật sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp cùng 17 người nữa đã tuyên đọc Tuyên Ngôn Nhân Quyền trước nhà thờ Đức Bà, tất cả đều bị giặc bắt. Nhà văn có Vũ Quốc Châu (Uyên Thao), Nguyễn Thụy Long (tác giả cuốn Loan Mắt Nhung nổi tiếng). Tôn giáo có ông Trần Văn Phúc lãnh đạo giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, vv …

Người có cấp bậc quân đội cao nhất trong đội là Thiếu tá Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân Lê Ngọc Thạch, tức Sư Phụ. Đặc Biệt còn có một số sĩ quan cấp Úy và các hạ sĩ quan Nhảy Dù bị bắt trong chiến dịch Lam Sơn 719 Hạ Lào, bị giặc giam giữ đến lúc đó chưa được thả, có lẽ vì tinh thần chống Cộng kiên cường của các chiến binh Nhảy Dù này. Nhiệm vụ của Đội Trừng Giới là lao động khổ sai, nhưng anh em trong đội thì … tự phân nhiệm cho mình nhiệm vụ “chống cuốc”. Tức là chống cây cuốc xuống đất đứng phè phởn nhìn trời hiu quạnh. Ngày đầu tiên bị lùa đi lao động, lúc xuất trại không thấy gì, nhưng chiều về khi đi ngang qua bệnh xá của tù thì đội nhìn thấy một hình ảnh thê thảm : 4 cái hòm bằng gỗ tạp đặt trước bệnh xá chò ra nghĩa địa, anh em tù thường gọi là “cái áo bốn dài hai ngắn”. Anh em tù cũ cho biết cứ vài ngày thì cảnh này lại xảy ra, đây là thủ đoạn của giặc Bắc Cộng, chúng bỏ đói tù nhân nếu không chết đói thì từ đói chuyển qua bệnh rồi chết bệnh, chúng tránh được tiếng giết tù nhân. Sau này Thiếu úy Danh được biết trên ngọn đồi có tên Phượng Vĩ này, ngoài Đội Trừng Giới còn có ba đội Kháng Chiến Phục Quốc Quân và nhiều đội sĩ quan trình diện. Đa số là chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, lại còn có tín đồ của bốn tôn giáo lớn miền Nam là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, họ bị bắt từ khắp bốn vùng chiến thuật với tội danh “chống phá cách mạng” và bị đưa đến đây trước nhóm anh vài tháng.

Như vậy quân số Kháng Chiến Phục Quốc Quân trên đồi Phượng Vĩ này vào khoảng một Đại Đội, với tinh thần diệt Cộng triệt để, nhưng khổ cái là vũ khí của họ chỉ mỗi người một cây cuốc, thay vì súng.

Tù ở đây phải lao động khổ sai từ 7 giờ sáng tới 5 giờ chiều, công việc của họ là cuốc đất, đập đá, khiêng đá, phá rừng làm rẫy. Họ được giặc Bắc Cộng trả công mỗi ngày ba bữa mì lát nấu chín (hơn 70% đã hư, thối), ăn với nước muối. Anh em đã từng nghe lóm bọn giặc nói với nhau “Cái này cho heo ăn heo cũng chê, bọn nó chết là cái chắc, chỉ thời gian thôi”. Rõ ràng mục tiêu cuối cùng của giặc là tù Kháng Chiến Phục Quốc Quân phải chết hết !

Thỉnh thoảng tù được giặc “đãi” cho một bữa “tiệc”, mỗi người tù lãnh một cục bánh làm bằng bột củ mì to chừng một nắm tay. Tù khổ sai làm nhiều ăn ít tức phải sinh bệnh, chết vì không có thuốc trị (kiết lỵ, phù thủng, vv …), đôi khi còn chết vì cuốc trúng mìn, đầu đạn M79, vv …, nên quân số trên đồi Phượng Vĩ giảm thật nhanh. Những tù nhân có gia đình thăm nuôi còn có thể sống lây lất qua ngày, những người “mồ côi” thì đường về “vùng năm chiến thuật” (chết) rất gần, chỉ là vấn đề thời gian.

Nhưng dù là có gia đình thăm nuôi hay “mồ côi”, hầu hết các Kháng Chiến Phục Quốc Quân ai cũng có sẳn trong đầu kế hoạch vượt ngục, trở về với rừng núi tiếp tục chống lũ tay sai Tầu Cộng mặc dù lúc đó chúng tạm là … thằng địch đồng chí của nhau. (Xin xem cuốn Thằng Địch Đồng Chí, cùng tác giả). Có một buổi chiều sau giờ lao động khổ sai về, anh em đã chứng kiến cảnh tra tấn công khai một tù nhân vượt ngục. Tên anh là Minh Quí Tộc, lợi dụng đêm tối dùng miếng ván và cái mền nhà binh vượt qua hàng rào concertina phía sau dãy nhà bếp. Năm sáu tên dùng bá súng CKC nện liên tiếp vào hông, lưng, bụng anh; lại thêm mấy tên khác dẫn các đội lao động khổ sai về chạy đến ăn ké, anh Minh Quí Tộc ngất đi. Nhưng vẫn chưa được tha, chúng nắm hai chân anh lôi sền sệt ngược dốc vào trại, đến đúng chỗ anh xé hàng rào, buộc phải diễn lại cảnh anh vượt ngục. Một tên hỏi, mày nàm thao vượt qua bãi mìn ? Bấy giờ thì anh em mới giật mình, thì ra chúng đã bí mật gài mìn xung quanh đồi Phượng Vĩ mà lâu nay không tù nhân nào biết. Anh Minh Quí Tộc thều thào … tôi đâu biết có mìn ! Trời, đúng là Ông Trời đã “độ” cho anh, nhưng không biết sau màn tra tấn tối hôm nay, chắc chắn sẽ xảy ra, thì Ông Trời còn có thể “độ” cho anh nổi không ?

Trước hoàn cảnh thê thảm như vậy, Sư Phụ liên tục nhắc nhở anh Danh “Phải quyết chí mà SỐNG”. Phải sống, đừng có phản ứng dại dột trước những cảnh nổ mắt bùng tai mà mình phải chứng kiến, nếu còn muốn tiếp tục cuộc chiến đấu chống Cộng Sản. Chuyện trước mắt là phải có miếng ăn để sinh tồn, các kỷ năng mưu sinh thoát hiểm phải được ứng dụng triệt để. “Thức ăn phụ trội” để sinh tồn của “tù mồ côi” gồm “tôm bay” tức cào cào châu chấu nướng ăn liền, rít, trùng đất. Sang hơn một bậc là cóc, ếch, nhái, ểnh ương, cắc ké, rắn mối. “Quí tộc” thì có chuột, rắn, chim cúc, én (bắt loại này bằng bẫy thòng lòng lúc chúng đang bay, có khi bắt được cả đàn). Loại hảo hạng nhiều dinh dưởng nhất là con mối chúa, con sùng (trong thân cây). Rau củ thì có rau sam, cỏ thỏ, củ chuối rừng. Nấm có nấm mối, nấm đá, nấm dai, nấm mèo. Thuốc thì có cây thù lù trị sốt rét, lá sống đời trị các bệnh về da, thuốc bổ là cây mật nhân, hà thủ ô, vv … Về mùa mưa “thức ăn phụ trội” nhiều và phong phú hơn.

Trong Đội Trừng Giới có hai anh Nha Kỹ Thuật, tên Hinh và Điện, nằm cạnh anh Danh. Sau thời gian dài tìm hiểu và thử thách nhau, một hôm Hinh hỏi “Có muốn trốn trại không ?”, anh Danh hỏi lại “Trốn bằng cách nào ?”. Hinh im lặng, hai bên lại tiếp tục tìm hiểu về nhau. Một hôm khác Hinh lại hỏi “Có rành địa hình khu vực này không ?”, anh thận trọng trả lời “Tôi Chuẩn úy sửa, đâu có rành ba cái vụ đó”. Hinh mỉm cười, không nói gì. Một thời gian sau, nhân lúc đưa bi đông nước cho anh Danh uống, Hinh nói nhanh “Trong không có nước, nhưng có bản đồ khu vực này”. Thiếu úy Danh nhìn vào, thấy quả là có tờ giấy cuộn trọn nhưng không xác định được, thì Hinh đã nói thêm “Bây giờ chỉ còn đợi địa bàn M1 nữa là xong”. Bây giờ thì anh Danh biết người anh em này thành thật và đã quyết chí vượt ngục, anh nói một tràng dài thật nhỏ chỉ đủ cho Hinh nghe “Không cần địa bàn, chỉ một thỏi nam châm nhỏ cở cây tăm, vì chỉ cần xác định hướng Bắc là đủ. Từ đây theo hướng Bắc Đông Bắc chừng khoảng 130 cây số đường chim bay là đuôi dãy Trường Sơn. Hướng Bắc Tây Bắc sẽ gặp quốc lộ 20, sông Đồng Nai, Ban Mê Thuộc. Từ đó, hướng Bắc Đông Bắc là Pleiku, Kontum, bên trái trục này là quốc lộ 14, biên giới Kampuchia, Lào (vùng tam biên tỉnh Kontum). Tình hình địch và dân chúng thì tôi không biết”. Hinh chưa lên tiếng thì anh Danh đã nói luôn “Từ đồi này đến bìa rừng rất xa, lại có nương rẫy của dân có thể có tai mắt Việt Cộng gài vào, lại còn tụi Việt Cộng được rãi ra kích đêm xung quanh trại tuy nhát và chỉ có súng CKC, nhưng làm cách nào anh đến được bìa rừng nếu không có súng ?”. Hinh cám ơn, mắt đăm chiêu nhìn về phía bìa rừng, nơi anh hy vọng nó sẽ là cỗng tìm tự do của anh.
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by quaichao »

Thiếu úy Danh kể lại chuyện của Hinh cho Thiếu tá Lê Ngọc Thạch nghe và hỏi ý kiến. Sư Phụ nói anh phải cẩn thận, tìm hiểu thật kỷ, rồi hẳn quyết định. Sau đó anh Thạch dẫn anh đến bên láng của đội số 10 chỉ vào khoảng giữa láng rồi nói “Có hai trái M26 chôn ở đó, khi nào cần thì moi lên xài”. (Sư Phụ lượm được trong một lần đi cuốc đất ngoài trại). Trời đất, còn chôn được hai trái M26 trong tù, Sư Phụ đúng là ... sư phụ. Nhưng sau này hai trái M26 bị trời mưa làm lộ ra, tên đội trưởng đội 10 tên Cương phát giác và báo cáo cho bọn giặc. Vụ này bị chúng đánh giá là nghiêm trọng, nên một màn điều tra, khủng bố tinh thần tù nhân diễn ra. Cuối cùng giặc chẳng tìm được gì, riêng tên Cương thì được thưởng “24 giờ thăm nuôi”, nghĩa là được ngũ với vợ khi lên thăm nuôi.

Sau đó Hinh bị kiên giam, chuyện không có dính dáng gì đến ý định vượt ngục của anh hay vụ hai trái M26, anh bị giặc kiên giam vì trong giỏ đồ thăm nuôi của anh có đồ bị cấm. Không biết người nhà anh ở địa phương có bị liên lụy gì không ? Nhưng sau hai tuần bị kiên giam, Hinh đã vượt ngục thành công. Trật tự trại cho anh em biết, anh đã cưa được cùm chân và song sắt nhà kiên giam, và vì bên dưới bức tường và hàng rào concertina phía sau nhà kiên giam có một cái rảnh vừa cho một người chui ra được đào thông ra bên ngoài, là đường đào thoát của Hinh Nha Kỹ Thuật. Màn vượt ngục của Hinh quá hay khiến anh em tù cũng như cán bộ trại giam bàn tán, suy diễn đủ kiểu cách. Nhưng cuộc vượt ngục một mình của Hinh đã làm cho kế hoạch vượt ngục của Sư Phụ Lê Ngọc Thạch và Thiếu úy Danh phải tạm dừng lại vì sự cảnh giác đề phòng của bọn giặc đang ở mức cao độ.

Tiếp sau là một vụ vượt ngục khác, táo bạo hơn, với con số tù nhân tham dự đông đến mức không ngờ : 18 người ! Do vậy cuộc vượt ngục này được anh em tù Kháng Chiến Phục Quốc Quân gọi là vụ “Thập Bát La Hán”. 18 ông La Hán tân thời dưới sự chỉ huy của Đại úy Hùng Biệt Động Quân đã cướp hai khẩu CKC của hai tên giặc, hạ một tên tại chỗ, tên thứ nhì là quản giáo ác ôn tên Châu lãnh một viên vào đầu nhưng thoát chết, chỉ bị bán thân bất toại. 18 Kháng Chiến Phục Quốc Quân vượt thoát không bị bắt lại người nào. Bọn giặc cai tù vừa căm tức vừa hoảng vì trong vụ “Thập Bát La Hán” đồng bọn chúng bị bắn hạ hai tên, chúng lồng lộng lên hành hạ tù nhân không nương tay. Ngoài hai tên bị bắn hạ, anh em tù còn thấy sau vài ngày hành quân truy đuổi, chúng lại phải mang về thêm ba, bốn xác đồng bọn đem chôn trong nghĩa địa của chúng. Nghe nói là bị quân Fulro “làm thịt”. Trong vụ “Thập Bát La Hán” đứa lãnh búa nặng nhất là tên Thượng úy Vinh (Trưởng phân trại), vì vậy nó rất căm ghét tù nhân. Khoảng một năm sau, Đại úy Hùng Biệt Động Quân bị bắt lại, anh bị đưa trở về trại tù Z30A để điều tra cũng như để nhận đòn thù. Chính thằng Thượng úy Vinh đem Đại úy Hùng ra trước trại, tự tay nó cắt gân nhượng hai chân vị anh hùng Biệt Động Quân này bằng dao trước mặt anh em tù. Nhiều anh em ứa nước mắt cho tương lai tàn phế của Đại úy Hùng, lòng hẹn lòng rằng mắt trả mắt, chân trả chân. Chắc chắn anh em tù đã chứng kiến thì khó thể quên nổi cảnh tượng dã man thua cả súc vật của một tên Thượng úy Việt Cộng cầm dao thản nhiên cắt nhượng hai chân của một Đại úy Việt Nam Cộng Hòa. Ai đã dạy nó hành động như súc vật, nếu không phải bác hù và đảng quỷ ?!

Tù nhân phản ứng lại bằng … một vụ vượt ngục khác với số người tham dự gần ngang ngữa với vụ trước : 16 người !

Trong một đêm trời tối đen như mực, trong lúc mọi tù nhân bị tập trung lên hội trường xem văn nghệ tuyên truyền của giặc, 16 chiến binh Fulro (dân tộc Thượng) đã vượt thoát thành công. Không ai, kể cả cán bộ trại giam, biết được họ đã vượt thoát bằng cách nào. Bởi vậy cũng có dư luận trong anh em tù là chính giặc Bắc Cộng đã dựng ra cuộc vượt ngục này, rồi bí mật thủ tiêu 16 chiến binh Fulro không để lại bất cứ dấu vết nào. Để trả thù. Sau đó chúng “giả nai”.

Vẫn chưa có câu trả lời chính xác về vụ vượt ngục này.

Tuy nhiên không phải các vụ vượt ngục đều thành công. Thượng sĩ Hiệp thuộc liên Đoàn 81 Biết Cách Dù, có thể là người đã bị bắt trong vụ Nhà Thờ Vinh Sơn, đã bị giặc bắn chết trong lúc vượt ngục. Sư Phụ có kể cho anh Danh biết, anh Hiệp trước khi vượt ngục có hỏi ý kiến Sư Phụ, Sư Phụ khuyên không nên vì từ bãi lao động đến bìa rừng rất xa, không đủ sức chạy mà xạ trường lại quá trống trãi, dễ trở thành bia cho giặc bắn. Có lẽ Thượng sĩ Hiệp đã quyết định trước khi hỏi ý Thiếu tá Thạch, cho nên anh vẫn tiến hành vụ vượt ngục và kết quả là phải trả giá bằng mạng sống của mình.

Còn vụ vượt ngục của hai tín đồ Hòa Hảo cũng thật thảm thương, anh Liêm bị giặc bắn trúng đầu và đùi chết tại chỗ, anh Mẩn bị bắn gãy hai chân để ngăn không cho anh tiếp tục chạy.

Lại có vụ vượt ngục bi hài của Đại úy Nhảy Dù Đào Minh Phương. Đại úy Phương bị giặc Cộng bắt trong cuộc hành quân qua Hạ Lào năm 71, sau 75 vẫn tiếp tục bị tù vì bị chúng liệt vào thành phần không chịu khuất phục, phản động. Trước khi hành động, Đại úy Phương đưa cho Thiếu úy Danh một cuốn Thánh Kinh có ghi địa chỉ của bà chị ở Đà Lạt, anh Phương dặn “Nếu anh có chết thì thông báo cho chị anh biết giùm”. Anh Danh nhận mà không nói gì, chỉ thành tâm cầu nguyện cho anh Phương thành công. Nói là bi hài là vì lúc vượt thoát Đại úy Phương biết trước là mình không thể thoát nhưng vẫn cứ hành động như muốn giởn chơi với tử thần. Nhân sương mù dày đặc trên đường ra ngoài làm lao động khổ sai, Đại úy Phương rời đội phóng chạy nhanh vào rừng. Tên giặc Cộng võ trang đi sau cùng trông thấy liền tức tốc rượt theo. Bị bỏ đói từ năm 1971, bộ xương cách trí của anh té lên té xuống mấy lần không đủ sức chạy đến bìa rừng, lần té ngã sau cùng thì tên giặc đã đến sát bên, anh Phương … lột dép ném vào nó, thản nhiên nằm chờ một loạt đạn đưa mình về cõi chết. Tên giặc chỉa nòng CKC vào đầu Đại úy Phương, cả đội đứng nghẹn ngào cúi đầu vĩnh biệt anh, nhưng chẳng có tiếng nổ nào hết. May thay, tên giặc Cộng thứ hai kịp phóng tới gạt nòng súng sang một bên, chúng trói thúc ké Đại úy Phương dẫn về trại, đánh đập anh tả tơi. Từ đó ông Đại úy Hạ Lào có biệt danh là Phương Sương Mù, do Sư Phụ đặt cho. Trong hoàn cảnh đã đến mức tận cùng của sự khốn khó, tù nhân lấy luôn cái chết ra diễu cợt cho … đỡ buồn.

Đại úy Nhảy Dù Đào Minh Phương hiện có mặt ở Mỹ và tác giả đã có dịp nói chuyện với anh. Đại úy Phương cho biết anh bị giặc Bắc Cộng bắt năm 1971 trong trận Hạ Lào, sau khi căn cứ 31 của Nhảy Dù thất thủ. Từ đó giặc Bắc Cộng đưa anh ra Thanh Hóa, sau đó chuyển đến một nhà tù gần cạnh Hỏa Lò, vốn được tù binh Mỹ gọi đùa là “Hilton Hotel”. Đại úy Phương bị giặc giam tù 10 năm, kinh qua 13 nhà tù thuộc 6 tỉnh miền Bắc, năm 1981 thì được thả về nguyên quán Đà Lạt với tư cách tù binh. Lúc anh ra khỏi nhà tù của giặc Bắc Cộng thì Miền Nam Tự Do đã lọt vào tay giặc gần 7 năm, chân ướt chân ráo trở về quê hương Đại úy Phương thấy rằng không còn cách nào hơn là phải lập tức vượt biên, vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã không còn, phần anh thì không biết gì nhiều về tình hình lúc đó ngoại trừ việc giặc đang giam giữ rất nhiều sĩ quan Cộng Hòa chấp nhận ra trình diện. Do vậy chẳng bao lâu sau anh vội rời Đà Lạt về Sài Gòn tìm đường vượt biên. Nhưng hình như Ông Trời trên cao kia vẫn còn muốn thử thách Đại úy Đào Minh Phương, anh lại bị giặc bắt một lần nữa về tội vượt biên. Với quá khứ là sĩ quan tù binh Việt Nam Cộng Hòa bị giam giữ ở miền Bắc 10 năm, giặc “thân tặng” cho Đại úy Phương một bản án tù 10 năm nữa, họ kết tội anh là … “không thể cải tạo được” ! Tức là … sẽ phản động cho tới khi qua đời.

“Nơi tạm dừng chân thêm 10 năm nữa” của Đại úy Đào Minh Phương là Đội Trừng Giới trại tù Z30A, nơi anh đã gặp những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa rút vào rừng tiếp tục chiến đấu chống Cộng nhưng rồi không may sa cơ đang bị giặc giam ở đây như Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, Thiếu úy Danh, vv… Anh “được hân hạnh” lọt vào Đội Trừng Giới vì anh bị giặc đánh giá “không thể cải tạo được” như những anh em này. Đại úy Phương tâm sự, 10 năm tù miền Bắc đã dạy cho anh biết rằng, tình toán gì thì phải giữ lấy một mình nếu không muốn bị “bể”. Do vậy anh Phương giữ kín mưu tính vượt ngục của mình, chỉ một người anh tin tưởng là Thiếu úy Danh cũng chỉ được biết mưu tính này khi anh đưa cuốn Thánh Kinh với lời nhờ cậy chuyển giùm nếu … , nhưng cũng chỉ nói tới đó mà thôi, không thêm chi tiết nào cả về cuộc vượt ngục. Anh Phương đã bỏ thì giờ quan sát những ngày thường có sương mù dày đặc, lập đi lập lại nhiều lần, rồi liên lạc với người thân bên ngoài sắp đặt đợi anh lợi dụng sương mù vượt được vào bìa rừng thì sẽ có sẳn xe gắn máy cho anh về Long Khánh. Nhưng cuối cùng thì anh thất bại, không tới được bìa rừng như kế hoạch, như đã nói ở đoạn trên. Anh cười cười khi nói về những vụ chống phá trong tù mà cả đám cán bộ giặc Cộng lẩn anh em mình đều không biết là … tác phẩm của tác giả nào. Sau 7 năm tù, có một ngày Đại úy Đào Minh Phương được gọi lên gặp tên Trưởng trại tù Z30A là Trung tá Thích. Hắn cho Đại úy Phương biết anh đã có giấy phóng thích, rồi ngọt ngào kêu gọi anh hãy nói thật cảm tưởng của anh về “cách mạng” như thế nào. Lại hứa dù anh nói gì đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến lệnh phóng thích của anh. Đại úy Đào Minh Phương quá rành về thủ đoạn của giặc Bắc Cộng, anh đã ở tù của họ quá lâu rồi. Anh cười, trả lời tên Trung tá Thích là dù lệnh phóng thích có bị thu hồi thì … chịu thôi, anh không thể nói láo : Tôi không thích hợp với chế độ Cộng Sản, tôi không thể “đi” với “cách mạng”, xin nói thật như thế đấy. Vậy là tên Trung tá Thích bị … chạm nọc, hắn quên phứt lời hứa mới tung ra vài phút trước, kéo ra lệnh phóng thích xé tan nát cho hả cơn … “cách mạng” giận quá hóa láo phét trắng trợn.

Đại úy Đào Minh Phương ở tù Cộng Sản thêm một năm nữa rồi cũng được phóng thích vào năm 1988, cùng lượt với Thiếu tá Lê Ngọc Thạch và một số anh em khác như đã nói ở đoạn trên. Anh Thương diễu, dù gì bản án cũng là 10 năm, nhưng 8 năm thì được thả, kể ra cũng … nhẹ với tội “không thể cải tạo được”.

Nếu có những người tù kiên cường trong mọi hoàn cảnh như trên thì cũng có những người tù hèn yếu, trở thành ăn ten cho giặc. Nhiều anh em đã bị kiên giam, bị tra tấn vì những tên ăn ten này, Sư Phụ cũng từng là nạn nhân của họ. Trong trại tù Z30A có ba tên ăn ten khét tiếng, Tư Rong và Khánh Lé, cả hai tên đều là dân chiêu hồi, tên thứ ba là Dương Hải gốc Cảnh Sát. Nhưng nếu đã có ăn ten thì cũng có hung thần của ăn ten. Đó là Trung úy Khoa mà Thiếu úy Danh đã từng gặp trong khám Chí Hòa. Tên Tư Rong lãnh nguyên một lon ni lông nấu lỏng, hậu quả là … má nhìn hổng ra. Tên Khánh Lé bị Trung sĩ Nhảy Dù Lê Trọng Huề xử tội với một cây 5 phân vuông, máu me lênh láng, long óc … nhìn má hổng biết. Tên Dương Hải bị Trung Úy Nhảy Dù Hạ Lào Đinh Đức Chính hạ đòn “cục sắt từ trên trời rơi xuống” : Cạnh đáy sắc bén của một xô nước đầy từ trên cao cắm phập xuống đầu tên ăn ten, giặc phải chỡ hắn ra tận Long Khánh mới có đủ phương tiện cấp cứu.

Một buổi sáng trong khi chờ xuất trại đi lao động, Thiếu úy Danh được gọi cho thăm nuôi. Anh được gặp Má, Bà Ngoại, Dì Tư, và Ngọc An. Ai nhìn thấy anh cũng bật khóc. Má anh nói nhờ có người quen “phe bển” cho biết và viết giấy giới thiệu nên mới đi thăm nuôi anh được. Ngoại anh thì ốm nhom và già đi rất nhiều, bà nói với anh “Chắc ngày ngoại chết sẽ không được gặp mặt con”. Ngọc An thì chỉ nhìn anh khóc sướt mướt, anh thật tình muốn nói câu “Em hãy quên anh đi” như lần được thăm nuôi ở Sài Gòn, nhưng không nở. Dì Tư má Ngọc An cũng chỉ chậm nước mắt thốt lên được một câu ngắn ngủn “Con ráng đừng để bị muỗi cắn, đừng uống nước chưa nấu sôi, nghe con”. Rồi khóc tiếp. Nhìn những người thân yêu, lòng anh đau như dao cắt, anh cố nuốt nước mắt vào trong, ngẫm nghĩ “Có bao nhiêu, bao nhiêu gia đình miền Nam bị rơi vào cảnh khốn khổ như thế này ?”. Rồi thì thời gian thăm nuôi ngắn ngủi cũng qua đi, mọi người bịn rịn chia tay. Chiều nay, những Kháng Chiến Phục Quốc Quân trong đội sẽ được một bữa tẩm bổ hiếm hoi, từ quà thăm nuôi của Thiếu úy Danh.

Công việc của Đội Trừng Giới lúc mới nhập nhà tù là làm cỏ chung quanh trại, khiêng đá, phá tổ mối. Thái độ của đội là không phản đối lao động, vì từ chối lao động sẽ bị kiên giam, đánh đập. Nhưng khi làm cỏ thì anh em đứng chống cuốc, khiêng đá thì hai người một cục, thằng giặc quản giáo chửi bới riết rồi cũng … mệt nghỉ. Nó đành nói như thể năn nỉ, chỉ cần anh em đừng trốn trại là được. Tuy nhiên khi đào tổ mối thì anh em làm rất hăng sai, vì mối chúa có chất dinh dưởng cao. Vài tháng sau giặc phân công cho đội làm cỏ rẫy bắp, thu hoạch khoai lang. Vì đường ra bãi lao động khá xa trại, giặc tăng cường thêm hai tên võ trang. Bãi là đất rừng mới khai phá nên rất tốt, năng suất cao, nhưng tù nhân thì vẫn đói vì hầu hết sản phẩm thu được bọn giặc đem đi đâu không biết. Tình cảnh này khiến khoai bắp liên tục bị … bốc hơi, chúng bèn ra giá : một trái bắp, một củ khoai, là một tuần kiên giam. Anh em tù phản ứng lại bằng cách bảo nhau khi làm cỏ thì cứ như vô tình cuốc vào gốc cây bắp, nhưng phải khéo léo hầu cây bắp không chết hẳn. Cứ cho nó sống ngất ngư thôi. Do đó bãi bắp nào giao cho đội trừng giới thì đều bị thất thu. Còn nói về khoai lang thì thay vì đào củ lên thảy vào xe kéo cho giặc kéo về trại thì anh em đào đất chôn lại và đánh dấu cho dân chúng đến đào lấy sau. Dân và quân ta vẫn tiếp tục hợp tác với nhau kể cả khi mất nước, ở tù.

Dù giặc lấy tù kiên giam ra hù dọa, đêm nào Thiếu tá Thạch cũng dúi cho Thiếu úy Danh một hoặc hai trái bắp non, bảo ăn ngay trong mùng cho có sức. Vụ này không biết Sư Phụ làm ăn sao mà cuối cùng thì bị chúng phát giác, Sư Phụ lãnh trọn hai tuần kiên giam.

Trong một chiều mưa ảm đạm khiến người tù chạnh lòng nhớ đến những câu hát khó quên từ bản Chiều Mưa Biên Giới (anh đi về đâu) của nhạc sĩ tài hoa Đại tá Nguyễn Văn Đông, một chiến hữu của Đội Trừng Giới đã ra đi sau khi bị giặc tra tấn liên miên, tàn bạo. Anh Trần Ngọc Địa vốn là nhân viên Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, sau tháng Tư 75 hoạt động với nhóm của anh Lành trước khi bị giặc bắt. Sau khi anh Địa bị giặc tra tấn đến chết, thương anh anh em đã lo chôn cất tươm tất trong điều kiện eo hẹp trong tù, và nhắn tin cho gia đình anh xuyên qua những người đi thăm nuôi.

Trong trại tù Z30A này có một người tù kiên giam : Kháng Chiến Phục Quốc Quân Nguyễn Ngọc Điệp. Bị giam mãi trong phòng kiên giam anh Điệp tìm nguồn sống và niềm vui trong gông cùm Cộng Sản bằng những bài thánh ca, những bài lý luận sắc bén đập bẹp chủ thuyết vô thần. Tiếng hát, lời lý luận của anh Điệp từ phòng kiên giam hằng đêm vang vọng đến tai những tù nhân trong trại khiến bọn giặc Bắc Cộng lồng lộng lên nhưng không có cách giải quyết. Anh em ai cũng thương và kính trọng anh Nguyễn Ngọc Điệp, giặc biết nên càng căm thù anh hơn. Cuối cùng chúng chọn giải pháp quen thuộc của bác hù : Giết !
Image
Trại tù “cải tạo”
Gần Tết 1979 phong trào chống đối lao động nổi lên ở hầu hết các trại tù miền Nam, không biết do ai hay tổ chức nào hô hào, hay chỉ do một trại làm rồi tin đồn loan ra và các trại khác làm theo. Tại trại tù Z30A thì Đội Trừng Giới nổi lên trước tiên, theo đề nghị của Sư Phụ Lê Ngọc Thạch và được tất cả đội viên đồng lòng.

Một buổi sáng sớm, cả tù nhân lẩn cán bộ trại rất ngạc nhiên thấy Đội Trừng Giới “siêng năng” một cách khác thường. Trung sĩ Nhảy Dù Lê Trọng Huề dẫn đội ra sân sớm nhất trong các đội, án ngữ cỗng trại. Khi các đội khác đã kéo ra đầy đủ, anh em Đội Trừng Giới kêu gọi tất cả tù nhân từ chối không xuất trại đi lao động, lý do là vì bị bỏ đói không đủ sức lao động và sinh bệnh thì không có thuốc chữa.

Đúng tác phong của cháu bác hù, tên Thượng úy Vinh đứng ngoài cỗng trại la lối, chỉ lên bốn lô cốt có bốn cây đại liên hù rằng đã sẳn sàng khạc đạn xuống đầu tù nhân; và ai tham gia chống đối lao động thì thời gian “cải tạo” sẽ dài ra thêm. Để tăng thêm phần căng thẳng cho phía tù nhân, bọn giặc Cộng vũ trang được điều động bao vây trại, nòng súng chỉa thẳng vào bên trong. Các đội tù nhân vẫn không nhúc nhích. Tên Vinh “đổi tông” sang hứa hẹn, dụ dỗ, nó hứa sẽ tăng khẩu phần ăn, cho thêm giờ thăm nuôi, thậm chí cả 24 giờ luôn (nghĩa là được ngũ với vợ một đêm).

Vẫn không ai nhúc nhích, tên Thượng úy Vinh bỏ đi.

Lúc đầu tinh thần anh em tù nhân lên rất cao, nhưng thời gian kéo dài đến lúc mặt trời đã lên giữa đỉnh đầu thì họ bắt đầu mệt mõi, xuống sức, xuống tinh thần vì thật ra không biết gì về kế hoạch của Đội Trừng Giới, nó sẽ đưa anh em đến đâu ? Bấy giờ thì tên Vinh trở lại, có lẽ sau khi đi tìm thượng cấp xin lệnh. Hắn nhấn mạnh, chắc chắn khẩu phần ăn sẽ được tăng, y tế sẽ được cải thiện, và giờ lao động sẽ được giảm. Bấy giờ nó ra hiệu lệnh, bốn cây đại liên trên lô cốt và súng cá nhân của bọn giặc bao vây bên ngoài cùng lên đạn đồng lúc, rồi gằn giọng : Đội nào chịu đi lao động thì xếp hàng một bước ra cỗng.

Các đội làm theo lời tên Vinh, trừ Đội Trừng Giới.

Sau khi các đội khác đã ra ngoài, cỗng được đóng chặt lại, một cán bộ người miền Nam tên Kiểu đến nói với Đội Trừng Giới “Các anh về phòng đi”.

Anh em tù nhân Đội Trừng Giới về phòng, chuẩn bị đón “cơn bão dữ” sắp chụp xuống.

Nhưng “cơn bão dữ” không đến, Đội Trừng Giới chỉ bị chuyển đến trại tù A, cách trại cũ khoảng 1 cây số rưởi. Nhà tù mới rất “khang trang”, tường xây bằng gạch, cửa sổ có song sắt để bên ngoài dễ dàng quan sát đám tù nhân bên trong, trần gắn lưới B40. Thêm một vòng tường cao bằng bê tông xây baoxung quanh phía ngoài, bên trên có concertina. Giặc Bắc Cộng đề phòng Đội Trừng Giới sẽ sớm nổi loạn. Họ chỉ phải làm lao động bên trong khuôn viên trại và bọn chúng bắt đầu bỏ đói tù nhân, phần ăn mỗi ngày là ba chén mì lát bị hư hơn phân nửa, với một ít nước muối. Thăm nuôi bị cấm hẳn.

Vì vậy những người tù trừng giới chỉ còn cách tự mưu sinh để bảo toàn mạng sống, họ tìm thức ăn mọc hoang trong trại như bông mồng gà, cỏ thỏ; trùng đất được đào lên, làm sạch, trộn chung với mì lát cho vào lon guigo với nước muối, đun sôi. Thế là xong một bữa ăn. Thỉnh thoảng cũng bắt được vài con “tôm bay”, tên phóng đại hóa của cào cào châu chấu, anh em nướng ăn liền tại chỗ. Với tình trạng ăn uống như thời tiền sử thế này, cộng với việc các đội khác bị cấm tiếp xúc với họ, anh em Đội Trừng Giới thấy cái chết đang từ từ hiện tới với mình. Từng người, từng người sẽ “lên đường” hết mà thôi.

Phải tìm cách liên lạc với bên ngoài !

Thiếu úy Danh viết một bức thơ bọc cục đá ném qua khu B vào lúc họ đi lao động phía ngoài trở về. May mắn anh em nhặt được mà không bị bọn cán bộ trại phát giác. Trong thơ, anh yêu cầu anh em khu B khi viết về gia đình của họ, hãy báo cho thân nhân của anh em Đội Trừng Giới là đội đang bị cô lập, bị bỏ đói và cấm thăm nuôi; vậy hãy gởi đồ tiếp tế cho thân nhân anh em khu B mang lên khi thăm nuôi, để nhờ anh em này chuyển lại. Thơ gởi kèm một số địa chỉ của thân nhân anh em Đội Trừng Giới.

Cả đội thấp thỏm chờ đợi.

Khoảng hai tuần sau Đội Trừng Giới nhận được thơ trả lời của anh em khu B, cùng một cách thức. Thơ viết “Hãy chuẩn bị nhận thực phẩm vào ban đêm, từ một tay Việt Cộng võ trang”.

Từ một tay Việt Cộng võ trang ? Đội Trừng Giới vừa mừng, vừa hoang mang, nhưng chẳng lo sợ gì. Đã bị dồn tới nước này, cái chết đã thấy trước mắt thì chỉ còn cách tự tạo cơ may cho mình. Cơ may này đã đến thật, một đêm tên Việt Cộng võ trang đưa qua chấn song một bao muối mè, một bọc đường thẻ, một ít thuốc Xuyên Tâm Liên. Anh ta lại hỏi “Cần gì cứ nói, tôi sẽ giúp”.

Ôi, thật hết sức cám ơn anh em khu B, Thiếu úy Danh biết số đồ tiếp tế vừa rồi là của riêng của anh em khu B giúp cho Đội Trừng Giới. Vì thơ mới gởi qua đó thì đâu thể nhắn tin cho gia đình của anh em Đội Trừng Giới mau vậy. Anh em khu B đã cứu sống Đội Trừng Giới.

Rồi thì đồ tiếp tế của thân nhân Đội Trừng Giới cũng tới, anh em khu B chuyển gấp sang cho Đội Trừng Giới xuyên qua tên Việt Cộng võ trang, dĩ nhiên là phải chi cho hắn ta. Tất cả thực phẩm được chia đều cho anh em trong đội, không phân biệt có nhận được quà của gia đình hay không, thuốc men thì dành cho hết thảy những người đang mang bệnh.

Đội Trừng Giới thoát nạn.

Sau ba tháng đày ải cho chết mà không thấy một người tù nào … chịu chết giùm, bọn giặc Bắc Cộng tháo bỏ lệnh cấm vận và thay đổi quản giáo. Thăm nuôi được cho phép lại, sau khi tên quản giáo mới thuyết phục được Đội Trừng Giới chịu đi lao động. Nghe nói tên này được đào tạo rất bài bản từ trường đào tạo công an miền Bắc, rất thích nói chuyện với tù nhân để tìm hiểu về miền Nam.

Có lần Sư Phụ Lê Ngọc Thạch bị hắn kêu lên tâm sự. Hắn nói gì đó khiến Sư Phụ chịu hết nổi, phán một câu chết dễ như chơi “Cộng Sản toàn nói láo !”. Sư Phụ thuật lại, nó giận tím mặt, nạt “Anh nói phải có chứng minh, nếu không tôi sẽ kỷ luật anh, thật nặng”. Sư Phụ bình tỉnh kể chuyện cho hắn ta nghe : Sách tuyên truyền của các anh viết đề cao anh hùng diệt Mỹ Ngụy rằng trong một cuộc tấn công vào căn cứ Mỹ một du kích bị bắn bể bụng, lòi ruột, vậy mà anh ta ôm cái bụng với ruột đổ ra lòng thòng lết đi năm sáu cây số đến trạm giao liên rồi được cứu sống. Nếu cán bộ bị bắn lòi ruột như vậy, cán bộ lết đi được bao nhiêu cây số ?!

Tên quản giáo … tắt đài. Từ đó về sau hắn không bao giờ … mời Sư Phụ “đàm đạo” nữa.

Lúc này Đội Trừng Giới đã mở mặt trận tâm lý chiến với giặc Bắc Cộng, thay vì chọc quê gây căng thẳng, Sư Phụ khuyến khích anh em nên dùng những lúc cán bộ “nổi máu tâm sự” hãy cố gắng nói cho bọn chúng thấy được sự tự do, ấm no của dân chúng miền Nam. Chính nghĩa của miền Nam sẽ lóe dần ra trong đầu chúng từ đó, không cần tranh luận căng thẳng. Đứa cán bộ nào ngoan cố, sẽ bị … tù nhân cấm vận cà phê sửa, thuốc lá ba số, vv …

“Cách đánh” của Thiếu tá Lê Ngọc Thạch bắt đầu có “ép phê”. Giữa bọn giặc quản giáo và bọn giặc võ trang nảy sinh mâu thuẩn, suýt chút nữa tên quản giáo đã ăn đạn của bọn võ trang, nếu không có sự can thiệp kịp thời của tên y sĩ Việt Cộng tên Tính.

Thiếu úy Danh không ngừng ở đó, anh muốn có được tin tức bên ngoài, cả ngoài nước Việt Nam nữa. Muốn vậy thì phải có đài radio. Trong trại tù giặc Bắc Cộng mà đòi có radio để nghe tin tức còn khó hơn đòi … bóp cổ bác hù. Vậy mà tù nhân Đội Trừng Giới “bóp” được, mới hay, họ hùn tiền “mua tặng” cán bộ một cái radio, mỗi tháng lại chịu đóng “hụi chết” cho chúng, thì các bản tin của BBC, VOA đã tới với họ. Đội Trừng Giới lập hẳn một “ban tuyên huấn trung ương” chuyên phân tích, đánh giá, chọn lọc tin tức rồi cho phổ biến. Món ăn tinh thần này đã củng cố niềm tin những người tù, giúp anh em kéo dài mạng sống cho tới lúc được thả.

Lần đầu Đội Trừng Giới xuất trại tái lao động, sau khi nhận đất xong, Sư Phụ và Thiếu úy Danh nhanh chóng lội xuống mép một hố bom thật lớn, đầy nước mưa. Ở đây, Sư Phụ biểu diễn một màn mưu sinh thoát hiểm, chuyên môn của sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt. Hai người lật từng bụi cỏ khô lên, có nhái, ển ương nhiều vô số kể, hai lon guigo đựng không nhằm nhò gì. Gặp đúng lúc Trung sĩ Nhảy Dù Lê Trọng Huề đang gánh hai thùng nước trờ tới, Sư Phụ trưng dụng luôn một thùng, cả ba ra tay thanh toán chiến lợi phẩm đủ chia cho cả đội. Vì ngoài đám cóc nhái ển ương, Sư Phụ còn “chơi” được thêm gần chục con cá lóc, món “đại bổ” và “đại hẩu xực” đối với tù. Sư Phụ nhìn cái hố bom cười cười với Thiếu úy Danh “Cá dưới đó nhiều lắm, anh sẽ bắt hết để tẩm bổ cho anh em mình”.

Đúng là … sư phụ, Sư Phụ Lê Ngọc Thạch đã dùng cây Sóng Rắn, độc chất mạnh như dây Thuốc Cá, loại này rất nhiều ở những vùng rừng mưa nhiệt đới. Sau khi gom được một bó chừng mười cây Sóng Rắn, Sư Phụ chỉ xuống hố bom nói với tên quản giáo “Cá nhiều lắm, nếu cán bộ cho phép, tôi sẽ bắt hết cá trong hố này cho anh em”. Hắn trố mắt, không tin “Làm sao anh bắt được hết ? Cứ bắt thử đi”. Sư Phụ lại cười, nụ cười vẫn đều đều “hạ gục” những thôn nữ miền Tây, theo lệnh Sư Phụ vài anh em đập dập bó cây Sóng Rắn, bỏ xuống hố bom. Họ dùng cuốc thọc xuống quậy cho mủ cây hòa tan trong nước, sau đó ngồi chờ khoảng mười lăm phút. Tên quản giáo lại trố mắt, lần này lồi to hơn, vì thấy có quá chừng cá lờ đờ nổi lên vì say thuốc. Chiến lợi phẩm thu được chứa đầy hai thùng nước gồm cá lóc, cá trê, rắn nước, vv …

Biết người biết ta trăm trận cùng hưởng, là binh thư của … Bao Tử. Sư Phụ dùng cỏ tranh xâu hai con cá lóc to nhất đưa cho tên quản giáo “Cán bộ đem về nấu cháo, thêm nhiều hành lá vào cảm nặng bao nhiêu cũng giải tuốt”. Quản giáo hỏi dò “Nước có chất độc, cá này ăn được không đây ?”. Sư Phụ lại mỉm nụ cười … chết người “Đừng lo, có gì tụi tôi chết trước mà”. Cá nước chim trời, hết cá Sư Phụ xoay sang chim, khu đất Đội Trừng Giới phụ trách nguyên là một mảng rừng mọc đầy cỏ tranh và có nhiều chim cút, Sư Phụ dùng cỏ tranh làm bẫy thòng lọng đặt dọc theo đường chim đi của chim, mỗi ngày cũng kiếm được vài con … cứu đói.

Năm 1980, ngoài tin tức anh em nghe được từ BBC, VOA, dư luận thế giới đã chú ý đến vấn đề tù nhân chiến tranh ở Việt Nam; lại còn có tin đồn khắp các trại tù là do áp lực quốc tế giặc Bắc Cộng sắp phải thả hết tù nhân chiến tranh mà họ gọi là “cải tạo viên” … được cho đi cải tạo. Trước tiên là tù nhân bị giam ngoài Bắc sẽ được đưa trở lại miền Nam, sau đó tất cả tù nhân sẽ lần lượt được trả tự do. Dù biết rằng tin Việt Cộng chẳng thà tin … rắn, nhưng anh em cũng lên tinh thần, nao nức chờ ngày được gặp lại gia đình.

Diễn tiến xãy ra có vẻ đúng theo tin đồn, số tù nhân có giảm thật. Nhưng ở đâu thì không biết chứ Đội Trừng Giới này thì “quân số” y chang, không giảm đi người nào. Trong vài năm sau tin đồn (1980 – 1984) anh em Đội Trừng Giới còn nuôi chút hy vọng, mong được kêu tên, nhưng điều đó không hề xãy ra.

Việc tổ chức vượt ngục được anh em mang ra toan tính lại. Nhưng bất thần, vào năm 1986 thì giặc thả Thiếu úy Danh cùng vài người nữa cùng Đội Trừng Giới.

Những người tù cuối cùng ra khỏi trại tù Z30A năm 1988 là Sư Phụ Lê Ngọc Thạch, Đại úy Nhảy Dù Đào Minh Phương, anh Lành, anh Bình, vv … Nói riêng về anh Bình, anh chính là người cùng một người Việt gốc Hoa đã trộm 9 thanh TNT từ Biệt Khu Thủ Đô cũ bị giặc Cộng bắt được, chúng tương kế tựu kế dùng người đàn bà đã nói ở một chương trước tiếp tục theo đúng kế hoạch của ta, trao TNT cho anh Lành ở chợ Bà Chiểu rồi đón vây bắt nhóm Thiếu úy Danh cùng nhóm anh Lành ở Ngã Tư Phú Nhuận như đã kể.

*

Năm 1979, sau khi qua Mỹ “báo cáo trước” với thượng cấp siêu cường, Đặng Tiểu Bình xua giặc Tầu Cộng vượt biên giới đánh qua Việt Nam. Nếu chúng ta có một Số Nhà Lớn theo hy vọng của Thiếu úy Danh các tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc nói chung, thì thời cuộc Miền Nam Tự Do biết đâu đã có thay đổi ? Nếu có một Số Nhà Lớn, có thể mưu tính của giặc Bắc Cộng gom sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa vào các trại tù để giết họ bằng cách bỏ đói, biết đâu sẽ trở thành “giáo Tàu đâm chệt” ? Các tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc trong nước tuy đang trong thời kỳ thành lập, lực lượng chưa đủ mạnh để tái chiến trực diện với giặc Bắc Cộng, nhưng có mặt khắp miền Nam dư khả năng tung tin vào các trại tù, cùng kêu gọi anh em nổi loạn cướp súng địch đánh địch. Ngoài nước, lúc đó đã có tổ chức Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam của Kỹ sư Thiếu úy Phi công Lê Quốc Túy đã thật sự có mặt hoạt động trong nước cùng hai tôn giáo Hòa Hảo, Cao Đài; họ có thể đóng vai trò vận động ngoại giao và phương tiện cho cuộc chiến đấu Kháng Chiến Phục Quốc Chống Tầu Xâm Lược. Mặt Trận của anh Tư Túy còn có khả năng in tiền Hồ … trông thật hơn cả tiền hù của chúng. (Có tin đồn rằng sau khi bắt hai anh Trần Văn Bá và Mai Văn Hạnh, giặc tịch thu rất nhiều tiền giả mà sau đó chúng đã mang ra xài luôn như tiền thật vì trông … thật hơn cả tiền thật).

Cũng nên nhớ đến đám cõng rắn cắn gà nhà, cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lúc đó đã bị giặc Bắc Cộng thẳng thừng gạt ra cho chầu rìa, đã biết đá biết vàng với “giặc từ Bắc vô đây bàn tay nhúng máu anh em”, cũng sẽ nhân cơ hội này.

Thật tiếc cho dân chúng miền Nam và cả nước !
Image
Thiếu Tá LLĐB Lê Ngọc Thạch
Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, người Cần Thơ, chính cống nông dân Nam Bộ, tính tình xuề xòa, tốt bụng, ăn nói giản dị, trong đám đông anh cũng đùa giởn cười nói với bạn bè, tuy vậy rất kín miệng đối với những chuyện liên quan đến công việc. Anh Thạch cũng rất ngang tàng, rất “lỳ” rất lẹ và rất bạo khi cần thiết. Có hai anh cái thích nhất : Thích nhậu và thích bắn súng. Tốt nghiệp sĩ quan năm 1961 từ Liên trường Võ khoa Thủ Đức khóa 11, được Tổng thống Ngô Đình Diệm đặt tên là Khóa Đồng Tiến. Trong quân ngũ Thiếu tá Thạch rất được thuộc cấp và bạn bè cùng lứa quý mến, nhưng với thượng cấp … chà, cái này thì phải hỏi lại rồi.

Sau ngày Thiếu tá Thạch mất tại San Jose, California vì tai biến mạch máu não, con trai anh đã trao cho tác giả hai trang giấy do chính tay anh Thạch viết ra những chi tiết như các khóa huấn luyện đã tham dự, các đơn vị và chức vụ, huy chương, thăng thưởng, vv … thuộc quảng đời “làm lính” của anh. Đây có thể coi là di chúc của anh Thạch vì trong đó có câu “Con hỏi tất cả bạn của ba có ai muốn nói vài lời từ giả không (trong tang lễ của anh)”, và “Vĩnh biệt, chào tất cả”. Vậy là anh đã biết trước bệnh hoạn đang mang anh đến rất gần với cái chết. Chuyện khó tin nhưng … có thật, là anh Thạch rất sùng đạo (Tin Lành), anh còn dặn con trai nên tổ chức tang lễ vào ngày thứ Bảy, tiện cho các đồng đạo tham dự, và trong khi Mục sư làm lễ thì hãy đồng ca bản thánh ca “Án Minh Thay Bình An Thay”.

Thiếu tá Lê Ngọc Thạch bắt đầu “làm lính” với “nghề tình báo”. Ra trường, anh tham dự hai khóa huấn luyện chuyên môn : Khóa 1/62 Tình báo Cây Mai, và Khóa 14 Tình báo Mã Lai – Singapore. Rồi được đưa về phục vụ tại Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu, thuộc ban Nghiên cứu Chiến lược. Vốn là người không quen ngồi yên một chỗ, không thích sáng xách dù đi chiều xách dù về, một thời gian ngắn sau anh Thạch xin được thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến, trở thành Đại đội phó Đại đội Thám Báo của Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Nhưng vì ngành chuyên môn của anh là tình báo quân đội (quân báo), Thiếu tá Lê Ngọc Thạch sau đó được bổ nhiệm làm Trưởng ban 2 Trung Đoàn 50, rồi Trung Đoàn 51 với cùng chức vụ, thuộc Sư Đoàn 25.

Từ Trung Đoàn 51 Bộ Binh anh lại được thuyên chuyển sang Lực Lượng Đặc Biệt làm Trưởng Ban 2 Liên Đoàn 77, và anh đã phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt cho đến lúc binh chủng này giải tán vào năm 1970. Đây là thời gian có vẻ như binh nghiệp của anh có chiều hướng thăng tiến, đang là Trưởng Ban 2 Liên Đoàn 77 anh lại được thuyên chuyển nhận chức vụ Trưởng Phòng 2 của C3 (C là đơn vị cao nhất của Lực Lượng Đặc Biệt tại mỗi Quân Khu, C3 thuộc Quân Khu 3). Rồi trở thành Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Mike Force thuộc B23 (Long Hải). Kể từ đây dân “Eo Eo Đi Bi” chỉ còn nhớ đến Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, một sĩ quan chỉ huy tác chiến thay vì sĩ quan quân báo. Anh được gởi đi học các khóa huấn luyện tác chiến : Khóa 11/61 Rừng Núi Sình Lầy (Dục Mỹ), Khóa 34 Nhảy Dù (Trại Hoàng Hoa Thám), Khóa 3 Lực Lượng Đặc Biệt (Động Ba Thìn). Từ Tiểu Đoàn 2 Mike Force, anh lại thuyên chuyển về Vùng 4 làm Phó trại biên phòng Thường Thới (Kiến Phong), rồi Phó trại biên phòng Vĩnh Gia (Châu Đốc). Năm 1970, binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, các trại biên phòng cải tuyển thành các Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng. Trại Vĩnh Gia trở thành Tiểu đoàn 93 Biệt Động Quân Biên Phòng, Thiếu tá Lê Ngọc Thạch từ Trại phó thành Tiểu đoàn phó của tiểu đoàn này. Trước khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị “ám sát” vào tháng Tư 1975, chức vụ cuối cùng của anh Thạch là Trưởng ban 2 Liên đoàn 7 Biệt Động Quân.

Tính tới ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, Thiếu tá Lê Ngọc Thạch đã được tưởng thưởng các huy chương : Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng, 1 Anh Dũng Bội Tinh cấp Quân Đội, 3 Anh Dũng Bội Tinh cấp Quân Đoàn, 4 Anh Dũng Bội Tinh cấp Sư Đoàn, 1 Lục Quân Huân Chương, 2 Chiến Dịch Bội Tinh, và 1 huy chương Hoa Kỳ Commendation With V Device.

Đọc tới đọc lui hai trang giấy viết tay, di bút của anh Thạch, tác giả càng thấm lời dặn “… hãy hát bản thánh ca Án Minh Thay Bình An Thay” trong lúc Mục Sư làm lễ trong tang lễ của anh. Bình an là điều không có đối với lính, lại càng không bình an dữ hơn nữa sau khi bị biến thành lính thất trận, ngoại trừ những anh em đã thoát được ra nước ngoài, nhưng mà những người lính thất trận lưu vong cũng sẽ không có được bình an trong tâm hồn cho đến ngày ra đi vĩnh viễn.

Có lẽ Ông Trời không chịu cho Thiếu tá Lê Ngọc Thạch dễ dàng chấp nhận cuộc thua trận đầy oan ức của quân đội Cộng Hòa, mặc dù sau ngày 30 tháng Tư anh đã trở về với gia đình ở Cần Thơ, chịu cắn răng đi trình diện giặc ở hậu cứ cũ của Trung đoàn 33 Bộ Binh (Trà Nóc). Không hiểu trong đám đông sĩ quan ra trình diện thì khuôn mặt của Thiếu tá Thạch có nét đặc biệt gì mà giặc lại chỉ định anh lên … phát biểu cảm tưởng. Tác giả thì tin rằng bọn giặc “chấm” anh vì anh có khuôn mặt mộc mạc, chất phác (là thiệt vậy, không phải ‘giả nai’). Nhưng vì vậy mà giặc đã chọn … lầm thuốc. Thay vì nói ấm ớ hội tề vài câu “huề vốn” để bảo vệ lấy thân, anh làm một cái rẹt từ nổi đau đớn uất ức của anh, theo lời kể của một Đại úy Địa Phương Quân, đại khái : Tụi tui không thua trận, chưa đánh lấy gì thua, nhưng mà không đánh nữa là vì bị tụi Mỹ cúp viện trợ, súng không đạn còn thua khúc củi trong lúc các anh vẫn tiếp tục được Cộng Sản thế giới viện trợ quá đầy đủ ! Anh còn chơi khó, tiếp tục hỏi rằng vậy từ khi có cái Hiệp định Paris tới giờ, cứ cộng trừ nhơn chia đi, rồi biết ai thắng nhiều trận hơn ai !

Các sĩ quan thất trận ngồi ở dưới xanh mặt, anh bạn mình chắc không qua khỏi đại nạn “thần khẩu hại xác phàm” rồi.

Vào thời điểm đó, các địa điểm trình diện của giặc Bắc Cộng tổ chức an ninh chưa chặt chẻ, cán bộ giặc vẫn còn phải đóng kịch dễ dãi với những sĩ quan thất trận để dụ các sĩ quan khác ra trình diện. Từ trên bục nói chuyện Thiếu tá Lê Ngọc Thạch từ tốn bước xuống, bất chợt xen nhanh vào đám đông rồi … hô biến, mất tăm tích. Anh đã lẫn vào đoàn người cung cấp lương thực trở ra ngoài, thẳng ra bến xe “vọt” về thủ đô Sài Gòn. Liều mà lẹ, hai từ bắt đầu bằng chữ “l” đàng trước chính là thần độ mạng anh.

Một đêm, Thiếu tá Thạch qua Gia Định ngũ ở nhà một người bạn mà anh tin là có nhiều tin tức về những đường dây vào rừng gia nhập Kháng Chiến Phục Quốc. Anh bị giặc bắt lần này thật … vô duyên : Cán bộ giặc đi xét nhà dân ban đêm, tóm được anh một cách tình cờ. Điều may mắn là giặc không biết anh là một Thiếu tá Lực Lượng Đặc Biệt, không biết tên thật của anh, và càng không biết anh vừa vượt thoát khỏi điểm trình diện nằm trong hậu cứ cũ của Trung Đoàn 33 Bộ Binh ở Trà Nóc, Cần Thơ.

Anh Thạch thì nói là sau khi bị bắt giặc giam anh ở Trại 25 Gia Định nhưng thật tình đây là lần đầu tiên tác giả nghe đến trại này. Và anh cũng giở … mánh cũ, lợi dụng an ninh trại còn lõng lẽo anh lại lẫn vào đám người cung cấp thực phẩm cho trại, vọt luôn ra ngoài. Bây giờ anh Thạch nhất định sẽ đi tìm và gia nhập lực lượng Hòa Hảo hầu tiếp tục đánh giặc Bắc Cộng. Nhà ở Cần Thơ, phục vụ một thời gian dài ở hai trại biên phòng ở Kiến Phong, Châu Đốc, anh có nhiều bạn bè ở Long Xuyên; do vậy cũng có nhiều anh em Hòa Hảo “biết tiếng” anh.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Quả thật vậy, xuống tới Long Xuyên thì anh tiếp xúc được ngay với đại diện của Hòa Hảo, khi được cho biết giặc đang rục rịch sắp bao vây tấn công lực lượng Hòa Hảo trú giữ Ô Long Vĩ, quận Châu Phú, thì Thiếu tá Lê Ngọc Thạch tình nguyện vào Ô Long Vĩ lập tức. Dĩ nhiên với tình trạng sắp đụng địch mà được sự tình nguyện của một Thiếu tá Lực Lượng Đặc Biệt thì Hòa Hảo lập tức đưa anh vào ngay nơi trận chiến sắp xảy ra. Trận Ô Long Vĩ phía giặc đưa lực lượng cấp tỉnh vào bao vây trước, sau đó pháo tới tấp rồi tấn công vào cù lao do Hòa Hảo đang trấn thủ. Ít quân hơn, vũ khí ít hơn cũng không tối tân bằng, nhưng các Kháng Chiến Phục Quốc Quân Hòa Hảo đã đánh một trận ngang ngữa với giặc, khiến con số tử thương của giặc rất cao, mặc dù cứ điểm của lực lượng Hòa Hảo tại đây tan rả. Năm 1975 hai tỉnh An Giang và Châu Đốc dư luận vang rền về trận Ô Long Vĩ. Thiếu tá Lê Ngọc Thạch thoát khỏi Ô Long Vĩ, nhưng trên đường trở ra Long Xuyên thì bị giặc bắt một lần nữa. Tất nhiên là anh chỉ khai anh là … nông dân Nam bộ chạy loạn. Với gương mặt khá phù hợp với lời khai nên địch cũng … tạm tin, nhưng vì chỉ là tin tàm tạm thôi nên địch vẫn tống anh vào nhà tù Long Xuyên, thân tặng thêm chiếc cùm khóa hai chân anh lại. Lần này thì khó hơn hai lần trước rồi, nhưng rồi Thiếu tá Thạch vẫn vượt ngục được lần thứ ba. Thoát được ra ngoài với hai chân vẫn còn bị cùm, anh giả vờ là dân nhậu đang say xỉn, nghiêng qua ngã lại ở trần lên xe lôi, cái áo dùng phủ kín chiếc cùm dưới chân. Anh về nhà mấy anh em Biệt Kích Quân của trại biên phòng Vĩnh Gia hồi trước, các tay chơi này dùng đủ thứ búa, rìu, đục, nện rầm rầm một hồi thì chiếc cùm chân đứt bung ra, họ mang nó liệng xuống mương bên hông nhà mà không ngờ chiếc cùm nằm dưới mương là tai họa cho họ mấy ngày sau. Phần Thiếu tá Thạch thì lập tức đi tìm ông đại diện Hòa Hảo, báo tin anh … còn sống. Ông đại diện lật đật dẫn anh đi gặp một thẩm quyền Hòa Hảo cao hơn, ông thẩm quyền vội vã tổ chức đưa anh vào vùng Thất Sơn, trấn thủ chân phía Bắc của núi Giài. Đây có thể coi là “sân nhà” của Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, nơi cách không xa trại biên phòng Vĩnh Gia nằm ở hướng Tây Bắc, là vùng hồi trước 75 Thiếu tá Thạch hàng đêm rãi Biệt Kích Quân nằm phục kích theo dõi những đoàn xâm nhập của giặc Bắc Cộng từ Miên vượt sang rồi gọi cho các đơn vị lớn hơn đổ tới thanh toán. Thiếu tá Thạch có khoảng 40 Kháng Chiến Phục Quốc Quân, nhưng vũ khí thì không đầy đủ do tình trạng Tổng Đoàn Bảo An Hòa Hảo của ông Lê Chơn Tình (anh kết nghĩa của anh Tư Lê Quốc Túy, Chủ tịch Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam) đã bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tịch thu hết súng ống đạn dược trước tháng Tư. Một điều kẹt nữa là Hòa Hảo cho Thiếu tá Thạch biết trong trường hợp bị giặc vây đánh thì anh chỉ được rút lui tới chân núi Giài là giới hạn cuối cùng vì ở trong núi có một lực lượng lớn của Hòa Hảo đang trú đóng. Điều này khiến Thiếu úy Danh khi được Thiếu tá Thạch đưa vào đây đã nhận định rằng trước sau gì mật khu này cũng phải tan rã và thiệt hại nặng trong trường hợp bị giặc tiến đánh với một lực lượng đông đảo có khả năng vây chận nhiều mặt. Thiếu tá Thạch nghe lời khuyên của Thiếu úy Danh đã giải tán mật khu dời anh em đi nơi khác ngay trong đêm mà tờ mờ sáng hôm sau thì giặc Bắc Cộng tiến đánh vào núi Giài, như độc giả đã đọc ở chương 6.

Cuối cùng cả Thiếu tá Thạch lẫn Thiếu úy Danh đều về thủ đô Sài Gòn, từ đó anh Danh trở vào rừng Long Khánh tiếp tục công việc với các Kháng Chiến Phục Quốc Quân gốc Biệt Cách 81, Biệt Động Quân, Sư Đoàn 18, và Địa Phương Quân Long Khánh, còn anh Thạch thì được Hòa Hảo đưa lên núi Đông Sơn (Bà Rịa) chỉ huy mật khu Mây Tàu gồm những Kháng Chiến Phục Quốc Quân gốc Hòa Hảo cùng đủ thành phần từ quân nhân, công chức, cho đến dân sự. Chọn Thiếu tá Thạch chỉ huy mật khu Mây Tàu thì Hòa Hảo đã chọn đúng người vì anh Thạch từng là Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Mike Force ở Long Hải. Nhưng điều nan giải cho Thiếu tá Lê Ngọc Thạch là thiếu thốn vũ khí, đạn được; không có đủ những thứ này thì mật khu Mây Tàu chỉ như là một nơi ẩn trú của những người không chấp nhận hay không thể sống chung với đám giặc Bắc Cộng được. Vì thế, cũng như những tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc khác, Thiếu tá Thạch chọn phương cách gây tổn thất và tạo thành nổi sợ hải cho phía giặc bằng cách tổ chức ám sát cán bộ địa phương. Ngoài Thiếu tá Lê Ngọc Thạch từ đỉnh núi Đông Sơn hạ san cùng những tay bắn tỉa, xung quanh vùng này còn có những căn cứ Kháng Chiến do các Linh Mục tổ chức, đặc biệt là ngay tại xứ đạo Chu Hải được tiếng đồn là có rất nhiều Kháng Chiến Phục Quốc Quân ẩn náo hoạt động. Theo một “cựu chuyên viên tổ chức vượt biển” tên Liêm có mặt ở Bà Rịa, Vũng Tàu vào thời đó, hiện đang cư ngụ tại San Jose, California, thì dân chúng địa phương mừng rỡ ra mặt mỗi khi có tin cán bộ giặc bị “phe ta” bắn hạ. Họ tin rằng các tổ chức “phe ta” (Kháng Chiến Phục Quốc) có chung “tiêu diệt bảng” là một danh sách cán bộ giặc buộc phải cho … đi theo bác hù, vì những hành động dã man tàn ác của chúng đối với dân Bà Rịa, Vũng Tàu. Chỉ có một nhân vật Kháng Chiến Phục Quốc được mệnh danh là Hung Thần, với tài thiện xạ bách phát bách trúng, thì được dân chúng địa phương đồn đãi cả tên lẫn cấp bậc là Đại úy Khôi, thuộc Lực Lượng Đặc Biệt.

Vụ bắn chết Mười Tốt, bí thư huyện Châu Thành, Bà Rịa, là ồn ào nhất. Hắn ta bị bắn tỉa, gục chết giữa ban ngày trong lúc đi dự đám ma trong nghĩa địa chôn bộ đội, cán bộ giặc. Bắn tỉa từ xa. Anh Liêm kể, tuy vậy, chưa khiến giặc Bắc Cộng hoảng sợ bằng việc hai Kháng Chiến Phục Quốc Quân lợi dụng trời đang mưa lái xe Honda 67 tiến thẳng vào đồn công an xã Phước Hòa tàn sát không còn một mống giặc bên trong. Không lâu sau, một Trưởng ấp của giặc bị Hung Thần lẻn vào nhà riêng vào ban đêm tộng cho tên này “cả rổ đạn” (nguyên văn của anh Liêm) ngay trên giường ngũ. Và còn nhiều vụ nữa anh không biết vì không phải là dân địa phương, chỉ được nghe kể lại nhờ được … ở tù về tội tổ chức vượt biển tại đây.

Tác giả và Thiếu úy Danh biết Đại úy Khôi tức Hung Thần chính là bí danh của Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, vì vào thời điểm đó thì nhà của gia đình anh Thạch ở Cần Thơ đang bị giặc theo dõi liên tục sau vụ anh Thạch vượt ngục Long Xuyên (trận Ô Long Vĩ), chắc chắn anh phải dấu kín lý lịch thật trong lúc hoạt động để tránh họa cho gia đình. Và ngoài tài thiện xạ, anh Thạch còn là một sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt “liều nhưng rất lẹ” rất phù hợp với cách “xử lý” các cán bộ giặc vừa kể trên. Sở dĩ tác giả và Thiếu úy Danh không hỏi thẳng được với Thiếu tá Lê Ngọc Thạch những việc này vì đến khi anh Thạch qua đời thì hai chúng tôi chưa từng nghe đến vụ Hung Thần để hỏi anh. Và chỉ biết khi gặp anh Liêm về sau này. Bản chất của anh Thạch, biết mà hỏi còn chưa chắc được anh kể cho nghe, huống chi không biết không hỏi thì dĩ nhiên là … huề trất.

Vào cuối năm 1976 bọn giặc Bắc Cộng mở cuộc hành quân cấp quân khu truy diệt Kháng Chiến Phục Quốc Quân ở Long Khánh và các vùng xung quanh như độc giả đã được biết ở một chương trước. Giặc bắt đầu pháo tập trung lên đỉnh núi Đông Sơn, pháo thật rát giữa đêm khuya, đến tờ mờ sáng thì một Tiểu Đoàn giặc Bắc Cộng có trực thăng yễm trợ xung phong lên núi. Với kinh nghiệm tác chiến của một sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt, Thiếu tá Lê Ngọc Thạch biết rằng sau “tiền pháo” thì sẽ đến “hậu xung”, mà “hậu xung” đây là cả một tiểu đoàn của giặc Bắc Cộng, anh đã ra lệnh cho các Kháng Chiến Phục Quốc Quân tan hàng dưới mưa pháo trước khi giặc xung phong để bảo toàn lực lượng. Trước khi chia tay, Thiếu tá Thạch đã cho anh em địa chỉ liên lạc lại với anh tại thủ đô Sài Gòn, và chính điều này đã khiến anh bị giặc bắt, bị giặc bỏ tù 13 năm : Anh đã bị phản bội, bị một anh em của mình trao lại cho giặc địa chỉ liên lạc anh đã cho. “Người đó” là ai, Thiếu tá Thạch chưa từng hé lộ ra. Lý do ? Tác giả tin là mình hiểu được tấm lòng nhân hậu của anh Thạch, có thể anh thông cảm là rủi ra “người đó” đã bị giặc bắt, bị tra khảo dã man chịu không nổi đành khai ra địa chỉ anh cho. Anh muốn giữ cho “người đó” có cơ hội “làm lại cuộc đời”.

Nhân hậu sao ? Một người đã được mệnh danh là Hung Thần đối với cán bộ giặc Bắc Cộng qua rất nhiều vụ bắn sẻ không trật phát nào trong vùng Bà Rịa, Vũng Tàu mà nhân hậu à ?

Vâng, “Hung Thần Nhân Hậu” đó chính là Thiếu tá Lê Ngọc Thạch, một sĩ quan thiện xạ nghiện bắn súng, có bộ sưu tập súng rất giá trị trước tháng Tư 1975. Nhân hậu thì cũng tùy đối tượng thôi, nhân hậu ngay với cả những anh em lầm đường lạc lối để cho họ có cơ hội sửa chửa lại lỗi lầm, nhưng nhân hậu đối với đám cán bộ giặc Bắc Cộng đang thừa thắng làm trời, làm mưu làm gió hành hạ đọa đày dân chúng địa phương vô tội thì chỉ là … nhân hậu dổm ! Tác giả nghĩ vậy. Chính nhờ những phát súng không hề trật phát nào của Thiếu tá Thạch mà dân chúng địa phương Bà Rịa, Vũng Tàu mới được đỡ khổ hơn vì giặc do sợ hải mà chùn tay bớt.

Hơn nữa, trong hoàn cảnh Kháng Chiến Phục Quốc không đủ súng đạn để đánh trực diện với giặc, thì vác súng xuống núi bắn tỉa cán bộ giặc Bắc Cộng cũng là một cách “hành quân” của Thiếu tá Lê Ngọc Thạch. Trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt ai mà không biết anh Thạch mê súng, mê bắn súng, và bắn rất giỏi. Ngày trước vụ mê bắn súng của anh đã làm các cấp chỉ huy anh phiền lòng không ít, nhưng sau tháng Tư 75 thì nó trở thành hữu ích vô cùng.

Nhớ anh quá, anh Thạch ơi, thôi, hãy sống bình an trong thế giới mới đi nghe, cha nội.

Image
Bà Rịa – Vũng Tàu trước 1975.
Tác giả có dịp đọc bài ký ức những ngày tháng của Sài Gòn tiếp sau ngày 20 tháng Tư 1975 từ một chứng nhân gốc trí thức Sài Gòn . Có đoạn ông kể lại chuyện một người lính Việt Nam Cộng Hòa chắp tay đi trước, theo sau là một bộ đội giặc tay lăm lăm khẩu súng, trong ngày “sập trời” này. Ông đưa ra kết luận rằng lúc đó lính Việt Nam Cộng Hòa chỉ có 3 lựa chọn : di tản ra nước ngoài, nhẫn nhục đi “học tập cải tạo”, hoặc tìm đến cái chết.

Đưa ra 3 lựa chọn trên chỉ mới là phân nửa, ông đã quên còn có 3 lựa chọn khác mà người lính có thể chọn :

- Rút vào rừng tiếp tục chiến đấu.

- Che dấu tung tích cũ, sống lẫn trong dân ở các thành phố để hoạt động chống giặc.

- Biến thành “cán bộ 30”, làm gián điệp cho giặc.

Rất may, đã có những quân nhân như Thiếu úy Danh và anh em Biệt Cách 81, Thiếu tá Lê Ngọc Thạch và tín đồ Hòa Hảo, Trung sĩ Bình (Biệt Động Quân), Thiếu úy Tính và anh em Địa Phương Quân Long Khánh, và còn rất nhiều nhóm quân nhân thuộc các binh chủng khác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chọn cách rút vào rừng tiếp tục chiến đấu, hoặc như Thượng sĩ Kim và nhóm anh em thuộc Sư Đoàn 18 lẫn vào trong dân chúng Long Khánh để hỗ trợ cho anh em trong rừng. Nhưng cũng rất buồn, vì số quân nhân này quá là thiểu số so với một quân đội có cả triệu quân, lại không có những sĩ quan cao cấp hay nổi tiếng trong quân đội tham dự.

Và cũng rất may, con số quân nhân chấp nhận trở thành “cán bộ 30”, gián điệp cho giặc, lại là một con số nhỏ đến không đáng kể (tuy vậy cũng đã làm khổ dân chúng Việt Nam Cộng Hòa và các tổ chức Kháng Chiến Phục Quốc trong và ngoài nước không ít).

Nhưng về phần dân chúng thì sao ? Họ có chống đối lại giặc Bắc Cộng hay không ?

Những cuộc biểu tình rầm rộ chống chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vẫn thường xuyên xảy ra trong cả hai thời Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, nhưng không xảy trong những năm đầu dưới ách Cộng Sản. Điều này không khó hiểu, kinh qua cuộc chiến kéo dài hai thập niên thì họ đã có kinh nghiệm về sự tàn ác của Cộng Sản, vì vậy khi cuộc chiến đang diễn ra dân miền Nam luôn luôn bỏ nhà cửa chạy theo những cuộc rút quân của Việt Nam Cộng Hòa. Người dân từ lâu đã biết mình không thể sống chung với đám giặc Bắc Cộng tàn ác. Biểu tình chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, người biểu tình bị nặng lắm cũng chỉ là “ăn” dùi cui, “ngửi” lựu đạn cay, lãnh án ngồi tù không lâu rồi cũng được thả. Nhưng biểu tình chống nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng thì chắc chắn “ăn” đạn chết liền hoặc vào trại tù tập trung chết dần. Giặc Bắc Cộng chuyên dùng sự sợ hãi của dân chúng để cai trị, không gieo sự sợ hải lên người dân để cai trị thì không phải là Cộng Sản ! Bác hù là chuyên viên thượng thừa về ngón đòn này, nhưng đồng thời bác hù cũng là một kịch sĩ đại tài, vua đổ thừa trút tội lỗi lên đầu bọn đàn em. Vụ Cải Cách Ruộng Đất dã man, vô nhân đến độ khó tưởng tượng nên chính bác hù phải thượng đài cố ì è rặn ra vài ba giọt nước mắt (nước đái con thằn lằn), hậu quả của Cải Cách Ruộng Đất về nhân mạng, tinh thần, và vật chất vô cùng nặng nề, nhưng dân chúng miền Bắc vẫn cúi đầu cam chịu.

Dân miền Nam những ngày tháng tiếp sau 30 tháng Tư 1975 không rầm rộ chống đối công khai nhưng không có nghĩa là không chống đối.

Đầu tiên là cả triệu người dân miền Nam vượt biển tìm tự do, bất kể tin tức bị cướp bị giết ngoài biển khơi càng lúc càng nhiều. Báo Việt ngữ bên ngoài Việt Nam và một số báo chí ngoại quốc thời đó đã lên tiếng rằng đây là một cuộc bỏ phiếu bằng chân của dân chúng Việt Nam Cộng Hòa !

Người không đủ phương tiện bỏ nước ra đi thì thoạt tiên chọn thứ vũ khí chống đối nghe rất … hiền lành : Tin đồn.

Tin đồn ngay lập tức đảm nhận công việc của Bộ Thông Tin và Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị của Việt Nam Cộng Hòa vừa sụp đổ, lại có hiệu năng gấp nhiều lần hơn. Nó cũng thay thế cho toàn bộ báo chí miền Nam đã bị “cách mạng phỏng giày” đóng cửa vĩnh viễn. Tin đồn được cả dân miền Nam và giặc Bắc Cộng gọi là … Radio Catinat. Hoạt động đều đặn hai mươi bốn giờ mỗi ngày, không nghĩ ngày nào, không cần một xu lương bổng.

Gọi là tin đồn nhưng những tin đồn đa số đều dựa vào điều có thật, những “phóng viên nhân dân” dựa vào đó mà “phóng” thêm chút nữa cho hợp với hy vọng của … thính giả toàn miền Nam. Rồi lại tới phiên “thính giả nhân dân” hăng hái phổ biến tin đồn với tốc độ cao nhất.

Khi có hai tên giặc Bắc Cộng bị Kháng Chiến Quân Phục Quốc xử tử nằm phơi thây trên lề đường trước rạp chiếu bóng Mini Rex, tin đồn cho biết thêm mỗi tên bị ghim vào ngực một bản án tử hình trong đó lên án “cách mạng phỏng giày”. Theo nhân chứng nói trên, chính Ngô Bá Thành, một “chuyên viên nhảy xếch xi sô trên đường phố” miền Nam trước tháng Tư 75 chống chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, đã “thành thật cung khai” rằng Radio Catinat là một lực lượng đáng kể ở “thành phố Hồ Chí Minh”, nó vượt qua dễ dàng những phương tiện truyền thông chính thức của “chúng tôi”. Kể ra thì đấy là một lần hiếm hoi bà Thành nói đúng sự thật, nhưng xử dụng hai chữ “chúng tôi” là bà ta đã ngây thơ cụ thấy sang bắt quàng làm họ. Có thể tưởng tượng đến những cái môi trề, những nụ cười mỉa mai của đám giặc gộc ở Bắc Bộ Phủ khi nghe được vụ bắt quàng làm họ của bà già nhảy sô lộn chỗ này.

Tin đồn càng nhiều, Kháng Chiến Quân Phục Quốc lại càng ra tay bạo hơn, nhiều hơn. Chỉ trong một ngày cuối tháng Sáu 1975, bốn bộ đội giặc Cộng canh gác Thư viện Quốc gia bị hạ sát, để trả đủa giặc đã bắn chết hai thường dân chỡ nhau trên xe gắn máy trước cỗng Tòa Lãnh sự Pháp vào buổi trưa, và vậy thì vào buổi tối ba tên giặc Cộng bị bắn hạ ở góc đường Phan Đình Phùng, Phan Thanh Giản. Trong ngày dân Sài Gòn lại còn được nghe nhiều tiếng nổ lớn ở hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Tin đồn nhanh và xa hơn mọi ngày. Một ngày bận rộn cho các “phóng viên nhân dân” và “thính giả nhân dân”.

Để giải quyết vụ tin đồn, nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng cho phép xuất bản một tờ báo mạo danh Công Giáo do Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích và Trần Bá Cường chủ trương. Nhưng dân chúng miền Nam rất nhạy cảm, dù là tín đồ Công giáo hay không, mọi người đều lắc đầu với tờ “Công Giáo Và Dân Tộc”. Chính Linh mục Nguyễn Minh Nhật, đứng đầu Hội đồng Giám Mục Việt Nam thời đó đã tuyên bố với báo nước ngoài : Tín đồ Công giáo không tin tưởng tờ “Công Giáo Và Dân Tộc” và Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo !

Hai tháng sau, lại thêm một tờ báo thứ nhì được nhà cầm quyền Bắc Cộng cắn răng chấp thuận cho xuất bản, tờ báo mang tên “Tin Sáng” do một số “thợ quậy” thời Việt Nam Cộng Hòa chủ trương. Những bộ mặt bị dân chán chúng chê như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, vv … chủ trương. Nhưng đến 1980 thì tờ báo này “được” nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng “cám ơn” vì nó đã cho thấy nó chẳng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ so với tin đồn. Nó bèn được mời đi chỗ khác chơi cho đỡ rách việc Cộng Sản.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Tết 1976, cái Tết đầu tiên sau ngày miền Nam bị giặc Bắc Cộng “phỏng giày”, chỉ có vài tiếng pháo nổ lẹt đẹt, thay vào đó là một chuỗi tiếng nổ lớn và những cột khói đen bốc lên từ hướng Biên Hòa. Tin đồn ở Sài Gòn : Kho đạn Long Bình bị đặt chất nổ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã trở lại rồi !

Tin này trùng hợp với hoạt động của nhóm quân nhân Việt Nam Cộng Hòa từng làm việc trực tiếp với quân đội Mỹ, như đã trình bày ở một đoạn trước. Nhưng “quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã trở lại rồi” thì là tin đồn. Chẳng qua trong lòng người dân miền Nam, đó là niềm hy vọng lớn nhất.

Nếu ở ngoài nước Mặt Trận của anh Tư Lê Quốc Túy đã kết hợp được với Hòa Hảo và Cao Đài, thì một số tu sĩ những tôn giáo khác ở miền Nam cũng không chấp nhận ngồi yên chịu đựng. Cuối năm 1976 nổ ra vụ Nhà Thờ Vinh Sơn với Linh mục Nguyễn Quang Minh. Bấy giờ thì giặc Bắc Cộng giở thủ đoạn chụp mũ và cũng xử dụng … tin đồn : Linh mục “giáo gian” Nguyễn Quang Minh và những “ổ phản cách mạng” tại các khu Công giáo ở Tân Hiệp, Biên Hòa (giặc nhắm tới Linh mục Nguyễn Văn Vàng) được Mỹ trang bị đầy đủ vũ khí, điện đài phát tuyến để … chống phá “cách mạng”.

Tin đồn của giặc Bắc Cộng trở thành gậy mầy đập lưng mầy, thay vì căm ghét “bọn phản cách mạng” dân miền Nam lại càng tôn sùng họ hơn !

Linh mục Nguyễn Quang Minh bị giặc xử tử, Linh mục Nguyễn Văn Vàng sau này bị bắt, bị giặc giam chung thân, chết trong tù.

Đến năm 1998 Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ bị giặc kết án tử hình, sau được giảm xuống 20 năm tù khổ sai nhờ sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc. Thượng tọa Thích Trí Siêu và Ni sư Trí Hải cùng 30 người trong nhóm cũng bị bắt bị kết án tử hình, theo “tòa nón cối” thì họ “làm phản có vũ trang”, nhưng sau cùng giảm thành án chung thân.

Khởi đầu bằng những nhóm quân nhân rút vào rừng cùng những nhóm quân nhân khác hoạt động ngay trong lòng thủ đô Sài Gòn và các tỉnh miền Nam. Dân chúng địa phương kế cận rừng núi hỗ trợ cho Kháng Chiến Phục Quốc Quân lương thực, thuốc men, … Dân thành phố thì hỗ trợ họ bằng … tin đồn, nhưng vô cùng hiệu quả. Rồi đến các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo cũng đành phải chọn phương cách bạo lực để chống lại bạo lực từ giặc Bắc Cộng. Vậy giới văn nghệ sĩ miền Nam thì sao ?

Vào tháng Tư đen thứ nhì (1976), Tháp Con Rùa trên “đường Duy Tân cây dài bóng mát” bị nổ tung, sau đó thì hơn 200 văn nghệ sĩ đã bị lùa vào tù. Nửa tháng sau, tức vẫn còn trong tháng Tư đen, nhân lúc cán bộ giặc được cho đi coi chiếu phim miễn phí mừng “ngày cách mạng thành công”, Kháng Chiến Phục Quốc Quân đặt bom khiến 20 tên giặc Bắc Cộng đi theo bác hù, hơn 80 tên khác bị thương. Tròm trèm cả trăm mạng. Rạp hát Đại Nam kế cận cũng được cho “nhai kẹo chewing gum” … plastic, giặc chết và bị thương thêm một mớ nữa.

Dĩ nhiên tin đồn rầm rộ với … tin mừng : Quân Việt Nam Cộng Hòa “tặng quà hậu hĩ” cho giặc Bắc Cộng vào đúng ngày miền Nam bị “phỏng giày” năm trước.

Với đà hủ hóa siêu tốc của cán bộ, bộ đội giặc Bắc Cộng, tin đồn ngày càng chính xác hơn. Mãi cho đến năm 1985, mười năm sau ngày thủ đô Sài Gòn thất thủ tin đồn vẫn sống dai sống dài sống mạnh giỏi, đến nổi tờ Tuổi Trẻ số ra ngày 12 tháng Chín 1985 đã có bài đòi thanh toán “thằng địch tin đồn” với câu “Với sự tăng cường hiệu lực của bộ máy chuyên chính vô sản, mọi hậu quả tin đồn phải được thanh toán triệt để”.

Đây là tin đồn về việc giặc Bắc Cộng một lần nữa tổ chức cướp ngày tiền bạc của dân chúng miền Nam bằng vụ đổi tiền lần thứ ba từ sau tháng Tư 1975. Té ra đây là tin đồn không thất thiệt ! Hai ngày sau, 14 tháng Tư 1985, toàn hệ thống truyền thông của giặc đồng loạt loan tin đổi tiền vào ngày này. Nó đã biến tờ Tuổi Trẻ thành … phản động, dám đá giò lái nhà cầm quyền. Vì thanh toán triệt để hậu quả tin đồn này đồng nghĩa với triệt để thanh toán hậu quả việc đổi tiền, cũng có nghĩa là thanh toán triệt để thành phần đã tạo ra hậu quả qua vụ đổi tiền này. Vì :

Giả sử như nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng in ra lượng tiền mới ngang bằng tổng giá trị của tiền cũ, thì khi cho đổi 10 đồng cũ “ăn” 1 đồng mới, người dân mất toi đi 9 đồng. Đây chỉ là một thí dụ … lẻ tẻ. Nếu nhân lên, chẳng hạn như đổi được 1,000,000 đồng thì dân sẽ mất toi 900,000 đồng. Tiền gởi ngân hàng lại thảm hơn nữa, vì ngoài việc bị giới hạn mức tiền cũ được phép cho đổi thành tiền mới, số tiền cũ “thặng dư” lại “được” ngân hàng giặc “giữ giùm”.

Đổi tiền chính là phương cách của Bắc bộ phủ nhằm san bằng khoảng cách giàu – nghèo giữa hai miền Nam – Bắc. Nó … công bình lắm. Nó sẽ khiến cho cả nước … cùng nghèo như nhau. Dĩ nhiên giặc chẳng bao giờ dám nhìn nhận đấy là ý đồ đen tối của họ, cũng như đảng và nhà cầm quyền giặc vẫn phải ngậm miệng không thể nào trả lời câu hỏi : Vì sao từ sau tháng Tư 1975 cho đến hiện tại dân miền Nam đã không lũ lượt kéo nhau ra sinh sống ở miền Bắc để hưởng thành quả kinh tế của đảng Cộng Sản, mà ngược lại thì dân miền Bắc đã ồ ạt di Nam mong hưởng muộn “phồn vinh giả tạo” ?

Nhà cầm quyền giặc phải giở thủ đoạn đổi tiền nhằm giải quyết các vấn nạn chính họ gây ra. Lạm phát, đồng tiền mất giá nhanh theo tốc độ máy bay phản lực so với giá vàng, đô la, và hàng hóa. Nợ công, trong thời gian này thì nhà cầm quyền giặc đang còn bị cả thế giới cô lập, không mượn được bao nhiêu tiền, nợ công không nhiều như hiện nay, nhưng tiền mặt trong tay không đủ trả lương cho bộ máy đảng và nhà cầm quyền (tuy hai mà một), đây là mầm loạn. Phải đổi tiền để cướp tiền dân mà xoay sở !

Như đã nói trên, lần đổi tiền ngày 14 tháng Chín 1985 giặc định giá 10 đồng cũ (cũng là tiền mới qua lần đổi tiền thứ nhì ngày 6 tháng Sáu 1975) “ăn” 1 đồng … mới nhất. Mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa 20,000 đồng cũ lấy 2,000 đồng mới. Độc thân được đổi tối đa 15,000 đồng cũ. Đổi được tối đa 50,000 tiền cũ dành cho các cơ sở kinh doanh công thương nghiệp.

Đổi tiền với ý đồ đen tối thì cách thức loan báo các vụ đổi tiền cũng phải đen thủi đen thui thôi : Lần loan báo tin đầu tiên xảy ra vào lúc … 4 giờ sáng của ngày đổi tiền. Lại ra thêm lệnh kéo dài giờ giới nghiêm, thay vì hết giới nghiêm vào 5 giờ sáng như thường lệ giặc kéo dài đến 11 giờ trưa trong ngày đổi tiền, và cuộc đổi tiền phải chấm dứt vào lúc 11 giờ đêm cùng ngày. Như vậy dân chúng chỉ có đúng 12 tiếng đồng hồ để tránh mất sạch 100% số tiền mặt đang có trong tay. Chịu khó chen lấn đổi tiền thì dân sẽ chỉ mất có … 90% thôi.

Sở dĩ nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng loan tin đổi tiền bất ngờ và hạn chế thời gian đổi tiền chỉ 12 tiếng đồng hồ là vì muốn cho dân chúng không có thì giờ để chuẩn bị thì số tiền cướp được sẽ nhiều hơn. Họ tính đúng, nhưng dân miền Nam lại tính đúng hơn nữa. Tin đổi tiền tại sao dân biết trước được nếu không từ bọn đảng viên cán bộ đảng ta cho hay ? Nắm được quyền cai trị, đám đảng viên cán bộ hủ hóa rất nhanh, tham nhũng – hối lộ - hoặc cướp trắng trợn tài sản của dân miền Nam cũng nhanh không kém. Chúng giàu lên cấp kỳ nên chính chúng cũng sợ đổi tiền như người dân thôi. Dân làm sao mà không biết được nỗi sợ mất tiền của chúng, do vậy bèn đưa ra … “kế hoạch hợp tác”, đảng viên và cán bộ thuồn tiền ra cho những người dân không có đủ số tiền mà đảng và nhà cầm quyền giặc giới hạn được đổi. Đổi xong thì chia chác theo phần trăm mà hai bên đã thỏa thuận trước. Nhưng cũng có khá đông dân miền Nam … chơi cái tình xù, cho đảng viên cán bộ giặc Cộng trơ mõm, uất tới thấy bác luôn !

Tác giả có dịp nói chuyện nói với một người bạn qua Mỹ chừng mười năm về chuyện này (anh theo đạo Công giáo), anh tuyên bố chắc nịch :

- Giựt tiền Việt Cộng thì không có tội !

Qua những vụ cướp ngày bằng hình thức đổi tiền, đảng và nhà cầm quyền giặc cướp được từ dân chúng những số tiền rất lớn nuôi mập đám đảng viên cán bộ Cộng Sản để mua sự trung thành, cũng như đút túi riêng đám chóp bu.

Cá mập đớp theo kiểu của cá mập, lòng tong đớp theo lòng tong; trò trống này kéo dài cho đến hiện tại chẳng những không giảm mà còn tăng bạo, rất bạo.

Đày đi vùng kinh tế mới cũng là một thủ đoạn ăn cướp ngày.

Chính sách Kinh Tế Mới không phải là sáng kiến của giặc Bắc Cộng, chính thủ đoạn xuyên qua chính sách này mới là sáng kiến riêng của đảng và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam. Trong thời gian từ 1971 đến 1990, nước láng giềng của Việt Nam ở Đông Nam Á là Malaysia cũng đã thực hiện chính sách Kinh Tế Mới dưới thời Thủ tướng Razak mà họ gọi là New Economic Policy, nhưng mọi chuyện đã diễn ra một cách êm ả, hợp lý, trái hẳn với Việt Nam vừa lọt trọn vào bàn tay máu của giặc Cộng.

Ngay cả nước Mỹ sau thời kỳ Đại Khủng Hoảng (Great Depression) cũng có chính sách Kinh Tế Mới (New Deal) trong thời Tổng thống Roosevelt nhằm phục hồi lại kinh tế Mỹ (1933 – 1936). Cốt lõi của chính sách Kinh Tế Mới là dãn dân thành phố về các vùng bên ngoài có tiềm năng kinh tế nhưng chưa có cơ hội phát triển. Nó giúp tạo cơ hội cho thành phần dân thành thị nghèo khổ, thất nghiệp, vv … có cơ hội vươn lên, các địa phương được chọn để thành lập những vùng kinh tế mới cũng vậy. Nhưng với Việt Nam trong bàn tay máu của đảng Cộng Sản thì khác, đây là cơ hội của đảng nhằm đuổi những thành phần bị họ cho là phản động ở thủ đô Sài Gòn và các thành phố miền Nam tới những vùng chó ăn đá gà ăn muối, tiện dịp cướp luôn nhà cửa, đất đai những gia đình hay cá nhân bị đuổi đi. Hãy đọc những lời phát biểu hoa mỹ nhưng sặc mùi thù hằn của Lê Duẫn sau đây :

“ … Ở miền Nam những người trước đây nhờ chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ mà có một mức sống vật chất vượt xa khả năng của nền kinh tế trong nước và kết quả lao động của bản thân họ, nên hiểu rằng đó là cuộc sống phồn vinh giả tạo, đổi bằng đau khổ, chết chóc của hàng triệu đồng bào, bằng sự triệt phá biết bao xóm làng, trị trấn, bằng sự sa đọa của biết bao thanh niên, bằng sự chà đạp nhân phẩm của biết bao phụ nữ ở các vùng bị tạm chiếm, và bằng nhục mất nước. Họ nên hiểu rằng lối sống chạy theo những nhu cầu giả tạo theo kiểu ‘xã hội tiêu thụ’, đua đòi theo những thị hiếu tầm thường, hoàn toàn trái với cuộc sống hạnh phúc văn minh chân chính. Những đồng bào ấy ngày nay có thể và cần trở lại với thực tế, trở về với cuộc sống của dân tộc, sống bằng kết quả lao động của mình. Đó là con đường để tiến tới một cuộc đời tươi vui, đẹp đẽ, có ý nghĩa, có phẩm giá, có hạnh phúc thật sự và lâu bền cho chính mình và con cháu mình”.

Tác giả cuốn sách này tin rằng độc giả hay người dân miền Nam sau khi đọc được, nghe được những lời nói trên của Lê Duẫn thì sẽ không thể ngăn mình bật lên tiếng … chửi thề : Đù bác nó !

Bởi vì những chỉ trích hằn học hận thù trong câu nói trên của Lê Duẫn chính là những gì người dân từ Bắc chí Nam Việt Nam hiện đang … đua đòi, chạy theo, và hưởng thụ hết mức. Chính đảng giặc Bắc Cộng cũng muốn vậy hầu người dân không còn để ý đến sinh hoạt chính trị nữa, qua chủ trương gọi là “Đổi Mới”, mà đổi mới của giặc không gì khác hơn là … đổi ngược trở lại cũ, những cái cũ của miền Nam. Chỉ khác một điều, vô cùng quan trọng, là các chính quyền miền Nam trước 1975 không hề dùng phúc lợi, hưởng thụ của dân để “cùn hóa” trình độ chính trị của dân, cũng như sinh hoạt chính trị của dân.

Nhà cầm quyền giặc đưa ra danh sách những thành phần sẽ bị đuổi ra khỏi các thành phố đi về những vùng kinh tế mới : 1/ Người thất nghiệp. 2/ Người cư trú bất hợp pháp. 3/ Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân. 4/ Tiểu thương, tiểu địa chủ, đại thương gia. 5/ Người gốc Hoa, người theo đạo Công giáo.

Danh sách này do chính nhà cầm quyền giặc chính thức công bố.

Người thất nghiệp, người cư trú bị đuổi đến vùng kinh tế mới thì cứ cho là quyết định đúng đi. Nhưng người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân thì rõ ràng là dã tâm của giặc đối với công chức và lính Việt Nam Cộng Hòa. Ai cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân ngoài gia đình công chức và gia đình lính Việt Nam Cộng Hòa ? Chồng, tức người chủ gia đình, thì đã bị tống vào tù tập trung mạo danh “cải tạo”, nay thì vợ và con cái của họ bị đày lên những vùng rừng sâu nước độc, vậy nếu không phải là thủ đoạn tiêu diệt thì phải gọi là cái gì đây ?!

Chưa hết, theo đạo Công giáo là một cái tội hay sao mà người theo đạo Công giáo cũng bị đuổi lên những vùng gọi là vùng kinh tế mới ?!

Và hãy hỏi những người đã từng phải gồng gánh bao bị lếch thếch lên những vùng đó xem họ đã từng thấy bao nhiêu người gốc Hoa hay tiểu địa chủ, đại thương gia bị đi đày như họ ? Gần như là không có ! Chỉ thấy người gốc Hoa chìa vàng ra chi cho đám con đảng quỷ cháu bác hù thì được ung dung lên thuyền “vượt biên” một cách … đờ mi hợp pháp. Cả thế giới tự do đã từng vạch trần và lên án vụ “vượt biên đờ mi hợp pháp” này.
Image
“Nhà” của vùng kinh tế mới.
Chống lại lệnh đuổi đi vùng kinh tế mới thì dân miền Nam không thể, nhưng lên tới nơi rồi tự cho phép mình mang gia đình trở lại thành phố là sự chống đối của họ đối với đám giặc, mặc cho nhà cửa của họ đã bị đảng viên cán bộ giặc Bắc Cộng nhanh nhẩu nhào vô chiếm ngụ ngay sau khi họ vừa phải ra đi. Thà sống đầu đường xó chợ còn hơn sống ở vùng rừng sâu nước độc với chỉ … 1 cuốc 1 xẻng. Ban đầu những gia đình quân nhân, công chức Việt Nam Cộng Hòa e sợ lời hăm dọa của giặc sẽ nhốt người thân đang bị đi tù “cải tạo” mút chỉ luôn, nên chưa dám bỏ vùng kinh tế mới trở về thành phố; và cũng nuôi chút hy vọng biết đâu mình chịu khó chịu khổ trụ lại thì người thân của mình sẽ được giặc thả sớm. Ông Thiệu nhà mình làm trật tùm lum nhưng có câu này ổng trúng phóc “Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì Cộng sản làm”. Vậy thì sau một thời gian … nhìn kỷ, họ bèn gồng gánh “ô rờ lui” khỏi các khu kinh tế mới. Lại có những gia đình “chịu chơi” hơn, chẳng những “ô rờ lui” mà còn lui về một thành phố khác rồi ghi tên “tình nguyện” … đi vùng kinh tế mới. Thế thì sẽ được cấp phát một lần nữa 700 đồng tiền hù cộng thêm … 1 cái cuốc và 1 cái xẻng, sau khi tới vùng kinh tế mới (mới) thì “vù” tiếp. Trời đất, phải tự cất nhà, tự khai phá đất rừng, tự chống chọi với thú dữ, mà chỉ phát cho người bị đuổi đi 1 cuốc 1 xẻng thì chỉ có đám con đảng quỷ cháu bác hù mà thôi.

Dân miền Nam gạt được giặc như vậy là nhờ giặc Cộng rất khoái “đạt chỉ tiêu”. Cứ có danh sách để báo cáo đã đuổi đủ con số người đi kinh tế mới là coi như … đã “đạt” rồi. Đảng bị thiệt thòi thì … kệ bác nó chứ !

Nhưng dù dân miền Nam có những phương cách chống lại giặc như nói trên thì họ vẫn đã mất hết nhà cửa tại thủ đô Sài Gòn hoặc các thành phố khác. Năm 1989 giặc tổ chức kiểm tra hộ tịch ở Sài Gòn, hai tờ báo “Sài Gòn (bị) Phỏng … Giày” và Công An đã thành thực cung khai là có hơn 150,000 người thuộc gia đình đảng viên cán bộ giặc từ miền Bắc vào Sài Gòn sinh sống trong những ngôi nhà giặc cướp được từ dân thủ đô miền Nam.

Vụ Kinh Tế Mới nằm trong đợt đầu tiên của ba đợt thuộc chiến dịch Đánh Tư Sản của giặc Bắc Cộng.

Đợt thứ nhì được giặc tiến hành đầu năm 1978 đến 1990. Đây là lúc giặc đánh vào nền công nghiệp nhẹ của miền Nam, và giới buôn bán nhỏ (tiểu thương); báo Tuổi Trẻ nhìn nhận một sự kiện kinh hoàng : Chỉ qua một đêm có đến hơn 10,000 cửa tiệm ở thủ đô Sài Gòn bị đóng cửa vĩnh viễn. Giặc Bắc Cộng vẫn chưa ngừng tay, đánh sang cả giới buôn gánh bán bưng, là thành phần nòng cốt đối với kinh tế của một nước bị chiến tranh triền miên như Việt Nam Cộng Hòa. Đợt đánh tư sản lần thứ nhì cũng nhằm thi hành chủ trương “đốt sách nhưng tha chôn sống cho học trò” ở miền Nam. Nhà sách nổi tiếng miền Nam là Khai Trí cùng các nhà sách khác bị đánh gục. Không chỉ sách báo, nói chung thì văn hóa phẩm của miền Nam trước 1975 đều bị giặc coi là … thằng địch,

May mà dân chúng miền Nam đã dấu diếm được sách và nhạc của họ, vã lại khi mà nhạc đã thấm chặt vào trí nhớ của con người thì giới lãnh đạo nào hay nhà cầm quyền nào trên trái đất này có thể … “cạo” sạch nó ra ?!
Image
Sách, báo, băng nhạc miền Nam bị đốt sạch.
Đánh tư sản nhắm vào giới tiểu thương và cả những cá nhân buôn gánh bán bưng là phá hoại toàn diện nền kinh tế của thời Việt Nam Cộng Hòa, vốn đã được đánh giá khá cao so với những nền kinh tế của các nước láng giềng trong khu vực.

Di dời 150,000 người thuộc gia đình đảng viên cán bộ vào Sài Gòn chiếm lĩnh nhà cửa của quân nhân – công chức Việt Nam Cộng Hòa đã bị đuổi đi như đã nói trên nằm trong giai đoạn cuối X3 đánh tư sản miền Nam của giặc Bắc Cộng.

Sài Gòn vốn là thủ đô của Miền Nam Tự Do nên mọi chuyện xảy ra đều ồn ào. Ở nông thôn giặc ra tay dữ dằn hơn bằng chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất miền Nam bằng hình thức “Tập Đoàn Sản Xuất”. Nhưng thái độ của nông dân miền Nam đã không giống với nông dân miền Bắc trong vụ “Cải Cách Ruộng Đất” như các cháu của bác hù tưởng. Đảng và nhà cầm quyền quyết định thì nông dân miền Nam cũng có quyết định riêng của mình. Toàn thể nông dân bèn quyết định chơi cái … nghĩ xã hơi, đứng chống cuốc nhìn trời hiu quạnh tạm ngưng sản xuất đối với cái trò lừa đảo mà giặc gọi là “Tập Đoàn Sản Xuất”. Thế là cả nước lâm nạn đói !

Vậy chớ sao, lúa gạo đã bị giặc mua với giá cướp ngày và chỡ tuốt hết về miền Bắc, làm mọi không công cho giặc à, còn lâu !

Đến 1979 thì giặc Bắc Cộng chịu thua nông dân miền Nam, Võ Văn Kiệt đã phải ... quyết định lại, chịu khó mua lúa gạo từ nông dân với giá gấp 1,000 lần so với giá thu mua chính thức của đảng và nhà cầm quyền, để xoa dịu cơn giận đã lên tới cực độ của nông dân miền Nam. Xin bà con hãy thôi ... đứng chống cuốc nhìn trời hiu quạnh, làm ơn.

“Nhờ” Võ Văn Kiệt, hổn danh Sáu Kẹt, mọi người được biết rằng trước đó giặc Bắc Cộng đã “mua” lúa gạo miền Nam với giá chỉ bằng 1/1000 giá trị thật ! Và xin hãy nhớ lại, chính đài phát thanh Hà Nội vào năm 1978 đã khoe thành tích là trong năm đó giặc đã “thu mua” được tới 4 triệu tấn gạo của miền Nam để chuyển về miền Bắc. Vâng, sướng quá thì phải khoe chứ sao, “thu mua” 4 triệu tấn gạo với giá 1/1000 của trị giá thật, rõ ràng đây là một thành tích ăn cướp vĩ đại !

“Mua” theo kiểu giặc Bắc Cộng thì mua chỉ có 1 phần 1000, còn thu thì lên đến 999 phần 1000, hay nói cho thật đúng nghĩa, thu ấy chính là cướp, vậy thôi !

Xuyên qua nạn đói trầm trọng năm 1979, giặc đã thấy được hậu quả từ việc cưỡng đoạt, chèn ép dân miền Nam quá mức. Trong lúc đó thì dân miền Bắc cũng vào “tham quan” miền Nam khá đông đảo, con đảng quỷ cháu bác hù đứng trước nguy cơ rồi đây dân miền Bắc sẽ bị ... lây “bệnh chống đối” từ dân miền Nam.

Ngoài nạn đói, nhu yếu phẩm cũng thiếu thốn trầm trọng, vì các nhà máy nhỏ ở miền Nam đã bị giặc buộc phải đồng loạt đóng cửa. Kinh tế, tài chánh của miền Nam đã bị giặc Bắc Cộng giựt sập hoàn toàn. Dân chúng từ Nam chí Bắc phải ăn độn bo bo vốn là thực phẩm Liên Xô dùng cho ngựa ăn. Cái gì cũng thiếu, nhưng có một thứ không hề thiếu, đó là sự chống đối của dân miền Nam đã liên tục diễn ra ngay sau ngày 30 tháng Tư 1975 trên đủ mọi lãnh vực, với đủ hình thức, và dần dần lây lan ra miền Bắc vốn đang ngoan ngoãn bị giặc Bắc Cộng kiềm chế vì nói cho cùng họ thoát ra khỏi gọng kềm của phong kiến thì sang tới thực dân rồi chuyển qua Cộng sản mà chưa có ngày nào được hưởng và hiểu biết tự do dân chủ như dân miền Nam. Không biết, không hiểu thì không thể đòi quyền làm người, quyền công dân của mình. Nhưng một khi đã bừng tỉnh, dân miền Bắc chống đối bằng những hình thức bạo động hơn, dữ dằn hơn, vì gia đình nào ngoài đó không có thân nhân là bộ đội, là cán bộ, hay đảng viên Cộng Sản Việt Nam ?

Vậy thì bèn xuất hiện cái gọi là chính sách Đổi Mới, mà thật ra chỉ là ... Đổi Cũ, hòng cho “đảng ta” có thể tiếp tục bám riết cái ghế độc quyền cai trị.

Image
Dân biểu tình đốt các công ty Tầu Cộng nằm vùng.
Nhắc đến Cuộc Chiến Việt Nam có lẽ chỉ cần nhớ đến hai câu nói của hai nhân vật, một ở miền Nam của Việt Nam Cộng Hòa, một ở miền Bắc của Việt Nam Cộng Sản.

“Nếu Bắc Việt thôn tính được Nam Việt thì chuyện Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian mà thôi !”. Đây là lời của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu mà bảy người lính Thám sát của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù đã vì nó quyết định rút vào rừng trở lại vào buổi sáng tinh sương ngày 30 tháng Tư 1975.

“Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta”. Lê Duẫn, Tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam hậm hực thú nhận lý do thực sự khởi chiến đánh chiếm Miền Nam Tự Do, và chỉ thú nhận sau khi quân Tầu Cộng vượt biên giới đánh qua Việt Nam năm 1979. Ngày nay câu nói của Lê Duẫn chỉ còn được mọi người nhớ nửa phần đầu “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” mà thôi, vì gọn hơn để nhớ, lại đã đầy đủ ý nghĩa Duẫn muốn nói. Nửa câu sau Lê Duẫn nổ quá, nổ cỡ pháo chuột mà tưởng mình là pháo đại. Quả thật vậy, vào thời điểm đó Liên Xô đang ở vị trí lãnh đạo phong trào Cộng sản toàn cầu, đồng siêu cường với Mỹ, rất muốn chiếm ngôi vị độc tôn mà Mỹ vẫn duy trì được tới tận bây giờ. Trong khi đó, Tầu Cộng thì không hề dấu diếm ý muốn … khiêm nhường hơn : Tràn xuống phía Nam, đô hộ các quốc gia khu vực Đông Nam Á như Mao Trạch Đông đã nói thẳng vào mặt bọn gia nô đến từ Hà Nội, dĩ nhiên lúc đó “thiên triều” lờ nhắc tên nước Việt Nam mặc dù cũng là một quốc gia trong khu vực.

Mỹ “nhảy vào” Việt Nam là tuyến đầu Đông Nam Á vì không muốn khu vực này bị nhuộm đỏ, do vậy sau khi đã điều đình được với Tầu Cộng thì họ không ngần ngại “tháo chạy” khỏi Việt Nam ngay, để mở mặt trận hạ gục Liên Xô bên Đông Âu và nước Nga. Nếu có câu hỏi “Ai hưởng lợi nhất xuyên qua Cuộc Chiến Việt Nam ?” thì câu trả lời đúng đắn nhất là “Không phải nước Việt, dân Việt, mà chính Tầu Cộng được hưởng lợi nhiều nhất”.

Người Việt cả hai miền Nam – Bắc đã chịu gian khổ, chết chóc, để bây giờ Tầu Cộng trở thành siêu cường hạng nhì sau Mỹ !

Không có giặc Bắc Cộng tham quyền thống trị nước Việt Nam cầu xin viện trợ vũ khí – quân lương từ Tầu Cộng thì bọn xâm lược truyền kiếp này không có cơ hội được Mỹ giúp và cho phép trở thành cường quốc chớ đừng nói đến vị trí siêu cường thứ nhì. Lịch sử nước Việt Nam đã không dạy dỗ được giặc Bắc Cộng vì lòng tham đã khiến mắt họ … quáng gà.

Đánh miền Nam – đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Tầu Cộng, rồi sao nữa ? Còn trăng sao gì nữa, bây giờ biển, đất dần dần mất vào tay Tầu Cộng thì lăm le muốn rước Mỹ chống lại. Giặc Bắc Cộng đã dẫn dắt dân Việt đi một vòng tròn oan nghiệt cuối cùng thì chạm lại … điểm bắt đầu cuộc chiến vừa qua (sau Hiệp định Geneve 1954). Trước kia Mỹ tới Việt Nam nhằm trực tiếp ngăn chận Tầu Cộng chiếm Đông Nam Á, nếu họ trở lại Việt Nam một lần nữa với cùng mục đích như ngày trước thì có phải là một vòng tròn oan nghiệt hay không ? Thử nghĩ xem, ngày trước miền Nam cùng Mỹ chống Tầu Cộng xâm lược Đông Nam Á (Việt Nam thuộc khu vực này) và bây giờ giặc Bắc Cộng hy vọng sẽ được Mỹ giúp chống Tầu Cộng xâm lược Đông Nam Á thì có gì khác nhau ? Chữ “Ngụy” giặc Bắc Cộng trước đây dùng miệt thị quân dân miền Nam nay cần được trả lại cho tác giả của nó. Rất xứng đáng với đám giặc đã và đang ngồi xổm trong Bắc bộ phủ.

Phải nói rằng giặc Bắc Cộng đã có công lao vô cùng … vĩ đại, giúp cho Tầu Cộng có đủ sức mạnh quân sự và kinh tế đe dọa nước Việt Nam, Đông Nam Á, và cả toàn cầu. Nghe Lê Duẫn nổ là đánh người đồng chủng miền Nam là đánh cho cả nhân loại, nhiều người trên hành tinh trái đất này có thể bị đứt ruột vì cười không thắng lại được, chưa kịp gởi lời … “tố chè” anh chàng Tổng bí thư đảng giặc.

Người Việt Nam cần nhìn ra cái vòng tròn oan nghiệt giặc Bắc Cộng đã dẫn dắt chúng ta đi trong hơn nửa thế kỷ qua, bởi vì họ đã nhốt chúng ta trong vòng tròn oan nghiệt lẩn quẩn đó khiến thiệt mạng hơn hai triệu quân và dân cả hai miền Nam – Bắc, chưa kể con số thương binh cùng người dân tàn tật vì chiến tranh. Phải đau đớn nhìn nhận là xương máu Việt Nam đã góp phần lớn nhất cho phúc lợi hiện nay của nước Tầu Cộng Sản.

Vậy thì “chính nghĩa” của giặc Bắc Cộng trong Cuộc Chiến Việt Nam nó nằm ở đâu ?

Nhà văn Huy Đức đã có cuốn sách viết về hậu Cuộc Chiến Việt Nam với tựa đề Bên Thắng Cuộc. Dĩ nhiên có Bên Thắng Cuộc thì phải có Bên Thua Cuộc, một cách trực tiếp người đọc nghĩ ngay Bên Thua Cuộc là miền Nam và quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng đúng nghĩa nhất thì Bên Thua Cuộc chính là cả nước Việt Nam cùng toàn thể dân Việt, với cái họa Tầu Cộng xâm lược nước ta đang rành rành trước mắt. Cũng đừng quên nghĩ tới sự chia rẽ trong nội bộ dân tộc Việt vì sự hiện diện của đảng giặc Cộng Sản Việt Nam. Còn rất nhiều, nhiều lắm, những tệ hại giáng xuống đầu dân chúng kể từ sau cuộc chiến cho đến tận bây giờ.

Muốn khởi động một phong trào đấu tranh, trước nhất phải nắm vững thực tế tình trạng xã hội. Trong nước, lòng dân hiện tại cũng đã có phần thay đổi. Lớp người từ 30 đến 50 tuổi là thành phần hăng hái hoạt động, đóng vai trò chính trong sinh hoạt của bất cứ xã hội mọi quốc gia, ở Việt Nam cũng thế. Nhưng thành phần này ở Việt Nam lại là thành phần không biết gì về cuộc chiến Quốc – Cộng vừa qua, cái họ nhìn thấy là không còn đói, không còn phải nhá bo bo hàng bữa nữa, lại còn được cho phép hưởng thụ. Tưởng rằng đây chính là hạnh phúc thật sự của con người đúng nghĩa, và cũng là … tự do, dân chủ ! Vì họ có gì đâu để dựa vào mà so sánh ? Tất cả giá trị của xã hội Việt Nam hiện tại được đánh giá dựa vào … bao tử, và những nhu cầu hưởng thụ vật chất rặc, chấm hết ! Tóm lại, thành phần nòng cốt này không có đối tượng để so sánh, họ chỉ lấy quá khứ để so với hiện tại, thì thấy … OK thôi. Lần hồi con người chỉ còn biết đến quyền lợi cá nhân, mặc kệ người xung quanh, mặc kệ thành phần lãnh đạo bất xứng. Vì vậy, họ chỉ chống đối khi quyền lợi cá nhân bị đụng chạm, chẳng hạn như vấn đề nhà đất. Ngoài Bắc đã hưởng ứng sự chống đối của dân miền Nam về vấn đề này, và khi đã chống thì dân miền Bắc không ngần ngại dùng bạo lực chống lại bạo lực, như vụ tự chế “súng hoa cải” (như shotgun) bắn lại công an cưỡng chế đất đai. Và khi thấy bọn giặc Tầu Cộng (anh em của giặc Bắc Cộng) xâm lấn biển Đông rồi bắt đầu đưa các công ty Tầu sang Việt Nam làm mưa làm gió, nằm vùng chờ đợi quân Tầu Cộng tiến sang Việt Nam, mà chúng gọi là làm ăn thương mại, lại được giặc Bắc Cộng chấp nhận cho xây dựng những cơ sở cấm quan chức lẫn dân chúng Việt không được vào, thì dân đâm lo sợ mất quyền lợi cá nhân bởi họa mất nước. Biểu tình bạo động bèn xuất hiện, các công ty Tầu Cộng bị đốt phá tưng bừng, đến nổi những công ty các nước khác ở Việt Nam phải trương bảng cho biết họ không phải là … Tầu khựa.

Nhằm tránh sự bùng nổ trong dân chúng, mấy năm gần đây giặc cho phép hát “nhạc vàng” trở lại, các show trình diễn “nhạc vàng” (trừ những bản về lính Cộng Hòa) được tổ chức liên tục, mặc dù sau khi chiếm được miền Nam năm 1975 thì giặc Bắc Cộng đã hùng hổ lên án “nhạc vàng” là … nhạc đồi trụy, phản động. Nhưng bây giờ, năm 2019, thì đồi trụy, phản động bỗng dưng bốc hơi bay đi đâu mất hết, chỉ còn lại … vàng ròng, vàng 24 ca ra. Đây cũng là một vòng tròn lẩn quẩn đảng giặc Bắc Cộng buộc dân Việt phải lết thết theo suốt nửa thế kỷ qua. Cả dân tộc phải “chịu phép” một đảng mặt dầy !

Kèm theo “nhạc vàng” là phong trào thể thao, đặc biệt là môn đá banh. Các cán bộ đảng giặc phụ trách bộ môn thể thao này chẳng làm gì ngoài … ăn bẩn, tạo ra những tệ nạn như phe đảng, như cầu thủ bán độ, trọng tài ngậm tiền thiên vị, vv … Chính những tư nhân chủ các câu lạc bộ đá banh có tâm huyết xây dựng cho tuổi trẻ đã bỏ công, bỏ tiền học hỏi các nước khác, tổ chức lại từ căn bản cho bộ môn này nên đã đào tạo được một lớp cầu thủ với tinh thần mới, đủ trình độ chiếm vị trí đứng đầu Đông Nam Á, và đang trên đường chinh phục châu Á. Chẳng những vậy ngay đến tiền lương trả cho anh Huấn luyện viên người Hàn trông coi đội tuyển mỗi tháng 20,000 đô la cũng do một ông bầu tư nhân chi trả. Những trận đấu vinh quang của đội tuyển Việt Nam đều có đảng mặt dầy dự khán, nhìn đồng chí đực Thủ tướng mặt mâm cùng đồng chí cái Chủ tịch Quốc hội thợ gật hớn hở múa may trên khán đài, hay chạy tuốt xuống sân vịn ké chiếc cúp vô địch, người xem truyền hình ở ngoài nước không khỏi thở dài … da mặt các lãnh tụ đảng giặc Bắc Cộng dầy hơn da mông con tê giác !

Nhưng buồn nhất là nhìn thấy các đám đông tuổi trẻ xuống đường ăn mừng chiến thắng mỗi nơi cả chục ngàn người tham dự với cờ đỏ sao vàng ào ào phất. Buồn nhưng phải hiểu họ chỉ là đám đông dân chúng, đổ ra đường ăn mừng chiến thắng thì phải có cái gì để cầm, để phất, mà chúng ta đã thất bại trong việc trao cho họ lá cờ vàng ba sọc đỏ thì đành phải vậy thôi.

Âm nhạc, thể thao, là đòn ru ngũ dân chúng Việt Nam của đảng giặc Bắc Cộng. Đòn ru ngũ hầu dân không còn thiết đến việc chống giặc, nội xâm và ngoại xâm. Đòn ru ngũ này Tây đã làm với dân Việt Nam trước đây rồi, chuyện đang xãy ra chỉ là … ăn mót thực dân.

Mới đây tác giả có dịp gặp gỡ vài gia đình ra đi từ miền Bắc. Khi câu chuyện qua lại đã trở thành “tâm đắc”, có anh vừa nghe nhắc đến Đổi Mới đã phóng ra một câu … xanh dờn :

Đường lối đảng là … đường đổi láng ! Sẽ đổi tất, đổi tuốt tuột, miễn là đảng Cộng Sản được tiếp tục giữ độc quyền cai trị nước Việt Nam !

Nghe vậy tác giả cười ngất. Anh này lột truồng đám Bắc bộ phủ nghe rất đã tai, vì nó đúng quá, nhưng thật ra bố bảo đám con đảng quỷ cháu bác hù cũng không dám đổi tất, đổi tuốt tuột như anh chủ nhà nói diễu, như chính nửa câu sau anh đã xác quyết. Làm sao đám này dám đổi đảng Cộng Sản thành không Cộng Sản để có thể hòa nhập vào sinh hoạt chính trị đa đảng ? Mặc cảm tự ti, không dám chấp nhận cạnh tranh, chủ trương dùng bạo lực cướp chính quyền sau đó tiếp tục dùng bạo lực để cai trị và bảo vệ ghế cầm quyền của mình, muốn nó được … muôn năm trường trị, là kim chỉ nam cho đám xuẩn động khật khùng lết theo chủ nghĩa Cộng Sản ba trợn. Ta dù có lòng, không muốn đất nước một lần nữa vướng vào tình trạng máu chảy thành sông xương thành núi, dù thành tâm muốn có “hòa giải hòa hợp” với Cộng Sản nhằm cho đất nước được yên ổn mà tiến lên bắt nhịp với bước tiến của thế giới, ta cũng sẽ không khi nào toại nguyện.

Giặc Bắc Cộng chỉ khao khát được hòa giải hòa hợp với đám Tầu khựa Cộng Sản ở Bắc Kinh thôi, vì chúng là chỗ dựa tốt nhất cho cái ghế độc tôn cầm quyền ở Hà Nội. Giặc chỉ dám làm ngược lại khi nào “thiên triều” nhất quyết bóp chặt bác hù của họ chạy tuột lên cổ họng, không cho dẫy dụa. Một số con em của sĩ quan quân đội giặc Bắc Cộng (tụ tập nhiều trong các vùng Barkerfield, San Bernadino, Riverside, thuộc California) từng cho biết có nhiều tướng tá quân đội rất bất mãn về thái độ của Bắc bộ phủ đối với “thiên triều”; rất muốn đảo chánh nhưng chỉ sợ bọn “thiên triều” sẽ lợi dụng cơ hội kéo quân sang với danh nghĩa cứu giúp đảng đồng chí đàn em rồi chiếm luôn Việt Nam. Thật hư về chuyện này thì tác giả không dám chắc.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Nhưng còn thành phần kiên trì chống Cộng ?

Thành phần kiên trì chống Cộng, rất tiếc, phần đông đều ở nước ngoài, 10 ngàn dặm xa cách Việt Nam, lại được hướng dẫn lầm lạc bởi chiêu bài “bảo vệ cộng đồng chống lại Cộng Sản xâm nhập”. Dĩ nhiên chống lại sự xâm nhập của Cộng Sản là điều cần thiết, nhưng cũng đừng quên chế độ Cộng Sản trong nước mới chính là mục tiêu tối thượng. Hai chuyện cần được thực thi song song, cái sau quan trọng hơn cái trước. Nhưng có vẻ như hiện tại ở hải ngoại này thì cái trước (chống xâm nhập) được những tổ chức chống Cộng ở hải ngoại coi trọng hơn cái sau (lật đổ chế độ Cộng Sản trong nước), vì cái trước thì … dễ làm hơn !

Cái khó cũng đã được thử rồi, hồi thập niên 1980, và đã bị lợi dụng để ăn cắp, ăn cướp tiền dân ngoài nước, do vậy đã khó nay càng khó hơn. Khó đến nổi xãy ra những chuyện buồn cười (buồn quá phải cười khẩy) : Cầu nguyện cho trong nước là chuyện của chùa chiền, thánh thất, thánh đường; hành động mới là chuyện của các tổ chức đấu tranh. Nhưng như chúng ta đã thấy, các tổ chức đấu tranh ở ngoài nước sau này tổ chức cầu nguyện hơi bị nhiều.

Trong nước bị ru ngũ, ngoài nước bị hướng dẫn trật đường rầy, có nhiều vụ ở trong nước có thể làm lớn chuyện lên được nhưng không thể xãy tới là vì vậy.

Đánh cho sập một công ty Tầu Cộng trong nước thì chỉ cần sự đóng góp của hai chục gia đình ở ngoài nước, cộng với công sức của chừng chục cá nhân kiên cường trong nước, không phải là quá khó.

Cổng Hoa dành cho các công ty Tầu Cộng nằm vùng ở Việt Nam sẽ đạt thành công khi nào trong và ngoài nước bừng tỉnh nối vòng tay.

Nếu được vậy thì tới một lúc nào đó bộ mặt thật của giặc Bắc Cộng cũng phải trơ trẻn lộ ra, khi bị bắt buộc phải hành động để bảo vệ giặc ngoại xâm, đàn áp dân mình. Lúc đó thì dân trong nước sẽ thấy rất rõ ai chính là nguyên nhân khiến cho quyền lợi cá nhân của từng người Việt đang bị đe dọa. Đối với thành phần đang là nồng cốt của sinh hoạt xã hội Việt Nam hiện tại thì Tầu Cộng là hiểm họa nhưng họ không thấy được chính giặc Bắc Cộng mê muội quyền lực đã trực tiếp giúp giặc xâm lược từ phương Bắc trở thành mối hiểm họa không những với Việt Nam mà cả khu vực Đông Nam Á và toàn cầu. Cần phải có nhiều những sự kiện xảy ra như vầy thì bộ mặt thật của giặc Bắc Cộng mới hiện hình cho toàn dân thấy :

Mới đây, ngày 14 tháng Sáu 2019, quán bún bò Dũng Đinh ở Sài Gòn, quận 4, phường 8, vốn nổi tiếng Chống Tầu Cộng đã bị nhà cầm quyền giặc Bắc Cộng triệt hạ. Thông báo dán trước cửa quán ghi rõ : Không Phục Vụ Khách Trung Quốc. Tủ đựng thức uống lại có những thông báo với nội dung : Nước Free Tự Chọn – Chúng Tôi Không Bán Nước và Người Yêu Nước Việt Nam Tẩy Chay Hàng Lạ Dùng Hàng Nước Ta.

Chủ nhân quán bún bò bị triệt hạ là ông Đinh Dũng, 52 tuổi, vào năm 1975 thì ông chỉ mới 8 tuổi. Một nhà báo trong nước đã viết trên trang cá nhân : Có lẽ, tội của ông Dũng là nghèo mà không bán nước !

Image

KHÔNG BÁN NƯỚC.

Câu chuyện bắt đầu bởi bảy người lính Thám sát 81 Biệt Cách Dù và những nhóm Kháng Chiến khác trở vào rừng ngày 30 tháng Tư 1975 đến sự chống đối liên tục của dân miền Nam, lây lan ra Bắc, rồi đến sự trổi dậy chống lại các công ty Tầu Cộng nằm vùng ở Việt Nam là một tiến trình liên tục. Là một bản hùng ca của dân Việt, nước Việt, chỉ tiếc là chưa được hòa cho đúng tông, đúng nhịp từ hải ngoại.

Khi đã được vậy, cuộc chiến nửa thế kỷ trước mới có cái kết toàn cuộc !

Đầu tháng Sáu 2019, một tấm hình biểu tình đăng trên báo Người Việt, Nam California cho thấy một thanh niên tham dự biểu tình tại đây cầm biểu ngữ có ghi hàng chữ :

Đừng sợ những gì Việt Cộng làm
Hãy làm những gì Việt Cộng sợ.
Image

Trong nước có những thanh niên như Đinh Dũng, ngoài nước có những thanh niên như người vẽ tấm biểu ngữ nói trên, chỉ cần phương cách tranh đấu của trong và ngoài nước hữu hiệu thì cái trường trị mà giặc Bắc Cộng mong ước sẽ là ... trừng trị đối với chính đảng giặc !

Image
Nhà Báo ĐỖ SƠN

1968 : Tốt nghiệp Trung học (College d’Adran – Đà Lạt).
1970 : Nhập ngũ Khóa 3/70 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức
1971 : Sĩ quan Hành quân (Ban 3) LĐ 42
CT / Biệt Động Quân.
1972 : Sĩ quan Tùy Viên (Văn phòng CHT/BĐQ/QK4).
1975 : Tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ.
1990 : Chủ Nhiệm / Chủ bút Tuần báo
Trào phúng Con Cò (Nam California)
1995 : Giám đốc VOV Radio (Nam California)
2003 : Chủ tịch Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại
2009 : Về hưu – Viết sách (Bắc California).
Sách đã phát hành : Cười Với Ta Với Vẹm, Cuộc Cách Mạng
Trên Giường Của Siêu Cường,
Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất Và Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II,
Thằng Địch Đồng Chí.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

‘Hổ Xám’ Phạm Châu Tài và những giờ phút cuối ở Bộ Tổng Tham Mưu
Lâm Hoài Thạch/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Trong trận Mậu Thân, địch quân bị Quân Lực VNCH đánh bật ra khỏi thành phố Huế sau 28 ngày chiếm đóng. Đầu năm 1969, Trung Úy Phạm Châu Tài đảm trách chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và tiêu diệt, bắt sống một số tù binh Cộng Sản đang đóng tại Khe Sanh. Một thời gian sau, ông được thắng cấp đại úy.

Lúc đó, Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt có hai đơn vị thiện chiến nhất và lưu động, đó là Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Trung Tâm Hành Quân Delta.

Trong cuộc hành quân cuối cùng của Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và Hoa Kỳ, Đại Đội 3 của 81 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy được lệnh nhảy qua Hạ Lào, nơi con sông Tchépone, bên Lào, cách biên giới Lào-Việt 5 cây số.


Trận cuối của Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và Hoa Kỳ

Phi Đoàn 219 của Hoa Kỳ từ căn cứ Mai Lộc, Quảng Trị, bốc Đại Đội 3 của 81 Biệt Cách Dù cùng với bốn quân nhân Mỹ thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ nhảy xuống điểm thứ nhất đột ngột diệt một khẩu phòng không của địch. Khẩu đội phòng không của địch quân bị tiêu diệt, Đại Đội 3 lấy được một khẩu phòng không và nhiều thùng đạn, lính của “Hổ Xám” hai người hy sinh.
Image
Phạm Châu Tài thời học sinh. (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Trong số bốn quân nhân Mỹ có Thượng Sĩ Voix đã từng tham chiến trận Triều Tiên, nên có nhiều kinh nghiệm chiến trường, ông chỉ huy ba quân nhân Mỹ. Nhiệm vụ của toán quân nhân Mỹ này là gọi máy bay của Không Kỵ Hoa Kỳ yểm trợ cho Đại Đội 3 đang tham chiến. Hai xác của chiến sĩ Đại Đội 3 đã hy sinh và chiến lợi phẩm được Thượng Sĩ Voix gọi trực trăng đến mang về hậu cứ của Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù.

Sau đó, Đại Đội 3 của “Hổ Xám” tiếp tục sang ngọn đồi thứ hai để đánh một khẩu đội phòng không của địch nữa. Đang chuyển quân thì Thượng Sĩ Voix cho biết tin từ phi cơ thám sát của Mỹ là có khoảng 100 quân Cộng Sản từ phía Nam tiến đến đơn vị của “Hổ Xám.” Thượng Sĩ Voix cho biết là sẽ có phi cơ từ hạm đội Hoa Kỳ ngoài biển bay vào để đánh đoàn quân của Cộng Sản đang tiến quân đến đơn vị của Đại Đội 3 đang hành quân, chỉ chờ lệnh của “Hổ Xám” có đánh hay không? Phạm Châu Tài đồng ý, thì khoảng 10 phút sau, hai chiếc phản lực F5 bay vào mục tiêu dội bom tại điểm của địch đang di chuyển. Tiếp đó, thêm bốn chiếc phản lực nữa cũng đến dội bom vào đoàn quân này. Địch quân bị tiêu diệt hoàn toàn. Khi quân của Đại Đội 3 xuống lục soát thì không lấy được chiến lợi phẩm nào cả vì súng và người đã bị cháy rụi.


Sau đó, Đại Đội 3 mới tiến về mục tiêu hai trên đồi có khẩu phòng không thứ hai. Khi đến nửa chân đồi thì “Hổ Xám” lệnh cho Thiếu Úy Đặng Đình Hoàng mang một trung đội lên đỉnh đồi kiểm soát. Đến mục tiêu, Thiếu Úy Hoàng mới trình “Hổ Xám” là mục tiêu an toàn vì Cộng Quân đã bỏ chạy hết, quân ta lấy được một khẩu phòng không và nhiều thùng đạn. Phạm Châu Tài lệnh cho đơn vị nghỉ mệt, vì đã đánh từ sáng sớm cho đến hơn 12 giờ trưa.

Đang nghỉ mệt, từ phía Đông, một chiếc trực thăng “nòng nọc” quan sát của Mỹ bay đến điểm của “Hổ Xám” vừa chiếm khẩu phòng không thứ hai của địch, chiếc trực thăng này bắn hai trái khói màu trắng xuống điểm của Đại Đội 3.
Image
Đại Tá Lê Đức Đạt, tư lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, gắn huy chương cho ba Đại Úy Đào Minh Hùng (giữa), Nguyễn Sơn (phải) và Phạm Châu Tài (trái). (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Linh tính cho biết, “Hổ Xám” liền nhảy xuống hố. Hai phút sau, hai chiếc Cobra trực thăng Mỹ xuất hiện bắn đại liên và đạn rocket vào nơi đơn vị của “Hổ Xám,” một quả đạn nổ ra trên 1,000 cái đinh. Lính của “Hổ Xám” hơn 20 người bị trúng đinh. “Hổ Xám” liền tung ra hai trái khói màu vàng để cho trực thăng của Mỹ biết là đã bắn lầm vào quân ta, vì khói vàng là quân của VNCH. Khói trắng là địch.

Trực thăng thám sát của Mỹ đã hiểu lầm tưởng là quân của “Hổ Xám” là Cộng Sản vì họ phát hiện có khẩu phòng không của địch để lại. Mừng chiến thắng chưa hết, thì sự kiện đau lòng đã đến, Thiếu Úy Hoàng, Thượng Sĩ Voix và một lính truyền tin của “Hổ Xám” tử trận.


Quân của “Hổ Xám” vẫn tiếp tục đi đến mục tiêu thứ ba, nhưng khoảng chừng nửa tiếng sau thì có chiếc trực thăng của tiểu đoàn trưởng bay trên không và cho “Hổ Xám” biết là, lệnh của Trung Tá Huấn, chỉ huy trưởng hành quân Delta, bảo Đại Đội 3 chuẩn bị triệt xuất (rút quân). Gần một tiếng sau thì 16 chiếc trực thăng xuống bốc “Hổ Xám” và Đại Đội 3 về hậu cứ.

Trận chiến này cũng là trận cuối cùng của Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và Hoa Kỳ tại chiến trường miền Nam. Từ năm 1969 cho đến khi Lực Lượng Đặc Biệt giải tán vào Tháng Tám, 1970, “Hổ Xám” đã tham dự 10 cuộc hành quân Delta, từ cuộc hành quân Delta 41 đến cuộc hành quân cuối cùng là Delta 51, và ông cũng được thăng cấp đại úy trước đó.

Sau đó, các chiến sĩ “Dân Sự Chiến Đấu” của Lực Lượng Đặc Biệt được đưa về những đơn vị của Biệt Động Quân Biên Phòng. Một số chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt được đưa về nhiều binh chủng khác như Nha Kỹ Thuật, Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến… Riêng Trung Tâm Hành Quân Delta và Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù hợp lại trở thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, trực thuộc Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, và đã tham chiến nhiều mặt trận tại bốn vùng chiến thuật.
Image
Đại Úy Phạm Châu Tài (giữa) chuẩn bị vào mật khu An Lão. (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Cuối năm 1971, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được di chuyển về Kon Tum. Sư Đoàn 22 Bộ Binh của Đại Tá Lê Đức Đạt là tư lệnh đang hành quân ở Tân Cảnh. Phía Tây Tân Cảnh là vùng dãy Trường Sơn rất dài từ bên Lào xuyên qua Việt Nam, có những cứ điểm Alpha, Delta, Charlie.

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù nhảy vào đồi Charlie chỉ hai đại đội gồm Đại Đội 3, “Hổ Xám” đại đội trưởng, Đại Đội 4 do Đại Úy Đào Minh Hùng làm đại đội trưởng. Hai đại đội này vào khu vực này để quan sát con đường từ dãy Trường Sơn xuống đến Kon Tum. Họ khám phá ra một căn cứ do Trung Đoàn Công Binh của Bắc Việt thành lập cho địch quân vào làm hậu cứ hành quân để xâm nhập vào Kon Tum.


Sau đó, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 mới yêu cầu Đại Tá Phạm Văn Huấn là chỉ huy trưởng của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù ra lệnh cho “Hổ Xám” hướng dẫn công binh VNCH tiêu hủy căn cứ của địch quân đóng dưới đồi Charlie. Và cũng ngọn đồi này, sau này Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, tử trận tại đây.

Trận chiến An Lộc bùng nổ vào Tháng Ba, 1972. Cộng Quân đưa Sư Đoàn Công Trường 7 cắt đứt Quốc Lộ 13, chạy dài từ Lai Khê, An Lộc, đến Lộc Ninh để đánh tỉnh lỵ Bình Long. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang đóng quân tại phía Tây của biên giới Việt-Miên được lệnh về Tây Ninh đóng quân ở Trảng Lớn. Trong lúc này, Cộng Quân đã bao vây An Lộc.

Ngày 13 Tháng Tư, 1972, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù nhảy vào An Lộc. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được lệnh vào Lai Khê để chờ vào An Lộc. Binh Chủng Nhảy Dù gồm ba tiểu đoàn 5, 6 và 8 đang bao vây An Lộc và tạo một khoảng trống cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù nhảy vào vòng chiến.

Ngày 16 Tháng Tư, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù với quân số tổng cộng 916, và chỉ có 550 quân tiến vào An Lộc.

Đặt chân vào An Lộc ngày 17 Tháng Tư và đã bắt tay với Tướng Lê Văn Hưng. Đến 9 giờ tối, 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh đột ngột ban đêm bằng lựu đạn và lưỡi lê vào địch quân đang bao vây An Lộc. Bị đánh bất ngờ, Cộng Quân bị tiêu diệt nặng, số còn lại từ An Lộc chạy về hướng Bắc. Lúc đó, trên đồi Đồng Long địch quân mới pháo kích xuống, vì không đủ quân của các đơn vị bạn vào án ngữ những điểm của 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh xong nên bị địch phản công. Sau đó quân của “Hổ Xám” mới rút về chi khu Chợ Mới của Bình Long, có hai khẩu Pháo Binh 105 ly của Sư Đoàn 5 bắn trực xạ vào các chiến xa của địch đang tiến vào Bình Long.
Image
Cựu Thiếu Tá Phạm Châu Tài tại Hoa Kỳ. (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Đi tù và vượt biển

Ngày 29 Tháng Năm, 1972, “Hổ Xám” được đặc cách lên thiếu tá tại chiến trường An Lộc. Ngày 10 Tháng Sáu, 1972, “Hổ Xám” đụng với địch quân thêm một trận lớn nữa, thì Cộng Quân bị đẩy lui. Ngày 12 Tháng Sáu, 1972, 81 Biệt Cách Nhảy Dù cấm cờ vàng trên ngọn đồi Đồng Long. Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố chiến thắng An Lộc. Ngày 24 Tháng Sáu, 1972, Liên Đoàn Biệt Kích 81 rời khỏi An Lộc.

Chỉ hai ngày sau, Bộ Tổng Tham Mưu mới ra lệnh Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù ra tham chiến mặt trận Quảng Trị. “Hổ Xám” phải chỉ huy bốn đại đội để tham chiến trận Quảng Trị dưới quyền đều động của Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù để đánh chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đóng quân tại trại An Dương Dương, vượt sông Mỹ Chánh qua Đại Lộ Kinh Hoàng đạp trên xác người, đi chung với Tiểu Đoàn 5 và 11 Nhảy Dù đánh Cộng Quân đang chiếm cổ thành rất nhiều trận. Sau đó, Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến vào thế Liên 2 Nhảy Dù, tham chiến trận đánh tiếp tục tại cổ thành Quảng Trị.


Tháng Mười, 1972, “Hổ Xám” được lệnh về Sài Gòn để học ba tháng khóa Bộ Binh Cao Cấp. Mãn khóa, Phạm Châu Tài về làm phụ tá của liên đoàn trưởng đóng quân tại Tây Ninh và tham chiến nhiều trận ở Trảng Bàng, Bình Dương, Lái Thiêu, Trị Tâm, Phước Long.

Sau đó, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù có Chiến Đoàn 1 và 2 đóng quân ở Biên Hòa, và Chiến Đoàn 3 đóng quân ở Tây Ninh.

“Hổ Xám” được lệnh đưa Chiến Đoàn 3 về trấn thủ Bộ Tổng Tham Mưu vì nơi này không còn quân trừ bị để bảo vệ.

Chiến Đoàn 3 về đến Sài Gòn vào chiều 26 Tháng Tư, 1975. Ông vào trình diện Bộ Tổng Tham Mưu thì vẫn còn rất nhiều sĩ quan đang ở đây, Đại Tướng Cao Văn Viên, tham mưu trưởng, vẫn còn đang làm việc.

“Hổ Xám” lệnh cho 1,000 quân của ông tung ra bên ngoài vòng đai của Bộ Tổng Tham Mưu.

Ngày 28 Tháng Tư, 1975. Đại Tướng Cao Văn Viên đã rời khỏi Bộ Tổng Tham Mưu. Nghe tin, “Hổ Xám” mới vào Bộ Tổng Tham Mưu thì ông thấy mọi người như là đàn ong vỡ tổ, xe cộ chạy tán loạn. Lúc đó, ông mới gọi về Đại Tá Phan Văn Huấn là chỉ huy trưởng của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang đóng quân ở Biên Hòa để báo cáo tình hình tại Bộ Tổng Tham Mưu. Lệnh Đại Tá Huấn cho Chiến Đoàn 3 của 81 Biệt Cách Nhảy Dù trấn thủ Bộ Tổng Tham Mưu.
Image
“Hổ Xám” Phạm Châu Tài tại Little Saigon. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Tối 29 Tháng Tư, Đại Tá Trần Văn Thăng, cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội, được lệnh điều về thay thế cho Đại Tá Tòng. Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn Tướng Lý Bá Hỷ cùng với nhiều sĩ quan nữa cũng còn ở trong Bộ Tổng Tham Mưu.

Trung Tướng Nguyễn Hữu Có cho biết bây giờ ông ta là quyền Tổng Tham Mưu Phó, có phụ tá là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Tướng Có vỗ vai Thiếu Tá Tài nói: “Em ráng giữ Bộ Tổng Tham Mưu đêm nay nữa thôi. Ngày mai không còn đánh nhau nữa, vì mình có giải pháp.”


Đến sáng hôm sau, tức là ngày 30 Tháng Tư, bắt đầu 6 giờ sáng thì Cộng Sản pháo dữ dội vào phi trường Tân Sơn Nhất. Sau đó, quân Cộng Sản Bắc Việt từ Củ Chi theo Quốc Lộ 1 tiến vào Sài Gòn. Khoảng hơn 9 giờ sáng thì bộ đội Cộng Sản đụng độ với đơn vị 81 Biệt Cách Nhảy Dù tại Ngã Ba Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả,…

Thiếu Tá Tài kể: “Khi gặp Việt Cộng tiến vào thành phố thì chúng tôi nổ súng liền, vì chúng tôi đang chờ chúng nó đến. Lúc đó hai chiếc xe tăng của Cộng Quân đi trước tại Ngã Tư Bảy Hiền thì bị chúng tôi khai hỏa và đã bị quân Biệt Cách Dù đánh gục, và đoàn xe đưa quân Cộng Sản bằng những chiếc Molotova, GMC đã bị chúng tôi cũng đánh gục gần 10 chiếc.”

“Trong lúc này, từ Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho quân đội VNCH ngừng bắn, thì chúng tôi ngưng bắn. Nhưng quân Cộng Sản lại tiếp tục vô nữa, gặp chúng nó, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu, tổng cộng có sáu chiếc xe tăng T 54 của chúng bị chúng tôi đánh gục. Tôi thấy tình hình này không được ổn vì lệnh của cấp trên cứ bảo mình phải ngưng nổ súng mà quân Cộng Sản vẫn tràn vào, nên tôi mới vào Bộ Tổng Tham Mưu đến phòng chỉ huy của Đại Tướng Cao Văn Viên,” ông kể.

“Lúc đó, không có một vị tướng nào còn ở đây nữa. Tại phòng làm việc của Tư Lệnh Tổng Tham Mưu thì có rất nhiều điện thoại để tư lệnh làm việc và cũng có để tên của từng đơn vị trên mỗi điện thoại. Tôi mới dùng điện thoại màu đỏ để gọi về Phủ Tổng Thống, cũng may là tôi vẫn còn liên lạc được với họ. Tôi nghe bên đường dây của Phủ Tổng Thống lên tiếng: ‘Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tôi nghe. Ai ở đầu dây đó,’ thì tôi mới trả lời tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy trưởng Chiến Đoàn 3, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu. Ông ta hỏi tiếp: ‘Có gì không?’ Tôi mới nói: ‘Tôi muốn nói chuyện với một giới chức cao cấp nhất của Quân Lực VNCH là tổng thống,’ bởi vì tại Bộ Tổng Tham Mưu các tướng lãnh đã chạy hết rồi,” ông kể tiếp.

Sau đó Tướng Dương Văn Minh nói với “Hổ Xám” rằng: “Các em chuẩn bị bàn giao đi.”

Đó là lời nói cuối cùng của Tướng Dương Văn Minh nói với “Hổ Xám.” Vài tiếng sau, Đại Tướng Dương Văn Minh trên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng giặc.

Sau mặt trận cuối cùng để bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu. Thiếu Tá Phạm Châu Tài bị Cộng Sản cầm tù 10 năm tại Bắc Việt. Sau khi ra tù thì ông đi vượt biên bằng đường biển liền chớ không phải chờ được định cư tại Hoa Kỳ bằng chương trình H.O.
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by caubennoc »

Image

L.Đ.81 Biệt Cách Dù
81st_Airborne_Commando_Battalion's_Insignia


Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù (tiếng Anh: 81st Airborne Commando Battalion, 81st ACB) – thường được gọi tắt là Biệt cách dù (BCND / BCD) – là một trong bốn lực lượng Tổng trừ bị trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa (gồm Biệt động quân, Thủy quân Lục chiến và Sư đoàn Nhảy dù. Đây cũng là lực lượng cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.

Hiệu ca: Biệt Cách Dù 81 hành khúc.
Đặc trưng: Mũ Beret xanh lục và phù hiệu Cọp Bay.
Lược sử
Hình thành

Giữa năm 1961, chính phủ Mỹ cho phép mở rộng chương trình bí mật chống lại những nỗ lực chiến tranh của những người Cộng sản Việt Nam trong vùng Đông Nam Á. Tại Nam Việt Nam, Liên đoàn Quan sát số 1 thuộc Sở Liên lạc, Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa được thành lập. Bên cạnh các hoạt động nhảy Bắc làm nhiệm vụ tình báo, biệt kích chống các hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên đoàn quan sát số 1 còn tổ chức các toán biệt kích giả thường dân xâm nhập vào phía nam Lào, tìm kiếm và tấn công các tuyến đường giao liên do phía Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức.

Để áp dụng chương trình bên Lào, Ban Nghiên cứu Hỗn hợp (Combined Studies Division – CSD) được thành lập, đặc trách về chương trình phòng vệ dân sự (Civil Defense), hoạt động dưới quyền chỉ đạo của phân bộ CIA tại Sài Gòn, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Gilbert Layton (phía Mỹ) và Thiếu tá Trần Khắc Kính (phía Việt Nam Cộng hòa). Một chương trình hoạt động có mật danh là Lei Yu, sau đổi thành Typhoone (tiếng Anh) hoặc Lôi Vũ (tiếng Việt), được xây dựng. Có cả thảy 15 toán biệt kích, mỗi toán 14 người, rút từ các toán biệt kích có sẵn trong Liên đoàn Quan sát số 1, được tổ chức, được đánh số từ 1 đến 15 tập họp trong trại Typhoon-Lôi Vũ (gần trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức), chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ[1].
Bên cạnh đó, CSD cũng tổ chức một lực lượng xung kích, nhằm cơ động tấn công các mục tiêu do các toán biệt kích chỉ điểm, hỗ trợ, ứng cứu cho các toán biệt kích khi bị đối phương uy hiếp nghiêm trọng. Theo đó phía Việt Nam Cộng hòa, tuyển mộ các quân nhân người Thái trong Sư đoàn 22 Bộ binh đưa về Thủ Đức để huấn luyện nhảy dù, biệt kích, thành lập Đại đội 1 Biệt kích dù, do Đại úy Lương Văn Hơi làm chỉ huy. Liên tiếp sau đó, Đại đội 2 Biệt kích dù cũng được thành lập, gồm các quân nhân người Nùng tuyển mộ trong Sư đoàn 5 Bộ binh, do Trung úy Voòng Chay Mênh làm chỉ huy[1]. Đây chính là những đơn vị đầu tiên của lực lượng Biệt cách dù.

Sau khi được huấn luyện và tổ chức, hai đại đội Biệt kích dù được không vận lên Kontum, sau đó di chuyển bằng xe đến một tiền đồn gần làng Ben Het. Sau đó, hai toán Biệt cách dù được giao nhiệm vụ đi toán các toán biệt kích Lôi Vũ (gồm các toán 1, 2, 3, 6, 7, 8) về căn cứ Ben Het an toàn.[1] Đây được xem là cuộc hành quân đầu tiên của lực lượng Biệt cách dù.
Được xem là thành công, thêm 2 đại đội Biệt kích dù được thành lập. Đại đội 3 hình thành từ các quân nhân được tuyển mộ gốc từ Lữ đoàn Dù và Đại đội 4 hình thành từ các quân tình nguyên mà đa số là người Công giáo qua sự giới thiệu của linh mục Mai Ngọc Khuê.[1]

Đầu năm 1963, Sở Liên lạc (bấy giờ mang tên Sở Khai thác Địa hình) được đổi tên thành Lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa, do Đại tá Lê Quang Tung làm Chỉ huy trưởng. Bênh cạnh các toán biệt kích nhảy Bắc, các toán thám báo đường mòn và căn cứ đối phương, các đơn vị chiến đấu của Lực lượng Đặc biệt gồm 2 Liên đoàn biệt kích 77 và 31, 5 Đại đội Biệt kích dù.
Tiểu đoàn Biệt cách Dù và Trung tâm Hành quân Delta

Sau đảo chính 1963, Lực lượng đặc biệt nhiều lần tổ chức lại. Phòng 45 đặc trách các toàn biệt kích nhảy Bắc được tách ra. Giữa năm 1965, các liên đoàn được giải tán, cơ cấu chỉ huy Lực lượng đặc biệt được tổ chức theo cơ cấu tương tự như của Biệt kích Hoa Kỳ để dễ phối hợp hoạt động, chỉ huy các toán biệt kích hoạt động trong nội địa (khác với các toán biệt kích Lôi Hổ hoạt động ngoại biên) trên cả 4 vùng chiến thuật. Riêng các đại đội Biệt kích dù biệt lập được kết hợp thành Tiểu đoàn 91 Biệt cách dù, vẫn chịu sự chỉ huy của Lực lượng đặc biệt, vẫn giữ vai trò xung kích, ứng cứu cho các toán biệt kích nội địa.

Bên cạnh đó, vai trò chỉ hoạt động biệt kích của Hoa Kỳ và đồng minh tại Đông Nam Á có thay đổi do bàn giao giữa CIA và MACV. Để phối hợp các hoạt động biệt kích trên vùng lãnh thổ Nam Việt Nam, tháng 6 năm 1965, MACVSOG, cơ quan đặc trách của MACV về hoạt động đặc biệt, đã tổ chức Trung tâm Hành quân Delta, mật danh B52, chịu trách nhiệm phối hợp với Lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa chỉ huy các hoạt động thám báo và phá hoại. Theo đó, các toán biệt kích Delta hỗn hợp Việt-Mỹ, do các quân nhân Mỹ làm trưởng toán, ăn mặc và trang bị giống Quân Giải phóng miền Nam, sẽ thâm nhập đường mòn Hồ Chí Minh và các vùng căn cứ do đối phương kiểm soát trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa để xác định vị trí đóng quân của đối phương, thu thập tin tức tình báo chiến lược, giám sát kết quả oanh kích của Không quân Mỹ, tập kích, phá hoại các sơ sở hậu cần của Quân Giải phóng miền Nam.[2]. Tiểu đoàn 91 Biệt cách dù là đơn vị phối hợp làm lực lượng xung kích ứng cứu cho Trung tâm Hành quân Delta. Năm 1968, Tiểu đoàn 91 được đổi tên thành Tiểu đoàn 81 Biệt cách dù.

Liên đoàn Biệt cách dù

Tháng 6 năn 1970, MACV chấm dứt hoạt động của Trung tâm Hành quân Delta và rút các quân nhân Mỹ về nước. Tháng 8 năm 1970, Lực lượng đặc biệt cũng bị giải tán vì đã hết nhiệm vụ nhảy Bắc, nhảy Lào và đổ bộ biển. Các quân nhân LLĐB đều được phân tán về các binh chủng khác trong Quân đội. Nhiều nhất là chuyển qua Biệt động quân và Nha kỹ thuật. Riêng bộ phận chỉ huy phía Việt Nam Cộng hòa của Trung tâm Hành quân Delta và Tiểu đoàn 81 Biệt cách dù được tổ chức lại, sáp nhập thành Liên đoàn 81 Biệt cách dù, được đặt thành một lực lượng Tổng trừ bị của Bộ Tổng Tham mưu. Liên đoàn được hưởng các huy chương của Lực lượng đặc biệt, được phép đội mũ xanh và mang phù hiệu Lực lượng đặc biệt và được mang dây Biểu chương màu đỏ Bảo quốc Huân chương.

Khi mới thành lập, quân số của Liên đoàn chỉ khoảng 900 người. Về sau, Liên đoàn được mở rộng cấp số, tổ chức gồm: 1 Bộ chỉ huy Liên đoàn, 1 Đại đội Chỉ huy Yểm trợ và 3 ba Bộ chỉ huy chiến thuật. Mỗi Bộ chỉ huy có 4 Biệt đội, mỗi Biệt đội có 200 quân nhân. Tổng quân số lên đến 3.000 binh sĩ.

Phù hiệu Cọp Bay
Những trận đánh lớn

Mặc dù được huấn luyện cho những công tác thật đặc biệt, tuy nhiên khi tình hình nguy ngập như trong Mùa Hè Đỏ lửa 1972, Phước Long 1974, Bộ Tổng tham mưu đã sử dụng Liên đoàn 81 BCD như là một lực lượng tăng viện, tiếp cứu và thanh toán chiến trường.
Trận An Lộc 1972: Một trận đánh ác liệt trong Chiến tranh Việt Nam. Liên đoàn 81 BCND đã quần thảo với đặc công, bộ binh và xe tăng QĐNDVN nên thiệt hại cũng rất nhiều. Họ phải lập một nghĩa trang trong thị xã An Lộc để chôn tử sĩ. Nói về Liên đoàn 81 trong trận chiến An Lộc có 2 câu thơ nổi tiếng: “An Lộc địa, sử ghi chiến tích. Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân.”

Chiến dịch Xuân Hè 1972
Trận Phước Long 1974
Thất bại ở miền Bắc Việt Nam

Đầu năm 1961, Tổng thống Kennedy ký lệnh triển khai “chiến dịch chiến tranh bí mật phá hoại miền Bắc Việt Nam”, với mục đích “đánh vào nguồn gốc xâm lược” từ Bắc Việt Nam. Chiến dịch này nằm dưới sự chỉ đạo của CIA, sau được Lầu Năm Góc tiếp quản năm 1964, đã đề ra các biện pháp chủ yếu là sử dụng lực lượng đặc biệt của Việt Nam Cộng hòa (gián điệp biệt kích) còn gọi là “Liên đội quan sát số 1” thuộc Sở liên lạc Tổng thống phủ (cơ quan tình báo trung ương VNCH), gồm phần đông là lính Việt Nam Cộng hòa gốc từ miền Bắc di cư do CIA và lực lượng đặc biệt Mỹ trực tiếp chỉ đạo, huấn luyện, trang bị để đột nhập vào phá hoại miền Bắc. Hình thức chủ yếu là sử dụng các tiểu đội biệt kích dù.

Đến năm 1968 thì các chiến dịch đều đã thất bại nặng nề khi gần 500 lính biệt kích bị giết, bị bắt hoặc trỏ thành điệp viên hai mang Cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara và cựu Tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Việt Nam, tướng William C. Westmoreland, đã bị chỉ trích nặng nề vì chiến dịch trên. Chương trình đã được đặc tả trong cuốn sách của Sedgwick Tourison nhan đề “Secret Army, Secret War: Washington’s Tragic Spy Operation in North Vietnam” (Naval Institute Special Warfare) viết tháng 9 năm 1995. Sự thât bại của chiến dịch này thảm hại đến nỗi nếu chỉ riêng ngành công an Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với 19 chuyên án đã câu nhử, bắt sống và tiêu diệt được 121 lính biệt kích.
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by caubennoc »

duynga
Posts: 115
Joined: Sat Oct 13, 2012 2:40 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by duynga »

LIÊN ĐOÀN 81 BIỆT CÁCH DÙ
(Nguyễn Phúc An Sơn/ SaiGonTrongToi)

Image
Các Chiến Sĩ Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù VNCH

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù (tên tiếng Anh: 81st Airborne Ranger Battalion hoặc 81st Airborne Commando Battalion, 81st ACB) – thường được gọi tắt là Biệt Cách Dù (BCND/ BCD) – là một binh chủng đặc biệt, đồng thời là một trong bốn lực lượng tổng trừ bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (ba lực lượng còn lại là Nhảy Dù, Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến).

Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Nha Kỹ Thuật. Nhiệm vụ của Biệt Cách Dù là nhảy toán, hành quân bí mật vào vùng lẩn trốn, đóng quân của bọn cộng sản, thu thập tin tức tình báo, phá hoại cơ sở hậu cần của bọn chúng và cũng sẵn sàng tham chiến khi tình hình chiến sự yêu cầu.

Biệt Cách Dù cũng được sử dụng để truy lùng và tiêu diệt bọn du kích thổ phỉ việt cộng trong một số trận đánh. Binh chủng được thành lập kể từ khi bọn tay sai bù nhìn của cái-gọi-là Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được cộng sản bắc việt cho ra đời để làm bình phong cho mưu đồ thâm độc là xâm lăng và cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam theo lệnh quan thầy quốc tế cộng sản của chúng. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Trong chiến tranh ngoài những nhiệm vụ thu thập tình báo được chính thức công khai, đơn vị còn thực hiện những phi vụ bí mật do Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa và Bộ Tổng Tham Mưu trực tiếp chỉ đạo và điều thành.
Biệt Cách Dù cũng là đơn vị cuối cùng đã anh dũng chiến đấu, giáng những đòn thích đáng lên đầu bọn giặc cướp xâm lược miền Nam Việt Nam và gây nhiều thiệt hại nặng nề cho bọn cộng sản xâm lược trước khi bị bắt buộc phải buông súng ngày 30/4/1975 tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Lịch sử hình thành

Từ năm 1960, chính phủ Mỹ mở rộng chương trình bí mật chống lại sự xâm lược miền Nam Việt Nam của cộng sản Việt Nam. Liên Đoàn Quan Sát số 1 thuộc Sở Liên Lạc được thành lập.

Bên cạnh các hoạt động nhảy dù xuống miền Bắc làm nhiệm vụ tình báo, biệt kích chống các hoạt động của bọn cộng phỉ, Liên Đoàn Quan Sát số 1 còn tổ chức các toán Biệt Kích xâm nhập vào phía nam Lào, tìm kiếm và phá hủy các tuyến đường xâm nhập lén lút của bọn cộng phỉ để vào xâm lăng Miền Nam Việt Nam.

Để áp dụng chương trình bên Lào, Ban Nghiên Cứu Hỗn Hợp (Combined Studies Division – CSD) được thành lập, đặc trách về chương trình Phòng Vệ Dân Sự (Civil Defense), hoạt động dưới quyền chỉ đạo của phân bộ CIA tại Sài Gòn, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Gilbert Layton (Mỹ) và Thiếu Tá Trần Khắc Kính (Việt Nam Cộng Hòa).

Một chương trình hoạt động có mật danh là Lei Yu, sau đổi thành Typhoone (tiếng Anh) hoặc Lôi Vũ (tiếng Việt), được xây dựng. Có cả thảy 15 toán Biệt Kích, mỗi toán 14 người, rút từ các toán Biệt Kích có sẵn trong Liên Đoàn Quan Sát số 1, được tổ chức, được đánh số từ 1 đến 15 tập họp trong trại Typhoon – Lôi Vũ (gần trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức), chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)
Bên cạnh đó, CSD cũng tổ chức một Lực Lượng Xung Kích, nhằm cơ động tấn công các mục tiêu do các toán Biệt Kích chỉ điểm, hỗ trợ, ứng cứu cho các toán biệt kích khi bị đối phương uy hiếp nghiêm trọng. Theo đó phía Việt Nam Cộng Hòa, tuyển mộ các Quân nhân trong Sư Đoàn 22 Bộ Binh đưa về Thủ Đức để huấn luyện nhảy dù, biệt kích, thành lập Đại Đội 1 Biệt Kích Dù, do Đại Úy Lương Văn Hơi làm chỉ huy.
Liên tiếp sau đó, Đại Đội 2 Biệt Kích Dù cũng được thành lập, gồm các quân nhân người Nùng tuyển mộ trong Sư Đoàn 5 Bộ Binh, do Trung Úy Voòng Chay Mênh làm chỉ huy. Đây chính là những đơn vị đầu tiên của Lực Lượng Biệt Cách Dù.

Sau khi được huấn luyện và tổ chức, hai Đại Đội Biệt Kích Dù được không vận lên Kontum, sau đó di chuyển bằng xe đến một tiền đồn gần làng Ben Het. Sau đó, hai toán Biệt Cách Dù được giao nhiệm vụ đi toán các toán Biệt Kích Lôi Vũ (gồm các toán 1, 2, 3, 6, 7, và 8 ) về căn cứ Ben Het an toàn. Đây được xem là cuộc hành quân đầu tiên của Lực Lượng Biệt Cách Dù.

Được xem là thành công, thêm 2 Đại Đội Biệt Kích Dù được thành lập. Đại Đội 3 hình thành từ các quân nhân được tuyển mộ gốc từ Lữ Đoàn Nhảy Dù và Đại Đội 4 hình thành từ các quân tình nguyên mà đa số là người Công Giáo qua sự giới thiệu của Linh Mục K. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Đầu năm 1963, Sở Liên Lạc (bấy giờ mang tên Sở Khai Thác Địa Hình) được đổi tên thành Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam Cộng Hòa, do Đại Tá Lê Quang Tung làm Chỉ Huy Trưởng. Bên cạnh các toán Biệt Kích nhảy Bắc, các toán Thám Báo đường mòn và căn cứ đối phương, các đơn vị chiến đấu của Lực Lượng Đặc Biệt gồm 2 Liên Đoàn Biệt Kích 77 và 31, 5 Đại Đội Biệt Kích Dù.

Tiểu Đoàn Biệt Cách Dù và Trung Tâm Hành Quân Delta

Sau đảo chính 1963, Lực Lượng Đặc Biệt nhiều lần tổ chức lại. Phòng 45 đặc trách các toàn Biệt Kích nhảy Bắc được tách ra. Giữa năm 1965, các Liên Đoàn được giải tán, cơ cấu chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt được tổ chức theo cơ cấu tương tự như của Biệt Kích Hoa Kỳ để dễ phối hợp hoạt động, chỉ huy các toán Biệt Kích hoạt động trong nội địa (khác với các toán biệt kích Lôi Hổ hoạt động ngoại biên) trên cả bốn vùng chiến thuật.
Riêng các đại đội Biệt Kích Dù Biệt lập được kết hợp thành Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù, vẫn chịu sự chỉ huy của Lực Lượng Đặc Biệt, vẫn giữ vai trò xung kích, ứng cứu cho các toán Biệt Kích nội địa. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Bên cạnh đó, vai trò chỉ hoạt động biệt kích của Hoa Kỳ và Đồng minh tại Đông Nam Á có thay đổi do bàn giao giữa CIA và MACV. Để phối hợp các hoạt động biệt kích trên vùng lãnh thổ Nam Việt Nam, tháng 6 năm 1965, MACV-SOG, cơ quan đặc trách của MACV về hoạt động đặc biệt, đã tổ chức Trung Tâm Hành Quân Delta, mật danh B52, chịu trách nhiệm phối hợp với Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy các hoạt động thám báo và phá hoại.

Theo đó, các toán Biệt Kích Delta hỗn hợp Việt-Mỹ, do các quân nhân Mỹ làm trưởng toán, ăn mặc và trang bị giống Việt cộng, sẽ thâm nhập vào đường mòn hcm và các vùng cộng sản đang lẩn trốn trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam để xác định vị trí đóng quân của bọn chúng, thu thập tin tức tình báo chiến lược, giám sát kết quả oanh kích của Không Quân Mỹ, tập kích, phá hoại các sơ sở hậu cần của bọn cộng sản bắc việt xâm lược.
Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù là đơn vị phối hợp làm lực lượng xung kích ứng cứu cho Trung Tâm Hành Quân Delta. Năm 1968, Tiểu Đoàn 91 được đổi tên thành Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù

Tháng 6 năn 1970, MACV chấm dứt hoạt động của Trung Tâm Hành Quân Delta và rút các quân nhân Mỹ về nước. Tháng 8 năm 1970, Lực Lượng Đặc Biệt cũng bị giải tán vì đã hết nhiệm vụ nhảy Bắc, nhảy Lào và đổ bộ biển. Các quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt đều được phân tán về các binh chủng khác trong quân đội. Nhiều nhất là chuyển qua Biệt Động Quân và Nha Kỹ Thuật.

Riêng bộ phận chỉ huy phía Việt Nam Cộng Hòa của Trung Tâm Hành Quân Delta và Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù được tổ chức lại, sáp nhập thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được đặt thành một Lực Lượng Tổng Trừ Bị của Bộ Tổng Tham Mưu. Liên đoàn được hưởng các huy chương của Lực Lượng Đặc Biệt, được phép đội mũ xanh và mang phù hiệu Lực Lượng Đặc Biệt và được mang dây Biểu Chương màu đỏ Bảo Quốc Huân Chương.

Khi mới thành lập, quân số của Liên Đoàn chỉ khoảng 900 người. Về sau, Liên Đoàn được mở rộng cấp số, tổ chức gồm: 1 Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, 1 Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ và 3 ba Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật. Mỗi Bộ Chỉ Huy có 4 Biệt Đội, mỗi Biệt Đội có 200 quân nhân. Tổng quân số là 3.000 chiến sĩ. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Sau cuộc tổng công kích tết Mậu Thân năm 68, Việt cộng thất bại nhục nhã và bị thảm hại nặng nề về người và vũ khí, nên bọn chúng tạm ngưng hoạt động để rút vào rừng chỉnh đốn lại hàng ngũ của bọn chúng.

Trong thời gian này, toàn lãnh thổ VNCH kể như được tạm thời lắng dịu, ít có những trận đánh lớn mà chỉ có những trận đánh nhỏ của bọn du kích thổ phỉ địa phương mà thôi.

Rồi đến Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 72, nghĩa là sau 4 năm chỉnh đốn lại hàng ngũ, bọn khủng bố Việt cộng đồng loạt mở các cuộc tổng tấn công vào 3 thành phố lớn của VNCH đó là An Lộc, Kontum, và Quảng Trị với cấp quân số lên đến cỡ Quân Ðoàn. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)
Lại một lần nữa, bọn giặc cướp cộng phỉ xâm lược đã bị thảm bại nhục nhã sau khi bị QLVNCH đánh cho chúng kinh hồn bạt vía, tan nát khắp nơi mặc dầu chúng đã đưa vào những vũ khí mới tối tân hơn lần đầu tiên được đem ra xử dụng tại chiến trường miền Nam như chiến xa T54, T59, PT76,AT3 chống chiến xa, SA7 cầm tay chống phi cơ, cao xạ phòng không 37 ly và 75 ly, v.v.v. là các loại vũ khí do quan thầy quốc tế cộng sản của bọn chúng cung cấp để bọn chúng vào xâm lược và giết hại đồng bào Miền Nam Việt Nam theo lệnh bọn ngoại bang.

Ngoài ra, bọn cộng phỉ còn dùng chiến thuật đặc công khủng bố, chỉ dùng một số ít quân số, mang súng nhỏ, còn phần lớn đều trang bị kềm cắt dây kẽm gai và chất nổ, lợi dụng đêm tối, những tên khủng bố cắt hàng rào đột nhập vào vị trí đóng quân của ta tấn công nhưng tất cả những âm mưu của bọn chúng đều thất bại thê thảm và những tên đăc công khủng bố đều bị đền tội. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Ngoài chiến thuật đặc công khủng bố này, chúng còn áp dụng chiến thuật đóng chốt và đóng kiềng cũng không kém phần nguy hiểm! Với quân số cấp trung đoàn, địch đã đóng chốt kiên cố cầm chân Sư Đoàn 21 Bộ Binh và lực lượng Nhảy Dù của ta trên quốc lộ 13 ở suối Tàu Ô khi tiến vào giải tỏa An Lộc gặp nhiều khó khăn mới vượt qua được!

Lúc này LÐ 81 BCD đang tử thủ trong thành phố An Lộc nên đã không được cùng các đơn vị bạn “nhổ chốt, phá kiềng” cho VC nể mặt. Cho nên năm 1973 khi chúng vào đóng chốt ở Bến Thế thuộc tỉnh Bình Dương, Sư Đoàn 5 Bộ Binh VNCH đưa lực lượng đến giải tỏa nhiều ngày không được, nên LÐ 81 BCD đang hành quân ở chiến khu D (sau khi tham dự hành quân tái chiếm Quảng Trị trở về) liền được lệnh tiếp ứng Sư Đoàn 5 BB để “phá chốt” ở Bến Thế.

Chỉ sau hai đêm hành quân đã lấy lại Bến Thế mà không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ, Quân Đoàn III thấy LÐ 81 BCD nhổ chốt phá kiềng dễ dàng quá nên hễ nơi nào đơn vị bạn gặp khó khăn thì LÐ 81 BCD được ưu ái gọi đến. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Hết Bến Thế lại đến Trảng Bàng, đặc biệt là tại Tha La xóm đạo sau ngày đã ký kết hiệp định đình chiến vào đúng Tết năm 73, khi Tiểu Khu Hậu Nghĩa cho 1 tiểu đoàn Ðịa Phương Quân đến giải tỏa nhiều ngày không được thì LÐ 81 BCD lại được gởi đến. Tại đây, cũng chỉ cần hai đêm hành quân, không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ đã tái chiếm lại được Tha La xóm đạo với rất ít tổn thất nhưng nhà cửa và tài sản của dân chúng không bị hư hao.

Hết Bến Thế, Tha La xóm đạo, rồi năm 1974 tại Tân Phú Trung thuộc quận Củ Chi, chỉ cách Sai Gòn không bao xa, việt cộng vào đóng chốt tại đây, ngăn chận lưu thông trên quốc lộ I từ Tây Ninh về Sài Gòn! Tất cả xe hàng từ Tây Ninh muốn chạy về Saigòn phải chạy vòng lên Bình Dương mới về Sài Gòn được.

Sư Đoàn 25 BB gặp vài khó khăn để bứng bọn thổ phỉ việt cộng ra khỏi những “chốt kiềng” vì chúng đã đưa tiểu đoàn 9, tinh nhuệ nhất của tr/đoàn 172 thuộc sư đoàn 7 cộng phỉ đến đóng chốt tại đây.

Bọn cộng phỉ làm chốt này rất kiên cố, chúng đã đưa đến cả súng cối 82 ly và một hệ thống điện thoại chằng chịt qua nhiều chốt nhỏ khắp xã Tân Phú Trung, nên Liên Ðoàn 81 BCD đã được gửi tới và dù “chốt kiềng” của địch vững chắc như thế nhưng chỉ với 1 ngày và 2 đêm giao chiến ác liệt, không cần cả đến sự yểm trợ của Pháo Binh hay Không Quân dể tránh gây thiệt hại cho dân chúng cũng như dùng chiến thuật du kích chiến để “gậy ông lại đập lưng ông” mà nhổ chốt của bọn chúng.

Bọn khủng bố cộng phỉ thảm bại nhục nhã và lũ tàn binh kinh hoàng khiếp vía phải rút chạy vào chốn rừng sâu để lẩn trốn. Trong khi đó, tổn thất của Liên Đoàn 81 BCD chỉ là con số nhỏ, tương đối chấp nhận được.

Qua những chiến thuật mà Liên Ðoàn 81 BCD đã áp dụng để tạo nên những kỳ công, Bộ TTM đã lấy những chiến thắng của LÐ 81 BCD làm tài liệu phổ biến Kinh Nghiệm Chiến Trường gởi đến cho QLVNCH để rút kinh nghiệm. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)

Qua nhiều lần gặp mặt Đ/Tướng Viên và nhiều giới chức có thẩm quyền ở Bộ TTM thì được biết tất cả nhận thấy LÐ 81 BCD có 3 cái khả năng đáng kể mà ít có đơn vị nào có được, đó là:

* Có thể tách ra thành từng toán nhỏ để thả sâu vào hoạt động nhiều ngày ở hậu tuyến địch.
* Có thể đánh đêm bằng du kích chiến được.
* Có thể tập trung lại để đánh trận địa chiến như các đơn vị khác được.

Nếu không có ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chắc chắn LÐ 81 BCD sẽ còn lớn mạnh hơn nữa nhưng than ôi Liên Ðoàn đã phải uất hận cùng toàn thể Quân Lực Miền Nam buông súng vào giờ phút cuối của cuộc chiến để rồi nhiều chiến hữu đã phải trải qua bao nhục nhã đắng cay trong các nhà tù lao động khổ sai của bọn cộng sản bắc việt xâm lược.

Tuy miễn cưỡng phải buông súng theo lệnh thượng cấp, nhưng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù QLVNCH cũng đã làm cho bọn cộng phỉ bắc việt phải nhiều phen kinh hồn khiếp vía và nể phục với tinh thần chiến đấu ngoan cường cộng với tính kỷ luật của một đơn vị anh hùng trong hàng ngũ chỉnh tề cho đến giây phút cuối cùng khi phải bất đắc dĩ buông súng trong uất hận ngày 30 tháng 4 năm 1975.

(Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Phúc An Sơn)
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by dailien »

Image

Nhớ về Biệt Ðội 817 thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù
Bùi Ngọc Thăng

Vâng! Chúng tôi thuộc Biệt Ðội 817 của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, một biệt đội tân lập để nhằm đáp ứng nhu cầu chiến trường thật sôi động vào những ngày cuối tháng tư đen.

Nhận đơn vị

Sau lễ ra trường vội vã tại căn cứ Long Thành, tôi và một số anh em khóa 28/29 TVBQGVN, những người trai trẻ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm, đã chọn bộ đồ dù với chiếc nón xanh ngạo nghễ làm chiến y. Nếu ai hỏi tôi: Cái gì làm mày chọn binh chủng oai hùng đó, tôi sẽ trả lời bằng hai câu thơ cảm khái của một nữ sinh ở chiến trường đẫm máu An Lộc:

An Lộc địa, sử lưu chiến tích,
Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân.


Tuổi trẻ là vậy đó: thèm khát chiến trường, sau gần bốn năm trui rèn gian khổ mong được thử lửa, thêm với bầu máu nóng của tuổi trẻ muốn bảo quốc an dân. Chúng tôi đã xông pha vào trận chiến với hành trang thật đầy đủ từ tinh thần, thể lực lẫn trí tuệ của một sĩ quan đa hiệu. Và còn nữa: trên vai chúng tôi còn cả một truyền thống oai hùng của các bậc đàn anh. Ôi! Kể sao cho hết lòng tự tin, hăng say náo nức của ngày đầu tiên tôi được khoác lên mình bộ quân phục khét tiếng chiến trường ấy.

Tôi và Xuân, một tay có dáng người cao, đen, đẹp trai của khóa 29, sau khi cùng anh em trình diện Trung Tá Thông ở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương 2 Suối Máu, được phân phối ngay về Biệt Ðội 817 đo Ðại úy L. chỉ huy, không một ngày giờ phép.

Tôi xin nói sơ qua về cách phối trí đơn vị và danh xưng trong liên đoàn một cách tóm lược vì sự hiểu biết hạn hẹp của tôi và cũng để bảo mật cho một đơn vị đặc biệt này. Chỉ huy trưởng liên đoàn là Ðại tá Huấn, hậu cứ đóng ở An Sương, Hóc Môn. Có hai Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đặc nhiệm cho từng vùng hoạt động. Dưới quyền của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương là những biệt đội, có quân số của một đại đội, lúc nào cũng được bổ sung thật đầy đủ, và được chia ra làm 3 Trung Ðội Xung Kích, một Trung Ðội Thám Kích và một Trung Ðội Súng Nặng, sau đó được chia thành toán và tổ. Khi hành quân, các trung đội xung kích thường đánh trực diện, và trung đội thám kích được phân phối thành 6 toán để nhảy thăm dò, đột kích, tìm diệt, thu thập tin tức, hay hoa nở trong lòng địch. Biệt đội được yểm trợ đặc biệt như một tiểu đoàn khi hành quân.

Ðại úy L. là một người chỉ huy dày dạn và bình tĩnh. Sau khi chúng tôi chào trình diện, ông chỉ nói vỏn vẹn: “Chào hai anh,” rồi lặng yên nhìn hai đứa tôi như dò xét khả năng. Chúng tôi như một cặp gà nòi ế độ, đứng lặng yên chờ nhận nhiệm vụ, không chút bồn chồn, dù trong lòng có chút băn khoăn.

Sau khi yên lặng soi vảy và xem giò cẳng, Ðại úy L. từ từ nói: “Biệt đội cần một trung đội trưởng súng nặng và một trưởng toán thám kích, hai anh chọn cái nào.” Xuân K.29 e dè nhìn qua tôi, cho tôi hiểu rằng “em muốn nhường anh.” Tôi không ngần ngại, bước lên một bước, đưa tay lên chào và dõng dạc nói: “Tôi nhận trưởng toán thám kích.” Quả thật cái gì đã in sâu trong tôi: Truyền Thống -Tình Anh Em? Em nhường anh và anh gánh vác hiểm nguy cho em… và cùng lúc đó trong đầu tôi thoáng qua hình ảnh người tôi yêu với đôi mắt đợi chờ sâu thẳm.

Sau thủ tục giấy tờ và giới thiệu sơ qua về đơn vị do một sĩ quan khác đảm nhiệm, hai đứa tôi được đi ăn bữa tối đầu tiên của đời lính thật sự trong căn lều lớn có những lớp bao cát dày che chở chung quanh. Trên đường đi, Xuân lo ngại hỏi tôi: “Làm sao niên trưởng, tôi quên hết rồi, niên trưởng chỉ tôi với.” Tôi trấn an Xuân: “Ông đừng lo, chỉ cần ông định điểm đứng và chấm tọa độ cho chính xác là đủ, tụi nó sẽ làm hết cho ông.” Xuân vẫn còn lo ngại nói tiếp: “Tối nay tôi qua hỏi thêm niên trưởng vài chuyện.” Tôi gật đầu và suỵt khẽ với Xuân khi có vài người lính đi lại gần. Trong đầu tôi lúc đó cũng mang nặng nỗi lo không kém: Làm sao để thu phục được những người lính gan lì đã từng vào sinh ra tử này. Buổi tối hẹn với Xuân không bao giờ đến, vì sau bữa cơm chiều, chúng tôi nhận được lệnh hành quân cấp tốc vào sáng sớm ngày mai.

Vào vùng trách nhiệm


Biệt đội chúng tôi được chuyển vận về sân vận động Quận Nhất ở bên hông bộ Tổng Tham Mưu đúng vào ngày 23 Tháng Tư của năm định mệnh 1975.

Trên đường về Sài Gòn, ngang qua đại lộ Phan Thanh Giản, chúng tôi đã nhìn thấy những căn cứ phòng thủ được vội vàng thiết lập đọc hai bên đường, nhưng Sài Gòn vẫn còn ngơ ngác, chưa sẵn sàng cho một cuộc phòng thủ qui mô rộng lớn trong chiến tranh. Dân chúng hốt hoảng, sợ VC, ủng hộ quân đội Quốc gia, nhưng họ vẫn xem cuộc chiến chống lại VC là của Quân Ðội VNCH, người dân chỉ đóng vai trò như một cổ động viên trong một trận tranh tài thể thao không hơn không kém. Những căn cứ phòng thủ được thiết lập lẻ loi trơ trọi, không kết hợp được với địa hình bao quát chung quanh, chưa thiết lập được sự liên kết chặt chẽ cần thiết giữa dân và quân cũng như giữa những đơn vị chính qui và địa phương cho một phòng tuyến liên hợp cần thiết khi chiến tranh đã đi vào thành phố.

Nhìn những lô cốt bằng bao cát nằm lẻ loi trơ trọi hai bên xa lộ, quan sát những tòa nhà cao ốc chung quanh không một sự phòng thủ thích nghi, tôi lo ngại cho sự an toàn bền vững của nhưng chốt phòng thủ này. Chúng là miếng mồi béo bở của một trái B40 hay cối 61 của một toán đặc công vô danh nào đó len lỏi vào các tòa cao ốc trước khi tank hay lực lượng chính qui tiến chiếm trận địa.

Suy nghĩ bâng quơ một lúc, thì đoàn xe đã đến ngã tư Công Lý và quẹo phải để chạy về hướng Bộ Tổng Tham Mưu. Ðến đây, chúng tôi phải chạy chậm lại vì dân hai bên đường di chuyển hỗn loạn khác thường, một số đã nhận ra chúng tôi và bắt đầu hô lên: “Biệt Cách Dù về! Biệt Cách Dù Về!” và làn sóng âm thanh ấy từ từ rộ lên nhịp nhàng lấn át cả mọi tiếng động ồn ào trong thành phố và rồi tỏa rộng ngân vang: Biệt Cách Dù về! Biệt Cách Dù về! Biệt Cách Dù về! hòa với tiếng vỗ tay cách nhịp của các em thiếu niên, và trên khuôn mặt hốt hoảng của những người dân đã dấy lên ánh mắt lóe sáng của niềm tin. Vâng! chúng tôi, những người lính của chiến trường đẫm máu, đã về thành phố. Bất giác, tay tôi nắm chặt lại, nhìn gương mặt của những người lính vốn đã gan lì nay lại rạng ngời lên ánh mắt cương quyết. Trong lòng chúng tôi như cùng thầm nguyện lời hứa Kinh Kha.

Chúng tôi đổ quân xuống sân vận động Quận Nhất, Sau khi bố trí canh gác phòng thủ, các sĩ quan trong biệt đội được lệnh họp và chúng tôi được tiếp xúc với một vị trung tá từ Bộ Tổng tham Mưu phái đến. Sau khi sơ lược ngắn gọn tình hình và nhiệm vụ, ông ta dõng dạc nói: “Các anh là đơn vị cuối cùng được cấp trên tin tưởng đưa về đây phòng thủ BTTM và chúng tôi tin rằng đơn vị các anh không phụ lòng tin đó.” Sau lời phát biểu ngắn gọn hàm chứa ý nghĩa ủy thác, ông ta lên vội xe jeep về lại TTM, chúng tôi về đơn vị mình và tôi bắt đầu làm quen với những người lính chai lì có gương mặt lạnh lùng u uất, những nét chỉ có trên những người đã từng về từ cõi chết. Quả thật họ là những người đáng gờm, những người lính lạnh lùng ít nói này sẽ gầm lên như hổ dữ khi chạm trán địch quân.

Chiều hôm đó, chúng tôi được cấp phát mỗi người một bộ quân phục của cán binh VC và được huấn luyện sơ qua về các hoạt động trà trộn trong lòng địch cùng cách xưng hô địch quân thường gọi nhau trong đơn vi… Mãi sau này, tôi mới biết cấp trên đã dự trù một kế hoạch rút vào rừng và tiếp tục chiến đấu nếu Sài Gòn thất thủ. Sau đó, sĩ quan và các trưởng toán được phát một bản đồ quân sự của Sài Gòn.

Chúng tôi đóng quân hai ngày đêm trong sân vận động để dưỡng quân, huấn luyện và cũng để các binh lính và sĩ quan làm quen với đơn vị mới. Sáng ngày 26 tháng 4, 1975, theo từng vùng trách nhiệm đã phân định sẵn, chúng tôi âm thầm rải quân trấn ngự các địa điểm trọng yếu. Toán thám kích do tôi chỉ huy trấn đóng nhà thương Cơ Ðốc lúc bấy giờ còn đang xây cất dở dang và một dãy cao ốc đối diện.

Ðã được chỉ thị từ trước, tôi cho anh trung sĩ toán phó chọn hai người lính có kinh nghiệm sử dụng M72, thiết lập hai tổ chống tank di động trải dài dọc theo bờ rào bằng gạch táp- lô (concrete block) nằm cạnh lề đường. Một tổ khác nằm trên cao ốc đối diện. Tôi theo tổ thứ tư đóng ở nhà thương Cơ Ðốc…

Phối trí đơn vị xong thì trời cũng đã đứng bóng, trong lòng tôi đầy ắp những lo âu và căng thẳng tột cùng: giặc vào Ðô Thành dân chúng sẽ ra sao. Ðánh giặc trong thành phố thật là điều mới mẻ trong kiến thức quân sự nhỏ bé của tôi. Từ cao ốc nhìn xuống nhũng dãy phố chung quanh, tôi tưởng như những dãy đồi trùng điệp với nhũng địa đạo bí hiểm bên trong. Trong đầu tôi lóe lên kế hoạch sử dụng những toán trẻ đưa tin như Huân tước Baden Powell (ông tổ của Phong trào Hướng đạo) để chống lại sự xâm nhập bằng đặc công của địch. Tôi lịm người thiếp đi trên vai người hạ sĩ mang máy PRC25 với giấc mơ tuổi thơ của những trò chơi lớn. Những đêm mất ngủ lo âu đã kéo đôi mi tôi sụp xuống.

Tình quân dân

Tôi giật mình tỉnh giấc vì những tiếng rè rè của PRC 25 từ Tổ 1 gọi lại: K đây Hắc Báo! nghe rõ trả lời. Tôi đáp: 5/5. “Có 2 con tôm đang bò lại nghe rõ trả lời! 5/5 tôi đáp gọn nhưng trong lòng hoang mang với danh từ mới mẻ này. Cua là tank của địch, én hay chuồn chuồn là các loại phi cơ, còn tôm… tôi đảo mắt nhìn xuống mặt đường, hai chiếc xích lô đang đậu lại, trên mỗi xe là một giỏ cần xé đầy được phủ bao đệm, không biết cái gì bên trong. Tôi giật mình thét lên: “Ð.M. coi chừng!” rồi nhảy từ lầu một xuống một đụn cát bên dưới, người hạ sĩ mang máy cũng nhảy theo. Toán phó H. đã nhanh chóng dẫn tổ ba người của anh tràn lên mặt đường, phối hợp với tổ trực đang gác trên đường để cô lập hiện trường, một mặt kềm chế những chiếc xích lô, một mặt chận đứng giao thông. Tôi đích thân gọi các toán trưởng khác cùng lên máy. Một người đàn bà ăn mặc bình dân từ sau giỏ cần xé của chiếc xích lô bước xuống với vẻ ngạc nhiên lẫn hốt hoảng: “Tôi đem đồ ăn tới cho lính mình mà.” Trung sĩ nhất H. quay nhìn tôi chờ lệnh.

Thấy hơi quê với đàn em, tôi làm như tay sành điệu, đưa bàn tay phải ra, chúm năm đầu ngón tay lại rồi dùng ngón chỉ của tay kia chạm vào chúm tay nọ rồi bung năm đầu ngón tay ra (hiệu lệnh lục soát tôi mới học lóm được). H. hiểu ý, sai một lính dưới quyền trải tấm poncho mỏng bên lề đường, (đời lính ăn ngủ và hy sinh gói trọn trong tấm poncho).

Người đàn bà cùng hai phu xích lô lần lượt chất chả và bánh mì xuống poncho dưới sự quan sát cẩn thận của H. rồi tất tả cùng đạp đi như sợ người khác nhận diện, không kịp nhận một lời cảm ơn. Tôi giao cho H. xử lý mọi việc, không quên nhắc anh ta chia đều cho các toán khác và “cúng dường” ban chỉ huy biệt đội.

Bữa cơm trưa thật ngon miệng, những lát chả thơm ngon lạ lùng sau một tuần lễ gạo sấy, cá hộp làm ấm cả lòng người (ration C chỉ còn là huyền thoại). Nhìn khuôn mặt những người lính tươi lên, có lẽ họ cũng thấy ấm lòng như tôi và tay súng của họ sẽ ghì chặt thêm trong trận chiến.

Trời dần về chiều, những tin tức bất lợi dồn dập đưa tới, tiếng nổ xa gần của đại pháo không làm tôi quan tâm đến nữa. Những chiếc xe buýt chật cứng người được Mỹ cho đặc ân di tản chạy về hướng Tân Sơn Nhất báo trước sự chạy làng của cái gọi là “Ðồng Minh,” chúng tôi chỉ chận lại xem xét giấy tờ và tịch thâu tất cả vũ khí trên xe để phòng ngừa rối loạn có thể xảy ra.

Họ ra đi cho bản thân riêng, chúng tôi ở lại vì nhiệm vụ chung của người lính cho đến giờ phút cuối, không mảy may than phiền thắc mắc.

Tối đến trong căng thẳng, sau bữa cơm chiều, tôi ra lệnh cho các tổ giữ vững cách phối trí nhưng thay đổ vị trí để ngừa đặc công. Tổ chỉ huy của tôi di chuyển qua bên kia đường đóng trên một cao ốc. Khuya hôm đó, H. toán phó, chuyền tay đến tôi một chai Johny Walker với hàng chữ thật dễ thương ghi bên ngoài: “Tặng các anh.” Chúng tôi chuyền tay nhau hết chai, đỏ mắt lên chờ sáng.

Ngao du sài gòn


Hôm nay đã là ngày 29, 08 ngày mang chiếc lon thiếu úy mới toanh trên trên cổ áo với những nhiệm vụ thật mới lạ và bất ngờ không có trong binh thư, tôi cũng đã quen dần với đời sống lính rừng trong thành phố. Suốt gần 4 năm quân trường, có bao giờ tôi nghĩ đến tình huống ngộ nghĩnh như thế này: Ðường đường một đơn vị lính trận mà phải chia nhau đứng gác đường như những anh chàng cảnh sát bạn dân không bằng. Thật rõ chán, lòng lại nóng như lửa đốt vì những tin tức bất lợi dồn dập đưa đến không ngừng qua các đài phát thanh. Ðất nước tan hoang, gia đình di tản không nơi ăn chốn ở.

Người yêu duy nhất của tôi lúc bấy giờ đã một lần đến thăm tôi nắm tay để nói lời từ biệt, nàng muốn ra đi với một ông lớn nào đó trong Bộ Dân Vận Chiêu hồi, nơi nàng đang làm việc. Lòng tôi thật rối như tơ vò nhưng ngoài mặt vẫn lạnh như băng.

Tội nghiệp những người lính đang trông chờ tất cả vào tôi, họ nhìn thẳng vào mắt tôi mỗi khi có biến động dầu chỉ là tiếng nổ của đạn pháo xa xa.

Quả thật phòng thủ không phải là sở trường của một đơn vị đầy tính chất linh động như thế này.Và chúng tôi bắt đầu cảm thấy mình như những con vật nửa người nửa ngợm. Bộ đồ dù này chỉ đẹp trong những buổi sớm chiều trong rừng già trùng điệp, hay trên bãi chiến trường khét mùi thuốc súng.

Ngày 29 trôi qua thật nhàm chán, thỉnh thoảng chỉ nghe vài tràng liên thanh nhỏ, không khí ngột ngạt, một sự yên lặng ngấm ngầm ghê rợn. Lệnh tử thủ vẫn được nhấn mạnh từ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương. Trong ánh mắt những người lính gan lì đã thoáng lên sự nhàm chán. Tôi chợt nghĩ ra một cách để giải khuây: Hai tiếng đồng hồ phép cho tất cả mọi người, một quyết định thật táo bạo trong tình huống bấy giờ, nhưng không biết tại sao tôi lại tin tưởng hoàn toàn ở những người lính chịu chơi này.

Tôi im lặng phối trí lại các tổ tam đầu chế, mỗi tổ có một người biết đường đi nước bước ở Sài Gòn. Ðúng 8 giờ tối, tôi cho tổ đầu tiên âm thầm lên trình diện.

Tôi ra lệnh ngắn gọn:

– Tao cho tụi bay đi chơi, đúng hai tiếng, mỗi đứa chỉ được mang theo một trái mini, súng đạn để hết lại đây, thằng tổ trưởng giữ cây P38 này của tao nghe. Ði về cho đúng giờ để thằng khác còn đi. Nhớ cẩn thận.

Ðầu tiên là ngạc nhiên và sau đó là những nụ cười sáng rỡ, hồn lính thật ngây thơ. Một tiếng dạ ngắn rồi ba chàng ngự lâm biến mất trong màn đêm, tôi bắt đầu lo âu chờ đợi… Và họ đã trở về đầy đủ, đúng giờ với những nụ cười hồn nhiên pha một chút bẽn lẽn khi nghe tôi hỏi: “Dzui không tụi bay.”

Khi các tổ đã về đầy đủ, tôi cũng tự cho phép tôi, mượn chiếc Honda, chạy vội về thăm gia đình đang tạm trú ở nhà người quen gần đó sau khi di tản từ Qui Nhơn. Tôi chỉ kịp ôm hôn Mẹ tôi, trấn an bà vài câu rồi vội vã ra đi, mang theo ánh mắt luyến lưu chịu đựng của một bà mẹ VN tiễn con đi trong những giờ phút cuối.

Ðôi co trên lửa đốt

Khoảng 5 giờ rạng sáng ngày 30 Tháng Tư, toán thám kích chúng tôi như một chú sư tử ngái ngủ trong cũi sắt giữa một thanh phố bỏ hoang. Bỗng nhiên tiếng gầm của đại pháo và súng chống tank vang lên dữ dội từ hướng Lăng Cha Cả, cùng lúc tiếng rè rè của máy PRC25 vang lên, tôi vươn mình chụp vội cần liên hợp không kịp chờ anh hạ sĩ mang máy. Lệnh chuẩn bị hành quân từ đại úy biệt đội trưởng.

Qua đối thoại ngắn ngủi, tôi biết rằng biệt đội đang chận đứng một đoàn Tank của cộng quân không rõ bao nhiêu chiếc và đã nướng được 4 con. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị thật nhẹ để nhảy chân chim, một lối nhảy trải mỏng từng tổ một và thay đổi vị trí liên tục để gây hoang mang trên đường tiến của địch quân. khu vực và phương tiện sẽ được chỉ định sau.

Tôi ra lệnh cho thuộc cấp chỉ mang theo những trang bị nhẹ nhàng nhất và chuẩn bị tinh thần cho những trận cận chiến và chống tank. Vài người lính rút chiếc dao găm ra ngắm, liếc nhẹ vào nòng súng vài cái, đút lại vào bao rồi vỗ mạnh, tôi biết họ đã sẵn sàng và thật điệu nghệ. Có người còn nhổ một bãi nước bọt vào nòng súng, có lẽ vì một thói quen cố hữu.

Chúng tôi nóng lòng đợi chờ lệnh hành quân như những con ngựa chiến bị ghìm cương, mắt trợn trừng lồng lộn, bạn bè cùng đơn vị chúng tôi đang sống chết với giặc ngoài kia, sao chúng tôi đành ôm vó đợi chờ vô tích sự, và tôi như một chàng trai tân đang chờ đợi cuộc hẹn đầu đời với con gái của Ma Vương.

Cái đợi chờ làm tôi bồn chồn nóng nảy lẫn lo âu như một chú cá đang bị nướng sống trên lò lửa nóng, mắt tôi đỏ gừ, hơi thở dồn dập, mặt tôi tê dại đi không còn cảm giác. Tôi cắn chặt hàm răng, cố thở thật sâu để nén đi cảm xúc của mình rồi lừ mắt nhìn thẳng vào mặt của từng người lính. Bất giác, tôi chưởi thề lớn tiếng: “ÐM. tao như đứng trên lửa…” và cứ thế thời gian trôi qua như thử thách sự dẻo dai của những dây thần kinh đang căng thẳng đến cùng cực. Ðể đốt thời gian, trấn an tinh thần lính, tôi trải rộng tấm bản đồ, định hướng chính xác, rồi gọi các tổ trưởng đến phân tách và giải thích từng cứ điểm quan trọng trong vùng.

Tuy sẵn sàng nhưng chúng tôi vẫn duy trì nhiệm vụ của mình trong vùng trách nhiệm, các tổ vẫn thay phiên nhau cho người đứng gác đường, chứng tỏ sự có mặt của mình để duy trì trật tự. Ðang trong tình thế căng thẳng đó, một sự kiện buồn cười nhưng cảm động xảy đến làm tôi nhớ mãi.

Người đứng gác đường lúc bấy giờ là một anh trung sĩ tổ trưởng với bộ quân phục đẹp nhất mà anh có được trong túi quân trang. Bỗng nhiên, có chiếc cyclo đậu xịch lại sát bên anh, mọi người đều giật mình chưa kịp phản ứng thì một cô gái trẻ ăn mặc diêm dúa nhảy ra, cô ta cười toe toét, ăn nói líu lo rồi rút ra một xấp tiền dúi vào tay anh chàng trung sĩ trẻ, anh ta đẩy tay cô này ra, nhìn về hướng tôi có vẻ lo lắng vì tôi rất nghiêm ngặt trong nhiệm vụ đứng gác này, sau một hồi đôi co, cô gái tìm cách dúi đại tiền vào túi quần trận của anh trung sĩ rồi leo lên cyclo chạy đi mất.

Tôi ra lệnh cho người khác lên thay gác, kêu anh chàng này đến chấn chỉnh để làm gương. Anh trung sĩ này chỉ biết gãi đầu bứt tai rồi phân trần với giọng đặc sệt miền Nam:

– Hồi hôm, trung úy cho tụi em đi chơi (lại lên lon), em quằm con nhỏ này, tiền bạc đàng hoàng, sáng nay ngang qua đây, nhận ra mặt em đứng gác, nó tội nghiệp, nằng nặc đòi trả tiền lại cho được.

Tôi mỉm cười trong bụng, ra lệnh anh ta quay lưng lại, đá nhẹ một cái vào đít cảm thông. Anh ta xoay người chào tôi với nụ cười trên khóe mắt rồi vội vàng chạy đi thi hành tiếp nhiệm vụ canh gác đang được tạm thời thay thế.

Người lính mang máy


Lúc bấy giờ đã hơn 10 giờ 30 phút trưa ngày 30, lệnh tử thủ vẫn được duy trì, lệnh hành quân tôi vẫn đang chờ đợi mặc dù trên đài phát thanh, Tướng Minh đã tuyên bố và kêu gọi đầu hàng. Chúng tôi, những người lính, chỉ biết tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp của mình. Tôi thấy được trong ánh mắt lính sự hoang mang, trong lòng tôi cũng tự đặt câu hỏi không biết phải làm gì.

Tuy đã quá mệt mỏi với sự đợi chờ và lo âu kéo dài, nhưng tinh thần trách nhiệm trong tôi vẫn còn tỉnh thức: mạng sống của thuộc cấp và sự an toàn ổn định của người dân trong khu vực trách nhiệm lúc bấy giờ là mối quan tâm chính yếu của tôi.

Trên vai trái hai khẩu M72, trong túi áo 4 trái mini, vai phải là cây M16 với cấp số đạn đầy đủ trong túi quần, giắt khẩu P38 ngắn nòng vào dây nịt dưới chiếc áo 4 túi, tôi cố gắng tạo cho mình một dáng đi chững chạc bình tĩnh dẫn anh hạ sĩ mang máy đi một vòng thăm hỏi nói chuyện với từng người lính, tinh thần họ hơi xao động vì không biết việc gì sẽ xảy ra, nhưng những người lính gan lì này vẫn quyết tâm sát cánh bên tôi cho đến giờ phút cuối, thật không hổ danh là những con cọp biết nhảy dù. Không biết tôi trấn an họ hay chính họ đã làm lòng tôi ấm lại và vững vàng hơn.

Tôi biết rằng một sơ sẩy của tôi trong lúc này có thể đưa đến cái chết thật oan uổng cho những người lính quả cảm trung thành ấy. Chúng tôi như keo sơn sống chết có nhau, quan cũng như lính, sự hiểm nguy thật công bằng trong những đơn vị nhảy toán này. Ðây đã là giờ thứ 25, tất cả đều im lặng vô tuyến, tôi rít một hơi thuốc dài cuối cùng rồi dùng ngón tay bóp nát đóm thuốc lúc nào không biết. Mãi lo nghĩ đến sự an nguy của thuộc cấp, tôi quên hẳn đi thân phận của chính mình.

Ðang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng nhiên, một chiếc Peugoet 404 màu trắng bóng loáng thắng rít cạnh lề đường, gần chỗ tôi đang đứng, một người đàn bà đứng tuổi, ăn mặc sang trọng xuống xe, chạy vội lại ôm chầm lấy người hạ sĩ mang máy, bù lu bù loa:

– Con ơi con! Sao giờ này con còn ở đây con! Về với má đi con.

Trong tình huống này, tôi không biết phải làm gì, có nên giữ anh ta ở lại đơn vị trong giờ phút thứ 25 này không? Suy nghĩ thoáng nhanh trong đầu, tôi vội bước lui vài bước, quay đi hướng khác, để tùy anh ta định đoạt. Qua ánh nắng đỗ nghiêng, tôi thấy bóng anh ta quay lại phía tôi im lặng hồi lâu, rồi với giọng trầm buồn nhưng quả quyết:

– Má về đi, con ở lại với thiếu úy à.

Tôi bất giác quay lại nhìn anh, nén vội dòng lệ đang trào dâng lên mắt. Tình đồng đội, tinh thần trách nhiệm hay khí phách của một người trai đã giữ anh ở lại với chúng tôi trong những giờ phút cuối cùng tuyệt vọng đó. Ðơn giản quá một câu trả lời ngắn ngủi, nhưng nó hàm chứa tâm tình của một hào kiệt, và tâm tình đó không thiếu trong đơn vị dù mũ xanh này.

Người mẹ không biết làm gì, quay lại phía tôi với ánh mắt nhìn cầu cứu, một lần nữa tôi lại phải ngoảnh mặt để tránh đi một tình huống ngỡ ngàng khó xử. Trong đầu tôi thoáng hiện lên hình ảnh luyến lưu chịu đựng của mẹ tôi đêm hôm trước.

– Thôi, mẹ về, con nhớ lời mẹ dặn.

Bà chỉ nói được bao nhiêu, rồi ôm chầm lấy con thổn thức. Người lính mang máy đứng thẳng người, hai tay trong túi quần trận, đầu ngẩng cao, cắn chặt răng, quai hàm bạnh ra, trông anh vững vàng như một cổ thụ đang cố đè nén những cơn bão táp phong ba dữ dội trong lòng.

Người mẹ sau đó lau vội nước mắt, đi chậm chậm về hướng chiếc xe, tôi đưa mắt ra hiệu cho anh trung sĩ toán phó đang ở gần đó đến mở cửa đứng chờ. Bà lẳng lặng bước lên xe nổ máy, ngồi nhìn con một lúc rồi từ từ lái xe đi sau khi quay lại đón nhận cái gập mình cúi đầu chào tôn kính của tôi.

Quả cảm thay người lính, bao la thay lòng hy sinh của người mẹ trong chiến tranh. Lòng tôi chạnh lại dưới ánh nắng dã dượi của Sài Gòn trong ngày tàn cuộc.

Ðầu hàng rồi

Lòng bàng hoàng xúc động về lòng trung thành của anh hạ sĩ mang máy đối với đơn vị, tôi ngẩn ngơ đứng lặng người, nhìn bâng quơ lên bầu trời ám khói hanh vàng.

Lúc bấy giờ đã gần 11 giờ, dân chúng di chuyển tấp nập, thỉnh thoảng họ lén đưa ánh mắt ái ngại nhìn về phía chúng tôi. Họ đang nghĩ gì về chúng tôi?: những nhân chứng của chiến tranh, hình ảnh hào hùng đã trôi vào quá khứ, hay những hình nộm được trưng bày không đúng thời hợp lúc. Mặc cho những suy nghĩ thị phi, chúng tôi vẫn chu toàn nhiệm vụ của mình trong vùng trách nhiệm: bảo vệ mạng sống của binh sĩ dưới quyền và sự an toàn ổn định của người dân cho đến khi có lệnh mới.

Một tràng M16 nổ giòn tan kéo tôi ra khỏi những suy nghĩ vẩn vơ, tiếp theo là tiếng thét thất thanh phẫn nộ: “Ð.m nó! Ðầu hàng rồi. Ðầu hàng rồi.” Một toán lính Dù gồm một người có vẻ là cấp chỉ huy và 3 người lính xuất hiện ở ngã ba cuối phố, họ di chuyển về phía chúng tôi không được bình tĩnh. Thỉnh thoảng, người chỉ huy bắn một tràng M16 rồi lại thét lên: “Ð.m nó! Ðầu hàng rồi.” Trên vai anh, một dòng máu chảy dài xuống cánh tay còn nhỏ giọt, ba người lính với khuôn mặt đanh lại lạnh lùng im lặng đi theo bảo vệ.

Tôi ra dấu cho thuộc cấp giữ ổn định tại vị trí của mình. Chúng tôi đã dùng áp lực tước vũ khí nhiều toán quân lẻ tẻ không tổ chức khi họ qua phòng tuyến của chúng tôi để vào Sài Gòn nhằm tránh những hỗn loạn đáng tiếc trong thành phố. Nhưng đây là một trường hợp thật nguy hiểm và khó khăn.

Chúng tôi tôn trọng những người anh em lính Dù mũ đỏ này với những chiến công lừng lẫy. Nhìn tình đồng đội của họ trong hoàn cảnh tuyệt vọng hiện nay cũng đủ thấy tinh thần và hiệu quả chiến đấu của họ như thế nào khi lâm chiến. Làm sao đây để chận đứng những hành động nguy hiểm chết người có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cơn cuồng nộ phẫn uất ấy.

Một suy nghĩ táo bạo thoáng qua trong đầu, tôi lột chiếc nón sắt đưa cho một thuộc cấp, gác hai khẩu M72 bên vệ đường, rút trong túi áo ra chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, mang cây M16 trên vai, khoác tay ra dấu cho thuộc cấp cùng đứng lên, rồi với thái độ bình tĩnh ung dung, tôi dẫn anh hạ sĩ mang máy chậm bước đến vị trí người lính đang đứng gác giữa đường. Một tràng M16 nữa lại nổ vang, toán lính Dù này chỉ còn cách chúng tôi khoảng 30 thước, và họ vẫn chưa nhận thấy sự hiện diện của chúng tôi. Họ tiến gần chúng tôi khoảng 20 thước nữa, một tràng đạn chỉ thiên lại nổ giòn trên không. Tôi hít một hơi thở sâu, dùng hết sức thét lên

” N-G-H-I-Ê-M.” Ðúng là lính, họ giật mình dừng lại nhìn quanh, thấy chúng tôi với quân trang và vũ khí đầy đủ, có lẽ cảm thấy ấm lòng trong vùng kiểm soát của một đơn vị bạn, họ dừng chân và hơi bình tĩnh trở lại, chúng tôi nhìn nhau, chung bộ đồ Dù, một là chiếc nón đỏ với những trận chiến vang danh, một là chiếc nón xanh với những hoạt động biệt cách đởm lược. Tôi tiến đến bắt tay anh, người chỉ huy toán lính Dù quả cảm. Chúng tôi im lặng nhìn nhau, anh vẫn còn thì thào: Ð.m nó!…

Tôi đích thân đưa anh vào một căn bỏ trống trong tòa cao ốc, kêu toán phó băng bó vết thương ở vai và lưng cho anh rồi vội vã bỏ ra ngoài sau khi đưa cho anh chiếc áo dù còn mới toanh của tôi để thay chiếc áo đã bết máu khô. Ba người lính Dù vẫn lặng lẽ bám theo anh không rời một bước.

Tôi không nhớ anh mang cấp bậc nào, nhưng chỉ biết toán lính Dù này rút về đây khi trại Hoàng Hoa Thám đã hoàn toàn thất thủ. Sau khi chuyện trò thuyết phục, họ đã đồng ý ở lại với chúng tôi và trở thành một tổ mới trong toán. Về sau toán lính Dù này đã theo chúng tôi cho đến tọa độ cuối cùng.

Tọa độ cuối cùng

Thời gian như dừng lại, cái nắng ảm đạm của Sài Gòn như chuyên chở tâm tư tôi trở về với những thực tại phũ phàng:

Sụp đổ rồi ư những hoài bão ước mơ vá trời ngang dọc, có làm được gì không trong cơn tuyệt vọng cùng đường này.

Ðầu óc tôi trống không mụ mẫm. Cổ họng tôi khô quánh lại. Những người lính của tôi dễ thương và tội nghiệp quá, làm sao để bảo vệ mạng sống của họ trong hiện tại và dẫn dắt họ trong đời sống vô định của một tương lai đen tối. Vì trách nhiệm, tôi bám chặt họ để làm lẽ sống.Vì quả cảm trung thành, họ quyết theo tôi cho đến bước đường cùng. Tôi đứng như trời trồng, nhìn sững xuống chân thấy bóng mình dần thu ngắn lại.

Tiếng rè rè của PRC25 làm tôi giật mình, đích thân đại úy biệt đội trưởng ra lệnh hành quân, các sĩ quan trong ban chỉ huy biệt đội đã đồng ý một kế hoạch rút quân về tòa nhà Quốc Hội, giá súng tại đây, tuyệt đối không buông súng trong vùng trách nhiệm. Trung đội thám kích mở đường và tập hậu, chiếm các cao ốc làm điểm tựa cho cuộc rút quân.

Tôi tê dại đánh rơi cần liên hợp xuống mặt đường. Vậy là hết!…

Sững người trong phút chốc, tôi buông thõng:

– Ði.

– Ði đâu thiếu úy. Người toán phó nôn nóng hỏi.

Tôi nhìn anh ta với đôi mắt ngầu lên uất hờn tủi nhục rít qua kẽ răng đang nghiến chặt:

– Lệnh hành quân về Quốc Hội. Tôi đáp gọn rồi kịp quay đi dấu đôi dòng lệ trào tuôn không cầm được.

Biệt đội đã bắt đầu di chuyển, ba toán nhảy theo chân sáo mà điểm đậu là các tòa cao ốc để bảo vệ các trung đội xung kích di chuyển trên mặt đường. Toán chúng tôi tuy vẫn giữ nguyên tắc tổ tam đầu nhưng tụ lại cho ấm cúng hơn.

Bỗng nhiên, tiếng máy của T54 đồng loạt gầm lên trên khắp ngả đường, những khối sắt đen đồng loạt bò ra dừng lại án ngữ những điểm chính yếu rồi đứng lại đe dọa, có tiếng click nhẹ của những khẩu M72 dương nòng, tôi chưa kịp phản ứng gì thì nhìn quanh, những người lính thiện nghệ của tôi đã vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, tôi vụng về dương nòng cây M72 rồi ẩn mình sau một gốc cây lớn vệ đường quan sát.

Một sự im lặng căng thẳng cùng cực, T54 gục nòng trong tư thế trực xạ, M72 đã sẵn sàng với biểu xích đã bật lên, súng ghìm súng, mắt long lên theo từng động tĩnh của đối phương, chỉ cần một tiếng súng nổ là khai hỏa một trận chiến không ai lường được hậu quả. Lúc bấy giờ khả năng tham chiến của Biệt Ðội 817 chúng tôi vẫn đầy đủ.

Chiến công cuối cùng của Biệt Ðội 817 Liên Ðoàn 81 BCD ngay giữa Thủ đô Sài Gòn sáng ngày 30 Tháng Tư, 1975

Ðang trong phút im lặng tử thần đó, một sĩ quan, nếu tôi nhớ không lầm là một toán trưởng kỳ cựu trong trung đội thám kích, một cánh tay phải của biệt đội trưởng, đứng thẳng người, mạnh dạn bước ra, nhìn về hướng biệt đội trưởng như chờ sự chấp thuận. Nhận được thủ lệnh, anh từ tốn cởi bỏ vũ khí để xuống mặt đường, rồi dõng dạc bước ra đứng giữa đường lớn tiếng:

– Chúng tôi, Biệt Ðội 817 Biệt Cách Dù, chúng tôi không buông súng trong vùng trách nhiệm, chúng tôi đang hành quân về Quốc Hội để trả vũ khí lại cho dân. Giọng anh sang sảng bằng tiếng Bắc 54.

Phía đối phương không động tĩnh một hồi lâu, có lẽ họ đang liên lạc để chờ lệnh trên hay để đánh giá lực lượng chúng tôi trước khi quyết định việc gì. Sau đó, từ chiếc T54 phía sau, một người bên đối phương bước xuống nói chuyện với anh sĩ quan toán trưởng này, hai bên tranh luận giằng co, lúc nhẹ nhàng, khi lớn tiếng, cuối cùng, anh toán trưởng quay trở lại, khuôn mặt đỏ ngầu. Vì sự an nguy của đồng đội, anh đã cố nén đi sự phẫn nộ, có lẽ anh đã quen nói chuyện với địch quân bằng một phương pháp cứng rắn hơn.

Sau khi về lại vị trí, anh toán trưởng này đã gọi mọi người cùng lên máy và chúng tôi nói chuyện bằng bạch văn.

Tôi được biết đối phương đã đồng ý để chúng tôi tiếp tục hành quân về tòa nhà Quốc Hội, nhưng hai bên cùng thỏa thuận: trên lộ trình hành quân, nếu gặp nơi đối phương đang trú quân, chúng tôi phải vác súng lên vai và ngược lại, khi chúng tôi nghỉ chân thì bất cứ đơn vị nào của đối phương đi chuyển qua cũng phải vác súng lên vai không được ở tư thế tác chiến.

Ðại úy biệt đội trưởng ra lệnh tiếp tục hành quân.

Chúng tôi câm lặng di chuyển, trong lòng thấm dần niềm đau nỗi nhục, nhìn quang cảnh phố phường lẫn lộn đỏ xanh của màu cờ gạt lừa dối trá.

Dân chúng hai bên đường nhìn chúng tôi như những bóng ma đang đi chuyển trong một nghĩa địa hoang tàn của Sài Gòn sau cơn binh lửa.

Ðến ngã tư Trương Minh Giảng-Công Lý, một lần nữa tiếng gầm rú của T54 lại vang lên như đang cố gắng nghiền nát tinh thần chúng tôi. Ðối phương đã huy động một lực lượng chiến xa lẫn chủ lực đáng kể nhằm khống chế chúng tôi tại chỗ. Toán nhảy tiền phương đã bị chận đứng không thi hành được nhiệm vụ vì đối đầu với những khẩu 3.5 đang theo dõi bước chân của từng người lính thám kích. Nhìn chung quanh, đại pháo của chiến xa trên các ngả đường dang gục nòng sẵn sàng khai hỏa. Toán nhảy tập hậu đã gọi về báo một tình trạng tương tự ở sau lưng, trên các cao ốc đối phương đã hoàn toàn trấn giữ.

Chúng tôi nhìn nhau không biết phải làm gì, Biệt đội trưởng lắc đầu chậm chạp, từng khuôn mặt lặng câm không cảm xúc. Một cảm giác tê dại chạy khắp người tôi từ bàn chân lên đến đỉnh đầu. Tâm trí hoàn toàn trống không, tôi đứng như trời trồng uất nghẹn, mắt trợn trừng nhìn vào cõi hư vô, tai ù lên chỉ còn nghe tiếng mạch máu nhảy lên trong lồng ngực. Tôi nói như trong mơ:

– Các anh về với gia đình đi.

Từng người lính rời xa, trái tim tôi quặn thắt.

Tôi không nhớ việc gì đã xảy ra sau đó, nhìn chung quanh trống vắng lạnh lùng, nòng đại pháo trên các chiến xa T54 vẫn còn nhìn tôi với con mắt chột đen ngòm lạnh lẽo.

Tôi lặng lẽ trút bỏ quân trang và vũ khí trên người, giắt khẩu P38 ngắn nòng vào thắt lưng, đặt chiếc nón sắt nhẹ nhàng xuống một gốc cây gần đó, rút chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, vuốt sơ lại bộ quân phục đã nhàu nát và bước đi giữa những vết tích tàn lụn ngổn ngang của binh sĩ, như kẻ mộng du, nhắm về hướng Suối Máu, như loài cá vô tri tìm về nơi chốn đã khởi đầu một cuộc hành trình dĩ vãng.

Tôi bước đi như vào chốn không tên, tất cả giác quan đều ngưng hoạt động, mắt nhìn đăm đăm trơ dại, tai ù lên những tiếng vo ve nhức nhối, miệng lưỡi đắng khô và chân tôi đều bước nhịp quân hành… Lúc bấy giờ trời đã nghiêng bóng, có lẽ đã hơn 2 giờ…

– Niên trưởng! Niên trưởng! Trời ơi, giờ này mà niên trưởng còn mặc đồ này đi coi chừng tụi nó bắn chết.

Một khóa đàn em hay một người lính nào đó nắm tay tôi, vừa la thất thanh vừa kéo tôi vào một hẻm nhỏ bên kia cầu xa lộ . Anh ta giằng lấy nón, cởi phăng áo tôi ra, rút khẩu P38 gói vào trong áo chung với chiếc nón xanh dấu vào một góc nhà, rồi khoác vào tôi một chiếc áo sơ mi cũ nhàu nát loang đốm vết dầu. Sau đó quăng cho tôi một chiếc quần cũng nhàu nát không kém và một đôi dép Nhật, tôi lặng lờ theo lời anh thay đôi giày và chiếc quần trận ra như một kẻ không hồn.

Anh dẫn tôi ra lại xa lộ, nắm tay khẽ bảo: “Niên trưởng về nhà đi.”

Và tôi lại lững thững bước đi… Như một xác âm binh lạc lối…

Bước chân tôi dừng lại trước căn nhà trọ của gia đình đã di tản từ Qui Nhơn hơn tháng qua. Nhìn qua khe cửa hé mở, tôi thấy Mẹ tôi ngồi im lặng một góc theo lối Kiết già, Bà đang niệm Phật để nguyện cầu cho quốc thái dân an, hay cho hai đứa con trai đang còn mải mê ở chiến trường đâu đó. Tôi khẽ lách cửa bước vào, hai người chị gái tôi ngồi bệt dưới đất trong tư thế đợi chờ ngột ngạt không biết chuyện gì sẽ xảy đến.

– Mạ! tôi khẽ kêu lên.

Cả nhà nhìn lên tôi, ngạc nhiên, sững sờ, bể dâu của cuộc đời đã thể hiện cả lên hình hài tôi qua bộ đồ dân sự nhàu nát.

Mẹ tôi nhìn tôi từ trên xuống dưới, cái nhìn đau đớn đến vô hồn của một bà Mẹ đi nhận xác con.

Vâng! con của Mẹ đã chết trong ngậm ngùi, mang theo những hoài bão ước mơ vá trời lấp biển, và nó đang về đây với cái xác không hồn từ cõi âm ti…

Tôi viết lên những dòng chữ này để nhớ đến những người lính quả cảm trung thành cùng binh chủng. Ðây là dấu tích sau cùng của riêng tôi trong đoạn đường binh nghiệp ngắn ngủi.

Trong những ngày cuối Tháng Tư Ðen, hãy chia sẻ niềm đau với biết bao nhiêu người trai trẻ đã bị sống trong cảnh bức tử oan nghiệt.

Thượng cấp, vì quá lệ thuộc vào ngoại bang, đã tước bỏ đi của chúng tôi cái quyền căn bản của các cấp sĩ quan trẻ đầy lý tưởng và nhiệt huyết:

“Quyền được chiến đấu để đi đến chiến thắng hoặc hy sinh bên cạnh những người lính thân yêu.”

Khóa 28 Võ Bị Ðà Lạt

Bui Ngoc Thang
(713) 820-1470
21226 Somerset Park Ln
Katy, TX 77450
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 5 guests