Người Lính Trong Nhạc Nguyễn Văn Ðông
Tác giả: Lê Hữu
Anh như ngàn gió
Ham ngược xuôi theo đường mây...
(Nhạc phẩm Mấy Dặm Sơn Khê, Nguyễn Văn Ðông)
Hôm ấy, tôi còn nhớ, một chiều hè năm 1969, chúng tôi ngồi ở một quán nước quen dọc bờ biển Nha Trang. Bên cạnh tôi là H., người bạn học cũ. Ðã lâu lắm chúng tôi mới gặp lại nhau kể từ ngày rời xa mái trường cũ ở một thị trấn miền cao nguyên đất đỏ. H. cho biết anh sắp sữa nhập ngũ, thì giờ rảnh rỗi như thế này sẽ chẳng còn được bao lâu nữa. Anh có người yêu ở thành phố biển này. Tôi thì vẫn lang thang trên sân trường đại học, tấm giấy chứng chỉ hoãn dịch trong tay vẫn còn hiệu lực.
Trên mặt bàn là những chai bia đã cạn và câu chuyện cũng đến lúc cạn đề tài. Chúng tôi ngồi im lặng, cùng phóng tầm mắt nhìn ra vùng biển bao la trước mặt, chờ mặt trời lặn để ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi biển trong lúc tiếng nhạc bập bùng vọng ra từ một góc quầy.
Người đi giúp núi sông
Hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề
Dành lấy quê hương...
"Bài gì vậy?" H. quay sang hỏi tôi.
"Hàng Hàng Lớp Lớp," tôi trả lời.
"Tên gì lạ vậy?"
"Gọi tắt là vậy," tôi cười, "tên đầy đủ là ‘Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp.’"
H. lặng thinh, có vẻ chăm chú lắng nghe. Lời ca tiếng nhạc khi réo rắt, khi trầm bổng.
Còn đây đêm cuối cùng
nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
Ngại khơi nước mắt, nhạt nhòa môi em...
"Giọng Hà Thanh phải không?" H. lại hỏi. "Còn giọng nam?"
"Hùng Cường."
"Thiệt sao?" giọng hỏi thoáng chút ngờ vực.
Tôi hiểu, anh bạn tôi đâu biết rằng, ngoài những bài "tủ" như Vọng Ngày Xanh, Ông Lái Đò, Sơn Nữ Ca, ca sĩ Hùng Cường, một nghệ sĩ cải lương khá nổi tiếng thời ấy, với chất giọng ténor khoẻ khoắn, còn hát rất "tới" một ít bài tân nhạc khác nữa, đặc biệt là những bài của Nguyễn Văn Ðông.
Bài hát chúng tôi đang nghe là của Nguyễn Văn Ðông. Anh bạn tôi đã nương theo câu hát ấy mà đi vào cuộc chiến. Anh đã nhập vào "hàng hàng lớp lớp" những đoàn người "nối tiếp câu thề dành lấy quê hương."
Tấm hình chụp tại Saigon vào năm 1961 với các nghệ sĩ trong Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân và Ðoàn Việt Nam. Người bận áo trắng và đội nón trắng đứng ngoài cùng bên phải Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông. Trong hình còn có một số nghệ sĩ lừng danh của miền Nam thời đó như Hoàng Thi Thơ, Lê Thương, Lê Mộng Bảo, Thu Hồ, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Út Trà Ôn, Trần Văn Trạch, Trịnh Toàn, Ngọc Phu, Bảy Xê, Ba Vân, Tùng Lâm, Phi Thoàn, Anh Sơn, Anh Lân, Quách Ðàm, Thúy Nga, Bạch Yến, Túy Hoa, Túy Phượng, Minh Diệu, và Thẩm Thúy Hằng. [1] (HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).
Mùa hè năm sau, tôi cũng "lên đường nhập ngũ tòng quân," nghĩa là chỉ sau anh bạn H. một năm. Bạn bè tôi kẻ trước người sau lục tục vào lính. Chiến cuộc ngày càng leo thang, càng trở nên khốc liệt.
H., anh bạn cùng ngồi với tôi buổi chiều ấy, cùng nghe với tôi bài nhạc ấy, cùng ngắm nhìn hoàng hôn trên bãi biển ấy, đã không còn nữa. Anh đã nằm sâu dưới lòng đất. H. đã hy sinh trong chiến trận ít năm sau đó, như biết bao người lính khác, như hơn một nửa bạn bè tôi đã nằm xuống trên khắp các mặt trận trong cuộc chiến nghiệt ngã ấy. Chiến tranh như con quái vật khổng lổ đã nuốt chửng bao nhiêu bè bạn tôi, anh em tôi.
Ðã nhiều năm, nhiều năm trôi qua, hình ảnh một chiều nào biển xanh cát trắng và những câu hát của Nguyễn Văn Ðông giữa biển trời mênh mông vẫn còn đậm nét trong ký ức tôi, mặc cho những lớp sóng của thời gian như từng đợt sóng biển cứ "hàng hàng lớp lớp" xô nhau, xô nhau tràn mãi vào bờ, rồi lại rút xuống trong con nước thủy triều của buổi hoàng hôn.
NGƯỜI LÍNH NGUYỄN VĂN ĐÔNG
Anh bạn tôi khi còn sống đã thích bài nhạc ấy vì hai lẽ: thứ nhất, đấy là một bài nhạc lính khá hay, gợi nhiều cảm xúc. Thứ hai, nội dung bài hát khá "hợp tình hợp cảnh" đối với anh ta vào lúc ấy. Chỉ nghe tựa bài hát thôi, "Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp," người ta cũng biết được rằng đấy là bài tình ca viết về lính, viết cho lính.
"Người đi giúp núi sông, hàng hàng lớp lớp chưa về..." Không chỉ là "chưa về," trong số "hàng hàng lớp lớp" những "người đi giúp núi sông" ấy, đã có biết bao người đi không về, không bao giờ về lại nữa. Trong số những người đi mãi không về ấy có anh bạn của tôi, người "yêu" câu hát ấy của Nguyễn Văn Ðông, trong lúc tôi và những người lính khác, những chiến hữu, những bè bạn của anh, đã may mắn hơn anh, đã sống sót trở về sau cuộc chiến. Và hơn thế nữa, đã được định cư trên miền đất tự do này để nhớ về những đồng đội cũ đã hy sinh hay còn ở lại trong nước, kéo dài cuộc sống lây lất, âm thầm của những người lính già trong buổi hoàng hôn của đời người.
Trong số những người lính vẫn còn ở lại trong nước ấy có người lính Nguyễn Văn Ðông, tác giả "Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp." Ông hiện sống ở Saigon, và hầu như không còn viết nhạc nữa. Ðiều này không có gì lạ, đối với một nhạc sĩ vốn sở trường và khá nổi tiếng về những bài "nhạc lính." Không chỉ vì chiến tranh đã đi qua, tình trạng đất nước hiện nay chắc không phải là môi trường thuận lợi giúp ông tìm lại được nguồn cảm hứng để tiếp tục sáng tác.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh trưởng tại Saigon (nguyên quán thuộc tỉnh Tây Ninh). Ngay từ thời niên thiếu, năm 14 tuổi, ông đã có cơ hội học hỏi về âm nhạc từ các giáo sư người Pháp trong thời gian 5 năm theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Ðây cũng là nơi ông sáng tác ca khúc đầu tay, "Thiếu Sinh Quân Hành Khúc." Năm 16 tuổi, được trường chính thức công nhận và sử dụng làm bài "đoàn ca" trong các sinh hoạt tập thể. Ông là thành viên của dàn quân nhạc gồm trên 40 nhạc sĩ thiếu niên, từng thi thố tài năng qua nhiều buổi hòa nhạc do một nhạc trưởng người Pháp điều khiển trong các lễ duyệt binh long trọng, đồng thời cũng là thành viên ban nhạc nhẹ của trường, sử dụng thuần thục nhiều nhạc cụ như kèn, trống, mandolin, guitare hawaïenne.
Ngoài sự nghiệp sáng tác, những nét chính về hoạt động âm nhạc có thể kể ra được của chàng nghệ sĩ "tay súng, tay đàn" Nguyễn Văn Ðông:
Từ năm 1958, là Trưởng Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân (với sự góp mặt của các nghệ sĩ và ca nhạc sĩ tên tuổi, như Kiều Hạnh, Kim Cương, Khánh Ngọc, Minh Diệu, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, Quách Đàm, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Thu Hồ, Hoài Linh, vũ sư Trịnh Toàn.).
Cũng từ năm 1958, là Trưởng Ban Nhạc Tiếng Thời Gian, đài phát thanh Saigon, quy tụ các ca nhạc sĩ quen thuộc thuở ấy như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Tâm Vấn, Minh Diệu, Hà Thanh, Anh Ngọc, Quách Đàm, Mạnh Phát, Thu Hồ, Trần Văn Trạch. (Từ năm 1962, được tăng cường thêm các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Tuyết, Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Vũ, Hùng Cường và ban nhạc Y Vân).
Từ năm 1960 đến 1975, cùng người bạn là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp ở Saigon, đứng ra thành lập các hãng dĩa và băng nhạc Continental và Sơn Ca (được sự cộng tác của các nhạc sĩ tân và cổ nhạc Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Lê Văn Thiện, Y Vân, Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm), gửi đến giới yêu nhạc nhiều chương trình âm nhạc chọn lọc. Ðây cũng là trung tâm băng và dĩa nhạc đi tiên phong trong việc thực hiện một số album nhạc cho từng ca sĩ. Một số ca sĩ "thành danh" trong làng ca nhạc trước năm 1975 như Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Dung, Hà Thanh đã được sự hướng dẫn và giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Giám đốc Nghệ thuật của các hãng dĩa này.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn sử dụng các bút danh Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà cho các thể dạng và chủ đề nhạc khác nhau. Ít người được biết, ngoài những sáng tác về tân nhạc, ông còn viết nhạc nền cho trên 50 vở tuồng cải lương thuộc loại kinh điển ở miền Nam như "Mưa Rừng," "San Hậu," "Nửa Đời Hương Phấn," "Sân Khấu Về Khuya," "Tiếng Hạc Trong Trăng." và hàng trăm chương trình "tân cổ giao duyên," một hình thức "phối hợp nghệ thuật" giữa tân và cổ nhạc khá phổ biến trong đại chúng vào thời ấy, cũng với các bút danh trên.
"Là chàng trai trẻ độc thân," ông nói, trả lời một câu phỏng vấn, "với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến ấy." (Trả lời phỏng vấn, Hoàng Lan Chi, đài Việt Nam Hải Ngoại, Washington D.C., 19 tháng 5, 2007.)
Sau những "bước nhẹ tênh" ấy là cánh cửa mở rộng cho "chàng trai trẻ độc thân" Nguyễn Văn Ðông đặt những bước chân đầu tiên lên "đoạn đường chiến binh," để từ đó dấn thân vào cuộc sống mới đầy hứng thú, đầy sôi động và cũng đầy ý nghĩa trong những năm dài quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh. Chàng lính trẻ ấy từng phục vụ ở các đơn vị tác chiến, từng đóng quân tại các vị trí được xem là "điểm nóng" của các cuộc giao tranh như chiến khu Ðồng Tháp Mười, vùng Tam Giác Sắt, từng tham dự những trận chiến ác liệt tại các địa danh Ấp Bắc, Cái Cái (Tân Thành), Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, từng được ân thưởng nhiều huy chương về các chiến tích, trong đó có "bảo quốc huân chương" là huân chương cao quý nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, nghệ sĩ Trần Văn Trạch, và nhạc sĩ Lê Thương trong chương trình đại nhạc hội Trăm Hoa Miền Nam tại Saigon năm 1961.
(HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm)
Hầu như khắp bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính Nguyễn Văn Ðông. Ông đã cầm súng chiến đấu vì yêu quê hương này, vì yêu dân tộc này. Ông đã yêu đời lính như yêu mảnh đất này, như yêu những đồng đội, như yêu người mình yêu. Hình ảnh người lính chiến thể hiện qua dòng nhạc của ông xem ra cũng không khác gì lắm với hình ảnh "người lính Nguyễn Văn Ðông," cũng "áo anh mùi thuốc súng," cũng "ngược xuôi theo đường mây," cũng "tóc tơi bời lộng gió bốn phương." (Ông không phục vụ ở Cục Tâm Lý Chiến như nhiều người vẫn lầm tưởng).
Mặc dầu không hề "tơ vương khanh tướng" vì "người đi giúp nước nào màng danh chi," nhưng do lòng "tận trung báo quốc" qua các thành tích chiến đấu và phục vụ, ông cũng đã leo dần lên mãi những nấc thang binh nghiệp với chức vụ sau cùng là sĩ quan tham mưu cao cấp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Có lẽ Ðại Tá Trần Văn Trọng (nhạc sĩ Anh Việt, tác giả bài Bến Cũ và Thơ Ngây) và ông được kể là những người "lính" có cấp bậc cao nhất trong số các nhạc sĩ phục vụ trong quân ngũ.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, như số phận của "hàng hàng lớp lớp" sĩ quan kẹt lại ở trong nước, ông đã phải lầm lũi đi vào những trại tập trung, những lò cải tạo, để trả giá cho các thành tích trong quân ngũ và trong hoạt động âm nhạc.
Không rõ ông đã học được những gì, có điều là cơ thể ông đã "tiếp thu" đủ thứ mầm bệnh trong những năm "cải tạo" ấy khiến sức khỏe ông có lúc suy kiệt đến trầm trọng. Chứng phong thấp, căn bệnh quái ác, đã khiến các đốt xương ngón tay của ông sưng tấy lên, các ngón tay co quắp đến gần như không còn cử động được nữa.
"Anh xem này," ông nói với người bạn tù cải tạo ở cùng trại Suối Máu, giọng bùi ngùi. "Bàn tay tôi như thế này coi như ‘phế bỏ võ công’ rồi, làm sao còn chơi đàn được nữa!" Tay đã thế, chân lại càng tệ hơn, các khớp xương đầu gối biến dạng và đau nhức đến mức ông phải nằm điều trị nhiều năm trong các bệnh viện ở Saigon trước khi rời bỏ đôi nạng để đi đứng được bình thường trở lại.
Về đây ngơ ngác chim bay tìm đàn Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn...
Như là câu hát trong bài Về Mái Nhà Xưa của ông, sau đúng mười năm "học tập cải tạo" (ông được thả về đầu năm 1985), tác giả bài nhạc ấy đã về lại sau cuộc chiến, về lại sau những năm đọa đày, về lại với một thân xác đầy tật bệnh, với một tâm hồn đầy thương tích. Xa lạ trước cuộc sống mới, trước một xã hội có lắm đổi thay sau cuộc bể dâu, ông bày tỏ sự hối tiếc đã lãng phí những năm dài do không tìm lại được nguồn cảm hứng nào cho hoạt động âm nhạc cũng như không đóng góp được chút gì có ý nghĩa cho đời. Ðối với con người nghệ sĩ tài hoa, đầy sức sáng tạo, và có thói quen làm việc không ngưng nghỉ, không mệt mỏi như ông thì đấy quả là một sự "hối tiếc vô bờ" như ông nói.
"Tại sao ông không xin định cư ở nước ngoài trong lúc có đủ điều kiện của người tù cải tạo?" Trả lời câu hỏi này, ông cho biết, "Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu nữa nên chẳng còn thiết tha bất cứ chuyện gì, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời."
Vậy mà, nhờ "thần dược" hay nhờ... phép lạ, ông vẫn sống sót được đến ngày hôm nay. Vợ chồng ông có một cửa hàng tạp hóa nhỏ (nơi gia đình ông cư ngụ), là nguồn thu nhập chính cho "kinh tế gia đình." Tuy sức khoẻ có sa sút, tuy cuộc sống có chật vật, "người lính Nguyễn Văn Ðông" vẫn có lúc quên đi nỗi đau của riêng mình, vẫn có lúc để lòng mình nghiêng xuống những số phận rủi ro, những số kiếp hẩm hiu của bao người kém may mắn hơn mình. Những bản tin tôi đọc được ở trong, ngoài nước nói về các công tác cứu trợ những mảnh đời rách nát, những kiếp người lầm than, vẫn nhắc đến bàn tay nhân ái, trái tim nhân hậu của người lính, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
[1] Nhạc sĩ Lê Thương, nhạc sĩ Lê Mộng Bảo (giám đốc Nhà Xuất Bản Tinh Hoa Miền Nam), và nghệ sĩ Út Trà Ôn là những khách mời, không ở trong Ðoàn Vì Dân hay Ðoàn Việt Nam.