Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Tìm Găp Những Anh Hùng

Image
Trong cuộc chiến vừa qua,dù rằng đã hơn 36 năm nhưng những chuyện kể về sự chiến đấu kiêu hùng của những người Lính,vẫn còn được nhắc đến qua lời kể của người Dân sở tại và đây là câu chuyện về những người Lính Nhẩy Dù đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Mời Quý Vị theo dõi…

Tìm…

Những ai đã từng sống tại Thị Xã BàRịa_Vũng Tàu hoặc có dịp đi qua con đừơng này, đối diện Nghĩa Trang Liệt Sĩ Bà Rịa_Vũng tàu, có 04 ngôi mộ (không có bia) trong vườn nhà ông Hai Lì,đã có mặt từ ngày 01-05-1975 cho đến nay…

Từ nguồn tin của người dân ở Thị Xã Bà Rịa-Vũng Tàu nói về sự linh ứng của 04 ngôi mộ này,theo họ cho biết đó là những Ông Lính bận đồ rằn ri,chiến đấu cho đến trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát… cũng vì thế để tìm hiểu thực hư,sau gợi ý của Hùng Bảy Lổ (Canada) với sự bàn thảo của Anh Lâm Viên 20,chúng tôi với sự dẫn dắt,giới thiệu của MĐ Vẽ 91 lên đường đến tận nơi 04 ngôi mộ,chúng tôi gồm có MĐ Đẹp 83(TPB cụt môt chân),MĐ Thành 31,MĐ 93 và MĐ 90.

Kìa… vườn nhà ông Hai Lì nơi có 04 ngôi mộ,theo lời MĐ Vẽ nói về ông Hai Lì rất dữ dằn,khó chịu (Dân Cách Mạng) nên chúng tôi hơi chùn lòng,sợ bị làm khó dễ. Điều linh ứng đầu tiên mà chúng tôi cảm nhận được là sau lời vái của MĐ Đẹp;”Xin vái với Các ANH sống khôn,thác thiêng hãy tạo thuận lợi cho chúng tôi là những đồng đội cũ, tìm đến để đưa Các Anh về chùa nhang khói,hy vọng những thân nhân của Các Anh sẽ sớm nhận được tin này”. Khi bước vào vườn nhà, tức thì ông Hai Lì xuất hiện với nụ cười trên môi,niềm nở tiếp đón anh em chúng tôi(không hề có sự khó khăn nào) và hình như ông ấy đã biết rỏ ý định của chúng tôi là xin bốc 04 ngôi mộ (vì lúc đó MĐ Đẹp bận quần trận Hoa Rừng) ông Hai Lì nói: “ Tôi đã chôn cất mấy Ông này từ ngày 01-05-75, hơn 36 năm ,tôi chờ đợi thân nhân mấy Ông này nhưng không thấy,hằng năm tôi vẫn thừơng nhang khói,đắp mộ cho mấy Ông này,nay các anh là đồng đội tìm đến ,tôi rất vui và tôi hứa sẽ tạo mọi điều kiện cho các anh bốc mộ,đừng ngại gì cả”.

Được lời như mở tấm lòng,chúng tôi xin ông vui lòng kể lại sự việc,vì sao có 04 ngôi mộ này. Theo lời Ông Hai Lì kể:”Tôi là dân Gia Đình Cách Mạng, mấy Ông Rằn Ri này gan lì lắm,mấy Ổng chống đến cùng dù có lệnh đầu hành của Tổng Thống Dương Văn Minh 30-04-1975,mấy Ổng chiến đấu cho đến trưa 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát và chính tôi là người chôn cất mấy Ổng,giấy tờ từng Ông tôi bỏ vào một cái hộp chôn theo các Ông”.

Ngừng một lát, ông Hai Lì kể tiếp với giọng nói pha chút thán phục:”Mấy Ổng linh lắm,nhiều năm trước thỉnh thoảng có những người đến mộ cầu xin,đều được linh ứng nên mọi người quanh đây rất kiêng nể. Có những kẻ “vô ý thức” khi đi ngang qua đây,chỉ trỏ,bi bô với giọng điệu chế nhạo “mả mấy thằng lính Ngụy’’ đều bị báo ứng như té xe, tông cột đèn,trầy tay,trẹo chân…vì thế,ngày nay có mấy anh đến thăm và di dời mấy Ổng về chùa,tôi sẽ đứng ra chịu trách nhiệm cho các anh,các anh cứ làm, đừng ngại gì cả,tôi sẽ giúp với tất cả tấm lòng.

Chúng tôi cùng lặng người khi nghe kể về Các Anh,kính phục các Anh đã TẬN TRUNG BẢO QUỐC. Những Anh Hùng vì nước quên thân,khí hùng tử Anh Hùng nào tử. Khi sống, chiến đấu hiên ngang cho đến khi khí tàn,sức kiệt chọn cái chết để bảo toàn Danh Dự và khi tử tiết đã hiển linh cho mọi người cùng thấy và chúng tôi nguyện với lòng sẽ đem các Anh về nơi yên bình ,sớm hôm nghe Kinh Phật ngõ hầu linh hồn Các Anh được siêu thoát khỏi cõi đời ô trọc này.

Xin nguyện cầu Anh Linh Các Anh dẫn lối đưa đường để những người thân yêu của Các Anh sớm tìm gặp lại Các Anh. Chúng tôi những người Đồng Đội cũ,đến đây với Các Anh với tấm chân tình,huynh đệ chi binh…ngày nay chúng ta đã mất tất cả nhưng không bao giờ mất được Tình Đồng Đội…hơn 36 năm nằm đây,các Anh là những Chiến Sỹ Vô Danh nhưng từ hôm nay các Anh sẽ được Vinh Danh trong Quân Sử,những ANH HÙng trong QLVNCH nói chung và làm rạng danh THIÊN THẦN của Binh Chủng,một tay cũng đánh,một cánh cũng bay…

Image

Gặp Lại…

Nơi các Anh nằm xuống(trong vườn nhà của Ông Hai Lì) đối diện là Khu Nhà Đá của Pháp để lại(bây giờ là NTLS tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) cách Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp khoảng vài trăm mét, nay là Phường Long Tâm,TX Bà Rịa -Vũng Tàu có một toán lính Nhẩy Dù đã kháng cự mãnh liệt cho đến tận trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng gục ngã bất chấp lời kêu gọi đầu hàng của TT Dương Văn Minh vào trưa 30-04-1975,chính sự chiến đấu kiêu hùng đó đã làm cho Ông Hai Lì thán phục,tinh thần Vì Nước Quên Thân và sự hy sinh cao cả của Các Anh đã xóa mờ lằn ranh thù hận và cũng chính Ông là người đã chôn cất 04 mộ phần này trong khu vườn của Ông và giữ gìn cho đến ngày hôm nay, chúng tôi xin chân thành cám ơn Ông đã chăm sóc những Đồng Đội của chúng tôi, ông Hai Lì là một người tốt đã tạo điều kiện dễ dàng để chúng tôi tìm gặp Các Anh và thuận lợi thứ hai là khi nói chuyện với Vị Sư Trụ Trì gần đó,sau khi nghe kể rõ mọi sự tình như nói ở trên,Ngài Sư Trụ Trì hứa sẽ chấp nhận cho các Anh vào Chùa mà không đòi hỏi khoản chi phí nào và hứa khi thân nhân các Anh tìm gặp sẽ tạo mọi thuận lợi cho các thân nhân của các Anh tùy nghi đem về hoặc để lại Chùa nhang khói cũng được. Mọi việc coi như êm xuôi,chỉ còn chờ ngày tốt để đem các Anh vào Chùa.

Cuộc chiến đã trôi qua hơn 36 năm… những đắng cay, tủi nhục mà thân chiến bại từng nếm trải,vòng lao lý,kiếp gian truân,gian nan cực nhọc trên nẽo đường mưu sinh,người sống còn nhọc nhằn như thế huống gì người nằm xuống nơi chân trời, góc bể tưởng như đã bị quên lãng theo thời gian…ngày nay kiếm tìm được Đồng Đội ngã xuống nơi này là cả một công sức của những người có tâm huyết vì Đồng Đội,không một chút tư lợi, không chút lợi danh mà chỉ muốn đưa Các Anh về với gia đình ngừơi thân,hơn thế nửa Vinh Danh các Anh những ANH HÙNG trong cuộc chiến bi hùng này.

Người ngoài cuộc còn biết thán phục ,biết vị nể,còn có tấm lòng huống chi chúng ta là những người từng đội chung màu Nón Đỏ,lẽ nào làm ngơ!!! Xin hãy chung tay giúp sức cho những Đồng Đội còn ở Quê Nhà có điều kiện thăm hỏi,an ủi nhau lúc ốm đau,bệnh tật,lúc tuổi già bóng xế, những TPB còn lây lắt,mưu sinh giữa dòng đời nghiệt ngã,những người mà máu xương của họ đã tô thắm dãi đất này.

Xin thắp nén nhang, kính cẩn dâng lên các hương hồn những Chiến Sỹ đã hy sinh vì Tổ Quốc. Những Anh Hùng đã âm thầm ngã xuống cho Quê Hương,xin mãi mãi tưởng nhớ và Vinh Danh Các Anh những Chiến Binh can trường ,lẫm liệt,lấy cái chết để bảo toàn Danh Dự.

Những Anh Hùng…

Trời tờ mờ sáng(19-08-2011)chúng tôi rời Saigon trực chỉ BàRịa- Vũng Tàu,đến nơi Các Anh yên nghĩ trong khu vườn nhà của Ông Hai Lì thuộc Thị Xã Bà Rịa-Vũng Tàu ,tỉnh BàRịa- Vũng Tàu.Đến nơi, mọi người trong Nhóm Bốc Mộ đã hiện hiện đầy đủ, nghi thức cúng vái,cầu xin mọi việc được suông sẻ do Sư Trụ Trì Chùa đảm trách.

Công việc bốc mộ được tiến hành,tất cả mọi người cùng hồi hộp chờ đợi từ nhát cuốc đầu tiên chạm vào ngôi mộ,sau đó hé lộ dần những hình hài của Các Anh đã chôn vùi nơi đây hơn 36 năm dài đằng đẳng…không Quan Tài,mà cũng chẳng có PONCHO bọc xác,chẳng còn gì với cát bụi thời gian, ngoài những mảnh xương tàn,quần áo đã mục nát …chúng tôi cố tìm những mảnh giấy tờ đã được chôn theo Các Anh sau khi đã lượm lặt từng khúc xương còn xót lại,rồi cho vào từng hủ sành,ghi tên Các Anh,gởi vào Chùa và cầu xin cho Các Anh được siêu thoát khỏi chốn dương trần đầy khổ đau,tủi nhục này và điều mong muốn mãnh liệt nhất là thân nhân Các Anh sớm tìm gặp lại Các Anh sau bao năm dài vẳng bặt tin tức…



Trong lúc bốc mộ cũng có một số người dân đến xem tỏ ý thán phục trước tinh thần quả cảm,chiến đấu anh dũng của Các Anh nên đã tình nguyện phụ giúp lúc bốc mộ và Ông Hai Lì cũng xúc động trước tinh thần Đồng Đội của Nhóm Bốc Mộ chúng tôi, sau bao nhiêu năm vẫn còn giữ được tình cảm này,không bao giờ quên nhau,không ngại đường xá xa xôi, khi nhận được tin đã hết lòng lo cho nhau. Sự chân thành của ông làm chúng tôi cũng hãnh diện phần nào vì Các Anh,những Anh Hùng đã ngã xuống cho Quê Hương…nhưng thế Nước,vận Trời đã làm cho chúng ta ly biệt và mãi đến nay mới có cơ hội được Vinh Danh Các Anh.

Tất cả mọi người cùng ứa lệ mừng vui khi tìm được những tấm thẻ bài, giấy tờ, tên tuổi Các Anh …và đây là những vị Anh Hùng của chúng ta:

-Ngôi mộ thứ nhất: Có Thẻ Bài tên TRƯƠNG VI CỬ SQ: 75/115.815 LM:O Nón Sắt,đầu Bút Nịt.

- Ngôi Mộ thứ hai: có Thẻ Bài tên VÕ QUANG HẰNG SQ: 68/123.320 LM:B Nón Sắt, dây nịt.

- Ngôi Mộ thứ ba: (gồm có 02 người) trong đó Một Vô Danh không Thẻ Bài và có Nón Sắt.

Người thứ hai tên là: có Thẻ Bài tên: TRẦN VĂN HÀ SQ: 67/824.827 LM:O Nón Sắt
Và Một số giấy tờ như: Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Nhẩy Dù Khóa 298, mãn khóa ngày 21-04-1973.

02 Quyết Định Thăng Cấp của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù/Ban 1: do Tr/tá Lê Hồng ký và Th/tá Châu ký.

01 Chứng Chỉ đã học khóa Phòng Hỏa do Trung Tâm Tiếp Vận Vùng 3 ký, cùng một số Hình Ảnh (đã phai mờ theo thời gian)nhưng cũng tạm xem được,có hình đội nón Đỏ,áo Nhẩy Dù.

Những di vật này còn tồn tại là nhờ Ông Hai Lì,đã cẩn thận bọc thêm nhiều lớp bao Nylon và nhét vào một ống nhựa khi chôn,nhờ sự chu đáo của Ông mà hôm nay chúng ta mới đọc được những dòng chử này và chứng tỏ các Anh nằm tại đây là Lính Nhẩy Dù.

Image

Sau khi Bốc mộ xong, chúng tôi đã đem 04 hủ cốt gởi Chùa Báo Ân. Địa chỉ: Khu Công Nhân,Thị Trấn Ngãi Giao,huyện Châu Đức, Bà Rịa-Vũng Tàu.

Còn các Di Vật và giấy tờ liên quan kể trên,chúng tôi nhờ MĐ Đẹp giữ.

Nếu tình cờ Quý Vị nào hoặc ai đọc được tin tức này hoặc cần biết thêm chi tiết cụ thể,xin vui lòng liên lạc theo số Phone,dưới đây:

Nguyễn Văn Thành ĐT: 01645462458
Lê Văn Đẹp ĐT: 01684118839


Kính nhờ Quý Anh và tất cả mọi người phổ biến tin tức này,hy vọng Các Anh sẽ sớm gặp lại người thân. Kính chúc tất cả mọi người luôn An-Mạnh.

Saigon- Bà Rịa-Vũng Tàu
Ngày Bốc Mộ 19-08-2011
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »


Image

Đồn Dak Seang
"Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang"

Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị
"Đường ra trận mùa này đẹp lắm" Đại úy Ngọc thòng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.

Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 3 số 5. Chiều đại yến với la de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng mình... rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp thằng khác thì hết một đời trai. Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một thằng chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy ... hết muốn bay bổng. Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. Có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt thằng Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.

Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ.

Tôi phản đối "ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao giờ lớn được". Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì mà huy hoàng. Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xát thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ... mất đào ở nhà.

Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.

Hậu sinh.... chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. Này nhé, ở nhà với vợ, có thằng chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải "báo cáo"đầy đủ.

Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. Thằng nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là "những ngày nghỉ mát" vì thứ nhất mình thoát khỏi vòng cương tỏa... bà tư lệnh , muốn làm gì thì làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe mình chưa vợ hay vợ... mới chết thì đó là quyền của mình. Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi. Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú.

Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có "Action" phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v.

Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm ý, nên kết luận.

- Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi.
Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất...văn học chút nào hết.

Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề

Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
- Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.
Anh Ngọc dễ dãi:
- Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.
Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành....

Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kon-tum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích.....,ai nấy võ khí trang bị tới răng trông phát khiếp. Lâu lâu, phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.

Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.

Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im.

Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường:
- " Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C...gì mà bắn độc thế? Sao không về nhà mà bắn... bà xã cho được việc", một giọng càu nhàu cất lên.
Lại có giọng khác hăm dọa " ngày mai tao phải "phản đấu" mới được. Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy "phản đấu" ai một lần thì ông ăn cơm mới ngon.

Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt thì lại "ầm" một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm "Đ.." mọa nó, bén chi mà bén miết..".

Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi... Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết. Mãnh lực nào, sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người lính bộ binh để "chết thay dùm dân tộc" để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy, Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ mua bao gạo. Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của Hùng Cường , Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu nước. Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ "Yêu" yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường gía cả.

Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.

Có thằng... Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:
- Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?
Nó đáp tỉnh queo :
- Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.
Tôi suýt bật cười. Đúng là thằng lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu :
- Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.
Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, thằng On chửi thề:
- Đ.. M.. thằng mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có ngu.

Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người quả thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy... sơ sơ thôi chứ không còn "nồng nàn da diết" như những ngày mới đến đây nữa.

Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi... lì đến tới tối.

Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể gì kiếm được một cành hoa. Tôi để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là... màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó... chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết thằng khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết. Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một cau "everybody loves the lover". Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục thằng như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh " Vừa phải thôi... tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày".

Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn " giặc cỏ" đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi " duy trì khả năng" bắn rocket. "duy trì khả năng" là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay "duy trì khả năng" cho khỏi quên.

Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như 'Dăng gô" bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn thì dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. "G" đâu mà lắm thế , mặt mũi cứ dài ra cả thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh còn nhìn "tác phẩm" của tôi phê bình "Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là con nhà vô phúc".

Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc :
- Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng nào đó "duy trì khả năng" rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.
Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:
- Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.
Có cái gì thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
- Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không?
Tôi chả biết gì, trả lời:
- Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?
- Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
- Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.
- Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
- Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.

Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: " 15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xui quảy.." vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:
- Trên trời mà phòng không "kèm cứng một rừng" như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây "broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi thề:
- "Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây."
Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên "súng đâu mà chúng nó lắm thế" Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây...VC này.

Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo "phụ diễn". Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
- Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới... Têt cũng huề.
- Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
- Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ
- Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn....
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:
- Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
- Nghe 5 bạn
- Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.

Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào. Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế...chết người.
- Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải "chiến tranh chính trị" mới được.
- Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi...chiến tranh chính trị anh?
Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
- Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là...có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.
- Xong rồi.

Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh
này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
- Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.

Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi.

Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:
- Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi.
Nhưng anh nói ngay:
- Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em.

Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng "everywhere". Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang "tùng thiết" đi vô chăng? Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:
- Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó...bỏ bomb thấy mẹ mày.

Tức quá mà không làm gì được thì...chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
- Thạnh Trị, đây Bạch Ưng
- Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.
- Có sao không bạn?
- Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn "tới" lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.
- Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
- Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
- Tôi hiểu bạn.
Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc.
- Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra....
- Ờ, may ra....
Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái Rocket nổ...gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết thằng chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên.
Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó...đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
- Thạnh Trị, đây Bạch ưng
- Nghe bạn 5.
- Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?
- Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
- OK! Roll

Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây...phản quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 "để" vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:
- Bạch ưng, đây Thạnh Trị
- Nghe 5 bạn
- Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
- Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.
- Bạn...

Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "ra giao thông hào với mấy đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ "over run" Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.
Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một
phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
- Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
- Còn phải hỏi.

Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân "TTHQ" thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:
- Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận.

Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gã trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào.. Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir" lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị

Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.
Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.

Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe...lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:
- Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?
- Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỹ chưa?
- Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:
- Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà bạn...

Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải... cẩn thận.
- "Cẩn thận con C... ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
- Roger! Sir, Did you say...right on it? Over
- Yes sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.
- Roger, sir, I understood, sir, Over.

Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa " Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc...

Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? Hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học trò bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương.

Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.

Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
- Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.

Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.

Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.
- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.

Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ "Y pha nho" mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.

Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt.

Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.

Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính...âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiệp, không "truyền thống, binh chủng" không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tỉnh xin "cho nó nổ trên đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi". Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả.... Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé :

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
Tuy tên họ không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và linh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh.
Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh". Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.

Trường Sơn LÊ XUÂN NHỊ
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Người không nhận tội

Duy Nhân
1.

Tôi biết anh khi cùng đến trình diện “ học tập ” tại trường Pétrus Ký ngày 24 tháng 6 năm 1975. Anh sinh năm 1942, tốt nghiệp khóa 1 Chánh Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Sau khi ra trường anh bị động viên khóa 9/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi được biệt phái làm việc ở Kỹ Thương Ngân Hàng, tức Ngân hàng Quân Đội ở đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Anh là một thanh niên khỏe mạnh, to cao, chưa lập gia đình. Vì cận thị nên lúc nào cũng mang kính trắng. Trông anh ai cũng dễ nhận ra anh là một trí thức giàu tiềm năng, nhiều nghị lực. Anh có người chú ruột là kỹ sư làm bộ trưởng bộ công nghiệp nhẹ của chế độ Cộng Sản Bắc Việt. Sở dĩ tôi biết nhiều về anh là do khi bị đưa vào trại tập trung ở Thành Ông Năm , Hốc Môn, cũng như khi ra Phú Quốc tôi lúc nào cũng được “ biên chế ” cùng tổ , đội với anh, chỗ nằm cũng sát bên anh, vì người ta căn cứ theo thứ tự A, B, C của tên mỗi người khi lập danh sách. Tên anh rất lạ và dễ nhớ : Kha Tư Giáo.

Khi mới vào trại tập trung, ngoài giờ lao động khổ nhọc, các “ cải tạo viên “ còn phải học mười (10) bài chánh trị. Sau mỗi bài học là những buổi thảo luận trong tổ, đội. Mỗi ngưởi phải viết “ bài thu họach ” những gì mình “ tiếp thu ” được sau những bài giảng của cán bộ tuyên truyền, được gọi là giáo viên. Sau bài học đầu tiên đề tài thảo luận đưa ra là mọi người phải “ liên hệ bản thân ”, xác định mình là người có tội với nhân dân, với “ cách mạng ”. Người cầm súng thì giết bao nhiêu cách mạng trong từng trận đánh. Bác sĩ thì chữa trị cho binh sĩ lành bệnh để đánh phá cách mạng như thế nào. Người làm ngân hàng ( như tôi và anh Kha Tư Giáo ) thì có tội phục vụ cho nền tài chánh, dùng tiền nuôi dưỡng chiến tranh. Cảnh sát thì đàn áp nhân dân ra làm sao, vân vân…Trại của chúng tôi đa số là sĩ quan biệt phái. Họ nói biệt phái là phái làm công tác đặc biệt. Thí dụ giáo viên biệt phái là những người lãnh lương hai đầu, một bên là quân đội, một bên là giáo dục, được phái về dạy học để đánh rớt học sinh, buộc học sinh phải đi lính, biệt phái ngân hàng là sĩ quan được đưa về làm công tác ngân hàng, kiếm thêm thu nhập cho người lính để có thêm sức cầm súng. Do đó, sĩ quan biệt phái là những người có tội rất nặng với cách mạng và nhân dân hơn những người khác. Anh KTG thì cho rằng anh và các bạn anh không ai là người có tội. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cầm súng chống lại bộ đội Bắc Việt và quân nằm vùng là để tự vệ mà không hề chống lại nhân dân, đồng bào ruột thịt trong Nam cũng như ngoài Bắc. Riêng bản thân anh, sanh ra và lớn lên ở miền Nam, học hành và làm công tác chuyên môn ngân hàng để sống và phục vụ cho đất nước thì sao gọi là có tội. Lập trường anh Giáo không đáp ứng yêu cầu của Việt Cộng. Đó là tấn thảm kịch của anh. Anh bị bắt làm kiểm điểm liên tục còn những người khác thì cũng bị bắt phải “ giúp đỡ ” anh nhìn thấy được tội lỗi của mình để được cách mạng và nhân dân khoan hồng. Càng kiểm điểm anh càng thấy mình là người vô tội. Bài viết lúc đầu thì dài, về sau chỉ còn bốn chữ thật to chiếm hết trang giấy : TÔI KHÔNG CÓ TỘI. Việt Cộng hỏi, anh trả lời những gì cần phải nói anh nói hết rồi. Bạn bè trong đội thấy anh giữ lập trường như thế thì rất nguy hiểm cho anh mà bạn bè cũng khổ. Vì sau giờ lao động cực nhọc đáng lẽ được nghỉ ngơi, lại phải ngồi kiểm điểm với anh đến mỏi mệt, chán chường. Nhiều người trách anh sao không biết “ nín thở qua sông ”, họ khuyên anh cứ viết đại vào giấy là mình có tội một cách chung chung, miễn là thực tế không làm gì hại nước, hại dân là được. Anh bảo như vậy là mắc lừa Cộng Sản và lương tâm không cho phép.

Khi tất cả cán bộ ở trại đều bất lực thì cán bộ cao cấp từ Sài Gòn được cử xuống. Những người này tỏ ta có tay nghề hơn. Nghe đâu là sư trưởng VĐG từng là thành viên của phái đoàn đàm phán Bắc Việt tham dự hội nghị Paris năm 1973, cùng với một đại tá chánh ủy sư đoàn ( ?). Họ không trấn áp anh mà tỏ ra lắng nghe và chịu đối thọai. Anh Giáo đã chứng tỏ bản lĩnh của mình bằng những câu hỏi đặt ra mà họ không trả lời được. Ngược lại, anh còn phản công, vạch trần tội ác của họ. Từ vai một người tù, một tội nhân anh trờ thành một công tố viên trước tòa, luận tội Việt Cộng. Bằng một giọng đầm ấm và trầm tĩnh, anh Giáo nói :

- Chúng tôi là những người sanh ra và lớn lên ở miền Nam. Nhờ hạt gạo của đồng bào miền Nam nuôi lớn và trưởng thành từ nền văn hóa và giáo dục khoa học, nhân bản và khai phóng. Chúng tôi có lý tưởng của chúng tôi cũng như các anh có lý tưởng của các anh. Lý tưởng của các anh là dùng bạo lực để lật đổ chánh phủ hợp hiến, hợp pháp Việt Nam Cộng Hòa để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản. Lý tưởng của chúng tôi là bảo vệ Tự Do, Dân Chủ. Các anh từ miền Bắc vào xâm lăng miền Nam, buộc lòng dân quân miền Nam phải cầm súng tự vệ. Chúng tôi có câu “ giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Chẳng lẽ một công dân cầm súng chống lại kẻ thù để bảo vệ bà con mình, gia đình mình, tổ quốc mình thì có tội ?

Hai cán bộ Việt Cộng im lặng, chỉ gật gật cái đầu. Một lúc sau, viên đại tá chính ủy lên tiếng :

- Các anh chỉ là tay sai đế quốc Mỹ. Ở đâu có Mỹ, có bom đạn Mỹ thì chúng tôi đánh. Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…

Anh Giáo ngắt lời :

- Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi, chớ gì ? Các anh chỉ biết lặp lại mà không biết gì về quốc tế công pháp. Tôi nhắc lại, hiệp định Genève năm 1954 mà các anh đã ký ngày 20/7/1954 quy định từ vĩ tuyến 17 trở ra là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, từ vĩ tuyến 17 trở vào là nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi, được Liên Hiệp Quốc và quốc tế công nhận

Tên sư trưởng phản ứng :

- Các anh là công cụ Đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt vĩnh viễn đất nước. Còn chúng tôi đánh Mỹ là để thống nhất đất nước, mang lại Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do, Hạnh Phúc cho đồng bào.

Anh KTG :

- Nên nhớ, các anh mới là người âm mưu cùng thực dân Pháp chia cắt đất nước bằng hiệp định Genève năm 1954. Chúng tôi không hề ký vào hiệp định đó. Đồng minh chúng tôi không phải chỉ có Mỹ mà có Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi và tất cả quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Các anh mới là tay sai Liên Xô và Trung Cộng. Chủ nghĩa Cộng Sản chủ trương bành trướng, xâm lược, nhuộm đỏ toàn thế giới chớ không riêng gì Việt Nam.

Tên sư trưởng :

- Người Cộng Sản làm cách mạng là để giải phóng các dân tộc khỏi áp bức, bóc lột mà đầu sỏ là đế quốc Mỹ để mang lại công bằng xã hội, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.

- Tôi thiết nghĩ những người cần được giải phóng là nhân dân miền Bắc đang thiếu Tự Do, Dân Chủ, đang sống đời lầm than cơ cực. Chúng tôi không cần các anh giải phóng.

Bất ngờ, tên đại tá chánh ủy đập tay xuống bàn cái rầm. Ly nước trước mặt hắn ngã đổ tung tóe :

- Quân phản động !

Anh KTG vẫn giữ điềm tĩnh và im lặng. Thời gian trôi qua nặng nề. Tên sư trưởng dịu giọng :

- Các anh ôm chân đế quốc, bị đầu độc bởi vật chất xa hoa và văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa tư bản thối tha nên không nhìn thấy tội lỗi của mình.

Bằng một giọng ôn tồn mà cương quyết, anh Giáo trả lời :

- Chúng tôi là người Việt quốc gia, không theo chủ nghĩa nào cả. Chủ nghĩa chỉ là lý thuyết, là giáo điều do con người đặt ra để phục vụ cho những mục tiêu chánh trị nhất định trong một giai đọan lịch sử nhất định. Đến lúc nào đó nó sẽ bị đào thải do không theo kịp sự tiến hóa không ngừng của xã hội. Còn chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là chủ nghĩa ngoại lai, duy vật và sai lầm khi chủ trương vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc, đi ngược lại bản chất con người, ngược lại truyền thống duy tâm , trọng đạo và nền văn hóa cổ truyền của người Việt. Nó quá tàn nhẫn và sai lầm khi chủ trương đấu tranh giai cấp bằng chuyên chính vô sản. Tôi cho rằng nó sẽ không tồn tại lâu dài.

Thấy hai tên Việt Cộng vẫn im lặng, anh Giáo nói tiếp :

- Trong thời gian Tết Mậu Thân năm 1968 các anh đã đồng ý hưu chiến để đồng bào an tâm vui đón ba ngày lễ cổ truyền của dân tộc. Vậy mà các anh lại tấn công vào các đô thị miền Nam, gieo rắc kinh hoàng, chết chóc cho người dân vô tội. Khi các anh rút lui khỏi Huế lại nhẫn tâm sát hại, chôn sống hàng ngàn dân lành. Các anh ký hiệp định Paris năm 1973 để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Lúc nào các anh cũng giương cao ngọn cờ chống Mỹ cứu nước như chánh nghĩa đấu tranh của mình, nhưng khi Mỹ rút đi rồi thì các anh dốc toàn lực đánh chiếm miền Nam. Vậy mà các anh nói được là hòa bình, hòa giải dân tộc !

Nói tới đây anh Giáo ngừng lại trong giây phút, rồi bất ngờ anh chỉ tay về phía hai cán bộ Việt Cộng :

- Vậy thì giữa chúng tôi và các anh, ai mới là người có tội ?

Bấy giờ thì hai tên Việt Cộng giận run, nét mặt đanh lại, xám ngắt. Chúng không trả lời câu hỏi của anh Giáo mà đuổi anh ra khỏi phòng.

Bằng đủ mọi cách đấu tranh buộc anh Giáo nhận tội không kết quả, bọn Việt Cộng để cho phong trào lắng xuống. Ai cũng hồi hộp, lo lắng, không biết điều gì sẽ xảy đến cho anh KTG. Việt Cộng có thể mang anh ra bắn công khai về tội phản động như họ đã từng làm ở trại này mà anh Giáo cũng như mọi người trong trại đều biết. Thời gian này anh Giáo cho biết các em của anh đi học tập cùng đợt đã được ông chú bảo lãnh về hết, trong đó có người em ở trại kế bên, chỉ cách nhau một hàng rào dây thép gai. Ngày hai anh em chia tay nhau bên hàng rào, anh Giáo dặn em hãy về lo cho mẹ và gia đình và đừng lo gì cho anh, chắc là lâu lắm anh mới được về. Phần anh vẫn vui vẻ sống cùng anh em với tinh thần bình thản, một đôi khi còn tiếu lâm, khôi hài nữa. Anh thường hay hát những bài như Hà Nội, Niềm tin và Hy vọng, Anh lính quân bưu vui tính…Tôi hỏi sao không hát những bản nhạc của mình, anh nói hãy cố giữ nội quy của họ để họ không nói được mình. Anh Giáo là thế, lúc nào cũng tự trọng. Mười bài học chánh trị rồi cũng qua. Chúng tôi có nhiều giờ rảnh hơn vì lúc này không còn phải ngồi hàng giờ để thảo luận và “ giúp đỡ ” anh Giáo nữa. Nghĩ lại,Việt Cộng dùng từ cũng ngộ, như từ “giúp đỡ ” được dùng trong trường hợp này. Chúng tôi xét thấy chẳng có ai đủ tư cách để giúp đỡ anh Giáo, ngược lại rất nể trọng anh và được anh giúp đỡ rất nhiều .

Vào những buổi chiều sau khi cơm nước xong, anh và tôi thường hay đi bách bộ dưới tàng những cây sứ có hoa màu trắng, tỏa hương thơm ngát. Chúng tôi thường trao đổi với nhau về chuyện ngân hàng và những vấn đề mà cả hai cùng quan tâm.Thấy anh nhặt rất nhiều bông sứ, tôi hỏi :

- Chi vậy ?

- Mai mốt về tặng người yêu- Anh trả lời.

- Chắc là cô bạn rất thích hoa này ?

- Vì nó trắng tinh khiết và thơm dịu dàng.

- Sợ tới chừng đó nó sẽ phai màu đi – Tôi e ngại.

- Không sao. Dù hoa có phai màu nhưng chắc sẽ giữ được tình cảm của mình trong đó !

- Anh lãng mạn quá – Tôi nhận xét.

Anh Giáo cười để lộ hai cái răng khểnh và một đồng tiền dưới khóe miệng bên phải. Trông anh dễ thương hơn bao giờ hết !

Có lần trong lúc trò chuyện anh nói hiện nay anh ghét nhất là cái khẩu hiệu “ Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội ”. Bản thân chủ nghĩa xã hội không ra gì thì làm sao mà yêu cho được. Theo anh Giáo, yêu nước là yêu nước. Không thể và không nên gán ghép nước Việt Nam với bất cứ một chủ nghĩa nào, dù là Chủ Nghĩa Xã Hội, Cộng Sản hay Tư Bản. Nếu những chủ nghĩa này sụp đổ thì không yêu nước nữa hay sao ?

2.

Đêm 21 tháng 6 năm 1976 chúng tôi được chở bằng Motolova đến Tân Cảng xuống tàu há mồm 503 ra Phú Quốc. Chuyến đi thật kinh hoàng như địa ngục trần gian mà con người có thể tưởng tượng được. Hàng ngàn người bị dồn trên con tàu đóng kín cửa. Ăn uống, ói mửa, tiểu tiện chỉ có một chỗ, cho vào thùng phuy. Khi tàu cập bến Phú Quốc có nhiều tù nhân bị xỉu, những người còn lại đều kiệt sức. Tù nhân phải dùng chính những thùng phuy này để nấu cháo ăn ngay trong đêm. Cho tới hôm nay là ba muơi bốn năm, hình ảnh hãi hùng này vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi ghi vào nhật ký :

Đau đớn thay những linh hồn cháy lửa
Suốt đêm ngày tắm rửa với mồ hôi
Với cao tay quờ quạng chút hơi người
Miệng gào thét những âm thanh khiếp đảm

Ở Phú Quốc ngoài việc trồng rau để “ cải thiện ” bửa ăn, việc lên rừng đốn củi là công tác thường xuyên và cực nhọc nhất. Nhiều anh em nghe lời Việt Cộng, đi tìm vác những cây to để chứng tỏ mình là người “ tiến bộ ”. Anh Giáo thì không. Lúc nào anh cũng ung dung, tự tại. Anh chỉ tìm vác những cây vừa sức mình. Khi thấy cần phải nghỉ thì anh dừng lại nghỉ, mặc cho bọn vệ binh ôm súng canh giữ cho tới lúc hết mệt anh mới đứng lên đi tiếp. Anh khuyên anh em phải biết giữ gìn sức khỏe vì thời gian “ học tập” hãy còn dài. Giờ đây ngồi ghi lại những dòng này, cảnh tượng của năm nào lại hiện ra trước mặt : Trong một buổi chiều ảm đạm, gió thổi ào ào. Một bên là biển, một bên là rừng. Đoàn tù cả trăm người, dài hơn cây số, xếp hàng đôi, áo quần lôi thôi lếch thếch, vai vác những thân cây nặng nề, mồ hôi lã chã, chậm chạp lê bước trên những con dốc ngoằng ngoèo, trơn trợt. Nhiều người té lên té xuống. Hai bên và phía sau là những tên vệ binh ôm súng AK thúc giục.Tới đầu một con dốc, anh Giáo đặt thân cây xuống, ngồi trên đó nghỉ mệt. Khi một ngừời không đi nổi thì cả đoàn phải dừng lại chờ. Điều này bọn cai tù Việt Cộng không muốn. Tên chỉ huy đến chỗ anh Giáo bắt phải đứng lên đi tiếp Anh Giáo trả lời mệt quá nên phải nghỉ. Tên cán bộ không chịu. Thế là cuộc đấu trí bắt đầu. Đến khi đuối lý, tên cán bộ rút khẩu K 54 ra khỏi vỏ. Cả đoàn tù hồi hộp. Cả khu rừng như nín thở. Tên cán bộ đến bên anh , nghiêm sắc mặt :

- Anh có đứng lên không ?

- Tôi còn mệt.

- Anh không chấp hành lệnh phải không ?

- Tôi đã nói là tôi còn mệt. Bao giờ hết mệt tôi sẽ đi.

Tên cán bộ hướng khẩu K54 về phía anh Giáo :

- Anh không đứng lên tôi bắn.

Anh Giáo vẫn ngồi bất động, lạnh lùng đáp :

- Anh cứ bắn đi !

Tên cán bộ Việt Cộng bóp cò. Hai tiếng nổ chát chúa vang động cả khu rừng. Một bầy chim bay lên tán lọan, kêu quang quác… Nhiều người tù gục xuống, ôm ngực :

- Lạy Chúa tôi.

Sự việc diễn ra chỉ trong vài giây ngắn ngủi nhưng đã nói lên tất cả nét bi hùng của cuộc chiến sau “ Hòa bình ” mà kẻ có vũ khí trong tay đã thua, đồng thời tính chất anh hùng của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong hoàn cảnh sa cơ thất thế vẫn sáng ngời, chói lọi. Người tù đã thắng! Không biết vì sợ hãi hay run tay mà đường đạn nhắm vào anh Giáo đã đi trượt một bên tai, làm bể nát phần thân cây mà anh Giáo đang ngồi trên đó. Tôi thì sửng sốt, bàng hoàng, tưởng như mình vừa trải qua một giấc mơ, vừa chứng kiến một cảnh chỉ có thể xảy ra trên màn ảnh, truyền hình !

Anh Giáo thường hay kể truyện Tam Quốc, truyện Thần Điêu Đại Hiệp, truyện Tây Du Ký cho chúng tôi nghe. Hết truyện Tàu đến truyện tiếu lâm, làm cho đời sống tù tội bớt căng thẳng. Sau một thời gian ở Phú Quốc, Việt Cộng nhiều lần cho họp liên trại, phát động lại chiến dịch đấu tranh bắt anh Giáo nhận tội, nhưng rồi không thể nào lay chuyển được tư tưởng của anh.

Riêng đám tù binh chúng tôi bấy giờ rất thoải mái chớ không còn căng thẳng như lúc ở Hốc Môn. Người ta chỉ tổ chức đấu tranh với anh Giáo cho có lệ. Những lần như thế chúng tôi khỏi phải lên rừng vác củi, được nghỉ lao động, lại thích hơn.

Nhưng thời khắc định mệnh đã tới ! Một hôm trong lúc xếp hàng điểm danh cuối ngày, cán bộ Việt Cộng ra lệnh cho anh Giáo phải bỏ kính ra. Anh trình bày vì cận thị từ lâu nên không bỏ ra được. Chỉ chờ có thế, chúng ra lệnh nhốt anh vào cũi sắt làm bằng dây thép gai, thứ mà chúng ta hay gọi là chuồng cọp, diện tích rất hẹp, nằm không được mà ngồi cũng không được. Chuồng cọp để giữa trời , không có mái che mưa che nắng. Ngay từ năm 1930, khi thành lập đảng Cộng Sản, họ đã có chính sách “ Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc bốc tận rễ ”. Anh KTG là một trí thức mặc dầu thua trận vẫn cương quyết giữ vững lập trường chống Cộng và quyết tâm bảo vệ chánh nghĩa Quốc Gia thì sẽ bị tiêu diệt là điều khó tránh khỏi. Tiến sĩ toán ĐXH, cá nhân tôi và biết bao anh em khác cùng đội cũng mang kính trắng giống như anh KTG mà không hề bị làm khó dễ. Điều này được giải thích như thế nào đây ? Mỗi ngày Việt Cộng chỉ cho anh Giáo nửa chén cơm lạt. Anh lại tuyệt thực để đấu tranh và phản đối chính sách dã man và sự trả thù hèn hạ của chúng. Ngoài tuyệt thực, anh Giáo còn dùng lời ca, tiếng hát để làm vũ khí đấu tranh. Bài hát anh Giáo sử dụng là bài Đêm Nguyện Cầu, trong đó có những câu :

“ Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối…
Nghẹn ngào cho non nước tôi, trăm ngàn ưu phiền…”

Có lẽ trong giờ phút đó, anh Giáo biết rằng mình đã ở vào thế hoàn toàn tuyệt vọng và chỉ có thể nguyện cầu mà thôi. Đây là lần đầu tiên mà có lẽ cũng là duy nhất trong đời, tôi nhìn thấy một người hát bằng tất cả linh hồn như vậy. Anh Giáo thường cất tiếng hát của mình vào những đêm khuya thanh vắng. Giọng hát của anh bay vào không gian, vào từng lán, trại, có lúc thật cảm xúc, có lúc nghe rợn người như âm thanh phát ra từ cõi chết. Nhiều người nghe anh hát thì ngủ không được, nhiều người đang ngủ thì bừng tỉnh dậy và khóc nức nở. Bài Đêm Nguyện Cầu là của Lê- Minh- Bằng. Anh Bằng năm nay vẫn còn sống ở Mỹ, chắc anh không ngờ sáng tác của anh lại có người sử dụng trong hoàn cảnh đắng cay như vậy. Giờ đây mỗi lần nghe lại bài hát này tôi không cầm được nước mắt vì nhớ tới người bạn của mình. Lời ca của anh Giáo rồi thì cũng yếu dần và tôi không nhớ cho đến khi nào thì tắt lịm. Anh bị xuống sức rất nhanh. Từ một thanh niên khỏe mạnh cao hơn một thước bảy, chỉ trong vòng một tháng anh chỉ còn là một bộ xương, duy có đôi mắt là còn tinh anh, sáng ngời, khiến cho nhiều người không dám nhìn thẳng vào mắt anh, nhất là cán bộ Việt Cộng.

Ngày 20 tháng 6 năm 1977 Việt Cộng cho di chuyển một số tù nhân từ Phú Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di chuyển đợt đầu, tôi thì đi đợt kế tiếp. Trong lúc di chuyển, anh Giáo bị còng tay, lúc nào cũng có vệ binh ôm súng canh chừng. Ngay khi về tới Long Giao tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi gặp được anh thì anh đang hấp hối. Tôi nắm tay anh, bàn tay lạnh ngắt Lời nói cuối cùng anh nhắn lại với tôi là khi nào được về thì nói tất cả sự thật cho gia đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh thều thào trong hơi thở rất yếu. Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân. Sau này khi đi lao động tình cờ tôi gặp được nấm mộ của anh, phủ đầy cỏ dại ở một góc sân banh hoang vắng. Trên mộ có tấm bảng gỗ nhỏ có đề tên anh, nét chữ nhạt nhòa.

3.

Tôi được tha về cuối năm 1977. Mặc dầu phải đương đầu với biết bao khó khăn trong đời sống hàng ngày đối với một người vừa mới ra tù, tôi vẫn để tâm đi tìm gia đình anh Kha Tư Giáo. Theo quyết định ra trại, tôi chỉ được tạm trú ở nhà một tháng, sau đó phải chịu sự điều động của địa phương đi “Kinh Tế Mới ”. Nhờ may mắn, tôi xin được giấy chứng nhận là thuộc diện sử dụng vào công việc của thành phố. Từ đó tôi xin được việc làm và dần dần ổn định được đời sống. Tôi đã tìm khắp mọi nẻo đường, từ Sài Gòn vô Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú Nhuận, nhất là đường Huyền Trân Công Chúa, đường có hai chữ Huyền Trân mà tôi đã nghe anh Giáo thốt ra trong lúc lâm chung. Nhưng con đường này toàn là biệt thự, có vẻ là công sở hơn là nhà tư nhân. Tôi cứ đi qua, đi lại con đường này không biết bao nhiêu lần. Khi tôi vào hỏi đều nhận được cái lắc đầu của chủ nhà. Cũng có lần tôi cầu may lên Thành Ủy Sài Gòn ở đường Trương Định , quận Ba để hỏi thăm về đồng chí KVC, Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ nhưng tôi không qua được cổng bảo vệ vì khi được hỏi quan hệ như thế nào với đồng chí bộ trưởng thì tôi trả lời quanh co mà không chứng minh được gì cả.

Trong suốt hai mươi năm ở SàiGòn không tìm được gia đình anh Giáo thì tôi được người em vợ bảo lãnh đi Mỹ, định cư ở Chicago vào cuối năm 1997. Sang Mỹ tôi vẫn tìm cách thực hiện nguyện vọng cuối cùng của người bạn quá cố. Tôi cố gắng dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên lạc được xem có ai biết gia đình họ Kha ở đâu không. Một lần nữa tôi không có tin vui. Điều tôi làm được là cuối tháng 12 năm 2001 tôi viết lại câu chuyện về anh Kha Tư Giáo, đặt tựa đề Người Không Nhận Tội và gửi cho tờ Việt Báo ở California, mục “ Viết về nước Mỹ ”. Tôi chọn mục này vì đây là diễn đàn có số độc giả rất lớn, ở khắp nơi trên thế giới, biết đâu gia đình anh Giáo sẽ đọc được. Hy vọng của tôi rất mong manh vì bài của tôi không nói gì về nước Mỹ mà chỉ viết về người bạn của mình đã ngã gục trong tù Cộng Sản. Vậy mà không ngờ, bài viết cũng được chọn đăng và được phổ biến trên hệ thống thông tin toàn cầu. Tôi lại hồi hộp chờ đợi bài viết của mình đến với gia đình anh KTG. Ngày 23 tháng 1 năm 2002 tôi nhận được email của Ban Chủ Nhiệm Việt Báo chuyển cho cùng với bức điện thư của anh KTC, em của anh KTG gửi từ Autin, Texas, báo tin gia đình anh đã đọc được bài viết của tôi. Bức điện thư ngắn ngủi nhưng đã gây cho tôi một cảm xúc mạnh, một niềm vui lớn. Bạn hãy tưởng tượng cũng biết được là tôi hạnh phúc như thế nào khi nỗi niềm đã được giải tỏa, khi ước mơ 25 năm đã thực hiện được, nhất là ước mơ đó là của người quá cố, nên có tính cách linh thiêng.

Chiều chủ nhật 27 tháng 1 năm 2002, tôi đang ở nhà thì nhận được điện thọai từ Texas :

- Hello ! Tôi là KHT, em ruột anh Kha Tư Giáo. Xin lỗi có phải…

- Tôi, Duy Nhân đây.

- Chào anh Duy Nhân ! Có phải anh là tác gỉa bài viết Người Không Nhân Tội ?

- Tôi đây chị.

- Hân hạnh được nói chuyện với anh. Gia đình tôi đọc được bài viết của anh trên Internet. Không ngờ sự thật như vậy..

Tới đây thì tiếng nói đứt quãng. Tôi nghe được cả sự nghẹn ngào bên kia đầu dây. Chị HT quá xúc động. Tôi cũng vậy. Tôi giữ được im lặng trong một phút, rồi nói :

- Đây là giây phút mà tôi chờ đợi suốt hai mươi lăm năm nay.

- Gia đình chúng tôi cám ơn anh nhiều lắm.

- Tôi chỉ làm nhiệm vụ đối với anh Giáo, một người bạn của tôi.

- Bài viết của anh nói lên được nhiều điều. Qua đó, gia đình tôi hiểu rõ sự thật về anh Giáo, về Cộng Sản mà nhiều cán bộ cao cấp theo Cộng Sản suốt đời cũng không hiểu được.

Tôi lại nghe tiếng nức nở bên kia đầu dây. Chị HT lại khóc. Sau đó chị kể cho tôi nghe những sự kiện tiếp theo cái chết của anh Giáo. Chín tháng sau khi anh Giáo chết thì Việt Cộng mới báo tin về gia đình, Họ có hoàn lại cho gia đình một số vật dụng cá nhân, trong đó có cặp kính trắng. Bây giờ tới phiên tôi đau lòng và xót xa khi nghe nhắc tới cặp kính trắng. Đó chứng tích của sự trả thù hèn mọn và một chính sách sai lầm đối với trí thức, đối với người thuộc chế độ cũ mà tôi là nhân chứng từ đầu tới cuối. Khi gia đình nhận được giấy báo tử của anh Giáo thì mẹ và các em đi gặp cán bộ có chức quyền để hỏi tin tức. Họ nói anh Giáo nhịn ăn cho tới chết. Mẹ anh hỏi lý do gì khiến anh Giáo phải tuyệt thực, anh Giáo có tội gì phải biệt giam, đề nghị cho xin bản án hoặc biên bản về cái chết của anh Giáo. Việt Cộng không trả lời. Mặc dầu uất ức nhưng mẹ anh cố kiềm nước mắt không bật khóc trước mặt Việt Cộng. Đến khi mẹ anh Giáo đề nghị được dẫn đi tìm mộ thì bọn Việt Cộng lại tỏ ra khó chịu và đòi hối lộ. Cuối cùng, bà và các em phải đi tìm một mình và dĩ nhiên là không thể nào tìm được ! Vì quá đau buồn, mẹ anh Giáo qua đời sau đó ít lâu. Khi tôi nhắc đến tên Huyền Trân thì chị nói đó không phải là tên đường mà là tên của chị. Có lẽ trong lúc lâm chung anh Giáo gọi tên chị mà tôi tưởng là tên đường. Chị HT nói cho tới bây giờ gia đình chị không ai biết anh Giáo nằm ở đâu. Tôi thì biết rất rõ. Ngôi mộ quay đề về hướng Đông ở một góc sân banh. Trên mộ có xuất hiện một cây hoa dại có bông rất lạ. Ngày xưa mỗi lần đi lao động về ngang qua ngôi mộ tôi đề bứt vài bông đem về cắm trong lọ mà tưởng tượng anh Giáo như còn sống. Anh Giáo đã chết một cách vô danh mà anh hùng như loài hoa kia đã dũng cảm vươn lên giữa khô cằn và gai góc.

Sau chi HT thì anh KTH, em kế anh Giáo từ bên Pháp đã liên lạc với tôi bằng thư và nói chuyện qua điện thọai. Anh cho biết rõ hơn về tính tình ngay thẳng, cương trực của anh Giáo. Anh H tỏ ra rất hãnh diện và tự hào về người anh của mình, đã chọn cái chết mà không phải ai cũng làm được. Anh đã thanh thản đi vào trang sử bi hùng của Quân Lực VNCH và dân tộc.

Anh Kha Tư Giáo ơi ! Ở một nơi nào đó chắc là anh đã mãn nguyện vì ước muốn sau cùng của anh đã được thực hiện, dầu có muộn màng. Bài mà tôi viết về anh người ta đã lấy dựng thành kịch (1), cho phổ biến, trình chiếu khắp nơi mà không xin phép tác giả. Thôi thì hãy ngậm cười mà tha thứ cho họ, tha thứ tất cả. Tha thứ cho những kẻ đã hành hạ anh, những kẻ bỏ đói anh, tha thứ luôn cho cái chuồng cọp nhốt anh đêm ngày và cái còng sắt siết chặt tay anh rớm máu ! Bây giờ đã là ba mươi bốn năm, vậy mà tôi tưởng như mới ngày nào…Lịch sử vẫn đang ghi nhận những sự thay đổi, những bước tiếp diễn lạnh lùng của nó. Có những điều anh nhận định, anh mong mỏi bây giờ đã là sự thật, ngọai trừ Tự Do và Hạnh Phúc cho mọi người. Gia đình anh có nhiều thay đổi : Mẹ anh đã qua đời, ông chú anh cũng đã ra đi. Người ta dùng tên chú anh để đặt tên một con đường nhỏ ở Thủ Đức nhưng lại viết sai chính tả ! Anh còn lại những người thân nhưng đã phân tán mỗi người mỗi ngã. Có người còn ở Việt Nam, có người ở Pháp, ở Mỹ…Tôi vẫn đang liên lạc với họ, vẫn nghe tiếng họ nói mà chưa một lần gặp mặt. Vậy mà cảm thấy như đã thân quen tự thuở nào. Về phần tôi, khi nào điều kiện cho phép tôi sẽ về lại Việt Nam. Tôi sẽ đi tìm ngôi mộ của anh, sẽ thắp lên đó một nén hương và trồng bên cạnh đó một cây sứ có bông màu trắng.

GHI CHÚ:

(1) Bài viết Người Không Nhận Tội đã được Trung Tâm Băng Nhạc Asia dàn dựng với cùng tựa đề, do Ban kịch Sống – Túy Hồng trình diễn trong cuốn Asia số 36 ( chủ đề Người Lính ) tưởng niệm 27 năm tháng 4 đen (30/4/1975 – 30/4/ 2002).
Bài này được viết lại tháng 4 năm 2010 để tưởng niệm 35 năm ngày mất nước.
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

ÐẠI HỘI THUỶ QUÂN LỤC CHIẾN TẠI DALLAS, TEXAS
Sau nhiều tháng dài sửa soạn, cuối cùng Ðại Hội Thủy Quân Lục Chiến, kỷ niệm 57 năm thành lập binh chủng, đã được tổ chức tại Dallas, Texas rất trang trọng và thành công vào hai (2) ngày cuối tuần, nhân dịp “Labor Day”, mùng 3 và 4 tháng 9 năm 2011 vừa qua.

Chiều Hội Ngộ: 3-9-2011

Cùng với những nỗi lo lắng đủ thứ chuyện của các anh TQLC trong ban tổ chức đại hội như các anh Hưng, Tuấn, Châu... riêng anh PV Tiền thường thăm hỏi về thời tiết vào hai tuần cuối của tháng Tám; nghĩa là ngày nào đi làm về anh cũng thấp thỏm nhìn lên màn ảnh nhỏ xem mấy ông chuyên viên đài khí tượng (Meteorological experts) bàn bạc ra sao về nhiệt độ trong tuần tới. Thỉnh thoảng anh cũng gọi cho chúng tôi và thở ra thở vào:
“Nóng quá sá! E rằng anh em, nhất là những người lớn tuổi ai mà dám về Dallas với sức nóng như thế này. Anh xem hy vọng cuối tuần của tháng Tám có mưa không, tôi sốt ruột quá?”
Tôi đùa:
“Ngày xưa các anh đã quen với cái nóng điên người của Tam Biên, của Ðông Hà, Khe Sanh, Quảng Trị... thì với cái nóng ở đây, thấm béo gì? Thủy Quân Lục Chiến! Quyết chiến. Quyết thắng! Vả lại các anh chị ở xa, vé máy bay thì đã mua rồi. Không lẽ sợ nắng rồi trả vé?”
Anh Tiền nghiêm chỉnh:
“Ðã sợ nắng hè oi bức, cao điểm là tháng 7, tháng 8, nên anh em mới quyết định tổ chức vào các ngày đầu tháng 9, nhân ngày lễ ”Labor Day”, vì tin rằng chớm Thu, thời tiết sẽ mát mẻ hơn. Ai ngờ năm nay cơn hạn hán bất thường đã và đang kéo dài tại Bắc Texas, gần cuối tháng 8 rồi mà ngày nào cũng nóng như lửa trên 100 độ F. Theo anh thì sao? Hy vọng có cơn mưa nào sắp kéo tới vào đầu tháng 9 không?”
Biết anh Tiền hay lo xa, tôi bồi thêm:
“Tuần này 27, 28 tháng 8, miền Ðông Bắc Mỹ đang bị cơn bão Irene hoành hành dữ dội, mưa lớn làm ngập lụt nhiều tiểu bang, nặng nhất là VA, Maryland, New York, New Jersey... thiệt hại 7, 8 tỷ đô và khoảng 50 người thiệt mạng. Còn ở miền Nam thì e rằng cái nóng triền miên này sẽ kéo dài tới giữa tháng 9 mới thôi, chắc là sẽ không có một hột mưa.”
Anh Tiền thở ra nghe rõ trên đường dây ÐT. Bất chợt, tôi nhìn vào màn ảnh TV và thấy lạ rồi la lên:
“Nghe đây này anh! Tiên đóan thời tiết trên đài khí tượng số 37 (cable) vừa cho hay thứ Hai tới, tức là ngày 5-9-2011, nhiệt độ sẽ xuống dưới mức 90”.
“Còn thứ Bảy, Chủ Nhật ngày 3, 4 tháng 9 thì sao?”.
“Vẫn còn nóng điên người, nhưng chắc là dưới 100 độ.”
“Có thiệt vậy không?”
“Anh cứ mở TV lên mà coi thì biết ngay”.

Quả thật, hôm thứ Bảy, 3-9-11, từ sáng sớm trời DFW có vẻ mát dịu hơn mấy ngày trước. Cao điểm vào lúc 3 giờ chiều, nhiệt độ chỉ lên tới 96 độ. Chúng tôi và vài anh em lên xe tới hồ White Rock - một địa danh nổi tiếng tại Dallas - đúng 4 giờ chiều, nơi tổ chức buổi sum họp nội bộ, gặp gỡ anh em TQLC từ khắp nơi về. Trong thâm tâm, tôi cứ nghĩ là Chiều Hội Ngộ của Ðại Hội TQLC sẽ tổ chức lộ thiên, bà con sẽ quây quần vui chơi sinh hoạt dưới những tàng cây bóng mát ngay bên bờ hồ thơ mộng này. Dĩ nhiên là có hơi nước bốc lên từ mặt hồ trong xanh, gợn sóng lăn tăn theo từng cơn gió nhẹ thổi tới, sẽ làm giảm đi sức nóng rát da người. Thế nhưng khi hỏi các anh TQLC đang loay hoay trước bãi đậu xe để đón mừng đồng đội, gia đình và một số thân hữu... thì mới biết là sinh hoạt bên trong hội trường.” Ngoài trời vẫn còn nóng lắm các ông ơi”, anh Cao Văn Lâm nói với chúng tôi.


Bên trong hội trường bấy giờ đã khá đông người, rộn ràng với những tiếng cười hội ngộ, tay bắt mặt mừng của đại gia đình Mũ Xanh và thân hữu: “Khỏe không ông? Khỏe không bạn?” “Vâng, còn thở được qua mùa hè đổ lửa này là khỏe rồi”. “Ông ở đâu mà thấy quen quen”. “Dạ, tôi cũng đã gặp anh ở D.C., hay ở đâu đó trong những cuộc biểu tình chống cộng...”. “Vâng, tôi nhớ ra rồi, tôi thường thấy ông ở trên TV”, v.v...
Chiều hội ngộ thật vui và có ý nghĩa. Ngoài nghi lễ chào cờ, mặc niệm, còn có thả bong bóng lên trời cao để tưởng nhớ bạn bè từ bốn phương và tưởng niệm đồng đội đã vĩnh viễn ra đi sau cuộc chiến VN. Ðó là một ý nghĩ hay, ít nhất cũng mang lại cho chúng ta một suy niệm về tâm linh mà không hề thuộc về một tín ngưỡng nào cả.
Sau mấy phút thả bóng bóng -, cả trăm chiếc bong bóng đủ màu được cột chùm, mang theo cờ vàng bay bổng lên không và mất hút trong không gian vô tận -, các anh TQLC tề tựu để chụp hình lưu niệm với bạn bè, người thân. Lại những tiếng cười rộn ràng, dòn tan trong cơn gió chiều lồng lộng mang theo hơi nóng đang cố tình vật lộn với hơi nước bốc lên từ hồ White Rock. Chương trình văn nghệ tuy là cây nhà lá vườn của gia đình TQLC, nhưng có cả nam ca nhạc sĩ Hoàng Tường từ Houston lên đóng góp nên rất phong phú và vui nhộn. Sau cùng là bữa cơm chiều “self service”, tiếp đãi anh em và thân hữu rất ngon miệng bằng những món ăn đậm đà quê hương Việt Nam.

Chiều Ðại Hội, 4-9-11

Như một phép lạ, chiều CN 4-9 trời Dallas không còn “nóng điên người” như mấy hôm trước nữa. Ðúng là hay không bằng hên, Ðại Hội TQLC-2011 quả thật được Trời đãi ngộ. Tối Chủ Nhật thời tiết DFW bỗng dưng dịu xuống rõ ràng, y như lời tiên đoán của các chuyên gia khí tượng tuần trước. “Cám ơn Trời...” Anh Tiền đã nói như thế khi gặp chúng tôi ở bên trong hội trường.
Hội trường Sacred Heart Chris Church lớn rộng, đẹp, khang trang, được xây cất theo kiểu mới rất là “hi-tech”. Từ sân khấu lộng lẫy đến hệ thống máy lạnh, nói chung là kiến trúc, thiết trí phải nói là tuyệt vời. Theo thiệp mời của BTC, chương trình Ðại Hội sẽ khai mạc đúng giờ theo kiểu Mỹ, nghĩa là lần này TQLC sẽ làm cuộc cách mạng giờ giấc, cho nên cái câu mà người ta thường diễu: “Không ăn đậu, không phải Mễ. Không đi trễ, không phải Việt Nam” đã không còn để chọc cười nữa rồi. Mới chưa đầy 6:30 chiều mà bên trong hội trường đã chật cứng, hơn 600 khách tham dự, BTC đã làm việc cật lực mới sắp xếp được chỗ ngồi cho kịp giờ khai mạc.

Trên sân khấu, qua ánh đèn màu rực rỡ, thành Ðinh Công Tráng, Quảng Trị được trang trí rất oai hùng, một địa danh mà binh chủng TQLC đã cắm lại cờ Vàng VNCH trong trận chiến khốc liệt vào “mùa hè đỏ lửa 1972”, rất đẹp mắt. Cho nên nói tới địa danh Quảng Trị là phải nói tới binh chủng TQLC ”Thủy Thần Mũ Xanh” ngày xưa, hoặc ngược lại. Vâng. Tên tuổi của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến thật sự đã gắn liền với người dân Quảng Trị như một định mệnh an bài, cuộn theo những gắn bó thân thương, mừng tủi, khổ lụy, nghiệt ngã... đầy máu và nước mắt trong chiến sử oai hùng, bi tráng của QLVNCH.
Trong khi chờ đợi sắp xếp quan khách vào vị trí, Mũ xanh Phạm Văn Tiền, qua giọng nói hùng hồn đã có vài lời phi lộ:

“Thế là đã đúng hơn một năm từ ngày Ðại Hội Thủy Thần Mũ Xanh, kỷ niệm 56 năm ngày thành lập binh chủng TQLC được tổ chức tại thành phố San José miền Bắc California, Hội TQLC Dallas chúng tôi đã được Tổng hội dành cho vinh dự lớn lao để nhận lãnh trọng trách tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 57 ngày sinh nhật binh chủng tại thành phố Dallas. Ðây là lần thứ nhì chúng tôi được hân hạnh đón tiếp quý niên trưởng, quý chiến hữu và gia đình từ khắp nơi về đây với nhiều tình cảm thân thương, trân trọng qúy hiếm của một thời chinh chiến đã qua.

“Lần tổ chức trước là vào năm 1999, kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Binh Chủng TQLCVN với sự hiện diện tương đối đầy đủ của các Niên trưởng Lạng Sơn, Sài Gòn, Can Trường, Huy Lễ, Trần Mạnh Tường, Hà Nội, Hương Giang, Cam Ranh& cùng rất nhiều chiến hữu Mũ Xanh từ xa về tham dự, và hầu hết mọi người cho là thành công trong một nhà hàng sang trọng chứa hơn 600 người.

“Mới như hôm nào, thế mà đã 12 năm qua, một số niên trưởng đã vĩnh viễn ra đi vì tuổi già sức yếu. Phần còn lại đa số cũng đang mấp mé bên bờ sinh tử của một kiếp người khi mà túi thời gian của đời sống mình đã gần cạn. Vì lẽ đó, trước đây cứ 2 năm gặp nhau một lần, bây giờ rút ngắn lại chỉ còn 1 năm. Có rất nhiều niên trưởng muốn về họp mặt với anh em kỳ này, nhưng vì sức khỏe không cho phép nên đã gọi điện hỏi thăm. Ban tổ chức Ðại hội chúng tôi xin thành thật cám ơn tất cả và cầu chúc bình an đến những niên trưởng đó.
“Vào những lúc như thế này tại Dallas, tháng Bảy thời tiết rất nóng. Nhiệt độ luôn trên 100 độ F, với cái nóng khủng khiếp hàng ngày, không thể nào chúng ta có được một cuộc vui trọn vẹn. Các niên trưởng, các chiến hữu sẽ rất mệt mỏi và chuyện bỏ thời giờ quý báu về đây để gặp mặt nhau cùng thăm viếng một số danh lam thắng cảnh của thành phố Dallas trong ”cái nóng nung người, nóng nóng ghê” sẽ không còn gì thích thú. (Suốt gần 2 tháng trời nay không có một cơn mưa, đồng khô cỏ cháy).
“Nhưng với bầu không khí của những ngày chớm Thu vào đầu tháng 9, những chiếc lá bắt đầu vàng úa cùng vài cơn gió mát dịu sẽ làm chúng ta dễ chịu hơn, điệp khúc vui buồn của một thời áo trận sẽ được nhắc lại như những kỷ niệm không bao giờ quên, những ngày dài hành quân gian khổ trên mọi miền đất nước mà chiến trường xưa càng nhắc càng đau!

“Chúng ta, những người lính may mắn sống còn sau một cuộc đổi đời dâu bể, bên cạnh nhiều cấp chỉ huy, đồng đội của chúng ta đã gục ngã đâu đó trong suốt cuộc chiến vừa qua, cùng không ít chiến hữu Thương Phế Binh đang sống lận đận vất vả tại quê nhà. Mỗi một số phận con người đều có sự an bài của các đấng thiêng liêng, không ai muốn mà được.Và vì vậy sự gặp mặt nhau hôm nay quả là cái duyên hy hữu đáng quý. Ai cũng có một thời vàng son để nhớ, một thời khổ cực để yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong những lần tử sanh trên chiến trận.

“Chúng ta đã sát cánh chiến đấu cùng nhau trong gian khổ nguy hiểm khôn cùng, chúng ta đã khóc hết bao nhiêu nước mắt cho những đồng đội không may mắn ngã gục sau những lần xung phong hay tử thủ. Chúng ta đã ôm nhau vì quá sung sướng sau nhiều chiến thắng vẻ vang, trong tiếng cười có vị mặn của nhiều giọt nước mắt để tiếc thương, thương tiếc... về những thiệt thòi, mất mát lớn lao cho biết bao nhiêu đồng đội vừa nằm xuống.
“Tất cả những hình ảnh đó mãi mãi là những thước phim qúy giá nhất sẽ đưa chúng ta về một quá khứ trai trẻ hiên ngang của thời áo trận mũ xanh ”Mạnh như Sóng thần”. Chúng ta hãy cùng ôm chặt lấy nhau, tay bắt mặt mừng trong nức nở nghẹn ngào. Hãy cùng nhau chia sẻ, tâm sự hết cho nhau nghe những gì xảy ra trong suốt thời gian dài xa cách!

“Chúng ta sẽ nhắc lại biết bao chuyện đã qua, chuyện đời, chuyện lính, chuyện tù, chuyện vượt biên vượt biển trong nước mặt nhạt nhòa, vì đã quá lâu, quá dài, hơn hai, ba chục năm mới gặp lại. Những nét mặt già nua mệt mỏi của thể xác có thể làm biến đi dáng hiên ngang của một thời son trẻ, nhưng tiếng lòng của một trái tim thổn thức vẫn mãi mãi là tiếng gọi của lương tâm, sẽ làm cho chúng ta cảm thấy thương yêu nhau hơn, thắm thiết nhau hơn ở giai đoạn cuối đời.

“Ngày hôm nay 4-9-2011 là ngày Ðại hội chính thức. Những giây phút mặc niệm để tưởng nhớ các bậc anh hùng dân tộc cùng tất cả chiến hữu QLVNCH, đặc biệt dành riêng cho các chiến sĩ Cọp Biển đã nằm xuống cho cuộc chiến ”Bảo Quốc An Dân” vừa qua... Chúng ta có dịp sống lại những giờ phút đầm ấm thiêng liêng cùng niềm vui hãnh diện của một chiến sĩ Cọp Biển, Thủy Quân Lục Chiến quyết tiến, quyết thắng! Ðặc biệt chúng ta hãy dành những nén nhang thơm nhất, những hoa hồng đẹp nhất cho tất cả chiến sĩ Cọp Biển TQLCVN anh hùng với lời thề bất tử của cố Trung tá Lê Hằng Minh:
Vì anh là lính áo rằn,
Ra đi nào biết mấy trăng mới về.

“Chúng ta những đồng đội sống còn hôm nay, mãi mãi vinh danh những người lính áo rằn Mũ Xanh đã đi hoài, đi mãi không về& ”Một đi là quyết chiến đấu, một đi là quyết chiến thắng, này Ðầm Dơi giết tan biết bao quân thù. Lừng danh Cọp Biển chúng ta không hề lui bước, chiến thắng Phụng Dư nức danh đoàn cảm tử quân. Ðồng bào mừng vui đón chào chiến thắng Ðức Cơ! Chúng ta là trai thế hệ, chúng ta là con đất nước, Ði đi lên đoàn Cảm tử quân”.

NGHI LỄ

Giây phút khai mạc Ðại Hội bằng nghi lễ chào cờ Việt Mỹ và mặc niệm rất trang trọng, do MC Cao Văn Lâm điều khiển. Trên sân khấu, 16 phu nhân của các Thần Thủy Mũ Xanh với những tà áo dài màu xanh hy vọng rất đẹp mắt, sẵn sàng trong tư thế hành lễ. Phía dưới sân khấu là đội nghi lễ dàn chào với quốc quân kỳ rất oai hùng theo nhịp bước tiến lên vị trí hành lễ. Giây phút cảm động nhất là lễ mặc niệm những chiến sĩ đã bỏ mình cho Tổ Quốc qua hai tiếng kèn trumpet và saxophone của hai anh TQLC nghe đứt ruột.
Tiếp theo là phần giới thiệu quan khách rất ngắn gọn, gồm truyền hình, báo chí Việt ngữ tại vùng DFW; Ông Andy Nguyễn, Commisioner của Hạt Tarrant County và Chủ tịch 2 CÐ Dallas và Tarrant là bà Lê Lam Ngọc và ông Nguyễn Kinh Luân; Ðoàn TN Hồn Việt và tất cả các binh chủng hội đoàn quân nhân bạn trong vùng DFW.

Ban tổ chức cũng đã giới thiệu môt số các vị chỉ huy từ khắp nơi về hiện diện trong đại hội như: Cựu Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh sư đoàn TQLC (sau cùng); Cựu Ðại Tá Nguyễn Thành Trí, phó Tư Lệnh Sư Ðoàn; Cựu Ðại Tá Tôn Thất Soạn, Chỉ Huy Trưởng chiến đoàn; cựu Th.tá Dương Văn Hưng TÐ1, Cựu Tr.tá Nguyễn Văn Cảnh TÐ-3; Cựu Th.tá Phạm Văn Tiền TÐ 5; Cựu Th.tá Phạm Cang TÐ 7; Cựu Tr.tá Nguyễn Văn Phán TÐ 8; Cựu Tr.tá Trần Thiện Hiệu TÐ pháo binh; Cựu Th.tá Bs Trần Mạnh Tường TÐ Quân Y và Cựu Th.tá Trần Thị Huy Lệ Trưởng phòng xã hội Sư Ðoàn. Tất cả các vị này đã được quan khách và anh em Thủy Thần Mũ Xanh chào mừng với những tràng pháo tay rất nồng nhiệt.

Kế đến là lời chào mừng quan khách và chiến hữu của Trưởng ban tổ chức Ðại Hội, Mũ xanh Dương Văn Hưng, và lời phát biểu cảm tưởng rất chân tình về Ðại Hội TQLC và gia đình năm 2011 của Mũ xanh Phạm Cang, đương kim Tổng Hội Trưởng TQLC.

Sau phần giới thiệu các cấp chỉ huy hiện diện của Sư Ðoàn TQLC, tiểu sử thành lập sư đoàn cũng được nhắc lại một cách hào hùng với nghi lễ cờ hiệu của 18 tiểu đoàn trước quan khách, cùng với sự bồi hồi cảm động của cử tọa.
Ngày 1 tháng 10 năm 1954 sau khi Pháp và Việt Cộng ký kết hiệp định Geneve (20-7-1954), 12 đơn vị Cảm Tử Quân ở Bắc Việt (Commando 13) di chuyển vào Nam hợp với 3 đại đội Tuần Giang ở Hội An, Khánh Hòa và Thị Nghè thành lập Tiểu đoàn 1 Bộ Binh Hải Quân do Ðại úy Roger Bùi Phó Chí chỉ huy, con chim đầu đàn của Binh Chủng TQLCVN sau này.


Binh chủng TQLC là Lực Lượng Tổng Trừ Bị rất thiện chiến của QLVNCH. Trong quá trình 21 năm vừa thành lập vừa phát triển và chiến đấu để chống lại cuộc xâm lăng Miền Nam của Cộng sản Bắc Việt, binh chủng Thủy Quân Lục Chiến đã được nâng cấp số nhiều lần, dần dần phát triển tăng trưởng đến cấp lữ đoàn.

Ðến năm 1968 vì nhu cầu chiến trường, TQLC đã được nâng cấp thành Sư đoàn. Tính đến năm 1975 Sư Ðoàn TQLC có 4 Lữ đoàn với 12 Tiểu đoàn tác chiến, 3 Tiểu đoàn Pháo binh, 1 Tiểu đoàn yểm trợ tiếp vận, 1 Tiểu đoàn Quân Y, 1 Tiểu đoàn Truyền Tin, với quân số hơn 11.000 người. Vị Tư lệnh cuối cùng của binh chủng là Thiếu tướng Bùi Thế Lân, đang hiện diện với quan khách và tất cả các chiến hữu TQLC trong đêm nay.
Sau cùng, trong phần giới thiệu binh chủng TQLC và một trong những trận đánh đã đi vào lịch sử, đó là hoạt cảnh hùng tráng chiếm lại Cổ thành Ðinh Công Tráng, Quảng Trị với nhạc phẩm “Cờ Bay”. Chính các anh em TQLC đã diễn xuất rất hào hùng khi chiếm lại cổ thành này, cộng với màn vũ cờ Vàng do một số hậu duệ trình diễn rất công phu, cảm động.
Một hoạt cảnh khác của các thiếu nữ áo dài trắng học trò được các bà các chị trình diễn rất đẹp mắt. Màn “em gái hậu phương” với ca khúc “Có những người anh” có lẽ đã làm cho các anh bùi ngùi cảm động, quay về với những kỷ niệm xa xưa “anh tiền tuyến - em hậu phương”.

Phần hai của Ðêm Ðại Hội là phần văn nghệ, rất phong phú, do hai MC NG Hồ Quang và Mũ Xanh Nguyễn Văn Châu phụ trách rất nhuyễn, cùng với các ca sĩ: Thúy Vân, Anh Tuấn, Vân Anh, Ánh Tuyết, Quang Liêm và Hoàng Tường... đã đóng góp những nhạc phẩm về người lính VNCH rất có ý nghĩa.
Ðặc biệt, trong phần văn nghệ, ca sĩ Lê Thành đã lên sân khấu đóng góp một nhạc phẩm bất hủ là bài “Chuyện Tình Buồn”, lời của nhà thơ mũ xanh Phạm Văn Bình, người Quảng Trị sáng tác, do Phạm Duy phổ nhạc. Có lẽ chuyện tình (đơn côi) của người họ Phạm, xứ Ðông Hà gió Nam đầy cát bụi, đã đi vào tình sử của một cuộc tình cay đắng xót xa mà chỉ những người bạn thân, dân Ðông Hà mới biết rõ về cuộc tình buồn ấy: “...Ngày nhà em pháo nổ, tâm hồn anh nhuốm máu. Ôi nhát chém hư vô, ôi nhát chém hư vô Năm năm rồi đi biệt, đường xưa chưa lối về Trong đìu hiu gió cuốn, nằm chơ vơ gác chuông Năm năm rồi cách biệt, cỏ hoang sân giáo đường Chúa buồn trên thánh giá, mắt nhạt nhòa mưa hoang...”

Quảng Trị hoang tàn, đổ nát, bình địa sau trận huyết chiến “Mùa Hè đỏ lửa 72” đã gắn liền với binh chủng TQLC như thế đó - mất mát, khổ đau, tuyệt tận... e rằng không còn danh từ nào khổ hơn nữa để mà diễn tả về địa danh Quảng Trị. Nhưng người dân Quảng Trị vẫn vươn lên trong cuộc sống ở khắp nơi... và như Lê Thành, như chị Hồng Lê, cựu học sinh của trường Nguyễn Hoàng năm xưa áo trắng sân trường, một thời mộng mơ ấp ủ, trọn đời vẫn mang theo mối tình Quảng Trị thân yêu, dù sống bất cứ nơi nào trên địa cầu này.

Màn cuối cùng, cũng rất có ý nghĩa, đó là hoạt cảnh “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng” “ánh sáng sẽ lóe lên dưới con đường hầm tăm tối”; đó chính là bình minh trên quê hương VN một ngày không xa.
Sau hết là phần cắt bánh sinh nhật lần thứ 57, mừng sinh nhật Sư Ðoàn TQLC. Cựu TT Bùi Thế Lân đã cắt miếng bánh tiêu biểu ấy với tình đồng đội, tình anh em sống chết có nhau trên chiến trường xưa. Và cũng hy vọng ông sẽ cắt bánh vào năm tới với anh em TQLC trên quê hương thân yêu Việt Nam, khi đất nứơc không còn bóng dáng cộng sản.
Lời kết:
Sự thành công về nhiều mặt của Ðại Hội TQLC-2011 tổ chức tại Dallas đã làm cho nhiều người vui lây. Thế nhưng vui nhất vẫn là ban tổ chức ÐH, vì họ đã làm việc cật lực trong gần một năm qua để có kết quả mỹ mãn như ngày nay. Có người còn cho rằng, anh em “Thuỷ Thần MX” đã mang mùa Thu với gió mát trăng thanh tới DFW sau hơn hai tháng Hè oi bức, nắng cháy da người.

Lão Gà Tre
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image


Hà Giang, người đàn bà hiếm có
trong trại tù Lao Cải


Phạm Tín An Ninh:
1-

Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.

Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành phố cảng, sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ xe. Chúng tôi chọn nơi này, vì bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dãy núi Victoria, nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.

Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả cho con bé cháu nội. Trước đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết được tiếng Việt. Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút. (Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment, mỗi phòng trọ, ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và bếp với đầy đủ dụng cụ nấu ăn). Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có nhiều dịp được ra biển tắm, nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào, mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi đến chiều, khi trời sắp tắt nắng mới chịu trở về. Đã vậy khi về đến khách sạn, cô bé còn xin được tiếp tục bơi lội trong hồ tắm của khách sạn đến tối mịt mới chịu vào phòng. Trong khi bà xã làm thức ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng con bé.

Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người Bắc Âu và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á châu nào, ngoại trừ gia đình người Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một người nào đó. Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm và đùa giỡn với con bé. Thấy tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương dễ quen nhau.

Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều làm tôi chú ý chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một địa danh vẫn còn đậm trong ký ức, cho dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết bao nhiêu cái tên để nhớ.

Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối trong nhà hàng buffet của một người chủ gốc Tàu, thì bất ngờ thấy Lam Khê đi vào cùng với một người đàn bà Việt Nam và một người đàn ông ngoại quốc. Có lẽ Lam Khê đã kể về chúng tôi, nên cả hai người đến chào và bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ đến giật mình khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình, thì bà nở nụ cười giới thiệu người đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:

-Đây là ông xã em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố Hamburg.

Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi bà:

-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?

-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nhìn chúng tôi ngạc nhiên.

-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời cả ba người- Hóa ra chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin được mời ông bà và cháu Lam Khê.

Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn còn nguyên trên mặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:

- Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay khi gặp và biết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghĩ ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê, tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn tình cảm và lòng tốt của bà đã dành cho chúng tôi trong những ngày sa cơ khốn khó.

Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày vui buồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều gì đó.

Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa, tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo” chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng một lâm trường, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả thịt da.

Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm”!

Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ bên bìa rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”. Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.

Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn. Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân tình. Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy cô thường ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương vô vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt. Thấy một anh đeo trên cổ tấm ảnh của vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung tình”.

Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về Lâm Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản phát động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào Cai, hướng dẫn những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng. Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa phương, thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua biên giới. Rất may mắn, lúc ấy cô đang về học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành lập lâm trường mới. Đó chính là lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra đây chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là 60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!

Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô. Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã tâm sự. Người đàn ông ấy là một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được đảng bộ sắp xếp để lâp gia đình với cô, làm gương cho kế hoạch “trí thức cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn khởi trước sự ưu ái của đảng, đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với đảng. Đây cũng là “phần thưởng” để cô được bổ nhậm về lâm trường mới này với chức danh giám đốc!

Chúng tôi ngạc nhiên, vì gã công nhân tiên tiến này trông lớn hơn cô nhiều tuổi, rổ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp với cô con gái có học và dễ thương này. Cô còn bảo là trong trái tim cô, không hề có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, vì vậy cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang trong thời kỳ “nín thở qua sông”!

Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề cao cảnh giác” không dám nói điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng tôi biết, Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện “mỹ nhân kế” không phải bây giờ mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi người một củ khoai lang luôc, rồi buột miệng hỏi:

-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm phải không?

- Bọn tôi là những người thua trận, thì chuyện bị tù đày, hành hạ cũng là lẽ thường tình - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.

Cô trầm ngâm giây lác rồi lên tiếng:

- Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và miền Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội, luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng là mình đại thắng, để cầm tù và hành hạ lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ đời: một lũ ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo” những người trí thức, mà đòi hỏi người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật!

Bọn tôi chỉ im lặng. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay thoát ra, phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia đình. Điều làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần phải đạt một chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm mang theo, Cô nhận mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực phẩm khác.

Lâm trường mới khởi công vừa được hơn ba tuần thì trại tù có lệnh biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những ngày lao động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần bảy năm tù.



2-

Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn, tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi.

Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà vừa cạn, bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi:

- Anh còn nhớ anh Đôn không ?

Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:

- Trần Chánh Đôn!

Tôi hỏi lại:

- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm trường?

Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà:

- Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đã cung cấp cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la bàn, em lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ cho anh cách thức trốn khỏi lâm trường cùng với ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ, cái la bàn và sự hướng dẫn tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới. Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang khấp khởi mừng thầm thì được tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số cán bộ công an trại giam. Họ cho biết là tất cả bốn anh đều bị công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại, bởi các anh đã chống cự để tìm cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh, dù có tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo sợ bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả khôn lường, nên em đã khẩn trương chạy về Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em được trở lại Đông Đức hai tuần, đệ trình cho trường đại học cũ một số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông ta gật đầu, và liên lạc can thiệp bên tòa đại sứ Đức cấp visa sớm. Chỉ hơn mười ngày là em rời khỏi nước. Tất nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức, em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đã hết lòng lo lắng và chở che em.

Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đình, em còn mang theo hình ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết, đẹp trai với nụ cười độ lượng, em còn nhìn thấy bên trong của anh Đôn là sự thủy chung và lòng tự trong, có cả một chút nghệ sĩ lãng mạn nữa.Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam Khê ấy, em đã học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh hát những bản tình ca, đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời. Trái tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.

Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nước mắt chảy dài trên gò má. Tôi rót thêm trà mời cô.

Bà xã tôi hỏi:

- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?

- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về địa chỉ ấy đều bị trả lại, với lý do: người nhận không còn ở tại địa chỉ này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi vùng kinh tế mới hay không?

Tôi đưa tay ngăn lời cô:

- Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cũng đều là người gốc Nha Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng muốn biếu cha mẹ anh ít tiền, vì Đôn cũng là bạn tù của tôi.

Hà Giang chau mày:

- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở nhà. Em xin địa chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em tìm lại được. Em thiết tha muốn gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người còn sống.

Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ. Bao nhiêu năm trong cảnh khốn cùng, đã không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và tư cách của Đôn. Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người bạn tù khác trốn trại, khi tôi đã bị chuyển đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi người mỗi cách.

Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận được e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.

Tôi viết thư nhờ người bạn thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia đình Đôn đã dọn đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết đâu có thể tìm ra manh mối.

Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một đoạn trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:

“Đúng như mày viết, gia đình người này đã dọn đi khá lâu rồi. Nhưng có người láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời hơn hai mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, hình như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao dò tìm khắp nơi theo lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến nay vẫn chưa gặp được...“

Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất“, rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn: Mày cố gắng mọi cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải tên là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện gọi điện thoại cho tao biết.

Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của người bạn từ Việt Nam:

“Tao đã tìm được anh ta. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm dưới triền núi, phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương, cách Đà Lạt gần bốn mươi cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm trụ trì. Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù một con mắt và què cả hai chân, nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông không bao giờ rời khỏi chùa, vì từ dưới chân núi đi lên, tao đếm hơn năm mươi bậc tam cấp.“

Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo mãi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần cô lau nước mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghĩ là cô sẽ đau lòng lắm khi nhận được tin này.

Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:

“Anh Chị ơi.

Em đã khóc hết nước mắt khi nhận được tin anh Đôn. Suốt cả đêm hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây giờ lòng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn còn sống. Em vừa mừng nhưng cũng vừa đau lòng lắm, khi biết anh đã bị mù một mắt và tàn phế cả đôi chân.

Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, vì anh cũng là bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú.

- Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở Mallorca, chính là giọt máu của anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng, em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải qua bao nhiêu giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để đoàn viên. Nhưng rồi ông trời đã hại em, vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết. Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ người. Bây giờ biết được anh Đôn còn sống, nhưng đã trở thành một vị đại đức, em vừa hối hận vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để em biết mình sẽ phải làm gì. Bây giờ chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào, nhưng còn Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt máu của anh. Làm thế nào để cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết. Thỉnh thoảng cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hãnh diện về ba cháu lắm.“



3-

Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhưng cũng không tìm ra một lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng núi Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.

Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi về Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt Nam. Số chuyến bay và giờ đến phi trường, cô sẽ cho biết sớm.

Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng:

...Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt. Thầy đem cả triết lý đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất trắc. Thầy nói thật hay và cảm động.

Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định không khai người nào đã giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm bản đồ và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.

Sau khi mọi người tìm lại được sự bình tĩnh, Hà Giang xin cúng dường cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa từ chối, bảo là nhà chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin được đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù lòa, thầy cũng chối từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất mát ấy, hơn nữa bây giờ thầy đã tu hành, năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy các em học sinh nghèo hiếu học trong vùng, nhưng phòng học là gian nhà trống vách ngay phía sau chùa.

Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở lại một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới, thay những bậc tam cấp bằng con đường lát đá, đặc biệt phía sau chùa, từ gian phòng Thầy dạy học nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít hoa dã quỳ, cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ, trồng thêm hoa, làm suối nước, và xin đặt tên là Lam Khê Viên, vì chữ Lam nghe cũng hợp với khung cảnh chùa chiền...

Khi ngồi viết những dòng này, tôi không biết là những điều mong ước của Hà Giang có được thầy Thích Thiện Hòa chấp nhận hay không, và cuộc tình đẹp và bi tráng này có còn sống mãi trong lòng mỗi người cho đến thiên thu.

Phạm Tín An Ninh
bobinh
Posts: 221
Joined: Fri Feb 26, 2010 1:35 am
Contact:

Post by bobinh »


Image

BIỆT ĐỘNG QUÂN QLVNCH

BĐQ Vũ đình Hiếu
Chú thích: Trung Tâm Việt Nam (Vietnam Center) thuộc Texas Tech University đã tổ chức hai ngày (17, 18 tháng Ba) hội thảo, với chủ đề "QLVNCH: Phản Ánh và Tái Thẩm Định sau 30 năm". BĐQ Vũ Đình Hiếu, vốn là khách quen của trung tâm này, vì ông thường đến đây thuyết trình hàng năm, đã trinh bày đề tài RVN RANGER. Đề tài này nói về binh chủng Biệt Động Quân, một binh chủng hào hùng của QLVNCH mà ông ta phục vụ trước đây.

I. LỜI GIỚI THIỆU

Binh chủng Biệt Động Quân QLVNCH được thành lập vào tháng Bảy năm 1960 gồm những đại đội biệt lập. Những đại đội Biệt Động Quân này được huấn luyện đặc biệt về du-kích chiến để tiêu diệt những đơn vi Việt Cộng. Ngay từ lúc đầu, các chiến sĩ Biệt Động Quân đã nổi tiếng là dũng mãnh với lối tấn công chớp nhoáng. Trưởng thành trong khói lửa, các đại đội, tiểu đoàn Biệt Động Quân đã tham dự hầu hết những chiến dịch, những cuộc hành quân nổi tiếng, những trận đánh đẫm máu trên khắp chiến trường. Họ là những quân nhân can đảm, hãnh diện đội chiếc mũ beret mầu nâu, mang trên vai phù hiệu binh chủng con báo đen nhe nanh. Phù hiệu con báo đen thường được sơn đằng trước nón sắt để làm khiếp đảm tinh thần địch quân, do đó Biệt Động Quân còn được mang danh là "Cọp".

Khi cuộc chiến lan rộng, các đại đội Biệt Động Quân biệt lập được gom lại, tổ chức thành cấp tiểu đoàn để có thể đối đầu với một đơn vị địch cấp lớn. Đến năm 1967, chiến tranh Việt Nam đã trở thành chiến tranh quy ước với những trận điạ chiến. Binh chủng Biệt Động Quân được tổ chức lên tới cấp liên đoàn để có thể hành quân trên một chiến trường rông lớn hơn. Kể từ ngày thành lập, binh chủng Biệt Động Quân đã tham dự các trận đánh nổi tiếng sau đây:

1. 1964: Bình Giả, hai tiểu đoàn 33 và 38
2. 1965: Đồng Xoài, tiểu đoàn 52
3. 1968: Tết Mậu Thân, tất cả các đơn vị Biệt Động Quân trên bốn Quân Khu.
4. 1970: Vượt biên qua Kampuchia, các liên đoàn: 2, 3, 4, 5, 6
5. 1971: Hạ Lào, liên đoàn 1
6. 1972: Mùa Hè Đỏ Lửa, các liên đoàn: 1, 3, 4, 5, 6, 7

II. CÁC TRẬN ĐÁNH NỔI TIẾNG

1. Bình Giả (28/12/1964)
Bình Giả là một ngôi làng nhỏ trong tỉnh Phước Tuy, dân số khoảng 6000 người, đa số là người Công Giáo di cư từ miền Bắc đến định cư sau năm 1954. Làng Bình Giả có một vị trí chiến lược cách thành phố Saigon khoảng 67 cây số về hướng tây.

Hai trung đoàn Việt Cộng 271, 272 thuộc công trường (sư đoàn) 9 VC từ chiến khu C và D di chuyển ra vùng duyên hải để nhận đồ tiếp tế từ miên Bắc. Sau đó cả hai đơn vị tập trung lại, tổ chức huấn luyện trong những cánh rừng cao su xung quanh làng Bình Giả.

Để mừng kỷ niệm bốn năm ngày thành lập MTGPMN, một tiểu đoàn VC tấn công làng Bình Giả sáng ngày 28 tháng 12 năm 1964û. Ngôi làng nhỏ này chỉ có hai trung đội Điạ Phương Quân phòng thủ. Sau khi chiếm xong làng, địch quân được tăng viện thêm quân để cố thủ. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III cho trực thăng đổ quân tiểu đoàn 33 Biệt Động Quân xuống Bình Giả để phản công. Quân Việt Cộng đã biết trước, phục kích nơi bãi đáp trực thăng làm thiệt hại đơn vị BĐQ. Các quân nhân BĐQ rút vào một nhà thờ trong làng cố thu,û đợi quân tăng viện.

Ngày hôm sau, trực thăng đổ thêm tiểu đoàn 38 BĐQ nơi hướng nam làng Bình Giả, để các chiến sĩ Mũ Nâu tấn công từ hướng nam lên. Trận đánh kéo dài cả ngày, BĐQ vẫn chưa tiến được vào làng vì địch đã đào hố chiến đấu, tổ chức phòng thủ rất vững chắc.

Sáng ngày 30, tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến được gửi đến tăng viện cho Biệt Động Quân. Các đơn vị VC đã rút lên hướng đông bắc và QLVNCH đã lấy lại được làng Bình Giả. Đến tối, địch quân tấn công trở lại nhưng bị đẩy lui, tuy nhiên địch bắn hạ được một trực thăng võ trang, rớt trong rừng cao su Quang Giao cách làng Bình Giả khoảng 4 cây số.

Qua ngày 31, tiểu đoàn 4 TQLC được lệnh tiến lên, đi tìm chiếc trực thăng lâm nạn cùng phi hành đoàn. Khi đơn vị TQLC tiến đến gần nơi chiếc trực thăng, đại đội 2 bị phục kích, phần còn lại của tiểu đoàn lên tiếp cứu cũng bị thiệt hại nặng phải rút về Bình Giả.

Ngày 1 tháng Tư, hai tiểu đoàn Nhẩy Dù 1 và 3 được trực thăng đổ xuống nơi hướng đông làng, nhưng quân VC đã biến mất. Trận Bình Giả báo hiệu cho QLVNCH biết rằng địch quân có thể tổ chức những trận đánh lớn.

2. Đồng Xoài (0/9/1965)
Ngày 9 tháng Sáu năm 1965, Việt Cộng tung hai trung đoàn 762, 763 tấn công Đồng Xoài, quận Đôn Luân trong tỉnh Phước Long. Đúng 11 giờ 30, chủ lực quân địch tấn công trại Dân Sự Chiến Đấu do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ vừa mới thiết lập. Bị tấn công bất ngờ, DSCĐ cùng với ĐPQ rút lui vào trong quận để chống trả lại lực lượng đông đảo của địch.

Quân VC mở bốn đợt tấn công nhưng vẫn không chiếm được quận. Tức giận, chúng quay trở lại trại DSCĐ tàn sát khoảng 200 đàn bà, trẻ em, vợ con của các quân nhân DSCĐ.

Sáng hôm sau, QLVNCH đưa một tiểu đoàn Bộ Binh và tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân (Sấm Sét Miền Đông) vào trận điạ. Tiểu đoàn BB bị phục kích nơi đồn điền cao su Thuận Lợi gây tổn thất nặng. Tiểu đoàn 52 BĐQ được không lực yểm trợ, tấn công như vũ bão. Các chiến sĩ Mũ Nâu đánh tan những toán quân VC đang bao vây quận Đôn Luân, sau đó quay trở lại càn quét địch ra khỏi trại DSCĐ trước buổi sáng ngày hôm sau 10 tháng Sáu, 1965. Trong trận này, Biệt Động Quân tịch thâu được nhiều tiểu liên xung kích AK-47, lần đầu tiên được địch quân xử dụng trên chiến trường.

3. Tết Mậu Thân 1968
Lợi dụng thời gian hưu chiến trong dip Tết Mậu Thân, quân Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng bất thần mở một loạt những trận tấn công vào các thành phố trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tất cả các đơn vị Biệt Động Quân trên khắp bốn vùng chiến thuật đã được điều động phản công, đánh đuổi địch quân ra khỏi các thành phố.

Trong thủ đô Saigon, tiểu đoàn 30 BĐQ đẩy lui địch ra khỏi khu vực Hàng Xanh. Tiểu đoàn 38 BĐQ tảo thanh khu vực chùa Ấn Quang. Các tiểu đoàn BĐQ 30, 33, 38 và đại đội Trinh Sát 5 thuộc liên đoàn 5/BĐQ đánh chiếm từng căn nhà, từng cao ốc trong khu vực Phú Lâm (Quận 6), trường đua Phú Thọ và khu Bình An trong quận 7 nơi có nhiều kênh rạch. Tiểu đoàn 41 BĐQ từ dưới vùng 4 được đưa lên tăng cường, tảo thanh khu vực hãng rượu Bình Tây. Tiểu đoàn 35 BĐQ thuộc liên đoàn 6/BĐQ càn quét địch trong khu vực Chợ Lớn.

Các tiểu đoàn 11, 22, 23 Biệt Động Quân thuộc liên đoàn 2/BĐQ trên vùng cao nguyên cũng tham dự những trận phản công đuổi địch ra khỏi các thành phố Plei-Ku, Đà Lạt, Qui Nhơn.
Tại Mặt Trận An Lộc 1972

Trong Tết Mậu Thân, mặt trận ở Huế được coi là trầm trọng nhất. Các tiểu đoàn 21, 37, 39 thuộc liên đoàn 1/BĐQ đánh đuổi địch quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng, Hội An. Mặt trận Huế coi như chấm dứt khi tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân cắm cờ trong khu Gia Hội.
Image
BĐQ tại mặt trận Mậu Thân - Chơ Lớn

4. Hành quân vượt biên qua Kampuchia (1970)
Ngoại trừ liên đoàn 1/BĐQ nằm ngoài vùng I chiến thuật, các liên đoàn 2, 3, 4, 5 và 6 đều tham dự hành quân vượt biên qua Kampuchia lục soát, phá hủy các căn cứ tiếp liệu, hậu cần của địch. Các đơn vị Biệt Động Quân tịch thâu được rất nhiều vũ khí đủ loại của giặc cộng và làm tiêu hao các công trường (sư đoàn) chính quy 5, 7, 9 Việt Cộng.

5. Hành quân Lam Sơn 719 (1971)
Hành quân Lam Sơn 719 đầu tháng Hai năm 1971 nhằm mục đích phá hủy các căn cứ điạ 604 của quân đội Bắc Việt. Căn cứ này nằm trên đất Lào nơi làng Tchépone. Tin tức tình báo cho biết, địch quân xây dựng nhiều kho tiếp liệu chứa lương thực, súng đạn. Căn cứ này còn được xử dụng làm nơi dưỡng quân cho các đơn vị địch sau những lần chạm súng với các đơn vị của ta. Ngoài ra về phiá nam, còn có thêm căn cứ 611, là nơi phát xuất cho các trận tấn công trong tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế.

Liên đoàn 1/BĐQ là đơn vị trừ bị cho QĐ/I nên tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ba tiểu đoàn thuộc liên đoàn 1 được điều động như sau: tiểu đoàn 37 BĐQ nằm với bộ chỉ huy liên đoàn trong căn cứ hành quân tiền phương ở Tà Bạt, gần biên giới Lào Việt hướng Tây Bắc căn cứ Khe Sanh. Tiểu đoàn 21 BĐQ được trực thăng Hoa Kỳ đưa đến bãi đáp ?Biệt Động Quân Nam? (Ranger South), cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 cây số về hướng Đông Bắc. Ba ngày sau, tiểu đoàn 39 BĐQ xuống bãi đáp ?Biệt Động Quân Bắc? (Ranger North) khoảng 3 cây số Đông Bắc tiểu đoàn 21 BĐQ.

Nhiệm vụ của hai tiểu đoàn Biệt Động Quân là thăm dò mức độ chuyển quân của địch và ngăn cản các mũi dùi tấn công của địch vào hai căn cứ hỏa lực 30, 31 ở phiá nam. Trường hợp hai căn cứ này bị tràn ngập, địch quân có thể cắt đứt đường rút quân của ta trên đường số 9.

6. Mùa Hè đỏ lửa (1972)
Cuối tháng Ba năm 1972, ngoài vùng điạ đầu giới tuyến, CSBV xử dụng năm sư đoàn chính quy: 304, 308, 312, 324 và 325 mở trận tấn công tràn qua sông Bến Hải và từ bên Lào sang. Ngày 5 tháng Tư, trận tấn công quy mô thứ hai với ba công trường (sư đoàn) 5, 7, 9 thuộc Trung Ương Cục Miền Nam từ đất Campuchia tiến vào bao vây thị xã An Lộc. Trận cuối cùng xẩy ra trên vùng cao nguyên, lãnh thổ Quân Đoàn II. Ngày 6 tháng Tư, quân CSBV xử dụng ba sư đoàn thuộc mặt trận B3 (Tây Nguyên) và Quân Khu V gồm có sư đoàn 2, 3 (Sao vàng) và sư đoàn chủ lực 320 (Thép) tấn công các tiền đồn của QLVNCH trong tỉnh và thành phố Kontum.

Các liên đoàn Biệt Động Quân đang hành quân dưới vùng IV, bên Kampuchia hoặc trên lãnh thổ Quân Đoàn III: 4, 5, 6, 7 được đưa ra tham chiến ngoài vùng I và trên vùng cao nguyên. Cùng với các liên đoàn trừ bị 1 và 2 ngoài quân khu, các chiến sĩ Mũ Nâu đã sát cánh cùng với các binh chủng bạn giữ vững phòng tuyến. Liên đoàn 3/BĐQ đã nằm trong An Lộc cùng với sư đoàn 5/BB ngay từ những ngày đầu của trận chiến An Lộc

III. ĐOẠN KẾT
Image
Thành phố An Lộc tan hoang trong pháo kích
Trong suốt cuộc chiến, binh chủng Biệt Động Quân đã chiến đấu bảo vệ quê hương, nêu cao danh dự mầu cờ sắc áo của binh chủng. Các đơn vị Biệt Động quân đã được ân thưởng nhiều huy chương của cả hai chính phủ VNCH và Hoa Kỳ:

* 23 đơn vị BĐQ được ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu.
* Tiểu đoàn 42/BĐQ được ân thưởng 7 lần, tiểu đoàn 44/BĐQ được 6 lần, tiểu đoàn 43 và liên đoàn 1/BĐQ được 4 lần.
* Tiểu đoàn 42/BĐQ được ân thưởng huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ (Presidential Unit Citation) 2 lần. Các tiểu đoàn BĐQ khác được 1 lần: 44, 37, 39, 52, và 41/BĐQ.
* Nhiều đơn vị BĐQ khác được huy chương Anh Dũng Bội Tinh của Quân Lực Hoa Kỳ.

Các đơn vị Biệt Động Quân đã làm bổn phận cuối cùng đối với đất nước, nhiều đơn vị đã chiến đấu đến 1 giờ chiều ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ đã được tạp chí Le Monde của Pháp ca tụng là "Những người lính danh dự cuối cùng của Miền Nam Việt Nam. "
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »


Image

Chào Cô Em Gái Biệt Kích Dù
Bao Bất Đồng
Nửa đêm về sáng... Bao Bất Đồng đang thả hồn bay bướm mà mơ mình là Triệu Tử Long, đang thả phách lang thang mà mộng mình là Võ Tòng đả hổ.

Bỗng có tiếng điện thoại réo inh ỏị Bèn bốc máy, cứ ngỡ là mấy ông bạn đời chợt nổi cơn đồng bóng nên gọi tới để kháo chuyện thời sự. Nào ngờ bên kia đầu giây lại là một trong những con phượng hoàng của Quân Lực : cựu đại-tá Phan Văn Huấn, nguyên chỉ huy trưởng Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù.

Bao mỗ cực kỳ cảm khái nên vội nhảy phóc xuống đất, miệng vừa hô nghiêm, tay vừa giơ lên chào, xem ra rất là lễ nghi quân kỷ. Rằng :
- Xin trình diện đại-tá.
- Miễn lễ. Nhưng hãy vứt giùm ta vào sọt rác hai tiếng "đại-tá".
- Bẩm, đệ tử không dám.
- Sao lại không dám. Thời buổi này đến vua mà còn bị mời xê ra chỗ khác chơi huống chi là tướng, tá...
- Vậy thì bẩm sư phụ.
- Càng không được. Ta gốc chỉ là con đom đóm trong số một triệu quân đứng dưới cờ mà lại tự xưng mình là sư e thất kính với các bậc tiền bốị Bây giờ giữa chúng ta, những người đã từng mặc áo lính chỉ còn là anh với em, diễn nôm ra là huynh đệ. Ta là huynh, mi là đệ. Nhận rõ ?
Bao Bất Đồng bắt rơm rớm nước mắt :
- Rõ ! Thưạ.. Anh Cả.
- Tốt. Ta từ bên xứ Huê Kỳ gọi qua, thứ nhứt là để hỏi thăm các bạn hữu trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt, các chiến hữu trong Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù, thứ nhì là cảm ơn ký giả Chu Văn và tờ VNTN, đã viết và đã đăng tải thiên ký sự để đời "Huyền sử ca Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù" ròng rã suốt một năm. Đem in thành sách cũng xấp xỉ 300 trang khổ lớn.
- Bẩm, đó chẳng qua là bổn phận.
Anh Cả cười ha hả :
- Chí khí, chí khí... đúng là tác phong của Biệt Kích. Vẫn biết là bổn phận, nhưng mấy ai trong cõi lưu vong còn cho chữ nghĩa xuống đường để ghi lại những chiến tích của một thời xưa lừng lẫy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòạ Bút ký "Huyền sử ca Liên-Đoàn 81" là một bản văn đáng đồng tiền bát gạọ Là một thông điệp máu để cho thế hệ trẻ hôm nay biết cha ông của họ ngày trước đã chiến đấu như thế nàọ
- Xin đa tạ.. xin đa tạ.
Anh Cả hỏi :
- Mi còn nhớ... cô giáo Pha ?
- Bẩm, là cô gái An Lộc. Kẻ đã bốc hai câu thơ bất hủ :
"An Lộc địa sử lưu chiến tích
Biệt-Kích-Dù vị quốc vong thân".
- Đúng ! Xưa, năm mùa hè đỏ lửa, trong tiếng đạn pháo vỡ trời của Bắc quân, cô Pha đã tận mắt chứng kiến sự hy sinh cao cả của những người lính Biệt-Kích mà xuất thần cảm đề được 2 câu thơ tuyệt cú đó.
- Hoan hô cô giáo Phạ
- Phải nói là muôn năm cô giáo Pha. Bởi chính từ hai câu thơ đó mà cả nước biết danh Biệt-Kích-Dù, mà khiến hàng triệu người phải nhỏ lệ khóc cho 62 chiến sĩ mũ xanh đã nằm xuống trong mặt trận Bình Long.
- Hay thật !
- Hay quá đi chứ ! Vậy đố mi, giờ cái cô giáo vĩ đại ấy đang ở nơi mô ?
- Bẩm, chắc đã được lên... thiên đàng.
- Thiên đàng ???
- Còn tục gọi là đã sớm tiêu diêu nơi miền cực lạc. Bởi, ngay cả những người lính thép, sau trận đánh, cũng chẳng còn được bao người nguyên vẹn hình hài, đừng nói là dân, đừng nói là một người con gái.
- Lầm chết, lầm chết ! Được sự che chở của lực lượng Biệt Kích, cô Pha đã thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc. Hiện nay, cô đã có gia đình và đang sống phây phây ở Mỹ.
- Phúc đức thay... phúc đức thay.
- Quả đúng là phúc đức. Thoát chết được trận An Lộc phải là phúc ông Bành Tổ. Mới đây hai vợ chồng có đến viếng ta. Chị, giờ đã hơn tứ tuần, nhưng vẫn còn duyên dáng, nhưng vẫn còn xinh đẹp, và nhất là vẫn còn nặng ân nghĩa với Biệt Kích Dù.
- Bẩm Anh Cả, em út còn nhớ... ngoài hai câu thơ "An Lộc địa sử lưu chiến tích, Biệt Kích Dù vị quốc vong thân", hồi đó, cô giáo Pha còn quỳ trước nghĩa trang Biệt Kích tại An Lộc, vừa khóc, vừa dùng ngón tay vẽ trên cát một bài thơ ???
- Mầy số một ! Lần gặp lại mới đây, cô Pha có đọc lại cho ta nghe.
Thơ rằng...

"Anh Biệt Kích hề ngàn xưa bất hứa
Em thục nữ hề trong trắng ngoài xinh
Ta quen nhau hề Lý Bạch lưu linh
Khi chợt tỉnh hề khối tình trong mộng
Em chỉ muốn hề thương chàng qua bóng
Để rồi mơ hề rồi mộng rồi mơ
Biệt Kích ơi hề tâm ý thành thơ
Xin gửi đó hề chừ thương nhớ mãi".


Đọc xong, Anh Cả hỏi :
- Hay không ?
- Hết xẩy.
- Chỉ có đi lính, nhất là lính Biệt Kích thời mới cảm được chất thơ. Mi họa được không ?
- Đệ vốn kiến văn dốt nát. Ngâm thì có thể chứ họa thì xin lỗi. Nhưng đệ cũng có một bài thơ xin nhờ đại huynh chuyển lại cho cô giáo Pha...
- Của ai ?
- Của một người lính Biệt Kích vô danh. Anh là một hạ sĩ trẻ của biệt-đội I. Tháng 1/75, theo Đường Sơn Đại Huynh Vũ Xuân Thông và Mãnh Long Quá Giang Nguyễn Sơn nhảy vào Phước Long. Bị thương và bị bắt. Trong giờ phút cuối cùng của đời người, anh đã cố viết được một bài thơ rất cảm động. Anh Cả Huấn hỏi như khóc :
- Vậy là thằng em đã hy sinh ?
- Vâng, anh ấy đã chết sau đó 8 ngày và bài thơ đã được giao lại cho một người bạn đồng cảnh ngộ.
- Và anh bạn ấy đã học thuộc lòng ?
- Dạ, y chang. Cách đây không lâu, em út do một sự tình cờ gặp lại đấng bạn đó và thế là... có bài thơ.
- Tựa đề ?
- Tựa là "Gửi em... cô gái Bình Long".
Thơ rằng :

"Nhớ theo Hổ Xám vào An Lộc
Đội pháo trên đầu như đội mưa
Múa kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc
Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa.

Trong tiếng đạn reo mù khói trận
Bỗng gặp em, cô giáo như mơ
Em ngồi rũ tóc trong hầm tối
Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ".

"Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Chúa ơi, Biệt Kích là thi sĩ
Thi sĩ cầm gươm như đi chơi".

"An Lộc địa sử lưu chiến tích
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân"
Lời thơ hôm ấy sao hay quá
Nghĩa trang buồn như tiếng lá rơi.

Pha hỡi, bây chừ em đâu nhỉ ?
Cô giáo hôm xưa đã lấy chồng ?
Chúc em hạnh phúc răng long bạc
Còn anh hôm nay vào Phước Long.

Anh theo quân vào nơi hiểm địa
Hét tiếng xung phong đến vỡ trời
Bắn cháy xe tăng như uống rượu
Mà tưởng em đang rót chén mời.

Bóng địch chập chùng nơi cửa ngõ
Ba trăm quân đánh một sư đoàn
Mãnh hổ nan địch quần hồ bại
Anh thối binh về mà thấy oan.

Nửa chừng lại gặp cơn bão lửa
Toán Delta bị kích giữa đàng
Ôi lại Phước Long lưu chiến tích
Anh bị trúng đạn giữa rừng hoang.

Và chừ giờ đang ngồi bó gối
Tay xích chân xiềng trong trại giam
Máu bụng vẫn tuôn ra như suối
Anh biết mình thôi thế là tan.

Nhưng giây phút cuối anh vẫn nhớ
Màu áo hoa dù nón mũ xanh
Nhớ dáng em xưa cô giáo nhỏ
Họa bút thành thơ như tiếng oanh.

"Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lại chinh chiến kỷ nhân hồi"
Xá gì một cõi đi về đất
Biệt Kích lưu danh, Biệt Kích đời".


Và ơị.. cô giáo Pha ! Giờ, ở cõi trần thế chả hiểu cô có còn nhớ người lính Biệt Kích năm xưa ấy ? Thôi thì chào cộ.. em gái Biệt Kích Dù !

Bao Bất Đồng
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »

Image

Chiến Sĩ Anh Hùng Tiểu Đoàn 1 Quái Điểu-
Thuỷ Quân Lục Chiến


Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?


Image
Theo hồi ức của người cựu chiến binh, ĐĐP/ĐĐ2/TĐ1, những ngày cuối tháng Tư 1975 Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 1 nằm tại đầu dốc 47 (QL 15 Biên Hòa-Vũng Tàu). Chiều 26/4/1975, Huấn khu Long Thành thất thủ (HKLT gồm trường SQ Bộ Binh Long Thành, trường Thiết Giáp, trung tâm huấn luyện Yên Thế / Biệt Kích).

Con đường từ ngã ba Thái Lan (TL) đến HKLT dài khoảng 4 km. ĐĐ 2/TĐ1 được lệnhtrấn thủ trên đường này, bên phải,cách ngã ba TL cỡ 2 km. ĐĐ3 bên trái, cách con đường khoảng 100 thước, bung một Trung đội tiền đồn gần đường.

ĐĐ4 phía sau ĐĐ2 và chếch về phải…8 g tối 26/4/1975, ĐĐP/ĐĐ2 dẫn một Trung đội cùng hai chiến xa tiến lên trên khoảng 1 km thì phát giác VC đang chuyển quân (rất đông). Bắt đầu chạm súng. TĐP chỉ huy trên máy, nằm cầm cự đến sáng. ĐĐT/ĐĐ2 cho lệnh ĐĐP phối hợp với CX và 1 toán Nhảy Dù án ngữ tại chỗ.

Suốt ngày 27/4 chỉ toàn chịu pháo của địch chứ không đánh. Chiều tối 27/4, Thiết giáp và Dù tự động rút đi.

ĐĐP được lệnh trở về tuyến ĐĐ2.

5 giờ sáng 28/4/1975: Sau đợt pháo kích, VC ào ạt tấn công vào ĐĐ2. ĐĐP cùng 2 Trung đội 1 và 3 nằm trên, phía sau là ĐĐT và Trung đội 4. Cộng quân rất đông, xung phong nhiều lần.

6 giờ sáng 28/4/1975, Trung đối 1 vỡ tuyến bị VC tràn ngập, hai bên chỉ cách nhau vài mét. Th/U Sinh tử thương tại hố chiến đấu, Th/u Thành bị thương rất nặng, âm thoại viên cũng tử trận. ĐĐT và Trung đội 4 rút về phía sau . Số còn lại của Trung dội 1 và 3 co cụm tiếp tục chiến đấu trong tuyệt vọng, cố gắng kéo anh em những người bị thương ra phía sau nhưng không được. Chỉ cứu được vài người, trong số đó có vợ của một quân nhân bị thương nặng.
Rút ra ngã ba TL, gom quân lại còn khoảng 50 người (Trung đội 2 của Th/U Nghĩa còn nguyên vẹn vì nằm tiền đồn, chệch hướng tiến của VC không trực diện). ĐĐT cho lệnh phản công. ĐĐP cùng Th/U Nghĩa và khoảng 30 anh em cố gắng tiến chiếm lại phòng tuyến cũ nhưng hoả lực địch quá mạnh, không lên được. Th/U Nghĩa bị thương. Tất cả nằm im tại chỗ.

Khuya 28/4, rạng 29/4/1975 khoảng 1 giờ đêm, VC tiến quân, thẳng lưng đi hàng bốn hàng năm trên đường lộ, bị quân ta đánh ngay khúc giữa bỏ chạy. Khoảng 5, 6 g sáng 29/4/1975, địch tăng cường quân số rất đông đảo, có chiến xa yểm trợ nổ súng phản công. Hỏa lực địch quá mạnh, quân ta bị vỡ tuyến.

Ra tới ngã ba TL, quân số ĐĐ2 kiểm lại còn chưa được 20 người.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Mênh mông góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Image

Image

Khoảng hơn 50 chiến binh TĐ1, đã vĩnh viễn nằm xuống trong các hố chiến đấu dã chiến, đào vội trong rừng cao su tại Long Thành.

Image

Image

36 năm sau, những khu rừng cao su xưa nay đã nhường chỗ cho nhà cửa, quán xá mọc lên chi chít.


Những người lính TĐ1 năm xưa, nay đà "Phận trai già cõi chiến trường …" trở về với tấm thân thương tật, sống cuộc đời lầm than trong xã hội đã đảo điên vì vận nước,
nhưng không bao giờ quên anh em đồng đội xưa, những người lính..

Sống đã chịu một bề thảm thiết,
Ruột héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương…
Hương lửa đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…



..nên hàng năm , cứ vào dịp cuối tháng Tư lại tìm về thăm lại chốn chiến trường xưa,
thắp nén hương lòng tưởng nhớ anh linh những người đã nằm xuống vào giờ khắc cuối cùng của quê hương.
Image
Th/U Thành (K28VB-TrĐTr/TrĐ3), Th/U Sinh (K29VB- TrĐTr/TrĐ4) của ĐĐ2/TĐ1
đã nằm xuống cùng anh em thuộc quyền tại nơi này (ngôi nhà đóng cửa phía sau hàng cây bạch đàn)


Image
Th/U Nghĩa (K27VB- TrĐTr/TrĐ2) bị thương (về Lê Hữu Sanh ) và anh em thuộc quyền nằm lại tại căn nhà này.
Hai địa điểm cách nhaukhoảng 50 mét và ở giữa là con đường nhựa chạy từ ngã 3 Thái Lan vào Huấn Khu Long Thành.

Image

Image
Nơi gốc cây gần vách căn nhà tường gạch đỏ có 6 anh em đã bỏ thây.

Image
36 năm đã qua ... đã biết bao vật đổi sao dời ... không thể để cho linh hồn anh em cứ mãi vật vờ trong cảnh..

Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng ...


..nên mùa Vu lan vừa qua, tháng 7 Tân Mão 2011, anh em đã cầu siêu rước vong linh tất cả những đồng đội TĐ1 Quái Điểu hy sinh vào ngày cuối cuộc chiến trong những cánh rừng cao su Long Thành về nương nhờ cửa Phật, với ước nguyện...

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không
để anh em được siêu thoát về cõi Vĩnh Hằng


Image

Image

Image

Image

Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết.
Mong các anh yên nghỉ, siêu thoát và xin hãy tha lỗi cho sự chậm trễ của chúng tôi,
những người còn sống!


Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh.
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.

Họ là kẻ từ nghìn muôn thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu.
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một giải san hà gấm vóc.

Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc
Không ngại xa, hăng hái vượt trùng sơn.
Đã âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam Tiến mở giang sơn lớn rộng.

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng.
Đã xông vào khói lửa, quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc.

Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc,
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan.
Người thất cơ đành thịt nát, xương tan
Nhưng kẻ sống, lòng son không biến chuyển.

Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm,
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối.

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi.
Trong loạn ly, như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vàng, bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.

Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông.
Và anh hồn cùng với tấm tinh trung
Đã hoà hợp làm linh hồn giống Việt.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

Tin Buồn

Cựu Trung Úy Võ Khắc Hiệp qua đời ngày 20 tháng 8 năm 2011 vì bệnh ung thư gan tại bệnh viện Stanford, San José trên đất Mỹ, hưởng dương 57 tuổi.

Ðây “lần chết thứ hai” của người sĩ quan VNCH sau 37 năm qua bao nhiêu biến chuyển của đất nước. Vào giữa năm 1975, Võ Khắc Hiệp là một sĩ quan thuộc tiểu đoàn lưu động ÐPQ Tiểu khu Vĩnh Long, tăng cường cho TK Chương Thiện để án ngữ con đường xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt vào mật khu U Minh Thượng. Ðây là lúc CS vi phạm hiệp định Paris, quyết đánh chiếm miền Nam, xâm nhập đại đơn vị, vì sợ tiết lộ bí mật của cuộc hành quân đã tàn sát tất cả đơn vị miền Nam cản đường. Tất cả quân nhân của tiểu đoàn này đã bị giết tại chỗ. Tiểu đoàn lưu động của Võ Khắc Hiệp xem như bị xóa sổ và Võ Khắc Hiệp được truy thăng Trung Úy, ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương kèm theo Nhành Dương Liễu.
Image
Ông Võ Khắc Hiệp.

Thân phụ của Trung Úy Võ Khắc Hiệp là Ðại Tá Võ Văn Xét đang là sĩ quan tình báo trong phái đoàn VNCH của Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên tại Tân Sơn Nhất và người mẹ là bà Kim Cúc đã hết nước mắt khóc đứa con trai đầu lòng, trong tình hình miền Nam mỗi ngày một sôi động với các tin tức tình báo dồn dập về các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đang càng ngày càng tiến sát Saigon.

Một tháng sau khi Saigon thất thủ, Ðại Tá Võ Văn Xét được kêu gọi trình diện tại đường Công Lý và đưa về tập trung tại làng Cô Nhi Long Thành và sau đó được đưa ra Bắc trong một chuyến bay đặc biệt. Lúc bấy giờ, vào khoảng cuối năm 1978, gia đình của Ðại Tá Võ Văn Xét còn ở tại cư xá sĩ quan Chí Hòa, một buổi chiều trời nhá nhem tối, một người đàn ông lạ mặt đến gõ cửa nhà bà Xét, xưng là một người lính thuộc đơn vị của Trung Úy Võ Khắc Hiệp, mới ra khỏi nhà tù cộng sản, báo tin cho biết Trung Úy Hiệp vẫn còn sống và đang ở trong một trại tù vùng U Minh. Lúc bấy giờ từ ngày chồng bị đưa đi biền biệt chưa có tin tức gì, bà Xét đang lo lắng về tin chồng, thì lại vui được tin con còn sống. Tuy vậy, nửa tin nửa ngờ, bà Xét đã cùng với người con gái, lặn lội xuống vùng U Minh, thuê dân địa phương chèo ghe đi khắp nơi để tìm con, nhưng ngay cả trại tù mà người lính đã cho tin, những người CS quản lý trại cũng cho biết không có ai tên là Võ Khắc Hiệp.

Năm 1978, theo chính sách mới, vào lúc bấy giờ các trại tù “cải tạo” trong Nam đã cho thân nhân thăm nuôi, Võ Khắc Hiệp được chuyển qua vùng biên giới Tịnh Biên và được thông báo chính thức về nhà. Những năm ấy, bà Võ Văn Xét vừa thăm nuôi chồng đang bị tù ngoài Bắc vừa lo bới xách cho con trong Nam.

Võ Khắc Hiệp sinh năm 1954 tại Saigon. Mới 16 tuổi, trong thời gian học tại trường Trung học Kiến Thiết, Hiệp đã muốn chọn binh nghiệp, anh đã khai thêm tuổi để xin phục vụ trong binh chủng BÐQ, tình nguyện vào Biệt Kích Dù, rồi đăng lính vào SÐ 18BB, nhưng lần nào cũng bị ông bố biết, lôi về, bắt đi học tiếp tục. Sau khi đậu Tú Tài, Võ Khắc Hiệp theo lệnh động viên, vào khóa 8/72, mang tên là khóa Bất Khuất. Ðược thân phụ gửi gắm về Phòng 2, Tiểu Khu Vĩnh Long, nhưng Võ Khắc Hiệp lại xin ra đơn vị tác chiến, về làm trung đội trưởng tại Tiểu Ðoàn Lưu Ðộng, biệt phái cho TK Chương Thiện, chặn đường giao liên của Quân Khu 9 VC, đưa quân xâm nhập vào U Minh. Trong đêm giao chiến đẫm máu, trong khi toàn bộ tiểu đoàn của anh gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, Võ Khắc Hiệp và ba binh sĩ tìm được đường thoát, lội xuống sống lẫn trong đám lục bình và ngày hôm sau bị CS bắt đưa vào mật khu.
Sau khi ra khỏi nhà tù, năm 1980, Võ Khắc Hiệp vượt biển thành công và đến định cư tại Orange County, California. Ðây chính là lúc anh vừa đi học vừa đi làm, gửi tiền về cho mẹ để đi thăm nuôi cha. Sau 13 năm tù, năm 1991, Ðại Tá Võ Văn Xét mới trùng phùng ở Mỹ, với đứa con mà ông đã lãnh tiền tử tuất 17 năm về trước.

Năm 1994, Võ Khắc Hiệp di chuyển lên San José, làm việc trong ngành điện tử, một lần gia đình đổ vỡ, và mất vào tháng 8, 2011. Tại San José, trong bài điếu văn tiễn đưa người cựu chiến binh Võ Khắc Hiệp, cựu Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình đã nói đến Long Mỹ, chiến khu U Minh Thượng và các vùng đất Chương Thiện, Rạch Giá là những chiến trường sôi động, nơi mà những sĩ quan trẻ tuổi, một thời hiên ngang đã làm nên lịch sử, trong đó có cựu Trung Úy Võ Khắc Hiệp.

Song thân của người chiến sĩ năm xưa, ông bà Võ Văn Xét, nay tuổi đã ngoài 80, thêm một lần nữa “tre già khóc măng non.”
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »


Image

Chiến Đoàn B/TQLC và TĐ 5 Dù Truy Kích CQ Ở Ba Gia, năm 65
Ngày 29 tháng 5/1965, CQ đã huy động 1 trung đoàn tấn công vào đồn Ba Giá, cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 12 km về phía Tây Bắc. Lực lượng phòng thủ đồn có một đại đội Địa phương quân trấn đóng, và 2 khẩu đội 105 ly.

Trước áp lực quá nặng của địch, đơn vị trú phòng đã phải rời bỏ vị trí phòng ngự. Ngay sau đó, bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 đã điều động Trung đoàn 51 Bộ binh Biệt lập, Tiểu đoàn 39 Biệt động quân thống thuộc Quân đoàn 1 và Tiểu đoàn 3 Thủy quân Lục chiến-đơn vị tăng phái đang hành quân tại Quảng Nam- khẩn cấp tăng viện để tái chiếm đồn Bá Giá. Lực lượng tiếp ứng đã gây thiệt hại nặng cho địch quân, nhưng sau đó CQ đã huy động thêm lực lượng ngăn chận cuộc phản công của các đơn vị VNCH.

Để tăng cường lực lượng giải tỏa áp lực địch, bộ Tổng tham mưu QL.VNCH đã điều động bộ chỉ huy Chiến đoàn B và Tiểu đoàn 1 TQLC từ Sài Gòn ra Quảng Ngãi. Ngay sau khi đến nơi, chiến đoàn B TQLC gồm 2 tiểu đoàn 1 và 3 đã cùng với trung đoàn 51 Bộ binh khởi động giai đoạn 2 của cuộc phản công. Tiểu đoàn 1 TQLC được trực thăng vận xuống vùng hành quân thay thế Tiểu đoàn 39 BĐQ-đơn vị này đã đánh bại 1 đơn vị địch ra khỏi mục tiêu, tịch thu hơn 200 vũ khí nhưng sau đó địch đã dồn lực lượng chọc thủng phòng tuyến, trong khi tiểu đoàn chưa kịp tản thương và bổ sung đạn dược nên phải dời về tuyến sau.

Trong suốt ngày N của giai đoạn 2, các đơn vị của Chiến đoàn B và Trung đoàn 51 BB đã giải tỏa áp lực địch và tái chiếm đồn Ba Giá. Ngày N+1, Chiến đoàn B TQLC được tăng cường thêm Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù khởi động giai đoạn 3 để truy kích CQ. Sau đây là diễn tiến của cuộc tổng truy kích CQ trong giai đoạn 3 được biên soạn dựa theo hồi ký của cựu đại tá Tôn Thất Soạn-lúc bấy giờ là thiếu tá chiến đoàn trưởng Chiến đoàn B kiêm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 TQLC:

* Chiến đoàn B và Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù tại mặt trận Ba Giá, giai đoạn 3:
Sau khi giai đoạn 2 kết thúc, tin tức tình báo ghi nhận từ một cán binh VC thuộc Sư đoàn 3 Sao Vàng ra hồi chánh đêm trước cho biết: địch tuy bị thiệt hại trong mấy ngày qua, nhưng vẫn chưa từ bỏ ý định tấn chiếm Quảng Ngãi. Đại bộ phận của sư đoàn 3 Sao Vàng CSBV đã rút về hướng Tây Bắc của đồn Ba Giá và Núi Tròn (tài liệu của Tổng cục Chiến tranh Chính trị và Việt Tấn xã ghi là đồn Ba Giá, trong khi hồi ký của đại tá Soạn ghi là đồn Ba Gia):


Để vô hiệu hóa kế hoạch ý đồ của địch, bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 quyết định điều động chiến đoàn B mở cuộc hành quân truy kích, trong đợt này, Chiến đoàn B được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù do thiếu tá Nguyễn Khoa Nam-tiểu đoàn trưởng- chỉ huy (năm 1974, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Khoa Nam lên đến cấp thiếu tướng và giữ chức tư lệnh Quân đoàn 4, ông đã tự sát vào ngày 1 tháng 5/1975).

Nỗ lực chính của cuộc hành quân là Tiểu đoàn 1 TQLC và Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, riêng Tiểu đoàn 3 TQLC làm thành phần trừ bị. Theo kế hoạch, Tiểu đoàn 1 TQLC từ vị trí đóng quân đêm ở Ba Giá được đoàn trực thăng của TQLC Hoa Kỳ không vận xuống bãi đáp 1 để tiến chiếm hai mục tiêu A và B ở hướng Bắc và Tây Bắc đồn Ba Giá. Sau khi bộ chỉ huy Chiến đoàn B và Tiểu đoàn 1 TQLC hoàn tất cuộc đổ quân, đoàn trực thăng quay về phi trường Quảng Ngãi để bốc Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù trực thăng vận xuống bãi đáp 2, chiếm hai mục tiêu C và D ở hướng chính Bắc của đồn Ba Giá, nằm giữa Ba Giá và các mục tiêu A, B.


7 giờ sáng ngày N, thiếu tá Tôn Thất Soạn, chiến đoàn trưởng, ngồi trên trực thăng chỉ huy, bay bao vùng và chọn lựa bãi đáp để đổ quân, hộ tống chuyến bay có hai trực thăng võ trang (gunships). Để tạo yếu tố bất ngờ, chiến đoàn không dùng phi pháo để chọn bãi đáp và bắn vào các mục tiêu. Đến giờ G, trực thăng lần lượt đổ quân từng đại đội của Tiểu đoàn 1 TQLC xuống bãi đáp và ồ ạt chiếm mục tiêu.

Từ trên trực thăng chỉ huy, thiếu tá Soạn ra lệnh cho trung úy Phan Công Tôn, đại đội trưởng đại đội 2, danh hiệu truyền tin là Tô Châu, cho "con cái dàn theo bờ ruộng" để chuẩn bị chiếm mục tiêu A, ngay sau khi đại úy Phan Văn Thắng-tiểu đoàn phó xuống bãi đáp. Sau đó, vị chiến đoàn trưởng gọi máy cho trung úy Trần Văn Hiển-đại đội trưởng đại đội 4, danh hiệu truyền tin là Hồng Hà-yểm trợ cho đại đội 2 chiếm mục tiêu. Khi đại đội 2 gần đến bìa làng thì VC từ trong mục tiêu A bắt đầu khai hỏa chống trả với đủ loại súng. Nhận được báo cáo của đại đội trưởng đại đội 2, chiến đoàn trưởng Tôn Thất Soạn ra lệnh cho đại đội tiếp tục chiếm bìa làng, ông cho biết sẽ cho gunships bắn yểm trợ dọc theo bờ tre. Lát sau, qua máy truyền tin, ông được báo như sau:

- Sài Gòn (thiếu tá Soạn), đây Tô Châu (trung úy Tôn), các con tôi đã chiếm bìa làng, đang lục soát. Sơ khởi tôi có hai đi phép dài hạn (tử thương), 4 ngắn hạn (bị thương).

Ngay sau đó, chiến đoàn trưởng gọi máy cho đại úy Phan Văn Thắng-tiểu đoàn phó:
- Thanh Hóa (đại úy Thắng), đây Sài Gòn (thiếu tá Soạn), cho Hồng Hà (trung úy Hiển-đại đội trưởng đại đội 4) vào bắt tay và yểm trợ Tô Châu chiếm đỉnh đồi MTA.

Liên lạc với tiểu đoàn phó Phan Văn Thắng xong, chiến đoàn trưởng gọi máy báo cho trung úy Tôn chỉ huy đại đội 2 là CQ đang chạy lên đỉnh đồi phía Tây, ông sẽ cho pháo binh tác xạ và yêu cầu đại đội trưởng "bảo các đứa con dừng lại bố trí". Vừa lúc đó, tiểu đoàn phó Phan Văn Thắng báo cáo là đại đội 4 đã bắt tay được với đại đội 2 và VC bắt đầu bắn đủ loại vào bãi đáp và đại đội 4. Trước tình hình đó, chiến đoàn trưởng cho lệnh trung úy Lê Văn Cưu-đại đội trưởng đại đội 3, danh hiệu Cao Bằng- và trung úy Trần Văn Bi-đại đội trưởng đại đội 1-danh hiệu Bắc Bình, cho đại đội tiến sát đến đại đội 4 để chuẩn bị vào mục tiêu B.

Ngay sau khi ra lệnh cho đại đội 1 và 3, chiến đoàn trưởng gọi máy yêu cầu đại đội trưởng đại đội 2 "chấm dứt phở, cho con cái tiến chiếm mục tiêu A" sau đó yểm trợ cho cánh quân do Thanh Hóa (tiểu đoàn phó Phan Văn Thắng) chỉ huy tiến vào mục tiêu B. Cánh quân của tiểu đoàn phó đã đụng độ với địch quân, đại úy Thắng báo cáo: đại đội 4 có 3 tử thương, 5 bị thương, tịch thu 6 AK, 1 thượng liên, bắn hạ 11 VC bỏ xác tại chỗ, thu một số tài liệu quan trọng. Cánh quân của đại đội 2 cũng báo cáo là đã chiếm được mục tiêu A, tịch thu 6 AK và 1 súng cối 82, nhiều xác VC chưa đếm hết được, một số đang chạy về mục tiêu B. Như thế, tiểu đoàn 1 TQLC đã làm chủ mục tiêu A, chỉ còn mục tiêu B. Chiến đoàn trưởng kiêm tiểu đoàn trưởng gọi tiểu đoàn phó ra lệnh cho đại đội 1 và 3 bắt đầu vào mục tiêu B, ông đang cho Gunships tác xạ rãi trên đỉnh đồi mục tiêu B. Cuối cùng hai đại đội này đã vào mục tiêu, đại úy Thắng báo cáo: có một số đi phép dài hạn, 1 số ngắn hạn, tịch thu nhiều vũ khí, một số đang chạy về mục tiêu C".

Cánh quân của tiểu đoàn 5 Nhảy Dù cũng vừa xuống bãi đáp tiểu đoàn trưởng Nguyễn Khoa Nam báo cáo tình hình cho chiến đoàn trưởng Tôn Thất Soạn. Sau khi ra lệnh cho các đại đội bung rộng để lục soát và sẵn sàng yểm trợ cho tiểu đoàn 5 Nhảy Dù ở phía Nam, chiến đoàn gọi máy tiểu đoàn trưởng 5 Nhảy Dù, danh hiệu Nam Long:


- Nam Long, đây Sài Gòn, cánh Thanh Hóa (đại úy Thắng) đã chạm địch, đang lục soát MTA và B, một số đang chạy về MTC tôi đang cho pháo vào MTC.

Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Khoa Nam báo lại: 2 đứa con đầu đã chiếm bìa làng, đang chạm địch. Lúc đó, chiến đoàn trưởng đang bay trên vùng của tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, ông yêu cầu tiểu đoàn trưởng bảo "2 đứa con đầu ném khói màu", để ông cho Gunships bắn rãi trên sườn đồi MTC. Lát sau, đại úy Thắng báo cáo đại đội 3 đã thanh toán xong ổ đại liên của địch ở đỉnh đồi, địch 7 chết tại chỗ, một số chạy về mục tiêu C mục tiêu của tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, còn đại đội 1 đang cho "con cái truy kích và phát giác được nhiều hầm hố địch". Chiến đoàn trưởng dặn các đại đội TQLC tránh ngộ nhận với tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đang tiến vào mục tiêu C.

Khi đơn vị Nhảy Dù đã tiến vào mục tiêu C, thiếu tá Nam gọi máy cho chiến đoàn trưởng, báo cáo: đã thu được một số vũ khí, có mấy đứa cháu (trung đội) của Thanh Hóa (cánh quân của tiểu đoàn phó Phan Văn Thắng) đang tràn qua mục tiêu C để lấy chiến lợi phẩm, tránh ngộ nhận. Chiến đoàn trưởng gọi ngay đại đội trưởng đại đội 3 ra lệnh: ngừng ngay tại chỗ, không được truy kích qua mục tiêu C, khu vực của Nam Long, coi chừng ngộ nhận. Cuối cùng Cánh A tiểu đoàn 5 Nhảy Dù chiếm xong mục tiêu C, cánh B của tiểu đoàn này tiếp tục vào mục tiêu D, thu thêm một số vũ khí, phát giác nhiều hầm hố địch. Đơn vị Nhảy Dù có 3 tử thương, 7 bị thương. Sau nửa ngày quần thảo với địch quân, tiểu đoàn 1 TQLC và tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đã hoàn toàn chiếm xong các mục tiêu. Tổng kết: 2 đơn vị Dù và TQLC có 10 chiến binh hy sinh, 22 bị thương, vũ khí bảo toàn. Về phía CQ có khoảng 100 xác nằm rãi rác trên trận địa, 85 vũ khí bị tịch thu. Sau giai đoạn 3, Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù xuất phái khỏi hệ thống của Chiến đoàn B TQLC. Tiểu đoàn 1 TQLC tiếp tục mở cuộc hành quân yểm trợ cho đại đội Địa phương quân do đại úy Đinh Ngô-gốc người Bàna, đại đội trưởng kiêm quận trưởng Sơn Hà, tái chiếm quận lỵ Sơn Hà, đồn quận lỵ này đã bị CQ tấn công cùng thời gian với đồn Ba Gia.

MX Tôn Thất Soạn
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

CHUYỆN TÌNH MỘT SĨ QUAN TQLC
VÀ NGƯỜI NỮ CHIẾN BINH VC .


Lê Văn Nguyên.


Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với địch quân, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu, đơn vị chủ lực miền của địch thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng tiểu đoàn của chúng tôi cũng bị thiệt hại khá cao. Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của địch. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đây. Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ. Chợt Kính nói nhỏ:
- Ông thầy! Coi chừng hình như có người trong lùm cây đàng kia.
- Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng đồ chơi của tụi nó.
Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất, khẩu M16 lên đạn sẳn sàng, Kính theo kế bên hông. Tiếng rên nho nhỏ của phụ nữ văng vẳng ra từ trong lùm cây rậm rạp.
- Một đồng chí nữ nhà ta đấy. Kính reo nho nhỏ.
Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống, có thể địch gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại. Dơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái trạc độ 18,19 tuổi nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:
- Nước...Nước..cho tôi miếng nước”.
Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của “cô” địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu, tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương, đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người tôi đoạn bảo Kính:
- Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ tay.
- Ông nhân từ quá, gặp em con nhỏ này tiêu đời. Kính vừa băng vừa cằn nhằn.
Tôi im lặng không nói gì, Kính nói đúng, những người lính của tôi đã ngã xuống, máu của họ đổ ra cho sự Tự do, người Cộng Sản có nhân từ với người anh em của tôi không?
- Nước... Cho tôi xin miếng .....nước.
- Đ. Mẹ ... Câm miệng lại.
Kính quát tháo giận dữ, tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.
- Mày đừng nói như vậy, với một người sắp sửa chết mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi.
Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo, dấu hiệu nhận diện của đơn vị, thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của cô, khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc dù trắng xanh vì mất máu nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt. Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:
- Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.
Cô ngoan ngoãn nghe lời như một em bé.
- “Cám ơn ông nhìều”. Giọng nói yếu ớt và mệt mỏi.
- Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.
- Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi, vả lại tôi cũng sắp chết đến nơi.
- Bậy bạ, vết thương này đâu có gì nguy hiểm.
- Đừng an ủi như vậy, hồi nãy ông nói tôi sắp chết đừng nuôi hận thù nữa.
- Tại vì...Tại vì...Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.
Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói, lâu lắm cô nói thều thào:
- Bây giờ ông sẽ làm gì với tôỉ...Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cơ quan điều tra.
Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:
- Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước, hãy để thân xác này vùi dập nơi đây. Xin ông đừng giao cho ai hết. Tôi van xin ông.
- Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã đừng bướng bỉnh như vậy.
Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà, tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:
- Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô nhăn nhó, rên rỉ như….
- Sao không đau, ông ăn nói… như khỉ chứ gì?
Cô cướp lời, tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối, rồi tôi đứng dậy cầm cây súng lên đạn .. rồi lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:
- Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô, nhưng những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.
Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại.
- Này... Ông tên là gì vậỷ
- Có quan trọng lắm không?
- Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.
- Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này.
Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:
- Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.
Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó. Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giử được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.
Đất nước thanh bình, tiếng súng lặng im, nhưng những người được gọi là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác không được thở hít không khí hòa bình ấy, sau bao năm trăn trở với chiến tranh, tất cả đi vào trại “cải tạo”, một danh từ mỹ miều nhưng thực chất là đầy đọa, là giết lần mòn chúng tôi. Tôi bất lực nhìn bạn bè ngã xuống, đói, bệnh hoạn, đày đọa, khủng bố, đánh đập!
Thân xác anh em chúng tôi bị vùi dập ở nơi núi rừng hiu quạnh, ở hốc núi đen tối ngàn trùng. Tôi lặng lẽ sống như cái bóng tinh thần vững vàng, nhưng thể xác thì suy sụp nặng nề, bám víu ý nghĩ duy nhất “Trả nợ oan gia binh nghiệp”. Phải, sinh ra người lính thì chấp nhận mọi gian nguy may rủi về mình.
Ngày hôm ấy, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.
- Trần Hoài Lam có thư.
Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ. Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.
- Trần Hòai Lam có thư.
Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.
Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.
- Có thật là của tôi không anh Đan?
- Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được, thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.
Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi đọc:
“Anh Lam!
Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:
“Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như...”.
Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra. Cô viết tiếp:
- Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện Trung Ương, sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị ngành để họat động, không còn muốn tham gia vào nơi lửa đạn nữa. Từng là chiến sĩ xuất sắc trong khu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà thoái lui về hậu phương, kỳ lạ quá phải không anh Lam? Chính anh đã làm thay đổi lập trường của em. Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với kẻ thù, dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của kẻ địch, mà có thể trong đó có cả em bắn ra.
Hòa Bình tái lập em không vui vì còn hận thù, vay nợ máu phải trả, phương châm của bạn bè, cấp lãnh đạo đề ra. Em rất buồn vì biết anh đang đi vào ngõ cụt, không lối thoát, con đường đi đến cái chết. Như đã nói, từ sau ngày bị thương, em ra khỏi cuộc chơi, không muốn dính líu đến thù hận nữa, bàng quan trước mọi việc, nhưng không thể nào quên anh, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không?
“Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi”.
Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo. Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi! Thôi thì chỉ còn cách là...

Trên đất tị nạn, Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:
- Quyên à, em thương anh từ lúc nào.
- Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.
- Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác. Cô lật đật nắm lấy tay tôi năn nỉ:
- Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha...

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:
- Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cở muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho em, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Cảm động tôi hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương tôi đến như vậy.
- Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu.
Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao. Có lẽ bị chết không chừng.

Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:
- Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Mũ Xanh Hắc Long Lê Văn Nguyên
Chicago, 26- 6 -2010.
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Dòng thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
(VienDongDaily.Com - 29/09/2011)

Băng Huyền/Viễn Đông

Image
Ông Huỳnh Văn Trạch và phu nhân tại tư gia của anh, với những giây phút
trải lòng cùng âm nhạc - ảnh: Băng Huyền/Viễn Đông
Người đàn ông ngoài năm mươi, tóc hớt cao, lấm tấm sợi bạc, hình dáng gầy gò, gương mặt khắc khổ với những đường vẽ xô lệch của thời gian. Đôi tay ôm đàn guitar. Vừa dạo đàn. Vừa thủ thỉ như tâm tình. Kể lại chuyện đời ly hương, trong ca khúc “Mười năm biệt xứ” do chính ông sáng tác. Đây là phần nhạc dạo đầu, cho chuyện kịch “Gia đình ông bà Nam”, trong chương trình hội kịch “Nẻo Nguồn Hồi Tưởng”, một đề tài luận án tiến sĩ của tiến sĩ dự bị Nguyễn Hữu Quỳnh Trâm (đại học University of Tilburg, Hòa Lan) đến từ Seattle, tiểu bang Washington, tại Thư Viện Việt Nam, vào tháng 8 vừa qua.

Tên ông là Huỳnh Văn Trạch, là một cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến, thuộc tiểu đoàn 2 Trâu Điên. “Mười năm biệt xứ” là một sáng tác, được ông viết vào năm 1990. Sau 10 năm vượt biên thành công và đến định cư Hoa Kỳ. Ca khúc này ông dành tặng cho cha của mình (còn kẹt lại Việt Nam) nhân ngày Father’s Day.

Qua điện thoại phóng viên hẹn gặp ông. Ông nói, ông chỉ là người viết nhạc nghiệp dư, ông chỉ viết ra những ca khúc ghi lại những khúc ngoặt trong cuộc đời mình. Ông không muốn phổ biến rộng rãi. Nhưng rồi vẫn có một ngoại lệ. Và khi cảm thấy sự phiền phức, nỗi ngại ngùng đã qua, thì ông lại rất nhiệt tình với câu chuyện.

Từ ký ức của ông, cả quãng đời, với tuổi xuân phơi phới khi bước chân vào quân trường. Những giờ phút khắc nghiệt nơi chiến trận, đối diện tử-sinh. Những tháng năm tủi nhục của một người lính bại trận. Những chặng đường lênh đênh vượt biển, tìm đến bến bờ tự do. Những tháng năm vất vả mưu sinh nơi xứ người… Tất cả hiển hiện, như âm bản của một cuốn phim đã mất, nay lại trở về….

* Niềm đam mê âm nhạc

Ông Huỳnh Văn Trạch đã có cả tuổi thơ khá êm đềm gắn bó với vùng quê Rạch Sỏi (tỉnh Rạch Giá, quận Kiên Thành). Cha ông là ông Huỳnh Văn Chước, từng hướng dẫn ban hát trong nhà thờ, và chuyên đặc trách về âm nhạc cùng đoàn truyền giảng Tin Lành đường thủy ở Miền Tây Nam Bộ. Từ nhỏ, tiếng đàn Accordion ngọt ngào của cha đã đi vào ký ức của cậu bé Huỳnh Văn Trạch trở nên thân quen, đã truyền đam mê âm nhạc cho cậu đến lúc trưởng thành.

Nhưng, cha ông đã từ chối dạy đàn cho ông. Với lý do ông không có khiếu về nhạc. Nhưng sau này, chính ông cụ đã tiết lộ cho ông biết, ông cụ nhìn thấy con trai nhỏ của mình có tánh đa sầu đa cảm mê thơ, nhạc. Ông sợ hướng con vào con đường nghệ thuật, con sẽ dấn thân hoàn toàn vào văn nghệ. Sẽ “hư người”. Bởi quan niệm “xướng ca vô loài” bao đời nay vẫn hiện diện trong suy nghĩ của cụ.

Dù không được cha khuyến khích, nhưng từ lúc 14 tuổi, bằng số tiền dành dụm từ việc đặt lờ, nôm cá. Ông đã mua cho mình cây guitar và tự mày mò học đàn qua những cuốn sách dạy học đàn guitar của Lan Đài, Nam Phong, Hoàng Bửu… Ông kể, “mà nhiều khi tôi xem đằng trước, quên đằng sau… nhưng vẫn cặm cụi học”.

Và chính những nốt nhạc đầu đời ấy đã trở thành vốn liếng quý giá, giúp ông ghi lại những xúc cảm của mình bằng nốt nhạc, qua 18 ca khúc, lưu lại những mảnh vụn đớn đau trong suốt cuộc đời nhiều thăng trầm của mình.

* Cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi và
những tiếng lòng thổn thức của một nhạc sĩ nghiệp dư

Là thanh niên sinh ra trong thời chiến, cũng như bao thanh niên và bè bạn, ông đã sớm tham gia vào Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để làm tròn nghĩa vụ với non sông.

Từ năm 1970, khi tròn 18 tuổi, ông đã ghi danh vào đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Trải qua thời gian huấn nhục khắc nghiệt ở quân trường Rừng Cấm (thuộc trung tâm huấn luyện của TQLC tại phía tây bắc thị xã Thủ Đức, giáp ranh quân Dĩ An, Biên Hòa), ông trở thành một tân binh thuộc tiểu đoàn 2 Trâu Điên của TQLC quân lực VNCH.

Xúc động đầu đời mà ông Huỳnh Văn Trạch đã ghi lại thành ca khúc, không phải do một giai nhân nào, mà là trong một “Chuyến bay đêm” về lại đơn vị, sau một tuần nghỉ phép trong chiến dịch mùa hè đỏ lửa 1972.

Ôm cây guitar, tự đệm đàn cho mình theo thể điệu Rumba, cái giọng ồ ồ, là lạ của ông, nhè nhẹ hát:
“…Tôi thấy nao nao khi bước hành quân còn dài. Thành đô xa hoa khuất dần sau lưng tôi… Tuy bước hành quân chưa dài, nhiều đêm gối mòn nơi sườn đèo cao heo hút. Tôi thương tóc mẹ bạc phơ trong những chiều bơ vơ. Mẹ tôi lo âu khi mỗi lần nghe tiếng súng, rồi thầm nguyện cho tôi sẽ trở về trong yên vui, khi non nước mình không còn lửa khói đao binh…”.

Giọng bùi ngùi, ông kể: “Lúc đó tình hình quân sự rất căng thẳng. Khi ấy, cả hai bên Quốc Gia và Việt Cộng đều thiệt hại rất nặng. Khi đó, tôi chỉ mới 20 tuổi. Trong chuyến bay lần đó chở các tử sĩ từ chiến trường miền Trung về lại phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi và những anh em khác sau chuyến nghỉ phép, đã bước lên máy bay đó, bay ngược ra miền Trung, để trở lại đơn vị, tiểu đoàn 2 Trâu Điên, sư đoàn TQLC, đang đóng quân tại Quảng Trị.

“Lúc ngồi trong máy bay, tôi nhìn ra cửa sổ, ánh đèn rực sáng của Sài Gòn chìm nhanh trong màn đêm. Khi đó máy bay mới bay ngang qua cầu xa lộ để đi ra Vùng 1. Tự dưng một cảm xúc bất chợt và cả những cảm xúc được tích lũy từ lâu trong tâm hồn, đã vang lên trong đầu tôi những ca từ và giai điệu của bài nhạc này. Và trong 18 ca khúc tôi viết, đa phần đều đến với tôi trong những giây phút xuất thần như vậy, và được tôi lưu nhớ trong đầu, chứ không phải do tôi ngồi sáng tác ra giấy như các nhạc sĩ chuyên nghiệp”.

Cái chất bình dân trong nhạc của Huỳnh Văn Trạch được ông lý giải: “Vì khả năng âm nhạc của tôi có hạn, nên hầu hết ca khúc tôi sáng tác đều theo thể điệu nhạc Rumba, một vài bài theo thể điệu Boston, hoặc Slow. Vì thể điệu này dễ cho tôi gửi gắm tâm sự của mình và dễ đặt giai điệu cho ca từ. Nhưng cũng có những bài theo thể điệu Tango, Cha cha cha, hoặc New Wave.

“Tôi không dám nhận tôi là nhạc sĩ. Vì người sáng tác nhạc phải học qua trường lớp ký âm pháp, tôi không có bài bản này. Tôi chỉ viết ra những ca khúc về cuộc đời tôi mà thôi”.

Quãng đời chinh chiến của một binh nhất Huỳnh Văn Trạch trước khi Sài Gòn thất thủ, đã được ông lưu lại vài ca khúc. Trong đó có những bài nhạc dành cho mối tình đầu với người em gái hậu phương, với “Thư gửi người tình” có đoạn: “Em ơi, nơi chiến tuyến xa xôi, nhiều đêm anh ngủ ngồi. Những lúc lại băng đồi, nhiều đêm mưa anh lội suối. Dù bao hiểm nguy đến cùng với đời trai, nhưng anh vẫn không màng…”.

Hay những cảm xúc ông ghi lại trong một ca khúc, ra đời sau biến cố tháng 3 năm 1975. Khi đó ông đang trú đóng ngoài tỉnh Quảng Trị, được lệnh đi về Quảng Nam, đồi 1062 để thế cho tiểu đoàn 5 và 2 nhảy dù về trấn phía bắc ở Sài Gòn.

“Ca khúc này tôi kể lại câu chuyện người trai theo nghiệp đao binh, nhưng đành chấp nhận số phận của một người lính thua trận ngay trên quê hương mình”.

Sau biến cố 1975, một số ca khúc tình ca thời hậu chiến lại ra đời. Lúc này là những tủi nhục, đớn đau của người lính thua trận, dù không bị đi học tập cải tạo, vì cấp bậc thấp, nhưng ông phải tham gia lao động “công ích” tại địa phương, dọn chợ cá… một thời gian. Vất vả mưu sinh bằng nhiều việc khác nhau, từ lơ xe đò trên tuyến đường Sài Gòn - Rạch Giá, hay rong ruổi theo tàu đánh cá ngoài biển khơi.

Và chuyện tình yêu tưởng đẹp đã tan vỡ, khi người yêu bỏ ông để lấy chồng, là một thân nhân của bên phe chiến thắng.

Tất cả những “đổ nát” ấy đã đi vào những bản nhạc sầu thảm, như một cách để ông chép lại nhật ký đời mình qua những khúc ngoặt tủi, hờn.

* Âm nhạc đã nối kết tình nghĩa vợ chồng

“… Tôi chẳng cần giải phóng, nên tôi phải đành mang kiếp người ly hương. Thuyền hỡi thuyền ơi. Mặt nước màu xanh đã che kín quê hương rồi. Kiên Giang ơi, một phút quay đi, dặm ngàn xa cách. Việt Nam ơi, một lần ra đi, là trùng dương đành cách trở. Tàu vẫn nhả khói lướt trùng dương, tìm ra khơi. Quê hương ơi, ta đã xa rồi bao kỷ niệm, nơi quê hương cũ, quê hương ơi…”.

Đây là ca khúc “Tâm sự thuyền nhân” được ông cảm tác trong chuyến tàu đưa người vượt biển đầu tiên của ông, vào năm 1977. Ông kể: “Đêm đó, khi 353 người đã lên hết trên tàu lớn rồi, để sẵn sàng ra khơi, đã hơn 9 giờ tối, mà vẫn chưa thấy bà chủ tàu cùng những người đi theo ghe nhỏ của bà ra. Tôi nói với anh tài công, cũng là con trai của bà chủ tàu, rằng sẽ đợi bác Tư cùng anh, nhưng đúng 12 giờ đêm, thì phải nhổ neo, vì nếu cứ neo đậu hoài, công an biên phòng phát hiện sẽ bắt hết mọi người vào tù. Lúc đó tiền bạc của người dân vượt biển cũng sẽ mất trắng vào tay công an biên phòng, và sẽ bắt luôn bà chủ tàu… Tôi hứa, sau khi đưa mọi người đến đảo rồi. Tôi sẽ cùng quay về với anh, để đón bác Tư. Và sau đó, tôi đã quay về. Dẫu biết hiểm nguy lắm, bị bắt có thể tù mục xương như chơi. Nhưng tôi vẫn quyết giữ lời đã hứa. Cho mãi đến cuối năm 80, tôi mới ra đi thật sự tìm đến bến bờ tự do”.

Ánh mắt xa xăm, bồi hồi nhớ lại, ông tâm sự: “Lúc đó, khoảng 12 giờ đêm, chúng tôi quyết định nổ máy, rời đi. Khi đó, tôi đã nhìn lại thành phố Rạch Giá của mình, đen mờ mờ, chìm dần xuống sóng nước.

“Bài nhạc đã ra đời trong cảm xúc như vậy, giai điệu và ca từ cứ thế vang lên bằng cảm xúc thật của tôi”.

Vì muốn giữ sự riêng tư, phu nhân của ông Huỳnh Văn Trạch xin không tiết lộ tên, kể rằng: “Tôi vượt biên cuối năm 1980, đã đến được đảo Pulau Bidong, Malaysia, trước anh Huỳnh Văn Trạch 20 ngày. Lúc đó, tôi và anh biết nhau, vì cùng là con cái Chúa, cùng đi lễ nhà thờ chung trên đảo, nhưng chưa hề nói chuyện yêu đương gì hết.

“Tôi nhớ, anh được chú Nguyễn Long Giáp (hình như là bà con của ca sĩ Chung Tử Lưu) bầu anh làm trưởng ban văn nghệ trong cộng đồng người Việt trên đảo. Anh đã đàn và hát cho mọi người nghe trong nhà thờ và trong những chương trình tiễn người rời đảo đến bến bờ tự do.


“Lúc ấy, anh hay hát bài nhạc do anh sáng tác. Có bài ‘Tâm sự thuyền nhân’. Cũng cùng một tâm trạng là thuyền nhân, tôi rất cảm động khi nghe lời hát do anh sáng tác, nghe riết rồi, thì lại thấy hay hay…”.

Và rồi nhờ những ấn tượng ban đầu ấy, mà sau khi đến Mỹ, dù ông ở tiểu bang Oregon, bà ở vùng Los Angeles, Nam California, nhưng cả hai đã thư từ thăm hỏi nhau, và sau một năm định cư tại Hoa Kỳ, ông bà đã nên duyên chồng, vợ.

Hiện nay, ông bà có 4 người con gái, tất cả đều học hành thành đạt, người thì chuẩn bị tốt nghiệp bác sĩ thú y, người là cô giáo, người học thương mại, người chuẩn bị học trở thành bác sĩ chuyên khoa mắt.

Và dẫu nhìn lại chặng đường đã qua của mình, ông Trạch cho rằng nó có quá nhiều biến cố, nhưng với mái ấm hiện nay và 4 con ngoan, thảo hiền, chính là món quà quý giá Chúa Trời đã ban tặng cho ông.

* Những ca khúc viết nơi đất khách và trăn trở cùng quê hương

Ngoài ca khúc viết tặng cha, kể lại chặng đường “Mười năm biệt xứ” đã được một người quen biết giới thiệu cho nữ tiến sĩ dự bị Nguyễn Hữu Quỳnh Trâm, để làm nhạc nền của phần mở đầu hội thoại kịch “Nẻo Nguồn Hồi Tưởng”, là một phần trong luận án tiến sĩ của cô Quỳnh Trâm. Ông còn có những bài “Mùa xuân nhớ mẹ”, khi ông nghe tin bà qua đời tại Việt Nam, ngay trong ngày xuân ông ở trên đất khách. Hoặc những nỗi buồn của kiếp người ly hương, vất vả mưu sinh thưở ban đầu được ông cảm tác thành “Vợ chồng share phòng”, hay những ngậm ngùi khi về thăm quê nhà với “Về lại quê xưa”, “Chiều trên bến sông”, “Việt kiều về quê”….

Ông Huỳnh Văn Trạch tâm sự: “Giống như phần lớn các ca khúc của tôi mà giai điệu và ca từ được vang lên trong đầu khi hồn đầy xúc động, bài ‘Mùa xuân trên thành phố Sài Gòn’, tôi sáng tác nhân dịp về thăm nhà vào năm 1993, sau khi mẹ tôi mất 1 năm. Vào ngày trước khi về lại Mỹ, tôi có đi dọc theo con đường có Dinh Độc Lập. Và đường Lê Thánh Tôn, là nơi từng đóng quân của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Nay, nơi con đường này, ăn mày tụ tập nhiều lắm. Chính nghĩa nào mà lại để ra điều này trên quê hương tôi?…

“Chân ta bước lê trên đường phố Sài Gòn. Lòng ngẩn ngơ buồn tênh như thể xác không hồn. Khi lặng nhìn bên vỉa hè, biết bao người đang rách rưới tanh hôi. Chính nghĩa nào đã giẫm nát dân tôi….

“Những ca khúc tôi viết, thường là chuyện thật hết. Đó toàn là những chuyện dâu biển trong cuộc đời. Chỉ là những chuyện buồn, được tôi lưu lại bằng âm nhạc, và trong những lần gặp gỡ bạn bè, chiến hữu xưa, tôi lại ôm đàn ngân nga hát tặng mọi người”.

Bởi với ông, những ký ức đớn đau mà ông trải qua, là một trong những nỗi đau mà thế hệ ông và trước đó không thể nào quên. Chúng cần được truyền lại cho con, cháu sau này. Để các em, các cháu hiểu hơn vì sao cha ông chúng phải bỏ nước ra đi. Để những bạn trẻ lớn lên trong hạnh phúc nơi quê người, biết trân quý giá trị của tự do, mà phấn đấu hơn trong cuộc sống. Và để sau này, các bạn trẻ có thể làm được nhiều điều hữu ích, giúp cho quê hương Việt Nam thật sự an bình, tự do, khi không còn chế độ cộng sản bạo tàn! - (BH)

Nguồn: http://www.viendongdaily.com/dong-thoi- ... ECxIu.html
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Bài phát biểu của Ông Triệu Huỳnh Võ
nhân ngày lễ giổ cố Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU,


Lời giới thiệu: Ông Triệu Huỳnh Võ tốt nghiệp khoá 6 Đốc sự Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hòa.
Sau khi tốt nghiệp, Ông được chọn làm việc tại Phủ ĐUTƯTB, sau đó Ông làm việc tại Phủ Thủ Tướng,
chức vụ cuối cùng Ông là Phụ Tá đặc biệt Tổng Trưởng Bộ Dân Vận Chiêu Hồi trong Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Sau đây là bài phát biểu của Ông nhân ngày lễ giổ cố Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU,
được tổ chức tại nhà thờ Saint Peter, Sacramento, chúa nhật 25 tháng 9 năm 2011, lúc 12 giờ trưa.

Image
Kính thưa Phu Nhân cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu,
Kính thưa quí vị trong Ban Tồ chức,
Kính thưa quí vị quan khách
Tháng 9 năm 2011 là tháng lễ giỗ thứ mười của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Khác với mọi năm, tháng 9 năm nay là tháng, trong nước cũng như ngoài nước, đang rầm rộ có những cuộc biểu tình nổi lên lên án công hàm của Thủ Tướng Cộng sản Phạm Văn Đồng đã ký ngày 14-9-1958, thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng.
Trong thời điểm năm 1958, chúng ta không thấy có dấu hiệu áp lực nào của Tàu Cộng trên vùng biển đông hay trên hai quần đảo nầy và cũng chưa có cuộc giao tranh ác liệt nào xảy ra giữa hai miền Nam, Bắc ở VN. Nhưng đảng CS Việt Nam, do Hồ Chí Minh lãnh đạo, vì muốn tìm sự ủng hộ của Tàu Cộng trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam sau nầy, đã làm ngơ để cho chúng giành lấy quyền kiểm soát trên hai quần đảo nói trên.
Hôm nay, tôi xin đưa vấn đề nầy ra để chứng minh sự đối nghịch giữa quyết tâm bảo vệ đảo Hoàng Sa của nhà lãnh đạo miền Nam Việt Nam, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và dã tâm dâng hiến đảo này cho Trung Cộng của tập đoàn lãnh đạo Cộng Sản Miền Bắc.
Thật vậy, vào sáng ngày 16-1-1974, đúng vào lúc các tàu chiến của Trung Cộng, ngụy trang là tàu đánh cá, xuất hiện quanh khu vực đảo Hoàng Sa và khi Tư Lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đưọc khẩn báo, thì cũng trùng vào dịp Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đang đi kinh lý ở miền Trung. Vì thế, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã có dịp phúc trình ngay với Tổng Thống trong bữa ăn tối hôm đó tại Bộ Chỉ Huy I Tiếp Vận ở Mỷ Khê. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho Phó Đề Đốc Thoại chuẩn bị thuyết trình chi tiết nội vụ vào 8 giờ sáng ngày hôm sau tại văn phòng của Tư Lệnh Hải quân Vùng I để ông có quyết định thích đáng. Sau khi nghe thuyết trình vào sáng ngày 17-1-1974, Tổng Thống Thiệu đã tự tay thảo chỉ thị rồi trao cho Phó Đề Đốc Thoại và nói ‘Anh Thoại, đến đây, đọc trước mặt tôi xem có gì không rõ ràng, cho tôi biết ngay từ bây giờ’. Hiện diện trong phòng họp hôm đó còn có Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tổng Tham Mưu Phó; Trung Tưởng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đòan I; và, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu.
Thưa quí vị,
Theo như tường thuật của Phó Đề Đốc Thoại trong cuốn hồi ký ‘Can Trường Trong Chiến Bại’ thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, sau khi trao thủ bút cho ông, có hỏi các vị tướng lãnh hiện diện có ý kiến gì không. Vì không ai trả lời, nên ông nói tiếp ‘Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả’(trang 162).
Thưa quí vị,
Chính trong tinh thần không thể để mất một tấc đất nào nên,trong thủ bút nói trên, ông đã ra lệnh trực tiếp cho Phó Đề đốc Thoại là, nếu sau khi áp dụng các biện pháp ôn hòa, từ việc mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lảnh hải VN, đến việc nổ súng cảnh cáo trước mũi tàu của họ mà không có kết quả thì Phó Đề Đốc Thoại được ‘toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự toàn vẹn lảnh thổ VNCH’(trang 163). Cùng lúc, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã ra lệnh cho Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, một mặt cho họp ngay Hội Đồng Nội Các để tìm mọi phương cách phản đối với quốc tế việc Trung Cộng xâm phạm lãnh hải VN, mặt khác ra lệnh cho các Tòa Đại Sứ VN tại các quốc gia trên thế giới lên tiếng minh xác về chủ quyền của VNCH trên đảo Hoàng Sa.
Và, như mọi người đã biết, khi mà mọi biện pháp khuyến cáo ôn hòa không có hiệu quả, một trận hải chiến tại vùng đảo Hoàng Sa đã xảy ra, giữa Hải quân Quân Lực VNCH và Hải quân Trung Cộng. Thật vậy,vào ngày 19-1-1974.trước việc tàu chiến của Trung Cộng ngoan cố không chịu rút lui mà còn có thái độ khiêu khích bằng cách cho tàu chạy chận tàu Hải quân ta, nên lực lượng Hải Đoàn Đặc nhiệm của ta được điều động đến ứng chiến đã đồng loạt khai hỏa trước gây nhiều tổn thất lớn cho địch. Trận hải chiến kéo dài khoảng 30 phút rồi ngưng. Chiến hạm VN không đuổi theo tàu địch và chiến hạm của Trung Cộng cũng không đuổi theo tàu của VN.
Sau đây là tổng kết thiệt hại của đôi bên trong trận hải chiến ngày 19-1-1974.
Về phiá Hải quân Trung Cộng.
- Hộ tống hạm Konstat 274. Bị đánh chìm. Vì đây là soái hạm, nên Đại Tá Hạm Trưởng Quang Đức bị tử trận cùng toàn bộ tham mưu trên tàu gồm Đô Đốc Phương Quang Kính, Tư Lệnh Phó Hạm Đội Nam Hải; 4 Đại Tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu Tá, 7 sỉ quan cấp úy và một số đoàn viên.
- Hộ tống hạm Konstat 271. Bị thiệt hại nặng, phải ủi bải, sau đó phải phá hủy. Đại Tá Hạm Trưởng Vương kỳ Uy, tử trận.
- Trục lôi hạm số 389. Bị hư hại nặng. Chỉ huy tàu là Trung Tá Triệu Quát, tử thương.
- Trục lôi hạm số 396. Bị hư hại nặng. Chỉ huy là Đại Tá Diệp Mạnh Hải, tử trận.
Về phía Hải quân VNCH.
- Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ10). Bị chìm. Thiếu Tá Hạm Trưởng Nguỵ Văn Thà cùng 24 chiến sĩ khác hy sinh , 26 chiến sĩ mất tích. Đại Úy Hạm Phó Nguyễn Thành Trí, tử thương trên xuồng cao su sau khi chiến hạm bị chìm.
- Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ4). Do Trung Tá Vũ Hữu San chỉ huy. Bị hư hại. Có hai chiến sĩ tử thương.
- Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ5). Do Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh làm Hạm Trưởng. Bị hư hại. Có hai chiến sĩ hy sinh. Tuần dương hạm nầy được coi là soái hạm vì có sự hiện diện của Đại Tá Hà Văn Ngạc, người được Phó Đề Đốc Thoại chỉ định làm Sĩ quan Chiến Thuật để trực tiếp chỉ huy trận hải chiến.
- Tuần dương hạm Lý Thưởng Kiệt (HQ 16). Do Trung Tá Lê Văn Thự chỉ huy. Có 1 chiến sĩ hy sinh và 14 chiến sĩ khác trôi dạt trên xuồng cao su về Qui Nhơn.
- Hai nhân viên người nhái tử thương trên hải đảo.
Sang ngày hôm sau, 20-1-1974, một hải đội hùng hậu của Trung Cộng, với hơn 10 chiến hạm được tăng viện, đã đổ quân tràn ngập lên hai đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa. Họ bắt giữ nhân viên đài khí tượng, địa phương quân và biệt hải trên đảo Hoàng Sa. Tồng cộng có 48 người bị bắt làm tù binh và được đưa về tỉnh Quảng Châu. Tất cả đều được trao trả lại cho VNCH qua Hội Hồng Thập Tự quốc tế tại Hồng Kông.
Liền sau khi hay tin trận hải chỉến đã xảy ra ở Hoàng Sa, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, đang kinh lý tại Phan Rang,liền triệu tập ngay một phiên họp đặc biệt của Hội Đồng An Ninh Quốc gia tại Nhà mát của ông ở bải biển Ninh Chữ, đồng thời cho gọi Tổng Trường Dân vận Chiêu hồi, ông Hoàng đức Nhã,ra hội kiến để hoạch định chiến dịch phản đối hành động xâm lăng của Trung cộng.
Tôi xin mượn lời của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, trong cuốn ‘Can Trường Trong Chiến Bại’ để đánh gía trận hải chỉến nầy cũng như để đánh giá quyết định lịch sử của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong quyết tâm bảo vệ chủ quyền của VNCH trên đảo Hoàng Sa trước cuộc tấn chiếm của Trung Cộng 37 năm về trước:
“Sự hy sinh của các thủy thủ can trường vẫn còn là một bằng chứng bằng xương bằng máu để con cháu chúng ta tranh đấu trước tòa án quốc tế để đòi hỏi Trung cộng phải trao trả các đão nầy cho Việt Nam.
Ai là người VN có quyền hảnh diện là trận hải chiến Hoàng Sa là một trận hải chiến duy nhất của VN và của thế kỷ, chống ngoại xâm, và bảy thế kỷ sau khi tướng Trần Hưng Đạo đánh bại quân Mông Cổ từ phương Bắc trên mặt nước.
Còn những ai nghĩ là VNCH còn lệ thuộc Mỹ phần nào thì đây là bằng chứng rõ rệt là việc tấn công lực lượng Trung cộng là hoàn toàn do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh, không có sự đồng ý của Hoa Kỳ và không có sự giúp đở của Hoa Kỳ dù là nhân đạo tối thiểu như vớt người trôi trên biển cả.”(trang 181 và 182.)
Thưa quí vị,
Trong ngày giỗ thứ 10 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hôm nay, và trước bối cảnh tình hình đất nước Việt Nam hiện tại, hơn bao giờ hết, chắc hẳn mọi người trong chúng ta đếu cảm nhận sâu xa được lời xác quyết của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:

“Đất nước còn trong tay của Ngưòi Quốc Gia thì còn tất cả.
Để đất nước lọt vào tay của Người Cộng sản thì mất tất cả.”


Trân trọng kính chào quí vị
Sacramento, 25 tháng 9, năm 2011
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »

Đại Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, Một Bảo Vật Lịch Sử.

Đinh Lâm Thanh
Một cơ hội đặc biệt vì đây là lần đầu tiên, hai bảo vật của Việt Nam Cộng Hòa xuất hiện cùng lúc trong ngày Liên Hiệp Quốc kiểm điểm tình trạng nhân quyền của cộng sản Việt Nam tại Genève. Đó là lá Quốc Kỳ lớn treo trên chiến hạm của Hải Quân Việt Nam trước năm 1975 và Đại Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, bảo vật của Tòa Đại Sứ VNCH tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (Mỹ) đã xử dụng đến ngày cuối cùng 30.4.1975.
Image
Bảo vật Đại Quốc Kỳ chiều ngang 15 Ft (5 mét), chiều dài 25 Ft (8 mét), cân nặng khoảng gần 7 Kg và được dệt bằng một loại lụa đặc biệt. Đại Quốc Kỳ nầy được một nhân viên tòa Đại Sứ cất giữ từ 33 năm qua kể từ ngày cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam. Mãi đến ngày 07.3.2008, Đại Kỳ đã được trao lại cho Bảo Tàng Viện Fresno Discovery Museum ở California, USA.

Đại Kỳ VNCH lịch sử đại diện cho Chính Phủ và Nhân Dân Việt Nam tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ trước ngày 30.4.1975, đã được xử dụng trong đại lễ, tiếp đón nhiều vị quốc khách, nhiều chính khách tên tuổi trên thế giới. Đại Kỳ đã một thời biểu trưng cho sức mạnh hào hùng, ý chí bất khuất và tinh thần yêu chuộng Tự Do Dân Chủ của nhân dân miền Nam trước 1975.

Đây là một báu vật của dân tộc Việt Nam, của cộng đồng người Việt xuất hiện lần đầu tại Âu-Châu, chúng tôi kêu gọi các đoàn thể, tổ chức cũng như cộng đồng dành ngày 08.5.2009, đến biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc để:

1. Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để chứng minh cho thế giới biết rằng nước Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại trên hành tinh nầy và người Việt hải ngoại ngày đêm đang tranh đấu để mai kia sẽ cùng Đại Kỳ trở về kiến thiết quê hương.

2. Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để đặt vấn đề Nhân Quyền với đảng cộng sản cũng như đỏi hỏi LHQ phải có biện pháp với nhà nước Việt Nam hiện nay là một tập đoàn đang chà đạp lên quyền sống, quyền làm người của 80 triệu dân trong nước.
Đáp lời mời của Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do, một phái đoàn thanh niên từ Hoa Kỳ sẽ rước Đại Kỳ qua Genève cùng tham dự ngày kiểm điểm nhân quyền trước trụ sở Liên Hiệp Quốc.
Image
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ các bạn trẻ, bảo tàng viện Fresno Discovery Museum California đã chấp thuận yêu cầu của chúng tôi.

Cầu xin hồn thiêng sông núi và vong linh những anh hùng đã xả thân dưới màu cờ, hãy phù hộ cho cuộc tranh đấu của chúng ta chóng đến ngày thành công.

YUP! Đã đến lúc Tem Cờ Vàng VNCH lại xuất hiện thêm lần nửa trên toàn lãnh thổ của Hoa Kỳ và được nhân dân Hoa Kỳ tôn trọng xử dụng tem một cách công khai và chính nghĩa để trả lại sự thật cho VNCH!
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Kính Mời Buổi Ra Mắt Sách Đầy Ắp
Tình chiến Hữu. Của Thời Binh Lửa!


Thứ bảy 8 tháng 10 năm 2011 vào lúc 1:30 PM tại
Trung tâm VIVO. 2260 Quimby Rd, San Jose , CA 95122.


Trân trọng kính mời Quý Vị đến tham dự buổi ra mắt sách "Nhớ Về Người Lính Năm Xưa" đẻ nghe chính tác gỉa Đoàn-Phuơng-Hải ,cựu Thiếu-Ta Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn 11.
Dù kể lại trận đánh khốc liệt tại Đồi Charlie và cuối cùng cả đơn vị đành gạt nước mắt khi phải đẻ lại thân xác người anh cả của Tiểu Đoàn
đã anh dũng hy sinh đó là cố Đại Tá Nguyễn-Đình-Bảo.

Image

Image
Đại Úy Đoàn Phương Hải và Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù tại Kompong Cham ( Kampuchia ) 1970.
Từ trái: Trung Úy Y sĩ Trọng, Đại Úy Nguyễn Viết Thanh ( tự Thanh Tây lai ), Thiếu Tá Phạm Kim Bằng,
Thiếu Tá Lê Minh Ngọc ( Tiểu đoàn trưởng ) Đại Úy Đoàn Phương Hải

Image
Từ trái :Đại Úy Đoàn Phương Hải và Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tại căn cứ Charlie ( Pleiku ) 1972

Image
Trung Tá Duffy, cố vấn liên lạc Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest