Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »


Image

Về Một Ánh Mắt ... Ngày 30 Tháng Tư Năm 75


LTG: Bài viết này phổ biến lần đầu tiên vào ngày 27.4.1996 trên diễn đàn soc.culture.vietnamese, được gọi tắt là SCV, vào một thời điểm mà hệ thống Internet còn chưa trở thành một phương tiện truyền thông đại chúng. Mười hai năm sau, tôi đã dự định “nhuận sắc” bài viết cho “phải phép,” chữ dùng của Thường Quán cho “political correctness,” nhân dịp tạp chí damàu thực hiện số báo nhỏ nhằm kỷ niện lần thứ 33 biến cố lịch sử ngày 30 tháng tư năm 1975. Sau khi đọc lại, tuy nhiên, tôi quyết định giữ ở dạng nguyên thủy những điều đã viết ra mười hai năm trước về một cảm giác đã có hai mươi mốt năm trước đó.
Trong quá trình sống của một người, đặc biệt của những người thuộc giới sáng tác, những bội phản, dũng cảm hay hèn nhát, nhất định đã được thực hiện bằng cách này hay cách khác trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác vì lý do này hay lý do khác, một cách cần thiết. “Phải phép” hoặc “phù hợp cho tình thế mới” cũng là điều cần thiết. Nhưng không đủ cần thiết để phản bội một cảm giác. Ít nhất ở lần này.
PN
--------------------------------------------------------------------------------

Lúc đó vào khoảng 12 giờ trưa. Trước đó khoảng hai tiếng đồng hồ, Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng quân “Cách Mạng.” Khi tôi ra đến ngã ba tiếp giáp với đường Võ Di Nguy (Phú Nhuận) thì quang cảnh hỗn loạn càng lúc càng tăng. Lính tráng thuộc đủ mọi binh chủng chạy ngược chạy xuôi, súng ống, áo quần vất bừa bãi đầy đường. Lại thêm đám thương binh từ Tổng Y Viện Cộng Hòa gần đó, kẻ cụt chân, người mù mắt dắt díu nhau trên lòng đường càng làm cho cuộc tháo chạy thêm phần bi thảm.

Trong cái khung cảnh kinh hoàng và đau xót ấy, bỗng dưng tôi nhìn thấy họ!

Họ gồm bảy người, đứng sắp hàng rất đều nhau trên lề đường Võ Di Nguy, quãng gần cổng hậu của bộ Tổng Tham Mưu đến cổng xe lửa số 10. Cả bảy người đều mặc quân phục nghiêm chỉnh, súng M16 trên tay phải, bá súng tựa vào hông, tay trái đưa chéo sau lưng theo tư thế nghỉ. Những chiếc “bê rê” xanh lá cây trên đầu họ lấp lánh chiếc huy hiệu nhỏ bằng kim khí sáng loáng có hình con cọp bay ngang qua chiếc dù mở rộng. Những người lính Biệt Cách Dù thuộc Liên Đoàn 81!
Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi lúc đó, dưới dạng một câu hỏi, là “Tại sao họ còn đứng đây làm gì?” Tất nhiên là tôi không dám hỏi họ câu hỏi đó. Không có ai dám hỏi họ câu hỏi đó! Mọi người, kể cả những thương binh chống nạng lê lết trước mặt họ, đều cúi gầm mặt xuống trong khi đi ngang qua hàng lính đang đứng gác một cách nghiêm chỉnh này. Cả tôi, trong bộ đồ dân sự, cũng vậy. Tôi đã giải ngũ trước đó một năm, nếu không thì lúc này tôi cũng đang vội vã cởi bỏ bộ quân phục và cũng đang cúi đầu lầm lủi đi qua trước mặt họ, hướng về một nơi chốn “an toàn” nào đó. Tôi nhớ mình đã cố tình chậm lại khi đi ngang qua những chiến sĩ Biệt Cách Dù, len lén nhìn lên khuôn mặt của họ. Tất cả đều còn rất trẻ, người lớn nhất chưa đến ba mươi, và người trẻ nhất vào khoảng hai mươi là cùng. Lúc bấy giờ, anh còn trẻ hơn tôi vài ba tuổi.
Đó là người lính thứ bảy trong hàng, người cuối cùng mà tôi phải đi ngang qua. Mấy giây để qua khỏi anh dài cả ngàn năm, và mấy bước sau khi qua khỏi anh dài cả ngàn dặm!
Tôi quay đầu lại nhìn anh để bắt gặp ánh mắt anh cũng đang hướng về tôi. Rồi anh quay lại, nhìn thẳng về phía trước, và tôi cũng quay đi, tiếp tục cuộc hành trình.
Tôi sẽ không có dịp thấy lại anh và các đồng đội của anh, nhưng ánh mắt buồn bã của anh đã ở lại với tôi cho đến mãi bây giờ.

Vào một ngày định mệnh hai mươi mốt năm về trước, hàng trăm ngàn người lính đã trở thành anh hùng. Họ thuộc về đạo quân chiến thắng. Những người anh hùng của Quân Đội Nhân Dân tràn vào Sài Gòn từ bốn phương tám hướng, bàng hoàng với cái chiến thắng vĩ đại mà trước đó không lâu chỉ là một giấc mơ, và ngơ ngác, lạc lõng trong chính cái thành phố mà bây giờ họ đã là chủ nhân ông. Trong hàng ngũ của Quân Đội Nhân Dân còn nhiều anh hùng. Những người này không có mặt trong buổi khải hoàn. Họ đã ngã xuống ở một chiến trường, một góc núi, hay một chân đèo nào đó. Những người trẻ tuổi, có lẽ cũng trẻ như người lính Biệt Kích Dù đứng ở cuối hàng quân trong một buổi sáng hỗn loạn trên đường Võ Di Nguy, lớn lên trong một thôn xóm nào đó trên đất Bắc, lên đường tòng quân với ước mơ giải phóng miền Nam đói khổ điêu tàn dưới ách ngoại xâm. Và tôi cho rằng họ đã ngã xuống như một anh hùng trong chính cái ý nghĩ này vào những giây phút cuối cùng của họ trên con “Đường Đi Không Đến.” Và may mắn cho họ vì đã không có dịp mất đi bản sắc anh hùng. Bởi vì sẽ còn lại bao nhiêu người trong đạo quân chiến thắng năm xưa tiếp tục xứng đáng với danh hiệu “anh hùng?” Có bao nhiêu người đã vì miếng cơm manh áo hay chút quyền lợi nhỏ nhoi đã trở thành đốn mạt? Anh hùng đốn mạt?

Cũng vào ngày hôm đó, hàng trăm ngàn người lính khác thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã cúi đầu trước số phận, cũng bàng hoàng, cũng ngơ ngác trong cái thành phố mà trước đó không lâu đã thuộc về họ. Lẽ tất nhiên, không có anh hùng trong đoàn quân chiến bại. Điều này không được cho phép! Chỉ có những người bất khuất. Như những người lính Biệt Cách Dù lẻ loi trên một góc đường Sài Gòn vào buổi trưa một ngày tháng Tư hai mươi mốt năm về trước. Như người thiếu phụ quấn lá cờ vàng, đeo giây biểu chương đi tìm xác chồng trên một cánh đồng ở Hóc Môn vài ngày sau đó. Và như những điều chỉ được thì thầm cho nhau nghe sau cánh cửa đóng kín trong những năm tháng kế tiếp dưới ách thống trị của những người chủ mới. Những điều sẽ không bao giờ tìm thấy trong sách sử…

Bài viết này không mang một hậu ý gì đáng kể. Chỉ là một cách tự nhắc lại cho chính mình những điều đã kinh qua trong một ngày định mệnh hơn hai thập kỷ trước, ở đó, một ánh mắt đã được gởi đi và được mang theo cho đến bây giờ, và có lẽ cho đến nhiều năm sau nữa. Cái ánh mắt buồn bã và bao dung của một người lính còn rất trẻ gởi đến tôi trong một sát na chông chênh giữa cuộc tử sinh vẫn còn rất sinh động như mới hôm qua.

Trong khi những bất hạnh, những đau thương, những oán hờn tưởng chừng không thể nào quên nay đã nhạt phai cùng với tháng ngày.

Phùng Nguyễn
Cuối tháng 4/96
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Một người như mọi người.
William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch)
Lời nói đầu:

Sau cuộc chiến Việt Nam , đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực VNCH. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình. Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật, đồn trú ở Pleiku.

Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn gọn trong phần tổn thất của quân bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích". Chấm hết!

Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu.

Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ.


* * *
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nhì của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài...

Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt t5n công mà người Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam , với sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.

(1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụ ng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive")

Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân Bắc Việt từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.

Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.

Hôm đó là ngày N2, 09 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung v ới tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người hùng thiên cổ!

Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam , Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn Bắc Việt có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào phòng thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.

Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã vô cùng phẫn nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.

Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày.

Sau khi cất cánh khỏi phi trường Ko ntum, chúng tôi được lệnh hộ tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.

Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn ốc.. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi cơ.

Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng, phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngày trước khi bị bắt.

* * *

Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần.. Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá.

Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy, giống như hai cái hamburger còn sống.

Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người.. Nếu rớt xuống đó, không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì c ng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái "cầu" này để vào trại.

Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bB gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!

Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.

"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài c i hố xí để bạn phóng uế xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi, không c bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.

Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có "vấn đề".. Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây "yucca" ở châu Mỹ La-tinh... Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hề được cạo râu.

Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.

Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.

* * *

Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!

Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi", tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.

Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng truyền sang.

Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát.. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.

* * *

Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.

Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lại còn bị tới 3 loại sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ tôi với tất sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon lắm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết. Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan, hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.

Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho..

Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực.. Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại20ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn.. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!

Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi... Mặc cho tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậ y, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày.. Đôi lúc, có một tù nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.

* * *

Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bư ớc đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng v0o người và lôi cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!

Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết.. Thế nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi làm công việc áp giải.

Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội" lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của cuộc chiến.

* * *

Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.

Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung với tôi trong toán tù binh nhứ nhất, cùng với một người khác trong toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh.. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan tới gia đình anh.

Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong m t ngày gần nhất, có thể là mùa thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.

Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, tr ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.

Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý mến ấy.

William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch)
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Image

CUỘC GẶP GỠ KỲ DIỆU
LGT: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình thời chiến tranh Việt Nam, giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến.
Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen, ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam... Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt, và đứa cháu nội chưa từng biết mặt.... Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn, quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam, trước những làn sóng xâm lăng trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam....


Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó, ta làm thân mất nước không nhà, và nhớ vì trước đó, có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi, thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở, và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi, đó là một dịp may đến thật tình cờ.

Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào, mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ, và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vôi vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn, đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô.
Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac, hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa, dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả, làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường, chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi! Những cánh hoa tươi xinh mà ngày xưa, tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh, rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh; thì hôm nay, đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người, đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình, để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

Ngày xưa, chưa mất miền Nam, gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện, nên rất thân nhau.


Thuở ấy, tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ; nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng, người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm, vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tỉa, thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng, hồn nhiên của nguời Mỹ ấy. Họ đã mang biết bao tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu tia xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi, với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật êm đềm, hạnh phúc, với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi!...

Từ đó, tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm, mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt, cho đến một ngày kia.... Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là, chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương, đang là anh rể của tôi, cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như không bao giờ thua trận, đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng; nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, và chưa thông báo cho anh Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.

Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc, đó là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai, đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi sự dè bỉu, khinh khi, cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm, mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay, khổ sở, nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn, nên nguời.
Có một điều làm tôi lạ lùng là, tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những tình yêu thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi, thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi, chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra, và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ.
Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi, để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời....

Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.

Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
- Ông bà từ đâu tới?
- Chúng tôi từ Ohio, còn cô?
- Thưa ông bà tôi từ Texas.


Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ, thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại:
- Tôi muốn hỏi cô người nước nào? Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan?
- Thưa ông, tôi là người Việt Nam.

Bỗng nhiên, tôi thấy gương bặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng, cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già, chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn, vì tôi biết, đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi, ông buồn rầu giải thích:
- Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam, vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc, nên có những cử chỉ bất thường.

Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào, chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng, tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con, cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới. Trong lúc xúc động, tôi cũng nói với ông là, chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều, trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc.
Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng: "Tôi biết, Chúng tôi biết", rồi xin phép tôi, chạy đến săn sóc cho bà, đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn chào từ giã, khi tôi đi lần xuống phía dưới, để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng, năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.

Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng, nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright - tên người anh rể tôi năm kia - khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng, độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây. Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa, về một gia đình hạnh phúc và nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes, người ta còn nhớ ; chứ tên của chồng tôi, kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ, người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc, nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối, khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.

Giữa lúc tôi đang lặng yên tưởng nhớ, thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ, tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ, reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ, như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi, nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ.... Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây, người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới, nên chẳng thấy phiền hà.

Đến trưa, lúc sắp ra về, tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là, tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này, bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào lúc gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng, ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau, chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết, sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế, nhưng tôi chẳng hình dung được gì, ngoài những con số mà tôi đoán rằng, đất đai chắc là rộng lớn lắm! Tôi cũng cho ông biết, chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa, rồi chào từ giã, đi theo dòng người thăm viếng.............


Buổi sáng hôm sau, tôi có thói quen thức dậy thật sớm, trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá, nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn, tôi bất ngờ nhận ra, ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống, đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.


Gặp lại nhau, tôi lên tiếng:
- Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá! Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích:
- Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi, nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.

Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm, khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng, tôi buột miệng hỏi ông:
- Con trai của ông bà tên là gì nhỉ? Anh ấy mất ở Việt Nam năm nào?
- Con trai tôi tên là Mikes Wright, tử trận ở Việt Nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này...

Vừa nói, ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa, che khuất cái tên mà trước đây, tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi, mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông, rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này? Để chắc chắn mình không nằm mơ, tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung, mà tôi còn nhớ về anh.
- Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm, phải không?
- Cô nói gì, tôi không hiểu. Dĩ nhiên, ngày ấy Mikes còn trẻ lắm, nên râu ria mọc là thường.

Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc, mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp:
- Vợ tôi buồn một điều là, đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt Nam và trở về Mỹ; nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ, nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa, và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt...
- Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không?
- Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi, nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi!

Tôi muốn nói với ông, chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy, nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mike nào khác nữa, nên chỉ nói với ông:
- Hơn ba mươi năm trước đây, tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế, không biết có phải là anh Mikes, con của ông bà không? Tôi từ Texas lên đây chơi, nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần, trên tấm bia đá này.

Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc, rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá, trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ, chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi:
- Tôi chắc là đúng rồi! Đấy, cô coi, có cái tên Mikes Wright nào khác đâu! Thế chị cô bây giờ ở đâu? Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng....
- Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.

Như chính tôi đây, cũng chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên, người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch, và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
- Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes, thì đã không mở ra được nữa, vì những điều kiện vệ sinh.
- Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?
- Tin gì vậy, thưa cô? Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes, và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
- Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết, vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo, thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.

Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là đau khổ hay mừng vui:
- Chúa ơi, thật thế sao? Chúa ơi! Chúa ơi!
- Thật thế, thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm! Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
- Thế bây giờ cháu ở đâu, thưa cô?
- Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ, nên cháu không về Mỹ, theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.


Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ, vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ, số điện thoại của ông bà ở Ohio, để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu, mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không. Chiều hôm đó, ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm! Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi, nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn, và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết, chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai, vì ba hôm sau, khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này, ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.

Gặp nhau tại công viên, ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:
- Vội quá, nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes, và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi, nên chúng tôi lái xe cho tiện.

Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm, giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian, nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh, như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi, người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái, như ôm ấp chính cuộc đời cô.
- Đúng là chị tôi rồi!....

Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui, hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam, với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng, tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội, cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già, đúng như truyền thống của người Việt Nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes, nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam, là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu: "Chúa ôi" liên tục sau mỗi câu nói, làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết, bây giờ, đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu, vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu, nhưng lòng tôi rất sung sướng. Tôi không giấu được xúc động, khi nhìn thấy ông bà - lần đầu tiên - gặp lại đứa cháu nội, sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân, và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam, vốn không thiếu sự tò mò.
- Oh, my God! He just looks like his father! Oh my God!

Bây giờ, chị tôi, một người con gái Việt Nam, về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio, cùng với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

LƯU HỒNG PHÚC
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Image

Đôi Bờ Chiến Tuyến.
TQLC Lê Văn Nguyên
Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với địch quân, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu, đơn vị chủ lực miền của địch thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng tiểu đoàn của chúng tôi cũng bị thiệt hại khác cao. Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của địch. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đây. Tôi với thằng Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ. Chợt Kính nói nhỏ:
_ “Ông thầy! Coi chừng hình như có người trong lùm cây đàng kia”.
_Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng đồ chơi cuủa tụi nó
Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất, khẩu M16 lên đạn sẳn sàng, Kính theo kế bên hông.Tiếng rên nho nhỏ của phụ nữ văng vẳng ra từ trong lùm cây rậm rạp.
_Một đồng chí nữ nhà ta đấy. Kính reo nho nhỏ
Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống, có thể địch gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại. Dơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái trạc độ 18,19 tuổi nằm gối đầu lên chiếc ba-lô màu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:
_ “Nước...Nước..cho tôi miếng nước”.
Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của “cô” địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu, tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương, đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người tôi đoạn bảo Kính:
_ Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ tay
_ Ông nhân từ quá trời, gặp em con nhỏ này tiêu đời.
Kính vừa băng vừa cằn nhằn.
Tôi im lặng không nói gì, thằng Kính nói đúng, những người lính của tôi đã ngã xuống, máu của họ đổ ra cho sự tự do, người Cộng Sản có nhân từ với người anh em của tôi không?
_ Nước...Làm ơn cho tôi xin miếng ..... nước
_ Đ.Mẹ ..Câm miệng mày lại.
Kính quát tháo giận dữ, tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.
_ Mày đừng nói như vậy, với một người sắp sửa chết mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi.
Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo, dấu hiệu nhận diện của đơn vị, thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của cô, khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nom cô phảng phất như minh tinh màn bạc dù trắng xanh vì mất máu nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt. Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:
_ Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một
Cô ngoan ngoãn nghe lời như một em bé. “Cám ơn ông nhìều”. Giọng nói yếu ớt và mệt mỏi
_ Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.
_ Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi, vả lại tôi cũng sắp chết đến nơi
_ Bậy bạ, vết thương này đâu có gì nguy hiểm
_ Đừng an ủi như vậy, hồi nãy ông nói tôi sắp chết đừng nuôi hận thù nữa
_ Tại vì...Tại vì...Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.
Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói, lâu lắm cô nói thều thào:
_ Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi? Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cơ quan điều tra.
Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô,chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:
_ Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước, hãy để thân xác này vùi dập nơi đây. Xin ông đừng giao cho ai hết. Tôi van xin ông.
_ Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã, đừng bướng bỉnh như vậy.
Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà, tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:
_ Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô nhăn nhó, rên rỉ như….
_Sao không đau, ông ăn nói… như khỉ chứ gì?
Cô cướp lời, nhưng đã đoán đúng điều tôi bỏ lửng nên tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi tôi đứng dậy cầm cây súng lên đạn .. rồi lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:
_ Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô, nhưng những thứ này cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.
Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại.
_ Này...Ông tên là gì vậy?
_ Có quan trọng lắm không?
_ Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.
_ Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này.
Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:
_ Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó.

Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giử được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa?

Đất nước thanh bình, tiếng súng lặng im, nhưng những người được gọi là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác không được thở hít không khí hòa bình ấy sau bao năm trăn trở với chiến tranh mà tất cả đi vào trại “cảỉ tạo”, một danh từ mỹ miều đẹp đẽ nhưng thực chất là đầy đọa, là giết lần mòn chúng tôi. Chính họ nói bắn cho chết một lần thì “khoan hồng nhân đạo quá”, phải đày đọa. Tôi bất lực nhìn bạn bè ngã xuống, đói, bệnh hoạn, đày đọa, khủng bố, đánh đập!
Một lối trả thù dơ bẩn và hèn hạ, chúng tôi không chết trong những trận đánh đi vào lịch sử mà chết dần mòn và âm thầm nhục nhã trong các trại trừng giới.Thân xác anh em chúng tôi bị vùi dập ở nơi núi rừng hiu quạnh, ở hốc núi đen tối ngàn trùng. Tôi lặng lẽ sống như cái bóng tinh thần vững vàng, nhưng thể xác thì suy sụp nặng nề, bám víu ý nghĩ duy nhất “Trả nợ oan gia binh nghiệp”. Phải, sinh ra người lính thì chấp nhận mọi gian nguy may rủi về mình.
Ngày hôm ấy, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đơỡ tủi thân.

_ Trần hoài Lam có thư.
Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ. Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.
_ Trần Hòai Lam có thư.
Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.
Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang
_ Có thật là của tôi không anh Đan?
_ Tên anh ràng ràng trên phong bì làm sao sai được, thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.
Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi đọc:
Anh Lam!

Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:

_ “Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như...”.
Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, có một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra. Cô viết tiếp:
_ “Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện Trung Ương, sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị nghành để họat động, không còn muốn tham gia vào nơi lửa đạn nữa. Từng là chiến sĩ xuất sắc trong khu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà thoái lui về hậu phương, kỳ lạ quá phải không anh Lam? Chính anh đã làm thay đổi lập trường của em. Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với kẻ thù, dù rằng thuộc hạ của anh không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của kẻ địch, mà có thể trong đó có cả em bắn ra. Hòa Bình tái lập em không vui vì còn hận thù, vay nợ máu phải trả, phương châm của bạn bè, cấp lãnh đạo đề ra. Em rất buồn vì biết anh đang đi vào ngõ cụt, không lối thoát, con đường đi đến cái chết. Như đã nói, từ sau ngày bị thương, em đã ra khỏi cuộc chơi, không muốn dính líu đến thù hận nữa, bàng quan trước mọi việc nhưng không thể nào quên anh, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ gĩa ra đi không?
_ Dạ.....Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.
Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên.
Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo. Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi! Thôi thì chỉ còn cách là......Trên đất tụ nạn, Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến thế nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:
_ Quyên à, em thương anh từ lúc nào.
_ “Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.
_ Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác. Cô lật đật nắm lấy tay tôi năn nỉ:
_ Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha.
Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:
_ Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cở muốn chết, đã vậy lại còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho em, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.
Cảm động tôi hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương tôi đến như vậy.
_ Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu. Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao? Có lẽ bị chết không chừng.
Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:
_ “Duyên nợ trời định em ạ”.
Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần./.

Viết xong ngày 26 tháng 6 năm 2010.
Mũ Xanh Hắc Long Lê Văn Nguyên
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Con sói già cô đơn

Phan Lạc Phúc (Ký giả Lô Răng)


Cổ nhân có câu “Cái quan định luận”, có nghĩa rằng hãy đậy nắp áo quan cho một người nào đó, rồi sau mới có thể nhận định rốt ráo về con người ấy được. Nhưng có trường hợp đậy nắp áo quan rồi mà dư luận vẫn phân chia, kẻ khen người chê, không biết nghiêng về bên nào cho phải. Đó là trường hợp nằm xuống của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, người vừa tạ thế trung tuần tháng bảy qua ở Mỹ.

Khi ông còn sinh tiền, nói về ông có vẻ như tiếng chê nhiều hơn là lời khen. Ở trong nước giữa thập niên 60, đang là Tư lệnh phó Không Quân, ông nhảy sang làm Giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội, kiêm Giám đốc Trung Ương Tình Báo. Ông được coi như cánh tay mặt của ông Nguyễn Cao Kỳ lúc đó làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ tướng), còn ông Loan làm “xếp chúa” của ngành an ninh trật tự. Đây là thời kỳ rất nhiều biến động. Đệ Nhất Cộng Hòa vừa được xóa đi, thể chế mới chưa hình thành, tranh chấp hiện ra ở mọi nơi, mọi lúc. Đây là thời gian kỷ lục về đảo chánh, về xuống đường, về bất ổn.

Tướng này loại tướng kia, tôn giáo đụng chạm, sinh viên học sinh biểu tình đập phá, Phật giáo đưa bàn thờ xuống đường.v.v... Chưa có lúc nào mà miền Nam lại “loạn” như thế. Người mạnh tay dẹp những bất ổn ấy là ông Nguyễn Ngọc Loan. Sự mạnh tay của ông gồm có: “cảnh sát dã chiến dàn chào, có hơi cay, có dùi cui, có việc “nhúp” những phần tử “trâu đánh”, có đổ máu, có nhà tù”. Ông Loan được gọi là độc tài, quân phiệt, phản cách mạng, là tay sai đế quốc... Nhưng ít có ai nghĩ là ông Nguyễn Ngọc Loan đã đóng một vai trò tích cực trong việc ổn định tình thế, làm nền xây dựng cho một thể chế mới hợp hiến, hợp pháp Đệ Nhị Cộng Hòa.


Thời kỳ ấy ông được thăng Chuẩn Tướng. Nhưng người ta ít khi gọi ông theo cấp bậc, mà người ta quen gọi ông là “Sáu Lèo”. “Sáu” ở đây là quan sáu theo danh xưng bình dân thời Pháp gọi các võ quan, mỗi một vạch trên vai là một cấp bậc (thiếu úy một vạch là ông một, trung úy hai vạch là ông hai...). Chỉ có năm vạch là cùng (đại tá), tướng là đeo sao rồi. Nhưng dân gọi quan sáu là gọi theo hình tượng cũng như dân ngoài Bắc ngày xưa gọi dinh quan Toàn quyền là dinh Ông Bảy (còn trên ông Sáu một bực). Nhưng sau chữ Sáu của ông Loan còn thêm tĩnh từ “Lèo”. Không biết từ này xuất xứ từ đâu, nhưng khi nó đi vào ngôn ngữ dân gian thì nó mang một ý niệm bỉ thử, dèm pha, tiêu cực. Tiền “lèo” là tiền vô giá trị, hay là tiền chỉ có trong tưởng tượng. Hứa “lèo” là hứa xuông, hứa hão, hứa mà không thực hiện bao giờ. Vậy “Sáu Lèo” có nghĩa là một ông quan sáu vô giá trị hay là một ông tướng hữu danh vô thực hay sao?

Sở dĩ cái danh xưng này đứng vững một phần là vì cái bề ngoài luộm thuộm của ông Loan. Ông rất ít khi mặc quân phục, mũ mãng cân đai, nghênh ngang giàn giá. Ông thường mặc quần áo “trây di” xộc xệch, không đeo lon lá gì, chân đi dép cao su lẹp xẹp. Ra ngoài thì ông ngồi xe Jeep bình thường, không có mang cờ quạt mà cũng không có xe mở đường, mô tô bảo vệ. Ông nhiều khi còn đi xe “mobilet” lạch xạch đi làm. Có khi ông còn một tay cầm chai lade, một tay cầm súng M16 vừa đi vừa ực lade, vừa chửi thề loạn xạ. Bề ngoài của ông tướng Loan đúng là xập xệ, là “lèo”, nhưng việc làm của ông thì lại không “lèo” một chút nào.

Một anh em kỳ cựu ở Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia có kể lại rằng: “Thời ông Loan, không có câu nệ lễ nghi quân cách, không nề hà hệ thống quân giai, mà ông cũng không xía vào việc của các phòng, sở, nhưng giao việc gì là phải làm cho đúng, cho xong”. Cảnh sát thời ông Loan không đơn thuần làm công tác trị an, mà còn là một lực lượng xung kích hữu hiệu. Vấn đề nội an, phản gián cũng được nâng lên một mức vì ông nắm trong tay cùng một lúc Nha An Ninh Quân Đội và Cơ Quan Trung Ương Tình Báo, nên công tác nó quy về một mối, nhịp nhàng hiệu quả hơn. Có bữa một trực thăng đột ngột đậu xuống sân cờ Tổng Nha. Một số cán bộ phản gián đi xuống cùng một người bị bịt mắt. Nghe anh em nói lại đó là một cán bộ Việt Cộng cấp cao, bị bắt trên đường đi gặp một nhân viên “Xịa” gộc. Có lẽ ông Loan không muốn đồng minh lớn qua mặt mình trong địa hạt này, nên ông mới hốt tay trên, bắt cán bộ VC kia về Tổng Nha tra cứu. Ông “Sáu Lèo” không được các đoàn thể “Trâu Đánh”, các nhà chính khách “dấn thân” ủng hộ, mà đồng minh lớn Huê Kỳ cũng không có thiện cảm với ông.

Khi giải kết ở Việt Nam bắt đầu từ cuộc tấn công Mậu Thân, người Mỹ qua các phương tiện truyền thông của họ đưa ra những lời lẽ, những hình ảnh làm “nản lòng chiến sĩ” cũng như làm cho nhân dân Mỹ nghi ngờ, chán ghét chiến tranh Việt Nam. Một tờ báo Mỹ, tờ Newsweek gọi quân đội miền Nam là thỏ đế, quân đội Việt cộng là sư tử. Trong cuộc tấn công Mậu Thân khi phóng viên Eddie Adams chụp được tấm hình ông tướng Loan tự tay cầm súng lục bắn vào đầu một tù binh Việt Cộng bị trói, thì ông tướng Loan từ đó đã trở nên một biểu tượng của sự dã man tàn bạo. Cuộc chiến của nhân dân miền Nam, qua hình ảnh của ông Loan cũng trở nên phi nghĩa. Truyền thông Mỹ đã tóm được một cliché đắc ý. Nhà báo ảnh Eddie Adams cũng nhờ đó kiếm được một cái giải Pulitzer. Hình ảnh ấy cũng như cuốn phim ghi lại cuộc xử bắn tại chỗ này là sự thực, nhưng tiếc thay chỉ là sự thực một nửa. Người ta không ghi lại hay là không cho biết vì sao ông tướng Loan lại làm như thế.

Là một người chịu trách nhiệm về trị an thủ đô Sàigòn, ông Loan biết rằng chiến thuật Việt Cộng là tấn công và nổi dậy. “Quân đội giải phóng” đi tới đâu là cán bộ nằm vùng nơi đó nổi lên, diệt “ác ôn” hướng dẫn quân đội chiếm đóng các vị trí hiểm yếu, tiếp tế lương thực và tiến hành tổ chức ủy ban. Đầu mối của cuộc tấn công này là cán bộ nằm vùng, vì không có lực lượng này, quân tấn công sẽ như rắn mất đầu.

Cho nên việc chính của lực lượng cảnh sát Sàigòn là diệt nằm vùng. Trong một cuộc hành quân tảo thanh, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến bắt được một cán bộ Việt Cộng. Tên này vừa diệt “ác ôn”, hạ sát cả một gia đình sỹ quan cảnh sát thì bị bắt. Y đang thay chiếc áo đẫm máu bằng chiếc áo sọc rằn. Cảnh sát dã chiến đưa đến cho tướng Loan “hung thủ” cùng chiếc áo đẫm máu. Ông Loan liền cho mời báo chí tới thực hiện vụ hành quyết cảnh cáo “nằm vùng mà nổi lên là bị bắn không tha”. Ông nghĩ rằng “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” và cũng để trả thù cho thuộc cấp của ông và gia đình vừa bị giết thảm thương.

Chiến tranh là như vậy, máu lại gọi máu. Truyền thông Mỹ chỉ chụp lại cảnh ông tướng Loan giơ tay bắn một tù binh bị trói, mà không cho biết trước đó tù binh Việt Cộng kia đã làm gì, và sau đó quân đội gọi là “giải phóng” kia đã hành xử như thế nào? Một số quân nhân “giải phóng” đã tàn sát cả nhà trung tá thiết giáp Nguyễn Tuấn, gồm tất cả 8 người trong đó có bà mẹ già đã 80 tuổi để hy vọng lấy được mật mã thiết giáp. Ỡ Huế, quân đội Việt Cộng không phải chỉ giết một người, một gia đình mà tàn sát hàng mấy nghìn người, lấp vội vàng trong những hố chôn tập thể, mà truyền thông Hoa Kỳ sau đó có nói gì đâu. Truyền thông báo chí Mỹ đã không trung thực trong việc tường trình cuộc chiến Việt Nam. Họ chỉ nói ra sự thực một nửa, sự thực nào có lợi cho họ. Nủa cái bánh mì thì vẫn là cái bánh mì, nhưng một nủa sự thực thì không còn là sự thực, hay là sự thực đã biến dạng đi.

Ông tướng Nguyễn Ngọc Loan là “một người không giống ai”. Ông hành động theo những điều mà riêng ông cho là phải. Ông là người bất quy tắc (non conformist) cho nên ông được gọi là Sáu Lèo. Cho nên ông mới cho mời báo chí đến để trừng trị một tên Việt Cộng nằm vùng gây tội ác. Ông tưỏng như vậy là có lợi cho đại cuộc, nhưng không ngờ nó phản tác dụng khiến cho miền Nam bị tổn thương mà ông cũng thân bại danh liệt. Ông là tướng Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, việc của ông là ngồi mà ra lệnh, tại sao ông phải đích thân cầm quân đi dẹp loạn để đến nỗi ông bị mang tiếng xấu, bị bắn què chân phải đi nạng suốt đời.

Nghe nói sau tháng tư đen, phải vất vả lắm ông mới vào được Mỹ. Người ta không muốn tiếp nhận một mẫu người “tàn bạo” như ông. Làm tướng mà không có trương mục, tiền bạc nào đáng kể. Phải mở một quán ăn kiếm sống. Như vậy mà vẫn không yên, có người còn đem chuyện cũ của ông ra bới móc. Vào khoảng đầu thập niên 80, nhà văn Huy Quang , tức Trung Tá không quân Vũ Đức Vinh cùng với Mai Thảo, Thanh Nam và một số anh em ra tờ Đất Mới ở Seatle. Sau khi tờ báo đứng vững, Đất Mới có ra thêm phụ trương bằng tiếng Anh để hy vọng thẩm thấu vào dư luận Mỹ. Nhân ngày kỷ niệm Mậu Thân, Huy Quang có phone đến tướng Nguyễn Ngọc Loan, để xem ông có cần phải điều trần điều chi với người đọc Hoa Kỳ. Tướng Loan trả lời, “Cảm ơn, tôi không có điều gì phải giải thích cả”. Ông sống trong im lặng. Ông tự tin trong niềm im lặng của ông.

Từ lâu ông tướng Loan mắc bệnh trầm kha, và ông từ giã cõi đời vào trung tuần tháng 7 năm 1998 vừa qua. Biến cố Mậu Thân và tên tuổi ông tướng Nguyễn Ngọc Loan bỗng nhiên sống lại trong ký ức mọi người. “Cái quan định luận” nên nghĩ thế nào về ông Loan? Phóng viên ảnh Eddie Adams người chụp bức hình xử bắn được giảii Pulitzer đã đến gia đình ông xin lỗi. Khi được tin ông mất Eddie đã đích thân đến dự đám tang và nói: “Ông là một vị anh hùng. Cả nước Mỹ nên khóc thương ông mới phải, tôi không muốn nhìn thấy ông ra đi như thế này, người ta không hiểu gì về ông ấy”. (The guy was a hero, America should be crying. I hate to see him go this way - Without people knowing anything about him).

Tại sao Eddie Adams bây giờ mới nói? Ông Loan đã chết rồi. Nói trước khi ông mất có khi tên tuổi ông đỡ bị người đời đàm tiếu mà gia đình thân nhân ông cũng được ngẩng đầu. Nhưng giả thử ông tướng Loan còn sống không chắc ông đã cho Eddie Adams nói như thế đâu. Ông không cần giải thích với ai. Ông muốn nhấm nháp vết thương của ông trong im lặng. Ông là con sói già cô đơn và kiêu hãnh của A. de Vigny:

“Gào khóc, kêu than đều hèn yếu - Hãy dũng cảm làm cho xong công việc lâu dài và nặng nhọc của ngươi, trên con đường mà số phận đã đặt định, rồi như ta, đau đớn, chết đi mà không nói một lời”.

Crier, pleurer, gémir c’est également lâche,
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le sort a voulu t’appeler
Puis comme moi, souffre et meurt sans parler.

Alfred de Vigny

Một dịp nào nếu tôi có dịp may đến viếng ông tướng Nguyễn Ngọc Loan tôi sẽ thắp hương, cúi đầu và khấn: “Hãy an nghỉ, con sói già cô đơn và kiêu hãnh. Những người lính thuần thành xin được nghiêng mình trước hương linh thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Nụ Cười Người Tử Tội

Nguyen Thieu Nhan
Đó là một buổi chiều ảm đạm vào khoảng tháng 06/1977 ở trại giam Suối Máu thuộc thành phố Biên Hoà. Vậy mà đã mười năm.

Mười năm xuôi ngược bên trời …
Xót thân tơ liễu, xót đời bể dâu.
Mười năm hoa lá ưu sầu
Vàng tan, ngọc nát nhìn nhau ngậm ngùi
Mười năm vật đổi, sao dời
Em sầu thiếu phụ ngậm ngùi lòng ta.
Mười năm cánh vạc bay qua
Mười năm biết mấy xót xa đoạn trường
Mười năm lệ xối xả tuôn
Có bao thiếu phụ thành hòn vọng phu ?
Mười năm một mảnh trăng lu
Trăng soi đâu tỏ nỗi sầu nhân gian.
Mười năm mắt lệ ngỡ ngàng
Lòng đâu muốn khóc lệ tràn quanh mi.
Mười năm ai hát biệt ly
Để cho núi cắt, biển chia lối về.

Tôi biết dù 10 năm hay nhiều hơn nữa, tôi cũng chẳng bao giờ quên được nụ cười của Nguyễn Ngọc Trụ – người tù dũng cảm ngay trong ngục tù cộng sản đã nói lên những sự thực và mỉm cười bước vào cõi hư vô.

Vào khoảng tuần lễ cuối tháng 03/1977, Trung đoàn 775 tổ chức đợt học tập chính trị cho toàn thể trại viên Suối Máu. Giảng viên là tên Trung tá Chính uỷ với khuôn mặt xương xương, cặp mắt láo liên, đôi môi xám xịt che kín hàm răng ám khói thuốc lào. Năm ngày đầu tuần với những lên lớp, xuống lớp, thảo luận, thu hoạch làm cho những tù binh mệt mỏi, đầu óc trống rỗng. Những luận điệu một chiều cũ rích : « Ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Lao động là vinh quang. Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm » lúc bổng, lúc trầm mà chính người nói cũng không hiểu mình định nói cái gì. Nhưng mà có cần gì, bởi lẽ tên Trung tá Chính uỷ cũng chỉ là một con ốc trong cái guồng máy Cộng sản sắt máu.


Ngày cuối tuần là ngày giải đáp thắc mắc về bài học vùng kinh tế mới.

Dưới cái nóng hầm hập phả ra từ mái tôn, các tù binh mệt mỏi ngồi im như những pho tượng, mặc tình tên chính uỷ múa may hò hét, khoa tay khoa chân. Với điệu bộ lấc cấc, gương mặt đầy vẻ tự mãn, tên chính uỷ nhìn xuống đám đông qua chiếc kính đeo trễ gọng trên sóng mũi, rồi cất giọng the thé :
- Thế này nhé : Trong thời gian gần 20 tháng qua các anh đã được Đảng và Nhà nước khoan hồng tạo điều kiện cho các anh học tập, lao động cải tạo, các anh cũng đã được gia đình thăm viếng, mỗi ngày các anh được xem « ti-di », sách báo. Nói tóm lại các anh đã được tiếp xúc và đã biết được phần nào về Chủ nghĩa Xã hội tốt đẹp. Là nguỵ quân, các anh đã lớn lên và sống trong chế độ Tư bản xấu xa thối nát của miền Nam. Nay qua các bài học, các anh đã được sáng mắt, sáng lòng. Nếu anh nào còn có điều gì thắc mắc nêu lên tôi sẽ giải đáp.

Toàn thể hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ thụp xuống chiếc bục. Mọi người nghe rõ tiếng sòng sọc của chiếc nõ cầy. Khói thuốc bay lên mù mịt. Tên chính uỷ đứng lên cho lệnh giải lao. Một sợi khói thuốc lào còn sót bay qua kẽ răng lúc y nói.

Qua giờ thứ hai, khi lớp học tập hợp xong, bỗng từ phía cuối hội trường có tiếng xầm xì. Tên chính uỷ đứng trên bục giảng, gương mặt rạng rỡ như cô gái giang hồ đêm khuya ế khách bỗng chợp được một khách làng chơi say rượu thèm tình, y ngúc ngúc cái đầu với vẻ tự đắc :
- Anh nào có gì thắc mắc thì cứ tự do phát biểu. Thế mới dân chủ bàn bạc. Tôi cho phép các anh nêu thắc mắc về mọi vấn đề ngoài bài học.

Y đưa tay chỉ thẳng vào một người tù đang đưa tay che mũi :
- Anh gì đấy, có gì thắc mắc cứ đưa thẳng tay lên xin phát biểu, có gì mà phải rụt rè thế. Nào, thắc mắc gì thì cho biết ?

Người tù vừa được nói tới lúng túng đứng dậy, gương mặt anh ta nhăn nhó rất là khó coi :
- Thưa cán bộ tôi không có gì thắc mắc. Nhưng …

Tên chính uỷ khuyến khích :
- Cứ mạnh dạn phát biểu, chả ai bắt tội anh đâu.

Người tù đưa tay gãi gãi đầu, khịt khịt mũi, nói :
- Thưa cán bộ thiệt tình là tôi không có điều gì thắc mắc. Nhưng tôi có điều muốn trình bày nếu cán bộ cho phép.

Tên chính uỷ cười hể hả :
- Cứ nói đi, có gì mà phải phép tắc.

Người tù lại gãi gãi đầu :
- Thưa cán bộ, tôi nghĩ là cán bộ hiểu lầm tôi đưa tay xin phát biểu ý kiến. Sự thực là tôi đưa tay che mũi vì không biết có anh nào chột bụng hay sao đã đánh rắm thối quá, chịu không nổi.

Cả hội trường cười một cái rần. Tên chính uỷ tẽn tò nhưng y cũng không nín được cười. Y lầm bầm : « Thật chẳng ra làm sao cả ». Đợi hội trường yên lặng, anh ta lại hát bài hát cũ :
- Thế nào ? các anh chẳng có gì thắc mắc cả sao ? Sĩ quan cả, có ăn học cả, chắc chắn các anh phải biết phân biệt tốt xấu giữa hai chế độ. Đảng ta là đảng chủ trương dân chủ bàn bạc. Các anh cứ nêu những ý kiến, thắc mắc. Giải đáp được tôi sẽ giải đáp. Không giải đáp được tôi sẽ trình lên trên. Cần thiết tôi sẽ gặp đồng chí Lê Duẫn xin ý kiến để giải đáp cho các anh. Với danh dự của một người cộng sản, tôi xin hứa sẽ không có sự trù ếm, trả thù.

Mặc y lải nhải, cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ vừa định ngồi thụp xuống bục gỗ kéo điếu thuốc lào, bỗng từ cuối hội trường một người đứng dậy và một giọng nói cất lên :
- Tôi xin có ý kiến.

Mọi người đều quay lại nhìn người vừa lên tiếng. Tên chính uỷ thở phào như người vừa trút xong gánh nặng :
- Thế chứ. Thế nào, mời anh lên đây phát biểu.

Người tù chậm rải tiến lên bục hội trường với vẻ mặt tự tin. Anh ta nhìn tên chính uỷ, nhìn khắp hội trường, rồi quay sang nhìn tên chính uỷ :
- Tôi xin tự giới thiệu tôi là Nguyễn Ngọc Trụ, Tiến sĩ Công Pháp Quốc Tế, cấp bậc : Trung Uý, chức vụ : giảng viên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một vợ, hai con, thân sinh tôi là một Trung Tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hiện đang bị tù cải tạo tại miền Bắc.

Anh ta ngừng nói. Cả hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ nhìn anh ta gật gù :
- Anh có ý kiến gì cứ nêu lên. Với danh dự của một người cộng sản tôi xin hứa là sẽ không bắt tội anh đâu, dù là tôi không trả lời được những ý kiến, thắc mắc của anh.

Nói xong, y quay về đám đông :
- Thế mới dân chủ chứ, phải không nào ?

Cả hội trường vẫn im phăng phắc trong cái im lặng đầy bất trắc.

Nguyễn Ngọc Trụ hắng giọng, lên tiếng. Giọng nói của anh rõ ràng, mạch lạc :

- Như cán bộ đã trình bày, cá nhân tôi đã sống và lớn lên trong sự cưu mang của chế độ Tư bản miền Nam. Tôi cũng đồng ý với cán bộ là xã hội miền Nam đầy dẫy những xấu xa, bất công, thối nát, những kẻ lãnh đạo bất tài tham quyền cố vị …

Nguyễn Ngọc Trụ ngừng nói. Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ gật gù với ý nghĩ trong đầu : « Có thế chứ ! ».

Giọng nói của người tù trên bục lại vang lên :
- Cũng như cán bộ đã trình bày, qua gần 20 tháng, tôi đã tiếp xúc với Xã hội Chủ nghĩa miền Bắc. Tôi đã được gia đình thăm nuôi nên biết được phần nào đời sống thực tế bên ngoài. Tôi cũng đã được đọc sách báo, được xem vô tuyền truyền hình. Thậm chí, tôi còn được sống gần gũi với những con người của Chủ nghĩa Xã hội miền Bắc là các cán bộ …

Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Những người ngồi kế bên như nghe rõ tiếng nín thở của người bên cạnh. Tên chính uỷ bắt đầu đi qua, đi lại. Giọng nói rõ ràng, mạch lạc của người tù trên bục giảng vang lên như một mũi dao nhọn xoáy vào một vết thương đang sưng tấy :
- Qua tiếp xúc giữa hai chế độ, tôi thấy chế độ Xã hội chủ nghĩa miền Bắc cũng không tốt đẹp gì hơn chế độ Tư bản miền Nam …

Tên chính uỷ há hốc mồm. Cả hội trường im phăng phắc, sững sờ.

Giọng nói người tù trên bục giảng lại vang lên :
- Tôi không tin tưởng là đất nước sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội với những cái gọi là cách mạng giáo dục đi dôi với cách mạng khoa học kỹ thuật.

Anh ta nhìn thẳng vào mặt tên chính uỷ :
- Tôi xin tạm mượn một hình ảnh để thí dụ : Con ngựa và chiếc xe. Người đánh xe đã tước đoạt mất tự do của con ngựa. Ông ta đã đóng móng vào chân ngựa, đã bịt mắt ngựa, tra hàm thiếc vào miệng ngựa, buộc ngựa vào xe và dùng roi quất vào mông ngựa để ra lệnh kéo cái xe. Chúng tôi và những người dân bây giờ cũng giống như những con ngựa. Đó là ý kiến của tôi về hai chế độ. Xin hết.

Tên chính uỷ xanh mặt. Y thọc mạnh hai bàn tay đang run lên vì tức giận vào hai túi quần màu cứt ngựa. Y nghiến răng lẩm bẩm một điều gì đó không phát ra thành tiếng.

Cả hội trường có tiếng xì xào, rì rầm.

Nguyễn Ngọc Trụ bình tĩnh trở về chỗ ngồi. Một người nào đó nói nhỏ với anh ta :
- Anh nói làm chi những điều như vậy.

Nguyễn Ngọc Trụ mỉm cười trả lời :
- Tôi phải nói những Sự Thật dù biết là sẽ nguy hiểm đến tính mạng của mình.

Tên chính uỷ ra lệnh giải tán lớp học mặc dù còn phải 2 giờ nữa mới hết giờ. Y hấp tấp quảy cái sắc-cốt lên vai, đi như chạy ra khỏi hội trường với cái dáng đi hai hàng của y.

Ngay sáng hôm sau, Nguyễn Ngọc Trụ được hai tên vệ binh có võ trang vào gọi anh lên trình diện Bộ Chỉ huy Trung Đoàn. Và ngay buổi chiều hôm đó anh bị biệt giam vào conex.

Ba tháng sau. Vào một buổi chiều, một vài người tù đang thơ thẩn ở sân cát cạnh hàng rào kẽm gai bỗng kêu lên :
- Thằng Trụ ra kìa.

Tin tức lan nhanh. Mọi cắp mắt đều đổ xô về chiếc conex. Nguyễn Ngọc Trụ đôi mắt trũng sâu trên đôi má hóp, tóc phủ ót, phủ mang tai, râu ria tua tủa. Hai ống chân ốm tong teo chỉ còn da bọc xương, đứng không nổi phải vịn tay vào thành conex.

Tên chính uỷ quảy cái sắc-cốt, bên hông lủng lẳng khẩu K.54, đứng hỏi Nguyễn Ngọc Trụ những điều gì đó rất lâu. Kế bên là hai tên vộ binh cầm súng trong tư thế nhả đạn.

Có lúc Trụ ngã xuống rồi lại cố gắng vịn thành conex đứng lên. Mọi người đều thấy sau mỗi lần tên chính uỷ hỏi một điều gì đó Trụ lại lắc đầu. Những câu trả lời chỉ là những cái lắc đầu.

Tên chính uỷ có vẻ hằn học, quay lại ra lệnh gì đó với hai tên vệ binh và bỏ đi với cái dáng đi hai hàng của y. Trụ nhích từng bước, từng bước rồi khuất hẳn vào conex. Một tên vệ binh đóng sầm cửa conex, khoá lại rồi cũng bỏ đi.

Sáng hôm sau kẻng báo động, còi tập hợp vang lên. Ban chỉ huy trại ra lệnh tập hợp tất cả tù nhân ở hội trường. Người chủ tọa không phải là tên Trung tá Chính uỷ mà là tên Thiếu tá Chính trị viên Tiểu đoàn. Y nhe răng cười một cách rất vô duyên rồi đi thẳng vào vấn đề :

- Các anh biết đó, hôm nay trại mời các anh lên về chuyện của anh Nguyễn Ngọc Trụ. Thực hết biết anh này. Trung tá Chính uỷ đã nhiều lần thuyết phục, yêu cầu anh ta nhận những điều phát biểu trong buổi học là sai. Vậy mà anh ta vẫn khăng khăng không nhận. Anh ta nhất định giữ vững ý kiến và không chịu ra trước mặt anh em nhận là mình sai lầm. Cái chết là anh ta đã nói những điều đó trước mặt anh em để tuyên truyền. Phải chi anh ta chỉ trình bày những ý kiến đó với chúng tôi thì cũng còn được đi.

Tất cả mọi tù nhân ở hội trường đều sững sờ trước sự gian trá, lật lọng của tên Thiếu tá Chính trị viên nhưng không một ai dám lên tiếng. Và mọi người đều đau nhói khi nghe tên chính trị viên tiểu đoàn tuyên bố :

- Vì anh Nguyễn Ngọc Trụ tiếp tục ngoan cố, chống đối lại Đảng và Nhà Nước nên Bộ Tự Lệnh Quân Khu quyết định xử tử hình anh ấy. Lệnh sẽ được thi hành chiều nay.




Đó là một buổi chiều tháng Sáu ảm đạm. Nguyễn Ngọc Trụ bị bịt mắt, miệng bị nhét chanh trái, hai tay trói ké ra sau, hai tên vệ binh kéo thốc anh ra pháp trường.

Anh ngã quỵ xuống khi được tháo băng bịt mắt, cởi dây trói và lấy quả chanh ra khỏi miệng. Viên sĩ quan Việt Cộng phụ trách việc hành quyết hỏi anh có điều gì yêu cầu không, anh chỉ nói :
- Tôi đã nói lên những Sự Thực và không còn có điều gì yêu cầu.

Anh quay lại mỉm cười với các tù nhân bên trong hàng rào kẽm gai :
- Vĩnh biệt anh em !

Và bình tĩnh chờ dợi.

Mười hai tên vệ binh nhắm mắt bắn xối xả những tràng đạn AK vào người Nguyễn Ngọc Trụ – người tù dũng cảm – người đã dám nói lên Sự Thực ngay trong ngục tù cộng sản và mỉm cười bước vào cõi hư vô.

Nguyễn Thiếu Nhẫn
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Nghị Quyết Số 40 của Quốc Hội Tiểu Bang California:
Kỷ Niệm “THÁNG TƯ ĐEN”


· Nghị Quyết 40 của Quốc Hội tiểu bang California - Assembly Concurrent Resolution No.40 - gọi tắt là ACR 40, do Dân Biểu Solorio đệ trình liên quan đến một giai đoạn Lịch Sử của Người Mỹ gốc Việt.
· Nghị Quyết này công nhận tuần lễ từ ngày 21 tháng Tư năm 2011 đến ngày 30 tháng Tư năm 2011 là Tuần Lễ Tưởng Niệm Tháng Tư Đen, và Tháng Tư là tháng dành để Vinh Danh Lịch Sử Người Mỹ Gốc Việt.

XÉT RẰNG: ngày 30 tháng Tư 2011 đánh dấu 36 năm kỷ niệm ngày kết thúc chiến tranh Việt nam, và cũng là ngày khởi đầu việc bỏ nước ra đi của hàng triệu người Việt sau khi thủ đô Sàigon, miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay Cộng Sản trong ngày 30 tháng Tư năm 1975.

XÉT RẰNG: Đối với nhiều nguời Việt Nam, nhất là những cựu quân nhân thời chiến tranh Việt nam đang định cư tại Hoa Kỳ, Chiến Tranh Việt Nam là một thảm kịch đầy đau khổ, thiệt hại về sinh mạng của nhiều người Mỹ, người Việt, và người Đông Nam Á khác.

XÉT RẰNG: Trong số 2 triệu 590 ngàn chiến sĩ Hoa Kỳ phục vụ trong Chiến Tranh Việt Nam, có 58,169 người bị giết, và hơn 304,000 người bị thương. Như vậy, cứ mười người Mỹ phục vụ trong Chiến Tranh Việt Nam có một người trở thành nạn nhân chiến cuộc.

XÉT RẰNG: Trong đợt di tản của người Mỹ ra khỏi Sàigòn, có 135,000 người tị nạn Việt Nam, đa số là sĩ quan trong quân đội và gia đình. Họ được tạm trú trong các trại tị nạn quốc tế, và Trại Pendleton ở San Diego, Trại Fort Chaffee ở Arkansas, và Indiantown Gap ở Pennsylvania.

XÉT RẰNG: Bắt đầu từ năm 1977, kéo dài đến giữa thập niên 1980, đợt sóng tị nạn thứ hai của người Việt, đa số là “thuyền nhân” bắt đầu tìm cách vượt thoát khỏi Việt Nam.

XÉT RẰNG: Nhận thấy không có tương lai khi sống dưới chế độ cộng sản, gần 800,000 thuyền nhân đã liều mạng ra đi trong những chiếc thuyền nhỏ bé, nguy hiểm để đến được những trại định cư ở Hồng Kông, Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan, và Phi Luật Tân trước khi được định cư tại Hoa Kỳ.

XÉT RẰNG: Tổ Chức Hồng Thập Tự ước tính rằng trong khoảng thời gian này có khoảng 300,000 người Việt nam đã bị chết ngoài biển khơi trên đường trốn chạy chế độ cộng sản.

XÉT RẰNG: Sau năm 1985, một đợt người tị nạn Việt Nam khác đến Hoa Kỳ theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự.

XÉT RẰNG: Năm 1988, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Đạo Luật “Home-coming Act” là một chương trình đón nhận vào Hoa Kỳ 80,000 con Mỹ lai, những đưá trẻ có cha là Lính Mỹ, và mẹ Việt Nam.

XÉT RẰNG: Vào năm 1990, một đợt tị nạn Việt Nam thứ tư bắt đầu vào Hoa Kỳ theo Chương Trình Humanitarian Operation - Chiến Dịch Nhân Đạo,thường gọi là HO, và đến nay có khoảng 1 tiệu 700 ngàn người Việt di dân định cư tại Hoa Kỳ.

XÉT RẰNG: Nhiều cuộc nghiên cứu sử dụng tài liệu thống kê dân số cho thấy người Việt sanh trưởng ở nước ngoài, di cư vào Hoa Kỳ trong những thập niên 1980, 1990 và 2000 đến 2005 rất thành công. Nhiều người trong số di dân gốc Việt có khả năng Anh Ngữ giỏi, tốt nghiệp đại học, làm chủ căn nhà họ ở, lợi tức gia đình trung bình khá, và trở thành công dân Mỹ.

XÉT RẰNG: Sau nhiều năm, di dân gốc Việt đã khắc phục được những khó khăn về ngôn ngữ, kinh tế, và xã hội trên một qui mô lớn để họ trở thành một nhóm di dân hội nhập trọn vẹn vào xã hội Mỹ, giống như những nhóm sắc dân lớn khác ở Mỹ.

XÉT RẰNG: Qua nhiều cuộc nghiên cứu sâu rộng, người Mỹ gốc Việt đã đạt những thành tựu rất cao về nhiều lãnh vực như kinh doanh, làm chủ công ty doanh nghiệp, trong lãnh vực khoa học, kỹ thuật, du hành trong không gian, y khoa, ngành hành pháp của chính phủ Hoa Kỳ, sinh hoạt chính trị, quân đội Hoa Kỳ, hệ thống tư pháp, thể thao chuyên nghiệp, và gần đây nhất, họ từng trở thành thần tượng trong lãnh vực ẩm thực, làm người mẫu, kịch nghệ, và cả tấu hài.

XÉT RẰNG: Để phục vụ cộng đồng của họ, và thành đạt ở Mỹ, người Mỹ gốc Việt đã lập ra những khu vực thương mại phồn thịnh của người Mỹ gốc Việt trên khắp Hoa Kỳ và California, với những những khu buôn bán của người Việt ở Oakland, Orange County, Sacramento, San Diego, San Francisco và San Jose.

XÉT RẰNG: Hơn 450,000 người Việt hiện đamg sống ở California. Những nơi tập trung nhiểu nguời Việt nhất là ở Orange County, nhất là các thành phố Garden Grove, Santa Ana, Westminter và Fountain Valley.

XÉT RẰNG: San Jose với dân số 900,000 người, là điạ điểm có sự tập trung lớn nhất của sắc dân người Việt so với bất cứ thành phố nào ở Mỹ. Người ta ước lượng rằng 10% dân số thành phố San Jose là người Việt.

XÉT RẰNG: Kết quả cuộc kiểm tra thống kê năm 2006 của US Census Bureau về số chủ cơ sở kinh doanh, cho biết tại California có 50, 321 cơ sở kinh doanh của người Việt.

XÉT RẰNG: Chúng ta cần dạy trẻ em và các thế hệ tương lai bài học quan trọng về Chiến Tranh Việt Nam, kể cả những nỗi khổn khổ của người tị nạn Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc, là những thí dụ hùng hồn về giá trị của tự do và dân chủ.

XÉT RẲNG: Ngưởi tị nạn và di dân của Việt Nam Cộng Hoà trước đây di cư đến Hoa Kỳ là người Mỹ gốc Việt yêu tự do, nên họ phải được vinh danh, tưởng niệm về những hy sinh đổi lấy tự do và nhân quyền, và những đóng góp liên tục của họ vào xã hội dân chủ của chúng ta.

XÉT RẰNG: Thống Đốc Arnold Schwarzenegger vinh danh sự đóng góp của cộng đồng người Mỹ gốc Việt cho tiểu bang California và ghi nhận lòng yêu quí dân chủ, công lý, và khoan dung của sắc dân người Việt, vì vậy, ông đã đưa ra một quyết định hành pháp công nhận Lá Cờ biểu tượng cho Tự Do và Di Sản Việt nam.

XÉT RẰNG: Lá cờ Tự Do và Di Sản Việt nam, tức lá cờ nền vàng ba sọc đỏ chính là biểu tượng duy nhất có thể đoàn kết tất cả người Việt sống trên khắp thế giới, và đem lại họ gần lại với nhau dưới cùng một khẩu hiệu là ước mong sẽ có tự do và dân chủ trên quê hương cũ của họ.

XÉT RẰNG: Mặc dù đoàn kết trong nỗi đau thương, người Mỹ gốc Việt kỷ niệm ngày 30 tháng Tư năm 2011 là Tháng Tư Đen. Coi sự kỷ niệm đó như một cơ hội để hồi tưởng lại những hy sinh đau khổ trong quá khứ của những cộng đồng người Mỹ gốc Việt trên toàn tiểu bang California. Họ sẽ coi Tháng Tư Đen là một dịp để kỷ niệm sức đề kháng của người Việt trước nghịch cảnh, trên bước đường đi tìm tự do, dân chủ.

Do đó, Thượng Viện và Hạ Nghị Viện tiểu bang California, đồng thanh quyết định như sau: Ghi nhận những đau khổ, thảm kịch, và mất mát về sinh mạng rất lớn trong Chiến Tranh Việt Nam, tuần lễ từ 24 tháng Tư 2011 đến 30 tháng Tư 2011 được tuyên cáo là tuần lễ tưởng niệm tháng Tư Đen. Đây là thời gian đặc biệt người dân California dành riêng để tưởng nhớ đến vô số nhân mạng bị mất trong chiến tranh Việt Nam, và hy vọng sẽ đem lại một cuộc sống công chính, và nhân đạo hơn cho người dân Việt Nam.

Quyết định rằng Tháng Tư năm 2011 sẽ được công nhận là Vietnamese American Month - Tháng Dành Cho Người Mỹ Gốc Việt - để vinh danh một cộng đồng đã đóng góp rất nhiều vào đời sống văn hoá, kinh tế, và cá nhân trong mạng lưới xã hội tạo thành tiểu bang California.

Trân trọng,
Patty SchapiroVăn Phòng Chủ Tịch Quốc Hội tiểu bang California Fiona Ma
Điện Capitol,Trụ sở Quốc Hội tiểu bang California, Phòng số 3173.
Điện thoại: 916.319.25.11
Fax: 916.319.2112.
Patty.scapiro@asm.ca.gov

Nguyễn Minh Tâm dịch thuật
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »


Image
Pleiku Nắng Bụi Mưa Bùn
Nguyễn Dân

(Kính tặng những ai, đã một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm)
Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địadanh mà hầu như ai cũng biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt, mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đã làm nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đã làm nên một địa danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đã từng là lính chiến? Ai đã từng là kẻ “bị đày”? Và ai đã từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”? Thì đất địa Pleiku là nơi được mời gọi.

Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là gì gì cả, mà là một sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian. Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn luyện “da ngựa dậm nghìn” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương thì ít mà tứ xứ thì nhiều. Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, vì từ dạo đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy.Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7 con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh thì làng mạc thưa thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những gì ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở. Người ta về làm ăn, về tìm việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để kiếm sống, và cũng về … để chết.Một bộ tư lệnh quân đoàn nằm đó, và một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành). Ngày đêm xe cộ tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân, từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng. Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ “bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy, tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn.Tuy nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật sự thì Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi dễ mến, và cũng “thân thiết”.Tôi đã đến đấy gần hai năm và khi ra đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể:Pleiku có khí hậu giông giống như Đà lạt. Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa màu, Đà lạt trồng được thứ gì thì Pleiku cũng trồng được thứ đó: bông hoa và rau trái. Ai đã có đến vườn hoa Phú thọ? Một xóm ngoại ô (chỉ cách thị xã vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, tình tứ, đẹp không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái cớ. Nếu vào Phú thọ, khách còn tìm nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em đi dạo, tìm “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê “mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC cũng thường mò ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ. Phong cảnh đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng đất địa rừng núi Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không được rõ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp, nơi vui chơi, hò hẹn rất thơ mộng, rất trữ tình. Có am, có chùa, tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi, từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đã có biết bao mối tình hẹn hò, thề ước tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa không dứt, thành phố trở nên ãm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô? Nếu không phải bận công tác, trực hành quân thì cũng “bay” ra phố, vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám (cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí tình. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lãnh trả sau. Bà Tám rất là điệu nghệ.



Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi.Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng, chỉ nghe nàng nói cũng đã thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?” hoài mà không hiểu được nàng nói những gì. Các em Bình Định, Nha trang, Tuy hòa, Sài gòn, miền Tây, và cả dân Bắc (kỳ) cũng không thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước.
Đã có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến để mà tha hồ hát ca, nhãy nhót. Đơn vị B17/LLĐB, thời thiếu tá Ngô đình Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích vì được chìu chuộng săn đón. Ca hát nhãy nhót cho đã, mời các em ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc,
hoa muôn màu – các em rất thích. Thích thì cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… thì cứ ở qua đêm cũng được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngã, chết chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời lình dù phải sống nay, chết mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên đời thì làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên mình. Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống.Không vui chơi ở đơn vị, thì vui chơi ở các tửu đìếm, nhà hàng. Hai cứ đìểm: Hoàng Liêng, Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền thì vung vít, ít tiền thì một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa về. Say quá, gục ngã, nằm đường, có quân cảnh chở đưa về. Cùng lắm là “ký củ”. Cả mạng sống còn chẳng màng, sá gì năm, mười ngày “trọng cấm” lẻ tẻ.Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều mình. Liều mà đánh giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính “ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống…Cà phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi mà ngọt ngào tình cảm. Mùi hương thoang thoảng. Hương hoa (từng nụ) ngọc lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi mọng, cười rất duyên, và … đẹp đéo chịu được. Tôi đã ghiền và đã mê “Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ miền Tây (thiếu gì con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đã từng đến Pleiku, và đã từng “uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm tình này. Trên bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ.

Còn nữa! Quán bún về đêm, có một “o” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún bò thơm lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, thì về nhà không ngủ được (vì đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc đã chồng con, đã già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em còn sống? Dẫu sao, kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng còn “một chút gì để nhớ, để thương”...Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài vẫn còn chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mõi, không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh vì “bị đày” mà đến, còn các em do“tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt gặp và làm quen (cả làm tình) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Mình không tránh được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các em để đời các anh thêm ý nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao). Nhưng các em cũng đã góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều Biển Hồ.Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh (thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài gòn. Chúng tôi, hai thằng mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một vòng phố xá. Nói là chỉ đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây.Trời xế chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một vòng vẫn chưa có ý định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa xế trưa thì không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe, bước tới. Hai người đẹp có ý hỏi tìm địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả tiền xe.
-Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi.
Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rãnh…
Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ tìm nhà.
-Chị em em từ Qui nhơn lên tìm nhà đứa bạn. Địa chỉ này…
-Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại.
-Sợ phiền các anh!
-Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép.
Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh trọng mời hai quí nương lên xe yên vị….
Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như thế này?
Vừa đi, vừa gợi chuyện. Thì ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng muốn tìm biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời còn sớm. Mời hai nàng cùng đi một vòng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng cảnh biển hồ.Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng lãng đãng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh vật quá mộng, quá thơ, quá hửu tình. Hai thằng lính hành quân về chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân tình của hai em gái hậu phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “tình anh lính chiến”.Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với tình yêu thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ý nghĩa, quả là thú vị cuộc đời.Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa chỉ hai nàng cần tìm. Lưu luyến chia ly, giã từ, hò hẹn…Tôi về, năn nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài gòn đi tiếp mấy ngày (phép) còn lại.


Tình người bản thương.
Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người thượng (khoảng một tiểu đoàn (350-400 quân). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi như đi dưỡng sức, vì địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một vùng khá an ninh nhờ đ/u Báu thường xuyên tung quân hành quân lục soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành quân, các đại đội thì đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ huy TĐ)/BKQ/TƯ - chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn - nên tà tà đi nhìều chổ cho biết.
Buồn, không làm gì, đi vào mấy nhà thượng (kiếm những nhà giàu). Sức giàu của một nhà thượng ở đây không thua gì người kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu (năm 1970): một đàn bò 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người dân thượng bảo vậy). Vì thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một lần, vào dịp tổng thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đãi rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đãi tổng thống, trị giá 200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất rình rang.Nhà giàu, có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm gì, thường ở nhà dệt vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà. Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt) nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp trai kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ hay cưòi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà “bắt cái nước” thì tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ dãi như vậy đó, mặc tình mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú vị, ngực căng cứng, no tròn. Hôn thì mùi hăng hăng như khét nắng. Cũng vì em dễ dãi, em thích. Cũng tại mình ham vui, thích khám phá tìm của lạ. Chứ không ham muốn gì đâu. Gái thượng mà không lai (lai Pháp) thì không thấy gì là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa, hoặc sàm sở thì… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa vì có thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành vi sai phạm). Còn nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên (kinh) ở tòa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại tòa tỉnh trưởng, vì thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị, báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho một trận, thiếu điều ký củ.Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là nết na chững chạc - nết na mà vẫn cho sờ mó? - Thấy trai kinh dường như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích thì thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó khăn gia đình? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ thấy, chẳng nói gì. Không biết họ bằng lòng hay vì sợ mà không nói?Thú vị nhất là ra rình xem tắm suối. Buổi trưa, không làm gì, tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén rình đàn bà con gái thượng tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên dòng nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lõa lồ thân thể.


Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà rình xem cho đã mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. Tìm bến khác. Rình xem con gái thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo, bị thưa là khốn. Ký củ và đổ đi chổ khác như chơi.Người thượng khá chân thật, rất tình người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được chung sống nhìều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đãi nhiều thứ. Cũng nhằm mục đích lấy lòng để mua chuột, cai trị?Đến với họ, quen thân với người thượng cần nên giữ ý dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh, lừa dối, gạt gẫm, hãm hại, nhất là lãnh vực tình cảm yêu thương. Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả lòng tin. Tuy nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật chất lãn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng, cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp thấy.Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xã Pleiku khoảng 10 km. Một làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra, Pleikép chỉ là một ấp.Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành, mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng Ban CTCT) đi thế.Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dãy thức ăn bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP). Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, còn sống, máu tuơm . Hai ché rượu cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ và tôi). Hai dãy người dân hai bên đông đúc. Mọi người vổ tay hoan hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu (cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới. Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông chảy vào miệng, ngòn ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đã lộ ra trên mặt nước. Cơ thể đã nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đã sắp no phình. Tứ chi gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan văn võ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngã. Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. Còn tôi. Chết bỏ cũng phải ráng cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. Vì thể diện, vì danh dự, tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào uống và ăn. Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu. Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn. Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ) xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giã từ. Tôi cũng chào và từ giã bước ra. Lạng quạng, muốn ngã. Tên tài xế dìu tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại. Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về phòng tôi cũng không nhớ. Miên mang, dã dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến, tạm tỉnh, thiếu tá Quỳnh chỉ huy phó đến thăm. Động viên khen ngợi:
-Cậu đở chưa? Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ.Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đãi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ngòn ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua gì rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!...Cuộc đời binh ngiệp, trãi bao năm, tôi đã đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đã đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương tình người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giã chiến tranh là vậy.
Bây giờ không biết sao?
Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đã một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm.
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Quân trường Thủ Đức: Tuần Huấn Nhục

Cả chục chiếc xe nhà binh GMC chở 800 Tân Khóa Sinh vừa xấn vào sân cỏ rộng lớn Vũ Đình Trường thì cả bầy Huynh Trưởng đã nhào tới sủa ỏm tỏi:
- Chào mừng Đàn Em đến Thủ Đức!
Toàn tiếng la chứ không có tiếng nói:
- Đàn em nầy quờ quạng yếu đuối quá!
- Hít đất ! Vào thế !
- Vào thế !
- 20 cái đi ông !
Bên kia thì :
- Ông nầy nghe ông ! Nhảy xổm vào thế !
- Vào thế !
Đàn anh quánh thế phủ đầu đàn em khiếp đảm.
Cứ :
-Ông nầy nghe ông !
Là có :
- Vào thế !
Ỏm tỏi cả Vũ Đình Trường rộng lớn ! Không con chim nào dám lởn vởn lanh quanh!

Bỗng tiếng thét rùng rợn :
- Bên trái làm chuẩn, bốn hàng ngang, mười hàng dọc! Nhìn trước! Thẳng!
Đám đàn em lụi cụi đứng dậy quẩy bọc xắc-ma-ren, túi vải lớn đựng quần áo và vật dụng gia tài lên vai dớn dác lăng xăng xếp hàng.
Đám huynh trưởng lại hè nhau hét:
- Ông nầy xếp hàng vào đây!
- Ông kia xếp hàng sau lưng!
- Đàn em còn quờ quạng lắm!
- Ba mươi giây coi ông!
- Nghiêm!
- Thao diễn .....Nghỉ!
- Nghiêm!
Nghiêm! Thao diễn! Nghỉ!
Cứ nghiêm nghỉ như vậy, mà xẹt xẹt ba mươi giây đám huynh trưởng đã chia 800 khóa sinh làm thành 4 khối hình chữ nhật, tức là 4 Đại Đội hay một Tiểu Đoàn và là một khóa học huấn luyện thành Sĩ Quan cấp bậc nhí nhất trong hàng ngũ sĩ quan: Chuẩn Úy. Và vẫn thường hay có chữ Sữa theo sau chữ Chuẩn Úy vì tuổi lính còn non choẹt.
- Đàn em chuẩn bị?
- Sẵn sàng!
- Ba lô?
- Lên!
- Đằng trước, chạy đều. Bước!
- Một! Một! Một Hai Ba Bốn! Một!

Tiếng đếm Một của đàn anh rơi vào chân bên trái của đàn em nhịp xuống.

Sân Vũ Đình Trường sân cát , đường vòng quanh hình bầu dục dài được trải nhựa.
Tiếng rầm rập của giầy bốt đàn em đang nện xuống theo nhịp chạy quân hành.

- Đây khúc ca vang trong quân trường đầy hào hùng!
Vai ghé vai ta thi tài trong tình quân ngũ.
Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm.
Một hai ba bốn. Một hai ba bốn.

Đám đàn em vừa khệ nệ cái xắc-ma-ren vừa thở phì phò vừa chạy vừa ca.
Con đường vòng quanh thật dài. Con đường tương lai binh nghiệp nhắm chừng còn dài hơn gấp bội !

Rầm rập! Rầm rập! Một Hai Ba Bốn! Một Hai Ba Bốn!
Thở! Thở! Nóng! Nóng!
Mồ hôi chảy!
Vòng thứ nhất, tuổi trẻ còn gân!
Vòng thứ hai, tiếng ca nhỏ lại.
- Đàn em quờ quạng! Đàn em đàn bà! Ca to như huynh trưởng nè!
Năm, mười ông, hai ba chục ông huynh trưởng vừa hét vừa la.
Thủ Đức chỉ có dăm câu đầu môi thuộc lòng:
- Quờ quạng!
- Ba mươi giây!
- Hét to như huynh trưởng nè ông!
- Làm cho huynh trưởng coi!
- Ông hổng có tự tin hả ông?
- Ông nầy nghe ông! - Cứ nghe: Ông nầy nghe ông, là biết có chuyện!
Vòng thứ ba, đàn em bá thở đàn em té lụi đụi. Có ông té thiệt, có ông té vờ. Tui cũng vờ mà té. Hổng té trước cũng té sau. Nằm đó thở, hí hí mắt coi tình hình có êm dịu?
Đám huynh trưởng, vài người chạy trước đoàn quân, hai ba gã chạy song song, vài gã chạy sau lưng. Hễ có đàn em nào té cái đụi là có huynh trưởng tới liền nạt nộ:
- Đàn em giả bộ hả? Đứng lên coi! Đàn em yếu đuối! Đứng lên!
Có thằng đàn em bẽn lẽn cười cười đứng lên chạy tiếp.
Có thằng đàn em phì phò sôi nước bọt trợn con mắt.
Huynh trưởng ngó ngó thấy còn sống thì huynh trưởng tiếp tục chạy theo đoàn quân.
Đoàn quân theo số vòng sân tăng lên, số đàn em rơi rụng cũng tăng theo.
- Đứng lại! Đứng!
- Nghiêm!
- Thao diễn.....Nghỉ!
Lại tiếng thét:
- Đàn em đó nghe! Đàn em yếu đuối! Huynh trưởng nè! Huynh trưởng chạy 80 vòng cũng chưa mệt!
Đàn anh cũng xạo dữ!
- Tan hàng!
- Cố gắng!
Đám đàn em tản ra nằm dài hai bên đường nhựa, phì phèo thở. Chưa đủ ba mươi giây thì có tiếng thét :
- Đại đội! Tập hợp!
- Bên trái làm chuẩn! Nhìn trước! Thẳng!
Huynh Trưởng đưa một đại đội hai trăm thằng đàn em về doanh trại, mở đầu cho Tuần Huấn Nhục.

Đó chỉ mới là Chào Sân.
Sân Đại Đội 34, sân đất hình chữ nhật, bốn Trung Đội xếp thành hàng chữ U, có cái đáy ngang dài gấp đôi hai cái nét xổ xuống, mỗi Trung Đội vậy là có 50 cái đầu húi cua đang ngơ ngác ngỡ ngàng chờ cơn giông đến.
Cơn giông đến ngay tức khắc :
- Trung Đội Một ! Nghe lệnh tôi ! Bên trái làm chuẩn !
Ông đứng bên tay trái của đoàn quân được một huynh trưởng đẩy vào một vị trí cố định bèn đưa thẳng cánh tay trái lên, để mấy con gà tử mị còn lại nhìn theo điểm chuẩn ấy mà xếp hàng.

-Bốn hàng ngang, mười hai hàng dọc. Nhìn trước ! Thẳng !
Bây giờ nhơn qua nhơn lại là mới có 48 chàng tuổi trẻ đẹp trai, còn dư hai em ! Hổng lẽ Quân Đội gửi về lại với cha mẹ ? Hông ! Huynh Trưởng Thủ Đức chơi nhét hai em đó vào sau lưng hai hàng cuối. Tuổi trẻ nào cũng có chỗ đứng để phụng sự tổ quốc.

- Bên trái ! Quay !
Đàn em quính quíu, đàn em xoay trái. Có đàn em quíu hơn nữa, đàn em xoay qua......phải !
Huynh trưởng nhào tới nạt nộ liền :
- Đàn em quờ quạng hả ? Đàn em không biết phải trái hả ? Bước ra đây coi ông ! Huynh Trưởng muốn đàn em đưa tay phải lên rồi la lớn : Đây là tay phải ! Rồi đưa tay trái lên : Đây là tay trái ! Hai chục lần đi ông !!
- Tuân lệnh ! Đây là tay phải của tôi ! Đây là tay trái của tôi ! Đây là tay phải của tôi ! Đây là .....Đây là.....!!
Tự nhiên trong buổi chiều vàng hanh nắng dưới bóng râm của tàn cây bã đậu, có chàng tuổi trẻ vung tay thề nguyện phải trái với quê hương.

- Trung Đội Hai ! Nghe lệnh tôi !
- Trung Đội Ba ! Nghe lệnh tôi !
- Trung Đội Bốn ! Nghe lệnh tôi !
Xẹt xẹt ! Ba mươi giây, 6 Huynh Trưởng hướng dẫn đã xấp xếp Đại Đội thành hình chữ U đối diện nhau, nhìn về cùng một hướng! Hướng kỷ luật !
Trên bục gỗ cao có ông Huynh Trưởng quân phục chỉnh tề ủi hồ bóng loáng, uy nghi thẳng người thế nghiêm, hai tay thả dọc bên hông, hai ngón tay cái duỗi thẳng theo hàng chỉ của ống quần, trong khi bốn ngón tay kia nắm lại.
Huynh Trưởng đôi giày láng cón, lấy tay quơ quơ thấy được phản xạ lung linh. Năm Huynh Trưởng kia cũng cùng một nhân dáng uy nghi nể vì.

Huynh Trưởng trên bục thót bụng, ưỡn ngực thét lớn, người rung rinh :
- Đại Đội ! Theo lệnh tôi ! Hàng sau bước lùi hai bước ! Bước !
Vậy thì đoàn quân đã được mở rộng khoảng cách, để :
- Hít đất vào thế !
- Vào thế !
-Một ! Xuống
- Lên !
- Hai ! Xuống
Hai trăm con người rạp trên sân cát, nhấp nhổm cái mông, học bài Nạn Chung !
Chiều tàn tàn, chiều chưa tối.

Huynh Trưởng dẫn đàn em đi ăn nhà hàng.
- Rầm Rập ! Rầm Rập !
- Một Hai ! Một Hai Ba Bốn !
Tuần Huấn Nhục, đàn em không biết đi ! Đàn em phải chạy đều khi di chuyển trong doanh trại.

Doanh trại rộng rãi và đẹp đẽ, nhiều hàng cây bã đậu mọc đều thẳng tắp hai bên những con đường trải nhựa sạch sẽ, có vô số khóm hoa tươi sắc màu như an ủi cho đời binh nghiệp bớt khô cằn hơn.

Huynh Trưởng hướng dẫn là Đại Huynh Trưởng.

Còn Siêu Huynh Trưởng thì sắp sửa rời trường đi nhận đơn vị nên mặt ông nào ông nấy như cái bánh bao, đầy vẻ suy tư lo âu.
Nhất là những ông chọn đơn vị tác chiến thì thư tình, di chúc viết tá lả phòng ngừa cho những trường hợp tệ nhất !
Còn đâu những tuần về phép, mặc đồ vàng, giầy láng bóng, dây biểu chương vắt vai, đưa em vào quán nước kể chuyện tình thơ !
Siêu Huynh Trưởng đi đứng phất phơ, chẳng buồn phạt ai !

Đại Huynh Trưởng thì như con diều đang lên, thả nút chặn khắp nẻo đường doanh trại khi chiều về, chận các khóa đàn em đang thả rong xuống Khu Gia Binh uống cà phê cà pháo để kiểm soát quân phục và quân phong hay để phạt chơi chơi vậy hà !
Phân biệt nhau là màu bảng tên trên áo và màu khăn Tiểu Đoàn.
Di chuyển trong doanh trại không được đi một mình. Phải nhập bọn hai người trở lên. Người đi trước có nhiệm vụ đếm nhịp và chào kính khóa đàn anh hay sĩ quan cơ hữu. Trên hai người thì phải có người đi ngoài hàng làm nhiệm vụ đó .

Tới Nhà Ăn.
- Đại Đội theo lệnh tôi ! Nón ?
Tất cả đồng thanh thét to :
- Xuống !
Cúi xuống cho đều, đặt nón sắt ngay trước mũi bàn chân mình. Cúi xuống không đều hả ? :
- Nón ?
- Lên !
Cúi xuống, cúi xuống cho đều hả ? Đứng lên, đứng lên cho đồng hả ? Cũng vẫn là Cúi Xuống Đứng Lên chục bận. Huynh Trưởng biểu : Làm vậy ăn cơm ngon hơn !
- Một hàng dọc ! Đằng trước ! Bước !
Lên bậc tam cấp phải chào nhà hàng một cái, tỏ lòng cám ơn Nhà Bếp công khó lửa củi.

Công em chụm củi nấu khoai
Khơi thêm lửa bếp tro tàn bay xa
Mắt em ướt thấm vành mi
Vì tro tàn ấy hay là vắng anh ?

Một hàng dọc đi vào. Im lặng tuyệt đối ! Im lặng tuyệt đối ! Không hả ? Cả bọn lãnh đủ. Lại Nạn Chung !

Nhiều dãy bàn dài, thức ăn dọn sẵn. Những băng ghế ngắn vừa đủ bốn người, đặt dưới gầm bàn.
Mọi người vào hết, vẫn còn hướng mặt về cuối phòng. Đứng đó ! Thế nghiêm ! Đợi !

- Đại Đội theo lệnh tôi ! Tiếng thét của ông Huynh Trưởng như tiếng gầm sấm sét, ông nào cũng có buồng phổi to !
- Hàng bên trái làm chuẩn ! 1,3,5,7 ! Hàng lẽ ! Bên phải ! Quay !
- Hàng chẳn ! Bên trái ! Quay !
Xẹt ! Xẹt ! Huynh Trưởng đã hóa phép cho đàn em đối diện nhau qua mâm thực phẩm. Đàn em sáng giờ đói bụng muốn xỉu. Bị chạy Một Hai Ba Bốn, bị bò lết, bị nhẩy xổm, bị nhảy dựng, bị vào thế tối tăm mặt mũi. Nay, trước mặt, món đồ xào lòng heo nức nở, món canh mướp ngọt lịm vô ngần, mùi tiêu sọ xay nhuyễn bức lên rụng mũi. Vậy mà ! Huynh Trưởng vẫn chơi cái tình vờ :
- Ghế chuẩn bị ?
- Ghế sẵn sàng !
- Ghế ?
- Ra !
Bốn chú đàn em mặt mày bơ phờ, thò ra mỗi người hai cánh tay, tổng cộng là 8 nhẹ nhàng khiêng cái băng ghế ra. Không một tiếng động nha ! Không một cái kẹt nha ! Mà một hàng ghế đó phải thẳng thớm nha ! Một cái rẹt của tiếng ghế hả ? Thì :
- Ghế chuẩn bị ?
- Ghế sẵn sàng !
- Ghế ?
- Vô !
Lại khởi sự từ đầu ! Hai trăm đàn em khốn khổ nín thở làm hài lòng Huynh Trưởng. Để :
- Chân trái bước tới một bước ! Bước !
Hai trăm cái chân trái đồng loạt bước qua băng ghế. Không một tiếng động à nha ! Tiếng động hả ???
- Chân phải bước tới một bước ! Bước !
Vậy là hai chân đã lọt được vào giữa cái ghế và cái bàn có buổi cơm hấp dẫn đang mời mọc. Đừng đàn em nào quờ quạng làm rầm rầm ngheo ! Phải trở lại từ đầu thì gõ hoài từ đây đến sáng cũng chưa hết chuyện ăn cơm !
- Ngồi ?
- Xuống !
- Đứng ?
- Lên !
Lại còn cái lấp lửng giễu cợt đứng lên ngồi xuống dăm ba lần, để chắc chắn đàn em phục tùng Huynh Trưởng, phục tùng kỷ luật nhà binh !
- Mời đàn em dùng cơm !
Hai trăm con người hớn hở đồng thanh hét to :
- Mời Huynh Trưởng dùng cơm !

Bữa cơm đầu ! Bữa cơm trần ai !
Như nhiều bữa cơm đời, trệu trạo không trôi !
Gọi là tuần huấn nhục, chứ thật sự nó kéo dài gần cả tháng. Không ngày nào giống ngày nào, vì hôm nay có thể bị hít đất thì ngày mai có thể bị nhảy xổm. Chỉ có điều giống nhau là : Ngày nào cũng bị phạt từ sáng sớm đến tối mịt. Có nhiều đàn em bị phạt ô vờ tham - over time- nữa, gọi là dã chiến.
Huynh Trưởng suốt thời gian đó, chỉ trao tặng đàn em chữ : Phạt !
Đàn em suốt thời gian đó, chỉ nghiền ngẫm mỗi một chữ : Chịu !

Hoét ! Hoét ! Hoét !
Tiếng tu huýt hoét lên õm tỏi, trời chưa sáng, sương còn e lệ chưa tan.
Huynh Trưởng đã hùng hổ rần rộ xông vào 4 phòng ngũ của 4 Trung Đội đánh thức đàn em dậy :
- Tập hợp ! Tập hợp !
- Hoét Hoét ! Hoét Hoét !
Giấc ngũ không mộng mơ, giấc ngũ vùi vì mệt mỏi của ngày hôm qua hao tổn thể lực bị mấy cái họng oang oang của Huynh Trưởng dựng đầu dậy.
Đàn em hoảng hồn, đàn em mất vía, đàn em mắt nhắm mắt mở chạy ra tập hợp.
Cũng giọng thét vang uy quyền :
- Đại Đội ! Theo lệnh tôi ! Đằng trước chạy đều ! Bước !

Cũng con đường trãi nhựa bao quanh Vũ Đình Trường, con đường chạy bộ tập thể dục buổi sáng của tất cả Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức ngay từ ngày đầu tiên mới vô mãi cho đến ngày cuối cùng mãn khóa.
Con đường thật phẳng thật đẹp thật mát, con đường đó chỉ đến ngày mãn khóa mới trở thành con đường tình tự, đôi tình nhân tay nắm, bước bên nhau lần cuối giã từ.
Con đường mà thân quyến các Tân Chuẩn Úy trầm trồ khen ngợi, chứ không biết rằng bao nhiêu mồ hôi đã đổ xuống trong bao nhiêu tháng ngày để con đường láng bóng hơn.
Còn thì, con đường đó là con đường sửa soạn cho thanh niên tuổi trẻ chập chững bước vào trách nhiệm, phụ gánh gồng Tổ Quốc cùng đàn anh.

Rầm Rập ! Rầm Rập !
Một Hai Ba Bốn !

Quân trường đổ mồ hôi.
Một !
Chiến trường bớt đổ máu
Cố lên ! Cố lên !
Dù nhọc nhằn !
Đem mồ hôi pha máu hồng, viết thành sử xanh
Một Hai Ba Bốn ! Một Hai Ba Bốn !

Từng Đại Đội, từng Đại Đội tiếp nối nhau đếm nhịp chạy đều, giọng quân ca trầm hùng trong buổi sáng tinh mơ nghe vòng vọng như sóng thủy triều cuồn cuộn ngân nga.
Bao nhiêu con chim mê ngủ bổng giật mình thức giấc, kêu quát một tiếng ngạc nhiên rồi vỗ cánh bay mất.

Hai vòng Vũ Đình Trường đối với tuổi trẻ bây giờ dể dàng như giấc hiu hiu. Mồ hôi ra tí xíu !

Đoàn quân về lại sân Đại Đội.

Vẫn như thường lệ, Huynh Trưởng hướng dẫn không biết nói, chỉ biết hét:
- Đàn em đó!
Ngưng chút để thở :
- Đàn em có 30 phút làm vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Tan hàng !
- Cố gắng !
Đàn em túa ra thật lẹ, cố gắng cho thật nhanh vì đàn em biết sau 30 phút tự do phù du nầy, thì Cơn Bão Sẽ Đến.

Cơn bão đến, cơn bão thịnh nộ dử dằn !
Cơn bão quát :
- Nghiêm !
Âm " iêm" vang vọng xa xa.....treo trong không khí, lọt vào lổ nhĩ, đàn em cứng mình ưởn ngực không dám phì phò thở.
- Ông nầy nghe ông !
Âm " ông " kéo dài gần bằng âm " iêm ", đàn em mất vía, đàn em muốn nhắm mắt lại để đừng thấy tai họa giáng xuống đầu mình.
- Ông bước ra đây, trình diện Huynh Trưởng coi ông !
- Tân Khóa Sinh Tám Mõ Lết, số quân 123456 trình diện Huynh Trưởng. Chờ lệnh !
- Ông nói nhỏ quá ông! Ông đang ngâm thơ hả ? Ông lại trình diện gốc bã đậu 20 lần coi ông ! Ông hét cho lá đổ coi ông !

Năm, sáu đàn em đang xúm quanh cây bã đậu trợn mắt hét to, mong cho lá đổ.
Lá bã đậu xanh mun, cuối xuống nhìn đàn em, ái ngại !

- Huynh Trưởng kêu đứng nghiêm, mà ông nhúc nhích hả ông ? Trùm poncho đi ông !

Đàn em ba lô, nón sắt, trùm nguyên cái ponso, vác súng leo lên mô đất cao, cùng với năm bảy ông đứng sẳn, tay bắt súng chào, làm tượng đá chơi vơi giữa trời trưa chiếu nóng.

Anh một đời đứng nghiêm
Canh em giấc ngũ
Anh một đời yên lặng
Ngắm mi em cong

Anh một đời lở dở
Nhìn bước em đi
Anh còn ở lại
Tượng đời bơ vơ.

-Ông hít đất kiểu gì kỳ vậy ông ? Đàn em ma giáo hả ? Đàn em đưa súng lên trời, chạy 20 vòng sân Đại Đội : Tui không ma giáo nữa đi ông !

Đàn em tham gia vào bảy, tám ông đang sòng sọc hai tay cầm khẩu súng đưa lên khỏi đầu, chạy vòng vòng sân Đại Đội : Tui không ma giáo nữa ! Tui không ma giáo nữa ! Nếu ma giáo được, tui xin chơi liền !

-Đàn em biết chào tay hông ông ? Chào như Huynh Trưởng nè !
Người đứng thẳng, ngực ưởn ra, bụng thót lại. Tay phải duỗi thẳng về bên phải, tạo góc 90 độ ở nách. Gấp khúc tay từ khuỷu đến bàn vào ngay đuôi chân mày, ngón cái xếp lại, bốn ngón kia thẳng ra.
- Sao mu đàn em cong cong vậy ông ? Đàn em là thục nữ hả ? Đàn em lại đập tay vô cây bã đậu cho nó thẳng ra đi ông : Tui không phải là thục nữ đi ông !
Thân cây bã đậu nhiều mục gai lổm chổm, nhưng với thời gian, một khoảng bóng loáng hiện ra, không một mục gai nào mọc lên nổi. Ít nhất những khóa đàn anh đã dọn dẹp được giùm một số nhăn nhó của cuộc đời.
-Bốp ! Tui không phải là thục nữ !
-Bẹp ! Tui không phải là thục nữ !
-Thụt ! Tui thì yêu thục nữ !

- Đàn em hổng biết đếm hả ông ? Đàn em cầm que diêm này đo hết sân Đại Đội cho Huynh Trưởng coi coi ông !

Đàn em nhập bọn với bảy tám ông khác đang lết lết tẩn mẩn đo sân cát Đại Đội bằng que diêm quẹt.
- Tân Khóa Sinh Lê Dử Dội, số quân....trình diện Huynh Trưởng. Xin nói !
- Nói đi ông !
- Thưa Huynh Trưởng, đàn em đo được mười ngàn lẻ sáu que diêm.
- Đàn em đo quờ quạng ! Hồi đó Huynh Trưởng đo, đâu phải mười ngàn lẻ sáu đâu ông ? Đo lại đi ông !
Thiệt tình ! Đến bây giờ, tui cũng vẫn còn tin là mười ngàn lẻ sáu, nhưng ai biết được ai đo thật ai đo vờ !

Vậy thì trên sân cát Đại Đội, cảnh tượng thật um xùm kẻ khóc người la, kẻ phân trần với gốc bã đậu về giới tính của mình, người chạy vòng quanh hứa hẹn, ông thì trầm ngâm đứng lặng giữa trời, còn đa số là đang đứng nghiêm chết lặng đợi mở hàng học bài Chịu Chung.
Có nhiều lần bị quần thê thảm, tui liếc con mắt lén nhìn Huynh Trưởng : " Tao nhớ mặt mầy rồi ! Mai mốt gặp ở đâu, tao quánh mầy thấy tía ở đó ! " Như đến phiên tui được chọn làm Huynh Trưởng hướng dẫn khóa đàn em, tui cũng thấy nhiều cái liếc mắt hăm dọa như thế !
Nhưng
Huynh Trưởng vẫn uy nghi đứng đó, thẳng người hai tay thả dọc bên hông, bàn tay nắm lại, hai ngón cái duỗi ra theo đường chỉ ống quần.
Nón nhựa Huynh Trưởng sáng bóng, khoảng cách từ chóp mũi đến vành nón là 3 ngón tay trỏ, giửa và áp út khép lại, nên mặt Huynh Trưởng phải kênh lên để thấy đường, tạo ra dáng phong nghiêm chi lạ.
Huynh Trưởng vẫn gầm lên :
- Đại Đội theo lệnh tôi ! Nghiêm !
Huynh Trưởng muốn quê hương và đất nước chỉnh tề theo thế Nghiêm cùng Huynh Trưởng. Nhưng rủi thay.....!!!

Huynh Trưởng hôm nay kẻ mất người còn .
Huynh Trưởng đi vào lòng đất mẹ như bài tập quân hành ngày xưa.
Huynh Trưởng chạy xong con đường Vũ Đình Trường đầy bóng mát lẫn khổ đau bằng những bước nhiệt thành của tuổi trẻ.

Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng !

Huynh Trưởng còn ở lại. Huynh Trưởng bùi ngùi !

Trần T Kiệt.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Tháng Tư Máu Và Nước Mắt
Mũ Nâu Đoàn Trọng Hiếu
Cầm sự vụ lệnh của Tiểu doàn 86 về trình diện BCH/LĐ8 để nhận nhiêm vụ Trưởng ban 2 vào những ngày cuối tháng 4 này thật chẳng hứng thú chút nào. Một nhiệm vụ không mấy thích hợp với cái ám số chuyên nghiệp bóp cò của tôi. Nói như thế không phải là tôi không biết gì về tình báo, tuy nhiên có một đơn vị trong tay để mặc sức đánh đấm vẫn thú hơn nhất là vào lúc dầu sôi lửa bỏng này.

Từ sau mùa hè đỏ lửa, bằng những đòn phép chính trị và cắt giảm viện trợ quân sự để ép chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải ký kết Hiệp Định Paris, người lính VNCH đã phải chiến đấu trong đơn độc, thiếu thốn. Làm sao chúng ta có thể chống đỡ lại hàng mấy chục sư đoàn với nguồn viện trợ có thể nói là hầu như vô tận của cả khối Cộng Sản để hòng cưỡng chiếm Miền Nam biến cả nước thành chư hầu của Nga và Tàu cộng.

Trời cuối tháng tư nắng cũng chưa gay gắt lắm, nhưng cơn sốt chính trị và tình hình sôi động của chiến trường làm cho không khí ngột ngạt khó thở. Từ sau cuộc triệt thoái Cao nguyên của Quân Đoàn II, đến cuộc di tản cuả QĐI ,rồi phòng tuyến Phan Rang thất thủ, sau cùng là hai trái bom CBU thả xuống mặt trận Xuân Lộc cũng chỉ làm chúng khựng bước tiến quân trong một ít ngày.

Mấy ngày nay người ta đã nói đến chuyện có nhiều chuyến bay,chuyến tàu chở gia đình sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu và Không Quân ra Phú Quốc. Mấy hôm trước chị San và chị Thiệu lên thăm các anh đã đề cập đến chuyện nhiều người đã bỏ đi Mỹ, lúc đó anh San đã cứng rắn trả lời: “Tại sao lại phải bỏ đi? Nếu VC vào đây thì bọn này sẵn sàng đi vác đường rầy xe lửa”. Ừ tại sao lai phải bỏ đi nhỉ, cùng lắm thì mươi mười lăm năm tù, cũng nhờ suy nghĩ như vậy mà tôi đã không bị sốc khi chúng tuyên bố chỉ đi 10 ngày mà tôi đã gỡ gần 8 cuốn.

Ngày 26/4/75, tôi tạt về thăm gia đình ở Biên Hòa, cả thành phố đang giao động, dân chúng đổ đầy ra đường để tìm cách chạy về Sài Gòn, các ngả đường đều bị Quân Cảnh phong tỏa, Mẹ tôi bảo tôi

- Mày nên ở lại nhà. Tình hình này Mẹ thấy nguy hiểm lắm,vợ mày một nách hai đứa con nhỏ làm sao nó lo nổi.

Nghe mẹ tôi nói vậy, tôi trấn an gia đình

- Thầy Mẹ và gia đình không nên đi đâu hết. Trữ lấy ít đồ ăn và ở nhà. Chạy về Sài Gòn cũng thế thôi. Nhiều khi tên bay đạn lạc giữa đường cũng chẳng biết chừng. Còn con thì phải trở về đơn vị.

Vâng! Nhất định tôi phải về đơn vị, tôi đã tình nguyện đi lính trong khi tôi vẫn có thể ngồi ở ghế nhà trường thêm vài năm nữa. Mười ba thằng khóa 4/68 chúng tôi đã “ liếm lông cọp” chứ không phải “ bị cọp liếm”. tôi yêu đời lính, yêu binh chủng, yêu bạn bè chiến hữu, và hơn tất cả là tôi yêu mảnh đất này, nếu tôi ở lại nhà thì sau này còn mặt mũi gì nhìn lại anh em.

Hai tuần trước đây khi ghé thăm Tr/u Nghị (Nghị làm đại đội phó cho tôi lúc tôi ở 52) ở bệnh viện tiểu khu Bình Dương nó đã tự bắn vào tay để được cùng tải thương với em nó là Th/u Công tử trận tại Chơn Thành về, tôi đã nhẹ nhàng trách nó sao nỡ rời đơn vị trong lúc này, nó nói với tôi “ Minh Hiếu yên tâm, ngày mai sau khi chôn thằng Công tại Nghĩa Trang Quân Đội xong tôi sẽ về thẳng đơn vị”, nói rồi nó giơ cái bàn tay còn đang rỉ máu nói tiếp: “ còn cái này thì nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ”. Nó đã cùng đơn vị ra Phan Rang để rồi bị bắt tại đó.

Tôi về đến đơn vị lòng thật thanh thản, tôi đã vượt qua được cái tầm thường dù rằng cũng chẳng làm được điều gì phi thường.

Đêm 29/4, địch tấn công toàn bộ các đơn vị của Liên Đoàn, BCH/LĐ bị pháo suốt đêm khiến hầm chỉ huy bị sập một góc, cái tháp canh cao hơn 10 mét bị gẫy gục, một Ch/u và hơn 10 binh sĩ của ĐĐ8 trinh sát hy sinh. Bọn VC bám vào khu nhà dân ở chợ Bà Hom, cũng như những lùm tre bên kia xa lộ Đại Hàn bắn B40, B41 và 57 như mưa khiến pháo binh trong căn cứ tác xạ yểm trợ cho các đơn vị bên ngoài thật khó khăn.

Tiểu doàn 87 do Thiếu tá Mạnh làm tiểu đoàn trưởng, sau một ngày một đêm cầm cự trong khu Lý Văn Mạnh, đã phải triêt thoái sáng sớm ngày 30. Tiểu đoàn 84 của Thiếu tá Nam bị địch tấn công từ lúc nửa đêm bằng chiến xa và bộ binh, đến gần sáng thì bị tràn ngập, Trung Úy Nguyễn Văn Quan trưởng ban 3 tử trận, Quan khóa 2/68 trên tôi hai khóa, chúng tôi tình cờ gặp nhau trong nhiều khóa học, từ khóa 40 RNSL đến khóa 3/70 tiền sát viên pháo binh, gấn đây nhất là khóa 3/74 Bộ Binh Trung Cấp mà Quan thường gọi đùa là “ Bắn Bỏ Thượng Cấp”

Riêng Th/tá Nam lời sau cùng anh nói trước khi triệt thoái khỏi đồn Vĩnh Lộc “ tao sẽ cố đến gặp mày” tức là anh sẽ triệt thoái về với BCH/LĐ, nhưng rồi chỉ hơn mười phút sau một tên “đồng chí Nam bộ” nhẩy vào tần số liên lạc hét lớn thật sắt máu

-Tao bắt thằng Nam rồi, tụi mày đầu hàng đi thì sống.

Như điên lên, tôi chụp ống liên hợp mở ngay một cuộc đấu võ mồm

- Mày có ngon thì ra khỏi số nhà tao đi để tao điều động mấy đứa em rồi đánh tiếp.

- Tao là Phong quận 10 đây, mày ra bao nhiêu tao bắt bấy nhiêu

- Tao đếch cần biết mày là Phong quận 10 hay 11, mày ngồi thở đi rồi đánh xả láng sáng về sớm.

Tôi cố liên lạc với Th/t Nam nhưng không được, anh đã bị chúng bắt, sau này chúng tôi cùng gặp nhau lại ở Tân Lập Vĩnh Phú.

Một phi tuần Skyraider được gởi lên vùng nhưng một chiếc đã bị bắn rớt phía cầu Bình Điền, riêng chiếc AC119 sau khi yểm trợ cho chúng tôi trên đường về bị trúng SA7 bốc cháy trên không, sau này khi đi tù tôi được biết người phi công dũng cảm ấy là Tr/u Thành tức Thành Kampuchia, xin được một lần tạ ơn anh, anh đã không bay sang Thái Lan như một vài người đã làm mà ở lại với chúng tôi, thân xác anh đã hòa lẫn vào không gian trong giờ phút hấp hối của Miền Nam.

Khoảng 10 giờ sáng, chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với Biệt Khu Thủ Đô, cũng như với BTL/SĐ106 BĐQ, Trung tá Chung Thanh Tòng mới về đảm nhiệm chức vụ liên đoàn trưởng mới có mấy ngày hỏi tôi

- Từ sáng đến giờ, đại úy có mở radio nghe xem có tin tức gì không?

- Thưa trung tá, không. Từ đêm đến giờ quá căng thẳng nên đâu có nghĩ đến chuyện đó, thằng 84 đã mất liên lạc hoàn toàn, hai đứa con nằm ngoài trong khu Chợ Đệm của thằng 86 cũng mất liên lạc, Trung tá có ý định thế nào?

Trầm ngâm giây lát ông quay sang Trung tá Trịnh Thanh Xuân liên đoàn phó nói như dò hỏi

- Mình mất liên lạc với mọi nơi, theo tôi mình nên bỏ nơi này rút về phòng thủ khu Tân Phú, ý ông thế nào?

Trung tá Xuân trả lời rất tự tin

- Cách đây hơn nủa tháng, chúng tôi đã nghiên cứu địa hình khu vực này và được cha Đinh Xuân Hải dẫn đến các cao ốc chung quanh,nơi đây có thể tạm cầm chân bọn chúng được, nhưng phải yêu cầu dân chúng ra khỏi vùng.

Quyết định đến thật nhanh vì không còn chọn lựa nào khác, Tr/t Tòng nói với Tr/t Xuân

- Anh ra với thằng 87,tôi sẽ đi với phần còn laị cuả thằng 86, Đại úy Hiếu đi yêu cầu các pháo đội pháo binh trưc xạ tối đa vào khu chợ Bà Hom, cũng như các lùm tre bên kia xa lộ Đại Hàn trong vòng 10 phút, rồi phá hủy súng. Anh cũng xuống báo cho thằng 86 chuẩn bị mở đường máu ra.

Tôi chạy vội xuống các pháo đội pháo binh truyền lệnh. Hai pháo đội 105 và một pháo đội 155 bắn như mưa. Địch cũng bắn trả bằng các loại B40, B41. Súng nhỏ cũng bắn như vãi đạn vào căn cứ, tôi lao vội vào hầm chỉ huy của Tiểu đoàn 86 gặp T/tá Trấn Tiễn San tiểu đoàn trưởng và T/tá Đoàn Đình Thiệu tiểu đoàn phó, sau khi truyền đạt lệnh, tôi thấy T/tá Thiệu ghé miệng vào cổ áo định lột cặp lon bằng vải và nói

- ĐM, nếu moa chết thì không có gì để mà phải sợ. Nhưng nếu bị bắt moa không muốn nó biết cấp bậc rồi điều tra hành hạ mình.

Ngay lúc đó anh San lên tiếng và cản lại

- Moa thì nghĩ chết cũng thiếu tá mà nếu bị bắt thì cũng thiếu tá sợ đếch gì.

Giá lúc bình thường thì tôi cũng tán láo vài câu cho vui, nhưng trong tình hình này tôi chỉ chào và nói “ chúc may mắn” rồi chạy nhanh về trung tâm hành quân. Tiểu đoàn 87 bắt đầu phóng nhanh qua bên kia xa lộ, súng nổ thật dữ dội, nhưng chỉ ít phút sau thì lại một tên “Nam Bộ” hét vào trong máy

- Tao trói thằng Xuân, thằng Mạnh vào gốc tre rối, tụi mày đầu hàng đi thì sống.

Trung tá Tòng đưa mắt nhìn tôi rồi ra lệnh cho tiểu đoàn 86 và ĐĐ8TS cùng xông ra, BCH/LĐ và anh em pháo binh bám sát theo hy vọng phá được một lỗ hổng để thoát đi, nhưng vừa băng qua đường được gần 100 mét thì BCH TĐ86 bị thiệt hại nặng, T/tá Thiệu tử trận, T/tá San bị thương. Đại úy Viễn trưởng ban 3 mới 24 tuổi hai lần đặc cách tại Tống lê Chân đang đột phá vòng vây. ĐĐ 8TS cũng cùng nhất loạt lao thẳng vào vị trí địch ,tôi theo chân Tr/úy Khánh đại đội trưởng (không nhớ có đúng tên không) cây M16 trên tay tôi rung lên từng chập,may mắn thay tôi và một số anh em đã đạp qua đầu chúng thoát đi được, nhưng Khanh và gần nửa đại đội đã không qua được chẳng rõ số phận ra sao, Viễn cùng vài chuc anh em cũng thoát đi được nhưng nó bị trúng đạn gẫy tay, tôi phóng sang kéo nó chạy nhưng nó đòi tự sát tôi phải giựt cây súng quăng đi và nói:

- Đ m ! mày phải sống để còn lo cho tiểu đoàn chứ, việc gì phải làm như vậy.

Tôi lôi nó chạy ngang một bãi dưa gang, bứt vội một quả đưa lên miệng nhai ngấu nghiến trong cơn khát cháy cổ vi ngọt của nó làm tôi tăng sức vùng lên để sống còn, đưa phần còn lại cho Viễn, tôi vừa lôi nó chạy vừa bắn ngược lai phía sau, vì bọn VC đang rượt nà theo. Cây M16 đã theo tôi suốt cuộc đời lính, nó đã cứu tôi nhiều bàn thua trông thấy. từ ngày hành quân vượt biên sang lảnh thổ Kampuchia cho đến 3 tháng tử thủ An Lộc,giờ đây nó đang giúp tôi tự tin hơn trong cuộc chiến mà ranh giới của sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc này.

Vài chiếc chiến xa trên xa lộ đã lao xuống ruông để tham gia cuộc truy kích. cây 12 ly 8 nổ nghe nhức nhối phía sau và đạn rít qua đầu cũng như cày trước mặt.

Cái cánh đồng trống dài hơn một cây số này sao mà dài thế. chúng tôi như những lực sĩ chạy băng đồng, chay Marathon với cái chết. sau này khi xem phim “The Black Hawk down”, tôi như sống lại cái ngày hôm đấy. Những chàng Ranger Mỹ cũng chạy như chúng tôi, nhưng họ may mắn còn có chỗ để về còn chúng tôi thì không, vào gần đến bìa làng thì gặp được hơn 50 anh em thuộc TĐ 87 trong đó có Đại úy Thắng tiểu đoàn phó và Đại úy Phước trưởng ban 3. Chúng tôi tiếp tục chạy sâu vào phía trong, nhưng khi đến con lộ đất đỏ trước mặt thì chúng tôi khựng lại, quân Bắc Việt dàn đầy phía bên kia đường, họ yêu cầu chúng tôi buông súng, ngay lúc đó một chiếc xe jeep mang dấu hiệu của TĐ 87BĐQ chạy đến, trên xe treo cờ “giải phóng”, khoảng sáu người trên xe mang băng đỏ tay cầm AK trong số này có một phụ nữ, tôi đến gặp họ và yêu cầu cho chúng tôi về trường đua Phú Thọ rồi chúng tôi sẽ buông súng, và để tỏ thiện chí chúng tôi sẽ tháo băng đạn và đeo súng vào vai, tên ngồi ghế trưởng xa bước xuống trao đổi gì đó với mấy tên chỉ huy của tụi bộ đội, sau đó họ đồng ý và ra dấu cho chúng tôi đi theo sau chiếc xe jeep

Chúng tôi, khoảng ngót 150 anh em đi hai hàng dọc giữa đường, đi kè hai bên đường khoảng ba bốn chục tên VC súng chĩa vào chúng tôi, di chuyển được chừng vài chục thước thì bỗng Trung Tá Tòng xuất hiện và nhập vào đoàn quân, mừng quá tôi sáp lại phía ông báo cáo tình hình và ý định của chúng tôi, ông gật đầu khẽ nói; “ các toa cứ làm như vậy”.

Chúng tôi đến trường đua Phú Thọ vào khoảng 2 giờ chiều, chỉ thấy xe cộ súng ống ngổn ngang, một đám cách mạng 30 đa số là con nít mười lăm mười sáu tuổi đang lấy súng bắn tứ tung. Thấy chẳng còn ai hết Tr/tá Tòng bảo tôi ra yêu cầu họ cho về BCH ở đường Tô Hiến Thành, bọn chúng đồng ý, chúng tôi lại lầm lũi đi lòng buồn rã rượi chẳng ai nói với ai điều gì, khi đến gần BCH/BĐQ/TW thì có một người đi xe Honda chạy ngang nói nhỏ “họ bắt Tướng Giai rồi”, nghe như vậy nên chúng tôi tạt vào một doanh trại sát canh BCH, buông vũ khí tại đây, chúng tôi ngậm ngùi ôm nhau khóc, một vài anh em níu áo tôi mếu máo

- Đại úy đi đâu cho tụi em theo với.

Trời ơi tôi biết đi đâu bây giờ,tôi nghẹn ngào nước mắt cứ tuôn trào

- Mình thua rồi. Cám ơn anh em đã cùng chúng tôi chiến đấu đến giờ phút này, anh em hãy về tìm thân nhân đi, tôi cũng vậy. Đừng sợ! họ không giết chúng ta đâu anh em về đi.

Thời gian như đọng lại chẳng ai muốn bước đi bước trước, phần thì vừa lo sợ phần thì vừa quyến luyến anh em đồng đội, bọn Việt cộng thấy chúng tôi đã chất vũ khí thành một đống và cũng chẳng có hành động gì nên chúng cũng chẳng quan tâm đề phòng nữa. Tìm được hai chiếc GMC còn chạy được,chúng tôi đành phải đi bước trước kêu gọi anh em ai về ngã bảy thì lên xe với Tr/Tá Tòng và Đại úy Viễn, còn Đ/u Thắng, Đ/u Phước và tôi cùng một số anh em lên chiếc xe còn lại về Ngã Tư Bảy Hiền, nhiều anh em khác tản mác sang các khu nhà dân chung quanh xin quần áo thay rồi tìm đường về quê.

Xe qua khỏi ngã ba Ông Tạ thì hết xăng, anh em tự động tan hàng, còn 3 chúng tôi tiếp tục đi bộ về Bảy Hiền để về nhà người anh của Thắng, khi ngang bệnh viện Vì Dân bọn VC nằm dài dọc theo đường , một tên có vẻ là cấp chỉ huy vai đeo sà cột, khẩu K54 bên hông và chiếc radio transitor lủng lẳng trước ngực chặn chúng tôi lại

- Giờ này mà các anh còn mang lon đại úy ngụy các anh có biết các anh thua rồi không? thằng tổng thống Minh của các anh đã đầu hàng các anh không biết à!

Phần thì đang buồn nẫu ruột, phần thì cũng chẳng biết tin tức gì , tôi nổi quạu trả lời hắn chẳng chút e dè sợ hãi

- Hòa hợp hòa giải, chứ chúng tôi có thua các anh đâu.

Nói xong chúng tôi tiếp tục đi và cũng chẳng thấy hắn có hành động gì, khi ngang qua cổng một giáo xứ thì ông anh của Thắng đang đứng ở đầu hẻm ông dục chúng tôi đi nhanh và nói

- Giêsu Ma, các chú không sợ chúng nó giết hay sao mà còn ăn mặc thế này.

Vào đến nhà ông mở tủ đưa cho chúng tôi mỗi đứa một bộ quần áo dân sự, thay quần áo xong tôi nhét cây Colt vào bụng, hơn sáu năm từ khi rời ghế nhà trường đây là lần thứ hai tôi mặc lại đồ dân sự, có một cái gì nghèn nghẹn ở trong cổ, lồng ngực tôi căng cứng như muốn vỡ tung ra, tôi thấy tôi không còn là tôi của mấy phút trước đó, nước mắt tôi lại chảy dài.

Ba đứa tôi chào cả nhà rồi lại đi ra đường, Thắng đề nghị ra Vũng Tàu tìm tàu để đi, y tưởng cùng đi với chúng nó chợt đến nhưng rồi tôi lại đổi ý

- Thôi hai đứa mày đi đi, tao phải về tìm vợ con và gia đình, chúc tụi mày may mắn.

Không để bịn rịn, tôi bắt tay Thắng và Phước rồi hướng về phía Lăng Cha Cả, việc đầu tiên là phải về nhà bác tôi ở Phú Nhuận để hỏi tin tức gia đình và nghỉ qua đêm, trời lại mưa lất phất như thương cảm cho thân phận tủi nhục của người lính bại trận đánh mất quê hương.

Tôi đi ngang qua cổng Bộ Tổng Tham Mưu mà nước mắt nhạt nhòa, lá cờ VÀNG nghạo nghễ sáng nay còn phất phới tung bay mà bây giờ đã bị thay bằng chiếc cờ đỏ và cờ xanh đỏ, từng đoàn xe molotova chở đầy quân Bắc Việt đậu thành hàng dài, đám cách mạng 30 đeo băng đỏ mang M16 chạy xe Honda xuôi ngược giả đò giữ an ninh nhưng thực sự là rình rập săn lùng để hôi của, đến ngang nhà thờ Phú Nhuận thì mưa hơi nặng hạt hơn, câu thơ của Trần Dần lại bỗng chợt hiện về

Tôi đi không thấy phố không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ

Ngủ ở Phú Nhuận qua đêm và được bác tôi cho biết toàn gia đình tôi vì sợ Biên Hòa sẽ bị bỏ bom như ở Xuân Lộc nên đã đi bộ về Sài Gòn, hiện đang ở nhà bà ngoại tôi ở Xóm Mới. Sáng hôm sau 1/5, trên đường đi bộ từ Phú Nhuận về Xóm Mới khi ngang Tổng Y Viện Cộng Hòa, tôi đã chứng kiến cảnh hàng ngàn anh em thương binh bị đuổi khỏi bệnh viện khi vết thương còn đang chảy máu, may nhờ có đồng bào phía bên kia đường đa số lại là “chị em ta” đã cõng dìu khiêng anh em về nhà cho trú ngụ tạm, tôi cũng tham gia công việc này cho đến gần trưa.

Về đến Xóm Mới thì đã hơn 2 giờ, trong khi đó thì cậu tôi và vợ tôi còn đang lật từng xác chết ở quanh khu Bà Hom và đồn Thái Văn Minh đến gần chiều tối mới về, gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Ngày hôm sau gia đình tôi kéo nhau về lại Biên Hòa, tôi đã khóc nhiều ngày sau đó, khóc cho vận mệnh tang thương của đất nước, khóc cho đám thằng Công, Vạn, Đạt, và nhiều anh em khác đã tử thương hoặc tự sát tại Chơn Thành, cho anh Thiệu, thằng Quan, thằng Khánh và nhiều anh em ở LĐ8 đã hy sinh vào giờ thứ 25.

Cả một đất nước đang từ màu Vàng rực rỡ đổi sang màu đỏ của bạo lực, màu xám của tối tăm, những tà áo dài thướt tha đài các nay được thay thế bằng những bộ quần áo bằng vải thô nhám nhúa, mọi người phải tự làm cho mình xấu đi, cho có được cái nét răng đen mã tấu của những kẻ tự nhận mình là cách mạng.

Để chứng tỏ cho bọn chúng thấy rằng mình đã “giác ngộ cách mạng” để chúng không làm khó dễ và đẩy đi vùng kinh tế mới, Mẹ tôi đã phải bán hết đồ tế nhuyễn của riêng tây mua lấy mấy sào đất để trồng sắn, tội nghiệp Bố tôi bị lao lực mất sức mà bây giờ phải đi làm nương làm rẫy làm sao ông kham nổi .

Cuối tháng năm trên đường xuống miền Tây, tôi bị chúng bắt tại Cai Lậy rồi đưa vào trại vườn đào Mỹ Phước Tây, trải qua 58 ngày đêm trong vùng Đồng Tháp, ngày thì đi đào kênh ngâm mình dưới nước cho đỉa bám, tối về xỏ chân vào chiếc cùm chữ U nằm nghe tiếng muỗi kêu, đầu óc tôi lúc đó cũng còn quá non nớt về con người cộng sản, tôi vẫn nghĩ rằng DÙ NÓ CÓ LÀ CỘNG SẢN THÌ NÓ CŨNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM, chả thế mà lúc vừa chuyển xuống Cao Lãnh một tên cán bộ hỏi tôi tại sao không chạy đi nước ngoài,tôi đã khẳng khái trả lời “Tôi là người Việt nam, đã được sinh ra và lờn lên trong cuộc chiến này, và may mắn sống sót để nhìn cuộc chiến tàn lụi, tôi ở lại để nhìn xem những người cộng sản các ông làm được gì cho đất nước này”.

Nhưng chỉ mấy tháng sau, những biến đổi tang thương của đất nước,của đồng bào và của chính gia đình tôi đã cho mọi người cũng như tôi thấy rõ thế nào là con người cộng sản, gia đình tôi đã không thể trông vào mấy trăm ký sắn để sống, Mẹ tôi đã có một quyết định vô cùng sáng suốt là vứt bỏ cái miếng đất thổ tả ấy đi để cùng các em tôi đi buôn bán chui, buôn bán dắt trong cạp quần hay dấu dưới đũng quần, có thể từ cái nền buôn bán này mới đẻ ra cái nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa bây giờ.

Khi ngồi dưới cái hầm tàu thủy ra Bắc, ngồi bó gối dựa vào nhau bên cạnh cái thùng tôn được dùng làm cầu tiêu dã chiến cho 150 người, Thạch Thon thằng bạn đại đội trưởng đại đội trinh sát của Liên đoàn 33 Biên Dũng năm nào chuyền cho tôi bình thuốc lào bằng nhựa và nói

- Hút đi mày Hiếu, đời mình mất hết rồi thì còn gì nữa đâu mà bỏ.

Nghe cũng thấm thía, tôi đón cái bình thuốc lào to bằng cái gói thuốc lá, nhồi một viên “Cái Sắn say” vào rồi châm lủa rít một hơi dài, trong cơn say lâng lâng tôi ghé vào tai nó thì thầm

- Đù mẹ !CHO DÙ NÓ CÓ LÀ NGƯỜI VIỆT NAM, THÌ NÓ VẨN LÀ THẰNG CỘNG SẢN PHẢI KHÔNG MÀY

Vâng! Lằn ranh Quốc cộng chỉ thực sự xóa bỏ khi không còn một tên cộng sản, không còn cái chủ thuyết ngoại lai đang hành hạ dân tộc hiền hòa này, cũng như không còn cái thây ma thối rữa nằm ếm quẻ ở vườn hoa Ba Đình Hà Nội khiến cho cả nước không ngóc đầu lên nổi.

Hôm nay đúng ngày 30 tháng 4, đánh dấu 32 năm mất nước, nhìn ra ngoài sân lá cờ Vàng đang tung bay trong gió, tôi miên man nghĩ rồi sẽ có một ngày, vâng chắc chắn rồi sẽ có một ngày

Ta về phố thị nở hoa
Cờ Vàng rực rỡ, ngỡ là chiêm bao
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »


Image

LTS- Hôm nay ngày 14 tháng 4 năm 2011, đúng 39 năm ngày thất thủ Charlie, chúng tôi xin đăng lại bài "Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử" để tưởng nhớ đến bao anh hùng chiến sĩ Nhảy Dù đã an nghỉ trong lòng đất mẹ Việt Nam. (Tredeponline.com)

Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử
Thơ và Hồi ký của Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập


Nửa ngày ở Dakto

Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.


Vào Charlie


Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đã mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.


Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi.

Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie...

Để tưởng nhớ anh em Không Quân đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này...


Vào khoảng thời gian này, tất cả ám danh đàm thoại truyền tin của Pháo Binh Nhảy Dù đều bằng 4 con số, thí dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi là 314, mổi khi đụng trận, mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ thống của đề lô cho dể tác xạ. Bài này sử dụng bạch văn cho độc giả dể hiểu.

(Tiếng động cơ trực thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi đáp xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo Binh theo Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy, giửa chương trình huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy dù và có phi pháo yễm trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập trước đây, bải đáp là một cánh đồng trống với nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu đoàn 7 và một Pháo đội Dù với 6 cây đại bác 105 ly kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ 123 an toàn đáp xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào một khu rừng sát chân núi (tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo Binh Nhảy Dù vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105 ly nên Tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên hình như là Trung úy Đỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn ngay trên đầu mình để thử công hiệu.

Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu thì mất mặt KBC 4522, còn nếu bắn ngay trên đầu thì chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra thì Tiểu đoàn thông báo cho tôi xuống pháo đội lảnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Saigon, thầy trò vừa xuống xe vào trình diện Ban 3 Tiểu đoàn 9 thì lại được một công điện về trình diện Tiểu đoàn 11 của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo để đi Kontum.

Những bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy có điều gì bất tường cả trong lệnh điều động này. Đầu năm 1972, chiến sự đã trở nên sôi động nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến tranh ý thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ý nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đã tham dự hàng chục cuộc hành quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng còn ý niệm gì về những cuộc ra đi của bạn bè về vùng 5 da ngựa bọc thây. Vì ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự với đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đòi cho cộng sản quốc tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường xuyên, còn nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và phòng không dầy đặc đã sẳn sàng đợi Tiểu đoàn "Song Kiếm Trấn Ải " danh hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.

Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng mọc lên làm tôi nhớ lại Saigon, những bửa còn tiền thì đấu với đại võ sĩ Rémy Martin hoặc cạn túi thì chơi với võ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên Bình, những người lính Địa Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh bình yên này chỉ trong thời gian ngắn nửa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở Võ Định, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Dù của Thiếu Tá Bùi Đức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Đoàn Trưởng tiền nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề lô chúa là Trung Úy Lưu Văn Đúng danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đã triệu tập chúng tôi lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311, cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Đại đội 111 của Trung úy Thinh. Chuẩn Úy Sơn danh hiệu 312, đề lô Đại đội 112 của Đại Úy Hùng móm. Chuẩn Úy Trưng danh hiệu 313, đề lô Đại đội 113 của Đại Úy Hùng mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh hiệu 314, đề lô Đại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Đại đội 110 của Đại Úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11. Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155 ly C 220 danh hiệu 419 ở hướng Nam yễm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi theo yêu cầu. Nhìn một dọc các căn cứ hỏa lực yễm trợ cho Tiểu đoàn 11, tôi nhận thấy ngay tình hình rất là nghiêm trọng, và một cuộc tapi khốc liệt sẻ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dảy Trường Sơn.

Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quãng Trị bay thẳng về đây giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, Đại Tá James Vaught, Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù đã gọi máy về MACV tại Saigon yêu cầu những tên nhà báo ngoại quốc phản chiến bay ra đây nhìn xem Nhảy Dù đánh giặc rồi về tường thuật lại cho trung thực, nhưng chẳng có tên nào dám ra. Lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183 Pháo binh dã chiến Long Khánh về trình diện Thiếu Tá Lạc tại vùng hành quân và được vị Tiểu đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Saigon coi như một đặc ân về Pháo Binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ ( hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về tội dám cãi lại quan anh ngay lúc tôi còn mặc bộ đồ xanh bộ binh về trình diện Dù. Từ trên trực thăng nhìn xuống, ở xa về hướng nam, con sông Pôkô màu bạc uốn khúc theo dẫy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dẩy Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một thiên đường vừa đổ vở. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn dọn bải đáp vì đã có quân ta đáp xuống trước, những người lính dù nhảy xuống trực thăng rồi tản ra hai bên ghìm súng phòng thủ sát giao thông hào, và tôi đã có mặt tại ngọn đồi vô danh mà sau này đã đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc "Người Ở Lại Charlie" của Trần Thiện Thanh.

Theo sự bố trí, Đại đội 113 nằm phía bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách Tiểu đoàn gần 3 cây số. Đại đội 111 thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. Còn lại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Đại đội 110, 112, và 114 đóng quân tại căn cứ C2 cùng dẩy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số. Nhìn trên bản đồ thì tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng quân trên một trục Nam Bắc khá thẳng để dể quan sát về hướng Tây giáp với Kampuchia, nơi đường mòn Hồ Chí Minh rẻ ra các ngả vào ba biên giới Việt Miên Lào ở phía Tây Bắc, còn Căn cứ biên phòng Benhet thì nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi tiếng trong quân sử, Benhet vẫn bình yên vì cộng quân dồn mọi nổ lực để nhổ cái gai Charlie nằm chận cuống họng xâm nhập vào Tỉnh Kontum qua ngả Dakto. Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đã lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu đoàn 11 đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho tiện việc phòng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.

Đại đội 114 đóng vòng cung phía Nam chịu trách nhiệm nặng nhất vì địa thế thoai thoải dể đánh lên, và ngoài phòng tuyến cở 50 mét có nhiều cây cao rất dể cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Đại đội trưởng cho đào một cái hầm trú ẩn hình chử nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm, tôi nói tôi yễm trợ cho Trung úy, nếu Trung úy nằm đâu thì tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo khủng khiếp của cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm, còn máy PRC 25 thì đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần gì không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác xạ phòng thủ lập một số tuyến cản theo hình vòng cung ngoài vòng vị trí khoảng 100 mét (có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những tuyến cản này mà chúng tôi đã giữ được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie thất thủ. Đêm đầu tiên, tôi ngủ không được vì những tiếng rì rì của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có cả tiếng xe tank chạy trong dảy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam cách căn cứ Charlie không xa, quân xa cộng quân mở đèn chạy công khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong rừng tình nghi là đường mòn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối (harassing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế, ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắn chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52 dập.

Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai đại đội 112 và 114 đi đánh giải vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi cách Charlie khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/ 320 đã chiếm ngọn đồi này và xác một Chuẩn Úy của ta vẫn còn đó. Gần đến nơi, Thiếu Tá Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên ngay trên đỉnh đồi cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp .

-418 đây 314 xin tác xạ. Hết.

-314 đây 418 xin tác xạ. Hết.

-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi sẳn sàng. Hết.

-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết.

Độ hai phút sau.

-Bắn. Trả lời.

-Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)

Thiếu Tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ

-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói . Hết.

-Hướng 800. Gần lại 100. Hết.

Đến quả đạn khói thứ hai thì điều chỉnh vào đúng mục tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi rung chuyển như cơn địa chấn vì mục tiêu cách chúng tôi chỉ hơn 100 mét (tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin pháo đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3 (đang điều chỉnh) bắn trước một quả (mổi pháo đội có 6 đại bác tức là bắn 60 quả). Mê Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong. Tôi trình Mê Linh để tôi chuyển xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao chiến với mình. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành một tuyến phía sau. Trung đội đầu tiến dè dặt vì địa hình không cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên theo thế chân vạc. Đạn AK và M16 thi nhau nã từng loạt (tiếng súng nổ rời rạc). Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt được hai vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1AK, 1 CKC, và tìm được xác viên Chuẩn úy Tiểu đoàn 2 Dù cùng một binh sỉ. Mê Linh bảo ráng lên đến đỉnh xem có gì không. Vừa dứt lời thì tiếng depart đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo 75 ly không giật có sơ tốc độ cao nên vừa nghe tiếng depart là nổ liền. Dù bị đánh ngang hông, vừa dứt loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta chết một, bỏ lại một M16. Lúc này thì địch đã ngưng pháo chỉ dùng súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn bộ về nhập lại một vì sợ địch cắt đôi. Địch vẫn tiếp tục bắn theo. Mê Linh bảo tôi bắn chận.

-418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẳn sàng. Hết.

Lúc này Pháo đội C1 đã biết chúng tôi bị đánh ngang hông nên đã sẳn sàng bắn chận. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay trên đầu, mãnh đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gảy rớt xuống đất nghe rào rào, xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rỏ. Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây nên nổ trên không thay vì rớt xuống đất mới nổ, vì gấp rút quá nên tôi không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đã trừ hao yếu tố nhưng đường tên đạn đạo chạm nổ trên cành, và đã vô tình ngăn chận địch không dám liều lĩnh truy nã. Tôi trình với Mê Linh:

-Thiếu Tá hỏi xem con cái mình có bị gì không, còn tụi vịt con tôi đoán thế nào cũng lãnh đủ trái này, mình giử nguyên yếu tố này, nếu tụi nó lên, mình dứt nó liền. Lúc này thì Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn. Tiểu đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề phòng địch xung phong. Một lúc sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Đại đội 112 là người bạn cùng Khóa 27 Thủ Đức với tôi bị mãnh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi bò lại thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn xối xã. Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc nói:

- Tao xin lổi, tao bắn đó, chỉ có mình mày lãnh trái này, còn tụi nó không dám tấn công nửa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân hận lắm, phải bắn chận nếu không tụi nó tràn lên.

Lạc chỉ mĩm cười héo hắt, còn tôi thì hết sức buồn bả hỏi tiếp:

-Mày thấy thế nào.

-Đau, không còn cãm giác gì hết. Thấy Lạc tỉnh táo như thế tôi càng lo hơn vì người bị thương nặng trước khi chết thường rất bình tỉnh như thế. Tôi lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:

-Một lần nửa, tao xin lổi mày. Nói xong tôi bò lại phía Thiếu Tá Mễ. Nhờ quả đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đã gần chiều nên có lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tãn. Trong lúc hai đệ tử lo ăn uống còn tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung Tá Bảo cũng vừa đi xuống tắm, thân hình ông cao lớn và nụ cười rất dể thương, nhưng tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông là duy nhất mặc áo giáp mà thôi. Điềm gì đây, hay là ông đã linh cãm được điều gì.

Sáng ngày 27/3/1972, trong lúc tôi ăn cơm thì có một người lính chạy vào nói Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giửa Đại đội 112 và 114 thì thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá John Duffy (hiện ở San Jose), cố vấn Mỹ đang ngồi sát gốc cây nhìn về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát giác địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ Charlie, bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi :

- Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.

Địch xuất hiện khá xa cở bảy tám trăm mét đường chim bay, tôi quay sang Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống dòm cho tôi mượn, xa quá mắt thường bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa ống dòm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm địch xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415 tăng cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét, điều chỉnh một lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến dài cở 300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn tôi vừa nói

-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu Tá.

Thiếu Tá Mễ lại hối:

- Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.

Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ hai thằng dìu một thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống dòm trình lại với Mê Linh:

-Trúng rồi, Thiếu Tá nhìn xem tụi nó khiêng xuống đồi kìa. Thiếu Tá Mễ xem xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả (fire for effect). Tôi đề nghị:

-Đề nghị Mê Linh cho tụi nó dìu em xuống đồi, đồi cao như vậy thế nào tụi nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một lát rồi mới di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông mình làm một lần đưa em vào hạ, dứt cội da. Thiếu Tá Mễ phì cười nói OK. Còn Thiếu Tá Duffy không hiểu tiếng Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.

Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T (time on taget) tức là các vị trí pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu, đợi 20 phút sau khi địch không còn khiêng quân xuống đồi nửa, tôi cho lệnh tác xạ. Lúc này thì họ nhà pháo cũng đã biết tin nên đích thân Bùi Đức Lạc cho bắn tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu, còn Mông Cổ nhà ta (anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mãnh như quân Mông Cổ) thì đứng dọc theo chiến hào quan sát như là một chuyện thường tình (tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt đạn tôi hỏi xem mình có lục soát không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện này. Đến trưa thì một loạt đạn pháo binh của địch từ dẩy đồi hướng tây đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Đại đội 112 bắn qua, tiếng depart cũng giống như đã bắn hôm qua, vậy là tụi nó đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 để trả lể rồi, tiếp loạt đạn này là những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiển 122 ly thi nhau rót xuống Charlie mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến nay, và từ đó Charlie không một phút nào bình yên.

Trừ 75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu thì những loạt đạn khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó không có đề lô, anh em đề lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo thì địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo diễn ra như cơm bửa, và là lần lần thì những loạt pháo binh tầm xa của địch rơi trúng căn cứ, đến ngày 29/4/1972 thì chúng đã điều chỉnh pháo binh được toàn bộ Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề lô của địch đã áp sát được căn cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:

- Tôi nghỉ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm dò khả năng mình, sau đó mới kéo 130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản pháo của ta (đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, còn 155 của ta thì 15 cây số, và 105 ly của ta thì chỉ gần 11 cây số mà thôi), chổ mình dể lên hơn cả, thế nào tụi nó cũng đánh hướng mình.

Sau đó tôi cũng chia xẻ mối âu lo này cho Trung úy Đúng:

- Tụi nó chắc chắn sẻ tapi tôi sau màn pháo kích dữ dội, những yếu tố tác xạ tôi đã điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không kịp. Trung Úy Đúng nói

- Tôi cũng nghỉ như vậy, chổ của 314 dể lên lắm.

- Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có lẻ 75 ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không thấy thằng 312 gáy (xin bắn).

-314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312. Hết.

Dứt chử "hết" tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề lô Đại đội 112 bị pháo kích đã tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận phòng trùm lên thêm hướng Tây Nam để bắn che cho Đại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích, 75 ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo vì chúng tôi phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh pháo binh bắn cấm chỉ (tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn gì, chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mổi lần pháo tầm xa pháo kích thì chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 xin mổi lần tôi bị xơi pháo thì cứ gọi Phở Bò (pháo binh) nào của ta rảnh thì bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.

Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh pháo? Lúc này Đại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Dù ở Căn cứ Võ Định cũng đã trình lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá. Nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực...tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Đại Đội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Đồi C1 dứt gần hết cả Tiểu đoàn cộng quân nằm phơi xác ở đồi C1, vì trận này mà cộng sản đã lên án tử hình Đại úy Trương Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân đoàn II còn lệnh cho 11 Dù ra hố pháo tìm chứng tích của đầu nổ130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sỉ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500 mét thì nói gì đáp xuống tãi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì không dập. Mổi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết hết vì pháo.

Sáng sớm ngày 01/4/72, đúng như chúng tôi dự đoán, sau màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn công từ hướng Nam Charlie trực diện Đại đội 114. Địch đông như kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại súng bắn thẳng vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ vào các vị trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yễm trợ. Lúc này đã lộ rỏ ý định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ không pháo vị trí pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích Tiểu đoàn 11 chứ không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh của chúng đang im lặng tiếp cận ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây rồi. Cũng may việc giương đông kích tây này mà các pháo đội của ta không bị pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên còn rảnh tay yễm trợ được cho tôi. Trước mặt chúng tôi tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả đấm thép đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo, Đại đội 114 anh dũng bắn trả, Đại đội 112 cũng tiếp ứng, những người lính Dù thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng từ các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ thống tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số của tôi, sẳn sàng gom bi.

-415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1, L2, L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả. Bắn khi sẳn sàng. Hết.

Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đã lên nòng khi biết tôi bị tấn công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn thì đã nghe tiếng depart, những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước mắt.

- Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả. Hết.

Đạn túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài phòng tuyến, bụi tung mù mịt, cứ hể dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng nhỏm dậy bắn vào, chúng đã đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lỉnh bắn che cho tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn pháo, những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này thì phi cơ đã lên vùng sẳn sàng thả bom, Trung úy Cho nói với tôi:

-Nếu tụi nó vượt được hàng rào thì bắn ngay sát tuyến của mình. Tôi trả lời :

-Trung úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô luôn che phía sau lưng, lở có trái nào lọt vào tuyến thì phải chịu, nếu chịu tôi mới dám bắn. Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận phòng này rất có hiệu quả và không biết có quả nào lọt vô luôn trong phòng tuyến hay không vì đạn pháo của cả hai bên lúc này bắn dử quá. Sau mổi loạt pháo tôi lại nhỏm dậy nhìn ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đã rời rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm một cái gì đó. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc phóng pháo cơ vào vùng nảy giờ gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng rào, chỉ cách vị trí cở 50 mét, những núi lữa bốc lên cao sau mổi tiếng nổ. Lần đầu tiên trong đời lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách mình hai ba chục mét (hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly là từ 50 đến 100m, bắn cách mình cở hai ba chục mét là rất liều lĩnh và hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, phòng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.

Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông bảo tôi có cần gì thì tất cả đều sẳn sàng, và tôi trả lời nếu gà mình còn gáy (tức pháo binh còn bắn), thì không có tên răng đen mã tấu nào nào có thể bước qua 114 được. Sở dĩ tôi dám khẳng định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của anh em 114 Dù cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không thì bể tuyến lâu rồi. Còn Trung úy Đúng thì rất tế nhị không xen vào hệ thống tác xạ, để dành hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310 cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng thêm phía thằng 112. Vừa lúc đó thì hàng loạt tiếng depart từ trong núi vọng về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả các loại pháo chứ không riêng gì 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng 5 vị trí pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống như của ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội gọi báo cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí trúng pháo nhưng không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà điều chỉnh được các vị trí pháo của mình thì bỏ bú, vừa lo sợ tôi cũng vừa tìm những ngôn từ dễ thương như thế để trấn áp nổi hồi hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẻ tràn biển người lên lấy thịt đè người, Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù cố gắng, tôi lẩm bẩm bốn chử đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có những khẩu hiệu đao to búa lớn, rất đơn giản như một sự cố gắng, anh em quân đội hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm cho máu đồng bào bớt đổ bằng chính máu của mình. Trong tiếng pháo nổ vang trời, tôi nhấc máy gọi 310:

-310 có nghi tụi đề lô nó áp sát mình không, nghi tụi nó ở đâu thì con gà nào của mình "quởn" cho gáy đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho biết thế nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự im lặng rợn người vì tất cả im lặng chờ đợi.

Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đã quen thuộc kiểu này, chúng mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng nếu không thì đã là nhào lên tiếp để...lãnh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn còn bị cấm chỉ, tôi nhìn ta phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn cứ 6 cũng thế, tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.

Chiều đang xuống dần, những người lính cũng vội vã sửa lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm, người chết và thương binh tăng thêm làm nặng thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi chong mắt nhìn ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây đạn từ lúc nào (hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường không đem theo súng).

- Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có gì nhớ kiếm tao. Hai đệ tử nhìn tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không nói, nhưng chúng cũng hiểu tôi nói gì.

Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân đội bị chôn chân làm vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng lòng đánh gấp để lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đã tiêu diệt được một đơn vị Nhảy dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút thì chỉ cần pháo thôi là cũng đủ tiêu tùng hết. Tiểu đoàn xin rút, Lử đoàn xin rút, Quân đoàn cũng không cho, có một âm mưu gì muốn chúng tôi thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến những người lính 11 Dù thành những chiến sỉ "L'enfer Des Hommes" tức là những người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa chiếu ở Saigon hay sao, nếu là những đơn vị khác thì đã rút đi lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính mang danh những đứa con của Thần Chiến Thắng Micae (Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là Thánh bổn mạng của binh chủng Dù Việt Nam Cộng Hòa).

Những ngày hôm sau địch tiếp tục pháo căn cứ, và sau loạt pháo là mon men đánh thăm dò tiếp Đại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau mổi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng bò lên lấy xác, và Đại đội 114 cũng không buồn bò ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mổi đợt pháo kích, căn cứ càng xơ xác không còn nhìn ra hình dáng nửa, từng tấc đất bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen thui và bị mãnh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh, tôi có cãm tưởng một con kiến cũng không sống được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa trên các ngọn cây, địch đã điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Đại đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không còn vướng một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ, những ngày sau thì xen vào đạn delay tức là đạn chui vào lòng đất hơn một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài phòng tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương thì vẫn nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lý đè lên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử Nam thì còn coi cái chết vào đâu...Là dân pháo binh nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Saigon chịu chơi tới đâu thì chịu, chứ ra trận thì có lệnh là phải tiến, không có lệnh lui thì...mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên không biết mẹ gì là chiến thuật đã trói tay chúng tôi, tận diệt.

Ngày 6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Dù ở phía Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn 11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó đánh Đại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Địch lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung dưới lòng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với tất cả nổi phẩn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó thì chết vì nó pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mổi loạt pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, như khẩn khoản tôi nói một lời gì, tôi biết họ muốn hỏi gì nên cũng chỉ biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập. Ngay lúc đó thì có một người lính dơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về ngọn đồi xéo về hướng đông nam, tôi cúi mình chạy đến, cách đó khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng Đông, Tây, và Nam đều bị địch bao vây, vậy còn hướng Bắc, gần nhất với ngọn đồi Charlie của Đại đội 111, chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía Tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng nửa...Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung Úy Cho biết và xách máy PRC 25 gọi 415 bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm gì, dứt loạt đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đã khoét núi nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề lô, tôi chỉ còn biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.

Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu địch sẻ đánh Charlie vì Đại đội 111 nằm riêng rẻ, còn thằng 113 thì nằm kế bên pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng không còn xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung gần nửa tháng cũng không chơi được Đại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng tìm hướng khác và mục tiêu thì chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972, địch pháo dử dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong bắt đầu tấn công 111. Đại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng võ trang vào vùng trút xuống hằng tấn bom đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút lui để lại hằng trăm xác chết.

Lúc này thì địch đã công khai di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung đoàn này thì còn những Trung đoàn khác sẳn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải thì còn gì là danh hiệu hai Sư đoàn của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là đường rút của11 Dù, tôi đã quan sát được vị trí bọn chúng đã đặt hai cây phòng không, một cây 12 ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đã công khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy hiếp tinh thần 110. Máy bay yễm trợ cho Charlie thì phải bay từ hướng Bắc hoặc hướng Nam rồi đánh một vòng về hướng Tây để thả bom, xong phải chúc mủi về hướng Đông ra thẳng quốc lộ 14, địch đã đặt hai cây phòng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng còn nhắm xuống Charlie trực xạ. Mổi lần máy bay vào vùng là tiếng phòng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây phòng không giờ đây đã dàn trận. Pháo binh của ta thì gần như bị tê liệt vì bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng thấy được nhiều chiếc Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa đến Yankee thì bị pháo và phòng không từ hướng đông bắn qua phải trở lui, ngưng tiếng pháo thì lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp xuống được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đã gọi các vị trí pháo bắn hai cây phòng không này hoài mà cũng chẳng ăn thua gì. Cả nửa tháng nay chúng đã đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này thì chúng cũng sẻ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đã trúng đạn phòng không, còn trực thăng võ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dể lãnh đạn phòng không nhất nên khó có thể vào vùng.

Đến giờ phút này thì đả rỏ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie, sáng ngày hôm sau, Đại đội 111 bị pháo thật nặng nề, dứt dợt pháo, bộ binh địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yễm trợ được, định mệnh đã dành sẳn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111 phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Độ nửa tiếng sau, Trung Úy Thinh Đại đội trưởng 111 chạy vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại :

-Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba lô của ta, chúng chụp được ba lô của tôi, tôi buông ba lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẻ tụi nó đói lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta, khui đồ hộp ra ăn tại cho (thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô trên lưng đề phòng bị bắn phía sau). Ngay lúc đó thì Trung Úy Khánh cũng chạy vào hầm, tôi hỏi thì Khánh cũng nói bị y như tình trạng của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy súng của mày đâu. Khánh kéo cái địa bàn M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ còn có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt nghẻo làm mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu lâm có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng còn bị ép uống thuốc "Hùng Tâm" tức là một loại thuốc kích thích uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp hùng tâm này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank thì mới biết cấp chỉ huy của chúng dã man như thế nào.

Sáng ngày 11/4/1972, Đại đội 112 được điều xuống chiếm lại Charlie đem theo cả Đại bác 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank hoặc phá hầm, máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp thì sợ phòng không, nhưng bay cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu đoàn 11 xin thả bom napalm, còn pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ thì pháo xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt khác, từng phi tuần của không quân Việt Nam vào vùng trải những thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm phải bay thật thấp nên rất chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại. Bất kể phòng không, một chiếc phi cơ nóng lòng bay thật thấp xuống mục tiêu, thả một quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên thì cánh bên phải vướng vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chổ hai cây phòng không, bị gảy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên đại úy phi công Việt Nam đã oanh liệt hy sinh. Chiếc còn lại bay vòng vòng tìm đồng đội, sau khi xác định được vị trí , bèn quay trở lại Charlie, giận dử trút xuống những trái bom lửa còn lại. Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.

Ngày 12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt sạch tại Charlie, địch tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cầy lên như địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước lượng có đến cở gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ ngày tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này thì làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghỉ đến một điều xấu nhất dành cho mình, không biết nhà tôi và đứa con đầu lòng đang mang trong người giờ này ra sao, mổi lần tôi đi trận, nhà tôi đều dặn cầu nguyện Đức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này...Chợt thấy Trung úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Đúng hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đã gẩy cánh thiên thần sau loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung tá Bảo hy sinh còn Thiếu Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo xấy cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng còn nước uống thì đo bằng từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh thì giải quyết ngay ngoài miệng hầm. Pháo dữ quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ta ngoài tuyến quan sát. Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Đúng và Trung úy Đúng cũng chẳng làm được gì khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích, tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay chân tôi dậy hỏi cần gì không, tôi lắc đầu.

Sáng ngày 13/4/1972, Đại đội 113 được lệnh đi lên phía Bắc tìm bải đáp, còn Đại đội 111 lên ngọn đồi phía Đông xem có chổ nào tải thương được không. Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẽ nghiêm trọng, không còn cái giọng Nha Trang đơ đớ Quãng Ngãi nửa, không thấy có vẽ đùa cợt hàng ngày như lúc còn ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt cộng đứng gác vẫn còn đó, tôi lại chỉ Khánh chổ vị trí hai cây phòng không cách đó không xa và nói:

- Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua gì, mày hết sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng phòng không tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung Úy Thinh và cũng không thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giử im lặng.

Độ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi thì địch khai hỏa, bằng luôn cả phòng không trực xạ. Không thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không biết nó ở chổ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung Úy Thinh, Đại đội trưởng 111 đã tử trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đã nằm xuống...Cánh dù lộng gió muôn phương - Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi. Đại đội 111 thêm lần nửa tan hàng. Một số còn lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giử mức độ pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn dần, lại thêm người chết và bị thương. Đêm dần xuống, tôi nằm trong hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn Úy Sơn đề lô ra đi trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị thương nặng chưa biết ra sao, còn những người khác thì nằm đầy ngoài chiến hào, bao giờ thì rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức vì cái lệnh tử thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.

Ngày 14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút lui vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dử dội, địch xung phong lên từ phía Đại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi mãi mà không con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không còn sợ pháo binh ta bắn cản, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Đại đội 114 chống cự không lại phải rút về dàn hàng ngang với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đã lên vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo binh ta coi như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với Thiếu Tá Mễ, và Đại Úy Đoàn Phương Hải Trưởng ban 3 giờ kiêm Tiểu đoàn phó, Trung Úy Đúng đứng kế bên, cạnh đấy là Bác sĩ Tô Phạm Liệu, một Bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận còn hơn cầm ống chích, lưng đeo khẩu Colt 45, tay cầm súng M 16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng giử vững vị trí, tôi nghỉ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá, phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy, khản cổ họng nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến vì vẫn còn bị pháo kích. Lúc này mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên phòng tuyến thứ hai của ta vẫn giử được. Chổ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên chiến hào ngay trước mặt, chết đã nhiều ngày, xác trương lên nhưng không thấy mùi hôi vì đầy thuốc súng, còn trên mình mang thêm nhiều mãnh đạn pháo sau đó, có lẽ chết hai ba lần. Bổng Hạ sỉ Hạnh chạy tới chổ tôi nói:

- Em kiếm Trung úy nảy giờ, Thằng Nhỏ bị thương muốn gặp Trung Úy.

Tôi cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới giao thông hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy bụi đất. Tôi cúi xuống, Nhỏ thì thào bên tai:

- Em khát nước quá, Trung úy đái cho em uống.

Giửa tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử tôi đến giờ phút hấp hối còn nghỉ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói với Nhỏ:

- Em còn điều gì muốn nói thì nói cho Hạnh biết, anh còn phải coi xem còn bắn được hay không.

Nói xong tôi đưa bi đông nước còn lại một chút cho Hạnh để cho Nhỏ uống rồi gạt nước mắt định chạy về chổ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rỏ phía triền đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Đây là quả lựu đạn đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch. Không cần quan sát hiệu quả lưu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu Tá Mễ. Giờ phút này địch đã lên được hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu đoàn 11 chuẩn bị một màn cận chiến, bổng một viên đạn AK bắn trúng bình khói cay E8 của ta đặt trước mặt Thiếu Tá Mễ cở chục mét. Tôi thấy rỏ gió thổi ngược khiến cho khói cay màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, những người lính la lên địch pháo khói cay rồi rút về phía Tiểu đoàn, và Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie vào lúc này, nếu không bị bình khói cay thì không biết thế nào, đây có lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn ngập trên đồi C2.

Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật "đồng ư quy tận" tức là gọi pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám duổi theo, nhờ vậy chúng tôi xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn theo. Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nửa sợ lộ vị trí, vã lại chúng đã lên đầy trên C2 và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt động lại được bắn chận không cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài trăm mét thì nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát thành bình địa. Đại đội 113 ở hướng Bắc hầu như còn nguyên vẹn từ ngày đầu đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại vì pháo kích, nên được lệnh đi ngược xuống Yankee tìm đường ra PZ (tức bải bốc, tiếng Anh là Picking Zone), trên bản đồ cách Charlie khoảng gần 4 cây số. Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M 79 từ phi cơ OV10 rót đều phía sau chận hậu,đạn nổ tụp tụp bum bum nghe như một điệp khúc buồn nản của chiến tranh. Binh sĩ còn khỏe dìu những người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng tượng được có người bị thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những đoạn dốc khó đi không thể dìu được, bản năng sinh tồn của con người nhất là của người lính chiến thì không có gì có thể diễn tả ra hết được. Cạn hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một trăm con người còn lại này chia đều mổi người đã lãnh cở gần 100 trái đại bác, thử hỏi còn có ai chịu đựng được như thế không. Tôi chợt nhớ đã đọc đâu đó một câu nói của danh tướng Mỹ, Mac Authur " Tôi thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường, lại còn phải gánh chịu những bất công của thượng cấp". Nghỉ lại hoàn cảnh của 11 Dù còn tệ hại hơn thế nửa, bị trói tay để đánh.

Đến gần sáng thì ra đến bải bốc giống như một cái thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy lau sậy, Tiểu đoàn 11 kiểm tra lại quân số và chia khu vực phòng thủ đợi trực thăng bốc về Võ Định. Tôi và đệ tử Hạnh được cắt lên slick trực thăng sau cùng của Đại đội 114. Thông thường khi đi hành quân trực thăng vận, đề lô phải nhảy theo toán đầu tiên và khi rút thì đi sau hết, để có thể gọi pháo binh bắn bất cứ lúc nào.
Last edited by dailien on Sat Apr 16, 2011 1:44 am, edited 1 time in total.
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh nắng mặt trời đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông thì có tiếng trực thăng bay đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và phía sau là một đoàn Trực thăng UH1B của Mỹ, hai chiếc Cobra có trang bị rocket bay một vòng quanh bải bốc quan sát, một trái khói màu vàng được thả ra đánh dấu chổ trực thăng đáp xuống, chiếc UH1B thứ nhất vừa xà xà xuống mặt đất thì có tiếng đạn cối rơi xuống nổ ngay chóc bải đáp rồi hằng chục tiếng pháo cối 82 ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội vàng bay thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ hai bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung phong y hệt trong phim cao bồi viễn tây, vì đồi lau sậy thưa thớt nên rất dể thấy chúng không thổi kèn xung phong mà vừa chạy, vừa bắn, vừa hô "hàng sống chống chết" vang trời. Tiểu đoàn 11 Dù đang bị nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích, Trung đoàn này được lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẻ bốc quân tại đây nên cho lệnh Trung đoàn này lui trở lại để phục kích định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở giửa tất nhiên ta sẻ bung chạy tản ra chung quanh, bọn chúng đã phục kích sẳn sẻ hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng tràn xuống, thì Nhảy Dù cũng bung ra chống lại mãnh liệt. Trận chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng qua sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp lá cà, chổ nào cũng có tiếng AK47 và M16 nổ lẫn lộn còn hơn pháo Tết, coi như cả Tiểu đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một lúc với một Trung đoàn Việt cộng, hai bên chạy qua chạy lại thấy đâu bắn đó như xinê, làm Cobra bay trên đầu cũng không biết bắn vào đâu, một chiếc trực thăng liều chết đáp xuống đất, tôi thấy một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau vừa xà xuống thì Việt Cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh (hiện ở Houston) dừng lại ôm Đại liên 60 ria hết luôn một dây đạn còn lại, Việt cộng ngả rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại liên cuối cùng vừa ra khỏi nòng thì mấy cây AK đã chỉa vô đầu Vinh, có lẽ vì cãm phục tinh thần anh dũng của người lính Nhảy Dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ bắt sống. Nhờ lòng quả cãm của người xạ thủ đại liên này mà một slick duy nhất 4 chiếc trực thăng đã bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 11, Sĩ quan liên lạc pháo binh, và cố vấn Duffy, nhưng Đại Úy Đoàn Phương Hải ,Trưởng ban 3 (hiện ở San Jose) thì bị một viên đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy bay, may nhờ Thiếu Tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.

Đạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một cặp Cobra và slick trực thăng khác vào vùng bay vòng vòng trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ đi phục kích nên không đem theo phòng không cho nên trực thăng của Mỷ mới hoạt động được nhưng chỉ bốc chứ không dám bắn vì sợ trúng quân bạn. Chiến trường lần lần bớt đi tiếng súng, nhưng tiếng kêu hàng vẫn còn nghe văng vẳng, tiếng trực thăng vẫn còn nghe vần vũ trên đầu. Lúc này tôi đang sát dưới bờ suối với ba bốn người lính nhìn lên khá rỏ nên bảo họ chạy theo tôi ra bãi may ra trực thăng thấy được rỏ đồ rằn ri so với đồ vàng bụi đất của Việt cộng mà bốc chúng tôi lên. Những người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi, đang chạy, tôi thấy một chiếc Cobra bay phía bên trái ngược hướng tôi chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó vòng lại nghiêng cánh, kinh nghiệm chiến trường đã cứu tôi thoát chết, Cobra mà nghiêng cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng nó thấy Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:

- Dạt ra một bên, trực thắng bắn.

Tôi vừa nhào đại qua một bên thì một tiếng rocket nổ như trời giáng cách tôi cở vài mét không còn nhớ rỏ phía bên nào, tôi thấy mình văng lên rồi rớt lăn trở xuống triền đồi, cây súng colt 45 cầm trên tay văng đâu mất, cái địa bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong áo nên còn lại, may mắn tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu những người kia có sao không. Tôi đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối thì gặp một tốp Dù, trong đó có Chuẩn úy Linh đang chạy theo bên bờ suối về hướng Bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế, chưa kịp hỏi thì tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên, lẫn tiếng kêu đầu hàng, tôi chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối thì một người chạy sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy tiếp, chạy khoảng 50 mét không nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng lại để thở. Tôi nói vội với anh em:

- Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo tôi, nếu người nào bị bắn mà bị thương, kể cả tôi, thì phải bỏ lại, chạy thoát thân, chứ không được đầu hàng. Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem bản đồ. Võ Định cách khoảng 8 cây số, chỉ băng theo hướng đông bắc là đến nhưng thế nào cũng gặp Việt cộng, tụi nó dứt Charlie rồi tất phải đánh phi trường Phượng Hoàng, vô đó là lãnh đủ (về sau đúng như vậy vì bọn chúng đang điều quân đánh căn cứ Võ Định). Cho nên tôi quyết định đi thẳng lên hướng bắc khoảng một cây số đánh lạc hướng địch, rồi vòng lại hướng đông nam ra Diên Bình, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa đói, vừa mệt, 10 người mà chỉ còn có 3 cây M16, mổi cây chỉ có một băng đạn, không biết lúc đụng trận nửa thì thế nào, tôi lại nhớ đến Hạnh, người đệ tử nhỏ con nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được ở lại pháo đội học bắn, nhưng không hiểu khoái tôi cái nổi gì đòi theo tôi đi đề lô cho khổ tấm thân, bây giờ không biết ra sao. Đi gần nửa ngày, đồi cao cả ngàn mét, đói lã người, nửa tháng nay không đêm nào ngủ được vài tiếng. Bổng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng lại, khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy được một toán Dù thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập chung, tới chiều thì gặp thêm một toán nửa, thêm hai Chuẩn úy và mấy Hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người với 10 cây M16, có vài người bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói quá, không ai còn miếng gạo sấy nào, chỉ còn một lon thịt ba lát, anh em khui ra đưa cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn quá, cả tuần nay chẳng nuốt gì được để từ từ rồi ăn. Biết được Chuẩn Úy Linh lớn tuổi và thâm niên hơn hai Chuẩn úy kia nên tôi kêu Linh riêng ra và nói:

- Lính của anh, anh dể chỉ huy hơn, còn tôi thì dẫn đường ra thôi.

Chuẫn Úy Linh trả lời:

- Trung Úy lớn nhất ở đây, chỉ huy, dẫn đi dâu chúng tôi theo lệnh Trung úy.

Tôi trở lại nói với anh em:

- Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch đông thì bỏ chạy, nếu địch ít thì đánh, ai bị thương kể cả tôi cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không được đầu hàng, tôi có niềm tin tôn giáo, Đức Mẹ sẻ che chở chúng ta. Tôi động viên như thế và mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người còn vũ khí đi đầu, ba Chuẩn Úy chia ra xen kẻ, còn lại không có vũ khí thì đi sau. Tôi cũng dặn dò kỷ hướng ra Quốc lộ 14, trên đường sẻ gặp những gì trên bản đồ. Nếu có thất lạc vì đụng trận thì theo hướng đó mà ra. Không phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi chỉ muốn làm tròn bổn phận người anh, lỡ tôi có bề gì thì biết đường ra cho sớm, trể một ngày là có thể chết vì đói.

Tối đó, tôi dặn Chuẩn Úy Linh cắt gác xong chia nhau đi ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng nay, tôi đánh thức mọi người dậy thật sớm để leo núi đở mệt hơn. Đến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng Thượng đã bỏ hoang, không có gì để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái xanh, đói gần chết mà chơi thứ này vô còn tịch sớm hơn nửa. Một người lính bổng thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất ít trái nhỏ màu vàng cở ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một trái không dám đưa hẳn vào trong miệng để nhai, tôi nhây nhây ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô vừa đến cuống họng thì nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng tôi bị ngứa tàn bạo, và một chốc sau thì đôi môi bị sưng lên, tránh võ dưa gặp vỏ dừa, may mà không nuốt vô, nếu không dám toi mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc thì lên một ngọn đồi dài mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đã san bằng. Ngọn đồi rất đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ thì nghe tiếng trực thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân, tôi cho anh em rút xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bải hay pháo binh bắn ghép bải lở trúng thì xui tận mạng. Thật đúng như phép lạ, trực thăng dọn bải phía bên kia đồi, đạn bạn vút qua trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe tiếng trực thăng đáp xuống. Đúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào đây (sau này tôi biết được Tiểu đoàn 9 Dù đổ quân). Sợ ngộ nhận, tôi quyết định đi tiếp, đến gần chiều thì dừng quân nghỉ đêm. Đôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm đen phía ngoài, còn trong cổ thì ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay vào miệng mà cào cho đã ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không, nếu bỏ mạng lãng xẹt như thế này vì ăn bậy thì đau quá. Trong lúc dừng quân, chúng tôi kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên với nước suối cầm hơi. Đêm đó nhìn lên bản đồ, tôi còn cách sông PôKô độ 2 cây số nửa, qua sông này được thì chiều tối đến xã Diên Bình. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và người nào cũng đuối sức hết thì làm sao mà qua đây. Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông PôKô đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên bờ. Ngay lúc đó, một chiến trực thăng từ hướng quốc lộ 14 bay thẳng vô núi, chúng tôi chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẩy vẩy. Từ xa trực thăng thấy được nhưng không dám bay lại gần, nó chỉ bay vòng vòng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng giơ tay vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghỉ trong bụng, chắc là trực thăng đi kiếm chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào tìm những người còn kẹt lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về Lữ đoàn để báo cho đồn Địa Phương Quân Diên Bình biết đừng bắn lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế nào họ cũng có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm mét thì thấy có một cái ghe nhỏ và một người đã tình nguyện bơi qua bên kia bờ lấy ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có lẽ bề trên đã an bài, một cái ấp bỏ hoang như thế này lại có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua sông, như một phép lạ. Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em đi ngang qua rẩy dân và cố tình nói chuyện lớn tiếng, để nếu có lính nghỉa quân ở đây thì nhận ra giọng miền Nam chứ không phải giọng Bắc con cháu giặc hồ mà không bắn lầm, đồng thời cũng vớt vát chút đỉnh củ khoai trái bắp gì đó trên đường đi. Đây là một quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của một sĩ quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính còn ca lên mấy câu vọng cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nửa, chẳng có gì ăn trên đường qua rẩy vì rẩy cũng bị bỏ hoang lâu rồi, thì lót lòng bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền Nam quê hương vậy.

Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có còn ngán cái địa ngục nào nửa đâu, ba cái thằng du kích xã dám xuất hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi lấy cái lý của kẻ lỳ cho anh em tự do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến Xã Diên Bình thì dừng lại. Sợ mò vào ban đêm bị vướng mìn tự động hay lựu đạn gài nên tôi cho dàn quân lại phòng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn dò hết sức cẩn thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết vì đạp mìn Địa Phương Quân thì lảng xẹt. Tôi vừa đi một vòng kiểm soát lại mọi người thì Chuẩn Úy Linh tiến lại nói có hai thằng mò vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho mình vào. Tôi nói tào thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Đại Úy Tiểu đoàn trưởng Địa Phương Quân và trình bày lý do, viên Đại Úy nói hồi chiều tôi đã được biết trước anh em sẻ về đúng nơi đây đêm nay, nên đã chuẩn bị các thứ để giúp anh em Nhảy Dù. Tôi mượn máy liên lạc với Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Dù và nhờ chuyển qua báo cho Tiểu đoàn 11 biết chúng tôi đã ra đến nơi, xong nói tôi có một số người bị thương, xin Đại Úy săn sóc dùm, viên Đại Úy cho người dẫn anh em bị thương lại một tu viện gần đó, tôi đi theo. Những vết thương được các seour rửa ráy hết sức cẫn thận, dòi con nào con nấy to bằng đầu đủa bò ra từ trong tủy xương tay mà anh em không cãm thấy đau đớn chi cả, có những nổi đau còn lớn hơn trong lòng mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này vì nói ra chúng tôi sẻ khóc. Giọt lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng chổ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc gì đó uống cho khỏi làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn Úy Linh đến để giao lại nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên Đại Úy hỏi tôi muốn ăn gì, tôi chỉ xin một tô cháo, và một chổ nằm.

Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi hầm, bước lên cầu Diên Bình nhìn về dẫy Trường Sơn âm u phía Tây, ánh hỏa châu lung linh trong đêm tối như canh giấc nghìn thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay còn tiếp tục đâu đó cuộc chơi tốn nhiều xương máu vì hai chử tự do, những người đi không về đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh hình như đang bay theo những đốm lửa nổ bộp trên không rồi tan vở từ từ thành hình một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy mình nắm lấy hai dây thượng thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên cao, bên tai tôi còn nghe tiếng kêu khát nước của Cho, tiếng đạn hú rợn người trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết...

Tiểu đoàn 11 Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đã để lại nơi đây người anh cả Nguyễn Đình Bảo cùng ba trăm đồng đội , và Tiểu đoàn về được tới Võ Định trước sau chỉ có mấy chục người, chưa được một Đại đội. Sau Hiệp định Paris, Đại Úy Hùng mập, Đại đội trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh dọc đường dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt cộng đòi giết để trả thù cho đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng không cho vì nhu cầu trao trả, anh hiện ở tại Houston. Người đệ tử tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em khác thì nằm lại tại một trại tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc Việt vì bị sốt rét và đói khát. Trung úy Lạc giải ngủ sau trận này, không chết, nhưng vết thương trên đầu khi thở ra hít vào thì da đầu cũng phập phồng theo trông rất ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón bảo hộ. Đại Úy Hùng móm và Chuẩn Úy Trưng đề lô bị bắt sống nhưng đã trốn thoát được sau đó, và chỉ vài tháng sau thì Đại Úy Hùng móm đã nằm xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quãng Trị, chỉ cách ngôi nhà củ của mình có 100 mét. Sau trận Charlie, tôi được Thiếu Tá Mễ chạy cho một cái Nhành Dương Liễu, đợi mãi không thấy, hỏi lại thì được biết Bộ Tổng Tham Mưu cúp hết huy chương của Quân Khu 2 sau trận này.

Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã đánh hai trận lẫy lừng nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa, Trận Charlie lãnh cở 10,000 quã đạn đại bác đủ loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có trận nào mà một đơn vị của quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến như thế. Tiểu đoàn 11 Dù bị mất hơn 4 đại đội, nhưng đã tiêu diệt được ít nhất cũng một Trung đoàn cộng quân của Sư đoàn 320 quả đấm thép, một đổi bốn. Sau chỉ một tháng bổ xung quân số rồi ra tái chiếm Quãng Trị, chỉ trong một đêm đến sáng của một ngày tháng 6 năm 1972, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và đề lô pháo binh đã bắn cháy 26 xe tăng địch, đánh tan cả một trung đoàn cộng sản Bắc Việt gần bờ sông Mỹ Chánh, khiến viên Trung đoàn trưởng này bị cấp trên của chúng xử tử. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay ra tưởng thưởng chiến công lẫy lừng này của Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù. Có lẽ quân sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào lập được một kỳ công thần kỳ như thế trong không đầy 24 tiếng đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu đoàn 11 đã dùng hỏa tiển TOW bắn cháy một xe tăng T54 của địch định khóa đuôi Đại đội 1 Trinh Sát Dù của Thiếu Tá Dũng, Đại đội trưởng, mà tôi đã thoát chết được khi đi đề lô cho Đại đội này ngay sát bờ Nam sông Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quãng Trị cuối tháng 6 năm 1972.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

NỢ ĐỜI MỘT NỬA CÒN MỘT NỬA ƠN EM…
Phạm tin An Ninh

Thời còn đi học, lang thang từ Nha Trang đến Sài Gòn, dù con nhà nghèo, học tàm tạm, và nhan sắc dưới trung bình, tôi cũng đã mang tiếng đào hoa. Cho nên có muốn kéo dài thêm cái đời học trò để được mơ mộng đủ thứ chuyện dưới biển trên trời thiên hạ cũng đâu có cho. Rồi có phải thuộc giòng hào kiệt gì đâu, tôi cũng xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. Nói kiếm cung cho nó vẻ văn chương và lãng mạn, chứ thực ra tôi vào lính, mà lại là thứ lính hạng bét thì làm gì có kiếm với cung. Có phải lính tàu bay tàu thủy gì đâu, mà là lính đi bộ. Lúc băng rừng lội suối, mặc bộ đồ trận hôi hám cả tuần không tắm, tôi ghét cay ghét đắng cái ông nào là tác giả cái câu “Bộ Binh là nữ hoàng của chiến trường” mà tôi đã đọc được ngay từ khi mới vào quân trường, đếm bước một hai để hát bài “đường trường xa”. Khổ thì khổ vậy, chứ mấy cô gái bé bỏng hậu phương lại mê lính trong mấy bản nhạc của ông Nhật Trường. Vì “nếu em không là người yêu của lính, ai thương nhớ em chiều rừng hành quân, ai băng gió sương cho em đợi chờ, và giữa chốn muôn trùng ai viết tên em lên tay súng ? .. ”. Nhờ vậy, trong mấy năm đóng quân dọc đường số 1, nơi nào tôi cũng để lại vài mối tình con. Tôi nghĩ đời lính như vậy mà vui, thì thôi chớ tính chuyện vợ con làm gì cho nó vướng chân vướng cẳng. Hơn nữa tôi cũng hiên ngang với đám con gái lắm, thì làm gì có chuyện “chết trong mắt em”. Vậy rồi trời xuôi đất khiến thế nào, sau mấy năm đánh đấm ở Quảng Đức, Ban Mê Thuột rồi Bình Định, Phú Yên, đơn vị tôi được mấy cái tàu há mồm chở vào bỏ xuống bãi biển Nha Trang vào lúc đường phố mới lên đèn. Tôi thấy lòng lâng lâng sung sướng vì không khí yên bình của thành phố biển, mà cũng vì tưởng mình đã được trở về với những “hang động tuổi thơ” của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Nào ngờ, khi còn mải mê với mộng mị, tôi bị đánh thức lúc nửa đêm cùng đơn vị leo lên một đoàn xe mấy chục chiếc để tiếp tục “hát khúc quân hành”. Đoàn xe ra khỏi thành phố, qua Ty Thông Tin, ra quốc lộ 1, trực chỉ hướng bắc. Tôi lại mừng thầm, nghĩ là sẽ được về dưỡng quân ở huấn khu Dục Mỹ. Nhưng tôi đã “ước tính tình hình” sai bét. Đoàn xe dừng lại tại bùng binh, ngã ba Ninh Hòa. Một tiểu đoàn lính đổ xuống cái thị trấn còn đang say ngủ. Đại đội tôi nhận lệnh vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau tôi rủ mấy thằng bạn, quần áo chỉnh tề, ra phía trước “thăm dân cho biết sự tình”.



Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”.



Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó :



Hồi nhỏ tôi rất anh hùng
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
Lớn lên trở chứng ngu khờ
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu?
Cớ sao chưa kịp lộn nhào
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là…



Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba.



Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó - mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ - bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa.



Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng - ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái.



Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng:



Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Em vá chồng lên những nỗi niềm
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc
Con thơ đâu còn biết vui cười
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một mình chèo chống giữa phong ba



Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng.



Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.



Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng. Cuối cùng nàng cũng chì còn có tôi, người lính thất trận năm nào, đã mang đến cho nàng biết bao là hệ lụy. Dư âm cuồng nộ của những cơn dông bão năm nào dường như vẫn còn đâu đó trong giấc ngủ của riêng nàng.



Tuổi sắp già, mà tôi còn mang nhiều món nợ. Biết làm sao trả cho xong. Nợ núi sông, nợ máu xương bè bạn. Mà khổ thay, tôi thì cứ mãi là thằng lính hèn mọn, bạc tình. Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa. Mảnh đất hiền hòa đã cho tôi một người vợ chung tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Trảng Bom bão lửa
(Trảng Bom-Hố Nai ngày 29 tháng 4, 1975)

Kỵ binh Vũ Ðình Lưu


Chiến Ðoàn 52 Ðặc Nhiệm (Sư Ðoàn 18 BB) sau những ngày quần thảo ác liệt với đại binh CSBV tại quốc lộ 20, khu vực Dầu Giây, ấp Nguyễn Thái Học bị tổn thất nặng nề. Chiều tối ngày 15 tháng 4, 1975 toàn bộ lực lượng mở đường máu về ấp Bàu Hàm. (xem bài “Quốc Lộ 20, hành lang của Tử Thần” cùng tác giả.)


Với 12 ngày đêm vừa qua, mặc dù chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi. Nhưng người lính Cộng Hòa đã gánh chịu bao đau thương chồng chất. Lính khổ, gia đình lính chịu nhiều thiệt thòi, lính lấy hai chữ số phận, vì đất nước chưa đến hồi thanh bình để tự an ủi chính mình, nên lính mỉm cười. Nhưng, dân khổ lính không cầm được nước mắt.Vì thế cuộc đã được sắp đặt từ trước của các siêu cường quốc, nên người lính không cản ngăn được sức tấn công điên cuồng của CSBV để cưỡng chiếm miền Nam VN.

Nước mắt của người lính tuôn rơi, khi chứng kiến hàng đoàn người vội vàng, tức tưởi gánh gồng thoát vùng lửa đạn chiến tranh sắp đến trên quốc lộ 20. Những cụ già, những em bé hai chân run rẩy, bỏng rát trên mặt đường nhựa bốc khói của nắng tháng 4. Chỉ trên vài ba chục cây số trên lộ 20, chỉ có một khoảng thời gian ngắn ngủi đã là như thế, huống chi trên khắp quê hương miền Nam trong suốt chiều dài cuộc chiến! Người lính chiến trẻ chúng tôi chấp nhận quá khứ, xếp bút nghiêng để khoác vào người chiếc áo trận. Với hiện tại dù hiểm nguy không sờn lòng và cả tương lai đang mịt mù trước mắt.


Sáng ngày 16 tháng 4, 1975 Trung Ðoàn 52 BB còn lại về Long Bình. Chi Ðoàn 2/5 Thiết Kỵ (CÐ 2/5 TK) di chuyển ra Trảng Bom tăng phái cho Lữ Ðoàn 3 Xung Kích (LÐ 3 XK). Chi đoàn được Tướng Khôi cho làm lực lượng trừ bị và tu bổ xe cộ, bổ sung quân số, tiếp tế nhiên liệu, thực phẩm; chờ lệnh mới.

Ngày 18 tháng 4, 1975 CÐ 2/5 TK di chuyển đến Tam Hiệp-Biên Hòa tăng phái cho Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù (TÐ 7 ND), đóng quân tại hậu cứ tiểu đoàn. Liên quân này làm lực lượng phản ứng nhanh cho Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, có nhiệm vụ chính là tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ thành phố Biên Hòa khi bị CSBV tấn công. Thiếu Tá Nguyễn Lô và tôi còn nhận nhiều lệnh tối mật trực tiếp từ tư lệnh Quân Ðoàn là Tướng Toàn.

Ðây là lần thứ 4, chi đoàn tôi tăng phái cho TÐ 7 ND. Lại gặp một người hùng: Thiếu Tá Nguyễn Lô, một tiểu đoàn trưởng mũ đỏ nổi tiếng. Ðơn vị tôi đã từng yểm trợ cho tiểu đoàn ông ở mặt trận Hố Bò, Bời Lời, Củ Chi, Bến Cỏ. Trước sức tấn công như vũ bão của lính Dù dưới hỏa lực kinh hồn của Thiết Giáp, liên quân lúc nào cũng làm chủ chiến trường. Một người với vóc dáng nhỏ bé, nhanh nhẹn, uống rượu như hủ chìm, nhưng chưa bao giờ say. Người đã vượt trại giam, đón xe đò ra đi tìm tự do khi trên người vẫn hiên ngang khoác chiếc áo trận rằn ri (nay thành áo tù).

Một trong những mật lệnh đó là bất cứ giá nào, phải bảo vệ cho bằng được những nhân vật quan trọng, cao cấp trong Ðặc khu Long Biên và Quân Ðoàn 3, đặc biệt là các viên chức dân, quân sự ngoại quốc. Nhưng tình huống xấu đã không xảy ra.

Ðến ngày 20 tháng 4, 1975, TÐ 7 ND và CÐ 2/5 TK di chuyển xuống quận Ðức Thạnh (Th/tá Giao làm Quận Trưởng) Tỉnh Phước Tuy. Tối ngày 20 tháng 4 liên quân Nhảy Dù-Thiết Giáp này hành quân lên hướng Xà Bang để yểm trợ cho SÐ 18 BB, Tiểu Khu Long Khánh, LÐ 1 Nhảy Dù, Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh (Th/Ð 5 KB-Tr/tá Trần Văn Nô thiết đoàn trưởng, Th/tá Nguyễn Ðức Ðào thiết đoàn phó) gồm có Chi Ðoàn1/5 Chiến Xa (CÐ 1/5 CX-Ðại Úy Lê Ðức Việt chi đoàn trưởng) Chi Ðoàn 3/5 Thiết Kỵ (CÐ 3/5 TK-Ðại Úy Lê Sơn chi đoàn trưởng), BÐQ... từ Xuân Lộc rút về Bình Giả.

Sáng ngày 22 tháng 4, 1975 Th/Ð 5 KB gồm CÐ 1/5 CX và CÐ 2/5 TK di chuyển về Biên Hòa Hố Nai (trừ CÐ 3/5 TK tăng phái cho TÐ 7 ND vẫn còn có nhiệm vụ hành quân khu vực Bình Ba-Xà Bang yểm trợ cho các cánh quân chưa về đến Bình Giả, như vài cánh quân của LÐ 1 ND có nhiệm vụ rút ra sau cùng)


Th/Ð 5 KB về đến Hố Nai, phối hợp với TQLC phòng thủ khu vực Bắc sân bắn Hố Nai. Lợi dụng thời gian tương đối yên tỉnh này toàn bộ thiết đoàn củng cố lại đơn vị sau 12 ngày đêm quần thảo đẫm máu với CSBV tại Xuân Lộc. (Tôi có gặp Tr/tá Nguyễn Ðằng Tống-Lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 468 TQLC (LÐ 468 TQLC) khi thị sát vòng đai phòng thủ. Ông là một trong những đại đội trưởng,tiểu đoàn trưởng nổi tiếng của binh chủng TQLC.

Những kỷ niệm thân yêu lại hiện về. “Ngũ quái” TQLC (Chữ của bà chị dâu tôi cũng là chị ruột của Tr/tá Tống) gồm: Tống (Quái Ðiểu),Tùng (Thần Ưng) Phúc (Trâu Ðiên), Hoàng, Toàn (Tất cả đều là K 16 VBQG.). Các anh khi về phép thường xuyên lưu lại nhà anh tôi tại Sài Gòn và... thiệt tình!... đúng nghĩa với 2 chữ “Ngũ quái.” Anh ta có nói: “Gặp được mày kỳ này, tao vui lắm, TQLC và Thiết Giáp nhất định phải làm cho Tùng, cho Phúc ở bên kia thế giới hài lòng. Khi nào về phép Sài Gòn nhớ cho tao biết để anh em mình cùng đi phòng trà.”

Trưa ngày 28 tháng 4, 1975 CÐ 2/5 TK di chuyển lên Trảng Bom, đóng quân gần sân bay nhỏ (của đồn điền cao su) phía Bắc QL1. Tôi đứng trên xe nhìn về hướng Long Thành nhiều cột khói đen bốc lên cao; được biết các thiết đoàn của LÐ 3 XK đang giao tranh với chiến xa CSBV khu vực Trường Thiết Giáp Long Thành.

Trảng Bom, nằm trên QL1 kế tiếp Hố Nai về hướng đi Long Khánh. Một thị trấn nhỏ bé, hiền hòa và thơ mộng, bao bọc bởi những rừng cao su xanh mướt. Trảng Bom vốn đã buồn nay lại càng đìu hiu, dân cư đã di tản gần hết, mấy ngày nay chỉ còn lại là lính.

Ðồng bào thôn quê miền Nam mình khổ, bất hạnh đến mức đó sao! Dọc đường 20 từ Ðịnh Quán đến Ngã Ba Dầu Giây, rồi đến Trảng Bom, Hố Nai nhà nhà kín cửa then cài, người người tất bật tìm về nơi an toàn hơn. Một dấu hiệu báo trước, một cuộc giao tranh sẽ tiếp theo sau.

Ðến 8 giờ tối tôi xin Hỏa Long (danh hiệu truyền tin của Tr/tá Nô) di chuyển chi đoàn qua phía Nam Quốc Lộ1, cách vị trí cũ chừng 300 mét, phòng thủ chung với Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn và CÐ 1/5 CX từ Hố Nai vừa mới di chuyển lên. Như vậy lực lượng tại đây là Th/Ð 5 KB (trừ CÐ 3/5 tăng phái cho Tiểu Ðoàn 3/48-Th/tá Phúc) và một đại đội Bộ Binh tùng thiết. Tuyến đầu lúc này là Hưng Nghĩa, Hưng Lộc trấn thủ bởi 2 Trung Ðoàn 43 và 48 thuộc SÐ18 BB thay thế cho LÐ 3 XK đã có nhiệm vụ mới ở khu vực trường Thiết Giáp Long Thành, quốc lộ 15.

Một giờ sáng ngày 29 tháng 4, 1975 trận chiến bắt đầu. Vị trí đóng quân của CÐ 2/5 TK lúc ban ngày, bị hỏa tập bằng đại pháo 130 ly và hỏa tiển 122 ly. Hàng trăm trái đạn trút xuống một vị trí nhỏ bé, bọn chúng tưởng rằng đủ để Thiết Giáp và Bộ Binh tại đây tan nát. Chúng có ngờ đâu đơn vị tôi đã di chuyển và đóng quân cách đó 300 mét. Hướng Hưng Nghĩa lực lượng CSBC cấp sư đoàn tấn công dữ dội vào các đơn vị của 2 Trung Ðoàn 43, 48 và CÐ 3/5 TK. Ðủ loại âm thanh vọng về, hàng trăm ánh hỏa châu soi sáng, lửa khói mù mịt khu vực Bàu Cá, Hưng Nghĩa. Tất cả mọi người tại đây đều căng mắt nhìn màn đêm, sẳn sàng cho cuộc giao tranh chắc chắn sẽ đến.

Hỏa Long cứ năm ba phút gọi tôi và Ðại Úy Việt một lần, trong lòng ông lo âu vì biết trận chiến tàn khốc sắp sửa đến với Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh. Sau hai tiếng đồng hồ căng thẳng từng giây từng phút. Hỏa Long cho tôi và Việt biết CÐ 3/5 hạ được 2 chiến xa tại Hưng Lộc nhưng phải đổi lấy 2 M 41. Mặt trận tuyến đầu này do Tiểu Ðoàn 3/48 BB và CÐ 3/5 TK chống trả quyết liệt trước sức tấn công điên cuồng của CSBV với quân số bộ chiến gấp cả chục lần. Và chiến xa gấp bội so với số chiến xa của ta. Nhưng nhờ hai đơn vị thiện chiến đã ngăn cản được phần nào sức tiến công nhanh chóng của bọn chúng về hướng Biên Hòa. Trong lúc đó có nhiều đơn vị bạn đã được lệnh và đang rút về hướng vị trí phòng thủ của thiết đoàn. Ông ta lập đi lập lại nhiều lần, thật cẩn thận coi chừng lẫn lộn bạn và địch. Chúng tôi vô cùng phấn khởi trước chiến thắng của hai đơn vị trên.

Tính của Tr/tá Nô hay lo lắng, mọi việc ông đều tiên liệu từ trước. Sống và làm việc gần ông, Ð/tá Trần VănThoàn, Tr/tá Thái Minh Sơn nhiều năm (khi tôi ở Ban 3 HQ) lúc nào các ông cũng rất cẩn thận, xử lý khéo léo mọi vấn đề. Từ khi làm việc ở Ban Tham Mưu đến khi chỉ huy chi đoàn tôi học hỏi được nhiều điều hay và rất vinh hạnh làm việc gần 3 ông. Tr/tá Nô người miền Nam (Sa Ðéc) phúc hậu. Ông và Tr/tá Sơn đều có bản tánh chất phác, hiền hoà và thương lính, các ông thể hiện rõ ràng là một cấp chỉ huy lẫn tham mưu dầy dạn kinh nghiệm. Tr/tá Nô vui tính, hay khôi hài để giảm sự căng thẳng khi làm việc, nhưng với ông lệnh lạc thật rõ ràng, cấp dưói phải nghiêm chỉnh thi hành. Còn Ðại Tá Thoàn, với bản tính tự tin, can đảm và nhanh nhẹn. Ông có cách điều quân khéo léo, tấn công thần tốc, phản ứng chớp nhoáng nên các đơn vị hành quân dưới quyền ông rất an tâm.

Khoảng 3 giờ sáng, có rất nhiều bóng người xuất hiện cách xa vị trí đóng quân và bị che khuất bởi rất nhiều cây như chuối, chồi, cỏ tranh cao đến cổ. Dưới ánh sáng mờ ảo của hỏa châu, chúng tôi không thể xác định bạn hay địch vì hệ thống truyền tin của các đơn vị bạn bận rộn, rối ren không liên lạc được. Cũng không thể dùng ánh sáng cơ hữu vì sợ lộ vị trí. Tôi báo cáo cho Hỏa Long biết, ông nhắc lại quan sát thật cẩn thận, phải biết chính xác là địch mới được tác xạ.

Ðoàn người càng ngày càng đông như đi biểu tình, và càng ngày càng tiến gần vị trí chi đoàn. Bổng trong hệ thống truyền tin, Th/úy Trự chi đội trưởng nói thật nhanh: “Báo cáo Phi Hổ (danh hiệu truyền tin của tôi) có nghe tiếng người nói: ‘Tăng ta hay tăng Ngụy?’” Phản ứng của tôi thật nhanh, ra lệnh các chi đội bấm mìn và tác xạ. Hàng chục quả mìn định hướng (mìn Claymore) được kích hỏa bùng nổ. Hàng chục khẩu đại liên nhả đạn, súng cá nhân M 16, M 79 của Bộ Binh cùng thi nhau bắn xối xả, như một con sóng lửa đẩy dạt bọn chúng về phía sau. Hỏa Long như hét vào tai tôi “Phi Hổ, coi chừng bắn vào bạn,” tôi xác nhận đó là VC, ông mới an tâm. Tôi lệnh cho 3 khẩu 76 ly của chiến xa M 41, 3 khẩu 106 ly không giật gắn trên xe M 113 bắn đạn chài khoảng cách nổ 30 mét. Ba khẩu súng cối 81ly của chi đoàn và 3 khẩu cối 106 ly của thiết đoàn thi nhau phóng những quả đạn nổ với không thuốc bồi chung quanh vị trí phòng thủ. Những quả đạn trái sáng bùng cháy, chúng tôi thấy rõ hàng trăm CSBV với trang bị đầy đủ hốt hoảng dội ngược, la hét chạy tán loạn về phía Ðông (hướng chi khu Trảng bom) và hướng Nam (có đường rầy xe lửa). Ngay tức thì hướng Bắc, CÐ 1/5 CX bắt đầu nổ súng càng ngày càng dữ dội. Với hỏa lực của chiến xa đánh bạt chúng về phía sau một cách nhanh chóng.

Như vậy CSBV hoàn toàn không biết vị trí của thiết đoàn, di chuyển ngang qua và gặp phải Thiết Giáp. Tao ngộ chiến, như chui đầu vô ổ kiến lửa! Quá bất ngờ và dưới hỏa lực mạnh của Thiết Giáp, chúng không kịp có một phản ứng nào, chỉ biết tháo chạy tán loạn. Chừng 10 phút sau tôi và Việt cho ngưng tác xạ để quan sát tình hình. Hỏa Long nhắc các chi đội của Bộ Chỉ Huy bố trí ở hướng Nam và Tây sẵn sàng tác chiến.

Tình hình trở lại im lặng, ngộp thở. Chúng tôi biết lực lượng CSBV không dưới cấp trung đoàn sẽ tấn công chúng tôi sau khi chỉnh đốn lại hàng ngũ. Và nhất là chúng sẽ điều chỉnh pháo cường tập vào chúng tôi vì vị trí đã bị lộ. Thật tình nói rằng chúng tôi rất sợ pháo của CSBV. Hai bên xung trận, chết sống chúng tôi không sợ. Nhưng sợ pháo, trong thời gian qua chúng tôi đã bị hứng pháo quá nhiều. Riêng chi đoàn tôi tất cả các xe đều bị trúng mảnh gang của đạn pháo, thành xe M113 nào cũng rổ chằn rổ chịt! Nhưng nhờ ơn trên che chở nên chưa hề có một trái đạn nào... chui lọt vào trong xe cả! Nửa giờ sau phòng tuyến phía Nam bị lực lượng CS cấp tiểu đoàn tấn công, các chi đội chỉ huy của Thiết Ðoàn chống trả mãnh liệt. Theo lệnh Hỏa Long tôi điều động một chi đội Thiết Kỵ và 3 chiến xa M 41 bung ra khỏi vị trí phòng thủ và đánh ngang hông địch. Chừng nửa giờ giao tranh ác liệt chúng rút lui về hướng Nam. Trong trận đụng độ này đơn vị tôi 3 binh sĩ tử thương, một bị thương, một hạ sĩ quan là Tr/sĩ Hiếu bị thương vì một xe M113 bị trúng hỏa tiển B40 bốc cháy. Tôi đưa anh em bị thương về xe y tá của thiết đoàn để băng bó vết thương và điều 2 chi đội trở về vị trí cũ phòng thủ.

Tình hình lại yên tĩnh, không biết địch mưu toan gì kế tiếp. Chúng tôi không biết sự thiệt hại của lực lượng CSBV như thế nào vì không thể kiểm kê. Nhiều cánh quân tại tuyến đầu là Hưng Lộc, Hưng Nghĩa dựa vào đường rầy xe lửa rút về hướng Hố Nai đã qua khỏi vị trí của thiết đoàn. Ðến 4 giờ sáng ngày 29 tháng 4, 1975, lực lượng CSBV bắt đầu pháo kích bằng đại pháo 130 ly. Mới đầu một vài trái rơi khá xa; chúng điều chỉnh từ từ lại gần vị trí đóng quân. Và tiếp theo vài trái rơi chính xác trong chu vi phòng thủ. Hỏa Long cho lệnh bung rộng đội hình để tránh pháo. Sau chừng 10 phút CSBV bắt đầu pháo cường tập vào vị trí. Pháo đủ loại 130 ly 122 ly, cối 82 ly đổ ập xuống vị trí. Chúng tôi bung đội hình rộng thêm, ngay lập tức chạm địch. LLCSBV đông đảo bắt đầu tấn công mãnh liệt. Hướng Nam các chi đội chỉ huy bị tấn công mạnh bằng Bộ Binh và xử dụng nhiều loại súng chống chiến xa.

Tôi bấm ống liên hợp truyền tin xin Hỏa Long cho 3 xe phun lửa làm việc vì phía ngoài chúng tôi toàn cỏ tranh cao đến đầu người. Ba xe M132 phun ra 2,400 lít xăng đặc nén tạo nên những đám cháy dữ dội bùng lên ở khoảnh cách 200 mét. Tiếp liền một xe phun lửa bị bắn hạ bởi đại bác 75 ly bốc cháy ngùn ngụt. Xe M 113 (xe y tá) bị B 40 bắn thủng hông. Thật xui cho các anh em bị thương vừa qua ở trên xe này phải một lần nữa... suýt chết! (Tr/sĩ Hiếu, một hạ sĩ quan hành quân, trẻ nhưng can đảm và nhiều kinh nghiệm, mới có nửa tháng bị thương lần thứ 3!).

Hỏa Long và Th/tá Ðào tức tốc điều chi đoàn tôi đối đầu với địch ở phía Nam (có đường rầy xe lữa Biên Hòa-Long khánh), để trám vào vị trí các chi đội chỉ huy đang chao đảo. CÐ1/5CX đánh trả ở hướng Bắc và hướng Ðông thay đơn vị tôi. Ba hướng: Nam, Ðông, Bắc đều bị sức tấn công dồn dập của CSBV. Chúng biết lực lượng đối đầu chúng là Thiết Giáp Binh nên chúng xử dụng toàn các loại súng chống chiến xa. Những quả đạn hực lửa của B 40, B 41, đại bác 57 ly, 75 ly không giật, tới tấp bay vào đội hình thiết đoàn. Các chi đội chỉ huy chuyển sang thủ hướng Tây (hướng về Hố Nai). Sau hơn một giờ giằng co bất phân thắng bại. Hỏa Long ra lệnh lui binh.

Lại lệnh lui binh! Lệnh từ trên ban xuống, chúng tôi là những cấp chỉ huy nhỏ, chỉ biết thi hành. Tấn công thì dễ, nhưng lui quân khó biết dường nào. Trong binh pháp lui binh trong lúc giao tranh ác liệt là chiến thuật khó khăn nhất. Hai tuần lễ đầu tháng 4, 1975, CÐ 2/5 TK này đã lui binh nhiều lần với tổn thất không nhỏ. Ðến nỗi phải mở đường máu để bảo toàn lực lượng, giờ phút này lại nhận lệnh... lui binh khi trận chiến đang ác liệt chưa phân thắng bại. Tôi nghĩ quá nguy hiểm khi địch biết chúng tôi quay đầu xe rút lui dù xử dụng thế “Chân vẹt” đi chăng nữa.

Tất cả các đơn vị đều dùng hỏa lực cơ hữu áp dụng thế “Chân vẹt” tối đa để yểm trợ lẫn nhau và tuần tự lui quân. Phi tuần oanh tạc không thấy, Pháo Binh im hơi lặng tiếng. Thật sự chiến đấu trong cô đơn và bị động hoàn toàn, buồn thay! Trước đây không lâu tất cả mọi cuộc hành quân chúng tôi chủ động với phi pháo yểm trợ đầy đủ. Các đơn vị trừ bị sẵn sàng nhảy vào vòng chiến nếu cần, còn bây giờ... “mạnh ai nấy lo,” uất nghẹn thay, tủi nhục thay cho một quân đội đang bị bức tử.

Các chi đội của Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn dẫn đầu xuôi về hướng Tây (Hố Nai). CÐ 1/5 CX chống trả, cản hậu hướng Ðông và Bắc. CÐ 2/5 TK đánh trả hướng Nam. Tất cả giữ vững đội hình vừa giao tranh vừa rút lui. Khoảng 6 giờ sáng, mới hừng Ðông, chúng tôi nhìn thấy nhiều chiến xa CSBV xuất hiện và đang đuổi theo đoàn quân của chúng tôi. Tôi biết rằng, chi đoàn tôi mặc dù vẫn còn 3 chiến xa M 41, 3 xe M 113 trang bị súng 106 ly không giật nhưng sẽ không địch lại với nhiều chiến xa T 54. Còn CÐ 1/5 CX sắp giao tranh với T 54 vì chúng cũng sắp đến trong tầm chính xác của đại bác 76 ly trên chiến xa M 41.

Tôi liền điều động chi đoàn qua bên phải đường rầy xe lửa để lấy lợi thế về địa hình và tạo khoảng cách giữa ta và địch cũng như dễ bề xoay xở hơn. Nhờ địa thế này tránh đạn đạo đại bác 100 ly của T 54 trực xạ vào cạnh sườn trái. Tất cả đều di chuyển về hướng Hố Nai, chỉ tác xạ cầm chừng và khi thấy rõ địch. Không bao lâu CÐ 1/5 CX bị T 54 tấn công. Ðơn vị tôi cũng bị Bộ Binh CSBV bám sát và tấn công mạnh từ bên kia đường rầy, xa hơn nữa là T 54 đang bám theo. Ðủ mọi loại súng thi nhau tác xạ, những luồng đạn lửa đan chéo nhau giữa ta và địch. Tình hình trở nên nguy kịch vì chiến xa T 54 đã bám theo kịp và bắt đầu khai hỏa. Những tiếng rít rợn người của đạn 100 ly, từng cục lửa đỏ hực bay vút qua đội hình của 2 chi đoàn và nổ ngay giữa đội hình của thiết đoàn. Cộng với súng cối 82 ly của địch đang rót đạn vào đoàn quân. Việt và tôi chỉ biết vừa chống trả với tất cả mọi hỏa lực cơ hữu vừa di chuyển theo hai bên trái, phải Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn rút về Hố Nai.

Tôi nhìn qua quan sát vài anh em Bộ Binh và Kỵ Binh trên xe chỉ huy, họ đang cầu xin một điều gì đó? Xin một phép lạ đến với họ và cho tất cả mọi người đang đối mặt với tử thần? Trong cơn nguy biến và tuyệt vọng, nói thật ra tâm linh mỗi người đều dậy lên một niềm hy vọng dựa vào các Ðấng Quyền Uy. Riêng tôi, đã làm Dấu Thánh Giá cầu xin Ðức Chúa Toàn Năng, cầu xin Mẹ Maria đầy ơn phước bao che cho tất cả mọi người lính nơi đây tai qua nạn khỏi. Cầu mong phép nhiệm mầu, quyền năng của Ðấng Tối Cao sai khiến và làm thay đồi tình huống cực kỳ nguy hiểm hiện tại.

Dòng suy nghĩ chợt tắt khi hệ thống truyền tin, Hỏa Long gọi tôi và Việt tiếp chuyện. Trong lúc thập tử nhất sinh ông cho biết có 2 phi tuần bom Napalm (bom xăng đặc) đang bay tới. Tôi và Việt bớt lo phần nào, tôi ngửa mặt lên, nhìn thấy những chiếc khu trục hùng hổ bay sà sát xuống mặt đất. Chúng tôi chưa kịp nói thêm được gì, yêu cầu đánh ở đâu thì những luồng đạn đại bác 20 ly nổ tóe lửa cách các xe bìa chừng 50 mét. Tiếp đến, một dòng thác lửa cuồn cuộn bùng lên sát hông trái đội hình chi đoàn. Một đám lửa lớn nữa trải dài bên hông phải của CÐ 1/5 CX. Trong đời binh nghiệp của tôi, tôi chưa bao giờ thấy các sĩ quan Không Trợ điều chỉnh chính xác như thế này. Hay các phi công tài ba liều lĩnh thả những trái bom hết sức mạo hiểm (không giữ khoảng cách an toàn) như hôm nay.

Tôi tự nhủ rằng lần sau đừng có đánh bom kiểu này nữa nha anh bạn phi công khu trục. Nhưng oái ăm thay không có một lần sau nào nữa cả. Ðó là những phi vụ cuối cùng của các anh, hay những quả bom cuối cùng được thả xuống cho cuộc chiến? Cả hai đều đúng. Tri ân các anh bạn Không Quân đã làm thay đổi tình huống nguy khốn.

Hai đám lửa lớn trải dài kẹp hai bên trái, phải của hai chi đoàn và bạt mạnh về hướng địch. Phải khen rằng những anh phi công này có kỹ thuật đánh bom Napalm xuất chúng. Khói lửa mù trời, nghẹt thở. Sức nóng bỏng rát của bom xăng hắt vào mặt mọi người và bao trùm bởi khói đen vì những quả bom lửa nổ quá gần vị trí. Thật quá nguy hiểm nhưng nhờ “Thần Lửa” đã tạo ra một khoảng cách khá xa giữa ta và địch, đã đẩy lùi địch về phía sau và đẩy lực lượng ta... về phía trước.

Tất cả tiếng súng bên ta, bên địch đều ngưng hẳn cùng một lúc. Chưa bao giờ có cái lệnh ngưng bắn cho cả 2 bên hiệu quả như lần này!... Tất cả như hoàn hồn, tôi ngước mắt nhìn lên trời 4 chiếc khu trục đã cất lên tận trời xanh, xa xa những luồng lửa đạn thượng liên 12ly8 của địch bắn đuổi theo sau một cách tuyệt vọng.

Hỏa Long ra lệnh cho tất cả tăng tốc độ tiến về phía trước. Bỏ lại sau lưng một biển lửa mênh mông. Bỏ lại trên vùng đất mang địa danh Trảng Bom hiền từ nầy những gì tệ hại nhất của trận chiến tàn khốc. Một sự trùng hợp khá bẽ bàng Trảng Bom với Hỏa Long, trọn nghĩa hơn là bom đạn và lửa khói đang hiện hữu nơi đây.

Kết quả trận chiến vừa rồi dưới mắt chúng tôi là 1 chiến xa M 41, 2 M 113, 1 xe M 132 (xe phun lửa) đổi lấy 3 T 54 của địch. Ta-Ðịch, thua huề hay thắng? Ðến giờ phút này, tất cả đều không còn thành vấn đề nữa, theo lệnh trên miễn sao chúng tôi chiến đấu đến cùng. Và chúng tôi đã làm chùn bước trước sức tiến quân của một lực lượng CSBV cấp sư đoàn có chiến xa, trọng pháo yểm trợ.

Chúng tôi lại chào tạm biệt thêm một thị trấn của miền Ðông đất đỏ đầy máu lửa chiến chinh!

Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh, CÐ 1/5 CX và CÐ 2/5 TK di chuyển về Hố Nai lúc 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4, 1975 và bố trí trên một ngọn đồi thoai thoải thấp phía sau nhà thờ Tân Bắc. Tuyến đầu bây giờ là LÐ 468 TQLC phụ trách, cách vị trí chúng tôi 2 cây số về hướng Trảng Bom.

Theo lời yêu cầu của Tr/tá Nguyễn Ðằng Tống lữ đoàn trưởng. Hỏa Long gọi tôi cùng ông gặp Tr/tá Tống để phối hợp phòng thủ. Ba người họp ở bên hông nhà thờ Tân Bắc- Hố Nai để phối hợp chiến thuật giữa TQLC và Thiết Giáp trong thời gian sắp tới.

Tr/tá Nô và tôi xuống xe M 113 Chỉ Huy và đi bộ lại chiếc xe JEEP của Tr/tá Tống. Ông tiến tới đón 2 hai người, ông bắt tay Tr/tá Nô xong quay nhìn tôi chăm chăm một lúc, và hỏi “Ðại Úy Lưu có lại không Tr/tá?” Tôi liền nói lớn: “Em Lưu nè, anh Tống,” hai mắt anh mở lớn nhìn tôi kinh ngạc, ôm choàng lấy người tôi nói: “Trời! mầy đây hả Lưu.” Tôi chợt nhớ là mình chưa kịp rửa mặt, nhìn xuống bộ đồ trận đã đổi thành màu đen với bụi, tro lốm đốm bám đầy mình. Tôi đi lại soi mặt vào chiếc kính chiếu hậu của chiếc JEEP... tôi cũng không nhận ra tôi vì... không giống ai! Bảng tên trên ngực áo cũng đã mất chữ. Te tua quá đổi! Người lính TQLC nhìn mặt tôi và quay đi với nụ cười lén, anh trao cho tôi một “bình ton” nước. Và tôi xóa đi lớp bụi đen thui, đen thủi này. Xóa thêm một cơn ác mộng, cơn ác mộng thứ tư trong vòng chưa đầy nửa tháng!

Cả 3 người Tr/tá Nô,Tr/tá Tống và tôi thả bộ ra đường phố Hố Nai để quan sát tình hình. Nhà cửa, phố xá đóng cửa kín mít, hàng quán không còn bày bán một thứ gì cả. Có nhiều anh em Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ trang bị vũ khí chạy ngang chạy dọc chỉ chỏ lung tung. Ngày trước khu vực này sầm uất buôn bán nhộn nhịp, tấp nập, hôm nay vắng vẻ đìu hiu quá. Tôi gọi một anh Nghĩa Quân có vẻ là toán trưởng lại để hỏi chuyện. Anh ta mặc đồ dân sự tay cầm khẩu súng phóng lựu M 79 với 2 dây đạn đầu màu vàng (đạn nổ) và một dây đạn chống chiến xa. Trên vai mang một khẩu M 16. Anh ta giới thiệu anh là trung đội trưởng Nghĩa Quân đang phân công anh em bố trí phòng thủ. Tôi hỏi anh ta có cần thêm đạn gì không? Anh ta bảo rằng anh em TQLC mới cho đạn M 79 chống chiến xa, và một số đạn M 16.

Ðến giờ phút cuối cùng này. Những người Nghĩa Quân chỉ là Lực Lượng Bán Quân Sự, người lính không có số quân còn vững tay súng để sống chết với quê hương! Thán phục các anh, vì lòng yêu làng, thương xóm một lòng với đồng bào đã từ bỏ xứ Ðạo, từ bỏ tất cả để từ miền Bắc di cư vào đây năm 1954. Nay các anh cương quyết gìn giữ xóm Ðạo, bảo vệ một vùng Ðất Thánh! Một hình ảnh đẹp, khó quên. Cầu xin Ðức Mẹ ban bình an cho các anh.

Lợi dụng địa hình để có một chu vi phòng thủ tối ưu. Chín chiến xa M 41 và 3 M 113 có gắn đại bác bắn thẳng106 ly không giật bố trí quay súng về hướng Ðông chờ chiến xa T 54 của địch. Tất cả các khẩu đại bác đều nạp đạn chống chiến xa và sẵn sàng nhả đạn. Phía dưới thung lủng các chiến sĩ Mũ Xanh cũng sẵn sàng nghênh chiến.

Hai giờ chiều ngày 29 tháng 4, 1975, trận chiến mới, bắt đầu bùng nổ dữ dội phía thung lủng giữa TQLC và Bộ Binh CSBV. Khoảng nửa giờ sau từ trên đồi nhìn xuống chúng tôi thấy nhiều đám bụi xuất hiện. Nhiều chiến xa địch đang áp sát nơi đang giao tranh, tiếp đến những cuộc quần thảo khốc liệt giữa chiến sĩ Mũ Xanh và địch có T 54 yểm trợ... 2 T 54 cháy vì trúng đạn M 72 của TQLC.

Bất ngờ một đoàn trên 10 chiếc chiến xa T 54 lù lù xuất hiện từ QL 1 di chuyển đến khoảng giữa vị trí phòng thủ của thiết đoàn và nơi đang giao tranh dưới thung lũng. Tôi nghĩ rằng chúng dự trù đánh bọc ngang hông lực lượng TQLC và không thấy chúng tôi vì chúng từ dưới địa hình thấp nhìn lên, chúng tôi được che khuất bởi những mô đất trên ngọn đồi.

Có còn cơ hội nào tốt hơn nữa, các chiến xa T 54 đang đưa hông trước các họng đại bác. Với khoảng cách 1 km trong tầm của đại bác 76 ly của CX M 41 và 106 ly bắn thẳng. Tr/tá Nô, Th/tá Ðào đã chỉ thị tôi và Việt phối hợp hành động. Mười hai trái đạn rời nòng bay vút vào các T 54. Hai bốc cháy, hai bay pháo tháp và lật nghiêng. Sáu chiếc còn lại liền quay đầu chỉa đại bác 100 ly và tác xạ vào chúng tôi. Những trái đạn nổ tung lưng chừng trên triền đồi thoai thoải. Có những quả bay vút qua đầu với tiếng rít rợn người. Mười hai trái đạn nữa rời nòng, thêm 2 T 54 bị hạ.

Hướng Bắc bên kia QL1, TQLC và cả trung đoàn CS có chiến xa yểm trợ đang giao tranh cũng được một giờ rồi. Bây giờ chúng tôi lại nghe tiếng súng lớn nhỏ nổ liên hồi ngoài đường phố Hố Nai. Tiếng súng càng lúc càng gần. Sự phấn khởi của tất cả mọi người trước những chiến xa T 54 bị hạ chợp tắt nhanh chóng, khi nhìn thấy một đoàn chiến xa T 54 và Bộ Binh CS nữa xuất hiện ngoài QL1và đang hùng hổ tiến tới. Tiếp đến chúng tấn công cuồng bạo vào Bộ Chỉ Huy của LÐ 468 TQLC và cả lực lượng của TÐ 5 KB. Một M 41 và 2 M 113 bị T 54 bắn banh xác... Chúng tôi rút lui nhanh chóng để khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn!!! Lại chia tay thêm một thị trấn, một xứ Ðạo-vùng Ðất Thánh Hố Nai.

Và từ đó tôi không còn gặp lại một người anh, Tr/tá Nguyễn Ðằng Tống. Sau này anh đã để lại thân xác trên núi rừng miền Bắc; với 4.5 khúc ruột bị nối vì chiến trận thì làm sao có thể sống được dưới chế độ lao tù CS. Một nén hương lòng thắp lên để nhớ anh, anh Tống.

Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh, 2 chi đoàn rút về đóng quân tại Ngã 3 Tam Hiệp lúc 7 giờ tối ngày 29 tháng 4. Nhìn về hướng phi trường Biên Hoà nhiều cột lửa bốc cao với khói đen cuồn cuộn. Ðêm đó chúng tôi nhìn thấy ngoài xa lộ thỉnh thoảng từng cặp chiến xa CSBV chạy rất nhanh ngang qua vị trí phòng ngự. Chúng tôi nằm im lìm chờ lệnh...

“Thế, Quốc biến lấy gì lo chiến chinh? Hy sinh.”

Trong lòng đau đớn tột cùng khi kiểm kê lại sự tổn thất vừa qua. CÐ 2/5 TK bây giờ chỉ còn 10 chiếc M 113. Một chiếc chiến xa M41 tôi thấy tội nghiệp, lẻ loi quá nên cho về với “mái nhà xưa” là CÐ 1/5 CX. Quân số còn lại chỉ vỏn vẹn 50 Kỵ Binh. Chiến tranh ơi! khốc liệt quá, tàn nhẫn quá, chỉ có 1 ngày CÐ 2/5 TK bị tiêu hủy 2 CX M 41 và 2 M 113, 20 Kỵ Binh các cấp loại khỏi vòng chiến đấu. Mới đây thôi chưa đầy 2 tuần lễ của đầu tháng 4, CÐ 2/5 đã bị mất 1 xe M 41, 8 xe M 113 và hơn 1/4 quân số trên QL 20. Chúng tôi cũng như những đơn vị của QLVNCH và tất cả Dân, Quân, Cán, Chính đã và đang hy sinh. Hy sinh để VNCH sống còn. Nhưng đau thương thay cho vận Nước, VNCH thua cuộc! vì sự xếp đặt trên sân khấu chính trị của các siêu cường quốc.

Ngày 30 tháng 4, 1975 toàn bộ lực lượng rút về đến cầu Bình Phước lúc 1giờ chiều. Từ đây mọi sự liên lạc bị cắt đứt. Nhớ một người thầy trong binh chủng mà tôi đã từng học hỏi nhiều nhất, từ lúc chập chững vào đời binh nghiệp đến ngày hôm nay. Nhất là thầy trò cùng nhau gánh chịu tất cả đau thương nghiệt ngã của ngày vừa qua. Người thầy Tr/tá Trần Văn Nô đã về lòng đất mẹ năm 1987.

Ngay tại đây đơn vị tôi bị lực luợng CS khống chế và leo lên các xe. Tôi cố gắng liên lạc với thiết đoàn liền bị một cán binh CS chụp lấy ống liên hợp truyền tin ném đi. Một binh sĩ kề cận tôi chỉa súng vào anh cán binh này, bị một cán binh khác dộng báng súng vào người rớt xuống lòng xe. Nếu không có sự kiềm chế tột đỉnh của anh em Kỵ Binh thì chiếc xe M 113 này đã nổ tung, máu lửa tràn ngập. Thế là hết, mất tất cả rồi. Tất cả các súng đại liên trên xe thay đổi chủ, chúng dẫn 10 xe M 113(thuộc đơn vị tôi) về tại cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi chứng kiến một cảnh đau lòng, Thiết giáp ta, đại liên ta, xạ thủ địch giao tranh với những đơn vị Biệt Kích 81 Nhảy Dù còn cố thủ trong Bộ Tổng Tham Mưu. Vì họ không chấp nhận sự đầu hàng của lãnh đạo cao nhất của đất nước. Ðau đớn thay! Nhục nhã thay cho một sự đổi đời từ đây!

Lợi dụng sự hỗn loạn của đồng bào, quân nhân lũ lượt rời nhiệm sở. Anh em thương binh vết thương còn rỉ máu bị xô đuổi từ bệnh viện Cộng Hòa đi về hướng Sài Gòn. Tôi xuống xe bỏ cuộc và tháp tùng theo đoàn người, đi được chừng mấy bước, một họng súng AK 47 đen ngòm chỉa thẳng vào ngực, hét lớn “Quay lại xe, bằng không sẽ bắn bỏ.” Tôi đành phải trở lại xe và tháo bỏ thêm đôi giày trận đã theo tôi gần 8 năm trời ròng rã. Tôi xỏ đôi bàn chân vào đôi dép quai dọc, với chiếc quần khaki, và chiếc áo may-ô cùng màu ôliu. Một lần nữa tôi và anh em đồng đội thân thuộc trà trộn vào đoàn người đủ mọi thành phần thoát khỏi xe M 113. Trong lòng quặn thắt, tim nhói đau tột cùng, như bị buộc phải thoát khỏi lòng người Mẹ bao năm trời bảo bọc, che chở cho những người con yêu quí, để đi về một phương trời vô định.

Tôi ra đi trong tức tưởi nghẹn ngào; ra đi trong âm thầm lặng lẽ. Không kịp nói một lời từ giả với các cấp chỉ huy, bạn bè và đồng đội. Ðầu óc choáng váng, nước mắt tuôn rơi, với từng bước chân mệt mỏi rã rời. Từng bước uể oải, nhọc nhằn xiêu vẹo (bàn chân trái của tôi đã từng bị thương 2 lần, nay không quen mang dép đi xa).Tôi vừa đi vừa nhìn xuống mặt đường thấy bóng mình chao đao nghiêng ngã! Từ Lăng Cha Cả về đến cầu Công Lý (gần nhà anh ruột tôi) mà tôi đi đến 3 tiếng đồng hồ.

Sáng ngày 2 tháng 5, 1975 tôi mới nhờ người cháu chở về nhà tại Thủ Ðức với bộ đồ dân sự của ông anh trên người. Tội nghiệp thay! Ba mẹ vợ và cả vợ tôi vài phút đầu tiên không thể nhận ra tôi. Rồi sau đó tất cả oà khóc. Các con tôi đứng nhìn ngơ ngác, rồi cũng khóc theo (chúng không thề nào nhận ra tôi, vì từ lâu tôi không mặc đồ dân sự). Mới ngày hôm qua đây, ông anh rể và bà mẹ vợ đi tìm tôi qua từng cái xác mặc đồ trận, nằm gần các xe thiết giáp bị cháy, từ ngã tư Thủ Ðức đến cầu Rạch Chiếc. Ôi! có hành động nào cảm động bằng. Thương thay!

Tôi đã trở về trong bình an, làm sao cả nhà cầm được nước mắt sung sướng. Tất cả đều khóc, khóc cho tôi được an lành sau cuộc chiến đẫm máu. Khóc cho tôi thân hình còn nguyên vẹn sau bao lần trên chiến trường nghiêng ngả. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người có con em, có chồng là những người lính VNCH. Hay chính những người lính trẻ như chúng tôi, hai ngày nay đều đã khóc. Khóc mừng cho sự sum hợp. Khóc cho sự mất mác lớn lao. Khóc cho một viễn ảnh Việt Nam Hòa Bình.

(Những nén hương lòng được thắp và dâng lên để tưởng nhớ những người quá cố. Ðã cùng chia sẻ với chúng tôi trong cơn hồng thủy: cố Tr/tá Trần Văn Nô, Cố Tr/tá Nguyễn Ðằng Tống, Cố Th/tá Nguyễn Ðức Ðào, Cố Ðại/úy Lê Ðức Việt, Cố Ðại úy Hồ Thúc Hạ, Cố Th/úy Ðỗ Chinh Chiến, Cố Th/úy Sơn. Và tất cả anh em đã hy sinh cho cuộc chiến tháng 4 năm 1975 dọc theo QL 20 và QL1).
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image

Tài liệu lịch sử ngày 30-4-1975:
Đại Tướng Dương Văn Minh:
“Em làm chứng cho ‘Goa’ nhe!”


*Nguyễn Đình Toàn


Suốt từ bữa cơm tối hôm qua, anh chị Nguyễn Văn Binh đều bàn bạc và lo âu về vấn đề Đại Tướng Dương Văn Minh bất thần đổi ý không chịu nhận ra gánh vác tránh nhiệm nữa…Tôi và Ông Đỗ Sinh Tứ chỉ ngồi nghe và không ai có ý kiến gì. Ông Đỗ Sinh Tứ, nguyên là Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ra ứng cử và đắc cử dân biểu nền Đệ Nhị Cộng Hoà và là thành viên trong Nhóm Quốc Gia thuộc Hạ Viện mà anh Nguyễn Văn Binh là Trưởng Nhóm. Là những người Công Giáo di cư, cả hai chúng tôi đều không có cảm tình gì với Đại Tướng Dương Văn Minh, người đứng đầu thực hiện cuộc đảo chánh Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho nên khi nói về Tướng Dương Văn Minh, cả hai chúng tôi đều cảm thấy không hứng thú gì, nhưng anh chị Nguyễn Văn Binh thì lại khác, nếu không muốn nói là ngược lại. Tôi không rõ tình cảm, quan hệ của họ ra sao, nhưng quả thật anh chị Binh rất tán thành và ủng hộ Tướng Dương Văn Minh, cho dù anh Binh là người Công Giáo và được hưởng đặc ân của Bà Ngô Đình Nhu theo như anh thường tâm sự với tôi mỗi khi hai anh em nhàn rỗi…

Mặc dù ông Đỗ Sinh Tứ đang bận rộn cho việc bán và dọn nhà. Ông Tứ sáng nào cũng ghé nhà anh Binh ăn sáng với anh em chúng tôi, có khi cả buổi chiều nữa, qua đó để nắm bắt diễn biến tình hình… Sáng hôm nay trong bữa ăn sáng cũng vậy, mặc cho anh chị Binh thao thao bất tuyệt bàn về chuyện Đại Tướng Minh nhất định khăng khăng không chịu ra lãnh trách nhiệm nữa, bất kể bao nhiêu người đến thuyết phục. Ông Đỗ Sinh Tứ tay vẫn cầm quyển sách tiếng Pháp, miệng cứ lẩm bẩm đọc, rồi bất chợt lại nói cho mọi người biết là theo bí mật Fatima, sắp sửa sẽ có hiện tượng tối thui 3 ngày 3 đêm, đó là điềm sắp tận thế…mọi người phải dọn mình ăn xám hối…

Ông Đỗ Sinh Tứ, anh Nguyễn Văn Binh và tôi. Cả ba anh em, một già, một xồn xồn và một trẻ đã tự hứa với nhau là, nếu có một việc gì quan trọng mà cần phải đi đến một quyết định, trong trường hợp nếu vắng một người mà hai người kia đã cùng quyết định thì người thứ ba vắng mặt cũng phải chấp nhận. Đó là lý do tại sao tôi phải đồng ý tham dự cuộc đảo chánh Cố TT Nguyễn Văn Thiệu vào đầu tháng 4 năm 1975. Hai vị này đã quyết định vào buổi họp ban tối khi tôi trở về nhà thăm vợ con sau một tuần lễ vắng nhà mà vợ vừa mới sinh được hai tuần.

Ăn sáng xong, má anh Binh đi vào phòng nghỉ, phòng ăn còn lại chỉ còn 3 anh em chúng tôi và chị Binh. Anh Binh bắt đầu câu chuyện một cách nghiêm nghị:

“ Như cuộc họp tối hôm kia (22-04-1975) tại nhà Đại Tướng, Trung Tướng Trần Văn Đôn đã trình bày về khả năng tái phối trí quân đội, tình trạng các kho dự trữ vũ khí của mình…và tình hình hàng chục sư đoàn CSBV đang bao vây Sài Gòn, cũng như mấy chục ngàn quả pháo 130 ly, 222 ly mà chúng đang chĩa vào thành phố mà anh em đã biết. Đó là lý do chính mà Đại Tướng sợ không dám nhận nữa. Đêm hôm qua, Đại Tướng cho biết: Đại Sứ Mérillon của Pháp cho biết là Ngoại Trưởng Sullivan của Ông ta vừa mới điện cho biết là phía bên kia họ chỉ chịu thương thuyết hay nói chuyện với chính phủ không phải là của Nguyễn Văn Thiệu, mà Cụ Hương thì họ không chịu, vì chúng cho rằng đó là chính phủ không Thiệu mà có Thiệu. Ông Mérillon nói rằng họ ám chỉ là họ chỉ thương thuyết với Đại Tướng thôi và yêu cầu Đại Tướng ra nhận trách nhiệm, nhưng mà Đại Tướng thì nhất định không nhận nữa…”

Ông Đỗ Sinh Tứ nói ngay:

“ Tôi không tin được mấy thằng cộng sản, bọn chúng chỉ lươn lẹo rồi đánh lừa thôi. Không có thương thuyết hay hội họp gì đâu, ai lên rồi thì chúng cũng sẽ đánh đến cùng thôi. Đừng có bao giờ tin mấy thằng cộng sản.”

“ Nhưng bây giờ mình phải có cách chớ. Nếu cứ để như thế này dù Cụ Hương có hô hào tử thủ đến cùng thì có còn gì đâu để mà đánh, quân đội, súng đạn và sự hỗn loạn của dân đang kéo về thành phố? Cuối cùng thì thành phố Sài Gòn cũng tan nát và dân chúng cũng sẽ chết và CS nó vẫn chiếm được…Thà rằng chúng ta thuyết phục Đại Tướng ra nhận trách nhiệm, hy vọng nếu chúng chấp nhận nói chuyện, thương thuyết thì mình cũng có thể kéo dài thời gian được vài ba tuần hay một hai tháng để tái phố trí hay hay về Miền Tây tử thủ…” Anh Binh nói.

“ Không bao giờ thằng cộng sản nó họp hành hay thương thuyết gì với chúng ta đâu khi chúng đang ở thế thượng phong, anh em cứ tin tôi đi.” Ông Tứ nhấn mạnh.

“ Nhưng dù sao Đại Tướng đứng ra cũng còn có một chút hy vọng, còn hơn là không còn gì cả..” Anh Binh cố tuyết phục tiếp.

Ông Đỗ Sinh Tứ ậm ự rồi thủng thẳng nói:

“ Thì … cũng không biết làm sao bây giờ? Mà Ông Minh Ông ấy cũng khôn đấy, đâu có ai dại gì mà ra ôm lúc này?

Anh Binh nghe thấy Ông Tứ có vẻ dịu giọng như vậy liền nói tiếp:

“ Rất nhiều người đã đến thuyết phục Đại Tướng, các đảng phái, tôn giáo, dân biểu, nghị sĩ …nhưng Đại Tướng nhất định không chịu nữa. Anh em họ nói với tui là chỉ có chú Toàn, chú Toàn nói may ra Đại Tướng nghe, anh em họ nói rằng Đại Tướng chỉ nghe chú Toàn thôi, tui đề nghị chú Toàn đến thuyết phục Đại Tướng chắc chắn là Đại Tướng nghe thôi..”

Chị Binh nghe vậy liền nhảy vào góp ý:

“Đúng đấy, anh em em họ nói chỉ có chú Toàn nói may ra Đại Tướng mới nghe, chị đề nghị chú Toàn nên nói gặp và chuyện với Đại Tướng đi.”

Tôi ngồi im lặng một lát rồi nói:

“ Làm sao mà các anh chị lại tin là em có thể thuyết phục được Đại Tướng?”

Bỗng Ông Đỗ SinhTứ nói:

‘Ừ… thì Toàn em cứ thử nói chuyện với Đại Tướng xem sao? May ra có gỡ gạc được gì chăng? Chứ cứ như tôi thì chẳng còn gì cả mà hy vọng…”

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói:

“ Các anh cho em suy nghĩ một chút, vẫn đề này khó khăn quá, nó vượt quá khả năng của em.”

“ Anh em họ tin là chú Toàn nói Đại Tướng sẽ nghe, anh cũng tin như vậy.” Anh Binh nói. Chị Binh nhảy vào nói tiếp:

“ Thực đó chú Toàn, chị cũng tin như vậy. Em cố gắng gặp và nói chuyện với Đại tướng đi..tình hình nguy ngập lắm rồi..”

“ Xin cho em thời gian suy nghĩ.” Tôi thong thả trả lời.

Sau đó Ông Đỗ Sinh Tứ ra về, anh Binh nói:

“ Anh vào gặp Đại Tướng một chút, Toàn ở nhà suy nghĩ đi, anh vô trỏng đó rồi về ngay.”

Thế là cả hai vị đều ra đi, còn lại tôi và chi Binh, chị cố thuyết phục tôi thêm một hồi nữa rồi cũng đi luôn. Trở vào phòng nằm suy nghĩ: bây giờ mà chạy xe đến gặp anh Tuyến (Bác sĩ Trần Kim Tuyến) thì không biết đến bao giờ mới quay trở lại được. Do dự, tính toán một lúc, sau đó tôi vôi điện thoại cho Cụ Trương Vĩnh Lễ, hỏi thăm tình hình lúc này ra sao rồi thì Cụ cho biết:

“ Toàn không có gì mà phải lo, chính phủ Pháp họ ra lệnh cho kiều dân của họ không có phải di tản gì hết, toàn bộ tài sản của chính phủ Pháp đã giao cho tôi quản lý, không có gì đâu mà Toàn phải lo…”

Tôi hỏi về giải pháp Dương Văn Minh thì Cụ nói rằng:

“ Người Pháp đang đứng ra vận động để đi đến thương thuyết và ngưng bắn, thì Đại Tướng Minh có lên thì cũng đúng thôi”.

Nói chuyện với Cụ Trương Vĩnh Lễ xong, tôi quyết định tham khảo ý kiến anh Tuyến qua điện thoại nhà của anh Binh, vì cả nhà đều đi vắng hết chỉ còn má anh Binh là ở trong phòng. Tôi xuống nhà ăn dùng điện thoại tại đây. Sau khi nghe anh Tuyến cho biết về tình vô cùng nguy ngập, anh yêu cầu tôi phải lo đi gấp kẻo không kịp. Tôi nói tôi chưa thấy cần phải đi ngay bây giờ và trình bày cho anh Tuyến biết về tình hình hiện tại bên Đại Tướng Dương Văn Minh, cũng như những yêu cầu mà anh em họ đề nghị tôi giúp. Anh Tuyến nói:

“ Không còn gì nữa, em phải đi ngay với Cha Trần Văn Khoát ra Phú Quốc trước đi, Cha Khoát sẽ lo phương tiện cho em và vợ con ra đó trước..”

“ Thế còn đề nghị của anh em nhờ em vô gặp tướng Minh?” Tôi hỏi.

Suy nghĩ một lúc rồi anh Tuyến nói:

“ Không còn gì nữa đâu em! Còn …. em muốn thử thì cứ thử xem sao? Chứ anh thấy là mọi chuyện đã xong hết rồi, đi ngay đi kẻo không kịp, không còn hy vọng gì đâu!”

Đang khi tôi mải mê nói chuyện với anh Tuyến như vậy thì anh Binh bất thình lình đã về nhà từ bao giờ và đang đứng ở sau lưng tôi nghe tôi nói chuyện với anh Tuyến. Tôi không hiểu anh Binh đã về lúc nào và đã nghe được những gì tôi trao đổi với anh Tuyến? Bỗng tôi nghe anh Binh hỏi sau khi tôi cúp điện thoại:

“ Bộ em nói chuyện với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến hả? Em quen Bác Sĩ Tuyến hả “

Nghe anh Binh bất thình lình hỏi làm tôi giật mình, thơ thẩn đến mất hồn, như kẻ ăn vụng bị bắt quả tang, rồi tôi vội vã trả lời:

“ Dạ…”.

Anh Binh nhìn tôi với cặp mắt khó chịu và có vẻ nghi ngờ. Lát sau anh lấy lại bình tĩnh rồi lại hỏi:

“ Em suy nghĩ xong chưa? Anh em nói với anh là cố thuyết phục em giúp cho, ai ai cũng cho rằng chỉ có em nói Đại Tưóng mới nghe thôi. Em ráng giúp đi Toàn, không còn thời gian nữa..”

Tôi đứng suy nghĩ không biết phải trả lời như thế nào. Lời anh Tuyến cứ văng vẳng bên tai là phải đi gấp thôi, rồi cảnh Cha Khoát đến đón gia đình tôi mà không có tôi ở nhà thì làm sao vợ con tôi dám ra đi. Phân vân do dự không biết phải làm sao. Bỗng tôi hỏi lại anh Binh:

“ Anh còn nhớ hôm rồi khi Ông Đỗ Sinh Tứ hỏi Ông Mérillon nếu Cộng Sản nó nuốt lời hứa và cứ tiếp tục tấn công thì nước Pháp sẽ làm gì không?

Anh Binh vội trả lời:

“ Anh nhớ chứ, ông Mérillon nói Nước Pháp sẽ can thiệp…Thôi em rắng giúp anh em đi.” Bị anh Binh hối thúc và năn nỉ, cuối cùng tôi nói:

“Được, em đồng ý nhưng có điều kiện.”

“ Điều kiện gì em cứ nói, điều kiện làm được anh làm ngay.” Anh Binh vội trả lời.

“Điều kiện của em cũng dễ thôi, em yêu cầu cho em đem theo hai người bạn để nó đi theo làm chứng cho cuộc nói chuyện của em hôm nay.” Tôi nói.

Anh Binh vội trả lời:

“Được, mấy người cũng được chứ đừng nói chi có hai người. Vậy hai người bạn của em ở đâu anh đến đó đón ngay?”

“ Không sao, một người ở dòng Chúa Cứu Thế, tên Trần Công Thạch, một người ở dòng Phanxico, cầu Dakao. Để em gọi diện thoại cho họ đến cũng được. Vậy mấy giờ mình có mặt?” Tôi trả lời.

“Để anh gọi điện trình cho Đại Tướng rồi anh nói cho em hay ngay” Anh Binh vội trả lời.

Thế rồi anh quay ra gọi điện thoại cho Đại Tướng Minh. Nói chuyện xong anh quay qua nói với tôi:

“ Khoảng 1 giờ hay hơn một chút được không Toàn?”

“ Dạ được”. Tôi trả lời.

Lúc này là khoảng 11 giờ sáng ngày 24 tháng 4. Tôi gọi điện thoại cho 2 người bạn và nói rằng hai anh đến nhà anh Nguyễn Văn Binh để cùng đi với tôi đến gặp một người rất quan trọng, đến rồi tôi sẽ cho biết sau. Phải đến khoảng gần 12 giờ hai anh bạn tôi mới đến. Chúng tôi mời vào nhà, anh Binh trình bày cho hai anh nghe về tình hình đang diễn biến vô cùng phức tạp và nguy ngập:

“ Bây giờ không còn cách nào khác là thuyết phục Đại Tướng Minh đứng ra nhận trách nhiệm, hy vọng còn câu giờ được chút nào hay chút ấy. Anh em có nhờ anh nói chú Toàn vào thuyết phục Đại tướng, chú Toàn đề nghị phải có hai em cùng đi chú ấy mới chịu đi.”

“ Nhưng tụi em đâu có biết nói như thế nào”. Trần Công Thạch nói.

“ Không sao! Hai ông cứ đi với tôi, hai ông không phải nói gì hết, cứ ngồi nghe tôi nói cũng được, hoặc sau đó muốn nói thêm vào cũng được. Tôi cần hai ông đi với tôi để làm chứng cho cuộc nói chuyện của chúng ta thôi, đây là một cuộc nói chuyện lich sử.” Tôi nói tiếp.

“Được, nếu anh Toàn nói vậy thì tụi tôi sẳn sàng thôi. Bao giờ thì đi?”Trần công Thạch hỏi.

“ Anh có hẹn với Đại Tướng vào khoảng 1 giờ.” Anh Binh trả lời.

Ngồi nói chuyện một chút rồi anh Binh kêu chúng tôi chuẩn bị ra xe đi. Chúng tôi đến Dinh Hoa Lan khoảng gần 1 giờ trưa, phải khó khăn lắm chiếc xe mới đi vào được sân, vì người ta trải chiếu, tấm nylon nằm chật ních hai bên lề của đường đi vào cửa sau. Vừa đến sân, tôi nhìn thấy Tướng Nguyễn Khắc Bình mặc bộ đồ rằn ri, hai tay đang khoanh tròn trước ngực đang đi đi lại lại quanh sân. Tôi vội hỏi anh Binh:

“Ông Tướng Bình vô đây làm gì vậy anh?”

“ Thì em biết rồi đó, chắc là ông đó vô xin ĐạiTướng, nếu có gì thì cho ông ấy tiếp tục làm Tư Lệnh Cảnh Sát.” Anh Binh trả lời.

Đậu xe xong, anh Binh dẫn chúng tôi vào đứng chờ ở cửa ngoài phòng khách, dặn chúng tôi ở đây để anh ấy vào trình Đại Tướng. Vừa mở cửa bước vào, tôi nghe anh Binh nói:

“ Chào Đại Tướng, chú Toàn và hai người bạn của chú Toàn đã đến.”

“ Mời mấy ẻm vô.” Tướng Minh nói.

Thì ra Tướng Minh đang ngồi sẵn ngoài phòng khách chờ chúng tôi. Anh Binh vội đi ra nói:

“Đại Tướng mời các em vào.”

“ Dạ.” Chúng tôi trả lời.

Chúng tôi vừa bước vào phòng khách thì đã thấy Đại Tướng đang ngồi ở nghế phía bên trái, ông vội đứng dậy đi ra bắt tay chúng tôi. Tôi chào Đại Tướng và lần lượt giới thiệu hai người bạn của tôi với Đại Tướng. Đại Tướng mời chúng tôi ngồi và nhìn tôi rồi hỏi ngay:

“ Sao? Hôm nay em muốn nói gì với “Goa”?”

“ Tình hình bây giờ ra sao rồi Đại tướng? Sao mấy hôm rồi Đại Tướng vận động mọi người ủng hộ Đại Tướng, bây giờ Đại Tướng lại thôi không chịu nhận nữa là thế nào? Tôi hỏi.

Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói:

“ Em thấy đó, tối hổm Trung Tướng Đôn đã trình bày cho chúng ta biết về tình hình quân đội, về khả năng tái phối của quân đội… quân của mình hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, còn các kho vũ khí, súng đạn của mình trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không còn kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Saì gòn, hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ quyền tối thiểu của mình cũng không còn, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra vào tự do, muốn đưa ai đi thì đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh mình có chặn lại cũng bị MP và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi…Tình hình như vậy em bảo làm sao mà “Goa” dám nhận nữa? Vậy em nghĩ sao?”

“ Thế Đại Tướng có thương nước không? Tôi hỏi.

“ Tại sao em lại hỏi “Goa” như vậy? “Goa” phải thương chứ!” Đại Tướng trả lời.

“Đại Tướng có thương dân không Đại Tướng? Tôi hỏi tiếp.

“Goa” phải thương chứ em! Sao em cứ lại hỏi “Goa” như vậy ?.” Đại Tướng trả lời.

“ Nếu Đại Tướng thương nước thương dân thì Đại Tướng phải biết hy sinh chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói tình hình nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như vậy mà Đại Tướng không nhận nữa …thì Đại Tướng đâu có thương dân thưong nước, Đại Tướng đâu có phải vì dân, vì nước…mà Đại tướng chỉ vì Đại Tướng…còn nếu nó ngon lành mà Đại Tướng nhận thì có còn gì để nói..” Tôi nói lại.

“ Người Mỹ họ đã khép lại chiến tranh Việt Nam rồi. Ông Mérillon mặc dù có hứa là nước Pháp sẽ giúp làm trung gian để có một cuộc thương lượng…nhưng mình không còn gì hết em ạ..”. Đại Tướng thong thả nói tiếp.

“ Thưa Đại Tướng, Đại Tướng phải nghĩ lại, “ Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, dù Đại Tướng có là Tổng Thống đi nữa thì dân phải là trên hết, rồi mới đến đất nước, và cuối cùng mới là Đại Tướng, là Tổng Thống hay là Vua. Bây giờ nếu Đại Tướng cho rằng không ăn được cái gì nữa cả, không làm được cái gì nữa cả cho nên Đại Tướng không nhận, như vậy đâu có cái gì chứng minh là Đại Tướng thương dân thương nước hay Đại Tướng vì dân vì nước…Bây giờ nếu còn có một tia hy vọng nào đó mà có thể thương thuyết được với phía bên kia để mà kéo dài thời gian ra, dù là được một hai tháng hay một hai tuần thì càng tốt, còn nếu lâu hơn thì lại càng tốt hơn nữa… nếu Đại Tướng thương dân, thương nước như Đại Tướng nói thì Đại Tướng phải chấp nhận hy sinh.. để có thể nói chuyện được với phia bên kia, để thương thuyết, để kéo dài dù chỉ là vài tuần hay thậm chí vài ba ngày. Trong thời gian vài ngày hay vài tuần đó chúng ta cũng có thể chỉnh đốn lại quân đội, tái phối trí lại những cánh quân đang bị tản mát…còn hơn là chúng ta cứ để như thế này, cuối cùng rồi chúng ta cũng mất, mà Sài gòn thì tan nát và dân chúng thì chết chóc…”

Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nhìn thẳng vào tôi và nói:

“ Bây giờ em nói sao? Em nói “Goa” phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một mình sao?”

“ Thưa Đại Tướng, nếu vì dân vì nước mà phải chết thì cũng đành chấp nhận thôi. Còn nếu chết mà không phải vì dân vì nước thì đâu có gì để nói nữa.” Tôi cũng nhìn thẳng vào Đại Tướng mà nói.

Nghe tôi nói vậy, Đại Tướng ngồi thẩn người ra, nhìn xuống đất và im lặng. Một trong hai anh bạn tôi lại nói thêm vào:

“ Thôi Đại Tướng ạ, Đại Tướng nên hy sinh thôi Đại Tướng, Đại Tướng nhận may ra còn có cơ hội, chứ tình hình như thế này thì không còn tí hy vọng nào cả. Đại Tướng nhận, may ra ông Mérillon và nước Pháp họ còn có thể giúp được gì như họ đã hứa với Đại Tướng, hy vọng sẽ có thể thương thuyết, như vậy còn có thể kéo dài được vài ba ngày vài ba tuần…Như thế thì chúng ta còn có thời gian để chấn chình lại hay tái phối trí lại quân đội..”

“ Nhưng nếu mà không thương thuyết được, tụi nó đánh tới luôn thì các em biểu “Goa” phải làm sao?. Đại Tướng hỏi lại.

“ Thì mình phải chấp nhận hy sinh thôi chứ Đại Tướng, mình đâu còn con đường nào khác bây giờ, bây giờ mình còn nước mình phải tát…và cái quan trọng nhất là làm thế nào để thành phố này không bị tan nát và dân Sài Gòn này không phải chết đã…Bây giờ Đại Tướng không nhận mình cũng chết, cho nên chỉ còn cách là Đại Tướng cứ nhận đi, bây giờ họ không chịu nói chuyện với ai cả…họ chỉ chấp nhận nói chuyện với Đại Tướng. Đại Tưóng là người duy nhất mà họ có thể nói chuyện, còn nếu họ nuốt lời hứa mà không có nói chuyện hay thương thuyết gì cả thì mình cũng đành chịu thôi.” Tôi nói.

Đại Tướng lại nói lại:

“ Nó là cái vạc dầu đang sôi, vậy mà em biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một mình sao em?”

“ Nếu phải chết để dân mình được sống, để thành phố này không tan nát thì chúng ta chấp nhận cái chết đó Đại Tướng ạ.” Tôi nói.

Đại Tướng ngồi im lặng suy nghĩ một lúc rồi ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:

“ Nếu “Goa” nhận em ủng hộ “Goa”?”

“ Em sẵn sàng ủng hộ Đại Tướng”. Tôi trả lời.

“ Nếu em ủng hộ “Goa” thì em ra văn phòng báo chí em họp báo tuyên bố ủng hộ “Goa” đi”. Đại Tướng nói.

“ Em sẽ làm điều đó cho Đại Tướng.” Tôi trả lời.

Thế là cả ba anh em chúng tôi đứng dậy từ giã, Đại Tướng đứng dậy một tay thi bắt tay tôi, một tay thì vỗ vai tôi nói:

“ Em hứa em ủng hộ “Goa” thì em cũng phải làm chứng cho “Goa” nhe!”. Tôi vội trả lời:

“ Chúng em sẽ làm chứng cho Đại Tướng, cả ba đứa tụi em sẽ làm chứng cho Đại Tướng mà…Đó là lý do tại sao em nói với anh Nguyễn Văn Binh là khi em vô nói chuyện với Đại Tướng phải cho em đem theo hai người bạn của em, để họ còn làm chứng nữa chứ.”

Tôi trả lời Đại Tướng như vậy, Đại Tướng nhìn tôi và khẽ cười, đây là lần đầu tiên tôi thấy Ông ấy cười kể từ khi chúng tôi bắt đầu nói chuyện đến bây giờ. Sau đó Đại Tướng đưa chúng tôi ra sân và cựu dân biểu Dương Văn Ba mời chúng tôi ra Văn Phòng Báo Chí để tổ chức cuộc họp báo. Tại Văn Phòng Báo Chí hầu như chẳng có ký giả nào của các báo Việt ngữ, bởi vì vào giờ này hầu hết báo chí Việt ngữ, các cơ quan thông tấn, báo chí và đài truyền hình ngoại quốc đều đã kéo qua giáo xứ Lộc Hưng, Chí Hòa để theo dõi buổi meeting của Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ với bà con tại hạt Chí Hoà. Ngó trước ngó sau, chúng tôi chỉ thấy có Ông Hồng Sơn Đông, chủ nhiệm báo Điện Tín và Chị Trùng Dương, chủ nhiện báo Sóng Thần…Trước mặt chúng tôi hầu như toàn là các nhà báo Pháp. Cả ba anh em chúng tôi đều không rành tiếng Pháp, tôi vội nói với cựu dân biểu Dương Văn Ba là tụi tôi không rành tiếng Pháp xin anh thông dịch dùm, anh Dương Văn Ban vui vẻ nhận lời ngay.

Mở đầu cuộc họp báo, anh Dương Văn Ba giới thiệu chúng tôi với báo chí và thông báo là chúng tôi vừa có cuộc tiếp xúc với Đại Tướng Dương Văn Minh cách đây mươi phút. Chúng tôi là những người trẻ đến vận động Đại Tướng hãy can đảm đứng ra gánh vác trách nhiệm trước lịch sử và đã được Đại Tưóng nhận lời.

Các kỷ giả của Pháp đặt khá nhiều câu hỏi, nhưng có vài câu quan trọng nhất là:

“ Các ông có biết là Sài gòn đang bị bao vây và sẽ bị tấn công bất cứ lúc nào không?”

“ Chúng tôi biết rất rõ về tình hình hiện tại”. Tôi trả lời.

Một ký giả khác lại đạt câu hỏi:

“ Các ông căn cứ vào đâu và có hy vọng gì ở Đaị Tướng Minh khi ủng hộ và yêu cầu Đại Tướng ra lãnh trách nhiệm?

“ Chúng tôi không còn con đường nào khác.” Tu sĩ Trần Công Thạch trả lời. Một người khác lại hỏi:

“ Trong trường hợp phía Cộng Sản họ không thương thuyết mà chỉ có tấn công thì lúc đó các ông làm gì? Các ông tiếp tục chiến đấu hay bỏ chạy?

“ Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu cho dù khi ấy chỉ còn một mình tôi.” Tôi trả lời.

Cuộc họp báo diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ chừng chưa đầy ba mươi phút. Sau đó chúng tôi tuyên bố chấm dứt và lên xe ra về.

Từ hôm đó, chiều nào tôi cũng vào nhà Tướng Minh với anh Nguyễn Văn Binh cho đến tối, thậm chí có hôm tới khuya, một hai giờ sáng mới ra về.

Đến trưa ngày 28 tháng 4, anh Binh chạy về nhà nói với tôi:

“Đại Tướng nói anh về chở em vào trong Dinh Độc Lập với Đại Tướng.”

“ Em không vô trong ấy làm gì anh ạ, cứ để Đại Tướng và các anh làm việc đi, đã có anh ở bên cạnh rồi, có gì anh em mình thông báo và trao đổi với nhau..” Tôi trả lời.

Hôm đó anh Binh gọi điện thoại về nhà đòi đón tôi tổng cộng là ba lần, nhưng tôi từ chối nhất định không chịu vào. Từ trưa hôm ấy, anh Binh ở lại trong Dinh Độc Lập. Ngày hôm sau anh chỉ về thăm nhà, gặp tôi và ông Đỗ Sinh tứ một lần rồi lại vào trong đó ở cho đến khi cộng quân chiếm Dinh Độc Lập và bắt giữ toàn bộ mọi người đang ở trong Dinh: Từ Đại Tướng Dương Văn Minh, Nghị Sĩ Nguyễn Văn huyền, Luật sư Vũ Văn Mẫu, dân biểu Hồ Văn Minh, Lý Quí Chung, Nguyễn Văn Binh ….

Khoảng ba bốn ngày sau, anh Binh được thả ra từ Dinh Độc Lập. Về đến nhà anh kể cho tôi, ông Đỗ Sinh Tứ, má anh và chị Binh nghe về mấy ngày bị bắt ở trong Dinh Độc Lập như thế nào. Từ việc ai viết bài cho Đại Tướng đọc trên đài phát thanh, việc tụi cộng sản nó bắt tất cả phải đứng úp mặt vào tường, giơ tay lên và đếm số liên tục, từ Đại Tướng Dương Văn Minh là số 1 đến thứ mười mấy, rồi lại bắt đầu từ Đại Tướng…Cảnh bội đội cộng sản hoạnh họe, lên đạn khi chúng phát giác ra xe thu hình của đài truyền hình số 9 đang chĩa ống thu hình vào trong dinh, mà chúng cho là giờ này còn ngoan cố, tiếp tục chĩa súng điện tử vào Dinh Độc Lập. Rồi cảnh tổng đài điện thoại mấy trăm đường line tiếp tục chớp đèn, cũng như ở khắp nơi gọi về… kêu inh ỏi mà chúng cho rằng vẫn còn ngoan cố liên lạc để kêu tiếp viện…nhiều chuyện bi thương cười ra nước mắt vào giờ phút đen tối nhất của lịch sử.

Khi ra tới Hải Ngoại, tôi có ý định đi tìm Đại Tướng thăm hỏi, nhưng nghe nói Đại Tướng ở bên Pháp và muốn xa tránh tất cả mọi người, tôi cũng không tìm đâu ra địa chỉ để đi. Khi nghe tin Đại Tướng qua đời thì mới biết là Đại Tướng đã qua Mỹ ở. Tôi muốn gặp Đại Tưóng để hỏi thêm một số việc và giải thích tại sao Đại Tướng kêu tôi vào mà tôi không vào, và nếu tôi vào thì trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó tôi có giúp gì được Đại Tướng được hay không? Khuyên Đại Tướng tự sát thì chắc chắn tôi không làm được vì tôi là người Công Giáo, không được và cũng được khuyến khích ai tự tử. Còn nếu bảo Đại Tướng chạy về Miền Tây liệu lúc ấy chúng ta còn có thể làm được như vậy không? Nhất là tôi có đủ bản lãnh để thuyết phục được luật sư Vũ Văn Mẫu, dân biểu Lý Quí Chung.. rồi tên tướng cộng sản nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh nữa, hắn có để cho chúng ta làm như vậy không? Trong khi đó vào những giờ phút cuối, tình hình đã vô cùng phức tạp. Mời quí vị theo dõi vài trích đoạn về bài viết của Hoàng Khởi Phong nói về:” Trận đánh cuối cùng cùng của Hổ Xám LĐ 81 - Biệt Cách Nhảy Dù để có một cái nhìn thực tế vào thời điểm đen tối đó:



“Đêm 26 Tháng Tư qua đi trong yên tĩnh, trọn buổi sáng 27, Thiếu Tá Phạm Châu Tài lo bố trí quân tại những địa điểm cần thiết, để có thể chận đánh, tiêu diệt những chiến xa mở đường của địch quân. Sau khi rải quân xong, Thiếu Tá Phạm Châu Tài được lệnh lên trình diện Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Độ Từ cổng ngoài của Biệt Khu Thủ Đô, một chiếc xe tuần tiễu Quân Cảnh dẫn đường cho xe của Thiếu Tá Tài đến văn phòng của ông tư lệnh. Trong lúc này Tướng Nguyễn Văn Minh đang bàn thảo với Tướng Đỗ Kiến Nhiễu, chung quanh hai vị tướng này có vài đại tá. Nhìn thấy Thiếu Tá Tài đi cùng người lính Quân Cảnh, tướng Minh đứng dậy tiến hẳn ra bắt tay rất niềm nở, và nói với Thiếu Tá Tài: “Em về đúng lúc lắm”. Sau một cuộc tiếp xúc ngắn không đầy mười phút, Tướng Minh yêu cầu Thiếu Tá Tài qua thăm phối hợp với Đại Tá Châu Văn Tiên – Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhiều năm sau này Thiếu Tá Tài được biết, ngay sau buổi hội kiến ngắn ngủi đó (ngày 27 Tháng Tư), Trung Tướng Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô biến mất.”

....

Trong buổi sáng 28 Tháng Tư tại Bộ Tổng Tham Mưu, văn phòng của Đại Tướng Cao Văn Viên trống trơn. Các phòng, ban của Bộ Tổng Tham Mưu chỉ vài tháng trước nhộn nhịp kẻ ra người vào, quân nhân các cấp ra vào áo quần thẳng tắp, giờ đây sáng ngày 28, Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy cơ quan đầu não của Quân Lực VNCH vắng lặng như tờ. Ông chua chát nhận chân được thế nào là một đoàn quân không có tướng cầm đầu. Ông nghiệm lại từ lúc về trình diện tăng phái về trấn cửa cho Bộ Tổng Tham Mưu, được Đại Tá Tòng – Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh, tiếp vào lúc xế chiều của ngày 26 Tháng Tư, tới bây giờ là 10 giờ sáng của ngày 28 Tháng Tư, chưa một lần nào Thiếu Tá Tài nhìn thấy bóng dáng ông Đại Tướng Cao Văn Viên. Không hiểu trong những giờ phút thập tử nhất sinh như thế này, ông đại tướng ở đâu, làm gì. Ngay cả ông Đại Tá Tòng cũng biến mất không thấy tăm hơi. Trong sân Bộ Tổng Tham Mưu, quân nhân các cấp người chạy lên, kẻ chạy xuống như là những quân đèn cù. Xe Jeep, xe Dodge phun khói mờ trời đất. Nhiều chiếc xe còn kéo theo cả móc hậu, bên trong đầy đồ đạc, dụng cụ. Ai nấy đều như mê sảng.

Trong hoàn cảnh đó, Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho dù muốn xin một cái lệnh của cấp trên, cũng sẽ không tìm ra một sĩ quan cao cấp nào để ban hành lệnh.

....

Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư, Tướng Vĩnh Lộc và một số tướng lãnh hội họp với nhau ngay tại phòng khánh tiết của Tổng Tham Mưu Trưởng. Buổi họp giống như một buổi tiếp tân nhiều hơn là một cuộc họp trong tình thế cực kỳ khẩn trương. Hầu như không một vị sĩ quan nào ngồi trên ghế, có tới vài chục vị đứng quây quần với nhau thành nhiều nhóm. Thiếu Tá Phạm Châu Tài được gọi lên tương kiến trong buổi họp kỳ lạ này. Cùng đi với Thiếu Tá Tài là bốn người lính cận vệ, và cả Thiếu Tá Tài ai nấy đều trang bị vũ khí khắp người. Thiếu Tá Tài được giới thiệu như là một người hùng. Ông ghi nhận được trong buổi họp này ngoài Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham Mưu Trưởng còn có sự hiện diện của Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, và một chuẩn tướng nữa có bảng tên là Hỷ (không có họ) và sau cùng có chừng mười mấy vị phần lớn là đại tá. Sau khi được các sĩ quan cao cấp bắt tay khích lệ, Thiếu Tá Tài được Trung Tướng Có hỏi thăm về tình trạng đơn vị, và nhắn nhủ:

- Em ráng giữ Bộ Tổng Tham Mưu cho tới sáng ngày mai. Ráng giữ nguyên vẹn cho tới ngày mai. Đã có giải pháp.

Thiếu Tá Phạm Châu Tài ngửng mặt lên nhìn thẳng vào mắt các tướng lãnh trong phòng họp rồi bằng một thái độ quả quyết, một giọng nói tự tin trả lời cho Trung Tướng Nguyễn Hữu Có:

- Tôi xin cam đoan với quý vị tướng lãnh và các vị sĩ quan trong phòng họp này, là trong đêm nay sẽ không có một con kiến, một con ruồi nào lọt được vào Bộ Tổng Tham Mưu chứ đừng nói tới một thằng VC.

Kế đó Trung Tướng Có hỏi Thiếu Tá Tài có cần ông giúp đỡ gì không.

Thiếu Tá Tài nhân đó xin rút một biệt đội của ông đang phải nằm án ngữ tại Lục Quân Công Xưởng về, để tăng cường cho quân số phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu, vì cả đơn vị có một ngàn người còn phải chia mất một phần tư lực lượng, bị xé quá mỏng không có được một đại đội làm tuyến phòng thủ cuối cùng trong Bộ Tổng Tham Mưu.

Nghe vậy Trung Tướng Có bốc điện thoại gọi và cho kết quả ngay.

Buổi họp cấp kỳ tại Bộ Tổng Tham Mưu diễn ra không lâu, sau khi các sĩ quan cao cấp rời khỏi phòng khánh tiết, cái không khí đìu hiu của buổi sáng lại diễn ra. Tuy nhiên buổi chiều đó biệt đội phòng thủ tại Lục Quân Công Xưởng được trả về cho Thiếu Tá Tài.

Đêm 29 Tháng Tư súng nổ ở nhiều nơi vọng về chỗ đóng quân của Thiếu Tá Tài. Binh sĩ dưới quyền ông chạm súng lẻ tẻ với địch ở nhiều nơi, nhưng các đứa con được bung ra không bị một thiệt hại nhỏ nhoi nào. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cảm nhận được một điều là tinh thần chiến đấu cũng như hàng ngũ của đơn vị ông vô cùng vững chãi. Cho dù trên cái vòm chỉ huy của quân đội, các ngôi sao cứ tuần tự băng trong bóng tối của trận chiến sau cùng. Ông vững lòng với binh sĩ thuộc hạ, không hề có một ổ kháng cự nào bị bỏ ngỏ. Đêm 29 Tháng Tư năm 1975, có thể là một đêm dài vô tận với hầu hết mọi người quân như dân, ai nấy đều co mình lại chờ sáng, thậm chí mắt căng ra không ngủ được, nhưng với Thiếu Tá Phạm Châu Tài thì khác, ngoại trừ những lúc phải đi kiểm soát binh sĩ dưới quyền, ngoại trừ những lúc phải chỉ huy, ông đã ngủ rất ngon trong những giờ trống. Sở dĩ Thiếu Tá Phạm Châu Tài ngủ ngon, vì ông đã xác định hẳn cho cá nhân mình cũng như toàn đơn vị một ý chí duy nhất: Giữ cho được Bộ Tổng Tham Mưu không phải chỉ một đêm nay, mà là nhiều đêm sau nếu cần, cho tới khi nào có được giải pháp cuối cùng cho miền Nam.

....

Vào khoảng hơn 9 giờ sáng của ngày 30 Tháng Tư 1975, qua tần số của máy truyền tin, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nhận được lệnh của một sĩ quan Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu ngưng bắn. Ông đã khước từ tuân hành lệnh này, và trả lời cho vị sĩ quan này là ông chỉ nhận lệnh trực tiếp với ông Tổng Tham Mưu Trưởng mà thôi. Những người lính Biệt Cách Dù vẫn giữ nguyên vị trí phòng thủ trong vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu.

Vào khoảng mười giờ, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nghe trên đài phát thanh truyền đi lệnh của Đại Tướng Dương Văn Minh, yêu cầu tất cả quân nhân các cấp của Quân Lực VNCH buông súng. Thiếu Tá Tài bỏ phòng tuyến trở vào một văn phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, đích thân gọi điện thoại lên Dinh Độc Lập và được Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tự nhận là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH.. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho biết là bây giờ ông muốn được nói chuyện với Đại Tướng Dương Văn Minh, vi. Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội.

Khoảng chừng 15 phút chờ đợi dài như một thế kỷ, bên kia đâu dây điện thoại mới nghe giọng nói của Đại Tướng Dương Văn Minh cất lên:

- Đại Tướng Dương Văn Minh tôi nghe. “

- Thưa đại tướng, tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài đang chỉ huy Biệt Kích Dù phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi được ủy thác phòng thủ tại đây cho tới khi có giải pháp cuối cùng. Cách đây một giờ chúng tôi được lệnh ngưng bắn gọi qua máy siêu tần số, và vừa mới rồi được nghe lệnh của đại tướng trên đài phát thanh kêu gọi ngưng bắn. Chúng tôi xin hỏi lại cho rõ về ngưng bắn là thế nào.”

Sau một khắc ngần ngừ, Đại Tướng Minh nói:

- Mình không còn một cái gì để đánh cả. Em chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia.

- Thưa đại tướng, thế có nghĩa là đầu hàng vô điều kiện.

Đầu dây bên kia lại một phút im lặng nặng nề trôi qua, Thiếu Tá Tài nói tiếp vào điện thoại:

- Thưa đại tướng, chúng tôi được lệnh là cố thủ tại đây, và từ sáng tới giờ chúng tôi đã ngăn chặn được các mũi tấn công của địch. Chúng tôi đã bắn cháy 6 chiếc tăng của CS trong khu vực này, mà không hề hấn gì cả. Thưa đại tướng, chúng ta không thể đầu hàng được. Công lao của Quân Lực VNCH trong bao nhiêu năm sẽ…

- Tùy các em.

- Thưa đại tướng, nếu đầu hàng đại tướng có bảo đảm cho sinh mạng của hai ngàn người đang tử thủ tại Bộ Tổng Tham Mưu không.

Lại một phút nặng nề nữa trôi qua. Sau cùng Tướng Minh nói:

- Xe tăng của địch quân sắp tiến vào đây. Tùy các em.”

Tôi mượn vài trích đoạn trên bài viết của Hoàng Khởi Phong về : “Trận đánh cuối cùng của Hổ Xám LĐ 81 - Biệt Cách Nhảy Dù” để kết thúc bài này.

Nguyễn Đình Toàn
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 2 guests