Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
buikiem
Posts: 503
Joined: Sat Sep 22, 2012 12:45 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by buikiem »

Rừng xưa đã khép.. -

Lê văn Nguyên -
Đơn vị tiến vào đồn nghĩa quân xã Huy Khiêm mà không gặp sự kháng cự nào của địch quân. Từ đầu hôm qua tín hiệu cầu cứu từ nơi đây hoàn toàn im bặt, nói khác đi là tình hình cực kỳ nguy ngập dữ nhiều lành ít, chính vì vậy mà pháo binh cơ hữu trung đoàn tác xạ vào mục tiêu, bắn suốt đêm cho đến mờ sáng vừa yểm trợ vừa dọn đường cho các đơn vị chủ lực tiến vào giải cứu. Trung đội 3 của tôi là lực lượng tiên phong bước vào khu vực, xung quanh đồn nghĩa quân hoang tàn đổ nát, nó bị cày nát bởi đạn pháo binh, những thân cây bị đốn ngã rơi rụng trên nền đất, mùi thuốc súng nồng nặc cùng mùi máu tươi tanh tưởi còn vương lại trong không khí, nhiều mảnh thân thể, áo quần còn vẫn vướng trên các cành cây, từng hố đạn đều đặn rải rác xung quanh đồn, với tác xạ khủng khiếp như vậy thì đá cùng phải tan huống hồ da thịt con người.

Đồn nghĩa quân Huy Khiêm bị san bằng thành bình địa, cái chòi canh trước đòn bị sụp đổ hoàn toàn, cạnh đó xác một người lính với lỗ chỗ vết đạn trên thân, anh nằm đó mà mắt vẫn còn mở trừng trừng như không cam lòng, khói còn nghi ngút từ bên trong, thỉnh thoảng vài tiếng nổ lép bép của những viên đạn còn sót lại. Tôi cùng Lắm, người lính mang máy truyền tin bước vào bên trong, thận trọng quan sát, nghe ngóng từng chỗ một và cái cuối cùng nhận định là không còn bất kỳ ai còn sống sót, toan bước ra ngoài thì Lắm khều nhẹ tay tôi:

– Ông thầy…bên kia có tiếng rên nhỏ.. Có người còn sống..

Trong căn phòng nhỏ ẩm thấp và tối tăm áng chừng là trung tâm chỉ huy của đồn nghĩa quân, tôi thấy thân người nằm ngửa trên nền đất dưới ánh sáng lờ mờ từ khung cửa nhỏ trên cao hắt xuống, người anh đầy máu bởi những phát súng bắn trực tiếp từ phía trước, ngực bị phá nát, bầy nhầy thịt cùng xương, vài bong bóng máu phập phều theo hơi thở. Với vết thương trí mạng như vậy thì anh đã phải chết từ lâu thế mà còn kéo dài hơi thở như hiện tại là một phép nhiệm mầu-

Trước cảnh tượng đau lòng như thế thì tôi chỉ có còn có thể nói:

– An tâm..chúng tôi mang anh ra ngoài, trực thăng tải thương sắp đến, hy vọng mọi thứ sẽ tốt thôi. Người lính nhếch mép cười, nụ cười ảm đạm, héo hắt và chua chát, máu rỉ ra từ khóe miệng theo cử động:

– Muộn rồi. Cứu không kịp đâu..Tôi biết…Mong các anh tìm.. dùm… vợ…con.. của …tôi…họ.. ngoài kia….Xin…Cầu xin…

– Họ ở đâu? Nơi nào?

Nhưng vô ích bởi người lính sau vài lời trăn trối cuối cùng thì anh nghẹo đầu ra đi vĩnh viễn, đôi mắt trừng trừng nhìn tôi như van xin khẩn cầu tha thiết tha, vài giọt nước mắt long lanh trong suốt ứa ra từ khóe mắt, nó lăn trên má rồi hòa vào máu miệng trước khi rơi xuống đất, tôi không hiểu sức mạnh huyền bí nào đó giúp anh chống lại sự đau đớn, kiệt sức để chờ chúng tôi đến và để rồi gửi gắm lời trối trăng cuối cùng.

– Tôi sẽ tìm nhất định sẽ tìm ra người thân của anh

Tôi run rẩy đưa tay vuốt mắt cho người lính, lòng buồn vô hạn vì sự mất mát đầy đau thương của 2 người.

– Đông Sơn.. Lam Giang gọi.

– Đông Sơn nghe.. Nói đi.

Tôi tóm tắt trình bày sự việc và cuối cùng xin chỉ thị từ người đại đội trưởng, thật lâu có tiếng thở dài từ bên kia đầu máy áng chừng là ông xúc động vì chuyện thương tâm ấy.

– Lam Giang, mày nghe đây.. Cho con cái bung rộng ra tìm nhưng tuyệt đối không được đi sâu vào bên trong bởi đây là vùng an toàn của tụi nó dù không tìm thấy cũng phải trở lại vị trí xuất phát trước khi về chiều. Nghe rõ Lam Giang.

Thằng Đức ngồi trong lòng của tôi cầm quyển tập đọc trên tay ê a đánh vần từng chữ một. Dù mới lên 5 nhưng thằng bé rất thông minh và lanh lợi, không những thế nó còn ăn nói rành rọt như người lớn. Có bé Đức bên cạnh tôi cảm thấy bớt buồn cùng nỗi cô đơn từ khi người mẹ thân yêu ra đi vĩnh viễn, nó là nguồn an ủi cho tôi ở hiện tại và cả tương lai bởi bé Đức không biết cha nó là người tù cải tạo, không bao giờ biết cái chữ Ngụy mà người ta khoác lên người cha. Trong trí óc non nớt của bé Đức thì tôi là người cha mẫu mực và hiền lành, có thể nói sau bà nội thân yêu thì nhất định kẻ thứ hai chính là tôi bởi bà là người nuôi dưỡng thằng bé từ lúc còn đỏ hỏn trong tã lót, là người chăm chút từng miếng ăn, dành từng vật lạ cho nó nhất là thời gian dài đói khổ thiếu thốn sau ngày giải phóng, lắm lúc bà thức trắng đêm canh giữ khi thằng bé bị bệnh, trong thời gian cải tạo dài đăng đẳng người thường xuyên thăm viếng tôi là bà má và thằng con dễ thương này.

– Ba.. Sao ba không về với con với nội? ba xấu lắm con không thèm thương ba nữa đâu!

– Ba đang làm việc ở đây mà khi nào người ta cho phép lúc đó ba sẽ về với con. Ngoan nghe bé.

– Nhớ nghe ba.. nghéo tay đi, ba xạo lắm con không tin đâu.

Một người khách nói đúng hơn là phụ nữ với chiếc khẩu trang bịt kín mặt mũi chỉ chừa đôi mắt, bà đang dẫn chiếc xe gắn máy áng chừng bị trục trặc vấn đề nào đó nên không chạy được nên chỉ biết đẩy đi từng chút một, bà ta ngập ngừng với vẽ e dè khi nhìn căn chòi tồi tàn với vài ba thứ lỉnh kỉnh treo trên vách nhà, một nơi sửa xe không chút tin tưởng thêm vào đó người chủ nghèo nàn, hom hem cùng nét khô khan khó tính trên mặt. Người phu nữ còn đang lưỡng lự thì thằng Đức từ trên chiếc ghế tuột xuống đồng thời chạy u ra ngoài miệng kiếng thoắng nói liền miệng:

– Dì.. xe bị hư phải không? Ba con sửa xe lấy tiền không mắc lắm đâu mà dì biết không ngoài nơi này không còn chỗ nào khác phải đi hết con lộ này mới có xa lắm dì ơi.

Có lẽ thấy thằng bé kháu khỉnh, ăn nói dễ thương khiến bà ta không một chút chần chừ liền đẩy xe vào căn chòi trong lúc tôi xem xét và tìm kiếm chỗ hư hỏng thì thằng bé khệ nệ bưng ra chiếc khay nhỏ cùng cái ấm nhỏ trên tay:

– Con mời dì uống nước, hà thủ ô cùng rễ tranh mà ba mới nấu, ngon và mát lắm dì.

Người đàn bà khẽ bẹo vào má thằng bé dịu dàng nói:

– Không được gọi là dì nghe, kêu là cô. Con tên gì, mấy tuổi? Học lớp mấy rồi?

– Thưa cô, con tên Hoài Đức, 5 tuổi con chưa đi học.

Trong lúc tôi lui cui sửa xe nên không chú ý đến cuộc trò chuyện của thằng con và người khách lạ nhưng khẳng định là vui vẻ, bởi lâu lâu có tiếng cười giòn dả của bé Đức hòa cùng giọng nói êm ả của cô gái.

– Chiếc xe sửa chữa xong, bình xăng con bị dơ, hy vọng sẽ không có gì trục trặc xảy ra, còn tiền công là 500 đồng.

Cô không nói điều gì chỉ lẳng lặng lấy tiền đưa cho tôi nhưng có điều lạ là khuôn mặt thoáng buồn, khóe mắt vương vài giọt nước mắt, nhất là ánh mắt có chút quen quen mà tôi không tài nào nhớ ra chắc chắn là đã gặp qua, nó ủ dột, thê lương và nhiều buồn phiền. Đêm hôm đó sau khi cơm nước xong xuôi và dạy bé Đức ráp vần để năm sau có thể đến trường:

– Ba.. Ba à.. Cái cô hôm nay kỳ cục lắm, cổ khóc hoài hà mà con dổ riết mà không nín.

– Tại sao lại khóc? có phải con nói cái gì đó khiến người ta không vui?

Tôi nhíu mày ngờ ngợ có cái gì đó không hay sắp đến với cha con tôi.

– Ba nói kỳ cục không à.. Bé Đức lắc đầu phụng phịu.. Cổ cầm sợi dây chuyền của con lên coi rồi khóc, con không biết vì cái gì mà cô khóc.. Nín..Nín..Khóc như vậy xấu lắm..

– Sau đó thì sao con, cô còn nói thêm gì nữa không!?

– Có ba. Cổ hỏi má đâu rồi và làm gì, con thưa là má ở xa lắm, xa từ chỗ con đến các ông sao trên trời, ba còn nói con cứ đếm bao nhiêu ông sao trên trời là bấy nhiêu khoảng cách giữa con với má.

Tôi bàng hoàng trong giây lát, câu nói của con tôi và cô gái gợi lại hình ảnh thương tâm và đầy nước mắt của năm xưa, trong suốt thời gian dài vẫn còn đau đáu trong lòng tôi, cố quên mọi thứ với hy vọng thời gian sẽ xóa nhòa nỗi ray rứt ấy. Thời gian cứ thấp thoáng trôi nhanh, bé Đức hiện tại vào mẫu giáo và học rất giỏi và tôi cũng nguôi ngoai chuyện hôm nào, hàng ngày cặm cụi sửa xe kiếm tiền hầu cải thiện đời sống của 2 nhân mạng trong cái xó xỉnh ít người lui tới. Nhưng.. cái chữ nhưng lúc nào cũng có thể xảy ra là điều không một ai mong muốn, cô gái hôm nọ lại xuất hiện lần này không mang khẩu trang cho nên tôi nhìn rất rõ diện mạo của cô ta. Dong dỏng người với nước da trắng hồng mạnh khỏe, giản dị với chiếc quần tây và sơ mi dài tay tuy vậy không dấu nét kiêu sa đài các, một nhan sắc khó tìm so với nhiều cô gái mà tôi từng gặp qua, nó pha trộn cái đẹp giữa cô thôn nữ dân dã cùng nét quyến rũ của nàng công chúa trên cao.

Cô bước vào trong căn chòi đảo mắt nhìn quanh như tìm kiếm, đoán được ý định của cô ta, tôi lập tức lên tiếng:

– Cô muốn tìm bé Đức? Hôm nay nó đến trường rồi, cô có thể cho tôi biết chuyện gì liên quan đến thằng bé?

Cô gái yên lặng không nói lời nào cúi đầu nhìn xuống hình như đang lưỡng lự về vấn đề nào đó khó khăn mà cô khó giải bày. Thật lâu mới buông tiếng thở dài như chất chứa bao nỗi đau thương u uất trong lòng.

– Tôi không biết khởi đầu câu chuyện như thế nào nhưng chắc chắn có liên quan đến bé Đức, chị Khánh Dung và có cả ông trong đó. Gia đình tôi thuộc loại giàu có, cha là thương gia làm nghề thầu khoán, mẹ là giáo sư trường trung học công lập nổi tiếng ở Sài gòn, trong nhà chỉ có 2 chị em, Khánh Dung và tôi, Khánh Hà. ngay từ nhỏ chị Dung rất thông minh và hiếu học cho nên mọi hy vọng của gia đình là mong chị ấy tiến thân vào con đường học vấn để trở thành dược hoặc bác sĩ trong tương lai, không ngờ mọi mong ước của gia đình tiêu tan khi chị tuyên bố chọn ngành sư phạm không phải đệ nhất cấp hay đệ nhị cấp mà là giáo viên bậc tiểu học. Không những vậy, điều làm cho gia đình tức giận là chị tự chọn nơi phục vụ là tỉnh Bình Tuy, quận Hoài Đức, một nơi xa xôi nghèo nàn thiếu thốn mọi phương tiện trong sinh hoạt hàng ngày bất chấp mọi phản đối của cha mẹ, chị Khánh Dung tự mình chọn con đường để phục vụ.

Việc chị dấn thân vào cái nghề bạc bẽo đã gây không biết bao nhiêu nỗi thất vọng cho cha mẹ và kể tiếp một hành động khác của chị là lập gia đình với người lính Nghĩa quân ở nơi chị đang công tác, điều này đưa đến việc cha tôi cắt đứt mọi quan hệ cha con cũng như không muốn một ai nói nhắc tên của chị trước mặt ông. Ngày Chị lên xe hoa về nhà chồng không có lời chúc phúc của cha mẹ,không người thân bên cạnh.

Khánh Hà bụm mặt khóc tức tưởi, tiếng khóc ai oán khiến tôi xót xa trong lòng, mối tình của hai người quả thật đẹp và lãng mạn để rồi cuối cùng họ không còn bị ai chia uyên rẽ thúy.

– …Hôm ngày đầy tháng bé Đức tôi có đến nơi đó cùng lời chúc phúc đứa cháu thân yêu và sợi dây chuyền vàng có khắc K H đeo trên cổ nó như là kỷ niệm của tôi dành cho, cùng có ý nghĩa là tôi luôn ủng hộ mối lương duyên của chị mình bất chấp sự phản đối của ông bà cha mẹ, mối tình cô giáo xinh đẹp trí thức cùng người lính nghĩa quân thật thà chất phác và bình dị khiến tôi khâm phục vô cùng, yêu thương không phải vật được đặt trên bàn cân để tính toán hơn thua nặng nhẹ mà căn cứ vào lòng thành tín và hiểu biết, từ đó cuộc sống cho cả hai mới trường tồn vĩnh viễn. Tin tức chiến sự xảy khắp nơi trên đất nước đều được tôi theo dõi thường xuyên, đặc biệt là tỉnh Bình Tuy, quận Hoài Đức nơi chị Dung đang công tác, linh cảm sẽ có cái gì đó không hay xảy ra cho cả hai và điều này chứng thực, đồn nghĩa quân xã Huy Khiêm bị tràn ngập và không còn một ai sống sót. Có điều kỳ lạ là xác người lính trưởng đồn không tìm thấy và chị tôi cũng vậy, một sự mất tích khó hiểu theo luận cứ thì cả hai có thể bị lực lượng địch mang đi và bắn hạ trong rừng già. Từ việc suy luận ấy cho nên tôi bỏ nhiều thời gian tìm kiếm đồng thời thuê người vào tận trong rừng sâu với hy vọng nếu người còn sống càng tốt bằng không phải bằng mọi cách mang thân xác về nếu họ đã mất đi, thế nhưng hoài công vô ích mọi mong ước của tôi tiêu tan cho đến ngày nước mất nhà tan, kế tiếp cả nhà di tản ra nước ngoài sinh sống từ ngày ấy. Tuy nhiên tôi không bỏ cuộc, luôn nghe ngóng tin tức về người chị của mình cũng như thực hiện nhiều chuyến về nước để tìm kiếm và đây là lần đi cuối cùng cuối cùng để rồi sẽ không bao giờ trở lại vùng đất nhiều bi thương này. Không ngờ và không bao giờ nghĩ là mình gặp lại đứa cháu thân yêu của mình và sợi dây chuyền trên cổ của nó là chứng minh điều này. Ông có thể thuật lại mọi chuyện xảy ra ở ngày hôm ấy cho tôi nghe được không? Cầu xin ông!

……Chúng tôi đi vào khu rừng buông sau khi vượt qua quãng lau sậy dày đặc, rậm rạp. Trung đội dàn đội hình hàng ngang vừa đi vừa nghe ngóng cũng như thận trọng trước mọi động tỉnh xung quanh bởi đây là mật khu của địch quân cùng với lực lượng đông đảo trú đóng. Trời càng về chiều với oi bức nóng nực của mùa hè, trong rừng già không có lấy một tiếng động ngoài trừ vài tiếng chim kêu thê thảm phá tan sự tĩnh lặng vốn có của nó. Dọc theo con suối nhỏ uốn mình theo bờ đất, âm thanh rì rào liên tục của tiếng nước chảy, vài bọt nước trắng xóa tung lên không khi nó va chạm các khối đá đầy rong rêu. Rút cái khăn trong ba lô ra lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt, thằng Kính lẩm bẩm gắt gỏng:

– Mẹ cha nó! Trời gì mà nóng thấy sợ, đã vậy còn tối hù thấy mà ghê.

– Mày nói ít được không Kính! Ráng vãnh lỗ tai nghe xem có động tĩnh gì thì cho tao biết.

Tôi trừng mắt lườm người lính mang máy truyền tin đang đi bên cạnh với vẻ bực bội, thấy ông thầy của mình lộ vẻ không vui, Kính cười giả lả làm lành:

– Em đang nghe mà thầy, lỗ tai của em thính lắm không có cái gì giấu em đâu.

Chúng tôi len lỏi qua các lùm cây, leo qua các thân cây mục nát nằm chỏng chơ trên đám lá mục cũng như băng qua con suối để tìm kiếm thế nhưng cho đến giờ phút này tung tích của vợ con người lính vẫn bặt tăm, hơn nữa trời càng tối dần, tôi bặm môi quyết định:

– Lên phía trước một chút, nếu không tìm thấy thì mình rút ra ngoài cho an toàn.

Trong khi tôi vừa ra lệnh thì thằng Kính nghẹo đầu như đang lắng nghe rồi sau đó đưa tay chỉ về phía trước:

– Hình như có tiếng khóc nếu không lầm là con nít

Vừa lúc đó Phú, người trung đội phó chạy đến anh vừa thở vừa hỏi:

-Thiếu úy, mình lùi ra ngoài hay là vẫn tiếp tục tìm? Hai tiểu đội bên kia báo cáo là không thấy bất kỳ khả nghi nào hết.

– Tôi biết rồi, nói anh em chuẩn bị rút lui, tôi lên phía trước một chút xem sao, Kính nghe tiếng khóc của con nít.

– Nếu vậy thì mình lên đó đi ông thầy, hy vọng thằng Kính nói không sai.

chúng tôi hướng về phía trước với tâm trạng bồn chồn lo lắng đoòng thời hy vọng bắt đầu nhen nhúm khi tiếng khóc ngày càng rõ dần, tiếng khóc của đứa bé khi còn khi mất nương theo chiều gió, thận trọng từng chút tôi hướng mũi súng về trước và sẵn sàng siết cò nếu có bất kỳ bất lợi xảy ra và..

Ba người chúng tôi khựng lại và ngây người trước cảnh tượng hết sức thương tâm: Một người đàn bà ngồi dựa vào thân cây, các khuy áo mở tung ra lộ làn da xám xanh, trước ngực loang lổ máu đã ngả sang màu sẫm đen, viên đạn quái ác nào đó đã cướp đi mạng sống của người phụ nữ này, đứa bé áng chừng vài tháng tuổi nằm trong lòng mẹ rúc đầu tìm vú, miệng đầy máu, đôi lúc nó giãy dụa, la khóc tiếng khóc mòn hơi vì đói khát vì đau đớn. Lũ kiến rừng bu đầy trên người đứa bé, chúng đánh hơi mùi máu, đánh hơi được sự sống sắp rời bỏ từ sinh vật nhỏ bé này. Thằng Kính vất khẩu súng vội vã bế nó lên, bên cạnh người trung đội phó nhanh chóng rút cái khăn quàng cổ phủi lia lịa những con kiến còn đeo dính trên người đứa nhỏ.

Tôi cúi xuống cầm bàn tay người đàn bà để xác định tình trạng còn sống hay đã chết, bất thình lình bà ta hé mắt nhìn tôi, đôi mắt đã lạc thần nhưng hiện lên nét mừng rỡ, có lẽ nhìn ra bộ áo quần màu xanh quen thuộc mà người chồng thường mặc trên người, bà đăm đăm nhìn về phía trước, môi mấp máy như muốn nói điều gì đó mà không thể, kế tiếp ánh mắt dần hướng về đứa trẻ với nỗi yêu thương pha lẫn chua chát nghẹn ngào, chúng tôi im lặng nhìn nhau mà không một ai lên tiếng vì biết trong giờ phút này nếu nói những lời an ủi cũng cầm bằng vô ích.

– Nuôi.. dùm… con.. t..ô..i.. Xin..c.á..c ..

Bà ta rướn người thu hết tàn lực nắm tay tôi cùng với ánh mắt cầu khẩn và mong đợi.

– Chị yên tâm ra đi, tôi sẽ chăm sóc đứa bé chính tay mình nuôi dưỡng mà không trao nó cho bất cứ ai cũng như viện mồ côi.

Người đàn bà thở một hơi dài thật nhẹ, bàn tay lơi dần và cuối cùng buông thõng trên nền đất, bà đã chết sau vài lời nhắn nhủ cuối cùng, đôi mắt nhìn đăm đắm vào khoảng không trên cao, nơi không có hận thù, giết chóc. Khánh Dung được an táng cùng người chồng cạnh con suối nhỏ dưới tàng cây thao lao rậm mát. Tôi chọn nơi đó bởi họ có thể nghe tiếng suối chảy, tiếng gió reo, ngắm những nụ hoa tím trong khoảng không vô tận. Một thế giới riêng biệt cho hai người nơi không có chiến tranh thù hằn.

– Tội nghiệp cho chị tôi! Khánh Dung ơi! Đau đớn cho chị quá đi thôi.

Khánh Hà bụm mặt khóc ngất, tiếng khóc xé lòng khiến tôi cay cay mũi tưởng chừng nước mắt có thể rơi ra bởi chuyện thương tâm ấy, dù bao năm trôi qua tôi cố quên cũng như cố không nghĩ đến nhưng khi mường tượng đến đôi mắt của người sắp chết cùng với lời trăn trối cuối cùng khiến trong lòng ray rứt mãi không nguôi.

Tối hôm đó sau khi trình mọi việc cho người đại đội trưởng khả kính và xin ông cho ra quyết định về trường hợp của đứa bé.

– Chuyện này không đơn giản như mày nghĩ! Ai cũng biết 2 người có con và hiện tại nó ở đâu? Mẹ nó ra sao? Xác người trưởng đồn tại sao mất tích? Chi khu,Tiểu khu rồi sẽ điều tra thực hư câu chuyện và lúc đó tao lẫn mày bị dính cán búa.

– Tôi đã nhận lời với vợ chồng họ là nuôi dưỡng thằng nhỏ ít ra nó còn có người thân bên cạnh, tôi không muốn đứa bé là trẻ mồ côi khi giao cho hội từ thiện hoặc trong các cô nhi viện, xin đại úy cho đặc ân cấp cho tôi nghỉ một vài ngày phép để mang nó về cho người nhà chăm sóc. Nếu có chuyện gì xảy ra tôi xin gánh toàn bộ trách nhiệm cũng như không nêu ra bất kỳ vấn đề nào liên lụy đến cấp chỉ huy.

Tôi rời khỏi đơn vị khi trời vừa mờ sáng, đi với sự chấp thuận ngầm của người chỉ huy khả kính, đi mà không có bất kỳ tờ giấy phép trong người. Không hiểu tại sao khi qua nhiều trạm kiểm soát mà không có bất cứ ai chậm lại để hỏi han căn vặn, nhất là đi qua khu Quân Cảnh phụ trách, họ thờ ơ và không quan tâm gì đến người lính mặc quân phục nhàu nát dơ bẩn đầy bùn đất, hơn nửa còn có đứa bé trên tay, một điều huyền diệu khó có thể hiểu được nhưng tự đáy lòng của tôi thì hẳn cha mẹ của đứa nhỏ linh thiêng phù hộ giúp tôi vượt qua mọi chướng ngại.

Tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện với mẹ và mong muốn bà chấp thuận nuôi thằng bé trong khi tôi còn miệt mài ngoài sương gió, xông pha ở chiến trường. Trần Hoài Đức tên của đứa bé mà tôi đặt cho nó, nơi cha con tôi gặp nhau trong khu rừng váng thuộc quận Hoài Đức cũng là nơi mà cha mẹ nó tương ngộ, mối tình thật đẹp giữa cô giáo xinh đẹp thông minh và người lính nghĩa quân mộc mạc,hiền lành chân thật.

– Tôi muốn mang bé Đức về nuôi không biết ý kiến của ông như thế nào?

– Không có gì trở ngại cho tôi cả nhưng cô sẽ trả lời sao với đứa bé khi nó hỏi về ba nó, nguyên do gì nó ra đi một mình mà không có ba bên cạnh. Ở cái tuổi còn quá nhỏ chúng ta tốt nhất không nói về cái chết bi thảm của cha mẹ thằng bé.

– Thôi được.. Tôi về suy nghĩ lại xem sao, phải chọn một phương án nào tốt nhất thuận lợi cho tôi, anh và bé Đức.

Thật lâu kể từ hôm ấy Khánh Hà không trở lại, theo ý nghĩ của tôi thì cô ta thay đổi quan điểm của mình hoặc thấy đứa cháu có người cha tốt quan tâm cùng chăm sóc chu đáo cho nên cũng yên lòng và bản thân tôi dần quên đi chuyện ấy, bởi những gì uẩn uất trong lòng đã được bộc lộ. Còn vấn đề khác cũng quan trọng không kém là cật lực kiếm tiền, thời gian gần đây sinh hoạt hai cha con bắt đầu khó khăn bởi nhiều tiệm sửa chữa xe được mở ra để cạnh tranh và cái thua thiệt dĩ nhiên về phần tôi bởi cái tồi tàn của căn chòi cùng dụng cụ cũ kỹ không đáng tin cậy, nhiều khi cả ngày không thu được mấy đồng bạc. Cứ như tình trạng này kéo dài thì hai cha con phải húp cháo trừ bữa. Hôm nay tôi ra chợ với sự tính toán chi ly từng món đồ bởi không còn bao nhiêu tiền trong túi, vài con cá khô, một bó rau cải ngọt và chút bánh ngọt cho bé Đức, quãng đường không dài nhưng tôi cảm thấy mệt mỏi và choáng váng đầu óc, có lẻ sau bao năm tù đày khổ ải đã cướp đoạt hết sức lực, thêm vào đó ăn uống thiếu thốn cho nên mới xảy ra tình trạng này.

Còn đang ngồi trên đầu con dốc nghỉ ngơi đôi chút thì bóng dáng của đứa con xuất hiện trước mặt, thằng bé chạy u đến ve vẩy lá thư trên tay liến thoắng liền miệng:

– Ba..mình có thư mà người viết có tên lạ nghe… Ơ nờ ân khờ anh khanh sắc Khánh …A huyền à hờ.. Hà.. Khánh Hà là ai hả ba?

Tôi như bị điện giật ngây người thật lâu mà không thốt lời nào, thằng nhỏ thấy điệu bộ thất thần của tôi cho nên hoảng hốt đưa tay lên trán thăm dò rồi cằn nhằn:

– Ba.. Ba làm sao vậy? Bị bệnh phải hông? Con nói rồi mà ba không nghe, ra nắng phải đội nón lên đầu.

Tôi vuốt tóc thằng con đoạn gượng cười trấn an nó:

– Khỏe mà con, đưa thư cho ba xem sao.

“….Anh Lam, ngày 12 tháng 5 này em về thăm cha con anh, nói cho nó biết là có mẹ về, chuyện chúng ta rồi sẽ nói sau..”

Tôi đọc lá thư mà như người trong mộng, sự việc đến quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng của tôi bởi lối xưng hô thân mật và không cần dấu diếm mục đích của mình khi về nước lần này, nhận thân và kết mối lương duyên cùng người lính sa cơ thất thế.

– Khánh Hà là ai hả ba?

– Là tên của mẹ con, mẹ về thăm và báo cho biết trước.

Thăng Đức hò hét nhảy lưng tưng quanh tôi, âm thanh vui mừng hớn hở.

– Má về thăm mình hả ba? Con nói rồi nhất định là má thương và nhớ con nhiều lắm mà. Con có má rồi ba ơi.. con có má rồi.

Trong suốt thời gian chờ đợi, thằng Đức cứ ra vô ngoài cửa mắt trông ngóng hướng về đầu con dốc, nó mòn mỏi trông chờ đôi khi cầm bức thư lẩm nhẩm ráp vần từng câu một, sau đó cẩn thận xếp ngay ngắn rồi bỏ vào túi như đang cất giữ vật vô cùng quý giá, thậm chí trong giấc ngủ còn mớ gọi người mẹ của mình.

Khánh hà thong thả kéo chiếc va li từ bên trong đi ra, cô ăn mặc thật giản dị và không một chút trang điểm nhưng vẫn ẩn hiện nét xinh đẹp dịu dàng và quyến rũ. Tôi đẩy nhẹ thắng bé về phía trước đoạn nhẹ nhàng nói vào tai:

– Mẹ con đó, ra mừng mẹ đi con.

Bé Đức ngần ngừ pha lẩn rụt rè bởi nó không ngờ người mẹ của mình lại xinh đẹp và đài các như vậy. Trong ý nghĩ của thằng bé thì bà chắc hẳn phải lam lũ nghèo nàn và xấu xí như cha con nó, nhưng rồi không thể ngăn cản nỗi khao khát tình mẫu tử mà bấy lâu nay nó chưa bao giờ có cho nên vừa chạy vừa kêu khóc:

– Má.. Má.. Con nhớ má ..Con thương má…

Khánh Hà vội bỏ chiếc va li rồi ôm chầm lấy thằng bé ràn rụa nước mắt:

– Má cũng nhớ con nhiều mà. Tội nghiệp con của tôi! Mẹ thương con lắm biết không Đức.

Tôi đứng đó mà lòng bùi ngùi xúc động, mắt nhòa lệ vì vui mừng rốt cuộc rồi thằng bé cũng tìm thấy người thân của mình sau bao năm xa cách, dù chỉ là bà mẹ hờ nhưng giữa 2 người vẫn có máu mủ tình thâm còn tôi trong tương lai thì sao? Ở lại trong xứ sở đầy nghi kỵ cũng như phân biệt giai cấp hay là cùng cô ra nước ngoài với tư cách là người chồng hờ để rồi sau đó đường ai nấy đi.

Đêm hôm đó sau khi bé Đức an giấc, tôi cùng Khánh Hà ra ngoài hiên nhà để trò chuyện đồng thời nghe cô nói về hướng đi trong tương lai:

– Sau nhiều đêm suy nghĩ để rồi đưa đến quyết định cuối cùng là mang anh cùng bé Đức ra nước ngoài sinh sống. Chỉ có biện pháp này mới vẹn toàn cho chúng ta mà thôi, mang thằng bé ra đi thì có thể nhưng còn anh thì sao? Em sẽ trả lời với nó như thế nào khi không có anh bên cạnh? Chắc chắn tình thương của thằng bé đối với anh sâu đậm hơn, em không bao giờ hiện diện bên cạnh trong suốt quãng đời thơ ấu cho đến hiện tại mặc dù bé Đức khao khát tình mẫu tử nhưng trong thâm tâm của nó thì hình ảnh người cha mới thật sự quan trọng, thiếu vắng anh bên cạnh thì chắc hẳn tâm lý sẽ bị tổn thương nặng nề, không đứa trẻ nào mà không cần tình thương của cha mẹ, chỉ có tình thương ấy mới có thể khiến chúng vui vẻ trong cuộc sống và hạnh phúc trong sự đầm ấm của gia đình, chúng ta không thể làm cho bé Đức mất mát thêm nữa. Anh và em sẽ hiện diện bên cạnh nó trong quãng đời còn lại chỉ có như vậy mới vẹn toàn cho cả ba.

– Hay là chúng ta tạm thời sống với nhau như vậy rồi sau đó.

Tôi chỉ có thể tạm chấp nhận biện pháp ổn thỏa mà Khánh Hà đưa ra nhưng đồng thời đưa ra ý kiến của mình khi cùng sinh sống ở nước ngoài sau này:

– Không có tạm thời hay gì gì đó sau này, chúng ta sẽ có một gia đình đầm ấm và hạnh phúc, thay mặt vợ chồng chị Dung chăm sóc cùng nuôi dưỡng bé Đức cho đến ngày khôn lớn. Ngày mai, anh và em lên chính quyền địa phương làm thủ tục kết hôn. Có giấy tờ hợp lệ thì thủ tục làm hồ sơ xuất cảnh sẽ dễ dàng hơn.

Tôi có những ngày vui vẻ và hạnh phúc ở xứ người, Khánh Hà làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ mà không có bất kỳ phàn nàn hay kêu ca điều gì, nhiều khi tôi không bao giờ dám tin về những gì xảy ra trước mắt, một người vợ đẹp đẻ hiền lành và nết na và đàn con kháu khỉnh. May mắn hay là duyên xảo ngộ mà ông trời dành cho tôi, người lính sa cơ thất trận đã có những ngày cơ cực ở quê hương.

– Em à..Tại sao lại tốt với anh như vậy? Thiếu gì người lựa chọn tại sao lại phải là anh?

– Ngày xưa ông bà ta có bao giờ tìm hiểu hay ngỏ lời yêu thương, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thế có ai bỏ nhau, họ sống đến đầu bạc răng long con cái đầy đàn. Em chưa bao giờ yêu ai mà cũng chẳng có hình bóng chàng trai nào trong trái tim, sống như vậy cho đến ngày gặp anh ở con dốc nhỏ, trong căn chòi tồi tàn rách nát, người đàn ông nghèo khổ nhưng có trái tim vàng cùng lòng nhân hậu, anh ta chăm chút vá từng mụn vải trên áo quần, dành nhiều yêu thương sâu đậm cho đứa con. Trái tim của em rung động từ dạo đó cũng như phát hiện khi yêu không cần phải mặt mũi, địa vị trong xã hội mà phát sinh từ sự nhận thức tư cách cùng hành động. Em yêu người ta nhiều lắm nhất là khi biết sự khốn cùng của cha con anh trong xã hội mà tình người chỉ đong đầy lòng bàn tay. Chỉ một lời hứa với người sắp mất mà anh ngậm đắng nuốt cay nuôi dưỡng đứa bé xấu số mồ côi cả cha lẫn mẹ, con người như thế thì bảo sao con tim của không rung động.. Một cuộc hôn nhân giả trên giấy tờ nhưng thật sự từ con tim của em thúc giục mà ra, thật cũng là giả mà giả cũng là thực, người thực, việc thực hóa ra còn tốt hơn là người thực, việc thực trong tưởng tượng.

Ngày tháng trôi qua, Hoài Đức bây giờ thành chàng thanh niên cao lớn, lực lưỡng và tràn đầy nhiệt huyết, con đường học vấn đang mở ra trước mắt nhưng có một điều khiến tôi và Khánh Hà bất ngờ là thằng bé tuyên bố chọn ngành sư phạm, một công việc nhàm chán và ít có tương lai, nghề nghiệp mà ông bà ngày xưa cho là bạc béo, bán cháo phổi.

…Chẳng lẻ thằng bé lại đi vào con đường của mẹ nó, con đường nhiều chông gai lắm thử thách, với tài sức cùng sự thông minh thì thằng bé có thể chọn nghề nghiệp nhàn hạ và hái ra tiền.Tôi nhiều đêm suy nghĩ và trò chuyện cùng Khánh Hà về tương lai của Hoài Đức

– Ý của chị Dung lúc còn sống là thế dù đã mất đi nhưng em tin rằng chị của em luôn mãi bên cạnh đứa con của mình, chị dìu dắt nó trên con đường sự nghiệp cũng như kế tiếp con đường của mình còn dở dang, một hoài bảo mà chị Dung ôm ấp khi còn ở bậc trung học, chị dùng mọi kiến thức cùng tài học của mình để truyền bá cho các em nhỏ hiếu học ở vùng thôn quê nơi thiếu thốn nhiều phương tiện cùng khó khăn trong cuộc sống.

Ở nơi thật xa, thật cao Khánh Dung có lẽ mãn nguyện khi nhìn thấy đứa con của mình đã thành tài và sẽ nối gót bà để thực hiện những hoài bão to lớn mà bà chưa có thể hoàn thành, một con đường đòi hỏi sự kiên nhẫn và lòng vị tha. Ngày nào đó tôi sẽ dẫn thằng bé về quê hương, thăm lại ngôi mộ của người thân nơi đó sẽ kể lại câu chuyện ngày xưa cùng những lời nhắn nhủ cuối cùng.

Bên con suối nhỏ, dưới tàng cây thao lao rậm mát với những nụ hoa tím lung linh trong gió, Hoài Đức ngồi cạnh ngôi mộ nhỏ, nó thì thầm nói về quãng đời đã qua, những ngày tháng hạnh phúc bên người cha bất đắc dĩ, bên cạnh người dì cũng là người mẹ thân yêu duy nhất, họ trìu mến nâng niu và dành hết mọi tình thương cho đứa con, đứa cháu lạc loài cùng xấu số của mình.

Xã Huy Khiêm, quận Hoài Đức ngày xưa với hàng buông bát ngát, những rặng cây thao lao cao vút trong khu rừng già và giờ đây mọi thứ đều khép lại, ba má của Hoài Đức yên tỉnh dưới tàng cây, lắng nghe tiếng suối rì rào, đón những nụ hoa tím lượn lợ rơi trong gió. Một vùng đất thanh bình không có chiến tranh, không có tiếng súng và không có người chết cùng hận thù.

Lê văn Nguyên
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Một Chuyến Thăm Anh.
(Chuyện thật 100%, Kính tặng các chị, vợ tù nhân chính trị Việt Nam)


Lắc lư trên chiếc xe đò nêm chật người đã hơn hai tiếng đồng hồ, Thoa cố nhướng mắt chống lại cơn buồn ngủ vì đã gần như thức trắng mấy đêm nay. Con đường từ Vũng Tàu, Sài Gòn ra Ngả Ba Chí Thạnh chỉ vài trăm cây số nhưng phải mất hai ngày mới tới. Một phần do đường sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề mà không sửa chữa; phần do cái phương tiện thổ tả là chiếc xe đò già nua, chạy bằng than đá cứ khục khặc như những cụ già ho suyển đêm mùa đông. Khổ tâm nhất là số lượng hành khách nhồi nhét trên xe còn hơn cá mòi sắp trong hộp Sumaco, cộng với nạn cắp trộm xảy ra ngay trên xe làm hành khách cứ phải cố tỉnh táo, khư khư ôm hành lý vào lòng, từng phút canh chừng người đồng hành bên cạnh, người đồng hành phía sau.

Từ khi nhận được thư của chồng báo tin trại cho phép thăm nuôi, cùng với một “đơn đặt hàng” hơn nửa trang giấy, Thoa vừa mừng vừa lo. Mừng vì sau hơn hai năm không được gặp chồng vì anh cứ bị trại biệt giam và trừng phạt cúp thăm nuôi, nay sắp có dịp được gặp lại nhau, dù chỉ trong vòng nửa giờ ngắn ngủi. Xa đến đâu, gian nan đến đâu, nàng cũng không ngại ngùng để đi đến tận nơi thăm viếng người chồng đang bị đày đọa trong cái địa ngục mang mỹ danh “Trại Cải Tạo Xuân Phước”.

Mừng chưa trọn, thì nỗi lo lại kéo đến. Từ gần cả chục năm nay, sau ngày bọn Cộng Sản vào chiếm miền Nam bắt các anh vào trại tù; thì các chị cũng hứng chịu vô vàn khốn đốn. Trước hết là mất sinh kế. Chỉ có lác đác vài chị trong nghề giáo thì còn được tạm lưu dụng với đồng lương kém cỏi và bị theo dõi hà hiếp ngày đêm. Làm vợ một quân nhân rày đây mai đó, Thoa chẳng thể nào có một việc làm nhất định dù có đủ bằng chuyên môn. Ngày trước, lo cho một mẹ chồng và bốn đứa con, cả gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương của anh và nguồn thu nhập ít ỏi từ hai bàn bi da đặt trước nhà. Nay Việt Cộng vào, ai còn vui vẻ mà chơi nữa. Lớp trai tráng thì phần đi vào tù, phần nào không dính chế độ cũ thì đi thanh niên xung phong. Nhiều gia đình phải bị buộc rời thành phố để đi xây dựng khu kinh tế mới mà thực chất là một sự lưu đày để trả thù đối với thành phần thị dân khá giả, cũng như để công khai cưỡng chiếm nhà cửa tài sản họ.

Rồi qua hai lần đổi tiền mà dân miền Nam coi như mất trắng.

Rồi qua những chiến dịch đánh từ tư sản xuống đến tiểu thuơng để dọn đường cho cái gọi là cải cách thương nghiệp xã hội chủ nghĩa.

Cả gia đình sáu miệng ăn của Thoa chỉ còn trông cậy vào tài xoay chuyển của nàng. Khi thì mua mớ cá lén lút đem lên Sài Gòn bán; khi thì nửa đêm cùng đứa con trai lớn mới 6. 7 tuổi ra tận bãi Dâu, chở ì ạch trên chiếc xe đạp những thứ cá vụn đem về làm mắm bán cho bà con lối xóm. Có khi phải lặn lội xuống tận miền Tây mua chục ký gạo đem về kiếm chút lời. Một thiếu nữ xinh tươi mơn mởn ngày nào của xứ Hoa Anh Đào nay chỉ còn lại hình dạng tồi tàn, ốm o đen đúa của một “con buôn chui nhủi”. Nàng phải học bao mánh mung thủ đoạn để qua mặt bọn đao phủ thuế vụ dày đặc trên những chặng đường. Nàng phải quen với lối ngủ bờ ngủ bụi vất vả trăm bề để bảo vệ miếng ăn nghèo nàn cho mẹ già và đàn con thơ.

Vì thế, khi nhận lá thư của chồng, khô khan đầy những câu đúng bài bản rập khuôn cải tạo – lại kèm theo bản kê khai những thứ nhu yếu phẩm mà anh đã đắn đo rất nhiều mới viết ra, nàng bồi hồi và lo lắng. Lấy đâu ra tiền để vửa chi phí cho chuyến đi xa hàng trăm cây số từ Vũng Tàu ra tận miền Trung và mua những thức ăn, đồ dùng cần thiết cho người chồng tù tội.

Biết hoàn cảnh của gia đình bên ngoài, đa số tù nhân chính trị đều rất khổ tâm khi phải xin vợ con. Trong tù, hàng năm dài với những bữa ăn không đủ với khoai mì và nước muối – thậm chí có khi không có muối để ăn- thì cái gì cũng thèm cả. Người tù đã phải ăn bất cứ con vật nào kể cả côn trùng, bò sát nào vô phúc lọt vào tầm tay của các anh. Các anh cũng chẳng chừa loại cỏ nào, miễn là nhét cho đầy cái bao tử luôn luôn trống rỗng. Trừ một số ít mà gia đình còn khá giả hay có thân nhân từ ngoại quốc gửi về tiếp tế, thì đa số chỉ dám xin vài ký cơm khô, ít cá khô hay sang hơn là mắm ruốc xào sả ớt. Đường tán thì rất cần vì cơ thể không thể thiếu nó. Vật dụng cần thiết thì cái khăn mặt, bánh xà phòng, bàn chải răng… Thư xin quà của Đức cũng đơn giản thế thôi nhưng anh vẫn thấy áy náy vô cùng.

Nhưng chớ nghĩ rằng nó đơn giản đối với những gia đình bên ngoài đang lo vật lộn với cuộc sống. Người tù, khi có dịp lén lút gửi lá thư về nhà, có thể không ngại gì mà không thành tâm bộc lộ hết những hoàn cảnh của mình. Nhưng trái lại, ít thấy trường hợp mà những bà mẹ, những người vợ dám kể ra nỗi cơ cực của họ. Họ âm thầm chịu đựng và giữ im lặng để cho người đang khổ nạn trong bao lớp hàng rào kẽm gai kia còn ấp ủ chút hy vọng mà sống sót trở về. Kể lể đau thương ra phỏng có giải quyết được gì? Họa chăng chỉ làm cho người tù trong kia thêm quẩn trí mà có những hành vi có hại cho bản thân. Đã có nhiều trường hợp còn đau thương hơn sự nghèo đói về vật chất. Có những bà vợ không chịu nổi khó khăn, đã nén lòng mà bỏ con cái sang ngang, có khi với chính bọn thù. Có những người cha, mẹ già đã quá mỏi mòn chờ tin con mà ra đi về bên kia thế giới trong uất hận cô đơn. Có lẽ sức chịu đựng của những người tù khó vượt qua những cơn mất mát đau thương này dù họ còn nhiều dũng cảm và nghị lực để đứng vững trước tra tấn, hành nhục của quân thù.

Suốt cả tuần lễ trước ngày đi, Thoa phải vất vả lắm mới xin xong giấy phép đi đường. Chạy từ khóm, lên phường rồi lên huyện; nơi đâu cũng chỉ thấy những đôi mắt cú vọ, gầm gừ và những lời khi thì mỉa mai, khi thì giáo điều. Nào là : động viên chồng lao động tốt, học tập tốt, động viên; cách mạng khoan hồng… Nàng cứ già mù sa mưa vâng vâng dạ dạ để được việc.

Bà Hai, mẹ chồng, thì đã nấu những nồi cơm đem sấy khô và mua mắm ruốc về xào với sả thêm chút thịt bằm. Biết con đói thèm, bà cũng rán gói thêm vài cặp bánh chưng. Nhờ chiếc tủ lạnh cũ, mẹ làm nước đá bán cho bà con lối xóm dành dụm cả năm trời để chờ dịp bới xách cho đứa con trai độc nhất của mình. Đã có rất nhiều thời điểm mẹ và con dâu, cháu phải ăn bo bò, khoai lang sùng. Có khi cả nhà đi nhặt rau sam, rau dệu mọc ven đường để ăn. Lòng người mẹ, người vợ là thế đó. Nó còn bao la hơn cái đại dương mà người ta thường ví von trong những câu thơ, bài hát.

Xế chiều, sau khi qua chiếc cầu Đà Rằng dài nhất nước và chạy thêm chừng vài cây số, xe đã đến ngả ba Chí Thạnh, nơi các bà vợ tù Xuân Phước sẽ đón xe làm để vào tận Đồng Xuân. Thoa xuống xe, khệ nệ xách hai tay hai xách túi quà nặng trĩu lê lết qua bên vệ đường để tìm xe lam đi tiếp. May thay, còn một chuyến xe chót. Cùng đi trên xe đó có hai chị cũng đi thăm chồng nên họ nhập bọn với nhau dễ dàng và cởi mở. Chị Son, vợ anh Phạm Hoàng Duyên trước đây là sĩ quan Cảnh Sát, cũng đi từ Vũng Tàu nên tỏ vẻ thân thiện và giúp đỡ nhất. Chị hướng dẫn từng chút làm thế nào để tránh bị cướp giật, móc túi; chị nhắc thức ăn gì có thể qua được sự khám xét của trại, thứ nào có thể nấu ngay tại nhà thăm nuôi, thứ nào để tù có thể cất dành ăn lâu, vân vân và vân vân. Chị đi thăm nhiều lần nên rành lắm.

Xe lam chạy chậm trên con đường đất đi vào quân Đồng Xuân và đỗ tại ga Xuân Phước. Từ đây, hai bên đường đã có rải rác nhà dân vừa mới xây dựng trở lại. Những căn nhà tranh vách đất ba gian nho nhỏ như những chiếc bánh ú. Dân tình xứ này chán lắm. Họ toàn là dân từng theo và sống trong vùng chiến khu của Việt Cộng nên được bố trí ở quanh trại tù như để tạo thêm một vòng đai ngăn tù. Họ được hứa hẹn một số gạo thưởng nếu báo cáo hay bắt được tù trốn trại. Như thế, cộng với một vòng núi bao quanh, trại A-20 Xuân Phước được xem là kiên cố và là nơi mà con kiến cũng khó lọt ra ngoài được.

May chỉ mang ít quà, nên Thoa cũng lết vào cổng trại A theo kịp các bà bạn. Họ trình giấy tờ cho một anh công an có bộ mặt non choẹt nhưng cố làm ra mình là quan trọng.

– Chị này thăm Phạm Hoàng Duyên ở phân trại E thì chờ đây. Chị kia thăm Võ Văn Đức thì đi vào phân trại B.

– Trại B là ở đâu anh?

– Chị phải gọi tôi nà cán bộ, không được gọi anh.

– Vậy thì ở đâu cán bộ?

– Ra ngoài kia, đi rẽ sang tay trái theo con đường xe bò chừng hai ki nô mét.

– Giờ này tối rồi làm sao mà đi thêm được. Cán bộ cho ở lại tạm chờ sáng mai được không?

– Được nàm thao mà được. Ai cho chị ở đây! Đi đi.

Nhìn ra bên ngoài, trời đã tối sầm lại. Ngoài ngọn đèn mù mờ trong cái chòi tiếp thân nhân này, chỉ còn bóng đêm đầy đe dọa. Thoa rùng mình nghĩ đến khoảng đường bất trắc còn lại. Biết không thể năn nỉ được những anh cán bộ vô cảm này, nàng lặng lẻ quay bước. Hai tay đã mỏi đừ vẫn phải cố nâng hai túi quà giờ này như đã nặng thêm lên.

Con đường vào phân trại B đi qua xuyên rừng. Hai bên đường là những lùm cây rậm có vẻ rình rập. Bóng đêm và thú dữ, rắn rết thiếu gì. Trong lòng nàng đã thấy chột dạ, chỉ muốn ngồi bệt xuống gần nơi cổng trại E rồi ra sao thì ra, để chờ trời sáng; một phần tình thương nhớ chồng thôi thúc giúp nàng tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm. Nàng vừa đi vừa lâm râm cầu nguyện. Nhớ những ngày đi thăm chồng trong vùng hành quân, súng đạn bom mình cũng nguy hiểm vô vàn nàng còn vượt qua được kia mà. Thỉnh thoảng, nàng lại nghĩ về các con ở nhà. May mà không đem chúng theo; nhưng dù sao có chúng, cũng đỡ cho mình cô đơn.

Đường thì vẫn thấy xa hun hút. Đi mò mẩm trong gần một tiếng mà tưởng chừng như càng đi vào hoang dã. Những ánh sao trên trời cho chút ánh sáng mờ mờ để còn thấy lối đi. Qua những khoảng đường có cây cao, thì phải nói là hoàn toàn tối tăm.

Thoa phải thỉnh thoảng đứng lại đặt hai túi xách xuống mà thở dốc. Hai cánh tay đã mỏi nhừ, không còn sức để nâng. Sau cùng, nàng nghĩ ra một cách, tuy chậm, nhưng đỡ vất vả. Thoa để một túi xách bên đường, dùng cả hai tay ôm túi còn lại. Đi khoảng hai chục mét, để xuống và quay trở lại bê túi xách kia. Cứ thế, nàng đi tới đi lui như một con kiến tha mồi. Bổng, vụt một cái. Một bóng người từ đâu đó nhảy xổ ra. Thoa hoảng hốt giật nẩy mình và cảm nhận sự hiểm nguy của một thân đàn bà giữa chốn rừng hoang vắng. Nàng dụt túi xách xuống và dợm bỏ chạy. Nhưng cái bóng người đó đã chắn ngay trước mặt. Từ khuôn mặt không thấy được, thốt ra một câu hỏi rất hiền hòa:

– Chị đi thăm ai mà khuya khoắt thế này? Không sợ sao?

Vẫn chưa hoàn hồn, nhưng cảm thấy tạm an tâm, Thoa đáp:

– Tôi đi thăm chồng ở trại E, họ chỉ vào trại B. Đã tối mà họ không cho ở tạm để chờ sáng.

– Chị thăm anh nào thế? Tên gì?

– Tên Đức, Võ Văn Đức, ở đội 7.

– Ôi dà, anh Đức thì ai mà không biết. Em là tù hình sự đi tự giác, giờ này mới về trại. Để em mang phụ chị hai túi xách. Chị cứ đi theo em, không sao đâu.

Nghe đến đây, Thoa thấy càng yên tâm. Hai người vừa đi vừa trò chuyện. Long, người tù hình sự kể cho Thoa nghe những chuyện về Đức.

– Anh ấy lì lắm chị. Cán bộ quản giáo trực trại gì cũng phải né anh. Tội nghiệp, anh cứ vào cùm liên tục. Chống đối mà! Trại họ đâu có tha. Em hồi đó cũng đi lính, “giải phóng” vào em theo bạn bè đi cướp bị bắt xử 15 năm. Ở được 7 năm rồi, chờ giảm án.

– Chú về rồi làm gì mà sống?

– Chưa biết, chị. Chắc phải vượt biên thôi. Chớ không khéo lại vào tù.

Cho đến khi hai cẳng chân đã rả rời, Thoa mới thấy vài ánh đèn từ trại hắt ra.

– Tới rồi đó. Chị đi vào căn nhà bên trái mà trình giấy. Ngày mai anh mới ra được. Chị mượn nồi mà nấu nướng. Tụi em có chất củi sẵn gần bếp cho mấy gia đình thăm nuôi.

Thoa ngỏ lời cám ơn và lấy ra một cặp bánh chưng biếu cho Long. Nhưng Long không nhận

– Chị để dành cho anh ấy. Tụi em đi tự giác kiếm ăn được thoải mái, thịt cá gì không thiếu.

Thoa cảm động thầm nhủ: “Chú ấy là lính cũ hèn chi tốt đến thế.”

Trong căn nhà tranh nhỏ dựng đơn sơ chếch phía ngoài cổng trại, đã có hai gia đình đang lui cui nấu nướng thức ăn. Vài em bé bồn chồn đứng chờ bên mẹ. Thoa chờ chừng khoảng 10 phút thì thấy có một anh công an lùn từ trong dãy nhà trại đi ra. Anh ta tự xưng là cán bộ giáo dục. Với một giọng xách mé, anh ta hất hàm hỏi:

– Thăm ai? Đội mấy?

– Dạ, chồng tôi là Võ Văn Đức, Đội 7.

– Chị chờ đây. để tôi vào xem lại hồ sơ.

Lại chờ. Một bà đã lớn tuổi đến bên nhỏ nhẹ nói:

– Em kiếm một chỗ cất đồ và dọn dẹp nghỉ lưng đi. Em ở đâu tới? Đường xa chắc mệt lắm.

Anh cán bộ giáo dục đã quay trở lại, lần này thêm một anh khác trông còn hách dịch hơn. Anh này dáng cao, ốm, có cái miệng chu ra như mõm chuột chù.

– Tôi báo cho chị biết, anh Đức vi phạm nội quy nhiều lần, chây lười lao động, có thái độ chống đối. Chúng tôi cúp thăm nuôi một kỳ này. Khi nào anh Đức tiến bộ, chúng tôi sẽ cho gặp gia đình.

– Mấy cán bộ thông cảm, tôi có giáy báo của trại. Đi từ trong Nam ra mất cả hai ngày trời. Xin cho tôi gặp chồng tôi năm mười phút cũng được.

– Nói không là không. Chị phải viết thư giáo dục anh ấy thực tâm cải tạo thì mới hưởng lượng khoan hồng của đảng và nhà nước cho về sum họp.

– Tôi van cán bộ. Đã hai năm nay không được thăm gặp anh ấy…

– Chị đừng van nài vô ích. Trại đã có chính sách. Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người trở lại. Những người như anh Đức lẽ ra là bắn bỏ, nhưng trại tạo điều kiện cho cải tạo. Thời gian nhanh chậm là do anh ấy. Chị phải động viên anh ấy.

– Thì cán bộ có cho tôi được gặp một vài phút, tôi mới động viên được chứ.

– Chị này lý sự nhỉ! Thôi ở đây tạm rồi ngày mai đi về. Không cho là không cho.

– Đã không cho thăm thì sao lại cho gửi giấy báo? Làm mất bao nhiêu công sức người ta.Hai anh cán bộ lườm Thoa một phát sắc như dao rồi lạnh lùng bỏ đi.

Ngồi thụp xuống chiếc giường tre, Thoa bật lên khóc nức nở. Bao nhiêu công sức lặn lội đường xa ra thăm chồng mà không được gặp mặt. Đã có ít lắm hai lần khi anh còn ở trại Hàm Tân, nàng cũng nghe những lời cảnh cáo răn đe về anh. Nhưng họ còn cho gặp gỡ năm mười phút để trao chút quà và vội vàng nói lời thương nhớ ủi an. Tủi thân, nàng lại đâm ra trách chồng. Đi cải tạo sao không chịu an phận qua ngày như mọi người. Cứng đầu cứng cổ làm chi cho khổ thân mình, khổ lây vợ con. Cứ thế biết ngày nào về anh ơi!

Thoa lại khóc. Vợ chồng chỉ cách nhau không hơn trăm mét, qua hai lớp hàng rào và một cái hào sâu kia thôi, mà chẳng được thấy nhau. Giờ này chắc anh đã ngủ, có biết vợ anh đang ngồi thổn thức ở đây không? Hai giỏ quà mang cả tình thương gia đình cho anh họ cũng không cho gửi vào. Biết bao giờ mới lại được gặp nhau đây?

Mấy bà thăm nuôi kéo đến vỗ về an ủi. Một bà nhanh trí đưa ra đề nghị.

– Thế này nghe chị. Em là Huệ, vợ anh Hùynh Văn Bá Vạn, cũng ở Vũng Tàu mới ra hồi trưa nay. Ngày mai chị đưa giỏ quà cho em, em nhờ anh Vạn dem vào cho anh Đức. Chị muốn nhắn gì thì nhắn miệng. Em cố giúp cho.

– Em cám ơn chị. Chỉ xin chồng chị nói với anh ấy biết là có em ra thăm. Anh ấy đừng cương quá, chỉ hại thân mình không về được với vợ con. Đã gần mười năm tù tội rồi. Ai cấp nhỏ như anh cũng đã về từ lâu.

– Thôi chịu vậy. Không năn nỉ chúng nó được đâu. Em biết cái thằng cán bộ cao cao đó. Nó là thằng Hùng. Nó ác lắm và hỗn nữa.

Phía bên trong những hàng rào tre nhọn chơm chởm, tiếng kẻng báo giờ đã vang lên nghe rợn người. Có lẽ đó là lúc tù nhân phải đi ngủ. Vài tiếng lên đạn rắng rắc của mấy vệ binh trên chòi làm cho Thoa chợt thấy sợ hãi bâng quơ. Nàng để nguyên cả áo quần đang mặc, nằm dài xuống quay mặt vào vách mà suy nghĩ mông lung. Nàng thầm nguyện sao cho đêm nay, được mơ thấy anh và anh cũng nằm mơ thấy nàng để ít ra họ còn gặp nhau trong giấc mộng.

Bên kia, các bà cũng đã thu dọn xong và lục tục đi ngủ. Một cây đèn dầu leo lét đặt ngay trên chiếc bàn giữa nhà.

Thoa buông một tiếng thở dài sườn sượt. Đêm nay sẽ rất dài, dài chừng vô tận. Tiếng côn trùng ngân nga trong đêm rừng tịch mịch như ru thêm điệu buồn ai oán trong lòng người vợ tù nhân.

Đỗ Văn Phúc.
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Chuyện Buồn Người Vợ Tù




Tôi trở về nhà với một thân xác rã rời, một đầu óc rỗng không, biếng ăn, mất ngủ, chả nói năng gì, mắt mở to mà không nhìn thấy gì. Tôi đã phải ra, vào nhà thương Chợ Quán mấy lần. Rất may cho tôi và các con là lúc đó tôi có một cô em và một người bạn lo lắng và chăm sóc mẹ con tôi tận tình.


Vài tháng sau, tôi nhận được 2 thùng quà trả lại với hàng chữ “Người nhận đã chết. Trại yêu cầu hoàn.” Đến bưu điện lĩnh 2 gói quà xong, vừa ra đến cửa tôi lại ngất đi. Rất may có anh bạn hàng xóm đạp xe xích lô đang chờ để chở tôi về nhà. Tới bữa ăn, nhìn bốn đứa con ngồi ăn ngon lành với tóp mỡ ngào đường và nước mắm, quà của bố trả lại, nước mắt tôi lại chảy như mưa. Rồi tới gần cả năm sau, phường trưởng mới cử đại diện đến chia buồn và đưa cho tôi biên bản “phạm nhân chết”.

Nhờ mảnh giấy này mà mẹ con tôi mới được đi Mỹ theo diện HO. (Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy này, xin gửi kèm theo đây để mọi người biết “tội ác” của chồng tôi!) Can tội: Giảng viên tâm lý chiến xã hội học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. "Án phạt tù: 3 năm"; nhưng khi chết đã 3 năm 7 tháng. Nếu họ đúng lời chắc chồng tôi không thể chết.


Thế là xong, là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó tôi sống cũng như chết rồi, nhưng vì bốn đứa con nhỏ, chúng đâu có tội tình gì. Bên nội bên ngoại ai cũng muốn nuôi dùm 1, 2 đứa nhưng tôi không thể nào chịu được nếu để 1 đứa con xa tôi. Tình thương con đã thắng cái “điên” của tôi để lo lắng cho chúng nhưng với phường khóm thì tôi thật là một “mụ điên dữ dằn”. Tôi không chịu đi họp tổ, họp phường gì cả. Công an khu vực tới tận nhà bắt đi họp. Tôi nói: “Người mà các anh thấy có tội là chồng tôi thì anh đã chết rồi, tôi và 4 con nhỏ không còn gì phải họp với hành nữa”.


Lúc trước mình ngu nên cứ tin là phải họp hành cho tốt thì họ xét cho chồng về sớm. Nay tôi không còn gì để sợ nữa thì họ lại để tôi được yên thân.


Tôi bắt đâu tính chuyện vượt biên, mấy mẹ con dắt díu nhau đi tìm đất hứa không biết bao nhiêu lần. Hết đi từ Nhà Bè, Vũng Tàu, Mỹ Tho đến Rạch Giá, Sóc Trăng nhưng đều không thoát, ở tù cũng mấy lần. Xuống ghe ra biển lại thấy hối hận vì thương con, chưa thấy thoát mà chỉ thấy chết tới nơi. Bị bắt tù đày thì lại càng hối hận hơn vì các con không có thức ăn, nước uống chỉ có một ca nhỏ. Trong trại chỉ có 1 cái ao tù, ăn cũng đó mà tắm giặt cùng nơi. Bẩn thỉu không thể tả cho nên trẻ con không bị đau bụng ỉa chảy thì cũng ghẻ lở ghê hồn. Tôi sợ quá đến không dám nghĩ đến đi nữa. Phải cậy nhờ xin đi dạy lại dù biết là nhà giáo chỉ húp cháo thôi. Nhưng dù sao đi nữa cũng còn có chỗ để mua “nhu yếu phẩm” và được “thầu” để bán quà cho học trò trong trường.


Thời gian này tạm ổn định, lo cho các con tới trường cũng phải chạy chọt vì “nhất thân, nhì thế” của xã hội lúc bấy giờ. Phận mình thì xong rồi, bạn bè tôi còn rất nhiều có chồng đang tù tội. Thỉnh thoảng chúng tôi họp nhau để “lá rách nát đùm lá tả tơi” đứa nào có thứ gì cho tù ăn được thì mang tới gom lại để chia cho những bạn sắp đi thăm. Trong cái tình đó tôi lại thấy được nhiều sự đau khổ mà người vợ tù phải chịu đựng nhục nhằn mà không ai có thể chia xẻ với họ. Chẳng hạn như một chuyện rất thật của một người bạn thân của tôi, chúng tôi đã chia sẻ từng bó rau muống từng chén nước mắm “muối + nước màu” cho các con ăn. Từng viên đường thẻ để mang vào tù cho chồng. Chỗ chồng bạn tôi ở lại có “nhà hạnh phúc” và các anh tù phải làm việc thật tốt thì cán bộ mới cho phép gặp vợ tại đó. Lẽ dĩ nhiên chồng bạn tôi làm khổ sai cật lực để được ân huệ đó. Chị cũng là một cô giáo, sống rất đạo dức và thành tín, thương chồng vô cùng, nhưng khi vào thăm đã thấy “nhà hạnh phúc” có mấy cái trõng tre và mấy anh cán bộ ngồi canh. Chị đã không thể “cho anh” và điều này đã khiến anh nổi giận nghĩ là chị đã có “ai khác” ngoài đời. Chị đã bị anh chửi bới tơi bời còn gì thê thảm hơn nữa không? Thời gian đã qua tôi hy vọng anh đã thông cảm với chị về cái “không thể cho anh” đó. Mặc dù giờ thì anh chị cũng đã xa nhau, thật là một điều rất đáng tiếc.


Lại thêm một cô bạn láng giềng, may mắn có ông chồng được thả về sau bảy năm tù tội. Những tháng ngày trong lao tù khiến con người cũng thay đổi nhiều lắm. Dễ nóng giận và mặc cảm đầy mình. Một hôm cô bạn tôi được nhà nước cho mua một khúc vải may quần với giá rẻ dành cho các công nhân viên nhà nước. Cô mang về khoe nói là bán đi sẽ lời được sáu ngàn đồng. Ông chồng lại muốn may để mặc vì ông ta thấy cũng cần phải có một cái quần mới. Bạn tôi ngần ngại nửa muốn cho chồng may, nửa muốn bán đi để thêm tý tiền lo cho gia đình nên nói với chồng: “Khúc vải này sáu ngàn lận đó anh.” Chưa nói dứt lời là bạn tôi bị một cái tát tai choáng váng mặt mày, sự việc xảy ra quá sức tưởng tượng của mọi người. Anh chồng rất hối hận về hành động vũ phu của mình; tuy nhiên anh vẫn đổ lỗi cho bạn tôi cái tội “coi cái quần hơn chồng”. Đó lại là một trong muôn ngàn cảnh ngộ trớ trêu của vợ tù "cải tạo".


Thắm thoát đã qua 7 năm lúc này cuộc sống mấy mẹ con tôi đã dễ thở vì chị em bạn bè ở ngoại quốc đã bắt đầu gửi tiền về cứu trợ. Tôi được mẹ chồng cho theo đi để bốc mộ Anh. Tâm trạng tôi thật rối bời và lo sợ liệu bốc lên có phải là Anh không hay lại là mồ của ai khác?!! Trên đường đi cũng không kém gian nan cực khổ như khi đi thăm nuôi tại Kà Tum.


Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới biết bốc mộ là gì và nhất là thấu hiểu được câu nói “cát bụi trở về với cát bụi”. Thịt da đã tan vào với cát, chỉ còn bộ xương trắng mà các bạn anh đã từ từ cầm lên từng cái đầu, xương vai, xương cổ ống tay ống chân, và ngay cả những đốt xương nhỏ họ cũng mò tìm cho đủ. Một sợi dây làm bằng giây thép nhỏ, cái mặt làm bằng kính máy bay có hình dáng 2 người đứng bên nhau đã được anh bạn lấy lên trao cho tôi và nói chính chồng tôi đã làm để tặng cho tôi khi nào tôi lên thăm gặp mặt. Anh đã phải cất giấu bao ngày vì nếu "cán bộ" thấy là bị tịch thu ngay. Rất may là có mẹ tôi và người cháu lo lắng lấy rượu rửa xương rồi quấn vào vải bỏ vào trong một cái bị to để chúng tôi mang về . Còn tôi ngồi chết cứng với nước mắt rơi sầu tủi. Xót thương anh!


Trên đường về mới gặp toán người thăm nuôi. Gặp cô bạn cũng đi với mẹ già, đang chuyển quà từng khúc một, tôi chạy lại đỡ một tay. Khi tôi dắt bà cụ qua một người tù đang cuốc đất dưới ruộng, ngẩn nhìn và khẽ gọi mẹ. Tôi quay lại giúp cô bạn còn vài giỏ đồ ăn, chúng tôi vừa đi ngang thì lại nghe anh ta gọi “em Liễu”. Cô bạn tôi nghe tên, ngoảnh mặt lại nhìn và lại bỏ đi luôn. Chạm mặt nhau rồi mà Liễu vẫn không nhận ra. Tới khi anh ta quên cả sợ "cán bộ", chồm lên đường kêu “Liễu. Anh đây”. Lúc đó bà cụ cũng đã trở lại và nhận ra con, cụ khóc oà ôm lấy anh tù, còn Liễu cũng khóc nhưng la “Không phải anh mà, không phải anh đâu”. Người chồng yêu quý vì tháng năm đói khổ phải ăn khoai mì nên mặt anh ta biến dạng vì quai hàm bạnh ra và nhựa độc của khoai mì làm cho tất cả tù nhân đều có cái mặt vuông gần giống nhau cả. Tôi cũng không cầm được nước mắt lại nghĩ rằng chắc chồng tôi còn sống thì mặt mũi cũng chỉ như vậy mà thôi.



Từ trại về chỉ có độc nhất một chiếc xe đò, mọi người ngồi chật cứng trong xe, còn có nhiều người phải đứng bám vào cửa xe rất là nguy hiểm. Mẹ con tôi về đến ga Vinh là trời đã tối, lại ôm cồng kềnh một cái bị hài cốt của chồng tôi. Ngồi sân ga đợi tàu rất là nguy hiểm vì mẹ con tôi nhơ ngác với xứ lạ quê người. Mẹ tôi phải lấy giây buộc cái bị và cuốn quanh người. Chỉ sợ lỡ mất đi thì khổ lắm. Tôi hồi hộp sợ hãi còn hơn khi đi vượt biên nữa. Tôi đánh liều vào nhà nghỉ mát của nhân viên xe lửa. Sau một lúc nói chuyện gây cảm tình và nhờ có “thủ tục đầu tiên” (xin trả tiền trước) nên mẹ con tôi được vào tạm trú qua đêm yên lành. Sáng hôm sau cũng nhờ có ông "quản lý" nhà nghỉ đó mà chúng tôi được lên tàu ở trong toa xe của các nhân viên đi nghỉ mát. Tôi phải tin tưởng là chúng tôi đã có ơn trên che chở nên đã mang thoát được bộ xương của chồng tôi về đến nơi đến chốn. Vì nếu không được ở trong xe đó chắc chắn chúng tôi không thể thoát khỏi xự khám xét trên tàu. Họ phát giác ra là có xương người là lập tức đuổi chúng tôi xuống giữa rừng hoặc quăng bỏ mớ hài cốt đó. Sau đó lại nằm xuống với nước mắt trào ra không thể ngăn nổi vì nhớ thương anh và tủi phận mình đơn độc.


Hiện tại thì chồng tôi đã được yên nghỉ tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo ở Bình Dương. Nhưng cũng không biết được bao lâu nữa vì họ còn tính dẹp cả nghĩa trang mặc dù đó là đất tư mà gia đình tôi đã phải mua bằng những cây vàng lúc họ dẹp nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngay trong thành phố Saigon.


Bốn mẹ con tôi xuống phi trường Dulles vào một buổi tối mưa tầm tã của tháng 6 năm 1994. Được gia đình cô em ra đón, tôi mừng quá nhưng vẫn chưa hết lo sợ, không biết đây là thật hay mơ. Nỗi ám ảnh bị bốc đi vùng kinh tế mới và sự không nói có, có nói không của nhà nước công sản đã khiến tôi mất hết niềm tin. Tôi chỉ còn biết cầu Đức Mẹ ban cho tôi một phép lạ.


Chúng tôi cố gắng học hỏi để hoà nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ. Nay các con tôi đã lớn, đã thành đạt và rất hiếu thảo. Chúng hết lòng lo lắng, chăm sóc tôi. Tôi thật mãn nguyện, nhưng tôi biết tôi không thể ôm giữ chúng mãi được. Chúng phải có cuộc sống riêng, hạnh phúc riêng. Dù biết vậy, nhưng mỗi khi chúng vắng nhà, còn lại một mình tôi, tôi lại thấy sợ hãi. Những năm tháng khổ cực, hãi hùng của thời dĩ vãng lại kéo đến ám ảnh tôi. Hình ảnh chồng tôi lúc oai hùng, mạnh mẽ trong bộ quân phục, lúc rách nát, tả tơi, thoi thóp trên chõng tre lại chập chờn quanh tôi. Tôi đã thì thầm với anh: “Đợi em đi cùng!” Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi bình yên dể được xum họp với chồng tôi. Chúng tôi chỉ mới được hưởng hạnh phúc gia đình có 4 năm 5 tháng. Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!


Kính tặng Giáo Sư Tố Lan, người đã cho tôi can đảm để thực hiện bài viết này.

Trần Thanh Minh
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Tuy Hòa – một thời gió cát

Phạm Tín An Ninh
T ôi không phải là người Phú Yên, cũng chẳng có mối tình nào gởi lại Tuy Hòa, nhưng dường như cái xứ có núi Nhạn sông Đà thơ mộng ấy đã mãi vương vấn tâm hồn tôi, in đậm trong ký ức tôi những mối tình đẹp, thật dễ thương của đám bạn bè, đồng đội, cùng bao kỷ niệm vui buồn một thời trận mạc. Khi ấy bọn tôi còn rất trẻ, đa số vừa mới rời khỏi học đường vài ba năm để bước chân vào nơi gió cát.

Ngày mang “sự vụ lệnh” về trình diện đơn vị tại Ban Mê Thuột, tôi và bốn thằng bạn cùng khóa cứ ngỡ cuộc đời mình sẽ dính liền với rừng núi của xứ “bụi mù trời” và “buồn muôn thuở”, chỉ còn biết nằm nghe tiếng chim kêu vượn hú. Ai ngờ sau hai tuần lang thang quanh quẩn trong con phố buồn hiu, ngắm mấy cô gái Thượng mang gùi đi xuống đi lên trên con đường A Ma Trang Long bám đầy đất đỏ, bọn tôi được ông Trưởng phòng 1 lái xe đi tìm chở về Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, vội vàng lấy balô quân trang, rồi đưa thẳng ra phi trường Phụng Dực, tháp tùng phi cơ của ông tư lệnh, đại tá Lữ Lan, bay xuống đơn vị đang hành quân tại Khánh Hòa, ngay vùng biển quê hương tôi.

Đơn vị tôi lúc ấy, chắc cũng thuộc loại đánh đấm có hạng nên được chọn làm lực lượng lưu động trừ bị cho Quân Đoàn. Nay đây mai đó.Trước khi di chuyển đến đây, đã có mặt khắp nơi: từ Bình Tuy, Bình Thuận, Ninh Thuận, đến Lâm Đồng, Quảng Đức…

Khi đến đơn vị, tôi rất vui. Vì ngoại trừ ông tiểu đoàn trưởng, hầu hết tất cả sĩ quan trong đơn vị đều trẻ măng, độc thân vui tính, anh nào “đàn anh” nhất cũng chỉ vừa rời ghế nhà trường năm ba năm. Ba anh trung úy đại đội trưởng đều dạn dày lửa đạn. Một anh tốt nghiệp khóa 16 VB Đà Lạt, hai anh khóa 13 Thủ Đức, một gốc Huế một gốc Bắc Kỳ di cư. Nhưng anh nào cũng đánh đấm rất gan lì và vui vẻ chịu chơi. Tôi được bổ nhậm về đại đội của anh trung úy gốc Huế nhưng lại thân thiết với anh trung úy gốc Bắc Kỳ, vì ngoài các đức tính khác anh còn có nụ cười và ánh mắt dễ làm “chết người ta”. Không biết có bao nhiêu “hồn (đã) lỡ sa vào đôi mắt…anh” rồi, nhưng tôi là thằng lính ngang tàng mà cũng phải lụy anh trong cái tình huynh đệ. Sau này và cho mãi đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn giữ cái tình “anh em tri kỷ” ấy. Đám trung đội trưởng tò te, ngoài tôi ra còn có bốn thằng cùng khóa 18 Thủ Đức với tôi, vài ba anh khóa 15, 17 và hai chàng khóa 19 VB Đà Lạt đầy phong độ, cũng vừa mới ra trường năm ba tháng trước. Tôi nhận trung đội với chỉ 25 thằng lính, nửa Kinh nửa Thượng. Ngay sau khi nhận trách nhiệm, công việc đầu tiên của tôi là dắt đám lính tráng vào QYV Nguyễn Huệ để dự đám tang, chào tiễn đưa ông Thượng sĩ già, trung đội trưởng tiền nhiệm ra nghĩa trang Đồng Đế. Ông vừa tử trận vài ngày trước đó trong một trận phản phục kích tại Tu Bông (Vạn Giã) và tôi đến trung đội để thay thế ông. Nhìn bà vợ và mấy đứa con của ông kêu gào, khóc la thảm thiết, tôi hình dung ra con đường thê lương trước mặt, và tự trấn an mình: mai này mình chết, may ra cũng không có tiếng quả phụ và trẻ thơ khóc lóc!

Thời ấy, nhờ ảnh hưởng kết quả của kế hoạch Ấp Chiến Lược còn sót lại, nên tình hình địch ở mọi nơi còn rất yếu, hầu hết là các lực lượng du kích và địa phương, nên bị tiểu đoàn chủ lực lưu động thiện chiến của tôi đánh cho tan tác. Do vậy chúng tôi đến đâu, cũng được các ông tỉnh trưởng đón tiếp nồng hậu. Sau hơn ba tháng theo đơn vị tiếp tục hành quân qua nhiều làng mạc, rừng núi và dẫm nát những mật khu Đồng Bò, Đá Bàn, Hòn Hèo của địch, đơn vị kéo về trú đóng trong một vườn dương bên bờ biển Nha Trang. Đám sĩ quan bọn tôi được ông tỉnh trưởng ưu ái dành cho bốn phòng trong khách sạn Phụng Hoàng, nằm trước ga xe lửa. Mệt và mất ngủ vì vừa trải qua cuộc phục kích đêm hôm trước, nên sau khi tắm rửa xong, tôi ngủ vùi một giấc. Thức dậy, nhìn ra ngoài, ánh đèn đường đã bắt đầu sáng. Mở ba lô tìm bộ quân phục mới để thay bộ quần áo trận còn dính đầy bùn lầy, cho hợp với khung cảnh phố phường. Dự định đi một vòng tìm lại những hang động tuổi thơ cùng dấu tích mấy mối tình học trò của vài năm trước, tôi bỗng nghe tiếng ông tiểu đoàn trưởng gọi tất cả bọn tôi lên xe trở về đơn vị, điểm danh sắp xếp lính tráng lên tàu Hải quân, đã ủi bãi ngay phía trước TTHL Hải Quân.

Ra khơi lúc 11 giờ đêm. Qua hơn một đêm lênh đênh trên biển, tàu cặp vào bến của Duyện Đoàn 24 HQ bên bờ biển Tuy Hòa. Trong số những người ra đón đơn vị chúng tôi, ngoài ông tỉnh trưởng- trung tá Trần Văn Hai, anh trung úy Duyên Đoàn Trưởng HQ, tôi còn bất ngờ nhận ra ông anh con bà cô, trung úy thuộc Tiểu Đoàn 23 BĐQ đang hành quân trú đóng ở đây. Từ khi anh vào quân đội, bao nhiêu năm anh em không gặp, bất ngờ lại nhận ra nhau ở một nơi xa lạ, vui mừng quá đỗi. Anh em vừa mới ôm nhau, hỏi han vài câu, thì đơn vị nhận lệnh lên xe di chuyển. Ông anh kéo tôi và mấy sĩ quan cùng đại đôi lên xe Jeep của anh chạy theo đơn vị. Về khu Nhà Bằng, vị trí đóng quân tạm, sắp xếp đơn vị xong, bọn tôi theo anh ra phố. “Moa đãi các toa một chầu để biết mặt Tuy Hòa – xứ nẫu”. Anh bảo thế trước khi lái xe đi.

Tôi bỗng giật mình khi nghe “xứ nẫu”. Cái tên “Nam Ngãi Bình Phú” và “Liên Khu Năm” vẫn còn hằn trong tâm trí tôi từ lúc mới lên năm, bởi cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra đây hơn ba năm khi ông là thầy giáo đang dạy trường Pháp Việt, và mẹ tôi qua đời trước đó hai năm. Kể từ ấy tôi sống với ông bà nội, thiếu vắng cả cái tình phụ mẫu.

Có lẽ đã phải trải qua những năm dài chiến tranh, nên phố xá Tuy Hòa ngày ấy còn “hoang sơ” lắm. Ngoài văn phòng Air Vietnam hai tầng và khu chợ mới xây dang dở, hầu hết là nhà cũ. Ông anh chở bọn tôi đến một cái quán nằm bên cây cầu, trên đường hướng ra Quốc Lộ 1. Tôi không còn nhớ tên, nhưng quán này nổi tiếng về món cá lóc nướng, và đặc biệt có mấy o Huế rất xinh. Để tránh tình trạng “tấn công nhầm mục tiêu”, ông anh tôi cho biết:

– Tuy Hòa có hai quán ăn nổi tiếng, đều có hai cô chủ “hoa khôi” gốc Huế, nhưng một quán đã có ông quan năm trung đoàn trưởng đóng đô, còn quán này là sào huyệt của ông chi đoàn trưởng Thiết Giáp có tiếng hào hoa.

Nhìn mặt thằng nào cũng buồn xo, ông anh tôi cười, an ủi:

-Yên chí đi! Tuy Hòa còn thiếu gì cô bé dễ thương. Trường trung học Nguyễn Huệ có biết bao cánh hoa biết nói, và mai mốt khi các toa ra vùng hành quân, sẽ có khối cậu chết mê chết mệt vì mấy cô gái quê! Bọn lính trong đơn vị moa thường kháo nhau: “Phú Yên đến dễ khó về” đấy!

Thấy trong đám bọn tôi có hai chàng khóa 19VB, ông anh cho tài xế chạy về đơn vị đón một anh cùng khóa 19 ra gặp bạn đồng môn. Hơn 20 phút sau, một thiếu úy BĐQ cao ráo đẹp trai đến nơi chạy vào tay bắt mặt mừng. Cái tình Võ Bị quả là thắm thiết. Anh được giới thiệu là ” Chương Classic” .Và để giải thích cái nick name của mình, anh mượn cây ghita của cô chủ quán, độc tấu mấy bản nhạc Tây cỗ điển. Ngón đàn của anh quả thật tuyệt vời!

Chỉ sau ba hôm ở thành phố, đơn vị tôi có lệnh di chuyển đi Hiếu Xương, đến đầu cầu Bàn Thạch để hành quân tái chiếm lại một vài nơi đã bị Cộng quân làm chủ tình hình. Ông tỉnh trưởng cũng đã cảnh báo đám sĩ quan trẻ chúng tôi:

-Ở vùng ấy nhiều gia đình có thân nhân theo VC, nên mấy chú phải cẩn thận, nhất là thấy mấy cô con gái đẹp đừng có vội nhào vô. Trước đây đã có một anh chàng sĩ quan đề lô Pháo Binh mết lòng con bé thợ may, hành quân xong cứ ra ngồi ngoài quán, cuối cùng không thấy trở về đơn vị nữa, mất tích luôn!

Đám lính trẻ bọn tôi “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên chỉ còn nhớ tới “mấy cô con gái đẹp” trong câu nói ấy của ông thôi.

Trung đội tôi được lệnh đóng quân giữ an ninh cầu Bàn Thạch và khu vực chung quanh. Cây cầu xi măng đúc đã bị VC giật mìn sập, nên vừa được Công Binh bắc cây cầu gỗ tạm. Cầu nằm gần chợ, và phía bên kia là vùng mất an ninh. Một tiểu đội của tôi nằm tiền đồn bên ấy. Ban chỉ huy trung đội và một tiểu đội bố trí ngay dưới gầm cầu.

Sắp xếp vị trí đóng quân và canh gác xong, đã gần 5 giờ chiều, tôi bảo mấy chú lính dọn cơm ăn, để tôi còn đi một vòng chợ tìm xem các cô gái có “đôi mắt người …Phú Yên” ra sao. Vừa mang mấy lon guigoz cơm ra, bốn thằng chúng tôi chưa kịp cầm đũa, thì một trái lựu đạn từ trên cầu rơi xuống. Một anh lính phát giác la lên, cả bọn kịp lăn mình qua bên kia tấm cầu đúc (bị sập xuống), nhưng trái lựu đạn không nổ! Chỉ năm phút sau, người ném lựu đạn bị toán lính của tôi bên kia cầu đuổi bắt. Đến nơi, tôi ngạc nhiên khi nhận ra, không phải một, mà là hai cô con gái quê, tuổi cỡ 14-15, một cô khá xinh, có đôi mắt đẹp. Cô bé này chính là người ngồi phía sau xe đạp, ném trái lựu đạn định giết tôi – chàng “lính trẻ hào hoa”, chỉ mới vài phút trước đây có ý định đi tìm… đôi mắt ấy. Đưa hai nữ “địch quân” đến trình diện ông tiểu đoàn trưởng. Thấy hai cô bé vừa run vừa khóc, mặt mày tái xanh, ông “tâm lý chiến”rất hay, vỗ vai hai cô bé, vừa cười vừa ôn tồn nói chuyện. Hai cô khai hết sự tình, nên được dẫn về giao cho gia đình, vừa “chiêu hồi” và cũng vừa cánh cáo, theo dõi họ. Một tuần sau, toán quân báo tiểu đoàn bắt được người đàn bà trong mũi công tác đã dụ dỗ hai cô bé làm giao liên và ném trái lựu đạn xuống cầu.

Chiều hôm sau, đơn vị có lệnh xuất phát cuộc hành quân bao vây và đánh chiếm kho vũ khí của địch tại Đa Ngư-Phú Lạc, nằm trên một khu núi đá sát biển, địa thế khó khăn hiểm trở và được phòng thủ rất kiên cố bằng nhiều ổ súng đại liên.Tin tức cho biết địch quân đã chiếm làng Thạch Tuân và khu vực Hảo Sơn hơn hai tuần nay. Bộ đội địa phương vừa tiếp nhận một số lượng lớn vũ khí từ miến Bắc chuyển vào khu núi Đa Ngư Phú Lạc bằng thuyền. Đơn vị tôi có trách nhiệm phải đánh chiếm kho vũ khí này và sau đó tảo thanh các khu vực địch trong vòng hai tuần để đưa một đơn vị Bảo An của Tiểu khu vào trấn giữ.

Đơn vị tôi được tăng cường Đại Đội 23 Thám Kích. Tất cả đều được trang bị mặt nạ chống hơi độc.Khởi hành từ tuyến xuất phát lúc 11 giờ trưa, mãi đến gần 3 giờ chiều chúng tôi mới đến khu vực mục tiêu, vì phải di chuyển qua những địa thế khó khăn hiểm trở để tránh bị phát hiện, gây yếu tố bất ngờ cho địch. Đại đội 3 của tôi đi dọc theo bờ biển đến phục dưới chân núi làm lực lượng án ngữ. Nỗ lực chính đánh chiếm mục tiêu là đại đội 23 Thám Kích và đại đội 2 của ông anh trung úy gốc Bắc kỳ. Không ngờ trận chiến lại khó khăn khốc liệt đến như thế, phải chia nhau từng nhóm nhỏ bò lên chiếm các hốc đá nằm bên ngoài căn cứ, bị địch phát hiện, cầm chân bằng đạn súng cối đủ loại và nhiều ổ súng đại liên. Vì đây là kho vũ khí, nên địch có đầy đủ các loại vũ khí và đạn dược. Cuối cùng phải nhờ đến phi yểm, mặc dù rất bất lợi vì trời chiều, sắp tối. Theo các trái sáng (cầm tay) được đồng loạt phóng lên đánh dấu vị trí bạn, cùng với sự hướng dẫn, chỉ điểm tài tình của anh phi công L19, hai phi tuần khu trục liên tiếp đánh bom rất chính xác xuống căn cứ địch, diệt các ổ súng đại liên, để lực lượng ta bám sát mục tiêu. Đại đội 23 TK và đại đội 2 của anh trung úy gốc Bắc Kỳ đánh đẹp một cuộc cận chiến, chiếm được căn cứ, một số tù binh bị bắt. Đại đôi 1 của anh trung úy Khóa 16VB kịp thời tăng cường bao vây và truy kích. Trận chiến kết thúc trước khi trời tối. Số chiến lợi phẩm thu được khá lớn, địch quân dự trù trang bị các loại vũ khí mới này cho các đơn vị thuộc Liên khu 5 của chúng. Tiểu đoàn kéo về Đông Tác dưỡng quân, được ông tướng tư lệnh Vùng và ông trung tá tỉnh trưởng đến thăm, mừng chiến thắng. Anh trung úy (nhiệm chức) gốc Bắc kỳ khóa 13 Thủ Đức được vinh thăng (điều chỉnh) trung úy thực thụ và tưởng thưởng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu. Anh trung úy khóa 16VB được ngôi sao vàng. Nhiều sĩ quan và binh sĩ có công cũng được trao gắn huy chương.

Ba ngày sau, được tiếp tế lương thực và đạn dược, tiểu đoàn trở lại Thạch Tuân. Chiếm lại ngôi làng nghèo này rất dễ dàng, cả đơn vị tiếp tục tiến quân vào Hảo Sơn, Đá Bia. Một khu vực núi non hiểm trở. Địch quân đã chiếm ngự các cao điểm trọng yếu. Trung đội tôi có lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị còn lại bung ra hai triền núi phía trước. Con đường độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn lối nào khác. Nhờ pháo binh bắn dọn mục tiêu, nên trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch quân vừa bỏ chạy, không kịp mang theo nồi cơm đang nấu và mấy cái võng nilon còn cột chặt trên cây. Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến quân hai bên triền núi. Trận chiến khá quyết liệt, vì địch quân đã có sẵn nhiều cái chốt trên các hốc đá nằm cao trên núi, bắn trung liên và ném lựu đạn xuống quân ta phía dưới. Trời đổ mưa như trút nước. Đại đội 1 của ông anh Khóa 16 VB là mũi tiến công chính. Dù ở thế hoàn toàn bất lợi, nhưng nhờ tài chỉ huy và điều quân gan dạ của chàng trai Đa Hiệu, cuối cùng cũng đã chiếm được mục tiêu. Địch quân tháo chạy, bỏ lại vài chục xác chết và trên mười khẩu súng. Bên ta, hai binh sĩ tử thương và vài người khác bị thương nhẹ. Trời tiếp tục mưa không dứt. Bóng tối đã bắt đầu phủ kín khu vực hành quân. Có lẽ lo ngại địa thế bất lợi cho một cuộc đóng quân đêm và địch quân có thể được tăng cường phản kích, nên cả đơn vị có lệnh khẩn cấp rút quân ra. Riêng trung đội của tôi phải nằm lại để yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin pháo binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra. Tôi đi theo cánh quân có lộ trình nguy hiểm hơn: theo con đường sắt. Nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ năm phút sau thì nhiều loạt đạn từ trên triền núi bắn xuống. Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân tôi, tóe lên nhiều đóm lửa. Có cả đạn súng cối. Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Cho người băng vội vết thương bằng các băng cá nhân, tôi vừa gọi xin tiếp ứng vừa xin pháo binh bắn cản hậu, rồi cõng anh lính bị thương rất nặng chạy nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm. Người tôi ướt đẫm cả máu, nước mưa, và có thể có cả nước mắt (cho người thương binh -không có chút hy vọng sống- của mình).

Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích trong làng lại bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây tứ phía, cả toán du kích không chạy kịp bị chúng tôi bắt. Xe tải thương không thể nào đến được vì không có an ninh lộ trình. Tối hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăn đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuồi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên với một nhạc sĩ tài hoa và khí khái mà sau này tôi mới biết.

Mục tiêu các cuộc hành quân đã hoàn tất, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh về đóng quân dọc theo Quốc lộ 1, từ ngã ba Phú Lâm đến hết Bàn Nham, Bàn Thạch. Trung đội tôi lại nhận lãnh cái cầu (gãy) Bàn Thạch, nơi mà tôi được cô gái Phú Yên đón chào bằng một trái lựu đạn nội hóa. Cứ vài ba hôm chúng tôi lại tổ chức các cuộc hành quân (có khi luân phiên từng đại đội có khi cả tiểu đoàn) ở Hòa Xuân, Hòa Thịnh, Sơn Thành, hay ra tận Ngân Sơn (Tuy An), Hiệp Mỹ, Tuyết Diêm, Hòa Phú, phía dưới đèo Cù Mông (Sông Cầu), giáp ranh Bình Định. Chấm dứt hành quân lại trở về “cứ điểm” Bàn Thạch. Lúc này con đường từ Bàn Thạch ra phố Tuy Hòa đã tương đối an ninh, nên những ngày không bận hành quân, bọn tôi được phép thay phiên nhau xuống phố Tuy Hòa. Cũng có những đón đưa trước cỗng trường Nguyễn Huệ, Bồ Đề. Cũng có những hẹn hò ngoài bãi dương, quán nước.Trong đám bọn tôi cũng vài thằng có những cuộc tình chợt đến chợt đi. Thì ra các cô gái Tuy Hòa trông dễ thương mà thương thì không dễ lắm. Lúc ấy, tuổi trẻ bọn tôi còn cao ngạo: “mấy thằng lính ngang tàng này thì dễ gì mà chết trong mắt em”!, nhưng khi cô đơn lại tự an ủi mình: “đời lính tráng như vậy mà vui, không nợ nần, không làm khổ một ai, vợ con làm gì cho vướng chân vướng cẳng!”, tránh cái cảnh như một ông nhà thơ sau này đã thốt lên lời bi thảm “anh trở về dang dở đời em”! Hồi còn trong lính, tôi ghét cay ghét đắng bài thơ được phổ nhạc này. Đám lính tráng về phép mà nghe được đôi lần, chắc nhiều thằng không muốn trở về đơn vị nữa. Nhưng bây giờ ngồi nghiệm lại, tôi thấy đúng, cho dù có chút đắng cay. Lính bị thương tàn phế, hay là lính bị đày ải trong tù “cải tạo” ngày trở về ít nhiều gì cũng đã làm dang dở đời em.

Dù vậy, trong đám bọn tôi cũng có ba chàng phá luật chơi. Một thằng, cùng khóa với tôi, yêu một cô bé học mới lớp đệ lục, nhà ở cạnh chợ Tuy Hòa, một tiệm bán đồ gỗ nhỏ. Bọn tôi cứ nhạo nó là “dụ dỗ gái vị thành niên” và “tiền lương của mày không đủ để mua gạo thúc cho nó lớn”! Vậy mà cuộc tình cũng gắn bó hơn một năm. Ngày đơn vị tôi từ giã Tuy Hòa, cô con gái ấy đã tốn khá nhiều nước mắt. Sau này dường như cô bé trở thành cô giáo, lấy chồng là một đồng nghiệp tốt nghiệp Sư Phạm Qui Nhơn. Thằng bạn của tôi được giải ngũ sớm vì cận thị nặng. Nó trở về tiếp tục sách đèn. Tốt nghiệp sư phạm Đại học Đà Lạt về dạy Triết tại vài trường trung học. Năm 1973, khi nghe bạn bè bảo tôi đang nằm dưỡng thương ở QYV Nguyễn Huệ Nha Trang, nó từ đâu tìm đến thăm. Khi nhắc tới thời lính tráng ở Phú Yên, đôi mắt nó sáng lên, bảo là nó vừa bất ngờ gặp lại cô bé Tuy Hòa ngày xưa, khi cả hai cùng làm giám khảo và giám thị một cuộc thi Tú Tài ở trường Nguyễn Huệ hay Cường Đễ gì đó. Nó cười, nhưng đôi mắt nó lại mơ màng nhìn về một nơi nào đó … xa xăm!

Một ông đàn anh khóa 14 Thủ Đức của tôi, SQ/CTCT Tiểu Đoàn, vốn tu xuất và bị động viên khi đang dạy ở một trường La San Taberd nào đó, lại vướng vào lưới tình của một cô giáo Bàn Thạch. Là con một của bà già góa bụa. Cô giáo có nhan sắc và hiền lành, cười nhiều hơn nói. Có lẽ lớn hơn tôi một vài tuổi. Chị tỏ ra rất thân tình với đám lính trẻ bọn tôi. Chỉ một thời gian, chúng tôi xem nhau như người nhà. Khi nào chán cơm lính, bọn tôi rủ nhau ra chợ mua thịt cá rồi kéo đến nhà chị để nhờ chị nấu cơm, rồi cùng nhau ăn uống và đàn địch ca hát cả ngày. Ông đàn anh “tu xuất” của tôi vốn làm thơ tình rất hay, đàn ca có “trường lớp” lắm. Nghe nói trước kia anh làm trưởng ca đoàn trong mấy nhà thờ. Anh thường đệm đàn cho cô giáo hát bài “Chuyện tình Lan và Điệp”. Giọng hát Phú Yên cũng não nùng ai oán lắm. Đặc biệt phía sau nhà có cái giếng nước rất trong, nên chúng tôi thường ghé vào tắm rửa sau các lần hành quân trở về. Sau này, ông đàn anh thuyên chuyển về Vùng 4 trong Nam.

Mãi đến năm 1980, tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù ngoài Bắc. Ngạc nhiên và thú vị khi nghe anh kể là anh vẫn còn độc thân, và cô giáo Bàn Thạch ngày xưa giờ cũng chưa chồng. Điều làm tôi sững sờ hơn là ông bố của cô không chết mà tập kết ra Bắc năm 1954. Sau 75 về lại Phú Yên và giữ một chức hàm khá lớn. Cô giáo bây giờ không làm nghề giáo nữa mà đang là một cán bộ, chủ nhiệm hay trưởng phòng gì đó của chính quyền CS. Anh còn khoe là cô giáo thường gởi quà cho anh, và còn cho tôi đọc ké mấy lá thư cô ấy viết, bảo là sẽ ra thăm anh, cũng như hứa hẹn bảo lãnh cho anh về Phú Yên, nếu anh thấy lo lắng không muốn trở về quê quán Mỹ Tho, và nơi ấy anh cũng chẳng còn ai, sau khi bà mẹ già đã mất. Nhưng không thấy cô đề cập đến chuyện “nối lại tình xưa”. Tôi ngại, nên cũng không dám hỏi anh. Cuộc tình “giữa hai chiến tuyến” này liệu có làm cho con tim thắng được tất cả mọi giáo điều chủ nghĩa, để vượt qua bao hận thù, tang tóc? Rất tiếc, tôi không tìm được câu trả lời này. Vì mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp lại anh ấy, mặc dù tôi đã nhắn tin và tìm hỏi rất nhiều bạn bè sang Mỹ theo diện HO. Đôi lúc, nghĩ về họ, tôi hình dung đến một đôi vợ chồng già sống hạnh phúc trong ngồi nhà ngói xưa ở Bàn Thạch, có khu vườn và cái giếng nước trong, anh đàn em hát; hay đang cùng quì xuống cầu kinh trong một ngôi nhà thờ nào đó. Cô giáo hiền thục ngày xưa không thể nào trở thành một “nữ đồng chí CS” thứ thiệt được, chắc cũng đã sớm nhìn ra cái lý tưởng hoang đường mà ông cha của cô đã mê muội theo đuổi, để đành lòng bỏ lại mẹ con cô một thời góa bụa cút côi, giờ chỉ còn lại bao hệ lụy đau lòng. Có thể cô đã từ bỏ mọi chức tước (nhờ vào thành tích”phấn đấu”của cha), để cùng người tình xưa – người lính khác chiến tuyến với cha cô – sống trong hạnh phúc bình thường. Cầu mong những người con gái Phú Yên, dù hoàn cảnh nào cũng luôn giữ trọn mối tình xưa.

Đặc biệt nhất, và cũng gắn bó nhất, chính là chuyện tình của ông đàn anh Khóa 13 gốc Bắc Kỳ, có nụ cười và đôi mắt dễ làm ” khuấy động trái tim người… ta” mà chúng tôi đã kết nghĩa anh em. Đại đội của anh là đại đội đánh đấm khá nhất, nên được ông tiểu đoàn trưởng tin tưởng, giao cho đóng quân và phụ trách vùng đất bất an nhất: từ phía nam Bàn Thạch đến tận làng Thạch Tuân, tiếp giáp Đèo Cả, ranh giới cuối cùng phía nam của tỉnh Phú Yên.

Ban chỉ huy đại đội đóng quân sau khu vườn của một ngôi nhà ngói lớn hai tầng duy nhất ở vùng này. Đối diện phía bên kia, sau con hương lộ, là ngôi trường tiểu học. Ông bà chủ nhà thuộc hàng khá giả, vừa làm chủ một cửa hàng tạp hóa ở tầng dưới, vừa làm nước mắm ở khu nhà sau. Một ngày cuối tuần, anh rủ chú lính cận vệ ra giếng tắm. Thầy trò chỉ mặc quần xà lỏn huýt sáo nhởn nhơ, bất ngờ gặp hai cô gái đang ngồi giặt áo quần bên thềm giếng. Sau khi bớt ngượng ngùng, hỏi ra mới biết là con ông bà chủ nhà, học ở Tuy Hòa, cuối tuần về thăm cha mẹ. Có lần tôi ghé lại thăm anh, được ông bà chủ nhà và hai cô con gái mời hai anh em tôi dùng bữa cơm thịnh soạn. Ông anh Bắc kỳ hào hoa nhưng rất kín miệng. Nhìn ánh mắt tôi biết là anh đang mết cô chị. Cô em còn bé lắm. Ông bà già mua hẵn một ngôi nhà khá khang trang ở phố Tuy Hòa, gần trường Nguyễn Huệ cho hai cô và một ông anh trú ngụ học hành. Là anh em kết nghĩa, vậy mà cuộc tình của anh, tôi không biết mặn nồng đến đâu. Chỉ biết lâu lâu anh lái xe bỏ bọn tôi xuống phố Tuy Hòa, lì xì vài chục uống bia, rồi phóng xe đi một mình. Đúng hẹn ghé đón bọn tôi với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi.

Hơn một năm từ ngày đổ quân xuống Tuy Hòa, cũng vào một ngày hè nắng cháy, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi Phú Yên, bàn giao trách nhiệm lại cho Trung Đoàn 47 biệt lập từ Bình Tuy ra để sáp nhập vào Sư Đoàn 22BB, mà bản doanh Bộ Tư Lệnh đóng ngoài Bình Định. Đơn vị tôi cùng chi đoàn Thiết Quân Vận của ông đại úy tài hoa Bùi Thế Dung, lại lên tàu há mổm xuôi nam, đổ quân xuống Phan Thiết.

Ông đàn anh Bắc Kỳ của tôi sau này lên làm tiểu đoàn trưởng, đánh thắng một trận lẫy lừng tại Căn Cứ 6 Pleiku đầu năm 1971, đươc ông Tướng Vùng gắn lon thiếu tá đặc cách tại mặt trận. Sau đó được ông tỉnh trưởng Ninh Thuận (vốn là cựu trung đoàn phó của chúng tôi khi còn đóng ở Phú Yên) xin đích danh anh về Phan Rang làm quận trưởng. Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thiệp hồng của anh mời đám cưới. Tôi ngẩn người khi đọc thấy tên cô dâu chính là cô hoc trò, con bà chủ quán ở Bàn Thạch ngày xưa, nơi anh đóng quân sau vườn nhà 6 năm về trước. Đến bây giờ tai tôi vẫn còn văng vẳng dư âm Bài Không Tên Số 2, với giọng hát Phú Yên thật nồng nàn cảm xúc, chị đã hát tặng bọn tôi ngay sau ngày đám cưới. Phải chăng ” đời một người con gái (Tuy Hòa) ước mơ rất nhiều, nhưng trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn một mối tình mang theo”?

Điều trùng hợp lý thú là năm 1976, khi bị chuyển tù ra Bắc, anh và tôi lại gặp nhau, ở chung một trại. Anh em thường gặp nhau tâm sự. Trong cảnh tù đày khốn khó, tình anh em gắn bó như xưa. Mỗi lần chị ra thăm nuôi anh đều mang theo thêm phần quà cho tôi. Có khi chị giả vờ đi lại trên con đê trước nhà thăm nuôi, biết chúng tôi sau một ngày lao động sẽ được về tắm giặt ở bên con đê ấy, để dúi vào tay tôi mấy tờ giấy bạc. Lòng tôi cảm động. Không ngờ cô con gái hiền lành ở vùng quê Bàn Thạch ngày xưa ấy, sau ngày chồng vào tù, đã dắt ba thằng con trai, mà đứa nhỏ nhất chỉ mới tròn 2 tuổi, vào Sàigòn bươn chãi nuôi con, tạo dựng được cơ ngơi nơi vùng đất lạ xô bồ phức tạp này. Và với chúng tôi, còn là một người bạn, người chị chí tình.

Anh chị sang Mỹ theo diện HO. Mang theo kinh nghiệm từ Việt Nam, chị sớm vào nghiệp bán buôn. Chỉ một thời gian ngắn gia đình khá giả. Ba đứa con trai đều thành đạt. Cháu trai út ra bác sĩ, cháu giữa làm luật sư, còn cháu lớn là kỹ sư, nhưng sau này đã trở thành một mục sư đi rao giảng đức tin Thiên Chúa.

Ngày đám cưới cháu trai thứ nhì, vợ chồng tôi sang tham dự. Bạn bè cùng đơn vị xưa từ khắp nơi cũng qui tụ về đây. Bất ngờ gặp một nhóm đồng môn Nguyễn Huệ của chị. Một cuộc hạnh ngộ thật kỳ thú. “Phe anh phe chị”. Chúng tôi biết thêm một số người đẹp Tuy Hòa xưa.

Đám đàn bà ngồi nhắc tên những thầy bạn cũ. Đám đàn ông bọn tôi ngồi điểm danh lại những thằng bạn lính, từng in dấu giày saut trên vùng đất Tuy Hòa thuở trước. Giờ cũng chỉ còn có hai thằng: ông anh gốc Bắc kỳ và tôi. Một số đã chết trong chiến trận: Trương Ngọc Điệp, anh trung úy gốc Huế, đại đội trưởng đầu tiên của tôi ngày ấy, đã chết tại chiến trường Thiện Giáo (Phan Thiết) sau hơn một năm rời khỏi Tuy Hòa, và sau đúng hai tuần cưới vợ, một cô giáo Ninh Hòa gốc Huế. Vài tháng sau, ông anh Thái Hữu Dư, khóa 16VB, bị thương nặng trong một trận phản phục kích rất hào hùng tại Lâm Đồng, được thuyên chuyển về Vùng 4 sau khi xuất viện. Đặng Trung Đức, khóa 19 Đà Lạt, người bạn rất thân với tôi, tử trận tại Kontum trong “mùa hè đỏ lửa” khi đang làm tiểu đoàn trưởng. Trần Công Lâm, thằng bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi, trước khi nắm tiểu đoàn từng là một đại đội trưởng trinh sát lừng danh của Quân Đoàn II, cũng đã bỏ mình tại vùng Tây Bắc Kontum, trên dãy núi Ngok Wang đèo heo gió hú. Vài thằng giải ngũ vì thương tích. Số còn lại thì bị tù đày rồi tản mát khắp bốn phương trời! Nhưng dù còn sống hay đã chết, có lẽ thằng nào cũng mang theo ít nhiều bóng dáng và giọng nói của các cô gái Tuy Hòa, cùng bao kỷ niệm hào hùng, dễ thương của một thời trai trẻ.

Ngày rời khỏi Tuy Hòa năm ấy, đơn vị tôi cũng đã mang theo một số cô dâu Phú Yên xinh đẹp. Tôi còn nhớ mãi những khuôn mặt thật xinh xắn, làn da trắng nõn nà của các cô bé ở Ngân Sơn (Tuy An), bẽn lẽn “hóa trang”làm lính, xúng xính trong bộ quân phục của chồng, đầu đội cả nón sắt, lội nước leo lên tàu Hải Quân, sợ những người chỉ huy chặn lại không cho phép. Nhưng ông tiểu đoàn trưởng đã biết trước, bảo nhỏ đám chúng tôi cứ làm ngơ cho họ được “tùng phu”, khi biết chắc đây không phải là “mỹ nhân kế” của địch, và biết đâu đơn vị lại được thêm vài tay súng, những “người lính không có số quân“!

Ông trung tá trung đoàn trưởng cao lớn bô trai của tôi cũng đã mang theo cô chủ quán hoa khôi gốc Huế nổi tiếng một dạo ở Tuy Hòa. Ông đại úy Thiết Giáp hào hoa thì xuống tàu một mình. Sau này lên đại tá, trở thành thiết đoàn trưởng chiến xa lừng danh Vùng I, và đã rước cô ca sĩ Hà Thanh của xứ Huế về dinh.

Riêng tôi, rời Tuy Hòa, không vương vấn mối tình nào, nhưng lại mang theo một cậu con trai 15 tuổi. Thời gian đơn vị hành quân ở Phú Lâm, tôi đóng quân sau nhà chú bé. Từ đó chú bé cứ theo mấy chú lính của tôi và năn nỉ xin tôi nhận cho vào lính. Học tới lớp nhì thì cha chết, bà mẹ theo người chồng mới vào Cam Ranh hơn một năm sau. Chú bé ở với vợ chồng ông chú, vừa nghèo vừa đông con, lại bị bà thím hất hủi. Tôi động lòng thương nên thường cho lính gọi đến ăn cơm chung, và lâu lâu lì xì chút tiền lẻ. Chú có khuôn mặt khôi ngô, tình tình lễ phép, gọi tôi là anh ba, và khóc lóc năn nỉ nhất định xin đi theo tôi, dù góc bể chân trời nào. Vào Phan Thiết, tôi kể cho ông tiểu đoàn trưởng nghe hoàn cảnh đáng thương của nó, ông chở tôi và nó đến một văn phòng xã làm giấy khai sanh, tăng thêm đủ tuổi để nhận nó vào lính. Ông giao nó cho tôi. Tôi chỉ cho nó đi theo, mang cho tôi một balô sách và vài thứ thức ăn. Cuộc hành quân nào ác liệt, tôi gởi nó cho anh HSQ Tiếp Tế ở lại hậu trạm. Hơn bốn tháng sau, được gởi vào Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Nó trở lại đơn vị khi tôi đã làm đại đội trưởng, nhất định xin tôi tình nguyện vào tiểu đội thám báo. Không ngờ nó lại là thằng lính đánh giặc gan dạ, lẫy lừng, đã mấy lần cùng toán thám báo cứu tôi thoát chết. Hai năm sau, nó tử trận tại mât khu Lê Hồng Phong (Phan Thiết) vào một ngày gió mưa tầm tã, khi xông vào một căn hầm của địch. Khi ấy nó vừa tròn 18 tuổi đời. Lúc hấp hối, nó thoi thóp cố mở mắt nhìn tôi, đôi môi mấp máy như muốn nói với tôi một điều gì đó. Tôi vuốt mắt nó mà nước mắt tôi ràn rụa, trong lòng tựa hổ như đang có trăm ngàn vết chém.
(Lê Xuân Tiên ơi! Bây giờ em đang ở một thế giới khác, bình an, không còn có hận thù chết chóc. Xin em hãy tha thứ cho anh. Đã mấy lần em xả thân cứu anh thoát chết, còn “anh ba”thì lại bất tài, không bảo vệ được cho em!).

Và đó cũng chính là món nợ ân tình duy nhất mà tôi không bao giờ trả được cho vùng đất Tuy Hòa – Phú Yên – của một thời chiến tranh, khốn khó.

Riêng ông trung tá tỉnh trưởng gốc Biệt Động Quân chịu chơi ngày ấy, sau này trở thành vị tướng lãnh tài ba và đã tuẫn tiết theo cùng vận nước vào cuối tháng 4/75. Còn ông anh Nguyễn Văn Tri, con bà cô, và anh “Chương Classic” của Tiểu Đoàn 23 BĐQ đã thoát chết trong một lần Tiểu Đoàn nghỉ quân trong căn cứ của một đơn vị ĐPQ, bị nội tuyến từ trong đơn vị ĐPQ này. Sau này anh Tri bị thương, được chuyển về TTHL/BĐQ Dục Mỹ. Tôi ghé thăm anh một đôi lần khi đơn vị chuyển quân ngang qua Huấn Khu này. Anh sang Mỹ theo diện HO, định cư ở Boston, có cô con gái là ca sĩ Hạ Vy. và anh đã qua đời hơn 5 năm trước. Anh “Chương Classic” khóa 19VB, sau này lên Thiếu tá, làm Tiểu Đoàn Trưởng một Tiểu Đoàn BĐQ lừng danh. Năm 1979, sau một lần chuyển trại tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù tận vùng Hoàng Liên Sơn. Hai anh em nằm gần nhau. Anh tự chế một cây đàn rất đẹp. Vẫn luôn giữ phong cách của một cấp chỉ huy, tư cách, nhẫn nhục, ít nói. Đêm đêm hai anh em uống trà tươi (giấu được khi hái trà cho trại), tôi ngồi nghe anh đàn. Trong hoàn cảnh ấy và với không gian yên ắng nặng nề, tiếng đàn Hạ Uy Cầm của anh càng thêm não nề réo rắt, chiêu dụ cả đám bộ đội canh gác, kéo nhau đến bên ngoài mê mẫn ngồi nghe. Nghe nói anh cũng đã sang Mỹ theo diện HO, nhưng nỗi buồn gãy súng vẫn chưa vơi, sống rất âm thầm với vết thương không lành được trong lòng.

Xin cám ơn Phú Yên, cám ơn Tuy Hòa, cám ơn cả ngôi trường Nguyễn Huệ đã cho tôi những kỷ niệm vui buồn của một thời làm lính, với những đồng đội, bạn bè cùng những chuyện tình lãng mạn, dễ thương. Tất cả cứ như khói như sương lãng đãng quanh tôi trong những phút giây hồi tưởng.

Phạm Tín An Ninh
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »


Image

BÀ MẸ QUÊ
Tô Văn Cấp, K19

Có nhiều cách gọi về song thân tùy theo địa phương, nhưng ở quê tôi, một vùng thuộc tỉnh Kiến An, Hải Phòng thì con gọi bố mẹ là thầy bu, vì thế tôi xin giữ hai danh từ này cho bài viết về mẹ tôi, một bà mẹ quê.

Thầy tôi qua đời ngày 15 Tháng Giêng năm 1947, hưởng dương 41 tuổi. Ông cụ mất đi khoảng sau hai tháng bị bệnh mà thuở ấy người vùng quê chỉ biết gọi là bệnh “thương hàn” (?). Những ngày thầy tôi lâm trọng bệnh và khi các con tiễn chân ông cụ ra cánh đồng thì nay tôi không còn nhớ gì nữa. Kỷ niệm duy nhất còn sót lại trong đầu tôi là khi ông cụ tháo vai cày ra khỏi cổ con trâu rồi đưa sợi dây thừng cho tôi dẫn nó đi ăn, đang gặm cỏ. Khi đến bên bờ hồ trước cửa nhà thờ thì nó nhào xuống nước, ngước mũi lên thở phì phò. Còn tôi, một thằng bé chăn trâu mới 6 tuổi, không thể kéo nó lên được nên tôi đành buông dây thừng, đứng trên bờ mà khóc vì sợ con trâu sẽ chết đuối.

Với bu tôi, một bà mẹ quê, thì tôi nhớ nhiều, nhưng tôi chưa một lần nhắc lại những kỷ niệm này với anh chị em và con cháu. Khi thầy tôi mất thì bu tôi mới 43 tuổi với một nách bẩy đứa con. Tất cả cùng sống trong căn nhà tranh vách đất ba gian hai chái, một mảnh vườn với dăm ba sào ruộng thuộc làng Cựu Viên, tỉnh Kiến An, thành phố Hai Phòng, và chỉ cách hai nơi này chừng hơn 3 cây số.

Một hình ảnh tuy đã hơn 60 năm rồi mà tôi vẫn còn như đang thấy trước mắt, đó là cảnh vào lúc hoàng hôn, bu tôi đứng ở góc vườn, sau lũy tre, hướng ra nghĩa trang mà kêu tên thầy tôi trong tiếng nấc, sau khi đã chôn cất thầy tôi xong.

Bu tôi cả ngày phải chân lấm, tay bùn với ruộng lúa vườn rau, mỗi buổi chiều về, sau khi thổi cơm cho con, nấu cám cho lợn (heo) xong thì mặt trời đã lặn. Giữa lúc tranh tối tranh sáng ấy, bà lẳng lặng ra góc vườn, lúc thì ngồi ngắt đọt khoai lang, khi thì đứng hái lá chè mà thút thít khóc, trong khi các con không hay biết.

Một buổi chiều tối, khi chim đã về tổ, tôi leo lên cây cau góc vườn để bắt ổ chim sáo đen khi nghe chim con “chíp chíp” mà tôi đã rình từ lâu, tôi thất kinh suýt rơi xuống đất khi bất chợt thấy một bóng đen đứng khóc ở góc vườn. Nhưng tôi hoàn hồn ngay khi nhận ra tấm khăn tang trắng vấn trên đầu, hai đuôi khăn chạy dọc sống lưng của bu tôi. Tôi vội tụt xuống định chạy vào nhà, nhưng rồi khựng lại, ngồi thụp xuống bên gốc cây cau vì nghe tiếng bu tôi khóc: “Ối ông ơi! Trời đã tối rồi, ông đi đâu mà sao không về ăn cơm uống nước với các con, ông ơi!”

Tuy tuổi lên 6, tuổi nghịch ngợm của trẻ nhà quê không biết sợ ma nhưng tôi rùng mình nổi gai ốc khi nghe bu tôi kêu lên như thế. Bà khóc trong nấc nghẹn, cố kềm trong họng không cho ra tiếng vì sợ các con nghe được, bà cam chịu đau khổ thương nhớ một mình, không đành chia nỗi buồn với các con. Các anh chị em chúng tôi không ai hay biết việc này, vì sau một ngày quần quật với công việc ruộng lúa, vồng khoai thì tất cả đã mệt nhoài. Mọi người đi nghỉ sớm để sáng mai, khi gà vừa gáy và tiếng chuông nhà thờ “bính-boong” lúc 5 giờ sáng là đã phải dậy để chuẩn bị ra đồng.

Riêng mình tôi biết bu tôi khóc. Tôi chẳng nói cho ai hay, nhưng tiếng khóc của mẹ xoáy vào đầu tuổi thơ khiến tôi cứ đứng sau hè nhìn bu tôi rũ xuống như tàu lá chuối héo, nghe bà nấc nghẹn mà ứa nước mắt theo. Nhiều khi tôi thấy bà vịn cành chè rồi sức nặng của khổ đau kéo cành chè gẫy xuống.

Một chiều tối, tôi nghe tiếng nói bên kia vườn, cách bụi tre, vẳng sang:

– Mẹ Quán sao cứ khóc mãi thế! Hãy để cho Quán nó yên nghỉ.

Đó là tiếng của cụ Dưỡng, tức chú ruột của thầy tôi.

Chắc cụ cũng xót ruột vì tiếng khóc mỗi chiều tối ngoài góc vườn. Bu tôi là cháu dâu nên phải vâng lời chú chồng, từ đó bu tôi không đứng khóc ngoài góc vườn nữa. Nhưng nỗi sầu vì nấm mồ chôn chồng chưa xanh cỏ thì làm sao vơi nên nước mắt tiếp tục rơi cùng những tiếng nấc nghẹn trong góc bếp, giữa đêm khuya.

Mùa Đông tháng giá, tiết trời khá lạnh ở vùng quê miền Bắc trong căn nhà lá vách phên nên có nhiều khe hở để gió lùa vào. Anh em tôi nằm ổ rơm, đắp chiếu, kín đầu thì hở đuôi và ngược lại kín chân thì thò đầu, cái lạnh đêm khuya lại thêm cái dạ trống, đúng với câu “bụng đói cật rét” nên giấc ngủ chập chờn. Nửa đêm về sáng, khi gà vừa gáy, tôi thức giấc, thấy ánh lửa từ nhà bếp hắt lên, tôi bò dậy và mon men tới gần để sưởi cho ấm thì thấy bu tôi ngồi nấu cám heo, một tay cầm que, tay kia nắm mớ rơm đẩy vào tiếp cho lửa cháy, bóng mẹ tôi in lên vách, ngả nghiêng theo ánh lửa bập bùng. Đêm khuya, thấy con thức dậy bò xuống bếp thì bà mẹ biết con đang thiếu cái gì. Vừa trông thấy tôi, bà vội kéo vạt áo lau nước mắt, rồi nói:

– Đói hả? Ngồi xuống đây sưởi cho ấm rồi bu nướng cho con củ khoai.

Bếp nhà quê đun bằng rơm rạ nên có tiếng nổ lép-bép làm bắn ra những tia lửa nhỏ tựa pháo bông, kéo theo tro bụi phủ lên người ngồi nấu. Bu tôi đứng dậy khẽ phủi tro tàn trên khăn tang trắng rồi lấy củ khoai lang ở cái thúng treo sau lưng vùi vào đám tro giữa ba “ông đầu rau”.

Có thể nhiều người không biết “khoai nướng vùi bếp tro” là gì, mùi vị nó ra sao, ngay cả con cháu nội ngoại của bu tôi hiện nay đang sinh sống trên đất Mỹ cũng không biết. Nhưng với tôi, củ khoai lang vùi bếp tro mà bu tôi “ban” cho tôi không có gì so sánh được. Người ta thường dùng chữ “ban” để nói về những “hồng ân” mà Thượng Đế, Chúa, Phật ban cho con chiên, Phật tử, nhưng bu tôi đã “ban” cho tôi củ khoai nướng vùi bếp tro giữa đêm Đông giá lạnh mà xung quanh bếp chỉ có rơm rạ, tro bụi, bóng tối và tình mẹ con.

Bà mẹ khều củ khoai trong đám tro ra, vò nắm rơm chà lên vỏ ngoài cho sạch chỗ cháy đen rồi đưa cho con:

– Khoai còn nóng lắm, con ăn từ từ.

Đúng rồi, khoai nướng thơm và ngon ngọt với trẻ em miền quê, nếu em đói mà vội ăn đến nỗi quên cả bóc vỏ thì sẽ bị nóng phải hả miệng ra, ngửa mặt lên mà thổi “phù-phù”, ăn vụng mà nuốt vội miếng khoai lang dễ bị nghẹn. Bụng đói, cật rét mà hai tay nắm củ khoai nướng nóng thì thích lắm, nhưng không hiểu sao cái tật tham ăn hằng ngày của tôi biến đi đâu mất. Tôi cũng chẳng hiểu chữ “hiếu” là gì, nhưng vẫn cứ bẻ củ khoai ra làm hai, đưa bu tôi một nửa mà không nói một lời nào cả. Biết nói gì hơn, và dù văn hay chữ tốt thì trong hoàn cảnh ấy, ngàn vạn lời nói cũng không đủ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu tôi chỉ vì tôi thấy bu tôi kéo vạt áo lau nước mắt, chỉ vì trong ánh lửa rơm chập chờn giữa đêm khuya tôi thấy mắt bu tôi đỏ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu tôi vì tôi biết bu tôi cũng đói nhưng bà nhường miếng ăn cho con, như tất cả các bà mẹ khác.

Cầm miếng khoai trong tay, bu tôi nhìn tôi không nói gì cả nhưng lại choàng tay qua kéo tôi vào lòng, tay kia xoa đầu con. Tôi biết bu tôi đang thổn thức và rồi bà khẽ nói:

– Con lên đánh thức các anh chị dậy ăn cơm để còn kịp ra đồng.

Hai tiếng “ra đồng” là chỉ công việc ngoài đồng ruộng như cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, trồng rau, trồng khoai, trồng bắp (ngô) v.v… Những công việc của nhà nông để làm ra thực phẩm mà người thành phố, nhất là các bạn trẻ người Mỹ gốc Việt không bao giờ có thể hình dung ra được nó vất vả như thế nào.

Ngày qua ngày, bầy gà một mẹ bẩy con đùm bọc quây quần dưới mái tranh được bao quanh bởi lũy tre xanh, rồi bị chạy loạn vì chiến tranh. Khi hồi cư về làng cũ thì chỉ còn hoang tàn đổ nát nên mẹ con lại chạy theo dòng người di tản. Thấy họ đi thì bà mẹ quê cũng dắt con đi, không biết đi về đâu và làm gì? Những lúc gian nan khốn khổ như thế chắc hẳn bu tôi lại kêu tên thầy tôi và mong chồng chỉ lối đưa đường cho vợ góa, con côi được về nơi bình an.

Cuối cùng thì gia đình tôi làm dân di cư trôi dạt vào Nam, về làng Bến Xúc, quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương năm 1954. Người nông dân thường có sức chịu đựng như “cỏ dại”, vất đâu cũng sống được với đất, nhưng mẹ con chúng tôi ra đi không mang theo ruộng vườn, chỉ có hai bàn tay nên phải xoay sở. Các anh chị tôi lúc này đã trưởng thành nên phiêu lưu về thành phố và gia đình tôi lại di chuyển về 172/41 đường Lê Quốc Hưng, Khánh Hội, quận Bốn, Saigon.

Bu tôi, một bà mẹ quê lạc về thành phố, bỏ lại sau lưng xa tít mù khơi mái tranh, lũy tre, ruộng vườn, mồ chồng mà sẽ không bao giờ được nhìn lại nên bu tôi như tàu lá úa và chỉ hồi sinh sau khi đã có tiếng bập bẹ “bà bà” của các cháu nội ngoại. Có lẽ đây là giây phút hạnh phúc nhất của bu tôi cũng như các bà mẹ khác, thương cháu chăm sóc cháu hơn thương con.

Vẫn tưởng bu tôi được vui hưởng thái bình với cháo rau đạm bạc bên con cháu cho toi lúc đầu bạc răng long thì chiến tranh lại tràn về. Các con trai, con rể của cụ lên đường tòng quân, thằng Cao Nguyên, đứa Đông Hà, em tôi ở núi Sơn Chà Đà Nẵng thì tôi ở mãi tận mũi Cà Mâu. Đâu đâu cũng nghe tiếng súng nổ. “Đại bác đêm đêm vọng về thành phố” thì bà mẹ quê khốn khổ thức giấc ngồi tựa lưng vào vách, mắt nhắm, tay cầm tràng hạt, miệng đọc thầm chuỗi Mân-Côi cầu xin Thượng Đế ban ơn lành cho đàn con nơi lửa đạn.

Nhớ lại lúc tôi nhận được giấy gọi đi trình diện Không Quân và Võ Bị cùng một ngày, đang phân vân chưa biết chọn nơi nào thì bu tôi bảo:

– Con đừng đi lính tầu bay, thấy tầu nó bay bay thì bu sợ lắm. Con lên Đà Lạt mà học, vì ở đó có chị Hải của con, chị con sẽ săn sóc cho con thì bu an tâm hơn.

Chị ruột tôi ở số nhà 16C Phạm Ngũ Lão, tôi đã lên đây nghỉ Hè nhiều lần rồi. Thấy Sinh Viên Sĩ Quan Võ Bị là tôi mê, nay có thêm lời khuyên của bu tôi nên tôi chọn Võ Bị. Tuy không được bà chị săn sóc, nhưng lại được nhiều đàn anh săn sóc tận tình hơn, nếu bu tôi mà biết “tận tình” như thế nào thì chắc là cụ khóc ngất. Ngày tôi ra trường, bu tôi lên Đà Lạt dự lễ mãn khóa để xem tôi mang lon “quan một” nó ra sao, nhưng mục đích chính là bảo anh rể tôi làm Cảnh Sát: “Sắp xếp làm sao cho tôi làm việc tại Đà Lạt cho có chị có em”, cho bu tôi an tâm (!). Thế rồi, bu tôi thấy tôi đội mũ beret xanh Thủy Quân Lục Chiến, cụ lo lắng. Vì một anh rể khác của tôi ở TQLC đã bị thương nhiều lần nên tôi phải nói dối cụ là tôi được làm văn phòng ở Thủ Đức, gần nhà hơn.

Nhưng rồi tôi đi biền biệt, từ Bến Hải đến mũi Cà Mâu, chẳng có ngày phép để về thăm mẹ già! Đời lính chiến là vậy, còn bu tôi thì hằng ngày vẫn thót con tim mỗi khi thấy xe GMC chở quan tài phủ cờ chạy qua cửa. Khi nghe mấy bà hàng xóm kháo nhau rằng áo quan phủ cờ vàng sọc đỏ là của lính chết trận thì bu tôi vịn tường ngồi xuống đất đọc kinh tiếp.

Rồi một ngày tháng 6/1966, một xe GMC/TQLC chạy vào xóm và từ từ dừng lại, khiến bu tôi hốt hoảng khuỵu xuống, nhưng người lính TQLC tìm nhà bà Châu, bà hàng xóm và cũng là người cùng quê, để báo tin con trai bà là thằng Mão đa tử trận. Bà Châu xỉu, bu tôi hoảng hốt lo lắng xỉu theo, vì Mão và tôi là bạn và cùng tình nguyện vào TQLC. Mão ở Tiểu Đoàn 1, tôi ở Tiểu Đoàn 2. Cả hai vừa đụng trận tại ngã ba sông Đinh thuộc Bích La Thôn, Quảng Trị. Nó tử thương, tôi bị đạn xuyên khuỷu tay, thấy không sao nên tôi đã nói với hậu trạm là đừng báo tin về cho gia đình biết. Khốn thay, hậu trạm rồi hậu cứ ở Thủ Đức cứ theo đúng thủ tục mà báo tin nên hai ngày sau lại một xe jeep TQLC đậu trước cửa hỏi nhà bà Tiệp, tên anh cả của chúng tôi. Người báo tin chưa kịp nói gì thì bu tôi ngã xuống bất tỉnh và không còn biết gì nữa!

Vì bị thương nhẹ nên tôi xin xuất viện ngay để đi phép về thăm nhà. Bu tôi đang nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, thấy tôi về, cụ ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn con, hai tay vuốt mặt con, nắn vai, nắm tay con lắc lắc như muốn biết đây là thực hay chiêm bao? Bu tôi không nói gì mà chỉ khóc. Cụ khóc vì lo âu, cụ khóc vì còn cầm được tay con vừa từ mặt trận trở về.

Những bà mẹ lính chiến thấy mặt con lúc nào thì được hạnh phúc lúc đó, còn suốt ngày dài lại đêm thâu chỉ toàn là sầu khổ vì nghĩ đến con ngoài chiến trường. Tôi xin mượn ý bài thơ Màu Tím Hoa Sim: “Không chết người con lính chiến mà chết người mẹ hậu phương.” Người lính chiến nếu có chết, chỉ chết một lần, nhưng những bà mẹ hậu phương thì chết dần chết mòn, chết khi nghe “đại bác đêm đêm vọng về thành phố”, chết giấc khì thấy con “trở về trên đôi nạng gỗ”.

Bu tôi đã chết giấc nhiều lần như thế khi thấy mấy đứa con, đứa cháu trong họ, cùng đi TQLC lần hồi tử trận như Tô Thanh Chiêu, Tô Văn Sơn, cháu ngoại Vũ Tuấn, Nguyễn Thanh v.v… Cuối cùng thì ngày 19/6/1969, trên con kinh Cán Gáo thuộc tỉnh Chương Thiện, những tiếng nổ đã loại tôi ra khỏi vòng chiến. May mắn hơn Chiêu, Sơn, Tuấn, Thanh v.v.., tôi còn nặng nợ, chưa “đi được” nên khi tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường bệnh viện, toàn thân những dây cùng nhợ! Mờ mờ nhìn qua lớp băng quấn đầu, tôi nhận ra bu tôi đang lấy tay cạy những vết máu, vết sình đã khô trên mặt tôi. Tôi mấp máy đôi môi, gọi qua hơi thở của bình dưỡng khí:

– “Mẹ.”

Tiếng “Mẹ” dễ gọi dễ thương là thế nên tôi quen với chữ “Mẹ” từ đó.

Tôi bị trọng thương, bị loại khỏi vòng chiến thì cũng là lúc mẹ tôi bớt được một phần lo âu. Thấy tôi lê lết với đôi nạng gỗ kẹp nách quanh quẩn xó nhà thì mẹ tôi lại mỉm cười:

– Con cứ như thế này thì mẹ đỡ lo.

Chưa trả hết nợ nước nên tôi được hạnh phúc quanh quẩn một thời gian bên bà mẹ già nhà quê, bà mẹ không biết viết, không biết đọc mà chỉ biết khóc vì con. Thế rồi đất bằng dậy sóng, các bà mẹ lại tiếp tục vất vả vì các con.

Lần sau cùng tôi nghe mẹ khóc là khi tôi cáu kỉnh nhìn mẹ rồi tôi vất đôi dép cao su làm bằng vỏ xe hơi mà cụ đã len lén để vào túi xách cho tôi lên đường “học tập vinh quang”.

Sau ngày 30/4/75, ba anh em trai tôi cùng hai người anh rể đều lên đường để “được cải tạo” làm con người! Chẳng cần nói thêm thì ai cũng biết một bà mẹ già trong hoàn cảnh ấy thì “có vui bao giờ”. Nghe hàng xóm xì xào bán tán, mẹ tôi thật thà đi mua quần áo đen và dép râu cho các con để sớm được về đoàn tụ!

Quá khứ đời tôi lính chiến đã khiến mẹ lo âu sợ hãi nhưng chưa lần nào tôi hỗn với mẹ như lần này. Tôi lôi đôi dép cao su và bộ quần áo đen ra khỏi túi xách và quăng nó vào góc nhà. Mẹ tôi nhìn sững tôi và chắc bà tự hỏi tại sao con lại vất những thứ cần thiết ấy, nó sẽ giúp con để sớm được về với mẹ. Làm sao tôi hiểu được tình thương mênh mông của bà mẹ quê trong khi bà cũng không biết được con trai mẹ đang “chín” từng khúc ruột. Tôi lẳng lặng cầm túi xách lên đường, không lời chào từ giã mẹ già đang ngồi tựa lưng vào vách mà mắt nhìn theo gót chân con.

“Cải tạo” tới năm thứ chín thì tôi hay nằm mơ thấy mẹ. Linh tính cho biết có điều chẳng lành, tôi hỏi người nhà mỗi khi đến thăm nuôi thì được biết mẹ tôi vẫn bình thường. Nhưng sao vẫn thấy mẹ trong giấc mơ, tôi đem chuyện hỏi lại thì lúc đó vợ tôi đành lôi trong túi xách ra một xấp hình đám tang mẹ tôi mà vợ tôi đem theo những lần trước nhưng vẫn dấu kín. Tôi không còn nước mắt để khóc mẹ vì tôi đã không chào mẹ khi ra đi, không biết rằng đó là lúc chào lời vĩnh biệt, không biết ai vĩnh biệt ai. Mẹ tôi khóc vì các con phải đi xa khi đất nước đã thái bình khiến mẹ tôi mù lòa. Mẹ tôi ra đi vĩnh viễn khi tôi chưa quay về!

“Lòng mẹ thương con như biển Thài Bình dạt dào.”

Lòng mẹ như bị dao chém mỗi khi nghe tin con “thắng trận” trở về, “trở về trên đôi nạng gỗ, trở về hòm gỗ cài hoa!”

Lời nào nói cho đủ, viết cho hết trong vài trang giấy. Những bà mẹ, dù quê hay thành phố, đều là Mẹ Việt Nam. Mẹ Việt Nam thì lúc nào cũng vui và khổ đau theo đời sống thăng trầm của các con, không vui khi các con không vui với nhau. Khổ đau biết bao những bà mẹ của các anh lính chiến luôn canh cánh bên lòng, lo sợ phải rên rỉ câu: “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống, trời hay chăng trời?”

Những ai còn mẹ, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì xin chớ có cử chỉ đáng trách như tôi đã phạm đối với “Bà Mẹ Quê” để khỏi phải ân hận khôn nguôi.


* Trích từ tác phẩm “Nửa Đường” của tác già Tô Văn Cấp, xuất bản tháng Sáu, năm 2019 tại Nam California, Hoa Kỳ.
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by caubennoc »

NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN
Trần Như Xuyên


Tối đó, tôi dẫn Đại đội tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi nắm Đại đội, sáng nay có cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người Đại đội trưởng tiền nhiệm,cũng là khóa đàn anh của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.

Ra trường được sáu tháng, từ anh Thiếu úy mới tò te ra trường, giờ đã lên nắm Đai đội, quả là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các binh chủng khác như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến..., có lẽ họ vẫn còn đang thực tập ở Trung đội hay là Trung đội trưởng mà thôi. Tôi nắm Đại đội hơi nhanh không phải vì mình tài giỏi gì mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn đi Bộ binh, các đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại đội xử lý là một Chuẩn úy, gọi là xử lý cũng không đúng vì trong cấp số coi Đại đội thì tối thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ quan quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt mới ra trường là các đơn vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46 thì một ông đàn anh khóa 16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về. Ông tên Hồ Trang, khóa 16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam vì dính dáng tới vụ Phật Giáo, ngoài đó ông đã là Tiểu đoàn phó nên vị Tiểu đoàn Trưởng cũng có hơi nể, quay quắt vì việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng như mắm tôm, ông nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí tình trong việc chỉ bảo cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng còn quá mới, quân trường dậy là một chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.

Cứ như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho xuống trung đội để thưc tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đã tàm tàm gọi là đủ lông, đủ cánh bay solo được, ông nói với Tiểu đoàn Trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho tôi, trước đó, ông đã thu xếp người Đại đội phó đi học để tôi coi Đ.Đ được danh chính ngôn thuận.

Nói về tối đầu tiên tôi dẫn Đ.Đ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân đêm cùng các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên đường tôi thấy có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, thường vụ đại đội, ông ta đi lính hồi tôi còn học Tiểu học:

- Ai vậy ông Hội, sao có đàn bà lẫn lộn vào đây?

- Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với Đại Đội lâu rồi, hồi còn Trung úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn xuống sống với chồng nó.

- Tôi thấy không được rồi đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công thì làm sao, thằng Nở chỉ lo cho vợ nó thì còn đánh đấm gì được..

- Thiếu uý đừng lo, vợ nó phụ nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên, biết tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu úy coi, hễ rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên nữa.

- Nhưng lỡ có chuyện gì làm sao mình báo cáo.

Hôm sau tôi gọi Nở lên trình diện:

- Sao cậu không để cho vợ cậu ở nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy, lỡ có chuyện gì thì sao?

- Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ nhỏ, không có nhà, em đã đưa nó về với má em rồi nhưng má em không ưng nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy cũng bất tiện, em biết chứ.

Nở thực hiện lời"em biết chứ", vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi chung trong toán đại liên nữa, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ ra bến xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải, lỡ có chuyện gì thì làm sao, rồi má con sẽ phải hòa thuận với nhau chứ.

Một hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó tôi có dặn anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu có đứa bị móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ thì Nở không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các Trung đội xem còn ai không biết chữ gom tất cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT mua tập vở về dậy họ học,"ngày mãn khóa", tôi kêu từng người đưa tờ Chiến sĩ Cộng Hòa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, Hạ sĩ Nở biết chữ từ ngày đó.

Có bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở mấy nhà quen trong xã, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.

Tôi mở lá thư của Nở ra đọc:

Long Xuyên, ngày...
Anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi mình hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái gì quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố chìu chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.
Em, Ba.

Một tuần lễ sau khi đọc lá thư của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại Đội đi đóng quân, tôi lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng quân, không biết anh Hai có trả lời, trả vốn gì không hay nhớ chồng lên đại, tôi thấy chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nhìn thấy, hoặc có thể biết tôi đã thấy nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ mà là bộ đồ trận rộng thùng thình, đầu còn đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang che mắt tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại liên quanh người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin gì cả, chẳng thà để tôi lờ đi như không biết còn hơn là hợp thức hóa cho khó xử.

Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh thường có ba Đại đội tác chiến, chia nhau vùng trách nhiệm họat động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ, đôi khi có cuộc hành quân cấp Tiểu đoàn thường là nhẩy trực thăng và xa hơn. Ba Đại đội trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đình Hà (ĐĐ1), Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3.

Một tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long Thượng về Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà(ĐĐ2) khoảng 500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc với Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rõ vì đã từng đóng quân ở đây, chắc chắn là địch tấn công từ ngã rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy băng lên vì tình người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch, nhưng vì không liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn,, tôi chạy lại cây đại liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc, tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng bóp cò, nhả từng loạt đạn về hướng địch.

Như tôi đã nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai chục tên, đợi mình ơ hờ, liều lĩnh tấn công.Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau, ĐĐ tôi hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng vì địch tụ ở đâu về, ém quân trong đám dừa lá dầy đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng tập trung ở đây, đợi đêm xuông có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Hòa, Đức Huệ rồi qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả.

Đám dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng trống, suốt vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba binh sĩ bị thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi máy bay ném bom còn là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế chiến, toàn là Garant, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của Hạ sĩ Nở cũng có tác dụng. Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một mình vác cây đại liên cả với chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là anh ta chạy nhào lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch còn lo núp. Khi đã rất gần mục tiêu và có gò đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được hiệu quả của nó, từng loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được, cộng thêm pháo và trực thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối, địch bỏ lại 6 xác và một số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể gì so với sau này khi SĐ 25 rời Long An di chuyển về vùng trách nhiêm mới là Tây Ninh, cuộc hành quân vượt biên năm 1970 cũng như ở Bình Long mùa hè đỏ lửa thì chiến trận lên tới cấp Sư đoàn, Quân đoàn.

Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận đánh và gắn huy chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng Tướng Chinh là người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng cấp, Nở chỉ được cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng huy chương vàng của các nơi khác(!)

Hai ngày sau ĐĐ còn được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả toán đang ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng, thấy tôi, chị có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá tôi có quyền, tôi sẽ tặng cho chị ấy một cái huy chương của buổi tối yểm trợ cho Vũ đình Hà.

Đầu năm 1968, tôi được đề cử theo học khóa Tác chiến trong rừng ở Mã Lai, tôi còn gắn bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một buổi sáng, đang đứng trước cửa ĐĐ thì vợ Nở bất chợt ngang qua, chắc đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại muốn thối lui nhưng không kịp, chị ta làm gạo bước tới và khi ngang qua tôi, vợ Nở mím môi lại và dơ tay chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc nhiên, trong một phản xạ, tôi chào lại, chào xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ: sao mình lại chào nhỉ, hóa ra ĐĐ này có một nữ quân nhân ư? Có lẽ chị ta thấy mọi người trong ĐĐ chào tôi nên khi gặp, chị cũng chào để cho giống như những người kia chăng! Tôi thấy hình như bụng vợ Nở có hơi to ra. Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ Hội thì ông ta bảo: có vẻ như vậy Trung úy.

Tôi gọi Nở lên:

- Vợ cậu có bầu phải không?

- Dạ, thưa Trung úy.

- Vậy thì cậu phải đưa cô ta về với bà già đi chứ, bầu bì rồi đi theo ĐĐ mãi sao được, phải lo sức khỏe cho cô ta.

- Dạ, em cũng tính tháng này lãnh lương xong, Trung úy cho em cái phép để em đưa nó về gởi bà già.

- Được rồi, lúc nào muốn cứ lên đây.

Hai ngày sau, Đại Đội được lệnh đóng quân đêm và tổ chức một cuộc phục kich ở sau lưng quán Năm Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự khuấy rối của VC nơi đây, tối đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ bọn chúng gặp toán phục kích, hai tên bị bắn hạ, số còn lại nhập qua toán kia thì đụng phải ĐĐ, nhờ toán phục kích nổ súng trước nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch bắn rất rát nhưng không chủ ý tấn công nên sau một hồi, chúng rút lui, hình như có chuyện gì xẩy ra ở cây đại liên vì tôi thấy nó nổ được một chập thì im bặt, tôi đảo nhanh vòng quanh tuyến phòng thủ, không có tổn thất nào, nhưng khi tới cây đại liên, tôi thấy có mấy người lố nhố, linh tính cho tôi biết có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng:

- Gì vậy Nở?

Không có tiếng trả lời, tôi bước vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ đang loay hoay băng vết thương nơi ngực chị ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào:

- Vợ em nó chết rồi Trung úy ơi!

Tôi ngồi xuống, chị ấy bị trúng đạn ở ngực, máu ướt đẫm cả cái áo trận, y tá Thọ đứng lên:

- Chết rồi Trung úy.

Tiếng thằng Năm trong toán đại liên:

- Súng bị kẹt đạn, thằng Nở kéo mãi đạn không lên, con Ba nó chồm dậy mở nắp cơ bẩm, em la nó nằm xuống nhưng không kịp Trung úy.

Tôi thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, từng chứng kiến nhiều cái chết nhưng lần này tôi thật xúc động. Thôi, chị Nở, từ nay chị hết cần phải tránh né tôi nữa rồi, sao tôi lại không cứng rắn hơn nữa với chị, giá tôi đừng tình cờ đọc được lá thư chị viết cho chồng, ừ, đáng lẽ tôi phải cứng rắn hơn, nhất định không cho chị đi theo ĐĐ như vậy.

Tôi báo với Thiếu tá Hải, Tiểu đoàn Trưởng về sự việc xẩy ra, ông có biết vợ chồng Nở, ông cho Sĩ quan CTCT/TĐ mua cái hòm, cấp cho Nở một cái xe Dodge để đưa vợ về quê mai táng. Tôi lấy hết tiền có thể có được, cả tiền quỹ ĐĐ đưa cho Nở, buổi trưa cuối năm, trời hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và quan tài vợ đi ngang qua ĐĐ, tôi đứng nghiêm chào như một lần chị đã chào tôi, chị chết đi mà cái hòm không có phủ cờ, không được mười hai tháng lương, không cả được lên cấp chỉ vì chị là NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN.

Mười ngày sau, Nở trở lại đơn vị, trước ít ngày tôi về SG để chuẩn bị đi học, Nở đào ngũ, có lẽ Nở không chịu được cái cảnh mỗi tối vác cây đại liên tới chỗ đóng quân mà không có vợ bên cạnh.

X X X

Chị Nở thân mến, 40 năm sau ngày chị mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện này về chị, chỉ là một sự tình cờ thôi, hôm nọ tôi đọc loáng thoáng đâu đó người ta nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một người không phải là quân, cũng không hoàn toàn là dân, gọi chị là gì nhỉ, chị lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến đấu như một người lính thực thụ và đã hy sinh.

Một lý do nữa để tôi viết về chị là vì mới đây, Cộng Sản Việt Nam đã làm ầm ĩ lên câu chuyện về Đặng thùy Trâm, một nữ cán binh CS xâm nhập vào Nam và đã chết ở chiến trường Quảng Ngãi, cô Trâm này chết ở đây nhưng không ai biết nắm xương khô vùi chôn nơi đâu, một người lính Mỹ hành quân qua nơi cô chết và nhặt được cuốn nhật ký của Đặng thùy Trâm, cuốn nhật ký này, như một kỷ niệm chiến tranh của người lính, anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau, nó mới được đưa ra ánh sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy Trâm ở Hà Nội.

Nhà nước CSVN chụp được cơ hội này cho xuất bản cuốn nhật ký, dĩ nhiên với nhiều thêm thắt để khơi động lòng yêu nước của đám thanh niên càng ngày càng rời xa chủ nghĩa CS.. Đặng thùy Trâm là một Bác sĩ, nhưng không hiểu có được học hành tử tế để thành một Bác sĩ không, tôi đã đọc được một truyện khi ở tù ngoài Bắc là có một anh công nhân được tặng danh hiệu anh hùng lao động vì đã phục vụ 15 năm trong phòng bào chế thuốc, và vì phục vụ hăng say và lâu như vậy, anh được thăng lên làm dược sĩ vì quen với công việc bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta mới đi học bổ túc văn hóa vì anh ta viết chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy, tôi không biết Bác sĩ Thùy Trâm này trình độ có khá hơn y tá Thọ của Đại Đội mình năm xưa không, hay cũng như mấy bà mụ vườn ở nhà quê.

Thưa chị Nở, cả chị và cô Đặng thùy Trâm này là hai người đàn bà ở hai chiến tuyến chết trong cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và độ tuổi cũng gần như nhau, nhưng hai cái chết mang hai ý nghĩa khác nhau, Thùy Trâm bị bắt buộc và tự đi tìm cái chết, còn chị, chị bị chết vì người ta ở mãi đâu vô đây tìm để giết chị, chị chỉ là tự vệ, chị không hận thù ai, không ai dậy chị oán thù, không ai tuyên truyền với chị về chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ và cũng không nhân danh chủ nghĩa để chém giết người khác, chị rất đôn hậu, còn cái cô Thùy Trâm kia đã từ ngoài đó vào đây, mang trong lòng sự thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi nhét, miền Nam này nào có cần ai phải giải phóng đâu, cho mãi nhiều năm sau này, người miền Nam vẫn khẳng định rằng họ không cần ai giải phóng cả.

Chị Nở có thấy điều buồn cười này không là trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm viết là sao quân Mỹ Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị Nở có thích chém giết ai không hay người ta vào đây tìm giết chị, từ ngoài đó lần mò vào tận trong này để tìm giết người ta lại còn hô hoán là sao người ta thích chém giết mình, thật kỳ lạ. Cũng trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm than phiền là phấn đấu đã lâu nhưng chưa được kết nạp đảng, đây cũng là lý do vì sao Thùy Trâm đi B, cố gắng trong công tác để chỉ mong được đảng kết nạp, chị Nở có biết cô ta mong được kết nạp để làm gì không, thưa là để có cơ hội được làm lớn, có đảng mới được làm lớn, có làm lớn thì mới có quyền và có tiền, bây giờ cả cái nước Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi nhau vơ vét tiền bạc của người dân, chúng giầu lắm rồi, hồi trước mỵ dân, chúng đem những người giầu có ra đấu tố, gọi họ là địa chủ, giờ thì ai đấu tố chúng? Thùy Trâm này nếu mà không chết và giả như có ô dù, giờ có thể là Bộ trưởng Y tế hay làm Giám đốc một bệnh viện nào đó thì cũng là những con giòi, con bọ đang tham gia đục khoét thân thể Việt Nam.

Cũng là cái chết nhưng chị chết trong vòng tay người chồng, có mồ yên mả đẹp, có nhang, có khói, tội cho cha mẹ cô Thùy Trâm, không biết nắm xương khô con giờ ở chỗ nào, họa chăng là cái bàn thờ với tấm hình cô ấy mà thôi.

Bốn mươi năm đã qua, bây giờ nhiều thay đổi lắm rồi chị Nở ạ, ông Thiếu úy trẻ năm xưa giờ là ông cụ già rồi, vẫn khó tính như trước và đang phiêu bạt nơi xứ người, Thượng sĩ Hội đã mất, Nở từ ngày đào ngũ tôi không gặp lại, chắc đã có vợ khác, xin được tạ lỗi cùng chị là đã không giữ được đất nước để rơi vào tay quân thù, thật không xứng đáng với sự hy sinh của chị, chúng tôi làm mất nước không phải vì hèn kém, không chiến đấu, mất nước vì bị phải mất nước.

Quên kể cho chị nghe,mấy tháng sau ngày chị mất, vũ khí được tối tân hóa, những cây Garant cổ lỗ sĩ được thay bằng súng M16, còn cây đại liên 30 nặng chình chịc chị biết đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ hơn, bắn nhanh hơn và không hay bị kẹt đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả đã qua, chúng tôi vẫn không bao giờ quên những người đã hy sinh vì mảnh đất miền Nam thân yêu, không bao giờ quên được những gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong việc chống lại quân Bắc phương xâm lược, hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.

Trần Như Xuyên
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by vuongquan »

Những Giọt Mưa Trên Vùng Đất Khô Cằn
Giao Thanh Phạm

Năm 1980 tôi bỏ vợ và cô con gái mới 13 tháng để đi vượt biên một mình. Chẳng biết vì may mắn ra sao mà tôi chỉ mất có hơn 4 tháng thì qua tới Mỹ. Cứ nghĩ, vào thời điểm ấy, chắc chẳng bao giờ còn gặp lại được vợ con. Thế là tôi nhắm mắt bắt đầu cuộc đời mới.

Qua Mỹ tháng 8, tháng 9 tôi cắp sách đến trường, vừa đi học vừa đi làm. Được đồng bạc nào gởi hết về Việt Nam cho vợ con, qua những thùng đồ cần thiết nhưng giản dị. Những tờ 100 đô cuộn thật chặt, bó bằng giấy bạc, bọc trong bao ny lông, nhét dưới đáy cây kem đánh răng, hoặc trong hộp bánh, hay trong cái khe hở của chiếc máy cassette giả trang, với những lời nhắn nhủ, “đồ kỷ niệm”, “quà sinh nhật cho con”… đừng bán.

Ai dè, lại may mắn thêm một lần nữa, hơn một năm sau thì nhận được điện tín vợ báo “Anh ơi, em và con được tàu Úc vớt, mang vào Singapore”. Thế là vừa mừng vừa lo, chạy cuống cuồng. Gia tài có độc nhất hai cái thùng giấy, một thùng đựng quần áo, một thùng đựng sách vở.

Vừa đi học, vừa đi làm bán thời gian, có nhiêu gởi về cho vợ con hết nhiêu, bên đây thằng chồng chỉ có trên răng dưới “bác”, ngay cả cái sổ nhà băng còn không có. Ăn thì ăn đường, ngủ thì ở cái shop may đồ gia công của mẹ thằng bạn. Trong túi chưa bao giờ có hơn mấy chục bạc.

Vợ con qua tới biết sống sao ? Ở đâu ? Không lẽ kéo nhau núp ở đâu cả ngày, chờ tối đến, shop may đóng cửa mới mò về “nhà” ?

Chân ướt chân ráo, qua Mỹ được hơn năm trời, mới học xong được 3 khóa, tín chỉ chưa được 50, bằng cấp thì không có, biết tính sao ?

Hồi mới bước chân vào trường Đại Học năm trước, có hai thằng kia nhỏ hơn tôi độ 2-3 tuổi, qua từ năm 1975 và đã đi học ở đây được gần hai năm. Chúng nó có xe, có nhà mướn, có việc làm bán thời gian nhưng cũng chưa được 5 đô/giờ. Hồi đó lương tối thiểu là $2.75/giờ. Hai thằng nó độc thân ky cóp giúp đỡ tôi, lúc thì ly cà phê, khi thì lon nước ngọt.

Một thằng, mẹ nó có cái shop may nho nhỏ, ban ngày thợ đến may, ban tối họ về, mẹ nó thương tình cho tôi ở đỡ không lấy tiền. Cái này là sai luật pháp nhưng liều vì không tiền, biết sao ? Cũng may ở đó có cái bồn tắm nhưng khổ cái là không có máy nước nóng. Mùa hè thì còn đỡ, mùa đông vừa tắm vừa nhảy. Chưa đầy vài phút nhảy ra chui ngay vào trong cái túi ngủ.

Khi được tin vợ con tôi chỉ mấy tuần nữa thì qua tới, chúng nó chạy lăng xăng như gà mắc đẻ. Đứa tìm nệm cũ, đứa tìm giường tủ, đứa xin được ít nồi niêu soong chảo, đứa khuân về bộ sofa lòi lò so, ngồi đâm đau cả đít …


Thằng Hải đến cái shop may tôi đang trú ngụ vào một buổi tối, lừng khừng mãi, mới loay hoay moi trong túi ra xấp tiền, run run nói : “Tao biết mày chẳng có tiền, mà vợ con thì sắp qua tới nơi. Tao để dành mấy năm nay được 2 ngàn rưởi, tao cho mày mượn dằn cọc mướn nhà, dư chút đỉnh chợ búa và mua sắm cho vợ con, còn ít thì phòng khi cần đến”.

Tôi đứng há miệng chết trân, chẳng biết nói gì. Cái thuở 1981 ấy hai ngàn rưởi nó to lắm. Giá một chiếc xe mới trung bình chỉ khoảng 6-7 ngàn. Tôi lại đang là cái thằng khố và áo, gom lại chưa đầy được cái thùng giấy. Công ăn thì nhiều, việc làm thì chưa có. Học hành chưa tới đâu, tương lai thì tối như mõm chó mực.

Số tiền ấy to lắm. Tôi với nó chẳng thân thích gì, chỉ biết nhau qua lại ở trường. Nó cho thằng trọc đầu vay tiền, thì có tóc hay chỗ nào để nắm mà đòi lại ? Và khi nào thì trả ?

Nó chẳng nói gì nữa, cầm nắm tiền dúi vào tay tôi rồi bỏ ra về. Tôi đứng ngẩn ngơ, nước mắt đoanh tròng mà đầu óc trống rỗng. Hai chữ CẢM KÍCH không đáng để diễn tả.

Hai tuần sau, chúng nó chạy đôn chạy đáo sau giờ học đi tìm nhà mướn dùm cho tôi. Chúng nó mới có tín dụng để xin mướn nhà, chứ như tôi, mướn cái chòi lá vẫn chưa đủ tư cách. Thằng Hải đi học cả ngày, buổi tối làm nghề đổ xăng trong phi trường quá nửa đêm mới về, thế mà sáng nào cũng cùng tôi đi lùng sục tìm nhà trọ. Rác rưởi thiên hạ bỏ đi, thì ba thằng lại khuân về cái tổ quạ cũ và dơ dáy nhất thành phố ấy cho thằng bạn trang điểm để đón vợ con.


Hơn tuần nữa vợ qua, tôi đi nhận nhà. Ba thằng xúm lại cuối tuần quét dọn, lau chùi và trang hoàng nhà cửa. Chúng nó khuân về cho mấy bao gạo, ít đồ khô, và mắm muối i như kiểu cha mẹ lo cho con trai lớn ra ở riêng.

Đến bữa ra phi trường đón, thằng Dũng chở tôi đi chờ chực cả tiếng đồng hồ mà không một lời phàn nàn. Làm xong thủ tục chở vợ chồng con cái tôi về nhà là nó biến ngay. Quay lại không thấy nó đâu, tôi mới chợt nhớ lời nó nói mấy hôm trước : “Vậy là từ nay chỉ còn hai thằng tao, mày về lo cho vợ con êm ấm nhé”. Giờ nhớ lại nghe buồn đứt ruột.

Ngày vợ đến, mặc dù tôi đã định cư ở Mỹ được gần 1 năm rưỡi trời, nhưng vì chúi đầu vào sách vở, nên chẳng có gì ngoài hai cái thùng giấy. Vợ bước vào nhà đứng khựng lại mấy giây ngỡ ngàng. Mãi sau này nàng mới kể lại : “Lúc ấy, em thất vọng quá, nhìn vô trong nhà, trống hốc trống hoác từ trước ra tới sau. Ngoài tấm nệm cũ đặt thẳng dưới nền nhà và cái ghế sofa rách rưới cũ kỹ ra, thì chẳng có gì. Em không nghĩ được là anh đã làm gì gần hai năm nay ?”. Sau này nàng hiểu rằng, thằng chồng cu ky, cút kít, cắm đầu đi học lo cho tương lai, nên mới thế.

Tình bạn giữa ba đứa chúng tôi không còn quá sâu đậm như hồi còn “độc thân” nữa vì giờ đã có “người khác” xen vào, nhưng nó lại có cái nhẹ nhàng sâu lắng của tình bạn chân thật ít có cơ hội gặp nhau vì chẳng bao lâu sau, chúng tôi chuyển trường, mỗi đứa một nơi.


Thế rồi, đường đời cứ vậy trôi đi, chúng tôi học xong, mỗi đứa dọn đi đến những vùng xa xôi hẳn, ít có cơ hội gặp lại. Cái món nợ hai ngàn rưởi đó tôi đã thanh toán xong ít lâu sau đó, nhưng cái ân tình đó tôi còn nợ đến tận thiên thu. Có lẽ chỉ khi nào từ bỏ cõi đời này thì món nợ ấy mới trả đủ. Mỗi khi có dịp ghé về California, tôi lại tìm gặp những người bạn xa xưa. Chúng nó giờ con cái đầy đàn, gia đình ấm êm hạnh phúc.

Chuyện cũ chẳng đứa nào nhắc lại bao giờ, nhưng riêng tôi thì có bao giờ quên được. Hôm nhận tiền trả nợ, Hải nói với tôi : “Ôi, ơn nghĩa gì, tình cảm trong đời nó phải như những giọt nước, bốc hơi bay lên trời, gom tụ đủ lại thì sẽ thành mưa, tưới xuống những mảnh đất khô cằn cho cây trái đơm bông”. Ghê thế đấy, cái triết lý của thằng nhóc qua Mỹ một mình mới hơn 20 tuổi đầu.


NHỮNG GIỌT NƯỚC ĐÓ, TÔI VẪN CHUYỂN GIAO ĐI ĐẦY ĐỦ, BẰNG HẾT SỨC MÌNH, BỞI CÁI TẤM CHÂN TÌNH ẤY HẾT ĐỜI NÀY TÔI CŨNG TRẢ CHƯA ĐỦ.

Giao Thanh Phạm
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image

TẠI SAO MẤT TỈNH BAN MÊ THUỘT, THÁNG 3-1975
K3 Nguyễn Ngọc Tuấn

Cuối năm 1971, tôi đang giữ chức vụ ĐĐT/ DĐ/202 CSDC thuộc BCH/CSQG Pleiku thì bị thuyên chuyển về phục vụ DĐ 206 CSDC thuộc BCH/CSQG tỉnh DARLAC (Ban Mê Thuột), giữ chức vụ Đại Đội Phó cho Đại Úy Bùi Văn Đoàn. Tháng 6 năm 1972, tôi thay Đại Úy Đoàn để lên làm ĐĐT.

Sau trận Mùa Hè Đỏ Lửa tại Quận Buôn Hô, Ban Mê Thuột (không phải trận đánh tại Kontum) và có sự tham chiến của Đội Thám Sát Tỉnh BMT cũng như của Trung Đội CSDC QuậnBuôn Hô và 2 Trung Đội Nghĩa Quân tăng cường tại Buôn Trinh (cách Chi Khu Buôn Hô 2 km) do tôi trực tiếp chỉ huy, Trung Tá Trần Quang Vĩnh, C H T / C S Q G / DARLAC ký một Sự Vụ Lệnh cử tôi kiêm nhiệm chức vụ Phụ Tá Chỉ Huy Trưởng CSQG Tỉnh Đặc Trách Hành Quân.
Kể từ giữa năm 1972 đến tháng 3-1975, tôi đã trực tiếp chỉ huy rất nhiều cuộc hành quân với sự tăng phái của ít nhất là một Đại Đội ĐPQ, một vài Trung Đội Nghĩa Quân và lực lượng chính là 3 hoặc 4 Trung Đội CSDC cùng với Đội Thám Sát Tỉnh (Đội này quân số gồm 2 Trung Đội, quân số hơn 80 người do một Đại Úy CHT, 1 CHP Hành Chánh,1 CHP Hành Quân). Tất cả những cuộc hành quân được cải danh là "Hành Quân tiểu trừ Phá Rối Trị An" nhưng thực chất là những cuộc hành quân như quân đội, có Pháo Binh Quận yểm trợ. Theo tin tức của Phòng 2 Tiểu Khu và của F Đặc Biệt Tỉnh, chúng tôi đi truy lùng rất nhiều Hậu Trạm của Việt Cộng chung quanh Thị Xã BMT củng như 4 quận Ban Mê Thuột, Phước An, Buôn Hô và Lạc Thiện thuộc tỉnh Darlac.

Tại BCH/CSQG Tỉnh Darlac, mỗi ngày, trừ ngày Chủ Nhật, đúng 8 giờ, một buổi họp được thực hiện tại một phòng hành quân nhỏ, gần bên văn phòng của CHT Cảnh Sát Tỉnh. 8 giờ sáng ngày 28-2-1975, trong buổi họp, Sĩ Quan thuyết trình báo cáo là trong ngày 27 tháng 2, một nhân viên thuộc Trung Đội CSDC Quận Buôn Hô (cách thị xã BMT 40 km về hướng Bắc) đi làm rẫy với vợ và gia đình đã bị VC bắt đi mất tích. Trung Tá CHT ra lệnh tôi đi Buôn Hô để bắt Thiếu Úy Lê Minh Đức, TĐT về nhốt về tội cho lính đi làm rẫy. Tôi đi lên Quận Buôn Hô cùng với tài xế và hai cận vệ. Lúc lên đến nơi thì Thiếu Úy Đức đã đưa cả Trung Đội CSDC Buôn Hô vô rừng để tìm cứu TS Huỳnh Ngạn rồi. Tôi lên Chi Khu Buôn Hô thì được biết T/U Đức đã xin một vùng trên bản đồ khoảng 9 km2 và cách Quốc Lộ 14 hơn 6 km trong rừng về hướng Tây. Vì thấy quá sâu trong rừng không thể đi vô được với vài nhân viên, tôi đành chờ đợi tin tức và sau đó đi ăn trưa với Đại Úy Ngô Văn Ba, CHT CSQG quận Buôn Hô.

Khoảng 12 giờ 30 trưa, tôi đang ăn cơm thì TS1 Hiên, một Tiểu Đội Trưởng của TĐ CSDC Buôn Hô chạy đến báo cho tôi biết Trung Đội đã bị một lực lượng chính quy Việt Cộng, đội toàn nón cối phục kích trong rừng với khoảng cách quá gần. 2 nhân viên CSDC bị tử thương. Thiếu Úy Đức và Thượng Sĩ Mầu, Trung Đội Phó đã bị thương nặng nằm tại chỗ không chạy ra được.

Tôi lên Chi Khu Buôn Hô và xin Chi Khu "clear" vùng Th/úy Đức đã clear từ trước, đồng thời xin Chi Khu yểm trợ Pháo Binh. Tôi gọi máy về Ban Truyền Tin BCH CSQG Tỉnh xin điều lên Buôn Hô nguyên Đội Thám Sát Tỉnh, Trung Đội Hậu Cứ CSDC, Trung Đội CSDC Quận Ban Mê Thuột. Chi Khu Buôn Hô tăng phái cho tôi thêm 2 Trung Đội Nghĩa Quân. Khoảng gần 4 giờ chiều cùng ngày tôi điều quân lên một ngọn đồi do Trung Sĩ CSDC Nguyễn Lâm (Trung Đội Buôn Hô) hướng dẫn, cách QL 14 khá xa về hướng tây. Tôi phải dừng quân lưng chừng ngọn đồi này vì địch pháo kích quá nhiều. Cũng may là không ai bị thương. Có lẽ địch pháo từ xa. Thấy trời sắp tối, tôi rút quân ra gần QL 14 và gọi xe Pick up của CSDC đưa về hậu cứ Trung Đội CSDC Buôn Hô. Tôi liên lạc về BCH Tỉnh và xin đưa thêm Trung Đội CSDC Quận Phước An lên Buôn Hô để tăng cường. Tôi cũng xin thêm Chi Khu Buôn Hô tăng cường cho tôi thêm một Đại Đội ĐPQ. Sáng sớm ngày hôm sau,với Pháo Binh Quận BH yểm trợ, tôi đưa quân vô vùng hôm trước từ 8 giờ sáng. Mãi đến 4 giờ chiều thì gặp được 4 xác CSDC và đưa về Doanh Trại CSDC Buôn Hô. Không một ai bên quân ta bị thương. Địch thì không rõ vì tôi chỉ xin Pháo Binh bắn vô vùng xung quang khu vực nêu trên liên tục trước khi điều quân lên đồi.

8 giờ sáng ngày 2-3-1975, tôi qua TTHQ Tiểu Khu Tỉnh họp. Tôi trình bày với Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật là quân của tôi đã đụng với quân Chính Quy VC tại khu vực quận Buôn Hô. ĐT Luật có vẻ không tin là quân Chính Quy VC đã xuất hiện tại Buôn Hô.

Từ gần một tháng trước ngày Việt Cộng bắt đầu tấn công BMT sáng ngày 10 tháng 3-1975, Phòng 2 Tiểu Khu Darlac và F CSĐB Tỉnh đã thu thập được rất nhiều tin tức cho biết hàng trăm xe vận tải quân sự của Cộng Sản đang chuyển quân trên đường mòn phía Tây Bắc của Thị Xã BMT. Phòng 2 Tiểu Khu BMT cũng đã thực hiện không thám và đã nhìn thấy sự di chuyển gần như công khai này. Quân Đoàn 2 đã nhận báo cáo và một vài phi vụ đã bay từ Nha Trang hoặc Phan Rang lên để oanh kích đoàn xe của VC nhưng không rõ sự thiệt hại của địch ra sao.

Sáng ngày 9-3-1975, Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2 đáp trực thăng lên thị xã BMT và đã họp với Đại Tá Tỉnh Trưởng, Đại Tá Vũ Thế Quang Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 BB, Tr/ Tá Cảnh SátTrần Quang Vĩnh. Tướng Phú từ chối yêu cầu của ĐT Luật v/v đưa Sư Đoàn 23 về phòng thủ BMT. Trong buổi họp tại TTHQ Tiểu Khu, tôi tổng kết sơ lược lực lượng phòng thủ Thị Xã BMT chỉ gồm có Tiểu Đoàn 224 ĐPQ, 9 Trung Đội Nghĩa Quân, 1 Trung Đội Thám Sát Tỉnh (1 Trung Đội đã được gởi đi tăng phái cho Quận Đức Lập từ tháng trước), 1 Ban Chỉ Huy Đại Đội 206 CSDC (gồm Ban Chỉ Huy và Trung Đội Hậu Cứ).

11 giờ trưa cùng ngày, Tr/Tá Vĩnh triệu tập buổi họp khẩn cấp tại BCH Tỉnh, ra lệnh cắm trại 100% và yêu cầu các Sĩ Quan thu xếp cho vợ con rời BMT để dễ dàng và yên tâm chiến đấu khi địch tấn công. Tr/Tá Vĩnh ra lệnh tôi túc trực tại trụ sở CSQG/CSDC đường Tự Do cùng với các Phòng Ban còn ông thì đích thân lo phòng thủ trụ sở cũ cạnh Sân Vận Động, nơi có Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Ban Truyền Tin và Phòng Kỹ Thuật. Xong buổi họp tôi về nhà ăn cơm trưa với gia đình và sau đó qua doanh trại CSDC tập họp nhân viên và cho thực tập báo động toàn BCH/CSQG trụ sở mới (nằm trên đường Tự Do).

Lúc hơn 3 giờ sáng ngày 10-3-1975 tôi đang ngủ tại doanh trại CSDC thì VC bắt đầu pháo kích liên tục vô thị xã BMT, bao gồm nhiều chỗ như Phi Trường L19 trên đường Tự Do, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trên đường Thống Nhất, Hậu cứ Sư Đoàn 23 BB, Kho Đạn BMT, Bộ Chỉ Huy Cánh Sát Tỉnh nằm trước mặt phi trường L19 v.v...

Tôi dùng PRC 25 để liên lạc với Đội Thám Sát Tỉnh hiện đang trấn giữ mặt Tây Nam của Phi Trường L19 và được báo cáo 2 toán phục kích bảo vệ vòng đai ban đêm đã bị đánh bật vô trong lúc 5 giờ sáng vì hỏa lực của địch quá mạnh. Tôi lại dùng máy liên lạc với Tiểu Khu xin quân tăng viện cho toán Thám SátTỉnh. ĐĐ1 thuộc Tiểu Đoàn 224 ĐPQ do Đ/U Hải, Phụ Tá Trưởng Phòng 3 TK Darlac chỉ huy được đưa vô cổng trước phi trường L19 nhưng cũng bị đánh bật ra ngoài. 6 giờ sáng thì Thiếu Úy Quyền, CHP Thám Sát Tỉnh cho tôi biết quân Cộng Sản đã tràn ngập doanh trại Thám SátTỉnh. Quân Thám Sát Tỉnh bị chết, mất tích hơn 20 người.

Cũng vào lúc 6 giờ sáng, khi tôi đang liên lạc với Đại Úy Hài trên PRC 25, CSV Nguyễn Khoái (tài xế của Cố Thiếu Úy Lê Minh Đức từ Buôn Hô về theo xác của T/U Đức) và Thiếu Úy Tâm (mới ra trường đổi về BMT) mặc sắc phục CSDC chạy xe Honda vô cổng trại CSDC. Vì cổng doanh trại có khóa bên trong, hai người này bỏ xe và leo lên cổng để vô trại. Ngay lúc đó từ trụ sở Hướng Đạo BMT, cách cổng trại CSDC gần 100 mét đạn đã bắn ra nhiều tràng. Hai CSV trên rớt xuống và chết tại chỗ. Đồng thời, CSV Trần Hùng vừa rời chòi gác ra định mở cổng cũng bị bắn tử thương. Lúc 9 giờ sáng, tôi cho lính dùng M72 và M79 bắn vô trụ sở Hướng Đạo. Sau nhiều phát nổ thì nghe im tiếng. Lục soát bên trong trụ sở này thì thấy 2 tên mặc quần áo Chính Quy VC chết bên trong, một tên chạy ra ngoài bị bắn chết trươc sân. Một tên VC có đeo theo trên lưng một cuộn dây điện lớn, có lẽ là toán này là toán lính đề lô Pháo Binh của VC.

Cũng vào lúc 6 giờ sáng, một xe tuần tiểu của Cuộc CSQG Thị Xã Lạc Giao (thị xã BMT) báo cáo cho tôi trên hệ thống FM5 là họ trông thấy một số mặc quần áo lính với bảng tên trên áo màu trắng, chân không mang giày đang di chuyển trông rất ngơ ngác trên đường phố gần đường Hai Bà Trưng, cạnh rạp cinê Lido . Tôi ra lệnh cho họ trở về trụ sở Cuộc CSQG Thị Xã ngay lập tức vì đó là lính VC, không phải lính mình. Như vậy là quân VC đã vô bên trong phố. Cùng lúc đó, tôi xin Trung Tá Chỉ Huy Trưởng liên lạc với Tiểu Khu để xin phi tuần đánh bom vô phi trường L19 để chận không cho VC tràn qua phi trường này vì nếu vị trí này bị mất thành phố sẽ bị lâm nguy. Khoảng 8 giờ sáng, nhiều phi cơ A37 đã bay đến oanh kích nhiều đợt vào phi trường và các vùng phụ cận. Sở dĩ tôi giữ liên lạc được liên tục và nhanh chóng với Tr Tá Vĩnh vì hố cá nhân của tôi ở ngay cạnh văn phòng làm việc của tôi. Tôi cứ bò vô dùng điện thoại gọi trực tiếp không cần sử dụng máy PRC25. Khoảng 8 giờ sáng thì Trung Tá Vĩnh cho tôi biết ông đã cho gia đình ông ấy và gia đình tôi ra khỏi Bộ Chỉ Huy CSQG cũ để tránh bị nguy hiểm. BCH Cũ tọa lạc trước Sân Vận Động BMT, trên đường Lê Lợi, là nơi có Phòng Truyền Tin CSQG, VP Phượng Hoàng, Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Phòng Kỹ Thuật, Ban Mật Mã.

Lúc 11 giờ 30, nhân viên truyền tin CSDC cho tôi biết máy truyền tin của Tiểu Khu BMT đã im tiếng không liên lạc được, kể cả khi chuyển qua tần số giải tỏa. Trung Tá Vĩnh bên BCH cũ cũng không liên lạc được với Tiểu Khu.
12 giờ 30 tôi thấy một đơn vị Biệt Động Quân VNCH di chuyển trên con đường phía sau doanh trại CSDC. Vì không liên lạc được với Tiểu Khu BMT, khi tôi báo cáo cho Trung Tá Vĩnh biết về sự xuất hiện của đơn vị BĐQ phía sau doanh trại CSDC, ông ấy cho rằng đó có thể là một đơn vị Việt Cộng đã giả dạng BĐQ và ông ra lệnh cho tôi tấn công. Thay vì cho khai hỏa bằng đại liên 30 và M16, tôi cho xạ thủ M79 của trung đội hậu cứ khai hỏa bằng súng M79. Cũng may là trời đã phù hộ chúng tôi và anh em BĐQ. Viên đạn M79 do CSV Nguyễn Minh bắn vướng nóc tôn của một cái garage xe, viên đạn M79 bị chẻ làm hai, không nổ và rơi xuống đất vì chưa đủ vòng xoay. Thượng Sĩ Đinh Viết Quỳ, tài xế của tôi đã xung phong trèo hàng rào leo qua trụ sở Quân Y Viện bên cạnh để ra ngoài hầu có thể liên lạc trực tiếp với đơn vị BĐQ đang di chuyển ngang qua doanh trại CSDC. Th/Sĩ Quỳ đi vô trại, hắn cho tôi biết là lính BĐQ thiệt, họ đã cho danh hiệu đài để liên lạc nếu cần. Đơn vị BĐQ tiếp tục di chuyển qua phía sau trại tôi, qua Quân Y Viện về hướng trung tâm thành phố. Sau này tôi được biết đơn vị BĐQ này được đưa vô BMT chỉ có nhiệm vụ làm lá chắn cho 1 chiếc thiết giáp M113 đưa gia đình Chuẩn Tướng Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 (?) thoát ra từ khu cư xá Sĩ Quan ra bản doanh Trung Tâm Huấn Luyện Trung Đoàn 45 và sau đó được một chiếc trực thăng bốc đi khỏi thành phố BMT.

Lúc 2 giờ 30 chiểu, Trung Tá Vĩnh gọi tôi, có lẽ bằng một máy FM1 cầm tay. Ông cho tôi biết 2 xe tăng VC đã đến tấn công cổng trước Bộ Chỉ Huy Cũ nơi ông đang trú đóng. Tăng di chuyển đến tấn công và bắn cột ăng ten cao 100 mét gãy gập xuống. Cây angten này nguyên được thiết trí cho máy truyền tin SA100, máy này có thể liên lạc trực tiếp dễ dàng và nhanh chóng về BTL CSQG Saigon cũng như về BCH/CSQG Vùng II tại Nha Trang. Tr/Tá Vĩnh cho tôi biết Tiểu Đội CSDC đã có dùng M72 bắn nhưng không có kết quả. Toàn thể nhân viên Cảnh Sát tại đây đã phải chạy ra khỏi nơi này bằng cách leo tường phía sau ra ngoài. Cũng lúc đó, Tr/Tá Vĩnh nói lớn trên hệ thống FM1: "Kể từ bây giờ tôi trao quyền chỉ huy cho Đại Úy Tuấn". Ít phút sau, CSV Tôn, nhân viên truyền tin của Đại Đội CSDC cho tôi biết Thiếu Tá Hàn Văn Thành, Chỉ Huy Phó mời tôi qua hầm chỉ huy của Bộ Chỉ Huy CSQG đường Tự Do để nói chuyện. Trong lúc đó đạn pháo của địch còn đang liên tục bắn như mưa vô Thị Xã BMT, kể cả những nơi gần BCH Cảnh Sát Tỉnh. Tôi và Th/Sĩ Quỳ chạy từ doanh trại CSDC qua bên căn hầm chỉ huy nằm giữa sân sau của trụ sở Bộ Chỉ Huy Tỉnh. Vô đến căn hầm, tôi thấy Th/Tá Thành cùng tất cả các Chủ Sự Phòng: Quản Trị, Kỹ Thuật, Hành Quân, Tâm Lý chiến, An ninh Cảnh Lực và các Trưởng Ban đang ngồi trong đó để tránh đạn pháo kích. Thiếu Tá Thành yêu cầu tôi cho rút quân ra khỏi trụ sở BCH vì địch pháo kích nhiều quá và có thể địch sẽ tấn công trụ sở này đêm nay. Tôi không đồng ý rút. Tôi nói với tất cả mọi ngưởi đang có mặt rằng địch chưa trực tiếp khai hỏa tấn công BCH Cảnh Sát, chúng ta không thể rút quân. Sau đó tôi chạy về doanh trại CSDC.

Lúc 4 giờ 30 chiều, từ hàng rào phi trường L19 bên kia đường, VC bắt đầu dùng đại liên bắn như mưa qua BCH Cảnh Sát Tỉnh và doanh trại CSDC. Từ bên này, tôi chưa kịp có phản ứng thì thấy anh em CSSP bên Bộ Chỉ Huy chạy qua doanh trại CSDC như bày ong vỡ tổ. Họ chạy thẳng đến hệ thống giao thông hào phía sau trại và tập trung tại đó. Đạn của địch đang bắn sang trụ sở Cảnh Sát và trại CSDC như mưa vãi từ bên kia đường Tự Do. Vì tuyến phòng thủ phía tây, bên trụ sở Bộ Chỉ Huy tỉnh đã bỏ trống, tôi cho lệnh rút ra khỏi doanh trại CSDC bằng cách cắt hàng rào giữa doanh trại CSDC và trụ sở Quân Y Viện BMT. Tôi ra lệnh cho CSDC đoạn hậu để CSSP chạy trước. Dùng máy FM5, tôi gọi Thiếu Tá Lê Văn Hoan, Trưởng F Đặc Biệt cho toàn bộ nhân viên thoát ra phía sau trụ sở (mặt trước cũng hướng ra đường Tự Do, cách BCH CSQG Tỉnh khoảng 300 mét). Tôi cho di chuyển toàn bộ theo con đường dọc theo suối đến Buôn Kosier về hướng Bắc, cách doanh trại khoảng hơn một km. Đến buôn Kosier lúc 6 giờ chiều thì gặp Trung Úy Xuân, Trưởng phòng 2 Tiểu Khu BMT, Đại Úy Chương, Phó Trưởng Ty ANQĐ, Đại Úy Hải, Phụ Tá Trưởng Phòng 3 TK cùng rất nhiều những quân nhân khác đang dừng chân tại đây. Đại úy Hải cho tôi biết 5 xe tăng T54 đã tấn công vị trí Tiểu Khu trên đường Thống Nhất. Vì các xe tăng VC phải di chuyển trên đường Thống Nhất ngay trước mặt Tiểu Khu nên anh em đã hạ được 4 chiếc ngay trước cổng. Một chiếc đi vô trong sân thì bị bắn đứt dây xích không di chuyển được. Anh em trong Tiêu Khu vẫn bắn trả mãnh liệt. Không may là một máy bay A37 của mình đánh bom chiếc xe tăng này thì một trái bom đã rơi trúng nắp hầm của Trung Tâm Hành Quân Tiêu Khu khiến cho Trung Tâm này hoàn toàn bị sập. Trong khi đó thì chiếc xe tăng bị đứt xích vẫn dùng đại bác bắn liên tục vô các hệ thống phòng thủ. Toàn bộ Tiểu Khu phải rút chạy 174 ra ngoài. Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật không có mặt trong Tiểu Khu khi VC tấn công vì ông ở bên Hậu Cứ Sư Đoàn 23 BB cùng với Đại Tá Vũ Thế Quang. Đại Úy Hải cho tôi biết, ông chỉ huy một Đại Đội ĐPQ đi vô phi trường L19 để tăng cường cho Đội Thám Sát Tỉnh. Vừa vô đến cổng của phi trường, đơn vị của ông đã bị một đơn vị lớn của VC đánh chận và Đại Đội ĐPQ đã bị tan hàng, riêng Hải bị mất chiếc ba lô trong đó có bản đồ và địa bàn. Hắn xin tôi cho hắn một bản đồ. Tôi nói Trung Úy Đinh Văn Lại, ĐĐP ĐĐ CSDC đưa cho Đ/Úy Hải một bản đồ BMT và một cái địa bàn để ông xử dụng.

Đêm 10 tháng 3, tôi cho toàn bộ CSDC, CSĐB, CSSP đóng quân trong chùa Dược Sư, cách bến xe cây số 3 khoảng gần 1 km về phía đông. Chùa này được xây dựng trên một ngọn đồi nên tương đối khá an toàn khi đóng quân.

Sáng ngày 11 tháng 3, tôi cho di chuyển toàn bộ anh em Cảnh Sát vô Nhà Thờ Phú Long và sau đó tôi dùng máy liên lạc để đưa tất cả vô Trung Tâm Huấn Luyện Trung Đoàn 45 lúc hơn 12 giờ trưa. Tôi cần một vị trí có công sự phòng thủ để có thể chiến đấu khi bị địch tấn công. TTHL này khi đó không có quân cơ hữu mà chỉ có 100 tân binh do một Thiếu Úy chỉ huy. Tôi xin viên Thiếu Úy này thêm được một thùng lựu đạn. Tôi cho CSDC bố trí tại tuyến bên ngoài cùng, sát hàng rào phía Tây, CSĐB và CSSP thì nằm tuyến giừa, có giao thông hào, cách tuyến của tôi chừng 100 mét. Tôi cũng yêu cầu Thiếu Tá Hàn Văn Thành và Thiếu Tá Lê Văn Hoan nằm trong hầm chính của TTHL cùng với Trung Tá Phùng (lúc đó tôi nghĩ Tr/Tá Phùng đang giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng TTHL này).

Khoảng 3 giờ 30 thì địch bắt đầu pháo kích như mưa vào TTHL nơi tôi đóng quân. Hình như địch có đề lô hướng dẫn nên những quả pháo nổ có vẻ rất chính xác, trúng rất nhiều hầm hố của Trung Tâm. Hầm nơi tôi đang trú ẩn cũng bị mấy quả pháo nổ rất gần, chỉ cách chừng 5 hoặc 10 mét, cũng may là chưa bị quả nào trúng ngay hầm. Hầm nơi Đại Úy Bùi Văn Đoàn, Chủ Sự Phòng Hành Quân đang trú ẩn chỉ cách hầm tôi khoảng 20 mét đã bị trúng một trái pháo kích. Đ/ úy Đoàn bị thương nặng nơi mặt, máu chảy rất nhiều. Tôi cho lính khiêng Đ/úy Đoàn đưa vô bệnh xá của TTHL. Mấy anh em vô trong bệnh xá cho biết trong đó không có Bác Sỹ, chỉ có một y tá. Đ/ úy Đoàn được băng bó sơ sơ để cầm máu và phải trở ra tuyến phòng thủ.

Việt Cộng tiếp tục pháo kích liên tục không ngừng vô doanh trại TTHL này suốt từ hơn 3 giờ chiều cho đến 6 giờ 30. Một trái pháo trúng ngay chiếc xe chở đạn pháo binh của TTHL. Hàng trăm trái đạn đã nổ như pháo bông, mảnh văng lung tung trong sân trung tâm. Đã có lúc, qua ống dòm, tôi nhìn thấy một tên mặc quần áo lính, vai đeo máy nhưng không mang giày như quân lực VNCH. Tên này chạy qua chạy lại trong khu nhà dân (dân đã di chuyển đi khỏi nơi này từ trước), cách tuyến tôi khoảng hai trăm hoặc ba trăm mét. Tôi nghĩ tên này là một tên đề lô pháo binh của VC. Tôi nói CSV Minh, xạ thủ M79 cố bắn hạ tên này nhưng không có kết quả. Lúc trời chập tối, tôi thấy một Thiếu Tá BĐQ đi đầu và theo sau hàng trăm lính BĐQ di chuyển ngang qua tuyến phòng thủ trước mặt tôi. Vì khoảng cách khá xa nên tôi chỉ hất đầu ra ý hỏi vị Th/Tá này. Tôi thấy ông ấy lắc đầu vài lần nhưng không nói gì. Đoàn quân BĐQ, khoảng trên trăm người đi vòng lên sân bắn của TTHL, cách tuyến của tôi khoảng 500 mét về phía nam và đóng quân trên chỗ cao của sân bắn. Họ nổi lửa nấu cơm (?).

Lúc hơn 6 giờ 30 vài phút, qua máy FM1, Thiếu Tá Hoan gọi và cho tôi biết toàn bộ lính của TTHL bắt đầu rút ra khỏi trung tâm qua cổng chính phía bắc. Vì thấy vị trí trung tâm này quá rộng, nếu lính cơ hữu của trung tâm đã rút thì vị trí phòng thủ sẽ bị thủng 2 mặt bắc và đông. Dưới cơn mưa pháo của địch, tôi ra lệnh toàn bộ CSDC, CSSP. CSĐB chạy ra khỏi nơi này theo cổng phía đông vì phía đó còn an toàn. Tôi cho anh em đóng quân trong xưởng cưa Công Binh, chỉ cách TTHL TR/Đ 45 khoảng 200 mét vể hướng đông bắc. Lúc 9 giờ tối, tôi bàn với Thiếu Tá Hoan và Thiếu Tá Thành cùng với Trung Úy Xuân (P2 TK Darlac) để di chuyển quân theo quốc lộ 21 về quận Phước An, các thị xã BMT 32 km về hướng đông, trên đường đi Nha Trang.

Phi trường chính của tỉnh Darlac là phi trường Phụng Dực, nằm cách TTHL Tr/Đoàn 45 khoảng 4 km về hướng đông nam. Theo tôi được biết, phi trường này hiện được 1 Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 53, Sư Đoàn 23 phòng thủ. Cũng có tin là lực lượng phòng thủ phi trường này là Đại Đội Trinh Sát của Trung Đoàn 53 (?). Toàn bộ nhân viên BCH Cảnh Sát Quốc Gia Darlac do tôi đi đầu đang di chuyển đêm trên QL 19, cách PT Phụng Dực khoảng 3 km về hướng bắc thì súng bắt đầu nổ vang trời và đỏ rực cả vùng về hướng phi trường Phụng Dực và về hướng Chi Khu quận Ban Mê Thuột (cách phi trường này khoảng 1 km về hướng Tây). Như vậy là lúc này VC bắt đầu tấn công Chi Khu quận BMT và phi trường Phụng Dực.

7 giờ sáng ngày 12 tháng 3, tôi đến ngã ba đường đi vô Chi Khu Quận Phước An và QL 19. Tại đây đủ loại xe cộ, xe lam, xe đò, xe tư nhân và hàng ngàn dân chúng đang tập trung tại ngã ba. Thiếu Úy Võ Ái Lân, Trung Đội Trưởng Trung Đội CSDC quận Phước An đi ra ngã ba gặp tôi. Trung úy Lân cho tôi biết Quận Trưởng đã phối trí TrĐ CSDC Phước An đóng quân trên một ngọn đồi thấp, cách Chi Khu Phước An khoảng một km về hướng Tây. Cùng lúc đó Trung Úy Trần Văn Liệu, CHT CSQG Quận Phước An đi từ BCH (cách đó 2 km) ra gặp tôi. Tôi cho Tr/úy Liệu biết tôi hiện là Quyền CHT Cảnh Sát Tỉnh. Tr/úy Liệu cho tôi biết Thiếu Tá Hoàng Đình Thọ, Quận Trưởng quận Phước An vừa ra lệnh rút quân khỏi Chi Khu. Tôi nói Th/úy Lân trở lại ngọn đồi nơi đang đóng quân CSDC, đem trung đội CSDC ra tập trung với anh em Cảnh Sát tại ngã ba. Cũng ngay lúc đó, một toán CSDC Quận Buôn Hô và Đại Úy Ngô Văn Ba, CHT CSQG Quận Buôn Hô xuất hiện. Đại Úy Ba cho tôi biết, đêm 11 tháng 3, VC pháo kích và san bằng Chi Khu Buôn Hô và doanh trại BCH CSQG Quận. Đại Úy Ba chạy xuống doanh trại CSDC Quận, lúc đó cũng đang chịu sự pháo kích nặng nề của địch bắn tới. Đại Úy Ngô Văn Ba cùng với trung đội CSDC mở đường máu, chạy xuyên 30 cây số rừng, rẫy, đâm ra hướng quận Phước An.

Đang nói chuyện với anh em CSDC Buôn Hô thì Thiếu Tá Phạm Đình Trọng, Quận Trưởng Quận Ban Mê Thuột đi cùng với Thiếu Úy Lương Tích Đức, Trung Đội Trưởng Tr/Đ CSDC Quận BMT và 13 nhân viên CSDC đến từ hướng Ban Mê Thuột . Thiếu Tá Trọng nói, đêm 11 tháng 3, VC pháo kích và san bằng Chi Khu Ban Mê Thuột, trong đó có cả BCH CSQG Quận và doanh trại Tr/đội CSDC. Th/Tá Trọng chỉ còn Trung Đội CSDC bên cạnh. Ông đã cùng với Thiếu Úy Đức mở đường máu, dàn hàng ngang xuyên thẳng về hướng QL 21 và chạy xuống quận Phước An.

Tôi kiểm điểm lại quân số CSDC, Ban Chỉ Huy và Trung Đội Hậu cứ còn gần như nguyên vẹn trừ CSV Trần Hùng chết tại cổng Đại Đội. Trung Đội Buôn Hô còn được gần 20, coi như chết hoặc mất tích hơn 20 người (kể cả Thiếu Úy Lê Minh Đức, Thượng Sỹ Nguyễn Mầu và 2 nhân viên bị tử thương ngày 28 tháng 2 tại Buôn Hô, CSV Nguyễn Khoái chết tại cổng Đại Đội CSDC sáng ngày 10 tháng 3). Trung Đội CSDC quận Ban Mê Thuột còn 14 người, xem như chết trận hoặc mất tích 28 người. Trung Đội CSDC quận Phước An còn gần như nguyên vẹn vì chưa chạm địch. Tôi không có tin tức gì về Bộ Chỉ Huy CSQG Quận Lạc Thiện và Trung Đội CSDC tại đó. Quận Lạc Thiện là nơi có một Biệt Điện của Cố Quốc Trưởng Bảo Đại, nằm trên đường 21 A, gần giáp ranh với Quận Lạc Dương của tỉnh Tuyên Đức (Đà Lạt). Từ ngày đó cho đến sau này, tôi không có một tin tức nào về Đại Úy Trần Văn Ơn (Khóa 2 HV/CSQG), CHT CSQG Quận Lạc Thiện và của Thiếu Úy Đỗ Quang Cận (Khóa 3 HV/CSQG) cùng với toàn bộ nhân viên CSSP, CSĐB và toàn bộ trung đội CSDC tại đây. Tôi dự đoán là, toàn Bộ Chỉ Huy này đã di chuyển đi về quận Lạc Dương, tỉnh Tuyên Đức khi tỉnh Darlac bị tấn công gần như toàn diện nhưng trên đường đi đã bị thiệt hại vì bị địch phục kích hoặc vì một lý do nào đó. Như vậy một điều đáng buồn là toàn bộ trung đội CSDC Quận Lạc Thiện đã bị địch giết hại.

Khoảng trưa cùng ngày, tôi và tất cà anh em Cành Sát theo dòng quân, dòng người chạy theo QL 21 đi về hướng Nha Trang và đến vùng căn cứ Chư Kuk (M' Rông Hô) tọa lạc tại cây số 62 lúc chiều tối. Tôi cho dừng quân lại. Tiếp xúc với các tài xế xe đò chạy đường BMT và Nha Trang. Họ cho biết Việt Cộng chặn đường tại cây số 72 trên QL 21, không cho xe cộ di chuyển lên hoặc xuống. Sau này tin tức cho biết VC đóng quân tại địa điểm trên cấp Trung Đoàn để ngăn chặn sự tiếp viện của quân lực VNCH từ Nha Trang lên. Dọc theo quốc lộ, ban đêm, dân chúng bao gồm đủ loại xe cộ trải dài cả hai, ba km. Tôi cho tất cả Cảnh Sát đóng quân trên một buôn Thượng đã bỏ hoang, cách đường cái khoảng 300 mét, HỘI NGỘ 50 NĂM KHÓA 3 HỌC VIỆN CẢNH SÁT QUỐC GIA VNCH - 2018 177 CSQG.CSĐB và thân nhân ở giữa, chung quanh đồi do CSDC đóng vòng tròn bảo vệ bên ngoài. Tôi kiểm lại nhân số Cảnh Sát, còn được khoảng 120 CSDC và gần 300 CSĐB, CSSP.

Sáng sớm ngày 14 tháng 3, Trung Tá Thạnh, Tiểu Khu Phó Tiểu Khu Darlac chạy xe Jeep từ trên căn cứ Chư Kuk xuống. Ông ra lệnh cho tôi và một số Sĩ Quan của Tỉnh Darlac đem quân quay trở về quận Phước An để tái phối trí cũng như để chuẩn bị tái chiếm Ban Mê Thuột. Tôi đưa quân về đến ngã ba QL 21 và đường đi vô chi khu Phước An lúc 6 giờ chiều cùng ngày. Quân ngủ tại ngã ba đêm hôm đó và 7 giờ sáng hôm sau, 15 tháng 3 thì đi vô chi khu Phước An. Lúc 10 giờ sáng, tôi vô BCH Chi Khu Phước An họp với Đại Tá Trịnh Xuân Tiếu, người vừa được Quân Đoàn II cử lên làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Darlac thay thế Đại Tá Nguyễn Trọng Luật. Đại Tá Tiếu cắt tôi đóng quân tại khu chợ Phước An, cách Chi Khu khoảng 500 mét về hướng đông, bên kia con đường chính của quận lỵ. Trong phòng họp tôi cũng gặp lại Đại Úy Hải, vừa được giữ chức Quyển Trưởng Phòng 3 Tiểu Khu Darlac. Đại Úy Hải ưu ái tặng tôi một bộ bản đổ Ban Mê Thuột/Nha Trang tỷ lệ 1/100,000. Tôi nói Thiếu Tá Hàn Văn Thành và Thiếu Tá Lê Văn Hoan cư ngụ bên trong chi khu Phước An, chung chỗ với Thiếu Tá Thọ Quận Trưởng để dễ liên lạc và nhận lệnh. Lúc đó chúng tôi vẫn còn đầy đủ máy móc FM1 của Cánh Sát chưa kể 3 máy PRC 25 của quân đội mà tôi có tư trước.

Sinh hoạt bình thường tại khu chi khu và quận lỵ Phước An hai ngày 15 và 16 tháng 3. Trong ngày 16 tháng 3, trực thăng lên xuống tấp nập tại khu đất rộng lớn, trước sân chi khu. Quá giang trực thăng của Không Quân, BCH CSQG Vùng II cũng cử lên đây 3 vị Sĩ Quan để theo dõi tình hình cũng như để ủy lạo anh em CSQG tỉnh Darlac. Tình trạng yên lặng không thấy tiếng súng khiến tôi trong lòng cũng mừng vì nghĩ rằng quân tiếp viện sắp được gởi lên để tái chiếm Ban Mê Thuột. Vợ con tôi vẫn còn kẹt trong đó không biết sống chết ra sao.

7 giờ sáng này 17 tháng 3, Thiếu Tá Hàn Văn Thành và Trung Úy Đinh Văn Lại (ĐĐP ĐĐ CSDC) nói với tôi họ muốn đi ra ngã ba QL 21 để tìm kiếm tin tức của vợ con. Tôi nói họ đi nhưng nhớ về sớm vì tình hình có thể biến chuyển bất cứ lúc nào. Hai người vừa đi được độ 15 phút thì tôi nghe ngoài hướng ngã ba có nhiều tiếng nổ rất lớn kèm theo nhiều tiếng súng nhỏ. Chưa tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra thì thấy hai ông Thành và Lại cùng một số cận vệ chạy vội vã từ phía ngã ba quốc lộ vô chỗ tôi đóng quân. Tr/úy Lại cho tôi biết 2 tăng của VC đi từ hướng Ban Mê Thuột đến ngã ba Phước An. Tại đây có một chiếc trực thăng Chinook của không quân bị hư máy nằm ngay tại đó. Xe tăng VC đã dùng đại bác bắn chiếc Chinook. Một số quân nhân VNCH đang ở khu vực này đã dùng súng bắn trà lại. Ông Thành và ông Lại sợ quá nên chạy trở vô Chi khu. Ngay sau đó Thiếu Tá Quận Trưởng cho người mời tôi vô chi khu họp. Tôi sợ quân sẽ mất tinh thần khi tôi vắng mặt. Tôi nói Thiếu Tá Thành vô họp thay tôi còn tôi thì đợi ở bên ngoài. Một lát sau Thiếu Tá Thành đi ra từ BCH Chi Khu. Ông cho tôi biết Đại Tá Tiếu ra lệnh tôi đem CSDC vô BCH Chi Khu để tử thủ. Nhưng Thiếu Tá Thành lại nói nhỏ với tôi là ông thấy phía sau BCH Chi Khu có một toán lính đang cắt hàng rào kẽm gai để mở đường. Có thể là họ sẽ bỏ chạy theo hướng đó. Tôi ra lệnh cho tất cả nhân viên Cảnh Sát tập trung và đi vô vòng đai của Chi Khu Phước An. Sở dĩ tôi quyết định như vậy vì biết rằng, muốn rời khu vực này cũng phải đi xuyên qua vòng đai chi khu, không thể đi theo hướng đường lộ ra ngã ba QL21 sẽ đụng với xe tăng của VC. Khi vô đến bên trong chi khu thì nơi đây đã trống trơn không một bóng người. Đi ra phía sau thi thấy hàng rào kẽm gai đã được cắt một khoảng lớn cho xe chạy qua. Tôi mở bản đồ và chấm đường đi tắt rừng ra buôn Phê nằm trên cây số 42 (cách ngã ba vô quận Phước An khoảng 10 km).

6 giờ chiều cùng ngày tôi và đa số anh em CSQG đi đến cây số 62 tại M'Rong Ho. Tại đây xe cộ, dân chúng vẫn làm một hàng dài dọc theo quốc lộ. Thời gian này là tháng 3 nên trời mau tối. Đèn đuốc của dân chúng đốt sáng trưng, nhìn xa xa như một con rồng lửa. Ngay đêm đó tôi dùng PRC25 liên lạc với căn cứ Chư Kuk. Thiếu Tá Hưng, TĐT Tiểu Đoàn ĐPQ trú đóng trên đồi M'Rong Hô cho tôi biết BCH Tiểu Khu Darlac hiện đang có mặt tại căn cứ này. Tôi nghe được cũng yên tâm vì như vậy tức là tình hình chiến sự còn tương đối an ninh. Nguyên ngày 18 tháng 3 mọi sinh hoạt trên đồi nơi tôi đóng quân không có chuyện gì xảy ra.

Khoảng 8 giờ tối ngày 18 tháng 3 tôi lại liên lạc bằng PRC25 nói chuyện với Thiếu Tá Hưng. Ông ấy cho biết toàn bộ BCH Tiểu Khu Darlac của Đại Tá Tiếu đã dùng trực thăng bay về Nha Trang lúc 5 giờ chiều. Thiếu Tá Hưng nói ông sẽ đi đường rừng về Khánh Dương sáng hôm sau. Nghe được tin này tôi mới biết là sẽ không có kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột. Tôi triệu tập tất cả Sĩ Quan của Bộ Chỉ Huy CSQG Darlac tại căn chòi tôi đang cư ngụ. Tôi yêu cầu tất cả thông báo nhân viên dưới quyền chuẩn bị 2 ngày lương thực để sáng hôm sau, 19 tháng 3 theo tôi băng rừng, đi vòng phía nam của núi Chư Prong để đi về quận Khánh Dương (thuộc Nha Trang). Tôi thông báo cho tất cả mọi người là sẽ phài vượt 40 km rừng già, qua đèo qua suối.

Đúng 8 giờ sáng ngày 19 tháng 3 tôi tập họp tất cả CSDC, CSSP và CSĐB (những người còn đi theo đoàn) trên đồi của buôn thượng mà chúng tôi đã ở từ chiều ngày 17 tháng 3. Tôi dẫn khoảng 80 CSDC đi vô rừng theo hướng đông vòng theo phía nam của núi Chư Prong. Tôi cắt Trung Úy Đinh Văn Lại chỉ huy Trung Đội Hậu Cứ đi đoạn hậu. Vũ khí của CSDC vẫn còn nguyên vẹn kể cả 1 Đại Liên 60, 3 máy PRC25. Tôi nhắc nhở tất cả mọi nhân viên, trong lúc di chuyển trong rừng, dù có mệt nhọc cũng phải giữ theo người ít nhất một cấp số đạn. Qua kinh nghiệm mà tôi đã học hỏi được từ anh em CSDC Tỉnh Phước Long lúc họ vượt thoát từ Phước Long lên Quảng Đức khi Phước Long bị VC tràn ngập. Toán Cảnh Sát Phước Long khi đang chạy trong rừng về hướng tỉnh Quảng Đức, quá mệt mỏi do đường quá xa, một số đông anh em Cảnh Sát kể cả một số anh em quân đội VNCH đã vứt bớt đạn đi cho nhẹ người. Chính vì vậy nên khi họ bị VC phục kích đã không còn đủ đạn để chiến đấu chống lại cho có hiệu quả. Một số lớn nhân viên Cảnh Sát tỉnh Phước Long đã tử nạn trên đường rút lui vì lý do này.

Sau khi đã đi sâu vô trong rừng khoảng 10 km, tôi liên lạc Trung Úy Đinh Văn Lại để hỏi về tình hình phía sau. Tr/úy Lại cho tôi biết đân chúng đã đi theo đoàn quân của chúng tôi cả ngàn người, trong số đó có hàng trăm quân nhân VNCH đủ mọi đơn vị. Khi trời bắt đầu tối, tôi cho đóng quân trong rừng theo vòng tròn với CSDC bao quanh bên ngoài. Tôi cử Hạ Sĩ Quan Trưởng Ban 2 ĐĐ CSDC đi vòng quanh tuyến để ban mật khẩu và căn dặn, nếu bị địch tấn công ban đêm thì tất cả mọi người nằm nguyên tại chỗ để chiến đấu, không chạy ra khỏi khu vực đóng quân. Chạy ra ban đêm rất dễ bị lạc trong rừng sâu.

5 giờ chiều ngày 20 tháng 3 đoàn quân lên đến một ngọn đồi cao, cách quận lỵ Khánh Dương khoảng 8 km. Qua ống dòm tôi nhìn thấy cờ VNCH còn bay trên một cột cờ tại nơi đó. Tôi ra lệnh tất cả CSDC đứng lại để doạn hậu cho dân chúng, CSSP đi trước. 8 giờ tối tất cả anh em đều về đến quận lỵ Khánh Dương. Tại đây đã co nhiều xe vận tải loại lớn của BCH CSQG Khu II chờ sẵn. Đoàn xe này do Đại Úy Tiếp, Chánh Sở Tâm Lý Chiến Khu II chỉ huy. Tất cả nhân viên Cảnh Sát BMT được đưa về BCH/CSQG Khu II tại Nha Trang ngay đêm hôm đó và được tạm trú tại Trung Tâm Tạm Giam của BCH/CSQG Khánh Hòa, nằm cạnh Quân Y Viện Hà Thúc Nhơn, cách trụ sở BCH/CSQG Khu II khoảng 500 mét.

Sáng ngày 21 tháng 3, tôi tập họp để điểm danh quân số. Tất cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan CSSP, CSĐB, CSDC gom được trên dưới 400 người. Tôi đi bộ sang BCH/CSQG Khu II để trình diện Đại Tá Lê Trọng Đàm, Chỉ Huy Trưởng Khu II và báo cáo nhân số hiện hữu lên Đại Tá. Tổng số nhân viên của BCH/CSQG Tỉnh Darlac là hơn 1500 nhân viên. Như vậy hơn 1000 nhân viên CSQG tỉnh Darlac đã bị chết hoặc mất tích sau khi bị VC bắt đầu tấn công rạng sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975. (Tôi sẽ viết tiếp phần II nói về số phận của anh em CSQG tỉnh Darlac sau khi thành phố Nha Trang thất thủ ngày 31 tháng 3 năm 1975).

Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn
Đại Đội Trưởng Đại Đội 206 CSDC
Kiêm Phụ Tá Chỉ Huy Trưởng Đặc Trách Hành Quân B
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Chuyến bay cuối cùng

Tác giả: Trần Ngọc Toàn


Tình hình trong phi trường Đà Nẵng càng lúc càng tồi tệ, từ vùng núi phía tây, quân cộng sản Bắc Việt đã nã pháo 130 ly vào phi đạo khiến các chuyến bay vận tải chuyển người về Nam phải ngưng lại. Hành khách chen lấn đổ xô lên những chuyến bay C-130 đến nỗi trưởng phi cơ phải ra lệnh vừa đóng nắp bửng vừa di chuyển ra phi đạo. Có những người bị bị kẹt trong buồng bánh phi cơ về tới Sài Gòn mới biết .

picTrong tình thế đó, phi công chính của chiếc trực thăng vận tải Chinook CH-47A đã quyết định cất cánh rời phi trường Đà Nẵng với hơn 60 hành khách gồm hầu hết là thân nhân gia đình quân nhân tạm lánh nạn qua phi trường Non Nước bên vịnh Tiên Sa sát biển còn ổn định dưới sự trấn đóng của quân phòng ngự TQLC. Phi hành đoàn gồm phi công chính Đại úy Phạm-Văn-Kiến, phi công phụ Trung úy Nguyễn-Đình-Hương, hoa tiêu Đại úy Nguyễn-Anh-Dũng và hai xạ thủ đại liên. Tờ mờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hành Quân cùa Sư Đoàn TQLC bắt đầu xuống tàu Hải quân HQ .402 vừa ủi dọn bãi đón quân tại Non Nước.

Tình thế lại dao động khi Thiết Giáp nghe tin TQLC rút quân đã ùn ùn từ trong Đà Nẵng chạy ra hướng biển. Lo sợ quân lính TQLC đồn trú cưỡng bức chiếc trực thăng vận tải vốn đã đầy người. Đại úy Kiến quyết định rời Non Nước, dự tính bay về phi trường Phù Cát. Thời tiết xấu với mây mù xuống thấp và gió lớn. VớI trọng tải quá mức. phi cơ không thể nhấc lên cao khỏi tầng mây thấp, không định rõ tầm quan sát, phi công phải nhờ người hạ sĩ quan xạ thủ ra dấu bên trái là biển và bên phải là cát đề tiếp tục bay dọc theo bờ biển về Nam.

Sau hơn một giờ bay, khi nhìn xuống chỉ thấy ruộng muối mênh mông, sợ lạc hướng Đại úy Kiến đã kéo lệch con tàu về hướng đất liền và bắt buộc phải bay rà thấp cách mặt đất chỉ vài trăm bộ Anh, khi bay ngang Sa Huỳnh, quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, quân du kích vc đổ ra chĩa súng trường bắn lên như pháo tết, đạn AK gây tử thương cho 4,5 người, khiến hành khách bấn loạn. Phi công phụ Trung úy Nguyễn Đình Hương bị trúng đạn, máu loang đỏ bộ quần áo phi hành màu xanh xám, Đại úy Kiến thấy nguy cơ trước mắt nhưng vẫn lên tiếng trấn an Hương khi vị sĩ quan này dự định tự sát vì không muốn trở thành gánh nặng cho đồng đội

“ Đừng làm vậy, để tao lái một mình được rồi. “

ĐạI úy Kiến kéo cần lái nhấc đầu chiếc Chinook lên cao dướI làn mưa đạn của Việt Cộng dướI đất bắn lên. Chiếc Chinook từ từ cất lên cao. 1000 bộ, 2000 bộ. Bỗng chiếc tàu như con ngựa bất kham, khựng lạI rồI chúi xuống, kim đồng hồ áp suất sụt xuống, động cơ nổ lụp bụp. Đại úy kiến cố kìm cần điều khiển, tai họa chụp xuống ngay trước mắt. Dù tay bị thương nhưng Trung úy Hương lấy lại bình tĩnh phụ kéo cần lái cho phi cơ từ từ đáp xuống, như một phép lạ, chiếc trực thăng bị trúng đạn lỗ chỗ chỉ hơi chao đảo rồI hạ cánh ép buộc xuống bờ biển, một nửa thân tàu ngập nườc, một nửa nằm chênh vênh trên bãi cát. Mọi ngườI ùn ùn chạy thoát ra ngoài, thất kinh hồn vía. Tiếng súng VC lại vang lên từ hướng Sa Huỳnh, Phổ Châu, mạnh ai nấy chạy thoát thân về hướng Nam. Người cha ruột của Đại úy Kiến vốn di tản từ Huế vô Đà Nẵng đã chạy theo con trên chuyến tàu, lo sợ hốI thúc lôi tay con chạy theo đám đông. Trong khi ầy Đại úy Nguyễn Anh Dũng đã chạy lên tháo dây nịt an toàn ghế phi công phụ rồI bồng ẵm Trung úy Hương lên bờ cát. Trung úy Hương máu đã đẫm ướt bộ đồ bay, tay cầm súng ru-lô hét lớn:

“ Tao đã bị thương nặng, thà chết không để bọn việt cộng bắt.”

Nói rồi Hương quay mũi súng qua hướng người yêu đã theo chân từ Đà Nẵng nói :

“ Mình cùng chết không để cho tụi vc bắt nghe em .”

Viên đạn ru-lô xuyên qua ngực phải ngườI con gái, khiến nàng ngã xuống ngất lịm, nhưng nàng đã sống sót nhờ viên đạn đi lệch lên vai phải. Hương đưa súng qua tay Dũng nói lớn :

Mày bắn tao, tao theo Đạo Chúa không tự tử được!

Trong cơn chấn động, trước viễn ảnh quân cộng sản đang tràn tới, Dũng bình tĩnh cầm khẩu ru-lô P.38 nổ ngay vào màng tang của Hương rồi quay mũi súng vào đầu mình bóp cò. Súng không nổ, vẫn ở tư thế quỳ hai chân, Dũng bình tĩnh mở trục đạn xoay một nấc rồI đưa súng lên bắn vào màng tang. Anh ngã xuống bên cạnh xác đồng đội trước những cặp mắt kinh hoàng nể sợ của những người chứng kiến .

Sau đó bọn VC cũng đã gom bắt những ngườI sống sót giải về làng. Xác hai người phi công trực thăng Chinook Phi Đoàn 247 được đồng bào chôn cất tử tế ngay sát bờ biển làng Phổ Châu, quận Đức Phổ. Quảng Nam vào giờ Ngọ ngày 29 tháng 3 năm 1975 . Những ngày sau đó bắt đầu những trang sử khốc liệt bi hùng, những ngày đen tốI của miền Nam Việt Nam Tự Do .

Mãi tớI năm 2003, sau khi đến định cư tại Hoa Kỳ, Đại úy Kiến gửi một lá thơ ngắn nhờ đọc trên đài phát thanh Little Saigon về hai ngườI Sĩ Quan Anh Hùng Bất Khuất đã vùi thây tại Sa Huỳnh. Gia đình của Đại úy Nguyễn Anh Dũng và Trung úy Nguyễn Đình Hương đã bắt liên lạc với tin tức chính xác về địa điểm chôn cất và nhờ anh ruột của Tr./u. Hương còn ở Việt Nam và người thân của Đ/u Dũng tìm đến tận nơi làng quê hẻo lánh này để hốt cốt đem về Nam an táng.

Khi được tin, dân làng đã đổ xô tới và lên tiếng xin cho hai vị “Thần Làng” được để nguyên tại đây. Theo lời dân làng thì hai phi công tự tử này rất linh thiêng và được dân làng dựng miếu thờ. Nhưng do nguyện vọng của gia quyến bên Mỹ hài cốt của hai người phi công Anh Hùng đã được đưa về Nam an táng.

Trong cuộc chiến chống Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam, hàng ngàn anh linh hào kiệt của QLVNCH đã ngã xuống cho an nguy của dân tộc, cho sự bình an của hậu phương đến nay vẫn còn là những chiến sĩ vô danh, trong ấy có phi công Đại úy Nguyễn-Anh-Dũng và phi công Trung úy Nguyễn-Đình-Hương của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa .

Trần Ngọc Toàn

(Trần Ngọc Toàn là một Tiểu đoàn trưởng TQLC, xuất thân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt năm 1962, Khóa 16 )
thuytrieu
Posts: 90
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:09 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by thuytrieu »

Tốt Đen

Tên anh ta là Tốt. Quá lâu, nên tôi không còn nhớ họ, Nhưng đã đi lính, lính đơ gièm cùi bắp mà lại có tên là Tốt thì quả thật định mệnh đã an bài từ khi lọt lòng mẹ.

Tôi về đơn vị, thì Tốt đã ở đó, không biết đã bao lâu, tôi nghĩ đã lâu lắm, có lẽ từ khi tôi còn mài đũng quần trên ghế trung học. Trong những hồi ức cũa Tốt, thường trở về từ một thuở rất xa của đơn vị, nơi ít người biết đến, ngoại trừ Tốt, và hai ông thượng sĩ già Công công Pẩu, Nông a Hàm. Thời xa vắng huyển hoặc cũa Tốt ngập tràn những vinh quang, mà lớp trẽ chúng tôi không thể nào với tới, không thể nào so sánh, kể cã đại đội trưởng, trung đội trưởng, và đám lính mới thì dĩ nhiên phải nhìn Tốt bằng đôi mắt ngưởng phục. Có điều họ vẫn thắc mắc, tại sao đầy mình chiến trận như vậy, mà vẫn binh bớp muôn năm?

Thật ra thì không phải muôn năm binh bớp. Đã có lúc Tốt cũng đả lên tới tột đỉnh vinh quang của hàng binh cao cấp, đã là Hạ sĩ nhất Tốt. Rồi thôi, đụng trần nhà không còn lên được nữa vì thiếu chử. Muốn lên trung sĩ cũng phải biết đôi ba chử I tờ, đằng nầy chử nghĩa của Tốt chỉ dùng để nói, không viết được. Đại khái vừa đủ để cho mấy ông tài xế taxi biết chổ đưa Tốt về mổi khi quắc cần câu..."cứ đưa tui về đại đội băm ba bảng vàng, trại Phạm Công Cúc Hoa.." Trại Phạm Công Cúc Hoa là nói theo truyền thuyết, theo kiểu văn chương truyền khẩu của Tốt, chứ tìm khắp bốn vùng chiến thuật, nổ con mắt cũng chẳng hề có doanh trại quân đội nào tên Phạm Công Cúc Hoa, ngoài bản doanh Tiểu Đoàn 3 Nhảy dù ở ngã tư bãy hiền, Trại Phạm Công Quân. Nên đã không biết bao nhiêu lần leo lên tới cấp cao nhất của hàng binh sĩ, rồi ngồi đó chờ tụt xuống, mà cái bước xuống thang cũa Tốt lại có quá nhiều nguyên nhân. Nhiều không kém cơ hội phục hồi cấp bực suốt đời quân ngũ. Tội, vừa là vạ là cái tật "Lê Lai cứu chúa", cứu bất kể quân thần thổ địa, hể thấy bạn lâm nguy là nhào vô cứu, bất cứ nơi đâu.

Mà cũng chẳng có nhiều nơi để phân biệt phải trái, đúng sai. Sở trường cũng như sỡ dụng của Tốt chỉ đủ thời gian thi thố cho ba tháng hành quân và một tháng hậu cứ. Một năm xoay ba vòng vị chi mười hai tháng, ba vòng thì một vòng lên lon hai lần giáng cấp, hoặc hai lần thăng thưởng, một vòng lột lon. Tốt cứ nhởn nhơ trên bước đường binh nghiệp gập gềnh trắc trở, trong tất cả tình thương yêu cũa anh em cùng đơn vị. Đừng nói chi tôi, là trung đội trưởng cũa Tốt, không thể biết chắc chắn cấp bậc hiện tại cũa hắn ta là gì? Ngay cã đương sự, mổi khi có việc cần trình diện theo quân cách cũng không cập nhật hóa kịp hồ sơ quân bạ để xưng đúng cấp bậc cũa mình trước hàng quân.

Tôi thì cứ nghe rồi bán tín bán nghi, tướng người ngũ đoản cũa Tốt, không hứa hẹn một điều gì tốt đẹp ngay từ cái nhìn đầu tiên mới gặp. Thế nhưng ẫn dưới lớp áo Mao Toại đó, là cã một tấm lòng bao la cũa tình bằng hửu.

Vừa chân ướt chân ráo về trung đội, Tốt đã đẩy ngay cho tôi một gánh khó xử :

- Chuẩn úy ! tụi nó chơi thằng Phiếu, cho tụi tôi ra bào láng nó.

- Tụi nào ? Tôi đã biết gì đâu?

- Băng thằng Chín Cầu Muối.

- Từ từ, có khi thằng Phiếu tầm bậy

- Tầm bậy cũng phải nói phải quấy, tụi nó bề hội đồng thằng nhỏ ngang xương, trong khi mình đang ở đây.

- Để tôi đi họp về, tính sau.

Khi ấy, trung đội tôi đang đóng trong vườn Tao Đàn. Tốt chẳng chờ tôi họp hành nhiêu khê, hắn rủ rê khích bác hơn nửa trung đội, kéo rốc qua khu Chợ Cũ, ủi từ trên xuống dưới, lôi thằng Chín ra bạc co tay đôi ngay gìửa nhà lồng chợ, để rồi đốn gục địch thủ to con gấp đôi, trốn lính, bằng một cú " Hoành thánh tảo xíu quách ". Chín phải cắt máu hứa không bao giờ đụng đến lính nhảy dù. Ngón đòn độc chiêu gia truyền của hắn, hạ Chín Cầu Muối, cũng đồng thời hạ tôi lãnh tám củ khơi khơi vì không kiễm soát thuộc cấp, may mà không ghi hồ sơ quân bạ. Tốt khi ấy, mới lên hạ sĩ, bị cạo đầu, đem về hậu cứ, nhốt năm ngày chuồng cọp. Ngồi lom khom trong năm lớp kẽm gai, hắn cởi phăng chiếc quần cháo lòng che lên nóc chuồng, nằm trơ thân ông cụ, chĩa "súng" lên trời nghêu ngao ca hát. Báo hại mấy bà trong trại gia binh gần đó, phải đi vòng lối khác, và đám con nít rắn mắt thì ngồi chồm hổm chung quanh, cười ngắt ngoẽo như đang dòm khỉ sở thú Thị Nghè. Thượng sĩ nhất Xá, thường vụ đại đội ngứa mắt, lôi ra tẩn cho ba bốn roi vào cái mông đít lép kẹp, hắn mới xuýt xoa xin chừa.

Con người mộc mạc cũa Tốt, nhìn tất cả sự việc với con mắt hoàn toàn thiên kiến. Gì thì gì, cũng không thể đụng đến anh em cùng đơn vị, và dĩ nhiên, không thể đụng đến màu cờ sắc áo, dù chỉ vài điều ong tiếng ve, cũng đủ đễ Tốt bất bằng.

Tuy ở trung đội tác chiến, hắn lại chơi thân với ông Hạ sĩ quan quân số đại đội. Trung sĩ nhất Nguyễn văn Nơi Chốn. Cái ông nầy, tên đã thừa, Nơi là đã đủ lại còn thêm Chốn, ai lại không biết Nơi có nghĩa là Nơi Chốn. mà người còn thừa đủ thứ, thừa nhất là cái tài nhái đủ cách phát âm của ba trăm sáu mươi lăm giọng nói địa phương. Bình thường có thể làm Tốt cười ngoặt ngoẽo. Nhưng gặp lúc Tốt đang bị dũa te tua, vừa rời khỏi hàng quân chuẩn bị đồ thọ phạt, Có lẽ Nơi Chốn thấy dáng đi huỳnh huỵch giận dỗi cũa Tốt khá tức cười, anh ta ách hắn lại:

- Hạ sĩ Tốt ! Trình diện trung sĩ !

Tốt khựng lại, không biết thiệt hay gỉả, trong khi ông Thường vụ đại đội còn hằm hè phía sau. Tốt bấm bụng:

- Hẹ sĩ Lê ven Tóc, số quân nem nem một một he he bẽ bẽ trình diện trung sĩ, chờ lện.!

- He he bẽ bẽ là cái gì ? Nói lại cho rõ.

- Dạ thưa trung sĩ, số quân em là một một he he bẽ bẽ

- Lần sau nói cho rõ một một hai hai bảy bảy nghe chưa!

- Dạ, em nhớ !

- Quân đội không có nói anh em, làm năm cái hít đất !

- Tuân lệnh !

Trong khi Tốt đang hì hục làm năm cái hít đất thì Nơi Chốn không nhịn được, anh ta ôm bụng cười và ù té chạy.

Tốt bừng tỉnh, mặt đỏ như kỳ nhông, xông vào nhà kho rút cây dao đi rừng dài thượt. Nơi Chốn hoảng hồn nhảy tót lên Honda phóng tuốt ra cửa, Tốt dí dí mũi dao theo hướng đó hậm hực :

- Hén chơi tui, hén chơi tui !

Đói và khát nước, rừng miền đông khô quắt đến nổi lũ nòng nọc chết hằng vũng lớn, nằm sắp lớp giống những mẽ khô cá bống dưới từng hố B 52. Rừng rậm và gai góc, cọng thêm ba ngày không tìm ra điễm nước, khi tất cả nguồn suối trên bản đồ đều nằm trơ đáy. Suốt từ sáng đến trưa, cả đại đội đả đi theo rừng cam Tam Quốc, khi ông đại đội trưởng, đang ở sau với hai trung đội kia, học mưu Tào Tháo, cho chuyền lịnh suốt hàng quân : "Tất cả con cái khi đi ngang qua vạc cam rừng, không ai được hái, vì trái rất độc". Tôi cũng máy móc chuyễn lệnh xuống trung đội, chưa kịp nghĩ thật hay phịa thì Tốt, vác đại liên đi phía sau đả bực bội :

- Cem mô trong ni mà cem, tui chưa ngu.

Tôi cố nén cơn giận :

- Thì cứ nghe vậy đi, có hay không biết sau !

- Ổng đi sau mình, làm reng biết có cem trước ni ?

Tôi lặng thinh trước thắc mắc quá đúng của Tốt, thì hắn tiếp

- Tụi nó cưa cây tràn lan thế nầy, coi chừng đổ máu cem thì có.

Vết cưa cây, tôi đả báo lên đại đội, và nhắc tiểu đội khinh binh cẩn thận hơn về phía trước. Hôm nay chúng tôi gặp phiên trực chính, nghĩa là giử nhiệm vụ làm trục tiến quân cho cả đơn vị, mở đường, thanh toán mục tiêu nếu có chạm súng. Các mục tiêu của cuộc hành quân cấp tiểu đoàn vẫn được tiếp tục lục soát sâu về thượng nguồn lưu vực sông Sài Gòn bằng các đại đội riêng rẽ, trong khu vực được gọi là mật khu Tam Giác Sắt của địch. Nằm cách bờ sông khoảng năm đến bảy cây số. Đến hôm nay, vì nhu cầu tìm nước cho đơn vị sau hai ngày cạn kiệt, chúng tôi được lệnh tiến về bờ sông, với các mục tiêu ngoài kế hoạch.

Hoạt động của chúng tôi cũng đã được các đơn vị địch phát giác, nhưng họ không thể biết đích xác vị trí đóng quân đêm, hướng di chuyển, cũng như ý đồ cụ thể của cuộc hành quân, nên suốt hai đêm pháo kích vu vơ không đạt kết quả nào, lại bị phản pháo dử dội, đến hôm qua thì chúng hoàn toàn mất dấu vết.

Thời hạn giửa hai kỳ tiếp tế bốn ngày cũng đả hết, và đây là ngày cuối cùng, dù vẫn còn đủ gạo sấy và cá khô cho đôi ba hôm nửa, nhưng không thể tìm được nước. Tôi nhìn trên bản đồ, cả một màu xanh bát ngát của rừng rậm, và những khoảng rừng le nhạt hơn phủ trùm lên khu vực hành quân. Trảng trống gần nhất, có thể làm bải đáp cho trực thăng cũng còn nằm xa hơn bảy cây số, và không chắc có nước. Hy vọng về những sợi chỉ xanh, mỏng lét nằm quanh co giữa nhửng vòng cao độ lại càng mong manh hơn, khi đả đi qua những con suối nằm trơ đá tảng. Hai bi đông nước cho mổi người chỉ còn lại một, ngay từ lần tiếp tế bốn ngày trước, đến hôm nay kể như đả nhịn khát hai ngày, cái đói không đáng kễ, dù tôi là thằng rất "xấu bụng đói ". Đoàn quân không dấu được vẽ mỏi mệt kéo dài hơn sức chịu đựng, nhưng vẫn phải hướng về mục tiêu tiến tới.

Binh nhì Liên Bụng, con ma lè phè cũa trung đội bắt đầu trở chứng, ngồi bệt xuống gốc cây bên đường, rên rĩ :

- Tôi đi không nổi nữa rồi.

- Giởn mặt mầy ?

Trung sĩ Danh Chắc, tiểu đội trưởng của hắn, nóng nảy.

- Trung sĩ bắn tôi chịu, đói quá đi không nổi.

- Ở đây có ai hơn, mầy không đi tao gọi Chuẩn úy !

- Chuẩn tá tôi cũng không ngán, ông làm gì tôi thì làm đi.

Thấy Trung đội tự nhiên bị ngắt quảng, lại nghe chộn rộn đằng sau,tôi cho tiểu đội khinh binh dừng chờ và quay trở lại, Tốt đang tháo ba lô của Liên bụng:

- Nè, ráng lên con, tao mang ba lô cho mầy, xách thùng đạn với súng ráng lết theo, không theo được thì giao luôn súng cho ông Danh Chắc rồi nằm đó, khi nào hòa bình tụi tao vào hốt cốt !

Tốt, Cây đại liên M 60 đả dài quá khổ, một ba lô cơ hửu sau lưng, lặc lè một ba lô của Liên bụng phía trước, dây đạn vắt hai vòng quấn khăn rằng, ì ạch đứng lên. Tôi chưa kịp có ý kiến, thì Liên bụng ý chừng không cù nhầy được trước gánh nặng của Tốt, nhăn nhó ngồi dậy;

- Tôi thiệt quá đói ! Chuẩn úy !

Tôi lại làm Tào Tháo:

- Ráng lên, gần tớI điểm nước rồi.

Tốt cự nự :

- Đ mọa ! đi đã mệt, chừng vài đứa như mầy, chết cả lủ !

Tôi vổ vai hắn :

- Thôi, đừng giủa hắn nửa, để tôi nói Danh Chắc cho người mang phụ.

Quả thật, cam quýt đâu không thấy, qua khỏi dấu cưa cây chừng hơn cây số thì chạm địch, ở vị trí còn cách bờ sông non một trăm mét.

Khi gặp khu vực cây rừng bị cưa sát gốc, hình thành một vệt đường mòn vớI dấu vết xe đạp còn rất mới, chếch hướng xuống bờ sông, chúng tôi dừng lại, ước lượng tình hình. Khả năng tìm trúng vị trí địch đả gần như chắc chắn với những tàn cây che kín ánh mặt trời, dưới vòm cổ thụ là những cụm le rậm rạp và mặt rừng có vẽ sạch sẽ, không phải vì quét dọn, địch cũng chưa ngớ ngẩn đi làm chuyện tào lao, cái vẽ khác thường như có hơi người ở phải bằng cảm giác của con thú săn mồi mới cảm nhận được. Rừng hai tầng, tầng trên bịt mắt máy bay quan sát, tầng dưới, với các hầm chử S được các bụi le trùm kín, dư sức ngăn chận các lực lượng đột nhập. Vị trí quá lý tưởng theo thói quen đóng quân của địch, nhất là rất gần bờ sông.

Đại đội dừng quân bố trí, trung đội được lệnh bỏ ba lô tại chỗ, lục sóat nhanh về phía trước, khi nào gặp bờ sông thì dừng lại. Vẩn phải chia làm hai cánh, theo đúng bài bản. Dạo đó, quân số bổ sung đầy đủ, hai cây đại liên cho một trung đội còn thừa người mang đạn, nên nhắm cái mặt hảm tài của thằng Liên Bụng, Thượng sĩ Sâm cho nó ngồi lại với đám ba lô.

Trước khi nạp lại dây đạn vào súng, khóa an toàn, Tốt lôi trong ba lô ra, một trái bí đao mập mạp, lấy lưởi lê cắt ra làm bốn miếng giao cho bốn tiểu đội rồi nói với tôi :

- Tui tính chờ đứa nào gần chết khét, cho nó ngậm một miếng. Mà thôi, điệu nầy chắc là sắp húc rồi, ngậm lấy sức.

Cả Trung đội sáng mắt với trái bí đao của Tốt, tôi củng lãnh một lát mỏng, ngậm vào miệng nguyên võ mà nghe ngọt lịm, thấm xuống cổ mát rượi. Ai nói sâm nhung quế phụ bậc nhất trên đời tôi chưa hề biết, ngậm được lát bí đao của Tốt lúc nầy, nói thiệt, đổi mươì hai ký sâm, nếu có tôi cũng đổi. Vậy mà suốt hai ngày chịu khát, hắn vẫn kiên nhẩn dấu kín, không dành cho riêng mình.

Danh Chắc gục gặc :

- Đúng là cái thằng "Tốt...làm"

Ông trung sĩ người Miên chưa nói hết câu, thì tiếng máy xè xè gọi giục :

- Rờ mu chưa hai ? ( Move, di chuyển, ngụy..tếu hóa )

Tôi đáp gọn :

- Rồi, đích thân !

Cả trung đội thận trọng kẹp hai bên vệt đường mòn, xuôi dần con dốc, không có pháo tiên liệu hoặc pháo mục tiêu như mọi khi tôi thường thấy chuẩn bị cho đội hình. Cánh bên trái, Danh Chắc đi thấp một chút, kèm theo hướng tiến của tiểu đội khinh binh, tất cả tuyệt đối im lặng. Rừng hình như tối hơn, dù mới hơn hai giờ chiều, cành lá quẹt ngang mặt gai lạnh như những cánh dơi ma quái vụt ngang tầm mắt. Có lẽ cái trống rổng của bao tử, cái khô rát của cổ họng đang đưa dần tôi đến những ảo giác không thật, mắt nhòa đi theo những vòng cao độ trên bản đồ đang trôi xuôi xuống vực thẳm. Tôi cũng muốn nằm lì như Liên bụng, kệ cha nó tới đâu thì tới. Đầu óc mỏi mệt tưởng như nghe những trận mưa rào bất chợt đổ xôn xao trên lá, giọt nước mưa mất hút lên đầu nguồn để chỉ còn nghe tiếng róc rách của con suối quanh co giửa cánh rừng đại ngàn xanh mướt...Tôi lắc đầu cố xua đi những ý nghĩ đang muốn bạc nhược theo cơn đói và khát...ráng lên..ráng lên..

- Ráng lên, gần tới bờ sông rồi !

Cổ họng khô rát vừa máy móc truyền xong khẩu lệnh của đại đội, thì súng nổ. Chín vác cây đại liên thứ hai đi kèm sau tôi bật nhanh qua bên phải, ôm lấy gốc cây thủ thế, tiếng súng dòn giả của tiểu đội khinh binh đẩy dạt cơn đói khát ra khỏi toán lính mỏi mệt, chưa nghe tiếng súng địch. Tôi liếc nhìn Khinh, tiểu đội trưởng đang xòe hai ngón tay chỉ về phía trước.

- Lính gác, hai thằng.

Ra hiệu cho Danh Chắc dẩn tiểu đội vượt lên bên phải, bắn áp đảo không cần thấy vị trí địch, tôi chạy lên theo tiểu đội khinh binh đang lấp ló tiến nhanh về phía trước, cây đại liên của Chín vẫn che chở cánh trái trung đội, không kịp nhìn hai xác chết ôm súng nằm dựa gốc cây, chúng tôi ập vào căn nhà lá phủ trùm lên một cái hầm lớn, miệng tỏa ra hai phía, lính khinh binh ập gọn hai trái lựu đạn triệt tiêu mọi hiểm họa của căn hầm. Đúng lúc đó, địch nổ súng, và tiểu đội của Danh Chắc kẹt ngay vào hướng kháng cự chính. Chúng tôi quá chậm, phải chi đừng đói, đừng khát, chọc thật nhanh vào trung tâm vị trí địch sau khi bất ngờ quất sụm hai thằng lính gác thì đâu đến nổi khó khăn cho bây giờ.

Tiếng súng lan rộng qua trước mặt và bên phải, vậy là động ổ rồi, vị trí chúng lôi nằm lọt thỏm vào giửa, trong khi cây đại liên của Tốt ở bên trái đang bị chặn lại. Đại đội hỏi yếu tố để gọi pháo, tôi la làng.. bắn xa ra cho tôi kéo lại, cách bờ sông đúng một trăm mét ước tính...thấy bờ sông chưa ?...chưa ! Đm cái bờ sông ! Cây rừng tùm lum làm sao thấy được...tôi lầm bầm dòm lui, thấy Danh Chương đứng lấp ló sau một gốc cây,chỉ chỉ chỏ chỏ.....dưới bụi le.... để đó tôi... Khinh ! thấy không! thấy không! Hai đây Cao Bằng..hai nghe..sao rồi? chưa sao hết..kẹt quá thì bán cà rem đi. Tôi chụp vội bên hông, và dòm lại lính tráng, không ai đem theo mặt nạ, thùng cà rem ( hơi cay E8 thường được đại đội tăng cường cho trung đội trực chiến ) cũng để lại chổ thằng Liên bụng, chết mẹ rồi...trình đích thân, tụi tôi đâu có mang theo đầu heo và cà rem...Đm anh làm ăn như c c..tôi lên đây, tránh ngộ nhận...Nhận năm. Trái B40 xẹt qua hông, nổ bùng làm bốc cháy bụi le trước mặt, chết mầy rồi con ơi, ông cũng có thứ đó. Tôi chỉ chỉ sau lưng Khinh, anh hiểu ý tháo trái M 72 xuống, hai ba trái nửa! chưa biết căn cứ địch lớn nhỏ thế nào, dọn được hai cái hầm nầy chắc chắn tụi nó phải chém vè...ráng lên, gần có nước rồi...Khinh và Chí thổi một lúc hai trái M 72 vào bụi le, cụm lửa và sức nổ đốt cháy tiêu những cành lá lòa xòa che phủ miệng hầm, để lộ một khoảng trống tác xạ lợi hại. Danh Chắc đang thụt ló sau gốc cây, bổng ôm bụng khịu xuống.. cái ông nầy..không chịu thay đổi vị trí, còn đứng xổng người lên, không biết nặng nhẹ sao đây, cầu trời đừng chết. Tôi thấy Tốt bỏ vị trí, kéo súng bò lên chổ Danh Chắc, bổng nhiên hắn gầm lên một tiếng, tháo nón sắt vụt mạnh xuống đất, đứng bật dậy, súng cặp ngang hông, dây đạn lòng thòng lê lết, nhắm miệng hầm xông tới, chân lảo đảo quàng xiêng như ngườI say. Cả tiểu đội đại liên thấy vậy, cũng đồng loạt xung phong, hai thằng nằm dưới hầm hoảng hồn bung lên tháo chạy, quýnh quáng chạy ngay vào trước mặt tiểu đội khinh binh, bị Thông và Khinh quất sụm. Tốt vượt qua miệng hầm tính xông lên phía trước, vấp phải cái xe đạp, ngã chổng gọng, khi ấy hắn mới bật khóc..Đ mọa hén bén chết Danh Chắc rồi...Đ mọa hén bén chết Danh Chắc rồi...

Khỏe, tiếng súng im hẳn trước khi toàn bộ đại đội đến bắt tay tụi tôi, cùng với pháo binh đang bắn rải từ bờ sông kéo ngược lên. Ông đại đội trưởng vổ vai... được lắm hai...được lắm hai...tôi dạ dạ,mới hồi nảy làm ăn như c..c.. sao bây giờ lại được lắm hai, công lao gì tôi! Chưa kịp lệnh lạc, điều binh khiển tướng gì cả thì Tốt đả xông lên rồi, hồi chiều toán khinh binh bắn chết tươi hai thằng gác, cũng đâu có lịnh lạc gì của tôi! Danh Chắc mới anh hùng kìa, trong lúc tụi tôi nằm dán xuống đất, thì ông ta đứng thẳng người quan sát, cũng may viên đạn trúng ngay tuí đạn phía trước, lệch hướng xuyên qua mạng mở, giờ nầy còn phì phèo thuốc lá chờ tải thương, cũng may thằng Tốt tưởng Danh Chắc chết rồi, nóng lòng quên hết hiễm nguy mới lao lên kiểu đó, cái kiểu Lê Lai liều mình cứu... bạn, chỉ riêng Tốt mới có.

Chúng tôi được lịnh chốt lại vị trí, nhận lại ba lô và thằng Liên Bụng, để hai trung đội kia tiếp tục lục xuống bờ sông. Thượng sĩ Sâm bê trái mìn DH 10 bành ki nái, bỏ xuống trước mặt tôi :

- Hồi chiều, nếu tuị nó không phát giác được hai thằng gát thì ông đi đứt rồi.

Tôi biết nói làm sao về cái chết của tốt đây ? Hắn khi ấy không còn ở đại đội với tôi nửa, về hậu cứ nhậu say, uýnh lộn với thằng Xý cũng vác đại liên như hắn. Ông đại đội trưởng sợ hai con gà nổi điên, đá nhau ngoài mặt trận nên xin hoán chuyển hắn qua đại đội khác, lại vác đại liên. Ai có đi lính, có vác đại liên mới thấy cái "oai vệ" của một xạ thủ súng lớn, mặt nào có con gà cồ gát càng khạc lửa là coi như êm mặt đó, tôi cũng hay nói hạ Kiều thủ cái hầm sau con gà mổi khi phải phòng thủ, hoặc kéo hắn lên đi ngay sau lưng cho ấm mỏ ác. Đụng trận hắn quạt ngay một băng là tụi nó cũng té đái rồi, tính sau. Vác đại liên còn được miễn đào hầm, tới vị trí, cứ ôm súng với đạn ngồi thủ sau gốc cây, việc hầm hố có em khác lo cho xếp. Có thể xui lắm mới bị phục ngay lúc vừa dừng quân, nhưng phải thủ cả trăm lần như thế để chờ cái lần xui đó. Cái vận xui đến ngay lúc tôi chạy qua đại đội của Tốt, làm xử lý thường kiệt cho ông Đại đội trưởng đi phép vợ đẻ.

Mặt trân đã căng thẳng lắm rồi, cánh quân của tiểu đoàn vừa đổ lên Võ Định là ngồi hứng pháo, pháo bắn thẳng mới tức chớ, tụi nó vác 75 và 82 ly đi lòng vòng quanh căn cứ, ầm một cái, chưa kịp xuống hầm là đạn đã tớI, 82 ly không giật của nó đi nhanh thật. Bây giờ làm sao ? Đi lượm về thôi, ông tiểu đoàn trưởng thấy những vị trí đặt súng của địch đều nằm phía sau mặt trận, ngược về phía Kontum nên nghĩ là không có đơn vị lớn ẩn trú, mấy ngọn đồi lúp xúp tranh tre bao quanh vị trí có vẽ im lắng, không thấy khói lửa hay động tĩnh gì, lượm mấy thằng bắn lén nầy là chuyện dễ ợt, nên ông Lý thường Kiệt được dịp xuất quân. Mấy Đại đội kia đã lên chiếm các cao điễm án ngử trước căn cứ 5, Dakto Tân cảnh. Xuất thì xuất chứ ngán gì, còn hơn ngồi trong căn cứ nghe đạn rít khét lẹt. Nó đả bắn banh ta lông cái nóc hầm tiểu đoàn lô nhô cần ăng ten, nó bắn sụp một hầm chỉ huy pháo đội, may mà chưa ai chết, nó còn bắn dài dài nếu cứ án binh bất động. Tôi xỉ Trung đội ba, là Trung đội có Tốt làm trục chính, thì cũng bài bản vậy thôi, tiền hậu tả hửu thuộc lòng như binh thư Tôn Tẩn... Tụi tôi hay nói Tôn Tử thành Tôn Tẩn nên lắm đứa bị què giò, ra khỏi căn cứ lội qua một con suối, ngóc lên một đĩnh đồi ngồi nghe động tỉnh, chờ ăn dăm ba tô phở rồi đi tiếp. Mà không ổn rồi, tôi tính toán theo cái nhìn trận thế của Tiểu đoàn, ổng cứ dứt khoát đoan chắc tụi nó là những toán lẽ tẻ, từ bốn đến năm đứa, vác súng đạn di động tối đa, bắn xong năm ba quả là dọt, không có khả năng phản ứng nếu bị truy kích, rồi hằm hè tôi... làm ăn coi sao cho được, không vác mấy cây súng đó về đây thì ở ngoài đó luôn... Ở ngoài đó luôn, tụi tôi đâu có ngán, nhưng mà khích bác kiểu nầy bực mình lắm, sao không nói chuyện đàng hoàng, phổ biến đúng mức tình hình địch, quyết định đúng mức nhiệm vụ của tui tôi rồi xuống lệnh dứt khoát. Đánh giặc chứ đâu phải binh xập xám mà ưng dương thì dương, ưng thủ thì thủ ? binh lủng thì binh lại...

Ổng đả nói như vậy thì tôi không thể để nguyên một đại đội dài lê thê, khúc đầu chạm địch, khúc sau còn ngồi hút thuốc xỉa răng. Vị trí địch thường đặt súng, nằm quanh quẩn mấy ngọn đồi lô nhô như bát úp, tôi chọn một đĩnh đồi có cao độ thấp hơn đường quốc lộ chừng năm sáu mét, um tùm cây cối, ở đó chưa được đánh dấu X, nghĩa là địch chưa bao giờ đặt súng, hướng đại đội về mục tiêu. Định chọn làm căn cứ xuất phát rồi xé mỏng các trung đội thay nhau lục soát, ém quân phục kích.

Ở đời, mưu sự tại nhân thành sự tại thiên... lôi. Vừa lên quân tới đỉnh đồi, tôi cho thằng một tiếp tục lục sâu xuống triền dốc đối diện, các trung đội còn lại chiếm lĩnh các vị trí phòng thủ, bố trí tại chổ, chuẩn bị đào hầm hố. Vừa lột nón sắt kê xuống mông thì ầm một cái, trái B40 nháng lửa nổ toét gốc cây trước mặt, hất lộn nhào ông Thiếu úy đề lô vừa mới tới, định phối hợp các hoả tập pháo binh, không biết chết hay sống.

Tôi tá hỏa tam tinh, chết mẹ rồi, bị tụi nó phục. Súng bắt đầu nổ dồn dập mặt phải, là hứơng phòng ngự của Trung đội Tốt, chúng vừa bắn, vừa xung phong vừa thổi kèn tò te tí te tò te tí te bò lên tiến lên bò lên tiến lên. Ngay sau phát đạn sinh tử đó, hai cây đại liên đã lên tiếng...cùng vớI tiếng chửi thề của Tốt...bò lên đi con...Đ m bò lên đi con, bò lên tiến lên rồi ôm đầu máu chạy về...Giọng hắn gầm muốn át điệu kèn đối phương. Tôi chụp máy nội bộ hét thằng một bằng mọi giá, bọc qua hướng phải nổ súng, cứ bắn bừa đi, vừa bắn vừa đánh thốc về sau lưng tụi nó rồi quất ngược lên đồi, hỏa lực cấp thời của Tốt đả trì hoản đợt xung phong bất ngờ của địch, kịp lúc cho đám lính lác vừa bỏ súng đạn xuống đất chuẩn bị đào hầm hố, chụp vũ khí kháng cự. Trận thế, chẳng còn trận thế gì nửa khi Tốt đã lùi về hướng tôi, máu me đầy người, hắn đã bị thương, tôi chỉa mủi súng về phía hắn bắn yễm trợ hết băng đạn, cơ bẫm khựng nhẹ một tiếng khô khan chết người, vừa lúc Tốt chiếm được điễm tựa cạnh một ụ mối. Quân hai bên trộn xà ngầu như tương tàu, ba thằng ôm AK hùng hục lủi tới, Tốt miết cây M 60 sát ụ mối quạt tới tấp kịp thời cho tôi thay đạn. Cũng may, vì chỉ được cử làm xử lý thường vụ, nên chưa được mang Colt 45, và cây M 16 theo tôi năm năm trời ròng rã, giờ mới thâý được lợi hại, không biết tôi hay Tốt quất sụm ba thằng đó, một đứa còn gượng dậy, ủi bừa về hướng Tốt rồi đổ gục như bị đốn ngã bằng loạt đạn của thượng sĩ Thơm, thường vụ đại đội. Cây AK báng xếp cũa hắn còn xủi một đường đạn rát mặt. Một đám hai tên khác xông vô được hướng trung đội hai, ném tới tấp lựu đạn và thụt B40 uy hiếp. Xui cho Tốt khi đó, đã phơi cái hông trống trải ngay hướng tác xạ của họ, đường đạn đen thui của trái B40 phủ trùm tiếng nổ lên vị Tốt trong cụm khói xám đen, Tốt buông hai tay ngã vật ra phía sau, cây đại liên cũng lăn ngang nằm vắt trên mình Tốt. Hai ông thần nước mặn tưởng ngon ăn, nhào lên chiếm lĩnh vị trí của Tốt, hắn chạy ngang mặt tôi thì bị ông Thiếu úy Thọ, Trung đội trưởng Trung đội hai cùng với ba khinh binh từ trong bụi cây, bất ngờ nhảy ra vật xuống, giằng co thế nào không biết, ông Thiếu úy lãnh một viên vào cánh tay trước khi trói gô được hai tên đạo tặc. Tôi ra lệnh các Trung đội hình thành thế phòng ngự khu vực, ở đâu bám vị trí tại chổ, không di chuyển để tránh bắn lầm quân bạn. Cùng lúc tiếng M 16 nổ sát rạt phía sau lưng địch, thằng một về tới rồi, đở quá. Tiếng máy nội bộ í ới í ới... đích thân ơi tụi nó dọt rồi.

Không thấy Tốt nhúc nhích ngu ngoe gì cả, tôi đứng dậy định chạy lên chổ hắn nằm, chợt nghe đau nhói bên chân phải rồi ngã xuống. Vậy là dính rồi, lúc đó mới nhìn thấy ống quần rách toạt bê bết máu... tôi duổi chân cho ông Thơm xé lớp vải bầy nhầy, quấn cuộn băng cá nhân quanh vết thương lấm đất, nghe cái cãm giác lạo rạo của những, mãnh xương vỡ, chắc là nát bấy cái đầu gối rồi,..đừng để anh em biết tôi bị thương...kêu y tá lo cho hạ sĩ Tốt, Thiếu úy Hùng pháo binh và anh em bị thương. Dặn ông Thơm xong tôi gọi các Trung đội củng cố vị trí. Một đặt hai toán tiền tiêu tại chổ, rút về trước mặt thằng ba, tránh ngộ nhận., Ba, hai và bốn gom quân lại một nửa thủ, một nửa đào hố chiến đãu. ...không xong với tụi nó đêm nay đâu ! Yên tâm một chút, tôi mới báo cáo tình hình về tiểu đoàn, và xin tải thương và pháo binh yễm trợ cận phòng...Chuyện thủ tục hành quân ai cũng biết, kể ra thêm dài giòng...Để xin quay về với cả đại độI đang xất bất xang bang ở đây. Dập được cú phục kích nầy, không biết có phải phước ba mươi đời để lại cho tụi tôi được hưởng. Một trong ba ông thần ôm AK chết bên cạnh tôi là C trưởng, sau khi bất ngờ tấn công áp sát,vượt qua được tuyến phòng thủ tạm thời, hắn dẩn tổ xung kích tính dùi thẳng một lèo, xuyên qua trung tâm, tiêu diệt bộ chỉ huy đại đội, không ngờ vấp phải Tốt, dù đã bị thương vẫn quyết liệt kháng cự. Tôi đả nói rồi, chổ nào có con gà cồ gác càng khạc lửa là coi như êm chổ đó, mà lại gà cồ của Tốt thì hết ý kiến. Tụi nó tính chỉ chờ tụi tôi chuẩn bị đào hầm hố là ào lên, ai chụp được súng lúc đó? chắc ăn trăm phần trăm. Tính đi mà không tính lại để biết thói quen cũng là kỹ luật của tụi tôi là những lúc như thế, ai làm gì thì làm, các cây M 60 phải giử vị trí tốt nhất cùng tất cả thùng đạn được gom lại sẳn sàng chiến đấu vớI một dây đạn đã lên nòng. Tốt và cây đại liên khác của trung đội đả phanh ngực cản đợt xung phong nguy hiễm của địch. Điều họ không tính tới nửa là đã có một Trung đội thoát ra khỏi vị trí, và được tôi kéo lại bọc sau lưng họ làm một mũi hồi mã thương "cực kỳ hết sẩy, cực kỳ bất ngờ và cực kỳ ác liệt".

Khi không bị bất ngờ tập hậu, trong lúc C trưởng đã “ phơi thây trận tiền “ thằng lính kèn thổi phọt phọt thêm mấy tiếng rồi cả đám “ôm đầu máu chạy về ”, để lại mười một “dũng sĩ sinh Bắc tử Nam ” kể cả hai tù binh cùng với súng đạn, như Tốt đã cảnh báo. Chúng tôi bị thiệt hại ba chiến sĩ của trung đội ba, bốn sĩ quan bị thương kể cả tôi và đồng thời mất luôn sáu ba lô. Khi rút chạy, họ không thiết gì đến súng đạn, chỉ cần mấy cái ba lô chứa đầy lương thực. Hỏi sơ hai cái mặt non choẹt, xám tái vì sợ đang bị trói thúc ké ngồi kia mới biết đám lính nầy là một đại đội trinh sát đặc công, đại đội nhưng quân số chỉ còn khoảng hai mươi lăm mạng, sau khi bị Đại đội hai trinh sát bứng lật gọng khỏi vị trí chốt trên đĩnh 1416. Thất lạc đơn vị, chịu đói lâu ngày nên liều chết mò về hướng quốc lộ, chờ rình xe đò kiếm ăn, chưa ra ra tới quốc lộ lại gặp ngay tụi tôi. Tính lợi dụng thế bất ngờ, làm một cuộc tấn công liều mạng cướp thực phẩm. Bất ngờ thì bất, nhưng gặp phải lính dù thì chịu khó gởi thêm một mớ lên “ chuyến đò đưa xác “.

Tốt bây giờ nằm đó, đã chết với hai vết thương khá nặng trước khi trái B 40 bồi thêm những mãnh vỡ trên xác. Tôi cố lết đến bên hắn, trong ánh sáng nhá nhem của ngày sắp tắt, hằn xuống dấu vết cơn đau còn đọng lại trên nét mặt khắc khổ chịu đựng. Vết thương ở đùi trái cứa ngay động mạch, chưa kịp băng bó, máu vẫn trào ra thấm xuống lòng đất, vết thương thứ hai lệch vai phải, sâu xuống lồng ngực, vết thương Tốt hứng trọn ngay trước mắt tôi, khi truy cản mủi thọc sâu của địch. Vết thương đổi mạng mà chắc chắn, nếu không có họng súng của Tốt, tôi đã lãnh đủ mấy băng AK nát bấy mặt mày. Lại thêm tôi, một người nửa chịu ơn cứu mạng.

Tôi cứ để những giọt nước mắt của mình loang khô trên khuôn mặt Tốt, nỗi đau của người lính đã hằng ngày nén lại, cứng như tảng vẫn thạch xót xa gai cạnh từ mỗi lần ra đi của đồng đội. Tảng đá tưởng như lạnh lùng, vô tri, không có cảm giác đó, lại thường ngày vỡ thành những mãnh đạn xuyên phá, đâm buốt đến tận cùng khổ nạn đời lính. Cô đọng lại...Vỡ tan ra...cô đọng lại...vỡ tan, những mãnh vỡ của tôi đang nhòe tan trong vết máu Tốt, trước khi đặt vào tấm poncho gói xác, vầng trán âm u lấm lem bụi đất và khói súng, nghe cái đau của một kẽ thọ ân nhưng chẳng bao giờ còn cơ hội để đền đáp, dù khi xả thân trước mủi súng quân thù, Tốt chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện nghĩa ân.

Đại đội không có khả năng di chuyển vị trí khi tôi đả bị thương cùng với hai sĩ quan trung đội trưởng khác và Thiếu úy Hùng pháo binh, vì thế phải làm bãi đáp tại chổ. Ba cái poncho gói xác của Miên, Cãnh, Hứa và Tốt đã nằm im bên cạnh, tôi thiệt là thằng sát quân, mới làm thử thôi mà đã nướng đi bốn mạng. Chiều xuống rất nhanh cùng với sương mù, nên hy vọng có được tản thương trước khi bóng đêm tràn xuống càng xa vời vì chúng tôi vẩn chưa dọn xong bãi đáp. Dù đã hối thúc thượng sĩ Thơm cùng với trung đội bốn cưa chặt cây cối ngã rạp ngay trung tâm vị trí. Chỉ định Chuẩn úy Nghiệp trung đội trưởng trung đội một thay thế trong trường hợp tôi được tản thương, trong khi chờ đợi một sĩ quan khác thâm niên hơn theo trực thăng đến phụ trách đại đội. Không còn cách nào khác, dù Nghiệp chỉ mới ra trường hơn sáu tháng, hai ông Thiếu uý trung đội trưởng hai và ba cũng đang bị thương thừa sống thiếu chết nằm kia. Mãi cho đến lúc đó, tôi mới nhìn lại cái chân bị thương đang sưng tấy lên nhức nhối...và cũng chợt nghĩ đến những điều còn đau hơn vết thương chinh chiến.

Phan Hội Yên
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Người lính, sống chiến đấu, chết linh thiêng
Phan Nhật Nam
Dẫn nhập

Sau ngày mãn khóa Trường Đà Lạt, 23 Tháng Mười Một, 1963, tôi qua tuổi hai mươi về trình diện Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù ở Biên Hòa, giữ chức Trung Đội Trưởng Đại Đội 72, chức vụ thấp nhất của hệ thống chỉ huy lục quân. Từ giờ phút mang chiếc sac marin đi giữa hai hàng lính nhảy dù vào văn phòng tiểu đoàn trưởng cuộc đời tôi hoàn toàn đổi khác…


Nay 56 năm sau, một ngày Tháng Chín, nhân qua kỳ sinh nhật 77 tuổi (9 Tháng Chín, 1943-2019, ngồi vô tình (nhưng không phải là “vô cớ” – Sẽ trình bày rõ “không phải là vô cớ” ở phần cuối bài viết) nhớ lại khoảng thời gian, quãng đời thăm thẳm trải qua với những biến cố chung của thảm kịch Việt Nam, của Miền Nam với cảm giác bàng hoàng, kinh ngạc, hãi sợ… đến mức nói ra lời: “Sống như vậy chết còn hơn nhẹ hơn…” Không dám nói lời ngoa ngôn, tự xưng tụng, vì đây chỉ là những vụ việc đã xảy ra, thường hằng qua thân phận Người Lính/ Người Lính Bình Thường đã Sống/ Chiến Đấu/ Chết Với Miền Nam/ Tổ Quốc Việt Nam/ VNCH – Ngay tại hôm nay. Xin chứng minh.
Image
Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù - Từ trái sang : Thiếu tá Phạm Kim Bằng, Trung úy Nguyễn Phước Trọng, Đại úy Nguyễn Viết Thanh, Đại úy Đoàn Phương Hải, ?
Một


Ngày 11 Tháng Sáu, 1965, đụng trận Đồng Xoài (Quận Đôn Luân, Bình Dương), Đại Đội 72 chịu chung nghiệt cảnh của Tiểu Đoàn 7. Đơn vị rơi vào phục kích của Q762 (Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 7 Bộ Binh thuộc Trung Ương Cục Miền Nam, dưới quyền của Trần Văn Trà). Sau khi rút kinh nghiệm từ Trận Bình Giã, Phước Tuy, giao chiến với TĐ4/TQLC và Biệt Đông Quân (Tháng Mười Hai, 1964), phía cộng sản vùng Bình Dương, miền Đông Nam Bộ chuẩn bị trận địa Đồng Xoài từ đầu năm 1965.


Đơn vị cộng sản đánh Đồng Xoài đã thực tập trên sa bàn, xong tập điều động trên thực địa… Đến ngày 10, lực lượng Trung Đoàn 2 được tăng cường thêm một tiểu đoàn địa phương, tấn công chiếm đóng một phần Chi Khu Đôn Luân, tiếp tổ chức phục kích quân nhảy dù tăng viện. Thế nên, chỉ trong một giờ, Tiểu Đoàn 7 bị thiệt hại nặng với 14 sĩ quan, chết, bị thương, bị bắt. Từ tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, sĩ quan hành quân trở xuống đến cấp trung đội trưởng, trừ Đại Đội Trưởng ĐĐ74, (Đại Úy L.V. Phát). Đại Đội 72 chỉ còn khoảng 10 người! Bản thân là viên thiếu úy mang cấp bậc cao nhất còn lại với Chuẩn Úy Dương Văn Chánh.

Image
Tướng Tư Lệnh Trương quang Ân

Chánh là em của phu nhân Dương Thị Thanh, Người Bạn Đời Chiến Đấu với Tướng Quân Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Tư Lệnh Trương quang Ân nguyên là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8 từ 1960; tiếp Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 ND, Đại Tá Tỉnh Trưởng Gia Định, 1966 trước khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Nhị vị đồng hóa thân trong lửa vào Ngày 8 Tháng Chín, 1968 trên chiến địa Đức Lập; phu nhân Dương Thị Thanh cũng là một Nữ Quân Nhân Nhảy Dù.

Như một cách an ủi, nâng đỡ, được chỉ định giữ chức Quyền Đại Đội Trưởng Đại Đội 72. Đại đội trưởng thì cũng chỉ biết ngồi ôm mấy nhỏ con lính khóc tấm tức nơi văn phòng đại đội trống vơ trống vốc. Bà vợ viên Trung Sĩ Trung Đội Phó Tăng Màn Tài phải khuyên can. Thôi thiếu úy đừng khóc nữa bình tâm để mà lo cho mấy ông! Để tránh cái huông của TĐ7, Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn (chưa thành đơn vị Sư Đoàn) đặc cách cho Thiếu Úy Nam Xương (danh hiệu truyền tin chết tên cho đến hôm nay dẫu quá lâu không mặc áo lính) lên Trung Úy, chuyển về Tiểu Đoàn 9 tân lập ở Sài Gòn giữ chức Đại Đội Trưởng ĐĐ93/TĐ9.

Chuẩn Úy Chánh ở lại Đại Đội 72 với quân số mới bổ sung, đặt dưới quyền của Trung Úy Phạm Ngọc Bích từ Tiểu Đoàn 3 (Sài Gòn) chuyển về. Nguyên ĐĐ72 do Trung Úy Trần Quốc Lịch đưa về Biên Hòa khi Tiểu Đoàn 7 thành lập, 1960. Cũng do người ở Bộ Tư lệnh có quan niệm: Đại Đội 72 nguyên của tiểu Đoàn 3 (thì) đưa người chỉ huy của Tiểu Đoàn 3 về chỉ huy sẽ được phần tâm lý tin cậy.

Ngày 11 Tháng Mười Hai, 1965 (lại một ngày 11), toàn thể đại đội 81 người đồng tử nạn phi cơ trong chuyến bay từ Phú Bổn về Tuy Hòa. Năm 1974, 14 bao đựng xác được thu hồi, nhưng mãi đến năm 2012, tất cả mới được nhận dạng, xác định tính danh. Năm nay (2019) được phía Bộ Quốc Phòng Mỹ thông báo chính báo chính thức. Tôi đọc danh sách tử sĩ rơi máy bay năm 1965, nhớ lại cách ân cần của Trung Đội Phó Tăng Màn Tài (gốc người Nùng). “Mầy thiếu úy có ăn cơm không tao nấu cho.” hoặc lời thở than của hai Binh Nhất Phan Niên, Phan Thỏn (mang đạn đại liên). “Ôn ơi (Thiếu Úy Nam), ở ngoài mền (ở Quảng Trị), nghèo quá, tên không có chữ lót!!”

Tháng Chín, 2019, Nhân Đại Hội Nhảy Dù nơi vùng Nam Cali, tôi viết lại tình thế của người, việc thuộc Đại Đội 72/TĐ7ND của 54 năm trước; Viết xong đề ngày, tháng trước khi gởi đi: 4/9/19 – Đúng KHÔNG SAI MỘT SỐ – Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù – KBC 4919.

Linh Thiêng Người Lính không ngừng lại nơi yếu tố số hiệu 4919. Đại Đội 72/ Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù được tái hiện thực ở phần viết sau.


Hai


Những ngày Tháng Tư, Năm năm 1976, đám tù cấp đại úy ở Trại Long Giao, Long Khánh rơi vào tình trạng “chết trong cảnh sống” có thật trong sau đợt biên chế chuyển số lượng người thuộc thành phần “tiến bộ” đi những nơi nào không rõ. Thành phần đông đúc còn lại nhìn quanh quất đồng thấy ra… “Chết rồi, chỉ còn tụi mình, dân “ác ôn, mang nợ máu với nhân dân. Theo định giá tội danh nặng nhẹ của cộng sản: “Nhất rằn ri, nhì phi pháo!” Cả bọn ngưng đi lao động bên ngoài, ngày ngày ngồi thấp thỏm nhìn ra hàng rào chập chùng thêm nhiều lớp kẽm gai… Công việc duy nhất là đào giao thông hào ở những nơi khuất vắng. Giao thông hào sâu 3 thước, bề ngang chỉ vừa một thân người! Đám tù xì xào. Bọn nó bắt mình đào hầm chôn tập thể đây. Từ hầm hào, Nam Xương nhìn lên chỉ thấy một khoảng trời xanh với cảm giác rã rời. Không lẽ đời mình xong ở đây?! Với loại hầm nầy không cần phải bắn bỏ gây tiếng động, chỉ cần chốn sống, lấp đất là xong như ở Trường Gia Hội, Huế, Tết Mậu Thân 1968 chính bản thân đã chứng kiến.

Ngày 19 Tháng Sáu năm 1976, từ đầu đêm lệnh khẩn cấp di chuyển với đoàn xe trùm bạt phủ kín đợi sẵn. Đám tù trại Long Giao thì thầm an ủi. Như vậy nó không bắn, chắc di chuyển mình đi chỗ khác?! Đi đâu với hai bánh lương khô như thế nầy. Không biết? Xe di chuyển về hướng Sài Gòn thấp thoáng ánh đèn nơi xa, người ngồi sau thùng xe, hé tấm bạt nhìn ra ngoài xì xào thông báo.. Xe tới bến Tân Cảng. Chắc nó đưa mình đi Côn Đảo… Cũng được an ủi, còn ở Miền Nam!!


Nam Xương bước xuống xe nhìn về hướng Sài Gòn. Đâu là Tân Định? Đâu là Phú Nhuận? Nhà mình nơi đâu, vợ con như thế nào từ Tháng Sáu năm ngoái, 1975?! Mới một năm mà sao đã ngàn dặm thăm thẳm xa cách. Sài Gòn, Bến Tân Cảng như một chốn không còn. Một nơi không phải của Miền Nam?! Đám tù chập choạng bước lên cầu thang xuống hầm tàu Sông Hương. Ngàn con người bước đi không tiếng động. Xác ma cũng chỉ có khối im lặng thắm đậm nầy… Ùm! Ùm!! Âm động của khối nặng rơi xuống nước.. Súng nổ giòn, đường đạn bay xuống mặt sông… Đám lính áp tải cao giọng… Khẩn trương! Khẩn trương… Thúc hối đám tù đang đợi trên sàn bến cảng chờ lên tàu.


Nam Xương tựa vào sàn cầu thang, nhìn xuống mặt đen chập choạng ánh sáng bên mạn tàu. Cũng không khó bước chân qua, và lao mình xuống! Anh vụt thấy ánh sáng của Sài Gòn rực rỡ, hùng tráng. Ngày bao hùng binh tiến lên… Đoàn quân uy nghi qua khán đài… Chào tay… Chào! Trung Úy Phan Nhật Nam đưa tay chào lẫm liệt qua vành nón Mũ Đỏ Nhảy Dù theo lệnh Đại Úy Liêu Quang Nghĩa! Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu, 1965 – 11 năm trước. Hôm nay, Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu, 1976. Ngày bao hùng binh tiến lên! Người Tù Phan Nhật Nam vững vàng, thản nhiên bước lên cầu thang, vào hầm chở súc vật tàu Sông Hương với nhắc nhở tự thân: Mình lên Trung Úy Ngày Quân Lực -19 Tháng Sáu năm 1965 sau Trận Đồng Xoài.


Ba


Những ngày Tháng Chín, 2019 nơi vùng Nam Cali dày đặt những sự kiện… Danh Dự Người Lính VNCH bị những thành phần vô lại hạ nhục với tất cả hạ tiện, thô tục. Cay đắng hơn, không thiếu sự tiếp tay (vô tình và hữu ý) của những người từng mặc áo lính, được gọi là “chiến hữu” nay chỉ mặt, cáo buộc lẫn nhau chung một tội danh “cộng sản.” Thủ Đô Người Việt Tỵ Nạn vắng mặt toàn thể hệ thống Nhà Xuất Bản in sách, phổ biến văn hóa phẩm của các tác giả Miền Nam trước 1975. Các trung tâm sản xuất băng, dĩa CD, DVD chủ đề Nhạc Vàng đồng loạt đóng cửa; Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa hằng năm mất hẳn một nửa khí thế vì thành phần ca nhạc sĩ (chuyên hát miễn phí) của Trung Tâm ASIA, SBTN đã bị phân tán, không thể tập trung, tổ chức lại. Dọc Dường Bolsa, Thành Phố Garden Grove, Westminster, những quán ăn đi từ Sài Gòn sau 30 Tháng Tư, 1975 nay phần lớn đã đổi chủ. Chủ nhân và thành phần người làm mới có cung cách, ngôn ngữ “chiêu đãi, phục vụ “vô tư” của Hà Nội, Nha Trang, Đà Nẵng… nay đang dần “Trung Quốc lai”. Lòng nặng trĩu tâm lý, phản ứng của những ngày Tháng 3, 1975 khi đứng trên đèo Hải Vân, sáng 30 Tháng 4, 1975 đứng trước Hạ Viện Sài Gòn thấy ra lần… Thật Chết Với Quê Hương!


Nhưng linh thiêng kỳ diệu thay, báo chí Miền Nam Cali đồng phổ biến bản tin… “Hài cốt 81 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị lãng quên trong hơn nửa thế kỷ qua sẽ được vinh danh trong một buổi lễ tại Tượng Đài Việt Mỹ ở Westminster Ngày 26 Tháng Mười, 2019.”

Bản tin căn cứ từ bài viết trung hậu cao thượng của Jim Webb – Ông vốn là Sĩ Quan Thủy Quân Lục Chiến từng chiến đấu tại Nam Việt Nam; trở về Mỹ, được nghỉ hưu vì thương trận, ông trở thành Thượng Nghị Sĩ Đảng Dân Chủ, đại diện Tiểu Bang Virginia; từng giữ chức Bộ Trưởng Bộ Hải Quân; Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Phụ Trách Văn Phòng Trừ Bị… Nhưng dẫu phụ trách những chức vụ cao trong chính quyền cũng như quốc hội, Jim Webb do dấu tích không phải nhạt của chiến tranh Việt Nam, cũng do Phu Nhân Hồng Lê với tấm lòng thắm thiết đối với Việt Nam, với Miền Nam, Jim Webb đã viết nên lời cảm kích: “Tưởng Nhớ Những Người Lính Bị Bỏ Quên Của Miền Nam Việt Nam” (Remember South Vietnams Forgotten Soldiers).


Ông nhắc lại sự việc thương tâm bi tráng… “Chiếc vận tải cơ C-123 của quân đội Hoa Kỳ bị bắn rơi trong Chiến Tranh Việt Nam, mang theo những quân nhân đồng minh của chúng ta bị mất tích từ đó đến nay. Những hài cốt của họ không có quê hương. Biết vậy nên tôi phải hành động. Jim Webb nêu lên nguyên lý trung hậu từ William Gladstone, một thủ tướng Anh trong thế kỷ thứ 19: “Chỉ cho tôi xem cách thức một quốc gia hay một cộng đồng chăm sóc những người chết của họ. Tôi sẽ đo lường với sự chính xác mức độ cảm thông tế nhị của những con người sống trong cộng đồng đó, sự tôn trọng luật pháp của họ đối với đất nước, và sự trung thành của họ đối với những lý tưởng cao cả.” Jim Webb không nói lý thuyết xuông, ông thực hiện nên thành hành vi cao thượng: Qua nhiều năm vận động giới lập pháp, hành pháp Mỹ.., vào ngày Thứ Sáu, 13 Tháng Chín, 2019, một chiếc phi cơ của Không Quân Hoa Kỳ sẽ chuyên chở hài cốt trộn lẫn của 81 quân nhân nhảy dù thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ Hawaii, nơi mà họ đã được cất giữ trong cơ sở của quân đội trong hơn 33 năm qua đến California. Và vào Ngày 26 Tháng Mười, một buổi lễ tưởng niệm và vinh danh trang trọng theo nghi thức quân đội sẽ được tổ chức dành cho những Người Lính đã hy sinh tại Westminster, tại Little Saigon.


Kết từ

Hóa ra anh linh người lính đã vô cùng linh hiển…

Ngày 13 Tháng Chín năm 1972 tại mặt trận Quảng Trị qua rạng sáng sáng 14 Tháng Chín, từ những căn hầm chiến đấu người lính thấy rừng rực lá cờ Vàng Ba Sọc bay uy nghi trong gió sớm lẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẳn. Họ thấy cay cay trong mắt với cảm giác nôn nao thầm lắng. Cảm giác muốn khóc về một điều bi phẫn. Những khuôn mặt chai cứng, hư hao, loang lổ khói đạn, bụi đất đồng duỗi ra theo độ sáng của ngày với vẻ kiên cường kiêu hãnh xen lẫn đau đớn kìm giữ. Người Lính nhìn xuống những xác binh sĩ đồng bạn mới đem về, nằm bó gọn trong những poncho phủ bụi đất, bê bết máu.

Nay, Ngày 13 Tháng Chín, 2019 Đồng Bào Tỵ Nạn Cộng Sản vùng Little Saigon tiếp nhận hài cốt của 81 Người Lính Nhảy Dù đã hy sinh để hôm nay có được Tự Do trên đất Mỹ.

Công việc mà Người Chiến Hữu Jim Webb đã thực hiện với một tấm lòng do suy nghĩ viết ra lời cao quý… Nếu Người Mỹ không chỉ chăm sóc cho những người chết của mình mà còn chăm sóc những người từng chiến đấu cùng với chúng ta. Những người lính vô danh VNCH xứng đáng được tưởng nhớ với danh dự và nhân phẩm. Buổi lễ sắp tới sẽ đi xa hơn việc tưởng nhớ sự hy sinh và hành trình dài năm thập niên của Người Lính VNCH đã hy sinh mạng sống khi còn trẻ tuổi cho lý tưởng tự do cho một quốc gia mà nay đã không còn. Cuộc hành trình buồn nhưng vĩ đại của những người lính bị lãng quên từ trận địa Việt Nam sẽ mang đến một kết cục cho nhiều người khác đã tự trả giá và tìm đường đến nước Mỹ để được sống Tự Do.


Thưa cùng Chiến Hữu Jim Webb về một điều rất Linh Thiêng mà ông không nói ra: 26 Tháng MƯỜI là QUỐC KHÁNH ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA, 26 THÁNG MƯỜI, 1955.

Phan Nhật Nam
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Bạn Tôi: Đại Úy Trần Quang Hiệp
- Lưu Hoàng Kỳ -

Tháng 3 năm 1980 bất ngờ tôi gặp lại Hiệp, đúng là quả đất tròn. “Tha hương ngộ cố tri”. Chuyện tôi gặp lại Hiệp như một sắp xếp của bàn tay vô hình. Nhưng cuộc hội ngộ cũng cho tôi nỗi xót xa đến không ngờ. Đúng là mỗi người một mảnh đời không ai biết trước được.

Sáng hôm đó như thường lệ 4 giờ sáng tôi đạp xe từ Phú Nhuận đi Chợ Sặt Biên Hòa mua đậu nành. Qua khỏi ngã tư Thủ Đức thì chiếc dép đứt quai, trời tối đèn điện lờ mờ, nhét chiếc dép vào sau ba ga tôi đạp chân không. Đến chợ Sặt tìm đoạn kẽm cột tạm nhưng dép của tôi quá cũ mỏng như tờ giấy, mới đi vài bước lại đứt tiếp, thấy tôi loay hoay cột tới cột lui bà “chủ vựa” vừa nói vừa cười: “mòn cỡ đó mà còn tiếc gì nữa em ơi! Bỏ mẹ nó mua đôi khác cho rồi”.

Bà đâu biết tôi chỉ đủ tiền mua 50 kilo đậu nành, còn mấy đồng dằn túi đề phòng xe dọc đường nên phải đắn đo. Sau cùng tôi nghĩ về tới chợ Lớn 45 cây số đạp chân không, chết chắc! đành phải mua đôi dép nhựa loại rẻ nhất. Vậy là trả tiền cho bà chủ xong tôi sạch túi.

Tôi đạp xe chở 50 ký đậu trên đường về đến ngã ba “Xa lộ Đại Hàn” thì bánh xe sau bị xì, với tôi lúc đó là một tai họa. Nhìn xuống thấy bánh xe xẹp lép tôi chết điếng người, trong túi không còn dù chỉ một đồng, tiền đâu vá xe? Tôi thầm nghĩ sao hôm nay gặp toàn chuyện xui vậy trời? “Họa vô đơn chí” khi sáng đứt dép bây giờ lại xì bánh xe.

Tôi hạ bao đậu xuống lề đường, bối rối không biết giải quyết thế nào? Tiền đâu vá xe bây giờ? Bí lối chỉ biết kêu trời!

Nhìn về hướng Sài Gòn, cách chừng hơn trăm mét bên lề đường một người sửa xe đạp đang ngồi trong lều nhỏ che nắng bằng tấm nylon. Không còn cách nào khác cứ dắt xe đến rồi tính sau, chưa biết phải mở lời nói sao để người ta cho thiếu nợ ngày mai tôi sẽ trả.

Dựng xe tôi đến trước lều, người sửa xe mặc áo lính quay mặt vào trong đang lục tìm trong thùng đồ nghề. Tôi lấy nón vải lau mồ hôi lên tiếng gọi: “Anh ơi!”. Người thợ ngoảnh mặt ra: “Có tôi đây”. Tôi ngỡ ngàng kêu lên: “Trời ơi! Hiệp có phải không?”. Anh cũng mở to mắt ngạc nhiên: “Ủa, mày hả Tiến?”. Hiệp xoay người ra trên cái đòn ghế, tôi rụng rời xót xa, Hiệp cụt cả hai chân đến nửa đùi. Hai đứa mừng quá bắt tay nhau, tôi xúc động chưa biết nói gì. Hiệp chỉ chiếc ghế thấp:

– Ngồi đi mày… tao lấy nước uống rồi chuyện gì nói sau.

Hiệp xoay người trên chiếc đòn ghế lấy ca nhỏ rót nước từ bi đông quân đội, vừa hỏi:

– Mày vào đây khi nào, bây giờ ở đâu?

Hai đứa tóm tắt hoàn cảnh hiện tại của nhau. Hiệp nói:

– Chuyện còn dài. Bây giờ trước hết mày đem bao đậu đến đây để mấy thằng quản lý thị trường nó “đớp” là hết vốn… vác nổi không? Chân cẳng tao làm sao giúp mày được?”. Tôi chui ra khỏi lều: “Ông cứ để mình”.

Bây giờ lại thấy trong cái rủi có cái may, nếu xe không xẹp bánh thì tôi đâu gặp lại người bạn trong cảnh tha hương giữa đất miền Nam mênh mông trong hoàn cảnh này.

***

Tôi và Hiệp cùng học lớp Đệ Thất 4 ở trường Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi. Nhưng Hiệp lớn hơn tôi đến ba tuổi, năm vào Đệ Thất tôi mới mười hai còn nhỏ xíu, mà Hiệp thì đã mười lăm cao lớn nhất lớp, đang thời kỳ trổ mã đẹp trai, mặt đã có mụn trứng cá và giọng nói khàn khàn như vịt đực. Tính tình nghịch ngợm, hay chọc phá bọn con gái (lúc đó Quảng Ngãi chưa có trường Nữ Trung Học). Nghịch nhất lớp mà học thì cũng loại siêu hạng. Hiệp thông minh học giỏi đều các môn, mỗi lần Cô Hy (vợ thầy hiệu trưởng Hà Như Hy) kêu nó đứng lên đọc Pháp văn là cả lớp im lặng như tờ lắng nghe, nó đọc hay như Tây. Xếp vị thứ hàng tháng, thi lục cá nguyệt, đến tổng kết cuối năm, không đứa nào dành ngôi số một của nó. Mới Đệ Thất mà “cu cậu” đã biết khiêu vũ, chơi đàn guitar, mandolin. Tới giờ dạy nhạc thầy Trần Quang Ngọc thường bảo nó đàn cho cả lớp nghe. Nói chung là cùng lớp Đệ Thất nhưng Hiệp trưởng thành hơn bọn tôi.

Hiệp học giỏi có tiếng, kết quả học tập là một kỳ tích. Nó chỉ chung lớp với bọn tôi đến năm Đệ Ngũ, bỏ Đệ Tứ làm đơn thi trung học Đệ Nhất Cấp, thi đậu qua trường Chấn Hưng học Đệ Tam học luôn chương trình Đệ Nhị, thi Bán Phần đậu bình thứ, lại trở vào Trần Quốc Tuấn học Đệ Nhất và kỳ thi Toàn phần đậu Bình nữa mới ghê. Hiệp học nhảy hai lớp nên khi bọn tôi mới hết Đệ Tam, nó đã đậu xong Tú Tài toàn phần.

Hiệp nộp đơn vào Quốc Gia Hành Chánh. Còn đúng một tuần nữa đến ngày thi, chuẩn bị hành lý vào Sài Gòn thì tai họa ập xuống. Trong một chuyến công tác ở Mộ Đức trở về đi qua Mỏ Cày cha của Hiệp bị Việt Cộng ám sát, ông chết vì một viên đạn AK xuyên qua tim.

Hiệp bỏ thi, còn tinh thần đâu mà học? Bọn tôi đến nhà thăm nhưng nó cứ nằm khóc vùi, mặt mày bơ phờ. Trần Quang Hiệp thông minh giỏi giang miệng mồm tía lia biến mất, nó xác xơ tiều tụy.

Bạn bè đứa nào cũng tiếc cho Hiệp, con đường học vấn đang thênh thang rộng mở. Phải nói Hiệp là một tài năng hiếm có, năm Đệ Tam bọn tôi hay đến nhà hỏi bài, Hiệp giảng hay và dễ hiểu hơn giáo sư ở lớp. Nó mang hoài bão lớn, có lý tưởng rõ ràng, đã vạch cho mình hướng đi nên chọn Quốc Gia Hành Chánh.

Nhưng cái chết của cha làm Hiệp chuyển hướng, cuối năm 1967 nó nộp đơn vào khóa 24 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (Đà lạt). Bốn năm học ở Đà Lạt, Hiệp ít về Quảng Ngãi, ra trường lại về binh chủng Biệt Động Quân ở Quân Khu Hai trên cao nguyên. Thỉnh thoảng chỉ biết tin tức qua bạn bè.

Hiệp vô Đà Lạt, bọn tôi hai năm sau mới xong Tú Tài toàn phần. Sau đó cũng tứ tán bốn phương, đứa vào đại học, thằng nào hết hạn hoãn dịch thì vào quân đội, đứa vào Sư phạm Qui Nhơn, Đứa Cán Sự Y Tế Huế. Mỗi người một mảnh đời nổi trôi theo vận nước.

Tôi nhập ngũ khóa 5/70 Thủ Đức, rồi học căn bản pháo binh ở Dục Mỹ, ra trường về tiểu đoàn 20 pháo binh. Suốt hai năm đi “đề lô” cho các tiểu đoàn Biệt Động Quân, Trinh Sát, Chiến Xa, Thiết Giáp, vào sinh ra tử đánh đấm tưng bừng. Trong vòng ba năm bạn bè tôi tử trận gần hết. Đến trung tuần tháng 3 năm 1973, tôi rời Tiểu Đoàn 20 pháo binh thuyên chuyển về làm Trung đội trưởng Trung đội 109 pháo binh lãnh thổ Quảng Ngãi.

Tháng 10 năm 1974 từ Bình Sơn về họp với ban chỉ huy pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi. Trưa hôm đó tôi mời Đại úy Tùng, Chỉ Huy Phó và Trung úy Ba Trung đội trưởng 111 ăn cơm ở Bắc Hải. Tiệm đông khách nên không để ý đến ai. Ăn xong tôi vào quầy thanh toán tiền. Lúc trở ra mới được mấy bước có tiếng hỏi: “Phải mày không Tiến?”.
Một ông Đại úy Biệt Động Quân đang ngoảnh lên nhìn tôi mỉm cười, ngồi cạnh là một cô gái đẹp. Phản xạ tự nhiên tôi đưa tay chào kính, cũng trong khoảnh khắc tôi nhận ra Trần Quang Hiệp. Bất ngờ vì trước mặt tôi không phải là Hiệp mảnh khảnh trắng trẻo thư sinh của bảy năm trước ngày bọn tôi tiễn thằng Hiệp 20 tuổi vào trường Võ Bị Đà Lạt. Mà là một ông Đại úy Biệt Động Quân đồ trận hoa rừng, ba bông mai đen trên ve áo với bộ ria mép đen rậm, đẹp trai vóc dáng phong trần.

Hiệp bắt tay tôi giới thiệu với cô gái. Nó quay qua: “Ngọc, người yêu của tao”. Tôi “Chào chị”. Hiệp cười.

Mới đó mà đã bảy năm, gặp lại hai đứa đều mặc áo lính. Hoàn cảnh chiến tranh mỗi đứa một chiến trường nên không gặp nhau. Bọn tôi hỏi thông tin về bạn bè, đứa còn đứa mất. Hiệp đang là sĩ quan phòng Ba của bộ chỉ huy Biệt Động Quân Quân Khu II. Nghỉ mấy ngày phép về thăm mẹ. Đó là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất bọn tôi gặp lại từ khi Hiệp vào Võ Bị.

Hiệp lên lại cao nguyên, tôi về đơn vị ở Bình Sơn. Tình hình đất nước biến chuyển xấu do sự cắt giảm quân viện của Hoa Kỳ theo tinh thần hiệp định Paris. Tình trạng tiếp liệu của toàn quân đội bế tắc thê thảm, đạn dược thiếu hụt. Đến cuối năm 1974 đạn tồn kho cạn kiệt, Pin PRC 25 trực tác xạ không còn. Tôi được lệnh chỉ bắn một đến hai quả cho mỗi lần quân bạn chạm địch. Bao nhiêu công điện xin tiếp tế tôi gởi đi đều được trả lời là: “Đợi”. Bộ binh chiến đấu đơn độc ngoài chiến trường vì không còn hỏa lực yểm trợ. Trong khi ngược lại, Việt Cộng được Nga Sô, Trung Cộng gia tăng viện trợ tối đa toàn vũ khí tối tân hạng nặng áp đảo. Ưu thế quân sự dần nghiêng về phía cộng sản bắc việt.

Thế rồi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, tôi lăn lóc qua nhiều nhà tù trong nhiều năm. Ra tù thêm bản án quản chế, tôi tất bật mưu sinh trong đói rách tả tơi.

Đầu năm 1980 tôi bỏ Quảng Ngãi vào Sài Gòn tá túc nhà người quen ở Phú Nhuận tìm cách mưu sinh. Thấy tôi nghèo không nghề nghiệp, bà chị sát vách cho mượn tủ thuốc lá nhỏ, tôi bê ra ngã tư Phú Nhuận ngồi từ sáng đến khuya, cả tuần lễ bán lẻ được năm điếu Samit, hai gói rưỡi thuốc Hoa Mai. Thất bại tôi chuyển qua đi bỏ sữa cho quán cà phê, bỏ 6 lon chỉ lấy tiền được bốn, còn hai lon chủ quán không trả tiền, khi tôi đến hỏi lần thứ ba lại lên tiếng lớn, còn cho tôi một tát tai nổ đom đóm, rồi đuổi ra vì chê sữa cũ đặc quá làm họ mất khách. Vậy là tôi mất vốn. Đang tính chuyện đạp xích lô thì có người mách đi chợ Sặt mua đậu nành về bỏ ở Chợ Lớn.

Thế là cứ 4 giờ sáng tôi thức dậy đạp xe ra chợ Sặt Biên Hòa hơn 40 cây số, chở bao đậu 50 ký về Chợ Lớn, đoạn về phải 45 cây số, như vậy trong ngày vừa đi về tôi đạp xe gần 100 cây số. Nhưng tiền lời chỉ tương đương 2 ký gạo cho mỗi chuyến. Mà tôi đạp xe trong tình trạng nhịn đói từ 4 giờ sáng đến 5 giờ chiều trở về nhà mới ăn bữa cơm duy nhất. Tôi cũng tiết kiệm không dám uống nước dọc đường, cứ đến “vựa” uống đầy bụng, về chợ Lớn thì xin nước nơi bán hàng, cho nên đi mấy ngày là tôi ốm nhom. Sợ nhất là đoạn trở về đèo 50 ký mà còn lên cái dốc Thủ Đức, nên người rã rời nhưng không còn cách nào khác.

***
Hôm đó tôi và Trần Quang Hiệp ngồi tâm sự, đến 8 giờ tối mới đèo bao đậu đến chợ Lớn, bán xong về tới nhà là 10 giờ đêm.

Từ lúc tạm biệt Hiệp lòng tôi ngổn ngang nỗi buồn tê tái. Một thời binh lửa đã đi qua, nhưng vết thương vẫn hằn sâu nhức buốt trong tâm hồn những người lính như bọn tôi.

Dù tôi và Hiệp còn rất trẻ đang tuổi thanh niên. Đã từng xông pha nơi chiến trường máu lửa, đã bao lần bước vào cửa chết để tìm ra đường sống. Nhưng hai đứa đã nghẹn lời khi kể nhau nghe những bi kịch về đoạn đời của mình sau ngày phần đất tự do đã mất.

Hiệp nói: “Tao tin vào định mệnh. Mỗi người một số phận không ai biết trước cuộc đời mình sẽ ra sao? Nếu Việt Cộng không giết “ông già” thì tao đâu vào Võ bị Đà Lạt? Rồi nếu không ở quân đội tao đâu gặp Ngọc? Cuộc sống vốn nhiều những sự tình cờ, tình cờ bọn mình gặp nhau, tình cờ tao vào quân đội, và gặp Ngọc cũng là một tình cờ”.

Ngọc quê Quảng Ngãi, tốt nghiệp đại học sư phạm Huế lên dạy ở Pleiku. Ngọc dạy cùng trường với vợ Trung úy Kha ban Ba tiểu đoàn Biệt Động Quân. Họ gặp nhau trong một bữa cơm gia đình ở nhà Kha. Không hiểu sao anh Trung úy đại đội trưởng trinh sát Trần Quang Hiệp gan lì nơi trận mạc. Về thành phố có tiếng hào hoa, đẹp trai, miệng mồm như tép nhảy, thế mà tự nhiên ít nói, lừng khừng như thằng “ngố” bị lãng tai. Ngọc đẹp, hiền lành lại đồng hương gặp nhau nơi cao nguyên nắng bụi mưa bùn, thế là họ yêu nhau.

Từ ngày yêu Hiệp, Ngọc sống trong lo âu đợi chờ, mà Hiệp thì miệt mài say mê chiến trận. Những địa danh Chupa, Dakto, Tân Cảnh, Kiến Đức, Pleime… Trận nào cũng ác liệt một còn một mất với quân thù. Sau hai tuần vắng mặt Hiệp trở về với một cánh tay quấn băng trắng loang lổ máu tươi treo trước ngực, thấy Ngọc rưng rưng, Hiệp mỉm cười: “Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ”, vết thương chưa lành lại đòi ra đơn vị với anh em. Rồi Ngọc khóc ngất khi thân thể Hiệp bê bết máu, mê man trong phòng hồi sinh ở Quân Y Viện Pleiku, sau ba tháng điều trị không cần tái khám lại nhất định lên đường. Và bao nhiêu lần trở về trên băng ca, chân tay mình mẩy lại băng bông máu me thấm đỏ. Ngọc phải nhờ bạn bè dạy thế để săn sóc chăm nom. Và Hiệp luôn dấu gia đình nhất định không cho mẹ biết tin.

Chuyện tình của anh quân nhân Biệt Động và cô giáo ngọt ngào như một bài thơ hay. Sau những cuộc hành quân trở về họ sánh vai trên đường phố Pleiku, cả hai đều đẹp. Rồi những buổi hẹn hò, những chiều tiễn đưa. Phố núi Pleiku là cõi “thiên đàng” của những người đang yêu nhau. Nhưng chuyện đời không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái như mơ tưởng.

Ngày tôi gặp hai người ở Bắc Hải chính là ngày định mệnh, chuyện tình của Hiệp qua một ngã rẽ khác.

Trước đó một tháng Hiệp thưa với mẹ chuyện hôn nhân, và cho biết thông tin về Ngọc: “Nhà ở Đức Phổ, Cha chết đã lâu chỉ còn mẹ già sống với người con gái lớn…”. Nỗi vui mừng dâng tràn, niềm ước mong bao năm là thấy mặt con dâu bây giờ mới đạt được. Mẹ đôn đáo lo toan, báo cho chú Hiếu biết, cùng mấy người bà con, tìm thông tin về gia đình Ngọc và chuẩn bị đến lễ Trầu Cau.

Một tối mẹ đang ngồi tính chuyện sắm lễ vật, những ai sẽ là họ hàng đến nhà gái, thì chú Hiếu của Hiệp làm cảnh sát “đặc biệt” ở Quảng Ngãi, người sẽ đại diện nhà trai trong lễ đính hôn xuất hiện với vẻ ưu tư. Ngồi lặng yên hồi lâu, thoáng buồn ông nói: “Chị Hai, cha con Ngọc không phải chết mà là tập kết, đã hồi kết từ năm 1968 từng hoạt động ở Quảng Nam, mới đổi vùng từ 1973, địa bàn hoạt động hiện tại ở nam Quảng Ngãi, là cán bộ cấp tỉnh, và y đã có móc nối với gia đình… Em đã xem và nghiên cứu kỹ hồ sơ. Phải cho thằng Hiệp biết ngay không chậm trễ được…”.

Hiệp hốt hoảng khi cầm bức điện tín: “Mẹ đau nặng con về gấp”. Không biết bệnh mẹ nặng nhẹ thế nào? Thôi cứ đem Ngọc cùng về để mẹ biết mặt con dâu. Hiệp gọi thầm: “Mẹ ơi đợi con về”.

Phải đợi hai ngày mới có chuyến bay về phi trường Chu Lai, Hiệp đưa Ngọc về nhà. Mặt mẹ đầm đìa nước mắt khi Hiệp ôm bờ vai gầy của mẹ.

Ngọc e dè ngồi vào ghế sát tường. Hiệp theo xuống nhà sau vào phòng của mẹ. Ngồi xuống giường mẹ hỏi nhỏ: “Hiệp… Con có biết cha con Ngọc làm gì không?”. “Cha nó chết lâu rồi mà mẹ”. “Không… nó dấu con, cha nó là Việt Cộng, đang hoạt động ở Đức Phổ…” mẹ cho biết thêm những thông tin điều tra của chú Hiếu, cùng sự xác nhận của những người quen.

Như nhát búa tạ vừa đập vào ngực, Hiệp bật ngửa ra giường hai tay dang rộng nhìn lên trần nhà. Hiệp không nghi ngờ gì kết luận của chú Hiếu. Hiệp ăn năn sự hời hợt chết người của mình, tại sao không cho gia đình biết từ đầu? Một sai lầm không đáng có.

Trong đầu Hiệp hiện lên: Vậy là lâu nay mình đã bị kẻ thù giăng bẫy? Không ngờ cô ta lại đóng kịch hay đến thế? Cảm giác sợ hãi. Hiệp cố nhớ lại có bao giờ cô ta hỏi điều gì về lãnh vực quân sự chưa? Hay có khi nào mình sơ suất tiết lộ chuyện gì không? Thời gian hai năm làm sao nhớ hết? Người yêu khoảnh khắc thành kẻ thù hai bờ chiến tuyến. Rõ ràng mình với cô ta là hai đường thẳng song song. Không bao giờ!

Căn phòng yên lặng. Hiệp ngồi dậy gục mặt vào vai mẹ: “Mẹ ơi! Con có lỗi với cha mẹ… Con sẽ tự giải quyết… Mẹ chuyển lời xin lỗi của con đến chú Hiếu. Con hứa không làm gì sai trái với gia đình… Con sẽ liên lạc xin tàu ngày mai trở lại đơn vị. Nếu mấy hôm nữa Ngọc đến tìm, mẹ cứ nói con đã đi và tuyệt đối không tiết lộ gì thêm”.

Vào Bắc Hải ăn cơm xong, Hiệp nói với Ngọc là chiều nay nhà có khách, các cô chú tập trung bàn chuyện đám cưới, để tránh khó xử Ngọc về Đức Phổ thăm mẹ, ngày mai Hiệp sẽ vào đón…

Sáng hôm sau Hiệp bay lên Pleiku, và hai ngày sau Phòng Ba đưa Hiệp ra thay cho một Tiểu Đoàn Phó vừa bị thương, đơn vị đang hành quân ở Kontum. Đến ngày thứ năm khi dẫn hai đại đội ra khỏi khu rừng đến một đồi tranh, cho dàn quân bố trí xong, lúc tiến lên quan sát mục tiêu Hiệp dẫm phải quả mìn cá nhân lớn, một tia lửa sáng lòa tiếp theo tiếng nổ rền rung chuyển. Hiệp không còn biết gì nữa.

Ra khỏi phòng hậu phẫu ba ngày sau tỉnh lại Hiệp lờ mờ cảm giác khác lạ, người nặng nề râm rang đau nhức, đầu óc bồng bềnh, tay chân không co duỗi được. Hồi lâu Hiệp mới biết hai tay bị cột chặt vào cạnh giường, dây chuyền máu, truyền nước biển chằng chịt tê cứng người. Dần dần Hiệp biết mình bị mất đôi chân, phải giải phẫu lấy mảnh ở tay, đầu và bụng qua lời của một bác sĩ mà Hiệp nghe trong trạng thái mơ màng nửa tỉnh nửa mê.

Bảy ngày sau Hiệp mới hoàn toàn nhận biết đang ở Quân Y Viện Pleiku. Vừa mở mắt thấy Ngọc ngồi cạnh giường mặt bơ phờ, đáp lại thái độ vồ vập nghẹn ngào gọi tên mình, Hiệp nhắm mắt im lặng, cố nhớ những gì đã xảy ra.

Chiều hôm đó Đại úy Kha cùng vợ vào thăm, sau khi yêu cầu tất cả ra ngoài. Hiệp cố gắng tóm tắt những thông tin về Ngọc, nhờ Kha vận động để mình được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa trong thời hạn sớm nhất. Đại úy Kha đồng ý và ủng hộ hướng giải quyết của Hiệp. Hôm sau có chuyến bay Hiệp được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Tiếng khóc của mẹ làm Hiệp cảm giác xót buốt như nhát dao cắt vào từng đoạn ruột. Bên mẹ Hiệp thấy bớt cô đơn, suốt ngày loay hoay chăm sóc rửa lau, an ủi nói chuyện để Hiệp khuây khỏa nỗi buồn.

Ngọc đến Tổng Y Viện Cộng Hòa ba lần với dáng vẻ tiều tụy. Hiệp nói với Ngọc mình tàn phế nên không muốn cô bị ràng buộc vào đời một phế nhân, và xin lỗi là lâu nay mình đã lừa dối chứ không yêu thương gì! Bao nhiêu nước mắt của Ngọc cũng không làm Hiệp lay chuyển.

Từ đó tuần nào cũng có một lá thư của Ngọc từ Pleiku, lá thư đầu tiên đến lá cuối cùng Hiệp chưa bao giờ mở ra, cũng không cần biết nàng viết những gì cứ bảo mẹ đốt bỏ.

Tình hình chiến sự diễn biến mau lẹ sau khi mất Phước Long, rồi Quân Đoàn Hai rút bỏ Pleiku, Quân Khu Một di tản, những tin tức xấu từ các chiến trường cứ dồn dập bay về.

Thế rồi khi hai chân còn rỉ máu, những vết mổ chưa liền da, chưa tự ngồi dậy được, thì biến cố 30 tháng 4.

Có mặt ở Tổng Y Viện nên Hiệp tận mắt chứng kiến số phận bi thảm của anh em thương binh Việt Nam Cộng Hòa trước sự tàn nhẫn vô độ của quân Việt Cộng.

Một bọn người nón cối dép râu ăn bận luộm thuộm, mặt mày hung dữ đằng đằng sát khí xông vào, súng AK đạn lên nòng gắn lưỡi lê chĩa vào những người thương binh đang nằm trên giường, đập đánh chửi rủa xua đuổi bằng lời thô tục đầy hận thù. Những người thương binh què cụt, bông băng đỏ ối máu tươi, xương tay chân còn bó nẹp không tự mình ngồi dậy được đã bị đạp rơi xuống sàn nhà mà không dám kêu la. Bao nhiêu người không thể tự mình rời khỏi giường, bị báng súng nện vào lưng, có người phản ứng lại bị đánh tới tấp bằng gậy, bằng bất cứ vật gì chúng vớ được chung quanh.

Máu căm hờn dâng lên đỉnh đầu. Hiệp cắn răng nghe nhịp tim dồn dập, đầu óc quay mòng mòng mồ hôi toát ra và hai tay run rẩy không còn tự chủ. Khó khăn lắm mẹ mới xốc Hiệp lên chiếc xe lăn hối hả đẩy ra sân. Trước mắt Hiệp kẻ lết người bò, kẻ xe lăn người chống nạng, có người một tay đỡ đùm ruột trong bao nilon, một tay cầm bịch máu thất thểu mặt còn nhăn nhó đớn đau. Một dòng người què quặt, máu me lang thang trên đường vật vờ như những bóng ma.

Cuộc chiến ghê gớm nhất hai mươi năm chấm dứt một cách dễ dàng, kẻ chiến thắng cũng ngỡ ngàng, người chiến bại thì vẫn không tin là sự thật. Sau những hối hả ngược xuôi tìm đường trốn chạy, ngày 30 tháng 4 đi qua. Sài Gòn là một thành phố chết, phố xá đóng cửa, nhìn đâu cũng toàn màu đỏ của cờ xí, biểu ngữ. Mọi sinh hoạt đều ngưng đọng đợi chờ chính sách của người “chủ” mới. Không khí khủng bố chết chóc bao trùm xuống miền Nam. Mọi sinh hoạt của Sài Gòn bị tê liệt.

Phe chiến thắng chia nhau chiến lợi phẩm, họ chiếm đoạt những kho tàng, nhà máy. Những người lạ từ đâu dọn vào các biệt thự, nhà phố. Từng đoàn xe nối đuôi hướng về phương bắc chất đầy máy móc hàng hóa.

Hai mẹ con về tá túc nhà cậu Ba ở Tân Bình. Hiệp nằm vùi trên giường như người đã chết, không cần biết những gì đang xảy ra chung quanh. Thiếu thuốc, mẹ rửa bằng nước muối hai vết cắt ở chân làm độc đau nhức, nhưng cái đau của thân xác không sánh bằng cảm giác tả tơi xót buốt như dao cắt bởi tuyệt vọng. Hiệp như rơi xuống một hố thẳm không đáy chẳng biết bám vào đâu?

Những khi thức giấc thực tế hiển hiện như một cơn ác mộng hãi hùng, Hiệp kinh hoàng nhận ra rằng đang đối diện với sự thật. Quốc Gia không còn, Việt Cộng đã thắng, lịch sử đã sang trang. Mình là kẻ chiến bại, một niềm đau đớn dâng lên ngập lòng, mắt cay cay như ai thổi muối ớt vào mặt. Hình ảnh bao anh em đồng đội ngã gục chết tức tưởi hôm nào lại trở về trong tâm tưởng, những người lính đã hiến thân để xây nên một huyền sử não nùng! Bây giờ có giọt nước mắt nào rơi xuống tiếc thương cho người lính hay không? Hiệp nhớ những đồng đội đã nằm lại chiến trường, những anh em Đại Đội Trinh Sát của mình đã chết trong những trận đánh giành từng ngọn đồi. Nhớ bao người lính đã gục xuống để chiếm lại từng tấc đất nơi những địa danh đã đi vào quân sử: Dakto, Tân Cảnh, Đức Lập, Kiến Đức, Pleime… Xương máu nào đã đổ xuống đem sự yên vui cho mọi người, cho một đất nước đầy tai ương? Bạn bè bao nhiêu người còn sống? Bao nhiêu người đã chết, hy sinh trong cuộc chiến giờ này linh hồn họ có tủi hờn gì không?

Những ý nghĩ cứ liên tục hiện ra trong tâm tưởng, như ngọn đèn dầu bùng lên chút ánh sáng cuối cùng trước khi phụt tắt. Một luồng máu nóng lan ra khắp đỉnh đầu, tim thắt lại, mắt hoa lên trong giây phút nghiệt ngã tận cùng. Hiệp thở dài: Ngày đã đi qua, bóng đêm đang tới. Lịch sử đã sang trang.

Nước mất nhà tan, chú Hiếu bị bắt và đưa đi mất tích như số phận của hàng trăm người ở quê nhà. Năm 1979 mẹ qua đời sau cơn bạo bệnh mà không có thuốc men. Hiệp bơ vơ.

Chính quyền “cách mạng” lùa dân Sài Gòn đi kinh tế mới. Ngày nào cũng có người đến gõ cửa. Từng lớp người bị đưa lên rừng phá rẫy tìm đất canh tác.

Cậu Ba có miếng đất gần làng đại học cũ ở Thủ Đức, thằng Tâm con lớn của cậu rủ anh Hiệp ra đó làm nghề chăn nuôi. Hiệp theo nó tìm đường sống. Làm thời gian thấy chân cẳng di chuyển khó khăn không giúp được gì cho em. Sau nhiều đêm suy nghĩ thế là Hiệp thành anh thợ sửa xe.

Từ hôm gặp lại Hiệp, tôi ghé lại đến 10 giờ đêm mới về tới nhà. Hai đứa có nhiều chuyện để nói: chuyện xưa, chuyện nay, chuyện bạn bè, chuyện học hành, chuyện lính tráng trận mạc, chuyện đứa chết, chuyện thằng sống.

Hiệp nói một người bà con ở Quảng Ngãi vào ghé thăm cho biết thông tin về cô giáo Ngọc: “Sau tháng tư 1975, cha cô Ngọc xuất hiện làm cán bộ lớn, và với lệnh của ông hàng trăm viên chức địa phương chế độ cũ, một số đã bị hành quyết, một số bắt đi đến nay không thấy trở về. Ngọc được cha đưa lên làm cán bộ giáo dục ở tỉnh nhưng cô từ chối. Và nghe nói cô giáo Ngọc tuy có được móc nối nhưng không nhận công tác nào như suy đoán trước đây”

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Ngọc ra Quảng Ngãi thấy nhà mẹ Hiệp đóng cửa, người láng giềng cho hay bà đã vào Sài Gòn trước ngày “giải phóng” nuôi con trai bị thương chưa về. Cô hỏi địa chỉ của Hiệp ở Sài Gòn nhưng không ai biết. Sau đó Ngọc vào Sài Gòn nhờ người quen dò tìm tin tức Hiệp cả tháng trời nhưng không kết quả. Thất vọng về lại Quảng Ngãi cô bệnh nặng, hình hài tiều tụy thần sắc bơ phờ như người mất trí. Chuyện cô giáo Ngọc con gia đình “cách mạng” thất tình anh Đại Úy Biệt Động Quân được người ta xầm xì bàn tán. Cha cô nổi trận lôi đình chống đối quyết liệt, lên án con gái ăn phải bơ thừa sữa cặn của đế quốc, bị tay sai “Mỹ Ngụy” đầu độc quyến rũ, chống phá “cách mạng” và đòi đưa cô đi tù.

Ngọc không còn đi dạy, năm 1976 cô bỏ nhà đi tu trong một ngôi chùa ở Đà Lạt. Chuyện cô vào chùa cũng làm ông giận dữ trong một thời gian dài. Sau đó nghe nói chuyện gia đình cũng không vui vẻ gì vì ông đã có vợ con ngoài Bắc trước khi hồi kết.

Tôi hỏi: “Vậy ông có hối hận gì không?”. Hiệp nhìn tôi cười chua chát: “Không lẽ tao kêu một tên Việt Cộng bằng cha?

Nhìn Hiệp xoay trở trên cái đòn ghế cặm cụi cào vá, đục gõ, hai bàn tay đen thui dầu nhớt, mồ hôi ròng ròng lòng tôi dâng lên nỗi buồn, dù bản thân tôi cũng đang làm một thằng cu ly hạng bét, tôi nói cảm nghĩ đó ra, nó cười: “Mày nhớ câu thơ của Lý Bạch không?… “Xứ thế nhược đại mộng!… cuộc đời là một giấc mộng lớn mà”.

Từ khi gặp lại cùng chung tâm trạng nên hai đứa tôi càng thương quý nhau, những suy nghĩ vui buồn đều san sẻ. Mỗi khi ghé lại tôi bơm hơi thử ruột, cào vá cho khách, làm những việc gì có thể, trong khi nó loay hoay siết vặn đục gõ. Vài ba hôm Hiệp lôi xe tôi vào tu sửa, vặn ốc, bỏ mỡ nhỏ dầu rồi nói: “Mày đi xa chở nặng xe mau hư, tiền lời không đủ sửa đâu!”, Hiệp góp ý nên tìm việc khác.

Công việc chở đậu của tôi cũng thưa dần vì đuối sức. Thật ra tôi đã nản ngay từ đầu vì đường xa mà lời thì ít quá, lại thêm chân cẳng rã rời. Rồi chuyện xui xảy đến làm tôi chán và bỏ cuộc:

“Một hôm, sau khi bán đậu xong tôi nghĩ lâu nay mình trung thành một chỗ biết đâu họ ém giá? Tìm thêm nơi khác xem sao? Quả đúng vậy cách ba căn người ta chịu mua hơn mỗi ký hai hào (lâu quá nhớ không chính xác) nghe vậy tôi rất mừng và tự trách mình “ngu” nên lâu nay bị thiệt, vì với tôi lúc đó một hào bạc cũng rất quý. Hôm sau ghé lại tôi khoe, Hiệp mừng còn trách: “mày là thằng khờ” lại còn biểu tôi hôm nay phải đi tìm thêm biết đâu có nơi giá cao hơn nữa.

Tôi về đến cầu Balicao 8 giờ tối đi thẳng đến địa điểm mới, năm thằng choai choai ùa vào, nó kéo tôi tận sau nhà miệng tía lia: “Nhanh lên, nhanh lên quản lý thị trường kìa”. Đèn điện lờ mờ, năm thằng mỗi đứa một bao giấy tranh nhau xúc, linh tính tôi thấy không bình thường, quả đúng vậy cân lên 5 bịch chỉ còn 45 ký, đương nhiên là tôi không đồng ý, và khẳng định bao đậu 50 ký chưa bao giờ thiếu. Lập tức tôi bị một thằng giật cổ áo, thằng dí tay vào mặt chửi lời tục tĩu: “ĐM mày nói tụi tao lấy hả? ĐM tao dzớt thấy con đĩ mẹ mày……” Cả bọn ào tới đòi đánh, biết gặp bọn bất lương tôi điếng người sợ toát mồ hôi, khi đổ lại vào bao, lưng xuống một đoạn xa không đầy như ban đầu, nhưng tôi không dám nói, lo đẩy đi càng nhanh càng tốt. Tôi quay lại chỗ cũ, ông chủ vựa hỏi sao chỉ 45 kg? Tôi nói do vựa hết đậu.

Mất 5 kg đậu coi như tôi đi cả tháng không có đồng nào! Buồn quá nghỉ vài hôm, tôi đạp xe ra kể chuyện với Hiệp. Nó tiếc nhưng không nhịn được cười còn chê tôi “khờ”. Hôm đó ở lại phụ Hiệp và cho biết ý định ngày mai tôi đi Long Thành tìm người quen, nếu ở được sẽ thay đổi.

Thế rồi hoàn cảnh đẩy đưa tôi quyết định ra Long Thành làm rẫy. Nơi tôi đến là trong rừng sâu cách xa đường lộ 15 cây số. Trước hôm rời Sài Gòn tôi đạp xe ra chơi với Hiệp một ngày. Nó buồn lắm, gần trưa Hiệp lên xe lăn đi một lúc trở về với một bịch nhỏ thịt gà và một xị rượu đế. Mọi hôm cơm trưa chỉ mắm làm chuẩn hôm nay bày đặc, tôi phàn nàn: “Ông làm gì vậy?”. Nó buồn buồn “Mày đi ra Long Thành tới chỗ xa xôi heo hút như vậy biết bao giờ gặp lại, xem như bữa cơm chia tay”. Có cái gì chận nghẹn nơi cổ, tôi quay mặt ra đường nước mắt trào ra.

Hai đứa tôi uống chung bằng cái ca nhựa, tôi uống ít nhưng cũng đủ lâng lâng bồng bềnh. Có hơi men cảm xúc tự do tuôn trào đứa nào cũng ràn rụa nước mắt. Tôi và Hiệp vừa bạn học, tình chiến hữu còn gặp nhau ở lý tưởng, và có cùng hoài bảo giống nhau, nhưng chúng tôi đã không phùng thời. Rồi thời thế đẩy đến đường cùng, đứa nào cũng te tua bị nhận chìm xuống tận đáy vực của lớp người cùng khổ nên hiểu và thương quý nhau.

Giọng Hiệp lè nhè: “Thà đừng gặp lại mày, cứ để tao cô độc như lâu nay. Tao sống như đã chết từ lâu rồi… Từ ngày có mày tao vui, mày đi rồi biết nói chuyện với ai?” rồi Hiệp khóc tôi cũng nghẹn ngào.

Lúc chia tay Hiệp nhắc lại: “Chân cẳng tao vầy không đi thăm mày được đâu, cố gắng lên thăm tao”. Hai đứa nắm tay nhau bịn rịn.

Tôi đạp xe một đoạn, ngoảnh lại thấy Hiệp ngồi trên xe lăn đang leo lên lề đường nhìn theo. Tôi nhấn mạnh bàn đạp mà nước mắt quanh tròng, nghe thương Hiệp nhiều quá!

Sáng hôm sau trên chiếc xe than đi Long Thành khi chạy ngang qua chỗ Hiệp, tôi đưa cánh tay ra vẫy nhưng Hiệp đang cặm cụi làm.

Tôi loay hoay cuộc sống mới trong xó rừng ở Long Thành, phương tiện liên lạc khó khăn. Nhà của Tâm trong làng Đại Học nơi mỗi đêm Hiệp về tá túc thì hẻo lánh không có địa chỉ nên cũng không thư từ.

Hơn một năm sau có việc đi Sài Gòn tôi ghé lại thăm, Hiệp mừng quá. Vẫn qua ngày bằng nghề sửa xe, vẫn nỗi khắc khoải ngày nào! Hiệp cho biết một số bạn bè ra tù đã tìm đến thăm, gặp lại bạn cũ cũng bớt buồn. Thằng nào cũng xác xơ đói rách, người đạp xích lô, kẻ chạy ba gác. Hiệp báo một tin quan trọng: “Thằng bạn thân cùng khóa Võ Bị Đà Lạt vừa ra tù tổ chức vượt biên giúp tao, dự trù sẽ đi vào cuối năm… thôi thì một liều ba bảy cũng liều… còn gì để mất? Nếu may còn sống tao sẽ tiếp tục đi học, không may bỏ mình trên biển thì cứ xem như một lần ra trận… mà mình cũng đã chết từ lâu rồi!”. Hiệp tiếp: “Mày yên trí tao sẽ không chọn ở Mỹ đâu!”. (hai đứa tôi cùng lập trường không ưa Mỹ). Tôi mừng và cầu mong chuyến đi thành công để Hiệp thoát thảm cảnh hiện tại.

Tôi tiếp tục cuộc sống trong rẫy Long Thành một thời gian, rồi chuyển đi Phước Tuy, lại thay đổi chỗ ở liên miên. Tháng 6 năm 1983 tôi lên thăm Hiệp thấy không còn căn lều, nền đất cỏ mọc um tùm. Tôi vào nhà Tâm nơi Hiệp tá túc hỏi thăm. Tâm buồn bã báo tin: “Anh Hiệp vượt biên nhưng đã chết trên biển rồi anh”. Tôi rụng rời kêu lên: “Trời!”

Tâm nói: “Ghe xuất bến ở Lam Sơn hôm 10 tháng giêng, chính em đưa “ảnh” đến nơi. Ghe đi được năm ngày thì chết máy, trôi trên biển nửa tháng, bị hải tặc cướp mấy lần, sau cùng ghe bị đâm chìm tất cả đàn ông đều chết, đàn bà con gái bị bắt đi, hãm hiếp rồi nhốt trên đảo hoang, sau được Cao Ủy Tị Nạn cứu. Em có bốn người bà con đi cùng chuyến nhưng chỉ còn sống một người nữ”. Ngưng một lát Tâm tiếp: “Anh Đại úy bạn giúp cho anh Hiệp cũng chết, chị vợ bị hải tặc bắt, hai anh chị mới lấy nhau có một tháng, vào trại tị nạn chị ấy bị điên… Tội quá anh à! Tự do chưa thấy mà tan nát cả.

Nhìn thùng đồ nghề quen thuộc của Hiệp trong góc nhà tim tôi se thắt, đồ đạc còn đây mà người thì không còn nữa. Hiệp hiện lên, tôi úp mặt vào lòng bàn tay gục xuống bàn, không kềm được tiếng khóc: “Hiệp ơi!”

Tôi thất thểu ra về như kẻ mất hồn, cảnh vật chung quanh nhạt nhòa. Đứng trước nơi hai đứa đã ngồi sửa xe, bây giờ chỉ còn mình tôi mà Hiệp thì đang vất vưởng nơi nào? Linh hồn anh đã về với quê mẹ hay còn vật vờ ngoài đại dương nơi trùng trùng sóng gió? Hay anh đã bay về gặp lại bạn bè đồng đội nơi chiến trường xưa?: Tân Cảnh, Dakto, Benhet, Kiến Đức, Pleime…. những địa danh mà đồng đội anh đã chọn làm nơi an nghỉ cuối cùng. Họ nằm xuống để mong ngày quê hương thanh bình và hồi sinh.

Tôi ngồi viết những dòng này đã 32 năm từ ngày Hiệp ra đi và 40 năm ngày Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Cho dù cuộc chiến đã đi qua, và cũng đang dần chìm vào quên lãng theo dòng chảy của thời gian. Nhưng đối với những người lính như chúng tôi đã từng chiến đấu để bảo vệ phần đất tự do. Đã vào sinh ra tử trên các chiến trường, thì đó là một vết thương khó chữa lành, sẽ mãi mãi âm ỉ một niềm đau không nguôi. Biết bao đồng đội bạn bè đã ra đi vĩnh viễn, nằm lại chiến trường! Biết bao người tàn phế đang sống cuộc đời còn lại trong tận cùng đau thương, khốn cùng và tủi nhục!

Cái quy luật chiến tranh đã vạch nên biên giới “kẻ thắng” và “người bại”, nên những đứa con bất hạnh của Mẹ Việt Nam đã nhận chịu tất cả những đắng cay phũ phàng, nhận chịu cái vô tình và tàn nhẫn, bạc bẽo như dòng nước lũ cuốn phăng ra biển những huyền thoại về người lính mang tên Việt Nam Cộng Hòa. Trong đó có người bạn đáng thương của tôi: Trần Quang Hiệp.

Hiệp ơi! Bài viết này là một nén nhang lòng gởi đến anh, người bạn của tôi, một tài năng hiếm có, mà một thời biết bao anh em từng cúi đầu ngưỡng mộ. Anh đã gắn đời mình vào binh nghiệp và chấp nhận những thiệt thòi đau thương khi tuổi đời còn rất trẻ như tất cả bạn bè thế hệ chúng ta. Tôi chúc anh được yên nghỉ dù rằng yên nghỉ trong cay đắng muộn phiền. Cầu xin linh hồn anh được trở về trên đất mẹ nơi đó có bạn bè chiến hữu, có mồ mả anh em những người đã cùng anh một thời đem xương máu mình tô thắm cho tự do của quê hương.

Gần nửa thế kỷ đi qua, mỗi lần ngang qua chốn cũ, nhìn lại nơi bọn mình ngồi sửa xe, dù dấu tích không còn, nhưng lòng tôi vẫn quặn thắt một nỗi đau khi nghĩ đến anh, nước mắt tôi doanh tròng, buồn… và nhớ nhiều lắm Hiệp ơi…!!!

Lưu Hoàng Kỳ
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Viết về người lính VNCH bất hạnh

Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250,000 người gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Tuy nay chính phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.

Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.

Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế Nuremberg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật... Năm 1920, lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý bắt và tử hình, nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.

Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500,000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50,000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh ông cha, một đời Tử sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.

Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội... mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cộc” của kiếp lính Miền Nam.

Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tỵ nạn” sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố, kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội... cũng lợi dụng “danh nghĩa người lính” để được tỵ nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào... để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đày đọa, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.

Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoác lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Adams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.

Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tỵ nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại.

Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddie Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddie lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I’m so, so, so... sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tỵ nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.

Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SĐND, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PĐC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).

Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “chôm chỉa tin từ báo Mỹ” rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng ‘rằng’ VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ cho “đám này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.

Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọc, phá hoại những người đang liều mạng xả thân bảo vệ mạng sống thừa thãi ký sinh của mình.

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da sáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.

Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước cộng sản, trong đó có CSVN.

Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo” để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, giun đất, cào cào... kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh:

“Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn”.

(thơ mường giang).

Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết, CSQT cũng không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô nhi Tử sĩ của VNCH, lại càng bị đọa đày thê thảm. Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích nghìn đời không phai mờ: Ðó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát, Trường Ðại Học Quân Sự... chứ đâu phải chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc?

Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa:

“... xin vì chàng, xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng...”

(Chinh Phụ Ngâm: Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)

Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đày, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.

Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN?

Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.

“... tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy

chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô”

(thơ Mường Giang)

Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Mường Giang
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Image

Phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ

Bà Phan Thị Minh Yến Là Ai?

Từ một nữ sinh trường đầm kiêu sa, thành bà Tướng đầy uy quyền, rồi thế thời đổi thay thành thợ hớt tóc 30 năm dài để nuôi 4 người con nên người mang tên Quang, Minh, Chính, Đại, đặt tên theo tâm niệm của người chồng chiến binh một đời anh dũng.
Đó là Bà Phan Thị Minh Yến, phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ, vị tướng tư lệnh cuối cùng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Quân Lực VNCH, một trong 5 vị tướng Miền Nam đã tuẫn tiết để nêu cao khí phách anh dũng và để gìn giữ danh dự của một quân đội vừa mới thua trận trong biến cố 30/4/1975.
Vào năm 1954, cô Phan Thị Minh Yến còn rất nhỏ, nhà ở Cầu Đất, Hải Phòng theo cha mẹ di cư vào Nam. Cô gái Bắc Kỳ nho nhỏ được gia đình cho học chương trình Pháp tại Sài Gòn và đã có câu chuyện tình từ năm 17 tuổi. Khi được 19 xuân xanh thì chính thức lập gia đình với một anh Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lúc đó là mùa Xuân năm 1964. Chàng hơn nàng 10 tuổi. Nhưng trước sau cô Yến chỉ có một mối tình từ khi biết yêu cho đến lúc thành hôn. Tiếp theo là 10 năm làm vợ lính thời chinh chiến. Rồi bắt đầu làm mẹ. Những đứa con lần lượt ra đời. Các cháu Quang, Minh, Chính, Đại. Ba đứa con trai đầu lòng đặt tên với niềm tự hào của người cha cương trực sống trong một hoàn cảnh đất nước nghiêng ngã. Nhưng cô Út bé bỏng, xinh đẹp chỉ được gọi là em Đại ở trong gia đình. Khi ở ngoài lớp học thì đây là cô nhỏ Tường Vi của bà mẹ Hải Phòng.
Suốt thời gian thơ ấu, người cha đi chinh chiến đêm ngày. Các con phần lớn sống gần gũi và trông cậy vào mẹ. Tuy nhiên, hình ảnh người cha quân đội vẫn là chỗ dựa tinh thần mạnh mẽ cho cả mẹ con.
Tháng 4 năm 1975, bà mẹ 29 tuổi dẫn 4 con từ 6 tuổi đến 10 tuổi di tản qua Hoa Kỳ. Người chồng đang chỉ huy đại đơn vị đang chống giặc nên không có cơ hội tiễn chân vợ con. Lần chia tay sau cùng mà vợ chồng không biết là lần vĩnh biệt. Anh đã ra đi vào miền vĩnh cửu khi quân đội tan hàng. Không một mảnh khăn tang. Không một giọt nước mắt. Vợ con cũng không hề biết tin về cái chết của người thân yêu. Năm đó chưa 30 tuổi, cô Phan Thị Minh Yến trở thành góa phụ ở vậy nuôi con cho đến năm nay, 2008, vừa đúng 33 năm.
Qua Hoa Kỳ, một mẹ và 4 con nhỏ, Minh Yến bắt đầu bằng nghề cắt tóc. Cố gắng tự lập nuôi con. Vừa làm mẹ, vừa làm cha. Từ nữ sinh trường đầm ở Sài Gòn, trở thành vợ lính sống cảnh gia binh, rồi trở thành góa phụ.
Sau bằng ấy năm trời, các con đã trưởng thành, tốt nghiệp đại học, có cháu nội cháu ngoại. Hỏi rằng bây giờ chị làm gì? Còn làm gì nữa. Trước sau cũng chỉ làm một việc cắt tóc chải đầu.
Nhưng nghề chính là vừa làm cha vừa làm mẹ.
Làm mẹ thì cũng dễ vì đã làm mẹ từ Việt Nam. Nhưng làm cha cho những đứa con trai ở Hoa Kỳ mới thật khó. Tất cả đều phải quyết định một mình. Không bàn với ai được. Ba đứa con trai ở tuổi niên thiếu tại miền đất lạ. Biết bao nhiêu là khó khăn. Chuyện học hành, chuyện sinh sống, chuyện yêu đương của các cháu rồi đến chuyện hôn nhân. Cái gì cũng là chuyện của các con.
Khi được hỏi rằng thế chị làm ở tiệm tóc thì làm chủ hay làm thợ. Được trả lời rằng trước sau chỉ làm công mà thôi. Đã bảo rằng nghề chính là làm mẹ, nếu bôn ba mở tiệm, e rằng không có đủ thì giờ trông nom lũ nhỏ.
Hỏi rằng đi làm như vậy có gặp những điều gì khó chịu không. Trả lời rằng lúc đầu cũng thấy tủi thân lắm. Nhưng rồi thì cũng phải nhịn nhục cho quen đi. Vả lại, ở đây cũng không ai biết hoàn cảnh mình ra sao nên cứ việc mình, mình làm. Cũng thi lái xe, cũng lấy bằng, cũng tìm đường đi học nghề, đi làm và nuôi con. Vâng, việc chính là nuôi con.
Chị có buồn giận về chuyện anh nhà đã không đi được vào năm 1975 hay không? Trả lời rằng thì anh nghĩ coi, ai mà chả muốn có vợ có chồng. Các con muốn có đủ cha mẹ. Nhưng phần số đã như vậy thì mẹ con phải sống sao cho phải đạo với sự hy sinh của ông nhà tôi. Ông ấy mà còn thì cũng chỉ muốn cho các con của chúng tôi được học hành tốt nghiệp đại học, rồi dựng vợ gả chồng cho các cháu như bây giờ gia đình tôi đã được như vậy.
Ngoài việc hãnh diện về chuyện con cái, bà mẹ gốc Hải Phòng còn kể thêm với niềm hào hứng đặc biệt. Đó là mối liên hệ với mẹ chồng.
Số là ngay sau khi di tản qua Hoa Kỳ, gia đình được tin chồng chết nên đã tìm cách báo về Bắc cho bà mẹ già biết tin. Tội nghiệp chưa. Ông nhà tôi, lời chị Yến, cũng di cư vào Nam từ 54, mẹ con xa nhau 21 năm không liên lạc. Bây giờ bà cụ mới biết tin con dâu và các cháu ở Mỹ thì đồng thời cũng biết tin con trai đã qua đời.
Những năm đầu ở Hoa Kỳ cũng rất chật vật nên không tiếp tế được nhiều. Những năm sau này bắt đầu gửi tiền về miền Bắc cho bà cụ. Chính tôi là con dâu mà chưa hề biết mặt mẹ chồng. Đến khi liên lạc được thì chồng đã chết. Gia đình tôi và các cháu tiếp tục liên lạc về Bắc. Mấy năm gần đây cụ vào Nam gặp các bà chị tôi rồi thu xếp cải táng đưa di hài nhà tôi về Bắc. Xong công việc quan trọng, cụ mới qua đời mấy năm gần đây.
•••••
Vâng, thưa quý vị, tôi vừa kể hầu quý vị một câu chuyện của bà mẹ Việt Nam trong nghĩa vụ thay chồng làm cha thời hậu chiến kéo dài hơn 30 năm tại Hoa Kỳ. Một người thiếu nữ 10 năm làm vợ nhưng đã có đến 30 năm vừa làm cha, làm mẹ, và làm dâu hàm thụ qua thư tín.
Cũng suốt 33 năm tại Hoa Kỳ, với vốn liếng Pháp văn và Anh ngữ của trường Đầm Sài Gòn, trước sau bà cũng vẫn chỉ là cô Yến làm tóc tại Hoa Kỳ. Bởi vì, người phụ nữ Việt Nam đơn giản này đã có một nghề cao quý vô cùng mà bà phải hết lòng theo đuổi. Đó là nghề làm mẹ. Do đó Ngày Của Mẹ hàng năm sẽ là ngày đặc biệt đối với những đứa con của bà.
Và mỗi năm, ngày tang 30 tháng 4 cũng là ngày giỗ bố của đám nhỏ. Bà mẹ Việt Nam tổ chức giỗ chồng bằng âm lịch những vẫn dặn con vào ngày cuối tháng 4, dù ở đâu cũng phải dành cho bố những giây phút tưởng niệm.
Bởi vì thân phụ của các cháu đã chết đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tên ông là Lê Nguyên Vỹ, người Sơn Tây, Bắc Việt, chết tại Lai Khê miền Đông Nam Phần.
Ngày nay, tại ngôi đình làng cũ tỉnh Sơn Tây có thờ bài vị của tướng công Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Binh Đoàn Số 5 của quân đội Sài Gòn. Ông đã tự sát vào ngày đất nước “thống nhất và hòa bình”.
Đó là cách ghi nhận của người đồng hương Sơn Tây với một chút tự hào. Và hình ảnh của ông vẫn trong lòng các con Lê Nguyên Quang, Lê Nguyên Minh, Lê Nguyên Chính và con gái út Lê Nguyên Đại Tường Vi tại miền Virginia Hoa Kỳ.
Đối với lũ trẻ Quang Minh Chính Đại, ba trăm sáu mươi lăm ngày, ngày nào cũng là Ngày Của Mẹ.

Kim Anh
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by dailien »

Chuyến xe tháng 5
Vương Mộng Long

Lời giới thiệu:

Tháng 5 năm 1975 chiến tranh đã hoàn toàn chấm dứt. Trên toàn cõi Việt-Nam không còn nghe bom nổ, không còn thấy đạn bay. Nhưng giữa tháng 5 năm 1975 cũng có những cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa đã bị đem đi mất biệt, mãi mãi không về…Bảo Huân
Kỳ 1: - Ðời tôi đã có một tháng 5 tràn đầy hạnh phúc, đó là tháng 5 năm 1969. Vào một ngày đẹp trời giữa tháng 5 này, ở Ban Mê Thuột, tôi đã gặp được người trong mộng ước của mình. Người con gái tôi gặp ngày đó đã thành người tôi yêu suốt đời. Người đó đã trở thành mẹ của 4 đứa con tôi, đã thành bà của 5 đứa cháu tôi. Hơn thế nữa, người đó, với tôi còn là một người vợ chung thủy, đồng thời là một người bạn tri kỷ không ai thay thế được.

Tóm lại, từ lâu lắm rồi, tháng 5, với tôi đã trở thành 1 tháng thần tiên, trừ ra 1 tháng 5 thật là đáng ghét, nhưng tôi cũng không thể nào quên nó được, đó là tháng 5 năm 1975.



Tôi đã sống qua những ngày đau thương của cái tháng 5 năm ấy, đã bị giằng co bởi những quyết định sống còn của cuộc đời mình, đã xuôi tay chấp nhận cái chết, và đã chứng kiến những cảnh chia ly não lòng.
Tháng 5 năm 1975 trên toàn cõi Việt Nam không còn tiếng súng giao tranh, nhưng có những người đi không thấy về.
Sáng 1 tháng 5 năm 1975 tôi lang thang trong vùng Ngã Bảy Chợ Lớn, trên đường tìm về nhà mẹ tôi.
Ngày hôm trước đơn vị của tôi đã bị đánh tan. Ðêm qua, sau khi trốn thoát một cuộc truy sát của kẻ thù, tôi vào tá túc trong nhà một người quen nằm trên đường An Bình, Chợ Lớn.
Tới trưa 1 tháng 5 tôi mới về tới nhà. Vậy mà chỉ vài giờ sau đã có lệnh kêu tôi sáng mai phải có mặt ở văn phòng liên gia trưởng khu phố để khai báo lý lịch.
Sáng 2 tháng 5 năm 1975, tôi rời nhà ra chợ tìm tới văn phòng liên gia trưởng. Văn phòng liên gia là 1 căn nhà nhỏ vách phên, lợp tranh, nằm sát bên 1 hiệu tạp hóa lớn của người Hoa.
Lúc tôi tới văn phòng thì đã có vài vị cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hiện diện ở đây rồi. Những vị này là người cư trú trong liên gia này. Họ và ông liên gia trưởng có vẻ không lạ lẫm gì nhau.
Hình như chỉ có mình tôi là người xứ khác, không phải là dân Sài Gòn. Vì đơn vị tôi bị tan hàng, nên tôi mới phải chạy về tá túc ở đây.
Nghe các ông sĩ quan nói chuyện, tôi được biết ông đứng ghi danh trước tôi là một trung úy An Ninh Quân Ðội, nhà ông này ở ngay đầu hẻm và cách nhà mẹ tôi chừng 5, 6 căn. Bên cạnh tôi là ông đại úy Không Quân ở cách nhà tôi 3 căn. Sau lưng tôi là ông chủ tiệm gạo bên kia đường, ông này là đại úy sĩ quan Công Binh.

Ông liên gia trưởng khu phố TK9 phường Nguyễn Cảnh Chân mà mẹ tôi cư trú là bác Thọ. Nhà của bác Thọ cách nhà mẹ tôi 1 con hẻm nhỏ.
Vì là hàng xóm, hôm qua bác Thọ đã chứng kiến cảnh mẹ tôi khóc sướt mướt khi tôi bước vào nhà, nên vừa nhìn thấy mặt tôi, bác đã niềm nở:
– Bác có nghe má cháu nói cháu đi lính ngoài Miền Trung. Chắc cháu mới chạy về phải không? Cháu mau xưng tên họ để bác ghi vào sổ. Cháu là lính Ðịa Phương Quân phải không? Cháu là trung sĩ chứ gì? Cháu chỉ cần khai vắn tắt thôi! Quan trọng nhất là cái địa chỉ tạm trú phải khai cho đúng! Nếu Cách Mạng có lệnh gì thì bác cứ theo địa chỉ mà thông báo cho cháu.
– Thưa bác, bác ghi tên cháu là Vương Mộng Long, nhưng cháu không phải là trung sĩ…
Tôi nói chưa hết câu, “cháu không phải là trung sĩ mà là thiếu tá…” thì bác Thọ đã lớn tiếng phán một cách chắc chắn như đinh đóng cột:
– Cháu và thằng con bà hàng xóm nhà cháu ngang tuổi, ngang lớp với nhau, nó khai là trung sĩ thì cháu cũng là trung sĩ thôi, không thể khai là binh nhất hay binh nhì được đâu! Tội khai gian là nặng lắm đó!
2 ông sĩ quan đứng bên tôi cũng gục đầu khuyên:
– Trung sĩ thì cứ khai là trung sĩ, có gì đâu mà phải sợ? Khai man hay giấu giếm cách gì thì người ta cũng phát giác ra thôi!
Bác Thọ hất hàm ra lệnh cho anh thư ký:
– Số thứ tự 25 là Vương Mộng Long, cấp bậc trung sĩ Ðịa Phương Quân, địa chỉ TK9…
Tôi chưa kịp phản đối thì bác Thọ gọi người tiếp theo, đó là ông chủ tiệm gạo. Ông sĩ quan Công Binh này là một người cao to như một vị hộ pháp. Ông ta vừa bước lên là tôi bị văng sang bên ngay.
Trong lúc ông đại úy khai tên và đơn vị thì tôi thấy nơi cuối hàng có một bàn tay ai đó giơ lên vẫy gọi mình,
– Long! Long ơi!
Tôi giơ tay vẫy lại:
– Chờ chút! Chờ chút!
Rồi tôi sấn tới trước bàn giấy, cầm tay bác Thọ:
– Cháu có việc phải đi ngay! Yêu cầu bác đính chính lại số thứ tự 25 Vương Mộng Long là thiếu tá Biệt Ðộng Quân, không phải trung sĩ Ðịa Phương Quân!
Ông liên gia trưởng ngớ người ra:
– Cháu không nói đùa đấy chứ! Xóm mình từ xưa tới giờ làm gì có ai là sĩ quan cấp tá!
Tôi nghiêm mặt:
– Cháu nói thật đấy!
Ông đại úy chủ tiệm gạo nheo mắt nhìn tôi rồi buột miệng:
– Ðù mạ! Giờ này mà còn hám danh! Khoa trương! Làm oai!
Chắc ông đại úy nghĩ tôi chỉ là 1 anh trung sĩ hám danh, khai man thành thiếu tá để lấy le nên ông ta lớn tiếng chửi thề cho bõ ghét.
Mấy vị sĩ quan đứng gần đó cũng cau mày, nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu và khinh bỉ.

Có lẽ vì thấy tôi có vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, lại ăn mặc không được chững chạc lắm, nên bà con cho rằng tôi chỉ là 1 hạ sĩ quan nhưng thích làm oai.
Chờ cho anh thư ký điều chỉnh xong lời khai báo của tôi, tôi chui ra khỏi đám đông để gặp người vừa vẫy tay gọi tên mình.
Thì ra đó là ông Thiếu tá Lương Ðình Chi, cựu Trưởng ty Cảnh Sát Bà Rịa, 1 người bạn vong niên của tôi. Nhà ông ta ở bên kia đường, ngay góc Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Biểu. Ông Chi vô tình ghé đây. Nhìn thấy tôi trong đám đông, nên ông ta giơ tay vẫy gọi. Ông ta cũng vừa tới văn phòng liên gia trưởng của ông để khai báo.
Ðâu ngờ, cái chuyện khai báo lý lịch xem ra thật đơn giản và không có gì đáng lo ngại, vậy mà nó che đậy một cái bẫy sập ghê gớm.
Chỉ với cái tên, cấp bậc và đơn vị mà chúng tôi khai với ông liên gia trưởng, đã đủ để những người Cộng Sản có thể phát hiện ra những kẻ thù mà chúng cần truy cứu. Chỉ ít bữa sau, một Thượng tá Trung đoàn trưởng của Sư Ðoàn 320A Cộng Sản đã tới gõ cửa nhà tôi để thăm tôi.
Tôi và ông ta đã từng có vài lần đối đầu qua những trận đánh đẫm máu năm 1974 ở Tây Nguyên.
Cũng từ cái chuyện khai báo lý lịch mà chưa tới 10 ngày kế đó, sáng 11 tháng 5 năm 1975, tôi đã trở thành một tù binh.
13 năm sau, trên cái giấy ra trại của tôi đã ghi rõ ràng rằng: Ðương sự bị bắt ngày 11 tháng 5 năm 1975.
Hôm đó, tôi bị gọi lên văn phòng liên gia trưởng. Bác Thọ nhìn tôi ái ngại:
– Phường Nguyễn Cảnh Chân vừa nhận được lệnh nội nhật ngày 11 tháng 5 năm 1975 phải áp giải tên Vương Mộng Long lên giao nộp cho Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Ðịnh.
Văn phòng phường không có xe, nên bác Thọ ra lệnh cho anh thư ký của liên gia chở tôi đi bằng xe gắn máy.
Tới Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Ðô, nay là trụ sở Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Ðịnh của Việt Cộng, tôi xuống xe rồi tự động đứng lẫn vào đám người đang tụ tập trước sân cờ.
Hôm đó, có khoảng vài trăm quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa bị tập trung về từ nhiều nơi quanh Sài Gòn. Họ được chở trên những quân xa đủ loại. Người xuống hết, xe chạy đi, nối đuôi nhau. Chỉ có mình tôi tới đây bằng xe hai bánh do người khác cho quá giang.

Trong số những người hiện diện trong sân, tôi thấy Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, Chuẩn tướng Lê Trung Tường và mấy vị tướng khác, cùng vài người quen của tôi như Trung tá Nguyễn Hiệp, Trung tá Nguyễn Ðỗ Tước, Thiếu tá Hồ Văn Hòa, Thiếu tá Lương Ðình Chi và Trung sĩ Thông Dịch Viên người Hoa là Huỳnh Cẩm Lường.
Chúng tôi đứng trước sân chờ nghe cái loa treo trên cột cờ kêu tên mình để vào trình diện một trong số những căn phòng đánh số thứ tự A, B, C, D.. X, Y, Z... nằm ở tầng trệt của dãy nhà lầu phía sau.
Tôi được gọi tên để vào làm việc trong căn phòng nơi cửa có cái bảng carton cỡ 40X40 cm ghi chữ «Z» thật to bằng sơn đen, nằm ở đầu hồi. Phòng có cái bảng chữ «Z» là nơi tiếp quản của Quân Khu 5 Cộng Sản. Quân Khu 5 Cộng Sản bao gồm lãnh thổ các tỉnh từ Quảng Trị tới Phú Yên. (Chữ Z= phát âm là Zét)
Văn phòng này do 4 cán binh Việt Cộng phụ trách. 4 tên cán binh này mặc quân phục xanh, không đeo phù hiệu hay quân hàm, và cũng không vũ trang.
Có khoảng trên dưới 20 người được gọi vào phòng Z. Mỗi người được phát một tờ giấy in roneo gọi là bản tự khai, chỉ có mấy dòng:
1) Họ tên
2) Cấp bậc, chức vụ
3) Ðơn vị và nơi đồn trú.
4) Thời gian phục vụ ở địa bàn Quân Khu 5 từ năm nào tới năm nào?
5) Ðịa chỉ cư trú và liên lạc hiện nay
Dưới đó là ngày tháng và ký tên.
Công việc ghi chép những câu trả lời 5 mục nêu trên và ký tên diễn ra không tới 1 giờ.
Tiếp theo là giai đoạn khẩu vấn, công việc này cũng chỉ nhằm mục đích xác nhận xem chúng tôi có đúng là người mà Quân Khu 5 cần tiếp quản hay không.
Từng người trong chúng tôi phải lần lượt đối diện với 4 thẩm vấn viên để trả lời những câu hỏi liên quan tới từng đề tài khác nhau như quê quán, tôn giáo và gia cảnh.
Kết thúc buổi thẩm vấn, tên cán bộ trưởng toán xoa tay cười khẩy, rồi đẩy mấy tờ giấy ghi lời khai của tôi ra trước mặt tôi:
– Ðược rồi! Anh đọc lại đi! Có gì cần sửa thì trình cho tôi. Tôi có cho phép anh thì anh mới được sửa. Nghe rõ chưa?
Tôi liếc qua những dòng chữ đã ghi trên bản tự khai rồi lắc đầu:
– Tôi không muốn sửa chữa điều gì cả.
Nghe vậy, tên Việt Cộng vội xếp tờ giấy tự khai của tôi vào cái bìa cứng rồi đưa tay ra cho tôi bắt:
– Anh có thể đi về, nhớ đúng 8 giờ sáng mai lại vào đây trình diện!
Ra khỏi phòng, tôi đi một vòng quanh trại để tìm người quen, thì được tin Trung tá Nguyễn Hiệp, Thiếu tá Hồ Văn Hòa, Thiếu tá Lương Ðình Chi, đã bị còng tay chở đi rồi.
Trung tá Nguyễn Ðỗ Tước và ông Thông Dịch Viên người Hoa là Huỳnh Cẩm Lường còn ở trong phòng nào đó chưa ra.
Sáng 12 tháng 5 tôi leo lên Honda chạy một lèo tới Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Ðịnh.
Gửi xe xong, tôi bước vào trại để tới phòng Z; đã có nhiều quân nhân khác nhanh chân hơn tôi; họ có mặt trong sân doanh trại từ sáng sớm.

Vào phòng, tôi mới hay, sau buổi thanh lọc ngày hôm qua đã có nhiều người được trả tự do vì lời khai của họ không phù hợp những chi tiết mà Quân Khu 5 đã nêu ra.
Hôm nay, trong phòng Z chỉ còn lại đúng 7 người.
Chúng tôi không phải khai báo gì hơn, chỉ ngồi tán gẫu với nhau thôi.
Những cán binh phụ trách công việc tiếp quản chúng tôi cũng vui vẻ nói chuyện với chúng tôi không chút ngại ngùng. Qua vài câu trao đổi, chuyện trò, tôi được biết, 2 trong số 4 cán bộ Cộng Sản này là người Thanh Hóa, 1 là dân Hà Nam Ninh, 1 là dân Hải Hưng (tỉnh Hải Hưng là tên do 2 tỉnh sáp nhập Hải Dương và Hưng Yên). Biết tôi là dân Hải Dương nên người bộ đội Cộng Sản quê Hải Hưng hay nhìn tôi với vẻ mặt nửa lưu luyến, nửa ái ngại và khó hiểu.
Buổi trưa chúng tôi được phép túa ra đường kiếm cơm cháo, mì, phở, 1 giờ sau sẽ quay trở lại.
Bên kia đường là một dãy quán hàng bán đồ ăn.Thấy 1 ông từ phòng Z dẫn theo vài ông khác chui vào một cái lều bên đường, tôi cũng chui vào theo.
Trong lều là 1 gánh cháo lòng do 1 bà tuổi trung niên làm chủ.Chúng tôi theo nhau, 7 người, ngồi trên 2 cái ghế dài của học trò.
Chỉ qua mấy phút tâm sự, tôi đã biết lý lịch của 6 ông bạn mới. 6 ông này gồm có 1 Thiếu úy Trung đội trưởng Thám Báo Tỉnh, 1 thẩm vấn viên của Trung Tâm Thẩm Vấn Quân Ðoàn II, 2 ông sĩquan Ban 2 Chi Khu,1 Trưởng Lưới Mật Báo Viên và 1 nhân viên phản gián của Ủy Ban Phượng Hoàng.
Ông chồng bà bán quán là Trung sĩ Trưởng Lưới Mật Báo Viên của Tiểu Khu Bình Ðịnh tên là Huỳnh Thanh Bền. Ông Trung sĩ Bền là 1 hạ sĩ quan Ðồng Hóa.
Từ ngày thứ 3, tôi không còn phải tốn tiền gửi xe Honda, tôi khóa xe, rồi để xe ngay vách quán của bà vợ ông Bền.
Trung sĩ Bền lớn hơn tôi 10 tuổi, vợ ông cũng lớn hơn tôi 7 tuổi. Anh chị Bền có 3 đứa con, cháu lớn là con gái 19 tuổi, đang học Sư Phạm, 2 đứa kế tuổi 15 và 13 đang học trung học.
Nhà anh chị Bền ở gần Quân Lao Gò Vấp.
Anh chị Bền là người Nam chính gốc, còn tôi lại là dân Bắc (Di Cư) chính gốc; vậy mà chỉ qua vài ngày sơ giao chúng tôi đã thấy thân thiết nhau.
Vợ chồng Trung sĩ Bền coi tôi như em, 3 đứa con của anh chị Bền thì gọi tôi là “Chú Long”.
Ngoài tên ông Bền ra, tới nay tôi chỉ còn nhớ, ông Thiếu úy Thám Báo tên là Bổn, 1 ông sĩ quan Ban 2 chi khu tên Nghĩa, ông phản gián tên Phụng; tên của 2 người còn lại thì tôi quên mất rồi.
Những ngày sau đó cũng có vài người tới trình diện phòng Z, nhưng chỉ qua vài chục phút tiếp xúc thẩm vấn là họ được cho về. Quân số phòng Z hầu như cố định 7 người. Chúng tôi cứ 8 giờ sáng có mặt, cùng nhau tán gẫu, 6 giờ chiều lại chia tay, sau khi nghe một 1 hồi kẻng báo giờ phát đi từ giữa sân cờ.
Hàng ngày, nhân dịp đi loanh quanh trong sân, tôi được biết những phòng đánh số khác cũng là chỗ quy tụ những quân nhân đặc biệt được gọi về chờ các cơ quan quân sự địa phương tới tiếp nhận.

Sau vài bữa, đã có nhiều bảng 40X40 cm được tháo gỡ, chỉ còn lác đác vài phòng là còn người đi vào, đi ra. Chắc những người bị gọi tập trung thanh lọc trong những phòng bỏ trống đó đã được các cơ quan quân sự địa phương đem đi hết rồi.
Một hôm tôi đang trên đường từ nhà vệ sinh công cộng trở về phòng Z thì thấy tên cán binh người Hải Hưng đang đứng chờ tôi dưới một gốc phượng đầy xác hoa.
Y ngoắc tay ra dấu cho tôi đi ra đằng sau dãy nhà ngang. Mắt y đảo quanh một cái thật nhanh rồi nhỏ giọng, vừa đủ cho tôi nghe:
– Anh Long à! Nếu anh mà bị đưa về Quân Khu 5 thì khó toàn mạng đó! Có trốn được thì trốn đi! Cố gắng kín miệng, đừng cho ai biết tôi đã nói với anh điều này!
Tôi chưa mở miệng nói được tiếng nào thì y đã hấp tấp phẩy tay đuổi tôi đi.
Suốt ngày hôm đó tôi cứ băn khoăn suy nghĩ. Cứ theo lời tên cán binh này thì chắc chắn tôi nằm trong số những nhân vật đặc biệt mà Quân Khu 5 Cộng Sản nhắm vào.
Chắc chắn tình trạng của tôi và những anh bạn cùng phòng sẽ lành ít dữ nhiều trong những ngày sắp tới.
Tối đó, về tới nhà, nhìn thấy 3 đứa con nheo nhóc, đứa lớn nhất mới 3 tuổi rưỡi, đứa thứ nhì 2 tuổi rưỡi, đứa thứ 3 vừa chập chững biết đi, vợ tôi lại đang mang bầu sắp tới ngày sinh, tôi không dám nghĩ tới chuyện bỏ vợ con mà đi trốn.
Ngày Ban MêThuột thất thủ tôi những tưởng vợ chồng tôi sẽ chẳng còn gặp lại nhau. Trong những ngày khói lửa ở Ban MêThuột, một quả bom từ máy bay thả xuống giữa phố, đứa con gái lớn của tôi đã bị một mảnh bom ghim vào cánh tay. Hơn 2 tháng nay vết thương trên tay con tôi còn đau,mảnh bom còn nằm trong cánh tay nó. Nay mẹ tôi vừa đón được vợ tôi và 3 đứa bé về Sài Gòn chưa được mấy ngày, tôi đã bị cấm túc.
Suy đi, tính lại, dù gì thì hiện giờ đêm đêm tôi vẫn nhìn thấy vợ thấy con, còn hạnh phúc.
Thôi đành kệ! Ai sao mình vậy! Ngày mai muốn ra sao thì ra!
Tuy thế, trong thâm tâm, tôi vẫn lo lắng không yên.
Tôi cũng không dám chia xẻ những gì mà tên cán bộ Việt Cộng đã tiết lộ cho tôi, vì thời buổi này tôi không tin ai, lỡ mình phơi bày tâm tư cho người ta biết, người ta quay sang phản mình, đi tố cáo mình để lập công thì mình chết chắc.
Tuy vậy, tôi thấy trong hoàn cảnh này, chính tôi và những người đồng cảnh của tôi cũng rất cần những sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Trưa hôm sau, vào giờ ăn trưa, trong quán cháo của bà Bền, tôi đứng lên hỏi ý mấy ông bạn cùng phòng:
– Các bác ơi! Nếu bất ngờ tụi mình bị đưa đi chỗ khác thì các bác có cách gì báo tin cho gia đình biết?
Vừa nghe tôi hỏi, ông Huỳnh Thanh Bền đã nói ngay:
– Các ông cứ chuẩn bị sẵn 1 lá thư có địa chỉ gia đình rồi giao cho bà xã tôi cất. Ngày nào mình bị bốc đi thì nhà tôi sẽ chuyển thư của quý vị tới tận nhà để thân nhân quý vị biết mình đã đi khỏi đây rồi.
Anh Thiếu úy Thám Báo Tỉnh bổ sung thêm:
– Tôi có ý kiến là các ông nên viết sẵn một lá thư mở đầu với câu: Nhờ ai nhặt được thư này thì ghi giùm địa danh nơi thư này rơi, rồi gửi nó về địa chỉ của gia đình tôi ở địa chỉ sau đây.. Ða tạ!
Sau đó các ông cuốn lá thư trong một tờ giấy bạc 500. Tới địa điểm mới thì mình đánh rơi thư này. Thấy tiền, người ta sẽ lượm, rồi có thể, người ta sẽ giúp gửi thư đi cho mình, gia đình mình sẽ biết mình bị đưa đến đâu.
Tôi nghĩ thầm:
– Công nhận ông Bổn Răng Vàng này đa mưu thật!
Anh chàng Thiếu úy Bổn là người ăn nói rất lưu loát, miệng anh ta lại có cái răng nanh bịt vàng, quen nhau rồi, tôi cứ gọi anh ấy là “Bổn Răng Vàng”.
Thế là sáng hôm sau trước giờ chúng tôi trình diện ở phòng Z thì trong túi bà vợ ông Huỳnh Thanh Bền đã có 6 lá thư nhắn tin, và trong túi của 7 anh em trong phòng Z đều có sẵn một cuộn giấy tròn như cái pháo tép, bên ngoài lá thư được bao bởi tờ giấy bạc 500 đồng do Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam phát hành.
Một buổi chiều giữa tháng 5, tôi vừa mở khóa chiếc Honda chuẩn bị đi về thì 1 người khách qua đường dừng chân bên quán cháo lòng:
– Ðại ca! Ðại ca!
Tôi quay mặt lại, nhận ra ngay người vừa gọi mình là ông Trung úy Ðại đội trưởng, 1 Ðại Ðội Ðịa Phương Quân của tỉnh Bình Long. Suốt trận Xuân Lộc tháng 4 năm 1975, đơn vị Ðịa Phương Quân của ông này đã nằm dưới quyền chỉ huy của tôi. Tôi và ông trung úy này chia tay nhau chiều 23 tháng 4 tại căn cứ Long Bình.
Ông trung úy người Cái Sắn nắm tay tôi thật chặt:
– Em đi kiếm đại ca cả tuần nay. May quá giờ gặp rồi! Gặp rồi!
Tôi cũng cảm động:
– Chú bình an chứ? Ði đâu đây? Kiếm anh làm gì vậy?
Người đàn em ghé tai tôi thì thầm:
– Ðại ca ơi! Về Cái Sắn với em! Ba ngày nữa tụi mình sẽ vượt qua Cao Miên rồi trốn sang Thái Lan. Em có đường dây đưa đi an toàn trăm phần trăm. Ðại ca đi với em nhé! Gia đình em sẽ trang trải hết mọi phí tổn cho anh em mình!
Thật bất ngờ, nhưng tôi vẫn còn tỉnh trí. Tôi buồn rầu nói:
– Anh không đi được! Tình cảnh gia đình của anh không cho phép! Chú đi một mình đi! Chúc chú thượng lộ bình an!
Từ ấy tôi không rõ người anh em này phiêu dạt nơi đâu. Tôi luôn cầu mong cho chú ấy luôn luôn gặp những điều may mắn.
Vậy là, trong khoảng thời gian không đầy nửa tháng sau chiến tranh tôi đã có những cơ duyên được bạn bè và cả người phía bên kia giúp đỡ. Nhưng tôi đã không dám hành động để tự cứu mình. Thời gian này, hầu như tôi đã xuôi tay, nhìn cái thòng lọng cứ từ từ siết chặt dần quanh cổ mình.

Thế rồi…
Sáng 20 tháng 5 tôi vòng xe sang đường Lê Thánh Tôn để mua một ổ bánh mì thịt, rồi chạy thẳng lên Tòa Ðô Chánh để cho anh Thiếu úy Thám Báo Tỉnh quá giang. Nhà anh này ở trong con hẻm cách Tòa Ðô Chánh chừng 100 thước. Anh này không có xe, cả tuần lễ nay anh ta phải tới Trại Lê Văn Duyệt bằng 2 chặng xe Lamb chuyển tiếp.
3 tuần lễ sau ngày Miền Nam sụp đổ, Tòa Ðô Chánh Thủ Ðô Sài Gòn đã có bộ mặt mới, với lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam to tổ bố cùng toán bộ đội nón cối, dép râu ôm súng AK47 gác trước cổng.
Tới cổng Tòa Ðô Chánh, tôi giảm ga cho xe chạy từ từ theo bảng chỉ đường giới hạn 5 Km/ Giờ.
Ðoàng! Ðoàng! Ðoàng!”
Bất thình lình, 1 tên bộ đội Việt Cộng từ hiên Tòa Ðô Chánh nhảy ra giữa phố.
Tên Việt Cộng này có lẽ là sĩ quan, vì bên hông y có đeo một cái cặp da tòn ten.
Y giơ 1 tay chận xe tôi lại, tay kia giương cao khẩu K54 bắn 3 phát chỉ thiên, miệng la:
– Ðứng lại! Ðứng lại!
Chẳng hiểu chuyện gì, tôi vội răm rắp tuân lệnh của người cầm súng, tấp xe vào lề đường, thắng lại.
Thằng Việt Cộng chĩa súng ngay đầu tôi, rồi nhảy lên, ngồi trên yên sau, miệng y hét lớn:
– Anh khẩn trương chở tôi lên Bộ Tổng Tham Mưu Ngụy! Nhanh lên! Nhanh lên!
Tôi im lìm nhấn chân sang số, xe đi tới.
Chạy được vài chục thước, tôi thấy trước mặt, bên đường, là anh bạn Bổn Răng Vàng, Thám Báo Tỉnh. Tôi đạp thắng cho xe chạy chậm lại, thì thằng Việt Cộng hét to:
– Ði! Ði! Cấm dừng!
Thấy 1 thằng Việt Cộng vừa kê súng vào đầu tôi, vừa la hét oang oang, ông Thiếu úy Thám Báo Tỉnh cũng hoảng hồn, vội vàng bước thối lui vào lề đường.
Thế là tôi phải vặn tay tăng ga cho chiếc Honda vọt lên. Bạn tôi đứng ngẩn người nhìn theo.
Tôi đâu có biết đường nào lên Tổng Tham Mưu? Tôi cứ chạy vòng vo trong khu Yên Ðổ, Hai Bà Trưng hoài.
Thấy thế, thằng Việt Cộng lớn tiếng ra lệnh:
– Anh chạy theo lệnh tôi! Chạy thẳng! Rẽ phải! Rẽ trái! Chạy thẳng! Rẽ phải!
Xe qua cầu Trương Minh Giảng một lúc lâu mới tới Bộ Tổng Tham Mưu…
“Kia rồi! Dừng lại!”
Hóa ra 1 thằng Việt Cộng vừa ra khỏi rừng mấy ngày mà đã thông thuộc đường sá Sài Gòn hơn 1 thiếu tá tiểu đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân Vùng 2 của Việt Nam Cộng Hòa!
Tới cổng sau của Bộ Tổng Tham Mưu, tôi tưởng mình thoát nạn, nào ngờ:
– Anh đỗ xe ở đây! Không được thoái bộ! Chờ tôi họp xong, tôi sẽ quay ra! Nghe rõ chưa?
Y chỉ chỗ cho tôi tắt máy và đậu xe sát vọng gác bên hông của Bộ Tổng Tham Mưu rồi ra lệnh cho mấy tên bộ đội trong điếm canh:
– Tôi giao cho các đồng chí nhiệm vụ quản chế anh này! Giữ anh ta tại đây cho tới khi hội họp xong tôi sẽ trở ra. Nếu anh ta thoái bộ thì các đồng chí cứ việc bắn! Ðừng bắn chết là được! Cứ bắn gãy chân thôi! Nghe rõ chưa?
Tôi ngồi xuống bờ cỏ bên vọng gác, móc túi lấy điếu thuốc Ruby ra hút đốt thời giờ. Tôi hút tới điếu thuốc thứ 3 mà tên cán binh Việt Cộng vẫn chưa ra. Ðã tới 8 giờ, giờ điểm danh của ban tiếp quản Quân Khu 5, mà tên Việt Cộng vẫn chưa ra.
Tôi mon men tới bên vọng gác:
– Anh bộ đội ơi! Ðã tới giờ tôi phải có mặt ở Ủy Ban Quân Quản Thành Phố, tôi có thể đi được không?
“Crách! Crách!” cùng với tiếng lên cò súng là khẩu lệnh:
– Ngồi xuống đó! Cấm di chuyển! Anh mà bước khỏi đây 1 bước là tôi bắn!
Thế là tôi đành ngồi xuống.
Tôi dự trù nếu thằng cán binh ác ôn mà trở ra, tôi sẽ đòi nó ký cho tôi tờ giấy chứng nhận lý do vì sao tôi tới phòng Z trình diện trễ.
Thoáng chốc mặt trời đã tới đỉnh đầu. Sài Gòn tháng 5 trời vừa nắng cháy da, vừa ẩm ướt hầm hầm như đang trông chờ những cơn mưa bóng mây.
Gặm xong ổ bánh mì thịt, tôi thấy cổ khô ran, khát nước. Tôi lại mon men tới bên vọng gác:
– Anh bộ đội ơi! Tôi xin phép đi sang bên kia đường để mua nước uống có được không?
– Ngồi xuống đó! Ði là tôi bắn! Không có nước nôi gì hết! Nghe rõ chưa?
Tới 2 giờ chiều thì bụng tôi căng như cái trống, tôi lại mon men tới bên vọng gác:
– Anh bộ đội ơi! Tôi xin phép vào nhà xí của trại để đi tiểu tiện có được không?
– Cần gì phải vào nhà xí! Anh cứ ngồi xuống vạch cu ra mà đái! Không ai thèm nhìn anh đái đâu!
Cố nín thêm chừng 1 giờ sau nữa, tôi cũng đành phải mở nút quần. Tôi nhắm mắt, đái đại ngay trên lề cỏ bên đường.
Ðồng hồ tay của tôi chỉ đúng 4 giờ chiều thì tên cán bộ mới xuất hiện. Vừa phóng lên yên sau, y đã hối:
– Khẩn trương lên! Họp hành gì mà lâu quá! Tôi đói lắm rồi! Anh mau mau chở tôi về lại Tòa Ðô Chánh! Mau lên! Mau lên!
Trên đường về, thằng Việt Cộng không còn kê súng lên đầu tôi nữa.
Vì đã biết đường đi, nên lúc về tôi không bị lạc. Tới cổng Tòa Ðô Chánh tên cán bộ xuống xe, rồi mở cái cặp da:
– Anh tính tiền xe ôm thuê bao cả ngày hôm nay là bao nhiêu? Tôi sẽ trả cho anh! Anh làm việc có lương tâm lắm! Tôi tuyên dương anh đấy!
Thì ra thằng Việt Cộng này tưởng lầm tôi là 1 anh chạy xe ôm! Tôi nói:
– Anh nhầm rồi! Tôi không phải xe ôm! Nhưng thôi! Anh không cần trả tiền tôi, mà hãy ký cho tôi cái giấy chứng nhận rằng anh đã trưng dụng tôi chạy xe đưa anh đi công tác suốt ngày nay để tôi xuất trình cho Ủy Ban Quân Quản Thành Phố.
Nghe tôi nói, tên cán bộ hơi ngẩn người ra 1 giây, rồi nhẹ giọng:
– Vậy thì xin lỗi anh nhé! Ðược rồi! Tôi sẽ ký giấy làm chứng cho anh.
Nói xong, y mở cái cặp da, rút ra một quyển sổ công lệnh của Quân Khu 7, tờ nào cũng có con dấu đỏ chót.
Y xé một tờ rồi ghi trên đó mấy chữ:
“Chứng nhận đã sử dụng nhân công này từ 8 giờ sáng tới 5 giờ chiều ngày 20 tháng 5 năm 1975”.
Y ký tên rồi đưa tờ công lệnh cho tôi,
– Ði đi! Yên chí sẽ không có ai làm khó dễ anh đâu!
Quá 5 giờ chiều tôi mới tới cái lều bán cháo lòng của chị Bền. Thấy tôi, chị Bền lo lắng hỏi:
– Ủa! Sao giờ này chú mới tới? Trưa nay anh Bền và mấy ông phòng “ZÉT” không ra ăn cơm. Chú vào trong đó xem có gì lạ thì ra báo cho chị hay.
Tôi khóa xe rồi đi vào trại. Khu doanh trại của bộ đội vẫn sinh hoạt bình thường. Dãy nhà ngang là khu tiếp quản chỉ còn một phòng Y là có người. Phòng Z cửa cũng mở toang, cái bảng carton 40X40 cm có chữ “Z” đã bị gỡ bỏ, trong phòng không thấy bóng dáng ai.
Tôi ghé phòng Y hỏi thăm 1 người đàn bà đang ngồi trước cửa:
– Chị ơi! Chị làm gì ở đây? Sao hôm nay phòng nào cũng trống không vậy chị? Bà con đi đâu hết rồi?
Người nữ quân nhân (hay công chức) trả lời:
– Tôi là nhân viên của Ty Cảnh Sát tỉnh Bình Thuận bị tập trung ở phòng Y. Hôm nay xe đã tới chở các ông, các bà ở mấy phòng khác đi sạch trơn. Cán bộ canh gác cũng lên xe đi hết, chỉ 4 người của Quân Khu 6 chúng tôi còn ở đây thôi anh ơi!
– Mấy người ở phòng “Zét” đi lúc nào vậy chị?
– Mấy ông phòng “Zét” tập trung từ sáng sớm, mãi tới hơn 3 giờ chiều họ mới bị còng tay đưa lên xe, chẳng biết đi đâu.
Phòng Y và phòng Z ở sát vách nhau, vậy mà cả tuần lễ sau tôi mới biết phòng Y chứa những người bị gọi tập trung theo lệnh của Quân Khu 6.
(Quân Khu 6 gồm các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy).

Tôi cám ơn chị nữ công chức Việt Nam Cộng Hòa rồi lên văn phòng chính của trại để hỏi cho rõ sự tình. Ngay cửa vào, tôi chạm mặt 1 cán bộ người Nam.
Vừa nghe tôi xưng danh, hắn đã hét lên:
– Anh là Vương Mộng Long hả? Anh đi đâu mà giờ này mới vác mặt tới đây? Xe của Quân Khu 5 chờ anh cả nửa ngày mà không thấy anh, họ đã khởi hành rồi! Anh đúng là thằng phá hoại!
La hét xong, y quay vào trong ra lệnh:
– Ðồng chí trực trại đem thằng này đi nhốt cho tôi!
Thế là tôi bị còng hai tay dẫn tới góc rào, tống vào cái điếm canh bỏ trống nằm đằng sau một cái lô cốt lớn bên phải cổng trại.
Tới 6 giờ chiều thì kẻng tan sở gióng lên. Mấy người bị quản thúc trong phòng Y lần lượt theo nhau đi ra cổng.
Trong khi đó tôi ngồi bên song sắt ngó ra ngoài. Tôi không biết những bạn bè cùng phòng Z của tôi đã bị đem đi đâu. Nhưng cứ nghĩ tới câu nói mà tên cán bộ người Hải Hưng đã nói với tôi: “Nếu anh mà bị đưa về Quân Khu 5 thì khó toàn mạng đó! Có trốn được thì trốn đi! Cố gắng kín miệng, đừng cho ai biết tôi đã nói với anh điều này!”
Tôi thấy số mình còn hên. Có khi phải bất đắc dĩ chạy xe ôm không công 1 ngày mà tôi đã được toàn mạng cũng nên.
Ðúng 6 giờ 5 phút, tên cán bộ đã ra lệnh nhốt tôi chợt đi xăm xăm tới cửa điếm canh:
– Anh đã cơm nước gì chưa? Nếu đói thì chờ đó! Chút nữa sẽ có người đem cơm cho anh ăn.
Chợt nhớ tới cái giấy chứng nhận của tên Việt Cộng ở Tòa Ðô Chánh, tôi nói với tên cán bộ,
– Hôm nay tôi tới trễ là có lý do! Cán bộ hãy mở còng tay để tôi lấy bằng cớ cho cán bộ coi.
Ðọc xong những chữ viết và săm soi kỹ cái dấu mộc đỏ, y gật gù:
– Tôi sẽ giữ cái giấy chứng nhận này. Bây giờ tôi cho phép anh về. Sáng mai đúng 8 giờ anh phải tới trình diện tôi trong phòng trực.
5 phút sau tôi ra tới cổng, chị Bền đang chờ tôi, mặt chị không giấu nổi nỗi âu lo:
– Chuyện gì vậy chú?
Tôi vắn tắt kể cho chị biết lý do vì sao tôi tới trễ và lặp lại những lời người nữ Cảnh Sát tỉnh Phan Thiết đã nói với tôi cho chị nghe.
Ngày 21 tháng 5 tôi gửi xe sau quán của chị Bền rồi vào văn phòng chính của trại. Ở đây đã có 4 người, 3 nam, 1 nữ của phòng Y ngồi chờ sẵn.
5 chúng tôi là những người còn sót lại sau cùng của đợt tập trung ngày 11 tháng 5 năm 1975 của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn, Gia Ðịnh.
Sau này tôi mới hay, hôm qua, 20 tháng 5 là thời hạn chót để các đơn vị địa phương tới tiếp nhận người.
9 giờ sáng chúng tôi được lệnh lên xe. Tôi lựa 1 chỗ ngồi bên trái, đằng sau xe để khi ra tới đường Lê Văn Duyệt tôi có thể vẫy tay báo hiệu cho chị Bền.
Xe vừa ra tới cổng, tôi đã thấy chị Bền và đứa con gái lớn của chị đứng bên lề vẫy tay. Tôi chắc mẩm rằng, thế nào chiều nay gia đình tôi cũng sẽ nhận được tin tôi bị đưa đi xa rồi.

Chúng tôi được chở đi quanh co một hồi rồi đậu trước khám đường Chí Hòa.
Tên cán bộ trưởng toán ra lệnh cho chúng tôi xuống xe rồi dẫn chúng tôi đi vòng vòng 1 lúc sau thì chui vào 1 cái sân cỏ nhỏ. Y bảo chúng tôi đứng chờ nơi sát cổng, còn y thì ôm một tập hồ sơ đi vào phòng trực.
Tôi thấy dưới hiên 1 dãy nhà có vài người đứng chen chúc nhau. Trong số những người đang đứng lố nhố đó,tôi nhìn mặt được 3 ông Biệt Ðộng Quân là Hồ Văn Hòa, Lương Ðình Chi và Nguyễn Hiệp. Tôi giơ tay vẫy họ, họ vẫn tỉnh bơ, có lẽ họ không nhận ra tôi.
Sau 10 phút đợi chờ, tên cán bộ trưởng đoàn hối hả đi ra, y ngoắc tay cho chúng tôi đi theo.
Tới xe, y lớn tiếng nói với tên Việt Cộng tài xế:
– Hết chỗ rồi! Chúng nó không nhận! Mình đi Quang Trung!
Xe nổ máy chạy ra ngoại ô Sài Gòn, hướng về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Tới cổng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung tên cán bộ trưởng đoàn lại lếch thếch ôm cái cặp đi vào.
Lần này chúng tôi không được xuống đất, mà phải ngồi yên tại chỗ.
10 phút sau thằng Việt Cộng lại đi ra, lại ban lệnh cho thằng tài xế:
– Hết chỗ rồi! Chúng nó không nhận! Mình về Hoa Lư!
Trưa hôm đó chiếc GMC chở chúng tôi ngừng bánh trước 1 tòa nhà khá lớn nằm đối diện với sân vận động Hoa Lư trên đường Ðinh Tiên Hoàng. Vị trí này là cơ ngơi của một bộ gì đó tôi không nhớ, nay là chỗ đóng quân tạm thời của một đơn vị trực thuộc Quân Khu 7 Cộng Sản. Trước sân có vài chiếc xe quân sự đang đậu.
Tên cán bộ dẫn giải ôm cặp hồ sơ đi vào cổng, 10 phút sau lại đi ra.
Lần này y cho chúng tôi xuống xe. Chỉ tay về hướng căn phòng cuối dãy nhà, y ra lệnh:
– Các anh chị vào nghỉ trong đó, chờ phương tiện đi Quân Khu Ngoài!
Tôi nghĩ: “Quân Khu Ngoài chắc là Quân Khu 5 và Quân Khu 6”.
Ngay khi đó, 2 cán bộ Việt Cộng khác từ sau khu dinh thự tiến ra vẫy tay gọi tên trưởng toán dẫn giải; rồi cả 3 chụm đầu vào nhau bàn tán.
Mấy phút sau, 3 tên này vừa nhìn về phía chúng tôi vừa viết viết, ký ký cái gì đó trên 1 mảnh giấy.
Cuối cùng, 1 thằng già Nghệ Tĩnh bước tới trước mặt chúng tôi. Y hắng giọng “khạc! khạc!” vài ba cái rồi nói:
– Tôi đã ký nhận danh sách của các anh chị. Các anh các chị cứ ở tạm đây. Hôm nào có người ở Quân Khu Ngoài vào nhận, tôi sẽ cho các anh các chị đi. Bây giờ các anh các chị có thể về nhà, sáng mai đúng 8 giờ phải có mặt ngay chỗ này!
Nghe được câu này, tôi khoan khoái thở ra: “Thế là chưa sao! Chưa sao!”
Xế chiều, tôi mò về tới quán của chị Bền. Tôi kể cho chị hay diễn biến chuyện đã xảy ra trong ngày. Chị gật gật đầu:
– Như vậy chú còn hên hơn anh Bền! Không rõ giờ này anh Bền ở đâu? Chắc không lâu nữa chú sẽ bị chở đi gặp anh Bền. Gặp anh Bền, chú nhớ nói với anh ấy rằng, vợ con anh ấy suốt ngày cầu Trời Phật phù hộ, độ trì cho anh ấy. Vợ con anh ấy vẫn mong đợi từng ngày để gặp lại anh ấy!
Chị Bền đưa hai bàn tay lên vuốt mặt, nước mắt đã rơi, chị tôi không nói thêm được lời nào nữa…
Hôm đó tôi về tới nhà sớm hơn mọi ngày. Vợ chồng con cái chở nhau trên chiếc Honda đi quanh phố một vòng mà thấy trong lòng thật là vui, quên hết muộn phiền, lo âu.

Từ ngày 22 tháng 5 tôi không còn dùng Honda để làm phương tiện di chuyển nữa; tôi tới sân vận động Hoa Lư theo 2 tuyến đường xe Lamb. Vì nếu tôi tiếp tục dùng Honda mà bất chợt người ta bắt tôi đi, thì gia đình tôi làm sao hay biết mà đi tìm xe? Vả lại cái sổ chủ quyền của chiếc xe lúc nào cũng phải nằm trong túi người lái nó. Lái xe mà không có sổ chủ quyền, gặp các trạm kiểm soát giao thông thì xe sẽ bị tịch thu ngay. Người nhà có tìm ra xe mà không có sổ chủ quyền thì cũng bó tay. Trong thời gian gửi xe ở quán cháo lòng của vợ anh Bền, tôi cũng gửi chị Bền cái sổ chủ quyền chiếc Honda của tôi.
Ðược cái là vấn đề kiểm soát giờ giấc của bọn Việt Cộng này cũng rất dễ dãi, không chút khắt khe. Chúng tôi có tới trễ, tới muộn nửa giờ, một giờ, cũng không ai làm khó dễ gì.
Hàng ngày chúng tôi chỉ cần có mặt ký tên trên sổ điểm danh một lần, rồi muốn đi đâu thì đi, lâu lâu lại tạt về phòng cho có mặt.
Gần tới cuối tháng chúng tôi có thêm 2 ông bạn mới. 2 ông này là 2 ông thiếu tá khóa 10 Ðà Lạt; 1 ông làm Trưởng ty Cảnh Sát, 1 ông làm Trưởng ty Chiêu Hồi. Chẳng rõ các ông này do cơ quan nào mang tới gửi ở đây. Chắc 2 vị này cũng là những người đang chờ bị bốc đi như chúng tôi.
Mãi 2 ngày sau tôi mới biết ông Trưởng ty Cảnh Sát tên là Nguyễn Hồ Ðịch, còn ông Trưởng ty Chiêu Hồi tên là Trần Hướng Trung.
Một buổi trưa tôi rủ 2 ông đàn anh Võ Bị tản bộ ra ngã tư ăn bún bò. Khi chúng tôi quay về thì thấy 4 người Quân Khu 6 đang tụ họp trong văn phòng để làm việc gì đó. Lúc trở ra mặt người nào người nấy đều có vẻ tươi vui. Chúng tôi đang chuẩn bị đi về, nên không kịp hỏi han xem có chuyện gì đã xảy ra. Sáng hôm sau thì 4 người bạn này không xuất hiện nữa.
Thấm thoát đã qua đầu tháng 6, qua tin truyền đi trên Truyền Thanh và Truyền Hình thì Ủy Ban Quân Quản Thành Phố đã ra thông cáo rằng sĩ quan cấp thiếu tá trở lên sẽ phải trình diện đi học tập cải tạo tại vài địa điểm trong Sài Gòn.
Tên Việt Cộng thường ngồi nhận chữ ký hằng ngày của chúng tôi cho chúng tôi biết rằng từ nay Quân Khu 7 sẽ không cho phép các Quân Khu khác tới nhận người nữa. Như thế là chúng tôi không còn phải lo lắng chuyện sẽ bị chuyển giao cho các Quân Khu Ngoài.
Y nói, chúng tôi chỉ cần có mặt ở đây vào ngày các lớp học tập khai giảng thì đơn vị này sẽ cung cấp phương tiện để đưa chúng tôi tới trường, tới lớp. Y nhắc nhở chúng tôi nhớ chuẩn bị đem theo áo quần cùng những vật dụng cần thiết như kem đánh răng, bàn chải để tiện dùng trong thời gian 1 tháng học tập xa nhà.
Cũng từ ấy, chúng tôi có thể chia phiên nhau, 1 người có mặt, 2 người kia ở nhà. 3 chúng tôi đều biết địa chỉ của nhau. Do đó, người trực có thể đi kêu 2 người kia nếu có chuyện gì cần gấp.
Tên cán bộ quản chế cho chúng tôi biết rằng các trung tâm sẽ nhận người đăng ký từ ngày 13 tới 15 tháng 6 năm 1975. Chúng tôi sẽ được chở tới trung tâm vào ngày cuối, tức là 15 tháng 6 để khỏi phải chờ lâu tại trung tâm trước khi tới địa điểm học tập.
Ðúng 12 giờ trưa ngày 15 tháng 6 năm 1975 tôi và 2 ông đàn anh được đưa lên xe để di chuyển tới các trung tâm tiếp nhận.
Xe chạy thẳng một lèo tới Trường Trung Học Lasan Taberd thì ngừng, tôi bị gọi xuống. Tên cán bộ hướng dẫn đem tôi vào văn phòng của trường, giao nạp tôi cho 1 sĩ quan Cộng Sản.
Cầm cái biên nhận tù binh, tên cán bộ dẫn giải bắt tay tôi rồi nói:
– Mừng anh! Chúc anh học tập tốt, lao động tốt để sớm về sum họp với gia đình.
Sau đó tôi được 1 tên bộ đội dẫn lên lầu để nhập bọn cùng vài sĩ quan cấp thiếu tá đã trình diện sáng nay; vì vậy tôi không rõ 2 ông thiếu tá khóa đàn anh của tôi bị đưa tới trung tâm nào. Mãi tới 6 năm sau, 1981, tôi mới gặp lại 2 vị này ở Trại Z30C Hàm Tân, Thuận Hải.

Từ 15 tháng 6 năm 1975 tôi bắt đầu 1 chuyến đi xa dài ngày…
Nửa năm đầu, từ tháng 6 năm 1975 tới giữa tháng 10 năm 1975 tôi bị giam tại trại Long Giao. Qua 1 tháng sống đời tù đày, tôi bắt đầu có ý định vượt ngục. Tôi đã bàn chuyện trốn trại cùng 2 ông thiếu tá cựu quận trưởng, nhưng giờ chót 2 ông này thối chí, nên tôi đành phải hủy bỏ mưu đồ.
Nửa năm kế đó tôi bị chuyển về trại giam Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòa, chờ ngày bị đưa ra Bắc. 2 tuần lễ sau ngày bị đưa ra đất Bắc, nửa đêm 8 tháng 8 năm 1976, tôi vượt ngục lần đầu. Trải qua 10 ngày lặn lội trong rừng dưới cơn bão số 6, tôi và người bạn đồng hành bị bắt lại, bị cùm, bị đánh đập, khảo tra, rồi được cho về Ðội 11, Trại 4, Liên Trại 4 để tiếp tục lao động.
Một hôm trời giăng giăng mưa phùn, tôi và bạn tù đi cấy lúa vần công cho Thôn Nam Xã Cẩm Nhân, Yên Bình, Yên Bái thì thấy 2 ông tù cải tạo khiêng một cái võng có người nằm bên trong.
Cái võng được phủ bằng chiếc mền Trung Cộng màu đỏ. Theo sau cái võng là 1 ông tù đeo cái balô, có lẽ trong balô là tài sản của người nằm trên võng.
Có một vệ binh Việt Cộng đeo AK đi canh chừng đằng sau ông tù đeo balô. Chắc mấy người này đang đưa 1 ông tù bệnh nặng lên bệnh xá của liên trại để chữa trị.
Tôi ngừng tay cấy, lớn tiếng hỏi:
– Ê! Ai đó? Các cha?
Ông tù mang ba lô liền lớn tiếng đáp lời:
– Tước! Tước rằn ri!
– Phải Nguyễn Ðỗ Tước Biệt Ðộng Quân không?
– Ðúng rồi!
– Bệnh gì vậy?
– Kiết lỵ!
Chiều hôm đó cái võng lại quay về, vẫn có chiếc mền đỏ Trung Cộng phủ bên trên.
Tôi lại hỏi:
– Hết bệnh chưa?
Ông tù mang ba lô lại đáp lời:
– Chết rồi!
Tôi chỉ còn biết ngậm ngùi đứng nhìn theo bóng chiếc mền đỏ đi xa dần về hướng Trại 8 nơi Ðèo Lũng Ngàn.
Ngày xưa, trước tôi, Trung tá Nguyễn Ðỗ Tước đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân ở Pleime.
Tết Dương Lịch 1978 vừa đi qua thì tôi vượt ngục lần thứ 2. Sau 2 tháng lặn lội trong rừng, chưa vượt khỏi biên giới Việt Lào, tôi lại bị bắt.
Thất bại lần này, qua những trận khảo đả dã man của kẻ thù mà tôi không thành người tàn phế cũng là nhờ phúc đức ông bà đã che chở cho tôi.
Năm 1981 tôi bị chuyển trại về Nam, trại tù mới có tên Z30C Hàm Tân, Thuận Hải.
Rồi một sớm tinh mơ cuối năm 1984 tôi vượt ngục lần thứ 3.
Vừa nhảy khỏi rào trại, tôi đã bị 1 vệ binh túm được.Lạ lùng 1 điều là thằng Việt Cộng này đã không bắn tôi, không bắt tôi, mà chỉ xua tay ra dấu cho tôi chui vào sân trại trở lại.
Ghìm súng trước ngực tôi, y ra lệnh:
– Anh Long không được đi! Trong giờ tôi gác mà anh trốn thoát thì tôi sẽ vào tù thay anh! Vào đi! Vào đi! Anh không chịu chui vào thì tôi phải bắn!
Nghe thế, tôi bèn nhanh nhẹn chui vào trong rào trở lại. Ai ngờ, 1 tuần lễ sau ngày đó thì tên Công An vệ binh Việt Cộng này đã cùng 1 ông tù cải tạo rủ nhau vượt biên. Họ trốn trong khi tên Công An dẫn ông cải tạo viên đi kiếm củi! Có lẽ 2 người này đã an vui sinh sống trên đất Hoa Kỳ.
Cuối năm 1985 tù cải tạo trại Z30C được tha gần hết. Gần chục người sau cùng, trong đó có tôi, bị chuyển sang trại Z30D cũng ở Hàm Tân, Thuận Hải; trại này còn có tên là Trại Thủ Ðức. Tôi gặp lại ông Lương Ðình Chi và anh Huỳnh Cẩm Lường ở trại này.
Tại đây, chúng tôi tiếp tục bị cưỡng bức lao động cật lực cả ngày lẫn đêm.
Khoảng trung tuần tháng 12 năm 1987,sau 1 ngày làm công tác đào ao thông tầm, ông Lương Ðình Chi tìm gặp tôi trong sân. Ông Chi ôm ngực, nhăn nhó:
– Long ơi! Nhờ chú cạo gió cho anh. Ngực anh đau quá, thở không được.
Tôi dẫn ông về phòng, nhờ bác Mậu già trực buồng xoa dầu, cạo gió, nắn xương cho ông.
Hôm sau ông Chi được cho vào nằm trong bệnh xá, không phải đi lao động. Bệnh tình của ông Chi ngày một tăng, ông không ăn được, không thở được. Trước lễ Giáng Sinh năm 1987 thì Việt Cộng cho ông Chi về điều trị tại gia; sang năm 1988 tôi cũng được thả.

Tôi được về, nhưng anh bạn Trung sĩ Thông Dịch Viên Huỳnh Cẩm Lường của tôi vẫn còn bị giữ trong trại.

Về tới nhà hôm trước, hôm sau tôi tới góc đường Nguyễn Biểu, Trần Hưng Ðạo để thăm ông bạn già Lương Ðình Chi, ông Chi đang nằm liệt giường, liệt chiếu. Tháng sau thì ông Chi qua đời.
Cũng trong thời gian này tôi tái ngộ cựu Thiếu tá Biệt Ðộng Quân Hồ Văn Hòa, anh Hòa đang làm chủ một xe bán nước sinh tố trên đường Lê Thánh Tôn.
Anh Hòa cho tôi hay rằng ngay tối 11 tháng 5 năm 1975 anh và vài chục người khác bị đưa xuống tàu thủy chở ra Côn Ðảo. Không biết vì lý do gì nửa đường, tàu có lệnh quay trở lại.
Về lại Sài Gòn, anh Hòa bị đưa vào Lao Xá Chí Hòa chờ ngày đưa đi cải tạo. Vì lý do đó mà sáng 21 tháng 5 năm 1975 tôi đã nhìn thấy anh ta đứng trong hiên Chí Hòa.
Tới năm 1988, bạn bè mà tôi gặp trong sân Biệt Khu Thủ Ðô ngày 11 tháng 5 năm 1975 chỉ còn rất ít.
Trong suốt 13 năm, từ 1975 tới 1988, trải qua bao nhiêu trại giam; ở đâu tôi cũng cố tìm tin tức những người bạn đã cùng tôi có mặt trong phòng “Zét” ngày xưa. Nhưng tới ngày tôi rời trại tù, 6 ông bạn của tôi vẫn bặt vô âm tín.


Ít lâu sau ngày về tôi đạp xe qua khu doanh trại cũ của Biệt Khu Thủ Ðô để xem quán cháo lòng của bà vợ ông Huỳnh Thanh Bền có còn ở đó hay không.

Thời 1988 khu vực này vẫn chưa có nhiều thay đổi, lều quán bên đường vẫn y nguyên, phố xá có vẻ còn tiêu điều hơn là trước ngày tôi bị dẫn lên xe đưa đi khỏi nơi đây.
Quán cháo lòng ngày xưa được che bằng 2 cái poncho ghép lại, nay được thay bằng một tấm vải nhựa dày. Nồi cháo bốc hơi ngày xưa nay được đổi thành nồi xôi đậu xanh, cũng bốc hơi.
Tôi thấy người ngồi sau cái bàn vuông có 2 cái ghế con là 1 bà già gầy guộc tóc bạc phơ. Nhưng tôi đoan chắc rằng người đó là vợ ông Trung sĩ Huỳnh Thanh Bền.
Thấy tôi dừng xe chị Bền ngước mắt hỏi:
– Ông khách cần mấy gói xôi? Muốn gói muối đậu chung với xôi hay là gói riêng?
Tôi ân cần:
– Chị Bền! Chị không nhận ra em sao? Long đây chị!
Nghe vậy, chị Bền giật mình trợn mắt:
– Cái gì? Ông khách là chú Long hả?
Tới lúc nhận ra tôi rồi, chị Bền bật khóc:
– Em về rồi hả? Em về lúc nào vậy? Em có gặp anh Bền không?
– Em mới về mấy ngày thôi! 13 năm nay, đi tới trại nào em cũng dò hỏi, nhưng không có tin tức gì của anh Bền cả. Còn chị, từ ấy tới giờ chị có đi tìm anh không? Có nghe ngóng được gì không?
Chị Bền kéo cái ghế con cho tôi ngồi, rồi lấy tấm vải nhựa phủ lên trên gánh xôi, làm như đã dẹp cửa hàng, không tiếp khách nữa:
– Chuyện dài lắm chú ơi! Ðể chị từ từ kể cho chú nghe.
Chị Bền bắt đầu kể chuyện bằng những âm thanh nghẹn ngào chan bằng những giọt nước mắt.
Trong gần 1 giờ đồng hồ tôi đã được nghe toàn bộ câu chuyện đi tìm chồng của Chị Bền.
Thì ra từ khi bị chuyển đi, tôi đã lấy lại cái thư mà tôi đã gửi chị Bền, nên chị không còn địa chỉ nhà tôi, do đó chị không biết tìm cách nào mà liên lạc được với vợ con tôi.
5 cái thư của những bạn phòng “Zét” đã được con gái anh Bền gửi đi ngay sau ngày các anh ấy lên xe. 4 gia đình nhận thư đã không hồi âm, riêng người vợ của Thiếu úy Bổn mãi 3 tháng sau mới liên lạc với con gái anh Bền.
Trong thư, chị Hà, vợ anh Bổn đã hẹn ngày để vào thăm chị Bền. Hôm đó chị Bền không ra quán, ở nhà đón chị Hà.
Chị Hà không đội khăn tang, nhưng ghim trên ngực áo một miếng vải đen, đó là dấu hiệu chị có thân nhân vừa quá vãng.
Bước vào nhà, chưa kịp ngồi xuống ghế, chị Hà đã vừa mếu máo vừa nói:
– Các anh ấy chết hết rồi! Các anh ấy bị xử tử, trôi sông hết rồi!
Nghe được câu này thì vợ Trung sĩ Huỳnh Thanh Bền ngã ra ngất xỉu. Cạo dầu, đánh gió cả giờ sau mà chị Bền vẫn phải nằm trên giường không dậy nổi.

Chị Hà đành kể tiếp phần sau câu chuyện cho cháu Thoa nghe.
Thì ra cơ mưu thả thư rơi của ông Thiếu úy Thám Báo đã không thành công. Những cái pháo tép có vỏ ngoài quấn bằng những tờ giấy bạc 500 đồng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam phát hành đã bị tịch thu ngay khi các ông bạn tôi vừa đứng vào hàng tập họp trong sân để kiểm tra an ninh trước khi lên xe.
Chiếc Molotova chở 6 ông phòng “Zét” đã chạy thâu đêm và suốt ngày hôm sau thì tới Qui Nhơn. Họ được giao cho Ủy Ban Thanh Lọc của Quân Khu 5.
Ngày kế đó, họ bị đưa vào 1 khu vườn cây cối um tùm, nằm sát bờ sông Lại Giang gần chân cầu xe lửa Bồng Sơn. Nơi này có mấy dãy nhà tôn vách ván kín mít. 6 người bị trói tay và bị nhốt trong 1 căn phòng tối như bưng. Phòng giam này do 3 cán binh Việt Cộng luân phiên canh giữ suốt đêm ngày.
Liên tiếp 1 tuần lễ, ngày nào họ cũng bị áp giải lên 1 phòng chứa đầy dụng cụ tra tấn để các chuyên viên khai thác thẩm vấn và chấp cung.
Qua ngày thứ 8 thì 6 ông cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã kiệt lực, không ai đứng dậy nổi. Ngày thứ 9 họ được ở yên trong phòng.
Tới tối ngày thứ 10 thì có 4 tên Việt Cộng từ Ủy Ban Thanh Lọc Quân Khu 5 tay thủ AK 47 lầm lì xuất hiện trước phòng giam.
Bọn này gọi tên, ra lệnh cho người tù lớn tuổi nhứt là Trung sĩ Huỳnh Thanh Bền bước ra ngoài.
Tới cửa, trước khi bị dẫn đi, ông Bền bị trói chặt hai tay bằng một sợi dây dù, hai mắt ông bị bịt bằng một vuông vải đen, miệng ông bị nhét một cái giẻ to.
Rồi cứ thế, mỗi tối phòng giam lại hụt đi một người. Anh Thiếu úy Thám Báo Tỉnh là người bị trói tay, bịt miệng, bịt mắt dẫn đi sau cùng.
Chị Hà biết được chuyện này là do 1 trong 3 tên cán bộ Cộng Sản canh giữ phòng giam kể lại cho chị nghe. Y là người đã chứng kiến những gì đã xảy ra từ ngày đầu tới ngày cuối.

Số là, khi ra đi, anh Bổn đã chuẩn bị sẵn 10 cái khoen vàng một chỉ. Anh luồn những cái khoen vàng đó trong lưng quần. Sau khi bị khảo đả ngày đầu, anh Bổn vội rút hết vàng ra mua chuộc 1 tên cán bộ bảo vệ. Tên này cùng quê Phú Phong, Bình Ðịnh với anh Bổn. Y đã cố gắng giúp anh khai bệnh tiêu chảy lúc nửa đêm. Anh được đưa ra bờ sông để đại tiện; thừa dịp này anh có thể nhảy xuống nước mà lặn đi. Nhưng mỗi lần anh ra ngoài, đều có 2 vệ binh đi theo. Tên vệ binh thứ nhì đã ranh ma, cột chặt một tay anh vào cổ tay nó, do đó đã có 2 dịp may ngồi bên bờ nước mà anh Bổn vẫn không trốn được.
Vài ngày sau, biết mình đã cùng đường, anh Bổn kể hết mọi chuyện đã xảy ra từ ngày anh bị tập trung ở Sài Gòn cho tới ngày anh bị đưa về Bình Ðịnh cho tên Việt Cộng gốc Phú Phong nghe. Anh cho y địa chỉ gia đình anh ở Qui Nhơn và viết mấy chữ nhắn người nhà anh đền ơn cho y, nếu y tìm tới gặp vợ anh và kể cho chị ấy biết hết sự tình. Thời gian này chị Hà đang ở nhà cha mẹ đẻ trong thành phố Qui Nhơn.
Một tuần lễ sau ngày anh Bổn bị trôi sông, tên cán bộ người Phú Phong đã tới nhà gặp chị Bổn.
Tên Việt Cộng kể rằng ngày cuối cùng chỉ còn một mình anh Bổn trong phòng, anh vẫn bình tĩnh như thường, anh nhờ y nhắn với chị Hà một câu:
“Kiếp này duyên tình của vợ chồng mình nửa đường đứt đoạn, đôi ta chỉ biết hẹn gặp nhau ở kiếp sau!”
Y cũng tiết lộ cho chị Hà biết lý do vì sao mỗi đêm Ủy Ban Thanh Lọc Quân Khu 5 chỉ đem 1 người đi bắn rồi đạp xác xuống sông Lại Giang.
Sở dĩ nhà cầm quyền Việt Cộng chọn cách giết từng người như thế chỉ với mục đích tránh tai mắt của ngư dân quanh vùng. Lại Giang là con sông lớn, nước chảy không ngừng, nên chỉ vài giờ sau khi bị ném xuống nước, xác người bị thủ tiêu đã trôi tới biển Ðông.

Nghe xong chuyện 6 anh em phòng «Zét» bị thủ tiêu, gia đình chị Hà đã bỏ công thuê người đi dò dẫm hỏi thăm dân cư ngụ hai bên bờ Lại Giang từ cầu Bồng Sơn ra tới cửa biển An Dũ xem có xác chết trôi nào nổi lên không?
Cả tháng sau không tìm thấy dấu tích gì, gia đình chị Hà đành bỏ cuộc. Tới tháng thứ 3, chị Hà mới vô tình lục ra cái thư của bà chị anh Bổn gửi ra từ Sài Gòn, từ đó chị Hà có địa chỉ của vợ anh Bền.
Từ sau lần gặp mặt đó, bẵng đi 1 thời gian dài, tới cuối năm 1979 chị Hà lại tái xuất hiện. Lần này chị tới từ biệt chị Bền để ra đi theo chương trình xuất cảnh bán chính thức. Chị Hà bước thêm bước nữa. Chồng mới của chị là một ông lớn tuổi, người Việt gốc Hoa.
Chị Bền cho tôi hay cháu Thoa đã có gia đình, chồng cháu là con 1 ông đại úy chế độ cũ, ông ấy đã được tha về từ năm 1981. Chồng cháu Thoa đã nhiều lần bỏ công sức đi tìm người tù có tên Huỳnh Thanh Bền qua những trại giam của Quân Khu 5 như Tiên Lãnh, Bình Ðiền, Gia Trung, Thuần Hạnh, Củng Sơn… vân vân, nhưng vô vọng.
Có một lần, vào năm 1982, gia đình cháu Thoa được tin ông Bền bị giam ở Trại Z30 A nơi Ngã Ba Ông Ðồn và đang nằm chờ chết vì bịnh sốt xơ gan. Cả nhà ông Bền, gồm cả con trai, con gái, con rể, cùng với 2 đứa cháu ngoại, kéo nhau lên Ngã Ba Ông Ðồn để xin gặp mặt ông lần cuối. Nhưng tiếc thay, khi gặp nhau mới vỡ lẽ ra, ông Huỳnh Thanh Bền này chỉ là 1 người trùng tên, trùng họ với ông Bền ở phòng «Zét» của trại Lê Văn Duyệt mà thôi.
Thời gian sau khi tôi được thả thì tất cả tù nhân cải tạo còn lại đều bị tập trung về trại Z30D, ở Hàm Tân. Tôi nói với cháu Thoa hãy lên đây hỏi thăm xem có ai tên là Huỳnh Thanh Bền hay không.
Chỉ 1 tuần sau tôi gặp lại chị Bền, chị gạt nước mắt rồi nói với tôi:
– Chú ơi! Chẳng có ai tên Huỳnh Thanh Bền ở trại này!
Bận rộn công việc làm ăn kiếm sống, nhưng tôi và 1 anh bạn gốc Thủy Quân Lục Chiến vẫn lâu lâu ghé thăm chị Bền.
Gặp 2 đứa em, chị vui mừng ra mặt, nói đủ thứ chuyện.
Chị kể rằng ngày xửa, ngày xưa chị và anh Bền là con của 2 ông địa chủ ở Cần Thơ. 2 ông địa chủ gả con, cưới vợ cho con mà chẳng thèm hỏi ý kiến con.
Hai cô chiêu, cậu ấm này đều là dân học trường Tây, trường Ðầm, nhưng vẫn nghe lời phụ mẫu: “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó!”
Chị kể cho tôi nghe chuyện đám cưới nhà quê diễn ra như thế nào.
Chị nói, ngày đưa dâu chị lo sợ lắm. Chị không biết ông chồng mình dáng dấp cao, thấp, béo, gầy, ra sao, tính tình hiền lành hay hung dữ, rồi chị che miệng cười:
– Vậy mà chỉ ít lâu sau khi thành vợ, thành chồng, tụi này đã thương nhau dứt ra không nổi.
Chị tâm sự:
– Ảnh là tri kỷ của tui, còn tui cũng là tri kỷ của ảnh! Ảnh Solo Guitar hay lắm! Nhưng ảnh chỉ đờn cho mình tui nghe thôi! 2 đứa tui cứ tự ví mình như Bá Nha, Tử Kỳ. Ngày đám cưới, mẹ ảnh có cho tui 1 cành thoa bằngvàng, ảnh nói sau này có con gái thì ảnh sẽ đặt tên nó là cây trâm vàng để nhớ mẹ anh ấy. Vì thế, đứa con gái đầu của tụi tui có tên là Kim Thoa…

Một hôm, tôi ghé thăm, chị cho tôi hay thằng con trai và đứa con gái út mới về làm ăn dưới CầnThơ, quê nội, còn chị thì dọn về ở với gia đình cháu Kim Thoa đâu đó vùng Thị Nghè.
Tôi thắc mắc:
– Giờ này mấy đứa nhỏ đã lớn khôn và có gia thất cả rồi, chị không còn phải lo lắng nuôi dạy chúng nó nữa. Sao chị không ở nhà nghỉ ngơi và trông cháu? Chị còn tiếp tục buôn bán kiếm tiền làm chi?
Nghe thế, chị Bền nhìn tôi rầu rầu:
– Chị đâu có cần nuôi ai! Chị chỉ nuôi hy vọng thôi! Chị ôm gánh xôi mỗi ngày ở đây chỉ vì chị coi chỗ này như một cái hộp thư. Biết đâu hôm nào đó có 1 ông của phòng “Zét” còn sống sót đi qua, thì chị sẽ có tin tức của anh Bền.
Ngày 5 tháng 5 năm 1992 những người tù cải tạo sau cùng được trả tự do; 1 trong những người đó là Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai, người đã chỉ huy tôi.
Một tuần sau tôi tới tư gia của Thiếu Tướng Giai để thăm ông.
Dịp này Tướng Giai đã nói với tôi:
– Thế là từ nay tất cả anh em mình đều đã được đoàn tụ với gia đình.
Tôi buồn rầu, nắm tay ông Tướng:
– Không phải vậy đâu Thiếu tướng ơi! Còn nhiều anh em đã ra đi mà chưa thấy về!
Trên đường về nhà, tôi đạp xe qua con đường xưa ghé thăm chị Bền. Chị vẫn còn ngồi chỗ cũ. Chị vẫn bán xôi. Chị vẫn chờ tin chồng.
Chị hỏi tôi:
– Em đi thăm ai về?
Tôi trả lời:
– Em vừa từ nhà Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai về, tiện đường ghé thăm chị. Ông Giai mới được thả tuần trước. Ông ấy là người sau cùng ra khỏi nhà giam.
Nghe vậy, chị Bền thở dài:
– Như thế thì anh Bền không về thật rồi! Anh ấy không về thật rồi em ơi!
Chợt chị ngẩng mặt nhìn tôi:
– Bây giờ là tháng 5, năm xưa anh Bền cũng ra đi vào tháng 5. Anh ấy không về, thì coi ngày anh lên xe cũng là ngày giỗ của anh! Chú có nhớ ngày anh Bền lên xe không?
– Hôm đó là 20 tháng 5 năm 1975.
– Hôm nay là ngày mấy rồi hả chú?
– Dạ! Hôm nay là 12 tháng 5.
Chị Bền bỗng hạ thấp giọng như tự nói cho một mình chị nghe:
– Còn 8 ngày nữa là tới ngày giỗ của anh. Anh Bền ơi! Em hẹn sẽ gặp anh đúng ngày hôm đó! Chờ em! Chờ em! Anh ơi! Anh ơi!…
Nghe chị Bền buông những lời than não lòng như thế, tôi bèn an ủi chị:
– Chị đừng quá bi thương, chị còn con, còn cháu. Chị hãy nhìn vào con, vào cháu mà quên đi những muộn phiền...
Chị Bền mở to đôi mắt nhìn tôi, rồi nói với một giọng thật là tỉnh táo:
– Chị ráng sống tới ngày hôm nay chỉ vì chị còn hy vọng.
Sau đó chị đứng lên, xếp gọn quang gánh chuẩn bị đi về.
Những lần qua đây sau ngày ấy tôi không còn trông thấy chị nữa.

Một năm sau, tháng 4 năm 1993 gia đình tôi lên đường đi Hoa Kỳ định cư theo diện H.O.
Trước ngày đi Mỹ, tôi ra thăm Ðà Nẵng lần cuối cùng. Trong chuyến đi này, tôi có dịp ngồi trên xe đò qua cầu Bồng Sơn, Bình Ðịnh.
Chiếc xe già chở đầy khách, bò từ từ trên cây cầu dài, dưới sông nước cuồn cuộn đục ngầu.
Nhìn những cụm lục bình trôi băng băng xuôi dòng, tôi chợt rùng mình, nhớ lại chuyện xưa.
Tôi tin rằng ngày 20 tháng 5 năm 1975 Thượng Ðế đã ra tay cứu tôi thoát khỏi chuyến xe oan nghiệt chở tù binh đi Quân Khu 5, vì nếu Ngài không sắp đặt sẵn những điều đã xảy ra ngày hôm đó thì chắc chắn giờ này linh hồn tôi đã vật vờ đâu đây, dưới chân cầu Bồng Sơn hay trên sóng sông Lại Giang…

Seattle tháng 5 năm 2021
Vương Mộng Long
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 4 guests