Bệnh Alzheimer

dailien
Posts: 2454
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Image

Lợi ích của việc đi bộ


Từ lâu các nhà khoa học đã biết được tác động hữu ích của việc đi bộ đối với sức khoẻ.
Đi bộ làm giảm nguy cơ các loạibệnh tiểu đường loại 2, áp huyết cao, nhồi máu cơ tim, đột quỵ.

Ngày nay, những thí nghiệm mới nhất lại cho thấy đi bộ còn mang lại lợi ích trong việc tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện các chứng rối loạn sinh dục và gia tăng trí lực.

Lối sống tĩnh tại và nhiều áp lực tâm lý của thời đại công nghiệp đã làm gia tăng nhanh tỷ lệ các loại bệnh liên quan đến hội chứng chuyển hoá như béo phì, xơ vữa động mạch, áp huyết cao, tiểu đường.
Trong những nổ lực để ngăn chận tình trạng nầy, đi bộ là một biện pháp đơn giản, không tốn kém đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong một loạt bài viết về những ích lợi của sự đi bộ, bà Wendy Bumgardener, một nhà khoa học người Mỹ chuyên nghiên cứu về lãnh vực nầy, đã dùng một đề tài khá hay “Đi bộ hay là chết, hình thức vận động ở tuổi trung niên để ngăn chận nguy cơ tử vong.” Bà Bumgardner cho rằng đi bộ với bước đi từ trung bình đến nhanh, từ 30 đến 60 phút mỗi ngày đủ đốt cháy mỡ và gia tăng mức độ chuyển hoá sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ những bệnh tim mạch, ung thư vú, ung thư ruột già, tiểu đường và đột quỵ.

Đi bộ giúp giảm các hội chứng chuyển hoá, giảm nguy cơ tử vong do những bệnh tiểu đường, tim mạch

Nhiều nghiên cứu khoa học khác nhau đều cho thấy các hình thức vận động nhẹ bao gồm đi bộ nếu được thực hành đều đặn đều có khả năng tăng cường chuyển hoá, làm giảm lượng cholesterol xấu (LDL), tăng lượng cholesterol tốt (HDL), hạ thấp triglycerides (triglyceride là một loại mỡ xấu trong máu), qua đó có thể cải thiện độ mỡ trong máu và tăng cường sự dẻo dai của thành mạch để điều hoà huyết áp. Ngoài ra, đi bộ còn tăng cường sự lưu thông khí huyết, giúp bắp thịt săn chắc, kích thích tiêu hoá giúp ăn ngon, ngủ sâu.

Thông qua việc kiểm soát béo phì và làm tăng độ nhạy của tế bào đối với insulin, đi bộ là giải pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa cũng như điều trị bệnh tiểu đường loại 2.

Về mặt nội tiết, đi bộ đều đặn không những làm giảm nội tiết tố stress mà còn giúp tăng tiết serotonin và dopamin, những chất dẫn truyền thần kinh có tác dụng làm cho tinh thần phấn chấn, lạc quan giúp chống trầm cảm. Do đó, đi bộ là một liệu pháp chữa trầm cảm có hiệu quả chẳng khác gì các loại thuốc uống. Như vậy, ngoài việc cải thiện mạch máu, đi bộ còn giúp giảm nguy cơ bệnh tim, thần kinh, giảm stress và tăng cường các nội tiết tố .

Tính cường cơ và dòng máu lưu thông tốt còn có vai trò quan trọng trong cơ chế gây cương. Do đó, tác dụng làm săn chắc bắp thịt, cải thiện chức năng của thành mạch máu và điều hoà hoạt động nội tiết của đi bộ còn tác động tốt đến các chứng rối loạn sinh dục.

Các nhà nghiên cứu còn cho biết đi bộ còn kích thích các tế bào thành mạch máu phóng thích nhiều chất nitric oxide, một chất hoá học quan trọng làm giãn nở mạch máu giúp máu lưu thông tốt đến các thể hang trong hoạt động dương cương.


Do đó, phối hợp với chế độ ăn uống hợp lý, ít chất béo bão hoà, nhiều chất arginine, mỗi ngày đi bộ khoảng trên 2 cây số là một biện pháp chữa rối loạn dương cương khá hiệu quả. Arginine là một hợp chất hữu cơ, một loại amino acid, là chất liệu cần thiết để được chuyển hoá thành nitric oxide. Arginine có nhiều trong thịt, trứng, các loaị cá, đậu nành, đậu phộng, hạt mè, hạt bí rợ, hạt hướng dương.

Một nghiên cứu về tác động làm giảm nguy cơ tử vong của hoạt động đi bộ qua sự phối hợp giữa trường Đại học Y khoa Michigan và tổ chức VA Ann Arbor Health Care System. Đối tượng nghiên cứu gồm 9.611 người ở độ tuổi từ 51 đến 61 tuổi.


Kết quả được công bố trên tập san Medicine and Science in Sports and Exercise số tháng 11/2004 đã cho thấy những người hay đi bộ có thể làm giảm 35% nguy cơ tử vong do tim mạch trong khoảng 8 năm sắp đến.

Đối với những người đang có những yếu tố nguy cơ như áp huyết cao, tiểu đường hoặc hút thuốc thì tỷ lệ giảm bớt sẽ là 45% so với những người ít đi bộ. Có một thực tế là những người bệnh tim ít vận động dù là vận động nhẹ như đi bộ vì e ngại đi bộ nhiều sẽ làm gia tăng sự mệt mỏi cho tim. Ngược lại các chuyên gia tim mạch khuyên những người nầy càng cần phải đi bộ. Tiến sĩ Caroline Richardson, M.D., người chủ trì cuộc nghiên cứu đã đặc biệt nhấn mạnh “Đối với nguy cơ dẫn đến tử vong do tim mạch, mọi người đều được hưởng lợi từ việc đi bộ. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất, sự giảm bớt lớn nhất là ở những người đang có nguy cơ cao.”
Image
Ích lợi của đi bộ trên hoạt động trí tuệ

Hai kết quả nghiên cứu độc lập nhau được đăng tải trên tạp chí của Hội Y học Mỹ (Journal of the American Medical Association) đã cho thấy đi bộ có thể duy trì hoạt động linh hoạt và sự nhạy bén của bộ não.

Trong khi một số môn vận động như chèo thuyền, bơi lội, đi xe đạp, aerobic có cường độ vận động mạnh hoặc có thiên hướng thể thao, có thể không thích hợp với người già thì việc đi bộ thường tỏ ra an toàn, thuận tiện và dễ điều chỉnh theo tình trạng sức khoẻ của người tập.

Một nghiên cứu trên 18.000 người, nguyên là nữ nhân viên điều dưỡng tuổi từ 70 trở lên đã cho thấy những người đi bộ nhiều, ít nhất 1 giờ rưởi mỗi tuần, đều đạt được chỉ số cao hơn về khả năng suy nghỉ, sự chú tâm và mức độ ghi nhớ các từ so với những người đi bộ ít hơn 40 phút mỗi tuần. Hơn nữa, đối với những trở ngại về mặt nhận thức, những phụ nử năng động cũng tốt hơn 20% so với những người bình thường.

Tương tự, một nghiên cứu được thực hiện trên 2.000 người đàn ông ở Hawaii đã cho biết thường đi bộ có thể làm giảm đáng kể sự phát triển của các chứng rối loạn trí nhớ, bao gồm cả bệnh Alzheimer (bệnh suy giảm và mất dần trí nhớ). Những nhà khoa học nầy nghi ngờ phải chăng việc cải thiện tuần hoàn máu đến tim và não nhờ hoạt động đi bộ gây ra đã tác động tốt đến chức năng của não?

Một nghiên cứu khác tại trường Đại học Illinois tại Urbana-Champagne, Mỹ đã được công bố ngày 20/11/2006 cũng cho thấy tập thể dục nhẹ có thể đảo ngược (reverse) quá trình lão hoá của não. Nghiên cứu được thực hiện bởi 2 Tiến sĩ Arthur F.Kramer và Ed Mc. Auley.

Người được thí nghiệm là những người có cuộc sống tĩnh tại tuổi từ 60 đến 79 tuổi. Những người nầy được tập hợp 3 lần mỗi tuần trong thời gian 6 tháng để tham gia tập thể dục. Họ được chia làm 2 nhóm. Nhóm tập các bài tập aerobic nhẹ gần giống như đi bộ và nhóm tập các bài tập căng cơ (toning and stretching exercises). Các nhà khoa học đã quan sát, đối chiếu bộ não của những người tham gia thí nghiệm trước và sau chương trình tập thể dục qua hình ảnh được chụp bằng cộng hưởng từ. Kết quả cho thấy có sự gia tăng khối lượng não đáng kể ở những người tập aerobic so với những người chỉ tập căng cơ. Phần vỏ não trước, phần thường có sự thoái hoá liên quan đến tuổi già, là phần có sự thay đổi nhiều nhất từ những bài tập aerobic.

Bác sĩ Arthur F.Kramer cho biết “Tập thể dục đúng cách có thể cải thiện chức năng của não. Thậm chí ngay cả các hoạt động nhẹ cũng rất có lợi cho não. Nó cải thiện lưu thông máu trong não và kích thích hình thành những tế bào mới”. Ông còn nói thêm "Bạn không cần phải là một người chạy marathon; bơi lội, đi xe đạp, đi bộ đều là những cách thức có thể mang lại lợi ích chống lão hoá não”.
Đi bộ giúp tăng sức đề kháng và giảm nguy cơ tử vong do ung thư


Mọi hình thức vận động đều có khả năng làm gia tăng sự lưu thông khí huyết. Theo Đông y, “thống tắc bất thông, thông tắc bất thống”. Đau nhức là do khí huyết ứ trệ, một khi khí huyết thông suốt, đau nhức sẽ không tồn tại. Đi bộ cải thiện tuần hoàn huyết, gia tăng sự trao đổi chất, làm tăng mật độ xương nên có tác dụng rất tốt trong việc phòng chống các chứng loãng xương và viêm khớp ở tuổi già. Qua vận động, khí huyết được lưu chuyển ra phần vệ khí biểu hiện thấy đổ mồ hôi, người nóng lên, tăng cường sức chống bệnh từ môi trườngbên ngoài. Một nghiên cứu của Trung Tâm Nghiên Cứu Ung Thư Fred Hutchinson ở Seattle (Mỹ) được phổ biến trên tạp chí The American Journal of Medicine số tháng 11/2006 đã cho biết đi bộ đều đặn có thể làm tăng đáng kể sức đề kháng, ngăn chận cảm cúm và nhiều trường hợp nhiễm trùng khác.


Kết quả trên dựa vào một nghiên cứu trên 115 người phụ nữ đã mãn kinh, có cuộc sống tĩnh tại, cân nặng trên trung bình hoặc béo phì. Những người nầy được chia làm 2 nhóm. Nhóm đầu được chỉ định đi bộ nhanh 45 phút mỗi ngày, 5 lần mỗi tuần. Nhóm còn lại chỉ tập căng cơ 45 phút, mỗi tuần một lần. Kết quả cho thấy những người thuộc nhóm sau dễ bị cảm cúm, dị ứng hoặc một số trường hợp nhiễm trùng khác cao gấp 3 lần so với nhóm đầu.

Một báo cáo được trình bày tại cuộc hội thảo thường niên lần thứ 95 của Hội Nghiên Cứu Ung Thư Hoa Kỳ ngày 29.3.2004 cũng cho thấy thực hành đi bộ có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư vú, ung thư ruột già và ung thư tử cung. Nghiên cứu được công bố tại hội nghị đã cho thấy tỷ lệ sống còn của những người bị ung thư nầy đã tăng đến 54% nếu đi bộ từ 30 đến 60 phút mỗi ngày. Những nhà khoa học cho rằng đi bộ đã làm gia tăng các loại tế bào bạch cầu và những loại kháng thể chống lại sự xâm nhập hoặc phát triển cúa các loại vi trùng, vi khuẩn gây bệnh.


Xạ trị, hoá trị trong điều trị ung thư thường dẫn đến rối loạn tiêu hoá, kém ăn, suy giảm hệ miễn dịch. Trong những trường hợp nầy, ngoài việc bổ sung những chất dinh dưỡng, việc đi bộ đều đặn, uống nước cháo gạo lức rang xen kẻ với uống nước ép trái cây là những liệupháp bổ sung rất hửu ích. Vận động và uống nước cháo gạo lức rang đều có thể giúp kiện tỳ. Nước ép rau quả tăng cường những chất chống oxy hoá cần thiết để trung hoà bớt những gốc tự do sinh ra từ độc chất và giúp nâng cao sức miễn dịch.

Đi bộ và thiền hành

Đi bộ đều đặn hàng ngày tự nó đã có tác dụng điều hoà nội tiết, ổn định tâm lý. Ngoài ra, mỗi người đều có thể tận dụng thời gian đi bộ để hành thiền thông qua việc quan sát hơi thở vào và ra trong lúc đi. Trong lúc thiền hành (hành thiền trong lúc đi), vẫn có thể đi chậm hoặc đi nhanh tuỳ theo điều kiện sức khoẻ hoặc chương trình tập luyện Điều quan trọng là bước đi phải đồng bộ với hơi thở và luôn chú tâm để biết rõ từng bước chân ứng với hơi thở vào hoặc ra. Chẳng hạn khi bước đi khoan thai có thể nhẩm trong tâm hít (khi hít vào) và thở (khi thở ra), khi đi nhanh hơn có thể nhẩm hít, hít (ứng với 2 bước chân khi hít vào) và thở, thở (ứng với 2 bước chân khi thở ra). Giống như nhiều phương pháp thiền khác, thiền hành có thể giúp người tập phát triển chánh niệm, gia tăng năng lực tập trung tư tưởng và kiểm soát cảm xúc qua đó có thể nâng cao chỉ số thông minh cảm xúc (emotional quotient), một yếu tố quan trọng góp phầncho sự thành công trong cuộc sống nhiều áp lực của xã hội hiện nay.

Quan sát hơi thở cũng đồng nghĩa với điều hòa hơi thở và tiết kiệm năng lượng. Điều nầy giúp đi được khoảng cách dài hơn hoặc thời gian lâu hơn. Hầu hết các vận động viên đều biết rằng kiểm soát hơi thở sẽ giúp họ vận động hiệu quả hơn và dai sức hơn.
Nói chung, mọi hình thức vận động, kể cả đi bộ, đều có tác dụng bảo vệ và phát triển sức khoẻ về nhiều mặt. Một loại thuốc có thể được thay thế bằng một loại thuốc khác, nhưng không một loại thuốc nào có thể thay thế cho vận động. Nếu có thể sản xuất ra một loại thuốc tổng hợp có đủ các tác dụng của sự đi bộ thì ắt hẳn đó sẽ là loại thần dược quý giá nhất.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Món Ăn Làm Giảm Huyết Áp


Khi có bệnh tăng huyết áp, điều đầu tiên nên làm là điều chỉnh chế độ ăn (ăn nhạt, đủ chất dinh dưỡng) kết hợp dùng thuốc lợi tiểu. Nếu bệnh không cải thiện thì mới dùng thuốc hạ áp; và ngay cả lúc này, chế độ ăn vẫn giữ vai trò rất quan trọng. Sau đây là 20 món ăn có tác dụng giảm huyết áp:

Cháo gạo lức, đậu đỏ và ngô: Gạo lứt 80 g, đậu đỏ 30 g, ngô 30 g. Nấu tất cả thành cháo nhừ. Mỗi ngày ăn 1 lần.

Súp bột mì và rong biển: Bột mì 80 g, rong biển 20 g, hành 10 g, dầu vừng 30 g. Rong biển rửa sạch, xào chung với hành bằng dầu vừng. Sau đó đổ vào ít nước, vặn lửa nhỏ nấu riu riu chừng 25 phút. Bột mì dùng nước nhào đều rồi cán mỏng, cắt thành từng miếng nhỏ, dùng 1 lít nước luộc chín, sau đó vớt ra bỏ vào nồi nước rong biển đã nấu ở trên, nêm vừa mắm muối là được.



Dưa chuột trộn chua ngọt: Dưa chuột 100 g, tỏi 20 g, hành 10 g, giấm 10 ml, dầu vừng 5 g. Dưa chuột rửa sạch, cắt lát, hành rửa sạch, cắt khúc, tỏi bỏ vỏ, giã nát. Trộn đều tất cả với dầu vừng, nêm muối. Ăn mỗi ngày 1 lần.

Canh cá quả, giá và cải canh: Cá lóc 50 g, giá 50 g, cải canh 30 g, tỏi 10 g, hành 5 g, bột canh. Làm sạch cá, xào chung với giá và cải canh, cho hành tỏi vào cho thơm. Sau đó cho vào nồi nước nấu sôi, nêm một chút bột canh là được. Mỗi ngày ăn 1 lần.

Canh thịt lợn, cà tím và dưa chuột: Thịt lợn nạc 50 g, cà tím 50 g, dưa chuột 30 g, tỏi 10 g, hành 5 g, dầu vừng 10 g, bột canh. Dưa chuột rửa sạch, cắt miếng; cà rửa sạch cắt miếng; thịt lợn rửa sạch, cắt miếng; hành cắt đoạn; tỏi bỏ vỏ giã nát. Để nồi nóng đổ dầu vào, phi hành cho thơm, rồi xào với thịt lợn đã ướp tỏi. Sau đó cho nước vào nấu sôi, bỏ các thứ nấu thêm chừng 20 phút là được. Dùng ăn thay thức ăn.

Canh thịt lợn và cần tây: Thịt lợn nạc 100 g, cần tây 100 g, nấm hương 30 g, gừng 5 g, tỏi 10 g, hành 10 g, dầu vừng 10 g, muối. Thịt lợn rửa sạch cắt miếng, cần tây rửa sạch, cắt khúc; nấm hương lựa sơ, bỏ cuống, cắt làm hai, rửa sạch; gừng cắt lát, hành cắt đoạn, tỏi bỏ vỏ, cắt lát. Để nồi nóng, đổ dầu vào, chờ dầu nóng, bỏ gừng, hành vào khử cho thơm, bỏ thịt lợn vào xào sơ. Sau đó cho tất cả vào nấu thành canh với lửa nhỏ chừng 35 phút là được. Mỗi ngày ăn 1 lần.

Mộc nhĩ xào tỏi: Mộc nhĩ 40 g, tỏi 15 g, gừng 5 g, dầu vừng. Mộc nhĩ ngâm nước, bỏ rễ, thái nhỏ; tỏi bỏ vỏ, cắt lát, gừng cắt lát, hành cắt khúc. Để nồi nóng đổ dầu vào, chờ dầu nóng bỏ tỏi, gừng, hành vào phi thơm, cho mộc nhĩ vào xào chín là được. Khi ăn rắc thêm bột tiêu. Mỗi ngày ăn một lần.

Canh sò nấu râu ngô: Thịt sò 30 g, râu ngô 50 g, hành 10 g, gừng 3 g, muối vừa đủ. Thịt sò rửa sạch, cắt miếng; râu ngô rửa sạch, bỏ vào túi vải; gừng cắt lát, hành cắt khúc. Cho tất cả vào nồi nấu với nước hoặc nước gà luộc. Nấu sôi bằng lửa lớn, sau đó vặn lửa nhỏ nấu thêm 30 phút là được. Mỗi ngày ăn 1 lần, ăn cái, uống nước.

Canh rong biển và hạt bo bo: Rong biển 30 g, bo bo 30 g, dầu đậu tương 10 g, gia vị. Rong biển rửa sạch, cắt thành sợi, bo bo rửa sạch. Rong biển xào sơ với dầu ăn, rồi nấu chung với hạt bo bo đến chín nhừ. Nêm gia vị vừa ăn.

Canh cá giếc nấu với vừng đen: Cá giếc 1 con (300 g), vừng đen 15 g, hành tiêu, gừng, gia vị. Cá làm sạch, lọc lấy thịt cho vào nấu với vừng đen; thêm hành tiêu, gừng gia vị.

Canh rong biển với bí đao: Rong biển 30 g, bí đao 100 g, lạc 50 g, thịt lợn nạc 50 g, gia vị vừa đủ. Cho cả 4 thứ trên nấu chung thành canh, nêm vừa ăn. Dùng trong bữa ăn liên tục 7 ngày.

Thịt lợn nạc xào rau cần, giá đỗ: Thịt lợn nạc 50 g, rau cần 150 g, giá 50 g, gừng 3 g, dầu đậu tương, xì dầu 10 g, trứng gà 1 quả, bột đao 20 g. Thịt lợn nạc rửa sạch, cắt miếng; rau cần rửa sạch, cắt khúc; giá rửa sạch, bỏ rễ; gừng cắt lát; hành cắt khúc. Cho thịt nạc, trứng gà, bột đao, muối vào bát, đổ ít nước vào trộn đều. Để nồi nóng đổ dầu vào, chờ dầu nóng bỏ gừng, hành vào phi cho thơm, rồi đổ thịt lợn đã trộn vào xào sơ, sau đó bỏ rau cần, giá vào xào chín là ăn được. Mỗi ngày ăn 2 lần.

Canh cải bắp, đậu đỏ: Cải bắp 100 g, đậu đỏ 15 g, gừng 3 g, hành 10 g, dầu lượng thích hợp, muối vừa ăn. Cải bắp rửa sạch, cắt khúc; đậu đỏ ngâm nước rửa sạch; gừng cắt lát; hành cắt khúc. Để nồi nóng bỏ gừng, hành vào phi cho thơm, đổ vào nửa lít nước, bỏ đậu đỏ vào nấu 40 phút, sau đó bỏ cải bắp vào nấu chín, nêm muối là được. Mỗi ngày ăn 1 lần.


Canh ốc, cần tây: Ốc đồng 50 g, thịt lợn nạc 20 g, cần tây 50 g, đậu đỏ 15 g, nấm hương 15 g, gừng 3 g, hành 10 g, tỏi 10 g, xì dầu 10 g, dầu một lượng thích hợp. Thịt ốc đồng rửa sạch, cắt miếng; thịt lợn cắt miếng; cần tây rửa sạch, cắt khúc; đậu đỏ rửa sạch; nấm hương ngâm nước cho mềm, bỏ cuống; cắt làm đôi. Dùng một nồi nấu đậu đỏ với 1 lít nước cho đậu chín. Lấy nồi khác để nồi nóng đổ dầu vào, chờ dầu nóng bỏ gừng, hành vào phi cho thơm, bỏ ốc, thịt, vào xào sơ. Tiếp theo đổ đậu đã nấu chín cùng với nước vào nồi ốc, thịt. Cho cần tây, nấm hương, xì dầu vào, nấu sôi bằng lửa lớn, sau đó vặn lửa nhỏ hầm nhừ là được. Mỗi ngày ăn 1 lần.

Cần tây xào đậu phụ: Rau cần 100 g, đậu phụ 100 g, thịt lợn nạc 30 g, nấm hương 30 g, gừng 3 g, hành 10 g, xì dầu 10 g, tỏi 10 g, dầu ăn lượng thích hợp. Rau cần rửa sạch, cắt khúc, đậu phụ cắt miếng; thịt lợn nạc cắt miếng; nấm hương ngâm nước cho mềm, bỏ rễ, cắt nhỏ; gừng cắt lát; hành cắt khúc; tỏi cắt lát. Để chảo nóng đổ dầu vào, chờ dầu nóng bỏ gừng, hành vào phi thơm, rồi cho tất cả các thứ vào xào chín là được. Mỗi ngày ăn 1 lần, dùng lúc đói bụng.

Chè vừng đen, khoai mài: Vừng đen 30 g, khoai mài 30 g, đường phèn 3 g. Vừng đen rang thơm, xay thành bột, khoai mài rang khô, tán thành bột, trộn hai thứ bột vào nhau. Nấu với 2 bát nước, dùng lửa lớn nấu sôi, nêm ít đường phèn, khuấy đều, nấu thêm khoảng 5 phút là được. Mỗi ngày ăn 1 lần.

Cà tím xào tỏi: Tỏi 30 g, cà tím 200 g, hành 10 g, muối 5 g, xì dầu lượng thích hợp. Tỏi bỏ vỏ. Cà rửa sạch, cắt miếng, dùng lửa lớn hấp chín; sau đó lấy ra bỏ cà vào trộn đều với tỏi đã khử sơ với dầu mè, nêm ít xì dầu là được.

Thịt lợn xào cần tây: Thịt lợn nạc 50 g, cần tây 100 g, mộc nhĩ 30 g, gừng 5 g, hành 10 g, muối vừa ăn, dầu ăn lượng thích hợp. Thịt lợn nạc rửa sạch, cắt miếng; cần tây rửa sạch, cắt khúc; nấm ngâm nước cho mềm, bỏ cuống, cắt làm đôi; gừng cắt khúc. Để chảo nóng đổ dầu vào chờ sôi bỏ gừng, hành vào khử cho thơm. Bỏ các thức vào thêm một ít nước, dùng lửa nhỏ nấu 25 phút là được. Mỗi ngày ăn 1 lần.

Cháo gạo lứt, rau cần và mộc nhĩ: Gạo lứt 80 g, rau cần 50 g, mộc nhĩ 20 g. Gạo vo sạch; rau cần rửa sạch, cắt khúc; mộc nhĩ ngâm nước, bỏ cuống, xé thành miếng. Lấy gạo nấu thành cháo gần chín, rồi bỏ mộc nhĩ và rau cần vào, vặn lửa nhỏ nấu thêm 30 phút là được. Mỗi ngày ăn 1 lần.

Canh giá, cải bẹ xanh, rong biển: Giá 100 g, cải bẹ xanh 100 g, rong biển 50 g, gừng 5 g, hành 10 g, muối, dầu. Giá bỏ rễ, rửa sạch; cải bẹ xanh rửa sạch; rong biển rửa sạch; gừng cắt lát; hành cắt khúc. Để nồi nóng đổ dầu vào chờ dầu sôi bỏ gừng, hành vào phi thơm. Rồi đổ 1 lít nước, nấu sôi rồi vặn nhỏ lửa trong 45 phút, nêm muối.


Thai Luu
nuoclanh
Posts: 163
Joined: Wed May 30, 2007 12:09 pm
Contact:

METHI SEED - HỒ LÔ BÁ - FENUGREEK

Post by nuoclanh »

METHI SEED - HỒ LÔ BÁ - FENUGREEK
GIA VỊ HAY VỊ THUỐC
Tiến Sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng

Image

Tên Hồ lô ba (do nguồn gốc từ Trung dược) và Fenugreek có phần xa lạ với đa số người Việt trong và ngoài nước, nhưng thật ra rất quen thuộc với những bà nội trợ hay dùng đến bột "cà ri". Tại nhiều nơi trên thế giới, Fenugreek không những được trồng để lấy hạt làm gia vị, nhưng còn được dùng làm rau và làm thuốc trị bệnh. Cây cũng được trồng thử tại một số địa phương tại Việt Nam.

Fenugreek được xem là một trong những cây đầu tiên được nhân loại trồng .. cây đã được trồng tại vùng thung lũng sông Nile tứ 1000 năm truớc Tây lịch. Các văn bản tìm được trong các ngôi cổ mộ Ai cập đã mô tả cách nấu nướng fenugreek khi dùng làm thực phẩm và cách chế biến cây để làm thuốc (trị nóng sốt). Hạt fenugreek khô đã được tìm thấy trong mộ của Tutankhamen. Hạt cháy khô tìm được tại Tell Halal (Iraq) được định bằng Carbon phóng xạ cho thấy niên đại khoảng 4000 năm (trước Tây lịch). Người Hy lạp và La mã (theo Cato) đã trồng cây để nuôi gia súc, và để làm thuốc. Hippocrates đã dùng fenugreek để trị nóng sốt. Người Ai cập dùng cây làm một trong các hợp chất để xông hương và để ướp xác.

Fenugreek, được ghi trong lịch sử Do thái, như là một võ khí chống ngoại xâm! Năm 66-70 Tây lịch, Tường La Mã (sau thành Hoàng đế) Vespasian bao vây thành Jerusalem và ra lệnh cho quân sĩ san bằng bức tường thành. Phương thức phòng thủ của dân Jerusalem là đổ nước sôi hay dầu sôi vào quân xâm lấn dùng thang trèo lên mặt thành và theo Sử gia Flavius Josephus thì người Do thái đã thêm dầu fenugreek vào nước sôi để gây tăng thêm sư trơn trợt cho quân La mã.

Fenugreek có nguồn gốc tại những vùng quanh Địa Trung hải và Tây Á. Cây được các tu sĩ dòng Benedictins đưa về Trung Âu từ thế kỷ thứ 9 và Charlemagne (812) đã cổ võ việc sử dụng cây này. Cây cũng được du nhập vào Trung Hoa từ thời nhà Tống (1057 tây lịch).

Image

Phụ nữ Ả rập, từ Libya đến Syria ăn hạt fenugreek rang để tăng cân và giúp tạo thân hình thẩm mỹ theo trường phái Ruben (cho đến thế kỷ 19, thân hình phụ nữ được xem là đẹp cần phải phát triển, nẩy nở và đều đặn nhất là các phần hông). Các vị "chủ nhân" của các harem ăn hạt để làm thuôc kích thích tình dục (aphrodisiac), hiện nay tại nhiều nơi trong thế giới Ả rập vẫn xem hạt fenugreek như một vị thuốc kích dục (?). Các bà mẹ nuôi con tại Ethopia ăn thêm fenugreek để giúp có nhiều sữa.

Tên khoa học và các tên gọi khác:

Trigonella foenum-graecum thuộc họ thực vật fabacêa.
Tên Anh-Mỹ khác Greek hay, Bird's Foot
Pháp: Fenugrec; Đức: Bockshornklee; Tây Ban nha: Alholva; Ý: Fieno Greco; Nhật: Koroha
Tên Ấn độ: Methi, Methi saag; Phạn: Methika
Tên Trigonella, do tiếng Hy lạp có nghĩa là có 3 cạnh, do hình dạng của hoa. Tên Anh ngữ Fenugreek, do "foenum-graecum", tiếng latinh có nghĩa là rơm Hy lạp: cây đã được dùng để trộn thêm các rơm rạ có phẩm chất kém để tạo mùi thơm. Trước đây tại Hy lạp, fenugreek được trộn vào các rơm rạ bị mốc hay bị hư hỏng do côn trùng phá hoại, giúp rơm trở thành dễ ăn hơn, và hơn nữa trong thiên nhiên trâu bò và ngựa khi đau ốm chỉ chịu ăn fenugreek.

Đặc tính thực vật:

Cây thuộc loại thảo hằng niên, có thân tròn không lông, mọc thẳng đứng, có thể cao 60-80 cm, rễ phát triển. Lá mọc so le, có mang 3 lá chét (lá phụ) xoan ngược, dài 1.5-2 cm, rộng 0.5-1 cm. mép lá có răng cưa ở phân nửa phần trên, phiến có 4 đôi gân phụ. Lá có cuống ngắn 4-6 mm. Hoa màu vàng nhạt hay trắng, mọc ở nách lá, đơn độc hay từng đôi. Tràng hoa dài gấp đôi đài hoa. Quả hình trụ thẳng, hơi cong, dài 10-12 cm, rộng 4-5 mm, có mỏ nhọn ở đầu, chứa 10 đến 20 hạt. Hạt màu nâu sáng, hay vàng-nâu, hình thoi, dẹp, rất cứng (3x4 mm), nhiều cạnh, có mùi thơm. Cây trổ hoa vào các tháng 4-6 và ra quả trong các tháng 7-8.
Fenugreek thuộc loại có chu kỳ sống ngắn, có thể thu hoạch sau 3-4 tháng gieo trồng và mỗi năm có thể trồng xoay vòng đến 3 lứa.
Các nước xuất cảng feugreek hiện nay là: Ấn độ, Pháp, Lebanon, Ai cập và Argentina.

Thành phần hóa học:

Thành phần hóa học của hạt fenugreek:

Chất nhày (2.5-45 % gồm các mannogalactans)
Chất đạm (25-30%) trong đó có các amino acids như choline-4-hydro xyisoleucine, lysine, tryptophan, histidine, arginine, cystine và tyrosine.
Các chấc ức chế proteinase
Các saponins loại steroid (1.2-1.5%) gồm cả các trigofoenosides từ A đến G, alycones gồm diosgenin,yamogenin, gitogenin, smilagenin, tigogenin, yuccagenin.
Ester loại steroid saponin-peptid như foenugraecin
Các sterols: chất chính là 24xi-ethyl-cholest-5-en-3beta-ole (65%)
Flavonoids gồm isoorientin, isovitexin, orientin arabinoside, isoorien tin arabinoside, saponaretin, vicenin-1, vicenin-2, vitexin
Trigonelline (coffearin, N-methylbetaine của nicotinic acid, 0.4%)
Tinh dầu dễ bay hơi (0.01%): hợp chất tạo mùi 3-hydroxy-4,5đime thyl-2 (5H)-furanone.


Dược tính của fenugreek:

Fenugreek và Tiểu đường:
Hạt fenugreek là một trong số ít dược thảo được WHO và nhiều quốc gia công nhận là có hoạt tính giúp hạ đường trong máụ Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã giúp chứng minh khả năng hạ đường của hạt fenugreek, khi thử trên thú vật và cả khi thử nghiệm lâm sàng nơi người (Phytotherapy Research Số 12-1998).
Hạt fenugreek, sử dụng đơn độc, hay dùng phối hợp với vanadate, tạo ra một sự bình thường hóa các men glucose-6-phosphatase và fructose-1,6-biphosphatase trong gan và thận của chuột bị tiểu đường. Hoạt tính hạ đường tăng cao hơn khi dùng dưới dạng phối hợp. Hạt fenugreek cũng có hoạt tính giúp bình thường hóa hoạt động của men glyoxalase I nơi gan của chuột bị tiểu đường (Indian Journal of Expe rimental Biology Số 37-1999). Khi cho chuột bình thường và chuột bị gây tiểu đường bằng alloxan dùng fenugreek ở những liều 2 và 8 g/kg hiệu ứng hạ glucose trong máu xẩy ra rất rõ rệt, hiệu ứng này tùy thuộc vào liều sử dụng (Journal of Ethnopharmacology Số 75-2001).

Khi thử trên thỏ, hạt và các dịch chiết khác nhau đều có những hoạt tính hạ đường (thử bằng test độ dung nạp glucose). Phần chứa nhiều alkaloid là phần có hoạt tính mạnh nhất (Indian Journal of Pharmaceutical Science Số May-June 1987)

Các nghiên cứu thực hiện trên những người tự nguyện đều ghi nhận tác dụng hạ đường của fenugreek, nhất là nơi những bệnh nhân bị tiểu đường, không tùy thuộc vào insulin (NIĐM): trong một thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát, hoạt tính của 3 chế phẩm từ hạt (hạt tươi, hạt đun sôi và hạt nẩy mầm) được dùng cho 6 người bình thường và 6 bệnh nhân (các bệnh nhân dùng hạt tươi và hạt nẩy mầm), kết quả cho thấy hạt tươi và hạt nẩy mầm làm hạ glucose nơi tất cả 12 người, và hạt đun sôi không có tác dụng (Journal of Food Science and Techno logy Số 33-1996). Một thử nghiệm khác trên 21 bệnh nhân NIDM ghi nhận liều 15 gram hạt cho dùng một lần trong bữa ăn gây hạ glucose trong máu, và không gây những thay đổi về nồng độ insulin (Nutrition Research Số 16-1996). Ngoài ra, cũng trong một thử nghiệm trên 15 bệnh nhân NIĐM, cho dùng hạt fenugreek đã loại chất béo trong 10 ngày, gây hạ glucose trong máu (nhịn ăn đêm trước) và giảm lượng glucose đào thải qua nước tiểu đến 64%. Thữ nghiệm này cho rằng cơ chế tạo ra hạ đường trong máu của fenugreek có thể do hiệu ứng của chất sơ dinh dưỡng (Soluble dietary fiber) trên sự hâp thu glucose nơi ruột và do sự cải thiện hoạt tính ngoại vi của insulin (Nutrition Research Số 10-1990; British Journal of Nutri tion Số 97-2007).

Hạt fenugreek cũng làm giảm được một số triệu chứng của tiểu đường như khát nước, đi tiểu nhiều lần, yếu mệt và sụt cân.

Tại các bệnh viện ở Trung Hoa, Saponins tổng cộng trích từ hạt fenugreek đã được dùng phối hợp với sulfonylureas để trị tiểu đường cho thấy sự phối hợp đem lại những kết quả rất tốt, giúp bệnh nhân giảm được sulfonylurea và kiểm soát được mức đường hữu hiệu hơn (Chinese Journal of Integrative Medicine Số 14-2008).

Fenugreek và Cholesterol:

Một số nghiên cứu thực nghiệm nơi chuột đã chứng minh được hoạt tính làm hạ Cholesterol của fenugreek (Current Science Số 51-1982). Hạt fenugreek giúp ngừa gia tăng cholesterol nơi chuột cho ăn các thực phẩm hay một chế độ ăn uống chứa nhiều cholesterol (British Journal of Nutrition Số 69-1993).

Một acid amin đặc biệt, trích từ fenugreek: 4-hydroxyisoleucine 5 có khả năng gây hạ triglycerides trong máu đến 33%, cholesterol tỗng cộng đến 22% và acid béo tự do 14%, cùng với sự tăng tỷ lệ HDL-C/TC đến 39% khi thử trên chuột bọ bị gây cao mỡ trong máu (Bio organic & Medicinal Chemistry Letters Số 15-2006)

Saponin loại steroid, trích từ hạt fenugreek, thử nơi chuột, với liều mỗi ngày 12.5g/ 300g trọng lượng cơ thể làm hạ rõ rệt cholesterol trong huyết tương ở cả chuột bình thường lẫn chuột bị tiểu đường (Steroids Số 60-1995).

Hoạt tính chống sưng cũa Fenugreek:

Hạt fenugreek đã được nghiên cứu vế tác dụng chống sưng, thử nghiệm trên chuột lang (albino) bị gây viêm bằng các chất gây sưng khác nhau. Hoạt tính chống sưng được so sánh với sodium salicylate. Dịch chiết từ hạt bằng ether có hoạt tính mạnh nhất (Indian Drugs Số February 1982). Một thử nghiệm khác cũng trên chuột, bị gây đau bằng acid acetic, bằng nhiệt (bị đặt trên đĩa nung nóng), dịch chiết từ hạt fenugreek được so sánh với pentazocine và diclofenac, kết quả ghi nhận phần tan trong nước của dịch chiết có hoạt tính chống sưng và làm giảm đau khá mạnh (Asian Pacific Journal of Clinical Nutrition Số 16-2007).

Khả năng kháng sinh:

Fenugreek đã được thử nghiệm về hoạt tính kháng sinh trên 26 loại vi trùng gây bệnh và cho thấy khả năng kháng sinh khá rộng (Natural Products Science Số 7-2001): Dầu béo và Phần không bị savon-hóa, trích từ hạt đều có hoạt tính kháng sinh khá mạnh.

Hoạt tính diệt ký sinh trùng Sốt rét:

Dịch chiết bằng các dung môi khác nhau từ lá fenugreek đã được thử nghiệm 'in vitró trên các chủng ký sinh trùng gây sốt rét Plasmodium falciparum (gồm các chủng còn mẫn cảm và các chủng đã kháng chloro quin). Kết quả cho thấy, dịch chiết bằng ethanol 50% có hoạt tính diệt ký sinh trùng mạnh nhất ở liều IC50=8.75 +/- 0.35 microg ml(-1) đối với plasmodium còn phản ứng với chloroquin và ở liều IC50= 10.25 +/- 0.35 microg ml (-1) đối với plasmodium đã kháng chloroquin. Các dịch chiết bằng butanol, chloroform và ethyl acetate tuy cũng có tác dụng nhưng yếu hơn nhiều (Evidence Based Complementary and Alternative Medi cines Số 2 tháng 5, 2008). Hạt fenugreek có khả năng diệt được ấu trùng (lăng quăng) của muổi đòn sóc Anopheles pharoensis: Nồng độ cao hơn 0.5% có thể diệt toàn bộ số lượng lăng quăng (Egyptian Society of Parasitology Số 36-2006).

Khả năng chống oxy-hóa:

Nhiều nghiên cứu trong công nghiệp thực phẩm đã cho thấy hạt fenugreek có thể hữu hiệu khi dùng làm chất chống oxy-hóa để bảo quản thực phẩm. Trong một thử nghiệm, tiềm năng chống oxy-hóa của fenugreek có thể so sánh được với các chất kháng oxy tổng hợp như butylated hydroxyanisole và butylated hydroxytoluene (Meat Science Số 57-2001); khả năng kháng-oxy của hạt fenugreek hoạt động rất tốt khi dùng bảo quản thịt heo xay (cà thịt tươi lẫn thịt đông lạnh).

Khả năng bảo vệ gan chống tác hại của rượu:

Các polyphenols trích từ hạt fenugreek được nghiên cứu về khả năng bảo vệ gan (nơi chuột) chống lại tác hại của rượu: Ruột bị gây hư gan bằng cho uống thenol 6g/kg mỗi ngày liên tục trong 60 ngày: các triệu chứng hư gan bao gồm các thông số về hoạt động của các men gan, giảm hạ các nhóm sulfohydryl, gia tăng các nhóm carbonyl proteins. Kết quả ghi nhận là fenugreek có hoạt tính tương tự như silymarin (dùng làm đối chứng), giúp cải thiện được các thay đổi bệnh lý ở gan gây ra do rượu (Cell Biology and Toxicology Số 24-2008).

Khả năng ngừa và trị sạn thận:

Hạt fenugreek được sử dụng tại Maroc để ngừa và trị sạn thận. Nghiên cứu tại ĐH Cadi-Aỳyad, Marrakech (Maroc) ghi nhận hiện tượng calci hóa trong thận và lượng calcium tổng cộng nơi các tế bào thận của chuột được cho uống dịch chiết từ hạt fenugreek thấp hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng. Fenugreek cho thấy tương đối hiệu nghiệm trong tác dụng ngăn ngừa sự tạo sạn calcium oxalate (Phytotherapy Research Số 21-2007).

Fenugreek và Ung thư:

Trong một thử nghiệm thực hiện tại Đại học UAE (United Arab Emirates) hạt fenugreek cho thấy có hoạt tính bảo vệ được chuột chống lại ung thư vú, gây ra bởi 7,12 dimethylbenz (alpha) anthracene (DMBA). Liều 200 mg/ kg trọng lượng cơ thể ức chế rõ rệt hiện tượng phì vú do DMBA tạo ra, hoạt tính này được giải thích là do gây ra hiệu ứng tế bào được mã hóa để tự diệt (apoptosis) (Cell Biology International Số 29-2005). Dịch chiết từ hạt fenugreek bằng alcohol, khi thử nghiệm trên chuột bị gây ung thư loại Ehrlich ascites carcinoma (EAC) cho thấy khi chích qua màng phúc toan (trước và sau khi chuột bị cấy tế bào ung thư), fenugreek có thể ức chế sự tăng trưỡng của tế bào ung thư đến 70% (Phytotherapy Research Số 15-2001).

Độc tính và liều lượng khi sử dụng làm thuốc:

Fenugreek đã được sử dụng từ lâu đời để làm thực phẩm và không gây ra những phản ứng độc hại nào. Các nghiên cứu về độc tính cho thấy, cho chuột thử nghiệm ăn liên tục trong 90 ngày những liều lượng cao từ 2 đến 4 lần các liều dùng trị bệnh, đều không gây tác hại nào trên gan và máu (Phytotherapy Research Số 10-1996). Ngoài ra, khi cho các bệnh nhân tiểu đường dùng hạt theo liều 25 gram/ ngày, trong 24 tuần liên tục, không thấy có sự biến đổi trong các thông số về hoạt động của gan, thận và máu (Nutrition Research Số 16-1996) Tuy nhiên, bệnh nhân tiểu đường, khi dùng thêm fenugreek, cũng cần thông báo cho bác sĩ điều trị để tránh tình trạng mức đưởng hạ quá thấp khi dùng chung với các thuốc trị tiểu đường khác.

Liều thông thường: Hạt tán thành bột là 6 gram/ngày.

Theo Commission E (Đức), hạt fenugreek được chấp nhận làm thuốc giúp ăn ngon miệng dưới dạng trà dược (ngâm 0.5 gram trong 240 ml nước lạnh trong 3 giờ, lược và hâm nóng lại, có thể thêm mật ong khi uống) và dùng bên ngoài trị sưng da dưới dạng bột nhão để đắp.

Fenugreek trong Y dược dân gian:

Y dược cổ truyền Trung Hoa: dùng hạt làm dược liệu, gọi là Hồ lô bá. Hạt được xem là có vị đắng, tính ấm có các tác dụng "ôn thận", tán hàn và chỉ thống. Dùng trị các trường hợp trị tạng thận suy yếu, đau bao tử, đau ruột, sưng chân, thấp gây ra đau khớp khó đi lại.


Tại Hoa Kỳ:

Những người di dân đầu tiên đến miền Đất mới, đã dùng fenugreek làm một phương thuốc giúp điều hòa kinh nguyệt. Một hỗn hợp dược thảo có chứa fenugreek rất nổi tiếng trong thế kỷ 19 tại Mỹ là Lydia E Pinkham's Vegetable Compound, được quảng bá như một dược phẩm trị "female weakness" (khó chịu khi có kinh). Nhà sản xuất đã "dám" quảng cáo "đây là một khám phá lớn nhất về y học từ khi có lịch sử", gây ra những phản ứng đưa đến việc Chính phủ đặt ra Cơ quan FDA để kiểm soát các "quảng cáo về trị bệnh". Hiện nay trên thị trường các chất hổ trợ dinh dưỡng vẫn còn bán Pinkham's Compound nhưng hợp chất không còn chứa fenugreek.

Tại Ấn độ:

Cây non và lá có mùi thơm được dùng làm rau ăn, hạt dùng làm gia vị chế biến cà ri. Cây và lá tán thành bột, trộn nước lảm thành khối nhão để đắp trị phỏng và đắp trên da đầu để giúp chống bạc tóc. Lá được dùng uống trị ăn không tiêu và bệnh về mật, nước sắc toàn cây dùng trị bệnh huyết trắng. Hạt được dùng cho các sản phụ để tăng sữạ Hạt, sau khi rang chín, tán thành bột, được dùng để trị kiết lỵ, và tại vùng Hymalaya, cho trẻ em dùng để trị sán lải.

Image

Fenugreek dùng làm Rau và Gia vị:

Đọt non của cây được băm vụn, trộn chung vào các món salad. Lá được dùng làm rau. Hạt màu vàng có vị hơi đắng, gần như cần tây và phong (maple). Trong ẩm thực, phương pháp sử dụng hạt tốt nhất là rang khô trước khi dùng để làm mất vị đắng (tuy nhiêng nếu rang quá độ, hạt sẽ mất ngon). Hạt cũng có thể để nẩy mầm như giá đậu, mustard và ăn như salad. Hạt nghiền thành bột là một thành phần quan trọng trong bột càri Ấn độ, trong món halva của người Do thái. Hạt khá cứng, nên không thể tán thành bột bằng cách dùng chày và cối, mà phải dùng đến một máy xay chuyên biệt. Dầu fenugreek có vị của maple, có thể dùng thay maple khi nấu nướng.

Đặc tính dinh dưỡng của hạt fenugreek:
100 gram hạt chứa :
- Calories 323
- Chất đạm 23.00 g
- Chất sơ 10.07 g
- Chất béo 6.41 g
- Calcium 176 mg
- Sắt 33.53 mg
- Magnesium 191 mg
- Phosphorus 296 mg
- Potassium 770 mg
- Sodium 67 mg
- Kẽm 2.5 mg
- Đồng 1.11 mg
- Manganese 1.228 mg
- Thiamine 0.322 mg
- Riboflavine 0.366 mg
- Niacin 1.640 mg
- Folic acid 57 mcg
- Vitamin C 3.00 mg

Fenugreek được dùng trong nhiều món ăn tại nhiều quốc gia khác nhau.

Tại Ấn độ, hạt fenugreek ngoài vai trò trong càri, còn là một trong 3 chất của idli hay dosa (Tamil); là một trong thành phần nguyên liệu để làm loại bánh mì khakhra. Tại Ethiopia và Erythrea, hạt dùng trong bánh mì injera/taita, loại bánh truyền thống của vùng Sừng Phi châu. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, hạt (gọi là ceman) dùng trong bột cay để làm món pastirma.

Tại Ai cập, hạt được đun sôi, thêm đường, để món nước uống rất được ưa thích trong những tháng mùa Đông. Tại những nơi khác trong vùng Trung Đông, fenugreek có mặt trong nhiều món kẹo, bánh, chè ngọt. Món bánh ngọt tráng miệng Helba (bánh phủ đường hay si rô maple, rắc thêm hạt fenugreek trên mặt) rất được ưa thích trong các dịp lễ lạc Hồi giáo. Người Do Thái có phong tục ăn fenugreek trong bữa ăn của đêm thứ nhất hay thứ nhì của lễ Rosh Hashana (Năm Mới).

Tài liệu sử dụng:
Whole Foods Companion (Dianne Onstad)
PDR for Herbal Medicines
Major Herbs of Ayurveda (Elizabeth Williamson)
Cây có Vị thuốc ở Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ)
The Book of Spices (Frederic Rosengarten Jr)
http://www.yduocngaynay.com/8-8TK_TrVHung_fenugreek.htm
Ts Dược Khoa Trần Việt Hưng

(Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com)


METHI SEEDS TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG.

1 muổng nhỏ (muổng cà phê) hột methi seeds cho vào bình thủy nước sôi, (pha như pha trà ) rồi chế ra uống như uống trà cả ngày. Uống hết nước đầu thì chế thêm nước sôi pha lần thứ 2 cho đến khi nào hột methi seeds nhạt hết, không còn mùi vị thì đổ xác đi. Mỗi ngày pha uống 1 muỗng nhỏ thôi. Uống chừng 2, 3 ngày là có kết quả, nhưng vẫn tiếp tục uống như uống nước trà mỗi ngày. Khi nào hết bệnh thì bớt lại pha nửa muỗng methi seeds thôi. Trong thời gian uống nước Methi seeds này, đường có giảm nhưng phải cẩn thận. Vẫn cố gắng kiêng cử và tập thê dục đều.

Image

Note: Các bạn có thể mua hạt methi seeds ở các tiệm Ấn Độ (Indian grocery)

Gửi các bạn đọc thêm tài liệu từ báo Ấn Độ:

Methi seeds help bring down blood glucose level
Anuradha Mascarenhas


nguồn: Thư viện hoa sen
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Mãng cầu xiêm, cây phép lạ chữa ung thư (SOUR SOP TREATS CANCER)

Ban dich của Thảo Vy và Lương Thái Sỹ


Những nghiên cứu về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy đây là công cụ chữa ung thư an toàn, hiệu quả và có sẵn. Nó cũng bảo vệ hệ thống miễn dịch, tránh được một số bệnh truyền nhiễm.

Ngoài việc chống ung thư, nước ép mãng cầu xiêm còn là tác nhân chống vi khuẩn, nhiễm nấm, chống ký sinh trùng đường ruột và giun sán, hạ thấp huyết áp, chống trầm cảm và những rối loạn tinh thần. Những phần khác của cây cũng rất hữu dụng.

Nguy cơ đối với những 'con cá mập dược phẩm '

Theo các kết quả nghiên cứu, nước ép mãng cầu xiêm có thể tầm soát và tiêu diệt có chọn lọc các tế bào ác tính.

Nhưng tại sao đến bây giờ chúng ta mới biết về tác dụng “phép lạ” của mãng cầu xiêm trong phòng chống ung thư? Và đã có bao nhiêu người thiệt mạng oan uổng khi công cụ chống ung thư hiệu quả này bị các công ty dược che giấu?

Mãng cầu xiêm thuộc giống cây thân thấp có tên là Graviola ở Brazil, guanabana trong tiếng tây Ban Nha và Soursop trong tiếng Anh. Quả lớn ngọt, có nhiều hột tách ăn dễ dàng và làm nước ép có mùi vị rất ngon.

Graviola là sản phẩm tự nhiên nên theo luật liên bang Mỹ không cần có bằng sáng chế. Như thế, làm sao nó có thể mang lại lợi nhuận nếu các con cá mập dược phẩm công bố khả năng trị liệu “phép lạ” của mãng cầu xiêm ra thị trường? Họ chờ cho đến khi chiết xuất được dưỡng chất chống ung thư của Graviola và bào chế được loại thuốc chống ung thư bằng thành phần nhân tạo từ chất này, xin bằng sáng chế và thu lợi.

Tiếc thay khả năng chống ung thư của mãng cầu xiêm có ngay trong cây, qủa mà không cần phải chiết xuất gì cả.

Vì vậy để bảo vệ khả năng thu lợi của các loại thuốc chống ung thư có sẵn, cách hay nhất là ém đi những nghiên cứu mang tính “cứu mạng” của mãng cầu xiêm, không công bố nó cho dân chúng.

May mắn, có một nhà khoa học bị lương tâm cắn rứt đã làm lộ câu chuyện về “trái cây phép lạ” cho những người có trọng trách trong y tế Mỹ.

Khi viện Khoa học Y tế Mỹ nghe tin này, nó bắt đầu truy tìm những công trình nghiên cứu chống ung thư liên quan đến cây Graviola lấy từ khu rùng mưa Amazon của Brazil.

Sự thật được phô bày

Năm 1976, Viện Ung thư Quốc gia Mỹ tiến hành cuộc nghiên cứu đầu tiên về loại cây này và kết quả cho thấy, lá và thân của Graviola tiêu diệt hữu hiệu các tế bào ác tính.

Nhưng nghiên cứu vẫn chỉ được lưu hành nội bộ chứ không công bố ra ngoài. Sau đó 20 nghiên cứu độc lập khác của các công ty dược hay viện nghiên cứu ung thư do chính quyền tài trợ đều cho thấy khả năng trị ung thư của Graviola.

Tuy nhiên, vẫn không có ca thử nghiệm nào được tiến hành chính thức tại các bệnh viện. Chỉ đến khi nghiên cứu của Đại học Cơ đốc giáo Hàn Quốc đăng trên tạp san Journal of Natural Products khẳng định một hoá chất trong Graviola đã tiêu diệt các tế nào ung thư ruột nhanh gấp 10.000 lần hoá chất Adriamycin thường dùng trong hoá trị ung thư người ta mới vỡ lẽ : không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc.


Điều quan trọng là không như các hoá chất điều trị ung thư khác, Graviola và nước ép mãng cầu xiêm không hề làm hại gì cho các tế bào khỏe mạnh và không có tác dụng phụ. Người bệnh thấy mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư và các bệnh khác; năng lượng được tăng cường và sống lạc quan hơn.

Một nghiên cứu tại Đại học Purdue University sau đó cũng phát hiện ra lá mãng cầu xiêm có khả năng giết các tế bào ác tính của nhiều loại ung thư khác nhau như ung thư ruột, ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và tuyến tụy.

Bảy năm im lặng bị phá vỡ. Sự thật được phô bày. Hiện mãng cầu xiêm do thổ dân Brazil trồng hoặc sản phẩm bào chế từ nó đã có mặt nhiều ở Mỹ như một công cụ điều trị và ngăn ngừa ung thư.

Một báo cáo đặc biệt có tên Beyond Chemotherapy: New Cancer Killers, Safe as Mother's Milk, do Viện Khoa học Y tế Mỹ công bố về Graviola đã xem loại cây này là “công cụ cách mạng hoá” chống ung thư.

Vì vậy, nếu nhà bạn có vườn rộng và thổ nhưỡng thích hợp, bạn nên trồng một cây mãng cầu xiêm trong sân. Nó sẽ có ích rất nhiều cho bạn và gia đình bạn.
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Image


Phương pháp mới chữa trị đau lưng
(HealthDay News) - Những người bị chứng đau lưng kinh niên có thể giảm đau qua phương pháp trị liệu liên quan đến nhận thức thái độ (cognitive behavioral therapy CBT), một hình thức trị liệu ngắn hạn nhằm thay đổi sự suy nghĩ tiêu cực của người bệnh.

Bệnh đau lưng thấp (lower back pain) kinh niên là một trong ba loại bệnhđau nhức phổ biến nhất trong thế giới kỹ nghệ, theo cuộc nghiên cứu của các khoa học gia Anh. Và thường rất tốn kém khi tìm cách điều trị.

“Ðau lưng thấp là một vấn đề về cơ thể, không phải về tinh thần,” theo một khoa học gia tham dự vào cuộc nghiên cứu. “Chúng tôi dùng một hình thức về tâm lý để để xem có thể điều trị bệnh này hiệu quả hơn nhưng đây không phải là tâm lý trị liệu (psychotherapy),” theo Zara Hansen thuộc trường đại học University of Warwick tại Coventry, Anh.

Trong cuộc nghiên cứu này, hình thức điều trị qua nhận thức thái độ được dùng để giúp bệnh nhân thay đổi cách suy nghĩ về sự đau đớn ở lưng của họ và làm cách nào để đối phó, theo Hansen.

“Ðây là cách tương đối mới để giúp người ta đối phó với bệnh đau kinh niên. Những người bị đau lưng thường xuyên dễ dẫn tới tình trạng lo sợ và trầm cảm, tuy nhiên phương thức này không nhằm giúp trị sự lo sợ và trầm cảm,” bà cho hay.

Trong cuộc nghiên cứu, được đăng tải trong trang mạng của tạp chí y khoa The Lancet, hôm 26 tháng 2, nhóm của bà Hansen lựa theo ngẫu nghiên 701 bệnh nhân có chứng đau lưng thấp để đưa vào điều trị bênh theo cách “cognitive behavioral therapy” (CBT) bên cạnh cách điều trị thông thường hay chỉ có sự điều trị thông thường mà thôi. Cách điều trị thông thường gồm việc chỉ dẫn bệnh nhân tiếp tục hoạt động bình thường và dùng thuốc giảm đau. Những người khác có được sáu buổi trị liệu. Tất cả những người tham dự cuộc nghiên cứu được khám lại một năm sau đó.

Sau một năm, những người theo phương pháp CBT cho thấy cải thiện rõ rệt so với những người điều trị theo phương cách thông thường.

Bà Hansen nói rằng phương pháp CBT cho thấy “nếu chúng ta có những ý nghĩ tiêu cực về tình trạng đau lưng, chúng ta sẽ hành xử hay tìm cách đối phó với nó theo phương cách tiêu cực. Thí dụ, nếu tôi bị đau lưng kinh niên và tôi nghĩ tôi nên tránh những gì đưa đến sự đau đớn thì tôi dần dần sẽ ngày càng ít hoạt động hơn và sức khỏe ngày càng kém hơn, rồi sự yếu đuối cũng như chai cứng do không vậnđộng đến lưng thường xuyên sẽ làm cho sự đau đớn trở nên trầm trọng hơn.”

Ðiều trị theo cách này giúp bệnh nhân nhìn ra vòng luẩn quẩn đó và giúp bệnh nhân hiểu rằng từ từ gia tăng hoạt động của mình sẽ giúp họ giảm bớt được sự chai cứng và yếu ớt của lưng. (V.Giang)
caolynh
Posts: 317
Joined: Wed Dec 17, 2008 7:21 pm
Contact:

Post by caolynh »

Image

Chống ung thư bằng lá đu đủ

MIAMI, Florida (AFP) - Chất chiết xuất từ lá đu đủ và nước trà của nó có những tính năng chống ung thư đáng kể đối với nhiều loại u bướu khác nhau, hỗ trợ một sự tin tưởng phổ biến trong một số các phong tục dân gian, theo một bản nghiên cứu mới công bố.
Bác Sĩ Nam Dang, một nhà nghiên cứu tại đại học University of Florida, và các đồng nghiệp tại Nhật, trong một báo cáo được đăng tải trong số ra ngày 17 tháng 2 của Tạp Chí Dược Lý Dân Tộc (Journal of Ethnopharmacology) , đã dẫn chứng bằng tài liệu hiệu quả chống ung thư của đu đủ đối với các u bướu cổ tử cung, vú, gan, phổi và tụy tạng (pancreas).

Các nhà nghiên cứu sử dụng một chất chiết xuất từ lá đu đủ khô, và các hiệu quả mạnh hơn khi các tế bào nhận được những liều lượng lớn hơn về trà bằng lá đu đủ.

Ông Dang và các khoa học gia khác chứng tỏ rằng chiết xuất lá đu đủ thúc đẩy cơ thể sản xuất ra những phân tử truyền tin then chốt được gọi là các cytokines loại Th1, là các protein giúp điều hợp hệ thống miễn nhiễm.

Ðiều này có thể đưa tới những phương cách trị liệu sử dụng hệ miễn nhiễm để chống những bệnh ung thư, các nhà nghiên cứu nói trong số tháng 2 của tờ tạp chí và được trường đại học công bố hôm Thứ Ba.

Ðu đủ đã được sử dụng như một phương thuốc dân gian cho nhiều thứ bệnh khác nhau tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Á Châu.

Ông Dang nói các kết quả phù hợp với những báo cáo từ những thổ dân ở Úc và tại Việt Nam quê hương của ông.
Các nhà nghiên cứu nói chiết xuất đu đủ không có bất cứ hậu quả độc hại nào cho các tế bào lành mạnh, tránh được một phản ứng thông thường của nhiều cách điều trị ung thư.

Các nhà nghiên cứu đã cho tiếp xúc 10 loại mẻ cấy tế bào ung thư khác nhau với bốn liều chiết xuất lá đu đủ và đo lường hiệu quả sau 24 giờ. Ðu đủ làm chậm sự phát triển các u bướu trong tất cả các mẻ cấy.

Ông Dang và các đồng sự đã nộp đơn xin bằng sáng chế tiến trình chưng cất chiết xuất đu đủ thông qua trường Ðại Học Tokyo. Bước kế tiếp trong cuộc nghiên cứu là xác định các hợp chất đặc biệt trong chiết xuất đu đủ có tác dụng tích cực chống lại các tế bào ung thư. (n.n.)
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Cười mỉm giúp bạn sống thêm 7 năm

Image
Ảnh: The Hindu.
Nụ cười càng rộng và vết nhăn đuôi mắt khi ấy càng sâu thì bạn càng sống lâu hơn, các chuyên gia khẳng định.

Các nhà khoa học từ Đại học Wayne, bang Michigan (Mỹ) đã tìm hiểu 230 bức ảnh của những cầu thủ bóng chày được in trên Danh bạ bóng chày năm 1952.

Danh bạ này liệt kê số liệu về mỗi cá nhân, như ngày sinh, cân nặng, tình trạng hôn nhân, chi tiết công việc.

Nhóm nghiên cứu đánh giá mỗi người theo mức độ mà họ cười: không cười chút nào cả, cười mỉm nửa miệng, hoặc cười mỉm toàn phần (hở răng, má nâng lên và có nếp nhăn quanh mắt).

Sau đó, họ so sánh các bức ảnh này với tuổi thọ của mỗi cầu thủ.

Theo The Hindu, kết quả là, trong số 184 người đã qua đời kể từ đó, những người trong nhóm "không cười" có tuổi thọ trung bình 72.9 năm.

Trong nhóm "cười một nửa", tuổi thọ trung bình là 75. Nhóm có nụ cười rộng nhất sống trung bình tới 79.9 năm - nhiều hơn 7 năm so với nhóm có khuôn mặt lạnh.

Nghiên cứu cũng tìm thấy cười giả vờ không mang lại lợi ích tương tự, vì tuổi thọ tăng thêm chỉ được ghi nhận ở những cầu thủ có nụ cười thật - khi cả cơ mắt và miệng cùng cử động.

T. An
caubennoc
Posts: 534
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Post by caubennoc »

Những cách giải rượu đơn giản
Bs. Hoàng Thanh


Khi có người say rượu, chúng ta cần tìm cách để đưa họ nhanh chóng trở về trạng thái bình thường và dự phòng các biến chứng.
Dưới đây là một số phương cách đơn giản để bạn đọc vận dụng:

Dùng thuốc

Trước hết, cần cho người say uống một lượng nước ít nhất cũng bằng lượng rượu uống vào để pha loãng nồng độ rượu trong cơ thể và giúp cho quá trình đào thải rượu được nhanh chóng và thuận lợi. Sau đó, tùy theo điều kiện cụ thể để dùng một trong những bài thuốc sau đây:

Bài 1: Chanh tươi 1 quả, vắt lấy nước cho uống hoặc thái mỏng cho ăn luôn cả quả càng tốt.

Bài 2: Lá dong (hay được dùng để gói bánh chưng) 100 – 200 g rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cho uống.

Bài 3: Vỏ quýt phơi khô (loại để càng lâu năm càng tốt) 30 g sao thơm tán vụn, mơ chua 2 quả bỏ hột thái vụn. Hai vị đem sắc nhỏ lửa với 360 ml nước, sau 30 phút lọc bỏ bã lấy nước cho uống. Nếu có thêm một chút nước gừng tươi hoặc trà thì càng hay.

Bài 4: Vỏ cam 60 g, rửa sạch, sấy khô, tán bột, cho uống 6 g với nước ấm, nếu chưa công hiệu thì cho uống thêm một vài lần nữa.

Bài 5: Trà diệp 1 nắm, đậu xanh 60 g đập vụn, lá long não 10 g. Tất cả đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, chia uống vài lần.

Bài 6: Trà búp 5 g, quất khô (có thể dùng mứt quất hoặc quất tươi) 16 g thái vụn. Hai thứ đem hãm với nước sôi, uống đặc.

Bài 7: Trà búp 9 g, cà rốt tươi 60 g, vỏ bí xanh 15 g. Ba vị sắc uống.

Bài 8: Quả cau tươi bỏ vỏ xanh và hạt 50 g, cam thảo 12 g (nửa để sống, nửa sao muối). Tất cả đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, chia uống vài lần.

Bài 9: Hoa sắn dây (nếu không có thì dùng củ sắn dây thay thế) 10 g, sắc uống. Cũng có thể hãm cùng trà búp 5 g, đậu xanh 10 g với nước sôi, chia uống vài lần.

Bài 10: Vỏ quả chanh 50 g, vỏ quả quýt 50 g, hoa sắn dây 25 g, hoa đậu xanh 25 g, nhân sâm 10 g, nhục đậu khấu 10 g, muối ăn 30 g. Các vị sấy khô, nghiền thành bột, đựng trong bình kín để dùng dần. Khi say rượu, lấy 5 – 7 g pha nước uống, mỗi ngày 3 lần.

Xoa bóp bấm huyệt

Trước hết, day bấm huyệt yêu nhãn từ 3 - 5 phút. Vị trí huyệt yêu nhãn: giơ cao tay người bị say và nghiêng mình đi một chút, chỗ lõm hai bên thắt lưng (tương ứng với đốt sống thắt lưng 4) hiện rõ, huyệt nằm ở giữa đáy lõm từ mõm gai đốt sống thắt lưng thứ 4 đo ngang ra 3,8 tấc. Tiếp theo, day bấm huyệt thái xung từ 3 - 5 phút.

Vị trí huyệt thái xung: ép ngón chân cái vào ngón thứ hai, huyệt nằm ở mu bàn chân, đo từ đầu kẽ hai ngón chân lên 2 tấc. Cũng có thể xác định bằng cách lấy huyệt ở điểm giữa đường nối đầu ngón chân cái với nếp gấp ngang cổ chân.

Cuối cùng: xoa xát toàn bộ mu bàn chân. Nếu người say có thể đứng dậy được thì cho đứng tựa vào tường rồi dùng gót chân này giẫm mạnh và xoa mu bàn chân kia rồi làm ngược lại từ 5 - 6 phút.

Liệu pháp xoa bóp trên đây cũng có thể áp dụng cho những người sau khi uống rượu cảm thấy mình mẩy nặng nề, đau đầu chóng mặt, nói năng không được lưu loát.

Các biện pháp giải rượu đã nêu đều khá đơn giản, dễ làm, tuy nhiên với trường hợp quá say đến mức ngộ độc nặng thì nhất thiết phải đưa tới cơ sở y tế để cấp cứu kịp thời.

Bs. Hoàng Thanh
hoanghoa
Posts: 2256
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »


Image


DINH DƯỠNG Ở TUỔI GIÀ
Hỏi rằng có một công thức dinh dưỡng nào toàn hảo cho tuổi thọ trường sinh, thì câu trả lời là không có. Nhưng những lời khuyên thực tế sẽ là: thực phẩm phải đa dạng, phẩm chất dinh dưỡng cao và các chất dinh dưỡng phải cân bằng.

Tại sao lại có chuyện đa dạng, cân bằng, dinh dưỡng cao?

Thưa lý do là vì ngoài các chất dinh dưỡng chung thì mỗi loại thực phẩm lại có những chất mà chỉ riêng mình mới có. Cho nên, bữa ăn cần phải có nhiều món ăn khác nhau. Chẳng hạn ta chỉ ăn thịt cá mà quên món rau tươi xanh, thì là điều thiếu sót rất đáng trách vì thịt cá không có chất xơ của rau. Mà chất xơ lại rất cần cho cơ thể.

Đa dạng nhưng không “hổ lốn”, hỗn độn, nhất bên trọng, nhất bên khinh mà cần theo một lỷ lệ đã được nghiên cứu chỉ định. Đó là sự cân bằng giữa các loại thực phẩm. Thông thường các nhà dinh dưỡng khuyến cáo nên dùng từ 45-55% chất carbohydrate từ cơm, gạo, mì, rau trái, 25-30% chất béo và phần còn lại là chất đạm thịt cá, các loại hạt.

Và món ăn phải có giá trị dinh dưỡng cao, tức là có đủ các chất mà cơ thể cần để hoạt động, để tái tạo tế bào hư hao, để trẻ thơ tăng trưởng. Các thực phẩm như đường tinh chế, rượu chỉ cho calori mà không cho chất dinh dưỡng, cho nên nếu tiêu thụ nhiều chỉ làm cho cơ thể phì lộn, béo bệu.

Dù ở tuổi già, nhưng quý lão niên vẫn cần năng lượng để làm việc, để duy trì sức khỏe tuổi cao đồng thời, nếu dinh dưỡng tốt, cũng có thể phòng tránh được một số bệnh như bệnh loãng xương, bệnh tim, bệnh cao huyết áp, thiếu hồng cầu, sa sút trí tuệ Alzheimer và vài loại ung thư. Chẳng may mà cụ nào đang mắc một vài trong các bệnh vừa kế thì dinh dưỡng đúng cách cũng khiến cho bệnh nhẹ nhàng, hồi phục mau hơn.

Về số lượng chắc chắn là nhu cầu của quý cụ sẽ ít hơn là khi còn trung niên trai tráng, vì bây giờ đâu còn phải lao động chân tay cật lực. Do đó quý cụ vẫn cần các chất dinh dưỡng chính như mọi người. Đó là chất carbohyrat (chất bột, đường), chất dạm, chất béo, vitamin, khoáng chất và nước.

Con người, nói chung, không giống các sinh vật khác ở chỗ là ta không phải di chuyển để lùng kiếm thức ăn hay e ngại không kiếm đủ thức ăn. Mà ta lại có mối lo là làm sao không chỉ-ngồi-đó-mà-ăn hoặc ăn-quá-nhiều. Lý do là tại nhiều quốc gia, thực phẩm quá dư, chỉ muốn ăn gì và có tiền là xong. Nhưng ăn nhiều mà không vận động, tiêu dùng thì thật là nguy hiểm.

Sau đây là một số điều cần làm để có dinh dưỡng tốt cho tuổi già:

1- Biết lựa thức ăn thích hợp.

Tại Hoa kỳ, năm 1990 một đạo luật liên hệ tới việc liệt kê phẩm chất, thành phần của thức ăn đã được ban hành với mục đích để giới tiêu thụ dễ chọn lựa thức ăn thích hợp với nhu cầu của mình. Các quốc gia khác cũng phụ họa, làm theo.

Nhãn hiệu (Food label) đó không hoàn toàn đáng tin cậy, nhưng ít nhất cũng có giá tri hướng dẫn. Ta nên coi kỹ bảng phân tích này để lựa thức ăn thích hợp với cơ thể của mình.

2- Khi nào thì ăn?

Tất nhiên sẽ có câu trả lời: Thấy đói là ăn. Vậy khi nào thì đói, đói bụng hay đói con mắt? Laị nữa: ăn để sống hay sống để ăn?.

Người phương Tây có thói quen: ăn bữa sáng bữa trưa nhe, bữa tối thịnh soạn. Kể ra cũng tiện, vì sáng dậy vội vã đi làm, chỉ đủ thì giờ để chiêu một ly cà phê.

Trưa ngồi ở sở vừa làm việc vừa nhai miếng bánh mì kẹp chả mới làm tối hôm qua, kèm theo quả chuối, ly coke.

Tối về rảnh rang, làm một bữa cơm rượu no nê, rồi lên giường ngủ.

Thế là cholesterol trong máu tăng cao, những tảng mỡ không mời mà ngang nhiên xâm lấn vùng bụng, vùng hông.

Từ hơn ba chục năm trước, tại viện Đaị Học Chicago, nhà dinh dưỡng Clarence Cohln đã chứng minh rằng những người ăn một bữa no mỗi ngày thì cholesterol sẽ cao hơn những người nhâm nhi nhiều lần trong ngày. Ðây có lẽ cũng là lý do mà cholesterol ở nữ giới, lúc thiếu thời, thấp hơn ở nam giới, vì quý bà hay ăn quà vặt. Còn quý ông thì nhồi nhét một bữa cho xong.

Ăn một bữa no cũng bắt buộc sự biến hóa thực phẩm phải làm việc qúa sức, vị tố tiêu hóa, nhất là Insulin, phải tiết ra nhiều trong một thời gian qúa ngắn, đôi khi có khuyết điểm.

Tốt hơn hết là tuổi già cứ nhâm nhi, chia phần ăn ra nhiều phần nhỏ rồi ăn lai rai nhiều lần trong ngày.

3- Hỏi rằng ăn bao nhiêu cho đủ?

Xin thưa là các cụ Á đông ta quan niệm để sống lâu chỉ nên ăn” ba phần đói, bẩy phần no”. Để còn hơi thòm thèm, sau này còn muốn ăn món đó nữa và cũng để tránh ăn quá nhiều.

Các nhà dinh dưỡng lại khoa học hơn. Họ khuyên:

- Nam giới trên 50 tuổi tiêu thụ khoảng 2000 calo nếu ít hoạt động, 2200-2400 calori nếu hoạt động vừa phải và nếu còn rất hoạt động lại cần nhiều hơn: 2400-2800 calo mỗi ngày.

Với nữ giới thì theo thứ tự như trên sẽ là 1600 calori, 1800 calori và từ 2000-2200 calori.

4- Làm sao để ăn ngon?

Ăn uống đứng đầu tứ khoái (ăn, ngủ, sinh lý, “đổng ìa”). Nhưng nhiều vị cao niên lại chẳng muốn ăn hoặc thấy món ăn nhạt tuếch, vô vị. Trở ngại này có thể là vì răng không còn nhiều, lợi viêm sưng, nhai nuốt khó khăn, nước miếng giảm hoặc đang uống nhiều dược phẩm trị bệnh làm giảm khẩu vị; hoặc cô đơn lủi thủi ăn uống một mình.

Hãy thổ lộ với các nhà chuyên môn dinh dưỡng, y tế để cùng nhau giải quyết.

Lựa nấu món ăn ưa thích, cho thêm chút gia vị mầu mè để món ăn hấp dẫn hơn. Và cũng tìm thêm bạn để đồng thực, đồng ẩm.

5- Giới hạn thực phẩm có nhiều chất béo nhất là mỡ động vật.

Chất béo bão hòa làm tăng cholesterol trong máu. Chất béo từ thực vật, bất bão hòa, làm giảm cholesterol.

Giản dị nhất là ăn thịt nạc, thịt gà, vịt bỏ lớp da đầy mỡ; hấp hay nướng nhiều hơn là chiên; thay thịt bằng cá, rau, trái cây; uống sữa ít chất béo.

6- Ăn thực phẩm có nhiều rau, trái cây hạt ngũ cốc

Các thực phẩm này tương đối vừa rẻ lại tốt lành và cũng có nhiều năng lượng.

Các nhà dinh dưỡng khuyên nên dùng 5 đơn vị trái cây và rau mỗi ngày, 6 tới 11 đơn vị hạt ngũ cốc. Mỗi đơn vị là lượng thức ăn mà ta thường dùng như là một bát cơm, một quả táo cỡ trung.

Nên nhớ là trên thế giới có cả hàng trăm triệu người ăn chay mà họ vẫn sống lâu. Như vậy ăn chay chắc phải có một gía trị dinh dưỡng nào đó.

Lại nữa: phần ăn của các lực sĩ vô địch trước khi tranh giải đều có nhiều carbohydrat, là một lý do để ta tăng số lượng rau và trái cây trong bếp và trên bàn ăn của chúng ta .

7- Một vài ý kiến về chất đạm protein

Cơ thể được cấu tạo bằng chất đạm. Chất này có nhiều nhất trong thịt động vật nhưng cũng có trong thảo mộc, nhất là các cây thuộc họ đậu như đậu hoà lan, đậu cô ve, đậu nành.

Khoa học đã chứng minh là một khẩu phần có nhiều thịt động vật làm tăng hiểm họa bệnh tim.

Do đó, tới tuổi cao, nên theo một chế độ thực phẩm với thịt nạc, sữa ít chất béo, nhiều rau, trái cây.

8- Nước và muối cũng cần được lưu ý

Trong cơ thể, tỷ lệ nước lên đến 60% trọng lượng, mỗi ngày thận lọc gần hai trăm lít máu và thải ra1/100 dung dịch nước. Như vậy cơ thể cần có một số nước tối thiểu để tồn tại. Trung bình, cần uống 1 lít rưỡi nước mỗi ngày, và uống thêm khi nào thấy cần để tránh tình trạng khô nước hay loãng tiểu.

Nước không có calories, không có khoáng chất, đôi khi không mất tiền mua lại còn là chất bôi- trơn (lubricant) tốt cho cơ thể.

Với muối, chỉ cần một phần tư thìa cà phê mỗi ngày là đủ. Dân chúng dùng nhiều muối, như người Nhật, thường có nhiều nguy cơ cao huyết áp.

9- Tăng tiêu thụ chất xơ

Gần đây, chất xơ (fiber) trong rau và trái cây được nhắc nhở tới nhiều vì có công dụng trong việc hạ thấp lượng cholesterol trong máu, tăng tốc độ di chuyển của thức ăn trong ruột, tránh táo bón và viêm ruột.

Chất xơ không có giá trị dinh dưỡng mà chỉ làm đầy bao tử, cho nên còn có tác dụng giúp ta giảm béo mập...

10- Dùng bổ sung sinh tố và khoáng chất

Các vi chất này có tác dụng xúc tác trong việc chuyển hóa thức ăn và có nhiều trong các loại thực phẩm. Tuy nhiên, ở người cao tuổi, khẩu phần nhiều khi không được cân bằng và có thể thiếu một vài loại sinh tố, khoáng chất. Vì vậy nên dùng thêm một phân lượng phụ trội.

Kết luận

Để sống già sống khỏe, cần có dinh dưỡng đầy đủ, cân bằng, đa dạng.

Hãy tiêu thụ nhiều loại thực phẩm khác nhau.

Hãy giới hạn các thực phẩm “rỗng”, chỉ có calori mà không có chất dinh dưỡng, như rượu, nước có hơi, bánh ngọt.

Hãy lựa thực phẩm có ít cholesterol, chất béo.

Và phòng tránh ngộ độc, tiêu chẩy với vệ sinh an toàn thực phẩm. Ăn chín, uống sôi, rau trái sạch, rửa tay thường xuyên.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ.
dailien
Posts: 2454
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »


Image

Phòng Bệnh Alzheimer

Nguyễn Minh Tâm
dịch theo S.F Examiner
Sáu Bước Đơn Giản
Để Giữ Đầu Óc Minh Mẫn


Phúc trình mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements) , hay thuốc chữa bệnh không giúp gì được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng phải, giống như trường hợp của cựu Tổng thống Ronald Reagan.

Nhưng nếu chúng ta đọc thật kỹ phúc trình của chính phủ, để ý đến những dòng chữ nhỏ, chúng ta sẽ tìm thấy được nhiều thông tín hữu ích trong việc gìn giữ những tế bào chất xám trong đầu không bị lão hoá.

Sự thực được báo cáo này đưa ra cho chúng ta thấy là không có hồ sơ chứng liệu nào cho biết thuốc chữa bệnh, hay thuốc bổ đem lại ích lợi cho việc chống lại căn bệnh quái ác này. Nhưng ngược lại, phúc trình đó lại đưa ra những bằng chứng rõ ràng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên não dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.

Bản phúc trình không gỉai thích vì sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rõ: Không phải mọi hiện tượng mất dần trí nhớ- dementia- đều trở thành bệnh Alzheimer. Nhưng đầu óc của chúng ta trở nên cùn lụt khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau. Yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, vì mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia..Trong cả hai trường hợp đều khiến cho trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ của chúng ta trở nên loạng quạng (fuzzy), hậu quả bởi việc óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).

Nhiều bệnh nhân của căn bệnh Alzheimer không ít thì nhiều đều vướng phải tình trạng vascular dementia. Những trở ngại khi suy nghĩ mà các cụ già gặp phải phần lớn vì máu không đưa lên đầu dễ dàng. Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên não bộ đuợc thông tuông dễ dàng.

Phòng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những gì để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng.

Mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10,000 bước đi: Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc. Phân bón tự nhiên cho não bộ chính là máu đưa lên đầu. Mỗi ngày ráng bước đi khoảng 10,000 buớc chân, bằng cách này hay cách khác để máu từ tim đi lên đầu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít nhất ba lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer . Bạn có thể làm một trong những hoạt động sau đây tùy theo sở thích của mình: Đi bộ, Làm Vườn, hay Khiêu vũ.

Ăn thục đơn có nhiều rau và hoa quả như người Hy Lạp: Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất “flovonoids” giúp tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu nhóm đàn ông đàn bà thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất flovonoids . Họ thường có não bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi. Và sự suy sụp cuả não bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76% bệnh lú lẫn, hay mỗi ngày uống khoảng 900 mg thuốc bổ để thay thế rau, sẽ giúp tăng sự bén nhậy của trí óc, và giúp trẻ thêm được khoảng 3.5 tuổi.

Hay ăn thực đơn của dân Điạ Trung Hải: ăn uống hàng ngày giống thực đơn của người Ý và người Hy Lạp, gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt.

Ăn theo kiểu dân Điạ Trung Hải sẽ giúp đầu óc minh mẫn sáng suốt tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48% .

Cương quyết từ bỏ những thói hư, tật xấu như hút thuốc lá, và nghiện rượu. Thuốc lá chứa độc tố rất hại cho não bộ, vì thế người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80%

Đừng uống rượu mạnh quá độ. Đa số những người nghiện rượu đều vướng vào bệnh Alzheimer. Đàn bà chỉ nên uống rượu tối đa mỗi ngày một ly thôi. Đàn ông đuợc uống tới hai ly. Uống một chút rượu có lợi cho việc gìn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25% người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu.

Ráng duy trì huyết áp ổn định ở mức thấp: Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính vì vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50% trường hợp gây ra lú lẫn, hư trí nhớ. Chúng ta hãy ráng duy trì huyết áp ở mức thấp – lý tưởng là 115/75 - bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, giữ trọng lượng thân thể thấp, đừng để lên cân, béo mập. Nên theo dõi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường, hay thậm chí sắp sửa bị tiểu đường cũng là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, gây ra bệnh lú lẫn. Bệnh tiểu đường dễ làm các mạch máu nhỏ bị hở, và chảy máu trong não.

Tránh đừng để bụng phệ: Vòng bụng ở tuổi trung niên to báo hiệu trước có thể bị vướng bệnh lú lẫn khi về già. Cuộc nghiên cứu theo dõi 6,000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. Vì thế cho nên chúng ta nên cố gắng duy trì vòng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông.

Chỉ có một bộ phận nên gìn giữ cho to lớn. Đó chính là não bộ của bạn.

Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen
Nguyễn Minh Tâm dịch theo S.F Examiner ngày 1/6/10
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest