Dòng tâm thư cuối cùng,
thay nén hương lòng tiễn đưa cha
Cha ra đi đã hai tuần, nhưng vì bận trực liên miên cho nên mãi tới hôm nay tôi mới có thể bình tâm ngồi viết lại những kỷ niệm vui buồn của cha con tôi, dòng tâm thư cuối cùng thay nén hương lòng con gái đưa tiễn cha về cõi Vĩnh Hằng,
.
Lần đầu tiên tôi gặp cha, năm ấy tôi khoảng 6 tuổi hơn. Ba tôi ra trường Quân Y năm 1966 và được chuyển về TĐ 3 Nhảy Dù với chức vụ Y sĩ trưởng vào tháng 5 năm 1967 do cha là Tiểu Đoàn Trưởng thời bấy giờ. Kể từ ngày ấy, cha và ba tôi cùng sát cánh tác chiến bên nhau trên từng trận địa như Quảng Trị, Lam Sơn, Dakto, Khe Sanh, Ashao, An Phú Đông, Bến Cát...Cha là một người chỉ huy tài giỏi: cờ tiểu đoàn trong thời gian ba tôi ở TĐ3ND đã được gắn thêm 3 anh dũng bội tinh với nhành dương liễu. Cha tôi, « Mặt Trời » (ký hiệu trên tầng số truyền tin) sau chiến trận Tết Mậu Thân được nhận lệnh bàn giao Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù và lên giữ chức Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù. Còn Ba tôi rời TĐ3ND vào tháng 9/1969, về Bệnh Viện Đỗ Vinh, nhậm chức Đại Đội Trưởng Đại Đội I Quân Y.
.
Chính vào lúc này, gia đình tôi được chuyển về sống gần gia đình cha không xa trại Hoàng Hoa Thám. Mấy chị em tôi cùng lớn lên với các con của cha. Tôi và Khanh, con trai lớn của cha là thanh mai trúc mã từ thuở ấu thơ, rồi thời niên thiếu và cả tuổi thanh xuân. Cha và má đều rất yêu thương tôi, cũng như ba mẹ tôi luôn quý mến Khanh và cùng ước muốn một mối lương duyên đẹp để thắt chặt thêm tình thân hai nhà. Vì thế, từ khi tôi 12, 13 tuổi, Cha thường gọi đùa tôi là «con dâu tương lai » của Người.
.
Năm 1970, cha được thăng cấp Đại Tá và được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng kiêm Trưởng phòng 3 Hành quân của Sư đoàn. Đến tháng 9 cùng năm, thì Cha được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh. Năm 1972 cha được thăng cấp Chuẩn tướng. Tháng 7 năm 1973, Người được lệnh bàn giao và được bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh thanh tra Quân đoàn IV và Quân khu 4.
.
Tháng 4 năm 1975, miền Nam thất thủ, cha và ba tôi cũng như bao chiến sĩ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đều bị đưa đi lưu đày cải tạo. Ba tôi bị giam cầm 3 năm, còn cha thì bị tù đày nơi đất Bắc xa xôi hơn 13 năm. Sau khi ra tù năm 78, ba tôi đi vượt biên thành công. Khanh cũng thế. Khanh và tôi nặng chữ duyên nhưng trời lại không se câu nợ, chúng tôi kể từ đó mất đứt liên lạc. Mấy mẹ con tôi sang đoàn tụ với ba tôi tại Pháp cuối năm 1983 còn má và các em Khanh thì sống vất vả nơi miền kinh tế mới
.
Rồi cuộc đời cứ như thế mà trôi đi. Tôi lập gia đình rồi có các con. Cuối cùng thì Khanh cũng tìm được tôi sau một phần tư thế kỷ dài xa cách. Trong chuyến đi công tác ở Đức tháng tư năm 2004, anh đã dành một ngày sang Pháp để thăm tôi và ba mẹ. Khanh rất buồn khi nhìn thấy tôi sống khép kín, trầm cảm, u sầu, bịnh lên bịnh xuống. Anh nói tôi từ nhỏ đã yêu thích văn chương nghệ thuật thì hãy theo cha học sáng tác thơ đi, anh còn bảo hãy trải những nỗi buồn u uất và trăn trở của tôi vào trong thơ, đó cũng là một phương thức trị liệu cho bịnh trầm cảm của tôi. Rồi Khanh đưa tặng tôi tập thơ của cha.
.
Tôi không ngờ cái duyên đưa tôi đến với thơ đường luật bắt đầu từ ngày hôm đó. Cha rất vui khi tôi liên lạc với người. Trong phone, cha cười bảo «không làm dâu, rể, thì Khanh vẫn là con trai của bố mẹ Tường, còn Titi cũng mãi là con gái của cha và má... » Thế là tôi có thêm một người cha kính yêu. Tôi theo cha học làm thơ Đường Luật, tôi còn nhớ lúc đầu, cha gửi cho tôi một cẩm nang dạy nắm giữ niêm luật, đối ngẫu và những thi bịnh cần tránh... Khi tôi nhận quyển sách này, tôi rất xúc động vì sách đã theo cha mười mấy năm lao tù tủi nhục. Từng trang đã bạc úa theo màu thời gian, chằng chịt những dòng chữ chú thích viết tay. Thế giới Đường Thi ảo hyền như nam châm cực hút sâu tôi vào trong tận đáy. Thơ Đường Luật truyền thống với tôi nói dễ thì không dễ, mà nói khó cũng chẳng khó
Đóa Cổ Đường Thi
Đường thi cổ học bác thâm đường
Hương ngữ đậm tình thắm sắc hương
Xướng khúc đề thơ ngâm họa xướng
Chương dòng đối ẩm hát từ chương
Ý lồng dăm chữ truyền tâm ý
Thương nhớ mấy vần gửi bạn thương
Bút dệt tơ lòng thơm nét bút
Trường thiên tuyệt cú tỏ can trường
Tiểu Vũ Vi
Sau 2 tháng được cha chân truyền, tận tâm chỉ dạy, thấy tôi vững, cha bảo tôi «xuất sơn» theo Người đi sinh hoạt thơ văn trên các diễn đàn. Còn về bút hiệu của tôi cũng là một huyền thoại. Ngày xưa ký hiệu tầng số truyền tin «Tường Vi» của ba tôi là do cha đặt. Tôi là con gái rượu của ba tôi, là «Tiểu Tường Vi» đa sầu đa cảm mau nước mắt, và yêu mưa vô cùng cho nên vì thế mới xuất hiện một «Tiểu Vũ Vi» ( đóa tường vi bé nhỏ trong mưa) trên phố ảo.
.
Tôi không ngờ ngày xưa cha tôi, tướng Trần Quốc Lịch dùi mài cung kiếm hiên ngang xông pha khắp trận tiền. Giờ thì là nhà thơ Trần Nhất Lang luôn trau chuốt ngữ vần góp phần bảo tồn nền văn hóa cổ Việt Nam. Noi theo cụ Nguyễn Công Trứ Người thắp đuốc dậy lên phong trào làm thơ Hát Nói hay nôm na gọi theo dân gian là Ca Trù hay Hát Ả Đào trên diễn đàn Bến Sông Mây. Những năm cuối đời, cha có đại gia đình thi hữu Bến Sông Mây cùng bầu bạn, chia sẻ những đam mê nghệ thuật về cổ thi. Ở trên Bến, Người không chỉ là cha của một mình Tiểu Vũ Vi mà còn là một «Nhất Đại Sư Huynh» trong lòng của mọi người. Từ khi nghe tin cha ngã bịnh, nhiễm dịch Vũ Hán, phải vào ICU, các thành viên trên bến xa gần đều đồng tâm góp lời cầu nguyện bình an cho cha mau chóng phục hồi
.
Tin bất ngờ cha ra đi vài ngày trước khi xuất viện làm tôi và ba mẹ ngỡ ngàng. Khi tôi báo hung tin vào Bến Sông Mây, mọi người đều hụt hẩng không tin đó là sự thật. Cha đi rồi để lại nỗi mất mát lớn lao. Người là vị tướng VNCH cuối cùng đi vào lòng Đất Mẹ Việt Nam. Cha đi rồi, không còn ai cùng con nghiên cứu những thể thơ cổ của quê hương mình. Phần học dịch thơ Đường của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy của con nay đành dỡ dang
Chỉ còn tám ngày nữa là khánh thọ 86 tuổi của cha, xưa còn cha, con viết bài thơ Đường Luật kính mừng cha
Bát Tuần Khánh Thọ
Tam Thủ Liên Hoàn
.
Khai bút đầu xuân chúc thọ cha
Mừng thêm tuổi mới phước an hòa
Xưa mài cung kiếm xông pha trận
Giờ chuốt ngữ vần vịnh tấu ca
Hát Nói đề thơ bình đối ẩm
Đường Thi xướng khúc cảm tương giao
Gìn vàng giữ ngọc thơm hương Việt
Thi phú từ chương nghĩa mặn mà
.
Mặn mà hạ bút chữ truyền tâm
Tuyệt cú trường thiên dệt ý vần
Dẫn dắt cháu con rèn mạch tứ
Giao lưu thi hữu điệu hòa âm
Bảo tồn văn hóa chung vai gánh
Chắt lọc tinh hoa cộng hiến dâng
Tài đức song toàn người kính trọng
Tao đàn hội ngộ kết tình thâm
.
Tình thâm con trẻ kính đôi hàng
Thượng thọ mừng cha phúc hỷ khang
Bách tuế trường sinh gia thịnh vượng
Niên niên hạnh lạc tuổi an nhàn
Sông Mây về bến vui xuân ấm
Sơn Tự thiền du đẹp mộng vàng
Đuốc Tuệ, Hoa Đàm cùng mõ kệ
Cổ hy bát thập quý cao sang…
Tiểu Vũ Vi
28/02/15
Giờ tiễn đưa cha, trên con thuyền thơ xuôi dòng Bát Nhã về cõi Chân Như, thắp nén hương trầm, gói trọn từng câu thơ hát nói, con trẻ đau lòng ngậm ngùi thương tiếc cha
Xuân Tiếc Thương
( Thơ Hát Nói )
Mưỡu:
Ngỡ ngàng cánh nhạn về đâu
Sông Mây Bến cũ sóng sầu bủa giăng
Nhân sinh một kiếp hồng trần
Bụi đời rũ sạch tình thân giã từ
Hát Nói:
Tiếng quốc buồn như than thở
Một vì sao sa, vỡ giữa đầu xuân
Quê người đất khách, vinh nhục thăng trầm
Dứt nợ trần ai, hoàn thân cát bụi
Thắp nén hương lòng chào tiễn biệt
Vòng thơ hạ bút khóc phân ly
Chữ thâm tình con mãi tạc tâm ghi
Lạy tạ nghĩa ân, ôm ghì kỷ niệm
Trĩu nặng tim sầu, lời kinh khấn nguyện
Cha về miên viễn, bỏ lại mùa vui
Trời Nam lạc cánh hoa dù
Chiến bào xếp lại, nghìn thu thanh nhàn
Áo quan phủ lá cờ vàng...
Tiểu Vũ Vi
Dẫu biết rằng có ai qua được vòng đời sinh tử, nhưng sự ra đi đột ngột của cha trong mùa đại dịch Vũ Hán để lại một nỗi đau lớn cho gia đình. Nguyện mong hồn cha an nghỉ đoàn viên cùng hương linh các chiến hữu Thiên Thần Mũ Đỏ ngày xưa va các bạn bè thi hữu của cha ngày nay
Bóng hạc xe mây chờ đón khách
Niết bàn thanh thản hưởng an nhiên
Phố rượu đêm mưa buồn cuối tháng hai,
Con kính lễ,
Titi của cha
Trần Đức Tuyết Tiên