Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Đêm Hoa Đăng bi thảm
Nguyễn Văn Lập


LTS.- Tác giả bài báo là một cựu chiến binh Sư Ðoàn Nhảy Dù và khi sang Hoa Kỳ, ông làm nhiếp ảnh viên, làm thơ, rồi làm báo. Ký ức của anh về những ngày tháng lao đao Tháng Tư cách đây 30 năm vẫn còn rất sống động trong những câu chuyện vui với bạn bè hàng ngày. Bài “Ðêm Hoa Ðăng Bi Thảm” là một trong những chuyện không vui mà tác giả ghi lại trên giấy. Sau đây là nguyên văn bài báo:


Tái chiếm Quảng Trị xong, Sư đoàn Nhảy dù tiếp tục đóng chốt trên dãy Trường Sơn làm thành một tuyến dài Bắc Nam từ bờ Nam sông Thạch Hãn về đến căn cứ Bastongne tây bắc Huế. Vào thời điểm này, Hiệp định Paris đã ráo mực với những đợt xâm nhập của cộng sản Bắc Việt theo đường mòn Hồ Chí Minh nằm sâu trong dãy Trường Sơn âm u, chúng định cắt Quân Khu I làm đôi nên nhả bớt hoạt động nhưng vẫn duy trì áp lực để cầm chân hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy dù và Thủy quân lục chiến tại Quảng Trị để đánh vào Thường Ðức thuộc tỉnh Quảng Nam, và Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được điều động làm thành một phòng tuyến kéo dài từ Hòa Thanh đến bờ sông Thu Bồn để bảo vệ Bộ Tư Lệnh quân đoàn 1 tại Ðà Nẵng. Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù cũng rút về đóng tại phi trường Non Nước.

Tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy dù của chúng tôi về đến Quảng Nam giữa tháng 2 năm 1975. Sau gần ba năm hành quân ngoài Trung, lần này tôi có cảm tưởng đây là cuộc hành quân xuôi Nam lần cuối rồi giã từ vĩnh viễn miền Trung. Trung đội tôi đóng sát chân núi chỉ cách đồi 1062 độ 8 cây số để yểm trợ cho nhiều trận đánh ác liệt tại đây, Tiểu đoàn 6 Dù rồi Tiểu đoàn 3 Dù thay nhau tái chiếm ngọn đồi máu này. Gần Tết, pháo binh Thủy quân lục chiến đến thay. Trung đội tôi rút ra đóng chung với Bộ chỉ huy một Tiểu đoàn Ðịa phương quân tại một ngọn đồi thoai thoải phía trước quận Ðại Lộc, ngó xuống Cầu Gãy. Nhiệm vụ bây giờ chỉ là yểm trợ tổng quát tăng cường cho các đơn vị bạn, nên chúng tôi có thì giờ đi vào làng dân thăm hiểu tình hình luôn tiện làm công tác dân sự vụ.

Mặc dù không phải là nhiệm vụ chính của đơn vị tác chiến như chúng tôi, nhưng thấy tình cảnh đồng bào nghèo khổ tội nghiệp quá, đau yếu thuốc men gì cũng không có, nên tôi bảo y tá có bất cứ loại thuốc gì có thể cho thì cho đồng bào rồi báo cáo xin lại sau, và gạo sấy thì tặng cho bà con hết, kể cả một số gạo thặng dư hàng ngày thay vì bán để mua thêm thức ăn cho trung đội, tôi cũng bảo đem cho hết. Ngày 30 Tết, Ban đại diện ấp và bà con đem bánh tét và bánh tổ là một loại đặc sản Quảng Nam đến tặng cho Trung đội tôi ăn Tết, tình nghĩa quân dân thật thắm thiết, nghỉ lại câu nói bạc như dân bất nhân như lính mà tôi nghe trước đây thật đúng là xuyên tạc.

Viên Trưởng ấp nói với tôi quân đội mình tốt quá, ở đây thường mất an ninh, nếu Nhảy dù mà rút đi chắc bà con chúng tôi cũng bỏ làng đi theo. Câu nói này đã in sâu vào lòng tôi nhiều năm sau này và tôi tiếc là khi chúng tôi rời Quảng Nam vài ngày sau đó để về Nam thì đồng bào Ðại Lộc không theo chúng tôi được.

Khi Thủy quân lục chiến hoàn toàn thay thế Nhảy dù tại mặt trận Thường Ðức thì Sư đoàn Nhảy dù được lệnh về hậu cứ, chúng tôi hoàn toàn không ngờ đây là một cái lệnh bỏ Quân khu 1. Tôi được Tiểu đoàn điều động ở lại sau chót để thu dọn quân dụng lên Hải vận hạm 505 về Saigon. Sau gần hai ngày lênh đênh trên biển, thay vì về Saigon, tàu đưa chúng tôi vào quân cảng Cam Ranh rồi quân xa chở chúng tôi về Dục Mỹ. Lữ đoàn 3 Nhảy dù đã có mặt ở Khánh Dương để chận bước tiến của đại quân Cộng sản sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có ý định bỏ nốt Quân Khu 2.

Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Triệu giao cho tôi nhiệm vụ làm Sĩ quan liên lạc Lữ đoàn 3 Dù, nếu tôi về trước đó một ngày thì có lẽ không bao giờ có việc cầm bút viết lại hồi ký này vì tôi sẽ được thay thế cho Ðại Úy Tuấn, Pháo đội Trưởng A2 bị bệnh nên Ðại Úy Tống Văn Tùng khóa 26 Thủ Ðức và là bạn học cùng lớp với tôi suốt 4 năm Trung học Trần Lục, nay là Phụ tá Ban 3 vào thay. Sau trận Khánh Dương, Tùng bị bắt và bị cộng sản Bắc Việt đem ra sân vận động Nha Trang xử tử.

Theo nhiệm vụ, tôi được quyền xin toàn bộ hỏa lực của Trường Pháo Binh Dục Mỹ gồm một pháo đội 105 ly, một pháo đội 155 ly, và một liên đội 175 ly gồm 3 khẩu để tác xạ tăng cường cho Lữ Ðoàn 3 Nhảy dù gồm các Tiểu đoàn 2,5, và 6 Nhảy dù đóng từ Khánh Dương tức cửa ngõ vào tỉnh Ban Mê Thuột chạy dài đến phía Bắc của Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn. Còn Tiểu đoàn tôi yểm trợ trực tiếp cho các đơn vị tác chiến thuộc Lữ Ðoàn 3 Nhảy dù với gồm 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu M102 kích nòng bắn cực nhanh mà chính pháo binh Hoa Kỳ cũng không được trang bị, vì chỉ dành riêng cho Pháo binh Nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa là đơn vị duy nhất sử dụng loại vũ khí này cho thích hợp với đặc tính di động nhẹ. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, toàn bộ các đơn vị đồn trú rút hết về Nam qua quốc lộ số 14, và bây giờ Lữ đoàn 3 Nhảy dù phải một mình ngăn chận các Sư đoàn 3 và 325, và một số đơn vị khác của cộng quân tại đây, tương quan lực lượng cỡ một chống mười làm tôi nhớ lại ngày nào Tiểu đoàn 11 Dù tử thủ Charlie tại Kontum nay sẻ giống hệt như Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương. Cộng quân áp lực khắp nơi từ cả hai mặt đông và tây núi non hiểm trở, còn quốc lô 14 thì cộng sản không dám theo đường bộ tràn xuống, bộ binh và xe tăng của địch theo những đường mòn trong rừng núi đánh ra đến đèo M'Rac thì bị chận lại, hàng trăm xác Việt cộng bị bỏ thây tại đây cùng với một xe tăng T54, tình hình chiến sự đè nặng lên vai bố già Lữ đoàn trưởng, Ðại Tá Lê Văn Phát. Không ai bảo ai, mọi người đều biết tình hình này khó thể kéo dài nếu không có quân tiếp viện, suốt trong một tuần lễ và nhất là trong hai ngày 29 và 30 tháng 3 năm 1975, các đơn vị Lữ đoàn đụng độ liên tục với cộng quân, pháo binh Nhảy dù cùng pháo binh cộng quân đấu pháo hầu như liên tục.

Có lẻ đây là lần đầu tiên tôi là một pháo thủ được sử dụng toàn bộ hỏa lực của Trường Mẹ để yểm trợ chiến trường ác liệt cách Trường Pháo Binh không xa, tôi đã gọi bắn gần như liên tục ngày đêm các mục tiêu phản pháo hoặc tiêu hủy với đại bác 175 ly, và nhiều tuyến cản với đại bác 155 ly và 105 ly, ngoài các mục tiêu mà các Sĩ quan liên lạc từ các Tiểu đoàn Dù xin bắn, tôi còn phải chấm thêm nhiều tuyến cản để tác xạ. Cộng quân không pháo kích Bộ chỉ huy Lữ đoàn mà chỉ đánh các Tiểu đoàn Dù bằng pháo kích với pháo binh và xe tăng xong rồi bộ binh xung phong theo chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung, Không quân của ta từ phi trường Thành Sơn lên yểm trợ cũng không được hữu hiệu lắm đối với các chiến trường xé lẻ và tiếp cận hàng chục thước như thế này.

Ðến tảng sáng ngày 31/3/1975 thì toàn thể các đơn vị tác chiến kể cả các pháo đội Pháo binh Dù bị tràn ngập, và trước khi rút đi đã phá hủy hết đại bác. Không hiểu sao Trường Pháo Binh nghe được và tự động ngưng tác xạ, tôi gọi mãi để chuẩn bị nếu các đơn vị bạn yêu cầu bắn ngay trên đầu cùng chết với địch tức là đồng ư quy tận, nhưng không có một đài nào trả lời hết. Ðộ nửa tiếng sau tôi nghe tiếng động cơ nổ liên tục tại Trường Pháo Binh mà sau cùng là tiếng xích sắt của các khẩu pháo 175 ly. Có lẽ Trường Pháo Binh đã nhận lệnh di tản từ ở đâu đâu trước đây nên tự động tan hàng, kế đến là Trung tâm huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ nằm sát bên cũng tự động rút đi. Một số các đơn vị thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù hiện đang im lặng vô tuyến rời bỏ vị trí, chỉ biết là hầu hết bị địch tràn ngập, không một Ðề lô nào cũng như Sĩ quan liên lạc pháo binh lên máy, mà có liên lạc được giờ phút này cũng không còn hỏa lực pháo binh yểm trợ nửa.

Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 3 Dù ra lệnh rút và Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Pháo binh Dù phải di tản theo về Ðèo Rù Rì, độ một tiếng sau là gở toàn bộ căn cứ di tản ra khỏi phi trường Dục Mỹ, tôi được lệnh lại căn cứ với một máy truyền tin PRC 25, một tài xế, và một chiếc xe Dodge. Trung Tá Trần Ðăng Khôi, Lữ đoàn Phó dặn tôi cứ ở tại phi trường chờ ông bay trực thăng quan sát xong sẻ quay trở lại bốc tôi đi, việc để lại tài xế với chiếc xe Dodge này mang ý nghĩa nếu ông không về đón thì tôi sẻ cùng đệ tử chạy về Ðèo Rù Rì tìm Lữ đoàn. Giờ này thì cả căn cứ rộng lớn tại phi trường Dục Mỹ chỉ còn có một mình tôi và người đệ tử. Tôi nhìn về hướng Tây Bắc nơi hình Núi Vọng Phu vươn lên trên bầu trời nhạt nắng mai, người chinh phụ cùng đứa con hóa đá kia đã bao năm sắt son đứng đợi chồng về, và ở dưới chân Bà, nhiều thế hệ sau đang viết tiếp một chương bi thảm của những người đi chinh chiến không về, lịch sử là một sự lặp lại không ngừng. Tôi mong nghe có tiếng gọi của bất cứ một đơn vị Dù nào tìm đường ra quốc lộ, tôi sẽ hướng dẫn như đã làm trong quá khứ, nhưng không thấy ai lên tiếng. Gần một tiếng rồi không thấy trực thăng của Trung tá Khôi bay về, tôi mở các tần số gọi liên tục, vô vọng, kể cả tiếng Trung tá Khôi cũng không thấy trả lời. Tôi lên xe bảo người tài xế mở máy trực chỉ về Nha Trang.

Dọc đường, đồng bào bằng đủ mọi phương tiện xe đò, honda, xe bò, kể cả đi bộ, có người trên vai gánh cái gia tài vô giá là hai người con nhỏ ngồi hai đầu, họ cũng xuôi Nam theo chân quân đội quốc gia, họ đi theo đường quân đội rút, để tìm tự do. Ðể phục vụ cho âm mưu phản chiến, bọn phóng viên khốn nạn nước ngoài chỉ giỏi loan báo những tin thất thiệt xuyên tạc cuộc chiến tranh tư vệ của quân dân miền Nam, chúng không bao giờ có thì giờ tìm hiểu tại sao những người dân lành lánh nạn cộng sản, đã theo chân quân đội quốc gia về miền đất hứa bằng đôi chân tự do như thế này. Xế trưa thì tôi về đến Ðèo Rù Rì gần Nha Trang gặp lại Tiểu đoàn, tôi trình với Thiếu Tá Triệu là không nghe bất cứ đài nào gọi. Ðộ nửa tiếng sau, Trung Tá Khôi cũng bay về, ông hỏi tôi sao không đợi, tôi trả lời cả một huấn khu to lớn như thế rút hết, chỉ còn hai thầy trò tôi và không liên lạc được ai nửa nên phải về đây. Lúc này tôi cũng không rỏ Lữ đoàn sẻ đi đâu, vào Nha Trang hay về Saigon theo đường bộ. Sau đó thì có lệnh rút về quân cảng Cam Ranh. Về đến cổng quân cảng thì cả một rừng quân xa của nhiều binh chủng và dân xa đủ loại đã bít kín hết cổng ra vào, xe cộ đậu dài cả chục cây số. Những người lính quân cảnh gác cảng chỉ biết lắc đầu nói không có tàu, tình cảnh này mà mở cổng thì có trời cũng không cản nổi cảnh hỗn loạn.

Lúc gần chiều thì Ðại Tá Phát Lữ đoàn trưởng quyết định rút về Phan Rang theo đường bộ, khi đoàn xe của Lữ đoàn trở đầu ra khỏi quân cảng thì toàn thể rừng xe cộ kia cũng tự động nối đuôi, cặp bên hông là xe gắn máy của đồng bào, hàng ngàn xe cộ, dân xa, chiến xa, đại bác, và quân xa của một phần Quân khu 2 đông cỡ chục ngàn người theo sau đoàn quân Mũ Ðỏ cỡ trên một trăm người mở đường tiến về Nam. Giữa cái khung cảnh bi hùng như thế, tôi có cảm tưởng giống hệt như ngày xưa ông A Dong dẫn dân Do Thái vượt qua Biển Ðỏ tìm về miền đất hứa lánh nạn quân Ai Cập. Xe chạy khá chậm để phía sau theo kịp, thỉnh thoảng phải dừng lại để quan sát dò đường. Mỗi lần ngừng lại, chúng tôi năn nỉ đồng bào đừng chạy xe gắn máy cặp sát xe chúng tôi, lỡ bị phục kích thì bị chết oan, nhưng đồng bào cương quyết nói “Nhảy dù đi đâu chúng tôi đi theo, có chết chúng tôi cũng chịu”, đành phải để cho bà con chạy theo như thế. Ðến Du Long thì trời đã tối, nhìn lại phía sau, cả chục cây số đèn pha sáng trưng, nguyên một góc trời đèn xe như một con giao long đang uốn khúc, sáng long lanh trong đêm hoa đăng bi thảm, đêm nay đồng bào Khánh Hòa bỏ phiếu cho tự do, quân đội quốc gia đi đâu thì đi theo đó. Cũng may, không một tiếng súng nào nổ thêm trong đêm này và toàn bộ đoàn quân dân về đến Phan Rang bình an vô sự.

Xe của Nhảy dù chạy đi đâu thì đoàn xe khổng lồ phía sau cũng nối đuôi, đến khoảng 3 giờ sáng ngày 01/4/1975 thì vào đến Phan Rang, xe chạy ra sát biển thì dừng lại, còn đoàn xe đã tháp tùng chúng tôi thì tiếp tục cuộc hành trình vô Nam và đến Phan Thiết trong ngày hôm đó. Lữ đoàn 3 Dù nhận được lệnh mới vào phi trường Thành Sơn nay do Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân với con phượng hoàng Phan Rang, một vị tướng mặt trận, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang trấn nhậm, còn vị Tỉnh trưởng Phan Rang, Ðại Tá Trần Văn Tự thì đang tá túc trong phi trường đến ngày 07/4/1975 mới trở về nhiệm sở. Sáng hôm sau ngày 02/4/1975, một trung đội thuộc đại đội chỉ huy của Lữ đoàn 3 do một Trung sĩ hướng dẫn đi theo một viên Ðại Úy Ðịa phương quân, vị này nguyên là Trưởng Ban 2 quận châu thành Phan Rang nay được đề cử giữ chức Quận Trưởng và được Nhảy dù hộ tống đi trấn an dân chúng. Tôi được lệnh đi theo với nhiệm vụ chính là tìm đại bác 105 ly nào của ta bỏ lại còn sử dụng được thì sẻ kéo về phòng thủ phi trường, nhưng tất cả đại bác kể cả 155 ly đều bị phá nòng để lở rơi vào tay địch thì không sử dụng được. Tại tiểu khu Ninh Thuận, tôi đã gặp người thay thế ông Tỉnh đang tá túc ở trong phi trường là vị Trung Tá Tiểu khu phó, đang liên lạc bằng tiếng Anh với một chiếc trực thăng bay vòng vòng trên đầu nghe nói là của cố vấn John Paul Vann đang hỏi thăm tình hình. Trong lúc chờ đợi tôi đi vòng vòng quanh tỉnh thì gặp một toán Thám Sát Tỉnh (tiếng Anh là Province Recon Unit gọi tắt là PRU), anh em này nhận ra tôi là cựu huấn luyện viên CT tiền thân của PRU, tay bắt mặt mừng, anh em cho biết tình hình trong tỉnh vẫn tương đối yên ổn tuy có vài vụ cướp bóc, còn Việt cộng thì chưa vào được thành phố. Tôi nói Nhảy dù về giữ Phan Rang, nếu thuận tiện anh em thông báo cho dân chúng biết. Xong tôi từ giã và tiếp tục đi theo xe của trung đội Nhảy dù chạy vòng quanh thị xã tìm súng đại bác, rồi ra đến ngoại ô, đến nơi đâu viên Ðại úy Quận trưởng đều bắc loa nói Nhảy dù đã về Phan Rang xin bà con trở lại sinh hoạt bình thường.

Tại cửa biển Phan Rang, sát một làng chài lưới, đồng bào báo cáo có một bọn cướp có súng, lợi dụng tình hình sôi động đã cướp bóc nhũng hại dân lành cả tháng nay, hiện bọn này đang nằm ở nhà, xin quân đội đi bắt, viên Ðại úy không còn quân này đề nghị Nhảy dù đi theo bắt cướp, tôi đề nghị viên Trung sĩ Trưởng toán Nhảy dù cho đi, bắt được hai tên cướp này thật dễ dàng rồi trói lại và đưa ra ngay cửa biển nơi có chiếc ghe của gia đình tên chánh đảng cướp đang neo tại bến. Bà con nghe tin kéo đến thật đông, viên Ðại úy hỏi ý kiến bà con xử trí như thế nào, mọi người đều hô to xử tử, nhanh như chớp viên Ðại úy Quận trưởng lập tức giơ M16 nhắm vào tên chánh đảng đang quỳ cách đó khoảng chục thước và bắn ba phát, tên chánh đảng vừa giãy chết thì chiếc ghe kia cũng mở máy chạy. Còn lại tên thứ hai thì có một vị bô lão nói là con và xin tha, vì con ông chỉ là đồng bọn bị ép buộc, nay dân chúng cũng xin bảo lãnh tha tội chết, tôi cũng nói thêm vào xin Ðại úy tha cho nó, và thật giống như là xinê, tên này được viên Quận trưởng cởi trói và tha tại chỗ giống như “not guity” tại phiên tòa xử vô tội tại Mỹ. Chuyện này về sau xem phim Hồng Kông tôi có ý nghỉ ngộ nghĩnh là Nhảy dù dẫn Bao Công đi xử án tại Phan Rang.

Về đến Tiểu đoàn, tôi báo cáo mọi chuyện, Thiếu Tá Triệu cắt tôi tiếp tục làm Sĩ quan liên lạc Lữ đoàn đặt cạnh Bộ chỉ huy hành quân chiến cuộc của Không quân, và nhờ phương tiện liên lạc tốt của Không quân, tôi đã liên lạc được Hải pháo Hoa Kỳ ngoài khơi hải phận Việt Nam qua một sĩ quan liên lạc hải pháo người Việt. Tôi trình bày mọi việc và yêu cầu yểm trợ hải pháo khi đụng trận, vì hiện nay chúng tôi không còn pháo binh, họ chấp thuận yêu cầu trên nguyên tắc, nhưng sau đó đã lờ đi vì Hoa Kỳ vĩnh viễn phủi tay với người bạn đồng minh. Ngày 9/4/1975 đã diễn ra một cuộc bốc quân cuối cùng và vĩ đại nhất của Không quân Việt Nam Cộng Hòa, Không đoàn 72 chiến thuật của Trung tá Lê Văn Bút đã dùng 40 trực thăng UH1B cộng với 12 trực thăng võ trang, và 8 chiếc trực thăng Chinook từ phi trường Biên Hòa ra bay ngược về Khánh Dương bốc “một slick duy nhất” được toàn bộ các quân nhân Lữ đoàn 3 bị thất lạc mà đa số là Tiểu đoàn 5 Nhảy dù của Trung tá Bùi Quyền và một số anh em Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 6 Dù, còn riêng các pháo đội Nhảy dù thì sau này có người tìm ra được quốc lộ và cuối cùng về đến đơn vị chỉ được vài người, còn lại ngoài số bị tử trận, một số bị bắt làm tù binh như Ðại úy Nguyễn Thái Chân hàng chục năm sau mới được trả tự do.

Khi toàn bộ Lữ đoàn 2 Dù ra thay Lữ đoàn 3 xong, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ra làm tư lệnh mặt trận Phan Rang, thì Tiểu đoàn tôi được lệnh trở về hậu cứ Nguyễn Huệ để bổ xung lực lượng sau gần 3 năm tham chiến tại miền Trung. Qua cửa phi cơ nhìn xuống Phan Rang, quốc lộ số 1 với những hàng dừa ngút ngàn chạy song song với biển Thái Bình Dương, tôi còn thấy được hơn một tuần trước, ở phía dưới kia đã diễn ra một đêm hoa đăng bi thảm soi đường cho một cuộc di tản cùng với đồng bào.

Chúng tôi đã ngồi dậy, và cầm súng tiếp tục chiến đấu.


Nguyễn Văn Lập
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Cám Ơn Anh - Người Thương Binh VNCH


Chiến tranh đến người lính không muốn bởi vì bản chất dân tộc Việt Nam không hiếu chiến. Chiến tranh đi vào căn nguyên cội nguồn là do sự tham lam của chủ thuyết Cộng Sản, bởi một thiểu số lãnh đạo sống với giấc mơ hoang tưởng ban đầu khi mang ý tưởng quốc hữu hóa cuộc sống người dân để mọi người được bình đẳng, cho một thế giới vô sản, không giai cấp. Và từ đó qua những nhà lãnh đạo tham lam và cuồng tín tại miền Bắc Việt Nam đã xua quân xâm chiếm Miền Nam. Miền Nam phải tự vệ, người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mang vai trò bảo vệ từng tất đất quê hương.

Sở dĩ chúng tôi phải nhập đề về vai trò của người lính VNCH là vì Miền Nam đã có chánh nghĩa như thế ngay từ nguyên thủy của vấn đề, tức họ có tư thế tự vệ chính đáng. Trong cuộc chiến tự vệ bảo vệ bờ cõi, khi chúng ta nhìn về những thiệt thòi, những khổ đau của người lính VNCH trải qua trong cuộc chiến và cũng như sau cuộc chiến, chúng ta sẽ phải ngậm ngùi cho những điều phi lý nhất đã theo đuổi, ám ảnh cuộc sống đầy gian truân của họ, đặc biệt là số phận người thương phế binh VNCH. Trong thời chiến, nói về khía cạnh kinh tế đời sống thì mức lương của người lính tác chiến đuợc trả theo thời giá bằng con số phụ cấp 4.500 đồng VNCH cộng thêm vào mức lương căn bản (quân nhân không tác chiến không có phụ cấp này). Lương trung bình một người Binh Nhì khoảng 18,000 đồng, phụ cấp vợ 2,000 đồng, mỗi con 1,000, nếu tác chiến được nhận thêm 4,500 đồng. Nếu tính hối xuất mỹ kim thời đó thì thật sự lương người lính cộng phụ cấp các thứ kế cả tiền gộp lại tất cả không quá 20 mỹ kim một tháng. Người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dĩ nhiên chấp nhận túng thiếu đến đỗi mức ăn của một chiến sĩ không thể cứ mỗi ngày mua nỗi một tô phở như chúng ta đang sống tại Mỹ, Úc hay Canada.

Để các bạn trẻ ra đời khi còn quá nhỏ hay sau cuộc chiến có thể có một ý niệm về sự so sánh đơn giản mức sống nghèo khổ của người lính và gia đình so với thời giá lúc đó, chúng ta định tiêu chuẩn bằng mỹ kim. Nếu là hai vợ chồng người lính chưa có con, thì mỗi ngày họ chỉ được phép “ăn xài” tối đa là 1 mỹ kim cho tất cả các khoản thực phẩm tối thiểu như gạo, muối, đường, nước mắm,... và linh tinh, thông thường ăn rau ăn độn với cơm, vì thường đến thăm những gia đình quân nhân quen chúng tôi thấy họ ăn đạm bạc như rau chấm với nước mắm kho quẹt hay cơm chấm muối mè. Nếu là một gia đình 4 người thì mức tiêu xài là 1,5 mỹ kim. Như vậy với đồng lương 20 mỹ kim một tháng chỉ có thể sống sót được tối đa có 20 ngày, còn 10 ngày cuối cùng kia thì chính người vợ và đàn con phải xông pha ra ngoài chợ đời làm lụng thật vất vả để bù đắp vào. Cuộc đời đen tối cứ thế kéo dài mãi, giá sinh hoạt ngày càng tăng vọt vì nạn lạm phát. Một đô la Mỹ đổi được 500 đồng VN trong những năm cuối cùng của thập niên 1970, nhất là năm 1975 nó đã leo lên đến 1,800 đồng VN. Đó là chưa kể đến những nhu cầu cần thiết khác cho đời sống như thuốc men, quần áo, thuốc hút, nhu cầu cho con cái đi học,… đòi hỏi phải chi tiêu rất nhiều tiền bạc. Người lính sẽ thiếu thốn triền miên. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy mà những người chiến sĩ vô danh khiêm nhường ấy vẫn đánh giặc, vẫn ôm ấp lý tưởng bảo vệ giang san bờ cõi quốc gia, và họ đã đánh thắng những trận thật lớn và thật lừng lẫy, rúng động thế giới và cả quân thù cũng phải khiếp vía run sợ. Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam ấy đã câm nín, nhẫn nhục, không kêu ca nề hà, bản thân họ gánh vác trên vai cả một trách nhiệm nặng nề, nhiều khổ ải và triền miên chất chứa trong lòng nhiều nỗi lo lắng khôn cùng cho gia đình ở quê nhà. Họ dũng cảm xông vào những cơn bão lửa tàn khốc nhất của chiến tranh từ Bình Giả, Đồng Xoài đến Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa, và trong cuộc chiến như vậy, chúng ta thấy rằng người lính đã chia một nửa trái tim hiến dâng bảo vệ Tổ Quốc, một nửa trái tim gửi về hậu phương cho gia đình vợ con.

Bài viết này chúng tôi muốn nghĩ đến những anh em thương phế binh (TPB) VNCH, hiện còn ở quê nhà chịu những ngậm ngùi đắng cay nhất sau biến cố đau thương 1975. Những cựu quân nhân bị thương phế còn một chút may mắn đuợc trở về với vợ con hay cha mẹ, sống chuỗi đời còn lại vá víu trong quên lãng của đời nghiệt ngã bằng đủ thứ nghề quá vất vả, nếu được như vậy họ cũng tìm thấy một chút niềm vui của mái ấm gia đình. Nhưng đối với những chiến sĩ thương phế kém may mắn hơn, họ đã chịu những bất hạnh, cô đơn vì gia đình ly tán, xã hội ruồng bỏ và rồi họ không còn nơi để trở về, hoặc không muốn trở về để trở thành gánh nặng cho những người mà họ yêu thương, hoặc bị chính gia đình bỏ rơi. Các anh lính TPB không có niềm vui nào để từ đó gắng gượng sống một cuộc sống lây lất bao phủ bởi những tủi thân, mặc cảm tật nguyền bị lãng quên. Các anh sống hiện tại mà cũng không có, thì nói đến tương lai làm gì? Các anh sống lang thang vất vưởng dưới những mái hiên, gầm cầu, ống cống, bãi tha ma, mái chợ, v.v.. Tiếng hát nấc nghẹn tủi nhục của các anh vang lên trên những chiếc xe đò ầm ĩ lao xao tiếng rao hàng của những người cũng nghèo như các anh, trên những lối chợ sình bùn, trước những quán ăn đông đảo những khuôn mặt mập bóng, đỏ au thừa thãi rượu và thịt, hay trên những đuờng phố nghìn nghịt xe cộ và đầy dẫy màu sắc ăn chơi. Một xã hội vô lý do nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) gây ra và xã hội như vậy, chẳng những bạc đãi chính các anh, mà còn buôn bán cả tương lai vợ con các anh cho ngoại nhân.

Chúng ta còn nhớ trong và sau ngày 30.4.1975, những chiến sĩ mang thương tích hay các thương bệnh binh nằm điều trị trong các quân y viện bị quân giặc xua đuổi đi một cách tàn nhẫn. Xã hội văn minh như trong Thế Chiến Thứ II khi quân Đức Quốc Xã bao vây Quân Đồng Minh, họ tôn trọng qui ước chiến tranh, họ cho tải thương các thương bệnh binh. Còn đối với CSVN như bản chất của sách lược nuôi sự trả thù nhỏ mọn, họ có những hành vi thú tính, man rợ nhất được áp dụng. Có thể nói không ngoa họ không cần biết gì đến hành vi nhân đạo hay đạo lý của tình người, hay tình dân tộc đồng chủng với nhau. Dưới mắt người CSVN, những người ở bên kia chiến tuyến luôn luôn là kẻ thù cần phải bị tiêu diệt. Nếu vì lý do gì đó mà họ chưa hủy diệt được hết một lúc trong thời chiến, thì ngay từ những giây phút ngừng chiến này, họ sẽ tiếp tục giết dần mòn người lính Việt Nam Cộng Hòa, quá khứ cho thấy bằng nhiều phương cách hèn hạ nhất, nhiều cách thức khác nhau. Những tài liệu báo chí quốc tế ghi nhận khi CSVN bắt đầu xâm chiếm Sài Gòn từ các chiến sĩ bị thương tại các quân y viện, không cần biết tình trạng nguy kịch hay không nguy kịch đến tính mạng bệnh nhân, bị thương nhẹ hay thương nặng, các chiến sĩ VNCH bị xua đuổi phải ra khỏi giường bệnh, dắt díu nhau lê la trên các hè phố tìm đuờng về quê nhà. Những chiến sĩ bị thương quá nặng chỉ có thể nằm hấp hối bên vệ đường chờ chết. Những nhân chứng kể lại những túi nylon bọc lấy những mẫu ruột đã đen sậm và đầy bụi đất, hay những vết cắt lở lói ở những cánh tay hay ống chân có thể cho phép người thương phế binh lê về được đến nhà, dù là để chết trong tay vợ con hay trước sự chứng kiến của người thân.

Tôi là người lính Việt không may
Xếp bút nghiên theo cuộc chiến dài
Nào ai đoán biết được ngày mai
Phần số thương binh sau cuộc chiến
Lết cuộc đời lê nẻo tương lai
Ngậm ngùi vợ con sao tan vở?
Ngẩng mặt nhìn đời ngày lại ngày
Ai ơi có thấu lời bi ai?
TPB Cần Đước

Những anh thương phế binh may mắn sống sót sau cơn bão đỏ kinh khiếp này, may mắn được gia đình tìm ra và tiếp cứu kịp lúc đem trở về quê nhà, tiếp tục sống một cuộc sống mờ mịt, hẩm hiu vì không có hiện tại, không cả tương lai. Trước năm 1975, thương phế binh cam chịu sự thờ ơ của người hậu phương. Sau năm 1975, thương phế binh bị ném ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, là thành phần tang thương cùng cực nhất trong hệ thống bậc thang trị giá con người, mà lại là con người trong chế độ cộng sản. Các anh vẫn tiếp tục sống cuộc sống thầm lặng khổ đau trong tối tăm, trong đói rách bao nghịch cảnh ở những chỗ hạ đẳng tận cùng: từ ống cống, gầm cầu, hay đến những bãi tha ma. Niềm mơ ước duy nhất và rất nhỏ bé của các anh, là xin thượng đế nhủ lòng thương cho các anh kiếm đuợc đủ hay xin được thức ăn sống mỗi ngày. Có những anh lê lết những phần thân thể trên mặt đường lâu ngày những phần thân thể bị nhiễm trùng ung mủ lở loét. Nhìn những chiến hữu của chúng ta tang thương như vậy, chúng ta không thể không xót xa đau lòng. Nhưng thân tàn ma dại dó đã lê lết trên quê hương chúng ta, họ sống vô vọng. Những TPB có gia đình khá hơn thì có xe lăn, họ góp được chút vốn thì lăn xe đi bán vé số hay ngồi bán thuốc lá lẻ, đan sọt đan thúng, làm hàng thủ công, hoặc nuôi gà nuôi heo. Ngay cả chuyện nuôi con heo cũng là một mơ ước vô cùng lớn lao, tưởng không thể nào có thể thực hiện nỗi, nếu không có một phép lạ nào đó. Trong những hoàn cảnh cùng cực như vậy mà các anh vẫn cứ đều đặn chống nạng hay lăn xe lên Nghĩa Trang Quân Đội trên xa lộ Biên Hòa để chăm sóc mồ mả của những chiến hữu trong đó. Có còn nghĩa cử nào cao qúi hơn nữa không, để những người còn sống như chúng ta phải cúi đầu chào kính các anh?

Sống cuộc đời tủi cực, làm những người sống ngoài lề xã hội ngay trên đất nước của mình, nhưng những chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng Hòa vẫn an ủi nhau, vẫn nuôi dưỡng một niềm tin. Có nhiều anh chịu không nỗi nhục nhã đã nhảy sông, thắt cổ, hay bất cứ cách nào để chết. Nhưng nhiều anh đã cắn răng khuyên nhau cố gắng sống. Sống để chờ một phép nhiệm mầu nào đó cứu giúp cuộc đời khốn cùng. Thật kỳ diệu, mà cũng thật nghẹn ngào, các anh đã sống vật vờ và nuôi dưỡng niềm tin ấy đến hơn một phần tư thế kỷ. Cái điều được chờ đợi ấy đã bắt đầu hiện đến với các anh, dù mới chỉ là những đóm lửa còn le lói. Những người chiến hữu của các anh bên kia bờ Thái Bình Dương bắt đầu dấy lên những phong trào vận động quyên góp gửi quà và tiền về giúp đỡ cho các anh, dù rằng có người được, người chưa.

Từ những năm 1990 cho đến nay, đã có nhiều hội đoàn cựu quân nhân QLVNCH hay ngay cả nhiều hội đoàn dân sự, cá nhân, truyền thanh, báo chí ở Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu đã tổ chức những cuộc gây qũy và tích cực cổ động cho việc gửi tiền tương trợ cho các anh thương phế binh ở quê nhà. Những đóm lửa nhỏ này có thể một ngày không xa lắm sẽ bùng lên thành một ánh lửa lớn quy tụ đuợc nhiều tài lực, thêm nhiều phương tiện, từ đó có thể giúp đỡ chiến hữu bên nhà tích cực hơn. Hầu như là các hội đoàn của những quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đều có chương trình tương trợ cho các anh thương phế binh. Các bạn hãy cùng lắng nghe vài đoạn thư của Biệt Cách Dù Nguyễn Chí Linh từ Việt Nam, để thấy được nỗi niềm của những người anh em chúng ta, đẩ cảm nhận được ý nghĩa về việc làm của chúng ta: "... gia đình tôi, vợ và các con vui mừng, đứa nào cũng rơi nước mắt, riêng tôi thì vô cùng xúc động... số tiền quá lớn, tôi mua được hai con heo để nuôi, mỗi con 400.000 đồng Việt Nam. Tôi hy vọng là sau sáu tháng, heo bán sẽ có lời, tôi sẽ mua gà Tam Hoàng nuôi, có thu nhập thêm, chứ đời sống còn thiếu thốn lắm... Thành thật cám ơn Thầy và quí hội đã cùng nhau giúp đỡ cho đứa em còn ở lại Việt Nam nghèo khổ này".

Hội Bạn Của Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp do ông Nguyễn Quang Hạnh làm Hội Trưởng cùng một số hội viên trong Ban Chấp Hành đã hoạt động rất tích cực trong công tác tương trợ các anh thương phế binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ hơn mười năm qua. Hoạt động của Hội ngày nay đã được biết đến trong cộng đồng người Việt ở châu Âu nhờ Ban Chấp Hành đã cho lưu hành những đặc san NẠNG GỖ để gởi đến đồng bào những bài viết, những hình ảnh tàn phế của những người thương binh ở quê nhà, danh sách thương phế binh xin được giúp đỡ, những lời kêu cứu và hình ảnh thảm thương trong cuộc sống bị vất bên lề xã hội của các anh. Ông Hội Trưởng Nguyễn Quang Hạnh cùng những vị có cùng tấm lòng nhân ái hướng về các anh thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đã luôn dằn vặt trong lòng nỗi xốn xang:

Khẳng định rằng ngày 30.4.1975 là ngày đại họa, một cái tang lớn phủ trùm xuống đồng bào Miền Nam. Quyền sống của con người không còn nữa, tiếp theo là sự trả thù của chế độ mới tiến hành đối với những người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Đau thương và tủi nhục hơn hết, tột cùng đau khổ nhiều hơn hết là những anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Đó là những người lính chiến đã từng hy sinh và chịu nhiều gian khổ ngoài chiến trường bởi lý tưởng tự do, vì sự sống an bình cho đồng bào ở hậu phương. Các anh đã không may bị súng đạn cướp mất một phần thân thể, lại bị chế độ kỳ thị, phân biệt đối xử, cuộc sống của các anh bị đặt ra ngoài lề xã hội thực tại. Từ hơn 30 năm qua, đối với gần ba triệu người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại này, sự kềm kẹp, kiểm soát của CSVN về mọi biện pháp giúp đỡ các anh TPB, và chính vì thiếu sự nhân đạo đã gây khó khăn cho việc giúp đở TPB của VNCH một cách công khai.

Trong tình thế mới khi đảng CSVN càng o bế quốc tế, sự chấp nhận cho giúp đỡ các anh em TPB có phần khá hơn, Hội Bạn Của Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa đã kêu gọi và đã nhận được rất nhiều sự hưởng ứng nồng nhiệt của người Việt ở Pháp và nhiều nước châu Âu. Nhờ sự giúp đỡ này, Hội đã có thể gởi về các anh thương binh ở quê nhà những món tiền tình nghĩa, nhiều chiếc xe lăn tay. Những đồng tiền của đồng bào hải ngoại gởi về cho các anh thương phế binh và gia đình đâu đã là nhiều, nhưng khi nó đến đúng lúc thì cũng có thể giúp cho các anh một niềm vui nhỏ và vượt qua được hoàn cảnh thắt ngặt. Thư cảm ơn của các anh gởi sang rất nhiều với những giòng chữ đơn sơ diễn tả những lời chân thành mộc mạc từ tận đáy lòng của các anh. Có còn cảnh ngộ tuyệt vọng tận cùng nào hơn nữa không đối với anh Võ Văn Huề như trong bức thư này:

"Tôi ký tên dưới đây là Võ Văn Huề, hiện ở tại số 97, Khối 5. Thị trấn Kiến Đức – Dak Rlăp – Đăk Lak – Việt Nam

Kính gởi: Hội cùng Ân Nhân.

Tôi nhận được thư của Hội ngày 21.7.2002, còn tiền vào ngày 27.7.2002. Nay tôi viết thư này để Hội biết lòng biết ơn sâu nặng của tôi. Đối với bản thân, tôi phải khóc, không thể nói hay viết hết lời cho Hội và ân nhân, hội đã hiểu nên tôi không viết thêm. Hiện gia đình tôi có 6 con, đứa đầu đi không vững, nói không rõ, không lớn được và không biết chữ. Còn 5 cháu sau vì đông nên việc học rất khó khăn. Nếu bên đó ai có nhu cầu xin con nuôi, gia đình đồng ý cho không điều kiện,
Một lần nữa xin nói lên lòng biết ơn sâu nặng của gia đình tôi đến với Hội và ân nhân đã cho gia đình tôi có sự sống lẫn tinh thần. Xin chúc Hội và ân nhân được nhiều ơn riêng của trời đất.
Kính thư.
Huề."

Mẹ Việt Nam ơi, đồng bào ruột thịt ta ơi hãy cùng cứu lấy những linh hồn cô đơn bị lãng quên! Anh em chúng tôi viết bài này vì mùa Xuân 2006 những tổ chức khắp nơi Âu châu, Úc và Bắc Mỹ đã gia tăng nỗ lực cứu giúp. Những đoàn thể tại Nam và Bắc Cali đã gây quỹ lạc quyên cho các anh em Thương Phế Binh. Chúng tôi vừa được biết sẽ có một Đại Nhạc Hội tại Nam Cali, ngay thủ đô của người tị nạn Việt Nam, Đại Nhạc Hội mang tên: "CÁM ƠN ANH - NGƯỜI THƯƠNG BINH VNCH".

Cầu mong những điều tốt đẹp nhất đến cho các anh Thương Binh VNCH. Đồng bào tại hải ngoại sẽ không quên các anh, chúng ta sẽ gặp nhau một ngày không xa, cầu mong các anh sẽ tiếp tục hiện hữu chứng kiến sự cáo chung của những người đi ngược lại ý nguyện của dân tộc Việt Nam. Sau cùng anh em chúng tôi xin kết thúc bằng bài thơ dành cho các anh:

“Xưa đồng đội như rừng
Gót giầy vang mặt phố
Nay xa cách muôn trùng
Một thân nơi xó chợ
Những người ba mươi năm
Thoảng như cơn mộng dữ
Còn một khúc thân tàn

Vinh danh ngày tháng cũ"
(Trích “Tạ Ơn Anh”, thơ Đỗ Tiến Đức)

Phạm Phong Dinh và Trần Việt Hải, May 28, 2006
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Đồng Đế Về Qua...

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ ai ? (*)
Triều dâng sóng vỗ trùng dương lại
Nhớ những mùa quân duyệt lễ đài.

Quân trường mưa nắng vẫn chia hai
Gió lộng chiều buông bóng đổ dài
Đường xa hành khúc quân vang mãi
Đồng Đế hiên ngang...Chẳng thở dài.

Ánh thái dương soi ngất kỳ đài
Cờ vàng sọc đỏ đẹp tương lai
Từng đêm trăng hiện ngoài biên ải
Thương hồn tử sĩ đã qui lai.

Đồng Đế hôm nay bỗng thở dài
Em nằm xõa tóc đợi chờ ai..?
Tha hương trăng lạnh hồn đau mãi
Non sông ly biệt cố nhân hoài.

Đồng Đế về qua cõi mộng phai
Nhấp chén quỳnh tương lệ ngắn dài
Mơ ngàn năm đứng Anh thao diễn
Để khúc quân hành vang bãi tiên.



Hoàng Nhất Phương

(*) Thơ từ Quân Trường Đồng Đế
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

ImageImageImage
GIỜ PHÚT CUỐI CỦA MỘT ĐƠN VỊ QLVNCH TẠI SÀI GÒN
Không bao giờ chúng ta có thể ngờ được có ngaỳ 30/04/1975 và không bao giờ , trước đó , chúng ta nghĩ rằng ngày 30/04/1975 chính là ngày vành khăn tang phủ len đầu Bà Mẹ Việt Nam.

Đơn vị chúng tôi đang đùa giỡn với địch quan tại vùng ngoại ô Sài Gòn , khu xa lội Đại Hàn nối liền từ ngã tư Quân Vận ( Trunbg tâm huấn luyện Quang Trung ) đến xa cảng Phú Lâm . Được lệnh nguyên Tiểu Đoàn phải về phong thủ dọc theo Quôc lộ 1 từ ngã tư Quân Vận đến ngã ba Bà Quẹo trong đêm 27/-4/1975 . Thưa quý vị độc giả vì vài lý do riêngmà lý do chính vẫn là anh em đồng ngũ của chúng tôi , một số đông vẫn còn trong vòng kềm toả của cùa bon công sản khát máu , vậy những tên tuổi tronbg cốt truyện này chỉ là tên giả cũng như tên của đơn vị chúng tôi xin được tạm quên , trong câu truyện đầy đau thương thống khổ , cười ra , mà nước mắt lại là máu huyết của chúng tôi , vì chúng tôi tan hàng trong lúc đang bạt vía kinh hồn không hiểu chúng tôi đang ở đâu ,không hiểu chúng tôi còn hay rã , nên bước chân vào Sài Gòn mà vẫn còn run rẩy . Nếu không được bọn ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản chỉ lối đua đường thì chúng cũng chưa có hoàn hồn khi bước chân vào Dinh Độc Lập . Và sau đó nhân loại đâu có ngờ đuwọc những sự dã man , tắm máu khô , khủng khiếp đang bao trùm lên dân tộc tôi , những đơn vị Mũ Đỏ , những đứa con chỉ biết sống chết cho vinh quang của đất nước , chết để bảo vệ quê hương " Quê Mẹ Việt Nam " đành phải gạt nước mắt tan hàng trong ngỡ ngàng , trong đau đớn tột cùng , trong tiếng cười khan pha lễn máu bạn bè , đồng đội .

Với 15 tiểu đoàn tác chiến ( chắc có người lấy làm lạ ) : vâng đúng như vậy , 15 tiểu đoàn tác chiến , 4 tiểu đoàn pháo binh , 4 đại đội trinh sát 15 đại đội đa năng với kỷ luật cao độ , tác phong đứng đắn , lúc nào cũng hiên ngang đùa giỡn với tử thần , và châm ngôn " thân dân , bảo vệ dân và giúp đỡ dân " được chúng tôi ghi khắc trong tâm hoà khẩu hiệu " CỐ GẮNG " đẻ hoàn thành mọi vấn đề khó khăn trầm trọng . Chúng tôi không sao quên được những cánh tay gầy guộc của bà mẹ Trị Thiên đã ôm chúng tôi run run dâng lệ vì sung sướng khi thấy chúng tôi trở lại Trị Thiên năm 1972 , các bà mẹ, các em gái đón chúng tôi tại đầu đường , không do chính quyền tổ chức mà do tình cảm của con người đối với con người : của các bà mẹ , của các em gái đón những đứa con yêu , những người anh can trường mang thân mình để bảo vệ đồng bào , quê hương đoạ đầy . Ôi những em bé Huế dưới làn mưa đạn của quân thù đã đem đến cho chúng tôi những nắm cơm sấy trong biến cố Mậu Thân . Những vòng hoa chiến thắng của nữ sinh Quảng Ngãi đã choàng cho chúng tôi trong dịp Xuân 1966 sau Liên Kết 81 , miền Trung đậm đà , miền Nam thương yêu , ở bất cứ chiến trường nào chúng tôi cũng tôn trọng kỷ luật của Quân đội và kỷ luật sắt thép của binh chủng là phải tôn trọng dân được dân mến , dân thương thì chiến thắng quân thù chỉ còn là bước chân nhẹ nhàng để đón nhận vinh quang . Tại những vùng tiền tuyến , đi đâu dân cũng mến , dân cũng thương đòan quân Mũ Đỏ . Tại chiến trường cam go Quy Nhơn , Bình Định đòan quân nào ngoại quốc tới đó cũng khựng lại , nhưng đoàn quân Mũ Đỏ dễ dàng lấn chiếm các mật khu mà chúng tự cho là đời đời bền vững . Tại miền Đông chiến khu D , tam giác sắt trở thành những vùng quang đãng , thanh bình sau khi những cánh Thiên Thần lướt qua . Tại miền Tây Cầu Kè đến U Minh , Đông Tháp , nơi nào ngập lụt , nơi nào khó khăn nhất ,chúng tôi ít nhất cũng qua đó một lần trong vinh quang .
Vậy mà năm 1975 , chúng tôi phải tan hàng , phải tù tội phải chịu đựng mọi sự trả thù thấp hèn, đón mạt dã man mà loài người không tưởng tượng nổi . Chjúng tôi không ,một oán hờn với những người lầm đường lạc lối , như nay đã thức tỉnh , chúng tôi không một ngạo mạn với những bạn bè cùng chung chí hướng , những ân tình của dân chúng đã vun đắp chúng tôi thành một ý chí sắt đá nguyện đem tấm thân còn lại trở về quê hương . Xin hãy đừng vơ đũa cả nắm , xin hãy dành một ý niệm tốt cho những thanh niên miền Nam Việt Nam , những người đã dâng hiến cả cuộc đời thanh xuân của mình cho Quốc gia dân tộc , quyết không bao giờ lừa dối , man trá được . Xin hãy dùng tất cả mánh lới thủ đoạn , dù lớn hay nhỏ , dù hời hợt hay sâu xa cho quân thù . Xin linh hòn bạn bè hãy soi sáng cho đường đi lối về của những người con yêu của đất nước , xin hãy bỏ bớt những trò múa may quay cuồng , để gồm thâu tình nghĩa gần lại với quê hương dân tộc , xin hãy lấy tâm gan cộng tác với nhau , xin đừng dèm pha xấu xa , con đườn trở về Thiên nan , vạn nan, đầy dẫy những chướng ngại của quân thù . Xin đừng giúp quân thù cài thêm chướng ngại cho chiến hữu , bạn bè .
Image
Đúng 10 giờ sáng ngày 30/04/1975, tôi nhận được lệnh rút lui , lúc đó Đại đội của tôi là tuyến đầu của Tiểu đoàn tại vùng ngã tư Quân vận đến cầu Tham Lương cách hãng dệt Vinatexco 300 mét về hướng Hóc Môn . Cùng lúc đó đứa con đầu đàn của tôi báo cáo đoàn xe địch đang di chuyển vào phòng tuyến xin lệnh tôi . Tôi xin lệnh trên , được lệnh vắn tắt ( " Tiêu diệt xong rút về Lăng Cha Cả chờ lệnh kế tiếp "Khong thu chiến lợi phẩm , bảo toàn lực lượng " ) tôi cũng xin môt ả thêm Tiểu đoàn chúng tôi rải quân như sau: Đại đội thứ 4 của tôi từ ngã tư Quân Vận đến cầu Tham Lương , Đại đội thứ 3 khu Bình Thới đến ngã 3 Bà Quẹo, Đại đội thứ 2 từ ngã 3 Bà Quẹo đến ngã tư Bảy Hiền , Đại đội thứ 1 từ ngã tư Bảy Hiền đến Lăng Cha Cả và Trương Minh Ký .
Tôi cho lệnh chci tiết cho C/úy Nhiên Trung đội Trưởng Trung đội 1 của tôi , Nhiên nhanh nhẹn trả lời " hiểu và thi hành "
Đoàn xe địch dẫn đàu bằng 3 chiếc PT 76 thư thả tiến vào Sài Gòn không gặp một sức kháng cự nào , qua ngã tư Quân Vận , qua khu gia binh của Liên Đoàn 81 Biẹt Cách Nhảy Dù " Tôi đưa ống nhòm theo dõi từng vết xích của chiến xa dẫn đầu đang nghiền nát quê hương tôi " Hai cột khói nâng bổng hai chiến xa dân đầu kèm theo tiếng nổ của mìn chống chiến xa , một loạt hoả tiễn M72 phóng ra , 3 chiến xa dẫn đầu tan nát , kèm theo 10 xe vận tải chở đầy Bộ đội Bắc việt bị lật nghiêng . Đoàn xe sau đụng nhau dồn cục gây thêm một số thương vong cho chúng . Những Cán Ngố chỉa súng băn loạn xạ , nhưng chúng không thấy chúng tôi . Chúng tôi rút về tới ngã ba Bà Quẹo sau một giờ vất vả và vô sự . Đúng lúc đó địch quân cũng đã hoàn hồn và tiếp tục di chuyển , lần này chúng thận trọng di chuyển thạt chậm , vừa đi vùa bắn những chỗ chúng khả nghi . Đơn vị chúng tôi tiếp tục di chuyển về ngã tư Bảy Hiền .



Một số phóng viên ngoại quốc bu lấy tôi hỏi đủ chuyện . Lúc đầu tôi trả lời bằng tiếng của họ " Tôi không biết " , nhưng sau đó một phóng viên ngoại quốc hỏi tôi bằng tiếng Việt :
Anh thuộc đơn vị nào ?
- Nhảy Dù
- Tôi muốn hỏi anh thuộc Tiểu Đoàn nào ?
- Anh cứ biết một Tiểu Đoàn Nhảy Dù đủ rồi
Thấy tôi không muốn trả lời họ không hỏi nữa . Họ thi nhau chụp hình đơn vị đang rút của tôi rồi bỏ đi về hướng tiền quân .
Nhảy Dù ! không hiểu ai đặt ra cái luật khắc khe , " Không được tự ý trả lời phóng viên dù là tên của mình " . Quý vị thấy những đơn vị bạn có những tên thật đẹp như Cọp Vằn , Hắc Báo , Kình Ngư ...Nhưng Nhảy Dù có những tên vô cùng đẹp như : Con Gà tử mị , Sư Tử mắc nước , Con Cù lần vv..Còn tên các Tiểu Đoàn Trưởng như : Trưởng ấp , Xã trưởng , Bồi bàn , Cao bồi vv... Đại Đội Trưởng : T..sốt rét , N. Lai H..ghẻ vv... có một Đại Đội Trưởng may mắn hơn có cái tên đẹp Út Bạch Lan , thường những tên như vậy cấp dưới biết nhưng không ai dám gọi cả .
Mặc dầu địch quân tiến thật chậm , và thận trọng nhưng chúng tôi nhất định không tha , nếu chúng nắm vững tình hình tiến chậm hai giờ nữa để đơn vị chúngtôi rút lui xong , thì chắc chắn chúng sẽ vào Dinh Độc Lập như vào chỗc không người . Khi tới gần Vinatexco , 2 thiết giáp đi đầu bắn xả vào những " Lô cốt "trong phi trường , nhưng các lô cốt này đã bỏ trống , đơn vị phòng thủ phi trường đã bỏ ngõ từ lúc trưa ngày 29/04/75 . Các loại súng trên thiết giáp thi nhau nhả đạn vào những chỗ chúng nghi ngờ . Chúng đâu có ngờ một pháo đội nguỵ trang kín đáo tại vị trí vãng lai của TĐ 1 PB đang sẵn sàng tiêu diệt chúng , 4 viên đạn chống chién xa ra khỏi nòng súng 105 ly các pháo thủ đầy kinh nghiệm chiến trường rang muối thêm 2 con Cua sắt và 2 vận tải . Lần này chúng có kính nghiệm , chúng không bị dồn cục , nên không bị tổn thất thêm , nhưng đau cho chúng là chúng không biết từ đâu đẻ bắn lại trả thù . Xong nhiệm vụ các pháo thủ Mũ Đỏ cũng rút lui sau khi phá huỷ súng .

Đối với chúng tôi , đánh giặc phải tiêu diệt chúng xong , chiếm mục tiêu , thu chiến lợi phẩm thì đơn vị mới có tổn thất , còn diễn trò như hôm nay , gây cho chúng tổn thất rồi mình chạy làng , thì không bao giờ anh em chúng tôi phải hy sinh . Nhưng trò đùa này của chúng tôi cũng làm chúng điên đầu nhức óc , mỗi lần như vậy , chúng lại phải điều quân lại , tổ chức lại đội hình thật lâu chúng mới dám dè dặt tiến quân tiếp . Chúng bắn tứ tung , mất tinh thần thấy rõ , chính vì vậy mà những đơn vị của chúng ta trước đây mỗi khi đi hành quân bảo vệ đồng bào , nếu không cẩn thận dễ bị tổn thất , vì địch không đương đầu chống lại , chúng vừa đánh vừa rút , hoặc phải đưong đầu với ta là vì chúng không còn ngõ để chạy nữa . Nhất là những vùng rừng núi rộng rãi chỗ cho chúng chạy thì : kỹ thuật tác chiến yếu , tinh thần suy sụp là đơn vị hành quân rất dễ bị nướng lắm .


Từ ngã 3 Bà Quẹo dân chúng còn lại , hối hả chạy dọc theo đường hướng về phái Sài Gòn , sự sợ ãi , hốt hoảng lộ ra trên nét mặt , không còn một nụ cười trên ,môi các thiếu nữ , không còn tiếng nô đùa trên miệng các em bé vui tutoi . " Nhìn những khuôn mặt ngây thơ đầy u uất , long tôi se lại trong đớn đau nát da , đứt ruột " . Đông bào tôi đây , đang cần sự che chở của quân đội , của chúng tôi , nhưng chúng tôi lại " Khiếp nhược " rút lui ! Không thể đuwọc , việc trước mắt như cứu lửa , phải bảo vệ đồng bào như một phản ứng tự nhiên . Có bao giờ chúng tôi phải rút lui cay đắng như thế này đâu ? Có bao giờ đông bào nhìn chúng tôi xong lặng lẽ chạy tiếp đâu ? Bây giờ giặc đã đến ngõ cụt của Thủ Đô . Những giọt mồ hôi quái ác làm mắt tôi cay cứng lấy tay áo quệt mồ hôi ; mặc dù chưa rõ tình hình chung , nhưng tôi biết đây là trận chiến cuói cùng để dân tộc này , quê hương này sẽ đi vào con đường u tối miên man , không một ánh sáng cuối đường hầm . Chúng tôi cố tình trì hoãn rút lui để đồng bào chúng tôi đi được một khoảng cách xa an toàn , tôi cho lệnh rút lui tiếp tục, đứa con đầu của tôi , trước công hoàng Hoa Thám chậm chạp di chuyển về phía sau đồng bào . Tôi đang từ Trung đội 4 trước Hội đồng xã Tân Sơn Hoà lướt qua Trung đội 3 , những anh em chiến hữu của tôi đã xả thân tại khắp các chiến trường đất nước , từng làm quân thù bạt vía kính hồn từ trận nhỏ đến trận lớn . Tôi nhìn vào tận mắt của từng người như cầu van tha tứ chpo tôi , " vì đã cho lệnh họ rút lui trước quân thù " ; nhưng những ánh mắt nhìn tôi như oán hờn , như trách móc . Tôi cúi mặt tránh những ánh mắt thân thương , lầm lũi bước đi trên đường Lê Văn Duyệt quen thuộc , trước cỏng trại Thạch Văn Thịnh( TĐ II Nhảy Dù )con đương rộng thênh thang , không còn bóng người dân di chuyển , chỉ còn lại chúng tôi và một số phóng viên ngoại quốc . Tới cổng Hoàng Hoa Thám tự nhiên chân tôi chồn lại , tưởng như một khói chì nặng nề níu chân lại . " Đứng lại trong thế nghiêm tự nhiên , cay đắng nhìn cổng trại thân yêu , cách đây 10 năm tôi vui mừng rạng rỡ bước qua để chính thức trở thành một quân nhân Mũ Đỏ " , chiếc cổng vô tri này nhưng ma lực của nó đã có sức hút vô cùng mạnh mẽ đối với biết bao thanh niên anh hùng ở lứa tuỏi đôi mươi . Hình ảnh chiếc cong hoang tàn với hàng rào Concertina ngổn ngang như hoang phế lâu ngày , nhìn sâu vào trong trại , tôi thấy thấp thoáng những bạn bè , chiến hữu chúng tôi đang vội vã di chuyển trong đó . Tôi không hiểu tôi đang là một thứ người gì , nhưng tôi đang đứng sững nghiêm chỉnh trước chiếc cổng như đại diện cho đơn vị , đơn vị tôi ton thờ như thánh thần trong tâm khảm . Những ngày tung hoành ngang dọc nào có mơ ước gì hơn là tiêu diệt kẻ thù để đồng bào được yên ổn làm ăn . Tôi đưa tay chào chiếc cổng thân yêu , các phóng viên muốn thu hình này nhưng quá muộn , tôi lững thững bước đi như xác không hồn . Nước mắt tôi dàn dụa xen lẫn mồ hôi cay đắng , cơn nấc nghẹn ngào làm tôi nghẹt thở . Giã từ Hoàng Hoa Thám , giã từ đơn vị thân yêu , đơn vị đã được chúng tôi dâng trọn cuộc đời thanh niên cho Hoàng Hoa Thám , dâng trọn cho đoàn quân Mũ Đỏ .


Bây giờ với cái thân tàn tạ , hèn nhát này , dẫn đơn vị rút lui , dù theo lệnh trên , nhưng trước sức tấn cong ào ạt của địch quân vào Thủ Đô . Ôi những chiến tích nức lòng dân như : A Chau , A Lưới Tân cảnh , Quảng Ngãi , Chương thiện , Tây Ninh , Kiến Phong , Bình Long , Kom Tum , Quảng Trị vv... có chăng chỉ còn là một cơn gió thoảng qua trong cơn nóng nung lửa của tâm hồn . Sự dằn vặt tột cùng của sự tháo lui . Ôi cấp chỉ huy của tôi ơi !. Ôi bạn bè của tôi ơi ! Ôi những chiến hữu Mũ Đỏ kiêu hùng của tôi ơi ! Chúng ta đã chạy thật hay sao đây ? Đồng bào của chúng ta kia ! Quê hương của chúng ta đó ! Doanh trại của chúng ta đây ! Hồn thiêng của bạn bè ẩn hiện đâu đây có ai cảm thông nỗi thống khổ này ? Những khuôn mặt của Hiền , Được , Khiem , Nhượng , Tống , Hùng , Hoà và hàng ngàn các chiến hữu Mũ Đỏ đã ra đi ! giận dữ nhìn tôi .
Tôi nhắm mắt bước đi theo đoàn quân chậm chạp rút lui như tử tội nặng nề bước chân len bực thang máy chém .
Tôi cố gắng im lặng để thanh thản bước đi nhưng hình ảnh anh em bạn bè , họ là những chiến sĩ vô danh cứ soi mói nhìn tôi như oán trách , như căm hờn . Bẩy điều tâm niệm khi mới bước chân vào quân ngũ tôi vẫn còn thuộc lòng từng câu từng chữ :

Luôn nêu cao danh dự của Quân Đội
Phải thân dân bảo vệ dân và giúp đỡ dân .


Nhưng giờ đây lúc này không phải một điều nào chúng tôi cũng giữ được , thế hệ sau sẽ nguyền rủa . Chúng tôi không phủ nhận , xin nhận tất cả tội lỗi nhưng phải làm gì khác hơn đây . Từ ngày bước chân vào quan ngũ là đã sẵn sàng chấp nhận tấm Poncho gói gém thân mình , hay vinh hạnh hơn nữa là "lá Quốc kỳ phủ lên thân " , sống chết chẳng qua là cuộc đổi đời , quan niệm như vậy nên sự sống , sự chết đối với những người Mũ Đỏ thật cụ thể và nhiệm vụ Quân đội , nhân dân giao phó mới đáng kể , nhưng bây giờ nhiệm vụ của Quân đoọi giao phó là rút lui hay sao đây ?Lằn tên nào cản được bước chân chúng tôi , bom đạn nào làm chùn chân chúng tôi , quân thù nào ngang cấp số với đơn vị dám đương đầu . Thân xác chúng tôi ai mà chẳng có vết tích của chiến tranh để lại trên thân thể . Thương xót cho bạn bè , cho đồng bào , cho dân tộc không biết sẽ phải đi về đâu đay ?\
Image
---Thưa Đích Thân " Ba " vừa đánh cháy thêm hai chiến xa nữa . Tiếng của Hoà người mang máy cho tôi . Hiện nay Hoà đang ở Úc Châu .
--- Ở đâu ? Tôi hỏi vắn tắt .
--- Ngã ba Bà Quẹo .
Tôi vừa băng qua Đại đội 1 của đơn vị , được lệnh trực chỉ theo đường Trương Minh Giảng về hướng Sài Gòn đến ngã 3 trương Tấn Bửu chờ lệnh .
Dọc theo bên đường dân chúng ngơ ngác nhìn chúng tôi , người chạy theo lên hướng Sài Gòn , người ngơ ngác đứng nhìn . Tôi vừa dừng chân tại Trương Tấn Bửu , trước bót Cảnh Sát .

---" Hai " đánh cháy 1 chiến xa và 3 xe vận tải tại ngã tư Bảy Hiền , " Ba " đã qua Lăng Cha Cả , cùng bọo chỉ huy Tiểu Đoàn . " Một " còn nằm tại chỗ .

Tôi im lặmg nghe Hoà báo cáo .

---Thưa Đích Thân , " Hai " đã qua Lăng Cha Cả .

Cùng lúc đó tôi nhận được lệnh kiếm chỗ trống trải đẻ tập họp cả Tiểu Đoàn . Trung đội 4 của hạnh cho biết có sân trương Đại Học Vạn Hạnh có thể tập họp đưọc . Năm phút sau Hạnh báo cáo có một xe jeep mang huy hiệu Biệt Động Quân , nhưng do bọn mang băng đỏ bên tay trái lái . Tôi cho lệnh chận xe đó lại khai thác tin tức .

Trung đội 4 báo cáo xe đó là của một Trung tá BĐQ nhà gần đó bị bọn mang băng đỏ ( sau này đồng bào gọi là bọn 30-04 ) cướp xử dụng , trên xe có 6 tên đa số là sinh viên của Đại học Vạn Hạnh . Chúng xử dụng súng của Nhân dân tự vệ . Đồng bào thấy chúng tôi mồ hôi nhễ nhãi , người tiếp tế nước đá lạnh , người mang ra bình trà , có ngưòi mang cả đồ ăn . Lúc đó mặc dầu khát dữ dôi nhưng cầm ly nước lạnh ,không sao tôi có thể nuốt trôi được ; Tôi đang căm tức bọn băng đỏ , bọn đê tiện phản bội . Ý tưởng thịt bọn chúng lẩn quẩn trong đầu tôi , nhưng tôi nghĩ sau này có thể bị xuyên tạc và dân chúng sẽ hiểu lầm đơn vị , hiểu lầm binh chủng .

Một điều chúng tôi tối kỵ , làm gì cũng được , nhưng nếu danh dự binh chủng bị xúc phạm , dù có chiến thắng hay lợi lộc mấy đi chăng nữa , chúng tôi cũng phải suy xét lại .Tôi nhớ Tết Mậu Thân , đơn vị chúng tôi trên đường về giải cứu cố đô Huế , Tiểu Đoàn của tôi bị Tiểu đoàn VC bố trí trên Cổ Thành Huế chận lại ; trong khi chúng tôi ở dưới thấp lại còn vướng một dẫy lạch sâu trông sen chung quanh Cổ Thành này . Thành cao không thể leo lên dễ dàng , khó khăn không thể nào vượt qua , nhưng vị chỉ huy của chúng tôi cầm chiếc " nón đỏ " và nói : " Đây là lần đầu tiên nón đỏ này bị ô nhục " Đơn vị nghe thấy máu nóng bừng bừng ai cũng tưởng như mình thêm cánh , thêm sức . Không đầy 30 phút sau sức lực huyền bí dũng mãnh của tinh thần bảo vệ danh dự đơn vị bùng lên , nhứng Thiên Thần sát cộng đã hiên ngang bay qua từng chốt của địch diệt trọn phòng tuyến chính để vào Thành nội Huế . Chính nhờ vậy chúng tôi tiếp cứu được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I BB trong trại Mang Cá Huế .

Cùng luc đó Hoà báo cáo " 1 vừa đánh cháy một chiến xa tại Lăng Cha Cả và 2 xe vận tải " vào vào khu Đại học Vạn Hạnh , tôi cho lệnh đứa con thứ tư của tôi đóng chốt giữ an ninh chung quanh khu Đại học và từng đơn vị vào sân Đại học Vạn Hạnh tập họp chờ lệnh . Tôi thấy bọn băng đỏ lố nhố trong khuôn viên ĐHVH , chúng có vũ khí nhưng không một tên nào dám nhố nhăng , vì sau chúng có anh em của tôi kềm súng sẵn sàng hỏi tội chúng . Ý tưởng phải thanh toán hết bọn này lại hiện ra trong trí . Nhưng vị anh cả của chúng tôi im lặng , lầm lì quan sát, tôi thấy môi anh mím chặt , cặp mắt giận dữ nhìn chúng nhưng chưa một phản ứng , thì một tên mặc áo tu hành Phật Giáo tay cầm loa đưa ngang miệng dõng dạc trong câu nói điên rồ : " Đất nưóc đã Thông nhất , yêu cầu các anh em Nhảy Dù hãy buông súng trở về với Cách mạng , cách mạng sẽ khoan hông cho anh em " .


Phản ứng tự nhiên , tôi rút súng chĩa về phía hắn , hắn thụt lùi vàot rong hành lang , và hàng trăm cây súng sẵn sàng nhả đạn. Nhìn lên những anh em trên cao ốc , tôi thấy anh em đều chĩa súng sẵn sàng chờ lệnh . Tôi biết rằng nếu tôi siết cò súng là súng nổ rền trời ngay lập tức , để đưa bọn cộng con về với thiên đường Cộng sản . Nhưng thấy chúng cụp đuôi khiếp vía chạy trốn Tôi cho súng vào bao , thầm nghĩ may mắn cho chúng gặp tôi , chứ gặp đơn vị khác thì hẳn là ĐHVH này chắc chắn phải trở thành ĐH " Bất Hạnh " ngay lập tức ....


Anh cả của chúng tôi im lặng , đứng sững như trời trồng , sau đó anh cho lệnh Đại đội 1 tim bãi đất trống trải để tập họp Tiểu Đoàn , và cả đơn vị rút ra khỏi khu ĐHVH . Đơn vị tôi là đơn vị sau cùng ra khỏi khu Vô hạnh này . Tôi không thể hiểu nổi ngay tại nơi huấn luyện đào tạo ra lớp người Tổ Quốc mong cho mai sau lại có đuôi chồn đỏ như thế này hay sao ? Thua địch quân không đau , buông súng không tủi bằng phải thua ngay những người mình hằng quý mến .

Người tình lang mất người yêu chắc cũng chỉ đau đớn thấm thía như chúng tôi lúc này . Quê Hương ơi ! Tổ Quốc ơi ! Đông bào ơi ! lỗi tại ai đây ?Tại chúng tôi hèn nhát ? tại chỉ huy tồi ? tại vận nước suy đồi ? hay nó đã ruỗng ra từ bên trong .....! chúng tôi chỉ còn là cái vỏ mỏng bên ngoài làm sao chống đỡ nổi đây ? Đại đội tôi đi sau cùng và vừa ra khỏi khu phản bội được 3 Trung đội , , Trung đội sau cùng và tôi rút ra khỏi khu Vô Hạnh mà phải đi giật lùi như trong vùng địch , cẩn tắc biết đâu chúng giở trò cắn trộm .
Tâm hồn tôi trùng xuống xen lẫn cơn giận vô bờ . Bọn chòn đỏ lại ló đầu ra , tôi định cho đơn vị khai hoả , vì cơn giận trong tôi lại bừng lên , nhưng cùng lúc đó danh dự của đơn vị trồi lên lấn át , tôi cho súng vào bao cho lệnh đơn vị tiếp tục rút lui ra vùng tập trung mới . May cho bọn chúng nếu không nghĩ đến danh dự có thể sẽ bị hiểu lầm , bị nguyền rủa thì chắc chắn chúng phải đền tội . Nếu không thì tôi , phải chính tôi , vì căm hận chắc chắn không thù hằn , nhưng vì uất ức trước sự phản bội phũ phàng , một phút không kềm hãm được sự nóng giận , tôi chỉ cần nhẹ nhàng vẫy tay thôi bọn chúng sẽ phải theo Cáo Hồ của chúng .

Ôi danh dự của đơn vị sao cao siêu quá , sao dũng mãnh quá , chế ngự được tát cả . Tôi khong hiểu bọn chúng có biết rằng chúng vừa thoát chết hay không ? chúng có hiểu rằng nếu danh dự của đơn vị không chế ngự được chúng tôi thì hậu quả sẽ đến với chúng nhu thế nào ? ! Những dồng chữ này chắc chắn sẽ được một hay nhiều tên trong bọn chúng tịa chốn Vô Hạnh hôm đó đọc đưọc , để chúng hiểu rằng hôm đó không may súng nổ : chính là vì chúng đã không khôn ngoan , đã phản bội trắng trợn , đã ngoại tình đê tiện hèn hạ trước mặt người yêu thương quý mến mình .

Bước ra khỏi khu đê hèn , hai Trung đội Trưởng của tôi có ý trách móc tại sao tôi không giết bọn chúng . Tôi im lặng, tôi muốn anh em giải bày để vơi đi niềm uẩn ức của những anh em đang bị phản bội trắng trợn đê hèn . Bọn vô lương tâm đó ngày nay không hiểu chúng có còn được như Trịnh Công Sơn hay đang lần mò trong những trại giam cầm cho đáng đời bọn xảo trá gian manh .

Vùng tập họp mới của chúng tôi ngay tại ngã tư Yên Đổ và Trương Minh Giảng . Chúng tôi vừa vào hàng ngũ , đơn vị nghiêm chỉnh trình diện anh cả của đơn vị .
Huynh Trưởng của đơn vị gương mặt thểu não nói trong nghẹn ngào . Tôi có cảm tưởng như tiếng nói của anh bị đứt đoạn nhiều lần vì tiếng nấc đau thương : " Tôi xin chào tạm biệt các anh em . Xin báo cho các anh em biết chúng ta đã nhận được lệnh buông súng đầu hàng từ cấp chỉ huy tối cao của chúng ta . Cấp chỉ huy trực tiếp của chúng ta hoàn toàn mất l/l từ ngày hôm qua . Nhưng chúng ta không thể đầu hàng chúng được , vì danh dự của đơn vị tôi điều động anh em đến đây để bảo vơi anh em một lệnh cuối cùng : Chúng ta chào tạm biệt nhau tại đây ai về nhà nấy ; tất cả quân trang , quân dụng tuỳ anh em định liệu ; quyền chỉ huy của tôi đến đây đã chấm dứt . "

Cả đơn vị im lặng khôg một tiếng xì xào bàn tán . Chúng tôi lặng người trong ngỡ ngàng tột độ , những lời lẽ thiếu mạch lạc của vị huynh trưởng phát ra từ xúc động . Tiếng nói của anh chấm dứt sau 5 phút đơn vị vẫn đứng im , từ trên xuôngs dưới không ai muốn xa nhau , không ai muốn tan hàng . Cái im lặng xa vắng , cái im lặng khủng khiếp . Tôi cũng dã biết giờ phút anỳ phải đến , nhưng không ngờ nó đến trong bẽ bàng thế này !!! Nhìn hàng quân oai hùng , súng đạn còn đủ dùng , mặt mũi âu sầu . Cặp mắt mọi người đỏ hoe , tất cả đều gục mặt như mặc niệm bạn bè, mặc niệm đơn vị . Cơn đau đớn ê chề xâm chiếm dần dần như làn hơi thổi vào chiếc bong bóng tới độ không chịu đưọc phải phát nổ . Sự phản bội từ trên xuống dưới , từ trong ra ngoài như cơn lốc bạt ngàn tạt vào mặt chúng tôi , cả hàng quân đang im lặng ; vị huynh trưởng vẫn còn đứng đó , anh đang cúi mặt chận cơn đau đại nạn. Tôi biết hàng ngày anh ăn nói rát văn hoa , nhưng hôm nay làm sao lời anh cộc lốc . Anh còn muốn nói niều , có lẽ anh còn muốn nói thật to , gào thét thật lớn , để một lần , một lần thôi rồi không bao giờ được tâm sự nữa . Thình lình Trâm một Trung đội Trưởng của tôi , nước mắt dàn dụa nhảy ra ngoài hàng quân Trâm dơ cao trái lựu đạn quát to : ' Xin các vị huynh trưởng kính mến của tôi hãy ra về . Các anh em của tôi hãy tan hàng , để một mình * Trâm ở lại thôi . Tôi dã thề không đội trời chung vớ bọn vô thần , chúng vào đây thì tôi phải đi ." Trâm vừa nói xong khoảng 10 anh em vừa bước tới chỗ Trâm vừa nói :" Để tụi tao ( tụi em ) chơi chung với . Chúng ta không đầu hàng và cũng không tan hàng . Nhảy Dù chỉ có tiến không có lùi ."

Hoàng Đại đội Trưỏng đại đội thứ nhất la lớn :

---Để tao chơi chung với tụi bay.

Vị huynh trưởng cũng chạy lại chỗ Trâm . Tiếng Trâm sang sảng nhưng nghẹn ngào đứt quãng :

---- Không được Đích Thân còn nhiều việc phải lo , còn nhiều việc phải làm , nhất là gia đình của Đích Thân .

----Ai cũng có gia đình tao chỉ biết có Gia Đình Mũ Đỏ , Gia Đình của Mũ Đỏ là gia đình của chính tao .

Một số anh em khác từ từ rời bỏ hàng ngũ , súng đạn , quân phục vứt ngổn ngang . Nhất là những anh em lớn tuổi , từ từ rời bỏ bãi tập họp mỗi người một phương , tôi không biết họ có mang theo vũ khí hay không , hay bỏ lại những gì ? còn lại từng tốp một ôm nhau nói chuyện . Tôi không họ đang nói gì nhưng nhìn khuôn mặt ai ai cũng chứa đựng đầy uất hận hiện rõ ràng trên khoé mắt đỏ ngầu rực lửa . Trên bãi , súng đạn , ba lô , nón sắt nằm ngổn ngang và trải dọc theo 4 hướng ngã tư .

Con phố hiền hoà của Đô Thành không ngờ nay lại chứng kiến cảnh tan hàng của một đơn vị . Tôi chắc rằng đâylà một đơn vị lớn nhất và là đơn vị sau cùng của Biệt Khu Thủ Đô giã từ vũ khí đi theo định mệnh của dân tộc . Đơn vị đã tan hàng có trật tự và kỷ luật của đơn vị thực sự bãi bỏ sau tiếng nói nghẹn ngào của một vị huynh trưởng đơn vị . Tôi quyết dịnh phải khuyên Trâm và anh em chúng tôi đang bu lại quanh Trâm . Tôi linh cảm thấy , chậm trễ sẽ xảy ra hậu quả không lường đưọc . Tôi chen vào đám đông và la lớn :

--- Chúng ta đàng nào cũng chết , nhưng phải chết cho xứng đáng mới đưọc . Chúng ta hãy l/l với nhau trở về Long Khánh . Lâm Đồng rồi cùng chiến đấu . " Trâm đưa trái lựu đạn cho anh ".

Trâm đưa trái lựu đạn cho tôi sau một hồi giằng co . Chúng tôi cùng thoả thuận hãy tan hàng rồi kiếm kế sau . Bất chợt hai tiênglựu đạn nổ chát chúa ở gần bbức tường cuối bãi . Chúng tôi chạy vội lại quan sát . Tổng công 11 anh em đã ôm nhau từ giã , mắt người nào cũng mở như gửi lại những thông điệp bất khuất , không đội trời chung với cộng sản . Trong số 11 anh em cấp bậc lớn nhất là Thiếu uý Trung đội Trưởng , người cấp bậc nhỏ nhất là binh nhì khinh binh . Không có thì giờ cùng địa điểm để chôn cất họ , chúng tôi chỉ còn biết sắp xếp họ nằm ngay ngắn , cùng nhau nghiêm chỉnh chào họ . Anh em đã tự chọn con đương vinh quang cho mình , tôi thầm khấn nguyện trước mặt anh em : " Chúng toi cần phải sống , vì chắc chắn chúng tôi vẫn còn phải tranh đấu với bọn quỷ hại nước hại dân".

Sau này tôi được tin Trâm về Bảo Lộc hoạt động nhưng bị nội phản , bị xử tử tại đó . Hoang về Xuân Lộc hoạt động cũng bị tử thương , còn tôi lưu lạc khắp nơi , nhất quyết không trình diện bọn chúng , tôi vượt biên bằng đường bộ qua Khe Sanh , Lao Bảo , Hạ Lào .

Hỡi các bạn trong Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam ; Thưa các bạn Quân Nhân QLVNCH ; Bạn bè chúng ta đã chết , một số đang bị đầy đoạ cực hình , Quê hương chúng ta còn trong tay bọn quỷ đỏ . Xin các bạn đừng vì xe hơi , nhà cao cửa rộng , ham chơi phù phiếm , mà quên đi những người thân yêu , những Vong Hồn bạn bè đã khuất , những cô nhi tử sĩ đang đón chờ từng giờ từng phút , mong mỏi bước chân nhịp nhàng của quý bạn tiến về quê hương .

Hỡi các bạn thanh niên , lịch sử 4.000 năm văn hiến không lúc nào , không thời đại nào dân tộc chúng ta khiếp vía trước móng vuốt tàn ác của quân thù , không khi nào thanh niên Việt Nam lại đê hèn , quên đi gông cùm đỏ dã man đang siết chặt dân tộc ta . Xin hãy cùng nhau bước lên tiến tới và đừng bao giờ quên bọn quỷ đỏ đang lẩn khuất đâu đây đang ra sức ngăn cản bước chân oanh liệt của chúng ta .

Nghiêm ơi , Trâm ơi , Hoàng ơi , linh hồn các bạn có linh thiêng hãy soi sáng bước chân chúng tôi , máu của các bạn đã chảy , thân xác của các bạn đã nằm xuống , nhưng tấm gương can đảm của các bạn sẽ còn mãi mãi . Trận chiến vừa qua chúng ta tạm lùi , tạm thua giặc . Nhưng chúng ta không đầu hàng giặc , đơn vị chúng ta không buông súng để qui hàng giặc . Tinh thần chúng ta còn đó , chúng ta bỏ nước ra đi bằng áp lực của ma quỷ . Xin hãy hứa cùng nhau " Chúng Ta Sẽ Trở Về "

Mùa Đông năm 1987 CHI LANN " Viết Theo Hùng "
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

[right]http://phanchautrinhdanang.com/30thang4/TiecThuong.jpg[/right]
Cái Dũng của Người Đông Phương
[left]http://phanchautrinhdanang.com/30thang4/vqvt1.JPG[/left]
Việt Hải
Los Angeles, California
Những cái gương can đảm của các binh lính trong đạo quân Kamikaze quyết tử của quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản đốt nén nhang lên đường sáng hôm 7 tháng 12 năm 1941 để tấn công hạm đội Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng làm con trai tôi tự hỏi vì sao họ lại như thế khi tôi cùng các con xem cuốn phim tài liệu chiến tranh "Pearl Harbor" do đạo diển Michael Bay dàn dựng. Sau khi liệng hết bom, bắn hết đạn, từng chiếc phi cơ của phi đội quyết tử Thiên Hoàng nhắm vào các boong tàu hải quân Hoa Kỳ cứ lao vào như điên dại. Nước Mỹ sững sờ, nước Mỹ rúng động, và nước Mỹ đau thương trong trận Trân Châu Cảng.

Từ sự đau thương đó đến 4 năm sau nước Mỹ nhất quyết kết thúc chiến tranh mau lẹ bằng đường tắt ném hai quả bom nguyên tử vào ngay trung tâm thành phố Hiroshima và Nagasaki, số thương vong của người Nhật là 66,000 và bị thương 69,000 tại Hiroshima, và 39,000 chết và 26,000 bị thương tại Nagasaki. Hằng triệu người Nhật ngơ ngác trong cơn chấn động khủng khiếp của bom nguyên tử vốn xa lạ với con người thuở đó. Nước Nhật kinh hoàng, nước Nhật giận dử và nước Nhật đau thương. Để tránh thêm thiệt hại và chết chóc cho nhân dân vô tội, ngày 2 tháng 9 năm 1945 Nhật hoàng Hirohito ký hoà ước chấp nhận thua trận vô điều kiện trên chiếc hàng không mẫu hạm USS Missouri. Tin buồn đến với quân đội Nhật, hàng ngàn binh sĩ Nhật từ chối thua trận và những thước phim lịch sử đã thu nhận tinh thần dũng sĩ quả cảm của người lính Nhật, mặc dù thế giới lên án sự dã man của quân đội Nhật trong thời chiến tranh. Nhưng người ta không khỏi bùi ngùi, thương tâm khi thấy trong tinh thần samurai của kiếm sĩ đạo kendo hay võ sĩ đạo bushido, người lính thất trận tự đâm và mổ bụng chính mình, theo truyền thống harakiri, vì danh dự họ từ chối đầu hàng. Chỉ trong vài ngày sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các đơn vị quân đội Nhật Bản ghi nhận gần 600 binh sĩ Nhật tự vận và con số tiếp tục, số binh sĩ tự vận tại hải ngoại không đuoc kiểm kê. Trong hàng tướng lãnh của Nhật có bộ trưởng chiến tranh Korechika Anami, tướng Seiichi Tanaka, tướng Hajime Sugiyama, tướng Umetzu, đô đốc Hải quân Ugaki và đô đốc Takijiro Onishi đã tự rút gươm đâm thủng bụng mình tự sát, họ để lại cho quân sử Nhật bản những tấm gương samurai bất khuất mãi mãi.

Cũng chuyện ngày xưa của nước Tàu, trong thời xuân thu chiến quốc, chuyện kể rằng một vị tướng quân thua trận, ông và người hầu cận bị đánh đuổi bỏ chạy lên núi cao. Hết ngày này qua ngày nọ, hết tháng này sang tháng kia, ông cảm thấy ô nhục mãi ẩn náu trên miền cao sơn và ngày về vô vọng, ông từ chối chết dần, chết mòn. Ông bảo người hầu cận chuẩn bị cho ông con chiến mã. Sau khi khoác chiến bào với thanh kiếm trên tay như thuở xông pha nơi chiến trận, ông thúc chiến mã phi bay từ cao sơn rơi xuống vực sâu thẳm để chọn cái chết xứng đáng cho đạo làm tướng. Câu chuyện này nói lên cái ý niệm đơn giản: Là ngừời lãnh đạo, chỉ huy phải tròn trách nhiệm với sơn hà, là một tướng quân là giữ phong cách, danh dự và sĩ khí của người làm tướng mà phong vị của họ gầy dựng do công trạng "Nhất tướng công thành vạn cốt khô".
Do đó từ những phi đội thần phong quyết tử hay những bushido hay kendo đã harakiri của người Nhật cho đến viên tướng Tàu trong thời tao loạn xuân thu thuở xưa chỉ nêu lên cái giá trị của người Đông phương liều chết cho lý tưởng mà họ mang để quên thân mình. Như lịch sử Việt Nam không thiếu gương can đảm từ Trần Bình Trọng, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương,... Tôi bùi ngùi nhớ về các vị Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn,... mang cái "Dũng" của người xưa.

Nói những dòng này như vậy để tôi cũng xin khơi lại lòng dũng cảm của vô số anh hùng vị quốc vô danh trong QLVNCH mà những ngày cuối cùng của trang sử miền Nam, tổng thống của họ vì sợ nhân dân vô tội chịu cơn mưa đại pháo của "cái-gọi-là" Quân đội Nhân dân Việt Nam (QDNDVN) man rợ, vô nhân tính xâm lăng từ bắc phương, hàng ngàn chiến binh VNCH đang chiến đấu tới cùng như các Thiên Thần Mũ Đỏ của binh chủng Dù quyết tử thủ bảo vệ thành trì Hoàng Hoa Thám chận sức tiến quân của địch từ hướng Hốc Môn hay những chiến binh cọp biển của Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục bảo vệ tuyến đường xa lộ Biên Hòa chận đoàn quân CS tràn về thủ đô. Họ chiến đấu trong danh dự, họ quyết tử vì lý tưởng bảo vệ sơn hà, cũng như nhiều anh em quân nhân khác từ chối thua cuộc cùng nhau rút chốt lựu đạn ôm nhau nổ tung để chọn cho mình cái chết xứng đáng nhất mà sử xanh của QLVNCH sẽ mãi mãi tri ân họ. Sự ra đi hào hùng của ho là cái uy dũng khi bảo vệ từng tất đất quê hương của quân đội VNCH, tương phản với cái hèn hạ đốn mạt của người CSVN là âm thầm triều cống đất đai của tiền nhân để lại để được nước đàn anh Trung quốc xoa đầu cho an vị tiếp tục thống trị quê hương Việt Nam.

Trong bầu không khí 30-04 lại về, tôi xin hân hạnh giới thiệu hai tác phẩm viết bằng kinh nghiệm đau thương của nhà văn Dương Viết Điền (DVĐ), có bút hiệu là Hạ Ái Khanh, anh là một sĩ quan ngành chiến tranh chính trị, một tù nhân nếm mùi khắc nghiệt của cái cụm mỹ từ gọi là "học-tập-cải-tạo", một hình thức tù tội bịp bợm trá hình, một phương cách trả thù người quân dân VNCH để hòng đánh lừa dư luận quốc tế. Anh DVĐ đã bỏ ra một thời gian dài để hoàn tất hai tác phẩm, loại biên khảo có giá trị về sử liệu "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân" và thiên hồi ký bi thương "Trại Ái Tử và Bình Điền". Cả hai tác phẩm khi đọc người ta không khỏi ngậm ngùi cho tinh thần bất khuất hay thán phục cũng như cảm thông vì cái dũng khí mà những người lính QLVNCH đã kinh qua.

Trong cuốn "Trại Ái Tử và Bình Điền", tác giả có đề cập một gương bất khuất của một vị sĩ quan đáng kính QLVNCH là Thiếu tá TQLC Võ Đằng Phương noi gương theo tinh thần sống vinh hơn chết nhục, năm 1985 từ trại tù Bình Điền ông viết thơ gởi cho Thủ tướng CSVN là Phạm Văn Đồng để tố cáo chính sách thâm độc trả thù dã man, ngược đãi tù nhân là những quân nhân cán chính VNCH. Trong khi trước đó Phạm Văn Đồng khoe khoang tuyên bố với các phóng viên quốc tế họ đối xử nhân đạo, khoan hồng với các viên chức phục vụ trong chế độ cũ và người CS không hề chủ trương đánh người ngã ngựa. Bài sưu khảo của tác giả DVĐ cho thấy tội ác đê hèn của nhà cầm quyền CSVN là sự tra tấn, đánh đập tù nhân cho đến chết hay gây thương tích cho họ lâu dài. Trích đoạn như sau:

"Thiếu tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG:
Biểu tượng bất khuất và kiêu hùng của một sĩ quan Quân lực VNCH (QLVNCH). Nói đến cuộc bạo động trong tù, chúng ta không thể quên được "Vụ 20 tháng 04 năm 1979" xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung tâm trại "cải tạo" Bình Điền tại tỉnh Thừa Thiên. Vụ này do một ban tham mưu gồm 9 sĩ quan của QLVNCH chỉ huy toàn thể 500 tù nhân trong trại vùng dậy đòi cải tổ chế độ lao tù.
9 sĩ quan trong ban tham mưu đó là:
- Trung tá Nguyễn Tri Tấn: Trung đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3BB
- Thiếu tá Vũ Ngọc Tụng: Quân Trấn Đà Lạt
- Thiếu tá Phạm Cang: Tiểu đoàn trưởng TQLC
- Thiếu tá Lê Quang Liển: Sĩ quan TQLC
- Thiếu tá Hoàng Hưng: Sĩ quan Bộ Binh
- Thiếu tá Phan Văn Lập: Chi đoàn trưởng Thiết giáp.
- Đại uý Trần Biên: Sĩ quan Truyền tin SĐ5/BB
- Đại uý Nguyễn Thuận Cát: Sĩ quan Biệt Động Quân
- Đại uý Nguyễn Đình Khương: Tiểu đoàn phó TĐ120 Địa Phương Quân, tiểu khu Quảng Trị...

Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đã bị bọn công an đánh đập một cách bạo tàn đến gãy xương, trào máu, bầm gan, tím ruột. Nhiều sĩ quan đã bị chết trong tù sau những trận đòn dã man vô nhân đạo như Đại uý Nguyễn Văn Báu, Đại uý Nguyễn Thuận Cát, Thiếu uý Trần Hữu Sơn. Còn tất cả 9 sĩ quan trong ban tham mưu nói trên đều bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại phân trại 4 thuộc trung tâm trại "cải tạo" Bình Điền lúc bấy giờ (20 tháng 04 năm 1979) mới chứng kiến được cảnh công an từ dưới Ty Công An thuộc tỉnh Bình Trị Thiên lên tàn sát tù nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng đã dã man, bạo tàn đánh đấm liên tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đánh, đấm, đá, đạp 3 tiếng đồng hồ, bọn Công An "thợ đấm" bắt đầu rút khỏi trại để lại trong trại 50 tù nhân nằm la liệt, rên la quằn quại trên những vũng máu như anh Nguyễn Văn Thiện, anh Nguyễn Văn Vy, anh Nguyễn Hữu Ái,anh Đôn, anh Nguyễn Trung Việt, anh Nguyễn Hữu Tứ, v.v. giống như cảnh ở ngoài chiến điạ hoang tàn chờ trực thăng đến bốc xác chết và những người bị thương vậy.

Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù nhân trong trại đều căm thù đến uất nghẹn. Có một sĩ quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất. Mang sẵn trong người giòng máu bất khuất và anh hùng Lê Lợi, Quang Trung, giòng máu kiên cường và dũng cảm của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng cũng như ý thức được Trách nhiệm, Danh dự và Tổ quốc, anh nguyện dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục tù Cộng sản; Tiếp tục nuôi dưỡng ý chí đấu tranh đến giọt máu cuối cùng, ngõ hầu mang vinh quang về bồi đắp cho quê mẹ, tô thắm cho non sông. Bởi vì anh ta biết rằng, chân lý dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mĩm cười với trời xanh bất chấp cả thời gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đoạ đày trong kiếp tù tội thêm 10 hay 20 năm nưã, cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên ngang bảo vệ chân lý đến cùng không một chút nao núng trong lòng, đó là:
Thiếu tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG, thuộc Lữ-đoàn 258 TQLC/QLVNCH. Nhận thấy Cộng sản đã đối xử quá tàn nhẫn vơí tù nhân qua chế độ lao tù trong các trại "cải tạo" nhận thấy Cộng sản đối xử tàn tệ vơí vợ con cuả tất cả các sĩ quan cũng như cuả các viên chức thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hoà trước đây, nhận thấy Cộng sản sau khi chiếm được miền Nam vẫn cổ xuý chiến tranh gây hấn Kampuchia làm con dân nước Việt chết thêm hàng chục nghìn người, nhận thấy Cộng sản không chịu thực thi những lời cam kết hòa giải dân tộc mà vẫn làm cho nhân dân Việt Nam đói khổ sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam,Thiếu tá Võ Đằng Phương mặc dầu đang ở trong ngục tù Cộng sản, quyết định viết một bức thư gởi cho tên Thủ tướng Phạm Văn Đồng để yêu cầu tên thủ tướng nầy giải toả những vấn đề nêu trên. Anh Võ Đằng Phương ở tù lúc bấy giờ đã hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt khoát viết một bức thư gởi tên Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đại diện cho nhân dân Việt Nam yêu cầu chính phủ Hà Nội xét lại chính sách hà khắc cai trị nhân dân cuả đảng Cộng Sản Việt Nam. Chính Đại uý Nguyễn Đình Khương, Tiểu đoàn phó TĐ 120 Điạ Phương Quân, người đã tham gia vụ 20 tháng 04, đã bị Cộng Sản cùm gần 5 năm mới được thả ra, đã được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Nội dung bức thư mà anh Võ Đằng Phương gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng rất cương trực."

Thơ khá dài, lời lẽ khúc chiết, thẳng thắng, và hợp lý yêu cầu chính quyền CS hãy thực thi vấn dề nhân đạo và hoà giải dân tộc. Hậu quả của lời kêu gọi từ đáy ngục này của các tù nhân VHCH là những trận đòn trả thù và rồi CS đưa ông Võ Đằng Phương ra một tòa án ngụy tạo và kết án ông thêm 10 năm tù. Trong thời gian bị giam cầm ông bị đánh đập tàn nhẫn đến mang thương tích. Khi được trả ra khỏi tù năm 1995 thì sau đó cơn bệnh nội thương do những trận đòn trong ngục tù làm ông từ trần.
Quyển sách này còn kể lại nhiều chi tiết động trời khác của chính sách trả thù tù nhân rất đê hèn của kẻ chiến thắng mà tác giả là nhân chứng sống trong trại, ngày nay anh ghi nhận lại để đóng góp thêm cho nguồn sử liệu của quê mẹ Việt Nam.

xxx

Tôi xin đi sang quyển sách thứ hai mà cựu tù nhân Dương Viết Điền viết, đó là quyển "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân".
Sách dầy khoảng 430 trang, gom góp nhiều tài liệu về những tấm gương kiêu hùng sáng ngời của 5 vị tướng tuẩn tiết là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú,Trần Văn Hai và Lê Nguyên Vỹ cùng cái chết vô cùng bất khuất của đại tá Hồ Ngọc Cẩn, một hiện thân của tướng Trần Bình Trọng trong cuộc chiến ý thức hệ mà hệ lụy của biến cố đau thương 30-04-1975 vẫn làm cho chúng ta nhức nhối. Sách được chia ra làm 3 chương chính:
* Chương 1: từ trang 1 đến 13 tác giả luận bàn về Đạo làm tướng, trích dẫn sách Khổng Minh, các gương bất khuất của tiền nhân Việt Nam trong lịch sử chống Tàu, kháng Tây.
* Chương 2: trang 41 đến 246, xem như chương một trong hai chính của sách, nói về cái chết oai hùng của 6 vị sĩ quan cao cấp của QLVNCH.
* Chương 3: trang 264 đến 415, nói về những cái chết tức tưởi, những cuộc tự sát khác của các quân nhân cán chính VNCH không để lọt vào tay giặc.

CHƯƠNG I:(Trang 1 đến 40)

Tóm tắt chương luận bàn về cái Dũng của người Đông Phương, gồm những điển tích, gương lịch sử Tàu, Nhật và Việt Nam:

"Một dũng tướng là một vị tướng hùng dũng, mạnh mẽ, can đảm, gan dạ, thấy việc nghĩa thì làm ngay, sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm trước lịch sử, sẵn sàng hy sinh vì chính nghĩa, vì tổ quốc để bảo vệ danh dự và khí tiết của mình.
Vì vậy, trong thiên thứ bảy, Khổng Minh cũng đã đề cập đến lòng trung nghĩa của tướng súy như sau: "Việc binh là việc dữ, tướng súy là người giữ nhiệm vụ nguy hiểm. Do vì chí khí cứng cỏi thì phải thiếu thốn, lầm lỗi, nhiệm vụ quan trọng thì nguy hại đến thân thể.".
Hạng tướng mà có lòng trung nghĩa (một lòng vì nước) thường không sợ nguy hiểm, lầm lỗi và không sợ nguy hại đến thân thể, nghĩa là xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, chỉ biết chu toàn nhiệm vụ giao phó...

Khi phong trào Cần Vương nổi lên, ở miền Trung, cử nhân Mai Xuân Thưởng đã ngạo nghễ với câu, "Thà làm đoạn đầu tướng quân, chứ không thà làm hàng đầu tướng quân." Ở miền Bắc, cử nhân Nguyễn Cao đã khoét rún, móc ruột ném vào mấy tên giặc Pháp rồi cắn lưỡi tự tử, được người đời ca ngợi:

"Thệ tâm thiên địa phi trường xích
Thiết xỉ giang san mãn thiệt hồng"
(Rút ruột đỏ phơi tim vũ trụ
Nghiến răng hồng nhai lưỡi non sông)

Còn ở trong Nam, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, Cử nhân Phan Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, thà chịu tử hình chứ không bao giờ đầu hàng giặc Pháp."

CHƯƠNG 2: (Trang 41-263)

Tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu Việt Nam cũng như ngoại ngữ khi tham khảo viết sách nàỵ chương hai đề cập đến những tấm gương vị quốc vong thân như tựa đề sách này. Noi gương những vị anh hùng dân tộc nói trên, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản vì bị Đồng minh Hoa Kỳ phản bội khi bỏ rơi phủi tay ra đi, nhiều tướng lãnh trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã tự sát để bảo toàn danh nghĩa của một dũng tướng thời chiến. Tôi xin làm phần tóm lược như sau:

Nguyễn Khoa Nam: Sinh ngày 23 tháng 9, 1927 tại Thừa Thiên. Tốt nghiệp khóa 3 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào năm 1953. Là một trong những sĩ quan trẻ tuổi được vinh thăng cấp tướng lẹ nhất do chiến công. Cấp bậc cuối cùng làm Thiếu tướng. Giờ cuối trước khi miền nam thất thủ ông là Tư lệnh Quân đoàn 4. Tướng Nam là một vị tướng cương trực, đức độ, thanh liêm và gan dạ. Sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội VNCH buông súng, bàn giao quyền hành lại cho quân đội Bắc Việt, ông ra lệnh cho quân các cấp hãy trở về với gia đình và ông tự sát bằng cách bắn vào đầu mình.

Lê Văn Hưng: Sinh ngày ngày 27 tháng 3 năm 1933 tại Hốc Môn. Tốt nghiệp hai quân trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức và Võ bị Đà Lạt. Cấp bậc cuối cùng là Chuẩn tướng, ông có 50 huy chương đủ loại, mà trong số đó có nhiều huy chương cao quí. Chức vụ cuối là Tư lệnh pho Quân đoàn 4, trú đóng tại Cần Thơ. Năm 1972, Tướng Hưng lập chiến công anh dũng tại An Lộc. Như Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, ông tự sát bằng súng để bảo toàn danh dự của QLVNCH. Tướng Hưng có thành tích cương trực, đạo đức và gan dạ khi chiến đấu.

Phạm Văn Phú: Sinh năm 1929 tại Hà Đông. Ông tốt nghiệp trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khoá 6. Ông là sĩ quan dù từ thuở chiến trường sôi động Điện Biên Phủ, năm 1954. Sau cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên khi ông phụ trách làm Tư lệnh Quân khu 2, ông về Sài Gòn lâm bệnh được điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà. Sáng ngày 29/04/1975 trước tình thế nguy ngập của Sài Gòn ông kết liễu đời mình bằng một liều thuốc cực mạnh.

Trần Văn Hai: Sinh năm 1926 tại Cần Thơ. Ông xuất thân Khóa 7 trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Ông là cựu Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Động Quân, cựu Tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Chức vụ cuối của Chuẩn tướng Hai là Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh đóng tại Mỹ Tho. Trong khi bàn giao nhiệm sở cho quân thù, ông dùng súng bắn vào đầu tự sát.

Lê Nguyên Vỹ: Sinh ngày 22 tháng 8, năm 1933 tại Sơn Tâỵ Ông tốt nghiệp khóa 2 trường Võ bị Địa phương Trung Việt tại Đập Đá, Huế năm 1951. Ông cùng với tướng Lê Văn Hưng lập công đẩy lui cộng quân ra khỏi An Lộc, tỉnh Bình Long trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Chức vụ cuối của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ là tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Ông là tướng đánh giặc can đảm, kỷ luật và thanh liêm. Khi được lệnh buông súng, bàn giao nhiệm sở, ông kê súng vào cằm tự sát để giữ khí tiết của QLVNCH.

Hồ Ngọc Cẩn: Sinh ngày 24 tháng 3, năm 1938 tại Cần Thơ. Ông theo học trường Thiếu Sinh Quân, theo học khóa 2 Sĩ quan Đặc biệt Nha Trang. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng Biệt Động Quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 Bộ Binh. Chức vụ cuối cùng của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn là Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện. Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng địch quân vây bắt và mang ra xử bắn tại Sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8, 1975.

Cái chết của các vị sĩ quan cao cấp này đem lại những đóa hồng tô điểm cho danh dự và sĩ khí của QLVNCH trong cơn đại hồng thủy đến với VNCH. Vị cố vấn Hoa Kỳ của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã phải hối hận thốt lên lời nuối tiếc như sau: "Là một người Mỹ tôi cảm thấy hối hận để miền Nam Việt Nam bị bức tử và Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị giết" (Trung tá Craig Mandeville).

CHƯƠNG III: (Trang 264-426)

Ngoài những vị tướng lãnh đã tự vẫn nói trên, còn có rất nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy, cấp hạ sĩ quan, binh lính và một số công chức, cảnh sát, cán bộ trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước đây cũng đã tự sát trong biến cố đau buồn này. Cho đến hôm nay người ta mới chỉ biết tổng quát khoảng 22 Trung đoàn trưởng, Liên đoàn trưởng và hơn 100 sĩ quan đã tự sát sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản. Trên thực tế con số có thể cao hơn. Sau đây tôi cũng xin được trích ra hai trường hợp mà tác giả Dương Viết Điền ghi nhận trong chương này:

* The Seven Samurai in VietNam: Theo tài liệu 30-04 trong kho dữ liệu của hãng Thông tấn Nhật bản Kyodo về "Bảy Hiệp Sĩ Việt Nam". Ngày 30-04-1975 là ngày đau thương vì QLVNCH bị bức tử, người lính bị bẻ gãy súng bởi chiến lược toàn cầu của Mỹ thay đổi. Bảy người lính Dù mà trưởng toán là thiếu úy Hoàng Văn Thái tụ họp tại một bùng binh trong Chợ Lớn, và họ chọn lựa sự buông súng trong danh dự khi tự kết liễu đời mình sau khi hát xong bài quốc ca VNCH, họ xếp thành vòng tròn, mỗi người tay trong tay một quả lựu đạn, mở chốt một lượt. Một tiếng nổ chát chúa tiễn biệt họ ra đi vì danh dự.

* Một trường hợp thứ hai tang thương không kém. theo lời tường thuật của anh Trung úy Cảnh sát Nguyễn Văn Đình định cư ở Houston chứng kiến tại hiện trường sự tự sát tập thể của 9 quân nhân Nhảy Dù, họ nằm trong toán bảo vệ Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình. Khi lệnh buông súng ban ra toán quân nhân này đã xã súng bắn vào nhau, xác thân họ tan nát cho sự ra đi nhuốm màu máu anh hùng nhất, đáng kính nhất của QLVNCH.

Như đã bàn ở phần trên, chương này được kéo dài khi tác giả nêu ra vô số những gương anh dũng của các chiến binh khắp các binh chủng, và các cán bộ, viên chức VNCH. Họ là những người con yêu, trung thành với lý tưởng QG, họ nêu cao những nguyên tắc: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Một khi sứ mạng bảo vệ non sông đất nước không vẹn toàn, họ chọn sự ra đi trong danh dự. Họ mang cái dũng khí như những Samurai Nhật Bản, họ trọng danh dự cá nhân. Quân sử VNCH muôn đời sẽ vinh danh họ.

30-04-2004 này, tôi chọn 2 quyển sách "Trại Ái Tử và Bình Điền" và "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân" này để tưởng niệm gương hy sinh của bao nhiêu anh hùng tử sĩ của VNCH. Họ chiến đấu bảo vệ quê hương, họ không hèn, dù bạn bè đồng minh bỏ họ, người chiến sĩ can trường Hồ Ngọc Cẩn cũng như vô số anh hùng vô danh từ Dù, BĐQ, TQLC, LLĐB, Thiết Giáp,..., Địa Phương quân, Cảnh Sát QG vẫn còn chiến đấu. Họ biên những trang sử cuối cùng hào hùng nhất cho VNCH, lòng dũng cảm, cái hào khí "Chết Vinh Hơn Sống Nhục" này của họ chắc chắn sẽ được ghi nhớ và lưu danh muôn thuở.

Ôn lại lịch sử cuộc nội chiến Nam-Bắc vì ý thức hệ dị biệt chính kiến trong thế kỷ 20, người CSVN vi phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Họ ngủ quên trong giấc mộng làm con cờ thí nhân lực Việt Nam cho chủ thuyết quốc tế hóa CS hay họ cố bám víu lấy nó làm bình phong để sinh tồn. Từ khi quân Pháp bại trận tại mặt trận Điện Biên Phủ, đảng CSVN thường huênh hoang, bốc thơm cuộc chiến đấu "thần thánh" của cái QDNDVN (sic), và rằng viên tướng Võ Nguyên Giáp "thần kỳ" điều binh khiển tướng,... rồi thêu dệt huyền thoại chiến thắng Điện Biên. Sau khi CSVN và CS Trung quốc đánh nhau năm 1979, viên Thống tướng Diệp Kiếm Anh của Trung quốc vén bức màn nhung của lịch sử, ông cho biết toàn bộ chiến lược, chiến thuật của cuộc diện Điện Biên được thiết kế, bày vẽ tại Bắc Kinh, quân đội Trung quốc đã tiếp sức nhân lực, vật lực, lính Trung quốc trà trộn vào, họ đã đổ máu cho sự ngụy tạo nên cái huyền thoại "thần kỳ" của tên tuổi Võ Nguyên Giáp. Những năm từ 1965 đến 1974, vì Hoa Kỳ phong tỏa chặt chẽ cảng Hải Phòng, nên tàu Trung quốc chở thẳng vũ khí vào miền nam tiếp tế cho VC. Những mặt trận Ba Ngòi, Vũng Rô,... là các chuyến đổ hàng mà HQVNCH chận bắt. Rồi sự kiện quân đội Trung quốc sang Việt Nam đảm nhiệm vai trò yểm trợ tiếp vận chiến trường để Bắc Việt đẩy quân vào nướng tại chiến trường miền Nam qua chiêu bài "Sinh Bắc Tử Nam".

Chưa hết, hàng ngũ đảng và quân đội nhân dân CSVN thối nát, là một tập đoàn bán nước, là một hủ mắm khi tin tức tình báo quốc tế cho thấy hàng tướng lãnh cao cấp rất tham lam, tranh ăn, đấu đá lẫn nhau từ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, và họ sống bằng xương máu của dân tộc Việt Nam.
Khi chiếm xong miền nam, tướng Văn Tiến Dũng giành chiến công tung ra quyển sách "Đại Thắng Mùa Xuân", khoe khoang, khoác lác bẻ cong lịch sử như trò hề khi nói phét "cuộc chiến thần tốc" đánh chiếm miền Nam. Y tự kể công đầu bỏ ra yếu tố "thần kỳ" Võ Nguyên Giáp vào sọt rác, vì đảng CSVN vốn là đám lãnh đạo vô liêm sĩ, tham ăn, tranh giành quyền lực như loài kên kên, ác điểu cấu xé lẫn nhau. Nhiều tài liệu của giới truyền thông Hoa Kỳ trình bày từ báo chí đến Ti-Vi cho thấy Ngoại trưởng Henry Kissinger đã đi đêm thương thảo đi đến thoã thuận ngầm với Lê Đức Thọ tại Paris về việc quân đội Bắc Việt hãy để quân đội Hoa Kỳ rút êm ra khỏi Việt Nam. Henry Kissinger cũng bay sang Bắc Kinh gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thương lượng cho những điều kiện trao đổi Trung quốc giúp Mỹ rút quân và khi Trung quốc xâm chiếm các hải đảo của VNCH thì Hạm đội Thứ 7 của Mỹ sẽ án binh bất động, không can thiệp. Lê Đức Thọ và chính trị bộ của CSVN đã nắm chắc lá bài tẩy từ chính quyền Hoa Kỳ là ý muốn rút quân bằng mọi giá. Mới đây Ti-Vi Mỹ cho trình chiếu lại buổi điều trần tại Quốc hội Mỹ của một trong những ông vua phản chiến là John Kerrỵ Sau khi từ chiến trường ở Việt Nam về y trở nên chống báng, bài bác chiến tranh Việt Nam, chỉ trích chính quyền Mỹ thậm tệ. Điều mà người Việt QG đau lòng nhất là đoạn ông kể rằng ông đã bay sang Paris gặp gỡ và điều đình với Lê Đức Thọ nhiều lần, hai bên thương thảo cho việc Mỹ rút quân. John Kerry cho Quốc hội Mỹ biết là Lê Đức Thọ cam kết Bắc Việt sẽ không tấn công Mỹ trong kế hoạch rút lui toàn bộ ra khỏi Đông Dương. Hành động đi đêm của Henry Kissinger và John Kerry với Lê Đức Thọ tại Paris là cái tát vào sự phét lác của sách Văn Tiến Dũng, những thoã thuận của các chuyến bay đêm này là những nhát dao ân huệ mà người bạn Đồng Minh kết liễu số mạng của VNCH.

Từ kế hoạch đánh chiếm tiền đồn Điện Biên Phủ do kiến trúc sư chiến thuật Diệp Kiếm Anh điều động trên cao năm 1954 cho đến những chuyến bay đêm của Henry Kissinger tại Paris và Bắc Kinh đưa CSVN đến việc sau này đảng và chính quyền CSVN phải đem đất đai phía bắc của quê hương mà tiền nhân để lại dâng hiến như hình thức trả nợ cho CS Trung Quốc, cũng như triều cống các hải đảo ngoài biển Đông qua những hiệp định giữa hai quốc gia. Lịch sử cho thấy người CSVN đội lốt hình hài của Lê Chiêu Thống tân thời, cỏng rắn cắn gà nhà. Họ giỏi đè đầu cưỡi cổ nhân dân Việt Nam, nhưng lại nhút nhát, khúm núm đi bằng đầu gối trước đàn anh Trung quốc.

Sách DVĐ cho tôi dử kiện người quân nhân trong QLVNCH là những anh hùng khi "Quốc gia hưng phong, thất phu hữu trách", họ được đào tạo và phục vụ trong những đơn vị chuyên nghiệp trong sứ mạng để bảo vệ người dân và quê hương. Trong khi đó trớ trêu thay cái "Quân đội Nhân nhân Việt Nam" (QDNDVN) là thực thể núp vú Quân đội Trung quốc từ huyền thoại Điện Biên Phủ cho đến về sau. Xuyên qua bao tài liệu về cuộc chiến Việt Nam gần đây phanh phui ra về "cái-gọi-là" QDNDVN là không "thần thánh" như người CSVN vẽ vời, tự đánh bóng cho mình, mà chỉ là đạo ngụy quân nhận lãnh vai trò xâm lăng để bành trướng cho chủ thuyết CS quốc tế theo đơn đặt hàng của Soviet khi xâm lăng các quốc gia lân bang, để rồi sinh mạng, xương máu người Việt Nam bị hy sinh vô ích và đất đai VN càng mất mát thêm vào tay ngoại bang phương bắc, và rồi QDNDVN chỉ là thứ phỗng đá vô tích sự. Kẻ thủ lợi vẫn chỉ là tầng lớp chóp bu trong đảng CSVN, thống lãnh quê hương.

Sau hết, tôi xin chân thành cám ơn tác giả Dương Viết Điền đã bỏ nhiều thời giờ đi sưu tầm, tham khảo để viết ra hai quyển sách này, cũng như cho tôi nguồn tài liệu dùng trong sách tham khảo khi viết bài. Nói chung thì việc xuất bản hai quyển tài liệu trong giai đoạn miền nam bức tử này là một việc làm đáng ca ngợi, nhất là cho thế hệ mai hậu có thêm nguôn sử liệu. Anh đã bỏ ra năm năm trời ròng rã để hoàn tất cuốn "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân". Năm năm đi sưu tập dử kiện cho một quyển sách bình thường như hồi ký cá nhân có thể là dài, nhưng nó sẽ không dài cho một tập tài liệu cặn kẽ có đặc tính sử ký quý báu soi sáng ngàn sau về bao anh hùng trong QLVNCH xã thân bảo vệ giang san. Tác giả DVĐ đã viết bằng tim óc, anh viết bằng nước mắt quê hương trong ngục tù, và viết bằng kinh nghiệm đau thương, nỗi nhục nhằn của chính mình. Anh nguyện viết với ngòi bút tri ân những anh hùng vị quốc vong thân. Họ ra đi trong cái khí phách hào hùng mà sách Dương Viết Điền so sánh với cái "Dũng" của người Đông Phương và chúng ta đã thấy anh đã trích dẫn trong sách.


Việt Hải, Los Angeles.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ: VNCH thua trận vì bị Mỹ cắt viện trợ
VOA - Trong một cột báo bàn về những khía cạnh trong cuộc chiến Việt Nam ngày xưa nhưng có thể học để áp dụng trong cuộc chiến hiện nay bên Iraq, ông Melvin Laird, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, ghi nhận rằng chế độ tại miền Nam Việt Nam thua trận hồi trước là vì Mỹ cắt viện trợ trong lúc chẳng còn một chiến binh Mỹ nào lâm chiến.

Theo lời ông Kisinger, cựu Ngoại Trưởng, đồng thời cũng là trưởng đoàn thương thuyết của Mỹ trong cuộc hoà đàm về Việt Nam ở Paris, thì chính những động năng xuất phát từ các cuộc tranh luận ở Mỹ chiếm phần quan trọng hơn các nhu cầu địa lí chánh trị. Nhưng trong khi Mỹ chấm dứt viện trợ cho miền Nam thì khối Xô Viết vẫn tiếp tục cung ứng đầy đủ các tiếp liệu cho Bắc Việt.

Cựu Ngoại Trưởng Mỹ hồi thời chiến tranh nhận định rằng đó không hề là điều được trù tính trong hoà ước Paris năm 1973. Theo ông thì kế hoạch dự trù vẫn là Mỹ tiếp tục viện trợ và dính dáng với miền Nam cho tới khi nào 2 miền Nam Bắc Việt Namđạt tới một thoả thuận riêng cho 2 phía.

Tuy nhiên, Mỹ đã không thực hiện đúng những hứa hẹn yểm trợ cho miền Nam như đã ghi trong hiệp định Paris. Mà thiếu sự yểm trợ đó thì số phận của miền Nam Việt Nam coi như đã an bài.

Theo cột báo của ông Melvin Laird thì đã có một vài chi tiết được ông cho là đáng nhắc lại. Ông ghi là sau khi ông nhậm chức Bộ Trưởng Quốc Phòng trong chính phủ của Tổng thống Nixon hồi năm 1969, ông và Đại Tướng Creighton Abrams đã đề xuất một kế hoạch triệt thoái binh sĩ Mỹ với sự yểm trợ của Chiến Đoàn Việt Nam do ông thành lập.

Ông Laird nhắc lại rằng tướng Abrams là nhân vật chính được giao trọng trách thực thi sách lược Mỹ tại Việt Nam trong thời gian ông Laird làm Bộ Trưởng.

Kế hoạch rút quân Mỹ được ông Laird nhắc lại ở đây vẫn được mệnh danh là Việt Nam Hoá chiến tranh; đã được hoạch định và khởi sự thực hiện trong vòng 6 tháng sau khi ông Laird nhậm chức.

Theo những gì đã được ấn định thì kế hoạch triệt thoái lập căn trên những tiến bộ tuần tự của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, dựa trên những mục tiêu huấn luyện khít khao do chính tướng Abrams lập ra. Nhưng rồi toàn bộ kế hoạch đã không được thực hiện đúng như dự tính của ông và của tướng Abrams vì – như ông đã ghi – các khoản viện trợ của Mỹ dành cho Việt Nam Cộng Hòa đã bị cắt theo yêu cầu của các thế lực chánh trị Mỹ, đưa tới kết quả chung cuộc là chế độ ở miền Nam Việt Nam thua trận hồi đầu năm 1975.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

.
TRẬN TÂN CẢNH: Kẽm Gai Bọc Thây Anh Hùng
Tác Giả: Bùi Ðức Lạc
Image

Thực tình tôi không muốn viết bài này vì nó cho tôi một kỷ niệm nhiều đau thương nhất trong cuộc đời binh nghiệp vốn dĩ đã kém may mắn cuả tôi, hơn nữa tôi không muốn gợi lại những chuyện (sự thật đau lòng) nhưng một vị đàn anh dã yêu cầu nên tôi đành vâng lời, tôi cố gắng chỉ viết những gì thật cần thiết, còn những gì không cần thiết tôi xin được né tránh, một điều xin thưa rằng đây là sự thực những gì tôi thấy, những gì tôi nghe; nhớ tới hình dáng người dân địa phương, lưng mang gùi nặng tay vẫy chào như trao trách nhiệm bảo vệ thôn rẫy, mà lòng nào đành quên sao? Nhớ tới những vị đàn anh, những người bạn, những người em lạc lõng tại SÐ22BB mà lòng nao nao bất ổn, đây là một cuộc hành hạ không phải là một trận đánh, tôi không hiểu sao sau khi SÐ22BB bị bỏ rơi tàn bạo mà tôi còn đủ tinh thần tiếp tục chiến đấu, tôi vẫn ngạc nhiên tại sao chúng ta vẫn hiên ngang ôm lấy quê hương cho đến năm 1975.

Nguyễn Ðình Bảo mới ra đi hun hút, tôi lặng người trước cơn gió tây Hạ Lào, dáng dấp lao đao như muốn ngả theo gió, cách nay 5 năm tức năm 1967 tôi đã tiễn một người bạn đồng cư trong trại Học sinh di cư Phú Thọ ra đi tại đây Nguyễn Thu, toàn những mất mát rơi rụng không bao giờ cầm lại được, năm 1959 tôi cùng Ðại Úy Lai văn Chu Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 7 Bộ Binh SÐ3DC chơi Vũ Cầu rất thân thiết, hai năm sau ông đổi lên Tân Cảnh rồi hai năm sau nữa tôi thấy tên ông trên cổng trại Trung Ðoàn 42 Bộ Binh tức doanh trại Bộ Tư Lệnh Hành Quân cuả SÐ22BB bây giờ.

Tôi được đọc hai cuốn sách cuả hai tác giả rất nổi danh và baì viết của vị trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn II tuy chỉ nói phớt qua về SÐ22BB nhưng điểm chính đều sai lạc. Cuốn thứ nhất tôi được đọc khoảng năm 1988 trong sách nói (khi bị tấn công thì Trung Ðoàn 42 thuộc SÐ22BB và Bộ Tư lệnh của Sư Ðòan này đầu hàng). Cuốn thứ hai khỏang năm 1994 nói (sau khi bị địch quân vây hãm Ðại Tá Lê Ðức Ðạt Tư Lệnh SÐ22BB được trực thăng bốc ra ngoài), bài viết của vị Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn tôi được đọc năm 1996 (SÐ22BB thua là do rút Nhảy Dù đi nơi khác). Tôi thật sự không hiểu tài liệu tham khảo ở đâu vậy. Thứ nhất: SÐ22BB không hề đầu hàng mà bị thất thủ. Thứ hai: Ðại Tá Tư Lệnh SÐ22BB tử trận ngay tại chỗ. Thứ Ba: tôi chính là người cho lệnh bắn yểm trợ sau cùng, và có lẽ là người sau cùng tiếp chuyện trên máy với vị Tư Lệnh khả kính này trước không đầy 3 phút khi ông vĩnh viễn ra đi.

Rải rác khắp các vùng chiến thuật biết bao nhiêu chiến sĩ Vô Danh đã anh dũng chiến đấu và hiên ngang gục ngã họ chẳng bao giờ được nhắc nhở và nếu may mắn được nhắc tới thì cũng chứa chất hàm hồ sai lạc như các chiến sĩ SÐ22BB. Gặp lại những người bạn cũ trên chiến trường này than phiền về những bất công cuả dư luận, nhất là một người anh nên tôi xin kể lại trận đánh có một không hai này.

Image
Image

Ngày 14-4-1972 tôi tháp tùng Ðại Tá Lữ Ðoàn Trưởng LÐ2ND bay trên căn cứ Charlie, chúng tôi không sao ngăn được những giọt lệ tự nhiên lăn trên gò má. Căn cứ Charlie không còn nữa mà chỉ còn là một vùng đất đỏ, trông như một khu đất mới được cầy lên để chuẩn bị canh tác không một công sự nào còn tồn tại, tất cả mọi sinh vật trong vùng này đều bị hủy diệt và chắc chắn không còn nguyên vẹn hình hài, tôi sẽ nấc lên khi gọi tên Bảo, thân xác anh đích thực đã trở thành tro bụi, cùng với các chiến sĩ anh hùng TÐ11ND và một Trung Ðoàn cuả SÐ320 Công Sản Bắc Việt, những tấm thảm B52 đã trải lên Charlie để Charlie không còn tồn tại trên thế gian này. Tuy vậy phòng không của địch trên sườn Yankee và khoảng giữa Delta và Charlie và dưới sườn phiá đông nam của Charlie cũng giăng lưới đầy trời, tôi trình bầy với ÐT/LÐT những vùng thông thủy không có phòng không chắc chắn các đơn vị chúng đang ẩn náu tại đó nếu không phòng không của chúng đã rút đi rồi, ta nên xử dụng Pháo Binh, ÐT/LÐT đồng ý ngay và những loạt đạn TOT phủ xuống như một tấm thảm B52, quả nhiên vì không hầm hố cho nên địch quân chạy tán loạn, và đương nhiên không khi nào các Pháo Thủ Mũ Ðỏ lại để chúng an lành như vậy, sau một giờ bay vừa tránh đạn phòng không vừa điều chỉnh Pháo Binh. Phi công xin đi đổ xăng chúng tôi đáp xuống Tân Cảnh. Trực thăng bay đi phi trường Phượng Hoàng đổ xăng; chúng tôi vừa đến cửa Trung Tâm Hành Quân (TTHQ) cuả BTL/SÐ22BB thì hoả tiễn cuả địch dàn chào ngay, một vị sĩ quan nói đuà (chúng nó chào mừng Nhảy Dù đó). Tại TTHQ Ðại Tá Lê Ðức Ðạt TL/SÐ22BB đề nghị cùng ÐT/LÐT/LÐ2ND là cho TÐ9ND do Trung Tá Trần hữu Phú làm TÐT vào giữ căn cứ Tân Cảnh,nhưng ÐT/LÐT/LÐ2ND không đồng ý với những lý do sau đây: Thứ nhất: trong căn cứ quá đông người. Thứ hai: việc bảo vệ BTL/SÐ22BB phải do đơn vị cơ hữu chiụ trách nhiệm. Thứ ba: các đơn vị Nhảy Dù lưu động có hiệu quả hơn là nằm một chỗ. Tôi nhìn thấy nỗi lo lắng hiện trên khuôn mặt hiện đang khắc khổ của vị TL/SÐ22BB. Sau đó ÐT/LÐT/LÐ2ND đề nghị nên cho TÐ9ND đang trong vùng của LÐ2ND vào chiếm những cao điạ hướng đông đông bắc cuả Tân Cảnh còn BCH/TÐ nên cho đóng tại phi trường Phượng Hoàng vì dẫy núi này sẽ chế ngự mọi hoạt động không vận cho Tân Cảnh và phi trương Phượng Hoàng, ÐT/TL/SÐ22BB mừng rỡ và đồng ý ngay, ông đề nghị Nhảy Dù nên xin tăng cường quân, nhưng ông đâu có biết hiện nay Sư Ðoàn Nhảy Dù không còn một đơn vị nào tại hậu cứ.

Ngày 15-4-1972 toàn bộ TÐ9ND vào vùng hành quân mới, hai Ðại Ðội do Thiếu Tá Võ thanh Ðồng TÐP chỉ huy,dùng trực thăng chiếm các cao địa nhưng ngày khởi đầu hai trực thăng bị bắn rơi vì LZ (bãi đáp) được dọn quá sơ sài. Ngoài tầm của các Pháo Ðội TÐ1PB/ND, hơn nữa TÐ9ND được tăng phái cho SÐ22BB nên tôi không có trách nhiệm đổ quân cũng như dọn bãi đáp, ngược lại lúc này tôi phải yểm trợ trực tiếp cho một Liên Ðoàn BÐQ mới được tăng phái dưới quyền chỉ huy cuả LÐ2ND. Hai đại đội còn lại cuả TÐ9ND tung vào lục soát khu vực hướng bắc và tây bắc cuả căn cứ Tân Cảnh tức hướng tây cuả phi trường Phượng Hoàng còn lại BCH/TÐ9ND đồn trú ngay tại phi trường Phượng Hoàng. Như vậy ngoài vòng đai căn cứ Tân Cảnh từ hướng Tây bắc sang đến hướng đông đông bắc là do TÐ9ND trách nhiệm, còn các hướng khác là do các đơn vị cơ hữu cuả SÐ22BB trách nhiệm.

Ngày 18-4-1972 khoảng 2330g địch quân pháo và đánh thăm dò căn cứ, từ chùa Tân Cảnh địch quân dùng hoả tiễn điều khiển bắn các chiến xa phòng thủ trong căn cứ, nhưng không một chiến xa nào bị hạ. Ngày 19-4-72 chúng tôi lại đáp xuống Tân Cảnh thì các sợi dây mầu xanh, đỏ, vàng điều khiển hoả tiễn còn vương vãi trên hàng rào phòng thủ, vị trí đặt hoả tiễn ngay tại chùa Tân Cảnh tức phía tây nam căn cứ cách không tới 1Km, nên ngoài tầm chính xác của hỏa tiễn đó là lý do không trúng chiến xa cuả ta, nhưng nó đã làm cho quân ta xuống tinh thần không ít. Tôi vòng phiá nam căn cứ thấy đang huấn luyện chống chiến xa địch nhưng từ HLV trở xuống không ai thấy chiến xa địch bao giờ, và lúc này dàn phòng không của địch đã đến gần căn cứ chúng tôi là người phát hiện đầu tiên, khi địch quân khai hỏa nếu chúng tôi bay cao một chút, hay bay sát lộ thì đã bị hạ rồi, nhưng vì bay sát ngọn cây và xa đường lộ nên thoát nạn. Vị trí phòng không ngay sát căn cứ trong vùng trách nhiệm của SÐ22BB gần trên đường đi Võ Ðịnh nơi đóng quân của LÐ2ND. Lúc này bất cứ ai cũng cảm thấy địch quân sắp sửa dứt điểm Tân Cảnh, nhưng cấp trên cũng vẫn chưa cho không quân chiến lược can thiệp, còn không quân chiến thuật cũng rất hạn chế, khi đánh căn cứ số 6 hay căn cứ số 5, chúng tôi xin không quân chiến thuật còn dễ dàng và dồi dào hơn bây giờ. Lúc đó ta chỉ là cấp đại đội bị vây hãm, còn bây giờ sự an nguy cho cả một Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn và một Trung Ðoàn cộng. Vậy mà cấp trên vẫn thờ ơ. Sức người có hạn hỏi làm sao chống đỡ được đây? Nhất là hiện nay trục lộ tiếp tế cũng đã bắt đầu bị chặn đứng, trong khi những đoàn xe tiếp tế cuả địch quân di chuyển cả ban ngày, còn ban đêm xe địch quân di chuyển, đèn sáng như trong thành phố vậy. Hỏi làm sao tinh thần của anh em SÐ22BB còn vững được. Các dấu hiệu rõ ràng sự xuất hiện cuả SÐ320, SÐ304, SÐ986, các trung đoàn phòng không, các trung đoàn chiến xa. Thời điểm này nếu chúng ta khôn ngoan một chút thì phải cho BTL/SÐ22BB rút về cố thủ tại Kontum. Tân Cảnh nếu cần chỉ nên để lại một trung đoàn là nhiều, chứ không nên để một BTL/SÐ làm tiền đồn cho Quân Ðoàn, lúc đó quân số mà BTL/SÐ22BB chỉ huy chỉ vỏn vẹn có Trung Ðoàn 42 Bộ Binh còn Lữ Ðoàn Nhảy Dù thì Bộ Tổng Tham Mưu có thể rút đi bất cứ lúc nào, ai cũng rõ là địch sẽ dùng một Sư Ðoàn cộng với chiến xa để dứt điểm Tân Cảnh, trong khi SÐ22BB chỉ có một Tiểu Ðoàn trừ trong căn cứ để bảo vệ BTL. Không có chiến lược hay chiến thuật nào lại xử dụng BTL/SÐ làm tiền đồn bao giờ, một sự bất nhẫn tàn bạo đã phí mạng hàng trăm quân nhân và làm thành làn sóng bất mãn. Quân số không quan trọng bằng tinh thần, tôi thấy anh em trong căn cứ tinh thần xuống từ khi không được yểm trợ không quân đúng mức nhất là những mục tiêu rõ ràng, chẳng hạn như đoàn xe địch di chuyển ban ngày không bị một lực lượng nào ngăn cản, hay những vị trí phòng không, vị trí pháo binh của địch. Việc Tân Cảnh còn hay mất chỉ còn chờ thời gian khi nào địch quân khởi sự tấn công mà thôi thật sự là như vậy. Tôi đang ghi chép những vùng địch tập trung, ÐT/TL/SÐ22BB gọi tôi ra chỗ vắng dặn dò (tôi quen ÐT Ðạt khi ông còn là Tỉnh Trưởng Bà Riạ không lần nào xuống Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp thao dượt mà ông lại quên đón chúng tôi vào tư dinh để hàn huyên, tôi thường gọi ông bằng anh, chỉ gọi bằng cấp bậc những khi có mặt người khác) .

- Anh cảm thấy nguy đến nơi rồi, bọn Tây (Cố Vấn Mỹ) mấy hôm nay nó có thái độ rất lạ lùng, chú mày nhớ rằng có chuyện gì phải vào tần số chỉ huy để yểm trợ cho anh.

- Anh nên vào tần số của em dễ làm việc hơn tốt nhất anh nói bên Pháo Binh biệt phái một toán Sĩ Quan Liên Lạc bên cạnh anh, họ sẽ có đủ đặc lệnh Truyền tin để liên lạc với em.

- Ừ như vậy tiện đó, nhớ rằng anh rất cần em khi có biến động.

- Anh cẩn thận em thấy không được yểm trợ đúng mức anh em trong căn cứ có vẻ mất tinh thần. Ông gật đầu tỏ dấu không còn làm gì hơn được. Ông bắt tay tôi thật chặt trước khi chia tay, mắt ông đờ đẫn vì nhiều đêm mất ngủ, chúng tôi trở về căn cứ Võ Ðịnh nhìn cách phòng thủ và tinh thần cuả anh em Mũ Ðỏ tôi an tâm, đặn dò Trung Tâm Phối Hợp Hoả Lực nếu SÐ22BB bị đánh phải gọi tôi dậy ngay, dầu gì tôi cũng chỉ còn Pháo Ðội trên Yankee là có thể bắn cho Tân Cảnh, được đạn dược trên đó còn. Hai Pháo Ðội 105 ở Võ Ðịnh và Non Nước thì mút tầm, có thể xử dụng 155 ở Non Nước. Tôi dặn dò các Pháo Ðội liên hệ, cũng là lúc mà tôi điều khiển tác xạ vào vùng tập trung quân chung quanh Tân Cảnh, hai Pháo Ðội mặc dù mút tầm tôi vẫn cho bắn vào những nơi không qua đầu hay thẳng trục đồng hồ chỉ 0300G vậy mà ÐT Ðạt vẫn còn trên máy, trận Hạ Lào cũng không làm tôi bối rối như trận này.

Ngày 20-4-72 các đơn vị hoạt động chung quanh căn cứ Tân Cảnh ghi nhận địch quân di chuyển đông và tiến dần về Tân Cảnh, hướng tây bắc (DAKTO) có tiếng đoàn chiến xa di chuyển. Khi bay lên vùng này chúng tôi cố gắng tìm dấu vết chiến xa nhưng địch quân không để lộ dấu vết. Như vậy chiến xa địch nếu có cũng ít mà thôi. Ðồng thời ÐÐ2TS/ND cũng làm thịt những toán TSV/PB cũng như những toán tiền thám cuả địch chung quanh căn cứ cuả LÐ2ND (Võ Ðịnh).

- Ngày 21-4-72 các ÐÐ cuả TÐ9ND bắt đầu chạm địch cánh quân trên núi đụng rất nặng, một ÐÐ Trưởng tử thương, TÐP bị thương nặng không sao có thể tản thương được, hai ÐÐND hoạt động hướng tây bắc Tân Cảnh bắt sống được một tù binh trong toán Tiền Sát Viên Pháo Binh. Tù binh khai thuộc SÐ968 và mới từ Bắc vào bổ xung cho đơn vị này, theo kinh nghiệm khi nào TSV/PB tới gần tức là để điều chỉnh Pháo Binh và không bao giờ chúng đi một toán, mất toán này còn toán khác, khi Pháo địch đã hoạt động trúng ta, là thời điểm tấn công cũng bắt đầu, pháo bắt đầu mãnh liệt từ 1800G và lúc 2300G chúng tấn công thăm dò căn cứ, lần này chúng tấn công quy mô hơn, hoả lực vũ bão hơn, vậy mà không quân chiến thuật chỉ yểm trợ có một phi tuần mà thôi, một tiền đồn với cấp Ðại Ðội nếu bị đánh cũng không đến nỗi yểm trợ rời rạc như vậy, từ hôm đó một vị sĩ quan Pháo Binh bên cạnh TL/SÐ22BB bắt đầu liên lạc với TÐ1PB/ND tôi được biết là Ð/U Hưng, Hưng làm việc rất giỏi và rất cẩn trọng.

- Ngày 22-4-72 ban Cố Vấn trốn khỏi Tân Cảnh bằng trực thăng không thông báo cho BTL/SÐ22BB biết, tuy nhiên mọi người đều biết trước vì đang đêm 2400G ban Cố Vấn đánh dấu bãi đáp, trong lúc địch đang pháo mạnh, ban ngày lúc địch pháo cũng như tấn công mạnh đã thấy họ dọn bãi đáp cho trực thăng ngay sát phòng Cố Vấn, một vài sĩ quan có đề nghị với ÐT/TL không cho Cố Vấn đi, nhưng ông cười và đáp ngắn gọn (cho họ đi) nhờ vậy toán Cố Vấn ra đi an toàn, từ lúc đó địch quân đánh mạnh, cường độ Pháo cũng gia tăng. Hướng tấn công chính là ngay cổng chính tức là hướng từ phố Tân Cảnh, có tiếng xe tăng từ hướng Dakto chạy về, và xe tăng địch khởi sự bắn đại bác không giật và đại liên vào căn cứ, anh em trong căn cứ cố gắng mở hàng rào từ phía nhà của Cố Vấn để băng sang Phi Trường Phượng Hoàng, hy vọng bắt tay với TÐ9ND, toán Công Binh do đích thân vị Tiểu Ðoàn Trưởng Công Binh chỉ huy phá hàng rào cũng đành bó tay vì hàng rào được làm bằng thùng xăng 200 lít nhồi đất và gài mìn dầy đặc cộng với kẽm gai, các cột kẽm gai được đúc bằng xi măng rất kiên cố, về sau phải xin Không Quân oanh tạc mở đường, nhưng phòng không của địch quá mạnh, máy bay không sao xuống thấp được.

- Ngày 23-4-1972 tức là ngày chủ nhật, Pleiku hay Sài Gòn giờ này có thể trời đang đẹp 1000G không Quân mới giúp mở được hàng rào có thể rút sang phi trường, tuy vậy muốn băng qua được cũng vẫn còn rất khó khăn, lúc này TÐ9ND cũng bị tấn công mạnh, bốn đại đội tác chiến đều ở ngoài nên BCH/TÐ không có khả năng tiếp cứu, 1300G thiết giáp hạng nhẹ của địch không một chiếc nào bị thương vào tới cột cờ, nhưng địch không có tùng thiết cho nên thiết giáp nằm tại đó, quân ta vẫn cứ chạy qua mặt thiết giáp ra phiá hàng rào đã phá. Hưng liên lạc cho tôi cho biết anh và Ðại Tá TL/SÐ22BB ra tới hàng rào, lúc đó ÐT/TL giật lấy máy.

- 11 (chỉ danh cuả tôi) đây 01 (chỉ danh cuả ÐT/TL/SÐ22BB. Nguy rồi 11 anh bắn ngay vào sân cờ thiết giáp nó vào sân cờ rồi.

- 01 đây 11 tôi thi hành ngay.

-11 đây 01 anh tiếp tục cho bắn như vậy may ra tôi có thể gặp Cửu Long (TÐ9ND) được, khoảng 2 phút sau tôi nhận được Hưng gọi.

-11 đây Hồng Hà gọi ............... 01 theo ông Bắc Bình rồi.

Tôi hiểu Hưng muốn nói gì nhưng tôi cũng cứ hỏi lại.

- Hồng Hà đây 11 anh nói gì lập lại.

-11 dây Hồng Hà tôi nói .......... 01 theo ông Bảo rồi.

- Hồng Hà đây 11, anh cố gắng mang 01 sang Cửu Long được không.

- Không được vì xe tăng nó bắn nên kẽm gai quấn chặt lấy ông ấy rồi, tôi cố gỡ ra nhưng không ai có kềm cắt kẽm gai cả. Giọng Hưng yếu hẳn đi tôi nghe rõ tiêng nổ chát chúa và tôi hoàn toàn mất liên lạc từ lúc 1410G ngày 23-4-72. Cho tới giờ phút này cuối tháng 4-97 tức 25 năm sau từc 1/4 thế kỷ, thương nhớ ngày Tân Cảnh thất thủ, chỗ Ðại Tá Ðạt và Hưng nằm xuống tại đâu, chỗ nào tôi vẫn còn nhớ, cỏ cây dù có che lấp hình hài các anh nhưng tôi không sao quên được chỗ nằm của các anh những anh hùng của SÐ22BB, tôi biết các anh nằm xuống mà không sao nhắm mắt được./.

Image
Colonel Đạt.



Bùi Ðức Lạc
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Thân Phận Người Lính Gãy Súng.

Viết cho những người đã âm thầm ngã xuống.


Đoàn xe Motolova chở đám tù cải tạo bắt đầu đi vào khu rừng tre rậm rạp thì chạy chậm lại. Con đường đất lồi lõm đầy những ổ gà. Chốc chốc những người ngồi sau và đồ vật bị xóc nhảy tung lên khi xe vấp phải một ổ gà lớn... Hùng vén tấm bạt che hai bên thân xe nhìn ra bên ngoài. Ánh đèn của cả đoàn xe quét ngang dọc tạo thành những vệt sáng nhấp nháy phía trước đủ để anh thấy khá rõ. Đoàn xe đi được một khoảng nữa thì ngừng lại nhưng máy xe vẫn để nổ. Đám tù cải tạo được cho phép xuống xe từng hai người một thay phiên nhau đi tiểu. Nhờ đèn xe Hùng có thể thấy rõ hai bên đường san sát những bụi tre gai, phía trên cao những tàn tre đan vào nhau dày đặc thành hình một cái vòm lớn, đoàn xe đi lầm lủi trong cái vòm này có vẻ như đi vào một khu âm u, tử địa không lối ra. Âm thanh của những nhánh tre đu đưa trên cao theo gió tạo ra một nhạc điệu buồn như tâm trạng lo lắng, hoang mang của những người tù trên đường đến nơi lưu đày mới chưa biết là đâu?


Buổi chiều hôm nay, từ Đồng Pan tất cả tù cải tạo ở trại nhốn nháo lên hết với những lệnh lạc hò hét từ các cán bộ quản giáo hối thúc mang hết đồ đạc ra ngoài sân tập họp khẩn cấp. Những tên sĩ quan bộ đội lạ mặt cầm sổ sách lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người điểm danh. Kinh nghiệm của lần chuyển trại trước từ Trảng Lớn, đám tù đứng trong hàng xầm xì: "Chuyển trại rồi. Chuyển đi chổ khác nữa rồi."

Hùng quay qua nói nhỏ với mấy người bạn thân:
- "Tụi mình nhớ đứng sát bên nhau nghe chưa? Nếu có lập thành tổ, thì cũng ráng chen chung vô một tổ. Lạng quạng là tụi nó tách rời ra mỗi thằng đi một nơi đó."


Sau một hồi điểm danh tới điểm danh lui, tất cả đám tù tập họp trên sân bị chia ra làm hai nhóm. Nhóm của Hùng khoảng gần 200 người bị lùa lên những chiếc xe Motolova phủ vải bạt hai bên hông và sau đó di chuyển ngay. Còn nhóm kia cũng khoảng gần 200 không biết sẽ bị đưa đi đâu? Một điều an ủi là nhóm bạn bè thân của Hùng là Cương, Tân, Cường, Khoẻ, Hoàng và Thu không bị tách rời và cùng đi chung trong một nhóm. Nhìn gương mặt lo âu, căng thẳng của những người bạn đồng cảnh ngộ, Hùng thở dài. Không cần nhìn vào gương, anh cũng đoán biết bộ mặt của mình lúc này ra sao rồi! Từ sau ngày miền Nam bị bức tử một cách tức tưởi. Những sĩ quan cấp úy chế độ cũ đã bị chính quyền CS lừa dối với chính sách gọi là "khoan hồng nhân đạo" và việc tập trung đi "học tập 10 ngày". Thế rồi như những sĩ quan khác, Hùng và các bạn đã trình diện với hy vọng sau 10 ngày sẽ được trở về đoàn tụ với gia đình, làm lại cuộc sống mới. Nhưng hởi ơi! Kể từ ngày đó tất cả đã bị giam giữ triền miên. Ở Trảng Lớn khoảng một năm rưỡi, sau đó bị chuyển trại đưa lên Đồng Pan lao động cũng hết 7,8 tháng nữa, và bây giờ lại sắp bị đưa đến một nơi nào khác chưa biết được!



Xe ra tới địa phận Tây Ninh, trong khi đoàn xe chậm lại ở ngả ba rẽ ra đường quốc lộ thì thật là bất ngờ, bánh kẹo thuốc lá… được dân chúng từ hai bên đường quăng lên xe cho đám tù như mưa. Mặc cho mấy tên bộ đội vệ binh hò hét xua đuổi, những người dân mua gánh bán bưng, những bà mẹ, những đứa em… vẫn chạy theo đoàn xe ném lên đó những món quà tình nghĩa như tỏ chút lòng của người dân còn có thể làm được, đưa tiễn những đứa con của đất nước đang trên đường ra nơi đày ải. Đám tù cải tạo thật xúc động với những món quà bất ngờ đầy tình người này. Như vậy cũng đủ an ủi cho người lính đã một thời đổ xương máu ra bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào. Hùng nhìn xuống đường qua kẽ hở của tấm bạt che bên hông xe. Dân chúng hai bên đường vẫn còn chạy theo cố gắng quăng cho hết mấy món bánh trái cuối cùng còn trong thúng rổ… Một vài người đàn bà kéo vạt áo chậm nước mắt, tay còn vẩy vẩy khi đoàn xe đã chạy khuất từ xa. Hùng xúc động lẩm bẩm: "Cám cơn Mẹ, cám ơn chị. Cám ơn các em… chúng tôi không làm tròn trách nhiệm bảo vệ các người được, thật là có lỗi với các người."



Bên ngoài trời bắt đầu sụp tối. Những người tù ngồi chen chút chật ních phía sau lòng xe, hoang mang nhìn qua những kẽ hở, cố định phương hướng xem mình đang bị đưa về đâu, nhưng cuối cùng cũng chỉ có thể đoán già đoán non xe đang chạy về hướng Bình Dương mà thôi. Đoàn xe tiếp tục lầm lủi đi trong đêm tối, tránh né sự tò mò chú ý của dân chúng. Sau một lúc hoang mang nhốn nháo, sự yên tỉnh trở lại trong lòng xe. Đám tù mệt mỏi, thích nghi dần với vị thế chật hẹp, bắt đầu ngủ gà ngủ gật theo nhịp lắc lư và tiếng máy xe nổ đều đều, mặc cho số phần đưa đẩy tới đâu thì tới.


******
******************
******


Sau một lúc dừng lại nghỉ ngơi trong khu rừng tre, đoàn xe lại tiếp tục chạy. Trời bắt đầu mờ mờ sáng thì đến ngả ba đường 10. Từ đây rẽ vào không bao lâu thì tới một nơi gọi là Trại 3148. Trại còn rất thô sơ chưa được xây cất gì nhiều, chung quanh chỉ lèo tèo vài ba căn nhà dùng làm bộ chỉ huy doanh trại với mái lợp bằng vỏ tre lồ ô. Đám tù bị hò hét hối thúc xuống xe tập họp. Mấy tên vệ binh cầm súng đứng chung quanh giữ trật tự với khí thế đằng đằng, trong khi mấy tay cán bộ quản giáo lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người phân ra từng tổ. Hùng đứng trong hàng, ngao ngán nhìn khung cảnh chung quanh:

- "Tao thấy chỗ này coi bộ hắc ám hơn ở hai trại trước rồi, tụi bây thấy sao?"
Không ai trả lời câu hỏi của Hùng, nhưng cả bọn ai nấy đều có cảm giác như vậy. Khung cảnh hoang vắng thô sơ nơi đây hứa hẹn với đám tù cải tạo mới tới sẽ đổ nhiều công sức, mồ hôi trong những ngày sắp tới! Sau khi sắp xếp xong Hùng và các bạn Tân, Thu, Khoẻ, Cương, Hoàng, Cường lần này bị phân tán ra ở những tổ khác nhau. Cũng may mấy anh em cũng chỉ ở rải rác trong một cùng một khu vực gần đó thôi.



Trại 3148 này là tên của một Tiểu Đoàn bộ đội trú đóng ở đây. Nhưng mọi người đều quen gọi là trại Bù Gia Phúc lấy theo địa danh ở nơi này. Dọc theo con đường 10, cứ cách khoảng 2, 3 cây số lại có một trại tương tự như: Trại 3146, trại 3149, trại 3150… Trại Bù Gia Mập nơi có sóc Bom Bo nổi tiếng của dân tộc thiểu số, cũng ở cách đó không xa. Những trại này nằm trong khu vực của hai huyện Bù Đăng, Bù Đốp thuộc tỉnh Phước Long. Mỗi trại ở đây đều có cấp số Tiểu Đoàn. Trước đây chỉ chuyên về mặt quân sự trấn giữ biên phòng, nhưng nay kiêm thêm nhiệm vụ quản lý các sĩ quan chế độ cũ từ cấp Đại Úy trở xuống. Cho tới thời điểm này, bộ đội thuộc Ủy Ban Quân Quản vẫn còn cai quản đám sĩ quan tù cải tạo. Mới đầu họ còn có vẻ dễ chịu, nhưng vì tình hình ngày càng lộn xộn, con số tù cải tạo trốn ngày một nhiều, nên sự quản lý của bộ đội đối với các sĩ quan tù cải tạo bị siết lại gắt gao hơn trước nhiều. Mỗi lần đi ra ngoài làm việc lúc nào cũng có hai vệ binh súng ống kè kè canh chừng hoặc khi đi đốn cây, gánh tranh, chặt tre cũng có vệ binh đi theo hướng dẫn. Tuy nhiên, cứ hể sơ sểnh ra là lai rai cũng có người trốn hoài.



Quả đúng như đám tù mới tới dự đoán, những ngày tháng đầu ở trại Bù Gia Phúc họ đã chịu sự quản lý rất nghiêm ngặt. Hể làm không xong công việc được giao trong ngày là bị kiểm điểm, hoặc bị nhiều hình thức kỷ luật khác ngay. Chổ ở chưa có gì cả nên việc xây dựng nhà ở, doanh trại được đặt ra gấp rút vì mùa mưa sắp đến. Ngay sau ngày đến trại, đám tù cải tạo phải làm việc cật lực từ sáng sớm đến tối mịt để khai phá, xây cất thêm doanh trại, khu nhà ở… bếp núc… Mấy đám cán bộ quản giáo suốt ngày cứ hò hét đốc thúc: "Nếu không cố gắng cất nhà kịp, mùa mưa đến các anh sẽ phải ngủ ngoài mưa". Điều này thấy rõ không phải là điều hù dọa suông. Bởi vì từ khi mới tới trại đến nay, đám tù cải tạo đã phải ngủ võng rồi! Chưa làm xong nhà thì phải chịu tiếp tục ngủ võng ngoài gió mưa là cái chắc. Do đó không cần đợi cán bộ quản giáo hò hét đốc thúc, với tình hình này mấy người tù cải tạo cũng phải tự mình làm gấp rút để có chổ che nắng mưa. Từ từ chung quanh trại Bù Gia Phúc nơi Hùng ở, rừng tre và cây cối dần dần được phát quang hết để khai thác đất trống cất nhà ở, doanh trại… và trồng trọt hoa màu. Cứ thế dưới bàn tay của đám tù khốn khổ, rừng càng lúc càng bị lấn thụt lùi sâu về phía sau.


Trại Bù Gia Phúc này là một trong nhiều doanh trại san sát nhau giữa những vùng rừng núi bạt ngàn của hai tỉnh Bình Long, Phước Long. Rừng núi ở đây đa số là những khu rừng tre lồ ồ khổng lồ xen kẽ với rừng già trùng trùng điệp điệp kéo dài cho tới giáp ranh biên giới Campuchia. Trước đây những khu rừng này là mật khu của Việt Cộng. Thỉnh thoảng đi lao động, Hùng và các bạn vẫn còn thấy dấu vết của những hố bom B52 để lại. Tuy nhiên bom đạn trước đây hình như đã không làm suy suyển gì được những cánh rừng già bát ngát ở đây. Phải đợi đến khi tù cải tạo chuyển về thì rừng mới chịu lép vế, nhượng bộ và bị đẩy lùi vào một phần! Số lượng khai thác gỗ, tre và cỏ tranh mang về xây cất doanh trại, nhà ở cho tất cả các trại ngày một nhiều. Vì thế cây cối đúng kích thước, những trảng tranh lớn và những đám tre đúng tiêu chuẩn… ở những nơi gần bị đám tù cải tạo của tất cả các trại từ từ khai thác hết. Càng lúc Hùng và các bạn phải đi thật xa mới có thể tìm được tre, cỏ tranh hoặc cây đúng kích thước tiêu chuẩn được giao. Đi từ sáng sớm, nhưng mang được những thân cây lớn, những bó tranh khổng lồ hoặc những cành tre dài ngoằn về tới doanh trại thì trời đã bắt đầu sụp tối rồi! Đã vậy Nguyễn Văn Thu, người bạn tù cùng khóa Thủ Đức trước đây với Hùng, là một người nhỏ con yếu đuối, không vác nổi những cây lớn được giao phó. Hai đứa lại ở cùng tổ thường được phân công đi lao động chung, Hùng không giúp cho anh ta thì ai giúp bây giờ. Cứ mỗi lần nhận công việc đốn cây, Hùng luôn luôn vác ở phần gốc, để cho bạn mình vác khúc ngọn nhẹ hơn. Suốt thời gian ở đây, Hùng lúc nào cũng dành làm phần nặng nhọc hơn để bạn vẫn hoàn thành công tác mà không bị rắc rối với đám cán bộ quản giáo. Mãi tới bây giờ Nguyễn Văn Thu vẫn nhớ ơn và nhắc hoài về người bạn Diệp Phi Hùng tốt bụng này.
Công việc phân phối trong ngày nặng nề, cực nhọc hơn ở hai trại trước, tuy nhiên khẩu phần ăn được phân phối không thấm đâu vào đâu. Chưa bao giờ người tù cải tạo hiểu ý nghĩa chữ "đói" một cách sâu sắc và thấm thía như khoảng thời gian ở những trại tù cải tạo như thế! Anh em nào có gia đình thăm nuôi, tiếp tế hàng tháng còn đỡ. Những ai kém may mắn không có ai thăm viếng, tuy được bạn bè san sẻ giúp đỡ, nhưng chắc chắn cũng không bao giờ đủ no được.




Người tù cải tạo bị cấm hoặc hạn chế tối đa những liên lạc với người dân bên ngoài và cả những người bạn tù ở khác trại. Nhiều lần đám tù cải tạo của Hùng ra ngoài lao động gần khu dân chúng cũng chỉ được phép ghé mua vội ít bánh trái, đồ dùng lặt vặt ở những quán ven đường rồi đi ngay chứ không nói được gì nhiều. Hoặc đôi khi đi vào rừng đốn cây, gặp những anh em đồng cảnh ngộ ở các trại khác lao động gần đó, canh lúc vệ binh lơ đểnh hai bên lén trao đổi vội vàng với nhau những câu thăm hỏi tin tức những người mình quen biết xem có ở cùng trại bên kia hay không? Rồi thôi! Ai nấy đều phải quay lại tiếp tục công việc nặng nhọc của mình để còn lo về kịp trong ngày…

Sự tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài của người tù cải tạo một cách chính thức hầu như chỉ qua những chuyến thăm nuôi hàng tháng mà thôi. Những cái siết tay, nụ cười méo mó, vòng tay trẻ thơ của đứa con thiếu cha… nụ hôn vội vàng trên môi người vợ hiền hay ánh mắt thương cảm của người yêu... cùng món quà chứa đầy tình thương của Mẹ già… một vài tin buồn, năm ba tin vui trao đổi nhau… tất cả gói ghém hết trong những lần thăm nuôi gặp mặt đó. Đối với người tù cải tạo, đây là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời của họ vào lúc bấy giờ. Đôi khi có một số tin tức do người thân bên ngoài mang vào đã trở thành những đề tài để anh em bàn tán sôi nổi, hoặc những suy đoán, bàn luận thời cuộc căn cứ vào những tin đồn mơ hồ không biết xuất phát từ đâu, tuy nhiên nhờ đó ít nhiều cũng đã giúp hun đúc niềm tin của đám tù cải tạo và làm tinh thần mọi người phấn chấn hơn lên.

Cứ thế người tù cải tạo vẫn lầm lủi sống, lầm lủi chịu đựng với một hy vọng mong manh không lấy gì làm chắc lắm… Và cứ thế ngày tháng âm thầm trôi… Người tù cải tạo mệt mỏi, hy vọng lụi tàn dần theo những lần nhìn cây rừng thay lá!


Image


Với điều kiện thiếu thốn đủ mọi thứ từ dinh dưỡng đến thuốc men. Bệnh tật không thể nào tránh khỏi. Nhất là bệnh sốt rét rừng, căn bệnh đáng sợ nhất ở vùng rừng núi Phước Long này! Những ai bị vướng vào căn bệnh này, thì cầm như chết chắc. Vừa đến trại không bao lâu, đã có một vài người bị dính ngay sốt rét và chết ngay trong trại. Khiến cho những người còn lại không khỏi rúng động. Một đôi lần, Hùng cũng bị bệnh nhưng chỉ là cảm mạo nên lướt qua được hết. Tuy nhiên nghĩ tới đến cơn bệnh sốt rét rừng hiểm nghèo này, anh cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai rồi sẽ ra sao?




Chứng bệnh Hùng lo sợ cuối cùng đã may mắn không xảy ra cho anh, nhưng lại rơi ngay vào một trong những người bạn thân trong nhóm của anh. Đó là Cương. Thiếu Úy Mai Xuân Cương. Tiểu Đoàn16/TQLC. Xuất thân khoá 4/71 SVSQTB Thủ Đức. Người chiến sĩ đã trãi qua biết bao trận đánh lớn nhỏ kể cả lần nhận nhiệm vụ tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Xông pha biết bao trận đánh dữ dội như vậy mà anh cũng không hề hấn gì. Nay trong lúc buông tay súng, cam phận làm tên tù cải tạo, số phần lại không tha cho anh! Giữa núi rừng Phước Long, chứng sốt rét rừng đã quật ngã người sĩ quan kiêu hùng ngày nào dễ dàng! Sau hơn một tuần nằm liệt ở trại với tiêu chuẩn được phát để chống lại cơn bệnh nguy hiểm này là 1 viên ký ninh mỗi ngày không thấm thía vào đâu cả! Bệnh tình càng lúc càng trầm trọng hơn! Mai Xuân Cương tuy thấp người nhưng rất to con, thế mà chỉ qua một tuần lễ, người anh gần như chỉ còn phân nửa so với lúc trước, cộng thêm làn da vàng vọt và một thể chất bạc nhược không tả được. Anh em trong trại quyên góp nhau lại những viên thuốc ký ninh hiếm hoi của gia đình gởi vào để mong cứu sống anh, nhưng cũng không được nhiều. Nguyễn Minh Hoàng đã đưa cho bạn hết tất cả mấy viên thuốc chống sốt rét để dành phòng ngừa cho riêng mình, hy vọng cứu được mạng sống bạn, nhưng cũng chỉ giúp Mai Văn Cương cầm cự chống đỡ thêm được mấy ngày! Bệnh tình của Mai Xuân Cương suy nhược đến nổi anh không còn đứng vững nữa. Hể đứng lên bước mấy bước là té xuống liền. Cuối cùng ban quản giáo trại chấp thuận cho anh lên bệnh xá điều trị. Tiếng là nằm bệnh xá cho có vẻ, nhưng thực ra thuốc men cũng chẳng có gì nhiều nên anh cũng không hồi phục được. Thấy tình thế không xong, trưởng trại mới cho phép Mai Xuân Cương viết thơ nhắn gấp về gia đình mang thuốc lên cấp cứu.

Mấy ngày anh nằm trên bệnh xá, Hùng có tìm cách lén lên thăm được 2 lần. Nhìn thân hình của bạn, Hùng không khỏi mủi lòng. Thân thể tráng kiện của Mai Xuân Cương ngày nào giờ đây chỉ là một xác thân gầy yếu, mệt mỏi nằm một chổ chờ chết với chút hy vọng mong manh là thuốc từ nhà sẽ gởi đến kịp. Không còn biết phải nói gì để an ủi bạn trong lúc này. Hùng chỉ còn biết nắm chặt tay bạn như muốn truyền hết sức mạnh của mình vào thân thể gầy gò để mong bạn có đủ nghị lực vượt qua cơn bệnh quái ác này. Những lúc tỉnh táo nhìn thấy Hùng gần bên, Mai Xuân Cương cứ luôn miệng nhắn nhủ: "Tao muốn về nhà. Đừng để tao ở đây. Tao muốn về với gia đình Mày nhắn dùm gia đình tao mang tao về nghe?" Nghe bạn trong cơn hấp hối lập đi lập lại nhiều lần như vậy, Hùng chỉ biết ứa nước mắt gật đầu, hứa cho bạn yên lòng.



Thời gian Mai Xuân Cương nằm bệnh xá, mưa lớn liên tục suốt ngày. Nước lũ từ rừng đổ về ngập lênh láng. Lần chót Hùng tìm cách lên bệnh xá thăm anh cũng là ngày nước lụt bắt đầu dâng lên khắp các con đường từ thị trấn đi vào. Từ trong trại nhìn ra ngoài bìa rừng xa xa đã có thể thấy nước ngập loang loáng trên mặt những trảng tranh rộng lớn. Tù nhân không thể đi công tác xa bên ngoài như thường lệ, đa số chỉ làm những việc lặt vặt trong trại. Nhân cơ hội này, Hùng lén lên bệnh xá thăm Mai Xuân Cương. Lần này nhìn bạn, Hùng biết là đã quá trể rồi! Trước mặt Hùng giờ chỉ là một thân xác còn thoi thóp với chút hơi thở yếu ớt. Sự chết đã hiện ra trên gương mặt vàng vọt, méo mó và hai con mắt của nguời tù khốn khổ đã lạc hết thần khí!! Mai Xuân Cương nằm đó chờ cái chết đến với mình từ từ. Trong một khoảng im lặng thật lâu, Hùng đứng nhìn bạn với cái cảm giác đau đớn và bất lực vì không biết làm gì giúp được bạn trong lúc này.
Mai Xuân Cương trở mình, giương cặp mắt lạc thần lên nhìn Hùng một hồi mới nhận ra được bạn. Giọng của anh yếu ớt đến độ Hùng phải nghiêng đầu, cúi sát tai vào miệng bạn mới có thể nghe được tiếng thì thào đứt quảng. Bệnh sốt rét rừng này quả đáng sợ thật. Trong vòng một thời gian ngắn, chứng bệnh quái ác này đã làm thay đổi bề ngoài của con người đến độ nếu không gặp người bệnh trong vòng một tuần lễ chắc khó lòng nhận ra được! Ngay cả những cử động của người bệnh cũng rất khó khăn. Với tất cả sinh lực còn sót trong thân thể bạc nhược của mình, Mai Xuân Cương cố gắng thều thào:

- "Tao… không xong rồi… Hùng ơi!... Mày cho tao… gởi lời thăm… mấy anh em. Ráng giữ gìn… sức khoẻ. Đừng giống… như tao…"
Mai Xuân Cương giật giật tay Hùng nói thêm:
- "Mày nhớ… nhắn gia đình… mang tao về…. Bao lâu cũng được… nhưng ráng… mang tao về nghe."
Hùng chỉ biết nhìn bạn gật đầu, ứa nước mắt.

Người nhà của Mai Xuân Cương cũng đã nhận được tin nhắn, cấp tốc mang thuốc lên. Nhưng đúng là trời trêu lòng người. Những nẻo đường từ Phước Long đi vào trại đều bị lụt lội khắp cả. Khi từ Saigon lên, Mẹ và em của Mai Xuân Cương không cách gì vào trại được đành phải tìm nơi tá túc qua đêm ở bên ngoài thị trấn, qua hôm sau chờ nước rút bớt mới mướn người đưa đi. Đến nơi hai mẹ con cũng chỉ được phép gởi thuốc vào chứ không cho gặp mặt người thân, mặc cho Mẹ và em của Cương khóc lóc van xin mấy cũng không được. Sau một hồi năn nỉ khóc lóc không kết quả, hai mẹ con tuyệt vọng đành gởi ít quà và thuốc vào cho Mai Xuân Cương rồi lủi thủi ra về. Nhưng hởi ơi! Người Mẹ và người em tội nghiệp đó có biết đâu anh đã qua đời ngày hôm trước rồi!




Mai Xuân Cương mất ngay đêm sau khi Hùng lên thăm anh lần cuối. Nghe người ở bệnh xá kể lại, nửa đêm khát nước anh ráng đứng dậy đi lấy nước uống thì bị vấp té không gượng dậy nổi nữa và nằm đó chết luôn. Anh ra đi chắc còn tức tưởi lắm. Trong khi Mẹ và em đang ở bên ngoài thị trấn đêm hôm đó, nôn nóng chờ nước rút để kịp mang thuốc vào cứu, thì anh đã không thể chờ được nữa! Anh ra đi mà Mẹ và em cuối cùng vào được đến nơi cũng không thể nhìn thấy mặt anh lần cuối! Thân xác anh nằm đó trong khi hai người thân ở ngay ngoài cổng trại vẫn tưởng anh còn sống và cả hai vẫn nuôi hy vọng thuốc mang lên kịp sẽ cứu được mạng anh!!

Một buổi sáng khoảng giữa năm 1978, một ngày như mọi ngày ở trại tập trung cải tạo. Khi những bạn tù khác nhận dụng cụ và công việc được giao, chuẩn bị phân tán khắp nơi đi ra ngoài lao động, thì có một số người giơ tay tình nguyện nhận một công tác bất thường: Mai táng người chết! Những người tình nguyện được chia làm hai toán:
Toán thứ nhất trong đó có Đại Úy Hải Quân Phạm Thanh Tân và một số người nữa, được giao cho công việc đào huyệt.
Toán thứ hai lo việc tẩn liệm và khiêng người chết gồm 6 người: Th/Úy Diệp Phi Hùng (TQLC), Th/Úy Trần Văn Khoẻ (TQLC), Th/Úy Nguyễn Minh Hoàng (Nhảy Dù), Th/Úy Ngô Văn Cường (Nhảy Dù), Th/Úy Hoàng Lập Thành (TQLC) và một Tr/Úy Hải Quân tên Hoàng (Khóa 20 HQ, không nhớ họ)

Những thớ đất trên ngọn đồi nơi Mai Xuân Cương sẽ yên nghỉ còn ẩm nước và khá mềm nhờ vào mấy trận mưa lớn vừa qua, đã giúp cho toán đào huyệt mộ hoàn thành nhiệm vụ không khó khăn lắm. Buổi sáng sớm rừng núi Phước Long vẫn còn sót lại cảm giác lành lạnh của hơi sương đêm rồi. Gió mang đến những tiếng lao xao đều đều từ cánh rừng xa xa nghe như một điệu nhạc trầm buồn tiễn đưa người tù vắn số. Đám bạn chống xẻng nhìn huyệt mộ có vẻ an ủi lắm. Không nói ra nhưng chắc ai nấy đều nghĩ thầm: "Ít ra đây là những gì tụi tao còn có thể làm được cho mày lần cuối đó Mai Xuân Cương ơi!"




Xác Mai Xuân Cương được bó trong một cái áo mưa quân đội cũ, bên trong liệm chung với mấy món vật dụng cá nhân ít ỏi của anh. Hùng và đám bạn còn cẩn thận viết tên Mai Xuân Cương trên một mảnh giấy, bỏ vào cái lọ thủy tinh đậy nút thật kỹ liệm chung với xác anh ta, để sau này dù có bị mối đục khoét hết đồ vật, vẫn còn có thể nhận dạng được. Trước khi đặt anh nằm vào trong bọc áo mưa, Hùng không quên đeo sợi dây có cây thánh giá vào cổ bạn. Đây là món quà Mẹ anh gởi vào theo thuốc chống sốt rét vừa rồi. Đó cũng là điều an ủi cho Mai Xuân Cương, còn mang được món quà của người Mẹ thân yêu theo bên mình trước khi đi vào lòng đất.
Xác anh được khiêng từ bệnh xá ra, đặt xuống lòng huyệt mộ một cách nhẹ nhàng bởi những người bạn tù thân thiết. Trước khi lấp đất, không ai bảo ai tất cả đám tù hiện diện cùng đứng cúi đầu trang nghiêm thầm cầu nguyện trước cặp mắt của tên bộ đội vệ binh và cán bộ quản giáo đứng nhìn lom lom gần đó. Cặp mắt của họ hôm nay hình như cũng biểu lộ chút dễ chịu hơn mọi ngày. Dầu gì thì người cũng đã nằm xuống rồi! Đâu ai nỡ khó khăn với người chết làm chi.

Hùng nhìn quanh, gần nơi huyệt mộ của bạn mình đã có từ hồi nào 11 ngôi mộ của những người tù cải tạo khác không may nằm xuống trước đó. Tất cả các ngôi mộ đều không có một tấm bia nào khắc ghi tên tuổi, ngày tháng để lại sau này cả! Trong khi xúc đất phủ lên xác bạn, Hùng không ngớt suy nghĩ. Không biết phải làm sao để có thể ghi dấu lại ngôi mộ của bạn sau này? Làm cách nào để nhiều năm sau còn hy vọng kiếm lại được? Trước đó Hùng có nghe mấy tay quản giáo nói chuyện với nhau, trong tương lai người ta sẽ khai phá những khu rừng chung quanh ngọn đồi này để trồng cao su. Với sự thay đổi như vậy, việc nhận dạng lại dấu vết nhiều năm sau này sẽ càng khó khăn hơn. Đám bạn tù bàn với nhau tìm một cành cây dài với hình thù đặc biệt dễ nhớ và cố gắng chôn cây đó càng sâu càng tốt trước ngôi mộ. Sau đó tất cả đồng ý lấy cây cổ thụ thật lớn nổi bật ở bìa rừng làm chuẩn và từ đó nhắm hướng đếm bước đến nơi chôn vùi bạn. Đám bạn còn cẩn thận đếm bước hai ba lần để chắc chắn có được con số chính xác nhất định. Sau đó họ cố gắng ghi nhớ địa thế ngọn đồi cùng vị trí của các ngôi mộ khác để phân biệt với nơi bạn nằm. Đâu đó xong xuôi trước khi từ giả trở về trại, tất cả đứng bùi ngùi van vái thầm: "Mai Xuân Cương ơi! Số mày không may ra đi sớm, tụi tao cũng chỉ biết cầu xin vong hồn mày hãy yên nghỉ. Như vậy cũng yên ổn phần mày rồi. Còn số phần tụi tao chưa biết mai đây sẽ ra sao? Nếu mày có linh thiêng hãy về phù hộ cho tụi tao chống chọi được tất cả các khó khăn, bệnh tật. Phù hộ cho tụi tao luôn khoẻ mạnh và sớm được thả về với gia đình. Tụi tao hứa sẽ báo tin và chỉ dẫn chỗ nằm của mày để gia đình mang mày về. Thôi mày hãy an nghỉ, tụi tao đi đây!"




Hôm đó trời đã ngừng không mưa nữa, nhưng mây vẫn còn u ám lắm. Cả bầu trời hình như chỉ có mỗi một màu xám, nên mặc dù chưa trưa khung cảnh chung quanh trông có vẻ như đã xế chiều lâu lắm rồi vậy! Xuống tới dưới chân đồi Hùng ngoái nhìn lên chỗ bạn nằm. Cành cây lớn cả bọn cắm trước mộ bạn làm dấu, nhìn từ xa hình dáng nó trông giống y như một cây súng gãy cắm ngược xuống đất. Hùng thở dài. Phải rồi! Trông nó thật là giống một cây súng đã gãy, đang đứng chơ vơ một mình giữa nền trời u ám.
Last edited by vuphong on Sat Jul 07, 2007 4:57 am, edited 2 times in total.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

Cái chết của Mai Xuân Cương đã để lại trong lòng những người bạn tù nhiều thương cảm và suy nghĩ về số phận mong manh của kiếp tù đày. Không lâu sau đó, một số tù cải tạo tìm cách trốn trại. Trong số mấy người ít ỏi thoát được từ trại 3148 Bù Gia Phúc có Th/Úy Trần Văn Khoẻ, người bạn thân cùng đơn vị với Mai Xuân Cương và Diệp Phi Hùng. Tin trốn trại loan ra dấy lên làn sóng xôn xao trong đám tù còn lại, đồng thời càng làm cho ban quản giáo siết chặt kỷ luật gắt gao hơn. Nhưng có khó khăn gì nữa thì cũng thế thôi. Người tù cải tạo không phải hàng ngày vẫn đối diện với khó khăn từ sáng sớm đến tối mịt đó sao? Chỉ tiêu lao động đưa ra nhiều hơn ư? Đàng nào thì người tù cải tạo cũng quen với sự chịu đựng rồi. Ráng thêm chút nữa, rồi cũng xong thôi.


Tuy thế tận trong đáy lòng, Hùng cảm thấy nỗi buồn chất chứa thêm lên. Trong một thời gian ngắn, hai người bạn thân thiết nhất đã xa rời: Một ra đi vĩnh viễn, một chưa biết số phận thế nào sau khi trốn trại. Những ray rức dằn vặt, lòng buồn nhớ thương bạn, nỗi cảm khái cho chính thân phận của mình và gia đình bên ngoài… khiến Hùng suy tư nhiều và trở chứng mất ngủ hồi nào không hay. Nhiều khi đốn cây, róc vỏ xong chờ vác về. Hùng và các bạn ngồi nghỉ mệt. Nhìn thân cây đã bị đốn ngã nằm trên mặt đất chờ khiêng về, Hùng không khỏi cảm khái nhớ tới một bài thơ được người tù nào đó làm ra và được một người khác phổ nhạc. Tác giả nhìn thân cây bị đốn ngã, ví von với thân phận của mình và làm ra bài thơ sau đây mà các người tù cải tạo lúc bấy giờ gần như ai cũng thuộc lòng:




Thân Phận .

Rừng hoang… Xào Xạc…
Một thân cây đốn ngã.
Như đời mình.
Buông thả tương lai.
Này đây là tóc là tai.
Cành khô nằm đó.
Ai mang anh về?
Thân anh khốn nổi ê chề
Tháng năm vẫn đợi. Lời thề còn chăng?
Lòng anh khốn nỗi giá băng
Anh ray rức mãi vết hằn khổ đau.
Thôi em. Vơi bớt ưu sầu.
Bước đi bước nữa, tan mau nửa đời.
Rừng hoang chôn chặt một thời.
Tương lai đâu có lời nào cho em.
Mắt sâu hun hút đêm trường,
Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn
Rừng hoang kết lá úa tàn
Thân cây đốn ngã. Anh thương phận mình.


(Không rõ tên tác giả)

Lời thơ bình dị mà cảm động quá. Đã nói lên được tâm trạng chung của tất cả anh em tù cải tạo. Mặc dù Hùng chưa có gia đình, nhưng anh cũng có người yêu nên hiểu rõ những suy tư khắc khoải của những bạn tù khác có vợ con, gia đình ở nhà. Người tù cải tạo giờ đây có khác gì một thân cây đã bị đốn ngã. Nhưng cây bị đốn ngã còn có người đưa về, còn người tù cải tạo nếu chẳng may nằm xuống giữa rừng già này, thì ai sẽ đưa anh về? Vợ và người yêu ở nhà, có còn bền chặc lời thề ngày xưa hay chăng? Thôi thì em ơi. Hãy vơi đi bớt ưu sầu. Cứ bước đi bước nữa đi em. Bước đi bước nữa cho nửa đời còn lại của em tan mau. Em không cần phải chờ đợi anh đâu… Sao mà thấm thía và chua xót quá! Lần đâu tiên Hùng và các bạn được nghe một bạn tù ôm đàn hát bài này. Ai cũng ứa nước mắt. Đúng rồi! Thận phận của người tù cải tạo bây giờ đâu còn gì để hứa hẹn mai sau cho người mình yêu thương nữa!!... Từ đó nhiều lần trong đêm khuya, nơi trại tù im vắng giữa núi rừng Phước Long, mỗi khi buồn không ngủ được, anh thường nhớ tới bài hát này và hay khe khẽ hát một mình: "… Mắt sâu hun hút đêm trường. Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn. Rừng hoang kết lá úa tàn. Thân cây đốn ngã. Anh thương phận mình!"
Giọng hát nghe đã buồn! Lời nhạc nghe sao còn não lòng hơn!





Ở trại 3148 Bù Gia Phúc đến cuối năm 1978 thì tất cả lại bị chuyển trại một lần nữa. Lần này nhóm bạn thân của Hùng bị phân tán ra, đi đến những trại tù cải tạo khác nhau. Hai năm sau, khoảng cuối năm 1980, Diệp Phi Hùng, Nguyễn Minh Hoàng, Phạm Thanh Tân, Nguyễn Văn Thu và Ngô Văn Cường lần lượt được thả về hết. Sau những ngày vui mừng đoàn tụ với gia đình. Nhớ đến lời hứa với Mai Xuân Cương trước đây. Hùng rủ Cường đến nhà Mai Xuân Cương thăm viếng, đồng thời kể chi tiết về cái chết và lời trối trăn trước giờ lâm chung của anh. Gia đình Mai Xuân Cương đã biết tin về cái chết của con mình lâu rồi, nhưng những chi tiết thì chưa biết được rõ ràng. Nay nghe Hùng kể lại, cả nhà anh khóc như mưa. Ba của Mai Xuân Cương nói qua giòng nước mắt:

- "Các cháu đã là bạn của thằng Cương thì cũng như con cháu của Bác thôi. Nay em nó không may vắn số mà xác thân còn lưu lạc giữa núi rừng như vậy, quả thật Bác đau lòng quá. Bác xin các cháu vì tình bạn ngày xưa với nó mà chỉ dẫn cho Bác chỗ để Bác đưa cháu nó về với gia đình, ngày nào nó chưa về được thì Bác không thể ăn ngon ngủ yên được. Bác muốn tận tay mình mang hài cốt của con về. Bác chỉ cần các cháu hướng dẫn cho Bác đến chổ của nó nằm là Bác đã mang ơn lắm rồi. Đêm nằm Bác cứ thấy nó mà chảy nước mắt hoài." - Ông nói xong lại khóc nức nở..

Hùng và Cường nhìn thấy cảnh đó cũng cảm động vô cùng. Cả hai hứa sẽ hướng dẫn Ba của bạn đi tìm mộ và mang hài cốt anh về. Thời điểm đó tính từ ngày chôn cất Mai Xuân Cương thì mới chỉ khoảng gần 2 năm mà thôi. Nhiều người bà con của Cương bàn với gia đình anh là thời gian 2 năm còn quá sớm, phải đợi đến khoảng ít nhất từ 3 đến 5 năm sau, xác thịt tiêu hủy hết thì hốt cốt mới tốt hơn. Nghe ai cũng nói như vậy nên gia đình Mai Xuân Cương đồng ý nán lại đúng 5 năm mới thực hiện chuyện đó.
Nhưng xưa nay người tính là một chuyện, còn trời tính lại là một chuyện khác! Trong khoảng thời gian chờ đợi đó Ba Mẹ của Mai Xuân Cương phần vì nhớ thương con, phần vì lớn tuổi nên đau yếu hoài. Đến khi đúng 5 năm kể từ ngày anh chết thì cơn bệnh của Ba anh bị trở nặng không đi được, cuối cùng đành phải hoãn việc này lại.



Bẵng đi mấy năm sau, bệnh tình của người cha cũng cứ như vậy hoài, không thuyên giảm chút nào. Khổ nỗi ông cứ nằng nặc yêu cầu ráng đợi ông hết bệnh sẽ đích thân đi lo cho con mình mới thoả lòng! Trong khi đó Hùng và các bạn bè thân thuộc lo chuyện trốn đi vượt biên nhiều lần vẫn không thành, ngoài ra còn lo chuyện sinh kế gia đình nên đầu óc đâu còn để ý gì tới những chuyện khác nữa. Mãi đến khi bệnh tình Ba của Mai Xuân Cương trở nặng, ông biết là không xong, hết hy vọng tự tay mang con về như tâm nguyện được nên cho người mời Hùng và Cường đến. Ông nắm tay hai người vừa khóc vừa nói:
- "Tâm nguyện của Bác chưa hoàn thành được, chắc là Bác chết không nhắm mắt được hai cháu ơi."

Nói xong ông lại ngậm ngùi khóc. Hùng và Cường nhìn ông rất thương cảm nhưng không biết phải nói làm sao. Cuối cùng ông nói với hai người bạn của con mình:
- "Bác biết là yêu cầu này hơi quá đáng, nhưng ngoài hai cháu ra, Bác bây giờ không biết phải cầu xin ai nữa cả."
- "Thưa Bác. Xin Bác đừng nói vậy. Bác có điều gì yêu cầu, nếu trong khả năng làm được, hai cháu sẽ cố gắng làm cho Bác."
- "Xin hai cháu hãy thương cho thằng Cương của Bác mà thay Bác mang nó về với gia đình dùm Bác. Bác tâm nguyện sẽ tự tay lo cho nó, nhưng với tình hình sức khoẻ như thế này, chắc là Bác không qua khỏi để làm chuyện đó rồi. Thôi thì xin hai cháu hãy cố gắng giúp cho em Cương lần nữa, coi như hai cháu làm phước cho gia đình Bác vậy. Bác thật không dám quên ơn sâu này."
Hai người bạn không cầm được nước mắt, cả hai nắm tay người cha tội nghiệp và hứa với ông:
- "Bác cứ yên tâm. Hai đứa cháu sẽ ráng làm hết sức để đưa anh ấy về với gia đình. Cháu chỉ sợ sau nhiều năm, nhiều chuyện thay đổi, không biết tụi cháu có tìm được đúng chổ anh ấy nằm xuống hay không, nhưng hai cháu sẽ cố gắng."

Ba của Mai Xuân Cương qua đời sau đó không lâu. Khi đưa đám của ông, nhìn người Mẹ bệnh tật và những đứa em còn lại của bạn. Hùng và Cường bảo nhau nhất quyết thực hiện lời hứa mang hài cốt Mai Xuân Cương về nằm kề bên Ba anh ấy cho bằng được.




Cuối năm 1990, mười hai năm sau khi Mai Xuân Cương mất. Sau khi sắp xếp mọi việc đâu đó xong xuôi, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường cùng một em rễ và một em ruột của Cương chở nhau trên hai chiếc Honda đi ngay lên Phước Long. Mục đích chuyến đi lần này chỉ là dò đường tìm lại ngọn đồi năm xưa và cố gắng tìm vị trí ngôi mộ bạn trước. Nếu tìm được thì chuyện hốt cốt không thành vấn đề nữa. Điều lo sợ nhất của hai người là trãi qua bao năm tháng, vật đổi sao dời chỉ sợ ngôi mộ thất lạc không thể tìm thấy được nữa thì đúng là phụ đi tâm huyết của nhiều người. Riêng Hùng, nếu không làm tròn được ước nguyện của bạn và người cha trước khi chết thì anh thật sự đau lòng lắm.

Đến Phước Long, thì trời đã chiều lắm rồi. Trời lại mưa quá lớn. Những con đường đất dẫn vào rừng đều ngập nước hết cả. Lượng mưa ở vùng rừng núi Phước Long này hình như quá nhiều, lúc nào cũng có thể mưa được. Đã vậy nạn khai thác rừng lấy gỗ một cách bừa bãi, vô tổ chức mấy năm sau này đã khiến cây rừng không còn giữ được nước. Lũ từ các nơi đổ về mỗi khi có cơn mưa lớn gây lụt lội khắp nơi. Bốn người không còn cách nào khác hơn là vào nhà dân ở thị trấn tìm chỗ trọ qua đêm, đợi hôm sau hỏi thăm đường vào trại cũ. Tất cả bây giờ đã đổi thay hoàn toàn. Những cánh rừng ngày xưa thụt sâu ở hai bên đường và những trảng tranh lớn còn nhớ trong ký ức của Hùng, bây giờ không còn nữa. Thay vào đó là những cánh rừng cao su bát ngát. Hùng và Cường không còn nhận ra đâu là đâu. Hỏi thăm dân chúng về những trại tù cải tạo Bù Gia Phúc, Bù Gia Mập, Trại 3148, trại 3146… thì nhiều người không biết. Cuối cùng hai người đến bến xe đò hỏi thăm những tài xế và lơ xe, hy vọng ngày xưa những thân nhân đi thăm nuôi tù đã sử dụng phương tiện xe đò, như thế chắc phải có người biết chỉ dẫn dùm. Quả nhiên lần này gặp được mấy tài xế và lơ xe kỳ cựu ở đó biết đường đi vào những trại cải tạo cũ.

Sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời chỉ dẫn, hai chiếc Honda lại lên đường theo những con đường đất lầy lội do trận mưa lớn hôm qua còn để lại, cộng với những ổ gà lởm chởm càng làm cho khó đi thêm. Mấy khu rừng Hùng nhớ mang máng trước đây nay đã bị khai phá thụt sâu vào bên trong nhường chổ cho hàng dãy đồn điền cao su chạy dài đến mút mắt. Thỉnh thoảng gặp một vài chiếc xe bò, Hùng dừng lại hỏi thăm. Sau nhiều lần lạc lên lạc xuống và hỏi thăm đường như thế… cuối cùng bốn người cũng đến được ngả ba đường 10 và nơi quẹo vào trại 3148, Bù Gia Phúc cũ. Đứng trước doanh trại, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường nhìn nhau cảm khái vô cùng. Không ngờ có ngày hai người lại trở về chốn này. Giờ đây doanh trại này không còn là nơi chứa tù cải tạo nữa, mà đã trở thành một doanh trại thuần túy do bộ đội biên phòng trú đóng.
Hỏi thăm dân chúng ở những ngôi nhà bên phía ngoài xem có ai biết ngọn đồi nơi chôn những người tù cải tạo bị chết ngày xưa thì không ai biết cả. Tuy nhiên có người chỉ dùm đường cho bốn người của Hùng đi vào rừng tìm một người đàn ông đang cất nhà chòi làm rẫy trong đó, người này chắc chắn biết tin tức bọn Hùng muốn tìm.

Image


Lần theo sự chỉ dẫn, bốn người lại lên xe Honda men theo con đường mòn dân chúng thường đi làm rẫy, cuối cùng cũng tìm gặp được người muốn gặp. Đó là một người đàn ông trạc độ 55-60 tuổi, là bộ đội từ Bắc vào, trước đây đã từng là cán bộ quản giáo trong trại Bù Gia Phúc. Sau nhiều năm phục vụ, ông này lên đến cấp bậc Đại Úy và đã giải ngũ mấy năm gần đây. Ông ta lập gia đình với một người địa phương và lập nghiệp luôn ở nơi này, ngày ngày cùng gia đình làm rẫy sinh sống. Khi biết được ý định của bốn người. Ông cựu Đại Úy bộ đội này sốt sắng nhận lời chỉ đường giúp đến nơi chôn cất tù cải tạo trước đây. Thật không còn gì mừng rỡ hơn đối với bọn Hùng lúc này. Lúc đó ngay trong rẫy, không có hàng quán Hùng định trở ra ngoài khu dân cư mua nhang đèn, nhưng ông cựu Đại Úy bộ đội này kiếm được một bó nhang cho bọn Hùng luôn. Trong khi đi đường, ông ta cho biết thỉnh thoảng khi làm rẫy gần ngọn đồi, ông có ra thăm và thắp nhang trên những phần mộ vô chủ đó. Ông nói rằng người đã nằm xuống rồi thì không còn hận thù gì nữa. Cả bốn người của Hùng đều rất cảm động với lời nói chân tình xuất phát từ một sĩ quan bộ đội mà ngày xưa có lúc đã là kẻ đối nghịch với họ. Phải rồi! Người đã nằm xuống rồi, hãy để họ yên nghỉ. Không nên nói hận thù với người đã chết nữa!




Khi lên đến ngọn đồi ngày xưa nơi hai người đã tự tay chôn cất bạn, Hùng và Cường ngơ ngác không thể nào nhận ra đây là đâu! Tất cả đã hoàn toàn thay đổi và khác hẳn với những gì còn sót trong ký ức của hai người. Kể cả những cánh rừng xa xa trước đây bây giờ cũng trồng toàn cao su! Không có dấu tích gì về những ngôi mộ ngày xưa. Mười hai năm qua rồi còn gì nữa!! Cũng may nhờ có người đàn ông dẫn đến ngay chỗ trước đây chôn những người chết trong trại. Tuy mặt đất trông có vẻ như bằng phẳng, nhưng khi đến nơi nhìn kỹ cây cỏ mọc ở bên trên những ngôi mộ, thì thấy nơi đó vẫn hơi nhô cao lên một chút nếu so với các nơi bằng phẳng khác. Điều này mang lại cho Hùng và Cường một tia hy vọng. Nhưng trước đây khi chôn bạn, chung quanh có 11 ngôi mộ thì bây giờ đã có thêm nhiều người nằm xuống ở đây nữa rồi! Việc tìm đúng ngôi mộ của bạn không phải là một chuyện dễ. Hùng đứng quan sát kỹ chung quanh cố nhận dạng một điểm quen thuộc nào đó có thể gợi nhớ cho mình. Đầu óc của anh thật là mơ hồ, không một điểm nào có thể làm cho anh nhớ lại được hết! Cành cây có hình thù giống cây súng gãy mà trước đây cả đám cố gắng chôn sâu trước mộ bạn đã biến mất không để lại một dấu tích nào! Còn cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng dùng làm chuẩn, nay cũng bị đốn đâu mất tiêu! Hỏi ý kiến của Cường thì cũng thế, anh ta cũng không nhớ được điều gì rõ ràng cả!!




Hai người hỏi thăm ông cựu Đại Úy bộ đội về sự thay đổi khi người ta khai phá rừng để trồng cao su, thì được biết con đường đất ven khu rừng ngày trước cũng vẫn còn đó và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay không thay đổi. Hùng hỏi ông ta về cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng thì ông cựu Đại Úy bộ đội này nhớ ra ngay. Lúc đó cả vùng chỉ có cây cổ thụ đó là lớn nhất nên hầu như ai ở khu này cũng đều biết nó cả. Ông ta chỉ hướng nơi có cây cổ thụ trước đây. Hùng mừng quá cùng với Cường đi ngay về phía bìa rừng cao su tìm kiếm dấu vết; thì quả nhiên dù cây cổ thụ đó đã bị đốn đi, nhưng vì gốc của nó quá lớn, người ta không thể nào bứng đi hết gốc rễ của nó được. Trên mặt đất vẫn còn nhô lên dấu tích một vài phần rễ khổng lồ còn sót lại như một xác nhận cho sự hiện diện của cây cổ thụ trước đây. Cả bọn mừng quá, thầm cám ơn Phật Trời và cầu nguyện vong hồn của Mai Xuân Cương và Ba anh hộ độ cho bốn người tìm được đúng nơi anh nằm. Sau đó từ điểm chuẩn vừa tìm được, hai người nhắm ngược về hướng những ngôi mộ đếm đều bước. Cả hai muốn chắc ăn nên đếm từng bước như vậy 2, 3 lần và đều đến cùng một nơi. Cả bọn xúm lại lấy một cành cây dài đóng xuống thật sâu dò thử, thì sau khi qua khỏi lớp đất cứng, cành cây sụp xuống dễ dàng có vẻ như trúng ngay vào một lỗ hổng. Mọi người biết nơi đây đúng là một ngôi mộ rồi. Tuy nhiên có đúng là mộ của bạn hay không thì chỉ còn biết cầu nguyện thôi. Sau đó để y nguyên cành cây dài cắm trong mộ làm dấu. Bốn người cám ơn và từ giả người cựu bộ đội tốt bụng đi về để lo bước kế tiếp làm thủ tục xin giấy phép hốt cốt Mai Xuân Cương.




Mấy ngày sau, khi có được giấy tờ hợp lệ đầy đủ. Bọn Hùng trở lại chổ cũ trình giấy tờ xin phép hốt cốt thân nhân với trưởng trại của đơn vị bộ đội đang trú đóng. Họ hỏi bọn Hùng về những di vật khi tẩn liệm Mai Xuân Cương, làm sao có thể nhận dạng chắc chắn đó là hài cốt của anh ta sau khi quật mồ lên… Hùng khai rõ những gì mình còn nhớ được khi tẩn liệm cho bạn với trưởng trại. Sau đó họ chấp thuận cho phép mấy người của Hùng được quật mồ. Một số bộ đội được cử đi theo giám sát.



Hùng hồi hộp van vái không ngừng khi mộ huyệt được đào lên:"Mai Xuân Cương ơi Mai Xuân Cương! Hôm nay tụi tao lên mang mày về với gia đình đây. Mày có linh thiêng thì giúp tụi tao đào đúng chổ. Mày sắp được về nằm gần Ba mày rồi. Ráng linh thiêng hướng dẫn cho tụi tao đào đúng chổ nghe." Hùng cứ lẩm bẩm khấn vái như vậy liên tục. Đến khi những nhát xẻng đầu tiên xúc hết đất lòi ra một khoảng nylon lớn mầu olive sậm của chiếc áo mưa quân đội, thì Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường thấy hy vọng lắm. Cái áo mưa còn y nguyên. Sau khi khiêng lên trên, mở áo mưa ra thì không còn nghi ngờ gì nữa. Bộ đồ bà ba đen khi tẩn liệm cho Cương tuy mục nát vài chỗ nhưng hình thù vẫn còn. Cây thánh giá của Mẹ Cương mà Hùng đeo vào cho bạn khi tẩn liệm cũng kiếm ra được, cộng thêm lúc còn sống Cương có một vết thẹo khá lớn trên trán, bây giờ xương sọ của anh vẫn còn một vết mờ nhạt ngay vị trí vết sẹo đó. Ngoài ra cái lọ thủy tinh chứa mãnh giấy để tên anh còn đó đã xác nhận rõ ràng.



******
******************
******



Hài cốt của Mai Xuân Cương sau mười hai năm, cuối cùng được đưa về nhà đúng như ước muốn của anh trước giờ lâm chung. Sau đó được hỏa thiêu và mang vào nằm cạnh Ba anh trong ngôi nhà thờ họ Đạo của gia đình. Sự ra đi tức tưởi của anh là một điều đau đớn cho riêng anh và gia đình cũng như bạn bè thân thuộc. Tuy thế vẫn có cái kết cuộc may mắn là anh có được những người bạn tốt như Diệp Phi Hùng, Trần Văn Khoẻ, Nguyễn Minh Hoàng, Ngô Văn Cường, Phạm Thanh Tân, Hoàng Lập Thành… đã lo lắng cho anh vào những giây phút cuối. Đặc biệt là Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường đã hết lòng hoàn thành ước muốn của anh. Cũng như may mắn có được một gia đình thương yêu, quyết tâm mang anh về cho dù sau bao năm tháng. Vấn đề sức khoẻ của Ba anh có làm trì hoãn chuyện này, nhưng quyết tâm đó vẫn được nung đúc và cuối cùng vẫn thực hiện được. Anh lại còn có cái may mắn xui khiến các bạn anh gặp được một cựu Đại úy bộ đội tốt bụng, biết chỗ hướng dẫn đến đúng nơi anh nằm, từ đó mới có thể đưa anh về nhà được.



Nhưng khắp chiều dài đất nước, chúng ta còn biết bao Mai Xuân Cương khác đã âm thầm ngã xuống. Thân xác còn chôn vùi đâu đó nơi rừng sâu núi thẳm mãi cho đến giờ này vẫn không được biết và không ai đoái hoài tới. Đất nước thân yêu của chúng ta đã trãi qua bao thăng trầm của lịch sử, nhưng phải nói chưa có giai đoạn lịch sử nào lại bi thương bằng giai đoạn vừa qua! Thân phận của hàng trăm ngàn người tù cải tạo và gia đình của họ sau cuộc chiến sao mà đau đớn quá!! Công lý nào, quyền lực nào mai sau sẽ có thể đòi lại công bằng cho họ được đây??



Tôi đã xúc động vô cùng khi nghe người bạn cùng khóa và cũng là người trong cuộc, anh Diệp Phi Hùng, kể lại câu chuyện thương tâm trên. Cái thân phận của người lính gãy súng như Mai Xuân Cương và biết bao sĩ quan VNCH khác trong những trại tù cải tạo rải rác khắp mọi miền đất nước sao mà bi thảm quá! Bài viết này được viết qua cảm xúc đó để kính dâng lên các anh, những người đã bỏ mình âm thầm trong những trại tù cải tạo xa xôi, như chút tâm tình riêng của một cựu quân nhân VNCH tưởng nhớ đến những chiến hữu của mình đã âm thầm ngã xuống tức tưởi ở một nơi nào đó. Các anh đã ngã xuống không phải trong một trận đánh kiêu hùng, mà ngã xuống chỉ vì ốm đau, bệnh tật… kết quả của sự đày ải và lòng hận thù hèn mọn.
Với ý nghĩ đó, cá nhân tôi xin được vinh danh và chào kính các anh.


Vĩnh Khanh
Phố Đá Tròn, giữa tháng 11 năm 2006




- Những nhân chứng có tên trong câu chuyện trên đây:

Cựu Th/úy Diệp Phi Hùng, TĐ16/TQLC hiện đang định cư tại Austin, Texas.
Cựu Th/Úy Nguyễn Minh Hoàng, TĐ3 Nhảy Dù hiện định cư tại Virginia
Cựu Th/Úy Ngô Văn Cường, TĐ8 Nhảy Dù hiện định cư tại Philadelphia
Cựu Đại Úy Phạm Thanh Tân, Hải Quân hiện định cự tại Houston, Texas
Cựu Th/Úy Trần Văn Khoẻ TĐ16/TQLC, hiện định cư tại San Jose, California
Cựu Th/Úy Hoàng Lập Thành, TĐ6/TQLC hiện định cự tại San Diego, California
Cựu Th/Úy Nguyễn Văn Thu, Địa Phương Quân/PCK hiện định cư tại Houston, Texas.
Cựu Tr/Úy Hoàng (không nhớ họ), Khoá 20 Hải Quân, hiện định cư tại San Jose, CA (?)

… Và người nằm xuống nơi núi rừng Phước Long, Trại 3148, Bù Gia Phúc:
Cựu Th/Úy Mai Xuân Cương, TĐ16/TQLC.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »


Image

30.4.75: Nhảy Dù, Biệt Cách Dù Kịch Chiến Với Cq Trước Giờ G
VƯƠNG HỒNG ANH

( Đại Hội lần thứ 6 "Đời Chiến Binh" của Gia Đình 81 Biệt Cách Dù sẽ tổ chức vào hai ngày Thứ Bảy 7-7-2007, và Chủ Nhật 8-7-2007 với lễ khai mạc 10:00 AM tại Regent West 4717 W. First Street, Santa Ana, Ca 92703. Độc giả cần chi tiết xin liên lạc Phan Văn Huấn (714) 638-4430; Đào Minh Hùng (714)530-2095. Để đón mừng Đại Hội, Việt Báo trân trọng đăng lại bài viết của quân sử gia Vương Hồng Anh về những giờ phút cảm động tháng 4-1975 của đơn vị oai hùng này.)

* Người lính Việt Nam Cộng Hòa, những giờ cuối cùng của cuộc chiến

Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng... thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng.
Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến... đã đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, gần 2 tiểu đoàn Cộng quân tan xác... Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài Gòn-trái tim của Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù... trước giờ G.

* Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng

Như đã trình bày, trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩm quyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); trung tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đã "chia tay" với các cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975.

Để có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức tổng tham mưu trưởng, Nguyễn Hữu Hạnh, chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng 4/1974-làm phụ tá tổng tham mưu trưởng; cựu thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên tư lệnh phó Quân khu 2, làm tư lệnh phó phụ giúp tướng Phát; chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên cục trưởng Công binh, thứ trưởng Định cư trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức tổng cục trưởng Tiếp vận.

Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm".

Về Không quân, đến chiều ngày 29/4/1975 chỉ còn Sư đoàn 4 Không quân tại căn cứ Trà Nóc, Cần Thơ là còn nguyên vẹn, một số phi cơ của các Sư đoàn 3 và Sư đoàn 5 Không quân đã bay về căn cứ Trà Nóc từ chiều ngày 29/4/1975. Vị tướng Không quân còn quân và phi cơ trong tay là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, tư lệnh Sư đoàn 4 Không quân đồng thời là quyền tư lệnh Không quân vào ngày cuối của cuộc chiến.

* Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn

Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng chuẩn tướng Lý Tòng Bá, tư lệnh Sư đoàn, và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm khinh binh với những bài toán chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận vệ gần đến Hóc Môn. Theo lời kể của tướng Bá, cùng bị bắt trong đêm rút quân này còn có một số sĩ quan cao cấp của Sư đoàn 25 Bộ binh: đại tá Trương Thắng Chức, tư lệnh phó Sư đoàn; đại tá Khiêm, tham mưu trưởng Sư đoàn, Trung tá Chong, chỉ huy Pháo binh Sư đoàn; Trung tá Út, trung đoàn phó Trung đoàn 50, thiếu tá Anh tiểu đoàn 25 Công Binh, thiếu tá Hoàn trung đoàn 49...

Tại phòng tuyến của Sư đoàn 5 Bộ binh, trung tâm Huấn luyện Sư đoàn chỉ thật sự chấm dứt hoạt động huấn luyện trên bãi tập vào ngày 28/4/1975 và được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Khoảng 10 giờ đêm ngày 29/4/1975, Cộng quân di chuyển trên xa lộ Đại Hàn (Sài Gòn-Bình Dương). Bộ binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẽ ở giữa là chiến xa T 54. Các đơn vị Cộng quân ngang nhiên di chuyển về hướng Sài Gòn và không ngụy trang lá cây như những cuộc chuyển quân trước đó. Vừa đi ngang khu vực trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 5 Bộ binh, thì pháo đội súng cối 81 ly của trung tâm bắn ra để ngăn cản bước tiến quân của địch. Ngay sau đó, chiến xa và bộ binh của Cộng quân đã dàn hàng ngang tiến thẳng về phía trung tâm, những súng phòng không trên pháo tháp của chiến xa Cộng quân thi nhau nhả đạn, nhưng chỉ một lát sau thì ngưng lại. Đoàn quân của địch lại tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn. Quân lính CS đi rất vội vã, hối hả. Đó là dấu hiệu cho thấy Cộng quân tránh giao tranh dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài Gòn càng sớm càng tốt.

Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975).

Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.

Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.

* 5 cánh quân CSVN tấn công vào Sài Gòn

Ngay trong đêm 29 tháng 4/1975, 5 cánh quân của Cộng quân tiến sát Sài Gòn. Hướng Tây Nam do binh đoàn 232 với 5 sư đoàn do Lê Đức Anh làm tư lệnh chỉ huy (sau này là chủ tịch nhà nước CSVN từ 1992-1997); quân đoàn 3 CSBV do Vũ Lăng, thiếu tướng CS BV chỉ huy; quân đoàn 1 CSBV do Nguyễn Hóa làm tư lệnh; quân đoàn 4 do Hoàng Cầm chỉ huy; Binh đoàn 2 CSBV với 4 sư đoàn do Nguyễn Hữu An làm tư lệnh. Chỉ huy trực tiếp các cánh quân CSBV là Trần Văn Trà- thượng tướng, tổng chỉ huy lực lượng CSVN tại miền Nam. Bộ tư lệnh điều hợp toàn bộ kế hoạch của CSBV đặt tại một căn cứ ở miền Đông do Văn Tiến Dũng làm tư lệnh và Phạm Hùng làm chính ủy, Lê Đức Thọ từ Hà Nội làm cố vấn và là đặc phái viên bộ Chính trị CSVN.

* Những trận đánh trước giờ G ...

Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.

Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu.
Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là trung tướng Vĩnh Lộc, tân tổng tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.

Trước tình hình đó, thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi thiếu tá
Tài là ai?

Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống.

Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?

Thiếu tá Tài trình bày: Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định.

Tướng Minh trả lời: Các em chuẩn bị bàn giao đi!

Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không?

Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.

Nghe tướng Minh cho biết như vậy, thiếu tá Tài nói ngay: Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống.

Tướng Minh suy nghĩ, thiếu tá Tài nói tiếp: Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2,000 cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu.

Tướng Minh trả lời: Tùy các anh em!

Theo lời thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã gặp trung tá Võ Ngọc Lan, liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ.

Trung tá Lan nói với thiếu tá Tài: Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống.

Thiếu tá Tài giải thích: Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội.

VƯƠNG HỒNG ANH
TRA-MAI
Posts: 20
Joined: Sun Jun 03, 2007 7:27 pm
Location: San Diego
Contact:

Post by TRA-MAI »

Một Thời Khói Lửa

Trần Khải

Image

Đã hơn ba thập niên từ ngày Cuộc Chiến Việt Nam kết thúc. Thời gian 32 năm là trung bình nửa đời người, nhưng rất nhiều chiến binh một thời ra trận đó đã không sống đủ tới thời lượng này. Chết trẻ là số phận của rất nhiều thanh niên Việt, những người một thời ra trận, một thời liều thân, một thời gãy súng và một thời nhìn lại. Và bây giờ, may mắn cho những người còn nửa phần sau cuộc đời để hồi tưởng.

Tôi bắt đầu có chớm suy nghĩ về cuộc chiến vào năm Đệ Ngũ, khi còn ngồi học ở Trường Trung Học Trần Lục, Tân Định, Sài Gòn. Bây giờ hình như trường đổi tên là Trường Đồ Chiểu, hay Trường Nguyễn Đình Chiểu. Lớp Đệ Ngũ là cách gọi ngày xưa, nghe hệt như kiểu Tàu, với đủ thứ cách dùng chữ Hán-Việt thời đó. Bây giờ gọi là Lớp 8, nằm trong hệ trung học 12 năm.

Trong lớp lúc đó, khoảng giữa thập niên 1960s, tuổi thơ hầu hết không biết gì về chiến cuộc. Đó là những cái gì rất xa, ngoài cổng trường. Ngay cả các biến động như chuyện đảo chánh, thì chỉ là chuyện rất thỉnh thoảng mới nghe, mà nghe như chuyện người khác. Hay chuyện biểu tình thì nghe thường hơn, vì có khi bị các anh sinh viên xách động biểu tình; tôi nhớ lúc đó, có những lúc trường bãi khóa, đóng cửa, học trò ra về thì tôi và tên bạn nhóc tì về tham dự các cuộc biểu tình gần Chùa Xá Lợi, nghĩa là đạp xe đạp về gần nhà, gửi xe ở nhà tên bạn nơi đường rầy xe lửa, rồi mới theo biểu tình vì ham vui, vì nhóc tì mà biết gì. Thời đó còn có chuyện sinh viên học sinh tự do biểu tình mà không sợ bị cảnh sát bắt, không sợ bị đuổi học.

Trong lớp Đệ Ngũ có một nhóm mấy bạn thuộc loại to con lớn xác, ưa ngồi chung một băng ghế phía sau. Nhóm khoảng 5 bạn này to con có lẽ vì lớn hơn trung bình lứa của chúng tôi một hay hai tuổi. Các bạn này lại ở chung trong một xóm đạo đường Trương Minh Giảng, sau đổi tên là đường Trương Minh Ký. Nghĩa là nguyên băng, nhóm bạn này là Bắc Kỳ di cư. Không phải nhắc chuyện địa phương là kỳ thị gì, nhưng vì lúc đó người Bắc di cư (tất nhiên là di cư 1954, không phải Bắc Kỳ 1975) thường tìm cách sống gần nhau, đặc biệt nếu theo cùng đạo Công Giáo. Chuyện tự nhiên, vì họ cũng chia sẻ những thói quen như nhau. Sau đó mới có những xóm gần như thuần Bắc Kỳ như xóm Vườn Xoài, Xóm Nhà Thờ Ba Chuông, vân vân… mà những khi tôi đạp xe đạp xuyên qua các xóm này để chạy đường hẽm, lối tắt sang khu Hòa Hưng ở đường Nguyễn Thông và Lê Văn Duyệt (sau có tên Cách Mạng Tháng 8) thì nghe nói chuyện râm ran quanh mình toàn là giọng Bắc. Với một tên học trò như tôi thì thấy giọng Bắc là tự nhiên, vì giọng mình cũng là lai lai rồi - ba tôi Hà Tĩnh, mẹ Nha Trang, sinh tôi ở Sài Gòn. Nhưng khi những giọng Bắc này trở thành ký ức, và bây giờ nhớ lại thì lại trở thành những âm vang khó tìm. Thực sự, giọng Bắc Kỳ 1975 nghe không giống gì như giọng Bắc xưa. Không phải tôi có ý kỳ thị gì chuyện giọng nói 75 hay 54, mà thực sự các giọng khác nhau nhiều lắm.

Một hôm, nhóm bạn ngồi hàng ghế sau của lớp Đệ Ngũ đó biến mất. Người ta không thấy các bạn này nữa. Tôi cũng không nghe thầy cô nào nói về các bạn đó, một cách công khai trong lớp, dù rằng hiện tượng bỗng nhiên biến mất vài tên học trò đâu có phải là chuyện thường. Tôi chỉ nghe tên bạn cùng lớp, nhưng cùng xóm Vườn Xoài với mấy bạn kia, nói rằng các bạn đó đi lính Nhảy Toán, với giấy tờ khai tăng tuổi. Khoảng đó là vài năm sau khi ông Diệm sụp đổ, cuộc chiến căng thẳng hơn, nhưng chưa tới dữ dội bùng nổ như thời 1968 Mậu Thân sau này. Đó là lần đầu tiên tôi nghe chữ Nhảy Toán. Tên bạn nhóc tì đó có lần lại nói chữ khác về nhóm bạn này, đó là lính Nhảy Bắc. Lúc đó tôi mới hiểu sơ sơ về công việc mà các bạn kia lựa chọn. Những tên học trò Đệ Ngũ to con, nói giọng thuần Bắc Kỳ, một hôm lên đường nhảy ra Miền Bắc.

Nhưng chính xác, sau này đọc, tôi mới được đọc danh xưng chính thức như Biệt Cách Dù, hay Biệt Cách Nhảy Dù, hay Nha Kỹ Thuật, Lôi Hổ, và nhiều chữ khác. Những danh xưng chỉ cho các đơn vị khác nhau, nhưng đều là cảm tử quân nhaỷ vào sau phòng tuyến địch.
Vài năm sau chuyện đó, tôi được nghe kể các bạn ngồi hàng ghế sau đó đã cùng tới nhà vài vị thầy cô để chào từ giã trước khi rời trường để vào lính Nhảy Bắc. Trong những thầy cô trường Trần Lục được các bạn này tới từ giã, tôi nghe có cô Oanh dạy Việt Văn và thầy Giáp dạy Lý Hóa, một cặp vợ chồng cùng dạy trong trường và được học trò ưa chuộng. Cả hai thầy cô cũng là Bắc Kỳ 1954, nhưng cư ngụ ở ngoài các xóm quần cư nói trên.

Từ đó về sau, tôi không nghe tin gì về các bạn đó nữa. Và trí nhớ cũng nhạt dần, với quá nhiều chuyện để lo trong đời. Những bạn đó chỉ là vài giọt trong một đại dương đầy đau khổ của cõi này.

Năm ngoái, tôi lại chợt nhớ tới các bạn lớp Đệ Ngũ này, khi nghe Đài RFA. Bài tường thuật nhan đề "Sự bất công với một đạo quân, 30 năm sau ngày tàn cuộc chiến" loan đi ngày 30-4-2006, do phóng viên Việt Long, kể về một hội nghị do Trung Tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock, Texas hồi cuối tháng 3-2006 với "các chuyên gia, sử gia và nhân chứng người Mỹ người Việt…"

Trong đó, bản tin viết, "sử gia tiến sĩ James Willbank, nguyên là một sĩ quan cố vấn Mỹ ở mặt trận An Lộc, nói về các đơn vị Việt Nam Cộng hoà chiến đấu ở nơi này.

"Ông nói rằng giữa những đổ nát hoang tàn ở chiến trường An Lộc, người chiến sĩ VNCH giữ vững tinh thần chiến đấu cao, thấy được rằng họ giữ một vai trò quan trọng trong công cụôc phòng thủ đất nước của họ. Trận An Lộc là dịp tốt nhất để nhận định về sức chiến đấu của một binh đội trong những tình huống ác liệt nhất của chiến tranh.

Các đơn vị VNCH có những mức độ thiện chiến khác nhau, nhưng nhìn chung đều hoàn thành nhiệm vụ. Ông đặc biệt ca ngợi Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù vô cùng dũng cảm, đã đánh suốt một đêm để tái chiếm hơn nửa thành phố bị địch chiếm giữ, chịu tổn thất cao, nhưng không bỏ sót một tử sĩ nào mà không chôn cất. Lữ đoàn Nhảy dù đặc nhiệm tham chiến ở nơi này tỏ ra thiện chiến ở mức tuyệt đỉnh. Họ gồm toàn những chiến binh từng được huấn luyện kỹ càng, dạn dày chiến trận, dũng cảm xông pha giữa một chiến trường mà đối phương hơn hẳn về hoả lực và quân số…" (hết trích)

Và rồi tuần này, lại có dịp nhớ tới các bạn năm xưa, khi cầm cuốn tuyển tập Đời Chiến Binh của Biệt Cách Dù. Bùi ngùi, thương cảm. Một trí nhớ cũng đầy sương mù rồi.

Tôi không phải sử gia, không phải tiến sĩ, và thời đó cũng chỉ là một cậu bé chưa đủ trí nhớ và bén nhạy để sau này tự nhận làm nhân chứng, chỉ có vài mẩu trí nhớ cho những người bạn Nhảy Bắc đó, một thời ngồi hàng ghế sau của lớp Đệ Ngũ B2 ở Trường Trần Lục.

Không có gì đoán nổi rằng các bạn này còn sống. Bởi vì, sau này đọc, gần như tất cả các chiến binh Nhảy Bắc đều bị CSVN bắt. Và nhiều thập niên trong tù không chắc gì các bạn này trải qua đầy đủ an lành. Không chắc gì các bạn tôi đã về được Xóm Vườn Xoài của thời thơ ấu, nơi tôi và nhiều bạn nhóc tì thường đi xe đạp từ ngõ Trương Minh Ký tồi chạy qua nhiều ngõ ngoằn ngèo ra mép đường xe lửa, đạp qua một chiếc cầu kênh nước đen để qua sau nhà ga Hòa Hưng.

Chắc chắn, tôi tin, nếu các bạn đó may mắn rời các nhà tù phía Bắc để về lại Vườn Xoài, xóm mà tôi cứ nhớ là thuần Bắc Kỳ di cư dù sau này nhiều dân xứ Quảng cũng vào cư ngụ, thì các bạn cũng không thể quên nổi một thời thơ ấu Sài Gòn. Nơi đó, tiếng còi xe lửa từ ga Hòa Hưng vọng về mỗi sáng cũng khác với tiếng còi bây giờ. Tiếng còi ngày xưa là tiếng còi của mình, của những tuổi thơ chồm dậy chờ tới giờ đi học và rồi tới ngày ra trận. Tiếng còi bây giờ là tiếng còi của người ta, của nỗi lo của mình, của những người công an tới tìm xét hộ khẩu và hạch hỏi giấy tạm vắng, tạm trú… Bao giờ ngăn cách này xóa nhòa đi? Đây không phải thuần là chuyện của trí nhớ, mà còn là chuyện của thực tại.

Của người ta? Thực sự, sau 1975, có vài người anh họ của tôi từ Hà Tĩnh vào Nam. Họ cũng may mắn thoát chết, và kể cho cha tôi và tôi về các thăng trầm của những người mà cha tôi còn nhớ tên. Về những người con, người chaú của các bạn thời thơ ấu của cha tôi. Về tên những người trong họ tôi đã chết trên đường theo bộ đội Bắc Việt vượt Trường Sơn vào nam. Và cả các điạ danh rất là xa lạ với tôi. Cũng bùi ngùi.

Bây giờ, tất cả đều là trí nhớ của sương khói. Cha tôi đã mất. Tóc tôi cũng đã bạc. Thời gian trôi mau.

Nếu các bạn một thời Đệ Ngũ của tôi đã chết, xin cầu nguyện cho các bạn về nơi cõi an lành. Nếu các bạn còn trên cõi đời này, xin chúc các bạn an lành. Hình ảnh các bạn nơi băng ghế sau lớp Đệ Ngũ lúc nào cũng in trong trí nhớ của tôi, một tên học trò còn rất ngây thơ trong đời. Và nơi đây cũng xin cho tất cả các chiến binh hai miền, trong đó có những người anh em họ mà tôi không hề biết mặt và là con của những người mà cha tôi từng nhắc tên, được bình an, dù ở cõi trời hay cõi người.

Những gì hôm nay những người còn laị đang làm, rồi sẽ là để hoàn thành ước mơ của các bạn đã biến mất đó. Ước mơ về một nước Việt Nam tự do, dân chủ và phú cường thực sự.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Góc Kỷ Niệm Chiến Trường: “Dặm Trường Việt Nam”

Bút Ký Ý-YÊN


Thuở ấy... đầu xuân Ất Mão... Sau 30 năm phát động hai cuộc chiến tranh xây dựng đảng, quân xâm lăng phương Bắc đã tới bên sông La Ngà trên vùng cây trái hiền hòa Miền Ðông.

Qua 20 năm kháng chiến, quân dân Miền Nam không để một khu vực đông dân cư nào lọt vô tay Bắc Cộng; đôi khi trong thế giằng co, hễ tạm mất liền được dành lại. Mỹ và đồng minh ào ào kéo đến vào năm 1965, tưởng như ăn sống nuốt tươi cộng sản Bắc Việt, nhưng chỉ hoạt động tại Miền Nam, rồi tám năm sau lẳng lặng rút đi, để lại Quân đội Việt Nam Cộng Hòa một mình gánh chịu hết sức nặng chiến tranh tự vệ trước toàn khối cộng sản quốc tế.

Người viết có mặt tại Miền Ðông qua suốt một mùa quốc nạn. Là lính chiến, nên xin ghi lại những diễn biến về mặt quân sự. Và nếu đôi khi buộc phải nêu lên những sự kiện về tình hình chính trị, đó chỉ là một đòi hỏi trong khi viết, nhưng sẽ không đưa ra những lời chỉ trích nào đối với những nhân vật chánh yếu có liên hệ trực tiếp tới ngày 30-4-1975, nói thẳng ra là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Dương Văn Minh.

Trong đêm khuya 5-4-1975, trên đỉnh Ðồi Móng Ngựa, chàng lính chiến của một tiểu đoàn bộ binh nơi chạm tuyến, nằm đu đưa trên chiếc võng hành quân mắc vô hai cây mít, chiếc radio ba băng áp sát bên tai, nghe ngóng sự đời. Ðây là tiền đồn cực bắc cuối cùng của Miền Nam đã lui hàng ngàn cây số từ kháng chiến Ðông Hà, Quảng Trị, về mãi khu vực Dốc Mơ, Gia Kiệm, hướng về phương bắc mịt mờ.

Mấy đài phát thanh nước ngoài đổi giọng phóng tin Tướng Ngô Quang Trưởng đào nhiệm, gây hoang mang cùng khắp Vùng Một giới tuyến. Tổng Thống Thiệu kêu ông vô Sài Gòn nhận lệnh “bỏ Huế”. Sau đó, ông Thiệu thay đổi ý cho giữ Huế, sau cùng lại bỏ Huế. Miền Trung di tản trong hỗn loạn kinh hoàng. Khi về gặp Tổng Thống tại Sài Gòn, Tướng Trưởng cam phận vô nằm nghỉ bệnh tại moat trailer house gần cổng chánh thuộc doanh trại Bộ Tổng Tham Mưu. Sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, Tướng Trưởng được tự do, nhưng trắng tay cô độc, lại mang nón sắt áo giáp túc trực tại Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh chiến đấu từ một chánh quyền chuyển tiếp để tan hàng.

Một vị Tư lệnh quân đoàn khác đã phải ôm một nỗi buồn-muôn-thuở cùng Ban-Mê-Thuột. Tướng Phạm Văn Phú tâm sự với người bạn là Trung Tá Trần Thanh M., khóa 13 Ðà Lạt: Vào dịp Tết Ất Mão, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho ông phòng thủ Ban-Mê-Thuột, nhưng về sau lại ra phản lệnh cho ông ưu tiên phòng thủ Pleiku. Tướng mặt trận thi hành chỉ thị của nhà vua, đâu có ngờ đó là lệch lạc sai lầm về chiến lược, từ đó Ban-Mê-Thuột dễ dàng sa vô tay địch, biến cố như sức nổ dây chuyền ra tới Huế ngày 25-3-75 và liên tiếp về Miền Nam. Tướng Phú dặn Trung Tá M. chỉ nên tiết lộ sự kiện giả trá về Ban-Mê-Thuột vào thời gian thuận tiện. Ông tuẫn tiết trong Tháng Tư 1975 trước ngày mất nước.

Trong hai tháng Ba và Tư 1975, từng đoàn dân chúng lũ lượt bám sát theo các đơn vị ta trên đường triệt thoái, từ Cao Nguyên đổ xuống đồng bằng, từ Miền Trung xuôi nam. Nơi nào cộng quân kéo đến, là nơi đó người dân bỏ đi. Cảnh tượng Ðại lộ Kinh Hoàng ngoài Quảng Trị trong mùa Hạ 1972 tái diễn nhưng với mức độ khủng khiếp gấp trăm phần. Người dân thành Hạ Bì trong Tam Quốc bỏ Tào Tháo chạy theo Lưu Bị chỉ là hình ảnh mờ nhạt so với những thống khổ người dân Miền Nam phải gánh chịu trước vũ khí giết người, hỏa tiễn 122, đại pháo 130 của Liên Sô và Trung Cộng trong tay người cộng sản Việt Nam.

Trên đường tiến quân về Sài Gòn, Bắc Cộng đã chạm phải kháng tuyến Xuân Lộc. Sau 12 ngày tấn công vô vọng, quân đoàn 4 Bắc Việt đã để lại chiến địa một số tổn thất về nhân mạng và chiến cụ đủ để tổ chức và trang bị một sư đoàn mới. Nhưng Tổng Thống Thiệu, sau hai lần cho rút bỏ cao nguyên và vùng giới tuyến, thêm một lần nữa, cho di tản Xuân Lộc vào ngày 20-4-1975. Cái loa tuyên truyền “thừa thắng xông lên” của cộng sản vang rền là nhờ ăn theo những quân lệnh của Tổng Thống phủ Sài Gòn, đặc biệt là những đòn phản tuyên truyền mách nước cho Bắc Cộng của những đài nước ngoài. Còn ông Thiệu có nhận lệnh từ đâu chăng, thì không là nội dung của bài này.

Bên Cam Bốt, chánh quyền quốc gia, thân Việt Nam Cộng Hòa, cũng sụp đổ như một trùng hợp “lạ lùng” vào ngày 17 tháng Tư 1975, chỉ có 13 ngày trước giờ nguyệt thực Việt Nam Cộng Hòa. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa do đó mất hết cơ hội mượn đất bạn tiếp tục kháng cộng, khi cần đến.


Tiếng Vọng Qua 30 Mùa Xuân

Xin dành một nửa trang bài viết để nói về thế tiến thoái lưỡng nan - có thể là nỗi dằn vặt trong lương tâm - của những vị lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa trước khi dinh Ðộc Lập rơi vào tay cộng sản; đó là quý vị Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương, Dương Văn Minh, và Nguyễn Cao Kỳ. Ðây là những sự thực chưa được giải thích, do những người thân cận của các vị lãnh đạo thuật lại, xin dùng cho phần kết của bài này.

Người viết xin tôn vinh lòng yêu nước của quý vị lãnh đạo, thể hiện trước nguy cơ xâm chiếm của cộng sản Bắc Việt trong những ngày chót Việt Nam Cộng Hòa. Mặc dù bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi vì chính sách của họ, những nhà lãnh đạo Việt Nam, xin kể luôn vị Tướng tuẫn tiết Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Vùng Bốn Chiến Thuật, đã cương quyết không kêu gọi tới sự can thiệp của Pháp hay Trung Cộng, biết rằng điều này cũng khó xảy ra do sự canh chừng của Hoa Kỳ.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông Thiệu từng thăm An Lộc ngay khi trận chiến còn đang sôi động, từng chủ trương sử dụng tiền vay bốn ngân hàng Việt Nam để kháng chiến; đã lạy lục một cách vô vọng xin vay Mỹ vỏn vẹn ba tỉ MK có tính lời / interests, sẽ trả trong 10 năm, để kháng cộng; Tổng Thống Thiệu cũng từng xin quốc vương nước Saud Arabia giúp phương tiện để kháng chiến. Khi ông cho rút cao nguyên và giới tuyến, chắc ông đã thấy, ít ra lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa cũng còn bắt đầu lại từ vĩ chuyến 13 vùng Phú Yên xuôi về tới mũi Cà Mau. Có lẽ hy vọng cuối cùng về “một vùng trái độn giữa hai vĩ tuyến 13 - Phú Yên và 11 - Phan Thiết” đã đánh lừa ông? Niềm tin đó cứ nhỏ dần cho đến một giờ, ông lại ra lệnh di tản Xuân Lộc, trước khi đại sứ Mỹ cố vấn cho ông nên từ chức. Tuy nhiên, như có sự sắp xếp, ông Thiệu đã tránh được cuộc đầu hàng trong cương vị một Tổng Thống hợp biến... Khi sang Mỹ, trả lời phỏng vấn của BBC vào năm 1993, ông Thiệu cho biết, ông hoàn toàn tin tưởng vào thực thể toàn vẹn của Việt Nam Cộng Hòa theo công pháp quốc tế.

Tổng Thống kế nhiệm Trần Văn Hương. Một nhân sĩ tràn đầy tình yêu nước, vô cùng thanh sạch, quả cảm đã thề giữ Miền Nam như chính mạng sống mình; nhưng rồi cũng đã phải trao quyền cho ông Big Minh - và chỉ cho Big Minh mà thôi - là đòi hỏi tối hậu của phe Bắc Việt: Bất cứ người nào khác ngoài Big Minh sẽ phải trả giá bằng một Sài Gòn trong biển lửa. Cái viễn tượng khủng khiếp về hàng triệu dân lành phải hy sinh về tay Cộng sản, và một Sài Gòn tan nát, đã buộc TT Hương trao quyền cho Big Minh.

Cụ Hương ở lại Miền Nam, khảng khái từ chối 100 ký gạo hàng tháng do cộng sản đề nghị chu cấp, cụ nói, “bởi vì đàn em dưới quyền tôi đang bị đói rét trong tù”. Cụ Hương không đi bỏ phiếu bầu cử theo lối cộng sản, và cũng không làm chứng minh nhân dân trong chế độ cộng sản. Cụ Hương từ chối lời mời sang Pháp định cư. Cụ đã quá vãng tại Sài Gòn, theo đúng ý nguyện vẫn là công dân Việt Nam Cộng Hòa.

Ðại Tướng Dương Văn Minh, ông Big Minh đã ra thường dân từ 1965, không được dân bầu cử, không có tư cách chuyển quyền làm Tổng Thống như cụ Hương, vị Chủ tịch Quốc hội, hoặc Chủ tịch Giám sát viện. Ông chỉ là làm Tổng Thống trong hai ngày, theo đòi hỏi và lời hăm dọa “san bình địa Sài Gòn” của phe xâm lược Bắc Việt, và do một thiểu số dân biểu còn lại trong tình hình hỗn loạn vào hai ngày chót Việt Nam Cộng Hòa. Big Minh là Tổng Thống vi hiến đã đầu hàng với quân ngoại nhập Bắc Việt. Ông Minh nhanh trí viết cấp bậc của mình là “đại tướng” trên “lời đầu hàng”, nhưng đã bị viên Trung Tá Tùng của Bắc Cộng bắt sửa lại là “Tổng Thống”.

Vào giữa thập niên 1980, trước khi sang Pháp, Big Minh tâm sự với cựu Tướng Hữu Hạnh và một Bác sĩ tư, từng là quân y sĩ thuộc binh chủng Thiết Giáp Việt Nam Cộng Hòa: “Qua” bị lừa. Qua định xin thời hạn ba tháng để anh em quân nhân có thể di tản, nhưng cuối cùng thì lại phải đầu hàng. Nhưng theo qua biết, “chừng 20 năm sau, tình hình sẽ trở lại sáng sủa cho Miền Nam Việt Nam. (?)Phó TT Nguyễn Cao Kỳ. Tướng Kỳ rời chánh quyền và quân đội từ 1971. Tháng Ba 1975, ông Kỳ rời lâm ấp Khánh Dương, xin dẫn quân tái chiếm Ban Mê Thuột, nhưng không được TT Thiệu chấp thuận. Ðại sứ Martin và CIA cảnh cáo Tướng Kỳ không được làm đảo chánh để tiếp tục chiến đấu. TT Hương, sau hai lần từ chối, cuối cùng đã đồng ý cho Tướng Kỳ và Tướng Nguyễn Ðức Thắng trở lại quân ngũ; nhưng mấy giờ sau, TT Hương lại hủy bỏ lệnh bổ nhậm, bởi chính cụ cũng sắp rời chức vụ. Trong hai Tháng Ba và Tư 1975, Tướng Kỳ tự nguyện vùng các phi công, đánh phá ngăn chặn Bắc quân tiến về Sài Gòn. Ngày 28-4-1975, TT Hương, trước khi trao quyền cho Big Minh, điện thoại sang Bộ Tổng Tham Mưu khuyên Tướng Kỳ nên ra đi để hy vọng còn có dịp phục vụ sau này.


Sơn Tinh chiếm Dinh Ðộc Lập

Sau khi ra lệnh bỏ tuyến Xuân lộc, Tổng Thống Thiệu đột ngột từ chức vào lúc 20g30 ngày 21-4-1975, và hứa sẽ sát cánh cùng các chiến sĩ chiến đấu chống Cộng tới cùng. Nhưng ông Thiệu ra đi, được đích thân đại sứ Martin đưa tiễn, hai CIA gộc Timmes và Polgar tháp tùng ra tận thang phi cơ quân sự Mỹ. Lời tố cáo Việt Nam Cộng Hòa phải tan hàng do tệ nạn tham nhũng đã không còn giá trị, khi ông Thiệu được Hoa Kỳ bảo vệ cho ra đi an toàn.

Cũng thời gian này, phía CS Bắc Việt đem Tướng Trần Văn Trà thuộc MTGPMN sang Quân Ðoàn Bốn Bắc Việt, nhằm mục đích cô lập Trà khỏi quyền tư lệnh các lực lượng giải phóng Miền Nam, đề phòng một cuộc “hòa hợp hòa giải” bất ngờ với Việt Nam Cộng Hòa theo ý Trung Cộng. Bắc Việt đã gạt đàn em Mặt Trận Giải Phóng ra một bên, và tự đóng vai trò Sơn Tinh chiếm dinh Ðộc Lập. Chính Lê Ðức Thọ sau chuyến sang Liên Xô vào cuối Tháng Ba 1975 để nhận chỉ thị, khi trở về đã tiết lộ với đại sứ Mérillon của Pháp: Bắc Việt phải đề phòng một cuộc hòa giải không cần thiết tại Miền Nam.

Từ cuối năm 1960, mười lăm năm làm phận tôi đòi cho Bắc Việt, MTGPMN chỉ thu hoạch được một trái dừa tròn trịa như con số Không, mà cụ Hồ gửi tặng qua phái đoàn Thị Ðịnh năm nào.


Diễn tiến tình hình vào giờ chót Việt Nam Cộng Hòa.

Trong đêm 29-4-1975, Big Minh chỉ thị cho đại tá Chiêm cấm binh sĩ nổ súng, các băng đạn tháo ra hết, mở sẵn cổng dinh “để tôi đón tiếp những người anh em bên kia”. Một toán thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù hai lần tới định, ngăn cản ông Minh không được đầu hàng cộng sản.

Lúc 9g45 ngày 30-4-1975: Big Minh ra lệnh cho các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa ngưng bắn, buông súng tại chỗ để “tôi bàn giao chánh quyền cho Chánh Phủ Cộng Hòa miền Nam”. Biệt Cách Dù từ trại Trần Hưng Ðạo (Tổng Tham Mưu) tiếp tục điện thoại ngăn Minh không được đầu hàng địch.

Lúc 11g15: Toán xe tăng đầu tiên thuộc Lữ đoàn 203 tăng Bắc Việt tới cổng dinh theo đường Thống Nhứt. Một “Ve Chai” trên xe bắt lính gác khóa chặt cánh cổng dinh; anh lính chần chờ quay vô hỏi lệnh sĩ quan trực, liền bị ve chai bắn chết tại chỗ. Một ve chai khác nhảy xuống khép hai cánh cổng, lấy xích sắt vòng chặt lại. Chiếc T.54 rồ máy sấn tới xô nghiêng cánh trái cổng màu xanh, dây xích khóa bung ra; đại liên trên mấy xe tăng và lính tùng thiết đồng loạt tác xạ dữ dội vô mặt tiền dinh; chúng xuống xe, ùa vô, đến nữa sân cỏ đám lính Bắc Việt nhảy xuống, hai tên cầm cờ xanh đỏ Mặt Trận Giải Phóng (hai lá cờ cho chắc ăn), nón cối sùm sụp trên đầu, lúp xúp chạy lên thềm dinh...

Ðặt trường hợp Liên Hiệp Quốc không phải “sợ” một ai, có lòng tốt chỉ cần phải một tiểu đội mũ xanh tới, trương cờ xanh Liên Hiệp Quốc lên, ngồi phì phèo thuốc lá cà phê trên thềm dinh, thì bố bảo cả làng cộng sản cũng không dám xông vô dinh mà hô lớn, “A, ta bắt được Tổng Thống “ngụy” đây rồi!”

“Các ông chẳng còn gì để mà giao, chỉ có đầu hàng không điều kiện”, viên Trung tá Tùng thuộc đơn vị xe tăng Bắc Việt xẵng giọng với ông Minh. Hắn loay quay thảo “Lời đầu hàng” kèm theo “Bản chấp nhận đầu hàng” trên trang sổ tay, gạch xóa, nhưng chữ viết khá đẹp, lời văn gẫy gọn chứng tỏ đã được hướng dẫn rất kỹ từ trước. Ông Minh nhanh trí đòi ghi cấp “đại tướng” trên Lời Ðầu Hàng, nhưng viên chỉ huy Cộng Sản không thuận, bắt ghi đúng là “Tổng Thống” mới nghe.

Cộng Sản Bắc Việt khôn nhưng không ngoan, bởi khi họ ép ông Tổng Thống vi hiến Big Minh phải đầu hàng, là đã vô tình thừa nhận có một “thực thể quốc gia” để phải đầu hàng. Những cuộc “nội chiến” tại Cuba và Trung Hoa, làm gì có lệnh đầu hàng. Do đó, văn kiện pháp lý là Hiệp Ðịnh Ba Lê còn y nguyên tại Liên Hiệp Quốc, xác nhận Bắc Việt là bên xâm lăng, và Nam Việt là bên kháng chiến tự vệ. Những lính Bắc Việt bị dính chất da cam tại cao nguyên Miền Nam đã làm chứng cho cuộc xâm lăng của Bắc Cộng; cuộc kiểm tra dân số năm 1989 của Liên Hiệp Quốc đã phân loại những thành phần người dân tại Miền Nam trước và sau 1975, v.v...


Dinh Ðộc Lập, ngày tháng đợi chờ

Một sáng mùa Xuân 1992, trời Sài Gòn ấm áp, kẻ ngoại đạo, người lính cũ Miền Ðông mới ra tù, đạp xe quanh quẩn đi thăm thành phố thân xưa. Buổi sáng, anh ta đi gởi một tập hồ sơ tị nạn sang ODP Bangkok. Rời bưu điện, anh ta dừng xe đạp bên một con đường lớn, kêu ly nước mía. Dinh Ðộc Lập hiện ra cuối đường Lê Duẫn mới đổi lại từ tên cũ là 30-4. Nhìn kỹ, cái dinh thự xưa trông chẳng khác nào những khúc xương trắng, chính giữa là phòng khánh tiết nay để trống, vì thiếu ánh sáng nên giống như một cái miệng há ra rồi không ngậm lại được nữa.

Theo lẽ thường, vị thủ lãnh bên thắng trận sẽ chiếm ngự tòa nhà số một bên thua trận, ví dụ ông Hồ chiếm dinh thống sứ tại Hà Nội làm chủ tịch phủ, vì đó là niềm hãnh diện tự hào. Thế nhưng Cộng Sản Việt Nam đã bỏ bê cái dinh và chỉ cho sử dụng làm nơi vãng cảnh qua bao năm tháng, thu chút tiền còm. Có lời đồn đại rằng Mai Chí Thọ mê bói toán, đã chê cái dinh ở vào hãm địa, nên bỏ đi không dùng làm tòa nhà hành chánh. Nhưng CS vẫn không biến cái dinh thành một cơ sở nào khác, ví dụ những phân khoa đại học, một trung tâm thương mại kiểu mẫu.

Tòa Ðại sứ Mỹ gần đó cũng vắng hoe, để một căn buồng tối om phía lầu một làm văn phòng đại diện công ty dầu khí, ít khách khứa ra vô.

Khoảng đầu năm 1989, báo đài loan tin sẽ dựng tượng cụ Hồ trong khuôn viên dinh Ðộc Lập nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhật cụ Hồ. Bức tượng bán thân cao 9 mét, để tượng hoa sen cao 3 mét, và cái đầu để bên cạnh cao hơn mét, đang do ông Diệp Minh Châu đẽo gọt dở dang tại một khoảng sân nhà kho bên đường Tô Hiến Thành. Chờ mãi không thấy ai rước cụ vào dinh. Dân chúng nhỏ to sầm xì, nên bảy tháng sau ngày kỷ niệm sinh nhật ông Hồ, đảng cho khiêng một tượng nhỏ thó của ông ta từ Lạng Sơn vô, đặt trước tòa đô chánh Sài Gòn xưa cho có lệ. Bức tượng bán thân cao chín mét của ông Hồ trong trại Tô Hiến Thành, đã bị lôi đi đâu mất dạng.

Vật đổi sao rời. Liên Xô đã sụp đổ, Trung Cộng không còn là người chị cả của Cộng Sản Việt Nam. Người Mỹ đã trở lại Việt-Nam. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã làm thân với Mỹ. Cạy cục được làm quen với Mỹ, thì đương nhiên Cộng Sản Việt Nam cũng phải làm quen với những người bạn cũ của Mỹ, ví dụ Nam Hàn, Úc Châu, Thái Lan, Tân Gia Ba, thì sao lại không với một Việt Nam Cộng Hòa, cũng là bạn của Mỹ xưa?

Nước Việt Nam Cộng Hòa thành lập từ 1955, tức là 20 năm trước Hiệp Ðịnh Ba Lê, thì chẳng thể nào bị xóa tên vì một cái hiệp định do cộng sản đơn phương vi phạm. Cộng Sản Việt Nam có quanh co giải thích đến thế nào chăng nữa, thì cuộc chiến xâm lược Miền Nam do ông Hồ chủ động, cũng tương tự như cuộc xâm lăng của Bắc Hàn xuống Nam Hàn năm 1950. Nếu không thấy rõ điều này, là ta đã hợp thức hóa ngày 30-4-1975 cho Cộng Sản Bắc Việt, và vô tình thừa nhận cái trò thống nhất bịp bợm của Cộng Sản Bắc Việt. Ý tưởng này không nhằm hỗ trợ cho việc chia đôi đất nước, nhưng để liên hệ tới một cuộc tổng tuyển cử thống nhất chính thức dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Ít ra, người Việt yêu nước khắp nơi cũng nên nhớ rằng, mình đang là những kẻ vô gia cư trước căn nhà của mình đang bị cộng sản chiếm đoạt bằng võ lực.

Tòa đại sứ Mỹ bên đường Thống Nhứt, bỏ trống lâu năm, nay đã hoàn trả cho Caesar Mỹ, - Mỹ đi rồi Mỹ lại về. Trong khi đó, dinh Ðộc Lập vẫn chưa có chủ mới. Vào Tháng Tư năm 1991, báo chí Cộng sản đăng tin về dự án trùng tu dinh, và một Ðại tá công binh Việt Nam Cộng Hòa sẽ được mời về nhận công tác tu bổ. Chưa biết đây là sự thực hay là một trái bóng thăm dò, cũng như tuyên bố của chủ tịch thành phố Lê Thanh Hải một năm trước về việc đặt tên thành phố trở lại là Sài Gòn.


Y-YÊN “Dặm trường Việt Nam”.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »


Image

Tâm Sự Phan Nhật Nam
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết. Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẩm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngôì ăn cơm bên ngọn đèn dầu, tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.

Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chơ. Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn. Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đỗ được bằng tiểu học năm đó.

Vào lớp đệ thất trường Trần quốc Tuấn, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ bé thua tôi vài tuổi.

Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi. Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở...

Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ, nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.

Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà nẳng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm đuợc, tôi phụ mẹ một ít nuôi em. Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.

Lật đật trở vào Đà nẳng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khoé mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt. Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và oà lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tỉnh mach ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa... Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc... nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai giòng nước mắt chảy nhạt nhoà trên má.

Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ giả từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẩm cả vạt áo me bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi...

Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nữa. Nhưng em thì phải trở lại trường. Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi, cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho me. Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời.

Tôi vào trường Võ Bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao gi dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng. Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khoá của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người.

Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhở có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ....

Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng. Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan Rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già. Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm.

Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lể nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích" của bạn tôi, của Mễ, của Lô... Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm. Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lể ở Phan Rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn long lanh...

Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Sài Gòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu.

Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo. Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em súng sính trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em.

Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết quả là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.

Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm Lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc... đã làm vinh danh binh chủng cũ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa hè đỏ lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan Rang, gần trường em dạy. Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rãnh rỗi tôi lại ra Phan Rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lãnh dòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao uớc mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này.

Biến cố tháng 4/75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã qúa già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em... Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu , đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá... Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em.Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhoà. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.

Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được, bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn nguời đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi. Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi bố trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy.

Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết. Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi. Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy truởng trại tiết lộ về điạ vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ. Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan Rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dững dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình. Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây gi tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư. Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.

Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khoẻ yếu lắm, em sợ nhở có mệnh hệ nào... Tôi thẩn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với "cách mạng" nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nữa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ?

Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung uý Trần nguyên Tuấn. Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng nguời nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hoá đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhoà, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi...

Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du...

Lê Lang
diễn giải văn xuôi
dựa theo bài thơ "Em Tôi" của Phan Nhật Nam



_________________
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Biệt Cách Dù-Lực Lượng Ðặc Biệt của QLVNCH mở đại hội lần thứ 6

Image

Phút khai mạc đại hội "Ðời Chiến Binh" của Gia Ðình Biệt Cách 81-LLÐB. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Image
Tiếng kèn xung trận của thế hệ hậu duệ Biệt Cách Dù-Lực Lượng Ðặc Biệt.
Cô Lê Vân Anh, con gái của biệt cách dù Lê Văn Ðạt, từ Arizona về tham dự đại hội,
đã thủ tiếng kèn xung trận trong đoàn rước quốc quân kỳ của 81 biệt cách dù-LLÐB khai mạc đại hội. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)
Nguyên Huy/Người Việt
Ðại hội lần thứ 6 của những người lính tinh nhuệ trong QLVNCH, Biệt Cách Dù-Lực Lượng Ðặc Biệt (BCD-LLÐB) đã khai diễn vào sáng hôm Chủ Nhật 8 Tháng Bảy vừa qua tại nhà hàng Regent West, Santa Ana, với số người tham dự đông ngoài dự trù của ban tổ chức.
Cựu Ðại Tá Phan Văn Huấn, con chim đầu đàn của anh em liên đoàn 81 BCD-LLÐB xúc động nói với chúng tôi: "Không thể ngờ được rằng tình đồng đội trong anh em còn nguyên vẹn quá!"
Ðến với nhau trong đại hội lần thứ 6, có chủ đề là "Ðời Chiến Binh" không chỉ có những người lính một thời sống chết bên nhau, từng nhìn những hiểm nguy chiến trường như những thử thách phải vượt, mà còn biết bao chiến hữu các quân binh chủng khác, biết bao đồng hương từng một thời được người lính bảo vệ cũng đến chia vui. Chúng tôi nhận thấy có niên trưởng cựu Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, có niên trưởng cựu Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, và các niên trưởng cựu đại tá tỉnh trưởng của nhiều tỉnh miền Nam trước 1975 cùng là đại diện các hội đoàn như hội Y Sĩ Nam Cali, Ðệ I Ngân Hàng Việt-Mỹ, Tây Sơn Bình Ðịnh, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ, Tập Thể Chiến Sĩ Tây Nam Hoa Kỳ, Sư Ðoàn 18, đơn vị 101 và một số các dân cử Mỹ gốc Việt. Một số các cố vấn Hoa Kỳ của 81 BCD-LLÐB trước đây cũng về tham dự.
Trong niềm xúc động, cựu Ðại Tá Phan Văn Huấn, hội trưởng Gia Ðình 81 BCD-LLÐB, phát biểu: "Thật là xúc động biết bao khi thấy anh em BCD-LLÐB từ khắp nơi đã về tham dự đại hội đông đúc như thế này. Từ ngày thành lập Gia Ðình BCD-LLÐB đã qua 14 năm, lúc nào anh em cũng gắn bó với nhau. Có được tinh thần đó là bởi cái tinh thần kỷ luật trong chúng ta còn nguyên từ khi cùng nhau chiến đấu trên khắp các chiến trường ở miền Nam trước năm 1975. Tôi còn nhớ vào trưa ngày 30 Tháng Tư, 1975 đơn vị của chúng ta vẫn còn nguyên 3,000 anh em không một ai đào ngũ, vẫn sống chết với nhau. Ngay cả khi giao nạp vũ khí cho Cộng Sản vào lúc 2 giờ chiều tại Lăng Chú Hỏa, gần núi Châu Thới, Biên Hòa, khúc gần xa lộ Ðại Hàn, anh em chúng ta vẫn giữ nguyên hàng ngũ và rất kỷ luật, khiến kẻ thù của chúng ta vô cùng ngạc nhiên sửng sốt và phải kính phục mà tôn trọng những yêu cầu của anh em khi giao nộp vũ khí. Cái tinh thần ấy đã làm nên nhân cách người lính VNCH và nay thì chúng ta gặp nhau đây cũng là để thể hiện cái tinh thần và nhân cách người VNCH".
Ba năm một lần Gia Ðình 81 BCD-LLÐB lại cùng nhau hội họp. Trong dịp này, một ban quản trị được bầu ra và năm nay tân ban quản trị đã được con chim đầu đàn Phan Văn Huấn giới thiệu cùng các đồng ngũ. Ðó là các biệt cách Phan Văn Huấn, hội trưởng, biệt cách Ðào Minh Hùng, phụ tá kiêm thủ quỹ, Huỳnh Văn Thanh, hội phó nội vụ, Lê Thanh Lân, hội phó ngoại vụ, Trần Chí Dương, thư ký, Dương Toàn Thịnh, kế hoạch kiêm báo chí, Nguyễn Văn Nam, ủy viên xã hội...
Về hoạt động của hội, ngoài những công tác xã hội và tương trợ, hội còn phát hành hàng năm một tạp chí giá trị "Ðặc san Biệt Cách Dù-Lực Lượng Ðặc Biệt" với những bài viết rất giá trị cho những ai muốn tìm hiểu về cuộc chiến Việt Nam trước năm 1975, về tinh thần chiến đấu của người lính QLVNCH. Phần lớn những bài viết đều do người trong cuộc kể lại, tuy đôi chỗ có phần cảm tính nhưng lại là những cái thực nhất được viết ra bởi những người đã sống đã trải qua, chứ không phải viết qua con mắt của những người đứng ngoài cuộc tự nhận là "sử gia".
Như chúng ta đã biết, Lực Lượng Ðặc biệt được thành lập từ thời Ðệ I Cộng Hòa với các đơn vị nổi danh 77 và 31, nhận lãnh những công tác đặc biệt. Sau 1963, đơn vị này, một phần được chuyển về Nha Kỹ Thuật, hậu thân của Sở Khai Thác Ðịa Hình mà công tác chính là tiến hành cuộc chiến tranh bí mật bất quy ước tại miền Bắc. Số lớn còn lại trở thành Liên Ðoàn Biệt Kích 81-LLÐB được trao cho nhiều nhiệm vụ khác nhau thường là hành quân trong cuộc chiến bất quy ước gồm các toán nhỏ được thả vào các mật khu an toàn của Việt Cộng để thu thập tin tức, bắt cóc các Việt Cộng đi lẻ tẻ hay chỉ điểm cho các phi pháo, B52...
Trong trường hợp nắm chắc được phần thắng cũng có thể mở các cuộc đột kích chớp nhoáng khi quân số có từ trung đội, đại đội trở lên. Các trận Cây Quéo, Cây Thị ở Gia Ðịnh vào năm Mậu Thân 1968 với chiến thuật tác chiến trong thành phố Biệt Kích 81 đã tiêu diệt được hầu hết các ổ kháng cự của Cộng Sản khi bất thần phản bội lệnh hưu chiến mở cuộc tổng tấn công vào các thành thị, tỉnh ở miền Nam. Từ đó người dân miền Nam mới biết đến "oai danh" của Biệt Kích 81 dưới tên Biệt Cách Dù. Cho đến trận chiến An Lộc với hơn 50 ngày đêm quân dân An Lộc tử thủ, người lính Biệt cách Dù đã được đi vào quân sử QLVNCH nói riêng và vào lịch sử của dân tộc nói chung bằng hai câu thơ do một cô giáo ở An Lộc đã chứng kiến tinh thần chiến đấu của người lính Biệt Kích 81 mà viết lên được hai câu thơ gói trọn tâm tình người dân Việt Nam ghi trên nấm mộ tập thể các chiến sĩ Biệt Cách Dù, rằng:
An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân.
Những giờ phút sau cùng trong cuộc chiến Việt Nam, Biệt Kích Dù vẫn còn giữ vững trận tuyến cùng các đơn vị dù, và anh em trong các chiến đoàn của Nha Kỹ Thuật suốt từ ngã tư Bảy Hiền đến Lăng Cha Cả trước Bộ Tổng Tham Mưu để bảo vệ cho căn cứ này. Ðến 2 giờ chiều, anh em mới buộc phải buông súng, nhưng vẫn giữ hàng ngũ, kỷ luật.
Một chiến sĩ Biệt Kích Dù kể lại: "Trưa ngày 30 Tháng Tư, 1975, trên xa lộ Ðại Hàn gần lăng Chú Hỏa, quân nhân Liên Ðoàn 81 BCD sắp hàng tư tiến về Sài Gòn. Gần 3,000 quân nhân trật tự trong hàng tư kéo dài gần cả cây số còn nguyên vũ khí trong tay. Vào lúc này các xe của quân đội Cộng Sản cũng chạy đầy xa lộ. Người lính Cộng Sản nào cũng trố mắt nhìn chúng tôi. Nhiều xe báo chí của họ chạy lên chạy xuống quay phim chụp ảnh. Ðến khi chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi thì Việt Cộng mới đến tiếp xúc. Ðại Tá Huấn yêu cầu Việt Cộng để cho anh em tự giao nạp vũ khí và mặc nguyên quân phục khi tan hàng để tránh những xô xát đổ máu, phía Việt Cộng đã đồng ý đồng thời đưa xe đến chở các sĩ quan về nhà..."
Ðấy là hình ảnh sau cùng của người lính Biệt Kích 81-LLÐB mà một vị tham dự đại hội kể lại. Hỏi tên thì người này mỉm cười cho biết: "Tên tôi ư? Tên là Người 81". ( N.H.)
lynhcao
Posts: 23
Joined: Sun Jun 24, 2007 3:57 pm
Contact:

Post by lynhcao »

Người ra biển Bắc

Nguyễn Thanh Hoài

Image
Toán Biệt Hải và cố vấn Mỹ sau giờ huấn luyện. (Hình: Biệt Hải)


Ngày 22 Tháng Bảy tới đây, Gia Ðình Biệt Hải sẽ cử hành lễ giỗ lần thứ 5 các tử sĩ thuộc Gia Ðình Biệt Hải. Vào dịp này, ban tổ chức đã cho phát hành “Ðặc san Biệt Hải” với những tài liệu và hồi ức có giá trị. Chúng tôi trích đăng “Người ra biển Bắc” của Nguyễn Thanh Hoài:
(Một nén hương cho người Biệt Hải Nha Kỹ Thuật đã hy sinh trên biển Bắc năm 1964: Hạ Sĩ Vũ Văn Giới)

Ðầu năm 1964, trong một buổi họp giữa Sở Phòng Vệ Duyên Hải (SPVDH) và cơ quan đối nhiệm CSD (Combined Studies Division) tại trụ sở tạm thời của sở tại 52 Bạch Ðằng-Ðà Nẵng, cơ quan đối nhiệm yêu cầu SPVDH thực hiện một công tác phá hoại các chiến đỉnh SWATOW của hải quân Bắc Việt tại Ðồng Hới.
Toán biệt hải của SPVDH đã được tuyển mộ và huấn luyện từ hai năm trước, ráo riết thực tập với sự huấn luyện của các huấn luyện viên SEAL của Hoa Kỳ. Toán này, lấy tên là toán Neptum gồm có 4 nhân viên: 3 nhân viên dân chính theo hợp đồng và một quân nhân thuộc QLVNCH. Kế hoạch hành quân được phối hợp soạn thảo giữa Bộ Chỉ Huy SPVDH và cơ quan CSD Hoa Kỳ. Các không ảnh thường xuyên được cơ quan đối nhiệm cung cấp để cập nhật hóa và chuẩn bị huấn luyện theo nhu cầu của mục tiêu. Căn cứ vào lệnh hành quân, các thành phần liên hệ đều đã chuẩn bị chu đáo... kể cả phần trang bị đặc biệt.
Một buổi chiều hạ tuần Tháng Ba, 1964, cơ quan đối nhiệm trao cho SPVDH một không ảnh vừa chụp được gồm 6 chiến đỉnh SWATOW đang thả neo tại cửa biển Quảng Khê (Quảng Bình). Kế hoạch hành quân được soạn thảo chi tiết và chuẩn bị thuyết trình. Theo kế hoạch, lực lượng hành quân gồm 3 thành phần: chuyển vận, yểm trợ và hành động:
- Thành phần chuyển vận: có nhiệm vụ đưa toán từ căn cứ xuất phát đến điểm thả. Thành phần này do phía cơ quan đối nhiệm phụ trách gồm 1 chiến đỉnh SWIFT, thủy thủ đoàn do thuyền trưởng người Mỹ và 4 thủy thủ người Việt Nam .
- Thành phần yểm trợ: do toán Biệt Hải Cumulus đảm trách gồm toán trưởng và 4 nhân viên biệt hải. Ngoài phần vũ khí và trang bị cá nhân, toán dùng một thuyền cao su có gắn máy để đưa thành phần hành động từ tàu mẹ (SWIFT) vào cách bờ chừng 1 cây số và thả toán theo giờ ấn định. Sau khi thả toán hành động xong, thành phần yểm trợ trở ra vùng hoạt động chờ và đón thành phần hoạt động sau khi hoàn thành công tác và trở ra biển. Thành phần hành động sẽ dùng đèn bấm và hồng ngoại tuyến để liên lạc.
- Thành phần hành động: gồm 4 nhân viên biệt hải thuộc toán Neptum. Ngoài phần trang bị cá nhân của một người biệt hải, mỗi nhân viên đều được trang bị 4 quả mìn loại “LIMPET” với ngòi nổ chậm đã được điều chỉnh từ trước để gắn vào tàu Bắc Việt.
Rồi một điều đáng tiếc xảy ra, trước khi trưởng công tác thuyết trình lần chót và trưởng toán tái thuyết trình cho toán thì trưởng toán Hoàng Thành bị bệnh bất ngờ nên phải ở lại. Toán phó Vũ Văn Giới thay toán trưởng đảm nhiệm công tác. Ngày N giờ G được ấn định xong. Lực lượng hành quân tới khu cấm bằng hai xe Dodge để xuống căn cứ xuất phát tại bến tàu Tiên Sa:
- Thành phần hành động được tháp tùng bởi trưởng công tác (Case Officer).
- Thành phần yểm trợ được tháp tùng bởi trưởng trại Mỹ Khê.
- Thành phần vận chuyển do cơ quan đối nhiệm phụ trách.
Khi lực lượng hành quân xuống đến bến tàu, Thiếu Tá Ngô Thế Linh, chỉ huy trưởng SPVDH, vị đại diện NKT và phía đối nhiệm đã có mặt đầy đủ và thủy thủ đoàn SWIFT cũng đã sẵn sàng. Thiếu Tá Linh bắt tay từng chiến hữu một, khuyến khích từng anh em kể cả thủy thủ đoàn. Ðúng giờ xuất phát, chiếc SWIFT rời hải cảng Ðà Nẵng tiến về phía bóng đêm miền biển Bắc... Theo cuộc giải trình hành quân với thành phần yểm trợ thì được biết như sau:
Khi đến gần địa điểm thả ấn định, thuyền trưởng SWIFT cho lệnh thả thuyền cao su và cả hai thành phần xuống thuyền. Ðến điểm thả, thuyền trưởng cho lệnh cắt dây. Toán trưởng yểm trợ cho thuyền cao su tiến vào bờ theo hướng ấn định. Khi cách bờ ước chừng 1 cây số, toán trưởng CUMULUS thả 3 nhân viên hành động để thành phần này tiến vào mục tiêu. Toán yểm trợ quay thuyền trở ra khơi, di chuyển trong vùng hoạt động để chờ và vớt các nhân viên hoạt động. SWIFT chờ ngoài khơi và quan sát cửa Quảng Khê bằng hồng ngoại tuyến. Thời gian trôi qua, thuyền cao su cứ chạy lên chạy xuống mãi mà chẳng thấy đèn báo hiệu của 3 nhân viên hành động. Mãi cho đến hừng đông, khi mặt trời đã nhô lên khỏi mặt biển ở hướng Ðông và một số thuyền của ngư dân Bắc Việt đã ra khơi. Với sự tuyệt vọng cùng cực, thành phần yểm trợ buộc phải ra tàu mẹ để trở về căn cứ xuất phát.
Ðầu năm 1965, báo Việt Ngữ xuất bản tại Sài Gòn đăng một bản tin ngắn như sau:
“Theo đài Hà Nội thì Bắc Việt bắt được 3 ‘gián điệp’ của miền Nam tại cửa biển Quảng Khê. Những ‘gián điệp’ này thuộc trại Mỹ Khê. Một trong 3 ‘gián điệp’ chống đối và tìm cách chạy thoát ra biển nên đã bị bắn chết tên là Nguyễn Văn Giới. Hai ‘gián điệp’ bị bắt đều bị tòa án Hà Nội xử kín.”
Ðã hơn 30 năm qua, cuộc đời cá nhân tôi có quá nhiều biến đổi và thăng trầm, kể cả những tháng năm chịu đựng sự đày đọa trong ngục tù Cộng Sản. Những lúc nằm một mình hồi tưởng lại những ngày phục vụ tại Nha Kỹ Thuật, nhớ đến những bạn bè, chiến hữu cùng chịu cảnh tù đày, những anh em cùng gia đình đang sống bên kia bờ Thái Bình Dương, những chiến hữu đã hy sinh vì Tổ Quốc... bao giờ hình ảnh của Vũ Văn Giới cũng hiện lên đậm nét trong tâm hồn tôi. Bởi lẽ, tôi là “trưởng công tác” cùng sinh hoạt với toán trong thời gian dài... Với tinh thần bất khuất, anh đã chiến đấu trong lòng địch cho đến giờ phút chót, chấp nhận hy sinh hơn là để lọt vào tay quân thù.
Trung Úy Nguyễn Thanh Hoài là “trưởng công tác” của toán Neptum trong thời điểm đầu năm 1964.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests