Thủ Đức Gọi Ta Về

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Thủ Đức Gọi Ta Về

Post by tranphuongdong »

Gặp hai ông tướng Thủ Ðức tại New York

Trần Hoài Thư

...Như vậy tôi không có một nơi để đốt lại những sợi khói hoài niệm. Nhưng tôi vẫn về cùng Nữu Ước vào những ngày cuối tuần, dù đôi lần, xe tôi phải bị kẹt hàng giờ trên khúc đường Canal dẫn vào khu Phố Tàu, hình như không còn một lối thoát. Tôi đã tự nhủ lòng đừng đi Nữu Ước nữa. Tôi không đủ kiên nhẫn nhích xe từng bước, giữa muôn ngàn âm thanh hỗn lộn từ còi xe đến còi hụ, từ chiếc xe sang lane này, đến chiếc xe sang lane khác. Còn nữa. Còn cả đám người đi băng qua đường như lao vào đầu xe, hay những anh chàng lái tắc xi vàng chạy ẩu. Có một điều gì kỳ bí thôi thúc tôi trở lại. Về lại tiệm sách, bước lại vỉa hè, hòa nhập vào cùng cuộc vui khiêu vũ...

Cho đến một ngày tôi không còn dám bỏ xe đậu đại tại khu Tòa Án nữa. Tấm giấy phút đậu trái phép để nằm trên kính xe. Chiếu luật 45, hay 46 gì đó, tiền nộp phạt 60 đô la. Muốn khiếu nại thì điền đơn gởi về địa chỉ... Tôi chửi thề. Phạt gì mà phạt tàn bạo. Ở quận tôi ở, tiền phạt chỉ tối đa là 10 đồng là cùng. Có lẽ chỉ có một nơi trên quả đất này Nữu Ước cái gì cũng nhất. Từ những building chọc trời, những con đường không bao giờ ngớt xe, những bảo tàng viện nghệ thuật, những vở nhạc kịch được trình diễn từ năm này qua năm khác, đến tội ác và cả tiền phạt...

Thằng bạn làm chung một nhóm đã cười khi nghe tôi kể lại cái số tiền khủng khiếp mà tôi phải trả. Hắn giải thích dùm tôi: " Ông biết tại sao không? Tui đám phạt là đám thầu, chẳng phải cảnh sát như ông tưởng. Chúng nó phạt càng nhiều thì lấy hoa hồng càng nhiều. Nhiều khi không lỗi chúng cũng gắn lên cái windshield cái vé phạt. Ông khiếu nại à? Thì giờ đâu ông đi khiếu nại. Muốn ra toà ông phải bỏ một ngày làm việc. Ðó là không kể tiền ông phải trả cho luật sư..."

Lời giải thích đã làm một tay bất cần như tôi phải chùng lòng.


Tôi kêu Oanh đi cùng. Và chúng tôi thay phiên nhau canh chừng mấy ông mấy bà tuần cảnh. Tôi để nàng đi mua sắm. Sau đó, đợi nàng về, tôi bắt đầu lê la. Dù không còn được dịp ngồi lại đốt thuốc hàng giờ trong quán cà phê mà mơ mộng nữa. Một ngày, tôi gặp hai người đàn ông ở một công viên bên Tòa Án. Một người dáng thấp và nặng nề. Người kia cao hơn với thân hình cân đối. Hai chiếc áo quân đội bạc màu dơ bẩn đủ cho tôi biết họ là những người homeless thường thấy tại các nơi công cộng như bến xe lửa hoặc công viên. Có điều khác biệt với những người tôi hằng gặp - da trắng hoặc da đen- họ là người Á Châu. Có lẽ họ là người Tàu cũng nên. Nhưng còn hai chiếc áo nhà binh ở trên mình họ ? Hai chiếc áo 4 túi của một thời nào mà tôi đã từng khoác gần suốt tám năm trời làm tôi hơi phân vân. Có lẽ họ xin ở đâu đó, từ một cơ quan từ thiện, hoặc cũng có lẽ là những người cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam nay bị ruồng bỏ. Hoặc cũng có lẽ họ là những tay nghiện rượu và mấy cái túi áo rộng thùng thình là chỗ chứa lý tưởng nhất tránh những cặp mắt của các thầy cảnh sát. Sau đó tôi chẳng còn để ý gì đến hai người ấy nữa. Mắt tôi còn phải láo liên nhìn trước nhìn sau. Cái giấy phạt 60 đô la vẫn còn là ám ảnh.

Chợt một lúc nào đó, tôi thấy hai người đàn ông đứng dậy. Họ cúi đầu cùng đi chung quanh cột cờ giữa công viên. Họ đi thật bình thản, và quá ung dung. Tôi không thể tìm một dấu hiệu gì của một con người không nhà không cửa mà tôi hằng gặp. Tôi lại nhận đôi mắt sưng húp của hai người. Và có cả dấu hiệu quân đoàn IV đen mờ trên cánh tay áo. Có ngọn gió nào làm da thịt tôi phải nổi gai ốc. Hình như tôi đã có lần thấy họ, cũng từng đi cạnh nhau như thế.

...Căn phòng chỉ còn lại một màu tối thẩm bao trùm. Nếu không có tiếng kêu rè rè của những chiếc máy truyền tin, và những ánh đèn chớp xanh đỏ liên hồi cùng chút nắng chiều hắt vào cửa sổ, thì nó chẳng khác gì ngôi nhà mồ. Những tín hiệu cứ tiếp tục đánh về. Những bức công điện màu vàng thi nhau nhả xuống thềm dồn dập những lời kêu cưú, những chờ-lệnh, những tuyệt vọng, những chiến thắng... "Xin thêm máy bay yểm trợ. Xin pháo binh tầm đạn xa... Báo cáo tiểu doàn đã chiếm được mục tiêu... Báo cáo tịch thu súng phòng không..." Bao ngày nay, tôi đã lắng nghe những tín hiệu, mà rưng nước mắt. Là một phóng viên chiến trường tôi đã có dịp gặp nhiều phóng viên ngọai quốc. Họ đều cảnh cáo tôi về những ngày sắp đến. Quốc hội Mỹ đã giảm viện trợ tối đa. Dân chúng Mỹ theo những cuộc trưng cầu dân ý đã bắt đầu không tin chính quyền Mỹ về chiến tranh VN. Mỹ trước sau cũng bỏ rơi Việt Nam. Họ khuyên tôi nên tìm cách mang cả gia đình lên Saigòn hay ra Phú Quốc, để có cơ hội lên máy bay. Lúc ấy cao nguyên đã bị thất thủ. Dù vậy, miền Tây vẫn yên tĩnh, chẳng có dấu hiệu gì cho một cuộc chuyển quân cấp binh đoàn từ bên kia biên giới. Ông Tư Lệnh vẫn bay thị sát mặt trận suốt ngày trên trực thăng. Ðài phát thanh và truyền hình vẫn tiếp tục loan đi những tin tức từ mặt trận, bằng những trận đụng độ lẻ tẻ tại vùng Ðồng tháp Mười, hay biên giới Miên Việt. Quốc lộ 4, quốc lộ huyết mạch mang lúa gạo cung cấp cho Saigòn vẫn an toàn. Sư Ðoàn 7 đã tang viện thêm một trung đoàn về Cái Bè Cai Lậy. Không ai biết được nỗi yên tĩnh này bao lâu. Qua những tín hiệu buồn thảm từ các quân khu khác, người ta nghĩ đến một con bệnh đang hấp hối.

Ngày 20 tháng tư, 1975,

Văn phòng Tư Lệnh gọi qua phòng thông tin và báo chí cho biết ông Tư Lệnh cần gặp các sĩ quan của phòng. Ðiều này làm mọi người kinh ngạc. Bởi vì từ trước đến nay ông chưa bao giờ nhắc nhở gì đến báo chí. Ông cũng chưa bao giờ tiếp kiến bất cứ một phóng viên ngoại quốc nào. Nhiều người cho rằng ông có cái mặc cảm về khoa ăn nói. Nhiều người nghĩ tại ông là một vị tướng lãnh hơn là nhà chính trị. Không ai biết một ngày họ được đứng trước lá cờ hai ngôi sao trắng. Bên cạnh ông là ông Tư Lệnh Phó. Và ông Tư Lệnh nói. Giọng Huế nặng và khó nghe. Ông muốn những người đang ở trước mặt ông phải tìm mọi cách nói lên một miền Tây an toàn. Một miền Tây của niềm hy vọng chớ không phải tuyệt vọng, hấp hối. Nỗi chua xót đã thấy rỏ ở trong đôi mắt. Thì ra ông đã hiểu về cái khốc hại khi người ta mất niềm tin. Ông đặt tin cậy lên chúng tôi, may ra mang niềm tin về lại triệu triệu người tuyệt vọng, trong khi những bản tin bi quan cứ tiếp tục phát thanh từ các đài ngoại quốc. Trong khi vợ con sĩ quan không quân, hải quân được bí mật chuyển đến các khu an toàn. "Các em phải tìm mọi cách để mang niềm tin về lại đồng bào." Ông nói chậm và giọng quá buồn. "Các em cứ vào trung tâm hành quân. Tin tức ở đấy trung thực nhất."

Nhưng con bệnh đã hết thuốc chữa. Dù lời phê bắn bỏ của ông tư lệnh phó trên tấm công điện đánh về trung tâm hành quân quân đoàn báo cáo có một tàu hải quân bỏ chạy ra hướng cửa biển, mà sau này người ta được biết trên tàu gồm tướng Tham mưu trưởng, cũng như Ðại Tá Tỉnh Trưởng. Những báo cáo bị át bởi tiếng thở hổn hển từ người lính truyền tin phải làm việc quá nhiều: Máy bay lạ xuất hiện ở Phong Ðiền, Phụng Hiệp. Máy bay gì, ai cũng hiểu về những chiếc phi cơ hốt hoảng rời khỏi phi đạo. Nhưng cũng giữa muôn ngàn âm thanh ảm đạm ấy, là tin một chiếc phản lực bị bắn rơi trên vùng giáp ranh Ðịnh Tường, Mỷ Tho và những khẩn cầu tiếp viện hay những tin chiến thắng.

30 tháng Tư, 75. Buổi trưa, 3 giờ.

Văn phòng thông tin quân đoàn nhận lệnh đọc thông cáo đầu hàng.

30 Tháng Tư, 75. Buổi chiều.

Ông Tư lệnh lên xe Jeep chạy về quân y viện Phan thanh Giản. Ðằng sau xe chỉ có một người lính gốc Miên đen đúa cầm khẩu M16. Ông đi đến từng giường thăm hỏi thương binh. Người lính cụt một chân, còn băng khúc đùi, rán đưa tay chào ông. Ông dừng lại. Cặp kính đen che đôi mắt, không hiểu ông có khóc hay không.

30 tháng Tư, 75. Hoàng hôn.

Trời vẫn còn đủ sáng để thấy ông Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó chắp hai tay sau đít, đi bách bộ quanh cột cờ. Hai vai cúi xuống. Lần này ông Tư Lệnh không còn mang cặp kính đen quen thuộc nữa. Ðôi mắt hai người sưng húp. Tuy nhiên, họ vẫn cười, dáng bình thản lạ lùng.

Cả bộ chỉ huy quân đoàn vắng hoe. Thông cáo đầu hàng đã được đọc trên đài phát thanh và đài truyền hiình. Ngoài đại lộ Hoà Bình, thỉnh thoảng vài chiếc xe quân đội chạy vút qua trên mặt lộ vắng tanh. Người lính Quân cảnh vẫn còn đứng gác ngoài cổng. Người tài xế già và người lính hộ vệ đen đúa vẫn còn ngồi trên bực tam cấp hút thuốc.

...Tôi muốn bỏ xe chạy lại công viên. Rỏ ràng tôi gặp lại hai ông Tướng cũ. Nhưng con mẹ tuần cảnh đã hiện ở đầu đường, cắm cúi ghi ghi chép chép. Tôi rồ lại máy. Ðường lại một chiều. Tôi chỉ biết nối đuôi theo giòng xe cộ. Ðến đầu đường Canal cả đoàn xe bị kẹt. Trăm ngàn xe thi nhau bóp còi. Không còn ai nhường nhịn ai. Rồi chửi thề. Rồi văng tục. Ðầu óc tôi muốn nổ bùng. Từ hình ảnh hai ông tướng cũ. Từ đoàn xe hình như bám cứng không chịu nhúc nhích.

Khi trở lại công viên,thì đèn đường đã sáng. Oanh chờ bên một lô thực phẩm. Tôi thì bỏ mặc nàng nhảy ra khỏi xe, chạy mau vào công viên. Nhưng hai người đàn ông ấy đã không còn ở đấy nữa. Tôi trở lại xe. Oanh hỏi anh có chuyện gì xảy ra mà chạy như ma rượt? Tôi nói. Anh vừa thấy hai ông Tướng Tư Lệnh và Tư Lệnh phó. Rỏ ràng là hai ổng. Mắt hai ổng sưng vù. Có cả huy hiệu Quân Ðoàn 4. Và tôi lấy bàn tay quơ quơ trước mặt tôi. Anh bị ai nhập rồi.

Hôm ấy là ngày thứ bảy. Tôi lại lái xe về Chinatown. Vẫn một chỗ ngồi trong xe để nhìn những con bồ câu rạp cánh trên công viên, những đứa bé nô đùa cùng những người đàn ông đang ngồi bu quanh bàn cờ tướng. Ngoài hàng rào sắt sơn đen là vài người đàn bà Tàu đang ngồi xem bói. Buổi chiều 30 tháng tư, tôi vẫn còn nhớ. Thì hai người cũ lại hiện ra, vẫn cái dáng đi hơi khom xuống đất, vẫn hai chiếc áo cũ màu xanh ô liu, trên vai là huy hiệu QÐ 4. Tôi bỏ xe chạy vào công viên, miệng lập cập nói: Thưa thiếu tướng, thưa chuẩn tướng. Tôi là sĩ quan báo chí của quân đoàn 4. Mắt tôi nhòa nhạt. Ông Tư Lệnh lặng yên nhìn tôi. Gương mặt ông vẫn còn trầm mặc như lúc ông ngồi trên trực thăng, nhìn xuống chiến trường, hay những lần ông ngồi yên lặng trên chiếc ghế bành trong dinh tỉnh trưởng bên chiếc dĩa đựng những trái bắp luộc.


Ông Tư lệnh phó nói:

- Ta nhớ chú em rồi. Ngày xưa chú em cũng đã từng bay chung với ta mà.

- Thưa chuẩn tướng, ở mặt trận Mộc Hóa Kiến Tường. Tôi cũng đã từng bay với Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi nhớ buổi trưa Thiếu Tướng ghé dinh Tỉnh Trưởng ăn trưa với những trái bắp luộc... Thưa Thiếu Tướng, tôi nhớ chiếc trực thăng Mỹ bay cả buổi trên dinh Tư lệnh.

Bây giờ ông Tư lệnh mới nói:

- Viên lãnh sự Mỹ đã chờ ta. Ông ta dù sao cũng là người tốt. Ông không bỏ ta vào giờ phút cuối. Nhưng ta làm sao mà can đảm bỏ đi. Ta nhắc lại cho chú em. Con người phải sống cho đúng đạo làm người. Ta ở trong quân đội ta phải tuân phục quân đội, nghĩa là thượng cấp. Ta là tướng ta phải làm tròn bổn phận tướng. Ta là tín đồ ta phải làm tròn những điều răn dạy dành cho tín đồ.

- Buổi chiều cuối cùng, tôi thấy thiếu tướng lên xe về quân y viện Phan thanh Giản.

- Phải. Cả cuộc đời ta vui buồn với họ, chết sống với họ, làm sao ta quên được. Ta không biết sau khi ta bỏ họ đi, họ còn nơi nương tựa nữa không. Ta đã đến bên giường họ, họ đã nắm tay ta, khóc với ta. Họ không thể đi được. Nếu họ có thể đi, thì họ đã đi rồi. Chân họ bị cưa chưa lành. Bụng họ bị mổ, vết thương chưa khô. Có người bị mù cả hai mắt không nhận ra ta. Có người vừa nhìn ta vừa mếu máo. Nếu tôi biết Thiếu Tướng kêu gọi đầu hàng, tôi chẳng cần đánh giặc làm gì. Bao nhiêu điều ta gặp, ta nghe trong buổi chiều hôm ấy. Công lao và sự hy sinh của họ, và gia đình họ đã bị phản bội. Chú em không biết, khi trở lại văn phòng, ta nghe lời khẩn cầu của viên lãnh sự trên trực thăng:Chúng tôi chỉ còn 5 phút nữa là bay ra hạm đội. Ta và tướng Tư lệnh Phó nhìn nhau. Ta muốn chú Hưng đi. Chú Hưng muốn ta đi. Cuối cùng ta và tướng Hưng đi ra ngoài sân cờ.

Lần đầu tiên ông Tư Lệnh nói chuyện nhiều với tôi như thế. Tôi chợt nhìn chiếc áo lính cũ của ông. Chiếc áo sờn hai vai. Lưng áo thì vá chùm vá đụp. Nhưng tôi không dám nói lên ý định mua tặng ông một chiếc. Ðôi mắt ông vẫn còn sưng.

- Thiếu tướng, đôi mắt thiếu tướng...

- Ta hiểu điều chú em hỏi ta. Ta không thể nào không đau khổ khi nhớ đến cả một tập thể quân đội bị bội phản. Ta không thể nào không đau khi những người nguyên là cựu quân nhân trở về quê nhà, ung dung hưởng thụ trong khi đồng đội của họ, lính tráng của họ, người bị thương tật, người sống đầu đường xó chợ đang cần năm mười đô la. Bây giờ ta không nhà không cửa, bởi vì miền Nam mất, ta đâu còn nhà còn cửa. Chỉ tội những người như những thương binh ta thăm chiều ngày 30 tháng tư 75...

Ông Tư lệnh phó nói thêm:

- Ta có đọc bài chú em viết về ta. Chú em thắc mắc về chữ Bắn bỏ mà ta phê trên tờ công điện năm xưa phải không?

- Tôi có đọc tờ công điện và lời phê của chuẩn tướng.

- Chúng ta đã đi một nước cờ sai. Chúng ta vẫn tin tưởng mọi người chung một lòng một dạ với đất nước. Chú em hẳn biết trận An Lộc ghê gớm đến như vậy mà ta còn chịu nỗi huống gì quân khu 4, chưa thấy một bóng dáng xe tăng đại pháo của địch ở đâu. Ta không ngờ những người mà ta trông cậy nhất cũng bỏ chạy. Chẳng những họ chạy, họ lại còn gọi máy về đơn vị kêu gọi đồng đội họ tử thủ để họ bình yên chạy. Ta đã ra lệnh bắn bỏ nhưng cũng vô ích. Không thể thay đổi được thế cờ. Ta tiếc là tiếc cái vùng đồng bằng màu mỡ, cái quốc lộ bốn đến ngày cuối cùng vẫn yên tĩnh. Ta thương những người lính đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. Ta biết họ giận chúng ta. Họ đã nằm xuống ngay vào giờ thứ 25. Có người còn hy sinh sau ngày 30 tháng 4 như Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn...

Bây giờ, ông tư lệnh phó cầm lấy vai tôi. Ông nhìn tôi bằng đôi mắt đầy vẻ uy quyền:

- Bây giờ ta và thiếu tướng phải đi. Chúng ta sẽ trở lại quê nhà, dù sao tình ở đó cũng ấm áp hơn tình xứ Mỹ này. Anh em ở bên đó rất đông, khiến chúng ta đở cô độc hơn. Chú em nhớ hứa đừng cho ai biết có ta và thiếu tướng ở Nữu Uớc này. Thôi chúng ta đi.

Tôi cúi đầu khóc như đứa con nít.

- Tôi xin hứa với thiếu tướng và chuẩn tướng.
...Bây giờ, Oanh đã chạy đến bên tôi. Nàng hớt hải:

- Anh làm gì mà như bị ma nhập. Em từ xa thấy anh cứ làm bộ tịch như thể nói chuyện với ai. Coi kìa, anh lại khóc. Có sao không anh? Coi chừng đất đai thổ thần linh hiển...

NJ, Tháng 7, 1995
Trần Hoài Thư

(trong Ra Biển Gọi Thầm, xuất bản 1995)
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Thầy Giáo Cũ và Lá Cờ Vàng

Nguyễn Duy-An

Tôi bàng hoàng xúc động thật lâu khi nhận được điện thoại của một người bạn học gọi từ Pennsylvania báo tin thầy cũ của chúng tôi là thầy N. mới từ Việt Nam qua Mỹ du lịch và thầy rất mong được gặp lại tôi. Thầy tôi đang ở nhà của một người cháu ở vùng Tây Nam tiểu bang Virginia , cách nhà tôi gần 3 giờ lái xe. Tôi gọi điện thoại xuống để chào thầy và hẹn cuối tuần sẽ xuống đón thầy về nhà nhưng thầy bảo cứ để thầy đi xe lửa lên Hoa Thịnh Đốn rồi đón thầy ở nhà ga, và “đó là mệnh lệnh” nên tôi đành phải vâng lời.
Sau khi nói chuyện điện thoại với thầy, tôi đã ngồi thẫn thờ cả tiếng đồng hồ tưởng nhớ lại kỷ niệm hơn bốn năm về trước, lúc trở về Việt Nam thăm gia đình, tôi đã hỏi thăm và tìm cách đến thăm Thầy sau gần 30 năm cách biệt. Nếu không có một người bạn học dẫn tới, chắc chắn tôi không thể nào nhận ra thầy cũ của mình... Tôi chỉ nấc lên được một tiếng “thầy” rồi ôm chầm lấy thầy mà khóc òa trong tức tưởi! Thầy tôi đó, một ông lão gầy gò ốm yếu, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi trắng như tuyết, và vẫn chưa được “trả quyền công dân” sau bao nhiêu năm bị tù đày vì đã làm thầy của bao nhiêu người “quyền cao chức trọng” trước năm 1975. Thầy tôi chỉ là một nhà giáo dạy trường tư nhưng đã bị giam cầm và quản chế lâu hơn rất nhiều sĩ quan và công chức khác vì lúc nào thầy cũng “ngẩng cao đầu và đứng thẳng lưng” để không mất đi tư cách của một nhà giáo. Thầy tôi đã quyết định không đi Mỹ theo diện đoàn tụ, cũng chẳng nộp đơn theo diện H.O. , chỉ muốn đi du lịch một lần cho biết trước khi về với ông bà tổ tiên.


Sáng Thứ Bảy tôi thức dậy rất trễ vì tối hôm trước ngồi chuyện trò với thầy mãi tới gần 2 giờ sáng mới đi ngủ. Vừa bước xuống nhà tôi đã thấy thầy đang ngồi uống trà và đọc báo ở phòng khách. Nghe tôi chào, thầy tháo cặp kiếng lão rồi nói:
- Đúng là “đi một ngày đàng học một sàng khôn” con ạ. Mới đọc vài tờ báo đã học được nhiều chuyện hay về đời sống của người Việt mình bên Mỹ… Con uống trà hay cà phê? Vợ con đã để sẵn phích nước sôi, hộp trà, và cà phê trên bàn. Chắc thầy làm ồn nên con giật mình hả?
- Dạ không ạ. Bình thường con dậy sớm lắm. Thầy dậy lâu chưa ạ?
- Mỗi đêm thầy ngủ có vài ba tiếng thôi. Con mệt cứ lên ngủ tiếp đi.
- Con ngủ thẳng giấc rồi thầy ạ. Để con pha vội ly cà phê rồi chở thầy ra Eden chơi. Gần 10 giờ sáng rồi, thầy trò mình ra trễ khó tìm chỗ đậu xe lắm... Buổi chiều vợ chồng con và các cháu sẽ đưa thầy lên DC chụp hình và thăm Nhà Trắng, Quốc Hội, Tháp Bút Chì, Viện Bảo Tàng và những đài kỷ niệm khác.
- Tuỳ con. Nhưng thầy không muốn gia đình con phát bịnh vì phải lo tiếp đãi thầy.

* * * * *




Trong lúc chờ vắng xe để quẹo trái vào “Cổng Tam Quan” trước trung tâm Eden , thầy tôi hỏi lớn:
- Đường này họ đặt tên là “Đại Lộ Sàigòn” hả con?
- Dạ. Hồi đầu năm Thành Phố Falls Church cho phép cộng đồng Việt Nam để thêm tên “ Saigon Boulevard ” song song với tên đường chính thức là “ Wilson Boulevard ”. Còn bên trong khu Eden , tất cả các đường ngang dọc đều mang tên Việt Nam hết đó thầy.
- Người Việt mình bên này hay thật!
- Mai mốt thầy sang California hay Texas sẽ thấy nhiều trung tâm lớn hơn Eden nữa, và sinh hoạt người Việt dưới đó còn mạnh gấp mấy lần trên này thầy ạ.
Tôi vừa quẹo xe vào cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên:
- Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá Cờ Vàng… Ôi! Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ nhé.
- Dạ… Mà thầy không sợ gặp rắc rối lúc trở về Việt Nam sao? Mấy người “du lịch” khác họ sợ liên luỵ lắm nên…
- Ăn thua chi con. Ai sao kệ họ. Phần thầy đã nếm đủ rồi, chẳng có gì phải sợ hãi! Con lái xe tới gần chỗ cột cờ đi.
- Dạ… nhưng phải đứng xa xa mới chụp được thầy ạ. Cây cột cờ cao quá.
- Ừ nhỉ. Mà con nhớ chờ lúc gió nó bay bay rồi mới chụp cho đẹp nhé. Nhìn hai lá cờ Việt – Mỹ tung bay trong gió mà thấy lòng quặn đau con ạ. Ôi! Mấy chục năm rồi!
Tôi nghe giọng thầy nghèn nghẹn như không muốn thoát ra khỏi đầu môi. Tôi biết thầy mình đang xúc động lắm. Hình như đôi mắt của thầy cũng long lanh ngấn lệ…
Sau khi chụp mấy tấm hình với nhiều góc độ khác nhau, thầy cầm tay tôi nói nhỏ:
- Con đi với thầy tới chỗ cột cờ nhé.
- Dạ.
Tôi theo thầy đến bên cột cờ. Thầy tôi trịnh trọng đưa tay sờ vào cột cờ như một cái gì linh thiêng lắm, rồi từ từ ngửa mặt, nheo mắt ngắm hai lá cờ đang tung bay phần phật dưới nắng ban mai. Mãi một lúc lâu thầy mới quay lại thầm thì bên tai tôi:
- Thầy trò mình đứng im cầu xin cho những người đã hy sinh bỏ mình vì quê hương con nhé.
- Dạ. Một phút mặc niệm phải không thầy?
- Đúng. Đã có hàng trăm, hàng ngàn người bỏ mình dưới Lá Cờ này đó, con còn nhớ không? Ta bắt đầu cầu nguyện cho họ nhé.
- Dạ.
Sau mấy phút im lặng dưới cột cờ, tôi nhận ra sự thay đổi khác thường trên khuôn mặt già nua vì tuổi tác của thầy. Tôi biết biết chắc chắn đằng sau đôi mắt u uẩn đau buồn của thầy còn chất chứa bao nhiêu tâm sự không biết giãi bày cùng ai. Tôi đưa thầy dạo qua một vài cửa tiệm nhưng thầy tôi cứ lững thững đi theo như một kẻ mất hồn! Tôi dừng lại bên “quầy báo” trước cửa tiệm Phở Xe Lửa. Mặc dầu “người bán báo” hôm nay không phải là “chú thương phế binh” quen biết nhưng tôi cũng lên tiếng theo thói quen:
- Chú cho cháu xin mỗi thứ một tờ.
- Có ngay. Có ngay. 15 Đô tất cả.
Thầy cầm tay tôi giặc giặc:
- Ở nhà có mấy tờ Hoa Thịnh Đốn, Phố Nhỏ… rồi đó con. Sáng nay thầy đã đọc.
- Dạ. Không sao thầy ạ. Con mua ủng hộ các chú gây “quỹ thương phế binh”.
- Ồ. Quý hóa quá!
Chờ lúc tôi nhận lại tiền thối và xếp báo xong xuôi, thầy tôi trao cho “chú bán báo” tờ giấy 5 Đô và nói nhỏ:
- Ông cho tôi góp mấy đồng nhé.
- Dạ… Dạ… Cám ơn. Xin lỗi ông đây là…
Tôi đỡ lời:
- Thưa chú đây là thầy cũ của cháu mới từ Việt Nam qua chơi.
Không để tôi nói thêm, thầy tôi lên tiếng:
- Tình chiến hữu! Tình chiến hữu! Đẹp thật! Đẹp thật! Các ông làm hay quá.
Rồi quay sang tôi, thầy tiếp tục:
- Con chụp cho thầy một tấm hình với ông anh đây. Con chụp cẩn thận để lấy hết hình cái sạp báo nhé.
- Dạ.
Không biết thầy tôi và “ông bạn mới” to nhỏ những gì mà chú ấy phải chạy nhờ người trông dùm sạp báo để đi theo thầy tôi chụp chung một số hình dưới “sân cờ” với những nụ cười thật rạng rỡ trên khuôn mặt của cả hai người. Sau đó, thầy tôi nhất định không chịu vào tiệm ăn sáng, cứ nằng nặc bắt tôi chở về nhà để đọc báo và “con đi in ngay cho thầy mấy tấm hình!” Cũng may vợ và các con tôi đã dậy, và đang chuẩn bị bữa trưa trước khi chở thầy đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn.


* * * * *
Image
Thầy kính yêu,
Bao nhiêu năm ở Mỹ, hầu như tuần nào con cũng ghé Eden , và đã hơn một lần con đậu xe sát bên cột cờ, nhưng chưa bao giờ con xúc động như mấy phút cùng thầy cầu nguyện dưới cột cờ buổi sáng hôm đó. Đúng như cha ông đã nói — “không thầy đố mầy làm nên” — con đã quên mất ý nghĩa linh thiêng của Lá Cờ nếu như con không được một lần chứng kiến “cảnh đoàn viên” của thầy và Lá Cờ Vàng ở Eden sau bao nhiêu năm cách biệt. Mãi mãi con vẫn là đứa học trò bé nhỏ của thầy. Thầy không những đã dạy con qua sách vở và bài giảng mà còn qua chính gương sống của thầy. Con cầu xin để bài học về “Lá Cờ” không phải là bài học cuối cùng thầy dạy cho con.

Nguyễn Duy-An
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Ở cuối hai con đường
Phạm Tín An Ninh

(Một câu chuyện hoàn toàn có thật. Tác giả xin được kể lại nhân dịp 30 năm từ ngày miền Nam thất thủ)


Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.

Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.

Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.

Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?

Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.

Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang".

Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:

- Trong này có anh nào thuộc Sư 23?

Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:

- Thưa cán bộ, có tôi ạ.

- Anh ở trung đoàn mấy.

- Trung Đoàn 44.

- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?

- Vâng, có ạ.

Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:

- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.

Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:

- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?

- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.

Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:

- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.

- Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.

- Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.

Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:

- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.

Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.

Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.

Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:

- Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.

Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.

Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luột sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc dấu hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.

Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-

Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?

Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:

- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.

Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:

- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.

Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.

- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - một anh tù hỏi.

- Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằng vặt mãi cho đến hôm nay.

Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.

Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.

* * *

Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.

Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.

Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.

Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.

Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.

Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.

Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.

Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.

Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.

Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.

Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.

- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.

- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.

Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:

- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?

- Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?

- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.

- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.

Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.

Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.

- Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.

- Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.

- Ba cháu bây giờ làm gì?

- Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.

Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.

Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.

Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.

Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.

Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.

Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.

Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.


><><><><><><><><

"Các Anh thân quí,

Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: "Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.

Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.

Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.

Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.

Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."

* * * * *

Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?

Phạm Tín An Ninh
(Vương Quôc Na-Uy)
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

TRÊN MẶT BẰNG CỦA CÕI CHẾT

HUY PHƯƠNG
“Khôn dại cùng chung ba tấc đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê”.
(Vua Tự Đức)

Từ bảy năm nay, nhiều lần liên lạc sang Mỹ, ông anh rể tôi luôn luôn nhắc nhở chúng tôi gởi tiền về để xây lại mộ bố mẹ và ông bà tôi cho khang trang, đẹp đẽ hơn. Ông cho biết hiện nay trong làng, những người có thân nhân ở hải ngoại đang có phong trào đua nhau xây lại mồ mả, lăng tẩm cho to lớn, để khỏi xấu hổ với bà con là mình có con cái là “việt kiều” mà không được nở mày nở mặt với người ta. Ông nhắc tôi năm lần bảy lượt, nhưng lần nào tôi cũng giả lả nói sang chuyện khác. Không phải tôi tiếc tiền xây lăng cho cha mẹ tôi cho bằng làng bằng nước, nhưng quả thật trong làng còn nghèo, nhiều người già lưng còng rồi mà phải bắt ốc, hái rau, mót lúa mới có cái bỏ vào miệng mỗi ngày, mà bản thân tôi cũng chưa giúp đỡ được gì. Bây giờ xây mồ đắp mả cha mẹ mình cho cao lớn lên để làm gì, chẳng qua chỉ gieo thêm tủi nhục cho những người bà con chung quanh.

Thế rồi năm ngoái, hai ông anh bà chị tôi được đi du lịch một chuyến sang thăm con ở Mỹ. Tôi nghĩ với số tiền chi phí rong chơi này, người ta xây ba cái lăng thứ bự cũng còn dư, nếu có lòng và muốn làm, đâu có cần kêu gọi đến ai. Tôi mời anh chị tôi ghé tiểu bang tôi, ở lại chơi vài ngày, thăm em cho biết sự tình. Nếu vì phương tiện hẹp hòi mà không mời khách đến nhà, có khi người ta lại tưởng mình giàu có mà keo kiệt. Chương trình thăm viếng này hầu hết là những chuyến đi đây đó cho khách du lịch biết thêm về nước Mỹ, tôi “khoe” cho khách biết từ cái nhà mấy triệu ở Newport Beach cho đến những khu xập xệ Santa Ana, nơi không thiếu những căn chung cư hai phòng của một gia đình người Mễ có đến 12 người chen chúc sống với nhau.

Một buổi trưa trời khá nóng nực, sau khi đi loanh quanh, tôi đưa hai ông bà vào thăm một nghiã trang đầy bóng mát trong thành phố. Ở đây thật tĩnh mịch vắng tiếng động cơ của xe cộ qua lại, lại có tiếng chim hót đâu đó, khiến tâm hồn mình trở nên thanh thản. Những hàng bia mộ đồng loạt, cùng một kích thước trải dài trên những thảm cỏ xanh mướt và chắc chắn dưới những nấm mộ kia, những nắm xương cũng nằm trong những chiếc hố vuông vắn giống nhau mà những người phu đào huyệt đã làm sẵn. Vì tò mò, cũng là lần đầu đi thăm một nghĩa địa của người Mỹ, ông bà theo tôi đi thơ thẩn một vòng qua các ngôi mộ. Tôi giới thiệu cho ông bà đây là ngôi mộ của một tỷ phú trong thành phố mới chết cách đây vài năm, đây là nấm mộ của quả phụ một vị Đại tá Mỹ, và gần nhất là nơi yên nghỉ của một thi sĩ rất nghèo mới định cư tại Hoa Kỳ sau năm 1975. Tất cả nghĩa trang là một mặt phẳng và tên tuổi được ghi trên một mảnh đá đen nhỏ nằm trên mộ giữa đám cỏ xanh. Anh chị tôi có vẻ ngạc nhiên nghe tôi nói chuyện vì không ngờ rằng nghĩa địa ở Mỹ khác hẳn ở Việt Nam, không có cái cao, cái thấp, không có cái lớn cái nhỏ, người giàu có hay kẻ nghèo hèn đều theo một quy luật bình đẳng, ai cũng như ai.

Ra xe, tôi thấy mặt ông anh có vẻ đăm chiêu như đang suy nghĩ một điều gì và từ ngày ông trở lại Việt Nam đến nay gần cả năm, tôi không nghe ông nói gì về việc xây mộ, làm lăng cho bố mẹ tôi nữa.

Tôi biết hiện nay có nhiều gia đình ở hải ngoại đang gởi tiền về xây lăng cho bố mẹ, kể cả ông bà để báo hiếu. Trong chữ Hán, hiếu là kính yêu cha mẹ, nhưng hiếu cũng có nghĩa là có tang cha mẹ, nên người xưa gọi việc tang lễ là việc hiếu. Hiếu sự là việc chôn cất ma chay cho người chết. Hội hiếu là một tổ chức lo việc chung sự. Lo mồ mả cho cha mẹ cũng là báo hiếu. Ở Huế trong vùng biển Thuận An có một ngôi làng tên An Bằng (dân ở đây đọc trại là An Bường), có một cái nghĩa địa, đắt giá nhất thế giới. Cũng như tất cả dân chúng ở các vùng biển, sau tháng 4 năm 1975, dân Thuận An cũng nhiều cơ hội vượt biển đi tìm cuộc sống mới hơn những người ở xa biển. Thôn An Bằng có 800 gia đình nhưng trong đó đã có 75% gia đình có người vượt biển, sang Mỹ sang Tây. Xung quanh ngôi làng này chỉ là những đụn cát, xưa dân An Bằng những năm mất mùa cá có khi phải ăn cháo xương rồng, lấy cây xương rồng phơi khô làm củi đốt và kéo nhau lên thành phố Huế ăn xin.

Khi có tiền người ta nghĩ đến việc báo hiếu, cha mẹ còn sống thì quà cáp tiền nong, cha mẹ đã qua đời thì lo xây đắp một phần cho khang trang để tỏ lòng hiếu nghĩa. Lúc đầu người ta chỉ xây lăng, đắp mộ vừa phải, nhưng sau đó thấy mộ phần của hàng xóm đẹp hơn, sang trọng hơn hơn hẳn gia đình mình, lại muốn chạy đua cho bằng hoặc hơn người khác. Có khi lăng mộ đã xây xong lại đập phá đi để làm lại đẹp đẽ hơn nhà bên cạnh, cứ tuần tự như thế, nghĩa địa An Bường thành một thành phố của người chết tốn kém nhất. Một ngôi mộ lớn nhất ở đây phải tốn khoảng 100,000 đô la. Theo học giả Lê Văn Lân tả một ngôi mộ gia đình theo Phật Giáo ở đầu làng An Bằng thì “Một ngôi mộ theo Phật giáo xây năm 1999 với những hình chữ Vạn, hình bánh xe Pháp luân đúc trên cổng tam quan, cột chạy rồng cẩn sứ xanh với những họa tiết tứ quí: mai lan cúc trúc. Muốn lên cổng tam quan này, du khách phải bước lên năm bậc cấp, hai bên trang trí cặp kỳ lân, ở chính giữa là một đỉnh trầm màu vàng hòe lớn cao nừa tầm người; đỉnh đứng trong một vòng cung chạy hình đúc mây khói. Sau cổng tam quan, là nhà bia hay bi đình có một tầng mái hình lục giác với góc cong lên, lợp ngói hoàng ly. Đặc biệt trên từng mái bi đình là một cái tháp tròn có tượng Phật ngồi có hai từng mái trông xa giống cái bảo bình đựng cốt Phật, riềm mái chạy hoa sen. Trên chót đỉnh bi đình cũng như trên chót bốn trụ cổng tam quan là hình năm quả bầu, tượng trưng cho bầu Thái cực. Sau bi đình là những ngôi tẩm chứa những thạch quách tô điểm với họa tiết chữ Vạn và hoa sen. Cuối lăng là một cổng sau với ba tầng mái với lưỡng long triều nguyệt.”

Về phải Thiên Chúa Giáo, tuy khác hình ảnh và dáng dấp nhưng mức độ đồ sộ cũng không chịu thua sút. Chỉ một cái cổng tam quan của đi vào ngôi mộ này thôi trị giá cũng lên đến 30,000 đô la.

Không phải chỉ có cao lớn, mà khu nghĩa địa này còn là nơi thi thố tài năng của nhiều nghệ nhân còn sót lại của triều Nguyễn để có những các cột chạm rồng, những bậc tam cấp lưỡng long, những tấm bình phong chạm trổ tứ quý. Các nghệ nhân xây lăng ở đây không những biết xây nề, lên hình dáng của kiến trúc, mà còn biết đúc, chạm, cẩn các loại sành sứ, tô màu, vẽ hình hoa lá, mây nước. Các loại sứ để trang trí vẫy rồng, lông phượng phải mua từ Bát Tràng ngoài đất Bắc đem về. Đây là lăng tẩm của những bậc vương giả chứ không phải của kẻ bần dân, với tâm lý là xưa khốn khó, giờ chết rồi cũng làm cho tổ tiên mát mặt.

Công trình kiến trúc đầy phô trương này chắc chắn tốn kém hơn hẳn những ngôi nhà gạch ở làng này và trong vùng biển Thuận An, nơi mà những người buôn thúng bán bưng vẫn hằng ngày lang thang trên bãi biển, bán những chiếc bánh bột lọc bằng đầu ngón tay hay cho thuê những manh chiếu dơ bẩn, rách nát cho du khách để mót nhặt từng đồng bạc cho những bữa cơm đạm bạc qua ngày.

Những vị Vua Chúa ngày xưa khi mới vừa lên ngôi đã chọn chỗ để lo hậu sự cho mình, tiến hành công việc xây lăng tẩm để làm nơi an nghỉ cuối cùng, có khi lăng tẩm dành cho lúc chết còn nguy nga hơn cung điện khi còn sống. Vua Tự Đức cũng vì lo chỗ nằm thiên thu của mình quá tráng lệ với đào hào sâu, xây hồ rộng, đắp núi cao đã đày ải phu phen vào những công việc nặng nhọc xây dựng lăng Khiêm Lăng khiến nhân dân ta oán, mới xẩy ra loạn giặc Chày Vôi:

“Vạn Niên là Vạn Niên nào,
Thành phơi xương lính, ao đào máu dân”.

Hoàng Đế Bảo Đại theo Tây học, có lẽ không nghĩ nhiều về nơi an nghỉ cuối cùng, không xây lăng tẩm, mà có lẽ ông cũng không bao giờ nghĩ rằng vào cuối đời ông sẽ được mai táng trong nghĩa địa Passy của nước Pháp xa xôi, trong nơi bình thường. Ba anh em nhà họ Đinh, khét tiếng là hung thần một thời ở Bắc Bộ Phủ với những cái tên Đinh Đức Thiện, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ, chung thân cũng một “sè sè nắm đất bên đường”.

Người xưa thường nhắc nhở đến chuyện vô thường của đời người “giàu có đến vạn muôn tối ngủ cũng chỗ nằm hai thước, vương hầu khanh tướng chết cũng chôn ba tấc đất!”



Huy Phương
lynhcao
Posts: 23
Joined: Sun Jun 24, 2007 3:57 pm
Contact:

Post by lynhcao »

THẰNG BÉ ĐÁNH GIÀY NGƯỜI NGHĨA LỘ
Mấy ngày ngắn ngủi ở Sài Gòn, tôi thường đến ăn tối tại một quán ăn gần khách sạn tôi ở, đi bộ chừng năm phút, có tên Nhà Hàng Thanh Niên, nằm phía sau nhà thờ Đức Bà. Một nơi tương đối yên tĩnh, khu vườn lộ thiên nhỏ nhưng với những khóm trúc dễ thương, và nhất là được nghe lại những bản nhạc tình ca -kể cả tình lính- của miền Nam thuở trước.

Sài Gòn dường như không kịp thở vào những ngày cuối năm. Ngoài đường tấp nập xe cộ và trên vỉa hè cũng kín cả người. Tất cả đều hối hả ngược xuôi, làm như tất cả không còn đủ thời gian để kịp “đổi đời”. Tôi thấy mình lạc lõng trong cái không gian ấy. Tốt nhất là tìm một nơi vắng vẻ ngồi một mình để suy tư và hồi tưởng về Sài Gòn của một thời xưa cũ, mà bây giờ mơ hồ như chỉ còn trong cổ tích.

- Chào chú, cháu đánh giày cho chú nhé.

Tôi giật mình khi nghe một giọng rặt bắc kỳ, chưa kịp quay lại thì ba chú bé đã đến trước mặt tôi. Thằng bé nhất và cũng đứng gần tôi nhất nhìn tôi gật đầu chào:

Sao chú ngồi một mình buồn thế ? Trông chú hơi lạ. Chắc chú là Việt Kiều mới về thăm quê ?

Tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao thằng bé biết mình là “Việt kiều”. Bởi tôi ăn mặc rất đơn giản. Có thể nói là đơn giản nhất so với những thực khách có mặt ở đây. Và mặc dù không ưa cái danh xưng “Việt kiều”này, nhưng thấy thằng bé lễ phép dễ thương, tôi giả tiếng bắc đùa:

- Chú ở nước ngoài về chứ không phải Việt Kiều. Thế ngoài ấy quê cháu ở đâu.

- Cháu ở tận Nghĩa Lộ - Yên Bái

Tôi nắm tay nó:

- Thế hóa ra mình là đồng hương đấy. Chú cũng từng ở Nghĩa Lộ một thời gian lâu lắm.

Thằng bé tròn xoe đôi mắt:

- Chú cứ đùa. Trông chú chẳng phải người quê cháu.

Tôi bèn kể một mạch về Nghĩa Lộ cho thằng bé nghe, từ con sông, con đường cho đến cái dốc Cổng Trời và cái thung lũng Hang Dơi nằm sâu trong vùng núi rừng cực bắc.

Thằng bé ngạc nhiên thích thú, nhưng đôi mắt cứ nhìn tôi không chớp. Tôi bật cười, vỗ vai thằng bé:

- Xin lỗi cháu. Chú đùa cho vui. Đúng là chú từng ở Nghĩa Lộ gần năm năm. Nhưng mà chú bị tù cải tạo ngoài ấy.

Cả ba thằng bé cùng nhao lên:

- À, đúng rồi, con đường ô tô từ dốc Cổng Trời về huyện, bây giờ người ta vẫn gọi là Đường Tù Cải Tạo. Vì nghe mấy ông bà cụ bảo do các chú trong Nam ra cải tạo đắp con đường ô tô ấy.

Ba thằng ở ba nơi khác nhau ngoài Yên Bái. Cả làng đang đói, nên rủ nhau bỏ quê vào miền Nam kiếm sống. Khởi nghiệp là đi xin, sau đó cũng chạy theo “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, ba thằng chung vốn làm ăn, kiểu công ty hợp doanh... Một thằng bán vé số, một thằng bán báo, còn thằng bé nhất đánh giày. Vậy mà cũng sống thoải mái (dù chỉ trên vỉa hè) lại còn dành dụm tiền gởi về cứu trợ gia đình. Thằng bé nhất đang nói chuyện với tôi quê ở Thôn Thượng Sơn, thuộc huyện Nghĩa Lộ. Một cái huyện miền núi nghèo xơ xác, có thể là một trong những nơi nghèo nhất nước, nằm cực bắc tỉnh Hoàng Liên Sơn ngày trước, cách thị xã Yên Bái khoảng một ngày đường. Và cũng là nơi đã từng nhốt nhiều tù cải tạo từ miền Nam chuyển ra, từ anh binh nhì TQLC bị bắt trận Hạ Lào, cho đến hơn ba mươi tướng lãnh, mà đa số đã không bỏ rơi đồng đội của mình vào giờ thứ hai mươi lăm.

Đã hơn ba mươi năm, và bây giờ đang ngồi giữa thủ đô Sài Gòn xưa, tôi cứ tưởng là mình đã quên rồi cái tên Nghĩa Lộ. Vậy mà hôm nay tôi có cảm giác như đang đứng giữa núi rừng Hoàng Liên Sơn, nhìn những thằng bạn tù - và thấy cả chính mình nữa - đang bị hành hạ, đói khổ khốn cùng.

- Cháu đánh giày cho chú nhé. Cháu đánh để kỷ niệm, đề đền ơn chú đã từng đắp con đường ô tô cho quê cháu, chứ không phải xin tiền xin bạc gì chú đâu nhá.

Câu nói hơi dài của thằng bé làm tôi bật cười, trở về thực tại. Tôi cười bởi nghe thằng bé rất nhà quê này xài hai tiếng kỷ niệm, và nói năng ra điều nghĩa hiệp.

Mà có thể là nó nghĩa hiệp thiệt. Ngày xưa khi còn trong lính, sau mỗi lần hành quân về phố, tôi cũng từng quen, và đỡ đầu cho những em bé đánh giày. Tụi nó nghèo, ít học, nhưng biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, và chí nghĩa chí tình. Sau ngày ở tù về, trong lúc làm lơ xe, bất ngờ tôi gặp lại hai đứa đang làm bốc vác ở bến xe Tuy Hòa. Bây giờ là hai cậu thanh niên khỏe mạnh. Có điều sống dưới chánh quyền mới, “nhân dân làm chủ tập thể” nhưng hai thằng không có một mảnh đất cắm dùi, ngày làm ở bến xe, tối ngủ ở chợ. Nghề đánh giày cũng không còn. Không phải vì những thằng bé đánh giày giàu lên sau cuộc đổi đời, mà vì chẳng còn ai mang giày nữa để mà đánh. Vậy mà gặp lại tôi, hai đứa nhận ra, mừng rỡ như gặp lại người thân, vẫn một tiếng “anh Ba”, hai tiếng “anh Ba” như hơn mười năm truớc. Tôi tìm mọi cách từ chối, nhưng hai đứa bảo tôi nhất định phải nhậu với tụi nó một chầu, mừng cho cuộc trùng phùng này mới trọn nghĩa anh em. Khi chia tay, còn nhét vào túi tôi một mớ tiền nhăn nheo, bảo là gởi quà cho các cháu. Tôi thực sự cảm động trước lòng thủy chung cùa tụi nó, trong lúc có bao nhiêu thằng vốn học thức đầy mình, nhưng mới một sớm một chiều đã trở mặt phản thầy phản bạn chạy theo nịnh bợ những thằng “cách mạng 30”, mà mới hôm qua hôm kia còn khinh rẻ là đám lưu manh, xích lô xe kéo!

Anh tiếp thị của nhà hàng mang thức ăn đến và đuổi ba thằng bé ra khỏi quán. Tôi vui vẻ nói với anh là tôi mời ba cậu bé, rồi quay sang bảo ba đứa kéo ghế ra ngồi và gọi bất cứ thức ăn nào các cháu thích. Tất cả tròn mắt ngạc nhiên rón rén kéo ghế ngồi và mỗi đứa chỉ kêu một đĩa cơm chiên dương châu.



Điều đặc biệt làm tôi lưu tâm tới thằng bé nhỏ nhất bọn này, bởi quê nó ở thôn Thượng Sơn. Một làng quê xa nhất của cái huyện Nghĩa Lộ đèo heo hút gió. Vậy mà có lần tôi đã đến đó và ở lại đó gần cả một tuần. Môt tuần duy nhất được no, được vui và hạnh phúc trong tám năm tù tội.



Khi mới ra Bắc, tôi được “biên chế” về trại 3 Hang Dơi. Sau ba năm được chuyển về trại 6 Nghĩa Lộ, nằm cách trại 5 của mấy ông tướng mấy cái ao nuôi cá trám cỏ.

Sau một trận kiết lỵ, tôi chỉ còn da bọc lấy xương, đứng không vững thì còn sức ở đâu để mà biến “sỏi đá thành cơm”, nên được điều từ đội trồng trà sang đội “tăng gia”, tức là trồng rau, mà nhiều nhất là rau muống. Vào mùa đông, vùng Hoàng Liên Sơn khá lạnh, nên các loại rau không mọc ra được, đám chúng tôi phần đông chuyển qua trồng sắn, phát rừng, còn lại luân phiên nhau mấy toán, vào vùng núi mua thực phẩm, chủ yếu là cho “cán bộ trại”, chứ còn đám tù bọn tôi thì đã có “sắn” (khoai mì) để “khắc phục”.



Toán bốn thằng chúng tôi, do một chàng vệ binh dẫn đi, kéo theo hai cái xe cải tiến (loại xe đóng bằng gỗ giống như chiếc xe bò nhỏ) vào Thượng Sơn, nằm cách trại khoảng 60 cây số. Trong thời gian tù tội, những ngày được đi xa như thế này thật là hiếm hoi, hạnh phúc ghê gớm lắm. Chẳng khác gì người trong nước bây giờ được xuất ngoại. Ít nhất cũng được tự do hơn, ăn uống khá hơn, và nhất là được sống với dân để nghe họ nói những điều chân thật. Có một trùng hợp lý thú là trong bốn thằng tù bọn tôi đều có đủ bắc, trung, nam. Một thằng chính gốc Hà Nội 54, một thằng xứ Huế, một thằng Nha trang là tôi và một thằng nữa là dân Cần Thơ, Nam bộ.



Khởi hành từ sáng sớm, chiều chúng tôi đến làng. Nếu không đến đây có lẽ chẳng ai ngờ là giữa núi rừng xa xôi hẻo lánh này lại có một cái làng với khoảng một trăm nóc nhà nằm dọc bên bờ con suối lớn dưới những tàn cây che kín mặt trời. Vậy mà trông rất sạch sẽ và thơ mộng. Từ cổng làng, bọn tôi đã nghe tiếng chim hót líu lo hòa trong tiếng suối chảy róc rách giữa một vùng núi rừng tĩnh mịch.

Bọn tôi được sắp xếp ở trong một căn nhà mái lá cọ, có vách bằng nứa, nằm dưới một tàn cây cao, sát bên bờ suối. Chủ nhà là một bà già trọng tuổi. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là trông bà không giống những người dân mà chúng tôi thường gặp ở vùng này, từ cách ăn mặc tới cử chỉ nói năng. Lúc nào bà cũng vui vẻ niềm nở với chúng tôi, trên môi lúc nào cũng có sẵn nụ cười.



Thằng bạn tù gốc Hà Nội của bọn tôi quả quyết là bà nói đúng giọng Hà Nội, cái thời còn một Hà Nội thanh lịch. Trên vách, treo một tấm giấy khen với một cái tên cũng rất Hà Nội, không hợp với khung cảnh núi rừng này: “Bà Vương Chu Khánh Hà “. Cái tên trùng tên một cô ca sĩ miền Nam, làm chúng tôi dễ nhớ.



Bà ở với người con trai, vừa làm y tá cho thôn, vừa làm rẫy, trồng thơm (dứa), trồng nhản. Một phần đất anh dành ra trồng rau và nếp nương. Anh nói năng hiền lành dễ mến. Đặc biệt rất thương và chiều mẹ.



Ngày đầu tiên, bà chỉ cười chào bọn tôi, không dám đến gần “quan hệ”. Nhưng hôm sau, bà mua chuộc anh vệ binh và giới thiệu cô thợ may ở nhà kế bên cho anh ta, nên anh ta đóng đô luôn bên ấy. Bà cho chúng tôi ăn xôi, ăn thịt rừng, còn thêm đủ loại trái cây bà mua được trong làng. Ở đây, ăn uống như thế là thuộc hàng “tư bản”. Ban ngày chúng tôi đi khắp nơi mua thực phẩm các lọai, chiều về lại nhà, kéo nhau xuống suối tắm, rồi được ăn một bữa cơm “thịnh soạn”, bọn tôi có cảm giác như đang ở đâu đó trên thiên đàng.

Đêm nào bà cũng mang đến một ấm trà tươi, ngồi tâm sự với bọn tôi tới khuya. Đúng như thằng bạn tù gốc Hà Nội nhận xét, bà dân Hà Nội chính tông. Ngày xưa gia đình bà giàu có. Vợ chồng làm chủ một hãng dệt lớn nhất nhì Hà Nội. Sau hiệp định Genève, chia đôi đất nước, chần chờ tiếc của, chưa kịp xuống tàu há mồm chạy vào Nam thì bị đánh tư sản. Chồng bà chết trong tù, nhà cửa bị tịch thu, bà bị bắt buộc phải dắt theo hai đứa con, một trai một gái, đứa nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi, cùng một số “đối tượng” khác lên vùng núi non này, lúc ấy gọi là Khu Kinh Tế Mới Thượng Sơn.

- Ngày ấy, cả khu này chỉ là rừng thiêng nước độc. Chỉ ba tháng sau là con bé gái chết vì sốt vàng da, mà không tìm đâu ra một viên thuốc.



Bà nhìn lên trời mơ màng, kể lại cho bọn tôi những ngày đầu mới đến, nước mắt chảy dài trên má.



Sau đó, vì bản năng tự tồn, những người “Hà Nội lưu đày” (chữ của bà), ngồi lại, cùng bàn bạc nắm tay vượt lên số phận. Trong số những người lên đây, có nhiều thành phần, đa số là tư sản và trí thức. Với bộ óc và với kinh nghiệm trên thương trường, vậy mà họ đã tận dụng được để cùng nhau vươn lên trong chốn thâm sơn cùng cốc này. Dù nghèo khổ, họ vẫn giữ được cái tình, cái thanh lịch của người Hà Nội. Điều mà chính quyền cần họ phải gột rửa.

Ngày tiễn chúng tôi đi, bà năn nỉ và đút lót anh vệ binh cho chúng tôi được nhận một kí nếp, một ít thịt rừng muối mặn, nhưng bị chối từ, mặc dù anh ta cũng rất quí bà. Cuối cùng để cho bà vui, anh vệ binh cho chúng tôi được ăn tại chỗ một bữa no nê, lần này còn có cả rượu nếp, do chính tay bà cất.

Một tháng trước ngày rời Nghĩa Lộ, bọn chúng tôi ngày đêm phải đắp cho xong một con đường ô tô kéo dài từ Nghĩa Lộ lên tận dốc Cổng Trời. Chúng tôi thắc mắc không biết để làm gì, vì gần năm năm ở đây, thỉnh thoảng chỉ thấy vài người đạp xe đạp hoặc thồ ngựa trên con đường ngoằn ngoèo heo hút này. Đến ngày chuyển trại vào Nghệ Tĩnh, chúng tôi mới biết con đường này dùng để chuyển quân lên Lạng Sơn ngăn chặn bọn bá quyền Trung Quốc vừa xua quân tràn qua biên giới đòi “dạy cho người anh em một bài học”.

Hơn ba mươi năm, con đường ”làm lại cuộc đời” của riêng tôi cũng thăng trầm, quanh co không kém, đã làm tôi tạm quên một quá khứ buồn thảm, dù tất cả vẫn còn nằm sâu chôn chặt tận đáy lòng. Bất ngờ hôm nay, thằng bé đánh giày gợi tôi nhớ lại. Có điều trong bao nhiêu đau đớn chất chồng cũng có đôi điều vô cùng đẹp đẽ, chẳng khác gì một đóa hoa nở trên sỏi đá, một cành lan mọc giữa rừng già, trên một thân cây héo khô cằn cỗi.

- Thế cháu ở Thượng Sơn có biết bà Vương Chu Khánh Hà. Bây giờ chắc cũng đã hơn tám mươi ?

Tự dưng tôi buộc miệng hỏi thằng bé, để rồi ngẩn người ra khi nghe nó trả lời:

- Ố, đó là bà nội cháu. Bà mất hơn năm năm rồi!

Lòng tôi chùn xuống.

Thằng bé kể lại những ngày cuối cùng của bà nội, lúc ấy nó mới tám tuồi. Khi mà ở Hà Nội đầy dẫy quán bar và nhà hàng sang trọng, dành cho khách nước ngoài và những ông quan lớn, thì cái thôn Thượng Sơn này vẫn cứ nghèo xơ xác. Một số đã phải bỏ làng tìm về thành phố cũ, sống trước mái hiên nhà của chính mình ngày trước. Bà nội nó chỉ về được một lần, đứng nhìn ngôi nhà của mình bây giờ đang là một khách sạn mấy tầng, mà chủ nhân là một ông ngồi trong Ủy Ban Cải Tạo Tư Sản ngày xưa, bây giờ đã là ông lớn, chức hàm cở bộ trưởng. Tài sản duy nhất còn lại của gia đình bà là ngôi mộ hoang của ông chồng, ngày xưa nằm trong một nghĩa trang ở ngoại ô thành phố, nhưng bây giờ nhà cửa mọc kín chung quanh. Cây cối và cỏ rác như muốn phủ lấp mộ phần. Bà phải ở lại đó mấy ngày mới dọn dẹp xong.Sau lần ấy, bà về nhà rồi ngã bệnh. Vợ chồng cậu con trai bán đủ thứ trong nhà, cùng với hảo tâm của mấy người hàng xóm, nhưng cũng không đủ tiền đưa bà đi bệnh viện. Trước khi chết bà chỉ ước ao duy nhất một điều là đuợc chôn cất bên cạnh mộ chồng dưới thủ đô Hà Nội, cũng là vùng đất của dòng họ qua bao nhiêu đời. Vậy mà cái điều ước ao trối trăn duy nhất đó của bà, cũng không ai thực hiện được, bởi cái nghĩa trang đó bây giờ nằm trong qui họach thành phố, tấc đất tấc vàng, không dễ gì mua được.

Nghe thằng bé kể, nhìn nhà thờ Đức Bà trước mặt và nhớ tới bà, tôi lại thầm nghĩ là Thượng Đế đã không có mặt trên đất nước tôi. Thực ra điều này tôi cũng đã từng nói với mấy thằng bạn tù, sau tháng 4/75. Bởi nếu có Thượng Đế, sao ngài lại bắt dân chúng miền Nam, những người hữu thần, đã bao nhiêu đời hằng tin và thờ phụng ngài, lại phải vác cây thánh giá nặng nề, để tan tác điêu linh như thế. Lòng tôi thấy xốn xang và tôi nghiệp cho bà. Tôi thầm trách mình cũng chỉ là kẻ vong ơn, đã quên mất lòng tốt của bà trong những ngày mình vô cùng khốn khó. Mà lẽ đời là thế. Khi đã sang sông còn có mấy ai nghĩ tới con đò.

Thằng bé lại nhắc tôi về chuyện đánh giày, đền ơn đáp nghĩa. Tôi đưa chân ra, cả đám cười ồ, tôi đang mang dép. Thằng bé lấy một tập báo đủ loại trên tay thằng bạn, để trước mặt tôi:

- Vậy thì chúng cháu biếu chú mấy tờ báo, về khách sạn chú đọc cho vui. Toàn chuyện mấy ông lớn tham nhũng ăn chơi tiền tỉ đấy!

Tôi cám ơn và hỏi mua một xấp vé số. Trả tiền xong tôi chia đều cho ba đứa, coi như món quà may mắn, rồi hẹn ngày mai đến gặp tôi ở khách sạn, tôi sẽ dẫn đi chơi bất cứ nơi nào các cháu thích. Khi chia tay tôi ôm vai thằng bé đánh giày:

- Ngày mai cháu nhớ đến nhá. Chú rất cần gặp cháu.

Suốt ngày hôm sau, sau khi dắt ba thằng bé vào chợ Bến Thành mua sắm một số áo quần, cho các cháu một ít tiền, tôi thuê xe chở cả đám đi Vũng Tàu. Cả ba đứa đều mong ước được đến đây một lần cho biết thành phố biển nổi tiếng này, và cũng muốn xem “tình hình” để chuyển xuống đây kiếm sống, bởi nghe nói ở đây có nhiều khách ngoại quốc đến du lịch, hơn nữa ở Sài gòn càng lúc càng khó khăn, vì số trẻ em (và cả nguời lớn) từ ngoài Bắc vào kiếm ăn ngày càng đông.Trong lúc ngồi trên bãi sau, tôi tâm tình thật nhiều với thằng bé đánh giày, kể cho nó nghe chuyện ngày xưa bọn tôi có lần đến ở nhà bà nội nó một tuần và được bà thương yêu giúp đỡ. Nó ngồi bên tôi nghe rơm rớm nước mắt, rồi dùng ngón tay viết tên của bà nội trên cát.

Trên đường về lại Sàigòn, tôi ghé lại Nghĩa Trang Quân Đội cũ, nằm bên xa lộ Biên Hòa. Khó khăn lắm, phải hỏi thăm nhiều người, anh tài xế taxi mới tìm đựợc lối vào.

Bức tượng Tiếc Thương đã từng tạo huyền thoại một thời, không còn nữa, nhưng Nghĩa Dũng Đài còn đứng sừng sững giữa những ngôi mồ hoang phế, im lìm. Tôi nghe trong gió như có tiếng oan hồn tử sĩ. Tìm đến ba ngôi mộ của ba thằng bạn lính cùng đơn vị cũ, mà chính tôi là người thân quen duy nhất chào tiễn biệt tại dây vào những giờ phút thứ hai mươi lăm của cuộc chiến, cùng với những người lính chung sự vẫn âm thầm tận tụy như từng bao nhiêu năm mai táng những đồng đội chưa bao giờ gặp mặt. Ba thằng bé phụ tôi hì hục dựng lại mấy tấm bia gãy đổ. Tôi ngồi trước những nấm mộ sụt sùi. Ba thằng bé chưa từng biết những gì đớn đau và bất công của cuộc chiến bắc-nam, cũng ngậm ngùi cảm động, trịnh trọng hứa với tôi sẽ thường xuyên rủ nhau đến đây để hương khói và chăm sóc các mộ phần.

- Bạn đồng đội của chú chắc chắn là những người tốt.

Ba đứa bé nói với tôi trên đường ra xe về lại Sài Gòn, trong lúc tôi còn đang miên man về cách hành xử tàn tệ từ những con người không có trái tim, không còn biết thế nào là “nghĩa tử nghĩa tận”.

Về khách sạn, ba cháu xin được ở lại với tôi đêm nay, để khuya được đưa tôi ra phi trường. Không ngờ những đứa bé từ một vùng núi non Việt bắc xa xôi lại chí tình với một người miền Nam, và bây giờ chỉ còn là.. “khúc ruột ngàn dặm”, như tôi.

Tôi lấy thêm một phòng, cho hai đứa kia, còn thằng bé đánh giày nhỏ nhất, ở cùng phòng với tôi. Trước khi đi ngủ, tôi cho thằng bé một ngàn đô-la, bảo nó ngày mai mua vé xe lửa về lại Nghĩa Lộ, đưa cho ba má nó. Tôi viết một mảnh giấy kèm theo, bảo với ba nó tôi là một trong bốn người tủ cải tạo lúc xưa, và dùng số tiền này tìm mọi cách đưa bà cụ về Hà Nội nằm bên ông cụ như lời bà trăn trối lúc lâm chung. Tôi có cho địa chỉ để anh ta liên lạc. Tôi còn căn dặn thằng bé phải hết sức cẩn thận, vì các chuyến xe Thống Nhất Bắc-Nam sẽ rất đông người vào những ngày giáp tết. Nó tròn mắt nhìn tôi ngạc nhiên, rồi nắm chặt bàn tay tôi, nói ngày mai, sẽ may thêm một cái túi bên trong chiếc áo để khâu tiền vào trong đó.

“ Kính thưa Anh,

Vợ chồng em và chắc chắn là vong linh của mẹ em nữa, xin muôn vàn cảm tạ ơn anh.

Không ngờ chỉ có mấy ngày ngắn ngủi rất xa xưa, mà mãi đến nay anh vẫn còn nhớ đến mẹ con em. Riêng em thì gần như đã quên chuyện ấy nếu không có anh nhắc lại hôm nay.

Giờ em mới nhớ lại, sau khi các Anh rời khỏi nhà em, mẹ em khóc mất mấy hôm. Bà bảo phần thì tội nghiệp các anh, phần thì nghĩ tới số phận oan khiên của gia đình em vào những ngày đảng vừa lên nắm chánh quyền. Bà bảo các anh và gia đình chúng em cũng cùng gánh chung số phận.

Chúng em cũng xin báo tin để anh mửng, là với số tiền anh cho, chúng em đã đưa được mộ phần của bố em ra một nghĩa địa khác, trước khi chính quyền cho san bằng khu nghĩa địa cũ để xây đô thị. Khu nghĩa địa mới dù nằm khá xa thành phố nhưng sạch sẽ và yên tĩnh. Vợ chồng em cũng cãi táng phần mộ của mẹ em và đứa em gái ở Nghĩa Lộ, đưa về chôn bên cạnh bố em. Gọi là nghĩa địa, nhưng phải mua với giá rất cao. Nếu không có tiền của Anh cho, biết đến lúc nào chúng em mới thực hiện được lời ước ao trăn trối của mẹ em.

Nghe đất nước đã đổi mới từ lâu, nhưng có lẽ chỉ đổi mới ở dưới những thành phố lớn, chứ cái làng Thượng Sơn của chúng em thì ngày thêm khốn khó. Rồi nay mai vợ chồng em cũng phải bỏ Thượng Sơn mà về Hà Nội, hoặc chạy thẳng vào Sài gòn. Có làm ô xin hay phải sống ngoài đường chắc cũng còn khá hơn.

Phân vân mãi, cuối cùng chúng em cũng phải báo đến anh một tin buồn. Thằng bé Khiêm con em cũng không còn. Trên chuyến tàu Thống Nhất ngày ba mươi tết hôm ấy, nó bị cướp. Không hiểu có phải bọn cướp biết được cháu giữ số tiền lớn của anh cho, nên đánh để cướp. Nhưng dù bị máu me thương tích đầy người cháu vẫn hai tay ôm chặt lấy túi tiền khâu kỷ trong mấy lớp áo trước ngực. Bọn cướp tháo chạy trước khi có công an đường sắt tới.

Về nhà cháu tỉnh táo được một vài hôm, ăn tết với chúng em, kể lại chuyện bất ngờ gặp anh, được anh yêu thương và gởi cho chúng em một số tiền quá lớn. Chúng em cứ tưởng mình nằm mơ. Nhưng chỉ một tuần sau cháu bị sốt nặng rồi hôn mê. Đem vào bệnh viện huyện, bác sĩ bảo cháu bị chấn thương sọ não. Cháu qua đời vài ngày sau đó.

Bây giờ cháu cũng đang nằm bên cạnh ông bà nội, và cô út của nó, chắc cháu nó cũng được ấm lòng nơi chín suối.. Chúng em tin là cháu sẽ mãi mãi theo phù hộ cho Anh trong những ngày Anh xa quê lưu lạc xứ người.

Chúng em xin gởi đến Anh trọn lòng kính mến và lúc nào cũng cầu nguyện mọi điều tốt đẹp cho Anh cùng gia đình.

Kính thư

Bố mẹ cháu Khiêm
Trần Trọng An


Bức thư tôi nhận được đúng một tháng sau ngày tết nguyên đán. Suốt cả đêm trằn trọc, tôi không biết có đúng là mình đã trả ơn Bà, hay là lại mang thêm tai họa đến cho gia đình Bà. Thì ra trong cái xã hội đang có nhiều ông lớn và đại gia giàu có, thì cái sinh mạng của những người nghèo khổ khốn cùng cũng vẫn chỉ là cỏ rác. Dường như tôi có nghe ai đó nói “ cuối niềm vui nào cũng có xót xa, sau cuộc trùng phùng nào cũng có mầm mống của ly tan “.

phạmtínanninh
(vương quốc Nauy)
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

VŨ ANH KHANH
NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN ÐẦU TIÊN CHỐNG LẠI CỘNG SẢN VN


HỒ ÐINH
Vũ Anh Khanh và Xuân Vũ là hai người bạn chí thân trong văn chương và quảng đời dấn thân chống Pháp cưú nước suốt chín năm máu lửa 1945-1954, khi thực dân trở lại dày xéo quê hương Việt Nam lần thứ hai. Mang chí cả của người trai thời loạn, sống hết mình cho lý tưởng phụng sự đất nước, hai ông cũng như bao nhiêu người con thân yêu của Mẹ, lầm đường lạc lối trước những xảo thuật chính trị tuyên truyền của đệ tam quốc tế, qua cái bình phong Mặt trận Việt Minh, nên ngày hòa bình trở lại năm 1954, đã hăm hở tập kết về bắc. Nhưng than ôi tất cả chỉ là ảo vọng khi cái mặt thật của thiên đường xã nghĩa hiện ra trong máu lệ, qua cảnh đời nghèo đói bất công và nổi cùng khốn tận tuyệt của dân chúng vô tội bên bờ này vỹ tuyến, qua cái gọi là cải cách ruộng đất và vụ án trăm hoa đua nở, mà chánh quyền cộng sản rập khuông theo Trung Cộng để diệt các tầng lớp phú, nông, thợ thuyền và trí thức VN, những người đã làm đá lót đường, làm cầu qua sông, làm phương tiện cho đảng chiếm được nữa nước để thụ hưởng và cầm quyền.

Như Phùng Quán đã viết:

"Tôi đã đi qua những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt,
Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn dẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng
Bới đồn giặc trồng ngô trỉa lúa. .
Yêu ai cứ bảo là yêu,
Ghét ai cứ bảo là ghét. . "

Thế nên hai người đã quyết ý phải từ bỏ thiên đường đang ngoi ngóp sống, để quay về Nam với Mẹ với em, với những thân thương đang ràn rụa nước mắt đợi chờ. Nhưng than ôi, số đời đã định, cùng ra đi trong khi Xuân Vũ biết rằng "Ðường đi không đến" thì lại đến vào năm 1965 tại Củ Chi. Trong lúc đó Vũ Anh Khanh đã sắp vói tay được vào bờ nam dòng sông vỹ tuyến, thì một mũi tên tẳm thuốc độc vô tình đã kết liểu cuộc đời tài hoa của người chiến sĩ vào năm 1956.

Trên tờ Văn Hoá VN, số 14 mùa thu 2001, xuất bản tại Houston Texas, Xuân Vũ nhớ bạn có nhắc lại câu thơ: "Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn", rồi kể lại câu chuyện của một người chết không mồ. Cuộc đời như vậy sao mà không buồn? nhất là qua biến cố 30-4-1975 đã cho chúng ta thấy một cách minh bạch rằng chế độ thực dân đồng chủng hay dị chủng, Pháp hay Việt cộng bản chất vẫn như nhau và những điều mà các nhà văn kháng chiến miền Nam, trong đó kiệt hiệt nhất là con chim đầu đàn Vũ Anh Khanh, Người Bình Thuận-Phan Thiết của miền Trung duy nhất, qua các bản cáo trạng, tới nay vẫn còn giá trị. Có điều thật là bất công và tàn nhẩn đối với những người yêu nước, trong đó có Vũ Anh Khanh, tại VNCH miền đất được mệnh danh là tự do dân chủ. Càng mai mỉa thay, trong khi chương trình Việt sử bậc Trung và Ðại Học, chính phủ Quốc Gia đã long trọng đề cập tới cuộc kháng chiến của Dân Tộc qua sự nghiệp lật đổ ách thống trị của Thực dân Pháp từ 1945-1954 tại Nam Kỳ và việc chấp nhận bản Thanh niên hành khúc của Lưu hữu Phước làm Quốc Thiều VN, sau khi được sửa chữa một vài chữ. Ai cũng biết họ Lưu là Việt Cộng chứ không phải Việt Minh, nhất là sau khi Miền Nam mất nước, ngày 20-8-1975, Lưu hữu Phước qua chức phận Bộ Trưởng Thông Tin Văn Hoá của cái Chính phủ Lâm thời CHMN, đã ký nghị định "Ðốt sách chôn học trò "trên khắp lãnh thổ VNCH cũ. Trong khi đó chỉ vì chính trị và định kiến hẹp hòi, Miền Nam đã gạt bỏ những người yêu nước như Vũ Anh Khanh, kể luôn các tác phẩm của ông, chỉ vì nội dung sách như những bản cáo trạng, tố cáo thẳng bọn cầm quyền hại dân bán nước ở bất cứ chế độ nào. Ngày nay trắng đen đã rõ, chỉ đau đớn là Quê Hương vẫn còn ly loạn ma xác thân của người chiến sĩ không biết đã trôi giạt về đâu?

+ VŨ ANH KHANH QUA MINH HỌA CỦA NHÀ VĂN XUÂN VŨ:

Từ các tài liệu rất ít ỏi còn sót lại, được biết Vũ Anh Khanh tên thật là Võ Văn Khanh, sanh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận. Ngoài bút hiệu trên, ông còn ký tên Vương Ấu Khương khi viết truyện ngắn "Mắt xanh sống vẫn lầm than bụi đời" đăng trên tờ Xuân VN vào Tết năm 1951.

Mũi Né, quê hương của nhà văn hiện nay là một trong những khu du lịch nổi tiếng của VN, vốn là một thị trấn miền biển bao gồm hai xã Khánh Thiện và Thạch Long, nằm cách Phan Thiết về hướng đông bắc chừng 20 km, thời nào cũng vẫn là miền đất trù phú và thơ mộng của tỉnh Bình Thuận. Ba trăm năm qua như một giấc mộng nhưng cái tên Mũi Né vẫn tồn tại trong tâm khảm của mọi người, cho dù trên giáy tờ hay bản đồ qua thời gian với bao nhiêu cái tên như Vị Nê, Cap Nê, Hải Long, Hàm Dũng và gì gì nữa trong tương lai. Ðiều trên cũng giống như thân phận của nhà văn Vũ Anh Khanh, kẻ chết không mồ nhưng vẫn sống mãi với những tác phẩm đấu tranh để đời mà ai cũng biết tới, dù đã có thời gian và ngay bây giờ chúng vẫn bị cấm đọc hay quảng bá. Sách của ông không nhiều vì cuộc sống của nhà văn ngắn ngủi, hơn nữa trong lúc văn thi tài đang lên như diều gặp gió, thì năm 1950 ông đột ngột từ bỏ thành đô hoa lệ, sau một chuyến viếng thăm Tha La xóm đạo, một làng quê êm đềm thơ mộng như ch1nh quê hương Mũi Né của ông với những rặng dừa xanh ẻo lả, chạy song song với đồi cát trùng trùng, ngày tháng nép mình ôm ấp biển xanh:

"Ðây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm xóm Ðạo
Giữa mùa náng vàng hanh. . "

Nhưng rồi giặc đến, vào làng giết người cướp của, cuộc sống an bình của quê hương bỗng chốc thành máu lệ, bao nam nữ đã ra đi để hiến mình cho quê hương đất nước, chỉ còn lại nỗi tang tóc, buồn hiu:

"Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng
Nhẹ bảo chàng, em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói lửa phủ mịt mù
Người nước Việt ra đi vì nước Việt. "
(Tha La xóm Ðạo-Vũ Anh Khanh).

Ðó chính là lý do, khiến ông đã từ bỏ tất cả để dấn thân vào cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ dữ dội khắp nước, dù lúc đó là một nhà văn độc nhất, đang có nhiều sách bán chạy như chuyện dài BẠC XÍU LÌN, được Tiếng Chuông xuất bản năm 1949, chỉ trong 2 tháng đã bán hết 10. 000 cuốn, sau đó phải tái bản nhiều lần vẫn không cung ứng nhu cầu của người ái mộ. Nói chung theo giáo sư Nguyễn văn Sâm viết trong "Văn Chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950, thì hầu hết tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị và tiêu biểu trong dòng văn chương đấu tranh thời đó, dù là thơ như CHIẾN SĨ HÀNH (Tân VN, Sài Gòn 1949), Truyện dài NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ gồm 2 tập (Tân VN, Sài Gòn 1949), CÂY NÁ TRẮC (Tân Việt, Sài Gòn 1947), truyện ngắn NGŨ TỬ TƯ (Tân VN, Sài Gòn 1949), ÐẦM Ô RÔ (Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949), SÔNG MÁU (Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949) và BÊN KIA SÔNG (Tân VN, Sài Gòn 1949). Riêng bài thơ Tha La Xóm Ðạo của ông, sau này được nhạc sĩ Dũng Chinh, tên thật là Nguyễn văn Chính, cũng là người Phan Thiết, phổ nhạc và rất được mọi người ưa thích nhất là qua giọng hát truyền cảm tha thiết trầm buồn của nam ca sĩ Anh Khoa cũng là người Bình Thuận, giống như bài "Hoa trắng thôi cài trên áo trắng" của thi sĩ Kiên Giang. Ngoài ra soạn giả cải lương nổi tiếng Viễn Châu cũng đã mượn ý của Vũ Anh Khanh để viết tình khúc tân cổ giao duyên "Tha La xóm đạo".

Theo Xuân Vũ thì Vũ Anh Khanh lớn hơn ông chừng vài tuổi, hai người đã quen biết nhau khi cùng ở chung trong hàng ngũ kháng chiến quân, gọi tắt là Việt Minh, một tổ chức chống Pháp qui tụ toàn dân VN không phân biệt đảng phái chính trị. Theo hí họa của họa sĩ Thanh Long và các bằng hữu lúc đó đang phục vụ tại Ban Tuyên Huấn, Phòng Chính Trị, đóng ở Cái Thun, gần Cái Chanh Lớn, miệt Cạnh Ðền miền tây Nam Phần. Qua nhận xét của các Thi sĩ Rum Bảo Việt, Nguyễn văn Trị, Ðiêu khắc sư Trần văn Lắm, Sơn Nam, Hà Huy Hà, các họa sĩ Thanh Tòng, Thanh Long, Hoàng Tuyển, nhà thơ Việt Ánh, nhạc sĩ Nguyễn hữu Trí, Phạm công Nhiều, Quốc Hương và Xuân Vu, thì Vũ Anh Khanh lúc đó dù là một nhà văn đang nổi tiếng và có rất nhiều tác phẩm bán chạy, lại là một sĩ quan, đã tốt nghiệp tại Trường Lục quân, thuộc Phân hiệu II Trần Quốc Tuấn nhưng tánh tình khiêm cung, hiền hậu, có thể nói là chẳng bao giờ để lộ cái tôi ra ngoài, khiến cho cả đơn vị kể luôn Xuân Vũ lúc đó, không hề biết ông là ai.

Ðiều này cũng chẳng có gì lạ, vì với những tâm hồn nghệ sĩ lớn như Vũ Anh Khanh, thì chuyện viết lách, làm thơ, phát biểu những ẩn ức trong lòng, được coi như lẽ sống của kẻ cầm bút, chứ đâu cần phải phô trương dao to búa lờn để lòe thiên hạ?. Vẫn theo Xuân Vũ thì dường như đã có một điều gì khác lạ, nên từ năm 1950 khi về phục vụ tại cơ quan chính trị kháng chiến, không hiểu vì lý do gì Vũ Anh Khanh trở nên bất động, thậm chí tại Khu có tờ báo mang tên Tiếng Súng Kháng địch, sau đổi thành tờ Quân Ðội Nhân Dân Miền Tây, vậy mà Vũ Anh Khanh hầu như không hề biết tới, kể cả những lúc sinh hoạt cũng chẳng hề có ý kiến, nếu bị hỏi tới mới nói:" tôi đồng ý thế thôi “.

Như vậy, chẳng lẽ lúc đó ông đã nhận ra cái mặt thật của Việt Minh đang bị Việt Cộng núp bóng điều khiển hay vì cực khổ nên hối hận? Cả hai thắc mắc không thấy Xuân Vũ đề cập tới, ngoài một thố lộ chân thành là Vũ Anh Khanh với người bạn kháng chiến Nguyễn hữu Trí, em ruột tướng Nguyễn thanh Sơn, xuất thân trong một gia đình vọng tộc, đại diền chủ tỉnh Vĩnh Long, và Vũ Anh Khanh cũng thuộc một gia đình giàu có ở Mũi Né, Phan Thiết... nên trong lúc cả nhóm đi cải thiện sinh hoạt, kiếm thêm chất tươi để bồi dưỡng vì thức ăn hằng ngày chỉ có muối, chao và các loại rau dại. Những lúc này, hình như Vũ Anh Khanh không biết làm gì cả ngoài việc quơ quào các thứ rau má ngoài vườn, hỏi sao không đi cắm câu, bắt cá thì ông chỉ cười và trả lời từ nhỏ tới lớn, gia đình không cho làm chuyện này, dù rằng tại quê hương Mũi Né của ông cũng có vườn, ruộng và biển. Thêm một chi tiết khác là ông còn độc thân cho tới lúc qua đời. Cũng theo lởi kể của Xuân Vũ, thì hai ông sống chung rất lâu nhưng năm 1954 tập kết ra Bắc, Xuân Vũ đi tại bến Chắc Băng, Cà Mâu và chỉ gặp lại Vũ Anh Khanh tại Hà Nội trong khu tập thể của dân Nam Kỳ tập kết.

+ XUÂN VŨ KỂ LẠI CÁI CHẾT CỦA VŨ ANH KHANH:

Ngay khi vừa ký kết hiệp định ngưng bắn năm 1954 tại Genève chia đôi đất nước, Bắc Việt đã mở ngay chiến dịch tuyên truyền về cái gọi là Kháng chiến VN, đánh dưổi Pháp-Nhật do đảng cộng sản lãnh đạo, bằng cách cho nhiều phái đoàn văn nghệ sĩ VN đến các nước thân cộng, cộng sản, trung lập hay có liên hệ ngoại giao để tuyên truyền. Trong chiến dịch qui mô này, Hồ đã cho Nguyẽn văn Bổng, tức Trần Hiếu Minh sau này được cài vào VNCH tổng chỉ huy đám văn nghệ sĩ nằm vùng, Ðoàn Giỏi, Anh Thơ, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Tuân đi Tân Tây Lan và Úc Ðại Lợi. Nguyễn đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng đi Liên Xô, Trung Cộng, Tô Hoài đi Ðông Âu còn Nguyễn công Hoan, Võ Huy Tâm, Phạm hữu Tùng và Vũ Anh Khanh đi Ấn Ðộ.

Trước khi đi, Khanh có đến thăm các bạn Nam Kỳ trẻ tập kết lúc đó chưa có tiếng tăm gì như Nguyễn quang Sáng, Bùi Ðức Ái, Xuân Vũ... đối với cây đại thụ trong làng thi văn Nam Kỳ là Vũ Anh Khanh. Bao nụ cười ra nước mắt, những đắng cay chua xót của kiếp người nhất là những người văn nghệ sĩ có tim, óc và tri thức đã được Xuân Vũ đắng cay cười cợt diễn tả nhắc lại qua các mẩu đối thoại giữa hai người bạn thân cùng trong cảnh ngộ lầm đường lạc lối, bỏ tất cả để hôm nay chuốc lấy sự nản phiền và đau lòng.

Có đọc Xuân Vũ mới biết về Vũ Anh Khanh, có nghe Xuân Vũ tự sự về bạn mình từ lúc sống với nhau trong khu đồng chua nưóc mặn ở tận cùng cảnh nghèo cực của miền tây Nam Kỳ và sau này trong thiên đàng xã nghĩa chết bỏ tại Bắc Việt, ta mới nghiêng mình cảm phục những tâm hồn hy sinh vì nước của các đại gia công tử giàu sang phú quý như Vũ Anh Khanh, như Trí và cũng vì đã từng sống trong cảnh giàu, trước khi dấn thân vào con đường chông gai chống Pháp, họ đã biết tự trọng như việc Vũ Anh Khanh mượn quần áo sang của Ðảng để diện khi đi ngoại quốc làm vẹt tuyên truyền, lúc về vẫn hoàn trả nguyên vẹn, mà theo bè bạn lúc đó là chuyện điên rồ. Cũng theo Xuân Vũ thì mới đây, nhà văn Nhuệ Hồng viết trên tờ Thời Luận hải ngoại, cho biết năm đó ông đại diện cho VNCH cùng đi dự Hội nghị các nưóc Á Phi và có gặp Vũ Anh Khanh tại New Delhi, thủ đô của Ấn Ðộ. Chắc chắn đây là nguyên nhân thúc đẩy ông tìm đường về Nam, một việc đã nung nấu từ lâu nhưng không thực hiện được hoặc vì một lý do thầm kín mà chúng ta không biết dược vì bản tính của Vũ Anh Khanh trước sau kín như bưng, kể cả người bạn thân Xuân Vũ cũng không hiểu đươc.

Sau khi ở hội nghị về, Vũ Anh Khanh có mua một chai rượu quý của Anh quốc để giải sầu với đám bạn bè Nam Kỳ tập kết. Theo Việt Thường trong tác phẩm "Chuyện thâm cung DTDHCM" thì năm đó (1956), tình hình miền Bắc vô cùng rối loan, nhất là trong Bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, thuộc sư đoàn của Ðồng văn Cống và Tô Ký, bất mãn nên nổi loạn cưóp phá tỉnh Ninh Bình, còn một số bỏ đơn vị trốn chạy về Nam. Giống như tâm trạng của những người bộ đội trên, Vũ Anh Khanh đã kín đáo mượn cớ đi Ấn Ðộ về, ông dùng rượu để chia tay bạn bè thay lời vĩnh biệt, vì sau đó trong một cuộc Hội nghị khoáng đại của Hội Liên Hiệp Văn Nghệ, Xuân Vũ mói biết tin Vũ Anh Khanh đã chết ở Vĩnh Linh, Quảng Trị vì tai nạn.

Sự thật theo tiết lộ của Võ hồng Cương, phó Tổng thư ký Hội cũng là Cục phó Cục Tuyên Huấn quân đội nhân dân Bắc Việt thì năm 1956, Vũ Anh Khanh được nghỉ phép ở Vĩnh Phúc nhưng ông đã sửa giấy phép thành vĩnh Linh, Quảng Trị và từ đó bơi qua sông Bến Hải quảng trên cầu Hiền Lương vài cây số, quyết tâm về Nam tìm tự do nhưng hỡi ơi Trời không thương người hiền, nên khi sắp tới bến tự do thì bị Bộ đội biên phòng bờ Bắc phát giác và để khỏi bị Ủy ban quốc tế làm biên bản vi phạm Hiệp định ngưng bắn, thay vì dùng súng, Việt Cộng dùng tên tẩm thuốc độc bắn chết Vũ Anh Khanh. Sông Bến Hải lớn hơn sông Mường Mán tại Phan Thiết và thủy triều lên xuống bất thường, nên xác của người chết nhất là một phạm nhân vượt tuyến nếu may mắn không bị trôi ra biển đông hay xuôi về mạn ngược, mà tắp vào một bãi bờ nào đó trong khu phi quân sự, thì chắc chắn cũng được dân chúng vùi dập vội vã để làm phước, chứ đâu có ai dám truy nguyên lý lịch của nạn nhân, để tự chuốc họa cho mình?

Mấy năm sau Xuân Vũ theo phái đoàn văn nghệ đi công tác ở Vĩnh Linh, Quảng Trị và ông cũng đã có ý định như Vũ Anh Khanh, bơi qua sông tìm tự do nhưng khi chợt nhớ tới giọng ngâm sang sảng năm nào của người quá cố: "Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn"... thì tỉnh ngộ, nhờ vậy trong cuộc trường kỳ "đường đi không tới" nhưng cuối cùng ông đã tìm được tự do thật sự khi ra hồi chánh vào năm 1965 tại Củ Chi, Hậu Nghĩa.

+ VŨ ANH KHANH, MỘT ÐỜI ÐÁNG KÍNH:

Sống trong buổi loan ly, nhà tan nước mất, chỉ có một thiểu số không tim óc dửng dưng nhìn thế sự xoay vần, mặc cho quốc dân bị đè bẹp dưới gót sắt của ngoại bang. Nhưng tuyệt đại đa số dân chúng VN đã đứng dậy hưởng ứng phong trào chống trả với giặc thù. Cuối tháng 12-1946, quân Pháp chính thức làm chủ Sài Gòn và cũng giống như lần trước, giặc đã gặp phải sự kháng cự của toàn dân. Lần trước vào năm 1862, người Việt dùng những vũ khí thô sơ và lòng yêu nước để chống chọi với súng đạn tối tân. Lần này, người Việt tuy vô Chánh phủ và thực tế chỉ là những lực lượng tự phát nhưng lại có trong tay các loại vũ khí hiện đại như người Pháp, của Nhật để lại. Thêm vào đó là tim óc của các tầng lớp trí thức tân học, thể hiện qua các tác phẩm tuyên truyền, những lời hiệu triệu, những tờ truyền đơn nẩy lửa, tố cáo sự dã man của Pháp, đồng thời kêu gọi toàn dân đứng lên đáp lời sông núi, tiêu diệt kẻ thù. Ngày xưa các cụ Ðồ Chiểu, Huỳnh mẫn Ðạt, Nguyễn Thông, Phan văn Trị... cũng đã từng dùng thơ văn cổ xúy cho cuộc kháng Pháp của Trương Ðịnh, Nguyễn trung Trực, Thủ khoa Huân, Thiên hộ Dương... nhưng lúc đó vì phương tiện và hoàn cảnh eo hẹp nên ảnh hưởng không được bao nhiêu. Trái lại khoảng thời gian năm năm 1945-1950, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nói chung là văn nghệ sĩ miền Nam đã tiếp tay cho kháng chiến một cách tích cực, góp phần lớn với toàn dân cả nước, tạo nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954, thu lại nền hòa bình độc lập cho đất nước.

Trong chiều hướng trên, các tác phẩm văn xuôi của Vũ Anh Khanh, từ truyện ngắn cho tới truyện dài, qua nhận xét của các nhà nghiên cứu văn học hiện đại, trong đó có giáo sư đại học Nguyễn văn Sâm, đều đáng được xem là những tiêu biểu nhắm vào các mục đích đấu tranh nhằm tố cáo chính sách ngu dân của thực dân Pháp, làm cản trở sự tiến hóa của dân tộc VN. Tình trạng tạo nên cảnh ngu dân này, trước đây cũng đã được các nhà ái quốc tiền phong như Phan bội Châu, Phan chu Trinh... đặt thẳng vấn đề với nhà cầm quyền Pháp nhưng có lẽ quyết liệt hơn hết là tôn chỉ của VN Quốc dân đảng, được cố Ðảng trưởng Nguyễn thái Học, viết trong bức thư tuyệt mệnh vào tháng 3-1930 gởi cho Hạ nghị viện Pháp, yêu cầu mở trường cũng như cải tổ nền giáo dục tại VN. Nối tiếp tâm nguyện của tiền nhân, Vũ Anh Khanh qua các tác phẩm BÊN KIA SÔNG và CÂY NÁ TRẮC, đã công khai tố cáo Pháp cố tâm ngăn chận sự học hành của VN, Trong truyện ngắn MỘT ÐÊM TRĂNG, Vũ Anh Khanh qua lời nhân vật của mình, đã thổn thức: "... Dân VN hiếu học nhưng bao lâu nay, họ cam tâm chịu dốt nát vì bị người ta tìm cách chèn ép... " Hậu quả trên đã tạo nên tuyệt đại tầng lớp dân chúng thất học, chịu câm lặng cúi gập trước nổi bất công phi lý, như hầu hết các nhân vật trong truyện dài NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ gánh chịu.

Song song, ông còn mạnh mẽ tố cáo Pháp cố tình tạo nên một xã hội băng hoại, để đầu độc dân tộc VN, là tác giả của những tệ nạn rượu chè, hút sách, cờ bạc, đĩ điếm, công khai khuyến khích hay dùng bạo lực bắt dân chúng phải mua rượu, trồng nha phiến, mở sòng bạc, ổ điếm. Tất cả những tệ nạn xã hội trên đều được Vũ Anh Khanh ghi lại đầy đủ và nát tim trong các tác phẩm BẠC XÍU LÌN, SÔNG MÁU và ÐẦM Ô RÔ... Tất cả các cơ sở trụy lạc trên đều nhan nhản khắp nước, đặc biệt là tại Hà Nội, Hải Phòng và nổi tiếng ở Sài Gòn-Chợ Lớn với hai sòng bạc Kim Chung và Ðại thế giới, do các xì thẩu Hoa, Ấn và Pháp kiều toa rập làm chủ, kết quả nhiều người Việt vì say mê cờ bạc, thần đề, bàn đèn, đĩ điếm... phải tán gia bại sản và cuối cùng đã:

“... bán con, thế vợ, đợ chồng
hết cơ, mất nghiệp, thần vòng rủ đi... "

Sau rốt, ông đã tố cáo thực dân làm cho người VN trở thành lạc hậu, hung tàn, mất hết bản tánh con người văn hiến. Trong lãnh vực này, Vũ Anh Khanh xứng đáng là một chiến sĩ, một nhà văn can trường khi dám dùng trí óc như những phát súng thần công nhắm thẳng vào bọn cầm quyền Pháp, lũ xì thẩu bất nhân Hoa kiều và đám tư bản bốc lột Ấn Ðộ, chuyên sống ký sinh trên thân thể đầm đìa máu lệ của người Việt, qua các truyện ngắn như "Sài Gòn ơi, Ma thiên Lãnh, Hối tắc..." Nói tóm lại dưới chế độ thực dân, qua nỗi nghèo cực tối tăm, người Việt không còn tương lai và gần như đánh mất hết đạo lý của thánh hiền, trở nên yếu hèn nông nổi vì quanh quẩn bị bạo lực vây bủa, kềm chế, sống trong cảnh một cổ bốn tròng, chia rẽ Trung Nam Bắc dù tất cả đều là VN và thê thảm nhất về kinh tế, Pháp và bọn ký sinh Hoa-Ấn hầu như nắm hết tất cả nguồn lợi quốc gia. Nạn đói năm Ất Dậu 1945 khiến cho hơn 2 triệu người bị chết đói, là hậu quả tất yếu của chính sách trên, sau này được Vũ Anh Khanh lập lại trong truyện dài ưng ý và nổi tiếng nhất của ông nữA BỒ XƯƠNG KHÔ... Văn chương của Vũ Anh Khanh phản ảnh đúng nét đặc trưng của người Bình Thuận, Phan Thiết luôn thấy sao nói vậy, ngay thẳng, trung hậu, không biết nể nang bất cứ ai đã làm bậy dù đó là cấp chỉ huy, thầy cô kể cả những thân quyến trong gia đình, vì vậy thật linh động, có lúc thống thết lâm ly, có khi mỉa mai cay độc nhưng vẫn không dấu nổi nét cảm khái hùng hồn, chưa chan niềm uất hận.

Vũ Anh Khanh hiện diện trên cõi đời thật ngắn ngủi (1926-1956), giống như hoàn cảnh của Vũ trọng Phụng cũng tài hoa lại vắn số, nhưng ông cũng đã làm tròn thiên chức của một thanh niên thời đại, trong cảnh quốc phá gia vong. Ðây cũng là cái giá trị cao quý nhất của kiếp người, nhất là giới mày râu hàng tri thức có lương tri và nhân phẩm, cái hào quang để thế nhân phân biện được hư thực, tốt xấu của con người. Sau năm 1975, nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc thẳng thắn bảo rằng, cái chết sớm của Vũ Anh Khanh là một hạnh phúc, để ông không trở thành ông bình vôi như hầu hết các văn thi sĩ tiền chiến đã lãnh nhận, trong suốt thời gian sống nhục nơi cõi thiên đàng xã nghĩa u trầm. Qua việc Vũ Anh Khanh tập kết ra Bắc năm 1954, nên nhiều người đã kết tội ông là cộng sản. Cũng vì lý do này mà suốt thời gian 1955-1975, tác phẩm của ông lại bị cấm tiếp, không được tái bản, lưu hành, không có tên trong chương trình giáo dục, dù năm 1956 ông đã bị cộng sản miền Bắc bắn chết trên sông Bến Hải, khi quyết lòng đi tìm tự do sau khi đã đối mặt với sự thật nảo lòng. Thật ra việc Vũ Anh Khanh có là cộng sản hay không, giờ này cũng chưa có ai xác nhận được vì trong 9 năm chống Pháp, CSVN đã núp bóng Việt Minh để quản thúc toàn dân kháng chiến và trong hàng ngũ kháng chiến Việt Minh lúc đó có đủ mọi thành phần, đảng phái. Vũ Anh Khanh, Xuân Vũ... hay mọi người khác trong dòng người yêu nước lúc đó, biết ai là Việt Minh hay Việt Cộng. Còn vấn đề về Tề hay tập kết phần lớn chỉ vì mang tâm trạng sợ bị trả thù, nên bặm môi tới đâu hay đó.

Nhưng thôi sự thật giờ đã rõ ràng, bộ mặt thật của cộng sản từ 1930-2007 cũng đã trôi hết lớp son phấn và huyền thoại, cho nên sự thức tỉnh của Vũ Anh Khanh năm 1956 là thái độ của một anh hùng đáng kính phục và mến mộ. Hơn nữa công hay tội của những người liên hệ tới lịch sử xin hãy để cho lịch sử định đoạt. Tự dưng tâm hồn cảm xúc và bối rối kỳ lạ khi bâng quơ đi vào ngỏ khuất của một phần đời nhà văn bị đời quên lãng VŨ ANH KHANH. Trong gió, trong mưa, trong cảnh mùa đông sụt sùi nước mắt, hình như có tiếng ai đang thì thầm: "Hãy khóc lên đi cho quê hương yêu dấu. Quê hương vẫn còn trong cơn ly loạn mà Anh nay ở đâu?"

Là một chiến sĩ cầm bút đầu tiên dám công khai chống lại Thực Dân Ðỏ là đảng CSVN, Vũ Anh Khanh xứng đáng được các thế hệ đồng thời cũng như tuổi trẻ hôm nay, qua các nhà trí thức trẻ đang dấn thân đấu tranh trong nước, mục đích đòi lại quyền làm người đã bị đảng CSVN cướp giựt từ mấy chục năm qua... lấy đó làm tấm gương chiến đấu với kẻ thù, dám nói lên sự thật, dù có chết nhưng còn hơn sống nô lệ nhục nhã. -/-

Xóm Cồn
Tháng 6/2007
HỒ ÐINH
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »

THẰNG LÍNH BẠC TÌNH

Nếu cấp số của đại đội là hai trăm thằng hoặc ít hơn thì bốn trung đội sẽ được chia gọn vào bốn phòng: I, II, III và IV. Vì một lý do không dễ hiểu, quân số đại đội của tôi có đến hai trăm mười mấy mạng, và theo danh sách thì tôi nằm cuối cùng; do đó, tôi và mười ba thằng kia bị đẩy vô phòng V.
Cái được gọi là phòng V, truớc kia, có lẽ được dùng làm nhà kho. Người ta kê đủ bẩy cái giường đôi trong đó rồi ấn đại chúng tôi vào. Tôi không ưa nơi cư trú bất đắc dĩ này và ghét thậm tệ những thằng ở chung phòng với mình.

Hai chữ "chúng tôi", trong trường hợp này, có lẽ cũng cần có đôi điều minh định. Mười ba thằng kia dứt khoát không phải là những sinh viên sĩ quan đàng hoàng tử tế. Phần lớn tụi nó đều là giáo sư, kỹ sư, hay cán sự gì đó và tất cả đều đã có vợ con hay đào kép lang chạ tùm lum hết trơn rồi. Trong tương lai chúng sẽ trở thành những sĩ quan biệt phái, hoặc lính ngành lính nghề vớ vẩn gì đó thôi. Còn tôi, tôi mới là sinh viên sĩ quan thứ thiệt. Với học lực được ghi trong hồ sơ là "sinh viên văn khoa năm thứ hai" thì chắc chắn tôi sẽ ra trường với ám số tác chiến, và đương nhiên sẽ trở thành loại lính "bóp cò".

Tất nhiên, tôi đủ khôn ngoan và lịch sự để không bao giờ nói ra những ý nghĩ "thầm kín" nàỵ Tôi cũng cố không tỏ ra khó chịu hay bực bội gì cả. Nói cách khác là tôi ăn ở cư xử hết sức biết điều; thế mà, vẫn không xong, vẫn chưa vừa lòng người - những thằng người... khốn nạn! Tụi nó kỳ thị tuổi tác ra mặt. Tất cả đồng lòng gọi tôi là "lính sữa".

Ðiều khổ tâm là tôi không thể nào chối cãi đuợc rằng mình không..."sữa". Bảng tên cùng số quân bắt đầu bằng hai số "72" gắn chình ình trên đầu giường ngủ là bằng chứng hùng hồn về số tuổi đời hơi yếu của tôi. Có thằng còn tuyên bố khơi khơi là nó sẽ gả con gái út cho tôi, nếu như tôi "ăn ở và cư xử...người lớn hơn chút đỉnh!"

Cái trò chơi mất dậy làm tụi nó vô cùng thích thú là thỉnh thoảng lại có đứa nằm hát ông ổng cho cả phòng nghe:"...năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai." Nó hát dở như cứt mà cả đám vẫn cứ nhao nhao vỗ tay, và thế nào cũng có một thằng chó chết nào đó xía miệng vào :

- Mà nó còn lâu mới tới hai mươi mốt tuổi. Thằng này vô "động" đâu có em nào dám tiếp.

- Ủa, sao vậy ?

- Mấy em sợ lỡ bị bắt thì ngoài tội mãi dâm ra còn dám bị ghép thêm tội dụ dỗ trai vị thành niên lắm.

- Ð...mẹ, vậy mà bữa trước xuống câu lạc bộ tao thấy nó cũng bầy đặt mua dao cạo râu.

- Chắc nó mua để cạo lông.

- Lông nó cũng cóc có.

- Có, tao xác nhận. Bữa trước tắm chung tao thấy rõ ràng nó có mấy sợi lông, lông măng !

Tụi chó đẻ cứ tung hứng như vậy hết chuyện này sang chuyện khác rồi cười rũ rượi với nhau. Thật ra, không ai bắt tôi phải nằm chịu trận mãi trong phòng với những thằng mất dậy này. Vào giờ nghỉ tôi có quyền đi xem phim, mướn truyện, hay la cà tán tỉnh mấy em bán cà phê ở khu gia binh...Ðiều phiền là cứ mười lần bước chân ra khỏi sân đại đội là có đến chín lần tôi... mắc nạn, những tai nạn lảng xẹt mà tôi vẫn cứ bị hoài hoài.

Tôi rất hay quên đội nón, quên gài nút áo, quên gôm ống quần. Toàn là những thứ quên lãng hợp lý nhưng lại không được chấp nhận ở đời sống quân trường. Tôi thích nhìn nắng chiều hay nắng sớm lao xao trên những hàng cây nên đôi khi còn quên luôn cả chào huynh truởng nữa.

Có lần tôi quên không chào một thằng huynh trưởng thuộc tiểu đoàn 6, đại đội 61, trung đội 612. Nó móc cái nón sắt trên cột hàng rào và bắt tôi phải chào cái nón thổ tả đó 612 lần trong khi nó ung dung ngồi hút thuốc

chờ tôi thi hành lệnh phạt. Nó đúng là một thằng...chó đẻ!

Lần khác, vào lúc trời vừa chạng vạng tối, tôi lạng quạng sao đó nên nhìn lầm một thằng siêu huynh trưởng ra một thằng cùng khóa. Nó đang đi tôi gọi giật lại để xin mồi thuốc. Khi ánh lửa que diêm vừa lóe lên thì nó chợt nhìn ra màu khăn và màu bảng tên trên ngực áo của tôi, mộ thằng "siêu đàn em". Nó gầm lên như một con hổ bị thương và bắt tôi phải "đột kích" xuống cái giao thông hào lõng bõng nước ngay trước mặt...bốn chục lần.

Sau những lần bị tai họa như trời giáng như thế tôi phải thu hết tàn lực mới lết được về phòng, nằm vật ra giường, trông thảm hại như một cái mền bông ngấm nuớc. Tụi mất dậy ở phòng V lại có dịp rú lên cười đùa châm chọc:

- Mẹ ơi, sao con khổ thế này!

- Ðã bảo rồi, đi đâu phải có người lớn đi kèm, không bỏ được cái tật "dế mèn phiêu lưu ký" thì còn khổ nhiều con ạ.

Tôi thề có đất trời chứng giám là nếu còn sức tôi sẽ vùng dậy đấm vỡ mặt tất cả những thằng khốn nạn ở chung phòng nàỵ Tiếc thay, tôi lại mệt gần chết. Thể chất tôi không mạnh bằng người. Tôi phải đau buồn mà công nhận như vậy.

Tôi sinh ra trong một gia đình có đến chín anh chị em, và là đứa con ra đời ngoài dự liệu. Lúc tám tuổi, khi khổng khi không, thằng anh kế của tôi lăn đùng ra chết. Khi đó, dù đã ngoài năm mươi nhưng bố tôi vẫn còn muốn ráng có thêm một đứa con để nuôi chơi trong lúc tuổi già. 'ng "ráng" không tới mức. Nếu người ta cần phải có cỡ một muỗm tinh trùng để tạo ra một thai nhi bình thường khỏe mạnh thì bố tôi, có lẽ, chỉ còn sản xuất được cỡ chừng vài ba giọt gì thôi.

Tôi gầy yếu là phải. Tôi chịu không nổi mấy chục lần đột kích hay vài trăm cái chào taỵ Tôi buồn bố mẹ tôi và giận mấy thằng bạn ở chung phòng. Tôi hay hình dung ra những màn phục thù lâm li, gay cấn.

Tôi tưởng tượng khi mình vừa ra trường đã may mắn bắn trúng ngay đầu "đồng chí" Trần Văn Trà hay Nguyễn Chí Thanh gì đó nên được đặc cách vinh thăng lên...đại úy và được chỉ huy nguyên cả một tiểu doàn. Cùng lúc thế nào cũng có vài thằng, trong số mười ba thằng khốn nạn ở phòng V, bị xếp tụi nó "đì" đi tác chiến và vô phúc lọt ngay vào đơn vị của tôi.

Coi : tôi đang ngồi ở văn phòng tiểu đoàn, ve cổ áo thêu ba cái bông mai đen thui, miệng ngậm ống tẩu, mặt nghiêm và buồn. Tụi nó khép nép bước vô, kính cẩn đưa tay chào trình diện. Với tất cả uể oải và lơ đãng, tôi sẽ đưa tay lên chào lại, mắt hơi nheo nheo, và miệng thì hình như có vẻ mỉm cười ...Chỉ một "show" này thôi cũng đủ làm tôi thích chết đi được và yên tâm đi vào giấc ngủ.

Tôi sẽ còn khổ lâu, không chừng là vĩnh viễn, nếu không lanh trí chụp lấy cơ hội "vùng lên làm cách mạng." Có chiều mới đi phép vào, vừa bước vô phòng, tôi đã nghe tụi nó cười như một lũ điên. Một thằng chợt hỏi:

- Ê, bộ mày đăng báo tìm bạn bốn phương hả ?

- Cái gì ?

Tôi giật thót người như bị điện giật. Tôi có thể làm hàng ngàn tỉ chuyện điên rồ nhưng "đăng báo tìm bạn bốn phương" thì không, không bao giờ, Giời ạ!

- Tao thấy có tên mày trên báo nè.

Nói rồi nó thản nhiên cầm tờ Văn Nghệ Tiền Phong đọc lớn cho cả phòng nghe:" Sinh viên sĩ quan Thủ Ðức hai mươi mốt tuổi đời, một phần ba tuổi lính, yêu màu tím hoa sim, thích nhạc họ Trịnh và giọng ca Chế Linh, cần tìm một em gái tuổi đôi tám...Nếu hợp sẽ đi xa trong tương lai. Thư về..."

Tôi ước ao ngay lúc đó có một quả bom nguyên tử nổ hay ít nhất thì cũng có được một con rắn cực độc ở đâu đó nhào ra cắn một phát cho tôi toi mạng. Làm sao tôi có thể tiếp tục sống được nữa sau một chuyện lố bịch và nhục nhã đến thế nàỵ Cách đùa giỡn ngu xuẩn của một thằng mả mẹ nào đó đã làm bầm dập quả tim vốn đã te tua tan nát của tôi từ mấy tháng naỵ

Tôi hay quên cài nút quần, nút áo và hay quên chào huynh trưởng chỉ vì tôi đang... thất tình - thế thôi! Tôi mới vào Thủ Ðức có hai tháng thì nhận được thư của một thằng bạn. Nó long trọng buồn bã báo cho tôi biết là "tao thấy Ngọc Quế đi với một thằng sinh viên chính trị kinh doanh." Trời đất, "tôi đi chinh chiến để nước yên vui", đâu phải chuyện chơi, sao lại có một thằng sinh viên vô lương tâm nào đó bò ngay vô mùng của người yêu tôi như vậy.

Tôi cố nghĩ rằng thằng bạn tôi đã trông lầm một con "khốn nạn" nào đó chứ không phải là Ngọc Quế; hoặc "lỡ" phải thì thằng sinh viên thổ tả nào đó chắc chắn chỉ là một người bà con xa gần gì đó thôi. Thiệt tình, tôi muốn viết thư hỏi thăm nàng về "người bà con" đó hết sức nhưng chỉ muốn vậy thôi chớ nhứt định không làm. Tôi ghen, giận, hận, buồn và - tất nhiên - tự ái. Tôi chỉ làm hai câu thơ ngắn gửi về Ðà Lạt thôi:

Ngày xưa chán ngấy giảng đường.
Bây giờ lê buớc quân trường, chán hơn!
Thư hồi âm chưa thấy đâu thì đã có chuyện "tìm bạn bốn phương" vô cùng tai hại nàỵ Tôi có cái tên nghe "ba tầu" chết mẹ, tầu hơn bất cứ một anh Tầu lai hay Tàu thiệt nào đã từng hiện hữu trên cuộc đời này, không thể nhầm hay lộn với bất cứ ai; đã vậy, chị em Ngọc Quế lại chuyên môn đọc báo Văn Nghệ Tiền Phong. Trời ơi, nếu mà nàng hiểu lầm rằng tôi đang "cần tìm một người bạn gái tuổi đôi tám" và "nếu hợp có thể sẽ đi xa hơn trong tương lai" thì sự nghiệp ái tình của tôi coi như là...chấm hết!
Bất thần tôi chộp cây M16 gần nhất trên giá súng, rút lẹ một băng đạn trong ba lô, nạp đạn, lên đạn rồi dí súng vô đầu thằng đang cầm tờ báo:

- Mày xé nát tờ báo tao coi.

Thằng em còn hơi có vẻ do dự thì tôi tôi mở khóa an toàn nghe cái "cốp":

- Chậm tay là óc mày sẽ biến thành đậu hũ tức thì...

Mặt nó đổi màu chàm, mồ hôi trán rịn ra thành giọt, nó run run xé tờ báo ra từng mảnh nhỏ. Tôi đảo mắt một vòng, mọi thằng đều lấm lét. Tôi bỏ súng trở lại giá, lững thừng trở lại giường nằm. Cả phòng im phăng phắc. từ đó, mấy thằng em ngán tôi thấy rõ.

* * *

Cũng kể từ đó cho đến chiều nay, khi tôi ngồi viết nhừng giòng chữ này, đã hơn hai chục năm qua. Hai mươi năm: biết bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước cống, nước rãnh...đã ào ào chẩy qua cầu qua cống rồi ? Thời gian chứng minh cho tôi thấy là "những thằng già khốn nạn" ở phòng V đều chịu chơi và chơi được. Chính tụi nó đã dậy cho tôi những bài học để đời về tình huynh đệ chi binh.

Khi mới ra trường tôi lãnh gần trọn một mùa mưa thối rừng thối đất. Có lúc thời tiết xấu đến độ đơn vị chúng tôi bị bỏ đói cả tháng trời chỉ vì chuyện tiếp vận vô phương thực hiện. Chúng tôi ăn rau bí và rau tầu bay chấm muối thay cơm. Cho đến khi muối cũng hết luôn thì tôi bắt đầu phát ... sảng. Tôi chửi rủa lung tung qua hệ thống máy truyền tin. Bộ chỉ huy không đứa nào thèm trả lời tôi. Tụi nó còn dọa đưa tôi ra tòa án quân sự về tội phát ngôn bừa bãi. Tôi cóc sợ. thỉnh thoảng tôi vẫn lên máy gào thét một cách vô vọng. Có hôm, bất chợt tôi nghe tiếng hỏi:

- Phải mày đang lải nhải như một con đĩ già ế khách đó không Lê Lai - Sơn Tây ?

Lê Lai - Sơn Tây có nghĩa là "lính sữa" và đây là danh hiệu truyền tin không mấy dễ nghe mà tụi phòng V đã "gắn" cho tôi kể từ khi thực tập bài học truyền tin ở quân trường. Tôi mừng quýnh:

- Phải Lê Lai - Sơn Tây đây. Xin lỗi thẩm quyền nào đầu máy vậy ?

- Thẩm quyền cái con...mả mẹ mày ! Tango - Tư Tưởng phòng V đây, nghe rõ trả lời ?

À ! thằng Tám Tàng, thằng mất dậy này sau khi ra trường về quân nhu hay quân vận gì đó. Nó thương tôi lắm. Nó "chuyên môn" lau súng giùm tôi mà.

- Ông đang ở đâu vậy Tango - Tư Tưởng ?

- Tao mới về làm sĩ quan tiếp liệu cho đơn vị nè.

- Ð...mẹ, vậy thì ông phải cứu tôi tức khắc. Lính của tôi sắp chết đói hết rồi.

- Bộ mày không đói chắc ?

- Ờ thì cũng đói thấy mẹ đây .

- Uống rượu được chưa con ?

Thưở ấy tôi uống rượu chưa được mấy nhưng vẫn cứ nói bừa:

- Ðuợc, dư được, nhưng lúc này nếu có cái gì để ăn thì có lý hơn.

Nó cười sằng sặc chế giễu:

- Nằm im đó đi, cỡ chiều là tao vô tới.

- Thiệt không ?

- Sao không ! Tao chơi chưa để thằng nào nói mà, tin đi.

Thiệt tình tôi "không tin" gì mấỵ Tôi biết rõ hoàn cảnh của mình hơn bất cứ ai. Chỉ có trời mới gỡ được cho tôi cú này thôi. Con đường duy nhất xe có thể chạy đến nơi tôi đóng quân được làm dở dang kể từ hồi còn Pháp, và đã bị bỏ hoang mấy chục năm rồi. Tụi công binh mới "clear" đâu chừng được một phần ba và chưa đổ đá. Mưa khiến con đường hóa lầy và có những đoạn nước từ triền núi đổ xuống y như thác vậỵ Xe nào mà vô nổi, trừ khi Tám Tàng kiếm được một cái xe ...tăng !

Tôi lại chui vào túi nghủ, lòng buồn, dạ đói, bụng hoang mang. Tôi ngủ với nhiều giấc mơ ngắn và đều có liên quan đến chuyện ăn. Tôi mơ thấy mình đi ăn với Ngọc Quế ở tiệm Tân Khánh Hoàn. Nắng chiều Ðà Lạt vàng ươm, rực rỡ. Tôi gọi bao tử xào dầu hào với rau bố xôi, cơm bò xào bông cải, và chim mía rô ti ...Rồi tôi thấy mình cùng với những thằng bạn ấu thời đi bắt dế ở phi trường Cam Lỵ Trên đường về chúng tôi bị mắc mưa nên chạy vào buôn Thượng. Bà mẹ người Thượng già cà răng móm mém chỉ chúng tôi

ngồi quanh bếp lửa rồi lấy thật nhiều khoai lùi vào tro. Khoai chín thơm lừng và thật ngọt. Có lúc tôi lại mơ thấy một bầy heo rừng vướng mìn Claymore bị nổ thịt văng khắp nơi. Cả đơn vị hớn hở vội vàng chụm lửa. Thịt heo nướng chẩy mỡ xèo xèo bốc khói làm cay mắt và ứa nước bọt đến tận răng...

Rồi tôi bỗng nghe tiếng máy truyền tin rè rè cùng với tiếng Tám Tàng yếu ớt:

- Lê Lai - Sơn Tây, Lê Lai - Sơn Tây ... đây Tango - Tư Tưởng ...

Tôi và người lính truyền tin cùng chồm dậy, anh ta vội vàng chuyền ống liên hợp cho tôi:

- Lê Lai - Sơn Tây nghe, ông đang ở đâu vậy ?

- Tao thua rồi!

Lần này thì giọng nói của nó nghe rõ vẻ thì thào. Tôi hoảng:

- Cái gì ? Ông đang ở đâu mới được chớ ?

- Mày đi theo con rắn lớn (con đường), qua giây ba chạc (ngã ba) một khúc xa, có thể cũng gần tới ...Tao không biết chắc ...Tao lên bộ trưởng (bị thương) rồi .

- Cái gì ? Ð... mẹ, đừng có giễu dở chớ Tango...

- ....

- Tango, Tango ...nghe không, trả lời ?

- Nghe ..mà đ...mẹ tao mệt qúa rồi. Mày lẹ lên...

- Tango ...Tango ...

Nó im luôn. Tức tốc tôi khều thêm mấy thằng em lầm lũi đi ngược trở ra. Tôi cắm cúi lầm lũi dưới mưa mà lòng dạ rối bời. Chừng ba tiếng đồng hồ sau, theo vết trượt của bánh xe, tôi thấy một cái Dodge nằm lật nhào dưới lũng. Thực phẩm rơi đổ tung tóe theo sườn núi.

Chúng tôi chạy vội xuống nhưng đã muộn. Tám Tàng bò được ra khỏi xe, nằm nghoẹo đầu trên máy, xác đã lạnh từ lâu. Tài xế và binh sĩ đi cùng chết kẹt trong ca bin. Chúng tôi cố mang xác họ ra cùng với cà phê, thuốc lá và cả can rượu đế.

Trời vẫn tầm tã mưa và lẫn trong nước mưa tôi biết có nước mắt của mình. Tôi thật sự bắt đầu uống rượu từ chiều hôm đó và uống luôn cho đến chiều nay. Ðã một phần tư thế kỷ qua mà mỗi lần thoáng thấy hơi men tôi vẫn nhớ đến Tám Tàng. Tôi uống rượu hoài hoài, phần lỗi, không chừng là do ...nó. Tôi muốn hành xác tôi chơi để Tám Tàng ...vui lòng nơi chín suối.

Sau Tám Tàng, tôi gặp lại một nhân vật nữa của phòng V - ở trại tù binh. Ngày xưa, nó chính là thằng đã tuyên bố sẽ gả con gái út của nó cho tôi nếu như tôi "ăn ở và cư xử người lớn hơn chút đỉnh."

Thằng này ra trường về làm sĩ quan thảo chương viên cho Bộ Tổng Tham Mưu. Nói cách khác nó chỉ là một thứ chuyên viên xử dụng máy vi tính cho quân đội. Chỉ có vậy thôi mà đảng và nhà nước phải đẩy nó tuốt ra miền Bắc mới yên tâm.

Lúc chia tay nó dấm dúi hết cho tôi những thứ qùa vừa nhận được của gia đình, kể cả chút tiền và ít thuốc tây. Tất nhiên, tôi từ chối:

- Ông cần mấy thứ này hơn tôi chớ.

Nó cầm tay tôi, nghiêm nghị y như là cảnh Nguyễn Phi Khanh dặn dò Nguyễn Trãi ở Ải Nam Quan vậy:

- Tao cần mẹ gì nữa. Chuyến này kể như là tao đi đứt rồi. Mày còn trẻ, lại không bị tụi nó đì ra Bắc. Thủ mấy thứ này cho ấm thân và cố giữ lấy mạng để còn có lúc trở về. Phải về lo lấy lại đất nước và trả thù cho tụi tao, nhớ chưa ?

- Nhớ !

Xui cho nó, tôi không thuộc tip người Nguyễn Trãi. Tôi chỉ nói đại mẹ là "nhớ" để nó yên tâm đi vào chỗ chết. Thiệt tình thì tôi không nhớ gì hết ráo. Sau vài năm tù, tôi được thả về y như nó dự đoán. Có điều tôi tuyệt nhiên không hề lo chuyện "lấy lại đất nước" như đồng đội đã dặn dò ; đã vậy, tôi còn bỏ nước để chạy tháo thân và lập tâm chuyến này là ...dông tuốt!

Cái thứ người như tôi cứ mỗi lần nhậu xỉn mới chợt nhớ ra mình đã từng là lính, mới ba hoa về những năm tháng tù đầy, mới khề khà luận bàn về tình chiến hữu, về chuyện đấu tranh...này nọ. Tỉnh ra tôi lại lút cút đi làm, lại sống như mình chưa hề là lính, chưa từng có thằng vì tôi mà bỏ mạng, chưa có đứa đã chí tình dặn dò tôi lo chuyện quang phục quê hương. Lính có năm bẩy đường, năm bẩy thứ. Cái thứ như tôi ngó bộ có hơi kỳ và cũng hơi nhiều.

Tưởng Năng Tiến
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

MÙA XUÂN NÀO TA VỀ .

.
Xuân lạI về … Tết lạI đến

Đã 33 mùa xuân ,sau biến cố 30 tháng Tư Đen .Đồng bào di tản tha hương lạI đón cái Tết thứ 33 nơi xứ ngườI ! Trước cảnh ồn ào của một số đồng bào chuẩn bị về quê ăn Tết .Hẳn trong đầu mọI ngườI tha hương ,có đôi lần nẩy ra ý nghĩ :”Mùa Xuân nào ta về đây ? “

Nhớ thưở năm xưa tạI quê nhà .Những năm đầu của thờI đệ nhất cộng hòa .Chúng ta được vui xuân đón Tết trong không khí thanh bình đầm ấm .ThờI kỳ của những năm 1955-1960.MọI nhà có thể du xuân đón tết chạy dài từ Bến HảI đền Cà Mau ,trong cảnh hòa bình hoan lạc .Thật đúng thờI kỳ :
‘Nước thanh bình ,ba trăm năm cũ ,
Aó nhung trao ,quan vũ từ đây …”

Nơi nơi mừng xuân ,nhà nhà đón tết .Đồng bào miền nam vui xuân ăn tết ba tháng .Đúng như cảnh ông bà ta ngày xưa :”Tháng giêng là tháng ăn chơi .Tháng hai cờ bạc .Tháng ba hộI hè .Tác giả nhớ lạI năm 1958 .ThờI gian theo học khóa sĩ quan pháo binh tạI thành Pháo thủ Bình Dương …Dân chúng Việt Nam ,nhất là ngườI Việt gốc Hoa đón Tết Nguyên Tiêu (rằm tháng giêng ) rất lớn và trang nghiêm .Có những tiệm buôn đóng cửa ăn Tết Nguyên Đán đến lễ Nguyên Tiêu mớI mở cửa khai trương .Vào dịp này ,nhà nhà đều đốt pháo mừng năm mớI .Những dây pháo dài trên 10 thước .Từ lầu ba sân thượng chấm tờI đất chưa hết .Mầu sắc pháo toàn hồng nổ tan .Chen lẫn mùi khét lẹt của thuốc pháo ,tỏa ra quyện vào làn sương mai buổI sáng một mùa xuân ám áp .Tạo nên một sự hưng phấn yêu đờI ,rộn ràng nơi mọI ngườI đang sống trong một đất nước tự do trù phú .Ôi những mùa xuân thanh bình chân quỳ và mơ ước làm sao !

Nhưng khốn thay ,dân chúng miền nam Việt Nam chỉ được hưởng thanh bình vài mùa xuân trọn vẹn .Từ cuốI năm 1960 ,từ ngày cái mặt trận ác ôn giảI phòng miền nam ,con đẻ của đảng cộng sản miền bắc ra đờI !Từ năm đó về sau ,dân chúng miền nam không có mùa xuân trọn vẹn .Bọn việt cộng bắt đầu khủng bố ,ám sát ,giết tróc ,đào đường ,đắp mô ,phà cầu …Chúng gây bao cảnh chết choc tang thương ! Những cảnh LXuân này con không về .Đồn vắng chiều xuân ,Mùa xuân của mẹ …”đã diễn ra từng nhà con dân nước việt .

Đến mùa xuân năm 1968 .Dân chúng miền nam Việt Nam đã trảI qua một mùa xuân Mậu Thân đau thương tang tóc ! Bọn việt công lợI dụng thờI gian hai bên hưu chiến ,để hai bên vui xuân đón tết .Chúng đã bất thần tấn công tất cả tỉnh thành miền nam việt nam .Chúng đã gây chết chóc ,tang thương cho hàng ngàn con dân vô tộI xứ HUẾ .Những mồ chôn tập thể của việt cộng được khai quật sau tết Mậu Thân .Dân Việt Nam ,nhất là dân đất Thần Kinh suốt đờI không quên Xuân Mậu Thân 1968 .Một mùa xuân hận thù tang tóc do bọn việt cộng gây ra .’Những giảI khăn sô cho Huế “không bao giờ quên được trong lòng ngườI dân Việt .

Sau Tết Mậu Thân ,mỗI độ xuân về tết đến .Trên bàn thờ mỗI gia đình khói hương nghi ngút ,con cháu quây quần quanh ông bà cha mẹ đón xuân về …Nhưng cũng có nhiều gia đình còn vắng bong ngườI thân .Con cháu họ đang đón xuân nơi tiền đồn heo hút .Thản hoặc có gia đình trên bàn thờ còn có di ảnh chồng con , đã hy sinh cho tự do dân tộc !

Biến cố 30 tháng 04 năm 1975 sập đến !Cộng sản miền bắc cưỡng chiếm miền nam .Sau sự sắp đặt của thế lực các cường quốc trên thế giớI .Cả nước Việt nam từ ẢI nam quan đến mũi Cà Mâu ,bị áp đặt dướI chế độ cộng sản bạo tàn !Từ năm 1975 trở về sau ,dân miền nam Việt Nam lạI có những mùa xuân chia ly tan tác ! Một số lớn dân quân cán chính VNCH ,bị bắt tù đầy từ nam ra bắc …Nhiều chiến hữu đã phảI đón đến 17 mùa xuân trong lao tù cộng sản !Gần ba triệu đồng bào đã bỏ nước lưu lạc khắp nơi trên Thế giớI !Những ngày xuân về tết đến .Hơ đã ngậm ngùi đón những cái tết tha hương .Thiếu vắng bao ngườI thân đã khuất hay còn kẹt trong lao tù cộng sản tạI quê nhà !

Đến năm 1995 ,chính phủ Mỹ bỏ cấm vận và ký các hiệp ước giao thương vớI cộng sản Việt Nam .Các công ty hàng không Hoa Kỳ và các nước ngoài ,dần dần mở các chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam .Cứ mỗI độ xuân về .Một số đồng bào trở về quê đón tết mừng xuân …Dân tộc Á Châu ,nhất là dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu quê hương ,yêu đồng bào ,họ hàng không thể xa rởI được .

Sau biến cố 30 tháng Tư Đen .Nước Mỹ đã mở rộng vòng tay đón nhận và cưu mang trên một triệu ngườI Việt Nam di tản .Nước Mỹ ,một nước đầy cơ hộI ,tự do ,có nền văn minh nhất thế giớI .Sau 33 năm xa quê hương ,sanh định cư tạI Hoa Kỳ .Số lớn đồng bào ta đã tạo dựng được cơ nghiệp khấm khá ,con cháu họ học hành thành đạt .Cũng vì tình yêu quê hương ,họ hàng …Hàng năm số tiền họ gửI về giúp đồng bào ,họ hàng đã lên đến trên 05 tỷ mỹ kim !Một số tiền quá lớn ,để nuôi sống và bồI đắp chế độ cộng sản ngày thêm vũng mạnh .

Thoạt đầu một số đồng bào ,hay cựu quân nhân dướI thờI VNCH .Sau ngày 30 tháng Tư ĐEN ,đã từng bị cộng sản tù đầy nhiều năm dài ! Vì xa quê hương hang mấy chục năm .Lòng nhó cha mẹ ,anh em ,họ hàng ,mồ mả ông cha …Hoặc vì lý này lẽ nọ .Họ đã trở về việt nam một cách lặng lẽ ,rồI trỏ lạI Mỹ âm thầm .Chúng ta cũng thông cảm …ĐờI sống của các ngườI già bên Mỹ rất cô đơn hưu quạnh ! Hàng ngáy chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường .Không tiếp xúc vớI thế giớI bên ngoài .Con cái của họ hàng ngày đi làm .CuốI tuần còn lo cho vợ con …Cũng vì tránh cảnh cô đơn buồn chán Một số lớn các cụ già đành phảI quay về việt nam ,sống hết chuỗI ngày còn lạI …Chúng ta cũng không lấy làm lạ ,khi thấy các vị HO đã trỏ về việt nam sống vớI các con cháu .Điển hình như cố họa sĩ Tạ Tỵ ,cấp bực cựu TR/Tá VNCH ,đã đi tù nhiều năm ở miền bắc .Ông đã trở về sống vớI con cháu ở Sai Gòn . Sau một năm vì bệnh hoạn ông đã qua đờI.Còn biết bao vị sĩ quan qua Mỹ theo diện HO .Cứ hai ba năm ở Mỹ ,lạI trở về Việt Nam một thang sống vớI con cháu .Chúng ta cũng thông cảm cho các vị này.Bất đắc dĩ ,vì tình cảm thiêng liêng ,không đành !

Nhưng trái lại cũng có những lớp ngườI .Ở Mỹ thì đi cầy mửa mặt .Tiêu pha hà tiện ,bòn góp từng đồng !Khi gom được vài ba ngàn ,lạI đóng vai (Aó gấm về làng ) !Về tớI Việt Nam làm ra vẻ ta đây ,ôm mác việt kiều ,coi trờI bằng vung ,ăn nói linh tinh ,thật đáng buồn !Nhưng khi trở lạI Mỹ ,họ khen việt cộng bây giờ cái gì cũng tốt cũng hay !? Nhưng họ đâu có biết ,đó chỉ là hào nhoáng bề ngoài ,phồn vinh giả tạo !

Còn một loạI ngườI ,luôn luôn như con rốI trong các giai đoạn của đất nước !Điển hình như tướng Râu Kẽm ! Ông đã cam tâm về Việt Nam hợp tác vớI việt cộng . Ông đã tuyên bố vung vít ,đả kích khốI cộng đồng hảI ngoạI ,tâng bốc chế độ cộng sản để lấy lòng .Mong kiếm chút cháo trong buổI xế chiều .Thật nhục thay cho một bạI tướng hết thờI ,còn quậy gì đây ?

Cộng sản việt nam nhìn thấy mốI lợI to lớn của khốI ngườI việt hảI ngoạI .Nhất là tạI Hoa Kỳ ,số ngườI Việt lên tớI hơn một triệu ngườI .Một con số đáng kể ? Sau 33 năm lưu vong tỵ nạn ,đồng bào ta đã ăn nên làm ra .Con em họ đã tạo nên một khốI chất sám đáng kể .Vì lẽ đó ,việt cộng đã tung ra nghị quyết 36 ,để vừa o bế vừa răn đe khốI ngườI việt (khúc ruột ngàn dặm ) này .Chính quyền việt cộng đã từng tuyên bố : tết năm 2005 có trên ba trăm ngàn kiều bào về quê ăn tết .Hơn nũa chúng thường rêu rao :đất nước đã đổI mớI ,đã tự do ?Nếu không tạI sao đồng bào ta cứ ùn ùn kéo nhau về quê ăn tết ? Nhưng họ đâu có biết .Không hẳn một thiểu số ngườI việt về quê ăn tết là ưa thích chế độ cộng sản ? Hay họ chỉ vì yêu họ hàng ,nhớ quê hương mà trở về đùm bọc ,giúp đỡ thân nhân trong dịp xuân về .Hy vọng một mùa xuân tương lai thang bình ,tự do thật sự sẽ đến vớI đất nước …

Ngoài một số nhỏ ngườI việt hàng năm trở về quê ăn tết .Còn đạI đa số ngườI việt di tản .Sau 33 năm bỏ mồ mả ông cha ra đi tìm TỰ DO .Họ luôn luôn nhớ lạI cảnh gia đình tan nát ,chồng con bị vùi thây ngoài biển cả ,hay bị tù đầy trong các trạI tù cộng sản !Làm sao họ quên được mốI thù này? Luôn luôn họ mơ ước một mùa xuân ,như mùa Xuân Kỷ Dậu (1789 ) năm xưa tái diễn Ngày mà Vua Quang Trung kéo đạI binh ra bắc ,đánh tan quân Mãn Thanh ,đem lạI Tự Do no ấm cho toàn dân Việt .?

Năm nay ,năm Mậu Tý 2008 .Mùa xuân con Chuột đã đến .Chúng ta có quyền hy vọng .Một mùa xuân đoàn tụ ,tự do ,hạnh phúc đến vớI mọI nhà …Một mùa Xuân vớI hàng hàng ,lớp lớp quân Nam trở về quét sạch bong tốI âm u của loài quỷ đỏ .GiảI phóng trên 80 triệu đồng bào ở quê nhà .Chính thực ngày đó mớI là ngày :”MÙA XUÂN NÀY TA VỀ “ ./.

San Diego ,Xuân Mậu Tý (2008 )

Lê Văn Nghị .
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image


GIỜ THỨ 25 .
.

Lê Văn Nghị .
Thấm thoát 32 năm miền nam Việt Nam bị bọn cộng sản cưỡng chiếm đã trôi qua ! Hằng năm cứ đến ngày Quốc Hận 30/04/1975 .Những ngườI Việt tha hương di tản khắp thế giớI đều nhắc để tưởng nhớ 05 vị tướng vị quốc vong thân : Tướng Nguyễn Khoa Nam ,Lê văn Hưng ,Phạm văn Phú ,Lê nguyên Vỹ và Trần văn Hai .Các vị tướng này đã nêu gương tiết liệt , như các tướng Võ Tánh ,Hoàng Diệu ngày xưa .Khi thành mất thì chết theo thành .Ôi quang vinh và oanh liệt thay !Nhưng còn bao gương hy sinh trong hàng ngũ quân cán chính chưa được nhắc đến .Nhân mùa quốc nạn năm nay .Chúng ta hãy tưởng niệm chiến hữu cố Thượng sĩ Nguyễn văn Ba .Một trong những chiến sĩ vô danh ,thuộc đơn vị Sư Đoàn sét miền tây .

Chiến hữu Nguyễn văn Ba quê miền đồng bằng sông Cửu Long .Cha mẹ mấy đờI nông dân chất phát,chân lấm tay bùn .Nhưng ông vớI bản tính cương trực ,sớm nhận rõ chế độ cộng sản bạo tàn .Ông đã tình nguyện đầu quân diệt cộng ,trong hàng ngũ pháo thủ dướI thờI quân độI Pháp ,rồI chuyển qua QLVNCH .TrảI qua bao cuộc hành quân gian nan vất vả .Từ miền đông sang miền tây ,vào tận chiến khu D để tiêu diệt bè lũ cộng phỉ …

Khi tôi đáo nhậm Tiểu Đoàn 213 Pháo Binh đã có ông rồI .Ngày đó chức vụ của ông là Thượng sĩ thường vụ của Tiểu đoàn .Cũng phảI kể sơ vị trí tiểu đoàn trước tháng tư Đen .Tiểu Đoàn đồn trú trong vòng thành của phi trường Sóc Trăng .Khi quân độI Mỹ rút khỏI Việt Nam ,để lạI mọI cơ cấu phòng thủ phi trường cho QLVN CH . Trú đóng trong vòng phi trường gồm hậu cứ 03 Tiểu đoàn Pháo Binh (TĐ 210/PB , TĐ 212/PB ,TĐ 213/PB ) ,một đơn vị tiếp vận của Quân Đoàn ,cùng một bộ phận của Phi Đoàn 116 Không Quân .Lúc tình hình sôi động ,phi trường được tăng cường thêm một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân .

Chiến hữu Nguyễn văn Ba ,luôn luôn nêu gương mẫu của ngườI lính VNCH.Ông đã theo đúng phương châm của Quân ĐộI :”Tổ Quốc ,Danh Dự ,Trách Nhiệm “.MọI công tác cấp trên giao phó ,ông đều hoàn thành tốt đẹp . Ngoài ra ông luôn tạo tinh thần (Huynh đệ chi binh ) giữa các cấp trong đơn vị .Tính tình hòa nhã đốI xử vớI cấp dướI .Trái lạI ông rất cương quyết ,áp dụng mọI hình phạt kỷ luật vớI các chú lính ba gai .Chiến hữu Ba thường kể cho các chàng lính trẻ nghe đờI pháo thủ của ông .Qua bao thăng trầm từ quân độI Pháp chuyển qua QLVNCH ,vớI bao chiến công hiển hách .Những chàng pháo thủ trẻ ,thường tôn kính ông gọI ông vớI biệt danh :”Ông già pháo thủ “ .Ông thường nói :’Dân pháo thủ là dân ăn no vác nặng “.Trong những giờ nghỉ giảI lao sau buổI tạp dịch .Các chú lính trẻ thường vây quanh ông ,nghe ông kể chuyện tiếu lâm để quên nhọc mệt .Đôi lần ông vừa kể vừa pha trò nói :
‘”Ai ơi đừng lấy Pháo Binh ,
Đêm về nó bắn rung rinh cả giường !”

Từ đầu tháng tư năm 1975 ,tình hình quân sự càng đè nặng trên phần đất của VNCH …Đến ngày 20/04/1975 vùng 1 và 2 đã rơi vào tay quân cộng sản bắc việt .Quyết định của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ,vớI chiến thuật di tản …Khiến bọn cộng sản bất chiến tự nhiên thành .Cũng vào thờI điểm này ,quân dân vùng 4 chiến thuật chuẩn bị một cuộc thư hùng vờI cộng sản . Qua những buổI hộI ý vớI ban tham mưu Tiểu Đoàn ,chiến hữu Ba tăng cường hỏa lực trên hai pháo đài mạn đông và bắc của Tiểu đoàn .TạI mỗI pháo đài hỏa lực gổm :một đạI lên 50 ,một súng phóng lựu M79 vớI hai cấp số đạn và 10 thùng lựu đạn tay . Ở vị trí này 24/24 có HSQ trực xạ thủ và có máy vô tuyến lien lạc vớI hầm chỉ huy của Tiểu Đoàn .Tuyến phòng thủ này do chiến hữu Ba chỉ huy .

Khoảng 02 giờ sáng rạng ngày 30/04/1975 .Bọn cộng sản mở các đợt tấn công vào các Tiểu khu Vĩnh Bình ,Phong Dinh và Sóc Trăng .Phi trương Sóc Trăng cùng chung số phận ,chống trả các đợt tấn công tiền pháo hậu xung của cộng sản .Qua các đợt tấn công vào hướng đông của Tiểu đoàn .Hướng này ,những thửa ruộng lúa qua thờI vụ trống trảI .Tiếp giáp vớI những hàng rào kẽm gai dầy đặc mìn định hướng .Bọn cộng phỉ đã để lạI nhiều xác chết ,do những tràng đạI liên 50,phóng lựu M79 do chiến hữu Ba điều động rất chính xác .

Tôi thường xuyên di chuyển qua các giao thông hào ,nung đúc tinh thần chiến đấu của các anh em pháo thủ .Có nhiều lúc tạm ngưng tiếng súng ,bọn cộng phỉ len vào tần số Tiểu Đoàn .Chúng gọI đích danh tên Tiểu đoàn trưởng ,ra lệnh cho anh em buông súng đầu hàng .Nhưng tôi đã trả lờI ,ra lệnh cho âm thoạI viên :”Quân lực VNCH ,quyết tâm chiến đấu đến ngườI lính cuốI cùng .”

Vào khoảng 09 giờ 30 sáng ngày 30/04/1975 .Bọn cộng sản pháo đợt cuốI cùng bằng đủ loạI súng 61 ,82 và 120 ly vào vị trí Tiểu Đoàn .Một quả đạn rơi trúng vào phân xưởng sửa chữa xe đệ nhị cấp của Tiểu đoàn .Mảnh đạn quái ác đã chém trúng đầu chiến hữu Nguyễn văn Ba !Tôi được tin ,liền chạy lạI chỗ ông nằm .Những mảnh óc bầy nhầy còn vương vãi quanh ông !Tôi vuốt mắt ông lấn chót .Cố ngăn dòng nước mắt trào ra …Nghĩ trờI xanh quá oan nghiệt !Đã cướp đi một chiến hữu tài giỏI ,đôn hậu vào giờ thứ 25 !

Qúa trưa ngày 30/04/1975 .Trong hầm chỉ huy của Tiểu Đoàn ,tôi nhận lệnh của Chỉ huy Trưởng Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 21 BB lần cuốI (Trung Tá Nguyễn Bá Nhẫn ),sau thờI gian đi tù về ông đã qua đờI ! :
_ Cậu mở máy radio mà nghe ,Dương Văn Minh ra lệnh buông súng !
_ ý thẩm quyền thế nảo ?
_ Tôi là quân nhân phảI chấp hánh lệnh .Cho anh em tan hàng !
Trong lúc náy tai tôi nghe lùng bùng,đầu choàng váng gần như té xỉu ? Tôi cố ngăn hai dòng lệ trào ra khóe mắt .Ra lệnh cho anh em pháo thủ buông súng tan hàng !Trung sĩ Hạnh ,ngườI đã theo tôi ngày còn cấp bậc binh nhì .Ngày đó ,tôi mớI ra trường đi Tiến sát viên Pháo Binh ( Đề lô ) .Câu hỏI mà bây giờ sau 32 năm ,tôi còn nhớ in trong đầu :
_ Mình bây giờ tan hàng rồI đi đâu ,thẩm quyền ?
_ Thôi các anh em ai trở về nhà nấy !Vận nước đã đến ngày tàn rồI !
MớI ngày nào ,năm nay lạI đến ngày kỷ niệm 32 năm tháng Tư Đen ! Ngày Quốc Hận ,ngày tang của toàn thể quân dân cán chính VNCH .Cũng ngày này ,ngày giỗ lần thứ 32 của chiến hữu Nguyễn Văn Ba .Một chiến sĩ vô danh ,đã nằm xuống vào giờ thứ 25 !
Thay mặt toàn thể anh em các cấp trong Tiểu Đoàn 213./ PB .Chúng tôi thắp nén hương lòng tưởng nhớ đến bạn .Một chiến hữu Pháo Thủ quả cảm ,sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam ./.


San Diego ,ngày Quốc Hận 2007 .
Lê Văn Nghị .
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

HỒI CHUÔNG GIÁNG SINH

Trần Thị Lai Hồng
Chuyện có thực xẩy ra năm 1964 tại Ba Lan, quốc gia Trung Âu trong thời kỳ cộng sản Liên Xô thống trị - từ 1952 đến 1989. Nhân dân Ba Lan đã can đảm đứng lên phản đối chế độ hà khắc của xã hội chủ nghĩa, bằng những cuộc đình công đại quy mô do Công đoàn Đoàn kết hướng dẫn. Hơn thế nữa, nhân dân Ba Lan còn bày tỏ chống đối bằng cách bỏ phiếu thầm lặng với những bàn chân di tản – tuy không rầm rộ ào ạt như những đợt di tản hàng triệu người Việt Nam năm 1954 và sau 30 tháng Tư năm 1975 – nhưng âm thầm tiếp nối không dứt, tìm cách vượt thoát vòng vây hàng hàng lớp lớp rào kẽm gai bao quanh biên giới, để lọt sang các quốc gia Tây Âu tìm tự do.

Tuy khung cảnh có khác nhưng tình tiết cũng quen thuộc như xẩy ra đâu đó sau những lũy tre xanh quanh những dòng sông êm đềm làng cũ Bùi Chu Phát Diệm Hố Nai Quỳnh Lưu Diễn Châu …

Hồi Chuông Giáng Sinh gửi đến mọi người tỵ nạn nói chung và đồng bào tỵ nạn Việt Nam nói riêng, những tình cảm sâu đậm cùng những lời chúc lành trong lễ Giáng Sinh và Năm Mới, với ước vọng có ngày sớm được nghe tiếng chuông tự do ngân vang trên khắp quê hương ngàn đời yêu quý.

* * *

Họ lũ lượt kéo nhau đi cả mấy tuần nay. Đoàn lữ hành gồm đủ trẻ già lớn bé. Họ là dân làng Pinsk, một làng nhỏ phía Đông Ba Lan.

Ba Lan vốn là một quốc gia tự do, dân chúng hầu hết là tín đồ Công giáo, chất phác, hiền lành. Khi Liên Xô khởi động cách mạng vô sản, Ba Lan rơi vào bàn tay sắt đá của Cộng sản vô thần, và chịu đàn áp của Nhà Nước bù nhìn do Liên Xô xách động. Chiến tranh thật tàn nhẫn, nhưng hòa bình chẳng mang lại gì hơn ngoài những gọng kìm ngày một siết chặt vào cổ họng dân lành.

Đêm buốt lạnh. Dọc theo quốc lộ, những bụi cây tuyết phủ trắng xóa gập mình như những ông già bà cả tóc trắng oằn người dưới gánh nặng thời gian và trách nhiệm.

Một vì sao bừng sáng xé màn đêm đen. Vì sao sáng lơ lửng cuối đường như dẫn lối. Rồi nhiều vì sao vụt bừng khắp bầu trời. Đoàn lữ hành vẫn cắm cúi còng lưng trên tuyết, không nhìn thấy những vì sao long lanh trên cao. Với họ, những người tìm tự do từng lang thang chịu đựng bao đau khổ nhục nhằn, thì năm tháng, thời gian, mùa màng, thời tiết … chẳng còn có nghĩa gì nữa.

- Còn xa không anh?

Đó là câu hỏi của Kasia. Con bé khoảng sáu tuổi, kéo tay thằng anh khoảng mười lăm. Cả hai đứa ở mãi tít đằng đuôi đoàn người dài ngoằn ngoèo. Kuba nhìn em:

- Không xa lắm. Có một làng gần đây và mình sẽ xin qua đêm ở đó. Ngày mai sẽ đến nơi hẹn.

- Tới Kopernik?

- Ừ, Kopernik. Kasia, cứ nghĩ là sẽ gặp má, ba và anh Jan ở đó đang đợi anh em mình.

- Còn ông nội?

- Ừ, gặp ông nội nữa!

Kuba xoa hai tay, hớn hở:

- Dám ông nội đang kéo chuông đổ hồi tại nhà thờ để mừng Giáng Sinh rồi! Anh nhớ hồi còn ở làng Pinsk, ông nội từng kéo chuông. Thần tình! Tuyệt diệu!

Trong đầu Kuba, hình ảnh ông già hiện ra. Ông nội, người chuyên việc kéo chuông giáo đường. Ông kéo chuông với tất cả say mê thần thánh, say sưa truyền sinh lực sung mãn, đức tin cao cả, lòng tôn kính vô bờ phát xuất từ thể xác, tâm hồn và trái tim. Hai cánh tay ông nâng niu đong đưa sợi giây huyền bí thòng từ vòm gác chuông, nhịp nhàng tuôn chảy những hồi chuông ngân nga vang động từ đầu làng đến cuối thôn. Từ thời còn trai tráng lực lưỡng cho đến nay trở thành một ông già tóc bạc lưng còng, ông sống với những hồi chuông giáo đường trong thời Ba Lan tự do. Những hồi chuông xưa vẫn âm vang trong tâm hồn Kuba.

Khi chúng bắt cha của Kuba đem giam trại cải tạo và mẹ em phải sung vào đoàn lao động công trường mỏ than, chính ông nội là người săn sóc ba đứa cháu. Nhưng khi chúng đến làng Pinsk xua dân đi Siberia, gia đình này ly tán lần nữa. Và lần này ông nội phải lìa đám trẻ.

Ông bị đưa đi hơn hai tháng nay, nhưng đã nhắn lại cho cả gia đình tìm cách vượt thoát đến làng Kopernik sát biên giới, để đoàn tụ và vượt biên.

Gần nửa đêm. Kuba chạy trước, tiến về phía một căn nhà trong làng. Vừa đến gần, Kuba thất vọng quay nhìn em, la lên:

- Kasia! Nhà này sập rồi!

Chạy sang căn kế, mái đổ tường xiêu dưới ánh sao. Căn thứ ba cũng vậy. Tim Kuba thắt lại. Mắt ngấn lệ. Tuy nhiên, nó vẫn cố sục sạo.

Quang cảnh khác hẳn ngày xưa.

Ngày xưa, những khung cửa sổ đó tỏa sáng ánh đèn ấm áp. Bên trong là cảnh gia đình quây quần đoàn tụ, người lớn hớn hở vui cười chuyện trò, trẻ con reo hò đùa bỡn, và chó sủa rân khi có người đến. Ngày nay, những khung cửa sổ đó xiêu vẹo, tối tăm, lạnh lùng.

Nhưng rồi Kuba cũng tìm được một căn nhà xào xạc tiếng người, dù thì thầm. Kuba gọi Kasia. Hai đứa tiến lại gần, Cửa đóng. Bên ngoài lại còn một tấm ván lớn chặn lại, đóng đinh chắc nịch. Kuba nắm tay đập mạnh vào tấm ván, gọi to:

- Có ai trong nhà không?

Không có tiếng trả lời. Những tiếng thì thầm bặt tắt. Kuba lại đập tấm ván lần nữa. Một giọng khô khan gắt gỏng vang ra:

- Hết chỗ rồi! Đi đi!

Bất chấp lời từ chối, Kuba cúi mình lách qua tấm ván, chui vào nhà, tay kéo Kasia:

- Xin các bác làm phước, em cháu lạnh cóng. Xin các bác cho em cháu vào.

- Được rồi! Bây vô đây cho ấm. Nhưng đứng một tí thôi. Không có chỗ cho bây đâu!

Cánh cửa bên trong mở bật. Già trẻ lớn bé chen chúc chật chội, kẻ đứng người ngồi, kẻ nằm người dựa. La liệt. Hỗn độn. Sát sạt .

Cuối phòng có lò sưởi với vài thanh củi đang cháy. Ánh lửa soi rõ những khuôn mặt hốc hác nhăn nheo với những đường cày trên trán, trên má, quanh môi. Những khuôn mặt tiều tụy, héo hắt, mệt nhọc, kiệt quệ vì đói khát và lạnh lẽo. Những khuôn mặt khô cằn khó đăm đăm như không phải là những khuôn mặt của con người nữa. Những vết hằn héo hắt khắc sâu, xóa sạch mọi đường nét biểu lộ tình cảm, và hầu như chỉ để lại một điểm vị kỷ trên mặt.

Ngày lại ngày, kể từ khi Hồng quân Nga tràn vào Ba Lan, đám dân lành trải qua hết đại nạn này đến đại nạn khác, chịu đựng hết đọa đày này đến khổ ải kia, nhục nhằn dưới áp bức này đến tàn bạo nọ. Thời gian qua, họ nay là những người lưu lạc không nhà cửa chẳng của cải. Chỉ có đói khát, rách nát, bệnh tật. Nhân tính hầu như bị những đau khổ thể xác và nhục nhằn tinh thần lấn áp, đè bẹp. Họ trở thành bất nhân, vị kỷ, hầu như tàn nhẫn vì những khao khát dồn nén.



Người đàn ông đã lên tiếng cho hai anh em Kuba vào, đẩy Kasia đến gần lò sưởi:

- Tới sưởi ấm một tí rồi đi. Không còn chỗ cho tụi bây.

Con bé run rẩy bò qua đám người. Mắt chạm phải những tia nhìn vô cảm, lạnh lùng, không chút thương hại. Kuba đứng gần cửa nhìn vào. Trông đám người cùng tiều tụy như nhau, nhưng mỗi người có dáng điệu khác nhau.



Cạnh một lão ăn mày rách rưới là một ông già áo quần khá lành lặn đang bẻ từng mẩu bánh mì khô nhấm nháp. Ông chẳng có ý chia sẻ, dù lão ăn mày cứ thèm thuồng liếc nhìn mẩu bánh. Phía trái lão ăn mày là một bà sồn sồn khoác chiếc áo choàng rộng, trong khi có con bé khoảng bốn tuổi nằm kề, co ro lẩy bẩy trong manh áo cũn cỡn, quần chỉ còn một ống và đôi giày vải đẫm tuyết. Cạnh con bé là một bà đứng tuổi tay nghiêng hộp sữa đặc dốc vào mồm, trong khi cách đó chẳng bao xa có bà mẹ trẻ cố dỗ đứa con nhỏ khóc dằng dặc rúc đầu vào ngực mẹ tìm bú nhưng mẹ chẳng còn sữa cho con. Ngay dưới chân Kuba, một con chó còm cõi trơ xương lông lá tơi tả nằm cuộn tròn, chốc chốc lại rên ư ử.

Tất cả người và vật đều đói và lạnh.



Khi Kasia đã đỡ lạnh, hai anh em ngỏ lời cảm ơn đám người và dẫn nhau đi tìm căn nhà khác. Nơi nào cũng ngập người lưu lạc. Không ai muốn thêm người chen vào. Hai anh

em lang thang trong đêm.

Cuối cùng, chúng lần mò đến một nơi có vẻ là một căn gác cao, đỉnh vuông nổi bật cạnh vì sao sáng trên nền trời.

Len lỏi qua đống gỗ trần nhà sập chồng chất, Kuba hy vọng tìm được nơi tạm trú. Thằng bé lên tiếng nhưng chẳng ai trả lời,

- Kasia! Lại đây! Chắc mình có thể ở qua đêm chỗ này!



Vừa nói, Kuba vừa lục tìm hộp diêm, quẹt lên. Ánh sáng leo lét soi cảnh gác chuông giáo đường nhỏ bỏ hoang. Sát tường là bệ kê bồn nước thánh cạnh những bậc thềm long lở dẫn lối vào bên trong cung thánh, và bên kia là một lối đi nhỏ dẫn lên gác chuông.

May thay. Lò sưởi phía góc kia chưa sụp. Đây hẳn là nơi ngày xưa giáo dân đến sưởi ấm trước giờ xem lễ, sau khi lội quãng đường đầy tuyết lạnh từ nhà. Kuba reo lên:

- Kaisa! Mình có nơi trú đêm rồi! Lại coi! Có vô số gỗ vụn. Anh sẽ đốt lò sưởi.

Kuba nhặt những thanh gỗ chất vào lò, đánh diêm châm. Một ngọn lửa nhỏ bắt cháy, bừng sáng giữa đám khói đen, như mang nguồn sống và niềm tin lại trong lòng thằng bé.



Nó reo lên:

- Kaisa! Lại đây!

Vừa reo, Kuba lùi lại để kéo em. Chân nó bỗng chạm một khối mềm. Cố bước qua khỏi nhưng chân vẫn dẫm lên khối mềm đó. Kuba goi em:

- Kasia! Coi chừng!

Kuba cúi sát trên nền xi măng loang lổ rồi đứng phắt dậy, la lên:

- Kasia! Có người nằm đây nè! Một ông già! Chẳng lẽ … ô, không, ông cụ còn sống! Tại lạnh quá nên ông cụ tê cóng nằm bệt. Lại đây mau lên! Giúp anh kéo ông cụ gần lò sưởi coi!



Kuba cởi áo ngoài trải lên nền nhà, đặt ông già nằm lên. Kasia cũng cởi khăn quàng đắp lên người ông. Hai anh em quỳ xuống hối hả thoa bóp, chà xát tay chân ông già. Kuba chà mạnh lên hai má và hai bên đầu để máu luân lưu. Ông già nằm quay đầu về phía bóng tối, chân duỗi dài gần lò sưởi, bất động. Hẳn ông là một trong đoàn lữ hành tìm đường vượt biên, kiệt lực khi đến nơi này.

- May mà ông cụ ráng tới được căn gác chuông này trước khi gục ngoài kia. Nếu gục dưới tuyết, chắc ông cụ chết rồi còn gì! Em kiếm cái gì đưa ông cụ dùng đi! Chắc ông cụ đói lắm!

Kasia lục tìm được vài mẩu bánh khô, mấy miếng thịt sấy và vài hạt đậu khô. Kuba mở giây nịt tháo chiếc ca nhôm, chạy ra xúc đầy tuyết, cho mấy hạt đậu vào, đặt lên đống lửa đang cháy. Tuyết tan nhanh, và không bao lâu, nước sôi. Những hạt đậu nhào lộn trong ca nước, phút chốc nở bung về hình dáng cũ. Kuba xoa tay:

- Có lửa ấm nè, có ánh sáng nè, lại còn đồ ăn nữa! Mình còn khá hơn mấy người kia nhiều! Chỗ này ngủ lại được quá! Ồ, xem ông cụ ra sao nào!

Ngay lúc đó, Kasia kêu lên:

- Anh ơi! Coi nè!

Giọng con bé run run khác lạ. Kuba nhẩy bổ lại. Hai đứa chụm đầu nhìn. Qua ánh sáng leo lét chiếu hắt từ lò sưởi, hai anh em thấy tuyết bám quanh râu tóc ông già tan ra, khuôn mặt dần lộ vẻ sinh động. Kuba hối hả nâng đầu ông, kéo vạt áo lau râu tóc. Giọng em lạc đi:

- Trông ông cụ giống ông nội quá! Ông sắp tỉnh rồi!

Lửa trong lò bỗng bùng cao. Kasia la to:

- Anh ơi! Coi nè!

Tiếng la đứt nghẹn. Kasia phủ phục quỳ xuống ôm ông già trong hai cánh tay bé nhỏ, vai rung lên, thổn thức, nức nở:

- Ông nội đây mà! Ông nội! Ông nội ơi! Tụi cháu đây nè!

Ông già từ từ hé mắt, hấp háy vì ánh lửa hắt ra, rồi chăm chú nhìn hai khuôn mặt trẻ thơ nghiêng kề mặt ông. Kasia reo mừng:

- Ông nội nhìn ra tụi mình rồi! Ông nội tỉnh rồi!

Con bé lại nức nở bệu bạo vừa khóc vừa mếu máo cười vừa ôm siết đầu ông trong tay:

- Ông nội ơi! Con mừng quá!

Đôi môi ông già run run mấp máy nhưng không phát thành tiếng. Ông thở dốc. Cố hít mạnh vài hơi, ông thều thào:

- Chuông … Chuông …

Ông trở mình, nặng nhọc chống tay ráng ngồi dậy, tay kia run rẩy chỉ lên trần nhà.

Kasia rối rít kéo ông cụ nằm xuống, hôn tới tấp vào đầu vào tóc vào râu vào má:

- Ông nội nói chi tụi cháu không hiểu. Ở đây không có chuông đâu! Không có!

Ông già gật đầu. Mắt hướng lên trần nhà. Ông ráng nói, và lần này bật ra tiếng lớn:

- Chuông! Giáng Sinh!

Hai đứa trẻ ngây người nhìn nhau. Kuba bật lên:

- Lạy Chúa! Kasia! Đúng rồi! Giáng Sinh! Bao nhiêu thứ dồn dập làm mình quên! Giáng Sinh! Giáng Sinh! Đúng rồi! Đêm nay là đêm trước lễ Giáng Sinh!


Hai anh em quay nhìn ông già. Cả hai chợt hiểu, và cùng lúc, lòng dâng lên niềm hân hoan chen nỗi xót xa. Hân hoan vì Giáng Sinh đối với chúng vẫn mang ý nghĩa đầm ấm huy hoàng của gia đình đoàn tụ. Xót xa vì cảnh tan đàn xẻ nghé mỗi người một ngả. Chúng còn xót xa hơn vì biết ông nội vốn là người rất ngoan đạo, luôn luôn mừng Giáng Sinh với những hồi chuông ngân nga vang động do ông điều khiển với tất cả say mê thần thánh. Đối với ông, hồi chuông nửa đêm mừng Chúa giáng sinh không thể thiếu vắng. Ông đã kéo chuông Giáng Sinh suốt đời với tất cả sinh lực trong người, với tất cả tin yêu tôn kính từ trái tim thuần khiết, từ tâm hồn thanh sạch. Không có chuông Giáng Sinh là một sự thiếu vắng, một xúc phạm bất kính đối với Đấng Cứu Thế đã ra đời chuộc tội cho nhân loại, và tội thiếu vắng đó không thể tha thứ được.

Ôi! Những hồi chuông từng ngân nga vang động! Những hồi chuông Giáng Sinh của những năm qua! Ông cụ từng nâng niu đong đưa sợi giây huyền bí thòng từ vòm giáo đường, nhịp nhàng uyển chuyển kéo đẩy đưa hồi chuông ngân nga vang động từ đầu làng đến cuối thôn. Tiếng chuông thánh thót ngân rõ từng giọt nhạc huyền diệu, âm ba chuyển động trong không gian tĩnh lặng giữa đêm Đông tuyết lạnh, loan truyền nguồn tin yêu sưởi ấm lòng người. Ông cụ đã đặt hết tâm hồn vào sợi giây huyền bí, điều động hệ thống giàn chuông trên cao ngân nga bài Through Night’s Dark Shadow/ Xuyên Bóng Đêm Tối, bài thánh ca bất hủ nằm lòng trong hàng chục triệu trái tim nhân dân Ba Lan. Bài thánh ca gây xúc động lòng ngoan đạo của người Ba Lan, không kém gì bản quốc ca khơi động tình yêu nước nung nấu trong tim họ.

Phải nói rằng ông cụ là một tín đồ nghệ sĩ với tài điều động chuông giáo đường. Clang-clang! Clang! Clang-clang! Ngừng. Rồi dồn dập Clang clang clang clang clang …

Ông cụ mấp máy môi, tay chỉ lên trần:

- Chuông! Chuông!

Mắt Kasia sáng rỡ:

- Anh ơi! Chỗ này xưa là nhà thờ phải không?

- Ừ! Sao?

- Nơi nào là nhà thờ thì nơi đó phải có chuông! Ông nội tìm đến đây chỉ vì thế! Vì ông nội muốn kéo chuông! Hồi Chuông Giáng Sinh!

Kuba đứng vùng dậy, nhìn quanh. Đúng! Đây xưa là một tháp chuông. Chắc phải có chuông treo trên đỉnh. May ra chưa bị tháo gỡ phá hủy.

Kuba chạy lại lối dẫn lên gác chuông, hì hục kéo giật những thanh gỗ đóng chặn. Ánh lửa từ lò sưởi không soi thấu, nhưng Kuba hình dung một đầu giây chuông buông thõng trong bóng đêm dày đặc. Tim nó đập mạnh. Ông nội đã cố dùng tàn lực lết tới đây để ráng kéo chuông, thì chính nó phải thay ông, cố thực hiện việc đó cho kỳ được.

Kuba lách mình vào giữa mấy thanh gỗ chặn, cố với tìm đầu giây lơ lửng đâu đó. Nó nhảy lên, quơ tay quờ quạng nhưng không với được đầu giây. Nền gác chuông bằng gỗ ngổn ngang gạch ngói và gỗ vụn rơi rớt từ đỉnh tháp.

Kuba bật diêm nhìn lên. Ánh lửa leo lét không rọi cao. Bóng đêm dày đặc bên trên. Nó nhắm mắt lại cho quen bóng tối rồi mở to nhìn thẳng lên đỉnh tháp. Vẫn tối đen. Bóng đêm dày đặc, nhưng tít trên cao, Kuba thoáng thấy có vật gì chợt lóe lên. Thứ gì phản chiếu ánh lửa? Không! Không phải là thứ gì đó. Kuba cố điều tiết mắt chăm chú nhìn. Nó tin chắc có thứ gì lóe sáng trên đó.

Một tia sáng vụt lóe lên trong óc. Đúng rồi! Mái đỉnh gác chuông thủng, và ánh sao rơi qua khe hở nhỏ. Kuba cảm thấy máu chảy mạnh châu thân, xúc động:

-Ôi! Vì sao sáng dẫn đường đến hang Bethlehem!

Kuba nhận ra được ánh sao vì tia sáng rơi thẳng vào một vật kim loại. Vật gì bằng kim loại trên tháp giáo đường, ngoại trừ quả chuông! Nó reo lên:

- Kasia! Anh thấy rồi! Có chuông treo trên kia! Em thưa ông nội biết là anh sẽ kéo chuông!

Kuba cố tìm cách leo lên với cho được đầu giây lơ lửng đâu đó. Bấu vào những thanh gỗ, nó cố đu mình lên và giơ tay quờ quạng. Tay vừa chạm đúng vào đầu giây thì mấy thanh gỗ mục dưới chân bỗng gẫy ngang. Kuba mất thăng bằng, hụt hẫng. Đầu nó va mạnh vào một kèo gỗ. Đau buốt tận óc, mắt nổ đom đóm, nó choáng váng tưởng sẽ té nhào xuống nhưng gắng gượng chụp được cây kèo. Kuba xây xẩm tưởng sẽ ngã ngất nhưng tự nhủ phải cố không được ngã. Phải cố trèo lên! Phải cố nắm cho được đầu sợi giây chuông!

Kuba dùng cả hai tay bám vào kèo gỗ, đu mình lên, rồi tay phải bám chặt cây kèo, tay trái buông ra cố với nắm đầu giây. Đầu ngón tay nó chỉ chạm được đầu giây. Ráng hết sức rướn mình lên, vùa cố vừa tự nhủ:

- Mong chẳng phải là một quả chuông lớn. Lớn quá mình không đủ sức kéo giật!

Khi Kuba nắm được đầu giây, nó ráng kéo mạnh. Clang! Một tiếng ngân khẽ bỡ ngỡ vang lên. Ngỡ ngàng. Rụt rè. Dò dẫm. Tiếng ngân lạc lõng trong đêm. Tiếng ngân của một quả chuông nhỏ. Kuba mừng rỡ cố giật mạnh lần nữa. Clang-clang- clang!

Những âm thanh ngập ngừng bỡ ngỡ rụt rè lúc bắt đầu, rồi đong đưa, rồi nhịp nhàng, rồi ngân nga, rồi thánh thót đổ hồi …

Kuba nhắm mắt lại, hình dung tới ông nội. Thằng bé từng chiêm ngưỡng ông nội say sưa để hết tâm trí vào việc kéo chuông. Phải kéo vừa đủ mạnh để quả chuông đong đưa nhịp nhàng đập vào thành chuông, nhưng không quá mạnh làm chuông xoay quanh. Phải điều động đầu giây, quấn vào cổ tay khi giật xuống. Và cứ thế, cứ thế. Khéo léo, cẩn trọng, uyển chuyển chuyền sinh lực vào sợi giây huyền bí để đưa đẩy quả chuông ngân nga điệu nhạc thần thánh. Clang-clang! Clang, clang-clang! Ngừng. Rồi Clang! Clang! Clang! Clang! Clang! … Xuyên Bóng Đêm Tối chuông ngân nga vang vang loan truyền nguồn tin yêu …

Trong căn nhà hai anh em Kuba đến đập cửa đầu tiên, người đàn ông đã cho hai đứa trẻ vào đang đứng quay lưng về phía lò sưởi, trầm ngâm, bất động, mắt nhìn vào đám người khốn cùng hỗn độn la liệt khắp phòng.

Một âm thanh bỗng vọng lại. Ông ngẩng đầu. Mắt lần theo những chiếc đòn tay trên trần nhà. Âm thanh vọng lại từ xa, trên cao, phát ra từ một vật kim loại giống như ai gõ vào một thanh sắt. Có thể một ống nước cũ nứt vì lạnh. Không! Âm thanh đó lại vọng đến. Lần này, không phải chỉ một tiếng lạc lõng, mà từng hồi, từng hồi nhịp nhàng. Có lẽ nào … Nhưng đúng là tiếng chuông giáo đường …

Những người khác trong phòng bỗng xôn xao, ngước mắt nhìn lên, sợ hãi …

Trong những năm chiến tranh, những hồi chuông đổ rền là dấu hiệu báo động Hồng quân Nga kéo đến, hoặc để khống chế dân chúng tập trung nghe mệnh lệnh, hoặc là hồi chuông báo tử khi có người bị xử tội chống lại chế độ. Nhưng chiến tranh hết rồi. Liên Xô đã đè bẹp và khống trị Ba Lan. Ba Lan đang quằn quại tủi nhục dưới ách thực dân đỏ.

Hồi chuông này thong thả thánh thót ngân nga, không phải chuông báo động. Vậy, có nghĩa gì đây? Người đàn ông ngẫm nghĩ, suy đoán. Đoàn lữ hành ra đi vào khoảng ngày lễ Thánh Nicolas, tức là ngày 6 tháng Chạp. Họ lang thang tìm đường về miền Tây để tìm cách vượt biên sang thế giới tự do. Từ đó đến nay cũng đã hơn hai tuần, và mùa này là mùa vọng. Đối với nhân dân Ba Lan, mùa vọng là mùa thánh thiện nhất trong năm. Đó là mùa của tin yêu, của trông mong, của hy vọng. Đau khổ nhục nhằn đã làm họ hầu quên lãng thời gian!

Tâm trí ông chợt bừng cơn mê dài. Ông bỗng reo to:

- Giáng Sinh!

Giọng ông vang vang. Ông cao giọng ồm ồm hát theo điệu chuông ngân nga vọng lại:

- Xuyên Bóng Đêm Tối …Chuông ngân nga vang vang loan truyền nguồn tin yêu …

Trái tim chợt đập mạnh. Lòng chợt nao nao xúc động. Ông gọi lớn:

- Bà con cô bác dân Ba Lan ơi! Bà con cô bác quên rồi sao? Hôm nay là ngày trước lễ Giáng Sinh!

Những ngọn lửa vẫn chập chờn trong lò. Gian phòng bỗng lặng phắc. Mọi người sững sờ, bất động. Giáng Sinh! Ai đã nghĩ đến Giáng Sinh lúc này? Giáng Sinh! Đúng vậy sao? Giáng Sinh về, reo vang niềm tin yêu qua âm hưởng bản thánh ca ngân nga từng giọt nhạc chuông thánh thót đổ hồi …

Giáng Sinh! Giáng Sinh lại về. Đám dân Ba Lan quây quần nơi đây với tất cả niềm thống khổ nhục nhằn sau thời gian đày đọa dưới đại nạn cộng sản, nay chen vai thích cánh dành giật, bo bo giữ những thứ còn lại trong tay, không đếm xỉa đến kẻ khác, tàn nhẫn xua đuổi những kẻ cùng lỡ độ đường lưu lạc, không cho họ chia chút hơi ấm bên ngọn lửa hồng. Giáng Sinh! Vậy mà dân Ba Lan vốn nổi tiếng nhất thế giới là những tín đồ Thiên Chúa ngoan đạo nhất, lại tụ tập nơi đây và chỉ lo tranh dành chỗ ngồi, không nhớ đến ai khác trên đời, kể cả Đấng Cứu Rỗi!

Sau phút sững sờ ngỡ ngàng, gian phòng bỗng có nguồn xúc động diệu vợi lan truyền, nhè nhẹ len vào tận đáy những cõi lòng tan nát, dịu dàng tràn dâng lên những ánh mắt mệt mỏi chán chường. Những tiếng rì rầm lan khắp phòng. Giáng Sinh! Ngày lễ vô cùng trọng đại, vô cùng tôn quý của dân tộc Ba Lan suốt bao năm lịch sử kể từ thời lập quốc cách đây cả nghìn năm! Giáng Sinh! Giáng Sinh đến với những tâm hồn rã rời tan nát vì thống khổ nhục nhằn, đúng vào lúc không ai còn lòng dạ nào nhớ đến những tháng ngày êm đềm hạnh phúc ngày nào …

Cơn xúc động qua. Mọi người bỗng cảm thấy thân thiết gần gũi nhau. Không ai bảo ai, từ những đôi môi héo hắt lâu nay vắng nụ cười, bản thánh ca trầm bổng dâng lên, dâng lên, hòa với hồi chuông âm vang ngân nga …

Ông già áo quần còn khá lành lặn đang bẻ mẩu bánh mì khô bỗng đưa nguyên cả miếng bánh lớn cho lão ăn mày rách rưới. Bà sồn sồn vai khoác áo choàng rộng bỗng tung vạt áo trùm lên vai con bé đang co ro run rẩy trong manh áo cũn cỡn và chiếc quần một ống cùng đôi giày vải ướt sũng. Bà đứng tuổi bỗng quay lại đưa hộp sữa cho người mẹ trẻ gầy còm đang cố dỗ đứa nhỏ khóc dằng dặc rúc đầu vào ngực mẹ tìm bú dòng sữa cạn kiệt.

Người này quay sang bắt tay người nọ, mắt long lanh ngấn lệ. Những giọt lệ hân hoan. Những giọt lệ hồi sinh. Hân hoan vì niềm tin yêu trở lại thắp sáng trong lòng. Hồi sinh vì tình người sống lại trong tim, sau cơn thống khổ nhục nhằn tưởng đã mòn mỏi, tiêu tan, tàn lụi. Vài người quỳ xuống nguyện cầu. Những bà già ngồi sát lại ôm nhau, bệu bạo vỗ về nhau. Một thằng bé khẽ huýt sáo gọi con chó ghẻ lại, vỗ vỗ cái đầu xơ xác của nó và dụi vào mõm mẩu xương đã gặm nhẵn.

Từ những đống gạch ngói đổ nát hoang tàn xưa là những căn nhà ấm cúng, bỗng có những tiếng đồng ca vang lên, chen lẫn giọng đàn ông, đàn bà và trẻ con. Quang cảnh hoang sơ tiêu điều như thời hồng hoang, như lần đầu loài người biết mừng lễ Giáng Sinh!

Rồi từng tốp người túa khỏi những đống gạch ngói đổ nát, trên tay mỗi người cầm một thanh gỗ hoặc cành cây cháy dở. Họ đổ xô ra ngoài, dưới bầu trời mờ mờ ánh sao, lên tiếng chúc tụng nhau trong khi những ngọn lửa trên tay vung vẩy, lập lòe. Trong lòng mọi người bừng dậy niềm hân hoan như hồi còn thơ dại chạy quanh nhà này sang nhà nọ với một ngọn đèn lồng hình ngôi sao trong tay.

- Weselych Swiat! Weselych Swiat! Chúc Mừng Giáng Sinh! Chúc Mừng Giáng Sinh!

Kuba vẫn say sưa kéo chuông, đầu tựa lên cây kèo gỗ đã va mạnh làm nó suýt ngất xỉu. Hai cánh tay rời rã, nhưng nó vẫn nhịp nhàng đong đưa điệu thánh ca bất hủ, vang vang lan truyền khắp nơi. Thế giới hầu tan biến. Mọi sự vật hầu không còn. Chỉ có đôi cánh tay điều động sợi giây huyền bí mầu nhiệm. Clang-clang! Clang-clang- clang …

Qua đôi mắt nhắm nghiền, Kuba thấy rõ ngôi nhà cũ, nơi nó ra đời và được nuôi dưỡng, dạy dỗ. Trong nhà đầy tiếng trẻ thơ ca hát vui đùa. Rồi nó lại thấy rõ cảnh làng Rynek, Công trường Vĩ đại, tòa thành Krakow … Rồi từ đỉnh tháp chuông Vương Cung Thánh Đường Panna, những hồi kèn đồng rộn rã trổi vang quyện tiếng đàn đại phong cầm dìu dặt vọng lên từ vòm giáo đường, hòa giọng cùng ban hợp xướng cất cao lời ca thánh.

Những hình ảnh đó cứ ngời lên, ngời lên. Rõ dần, rõ dần. Những tiếng kèn đồng trổi cao hơn, cao hơn. Vút cao. Vút cao cao hơn. Vút cao. Rồi tất cả bỗng bùng vỡ, hào quang tung bay …

Kuba ngã xuống. Tay tuột khỏi sợi giây. Rơi trong bóng tối. Bóng tối phủ đầy mặt sàn gác lạnh lổn nhổn đá gỗ vụn. Nó cảm thấy hình như có một điệu nhạc nhè nhẹ, dịu dàng dâng lên. Êm đềm. Vời vợi. Rồi yên lặng.

Bừng hé mi, mắt Kuba gặp khuôn mặt hiền dịu của mẹ, nét ngây thơ của em, vẻ âu lo của cha, cái nhìn thương cảm của anh. Và phía sau những khuôn mặt thân yêu đó, rõ rệt hơn cả, là gương mặt rạng rỡ của ông nội. Kuba nở một nụ cười tươi hơn hớn như đóa hồng trong đám giây kẽm gai giăng ngang khu giáo đường phủ tuyết trắng. Nguồn vui đoàn tụ bất ngờ dâng tràn sinh lực trong người làm nó ngồi nhỏm vụt ngay như có sức mạnh vô hình đỡ dậy. Kuba hớn hở:

- Tuyệt! Tuyệt! Cả nhà đây rồi!

Cả nhà ôm choàng thằng bé. Kẻ siết tay. Người vò đầu. Kẻ hôn lên má. Người quàng qua vai. Kuba reo lên:

- Má! Ba! Anh Jan! Ba Má và anh Jan từ đâu tới vậy?

Mẹ Kuba từ tốn, dịu dàng:

- Cả nhà đi tìm hai đứa bay. Cả nhà tìm được nơi tạm trú ở làng Kopernik gần đây. Ông nội đi trước, không ai cản ông được. Ông cứ bỏ đi. Mãi khi tới nhà thờ này thì ông nội ở miết lại để tìm cách kéo chuông cho kỳ được. Cũng hay, là ông nội tìm được ngôi nhà thờ này còn tháp chuông để kéo. Nếu không thì ông nội chẳng tìm được hai đứa bay. Ông nội già yếu rồi, hai đầu gối lập cập quá … Ôi, con ngã đau lắm không?

- Không Má ơi! Con không đau. Chỉ khi bị va đầu vào cây kèo gỗ thôi!

Vừa nói đến đây, Kuba nhìn ra cửa, thấy lố nhố người với ánh đuốc chập chùng. Nó há hốc mồm, lắp bắp:

- Ô kìa! Gì thế? Cái gì thế?

Cả nhà kéo những tấm ván chắn, nhìn ra ngoài. Sân nhà thờ đầy người. Có tiếng hỏi to:

- Chúng tôi đến cảm ơn người kéo chuông!

Kasia nhanh nhẩu hãnh diện chỉ vào Kuba. Hai người đàn ông tiến tới nâng bổng Kuba lên, đưa lên đưa xuống đúng ba lần theo truyền thống Ba Lan thường dùng để biểu lộ lòng ngưỡng mộ cảm phục. Kuba sợ hãi nhìn quanh:

- Cháu có làm gì đâu! Cháu chỉ kéo chuông giúp ông nội cháu …

Người đàn ông đã cho anh em Kuba vào sưởi trong căn nhà đầu tiên, trịnh trọng nói lớn để mọi người cùng nghe:

- Đúng rồi! Cháu đã kéo chuông. Cháu kéo chuông Giáng Sinh cho tất cả mọi người quanh đây, cho tất cả dân tộc Ba Lan. Cháu kéo chuông Giáng Sinh thức tỉnh cả thế giới. Cháu nhớ mới mấy tiếng đồng hồ trước đây gặp những người này bên ngọn lửa ấm trong tâm trạng chán chường tuyệt vọng biết chừng nào. Chính cháu đã thổi luồng sinh khí tin yêu vào cuộc sống héo hắt nhục nhằn, Chính cháu đã mang niềm hy vọng nhen nhúm lại ngọn lửa sinh tồn trong cuộc đời. Chính cháu đã khơi động lại tình người trong lòng người. Con người không thể sống vị kỷ. Đó là lời Chúa. Trong cơn khốn cùng, chúng ta cần thương yêu nhau nhiều hơn. Cháu hãy nhìn xem ý nghĩa phục hồi của Hồi Chuông Giáng Sinh.

Ông trỏ vào đám đông đứng chật sân thánh đường. Họ đứng sát người bên nhau, vai kề vai, say sưa ngước mắt lên trời trong cử chỉ vô cùng chân thành, cùng cất cao lời ca tôn vinh Đấng Cứu Thế ra đời chuộc tội cho nhân loại:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.




Trần thị LaiHồng

Hoa Bang 2007
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »


Image

TRÊN CHIẾN TRƯỜNG XƯA - (33 năm sau ngày gãy súng)
phạmtínanninh
Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở lại Kontum tìm thăm nơi an nghỉ của những đồng đội cũ. Trong những năm 72 và 73, đơn vị chúng tôi đã có hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi này để giữ vững miền địa đầu, cửa ngõ quan trọng nhất vào Tây Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nằm không xa phía dưới - thành phố Pleiku.
Dừng chân dưới chân núi ChuPao, nhớ tới những trận đánh khó khăn ác liệt với những toán địch quân bị xích chân trong những hầm núi đá, cố bám trụ những cái “chốt”, nhằm cắt đứt QL 14, con đường huyết mạch nối liền Kontum với Pleiku, và hình dung tới từng khuôn mặt của những anh em đã không bao giờ còn trở lại, một số đã gởi xác thân lại cho rừng núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là mình còn mắc nợ họ. Món nợ máu xương không bao giờ trả được.
Ngày ấy chiến trường ác liệt, có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban quân số chưa kịp nhận hồ sơ lý lịch. Đa số rất trẻ, độc thân, và gia đình ở tận những miền xa, nên mồ mả không có ai chăm sóc. Hơn ba mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa trang trong thành phố đã bị giải tỏa từ lâu, và nếu có được cải táng ở một nơi nào đó, chắc trên mộ bia không còn ghi đơn vị cũ. Chúng tôi đến đây như để tìm lại chút kỷ niệm và mong được vơi đi chút nào lòng trắc ẩn, chứ chuyện tìm lại được mồ mả của anh em – hy vọng rất mong manh.
Cả thành phố Kontum bây giờ đã đổi khác. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được các địa danh ngày trước. Những B12, B15, Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dã Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ từng mang tên những người anh, người bạn anh hùng của tôi đã nằm xuống để bảo vệ Kontum: Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm…Chúng tôi tìm đến một số nhà quen lúc truớc. Tất cả không còn. Những người chúng tôi gặp đa số mới vào từ miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng đã tứ tán bốn phương trời. Tội nghiêp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh, có lúc thành phố bị mỗi ngày hàng ngàn quả đạn pháo, vậy mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với những người lính chúng tôi giữ vững thành phố này trong suốt những thời kỳ ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng, giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức tưởi khi không còn bóng dáng quân thù. Những người lính ở đây được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi từng được nghe người Kontum kể lại chuyện những người lính hào hùng, tự sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt vào tay giặc. Nghĩ tới đó, lòng tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ trào ra.
Đúng như chúng tôi dự đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong thành phố, nơi bạn bè tôi được chôn cất, không còn nữa, người ta đã giải tỏa để xây lên một số cơ sở công quyền và những khu giải trí.
Chúng tôi tìm đến Tòa Giám Mục, cũng là nơi mà đơn vị chúng tôi đã phải đổ khá nhiều máu xương để tái chiếm trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở. Ông cho biết là, mồ mả trong các nghĩa trang lúc xưa đã được cải táng và chuyển đến địa điểm mới, nằm trên cây số 9, đường lên Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những ngôi mộ có thân nhân nhận lãnh và tự cải táng thì mới có mộ bia, còn những ngôi mộ khác thì không biết ra sao. Ngài còn tốt bụng, sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi đến đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước, nơi ngày xưa đơn vị tôi đã bao lần cùng với các chiến sĩ thiết giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy lui những đợt tấn công biển người của địch, giữ vững cửa ngõ vào thành phố Kontum.
Mất gần hai tiếng đồng hồ, đi khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không tìm ra bia mộ nào có cái tên quen. Nhiều ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục trở lại Tòa Giám Mục, cám ơn và chia tay ngài. Đã hơn 12 giờ trưa, chúng tôi tìm một nơi nào đó để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch Đằng và Thiên Nam Phúc ngày xưa, nơi có mấy cô chủ quán dễ thương, mà đám lính tráng chúng tôi thường ghé lại đây ăn uống sau những tháng ngày dài hành quân trong núi, một anh bạn hỏi thăm đường đến đó. Nhưng quán bây giờ đã đóng cửa và những người xưa cũng đã trôi dạt về những nơi nào đó. Bọn tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con đường về làngTân Hương, nơi lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để những ngày tương đối bình yên, bọn tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm dòng sông chảy ngược, tạo huyền thoại một thời này, mà nhớ tới vợ con hay người tình đang ở đâu đó, để rồi sau lúc chia tay chẳng biết ngày mai ai còn ai mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những hotel, nhà hàng, nhà trọ và biệt thự của các ông quan lớn. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được một cái quán ăn bình dân, nhưng khá sạch sẽ, nằm dưới tàng của một cây trứng cá.
- Buổi trưa nên vắng khách. Bà chủ vui vẻ vừa đón chúng tôi vừa giải thích.
Chúng tôi chọn một cái bàn nhỏ gần bờ sông. Xa xa phía bên kia là làng Phương Hòa thật dễ thương ẩn mình dưới những vườn cây. Nhìn mấy bờ đê bên bìa làng, tôi nhớ tới cái chết của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng. Tôi đã chứng kiến phi vụ thật can trường này. Anh là trưởng phi tuần gồm hai chiến đấu cơ AD-6 , đánh bom vào một mục tiêu có nhiều ổ súng phòng không của địch. Anh lao phi cơ xuống thật thấp bắn chính xác, tiêu hủy mục tiêu, tạo một đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ, rồi bay lên từ trong đám lửa ấy. Đang trên đường bay về, anh phát hiện có nhiều đạn phòng không bắn lên từ một khu vực khác. Anh quay trở lại, lao phi cơ xuống trút hết những quả bom còn lại, rồi bay vút lên không trung. Đúng lúc ấy, máy bay anh bị trúng đạn. Cánh bên phải phát hỏa. Anh phi tuần phó bay kèm theo, bảo vệ và hối thúc anh nhảy dù ra. Bộ binh chúng tôi cũng sẵn sàng tiếp cứu. Nhưng anh từ chối, bảo là nếu anh nhảy dù ra, phi cơ sẽ rớt xuống khu dân cư trong thành phố. Anh cố gắng bay qua bên kia bờ sông, đáp khẩn cấp (crash) xuống khu ruộng trống phía dưới. Anh điều khiển thật tài tình, nhưng vì phi cơ đã hư hỏng, không còn theo ý muốn, đâm vào một bờ đê và phát nổ. Anh Phạm văn Thặng đã anh dũng hy sinh. Điều cảm động hơn, khi người đại diện của Sư Đoàn đến nhà anh để chia buồn cùng gia đình và đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, đã kể lại cảnh nghèo nàn của gia đình anh, một trung tá phi công của QLVNCH.
- Mấy ông anh từ xa tới. Chắc tính làm ăn gì chứ cái thành phố này thì có cái gì mà tham quan. Phải không?
Câu hỏi của chị chủ quán làm tôi giật mình. Mấy anh em khác im lặng, nhìn tôi như thầm nhắc cho tôi cái nhiệm vụ trả lời.
- Không, bọn tôi tìm thăm người quen, nhưng không gặp.
- Ở khu vực nào, có nhớ địa chỉ không ? Tôi sẽ tìm giúp các anh. Tôi là dân ở đây mà.
Tôi mỉm cười :
- Cám ơn chị. Ở trong nghĩa trang thành phố, nhưng đã bị dọn đi nơi khác rồi, biết đâu mà tìm.
Chị chủ quán khựng lại chưa kịp để thức ăn xuống bàn, nhìn tôi ngạc nhiên :
- Sao lại phải ở trong nghĩa trang ?
- Vì họ đã chết rồi. Chết từ năm 1972 lận. Tôi buồn bã trả lời .
- Vậy chắc các anh đây là lính Cộng hòa mình ? thuộc đơn vị nào ?
Nghe mấy chữ “lính Cộng hòa mình” tự dưng tôi cảm thấy gần gũi với người đàn bà xa lạ này. Tôi thân thiện :
- Anh em bọn tôi thuộc sư đoàn 23, trung đoàn 44 chị ạ.
- À, vậy có anh nào ở đại đội trinh sát ?
- Không, bọn tôi ở trung đoàn và tiểu đoàn . Một người trong chúng tôi trả lời.
Sau một khắc yên lặng, chị lên tiếng:
- Em có mấy người bạn ở trinh sát. Lúc trước cũng nằm trong nghĩa trang thành phố, nhưng khi có lệnh giải tỏa, em đã chuyển các anh ấy lên cây số 9 rồi. Chị chủ quán tỏ ra thân thiện và thay đổi cách xưng hô.
Chúng tôi vừa bất ngờ vùa xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước trà ra mời chúng tôi, chị kéo ghế ngồi xuống rồi tâm sự.
Thì ra chị là bạn gái của anh Bình, trung sĩ Bình, ở đại đội trinh sát của đại úy Minh, sau này là đại úy Mạnh. Anh tử trận hồi mùa hè 1972. Ngày đó chị còn đang đi học, nhưng chiến tranh ác liệt quá, trường phải tạm đóng cửa. Chị ở nhà phụ bán cà phê cùng với người chị ruột. Bà chị này quen khá thân với Mạnh. Khi ấy Mạnh còn là trung úy đại đội phó. Anh Bình thường theo Mạnh tới đây, rồi dần dà quen nhau. Từ khi Bình chết, chị thường đến thắp hương và chăm sóc mộ phần Bình và những đồng đội của anh nằm trong nghĩa trang thành phố.
Năm 1978, nhà cầm quyền Cộng sản ra lệnh giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi kêu gọi bà con cùng góp tiền góp sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em trinh sát về địa điểm mới. Hầu hết mồ mả của những anh em chiến sĩ còn lại, đã bị san bằng. Chúng tôi cảm động. Không ngờ trong thời buổi nhá nhem tình nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy phù thịnh, vẫn còn có nhiều người Kontum nặng tình với lính.
Theo yêu cầu của bọn tôi, chị cùng chúng tôi đi thăm mộ anh Bình và các anh em trinh sát. Hơn hai mươi ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, nằm bên nhau ở khu phía đông nghĩa trang. Điều đặc biệt trên các tấm bia, trước mỗi cái tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng tôi thắp hương cho từng ngôi mộ xong, quay lại thì thấy chị đang ngồi sụt sùi trước mộ anh Bình. Khi thấy bọn tôi, chị lau nước mắt đứng dậy và nói một mình:
- Thật tội nghiệp, anh ấy hy sinh khi tìm cách chui qua hàng rào để bắn hạ chiếc xe tăng của VC vừa đột nhập vào chiếm bệnh viện
Tôi nhớ lại trận chiến ác liệt này. Khi VC mở đợt tấn công thứ nhì vào thành phố Kontum nhằm rửa hận lần thảm bại ở tuyến tây bắc: Hơn một trung đoàn bộ và nguyên một tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn 320 bị chúng tôi xóa sổ. Lần này chúng dùng mấy chiếc M113 đã cướp được của Sư Đoàn 22 BB từ khi Tân Cảnh thất thủ, dẫn đầu môt đơn vị gồm những chiến xa T 54 + T59 có bộ binh yểm trợ, nhằm lừa phi cơ quan sát của ta, xâm nhập vào bệnh viện dã chiến, nằm cạnh thành DakPha, cách vòng đai phi trường chừng 800 mét, với thủ đoạn lợi dụng vào những thường dân và binh lính bị thương nằm trong bệnh viện, để uy hiếp lực lượng của ta. Tiểu Đoàn 4/44 do Thiếu Tá Võ Anh Tài chỉ huy đã đánh một trận chiến vô cùng gay go ác liệt với một lực lượng địch đông gấp ba lần, dùng chiến xa T 54 làm nổ lực chính. Xe tăng địch nép theo những vách nhà bệnh viện. Muốn diệt chúng phải tiếp cận để có thể dùng những khẩu M 72 hiệu quả, anh Tài cùng toán quân báo đã dẫn đầu đơn vị, tìm cách chui qua hàng rào bệnh viện, và anh đã hy sinh bởi bị chính mìn của ta phát nổ. Người anh cả của Tiểu Đoàn, một sĩ quan xuất thân từ khóa 16 VBĐL lừng danh, đã nằm xuống dọn đường cho đơn vị mình cứu nguy bệnh viện, nơi có đồng bào và cả đồng đội của anh bị địch quân dùng làm bàn đạp trong ý đồ bất nhân của chúng. Đại Đội Trinh Sát đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn được điều động tiếp ứng, đột nhập đánh vào sườn địch. Trinh Sát 44, một đại đội với bao chiến công hiển hách từ thời đại úy Trần Công Lâm, Phan công Minh và sau này là Đoàn quang Mạnh, đã đánh một trận thật tuyệt vời, bắn cháy nhiều chiến xa địch, đuổi đám tàn quân Cộng sản chạy thoát thân ra khỏi bệnh viện và giữ vững một lần nữa vòng đai thành phố. Đại đội Trinh sát này dưới sự chỉ huy tài ba và gan dạ của trung úy Phan Công Minh, đã từng đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một Tiểu Đoàn BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao. Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trận và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã cùng đại tá TMT/QĐ Lê Khắc Lý, đến QYV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liểu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.
- Đại úy Mạnh bây giờ ở đâu, các anh có gặp anh ấy không ?
Câu hỏi của chị đã cắt mất dòng hồi tưởng của tôi. Tôi lên tiếng trả lời chị :
- Anh Mạnh đã chết trong tù cải tạo từ năm 1978 chị ạ.
Im lặng một lúc, tôi lại nghe tiếng chị khóc .
- Chị Hà em, bạn gái của anh Mạnh lúc xưa cũng bị chết năm 75 khi VC vào chiếm Kontum. Mộ chị nằm ở ngay phía trước đây.
Vừa nói, chị vừa dẫn chúng tôi đến đó. Nhìn bức ảnh trên mộ bia tôi mang máng nhớ lại người con gái tên Hà ở một quán cà phê nhỏ nằm trong vườn cây sau nhà, hơn ba mươi năm về truớc.
Nghĩa địa mới này nằm không xa làng Trung Nghĩa. Tôi rủ chị cùng với chúng tôi ghé lại lại thăm làng và khu nhà thờ. Nơi mà ngày xưa ông cha chánh xứ đã cùng chúng tôi chiến đấu bảo vệ những giáo dân ngoan đạo . Nghe nói ngài đã bị tra tấn đến chết trong trại tù cải tạo.
Ra khỏi nghĩa trang, nhìn về phía bắc, rừng núi ngày xưa, dù không tránh được dấu vết của đạn bom, nhưng vẫn còn xanh tốt, giờ sao lại xơ xác điêu tàn. Tôi hỏi chị bạn gái anh Bình, nghe tiếng chị thở dài :
- Tham nhũng bây giờ còn tàn phá nhiều hơn cả chiến tranh ngày trước .
Tôi nhớ lại những vụ án ở đây, có liên quan đến nhiều ông lớn. Mới đây bà Thao Y Bình, Bí Thư Tỉnh Đoàn Kontum đã ăn cướp đến gần 140 tỷ đồng của dân nghèo, và ông Trần văn Thiên, chủ tịch huyện Dak Glei đã thông đồng bán bao nhiêu gỗ quí.
Trên đường vào làng Trung Nghĩa, tôi hồi tưởng tới trận chiến trên tuyến Tây Bắc Kontum. Nơi đơn vị tôi đã thắng một trận thật lẫy lừng, làm tiêu hao cả sư đoàn 320 mà địch quân thường hãnh diện là Sư Đoàn Thép, mở đầu cho bao nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum, Tây Nguyên không lọt vào tay giặc.
Đúng vào sáng 30 tết năm 1972, khi chuẩn bị buổi tiệc tất niên cho các đơn vị tại hậu cứ Sông Mao sau một năm đối mặt với chiến trường, Trung Đoàn 44 chúng tôi nhận khẩu lệnh của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước. Vừa đến An Khê vào chiều mồng một tết, chúng tôi đã cùng với Thiết Đoàn 3 KB tham chiến, giải tỏa áp lực địch đang bao vây một số căn cứ phòng thủ của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn dọc theo đèo An Khê nằm trên QL 19. Tình hình tương đối yên tĩnh, các căn cứ Đại Hàn được giải tỏa, QL 19 đã khai thông, chúng tôi vừa đảm trách giữ an ninh cho QL19 từ Pleiku đến Bình Khê, vừa thiết lâp lại các căn cứ pháo binh, phòng thủ. An Khê là một địa danh làm người ta nhớ tới hai đoạn đèo Mang Yang và An Khê cùng những khúc quanh “tử thần”, mà ngày xưa cả một tiểu đoàn thiện chiến của đội quân viễn chinh Pháp bị lọt vào ổ phục kích, để gần như phải xóa sổ.
Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi BTL Tiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập. Đại tá Lê Đức Đạt, vị tư lệnh không được sự ủng hộ của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ QĐII&QK2, đã từ chối lời mời lên máy bay của người cố vấn SĐ khi phòng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều chiến xa T 54 của địch. Ông ở lại chiến đấu và vùi thây nơi chiến địa. Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất, một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc mà không hề có bất cứ sự yểm trợ nào của lực lượng đồng minh, cùng cái chết của vị tư lệnh liêm sỉ, khí phách hào hùng thời ấy đã là một trang chiến sử nói lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước sự bỏ rơi của người bạn đồng minh Mỹ, đã từng cam kết bảo vệ miền Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.
Căn cứ địa đầu thất thủ, kéo theo sự xáo trộn của một Sư Đoàn bao nhiêu năm trấn thủ tam biên, tạo thuận lợi để địch quân tràn xuống uy hiếp Kontum.
Trung Đoàn 44 nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Lúc này thành phố Kontum đang bất ổn, VC đã có mặt một số nơi trong thành phố và pháo kích thường xuyên vào phi trường, một vài phi cơ bị trúng đạn phải nằm ụ tại chỗ. Chúng tôi được lần lượt không vận vào ban đêm bằng C 130. Khi sắp vào không phận, máy bay tắt hết đèn. Phi cơ không đáp mà chỉ bay rà qua phi đạo để chúng tôi nhảy xuống từ cửa phía sau.
Tiểu Đoàn 1 và 2/44 đựơc chở thẳng tới phòng tuyến tây bắc, thay thế cho một liên đoàn BĐQ vừa bị tiêu hao quân số. Hai vị tiểu đoàn trưởng lại là hai người bạn cùng tốt ngiệp khóa 19 VBĐL thao lược, can trường: Đại úy Đặng Trung Đức và Nguyễn Xuân Phán. Ngay sau khi nhận khu vực trách nhiệm, từ vị tiểu đoàn trưởng đến binh sĩ cùng nhau lập phòng tuyến chiến đấu, đặc biệt là đào những hầm hố chống chiến xa phía trước.
Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng hạ tuần còn mờ ảo dưới màn sương, các toán tiền đồn phát hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến về hướng nam. Các đơn vị được lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ tất cả các lều poncho để tránh sự phát hiện của địch. Trên hệ thống vô tuyến, tất cả báo cáo đã sẵn sàng. Địch quân tập trung đánh vào phòng tuyến TĐ 2 của Đại úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ có một đơn vị thiện chiến mới toanh vừa mới có mặt trên chiến trường này, nên sau một loạt tiền pháo, chúng xua những chiếc T54 dàn hàng ngang, lực lượng bộ binh ồ ạt theo sau. Mặc dù đây là lần đầu tiên trực chiến với xe tăng địch nhưng không hề nao núng, mặc cho những xích sắt tha hồ rú gào đe dọa, Đại úy Phán bình tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ khai hỏa khi những chiếc T 54 tới gần trước mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu của những khẩu M 72, loại vũ khí chống tăng duy nhất mà đơn vị được cấp, và một số B40, B41 của địch thu dược từ chiến trường An Khê. Đó là một quyết định táo bạo và sáng suốt. Chiếc T54 đầu tiên bị bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó, đại úy Nguyễn văn Hướng. Ngay sau đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc T54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt sống cả xe lẫn địch, trong đó có tên đại đội trưởng. Tiểu Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu, đánh bất ngờ bên hông địch, đám tàn quân chỉ còn kịp buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy tất nhiên là công trạng của tất cả mọi người, nhưng sẽ là thiếu sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền lành mà tài năng đảm lược. Lúc nào tiếng nói thật bình tĩnh, trấn an, dặn dò, đốc thúc của Bá Hòa (danh hiệu của anh) cũng vang trên hệ thống vô tuyến làm nức lòng chiến sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa an, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận. Ông vẫn đội bê rê đen, đứng trên xe M113 và đi bộ ngay trên phòng tuyến, bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến tích đầu tiên của ông và gắn lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng. Người ta đã nói nhiều về cá nhân ông, nhưng ít ai biết được ông là một dũng tướng ngoài chiến trường.
Chiến công hiển hách này đã mở đầu cho hằng loạt chiến thắng khác của tất cả những đơn vị tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống, nhưng vị Tổng Tư lệnh đã xua tay từ chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Ít nhất ông cũng đã chứng tỏ được cái uy dũng của một người xuất thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống đã gắn lon Tướng cho đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn. Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều được vinh thăng một cấp. Riêng vị trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn Xuân được thăng cấp bằng một quyết định riêng sau đó. Anh được điều về làm Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn và sau này là một trong những vị trung đoàn trưởng thao lược của QLVNCH.
Trung Nghĩa bây giờ chẳng còn môt chút gì dấu tích chiến tranh, nhưng nhìn ở đâu tôi cũng thấy bóng dáng anh em đồng đội cũ, những người bạn trẻ tuổi can trường của chúng tôi ngày trước. Đặng Trung Đức đã hy sinh vào mùa hè 1973 khi vừa được trực thăng vận xuống phía bắc căn cứ Non Nước. Tên anh được đặt cho bản doanh BTL/SĐ. Vợ con anh đã sang Pháp, nhưng chị Đức đã mất từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ già góa bụa, mà Đức là con một, cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa đầy một năm sau ngày Đúc hy sinh. Trần Công Lâm, người bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi - người sĩ quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi hành quân mà chưa gặp địch là không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu Đoàn 3/44, đã từng là một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao chiến công hiển hách, vang dội khắp Quân Đoàn, cũng đã nằm xuống cuối năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú. Nguyễn xuân Phán sau những năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Washington bên Mỹ và vẫn hăng say trong các tổ chức xã hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em, vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo chỉ có những lúc vui với anh em và say mèm mới có thể quên được nỗi đau. Phan Công Minh thì đang sống âm thầm ở một thành phố biển ngoại ô New York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 “job”, để đủ lo cho các con ăn học, thời gian còn lại chỉ đủ để uống rượu tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng con trai lớn vừa tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân trên chiến trường Irak. Riêng anh Ngô văn Xuân, mòn mỏi, bệnh hoạn sau hơn 13 năm tù. Nhưng dường như những vết thương chiến trường, tù ngục còn trên thân xác không làm cho anh đau đớn bằng vết thương trong lòng. Nỗi đau của một người đã hiến đời cho binh nghiệp mà giữa đường phải đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống lặng lẽ ở một nơi gần thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về Thiền và Phật học. Còn lại, những đồng đội khác, hoặc đang sống lê lết khốn cùng ở đâu đó bên quê nhà với thương tích trên người, hoặc lưu lạc muôn phương, một số đã hy sinh, xác thân nằm ở một nơi nào đó, giữa núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các nghĩa trang, đã dời đi hoặc bị san bằng, nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn còn phảng phất đâu đây. Tôi đốt hết bó nhang còn lại chia cho anh em. Chị bạn gái của anh Bình cũng xin được chia phần. Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của những đồng đội cũ được sớm siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những người còn sống nhưng đã không trả được – dù chỉ một phần nhỏ nào - món nợ máu xương cho họ.
Suốt đêm hôm ấy không ngủ được, chúng tôi nằm kể lại bao nhiêu chuyện vui buồn trên chiến trường xưa, nhắc lại từng tên, từng khuôn mặt bạn bè. Chúng tôi cũng tranh luận thật nhiều về cuộc chiến đã qua và những cái chết của đồng đội mà thấy lòng nặng trĩu những đau buồn với bao điều tức tưởi.
Sáng hôm sau, chị chủ quán, bạn gái anh Bình, mời chúng tôi ăn sáng rồi tiễn chúng tôi ra đầu cầu Dakbla. Chị đứng yên lặng không nói một lời gì. Nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên má chị, trong lòng chúng tôi có lẽ ai nấy cũng đang giữ riêng một nỗi ngậm ngùi. Nhìn dòng sông Dakbla chảy ngược qua cầu, tôi có cảm giác như lòng mình cũng đang chảy ngược về những nơi nào đó, những chiến trường xưa, mà mãi mãi vẫn còn in bóng dáng hào hùng của bao nhiêu bè bạn, anh em - những người đồng đội cũ. Tất cả đã từng có một thời sống rất đáng sống.

phạmtínanninh
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

NHỮNG CHUYỆN NHO NHỎ …
TIỂU TỬ
Trong đời tôi, tôi đã nghe kể lại hay chính tôi đã mục kích rất nhiều chuyện nho nhỏ, những chuyện tầm thường không có gì “éo le gút mắt” hết, những chuyện mà tôi cho là có nghe qua hay thấy qua rồi bỏ cũng không sao. Vì vậy, tôi coi thường những chuyện nho nhỏ.

Gần đây, một chuyện nho nhỏ xảy đến cho tôi đã làm tôi suy nghĩ. Thì ra chuyện nho nhỏ có khi chứa đựng một bài học lớn mà con người không để ý, vì chỉ quen nhìn những chuyện lớn, những chuyện “đập vào mắt”, xưa nay… Rồi tôi tẳn mẳn ngồi nhớ lại từng chuyện nho nhỏ, để thấy mỗi chuyện là một nét chấm phá của cuộc đời, có chuyện còn mang vài ẩn dụ để con người suy gẫm. Vậy là tôi lần mò viết lại, không cần thứ tự lớp lang, không cần chọn lựa loại chuyện này hay loại chuyện nọ.

Mời các bạn cùng tôi đi lần vào những chuyện nho nhỏ này để cảm nhận thi vị của cuộc sống đang nằm đầy ở trong đó, và nó thật là gần gũi với mình như hơi thở như nhịp tim …


BÀ ĐẦM GIÀ VÀ ANH VIỆT NAM.-

Chuyện xảy ra ở ngoại ô Paris (Pháp)

Hôm đó, trên đường về nhà, tôi gặp một người đàn ông Pháp cỡ bốn mươi tuổi ăn mặc đàng hoàng, kè theo hỏi:

- Xin lỗi! Ông là người Tàu hay người Việt Nam?

Tôi dừng lại, ngạc nhiên, trả lời:

- Tôi là người Việt Nam.

Ông ta mừng rỡ:

- Vậy, có phải trưa hôm qua, ông đã đỡ một bà cụ té ở chỗ này không?

Tôi càng ngạc nhiên thêm:

- Không! Tôi không có đỡ ai hết!

Tôi trả lời mà nghĩ đến mấy chuyện ra tay cứu người rồi mang vạ vào thân vì sau đó nạn nhân quay lại thưa người cứu mình đã lấy tiền lấy đồ.. v v …

Có lẽ đoán được ý nghĩ của tôi nên ông ta mỉm cười ôn tổn nói;

- Ông yên tâm! Không có chuyện gì rắc rối hết. Tôi chỉ muốn tìm người Việt Nam đã đỡ mẹ tôi thôi. Bà cụ đó là mẹ của tôi, thưa ông.

- Vậy à! Nhưng mà tôi nói thật: hôm qua, vào giờ này tôi có đi qua đây, không thấy ai té hết. Mà… bà cụ có sao không?

- Cám ơn ông, Mẹ tôi không có sao hết.

Rồi, không đợi tôi hỏi, ông kể lại những gì mà mẹ ông đã kể cho ông nghe… Hôm qua, bà cụ đi thăm một bà bạn. Bà đi qua lối này để về nhà. Đây là ngõ đi tắt duy nhứt dẫn qua khu nhà bà ở. Khi đến khoảng đất trống có bốn trụ đèn đường, bà trợt chân té. Lúc đó, cũng có mấy người hấp tấp qua lại, họ quay đầu nhìn nhưng rồi bỏ đi luôn. Một người đàn ông Á đông, đã đi qua rồi, thấy vậy chạy trở lại đỡ bà đứng lên, lượm cái xắc da mang chéo vào người bà, ân cần hỏi bà có sao không? Bà bước thử vài bước, nói không sao, rồi kể rằng già rồi, đi thì được, chỉ có ngồi xuống đứng lên mới là khó. Ông ta tỏ vẻ ái ngại, bước lại cập tay bà nói để dìu bà về. Hai người đi như vậy một lúc, bỗng bà hỏi ông người Tàu hả, ông trả lời rằng mình là người Việt Nam. Mắt bà sáng lên, bà nói bà có bà bạn năm nào cũng đi du lịch Việt Nam vào dịp đầu năm, bả nói xứ ông đẹp lắm rẻ lắm, dân chúng hiếu khách dễ thương …

Đến một đoạn đường ngắn, bà cụ bỏ tay ông Việt Nam, bước một mình vừa đi vừa nói tôi đi được ông khỏi lo, tôi ở đường Colette gần đây, còn ông, ông ở đâu? Ông đó nói tôi ở khu xa hơn, phía bên kia trường học, ngày nào cũng đi và về bằng ngã này. Bà cụ đi một đỗi nhìn lại thấy ông Việt Nam còn đứng nhìn theo coi bà cụ có thật sự đi một mình được không! Tối đó, bà kể chuyện cho người con nghe, rồi sực nhớ ra, bà nói: “Chúa ơi! Tao quên nói cám ơn ông ta!”. Vậy là bà cụ bắt người con hôm sau ra lối đi tắt chận hỏi từng người Á đông để tìm ngưởi Việt Nam đã đỡ bà chỗ “khoảng trống có bốn trụ đèn”, tìm để chỉ nói lời cám ơn mà bà đã quên nói hôm qua!

Kể xong, ông nắm tay tôi siết nhẹ. Rồi ông nhìn tôi, mắt đầy thiện cảm, nói: “Cám ơn!”. Tôi bước đi, lòng lâng lâng hãnh diện, mặc dầu tôi biết rằng lời cám ơn đó không phải cho tôi mà là cho chung hai chữ “Việt Nam” …


CHUYỆN TRƯỚC CỔNG CHÙA BÀ.-

Năm 2006, vợ tôi về Việt Nam lo ma chay cho má tôi. Sau đó, bả được mấy đứa cháu chở đi Châu Đốc viếng Chùa Bà.

Cúng vái xong, ra đến cổng chùa thì có một đám bé gái độ mười hai mười ba tuổi bu lại chen lấn nhau xin tiền. Một đứa đứng gần vợ tôi, có vẻ lanh lợi nhứt, xè tay nói một hơi có ca có kệ: “Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con cầu nguyện Bà cho con gái ngoại lấy được chồng Đài Loan! Ngoại ơi ngoại! Ngoại cho con 5000 đồng, con... ”

Trên đường về, vợ tôi miên man suy nghĩ về mấy đứa nhỏ đó: không có tiền để đi học, còn quá nhỏ để có một cái nghề, và chắc nhiều đứa - rất nhiều đứa - chỉ ước ao lấy được chồng Đài Loan khi mình lớn lên một chút ! Rồi vợ tôi thở dài...

Nghe kể mà tôi thấy thương quê hương tôi vô cùng. Trước đây, dù có nghèo đi mấy cũng chưa bao giờ tệ đến như vậy! Viết lại chuyện này mà tôi nghe rát từ đáy lòng rát lên khóe mắt...


ĐẠP XÍCH LÔ.-

Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất “đô” con. Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: “Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy. Nếu nó ăn bánh mì “xúc xích - phô mai” như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!”.

Cách đây hai năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm. Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây...

... Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ ! Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài gòn. Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày. Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao. Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước. Con cám ơn rồi bước ra ngoài. Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào. Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ. Bác biết không ? Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn hai ống tay ! Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp. Đó ! Ông xích lô của con đó ! Bác coi : con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi. Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không ? Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang “trúng mối lớn”. Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói : “Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây !”. Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào. Con hỏi : “Bác không đếm sao ?”. Ổng cười, nhìn con : “ Khỏi ! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao ?”. Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời: “Cậu lên ngồi, đi !”. Con lắc đầu: “Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!”. Nụ cười của ổng tắt mất: “Ủa! Gì kỳ vậy?”. Con giải thích: “Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!”. Ổng vỗ vỗ lên yên xe: “Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!”. Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói: “Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ”. Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách. Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng: “Cậu liệu được không cậu?”. Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm: “Được mà... Dễ ợt hà!”. Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên lòng đường. Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng nên không nghe ổng nói gì hết. Một lúc sau bỗng ổng la lớn: “Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!”. Từ đó, ổng chỉ cho con chạy: “Từ từ... Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đít....” Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên: “Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!”... Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì... làm gì... Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói: “Mình vô ăn cái gì đi”. Ổng nói: “Cậu vô ăn đi, tôi không đói”. Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại: “Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu! Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!”. Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút. Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra. Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên: “Ăn gì mau vậy cậu?”. Con nói trớ: “Thấy không ngon nên không ăn”. Rồi con nói tiếp: “Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó! Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi”. Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên “ôm” đi thẳng !

Kể xong, Trung hỏi: “Nhà Nước đang có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?”. Tôi nói: “Ờ... ”. Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời !


NÓI: HẾT RỒI !

Một ông bạn ở Paris cho tôi uống một thứ trà Tàu đặc biệt ổng đem từ bên Mỹ về. Ổng cầm cái hộp vuông màu xanh ve chai đưa lên khoe: “Trà này bên nây chưa có. Nó tên là Trà Vương. Hộp 150 gr này tôi mua bên Mỹ giá là 15 đô đó!”.

Trà ngon thiệt! Vị ngọt phớt chớ không đắng hay chát như loại trà Tàu khác và nhứt là mùi thơm rất “vương giả” chớ không phải mùi lài hay sói hay sen như thường thấy. Uống cạn chén trà, hương trà còn đọng lại trong đáy chén phất lên mũi gợi thèm mùi vị đặc biệt này! Ông bạn tôi nói Trà Vương có nhiều số, nhưng số 103 là ngon nhứt !.

Tôi đã đi lùng sục ở Paris nhưng không thấy bán loại Trà Vương này. Một hôm, đi với vợ tôi ở khu 13 chợ Tàu, tôi chợt thấy một bà Á đông cầm một hộp vuông màu ve chai vừa quơ quơ ra dấu vừa nói chuyện với hai bà khác cùng ngồi trên băng gỗ vỉa hè. Tôi bước lại nhìn: thì ra đúng là hộp Trà Vương! Mừng quá! Nghe mấy bà đó nói tiếng Việt Nam nên tôi hỏi ngay: “Phải Trà Vương không bà?”. Bả quay qua tôi, trả lời cụt ngủn: “Ờ! Mà hết rồi!”. Rồi quay về tiếp tục nói chuyện với hai bà kia. Tôi chen vào: “Xin lỗi! Bà mua ở đâu vậy?”. Lần này, không quay lại nhìn tôi nhưng bả vẫn trả lời: “Mà tôi nói hết rồi!”. Tôi không dám cười, sợ bả bị chạm tự ái. Tôi vẫn ôn tồn hỏi: “Dạ! Nhưng xin bà làm ơn cho tôi biết bà mua ở đâu vậy?”. Bả nhìn tôi, chắc coi tôi có... khùng không mà cứ lải nhải hỏi hoài. Rồi bả cầm cái hộp lia lia về hướng phía dưới con đường một chiều: “Dưới kia kìa”. Tiếp theo là bả gằn từng tiếng: “ Tôi-nói-hết-rồi!”. Tôi cám ơn rồi kéo vợ tôi đi “mò” dài dài xuống “dưới kia kìa”, tiệm nào cũng vô kiếm Trà Vương! Khi đi gần... rã chân thì vào một siêu thị lớn. Họ nói: “Có!. Nhưng mà hết rồi!”. Hỏi chừng nào có nữa, họ trả lời không biết! Thì ra bà già hồi nãy nói đúng. Bả đã tốt bụng “nói cho thằng chả biết là hết rồi để thằng chả khỏi phải lội xuống tuốt dưới kia xa thấy mồ chớ bộ”!

Các bạn có thấy chuyện nhỏ này dễ thương không? Bà già đó, cho dầu có lưu vong ở chân trời góc biển nào đi nữa, bà vẫn giữ nguyên phong cách Việt Nam. Trân quí lắm, các bạn à !

CHUYỆN Ở QUÊ TÔI.-

Má tôi mất vào ngày đưa Ông Táo. Thằng con lớn của tôi đi với má nó về Việt Nam lo ma chay. Ông thầy làm đám (phái Cổ Sơn Môn thường gọi là thầy cúng) là ông thầy Non. Cái tên này do má tôi đặt ra để tránh gọi “Thầy Con” vì ổng là con ông thầy Cả, ông này là bà con kêu má tôi bằng cô và là bạn học của tôi từ thời tiểu học ở trong làng. Kể như vậy để thấy thầy Non đối với gia đình tôi không phải là ngưởi xa lạ.

Sau đám ma, thầy Non lấy Honda chở con tôi đi đầu trên xóm dưới thăm bà con và cũng để xem vùng quê ăn Tết. Đang chạy trên đường xóm Nhà Máy, thấy một ông lái mô tô đi cùng chiều chở phía sau một chậu mai. Thầy Non nói với con tôi: “Coi kìa! Cây mai đẹp quá kìa!”. Rồi thầy chạy kè theo để con tôi thấy rõ hơn. Ông chở mai quay qua nhìn, con tôi nói lớn cho ổng nghe: “Cây mai đẹp quá!”. Ông đó nói: “Ờ! Mà không có bán!”. Vì tiếng máy mô tô ồn quá nên con tôi phải nói lớn hơn cho ổng nghe: “Không! Tôi chỉ muốn nói là cây mai của ông đẹp quá hà!”. Ổng có vẻ bực mình: “Ờ! Người ta nói không có bán là không có bán!”. Rồi ổng vọt ga chạy thẳng, làm thầy Non phải ngừng xe lại để cả hai cùng ôm bụng cười! Sau đó, lại tiếp tục đi. Một lúc, thấy một ông chạy Honda chở thằng nhỏ ngồi phía sau đâu lưng với ổng, ôm trong lòng một quày dừa tươi. Con tôi, nhớ lại vụ cây mai, muốn phá chơi nên hỏi chọc: “Dừa có bán không vậy?”. Thằng nhỏ thúc cùi chỏ vào lưng người lái xe: “Ba! Ba! Thằng chả hỏi có bán dừa không kìa!”. Người đàn ông làm thinh nhưng có vẻ suy nghĩ. Bỗng, ông ta la lên “Ừa! Bán!” rồi tấp xe vào lề ngừng lại. Thầy Non nói: “Ở chùa thiếu gì dừa! Mua chi vậy?”. Hỏi chơi mà đâu có dè ổng bán nên con tôi đành mua một trái. Ông đó nói: “Dừa tôi mua cho vợ tôi kho thịt ăn Tết. Thấy cậu hỏi mua, tôi nhường một trái cho cậu uống chơi!”. Con tôi nói cám ơn mà không dám cười!...

Sau hơn ba mươi năm “đổi đời”, cái thật thà chân chất của quê tôi, may quá, vẫn còn nguyên như cũ !

BÁN VÉ SỐ.-

Trên chiếc bắc Mỹ Thuận. Chiếc bắc chở đầy nhóc xe và người, ùng ục qua sông. Mấy người bán dạo rao hàng inh ỏi. Vợ chồng tôi đứng ở khoảng trống phía đầu chiếc bắc, nhìn sông nước minh mông với những về lục bình xanh biếc nhấp nhô trên sóng nước. Mùa này, lục bình bắt đầu nở bông nên thấy có màu tim tím e ấp lấp ló giữa những bựng lá to láng mướt. Đẹp quá! Sau hăm mấy năm xa xứ, bây giờ có dịp về thăm, chúng tôi thấy cái gì cũng đẹp! Nước sông đục ngầu phù sa... cũng đẹp! Chiếc ghe bầu phình bụng chở lúa khẳm lừ tưởng chừng như sắp chìm... cũng đẹp! Chiếc đò ngang hay đò dọc gì đó dài thòn có cái mui bằng phẳng thấp lè tè, hai bên hông trống trơn không có gì che chắn, lướt sóng chạy bắn nước như giành sông với những ghe thuyền khác... cũng đẹp!

Bỗng, một bé gái cỡ 10 tuổi đến gần vợ tôi, tay chìa một tấm vé số, năn nỉ bằng một giọng trong trẻo nhưng nói khá to để át tiếng những người bán dạo chung quanh: “Ngoại ơi ngoại! Con còn có một vé số này thôi, ngoại mua dùm con để con còn về phụ má con lo việc nhà”. Con bé mặt mũi sáng sủa dễ thương. Vợ tôi lấy tiền mua vé số rồi vuốt đầu nó, hỏi: “Nhà con ở đâu lận?”. Chắc bả thấy tội cho con nhỏ, mới có bây lớn tuổi đầu mà bán xong còn phải lội bộ về nhà giúp mẹ! Nó nhìn vợ tôi, mỉm cười rồi mới trả lời: “Dạ! Ở xóm rạch Ngo gần đây hà!”. Cái cười của nó có duyên vô cùng. Trước khi đi, nó còn biết nói: “Cám ơn nghe ngoại!”. Tôi nhìn theo mà thấy mến cái dáng nho nhỏ thon thon của nó trong bộ đồ bà ba vải trắng đã ngả màu bùn non lờn lợt...

Một lúc sau, tôi nghe ở hành lang phía bên kia vang lên tiếng lảnh lót của con bé: “Ngoại ơi ngoại! Con còn có một vé số này thôi, ngoại mua dùm con để con còn về phụ má con lo việc nhà”. Tôi nhón gót nhìn sang: đúng là nó! Vợ tôi hỏi: “Nó hả ?”. Tôi gật đầu mà không nén được tiếng thở dài...

Tôi nhìn ra sông nước với vài chiếc ghe thuyền đi lại, nghĩ mà thương cho thân phận người dân bây giờ... Tôi buột miệng nói : “ Bây giớ... sao thấy nhiều lục bình quá hổng biết ”...

Chiếc bắc vẫn ùng ục nhả khói qua sông... ráng nhả khói mà qua sông...

TIỂU TỬ
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

NHỮNG TRÁI VẢI THIỀU.


“ Hồn tử sĩ gió ù ù thổi.
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi ,
Chinh phu tử sĩ mấy người?
Nào ai mạc mặt ,nào ai gọi hồn..”
(Đặng Trần Côn ).
Sau hơn 17 năm sang định cư tại Hoa Kỳ .
Các con ông Hoàng đã học hành thành đạt và có gia đình ở riêng .Ông đã bước sang tuổi “Thất thập cổ lai hy “.Qua những chuỗI ngày gian nan vất vả ở quê nhà !Giờ đây gần đến cuốI đời xế bóng .Đôi bạn đường còn được sống bên nhau .Tưởng không còn gì hạnh phúc cho bằng !

Theo như thông lệ ,cuốI tuần ông Hoàng thường chở vợ đi các siêu thị .Qua những quầy thịt cá ,rau đậu …ông sà tớI dẫy quầy bán những trái cây ngon ngọt .Bom nho lê táo .Cả những trái cây vùng nhiệt đới …Những trái vảI thiều đỏ au mát mắt ,đựng trong những giỏ lướI xinh sắn ,như mờI gọI mọI ngườI .Bất chợt một ý nghĩ đau thương hiện ra trong đầu ,làm ông buồn rườI rượI !Một số bạn đồng ngũ của ông đã nằm xuống vĩnh viễn trong vùng rừng núi Hoàng liên Sơn Việt Nam .

Sau ngày 30 tháng Tư Đen ! Ông cũng như đa số các chiến hữu .Vì tin lời đường mật của bè lũ cộng sản .Đã tra đầu vào rọ .Để rồi phải ngồi đếm trên 10 cuốn lịch bi thương ! Ông đã trải qua nhiều trại tù trong nam ra tới ngoài bắc …Từ Sa Đéc ,Cao Lãnh ,Chi Lăng Thất Sơn (Châu Đốc ) .Đến đầu tháng 04 năm 1976 .Một đêm trờI hãy còn khuya ,khoảng một hai giờ gì đó .Anh em tù còn đang ngon giấc .Sau một ngày như mọI ngày ,phảI lao động vất vả .Bỗng những hồI kẻng vang lên liên tiếp …Tiếp theo những hồI tu huýt rít lên inh ỏI .TụI quản giáo đi từng nhà đánh thức anh em dậy . Chúng ra lệnh ,anh em thu xếp tất cả đồ đạc tư trang ,mang theo cho một cuộc hành quân xa .TrảI qua gần một năm trong lao tù cộng sản .Anh em đã có một ít kinh nghiệm về việc chuyển trạI cua việt cộng .Trần Thành ,một cựu đạI úy già thuộc binh chủng thiên thần mũ đỏ nằm cạnh. Ông đang ngủ mơ màng ,bị đánh thức bỗng choàng trở dậy .Miệng lầu bầu phán một câu xanh rờn :”Hành quân cái con khỉ ,lạI chuyển trạI rổI “.

Sau những cơn mưa đầu mùa .Sương đêm còn ướt đẫm trên cành cây ngọn cỏ .Trên sân cờ của trung tâm huấn luyện Chi Lăng ngày nào .Những xe chở hàng bị trưng dụng .NốI đuôi nhau chờ đoàn tù chuyển trạI .Đoàn xe di chuyển nốI đuôi nhau trực chỉ bến cảng Trà Nóc (Cần Thơ ) .TạI đây chúng dùng những tầu Form LCM lấy của hảI quân VNCH làm phương tiện di chuyển tù .Anh em tù chen chúc nhau dướI hầm tầu như cá mòi .MớI thoạt nhìn ,ngườI ta tưởng tầu chở dân nô lệ đem bán như thưở xa xưa !NgườI nằm ,kẻ ngồI chen chúc nhau trông rất thương tâm ! Ăn ngủ ,đạI tiểu tiện cũng tạI chỗ .Trên mui tầu chúng chừa một lỗ hổng ,rộng một thước vuông .Chỗ này vừa làm lỗ thông hơi ,vừa để thả đồ ăn và kéo các bô phế thảI ! Thật là đúng địa ngục dướI trần gian !

Đoàn tầu ma chở những con ngườI bị bức tử .Gần sáng ,ì ạch về cửa Hàm Luông hướng ra biển .Thoạt đầu trong đám anh em tù có những ý nghĩ khác nhau .Kẻ thì nghĩ lần này chúng đầy anh em ra Côn Đảo .NgườI nói nó đưa anh em xuống rừng đầm lầy Năm Căn Cái Nước ? Nhưng một số anh em thuộc binh chủng HảI Quân .Đã từng chỉ huy những con tầu ,tham dự những cuộc hảI hành diệt cộng .Về đêm các vị đã nhìn sao trờI .Biết được nhửng con tầu đang rẽ sóng hướng về miền bắc Việt Nam ! Qua hai ngày hai đêm .Những con tầu chở tù đã ghé cảng Bến Thủy ,thuộc địa phận thị xã Vinh .Bến Thủy một cảng thuộc miển trung Việt Nam,một điểm quân sự quan trọng của việt cộng .Nơi đây nhận những khí tài chiến tranh do các nước thuộc phe xã hộI chủ nghĩa cung cấp . Trong thờI gian chiến tranh ,địa điểm này đã chịu những trận mưa bom của pháo đài bay B52 rất nặng . Đoàn tù đến cảng lúc 05 giờ chiều .Sau những ngày đêm tù túng ,ngủ ngồI trong hầm tầu .Anh em ai cũng mệt mỏI bệnh hoạn …Trước khi mở nắp hầm tầu cho tù lên bờ .Tên cán bộ áp tảI nói một câu nghĩ lạI mà tức cườI :” Chào mùng anh em đã đến được miền đất xã hộI chủ nghĩa?” Một cụm tù láo khoét ru ngủ nhân dân !Cái xã hộI chủ nghĩa là gì ? Chỉ đem lạI cái nghèo cái đói cho nhân dân mà thôi !

Khi lên bờ ,anh em tù được phát mỗI ngưởI một bịch nylon đựng hai củ khoai lang luộc .Một hàng phuy đựng nước âm ấm ,nấu chung vớI vài củ gừng .Anh em xếp hàng đến uống .ThờI điểm này miền bắc đang sang hè oi bức .Qua mấy ngày đêm anh em bị nhốt dướI hầm tầu .Số lớn anh em đã nhảy đạI xuống các hố bom B52 đầy nước cạnh đường …Dù trên mình còn nguyên quần áo ! Sau vài phút ngụm lặn ,anh em cảm thấy tỉnh táo đôi phần . Từ lúc khởI hành đoán tù chia thành từng độI .MỗI độI có hai vệ binh ,AK kè bên áp tảI .Chỉ thị của vc trong lúc di chuyển tù ,tránh mọI tiếp súc giữa dân chúng vớI tù .ThờI điểm lên xuống tầu vào đêm tốI ,cách xa ga chính một hai cây số .Chúng di chuyển đoàn tù đến điềm cách ga Vinh hai cây số ,đợI tầu khách từ miền nam ra . Chúng nhét trên 100 ngườI trong mỗI toa . Những xe gòng ngày trước chỉ dùng chở hàng . Kinh nghiệm những lần di chuyển tù trước .Khi đoàn tầu chở tù qua các ga thường bị ném gạch đá …Có lẽ trước khi có chiến dịch di chuyển tù từ nam ra bắc .Chính quyền việt cộng đã cho dân chúng học tập .Thấm nhuần chính sách gây căm thù giữa nhân dân vớI tù hàng binh miền nam ? Ngay sau ngày cưỡng chiếm miền nam việt nam .Bọn việt cộng đã đặt ra các danh từ “ngụy quân ,ngụy quyền “ để gọI anh em chúng tôi .Nghĩ thật nực cườI ! Ai mớI thực là ngụy quân ngụy quyền đây ? Thứ quân độI chỉ phục vụ cho đảng trên hết !MớI xứng đáng được mang mỹ từ (ngụy quân ) chứ ?

Các toa gòng (chở hàng ) có từ thờI pháp thuộc đã cũ .Báng xe ì gạch nghiến trên các đường sắt .Tạo thành các âm thanh nghe ghê rợn ! NgườI xếp như nêm cốI .Cửa toa mở rất nhỏ .Trước bậc lên xuống ,một tên vệ binh cầm AK án ngữ .Thỉnh thoảng các làn gió lùa các đợt bụI than tầu .Quất mạnh vào mặt chúng tôi ,làm tốI tăm mặt mũi .Đợt chuyển tù lần này .Khi đoàn tầu qua ga Thang Hóa ,cũng bị dàn chào một loạt gạch đá !

Đúng là lắc lư con tầu đi !Ông Hoàng đã thiếp đi trong một giấc mơ ngủ ngồI .Hoàng lương mộng ,giấc mộng kê vàng .Sự tích truyện cổ bên Trung Hoa .Lư Sinh đờI nhà Đường .Học trò nghèo ,trên đường lên kinh đô ứng thí .Ghé lạI một quán trọ bên đường nghỉ chân .Lư Sinh mơ thấy mình đỗ đạt .Hiển vinh phú quý ,vợ đẹp con khôn .Khi bừng tỉnh dậy ,thấy mình còn đang nằm trong quán trọ .Thân phận một anh học trò nghèo .Trong khi bà chủ quán chưa nấu chín nồI cháo kê .Hạt kê nhỏ như hạt mè mầu vàng .Nấu như cơm nếp ,ăn vớI bánh tráng rắc đường lên rất ngon .Điển tích có câu :’ Giầu sang chưa chín một nồI kê !”Giấc mộng còn dẫn dắt ông Hoàng trong đoàn quân bắc tiến .Ông mơ thấy ngày trở về thủ đô Hà NộI .Giai phóng một nửa nước Việt Nam ,thoát ách thống trị bạo tàn của bè lũ cộng sản …

Có tiếng nói lao sao của một bạn tù :”Đã tớI ga Nam Định “ làm ông bừng tỉnh .Đoàn tầu giảm tộc độ ,tiến vào ga Nam Định lúc tảng sáng .Nam định một thành phố công nghiệp .Có nhiều nhà máy như : máy tơ ,máy dệt ,máy chai …Nơi đây đã bị oanh tạc nặng nề .Qua lần sương mai .Ông Hoàng thấy một thành phố hoang tàn đổ nát .Bao kỷ niệm thờI thơ ấu ,lạI hiện về trong tâm trí ông .Ngôi trường Nguyễn khuyến xinh đẹp ,êm đềm ,vớI bao kỷ niệm trong dĩ vãng .TuổI hoa niên học trò đã đưa ông vào bao lốI mộng …Đoàn tầu lần lượt qua ga Phủ Lý ,rồI đến ga Hàng Cỏ (Hà NộI ) vào khoảng sáu giờ chiều .Đất Thăng Long ngàn năm văn vật khi xưa . Giờ đây là một thành phố hoang tàn ,cũ kỹ .Phố xá nhà cửa rêu phong ,đổ nát không được sửa chữa hay xây dựng lạI .Đoàn tầu chở tù chạy một ngày nữa đến ga Yên Bái .Yên Bái đã đi vào lịch sử .TạI đây 13 vị anh hùng Quốc dân đảng .Trong đó có nhà ái quốc Nguyễn Thái Học ,đã lên ngọn đầu đài đền nợ nước !Qua ga Yên Bái hơn một cây số .Anh em tù xuống xe lửa ,tiếp tục lên xe tảI .Đoàn xe lần lượt qua bến phà Âu Lâu ,một chi nhánh của sông Hồng .Đoàn xe qua phà ,tiếp tục di chuyển đến bìa rừng .Địa phận này thuộc huyện Văn Chấn ,Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn .Từ bìa rừng ,đoàn tù di chuyển đường bộ khoảng 5 cây số mớI đến trạI tù .TrảI qua ba bốn ngày đêm di chuyển bằng tầu biển và xe lửa ,anh em quá mệt mỏI !Giai đoạn đường bộ bắt đầu .Qua những ngọn đồI ,khe suốI .Đoàn tù lếch thếch ,di chuyển chậm chạp .Nhiều anh em quá mệt mỏI ,rục bỏ các tư trang đem theo doc đường …Một vài anh ngất sỉu trên đường .Nhưng cuốI cùng cũng được anh em tù kè tớI điểm .

Khi sương mai còn bao phủ núi rừng Việt Bắc .Ông Hoàng choàng tỉnh dậy bởI tiếng hót của loài chim đặc biệt :”Bắt cô trói cột …bắt cô trói cột …” Cuộc đờI lưu đầy biệt xứ của ông và các bạn bắt đầu từ đây !

Chúng ta nhó lạI sau ngày 30 tháng tư đau thương .Bọn cộng sản cưỡng chiếm miền nam Việt Nam .Chúng lập nhiều trạI tù rảI rác từ nam ra bắc .Nhiều trạI ở tận miền rừng núi miền bắc giáp danh Trung Quốc .DướI tên bí số đoàn 776 gồm nhiều liên trạI .Liên trạI 1 nằm trong địa phận thuộc huyện Văn Chấn ,thị xã Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn . Trực thuộc liên trạI 1 gồm các trạI : 1,2,3,4,5,8,9,10 …Các vị tướng của VNCH ,chúng giam ở trạI 1 (cạnh BCH đoàn 776 ) .TrạI 2 chúng giam các vị đạI tá (bò lục ).Các trạI còn lạI ,chúng giam chung từ cấp Trung Tá trở xuống đến Thiếu Uý .Cón một trạI trong cùng gần hang rơi ,chúng giam trên 600 chiến hữu từ cấp Thượng sĩ xuống binh nhì .Ông Hoàng giam ở trạI 8 .Địa danh có tên lả Cốc .Trước cửa trạI có đường máng làm bằng cây bương rừng ,dẫn nước từ khe núi ngang qua đường vào trạI .

Ba tháng đầu mớI đến trạI .Anh em tù rất khổ vì lao động cật lực .Làm nhiều ,nhưng ăn không đủ ấm bụng !Hàng ngày các toán tù ,lên rừng lấy tre ,nứa ,giang ,mây ,lá về làm nhà ở .Các khu rừng bạt ngàn ,âm u thuộc miền thượng du miền bắc .Từ xưa không có bước chân ngườI lui tớI .Về mùa nắng nhiều muỗI ,mồng ,rắn rết …Cón về mùa mưa , ôi thôi đầy vắt ghê sợ ….Những chú vắt là kẻ thù đáng sợ của anh em tù.Chúng đeo dính vào đầu ,vào cổ ,tay chân …Nhiều khi anh em hăng say chặt tre ,cắt lá .TụI vắt tiến đến thăm hỏI cả hạ bộ …Khi đã hút máu no say ,chúng mớI nhả lăn mình xuống đất .Bây giờ nghĩ lạI ,ông Hoàng còn thấy rùng mình !Trong rừng có những con suốI ,nước vàng rất độc .Nếu anh em tù không biết lộI qua .Khi lên lông chân sẽ rụng hết .Vế trạI bị sốt rét vàng da .Nhiều bạn đã qua đờI …

Sau thờI gian sáu tháng đi rừng .Phần lớn anh em lao động vất vả ,ăn uống thiếu thốn .Tiêu chuẩn mỗI bữa ăn ,một chén sắt (B52) bo bo và vài hạt muốI .Vài tháng sau độI rau xanh canh tác được .Anh em được vài cọng rau muống làm canh .Đa số anh em bị bệnh kiết lỵ .Ông Hoàng nhờ ông bạn tù nằm cạnh ,đã cho vài viên sto vơ sol chống kiết lỵ .Vì thế ông thoát khỏI lưỡI hái của tủ thần ! Còn tổ thuốc nam của việt cộng ,bệnh gì cũng xuyên tâm liên chữa bá bệnh .ThờI gian này anh em tù trong vùng Hoàng liên Sơn ,chết vì bệnh kiết lỵ cũng nhiều !

Vào khoảng tháng ba năm 1978 .Sau bữa cơm chiều .Ông Hoàng được cán bộ quản giáo tên Xuân .Lệnh cho ông thu xếp tư trang ,chuyển sang trạm xá thuộc liên trạI 1 .Chỉ huy trạm xá là bác sĩ việt cộng tên Khán .Tổng số khoảng 20 anh em tù tù các trạI di chuyển đến .Trong số này có cựu TR/Tá bác sĩ Hồ huỳnh K…Trước năm 1975 phục vụ tạI bệnh viện Tiểu khu Kiến Phong .Nhiệm vụ chủ yếu của anh em trạm xá : tiếp tế thực phẩm cho toàn liên trạI .Săn sóc và chôn cất khi anh em qua đờI .Ngoài bác sĩ K.luôn luôn ở tạI trạm xá săn sóc bệnh nhân .Còn lạI anh em chia làm hai tổ ,thay phiên ra Yên Bái ,nhận nhu yếu phẩm cho toàn liên trạI . Chôn cất khi có anh em vắn số qua đờI .ThờI gian ở trạm xá liên trạI .Ông Hoàng đã chứng bao cái chết oan nghiệt của anh em tù !Ngày đó bọn việt cộng bắt anh em tù ,chặt cây ,phá rừng ,đốt rễ thi đua trồng sắn (củ mì) làm lương thực chính nuôi tù Có nhiều bọn quản giáo ,hướng dẵn anh em trồng hom sắn .Chúng thường tuyên truyền nói cho sướng miệng .Ba ký lô đọt sắn hay đọt khoai lang ,ăn bổ bằng một ký lô thịt bò ?!ThờI gian này anh em tù rất đói .Bọn việt cộng nhân dịp này đánh vào bao tử anh em .Nhiều chiến hữu vì một chút tư lợI no bụng .Đã biến chất ,cam tâm làm ang ten hãm hạI đồng độI !

Một buổI chiều ,trạm xá tiếp nhận hai bạn tù sắp chết ,vì ăn nhiều đọt sắn luộc không kỹ !Có lẽ vì quá đói .Hai anh lén hái nhiều đọt sắn bỏ vào lon glu gô .Vì luộc chưa chín ,chất nhựa rau khoai lang còn nhiều trong lá ngấm vào máu !Trạm xá việt cộng làm gì có vụ rửa ruột .Chúng lấy muốI cục ngâm nước lạnh đổ vào miệng hai anh .Chất độc mủ lá sắn để lâu ngấm vào máu hai anh .Sau hơn một giờ ,mắt trợn ,sùi bọt mép ,hai anh đã tắt thở ! LạI một trường hợp quá thương tâm !Cựu ĐạI Tá Bùi D.(Tư lệnh Sư Đoàn 9/BB ) trước năm 1975 .Vị ĐạI Tá này trong tổ khai thác bồ đề .HốI đó các traị có kế hoạch khai thác cây bồ đề đã trồng ,xuất khẩu qua Thụy Điển làm giấy trừ nợ .Trong một buổI chiều mưa lâm râm .Bốn vị ĐạI Tá khiêng cây bồ đề ra lòng máng ,đẩy xuống dòng suốI ,thả trôi theo dong nước đến bãi tập trung …TrờI mưa ,đường quá trơn trượt .Cây đồ đề quá nặng .Vì không chịu nổI sức nặng ,các vị đã buông tay !Thân cây đã đánh vào đầu ĐạI Tá D. Sức mạnh đánh trúng dây thần kinh thị giác .Ông hôn mê ,đui cả hai mắt !

Năm 1978,khỏang vào đầu tháng tư am lịch .Lúc này thờI tiết miền bắc đã vào hạ .Tiếng chim tu hú ,lác đác kêu trên những rặng vảI thiều .VảI thiều cũng như nhãn tiến .Hai sản phẩm quý ,dùng để dâng tiến vua chúa thờI xa xưa .Trên những cánh rừng thuộc miền thượng du bắc việt .Như rừng Hoàng Liên Sơn ,thỉnh thoảng cũng gặp các cây mọc hoang như :vả,sung ,chuốI ,nhãn ,vảI …Kinh nghiệm những ngườI đi rừng truyền lạI cho anh em .Cây nào trên rừng có trái .Thấy chim ăn được ,thì ngườI ăn được .Một số anh em tù ,có nhiệm vụ lên rừng chặt tre ,mây cho trạI làm nhà .Gần cạnh bụI mây ,anh em phát hiện có cây vảI rừng ,đã có trái chín đỏ thơm nức .Anh B trong toán liền trèo lên cây ,thấy đôi ba trái chín đã bị chim ăn .Vì bản năng sinh tồn .Cơn đói đang thôi thúc con tỳ con vị trong bao tử …Anh đã ăn thử mấy trái .Nghe trong ngườI thấy êm êm và ấm bụng .Nếu các ang cứ ăn những cùi trái vảI thơm ngon thì chẳng sao !Nhưng có anh đã đem lén theo một hộp quẹt và lon glu gô .Đồ nghề nấu nướng linh tinh đã cò sẵn .TộI gì không gọt vỏ những trái vảI đem nấu .Các anh không ngờ ,một tai họa đang sập đến vớI các anh !Thoạt đầu vài anh ăn hạt vảI ,thấy bùi bùi thơm ngon hơn hạt rẻ hạt mít …Cứ thế trong đám ,nhiều anh ních tớI nửa lon glu gô hột vảI rừng vào bụng .Vài giờ sau ,trong ngườI các anh thấy khác lạ .Chân tay bần thần .Đầu óc quay cuồng .Mặt mày tái mét .Có anh đâm sầm vào hang đá .Miệng nói lảm nhảm !Nếu có phương tiện di chuyển nhanh đến bệnh viện .Nếu có phương tiện cứu chữa .Tính mạng các chiến hữu đâu có chết thảm thương như vậy ? Nhưng từ rừng các anh được đồng độI dìu về trạm xá .Đường xa gần ba cây số .Mãi bảy giờ tốI các anh mớI về đến trạm xá .ThờI gian quá lâu .Chất độc đã ngấm vào máu các anh .Khi về tớI trạm xá .Có bốn anh mắt đã trợn ,sùi bọt mép ,tay bắt chuồn chuồn …Vài phút sau tắt thở ! Số còn lạI sáu anh .Theo lệnh của bác sĩ Khán .Chúng tôi chia nhau mỗI ngườI săn sóc một anh .Cũng lạI rửa ruột ! bằng cách lấy nước muốI đổ vào miệng các anh cho trôi vào bao tử .

Đã nghèo lạI gặp cái eo !Tấm thân tù lưu đầy biệt xứ .Có sá chi vài mạng sống của lũ (ngụy quân ,ngụy quyền ) như lờI bè lũ cộng sản thường nói ! Không khí trạm xá liên trạI 1 Hoàng Liên Sơn ,đêm đó thật buồn ảm đạm !LưỡI hái tử thần đang rình dáng lên đầu các chiến hữu !Khi ngườI ta sắp chết ,sức mạnh vô địch .Cũng như ngọn đèn sắp tắt ,sẽ bùng lên lần cuốI .Ông Hoàng phụ trách săn sóc một chiến hữu .Sức ông giữ không vũng đôi tay đồng độI .O6ng này vùng chạy ra sân la inh ỏI .Miệng nhổ phì phì ,rãi nhớt chảy ra trông rất tộI nghiệp !Bác sĩ K. (Bs trong QLVNCH )cũng đang ở như các anh .Vì lương tâm nghề nghiệp ,không có phương tiện đành bó tay !Sau vài phút ,tôi được một anh tớI phụ ,dìu nạn nhân vao giường .LạI tiếp tục đổ nước muốI vào miệng …để rửa bao tử mà thôi !Qua đêm đó ,lạI thêm hai chiến hữu qua đờI vì hạt trái vảI !Số còn lạI ,hôm sau chúng tôi đưa ra bệnh viện Yên Bái bằng xe tảI Bun Ga Ry.

Giua năm 1979 ,ông Hoàng và anh em trạm xá di chuyển về Nghệ Tĩnh .Trước ngày lên đường .Tên việt cộng chỉ huy trạI ,cho anh em lên đồI Cây Khế thăm các chiến hữu lần cuốI .MỗI mộ chúng tôi có chôn một bia bằng xi măng .Trên bia có khắc tên và ngày chết của các anh .Chúng tôi có rẫy cỏ ,thắp nhang khấn vái .Mong các chiến hữu phù hộ cho anh em còn lạI mạnh khỏe .Chóng thoát khỏI ngục tù cộng sàn .

Kể từ ngày biến cố thảm họa của một số anh em tù HòangLiên Sơn (năm 1978) ,ăn hột trái vảI rừng chết !TRảI qua đã 30 năm .Cứ mỗI năm đến mùa vảI thiều .Qua các siêu thị bầy bán trái cây .Ông Hoàng cảm thây đau lòng .Trong đầu luôn thầm nghĩ :”Không biết hồn các chiến hữu chết tức tưởI .Bây giờ ở đâu !?”./.

San Diego : Kỷ niệm Ngày QLVNCH 19/06/2008 .
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong .

Lê – Văn –Nghị .
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image


Vạt nắng sau hè

Phan
Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Từ những ngày thơ dại như con anh bây giờ len lén ra vòi nước sau nhà, hứng nước vô cây súng nhựa, hì hục bơm, rồi bắn một bông hoa, bất ngờ chuyển mục tiêu sang chiếc lá sớm úa trên cây xanh rì. Chẳng bao lâu đã chán những mục tiêu cố định nên láo liên tìm sự di chuyển để thoả mãn tính hiếu động. Và con chim trời đang mỏi đường bay vì nắng hè cũng chợt nhìn thấy nước nên vội đáp xuống để giải nhiệt. Thế là chú bé con không còn nhớ tới hoàn cảnh bản thân đang lén lút vì mẹ không cho ra nắng. Chú rình rập con chim khôn hơn mình để cuối cùng là cây súng hết nước khi có cơ hội duy nhất về khoảng cách mà sau đó người thợ săn và con chim nhỏ phải tạm biệt nhau. Chim bay vô định, chú bé đứng bơ vơ, thất vọng, buồn. Tâm trạng du nhập vô cõi lòng trống huơ những nỗi niềm. Niềm vui qua đi-nỗi buồn ở lại. Chú bé chợt thấy mình đang đứng bên sân nhà hàng xóm! Chú lo sợ trở về. Mừng vì mẹ không hay biết gì về một chuyến phiêu lưu nhưng hai gò má đỏ hồng lên vì nắng của chú đã tố cáo hết hành vi vượt biên trái phép. Chú ước câu mắng yêu nhưng thường thì bị rầy thay vì bị đòn như anh hồi nhỏ. Hình phạt có khác theo thời gian, địa lý, nhưng lòng mẹ thì vẫn vậy! Cho uống thuốc cảm nắng, nấu cháo cho ăn và rờ trán thường hơn khi tiện bước ngang qua phòng con. Nhưng lòng người thợ săn thì sao? Sau một thất bại sẽ có kinh nghiệm hơn nhưng chẳng bao giờ nghĩ cho người phải chịu đựng hậu quả của việc mình làm. Nói một cách khác là người trả giá cho kinh nghiệm của mình. Tuổi thơ rồi qua đi như thế sao em?

Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Từ những ngày anh còn trẻ người non dạ như con anh bây giờ len lén mua hoa trao cho bạn gái. Cô nhỏ không nhận thì thật là ê chề với bó chổi của lòng anh. Anh còn nhớ! Lần đầu bị từ chối, không nhận mấy câu thơ đã vắt hết sức lực và trí tuệ của anh sau nhiều đêm trăn trở. Thiệt là thê thảm với mấy câu văn vần trợt lớt da me còn phải phập phồng lo sợ sự rò rỉ đến tai bạn bè thì độn thổ. Rồi “một hôm ngọn gió tình yêu lạ/ đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ…” Nữ thần tình yêu ngó xuống, đã khởi động con tim yêu đón nhận những bài thơ hay nhất một thời mà sau đó mươi năm chính tác giả cũng ái ngại mỗi khi nhớ đến. Đọc lại những lá thơ văn xuôi đầy triết lý lượm lặt trên sách cũ, giấy gói xôi; những lời rủ rê trốn học thật ngây ngô ngốc nghếch. Thế mà đã cùng nhau đến quán bờ sông. Chỉ ngồi nhìn nhau thôi đã thoả lòng. Đâu biết lục bình trôi có một lần ngang qua rồi chìm vào quên lãng. Vạt nắng dạ cầu hôm ấy khác hôm trước và ngày sau. Tình yêu mới lớn nhiều hoang tưởng nên ta đã mất nhau trong đời. Vạt nắng quê xa còn tìm về chốn cũ, chỉ có những đứa trẻ đã không một lần về tìm lại dấu yêu-xưa. Vạt nắng quê người không có mắt sáng với môi tươi và một trái tim thổn thức trong lồng ngực. Trái tim đã già chỉ còn lại những nhịp đập ăn năn, hối tiếc. Em có buồn anh không? Chuyện gì cũng có thể làm thử trước khi làm thật. Riêng tình yêu thì những lá thơ tình bị xé nháp thường hay hơn lá được gởi đi nên “tình vui trong phút giây thôi, ý sầu mang suốt đời”. Tình yêu bồng bột thế sao em?

Lâu lắm rồi anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Từ những ngày anh xa rời tuổi nhỏ. Biết đói no nơi một thành phố mới đặt chân tới lần đầu, những thành phố cao nguyên buồn muôn thuở dù đi dăm phút đã về chốn cũ nhưng lưu luyến bước chân người. Biết bơ vơ khi chiều buông bên bờ sông lạ, những con sông miền Trung ngoằn nghèo chan chứa gian lao, nhìn những cánh chim trời quay về tổ ấm mà viết lên tay mình sương gió phủ đời trai. Qua đêm mưa lai rai lạnh chết mẹ, Lại làm phiền cây viết mực bơm triết lý trên da người. Mưa miền Trung buồn thảm với cảnh trí tả tơi đã ở lại sau lưng. Gót phiêu bồng đưa anh đến những địa danh tên vẫn chưa quen người dân thị thành như nhạc Trần Thiện Thanh. Những hoàng hôn ghi dấu tuổi mơ buồn trên đá núi miền thượng du Bắc Việt với cái lạnh căm căm không biết thương người. Anh lại đi như chim trời vô định, những đêm khuya không điện không đèn nơi hải đảo xa xôi; những đêm trăng trên biển vắng nhớ về em da diết nơi phố đổi tên đường.“Bạn bè rồi xa người tình rồi quên. Ôi tháng năm, những dấu chân rồi cũng bụi mờ…” Những lời nhạc mà trước đó chỉ nghe để chứng tỏ ta đây… bỗng thấm thía nơi chân trời góc bể. Những câu thơ của người đi trước bỗng thấm… “Tôi là người lữ khách, đường chiều có là bao, nhớ nhà châm điếu thuốc, khói huyền bay lên cao.” Tuổi trẻ hoà bình lưu lạc thế sao em? Rất nhiều khi anh muốn hiểu vì đâu? Nhưng để làmm gì?

Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Khi anh làm ra được những đồng tiền đầu tiên trong đời như con anh bây giờ xoè xoè tờ check-partime, “Con cho mẹ đó!” Lớn lối như quan lớn trước công đường nên không màng tới tiểu tiết là để có tờ check đó thì mẹ đã bao đêm sữa tã, bao lần nhứ nhứ cây roi giơ cao đánh khẽ chứ không cười tươi một nụ rồi thọc mình lút cán như “Người vừa tặng ta vết thương không lành…”; như“thế gian mắt trắng như ngân nhũ” là lòng mẹ bao như biển Thái Bình. Bao giờ con anh hiểu! Hy vọng không quá muộn màng như anh đang ngồi nhìn vạt nắng sau hè. Ngày anh quay lại nhà để đền bù cho mẹ anh gói quà, miếng bánh, trái cau lá trầu… nhưng thấm tháp gì với viên thuốc cảm, tô cháo cảm đã thấm đẫm linh hồn đứa con ngổ nghịch. Đã đặt để vào lòng anh ý nghĩa sinh thành và đền ơn báo oán một cách ngông nghênh với tuổi đời lúc ấy, thâm trầm về sau. Không biết con anh có không chứ anh thì những ngày ngông nghênh ấy có được trong đời cũng có công em chia sẻ ngọt bùi cho đỡ lòng những trưa cháy túi trong môi trường đại học muộn màng của anh. Nhưng em đã được gì từ tấm văn bằng mà anh đã hãnh diện lãnh nhận để bước vào đời trong tư thế người có học. Anh chưa bao giờ rời bỏ ý nghĩ mình là người có học, luôn đòi hỏi xã hội và con người phải nhìn anh bằng con mắt kính nể thành phần trí thức. Vạt nắng sau hè khi đã nửa chừng xuân nhắc anh trí mình chưa thức bao giờ! Anh chợt hiểu em trong mặc cảm của người trí ngủ đến thế sao em?

Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Từ ngày anh mặc áo chú rể hiên ngang trước bạn bè, bao ánh mắt bạn bè thầm mong mình cũng được như thế! Bao ánh mắt cố nhân trách hờn dõi theo bước anh đi-là những người giống anh như đúc-chỉ thích nhận chứ không muốn cho đi nên mất anh trong đời. Lẽ ra anh phải hiểu điều đó một cách nghiêm túc thì sẽ hiểu hết sự may mắn của mình. Nhưng anh đã không màng thành quả đạt được bởi lòng tự tin theo ngày tháng thành tự phụ để cho là mọi điều tự có. Em chưa trách sự ích kỷ của anh bao giờ. Vạt nắng sau hè bảo anh hãy nói lời xin lỗi chân thành nhất từ trong cõi lòng mình như anh đã từng xin lỗi những người ích kỷ một cách rất thật lòng, “Em có về thăm thời thơ ấu/ thả hộ anh con dế sau hè/ em có cần người thợ chuốt tre/ làm diều thả. hắn chết rồi em ạ!/ Em có về thăm đời đôi ngã/ nhốt hộ anh khuya khoắt trăng tà/ em có cần ngắt vội chùm hoa/ tên kẻ cắp đã già. Xin lỗi./ Em có về thăm đời gian dối/ xin nhặt trái tim xám hối bên đường/ mai em về trong hầm mộ tối/ có người chờ rửa tội không tim…” Sao khó nói với em về lòng hối hận. Ngôn từ chỉ có trên bàn viết đêm khuya cho đời. Vô ngôn như vạt nắng sau hè là tình ấy trao em.

Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Những ngày khủng hoảng ở Sài Gòn bịp bợm. Hôm trước mình còn ra đường trong ánh mắt kiêng nể của người đời nhưng hôm sau chỉ có vài người bạn nghèo ghé thăm, chia sẻ cho anh ly cà phê, gói thuốc lá. Những người bạn mà em không gìn giữ cho thì anh cũng không còn khi lâm hoạn nạn. Anh lại vươn lên trong xã hội hai lòng bằng ương ngạnh độc cô cầu bại. Lại bù khú thâu đêm, dẫn xác say mèm về cho em thức trắng. Những đồng tiền của thiên trả địa đã cùng anh vô tình đến đắng cay để khi hiểu em “Có tiền đã khó, có tiền rồi mà con người không thay đổi càng khó.” Anh chỉ thấy khó… từ chối bạn bè mà vạt nắng sau hè nhắc muộn là bè nhiều hơn bạn trong đời anh.“Bè là tập hợp những người chia chung quyền lợi, khi quyền lợi ấy hết, bè tự động rã. Bạn là những người chia chung hoạn nạn, khi hoạn nạn ấy qua, không thường gặp.” Nhưng ý nghĩ tới thực tế là một khoảng dài mà không phải ai cũng vượt qua được. Anh cũng không ngoại lệ - nghĩ nhiều mà làm chẳngbao nhiêu, để em nặng nợ. Ngày dài đến thế sao em!

Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Nhớ những khó khăn, tự ti mặc cảm của người vừa đặt chân đến miền đất hứa, đến xã hội lạ hoắc lạ huơ mà tình đời chỉ thấy ma cũ ăn hiếp ma mới; những người thân thiết ruột rà nhưng đến đây mới biết khó gần vì tình thân không bằng đồng bạc trên xứ phù du. Anh còn lại gì hơn những hôm say tự do không bằng say trông về cố thổ mù khơi để em lại tần tảo lo toan cho gia đình định vị sau những điêu linh nơi quê nhà. Sau những thăng trầm trên miền đất tạm dung mà anh vẫn vô tư dạo chơi cùng chữ nghĩa. Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ ơn em trước khi mình lạc mất nhau trong đời. Tình buồn đến thế sao em?

Lâu lắm rồi, anh mới có dịp ngồi nhìn vạt nắng sau hè để nhớ lại nhiều chuyện đã trôi xa. Với anh, cuộc sống ở phía trước, ở ngày mai. Chính vạt nắng sau hè tắt dần làm anh hoảng! Không trân trọng hôm nay thì làm sao có ngày mai! Nắng vàng vương trải những nỗi niềm du du lòng trắc ẩn. Nắng tắt bên thềm để qua đêm phiền muộn. Ngày mới chói chang ân tình sau giấc cô miên. Tạ ơn em - vạt nắng sau hè.

Phan
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »


Image

NÓI VỚI BẠN BÈ


Thơ : Trạch Gầm
Nhạc : Nguyễn Văn Thành
Trình Bày : Nguyễn Văn Thành



Tao bây giờ đã thành người tha phương
Đất Mỹ tự do mà vẫn thấy buồn
Mười mấy năm tù khổ thì có khổ
Nhưng bạn bè cùng một nỗi nhớ thương

Tao bây giờ đã bắt đầu bơ vơ
Đường phố thênh hang không đợi không chờ
Một cái bắt tay cùng lời hờ hững
Mầy hả mầy ...tìm ra job hay chưa

Cắt chỉ một giờ - một hai đồng bạc
Đôi tay đau ngơ ngác nhớ chiến trường
May được ngày xưa trải thời huấn nhục
Để bây giờ quen với chuyện thê lương

Tao bây giờ tìm tao trong quanh quẩn
Một quán cà phê dăm đưá bạn đời
Vẫn còn đó niềm đau ngày Quốc Hận
Để thấy lòng còn xa xót khôn nguôi

Nhớ bạn bè nhớ không tròn nỗi nhớ
Ngày Bình Long - Rạch Bắp đến cây trường
Thằng banh xác biết đâu ngày mất nước
Thằng quặt què chồng thêm nỗi tai ương

Tao bây giờ không tiền mua rượu uống
Mà vẫn say .. say ngút với nỗi buồn
Nhìn thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước
Mấy chục năm ròng - nưóc vẫn tang thương
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests