Cổ tích ngày Xuân: Truyện người đi tìm mùa Xuân bất diệt …
Gần đến mùa xuân đầu tiên của những người tù cải tạo, trong không khí hoang mang sau đợt chuyển trại,cũng như sau bản án tử hình định sẵn cho Đ/U Lê phúc Thịnh vì chuyển thư khi đi lao động, lệnh từ trên xuống, lán 9 sẽ phụ trách làm “báo tường” (bích báo) cho cả đội, và người chịu trách nhiệm cũng đã được trên phân công: cải tạo viên Dzư văn Tâm, tức nhà thơ nhà văn Thanh Tâm Tuyền. Một buổi họp nhanh gọn để quản giáo Thanh phổ biến mục đích yêu cầu của tờ báo tường: làm cho mọi người thấy được sự vĩ đại của đại thắng mùa Xuân 75, sự khoan hồng của Cách mạng, cũng như nhiệm vụ của mỗi CTV là phấn đấu học tập tốt để trở về xum họp với người thân cũng như tìm lạimột vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc. Chúng tôi ngồi nghe một tai, bởi ngay người cả tin nhất hình như cũng đã đánh rớt niềm tin sau đợt học tập những bài chính trị cùng những bản tự khai khai đi khai lại nhiều lần vẫn bị kiểm điểm là chưa đạt… Trước khi kết thúc, quản giáo Thanh hỏi ai có thắc mắc giơ tay. Anh TTTuyền nẫy giờ ngồi im lặng, mới thủng thỉnh đưa ý kiến, “đề nghị anh quản giáo cho anh em nghỉ lao động để sáng tác”. Nhíu mày một chút, rồi quản giáo Thanh đồng ý, “cũng phải, thế này nhé, tùy bài dài ngắn, từ một đến hai ngày nghỉ lao động”. Trước khi ra về, anh không quên nhấn mạnh, “nhưng nhiều nhất là hai ngày lao động thôi nhé”…
Tôi biết anh Thanh Tâm Tuyền khi anh thỉnh thoảng đến nhà trò truyện cùng cha tôi, lúc ông đang thời kỳ gom góp tư liệu để thực hiện quyển Văn Thi Gia Phổ Trạng Lược Khảo. Biết đây chỉ có nghĩa là tình cờ đi về nhà gặp anh thì lên tiếng chào rồi né đi chỗ khác, chứ chưa hề được làm quen hay trò truyện, dù đã đọc thơ và văn anh trên Sáng Tạo, Văn.. . Chả thế, khi bị biên chế về chung lán, thấy mặt anh quen quen, lại thêm tên Dzư văn Tâm, phải hỏi dò mới biết đích thị anh là Thanh Tâm Tuyền (Trong lán còn có em anh, Phạm văn Chất, Thẩm Phán Tòa An Quân sự Vùng – là hai anh em ruột nhưng vì hoàn cảnh nên mang khác họ…). Anh sống rất ung dung điềm đạm. Suốt thời gian ở chung chỉ một lần tôi thấy anh nổi nóng là trong một ván mà chược (thuở chưa bị trại cấm, vì còn được ngụy trang là chơi bài Trung quốc..), ván ấy có một người chơi hơi xấu tính.
Sáng hôm sau anh bảo tôi, “cậu cũng nên nghỉ lao động ở nhà viết một bài”. Tôi cười, “thưa anh, em nghĩ đi ra ngoài khỏe hơn, cả tay chân lẫn đầu óc”. Anh cười, “thế à”. Bẵng đi vài ngày, một buổi chiều lao động về, anh vẫy tay gọi nhỏ, “cậu lại đây tôi cho xem cái này”. Tôi theo về chỗ anh nằm. Bên cạnh cái điếu dã chiến bằng nhôm chạm rồng của một người bạn làm cho anh (anh có tham gia gọt nõ), bừa bãi những tờ giấy sáng tác mừng Xuân của các CTV. Bài dài ngắn khác nhau, đủ các kiểu chữ, từ nguệch ngoạc chiếu lệ(cho phải phép hai ngày nghỉ lao động), đến nắn nót o bế, dù cùng một loại giấy do trại cung cấp. Anh chờ tôi hút xong bi thuốc, lơ mơ nhả khói mới nhỏ nhẻ, “thế này thì chuế quá, cậu ạ”. Tôi nhìn anh dò hỏi. Anh hất hàm, “cậu đọc thử đi”. Tôi cầm lên một vài tờ, cả văn xuôi lẫn … thơ. Và càng đọc tôi càng phục con người lúc nào cũng ung dung điềm đạm trước mặt tôi là anh. Chiêu một ngụm nước trà, anh thong thả, “ai thì cũng phải sinh tồn, thân cá chậu thì cũng phải “gặp thời thế, thế thời phải thế”, nhưng ca tụng họ như thế này …”, anh ngập ngừng im lặng như không muốn nói tiếp. Chợt anh lẩm bẩm, “chim mà hót được trong lồng mới là chim …”. Tôi ngậm ngụm trà đắng ngắt trong miệng, chia nỗi buồn cùng anh. Anh bỗng phá tan sự im lặng, “họ bảo tôi phải viết một cái gì…”. Trong ánh chiều mơ, anh ngồi yên lặng như một pho tượng mặt đăm chiêu nhẫn nại. Con người tài hoa ấy mới hai tuần trước đã khiến tôi thật sự tâm phục khi nghe anh đọc bài thơ mới làm, nhân một trưa thứ bẩy đi … nhà xí. Lời thơ đã lâu không còn nhớ, nhưng ý thơ thì không bao giờ tôi quên. Đại ý, anh ngồi trong không khí tù hãm, hôi thối của cái nắng gió Long giao, và phân người tù cải tạo của những hố xí tự đào giữa bát ngát cỏ tranh thiên nhiên, nơi mà ai cũng vội vào và vội ra … Từ những lá cỏ tranh cong vòng vì chĩu nặng những con nhặng xanh, trong ý thơ anh đã nhìn ra chuỗi ngọc biếc quanh chiếc cổ cao trắng ngần của người con gái năm xưa, hồn nhiên và thánh thiện … Tưởng tượng như thế thì chỉ có anh thôi ! Có tiếng gọi đi lãnh cơm. Tôi đứng dậy ngập ngừng, “hay anh cho đăng bài thơ chuỗi ngọc hôm nọ”. Anh bỗng đặt tay lên vai tôi "cậu viết cho tôi một bài nhé”. Tôi ngần ngừ. Anh nhìn thẳng vào mắt tôi, “tôi biết cụ DL. Cậu là con của cụ DL, tôi tin cậu...”.
Gia đình Viên ngoại họ Nguyễn lập nghiệp ở kinh thành, nhiều đời làm quan khá danh giá. Đến Viên ngoại, thuở sinh ra, tiên thiên bất túc, không theo đuổi được nghiệp đèn sách ông cha, đường hoạn lộ ngưng lại từ đó. Khi phương trưởng, bèn mở một cửa hàng buôn bán tơ lụa cho nhà giầu lẫn giấy, bút mực cho danh nhân sĩ tử, cuộc sống cũng trên bậc trung. Viên ngoại thành gia thất sớm, nhưng lớn tuổi mới sinh được một con trai, cưng như trứng mỏng. Nguyễn công tử thông minh dĩnh ngộ từ thuở nhỏ, càng lớn lên tinh hoa càng phát lộ. Viên ngoại mừng lắm, đặt hết kỳ vọng vào con, mong một ngày cháu nối nghiệp ông, đường hoạn lộ từ nay lại thênh thang ngẩng mặt cùng thiên hạ.
Nguyễn công tử đọc rộng hiểu nhiều, bên cạnh cái học từ chương, tài nghề cầm, kỳ, thi, họa nghề nào cũng đi đến chỗ tuyệt đỉnh. Chỉ có điều tự nhỏ tính đã gàn bướng, điều gì đã quyết không ai ép được. Nhiều lần Viên ngoại dục giã con tham dự khoa cử để công danh sớm đạt, công tử đều lắc đầu quầy quậy. Hỏi mãi thì mới thưa, thời buổi nhiễu nhương, cung vua, phủ Chúa, vua quan chẳng giữ đúng cương vị, thiên hạ sắp đại loạn đến nơi, sá gì một chút đỉnh chung để hại đến thân, thậm chí có thể tuyệt luôn dòng dõi. Và Nguyễn công tử cứ thế ngao du sơn thủy, trau dồi, phát triển nghề riêng, đặc biệt là nghệ thuật hội họa cũng như đàn cầm đã vang danh xa khắp, nhiều nghệ nhân từ phương Bắc cũng phải lần mò đến để gặp gỡ trao đổi học hỏi, ai nấy đều bội phục. Không ép được chí hướng con, hai vợ chồng Viên ngoại không khỏi buồn phiền, lại thêm giặc giã chiến chinh ngày một gia tăng khiến công việc làm ăn buôn bán đi đến khó khăn thua lỗ. Chẳng bao lâu, hai ông bà lần lượt theo nhau qua đời.
Lo hậu sự cho cha mẹ xong, Nguyễn bán hết cơ nghiệp, từ bỏ chốn đô hội nhộn nhịp, lại mua một miếng đất ở mé thành Tây, ngoại ô Thăng Long thành, cùng tiểu đồng lui về cư ẩn. Nơi đây phong cảnh hữu tình, cỏ cây hoa lá mơn mởn, non xanh suối trong chạy quanh, Nguyễn lấy làm đắc ý, mặc cho tiểu đồng vẫn buồn lòng vì phải xa chỗ đông vui. Từ đó bên lều cỏ, Nguyễn ngày ngày khi đàn ca hát sướng, lúc vung bút đề thơ, thỉnh thoảng mài mầu múa cọ, cuộc sống rất an nhiên tự tại, tưởng non Bồng xứ tiên cũng chỉ đến thế.
Một hôm, Nguyễn đang vẽ, chợt tiểu đồng chạy lên gặp, thưa rằng nhà hết gạo, rượu, mà tiền cũng chẳng còn. Tiện tay Nguyễn cuộn tròn bức tranh vừa vẽ xong, dặn tiểu đồng mang đi đổi lấy đồ ẩm thực. Tiểu đồng đi đến chiều tối mới về, khệ nệ mang theo, ngoài gạo, rượu, thịt, còn là những đồ thường dùng hàng ngày. Nguyễn đắc ý, họa sĩ xưa nay ít khi nuôi nổi thân mình, vậy mà chỉ với bức tranh nguệch ngoạc "chim núi hứng sương hoa" của Nguyễn, đồ ẩm thực của hai thầy trò khỏi phải lo trong vài ngày, quả là trời có ban cho mình chút tài mọn. Từ đó càng ngông nghênh, khỏi bận tâm vì cuộc sống, tiếp tục vui vầy cùng thiên nhiên, không hay rằng cái gì nhiều quá cũng nhàm, kể cả tác phẩm của nhà danh họa.
Lại một hôm, tiểu đồng khẽ thưa, "tranh lợn gà, chim chóc hoa quả dạo rầy khó bán, xin công tử vẽ tranh mỹ nữ bán thử". Nguyễn lấy làm khó nghĩ. Chàng vẽ tranh theo hiện thực, nhìn thấy gì vẽ nấy. Với Nguyễn, vẽ theo tưởng tượng cũng tỉ như gieo câu thơ sáo rỗng, của kẻ chưa hề trải qua thì làm sao mà động tâm để sinh tình thành tứ thơ, ý họa. Tuy nhiên vì đời thường mà cố. Nguyễn theo tiểu đồng ra ngoài chợ, ngó nhìn những thôn nữ qua lại nhóm chợ, ghi khắc hình ảnh trong tâm, về nhà vung cọ theo ký ức, những bức họa vì thế cũng sống động và đổi ra rất được giá. Người nghệ sĩ không vẽ chỉ vì miếng cơm manh áo. Từ lúc bắt đầu vẽ thiếu nữ, Nguyễn bỗng có một thôi thúc là vẽ được một bức tranh mỹ nhân toàn bích, để vài ba trăm năm sau tên tuổi còn lưu lại cùng bức họa. Bên cạnh những tranh vẽ cho cuộc sống đời thường, Nguyễn năng ra ngoài gặp gỡ quan sát đàn bà con gái nhiều hơn, để dành dụm chất liệu cho đại tác phẩm đã thành hình trong trí tưởng. Chất liệu đã tràn trề: người để lại một khóe mắt môi, kẻ cho chàng mũi cao dọc dừa, người đánh rớt một tiếng cười với hàm răng ngà ... Và ngày để khởi đầu cũng đến. Nguyễn dặn tiểu đồng đừng quấy nhiễu làm mất sự chuyên tâm cũng như hứng khởi của mình. Trước giấy dó trắng tinh, chàng bắt đầu vung cọ, để sau đó, miệt mài chạy theo sự lôi kéo của những đường nét, mầu sắc tự đến... Cuối cùng, sau những ngày mê mải, một buổi chiều nọ bức tranh cũng hoàn thành. Lùi lại ngắm nghía tác phẩm của mình, Nguyễn bỗng ngẩn người nhận ra cái không toàn. Khi vẽ, Nguyễn đã lục lọi khắp ký ức để tổng hợp tất cả vẻ đẹp của riêng mỗi người đã gặp, phổ lên gương mặt của mỹ nhân. Này là tóc, tai, môi, mắt, mũi, miệng ... của từng người đã có đó, tưởng như hóa công cũng không thể làm hơn được. Vậy mà, mỹ nhân tuy đẹp từng chi tiết, nhưng hình như những cái đẹp lại không hoà được cùng nhau, khiến gương mặt như không hồn, tẻ nhạt, ngay cả nỗi buồn vui cũng không tỏ rõ được ... Nỗi thất vọng ập tới như sóng vỡ bờ. Nguyễn đâm ra nghi ngờ tài năng của chính mình, không hay rằng người nghệ sĩ lớn nào cũng chỉ bằng lòng tác phẩm của mình khi còn đang thai nghén. Sẵn vò rượu đầy bên cạnh, chàng bê lên uống cạn một hơi. Rượu thấm, thêm sự phẫn uất, Nguyễn ngã lăn chiêng bên bức tranh bất toàn ...
Trong cơn mê thiếp, có tiếng nhạc ngựa leng keng. Có những bước chân nhè nhẹ của người đến. Có tiếng thì thầm nho nhỏ nhưng vẫn rõ ràng giọng nữ. "Phải chốn này không ?". Một giọng nữ trẻ con khác, "vâng, thưa tiểu thư chính nơi này.. A, công tử đây, thưa tiểu thư". Nguyễn cố ngước nhìn lên, ngây người choáng váng. Trước mặt chàng là một nhan sắc tuyệt thế toàn bích. Cũng mắt, môi, mũi, miệng này... dư một chút cũng hỏng, mà thừa một chút lại càng hỏng hơn, e rằng ngoài bàn tay của hóa công, con người không ai có thể tưởng tượng nổi chứ đừng nghĩ đến vẽ ra được. Thấy chàng cứ ngây người nhìn, cô bé a hoàn đi theo che tay bụm miệng khúc khích. "Tiểu thư nói gì đi chứ ...". Nữ lang quay sang cau mày gắt nhẹ, "cái con bé này, không được thất lễ ...". Cả cái cau mày cũng đẹp như sóng nước hồ thu. Nguyễn lắp bắp, "thưa, thưa ... tiểu thư con cái nhà ai, vãn sinh thật là vạn hạnh, vạn hạnh". Bấy giờ nữ lang mới nghiêng mình thi lễ, miệng nhoẻn cười chúm chím thưa, " Công tử dọn đến thành Tây này đã lâu, là hàng xóm với nhau, nhưng tiện thiếp gần đây công việc đa đoan, nên mãi hôm nay mới có cơ hội sang chào hỏi ....". Nguyễn cứ như bị hớp hồn, miệng dạ dạ, vâng vâng, mà kỳ thực ba hồn chín vía như đã chín tầng cao mây gió, ngay cả kéo ghế mời ngồi cũng lúng túng. Nữ lang thong dong tiếp, "tiện thiếp tuy ở cõi trên, nhưng cũng nghe tiếng công tử, cầm kỳ thi họa, tài hoa tuyệt thế, nên vẫn mong mỏi có ngày được tương ngộ". Nguyễn dần dần lấy lại bình tĩnh, chuyện trò cùng nữ lang, hai bên càng lúc càng tương đắc. Nguyễn cho nữ lang coi những bức tranh còn lại trong thư phòng, đủ mọi thể loại, nhưng tuyệt nhiên không dám đưa ra một bức tranh vẽ người nữ nào khác ngoài bức họa bất toàn đã lỡ thấy. Chàng tự nghĩ, với nhan sắc và phẩm cách của nữ lang, các bức họa về người nữ của chàng chỉ là những nét cục mịch, thô kệch. Chợt lại có tiếng nhạc ngựa từ xa. Nữ lang đứng dậy nghiêng mình tạ từ, "chắc phu quân của thiếp đã cho người đến đón ...". Nguyễn hốt hoảng bước theo, miệng lắp bắp, "xin cô nương cho biết phương danh ...". Chỉ thấy cả hai thoắt rời xa ... Lẫn trong tiếng cười khúc khích của cô bé a hoàn là một giọng thanh trong như ngọc, "Thành Tây có cảnh Bích Câu .... Tiện thiếp là Giáng Kiều xin cáo biệt. Mong công tử bảo trọng ". …
Nguyễn giật mình tỉnh giấc. Ngọn đèn dầu tiểu đồng thắp sáng đã cạn nửa, vò rượu rỗng không lăn trong góc. Có thể nào chỉ là một giấc mơ ? Nhưng mùi hương thanh khiết còn vương lại đâu đây, và nhất là gương mặt, dáng vẻ của nữ lang vẫn hiện rõ mồn một trong tâm trí. Rồi còn những câu chuyện trao đổi, thơ văn đàm đạo, đặc biệt câu nói của nữ lang khi an ủi chàng về sự bất toàn của tác phẩm, “người nghệ sĩ lớn không bao giờ bằng lòng về những tác phẩm đã hoàn thành của mình, vì thế, nhân gian mới luôn luôn được thưởng thức những kiệt tác mới của họ”. Nguyễn gọi khẽ, “Giáng Kiều, Giáng Kiều …”. Bỗng chợt một ý tưởng vụt đến. Chàng đánh thức tiểu đồng dậy lấy thêm rượu, rồi loay hoay căng lụa trên khung vẽ …
Trong hơi men sảng khoái, những nét cọ vung lên khoan nhặt … Và khi ánh dương ló dạng, bên ao sen hồng lá xanh vào hạ, Giáng Kiều như đang đứng trước mặt, mắt long lanh, môi chúm chím nhìn chàng ! Nguyễn hét to sung sướng. Chàng quỳ xuống nhìn vầng dương cảm tạ, rồi đứng dậy với tay cầm chiếc cọ vẽ bẻ làm đôi không chút do dự. Nguyễn biết, sau bức tranh này, suốt đời còn lại chàng sẽ không bao giờ có thể hoàn thành thêm được một tác phẩm hội họa nào khác nữa. ..
Từ đó, Nguyễn như người ngớ ngẩn, ngoài sự ăn ngủ, lúc nào cũng say đắm thẫn thờ bên tranh. Đọc sách, làm thơ, tách trà, chén rượu khi nào cũng như đối ẩm tương thân tương kính, mọi sinh hoạt thường ngày phó mặc một tay tiểu đồng. Tiểu đồng nhìn chủ lúc thương lúc sợ. Thương vì lòng trung, mà vẫn canh cánh sợ tà ma đã nhập vào thân xác chủ, sẽ di lụy cả hai. Có lần tiểu đồng đánh bạo rụt rè xin Nguyễn đi gặp thầy pháp để khu trục tà ma quỉ ám. Nguyễn nghe qua ơ hờ. Chỉ những lúc ngồi trước mặt Giáng Kiều chàng mới thật sự là Nguyễn công tử sống động và tài hoa một thời.
Một hôm sau khi nguệch ngoạc vài bức tranh dân gian để tiểu đồng mang đi đổi chác – tuy Nguyễn đã bẻ bút, nhưng chàng và tiểu đồng, cả hai không thể uống nước lã trừ cơm, vì thế tiểu đồng đã phải sắm cho chàng không chỉ một mà nhiều cọ vẽ khác – Nguyễn vội vã trở vào thư phòng ngồi trước Giáng kiều, vì muốn chia sẻ cùng nàng bài thơ mới làm. Vừa ngâm xong một câu đắc ý, Nguyễn ngẩng nhìn lên chờ đợi một nụ cười chúm chím khen thưởng của nàng, bỗng chàng thấy ngờ ngợ. Nguyễn lại gần, rồi lui ra xa chăm chú nhìn thật kỹ, và sắc mặt chàng tái hẳn, trống ngực đập thình thịch, không dám lưu lại trong thư phòng. Màu hồng sen lợt đi, lá bớt xanh, và còn thấy vài cọng bắt đầu héo úa. Hôm sau, đợi khi mặt trời lên cao, nắng đã theo các khung cửa rọi sáng thư phòng, Nguyễn mới bước vào. Lần này chàng săm soi nhìn ngắm người đẹp trong tranh thật kỹ. Giây lâu, chàng hốt hoảng thiệt tình, bụng bỗng lên cơn đau thắt. Không còn là nỗi nghi ngờ, mà chính là sự thật: cùng với ao sen bắt đầu héo úa, Giáng Kiều trong tranh “hình như” đã có những nét tuy còn ẩn hiện, nhưng rõ ràng là có già đi theo tháng ngày … Té ra chàng có thể vẽ được nét tiên, nhưng không thể đóng khung được thời gian … Cứ nghĩ đến ngày bức tranh “trăm tuổi”, lòng Nguyễn đau đớn không yên. Hình như càng lo sợ, chuyện đến càng mau. Một buổi sáng, châm trà đối ẩm, Nguyễn choáng váng khi thấy vết chân chim đầu tiên đã hiện mờ bên khóe mắt trái …. Nguyễn bỏ ăn, bỏ ngủ … đầu óc chỉ nghĩ suy tìm cách cứu vãn nữ lang trong tranh cũng là để tự cứu lấy chính mình. Mấy hôm sau, không kịp dặn dò tiểu đồng, Nguyễn cuộn tròn tranh trong ống nứa đeo trên vai, nhắm hướng kinh thành lẳng lặng ra đi khi trời còn mờ sáng. Nguyễn tìm đến những nhà sưu tầm danh họa, những lái buôn tranh, những người chơi cổ vật. Nơi nào chàng cũng nài nỉ chuyện trò, trình bầy về bức họa của mình, và tha thiết hỏi mọi người phương cách cứu lấy tranh khỏi bàn tay của vị thần thời gian. Nơi đâu chàng cũng được tiếp đãi rất ân cần, một phần vì tiếng xưa, phần khác cũng vì bức họa chàng đưa ra, ai cũng trầm trồ ngợi khen, thậm chí có người còn đòi mua lại bằng những giá rất cao. Nhưng buồn thay, không ai có thể chỉ cho Nguyễn một biện pháp khả dĩ có thể thắng được vị thần thời gian. Nguyễn thất vọng, từ chối tất cả những chiêu đãi trọng vọng hay kỳ kèo nài nỉ. Chàng quyết định đi tìm những nhân vật dị kỳ hơn như các thuật sĩ hay đạo sĩ …, những người mà dân gian đồn rằng họ có những công trình tu luyện đặc biệt, pháp thuật thần thông, thậm chí cải tử hoàn sinh hay cải lão hoàn đồng … Và Nguyễn rời kinh thành, bắt đầu cuộc hành trình đi về những vùng hẻo lánh, non cao nước sâu, nơi chàng có hy vọng gặp được những người này ở ẩn tu luyện. Một bữa, có hai kẻ vô lại thấy Nguyễn cứ khư khư nâng niu ôm giữ ống tranh, tưởng là của quý, theo dõi đến một khe vắng, rình đập đầu Nguyễn, giật ống nứa bỏ chạy. Nguyễn ôm đầu, máu túa che cả mắt, vẫn cố gắng đuổi theo, miệng vừa la hét, vừa van xin chúng trả tranh lại. Máu ra nhiều, Nguyễn ngất xỉu bên một tảng đá. Còn hai tên vô lại chạy một quãng xa không bị rượt đuổi, mới dừng lại, mở ra xem định chia nhau của. Đến khi khám phá chỉ là một bức tranh vô dụng (?), chúng bèn chửi tục, quăng phạch xuống đất, bỏ đi. Trong cơn mơ màng vì đau thiếp, Nguyễn thấy thoang thoảng một mùi hương xưa quen thuộc. Và một giọng dịu dàng thanh tao. “Thiếp xin lỗi, không ngờ chỉ một lần tương kiến lại gây nên mối họa cho công tử”. Nguyễn nhìn lờ mờ thấy Giáng Kiều đang kế bên, ánh mắt thương xót. Rồi bàn tay tiên mát rượi lau rửa, xé vạt xiêm y băng bó, rịt thuốc vết thương. Các đau đớn thân xác bỗng chốc tan sạch, và hồn Nguyễn cũng lâng lâng dịu êm. “Thiếp tu luyện chưa tới, nên đã mang chuyện bức tranh gặp ngược đãi thời gian ra vấn kế phu quân. Người cho thiếp hay, chỉ có mùa Xuân bất diệt và trường cửu mới giữ cho bức tranh trường tồn, trẻ mãi không già. Thiếp có hỏi thêm nơi nao có thể có được mùa Xuân bất diệt để công tử đi tìm thì phu quân thiếp lặng thinh… Thiếp chỉ biết đến thế và bây giờ thì phải tạm biệt, xin chúc công tử gặp nhiều may mắn”. Khi Nguyễn tỉnh lại, mười phần đã khỏe được bẩy. Nhìn xuống, bức tranh ai đã xếp lại trong ống nứa, đặt ngay ngắn cạnh chỗ chàng nằm. Nguyễn ngẫm nghĩ về những dặn dò của Giáng Kiều, quyết định sẽ mang tranh về nhà cho tiểu đồng cất giữ để chàng yên tâm khởi đầu một cuộc hành trình chắc chắn sẽ rất dài, đi tìm cho được một mùa Xuân bất diệt và trường cửu để giữ mãi vẻ đẹp của người trong tranh, làm quà tặng cho muôn đời mai sau …
Sau khi đã dặn dò tiểu đồng việc nhà, không quên vẽ thêm một số tranh đủ để y làm kế sinh nhai, một buổi sáng sớm đầu mùa thu, Nguyễn đứng trước tranh, khấn thầm cùng Giáng Kiều, “tiểu sinh đau lòng phải rời xa cô nương một thời gian, nhưng đã nguyện với lòng mình, đời còn lại, dù chân trời góc biển, dù có phải hy sinh cả mạng sống của mình, tiểu sinh cũng quyết tìm thấy và đem về một Mùa Xuân Bất Diệt để đền đáp những ân tình tri kỷ. Mong Trời đất dun dủi sẽ có ngày sớm tái ngộ cùng cô nương”. Tạ từ xong, khăn gói trên vai, Nguyễn cất bước ra đi. Chàng đi trong niềm hy vọng thì mong manh mà nỗi tuyệt vọng lại khôn cùng. Trời đất quá lớn, nơi đâu Nguyễn sẽ tìm thấy được Mùa Xuân Bất Diệt, cho dù tia hy vọng tái ngộ tuy leo lét nhưng vẫn cháy âm ỉ trong lòng chàng.
Nguyễn cứ thế đi mãi, lang thang từ phố phường đến thôn xóm, từ chốn đô hội đến nơi hoang dã, những non cao, động sâu… không nơi nào chàng không lần mò đến. Người xưa có câu, “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, Nguyễn hỏi cả trẻ lẫn già. Nơi nào bước chân chàng đặt đến, câu hỏi đồng thời cũng được đưa ra cho những người Nguyễn gặp, là nơi nao chàng có thể tìm được Mùa Xuân Bất Diệt ? Mọi người nhìn chàng lạ lẫm với câu hỏi kỳ cục. Có người cười chế diễu cho chàng là kẻ dở hơi, có người lại nổi giận coi chàng như kẻ quấy phá trêu trọc. Cũng không ít người nhìn Nguyễn thương hại, xót cho chàng là kẻ chẳng may bị trời sinh ra ngây ngô khờ dại, nên không chỉ cho Nguyễn miếng ăn, có khi còn giúp chàng một chỗ nằm tạm qua đêm. Nhưng điều quan trọng nhất là câu hỏi về Mùa Xuân Bất Diệt, mục đích của chuyến đi của Nguyễn, thì không ai – kể cả một vài người có tiếng là học giả Nguyễn đã gặp – có thể trả lời được.
Những ngày như mây trôi, những tháng như lá rụng… Cứ thế Nguyễn mải miết đi, mải miết hỏi, để rồi mệt mỏi rã rời cùng nỗi tuyệt vọng khi bóng đêm đổ xuống, phấn chấn vui vẻ trở lại với niềm hy vọng để cất bước tiếp tục ra đi khi ánh dương vừa lên….
Trời đã vào cuối đông. Một buổi chiều nọ, sau một ngày dài, Nguyễn thấy người váng vất, cổ họng rã khô vì khát. Nhìn xa về phía trước, thấy một căn nhà tranh nhô bên đường, Nguyễn bèn lần đến, định tạm dừng chân xin một chút nước mát cho dịu cơn khát. Phên tre cửa sổ mở ra khi Nguyễn cất tiếng gọi, rồi một bà lão hiện ra trong khung cửa, mặt mũi phúc hậu nhìn chàng. Nguyễn chưa kịp cất tiếng, bà cụ thật là người tinh tế, đã quay nhanh vào trong nhà để trở ra với một bát nước trong cùng một vốc cơm còn bốc khói. Ngụm nước vừa chiêu, Nguyễn theo thói quen, câu hỏi bật ra khỏi miệng. Bà lão thở dài, “đời nhà nông gặp chiến chinh loạn lạc, đứa con trai duy nhất cũng bị giặc bắt đi, cảnh cơ khổ, một ngày xuân cũng không tưởng tới, nói chi là cả một mùa xuân …”. Và bà lão nhìn Nguyễn tò mò, “ thấy công tử cũng có dáng dấp của người đọc sách, hà cớ gì người lại cố công đi tìm chuyện huyễn hoặc như thế ?”. Nguyễn thật thà kể lể chuyện bức tranh của mình. Đang nói, bỗng dưng, bát nước bị giằng lại, cả nắm cơm chưa ăn cũng bị giật lấy, quăng xuống đất tung tóe. Mắt quắc lên, người rung rung cơn giận, bà lão lớn tiếng mắng, “Nay giặc Thanh từ phương Bắc sang chiếm đóng nước ta, hung hãn như sài lang. Chúng có phải cùng chung máu mủ gì đâu mà thương xót dân ta, chuyện tàn ác đến đâu cũng chẳng từ nan. Chúng giết người, cướp của, đốt nhà, trẻ không tha, già không thương, cảnh nước mất nhà tan ai không xót thương, ai không căm phẫn, uất hận. Đến như lão già nhà này cũng không thể ngồi yên cho giặc hoành hoành, bỏ nhà cửa vườn tược cho già trông coi để cùng mọi người đi cứu nước…. Còn ngươi, tuổi trẻ lưng dài vai rộng, có đọc sách mà chẳng biết đạo thánh hiền, “đất nước nguy nan, ai cũng phải góp phần”, chỉ chìm đắm trong những nhỏ mọn riêng tư, không coi đất nước là chuyện chung, không biết rằng mất nước là mất tất cả, già này có dư nước cũng chẳng phí hoài cho loại u mê ám chướng như ngươi”. Nói đoạn, sẵn bát nước trong tay, bà lão hất thẳng vào mặt Nguyễn, hầm hầm hạ cánh liếp cửa sổ, đóng xập lại …
Nguyễn đứng sững như trời trồng, rồi ngẩn ngơ bỏ đi. Lời bà lão như trì kéo, mỗi bước chân mỗi nặng nề. Đi được một quãng, Nguyễn dừng lại, ngồi bệt xuống dưới một gốc cây to gần đó, đầu óc miên man suy tưởng. Nguyễn cứ ngồi như thế, bất động. Mất nước là mất tất cả. Tất cả, kể cả Nguyễn và bức tranh người đẹp đã vẽ … Những câu mắng của bà lão văng vẳng bên tai như những ngọn roi vụt xé tâm can. Nguyễn thiếp đi trong trăm ngàn nỗi trăn trở mâu thuẫn …
Khi Nguyễn mở mắt ra, bình minh vừa chợt tới. Trong tiếng chim rộn rã đầu ngày, xa xa có tiếng hát ca hòa vang. Rồi một đoàn người lũ lượt đi ngang. Nguyễn nhận thấy đủ cả, già trẻ, lớn bé, nam nữ, quần áo giầu nghèo, sang hèn lẫn lộn, gậy gộc giáo mác trên tay, miệng cất cao lời ca, mắt hãnh diện ngước nhìn những ngọn cờ đào được giương cao bởi một số quân binh áo vải … Nguyễn chạy theo hỏi thăm, mới hay đây là dân chúng nhiều nơi tình nguyện gia nhập nghĩa binh, đang trẩy đến tụ hội cùng quân binh của vua Quang Trung hiện đóng tại đèo Tam Điệp, bàn luận kế sách chuẩn bị phá giặc. Hòa theo đoàn người lúc nào không hay, Nguyễn cùng cất cao tiếng hát. Chưa bao giờ lòng chàng thanh thản và sảng khoái đến thế ! Quân đi đã xa, khúc ca hùng tráng như vẫn còn đọng lại đâu đây trên không gian báo hiệu một mùa xuân sẽ về …
Lịch sử ghi lại rằng, năm 1789, trước khi xuất binh đuổi giặc, vua Quang Trung cho mở tiệc khao và tuyên bố cùng ba quân tướng sĩ, “nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến trễ nhất là ngày mồng 7 Tết, vào đến Thăng Long sẽ mở tiệc lớn khao quân”. Đêm trừ tịch, quân Tây sơn vượt sông Gián Thủy, tiêu diệt đồn tiền tiêu của địch, khởi đầu sự triệt hạ hệ thống đồn phòng ngự của giặc. Đêm mồng 3 Tết, vây chặt Hà Hồi, buộc địch phải đầu hàng. Mờ sáng 5 Tết, quân binh quyết chiến với giặc ở đồn Ngọc Hồi. Tượng binh xung trận phá tan đội kỵ binh của giặc. Quân Thanh rút vào cố thủ trong lũy cao hào sâu, dùng đại bác và cung tên bắn ra ngăn cản. Những đội nghĩa binh dùng lá chắn che mình, cảm tử đột nhập vào trong chiến lũy xáp chiến cùng địch, mở cửa cho đại binh ào ạt tràn theo, san bằng đồn Ngọc Hồi, tiêu diệt một số lớn giặc, khiến cho toàn bộ hệ thống phòng ngự của giặc hoàn toàn tan rã. Ngày mùng 5, Đô Đốc Long bao vây tiêu diệt đồn Khương Thượng khiến tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử. Gò Đống Đa trở thành nấm mồ lớn chôn xác giặc. Thế như chẻ tre, quân Đô Đốc Long tràn vào Thăng Long, Thống soái của giặc, Tổng đốc Tôn sĩ Nghị phải bỏ hết ấn tướng để chạy thoát thân. Buổi trưa ngày mồng 5, vua Quang Trung cùng đại binh kéo vào Thăng Long Thành, áo bào nhà vua nhuốm đen thuốc súng của những ngày ác chiến. Trong nắng xuân gió xuân, nhà vua đã nâng chén cùng ba quân tướng sĩ uống mừng Xuân ca khúc khải hoàn.
Trong lúc quân tướng còn hò reo say men chiến thắng cùng vua, thì Nguyễn, nay đã trở thành một bộ tướng tham mưu của Tây sơn, đang đứng lặng người ngoài đại sảnh, hồn lâng lâng cảm động với những giây phút lịch sử đã trải qua. Trở về kinh thành, lòng chàng không khỏi bùi ngùi nhớ lại những chuỗi ngày thơ ấu sống cùng cha mẹ khi xưa. Và bóng dáng thành Tây nơi chàng ẩn cư cũng chập chờn hiện về như một lời gọi. … Nguyễn bảo người hầu dắt đến cho chàng một con ngựa. Rồi để nguyên áo bào còn vương mùi thuốc súng, Nguyễn phóng mình lên con chiến mã, ra roi phi nhanh về hướng thành Tây…
Nguyễn buộc ngựa bên khóm trúc, lòng cực kỳ bối rối cảm động nhìn lại căn nhà xưa của một thời “Nguyễn công tử”. Căn nhà hoang vắng nhưng không tẻ lạnh, mà vẫn tràn sức sống của cỏ hoa mùa xuân đang nở rộ chung quanh. Chàng hồi hộp bước vào trong sân. Trên cửa ra vào vài mạng nhện giăng tơ, có gắn một bức tranh “độ nhật” khi xưa cùng mấy dòng nguệch ngoạc của tiểu đồng, “tiểu nhân không thể ở lại chờ công tử lâu hơn nữa, vì còn phải lên đường đuổi giặc. Xin công tử thứ lỗi và mong có ngày thầy trò gặp lại”. Nguyễn mỉm cười khoan hòa, gỡ bức tranh, đẩy cửa đi vào. Đến trước thư phòng, chàng dừng lại, trống ngực đập liên hồi, tay giơ lên nửa chừng lại buông thõng xuống. Nguyễn biết, chỉ một cái đẩy nhẹ, cửa thư phòng sẽ mở ra, ở đó … Ở đó, Nguyễn không dám nghĩ tiếp … Điều gì chờ đợi chàng sau cánh cửa ? Bức tranh chắc vẫn còn nguyên đó, nhưng có ai đợi chàng ? Nguyễn thở hít dài mấy lần sâu tận, rồi quả quyết đẩy cửa… nhắm mắt tiến lại gần bức tranh. Khi Nguyễn mở mắt ra cả thế giới như xoay quanh chàng cùng niềm vui vỡ òa tưởng bể tan lồng ngực. Trước mắt Nguyễn là một Giáng Kiều của lần gặp gỡ đầu tiên, đẹp thanh khiết như một cành lan, mắt long lanh, môi chúm chím nhìn chàng. Những bông sen trong hồ cũng tươi nhuận trên những chiếc lá xanh mướt như ngọc. … Nguyễn tiến lại gần Giáng Kiều, lòng cảm động với nỗi biết ơn tràn trề. Chàng vừa ngộ ra một điều, không có mùa xuân bất diệt và trường cửu mà chỉ có người làm nên mùa xuân bất diệt và trường cửu….
Lịch sử đã ghi thêm, cuộc hành binh thần tốc với chiến thắng lẫy lừng của anh hùng Quang Trung Hoàng đế đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, giải phóng quê hương dân tộc thoát khỏi sự thống trị của giặc ngoại xâm phương Bắc đã biến mùa Xuân năm Kỷ Dậu, 1789 thành một mùa xuân bất diệt và trường cửu trong những trang sử hào hùng của dân tộc Việt …
lhtc