Bình Luận , Quan Điểm

khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Độc quyền quyền lực và vấn đề đạo đức

Quốc Phương BBC Việt ngữ


Image
TS. Nguyễn Thị Từ Huy
TS. Nguyễn Thị Từ Huy cho rằng có vấn đề về mặt đạo đức nếu một thể chế một đảng, và chế độ chuyên chính nắm quyền lực độc tôn quá lâu dài.
Việc nắm giữ quyền lực chính trị một cách độc tôn và quá lâu dài trong xã hội ngày nay có thể là một vấn đề về đạo đức đối với những chủ thể độc quyền quyền lực trong các thể chế một đảng và chế độ chuyên chính, theo một nhà nghiên cứu triết học chính trị từ Paris, Pháp.


Một chính thể 'độc tài độc đảng' ngày nay, để bảo tồn quyền lực chính trị, có thể rơi vào trường hợp 'vi phạm đạo đức', khi dùng Hiến pháp để quy định quyền lãnh đạo tuyệt đối và bất biến của đảng mình, vẫn theo ý kiến này.

Trong cuộc phỏng vấn qua văn bản dành cho BBC hôm 23/4/2016, Tiến sỹ Nguyễn Thị Từ Huy, nhà nghiên cứu chính trị - xã hội Việt Nam, từ Đại học Paris Diderot, Pháp cũng đưa ra cảnh báo về hậu quả xã hội đối với một nền thống trị 'độc tài toàn trị' nếu sử dụng thủ đoạn 'nói dối' để nắm, giữ quyền lực.

Sức mạnh của kẻ bạo chúa được thiết lập trên sự hèn yếu và khiếp nhược của những người tự nguyện chấp nhận ách cai trị của hắn. Chính là do được những người dân tình nguyện ủng hộ mà kẻ độc tài có thể củng cố và mở rộng quyền lực vô giới hạnEtienne de La Boétie

"Dối trá mang tính chất căn nguyên của chế độ, một chế độ mà Hiến pháp tuyên bố rằng nhân dân có quyền làm chủ, nhưng quyền lực lại chỉ thuộc về một đảng chính trị duy nhất. Và sự dối trá này sẽ dẫn tới đâu?", Tiến sỹ Từ Huy đặt vấn đề.

"Dẫn tới sự xói mòn dần tất cả các tiêu chuẩn đạo đức, sự sụp đổ mọi tiêu chí của sự tử tế, và sự hủy diệt trên diện rộng niềm tin vào những giá trị như sự thật, trung thành với nguyên tắc, sự thật thà, vị tha và danh dự..."

Vì sao còn tồn tại?

Mở đầu cuộc trao đổi với BBC, nhà nghiên cứu triết học chính trị trả lời câu hỏi: Tại sao các thể chế được cho là các nền độc tài, và chế độ chuyên chính vẫn còn tồn tại ngày nay ở một số nơi trên thế giới, hay là vì vẫn có những hình thức ‘độc tài’ hay ‘chuyên chính’ chấp nhận được với nhân loại?

Tiến sỹ Nguyễn Thị Từ Huy: Để trả lời câu hỏi này của ông cần phải làm một seminar nhiều kỳ, do tính phức tạp của vấn đề. Ở đây tôi xin phép chỉ nêu một trong số các nguyên nhân khiến cho các nền độc tài vẫn đang tiếp tục tồn tại. Nguyên nhân này không phải do tôi tìm ra, mà nó đã được trình bày trong bản luận văn nổi tiếng, "Luận văn về sự nô lệ tự nguyện" (Discours de la servitude volontaire), được Etienne de La Boétie viết vào thế kỷ XVI. Tôi nhắc lại nguyên nhân này, vì nó vẫn còn đúng cho cả thế giới hiện tại nơi chúng ta đang sống.
Image
Stalin


Tranh cãi về công tội của các nhà độc tài và các chế độ chuyên chính mà họ nắm giữ có thể sẽ còn kéo dài trong lịch sử nhân loại.
Etienne de La Boétie đưa ra câu trả lời cho chính cái câu hỏi mà ông đặt ra cho tôi ngày hôm nay. Chàng trai 18 tuổi ấy viết luận văn này nhằm tìm hiểu một hiện tượng xã hội đã khiến cho một đầu óc tự do vô cùng ngạc nhiên: đôi khi trong lịch sử nhân loại đã xảy ra việc hàng bao nhiêu con người, bao nhiêu đô thành, bao nhiêu quốc gia lại chịu phục tùng một kẻ chuyên chế duy nhất, trong khi mà kẻ đó chỉ có thể có quyền lực khi những người bị áp bức chấp thuận trao quyền ấy cho hắn, và bao nhiêu người đã trao quyền lực cho kẻ chuyên chế để hắn làm hại mình. Thật ngạc nhiên khi thấy hàng triệu, hàng triệu người bị chế ngự, cam chịu cúi đầu phục tùng một người duy nhất. Tại sao có thể xảy ra một chuyện như vậy ?

Câu trả lời mà La Boétie tìm ra nằm ở trong mấy chữ này: "sự nô lệ tự nguyện". Ông chỉ ra rằng sức mạnh của kẻ bạo chúa được thiết lập trên sự hèn yếu và khiếp nhược của những người tự nguyện chấp nhận ách cai trị của hắn. Chính là do được những người dân tình nguyện ủng hộ mà kẻ độc tài có thể củng cố và mở rộng quyền lực vô giới hạn của hắn.

La Boétie viết: "Chính là nhân dân đã tự nguyện chịu khuất phục và tự cắt cổ mình." "Nếu mọi người không tuân lệnh nữa thì kẻ chuyên chế sẽ thất bại."


Chế độ độc tài là sản phẩm kết hợp giữa kiểu tư duy nô lệ và sự vô liêm sỉ của những người hưởng lợi từ hệ thốngTS. Nguyễn Thị Từ Huy

Điều quan trọng mà La Boétie chỉ ra là: Nhân dân không cần phải đấu tranh, không cần dùng tới bằng bạo lực, chỉ cần không phục tùng, không tuân lệnh thôi là chế độ độc tài đã không thể tồn tại được nữa.

Chẳng phải điều này ngày nay vẫn đúng hay sao ? Hãy nhìn vào một sự việc vừa xảy ra: Hội nghị cử tri và hiệp thương vòng 3 của bầu cử Quốc hội kỳ này. Chẳng phải những người dân địa phương, và nhất là ban tổ chức bầu cử địa phương, Mặt trận Tổ quốc, đã tuân lệnh trên và dùng thủ đoạn để loại gần như tất cả ứng viên tự do, kể cả những người mà uy tín trong cộng đồng dân cư là không thể phủ nhận, và nếu xét từ quan điểm của chính quyền, họ không bị xếp vào hàng ngũ bất đồng, như Trần Đăng Tuấn, Nguyễn Cảnh Bình (việc cử tri của Nguyễn Cảnh Bình làm kiến nghị về kết quả bỏ phiếu là một việc có rất nhiều ý nghĩa)?

Trong khi nếu người dân và Mặt trận Tổ quốc bỏ phiếu cho những người đó thì họ cũng chẳng mất gì, có chăng chỉ mất xiềng xích nô lệ.

Thông tin về sự kiện này đã có nhiều, không cần phải nhắc lại. Ở đây, khi đề cập đến điều này tôi chỉ muốn xác nhận rằng những gì mà La Boétie nói từ thế kỷ XVI vẫn còn đúng cho thế giới hiện nay. Chỉ cần công dân làm đúng bổn phận của mình, chỉ cần như thế thôi (chứ không cần phải dùng đến bạo lực) thì quyền lực độc tài đã có thể bị vô hiệu hóa. Và cũng chẳng ai có thể trừng phạt họ được, bởi chẳng có lý do gì để trừng phạt họ khi họ làm việc theo bổn phận và lương tâm. Nhưng thực tế thì La Boétie nói hoàn toàn chính xác: quyền lực độc tài được củng cố bởi vì mọi người bị chìm đắm trong "sự nô lệ tự nguyện".

Cũng theo La Boétie, muốn thoát khỏi sự nô lệ tự nguyện này, để đi tới thoát khỏi ách cai trị của kẻ độc tài, chỉ cần có một điều thôi: chỉ cần nhân dân muốn có tự do. Chỉ cần có ý muốn tự do.

Tại sao La Boétie cho rằng chỉ cần người dân muốn có tự do là đủ để khiến cho hệ thống độc tài sụp đổ ? Có lẽ chúng ta sẽ trở lại với ý tưởng này vào một dịp khác.

Sản phẩm của 'cầm tù'?

BBC: Phải chăng thể chế, chế độ độc tài, ở một góc độ nào đó, là sản phẩm của tư duy bị ‘cầm tù’ và sự cầm tù của tư duy con người?
Image

Một người dân Trung Quốc cầm trong tay một bức hình của cố Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông với dòng chữ đề "Phụng sự nhân dân" bên ngoài một Văn phòng tiếp người dân khiếu nại.



Trở lại với vụ việc hội nghị cử tri và hiệp thương vòng 3 của bầu cử Quốc hội ta sẽ thấy rằng: Khi ta chứng kiến những người dân ở một xã nghèo không bầu cho luật sư Lê Luân, với những lý do hết sức ấu trĩ, do bị ảnh hưởng bởi hệ thống tuyên truyền các cấp, ta có cảm giác gần như là xót xa, bởi họ bị giới hạn trong một nhận thức nhất định nên mới làm như vậy.

Hiện tượng người dân ủng hộ chế độ độc tài do sự hạn chế của nhận thức có thể trùng hợp với điều mà ông gọi là "tư duy bị cầm tù", xét từ phía nạn nhân, và "sự cầm tù tư duy con người", xét từ phía những người cố tình tạo ra xiềng xích cho tư duy của người dân. Điều đáng nói là những người muốn trói buộc tư duy của người khác dường như không biết rằng chính tư duy của họ cũng bị cầm tù.

Nhưng khi ta chứng kiến cảnh đấu tố của những luật sư, của những người thuộc giới trí thức, khi ta chứng kiến cảnh kiểm phiếu diễn ra trong một ngôi miếu hoang, bất chấp mọi chuẩn mực hành chính, luật pháp, lương tâm và đạo lý, thì cảm giác được gợi lên chắc chắn không còn là xót xa nữa, mà là phẫn nộ. Đó cũng có thể là phản ứng xảy ra khi ta phải nghe những phát biểu của một đại biểu Quốc hội nhấn mạnh "cái hay" của hoạt động vi hiến do Quốc hội khóa 13 thực hiện khi bãi nhiệm toàn bộ chính phủ không có lý do.


Một chính thể độc tài độc đảng ngày nay, để bảo tồn quyền lực chính trị, có thể rơi vào trường hợp vi phạm đạo đức, khi dùng Hiến pháp để quy định quyền lãnh đạo tuyệt đối và bất biến của đảng mìnhTS. Nguyễn Thị Từ Huy

Trong những trường hợp này, vấn đề không còn ở chỗ "tư duy bị cầm tù" nữa, mà vấn đề phải được gọi tên đúng như cách mà Hannah Arendt đã gọi (khi bà lý giải vì sao chủ nghĩa toàn trị có thể vận hành): sự vô liêm sỉ.

Sự vô liêm sỉ của những người tạo nên cái mạng lưới hỗ trợ cho trung tâm quyền lực toàn trị. Vô liêm sỉ, bởi những người đó hiểu rõ sự thối nát và phản nhân đạo của hệ thống, nhưng vẫn bảo vệ nó bất chấp sự hiểu biết của chính họ.

Vậy, để trả lời câu hỏi này của ông, có thể nói, chế độ độc tài là sản phẩm kết hợp giữa kiểu tư duy nô lệ và sự vô liêm sỉ của những người hưởng lợi từ hệ thống. Theo La Boétie thì hai yếu tố này có liên quan đến nhau, trong một chừng mực nào đó, cái này là nguyên nhân của cái kia: Thói hám lợi và sự vô liêm sỉ dẫn đến tư duy nô lệ, và ngược lại.

BBC: Một nền độc tài kéo dài trên dưới một thế kỷ, hay gần như thế, trong thế giới ngày nay, mà không cho phép một lực lượng chính trị nào khác trong nhân dân và xã hội được cạnh tranh chính thức, hoặc chia sẻ quyền lực, thì có vấn đề gì đáng bàn về đạo đức hay không?

Ông đặt vấn đề rất đúng: điều đó quả là thuộc về phạm trù đạo đức. Các chế độ độc tài cổ điển, mà La Boétie bàn đến trong bản luận văn đã nêu ở trên, khác với một số nền độc tài trong thế giới đương đại của chúng ta ở điểm căn bản mà tôi sẽ đề cập tới sau đây.

Những kẻ chuyên chế cổ điển, dù đoạt được quyền lực theo cách nào (do được dân bầu lên, do dùng vũ lực – thắng trận trong chiến tranh hoặc trong các cuộc tranh đoạt quyền lực, do được kế thừa theo dòng dõi), và dù sử dụng quyền lực theo ý muốn cá nhân bất chấp luật pháp, thì giữa lời nói và hành động cũng còn có sự trùng hợp. Bởi vì những kẻ độc tài cổ điển quan niệm rằng mình có quyền lực tối cao, còn người dân buộc phải phục tùng. Và nhân dân, một khi chấp nhận sự cai trị thì cũng thừa nhận mình bị cai trị.

Điều này khiến cho một vị vua như Louis XIV có thể tuyên bố: "Nhà nước chính là ta". Như vậy, trung tâm quyền lực được xác định rõ, và kẻ độc tài tự nhận mình là độc tài. Sự việc được gọi đúng tên của nó.

Đạo đức bị hủy diệt
Image
Xã hội Việt Nam đang trong một quá trình chuyển đổi, với nhiều giá trị, chuẩn mực đang được thiết lập hoặc tái sắp xếp.
Nhưng một chính thể độc tài độc đảng ngày nay, để bảo tồn quyền lực chính trị, có thể rơi vào trường hợp vi phạm đạo đức, khi dùng Hiến pháp để quy định quyền lãnh đạo tuyệt đối và bất biến của đảng mình. Mặt khác, cũng trong Hiến pháp, lại quy định rằng nhân dân có quyền làm chủ, lại quy định rằng Nhà nước là của dân, do dân, và vì dân.

Nghĩa là chính đảng độc tài không thừa nhận tính chất độc tài của quyền lực do mình nắm giữ, và muốn nhân dân tin rằng đây là một chính thể dân chủ trong đó người dân có quyền tự do quyết định. Nhưng trên thực tế, nhân dân bị lệ thuộc vào quyền lực của đảng độc tài. Như vậy, trung tâm quyền lực không được xác định rõ, và đảng độc tài chối bỏ tính chất độc tài của mình. Sự việc không được gọi đúng tên của nó.

Hiến pháp 2013 của Việt Nam là một ví dụ điển hình cho trường hợp này. Điều 2 và điều 3 của Hiến pháp này quy định quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng điều 4 lại quy định quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản. Những điều luật này, trên thực tế, loại trừ nhau, điều luật này khiến cho điều luật kia bị vô hiệu hóa. Và điều luật này sẽ khiến cho điều luật kia trở thành dối trá.

Nếu nhân dân có quyền làm chủ thì quyền lãnh đạo của đảng cộng sản không thể là tuyệt đối và vĩnh viễn. Bởi vì trong trường hợp này, nhân dân có thể lập nhiều đảng khác nhau và có thể chọn bất cứ đảng nào làm lãnh đạo, theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu đảng cộng sản có quyền lãnh đạo tuyệt đối và vĩnh viễn thì có nghĩa nhân dân không có quyền chọn lãnh đạo cho mình. Trường hợp Việt Nam cho thấy điều 2 và điều 3 Hiến pháp 2013 chỉ là những lời nói dối.


Khủng hoảng tinh thần và đạo đức vẫn sẽ còn tiếp tục, cho đến một ngày người dân Việt Nam tự nhủ: đủ rồi, dối trá thế đủ rồi, tự hủy diệt mình như thế đủ rồi, chúng ta cần một cuộc sống đúng nghĩa, sống trong sự trung thực, lương thiện và với phẩm giá xứng đángTS. Nguyễn Thị Từ Huy

Vì thế, đúng như cách đặt vấn đề của ông, việc một nền độc tài dùng hiến pháp để chính danh hóa quyền lực của mình là một sự vi phạm đạo đức, do tính chất dối trá của nó. Đây là sự dối trá mang tính chất căn nguyên của chế độ, một chế độ mà Hiến pháp tuyên bố rằng nhân dân có quyền làm chủ, nhưng quyền lực lại chỉ thuộc về một đảng chính trị duy nhất. Và sự dối trá này sẽ dẫn tới đâu?

Nó chỉ có thể "dẫn tới sự xói mòn dần tất cả các tiêu chuẩn đạo đức, sự sụp đổ mọi tiêu chí của sự tử tế, và sự hủy diệt trên diện rộng niềm tin vào những giá trị như sự thật, trung thành với nguyên tắc, sự thật thà, vị tha và danh dự. Cuộc sống - trong quá trình đồi phong bại tục như thế, tức là quá trình có xuất xứ từ việc người ta mất hết mọi hy vọng và mất hết niềm tin rằng cuộc sống có một ý nghĩa nào đó – phải chìm xuống mức tồn tại sinh học, chẳng khác gì cây cỏ. […] Giá phải trả là tinh thần bị tê liệt, tình thương không còn và cuộc đời bị tàn phá. […] Giá phải trả là sự khủng hoảng cả về mặt tinh thần lẫn đạo đức."

Kết luận này tôi trích lại của Vaclav Havel, bởi ông ấy nói quá chính xác, nếu ta quy chiếu nhận định này về thực tế của chúng ta ngày nay. Hãy nhìn những đàn cá đang chết trên quê hương. Cá phải chết là bởi đời sống tinh thần của con người đã chết, trách nhiệm đã chết, đạo đức của con người đã bị hủy diệt.

Khủng hoảng tinh thần và đạo đức vẫn sẽ còn tiếp tục, cho đến một ngày người dân Việt Nam tự nhủ: đủ rồi, dối trá thế đủ rồi, tự hủy diệt mình như thế đủ rồi, chúng ta cần một cuộc sống đúng nghĩa, sống trong sự trung thực, lương thiện và với phẩm giá xứng đáng.

Hoặc là cho đến một ngày những người lãnh đạo hiểu ra những nguy hiểm, những sự hủy diệt mà họ đang gây ra cho dân tộc, cho chính họ, và cho con cháu của họ, để đi tới quyết định áp dụng một nền chính trị cho phép phục hồi các giá trị đạo đức và tinh thần, đảm bảo một đời sống trong sạch và lành mạnh cho toàn xã hội, cho phép xây dựng và phát triển quốc gia một cách vững mạnh; nghĩa là đi tới một quyết định sáng suốt như quyết định mà ông Thein Sein đã thực hiện ở Miến Điện.


Tiến sỹ Nguyễn Thị Từ Huy có bằng tiến sĩ văn chương bảo vệ tại Pháp năm 2008 và từng giảng dạy tại một số trường đại học ở Việt Nam. Hiện bà đang làm luận án tiến sĩ về triết học chính trị tại Đại học Paris Diderot, Pháp.
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Image

“Khởi tố – bắt nhốt – xin lỗi”: Khi quan thị uy bằng luật thì dân biết làm sao?

Mẹ Nấm
(Danlambao) - Câu chuyện tuần qua của ngành tư pháp Việt Nam xoay quanh 3 hành động: khởi tố, bắt nhốt và xin lỗi. Nghe có vẻ nực cười, nhưng người ta có thể thấy quy trình tố tụng thực sự có vấn đề. Khi cơ quan chức năng lạm quyền, tùy tiện – người dân phải gánh chịu hậu quả ra sao?

Vụ thứ nhất: Công an huyện Bình Chánh, VKS Nhân dân huyện Bình Chánh ra quyết định khởi tố ông Nguyễn Văn Tấn - chủ quán café Xin Chào vì tội chậm đăng ký kinh doanh.

Vụ thứ hai: Ông Nguyễn Văn Bỉ (47 tuổi, ngụ tại TT.Tân Túc, H.Bình Chánh), người cho ông Tấn thuê đất để mở quán cà phê Xin Chào cũng bị khởi tố về tội “vi phạm các quy định về quản lý nhà ở” theo điều 270 BLHS. (1)

Cả hai vụ án trên đều do đại tá Nguyễn Văn Quý, Trưởng công an huyện Bình Chánh ký quyết định khởi tố. Và ông Lê Thanh Tòng, Phó viện trưởng Viện KSND H.Bình Chánh (hiện ông Tòng là Phó viện trưởng Viện KSND Q.6) là người ký phê chuẩn.

Dư luận cho rằng cả ông chủ quán café và ông chủ đất dựng chòi vịt bị đại tá Quý xử lý vì “các lý do cá nhân”.


Và thực tế, khi báo chí thông tin, các cơ quan cấp cao hơn vào cuộc thì các sai phạm xung quanh những quyết định đã ký mới được phanh phui.

Vụ án thứ 1 đã bị đình chỉ. VKS Nhân dân Tối cao ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với ông Hồ Văn Son, kiểm sát viên sơ cấp Viện KSND huyện Bình Chánh và ông Lê Thanh Tòng, Phó Viện trưởng Viện KSND quận 6, nguyên Phó Viện trưởng Viện KSND huyện Bình Chánh, người ký quyết định truy tố ông Nguyễn Văn Tấn, Chủ quán cà phê Xin chào. (2)

Vụ án thứ 2 chưa có quyết định từ các cơ quan chức năng sau khi báo chí thông tin.

Vụ thứ ba: VKS Nhân dân huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai) có buổi gặp mặt và nhận sai với bà Nguyễn Thị Ánh Ngọc vào chiều 24/4/2016, sau khi đã phê chuẩn quyết định khởi tố và bắt giam bà Ngọc vào ngày 19/4/2016.

Bà Nguyễn Thị Ánh Ngọc là người tố cáo các nhân viên bảo vệ rừng tiếp tay cho cát tặc, và bị lực lượng bảo vệ rừng hành hung. Oái oăm thay từ vai trò người tố cáo sai phạm, bà bị các cơ quan chức năng khởi tố và bắt giam vì cho rằng bà có “hành vi chống người thi hành công vụ”. Việc bắt giam bà Ngọc cũng được thực hiện khá ly kỳ khi công an mời bà đến trụ sở làm việc với lý do liên quan đến lực lượng bảo vệ rừng trong vụ án khác và bà bị bắt với một lý do khác. Sự việc chỉ thay đổi khi các cán bộ môi trường gửi đơn kêu cứu cho bà Ngọc.

VKS Nhân dân huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai) có lẽ đi trước một bước sau khi rút kinh nghiệm từ VKS Nhân dân huyện Bình Chánh (Sài Gòn) nên tổ chức nhận sai ngay vào ngày Chủ Nhật mặc dù lý do buổi gặp mặt, nhận sai đưa ra vẫn còn rất cửa quyền: “Mục đích của buổi gặp chị Ngọc là muốn chị nói tất cả những tâm tư, tình cảm của mình về vụ việc sau khi bị bắt tạm giam” (3)

Cả ba vụ án nêu trên có điểm chung là các cơ quan chức năng có thẩm quyền cao hơn nơi ký quyết định khởi tố, tạm giam chỉ vào cuộc khi báo chí thông tin và công luận lên tiếng.

Việc truy tố, khởi tố và bắt tạm giam một con người sẽ gây ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống và tâm lý của họ.

Luật pháp là để thiết lập lại trật tự xã hội trên cơ sở công bằng văn minh chứ không phải là công cụ để thị uy hay dằn mặt người dân.

Những người tù oan khuất như Nguyễn Thanh Chấn, Huỳnh Văn Nén, các thanh niên bị bắt oan ở Sóc Trăng… biết phải làm sao khi nhận lãnh luôn trách nhiệm chứng minh cơ quan tố tụng làm sao, và phải có hóa đơn chứng minh thiệt hại thì mới được đền bù tổn thất?

Đẩy một con người vào tù, và sửa sai bằng lời xin lỗi – có lẽ là hoạt động tư pháp chỉ có ở Việt Nam.

Làm sai – sửa sai, và người dân phải biết ơn các cơ quan chức năng vì đã chịu sửa sai là tâm lý cũng chỉ có ở Việt Nam.

Bao giờ ta khá nổi?!

Mẹ Nấm
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

Từ 30 Tháng Tư mà nhìn lại, rồi nhìn đi...

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Image
Ngày xưa, chúng ta có thể ở giữa mắt bão mà không biết vì kiến thức của giới hướng dẫn dư luận bị giới hạn - mà có lẽ chính họ cũng không biết. Ngày nay sự thể đã khác, và đây là một sự tiến bộ, chúng ta cảm nhận được những giông bão vần vũ chung quanh và dư luận được đây đó giải thích về các nguyên nhân của vấn đề. Tại Hoa Kỳ, cuộc tranh cử tổng thống năm nay là nơi có nhiều giải thích nhất, với các ứng cử viên đang đua nhau đề nghị giải pháp...

Vì vậy, chúng ta cố “nhìn từ bên ngoài” để phần này hiểu ra những xoay vần trong mắt bão là Hoa Kỳ. Bài này sẽ khởi đi từ giác độ kinh tế, trong một viễn ảnh trường kỳ là 70 năm, may ra thỉ hiểu được kết quả của cuộc tranh cử và những gì sẽ xảy ra sau đó... Nhân tiện thì cũng liếc về Chuyện Tháng Tư của mình.

Mọi sự khởi đầu vào cuối Thế Chiến II, khi Hoa Kỳ là siêu cường độc bá vì ít bị chiến tranh tàn phá và còn tiềm lực kinh tế mạnh nhất. Mục tiêu khi ấy của nước Mỹ là xây dựng lại một trật tự khác với các đồng minh có thể là đối thủ cũ như Ðức và Nhật và với các đồng minh cố hữu là các nước Âu Châu đã phần nào công nghiệp hóa và phải tái thiết sau chiến tranh.

Trong bối cảnh ấy, Hoa Kỳ (với Anh Quốc như đồng minh chiến lược) thành lập hệ thống tài chánh quốc tế gọi là Bretton Woods - địa danh của một hội nghị quốc tế năm 1944 tại tiểu bang New Hampshire - theo nguyên tắc là từ nay người dân sẽ không thể đổi đồng bạc của họ ra vàng vì đấy là chức năng của các chính quyền và việc giao hoán (đổi chác) ấy tiến hành qua đồng tiền của Hoa Kỳ, là đồng Mỹ kim. Vì vậy, các nước cần tái thiết và nợ ngập đầu vì chiến tranh như Âu Châu hay Nhật Bản phải ráo riết thủ đắc và tồn trữ đồng ngoại tệ quý báu này.

Kiến trúc tài chánh ấy dựa trên niềm tin rằng chính quyền Mỹ tôn trọng cam kết là sẽ đổi lại Mỹ kim ra vàng theo tỷ giá 35 đô la được một “troy ounce” (khoảng 31 gram). Muốn vậy, nền kinh tế của nhà cái, hay nhà tài trợ, hay quốc gia viện trợ là Hoa Kỳ, phải có năng suất cao. Niềm tin đó thật ra là một trách nhiệm - sẽ có ngày nói sau - mà cũng là lực đẩy cho kinh tế Hoa Kỳ phát triển và bành trướng trong thời Chiến Tranh Lạnh.

Cứng đầu nhất và “chống Mỹ” nhất vào giai đoạn ấy là nước Pháp của lãnh tụ Charles de Gaulle, với vai trò của kinh tế gia Jacques Rueff, đã trước tiên nói tới “lợi thế quá đáng” của Hoa Kỳ và “hỏi giấy” niềm xác tín ấy, bằng cách xả bớt đồng Mỹ kim trong dự trữ ngoại tệ của mình, để đòi lấy vàng.

Chìm đắm trong khói lửa chiến tranh và nhức tim với cuộc “hòa đàm” tại Paris - trời ơi, vì sao Lyndon Johnson lại chọn nơi đó! - chúng ta không để ý tới biến động có tính chất chiến lược này vì nhiều quốc gia khác cũng đòi như Pháp. Và chính quyền Richard Nixon không thể tiếp tục cung cấp cả áo cơm lẫn súng đạn mà chính quyền Johnson hứa hẹn trước đó và buông tay thả nổi đồng bạc từ ngày 15 Tháng Tám 1971. Hoa Kỳ không thể tôn trọng cam kết trong hệ thống Bretton Woods, nôm na là trên sòng bạc quốc tế, nhà cái quịt nợ khi các nhà con nộp tiền nhựa để đòi lấy vàng.

Hệ thống Bretton Woods sụp đổ mà tại Sài Gòn chúng ta ít biết. Và từ đấy, vàng tăng giá lên trời trong các biến động tài chánh lan rộng kể từ năm 1972 trở đi.

Nhưng ngoài đồng Mỹ kim bị thiên hạ hỏi giấy và hỏi tuổi như hỏi tuổi vàng, trên canh bạc toàn cầu, thế giới có thêm một loại tài sản khác để đổi chác. Ðấy là dầu thô, lần đầu tiên được các nước sản xuất và xuất cảng sử dụng như một võ khí trong một trận chiến không tiếng nổ. Hiệp định Paris dần dần thành hình vào khung cảnh ấy mà chúng ta chưa biết và nhiều người còn tin rằng Mỹ không bỏ Việt Nam.

Nhưng siêu cường Hoa Kỳ thiên biến vạn hóa đã biết xoay. Võ khí dầu thô được thanh toán hay đổi chác bằng gì? Bằng đồng Mỹ kim. Khi ấy, “lợi thế quá đáng” của nước Mỹ đã tái sinh với “Petrodollars.” Gọi là gì? Là tiền dầu?

Lãnh đạo khối Á Rập Hồi Giáo có dầu là Saudi Arabia đã bán dầu thu lại Mỹ kim dưới dạng công phố phiếu Mỹ để tài trợ các nước bán dầu. Ðổi lại, Hoa Kỳ viện trợ cho các nước Á Rập thân hữu trong vùng Vịnh Á Rập đủ loại chiến cụ và Âu Châu khi ấy chấp thuận sự đổi chác này vì mối nguy quá lớn của Liên Bang Xô Viết: chủ nợ là Hoa Kỳ cũng là tay trưởng tràng bảo vệ Âu Châu. Vả lại, nếu chỉ dùng vàng làm vật giao hoán thì đào đâu ra vàng cho kịp nhu cầu phát triển kinh tế?

Những câu hỏi trừu tượng ấy vượt ra khỏi sự quan tâm của chúng ta khi Hiệp Ðịnh Paris, ký kết đầu năm 1973, hoàn tất nhiệm vụ của nó, là cột tay miền Nam và trao trọn gói cho miền Bắc vào Tháng Tư 1975. Bây giờ thì mình tìm hiểu tiếp về Hoa Kỳ, vẫn nhìn từ bên ngoài (!).

***

Không bị kẹt vì lượng vàng có hạn, lại được lợi nhờ Petrodollars và khi Liên Xô bắt đầu suy bại từ những năm 1982 trở về sau, Hoa Kỳ vẫn thừa thắng xông lên với lực đẩy là tờ giấy nợ.

Theo định nghĩa, đồng Mỹ kim là tờ giấy nợ do Ngân Hàng Trung Ương Hoa Kỳ phát hành. Thủ đô của nước Mỹ là viện phát hành toàn cầu, với đồng Mỹ kim vẫn giữ vai trò dự trữ ngoại tệ của các nước. Hoa Kỳ in bạc mua về đủ loại hàng hóa và dịch vụ của thiên hạ với giá rẻ và người dân nâng cao mức sống nhờ quy cách ấy. Khi Liên Xô tan rã, có học giả Mỹ ngợi ca kinh tế thị trường và dân chủ chính trị đã đại thắng các chủ nghĩa phát xít và cộng sản. Trong niềm lạc quan ấy, các nước vui vẻ nhận giấy nợ của Mỹ, chất đống, để cũng phần nào thực hiện giấc mơ thịnh vượng của dân Mỹ. Việt Nam Cộng Sản khi ấy cũng đã tất yếu bị khủng hoảng và tỉnh giấc mê sảng mà tiến hành đổi mới, rồi xài tiền Mỹ để xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Khi đã giàu rồi thì mọi người đều sẽ thanh toán khoản nợ này. Rồi thế giới sẽ quân bình trở lại.

Những người tò mò, khi đó còn ít lắm vì quy luật “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, thì có thể xét lại xem tại sao nước Mỹ giàu mạnh như vậy? Mạnh đến độ đánh bại Liên Xô và sau chục năm giàu có vì được hưởng “cổ tức hòa bình” nhờ giảm chi ngân sách quốc phòng khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Hoa Kỳ lại có thể tăng chi quốc phòng sau vụ khủng bố 9-11 vào năm 2001 cho tới 2011 mới giảm. Nếu tò mò tìm hiểu thì người ta có thể thấy ra mặt trái của sức mạnh đó, là đi vay để mua nhà và mua súng.

Kiến trúc tài chánh ấy có những bất ổn ghê người và tích lũy trong cả chục năm trước khi sụp đổ vào năm 2008 với nạn Tổng suy trầm 2008-2009. Ðây là điểm lật, tương tự như 1971 hay 1989.

Ngày nay, tám năm sau, nước Mỹ chưa ra khỏi chu kỳ thanh toán ấy mà lại sáng tạo nữa. Sau khi hai chính quyền George W. Bush và Barack Obama ráo riết tăng chi - ngân sách bị bội chi thì lại đi vay - để kích thích kinh tế theo lối cổ điển mà chẳng công hiệu, Ngân Hàng Trung Ương phải nhập cuộc. Giải pháp cổ điển là hạ lãi suất tới sàn cũng không công hiệu thì định chế này bèn áp dụng giải pháp cực bất thường là tăng mức lưu hoạt có định lượng (quantitative easing hay QE). Nôm na vẫn là bán giấy nợ lấy tiền bơm vào kinh tế. Vậy mà kinh tế Hoa Kỳ và cả thế giới vẫn chưa hồi phục và cuối năm 2013 còn bị suy trầm nhẹ khi Ngân Hàng Trung Ương Mỹ thông báo sẽ chấm dứt biện pháp QE để trở về trạng thái bình thường.

Từ đó, thế giới đã qua nhiều cuộc khủng hoảng cục bộ, như trong khối Euro tại Âu Châu hay nạn dầu thô tuột giá trong các khu vực bán dầu, hay sự phân hóa của hệ thống tài chánh Âu Châu khi nhiều nước hết giao dịch bằng đồng Euro và các Ngân hàng Trung ương Âu Châu rồi Nhật Bản đều đi quá đoạn đường QE mà hạ lãi suất xuống số âm. Sau khi cố tăng lãi suất được 25 điểm căn bản (0.25%) vào cuối năm ngoái, Ngân Hàng Trung Ương Mỹ đã tạm ngưng việc tống ga nhấn tới mà còn cho biết giải pháp hạ lãi suất dưới số không cũng là một kịch bản...

Chúng ta đang ở giữa mắt bão vì sau những lạc quan trước vụ Tổng suy trầm 2008, Hoa Kỳ đã dẫn đầu các nước vào một canh bạc khác với niềm lạc quan mới là các giải pháp bất thường sẽ công hiệu. Từ năm 2009 đến nay, chưa ai thấy ra sự công hiệu ấy, trong khi thế giới lại chất lên một núi nợ sẽ đổ. Trung Cộng và Việt Nam cũng chẳng ra khỏi tình trạng đó. Trong cảnh ngộ bất trắc này, đồng Mỹ kim vẫn giữ vai trò then chốt, tăng giá mạnh từ năm 2014 và gieo nhiều chấn động theo từng nhịp độ thăng trầm.

Hình như là chúng ta đã từ hệ thống Bretton Woods trải qua bốn đời Bretton Woods khác và mỗi kiến trúc mới lại tích lũy thêm một mầm bất ổn trên một nền móng lung lay. Nếu kiến trúc này sụp đổ thì Hoa Kỳ có còn khả năng sáng tạo như năm lần đã qua hay chăng? Nhìn từ bên ngoài, người viết này e ngại vì thấy các ứng cử viên trong cuộc tranh cử tổng thống năm nay mới chỉ nói chuyện ngoài da - để bán cao đơn hoàn tán.
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »


30/4 Nói về một cuộc chiến thống nhất khác


tuankhanh

Sau khi cá và biển chết, những con người Việt Nam đầu tiên chịu nạn bởi ánh hào quang phát triển XHCN đang bắt đầu quằn quại trên đất liền. Miền Trung giàu có biển khơi sẽ còn nhiều năm nữa nằm trong sự sợ hãi của khách du lịch toàn cầu, bởi sự chọn lựa dứt khoát giữa thép và cá tôm từ chính quyền.

41 năm sau ngày chấm dứt cuộc chiến tranh có tên gọi thống nhất Bắc Nam, vào 30/4 năm nay, nhân dân Việt Nam lại có dịp nhìn thấy một cuộc chiến "thống nhất" khác đang phủ bóng lên quê hương mình: Cuộc chiến âm thầm từ lâu mang bóng dáng của người bạn Trung Quốc.

Chưa bao giờ trên trên toàn Việt Nam, nỗi sợ hãi có tên gọi Trung Quốc đang hình thành rõ như vậy, bao gồm thực phẩm, hàng hoá, văn hoá mới, môi trường, chính trị... Khắp nơi, một cuộc chiến không tiếng súng đang diễn ra nhưng thất bại luôn thuộc về con người Việt Nam.

Mỗi lúc càng không thể chối cãi: nạn ung thư về thực phẩm tăng nhanh trong toàn dân, nền kinh tế lệ thuộc leo thang một cách ngu ngốc vào Bắc Kinh, biển và đất liền bị công khai cưỡng đoạt dần dần, người Trung Quốc di cư ồ ạt và thiếu minh bạch vào Việt Nam, biến nhiều điểm quan yếu của tổ quốc thành tô giới riêng của người Trung Quốc.

Thậm chí năm 2016, đã có những nơi chỉ buôn bán, sinh hoạt cho người Trung Quốc và dùng tiền nhân dân tệ, không tiếp người Việt. Giai đoạn mới cuộc chiến "thống nhất" đã đến.

Mới đây, từ thảm hoạ môi sinh kinh hoàng xảy ra ở Vũng Áng, nhiều người Việt vẫn nghĩ rằng Formosa Hà Tĩnh chỉ là công ty Đài Loan. Thế nhưng tiết lộ trên trang web mang tên Trần Đại Quang, tên của chủ tịch nước hiện tại ở Việt Nam, cho biết hệ thống đó hoàn toàn là Trung Quốc.

Tin cho biết, theo công văn số 1407114 của Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đề đạt với chính quyền Hà Tĩnh về số lượng nhà thầu làm việc cho hệ thống này, thì trong số 28 công ty thầu, đã có đến 25 công ty Trung Quốc (không phải Đài Loan), chỉ có 3 công ty Việt Nam. Số lượng công nhân Trung Quốc cũng lên đến 10.000 người.

Bài viết trên trang web Trần Đại Quang làm một phân tích ngắn về số tiền đầu tư và cổ phần mà các công ty mang mác Đài Loan đại diện ở Vũng Áng, đã chỉ ra một khoảng trống bí mật, cho thấy các công ty vỏ bọc này sau một thời gian ra mặt đã im lặng rút dần, nhường chỗ cho "ông chủ" mới, ẩn danh, chiếm gần 50% vốn. Nguyên văn của bài viết, khẳng định rằng "Formosa Hà Tĩnh không còn là doanh nghiệp nước ngoài 100% vốn Đài Loan như đã đăng ký".

Với cái cách hết sức trịch thượng và được ưu ái kỳ lạ, hơn hẳn mọi quốc gia khác trên đất nước này, chúng ta hãy im lặng tự xét giờ đây Formosa Hà Tĩnh là ai.

Với cái cách bẻ cong được mọi thứ, đủ sức đẩy được thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Võ Tuấn Nhân bước ra đọc một thông cáo lừa dối và bệnh hoạn vào ngày 27/4, để bao che tội ác cho Formosa, chúng ta hãy im lặng tự xét giờ đây Formosa Hà Tĩnh là ai.

Câu chuyện Formosa giống như là một phần, trong chương trình chiến tranh im lặng "giải phóng" Việt Nam, bắt đầu bằng cuộc tận diệt môi sinh và con người suốt hàng trăm cây số bờ biển.

Sự kiện này chỉ là một giọt nước làm tràn ly, nhắc mọi người dân nhớ rằng từ sau 30/4 của hơn 40 năm trước, về một cuộc "giải phóng" khác từ người bạn Trung Quốc. Và họ đang thống nhất dần dần đất nước Việt bằng chiếm đóng, nạo vét tài nguyên, kiểm soát các điểm trọng yếu quốc phòng, tàn phá thiên nhiêm và sức sống của một dân tộc. Dĩ nhiên, còn phải với sự tiếp tay của những kẻ buôn quê hương, bán dân tộc.

Suốt hơn 40 năm nay, người dân Việt đã "kháng chiến" âm thầm trong ý thức, kể cả với tuyệt vọng. Họ chịu đựng sự đàn áp từ những kẻ có quyền vốn muốn bắt tay, quỳ luỵ với Trung Quốc. Cuộc kháng chiến đủ hình thái, bắt đầu từ việc đặt câu hỏi thắc mắc Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan giờ ở đâu, cho đến xuống đường phản đối chống Trung Quốc giết hại ngư dân Việt, chống đồng hoá và thậm chí tự mình "kháng chiến" mỗi ngày khi bước ra ngõ, đến chợ... đều hỏi nguồn gốc món hàng có phải từ Trung Quốc hay không.

Cuộc kháng chiến để sống sót tự phát đó, nhiều lúc trở thành nghịch cảnh vì bị các quan chức, chính quyền bác bỏ, thậm chí khuyến cáo người dân hãy đầu hàng. Nhân dân bị kêu gọi hãy chấp nhận cuộc "giải phóng" mới bằng ngôn ngữ khốn nạn như thức phẩm độc nhưng ăn được, hàng lậu thối nát Trung Quốc được làm ngơ ầm ầm nhập qua biên giới, các dự án nhận đút lót luôn mời và ưu tiên cho các nhà thầu Trung Quốc xây dựng những sản phẩm tồi tệ chết người trên toàn quốc gia...

Trung Quốc, bằng cách nào đó, đã biến dân tộc Việt Nam thành một quốc gia công dân hạng hai. Bất kỳ ai khi nói về sự sai trái và tàn bạo của họ, chỉ được nói vu vơ là "người lạ", như một sự kỵ huý. Một sự trấn áp về tinh thần hiện rõ trong truyền thông nhà nước, mỗi khi muốn đề cập nhắc đến đại quốc. Sự trấn áp hiện rõ từ bảng thông cáo vừa qua của Bộ Tài nguyên & Môi trường về việc Formosa "vô can" với thảm hoạ chất thải hoá học độc hại.

Những ngày cuối tháng 4/2016, những con cá chết nằm dọc bờ biển Việt Nam như những xác người, nhắc cho hàng triệu người nhớ về một cuộc chiến từ năm 1975 đã dừng tiếng súng, nhưng rồi mở ra một cuộc chiến khác khốc liệt hơn. Cuộc chiến không có tiếng súng, chỉ có tiếng vỗ tay, hoa, hữu nghị và những mất mát lớn lao không được nhắc tên. Một cuộc chiến mà toàn dân tộc Việt, đất nước Việt đang là kẻ chiến bại.

Những con cá biển miền Trung đáng thương không có quốc hội để kêu than. Chúng chết lặng lẽ ngay trên bến bờ của hy vọng. Chúng chết ngay tại chỗ đã ngàn đời dung thân. Có khác gì những người dân nghèo ven biển, đen đủi và im lặng cầm trên tay con cá chết nhìn chúng ta như những bóng ma chết oan. Hàng triệu triệu giòi bọ đang lúc nhúc rứt rỉa các thân cá chết lúc này. Những kẻ làm ngơ thảm cảnh hay chỉ muốn cố bám víu quyền lợi Bắc Kinh, cũng đang rứt rỉa sinh lực cuối cùng của quê hương này.

Một cuộc thống nhất khác, ngay từ sau 30/4 của nhiều thập niên trước. Trên tấm bản đồ đầy những điểm đánh dấu sự có mặt của người Trung Quốc, nhân danh thịnh vượng, bạn hãy làm một đường nối tất cả, để nhận ra đó là hình thù một tấm lưới lớn. Chúng ta rồi như cá, không còn đường đến với biển khơi tự do, và chỉ còn được sống - ăn loại thức ăn nào mà họ đã chọn. Như những con cá trong lưới, nhưng chúng ta được chết trong "thống nhất" mà không được giãy giụa hay cất tiếng.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

Thầy bói xem voi?
Phạm Thanh Nghiên
(Danlambao) - Không phải một con voi mà là hàng ngàn tấn cá chết ở vùng biển trải dài khắp Miền Trung và đã trở thành thảm họa môi trường. Cũng không có ông nào là thầy bói. Họ, là những nhà khoa học, những ông thứ trưởng, bộ trưởng và cả ông thủ tướng (hẳn hoi). Theo thống kê, Việt Nam hiện nay có khoảng gần 25 ngàn ông/bà tiến sĩ. Đấy là chưa kể các nhà nghiên cứu, các chuyên gia, giáo sư và thạc sĩ. Vấn đề thảm họa môi trường xem ra giống như trò thầy bói xem voi. Chỉ khác, trong “thầy bói xem voi” không có ai phải chết cả, con voi cũng không chết. Còn chuyện của chúng ta bây giờ, là câu chuyện của sự hủy hoại. Hủy hoại mạng sống con người, hủy hoại môi sinh, hủy hoại lòng tin và hủy hoại cả tương lai đất nước.

Cá chết, thảm họa môi trường đã xảy ra hơn 20 ngày nay rồi. Ấy vậy mà chưa ai tìm ra nguyên nhân. Ông thì bảo cá vẫn an toàn, biển vẫn bình thường và khuyên người dân cứ vô tư ăn cá và tắm biển. Tất nhiên nếu chết thì ráng chịu. Ông lại phán, cá chết là do “chấn động âm thanh”. Ông khác nữa lại khẳng định “do tác động của các độc tố hoá học thải ra từ hoạt động của con người trên đất liền và trên biển… Do hiện tượng dị thường tự nhiên kết hợp với tác động của con người tạo nên hiện tượng tảo nở hoa của nước mà trên thế giới gọi là hiện tượng thuỷ triều đỏ”.

Rồi hôm nay lại có một số nhà khoa học phản bác rằng “Không thể có hai nguyên nhân này một lúc, bởi có chất độc thì không có tảo và ngược lại”, và "Tảo chết rồi thì làm gì nở hoa được".

Không biết đến bao giờ, cái trò “thầy bói xem voi” này mới kết thúc. Chỉ sợ khi ấy, không chỉ cá chết hàng loạt mà số người chết tăng lên vẫn không ông to bà lớn nào trong cái gọi là những “cơ quan chức năng” tìm ra nguyên nhân. Sự thực nằm ở đâu, thì cả người dân (nạn nhân), thủ phạm, kẻ chủ mưu và kẻ bao che đều biết.

Xin nhắc nhau một điều rằng, chúng ta đều vẫn đang (phải) sống trong cái rọ cộng sản khi mà nhân loại đã đạt đến ngưỡng hạnh phúc của cuộc sống.

Ngó qua giới văn nghệ sĩ Việt Nam, liên tưởng tới bài thơ “Lạ” của nhà thơ Thái Bá Tân, mà thấy nực cười. Cười nhưng xót, chứ không vui:

“Trước ống kính, xúc động,
Các nghệ sĩ lâm ly
Cắn móng tay thương tiếc
Loài tê giác Châu Phi.

Nhưng cá Miền Trung chết,
Chưa thấy ai cắn gì.
Chắc cá Việt không quí
Bằng tê giác Châu Phi”.

(trích bài thơ “Lạ” của Thái Bá Tân)

Tất nhiên, cũng còn có một số nhà khoa học, một số ít những văn nghệ sĩ còn đau đáu chuyện nước non. Nhưng số ấy ít quá. Suy cho cùng, không riêng gì giới văn nghệ sĩ, mà nhiều thành phần trong xã hội này đều đang ở trong một tâm thế quy hàng. Quy hàng trước cái ác, cái xấu.

Những ngày qua, trên các trang Facebook đã có hàng ngàn lượt likes, lượt shares, lượt bình luận về những thông tin liên quan đến vụ cá chết. Nhưng ngày 1/5 tới đây, bao nhiêu trong số đó dám biến lời nói, ước vọng của mình thành hành động?

Xuống đường- không phải chặng đường quá xa từ mỗi căn nhà đến nơi tập trung biểu tình. Hoặc mỗi người cũng có thể tự chọn cho mình một nơi thích hợp để công khai bày tỏ thái độ trước vấn đề trọng đại của đất nước. Nhưng, từ trên mạng bước ra đời thật phải chăng với nhiều người là một chặng đường quá dài không thể vượt qua?

Chúng ta có thể SỢ, có thể NHÁT, nhưng chúng ta không thể HÈN. Không thể HÈN mãi được.

Phạm Thanh Nghiên
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image

41 năm sau ngày Sài Gòn sụp đổ:
Một thế giới đã mất hết thơ ngây


Vann Phan
Ngay sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh và Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng quân Cộng Sản Bắc Việt vào trưa ngày Thứ Tư, 30 Tháng Tư năm 1975, báo Pacific Star and Stripes của Quân Lực Mỹ tại Thái Bình Dương, số ra ngày 1 Tháng Năm năm đó, đã chạy hàng tít lớn “It's Over,” nghĩa là “Xong Rồi,” để thông báo cho quốc tế biết rằng, cuộc Chiến Tranh Việt Nam mà từ lâu cả thế giới đều sốt ruột mong chờ cho nó kết thúc, với phần thắng, dĩ nhiên, thuộc về phe Cộng Sản và phần bại là Miền Nam Tự Do phải cam chịu. Ai cũng hiểu rằng câu “It's Over” ở đây bao hàm một cái thở phào nhẹ nhõm của chính phủ và dân tộc Mỹ, những kẻ, từ bên này bờ Thái Bình Dương, đã trót can dự vào cuộc xung đột võ trang tàn hại đó ở bên kia bờ Thái Bình Dương và giờ đây đang sốt ruột mong muốn cho cuộc chiến tranh kết thúc theo kiểu nào cũng được, miễn là người Mỹ có thể vĩnh viễn phủi tay ra đi mà thôi.

Nhưng cuộc chiến tranh đó chẳng bao giờ được coi là đã kết thúc, cho dù đối với dân tộc Việt Nam bên này hay bên kia bờ sông Bến Hải cũng như đối với toàn thể nhân loại, bởi vì những hệ lụy của cuộc chiến tranh đó vẫn còn tiếp tục ám ảnh thế giới hơn bốn thập niên sau ngày khói lửa chính thức chấm dứt trên các chiến trường Ðông Nam Á, hay ít ra là cũng cho tới khi nào mà chủ nghĩa cộng sản thôi ngự trị tại Việt Nam và Trung Quốc.

Mỗi khi phải tìm về quá khứ tức là con người, không nhiều thì ít, đã mất hết hy vọng và tin tưởng vào tương lai. Thật vậy, mặc dù Miền Nam Tự Do không phải là “cái rốn của vũ trụ,” nhưng, lạ lùng thay, chính những đổi thay về hướng đen tối tại Miền Nam Việt Nam hồi Tháng Tư năm 1975 - mà một số người đã không hề quá cường điệu khi gọi đó là “Tháng Tư Ðen” - đã làm cho không những dân tộc Việt Nam mà cả cộng đồng thế giới cùng mất hết cái thơ ngây từ dạo đó.

Việt Nam: Niềm ray rứt khôn nguôi của lương tâm nhân loại

Bốn mươi mốt năm sau khi Sài Gòn sụp đổ và Miền Nam Tự Do rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt (1975-2016), cả người Việt quốc nội lẫn người Việt hải ngoại dường như đang cùng mang một tâm trạng chung là chán ngán và lo sợ trước viễn ảnh đất nước Việt Nam ngày càng tiến dần tới chỗ bị Trung Cộng nuốt chửng qua tiến trình đồng hóa kiểu mới, nham hiểm hơn và tàn độc hơn cả trăm, nghìn lần chính sách đồng hóa cổ thời do các thái thú Trung Hoa thực hiện trong những lần Bắc thuộc xảy ra trước và sau khi Vua Ngô Quyền khai sáng kỷ nguyên độc lập cho đất nước vào năm 939.

Truyền thông báo chí Việt Nam, dù là lề phải hay lề trái, từ mấy năm qua, đã không ngớt báo động rằng, kể từ khi xâm nhập được vào vùng cao nguyên Miền Trung Việt Nam qua dự án bô-xít hồi năm 2013, Trung Cộng ngày càng chiếm dụng thêm đất đai, các khu gia cư và các cơ sở kinh doanh, kỹ nghệ của Việt Nam để cài người của họ vào mai phục sẵn qua phương thức thuê đất canh tác từ 50 năm trở lên và thầu các công trình tại những tỉnh, thành lớn, trong đó có Hà Tĩnh, Ðà Nẵng, và Bình Dương, trong khi thành phố Hải Phòng thì dẫy đầy công nhân Trung Cộng tới làm việc cho các công ty của họ, khiến công nhân Việt Nam tại đây không còn có việc làm mà phải đi nơi khác để kiếm sống. Trước đó, Ðông Ðô Ðại Phố, khu trung tâm thương mại vĩ đại của người Tàu giữa lòng thành phố Bình Dương, với trường Ðại Học Quốc Tế Miền Ðông, bệnh viện quốc tế, khu thể thao, trung tâm hội nghị và tiệc cưới, sân golf và các trung tâm thương mại, giải trí... đã hình thành và phát triển một khu vực dành riêng cho cộng đồng người Hoa. Hồi Tháng Sáu năm 2014, đặc khu kinh tế Formosa ở Vũng Áng, Hà Tĩnh, đã đột ngột gởi thư lên chính quyền trung ương Hà Nội để đòi trở thành đặc khu tự trị, tách khỏi Việt Nam, với nhiều quyền hạn vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp bình thường. Các quan sát viên tin rằng, với phương thức “bán nước từng phần” như thế, Ðảng Cộng Sản Việt Nam chẳng cần gì phải ra tay công khai bán nước đại quy mô một lần, để rồi phải mang tiếng xấu với lịch sử, mà đất nước Việt Nam, sau cùng, cũng nằm gọn lỏn trong vòng tay cai trị của Trung Cộng.

Một số người Nhật đến làm ăn và sinh sống tại Việt Nam có nhận xét rằng kế hoạch “tích tiểu thành đại” của Trung Cộng gồm nhiều hành động nhỏ: từ việc thâu tóm và biến các công ty Việt Nam thành công ty Trung Cộng và tăng cường sự hiện diện của người Hoa tại Việt Nam cho tới việc đẩy mạnh đầu tư lớn trên khắp đất nước, đặc biệt là khu vực từ Quảng Trị đến Thừa Thiên Huế. Nói khác đi, dưới con mắt của các quan sát viên ngoại quốc, việc Trung Cộng chiếm trọn Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian, và có thể họ sẽ không cần tới một cuộc chiến tranh thôn tính trên quy mô lớn nữa nếu chính quyền Cộng Sản Việt Nam không kịp thời thay đổi đường lối và sách lược đối phó với Trung Cộng trong nay mai.

Mối đại họa cho dân tộc Việt Nam là, cho tới lúc này, không có bất cứ ai trên thế giới nhìn thấy viễn tượng Ðảng Cộng Sản Việt Nam sẽ thay đổi chính sách cứ ôm cứng lấy Ðảng Cộng Sản Trung Quốc mà sống như hiện nay cả.

Nỗi niềm sau mấy mươi năm:

Dù không bi quan, những con người Việt Nam nào còn ấp ủ trong lòng mình tinh thần dân tộc và tình yêu quê hương, đất nước vẫn không khỏi chán nản, thất vọng khi thấy cái ngày mà những người cộng sản Việt Nam bị tước quyền cai trị đất nước - mà họ đã giành được kể từ vụ “cướp chính quyền” tại Hà Nội và Huế vào năm 1945 - có vẻ như vẫn còn quá xa vời nếu không có một phép lạ nào xảy tới. Ðó là bởi vì Ðảng Cộng Sản Việt Nam - luôn được Ðảng Cộng Sản Trung Quốc hà hơi, tiếp sức và được bảo vệ tối đa bằng các lực lượng quân đội và công an suốt đời tận trung với Ðảng - sẽ vì quyền lợi riêng của tập thể họ mà không bao giờ chịu rời bỏ quyền hành để nhường chính quyền lại cho một thể chế tự do, dân chủ mà gần 100 triệu người Việt Nam cả ở quốc nội lẫn ở hải ngoại đang trông chờ, cho dù siêu cường Hoa Kỳ và các đồng minh lớn, như Liên Âu, Nhật Bản, Ấn Ðộ và Úc Ðại Lợi, có đổ ra bao nhiêu sức lực và tiền của để chiêu dụ, níu kéo, và mua chuộc Cộng Sản Việt Nam, và cho dù 100 triệu người Việt Nam khắp nơi trên thế giới có khuyên bảo, khuyến khích, la ó, và nguyền rủa họ bằng thứ ngôn từ nào đi nữa.

Phải nói rằng cả Hoa Kỳ, các lực lượng kháng chiến chống Cộng, dân chúng trong nước, cộng đồng người Việt hải ngoại, và những gì còn lại của Thế Giới Tự Do sau cuộc Chiến Tranh Việt Nam (1960-1975)... đã làm tất cả mọi sự có thể được để dạy dỗ, đánh phá, tuyên truyền phản đối, rải truyền đơn, viết blog tố cáo các chính sách sai lầm và phi nhân bản của nhà cầm quyền Hà Nội, và ngay cả bỏ tiền của và khí tài ra mua chuộc để chính quyền Hà Nội chịu rời bỏ Trung Cộng mà theo về với chính nghĩa tự do, dân chủ hầu mong cứu vãn Việt Nam khỏi rơi xuống hố sâu mất nước vào tay quân Ðại Hán Trung Hoa, nhưng kết quả, cho tới nay, vẫn chỉ là con số không.

Qua mấy đời tổng thống, Hoa Kỳ đã áp dụng các biện pháp mềm dẻo và khôn khéo tối đa của một siêu cường thế giới, như thừa nhận ngoại giao, trao đổi buôn bán, viện trợ nhân đạo, tài chánh và kỹ thuật, đưa sinh viên Việt Nam qua Mỹ học hành, tập trận chung giữa hai nước, cho Cộng Sản Việt Nam vào WTO, và còn cho họ gia nhập TPP nữa. Các chiến sĩ kháng chiến chống Cộng, dù cô đơn trong cuộc chiến phục quốc, cũng đã làm hết sức mình trong sứ mạng có tính “đội đá vá trời” là lật đổ chế độ Cộng Sản bạo tàn trên quê hương bằng vũ lực, qua gương hy sinh của những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Võ Ðại Tôn hoặc Lý Tống. Các nhà tranh đấu đòi tự do, dân chủ, các “dân oan khiếu kiện,” và cả khối trí thức, sinh viên, học sinh trong nước cũng đều đã làm hết sức mình để, nếu không lật đổ được chế độ cộng sản thì cũng làm cho nó phải thay đổi theo trào lưu đa nguyên, đa đảng của thế giới, nhưng rồi hầu như tất cả vẫn không làm gì được Ðảng Cộng Sản tại Hà Nội, để rồi các chiến sĩ đó, kẻ thì bị giết hại, kẻ bị tù đày, kẻ bị du đãng đánh tới tấp hoặc gia đình bị cô lập kinh tế, và kẻ thì bị đẩy ra nước ngoài để khỏi tranh đấu nữa...

Dù lúc rời xa quê hương, nhiều người trong các cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại vẫn mang theo tánh độc tôn, anh hùng cá nhân, phân hóa và chia rẽ như lúc chưa mất nước, họ cũng đã làm hết sức mình để chống đánh chế độ Cộng Sản tại Hà Nội qua rất nhiều cuộc biểu tình, hội thảo, đấu tranh, qua biết bao nhiêu liên minh và phong trào, nhưng những Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Chí Thiện, Việt Dzũng, và Nguyễn Ngọc Bích đều đã lần lượt về cõi vĩnh hằng trước khi có thể nhìn thấy được một Việt Nam không Cộng Sản.

Những biến cố trước đây và mới đây nhất trong cuộc tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải quyết liệt giữa quan thầy Bắc Kinh và đệ tử Hà Nội, với cao điểm là vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Cộng xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên Biển Ðông - mà thế giới gọi là Biển Nam Hoa (South China Sea) - hồi Tháng Năm năm 2014, lẽ ra đã là nhát búa tối hậu giáng vào Thỏa Hiệp Thành Ðô bán nước cho Tàu năm 1990 và là cỗ xe thần diệu đưa Cộng Sản Việt Nam “thoát Trung” khỏi cần ngoái cổ lại, nhưng rồi mọi chuyện lại vẫn đâu vào đấy. Ðảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục khấu đầu nhận lấy phương châm 16 Chữ Vàng và tinh thần Bốn Tốt mà Thiên Tử Tập Cận Bình đã từ Trung Nam Hải đích thân mang qua Hà Nội để kẻ chư hầu đem treo trên Bắc Bộ Phủ, còn cao trọng hơn mấy lần trước nữa.

Một biến chuyển khá ngoạn mục là những nỗ lực mới nhất của Phi Luật Tân, Nhật Bản và Ấn Ðộ trong kế hoạch lôi kéo Cộng Sản Việt Nam rời khỏi quỹ đạo Cộng Sản Trung Quốc. Nhưng cũng như Hoa Kỳ sau bao nhiêu năm trầy trật, cả Nhật Bản và Ấn Ðộ đều chỉ thấy mình bị mất mồi, mất của mà vẫn không “câu” được gì ráo trọi, trong khi Phi Luật Tân, dù đã ráng sức nâng mối quan hệ với nước láng giềng phía Tây của họ lên tới mức “chiến lược,” vẫn không rủ được Hà Nội đứng chung đơn trong vụ kiện Trung Cộng xâm lấn lãnh hải tại Biển Ðông, khiến ngày ngày các thủy thủ Phi Luật Tân vẫn phải lặng lẽ chơi bóng chuyền một mình giữa chốn Trường Sa gió lộng sau một lần duy nhất các thủy thủ Việt Nam làm màu, vượt sóng qua chơi vài “sét” với họ nơi đây.

Vật đổi, sao dời:


Sau năm 1975, vì cứ tưởng chế độ Cộng Sản tại Việt Nam không thể nào lại tệ hại đến như vậy, ít có ai dám nghĩ rằng 21 năm tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa chính là thời kỳ vàng son nhất trong lịch sử Việt Nam trước khi mất nước vào tay Trung Cộng. Nhưng nay, 41 năm đã trôi qua, lịch sử đang chứng minh rằng rất ít hoặc không bao giờ có hy vọng Việt Nam tìm lại được thời đại vàng son cũ.

Việt Nam Cộng Hòa là biểu tượng cho một nền văn minh và văn hóa rực rỡ. So với tiêu chuẩn thời bấy giờ và so với các nước đồng minh cũng như láng giềng không bị các cuộc xung đột vũ trang tàn phá trên quy mô khủng khiếp thời đó, như Ðại Hàn Dân Quốc (Nam Hàn), Phi Luật Tân, Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan), Thái Lan, Tân Gia Ba (Singapore), Mã Lai Á, Nam Dương (Indonesia), Brunei, Lào, Căm-Bốt và Miến Ðiện (Myanmar), Việt Nam Cộng Hòa hồi đó chẳng hề thua kém ai và có khi còn hơn hẳn một số các nước kể trên. Nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa thời Ðệ Nhất Cộng Hòa vẫn được coi là khuôn mẫu của các nước mới phát triển trên thế giới sau Thế Chiến Thứ Hai. Nền giáo dục và y tế của Việt Nam Cộng Hòa được coi là đầy tính nhân bản và có phẩm chất cao, trong khi các lãnh vực văn hóa, văn chương, nghệ thuật, thể thao, và âm nhạc của Miền Nam Tự Do đều phát triển vượt bực, giúp Việt Nam Cộng Hòa đạt được nhiều thành tích rực rỡ và giành được nhiều giải thưởng quốc tế giá trị thời bấy giờ.

Tuy nhiên, những công trình kiến trúc nguy nga và tráng lệ kia tại các thành phố của Miền Nam Tự Do cũ, tức là từ Ðông Hà xuống tới Cà Mau, và ngay cả những nét đẹp thị thành tại nhiều đô thị và thủ phủ do người Pháp để lại sau khi chế độ thực dân Pháp cáo chung vào giữa thập niên 1950, cũng đã hoặc bị xuống cấp hoặc bị thay đổi rất nhiều để phục vụ cho nhãn quan mới của người cộng sản Việt Nam cũng như lòng ham muốn vay tiền từ giới tư bản ngoại quốc để xây dựng các công trình mới tại Việt Nam đặng có thể ăn chặn bớt tiền từ các công trình đó mà làm giàu. Cả đến thôn quê Việt Nam ngày nay, suốt từ Nam chí Bắc, đều cũng đã thay đổi rất nhiều, hậu quả của những vụ chính quyền “cướp đất của dân oan” để xây dựng các công trình mới đặng các quan chức cộng sản có thể nương theo đó mà xén bớt ngân quỹ hoặc chia chác hoa hồng với các công ty thầu xây dựng, nhất là các hãng thầu Trung Quốc vốn nổi tiếng chuyên dùng đòn hối lộ các quan chức Việt Nam để cướp hợp đồng từ tay các nhà thầu quốc tế khác chưa quen thói gian manh như họ.

Những kế hoạch xóa bỏ các công trình kiến trúc cũ cùng việc đốn hạ các cây cổ thụ đã có từ thời Pháp thuộc hoặc thời Quốc Gia Việt Nam và thời Việt Nam Cộng Hòa tại Hà Nội cũng như Sài Gòn chỉ làm lộ rõ một điều là những người cộng sản tại Hà Nội rất sợ cái quá khứ vàng son đó của dân tộc Việt Nam khi họ nhận chân rằng đất nước Việt Nam dưới quyền cai trị của họ đang ngày càng tệ hại hơn và mắc nợ quốc tế nhiều hơn để cho các thế hệ mai sau tha hồ trả nợ, chứ không còn ấm no và hạnh phúc như ngày xưa nữa, kể cả dưới thời Pháp thuộc, đừng nói gì đến thời Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa. Mới đây nhất, chính quyền Cộng Sản Việt Nam đã ra lệnh bỏ đi môn lịch sử tại các cấp học đường từ tiểu, trung cho tới đại học, chứng tỏ với thế giới rằng họ rất sợ chuyện tổ tiên đã cả gan chống đánh giặc Tàu để giữ vững dải giang sơn gấm vóc của quê hương từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mau, mà nay họ đang bán đi dần dần cho Trung Cộng qua chính sách “mãi quốc cầu vinh” mà người dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Ðộc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc, chẳng có chút quyền lực nào để cấm cản.

Ðất nước và con người Việt Nam trước và sau 1975:


Ðiều mỉa mai của lịch sử là cả hai nền Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đều bị báo chí thiên tả và các nhà viết sử của Mỹ và một số nước Tây Phương coi là độc tài, tức là thời Ðệ Nhất Cộng Hòa thì độc tài gia đình trị, còn thời Ðệ Nhị Cộng Hòa thì độc tài quân phiệt. Nhưng thử hỏi cái “gia đình trị” của chế độ Ngô Ðình Diệm và “quân phiệt” của chế độ Nguyễn Văn Thiệu có tàn độc như chế độ độc tài đảng trị của Cộng Sản Việt nam bây giờ hay không? Ngay cả chế độ Ngô Ðình Diệm thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, từng bị coi là “độc tài gia đình trị” và kỳ thị Phật Giáo, nhưng cái “gia đình” gồm vài ba người trí thức đó không thể nào tham nhũng và gây tác hại bằng cả triệu đảng viên Cộng Sản Việt Nam ma mãnh ngày nay, trong khi hành động kỳ thị đó đã không có tính triệt hạ Phật Giáo tới mức độ gớm ghê như bộ máy tuyên truyền thời đó của Cộng Sản, toa rập cùng cơ quan CIA của Mỹ, đã kích động và giật dây dân chúng để Hoa Kỳ có lý do tổ chức đảo chánh và sát hại hai anh em Tổng Thống Diệm, và để Cộng Sản dễ dàng làm suy yếu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trong kế hoạch thôn tính Miền Nam Việt Nam của họ.

Lịch sử thế giới ngày nay đã chứng minh những vụ lật đổ các thể chế, dù có độc tài và tàn ác đến đâu đi nữa, như các chế độ Muammar Gaddafi ở Libya, Ben Ali ở Tunisia, và Hosni Mubarak ở Ai Cập - chưa kể tới Bashar al-Assad của Syria - trong cuộc cách mạng “Mùa Xuân Ả Rập” tại các nước Hồi Giáo ở Bắc Phi (2010-2011), cũng đều dẫn tới hỗn loạn và bất an. Ngay cả việc lật đổ nhà độc tài, tàn bạo Saddam Hussein của Iraq (2003) cũng chỉ đưa đất nước này đến chỗ phân hóa và suy sụp mà thôi. Dưới ánh sáng lịch sử soi rọi, chính việc loại bỏ một lãnh tụ tương đối tài ba và đức độ như Tổng Thống Ngô Ðình Diệm trong cuộc đảo chánh - vẫn được gọi là cách mạng - do phe quân nhân tại Miền Nam Việt Nam và chính quyền Mỹ thời Tổng Thống John F. Kennedy tổ chức hồi Tháng Mười Một năm 1963, đã đưa Việt Nam Cộng Hòa đến những hỗn loạn chính trị và, sau cùng, là việc Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975.

Bốn mươi mốt năm sau ngày Cộng Sản đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa và thống nhất đất nước, nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tức Cộng Sản Việt Nam, nom chẳng giống ai khi cả hai lãnh vực trọng yếu trong cuộc sống của người dân, là y tế và xã hội, hầu như nằm trong tay của Mỹ hoặc Tây Âu, với hằng nghìn tổ chức cứu trợ và từ thiện của người Việt hải ngoại từ Mỹ, Úc và các nước Âu Châu đổ về Việt Nam để chăm lo cứu lụt, cứu đói và chữa bệnh cho dân chúng từ Nam chí Bắc, trong khi chính quyền Cộng Sản Việt Nam thì khỏe re, chỉ ngồi không chia của. Phải biết rằng Việt Nam là một nước rất giàu tài nguyên khi đem so với các quốc gia khác tại Á Châu, như Trung Quốc, Ấn Ðộ, Thái Lan, Miến Ðiện, Nhật Bản, Nam Hàn và Ðài Loan. Ðây là điều mà một sinh viên Nhật đến Việt Nam du học đã phải kêu lên cho thế giới biết để ngầm chê trách giới lãnh đạo hiện nay của đất nước cộng sản này chỉ biết lo bán tài nguyên đất nước để bỏ túi thay vì lo cho dân, đồng thời tiếc giùm cho dân tộc Việt Nam là quốc gia có tài nguyên lớn như thế mà ngày càng tụt hậu - để cho đàn ông Việt Nam phải bán sức lao động tại nước ngoài và phụ nữ Việt Nam phải đi ở đợ hoặc làm nô lệ tình dục khắp thế giới - so với các quốc gia khác tại Á Châu, ít tài nguyên hơn, nhưng lại giàu mạnh hơn Việt Nam rất nhiều.

Trước năm 1975, cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam đều thực hiện các cuộc cải cách ruộng đất với mục đích tái phân phối quyền sở hữu đất đai cho nông dân sao cho công bằng và hợp lý hơn so với thời phong kiến và thực dân cũ. Thời đó, Việt Nam Cộng Hòa đã tổ chức hai đợt cải cách ruộng đất quy mô, lần đầu là công cuộc Cải Cách Ðiền Ðịa vào năm 1956 dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa (của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm) và lần sau là chương rìnhNgười Cày Có Ruộng dưới thời Ðệ Nhị Cộng Hòa (của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) vào năm 1970. Ngoài hai đợt đó ra, hồi năm 1958 (dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm), còn có các chương trình trợ giúp nông dân và bảo vệ an ninh lãnh thổ chống quân cộng sản xâm nhập, gọi là kế hoạch Dinh Ðiền và Khu Trù Mật nữa. Nhìn chung, các chương trình Cải Cách Ðiền Ðịa, Khu Trù Mật, Dinh Ðiền và Người Cày Có Ruộng tại Miền Nam Việt Nam đều thành công rực rỡ nhờ vào viện trợ kinh tế dồi dào của Hoa Kỳ. Ngược lại, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất, từ năm 1953 tới 1956, của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức Cộng Sản Bắc Việt, do Hồ Chí Minh và Trường Chinh chỉ đạo và được rập khuôn theo mô thức của Trung Cộng, tuy thành công về mặt lấy ruộng của địa chủ phát cho nông dân nhưng luôn bị coi là phi nhân bản và tàn ác, bởi vì hằng trăm nghìn địa chủ, phú hào và chủ đất đã bị đem ra đấu tố và giết tróc dã man (trong đó có hơn 172,000 người bị giết và hơn 123,000 người bị kết tội oan uổng, theo các số liệu sưu tập được) để thực hiện cho bằng được chủ trương gọi là “công bằng xã hội” mà chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế luôn nêu cao.

Về mặt tham nhũng, chắc chắn Việt Nam Cộng Hòa trước đây thua xa Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam ngày nay. Bằng cớ là, thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, sau khi quân đảo chính do Mỹ giật dây tiến vào Dinh Gia Long, chỗ ở chính thức của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm lúc Dinh Ðộc Lập đang được trùng tu, họ chỉ thấy nhà lãnh đạo Việt Nam có mỗi một chiếc giường gỗ để nằm, với một ít kinh, sách Công Giáo trên đầu giường mà thôi. Hai thập niên sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi vì Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Cộng Sản Việt Nam mới khám phá thấy vị tổng thống Việt Nam Cộng Hòa này đã không kịp mang theo cái biệt thự nhỏ xíu của ông - chưa bằng cái dinh phường đội trưởng của Cộng Sản Việt Nam ngày nay - ở Ninh Thuận, là nơi quê quán của vị cố tổng thống. Ngay cả cái tin Tổng Thống Thiệu, lúc rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975, đã kịp thời mang theo 16 tấn vàng ra ngoại quốc cũng chỉ là tin do Cộng Sản bịa đặt ra mà thôi. Sự thật là vị bộ trưởng kinh tế của Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo, đã niêm phong số vàng này lại tại Ngân Hàng Quốc Gia để dùng làm cống lễ các quan thầy Việt Cộng sắp sửa chiến thắng bước vào Dinh Ðộc Lập mà nhận sự đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh cùng chính quyền Miền Nam Việt Nam, để rồi sau đó số vàng này bị mau lẹ tẩu tán vào tay các lãnh tụ Bắc Bộ Phủ, những kẻ chùi mép khéo đến nỗi, cho đến nay, không ai có thể tìm đâu ra tông tích số vàng đó nữa. Các mẩu chuyện về mớ tài sản kếch xù của cựu Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng hoặc chiếc ngai nạm vàng bên trong ngôi biệt thự của cựu Tổng Bí Thư Nông Ðức Mạnh tại Hà Nội là chuyện có thật 100 phần trăm, chứ không phải là giả sử tiểu thuyết đâu. Còn nhiều, nhiều tỉ dụ nữa liên quan tới mức độ tham nhũng tày trời của giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam ngày nay mà bút mực không thể nào tả xiết được.

Thêm một điều cần phải so sánh nữa là nếp sống văn minh của dân chúng Miền Nam Việt Nam cách nay bốn thập niên so với nếp sống “văn minh” của dân chúng Cộng Sản Việt Nam ngày nay thì thật chẳng giống ai. Chỉ nhắc lại sơ sơ thôi, trong nước thì dân Việt Nam vẫn bị quốc tế chê bai về tình trạng thiếu văn minh qua nếp sống hằng ngày, cụ thể là những vụ tai tiếng lớn liên quan tới việc tranh cướp hàng hóa và thức ăn. Trong các năm 2008 và 2010, dân Hà Nội đã chen nhau dập liễu, vùi hoa và cướp cây cảnh trong các lễ hội Hoa Anh Ðào do người Nhật tổ chức tại thủ đô Việt Nam. Vào năm 2013, một công ty Hòa Lan có nhà máy tại Hà Nội đã phải bỏ ngang việc chiêu đãi thức ăn miễn phí cho cư dân thủ đô Hà Nội sau khi dân chúng xông vào giành giật và cướp phá dữ quá. Tiếp đó, cũng trong năm 2013, xảy ra vụ dân chúng thành phố mang tên bác tràn vào tranh cướp hàng khuyến mãi của một công ty Ðại Hàn và giành giật những suất ăn bao bụng với giá khuyến mãi 100,000 đồng tại một cửa hàng ăn, làm nhà hàng phải đóng cửa sớm. Vụ tai tiếng mới đây nhất lại xảy ra tại đất Hà Nội nghìn năm văn vật khi hằng nghìn khách vui chân giẫm nát cả một vườn hoa đang chờ đón Xuân về trong một công viên tại thủ đô nhân dịp đón Giao Thừa dương lịch và mừng Năm Mới 2016.

Trong mấy năm trở lại đây, ngay tại thủ đô Hà Nội, xuất hiện các cửa hàng ăn mà chủ tiệm liên tiếp chửi rủa, mạt sát khách hàng mỗi khi, vì quá ham ăn, họ lỡ làm phật lòng chủ nhân. Ðó là những tiệm ăn mà dân địa phương gọi là “bún mắng, cháo chửi, ốc lắm mồm,” nơi các thực khách ngày đêm bị nguyền rủa bằng những thứ ngôn ngữ “mất dạy” nhất nhưng, vì quá đói, khách vẫn cứ nín thinh mà gục mặt xuống ăn. Tình trạng ngày một tệ hại đến nỗi chính báo chí Việt Nam đã khui ra vụ này, và một số tờ báo đã không ngần ngại loan báo cho dân chúng biết những địa chỉ “bún mắng, cháo chửi, ốc lắm mồm” nức tiếng Hà Thành hoa lệ kia. Ðiều hiển nhiên là dân chúng Miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa không thể nào có được những hành động thô tục và thiếu văn minh như vậy ngay tại quê nhà của mình để cho người ngoại quốc phải khinh khi, bởi vì một lẽ đơn giản là dân Miền Nam Việt Nam lúc đó đâu có được các bậc thầy “khả kính” Trung Quốc dạy dỗ cho nếp sống văn minh như bây giờ.

Ở ngoại quốc, những người mang quốc tịch Cộng Sản Việt Nam cũng để lộ nhiều thói hư, tật xấu quá mức. Tại nhiều nơi, dân Nhật đã cắm những tấm biển cấm dân Việt Nam lân la tới gần, vì họ bị tình nghi là quân trộm cắp hàng hóa tại các tiệm buôn, trong khi các nhân viên Vietnam Airlines thì chuyên môn “chôm” hàng siêu thị để chở lậu về nước bán lại cho các con buôn tại quê nhà. Nước bạn Thái Lan cũng đang cấm cửa các du khách Việt Nam đến một số điểm du lịch của họ, vì họ cũng sợ người mình ăn cắp đồ của họ và có những hành vi, cử chỉ thiếu văn minh, y hệt như bậc thầy Trung Quốc của Cộng Sản Việt Nam vậy. Mới hồi đầu năm nay, báo chí thế giới loan tin có hai khách du lịch Việt Nam đã bị bắt tại Chiang Mai, ở miền Bắc Thái Lan, và bị buộc tội bẻ khóa xông vào nhà để đánh cắp 500,000 Mỹ kim từ chiếc tủ sắt của một cửa hàng tại khu du lịch này.

Sau cùng, như lịch sử đã chứng minh, rõ ràng là hầu hết các mục tiêu của cuộc cách mạng vô sản, do Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, với thâm ý lấy của nhà giàu đem chia cho người nghèo để công bằng hóa xã hội, đều thất bại. Ðiều bi thảm nhất là cái hố cách biệt giữa người giàu (tư sản đỏ cùng tư sản mới phất) và người nghèo (người của chế độ cũ và đám dân sống không có ô dù hoặc viện trợ từ hải ngoại) ngày càng được khơi rộng thêm ra, khiến sự chênh lệch giữa giàu và nghèo ngày nay lớn lao hơn bao giờ hết trong lịch sử trên 4,000 năm của dân tộc. Chính vì sự cách biệt giàu-nghèo quá độ này, đã phát sinh nhiều tệ nạn xã hội nghiêm trọng, trong đó phải kể đến nạn cướp của, giết người, nạn mại dâm (mà giới người mẫu và hoa hậu ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng) cùng nạn buôn người làm nô lệ tình dục và lao động khổ sai sang các nước lân bang. Và, gần đây nhất, là thảm trạng một số thanh niên phải đi bắt chó kiếm ăn, để rồi bị dân chúng tự ý đứng ra đại diện pháp luật để trừng trị bằng cách đánh, giết thảm thương.

Không ai có thể tưởng tượng được rằng, ngày nay, trong khi đại đa số dân chúng Việt Nam đang sống trong bần cùng cơ cực và thiếu thốn sự chăm sóc về giáo dục và y tế từ phía nhà nước, một số không ít các đại gia Việt Nam người nào cũng có hàng chục chiếc xe hơi riêng, cỡ Mercedes Benz và Rolls-Royce, rồi còn sắm luôn cả trực thăng riêng đậu chơi trên nóc nhà mình nữa. Ngày nay, con cháu của giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam và của lớp tư sản mới phất cứ xoành xoạch đi du học Mỹ hay Âu Châu và Úc Châu (những chỗ họ từng chê bai, phỉ nhổ năm xưa) như đi chợ, không cứ phải qua các tiêu chuẩn gạn lọc cam go, như phải học hết sức giỏi mới được đi du học, hồi thời Việt Nam Cộng Hòa.

Với một đất nước tan hoang như thế về mọi mặt, từ đạo đức làm người, văn hóa, xã hội, và luật pháp cho tới giáo dục, y tế, và kinh tế, ít ai dám tin rằng Việt Nam sẽ có thể đứng vững được mãi trước kế hoạch xâm lấn và thôn tính tàn độc của Trung Cộng, y như lời ca báo động của ca, nhạc sĩ Việt Khang từ trong nước: “Giờ đây, Việt Nam còn hay đã mất/Mà giặc Tàu ngang dọc trên quê hương ta?” (Việt Nam Tôi Ðâu? Việt Khang)

Chiến thắng của Cộng Sản trong Chiến Tranh Việt Nam làm thế giới mất hết cái thơ ngây


Sự thất bại của Việt Nam Cộng Hòa và chiến thắng sau cùng của người cộng sản tại Miền Nam Việt Nam trong cái ngày 30 Tháng Tư năm 1975 đó chính là điểm khởi đầu cho sự suy thoái, hay đúng hơn là sự tụt dốc, của nền văn minh nhân loại, tức là những gì vẫn được coi là Chân, Thiện, Mỹ của thế giới loài người. Lý do dẫn đến sự thể này là, sau cùng, những kẻ làm ác (Cộng Sản Bắc Việt và Trung Cộng) đã không hề bị trừng phạt mà lại còn được tưởng thưởng hậu hĩnh, với Cộng Sản Bắc Việt chiếm được Miền Nam Việt Nam, vùng đất giàu tài nguyên và hải sản nhất Ðông Nam Á, và Trung Cộng lấy được Quần Ðảo Hoàng Sa để làm bàn đạp tiến xuống phía Nam mà lấn chiếm cả Quần Ðảo Trường Sa, và cuối cùng là nuốt chửng luôn toàn bộ Biển Nam Hoa, tức Biển Ðông, trước nỗi hậm hực mà chẳng làm gì được ai của các cường quốc tại Thái Bình Dương và Ấn Ðộ Dương, huống hồ các quốc gia nhỏ bé với nền tài chánh thiếu trước, hụt sau trong vùng.

Hậu quả khốc liệt này, mới đầu, ít có người nhận thấy, bởi vì phải nói rằng hầu hết cộng đồng thế giới thời đó, gồm cả những quốc gia cộng sản lẫn những nước tự do, dân chủ ở Tây Phương, đều cảm thấy nhẹ nhõm khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam đầy hận thù và chết chóc, tang thương, sau cùng, đã kết thúc một cách nhanh chóng bất ngờ với phần thắng nghiêng về các “lực lượng giải phóng” của người cộng sản mà vào thời điểm đó đang được dư luận từ phía bên này bức màn sắt, tức là Thế Giới Tự Do, vì u mê mà đem lòng ngưỡng mộ và kỳ vọng chỉ vì chiếc mặt nạ trên bộ mặt của những người Cộng Sản Việt Nam chưa được gỡ xuống.

Nhưng dần dà, với những biến động lớn từ Việt Nam sau khi phe cộng sản đã nắm trọn quyền kiểm soát trên cả hai miền Nam-Bắc - từ vụ chính quyền Cộng Sản không chịu chấm dứt hận thù mà ra lệnh bắt giam và đày ải tất cả những viên chức, sĩ quan cũ của Việt Nam Cộng Hòa vào các trại lao động khổ sai cùng hành động triệt hạ không nương tay giới tư sản tại Miền Nam Việt Nam để thâu tóm của cải vào tay giới tư sản đỏ, và việc cả triệu “bộ nhân” và “thuyền nhân” Việt Nam đã đồng loạt bỏ nước ra đi tìm tự do tại các nước dân chủ, tự do trên thế giới trong suốt hai thập niên 1970 và 1980, cho đến những vụ thẳng tay đàn áp tôn giáo và vi phạm nhân quyền hết sức thô bạo tại Việt Nam suốt hơn bốn thập niên- đã làm cho cộng đồng thế giới phải kinh hoàng và cảm thấy mình có tội rất lớn đối với dân chúng Việt Nam. Chính cái sai lầm và ngu muội chết người của thế giới trong nỗ lực đánh phá Việt Nam Cộng Hòa (mà lúc ấy họ cho là xấu xa) và yểm trợ Cộng Sản Bắc Việt (mà lúc ấy họ cho là biểu tượng của lý tưởng giải phóng con người đầy cao đẹp), đã khiến cho lá cờ đỏ của người Cộng Sản Việt Nam, sau cùng, có dịp ngự trị trên cả hai miền Nam-Bắc.

Qua cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Hoa Kỳ và phần còn lại của Thế Giới Tự Do đã phạm hai lỗi lầm tày trời: thứ nhất là phản bội người bạn đồng minh thân thiết của mình trong giờ phút nguy nan; và thứ nhì là để mất Miền Nam Việt Nam, và sau này là toàn thể Việt Nam, vào tay người cộng sản Việt Nam khiến, sau cùng, Việt Nam bị Trung Cộng thôn tính và toàn thể Biển Nam Hoa, tức là Biển Ðông, trở thành chiếc hồ nước riêng của Trung Cộng - ny như Ðịa Trung Hải, có thời, từng là cái hồ nước riêng của hai đế quốc Anh và Pháp vậy. Lịch sử coi lỗi lầm thứ nhất của Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do lúc bấy giờ là một điều vô đạo đức - nếu không nói là một tội ác - trong khi lỗi lầm thứ nhì là sự sai lầm chết người về chiến lược tương đương với sự dốt nát. Không ai có thể chối cãi rằng hai lỗi lầm to lớn này của Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do thời Chiến Tranh Việt Nam đã mở toang cánh cửa của thế giới cho cái Ác thắng cái Thiện.

Mấy thập niên sau khi Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay Cộng Sản, Hoa Kỳ đã “lãnh đủ” mọi hậu quả của hai lỗi lầm đó, từ việc Hoa Kỳ bị các đồng minh mới ở Afghanistan và Iraq phản bội trắng trợn - khi lính Mỹ đến giúp họ thường bị những kẻ vô ơn trong các quân đội đó bắn giết thẳng tay mỗi khi có dịp - và bị khi dễ dưới đôi mắt của đồng minh chí cốt Israel và đồng minh lâu đời Ả Rập Saudi tại Trung Ðông cho đến việc Hoa Kỳ ngày càng mất dần thế đứng tại Thái Bình Dương bởi vì không chịu giúp Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Quần Ðảo Hoàng Sa hồi thế kỷ trước, để rồi đến thế kỷ này thì Biển Nam Hoa hoàn toàn lọt vào tay Trung Cộng qua sách lược “tằm ăn dâu” mà con cháu Tôn Tử triệt để áp dụng trước sự lúng túng và bất lực “thấy thương” của nước Mỹ, từ vị tổng tư lệnh quân đội cho tới các vị tư lệnh hạm đội.

(Ðiều mỉa mai là, trong cuộc di tản sau cùng của các viên chức Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa khỏi Sài Gòn vào hai ngày 29 và 30 Tháng Tư năm 1975 qua chiến dịch mang biệt danh Frequent Wind, Hoa Kỳ đã phải huy động tối đa các lực lượng Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến tại Tây Thái Bình Dương đến bảo vệ an ninh, kể cả các phản lực chiến đấu cơ siêu thanh tối tân F-14 Tomcat lần đầu tiên được mang ra sử dụng hồi đó, không hẳn là để đề phòng các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tấn công - bởi vì cả 2 phía Hoa Kỳ và Cộng Sản Bắc Việt đã dàn xếp với nhau để cho cuộc di tản diễn ra suôn sẻ đặng quân Mỹ sớm ra đi cho khuất mắt - nhưng là để phòng hờ trường hợp các lực lượng còn lại của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất ngờ quay súng bắn vào quân Mỹ sau khi họ nhận thức được sự bội phản trắng trợn của người bạn đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì thừa biết sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ bắt nguồn từ Quốc Hội Mỹ chứ không phải từ các chiến binh từng sát cánh với họ trên mọi chiến trường gai lửa trước đây, đã bình thản để cho cuộc di tản được hoàn tất, rồi một mình ở lại chốn gian nguy, kẻ thì từ thủ, kẻ thì tự sát, kẻ thì chiến đấu cho tới khi hết đạn mới liệng súng chạy đi, cho vẹn tình, vẹn nghĩa với anh linh của trên 58,000 chiến binh Hoa Kỳ đã bỏ mình vì Tự Do tại Việt Nam. Phải biết rằng người Mỹ rất coi trọng khả năng chiến đấu và lòng gan dạ của các chiến sĩ Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa, bởi vì chính các sĩ quan cố vấn Mỹ đã phải cố gắng tối đa mới có thể theo kịp các chiến sĩ mà họ có nhiệm vụ cố vấn trong cuộc chiến, sao cho khỏi bị chê là yếu bóng vía hoặc nhát đòn. Vì thế, nếu các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cũng chơi cái đòn “phản bội đồng minh” ngay tại Sài Gòn vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến y như các chính trị gia Mỹ đã làm tại Washington thì cái giá mà người Mỹ phải trả để có thể rời bỏ Việt Nam chắc chắn sẽ còn lớn lao hơn nữa chứ không phải chỉ có bấy nhiêu đâu. Lịch sử cho thấy rằng, từ sau kinh nghiệm Việt Nam, Quân Lực Mỹ chưa hề tìm được các chiến sĩ đồng minh nào từ mọi góc biển, chân trời vừa thiện chiến vừa thủy chung như người chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay, nếu Quân Lực Mỹ được có cơ hội “vai kề vai” với các chiến hữu ngày xưa của mình tại Ðông Nam Á, thì chuyện bảo vệ quyền tự do hàng hải quốc tế trên Biển Nam Hoa, tức Biển Ðông, đâu có chi là lấp biển, vá trời.)

Từ sau biến cố 30 Tháng Tư năm 1975, ngày Sài Gòn sụp đổ vào tay quân Cộng Sản trở đi, không ai có thể chối cãi sự thật rành rành rằng thế giới loài người đã đánh mất hết cái thơ ngây của mình, bởi một lẽ dễ hiểu là, trong Chiến Tranh Việt Nam, thế giới đã về hùa theo nữ minh tinh phản chiến Mỹ Jane Fonda mà coi những người Cộng Sản Việt Nam chính là “lương tâm của nhân loại” và rằng “họ đang được lãnh đạo bằng cùng một tinh thần từng hướng dẫn Tướng Washington và chính khách Jefferson” cho nên khi cái “lương tâm” đó, sau cùng, sụp đổ đi (theo như những gì thế giới đang tận mắt chứng kiến tại Cộng Sản Việt Nam ngày nay) thì cái thơ ngây kia cũng mất đi luôn.

Khi thơ ngây đã mất: Thế giới suy đồi và loạn lạc sau Việt Nam Cộng Hòa


Khi con người không còn cái thơ ngây, tức là đã mất đi cái căn bản đạo đức hiền lành của thuở mới chào đời - mà triết gia Mạnh Tử (372-289 Trước Công Nguyên) của Trung Hoa tóm gọn là “nhân chi sơ, tính bản thiện” - gia đình và xã hội sẽ bất an và rối loạn vì con người chỉ muốn làm việc ác để sống còn và thủ lợi theo quy luật của tự nhiên “cạnh tranh để sinh tồn.” Trong khi Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập (1776) của Hoa Kỳ được Hồ Chí Minh sao chép để đưa vào Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của phe Việt Minh ở Việt Nam hồi năm 1945, phần lớn nội dung các bản Hiến Pháp của Phi Luật Tân từ 1935 tới 1987 đều dựa vào tinh thần của Hiến Pháp Hoa Kỳ (1789), bởi vì cả hai văn kiện này được coi là biểu hiện của nền tự do, dân chủ cao đẹp nhất của nhân loại thời bấy giờ. Tuy nhiên, một trong hai văn kiện lịch sử đó của Mỹ Quốc, tức là bản Hiến Pháp Hoa Kỳ cùng với các Tu Chính Án kèm theo, hiện đang bị coi là lỗi thời và cần phải được sửa đổi vì đã được làm ra từ cái thuở mà các nhà lập quốc Hoa Kỳ hãy còn thơ ngây, tức là lúc mà, thay vì làm tổng thống suốt đời, quốc phụ Washignton chỉ xin được làm tổng thống có 2 nhiệm kỳ để làm gương cho hậu thế, và khi mà phần lớn các chính trị gia Mỹ thời đó không coi chính trị là một cái nghề để kiếm ăn (từ đó dùng mọi mánh khóe chính trị để bám ghế suốt đời) mà coi đó là một sự hiến thân cho đất nước. Các giá trị trong xã hội Hoa Kỳ ngày nay, ngoại trừ khoa học và kỹ thuật, nói chung, đều suy đồi so với ngày xưa (the good old days) chỉ vì người Mỹ ngày càng đa văn hóa hơn, khôn lanh hơn, say mê vật chất hơn, gian ác hơn, biết luồn lách và biết chui vào các chỗ hở của pháp luật nhiều hơn, tới độ giá trị của câu ngạn ngữ “honesty is the best policy” (“thành thật là phương châm hay nhất”) hiện đang bị người Mỹ thuộc thế hệ bây giờ nghi ngờ.

Với chiến thắng sau cùng của những người cộng sản nổi tiếng tàn bạo tại Miền Nam Việt Nam, cũng như các chiến thắng của họ tại Căm-Bốt trước đó và tại Lào sau đó, cùng sự yếu thế rõ rệt của “Ðế Quốc” Mỹ, tay “sen đầm quốc tế” sừng sỏ một thời, phe Cộng Sản quốc tế liên tiếp đạt thêm các chiến thắng khác tại Mozambique (Tháng Sáu năm 1975) và Angola (Tháng Mười Một năm 1975) khi hai quốc gia Phi Châu này hớn hở tuyên bố trở thành các nước cộng sản ngay sau khi họ được Bồ Ðào Nha trao trả độc lập. Trong khi dân chúng tại Cộng Sản Cuba ngày đêm không ngớt ca tụng chiến thắng vĩ đại của người anh em Cộng Sản Việt Nam, đến nỗi ai cũng ao ước phải chi mình ngủ một đêm đến sáng mà được trở thành người Việt Nam bằng xương, bằng thịt thì sướng biết mấy, chính quyền Khmer Ðỏ, tức những người cộng sản cầm quyền tại Căm Bốt sau khi chính quyền Cộng Hòa Khmer bị xóa sổ, đã thừa thắng xông lên mà giết một hơi trên 2 triệu người Căm-Bốt chỉ trong vòng vài năm sau khi họ chiếm được thủ đô Phnom Penh vào ngày 17 Tháng Tư năm 1975. Chiến thắng lớn của cộng sản quốc tế tại Việt Nam hồi năm 1975 và sự suy yếu và nhu nhược thấy rõ của các chính quyền Mỹ về sau cũng đã khích lệ những người Hồi Giáo chính thống Iran, có khuynh hướng chống Mỹ và thân cộng sản, nổi lên lật đổ Vua Mohammad Reza Shah Pahlavi của Vương Quốc Ba Tư và lập nên nước Cộng Hòa Hồi Giáo Iran vào ngày 1 Tháng Tư năm 1979, để rồi tới ngày 4 Tháng Mười Một năm đó, chính quyền mới tại Iran cho người tấn công trực diện vào Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Tehran, đốt phá tòa nhà và bắt giữ trên 60 con tin Mỹ, tạo nên cuộc khủng hoảng con tin tại Iran kéo dài gần ba năm mới kết thúc sau khi toàn bộ các con tin Mỹ được phóng thích vào ngày 20 Tháng Giêng năm 1981, ngày tuyên tệ nhậm chức của tân Tổng Thống Mỹ Ronald Reagan vào thời đó.

Nhưng nghiêm trọng hơn hết vẫn là sự nổi dậy của Trung Cộng sau chiến thắng của Cộng Sản Bắc Việt, luôn được coi là cánh tay nối dài của Trung Cộng ở Á Châu, tại Miền Nam Việt Nam hồi năm 1975. Ngày nay, với kế hoạch bành trướng lãnh thổ tối đa qua phía Ðông và xuống phía Nam, Trung Cộng đang đưa lực lượng quân sự hùng hậu của mình tới uy hiếp Quần Ðảo Senkaku của Nhật tại Biển Hoa Ðông, lấn chiếm các cùng biên giới trên bộ của Việt Nam tại Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và Cao Ðiểm 1509, tức Núi Ðất hay Lão Sơn (1980-1984), đánh chiếm các bãi đá Gạc Ma (Mischief Reef), Len Ðao (Landsdown Reef) và Cô Lin (Collins Reef) của Việt Nam (1988) rồi tiến sang phía Ðông đánh chiếm bãi đá Vành Khăn (Mischief Reef) của Phi Luật Tân (1995) và khởi sự uy hiếp đảo cạn Scarborough Shoal - mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham - cùng các bãi đá lân cận của Phi Luật Tân trên Biển Ðông (2012). Trong suốt hai năm 2015 và 2016, Trung Quốc liên tục củng cố tiềm năng quân sự trên các đảo mà họ đã chiếm của Việt Nam và Phi Luật Tân tại Hoàng Sa và Trường Sa bằng cách nới rộng diện tích các hòn đảo, bồi đắp các bãi cạn thành đảo nhân tạo, đồng thời xây thêm phi đạo dùng cho các phản lực cơ chiến đấu, rồi bố trí hỏa tiễn phòng không trên các đảo này để chuẩn bị lập một vùng cấm bay (tức vùng nhận dạng phòng không, ADIZ) trên Biển Ðông trong tương lai. Ngược dòng lịch sử, hồi Tháng Giêng năm 1974, khi thấy Hoa Kỳ đã rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam trên đường bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa cho Cộng Sản Bắc Việt thôn tính, Trung Cộng cũng đã, thừa nước đục thả câu, đưa hạm đội tới đánh chiếm đảo Hoàng Sa (Pattle Island) và các đảo lân cận trong Quần Ðảo Hoàng Sa (Paracel Islands) của Việt Nam Cộng Hòa, trong khi các chiến hạm Mỹ thuộc Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương lạnh lùng đứng nhìn như thể họ chưa bao giờ là đồng minh chí cốt của Việt Nam Cộng Hòa vậy.

Cuộc Chiến Tranh Việt Nam còn cho thấy, trong cuộc chiến này, chỉ có những nước tôn trọng nhân quyền cỡ Mỹ mới đi truy tố các tội ác chiến tranh của quân mình, tỉ như vụ truy tố Trung Úy William Calley trong vụ tàn sát thường dân Việt Nam ở Mỹ Lai hồi năm 1967, trong khi những vụ Việt Cộng pháo kích sát hại học sinh tại Cai Lậy (1973) hoặc vụ quân Cộng Sản Bắc Việt bắn giết bừa bãi người dân chạy loạn trên Ðại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị (1972) và Quốc lộ 7 B ở Tuy Hòa (1974) thì cả thế giới đều im thin thít, không ai nói một tiếng lên án cái tàn bạo của quân cộng sản. Rút kinh nghiệm từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam, hồi năm 2015-2016. không quân Nga cứ oanh tạc xối xả vào các tay súng Hồi Giáo lẫn thường dân vô tội, cho nên mặc dù họ mới khởi sự đánh ISIS có vài ba tháng thôi mà họ đã hiên ngang ca khúc khải hoàn, trong khi Mỹ và Ðồng Minh, vì không dám đụng tới thường dân, liên tục oanh tạc suốt hai năm trời nhưng chẳng làm cho phe Nhà Nước Hồi Giáo phải nao núng.

Giờ đây, 41 năm sau khi Sài Gòn, biểu tượng của nền tự do, dân chủ và tính nhân bản của con người, sụp đổ trước đoàn quân xâm lược bạo tàn của Cộng Sản Bắc Việt, thế giới đang ngày càng bất an hơn, gian dối hơn, nham hiểm hơn, phản phúc hơn, vô liêm sỉ hơn, vô thần hơn, ham mê vật chất hơn, và vô đạo đức hơn, bởi vì một lý do đơn giản là sự phản bội “vĩ đại” của thế giới - chứ không riêng gì Hoa Kỳ là nước triệt để theo thực dụng chủ nghĩa - đối với Việt Nam Cộng Hòa đã là nguồn cảm hứng vô song cho cái Ác tiến lên giữa lúc cái Thiện đang ngày càng co rúm lại trên con đường rơi xuống vực thẳm của hư không.

Thế giới bất an hơn:

Niềm vui của nhân loại chẳng tồn tại được bao lâu khi hay tin chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ tại Liên Xô và Ðông Âu, bởi vì, trên thực tế, chủ nghĩa cộng sản vẫn còn đó tại bốn nước, là Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba, với những người cộng sản Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam ngày nay nguy hiểm hơn nhiều và có sức “đề kháng” mãnh liệt hơn nhiều trước các “bài thuốc” tự do, dân chủ. Một lý do dễ hiểu là chủ nghĩa cộng sản thời Chiến Tranh Lạnh tuy mạnh về “gạo” mà lại không bạo về “tiền,” trong khi chủ nghĩa cộng sản thời nay tại Trung Quốc và Việt Nam, nhờ có tư bản Tây Phương ham lợi mà bôm tiền vào bất chấp “tiền đồ tổ quốc,” nay đang dùng chính đồng tiền của tư bản để mua chuộc, thao túng và làm suy yếu hầu hết các chính phủ tự do, dân chủ nói chung và một số không nhỏ người Việt tị nạn cộng sản tại hải ngoại. Thêm vào đó, hãy cứ xem mức độ chạy đua võ trang leo thang khủng khiếp từ Bắc Hàn, Nam Hàn, Nhật Bản, Ðài Loan cho tới Việt Nam, Indonesia, Mã Lai Á, Ấn Ðộ, Pakistan, Trung Ðông, Iran, và Israel cho đến Âu Châu và Ukraine, chưa kể ba quốc gia đầu sỏ thế giới hiện nay là Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc, thì đủ biết nhân loại đang sống trong tình trạng bất an đến mức nào. Kinh nghiệm cho thấy, vì Việt Nam Cộng Hòa thiếu võ khí tự vệ sau khi Hoa Kỳ dần dà cắt viện trợ quân sự sau Hiệp Ðịnh Paris 1973 trong khi Cộng Sản Bắc Việt vẫn tiếp tục nhận được viện trợ quân sự dồi dào của Liên Xô và Trung Cộng nên Việt Nam Cộng Hòa mới bại trận.

Thế giới gian dối hơn:

Chưa bao giờ mà con người trên khắp thế giới lại ăn gian, nói dối như ngày nay. Dối gian tràn ngập khắp nơi, từ Bắc Kinh, Thiên An Môn, Hồng Kông, Hà Nội và Bình Nhưỡng cho tới Tehran, Crimea, Ðông Ukraine và Damascus, những nơi mà tội ác luôn được che giấu, với những biện pháp trừng phạt kẻ ác luôn bị hai thành viên nòng cốt trong Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, là Nga và Trung Cộng, cấu kết nhau mà dùng quyền phủ quyết xóa bỏ, khiến cho những cuộc xung đột và tranh chấp quyết liệt như tại Ukraine và Biển Ðông không thể nào được giải quyết bằng sự đồng thuận của quốc tế. Cứ nhìn tình trạng hàng hóa giả, thiếu phẩm chất và độc hại tràn lan trên thị trường quốc tế hiện nay thì đủ biết con người bây giờ chẳng còn muốn làm ăn chân chính như xưa nữa. Một lần nữa, “honesty” chẳng phải là “the best policy” như con người xưa nay vẫn được dạy bảo, cho nên hễ ai thành thật thì người đó hoặc quốc gia đó chỉ có nước ngồi chờ tai họa kéo đến mà thôi.

Thế giới nham hiểm hơn:

Các quốc gia ngày càng sản xuất ra những con người nham hiểm, như những kẻ dùng thế mạnh của mình để xâm lấn lãnh thổ và biển đảo của các quốc gia nhỏ yếu hơn, hoặc dùng chiêu bài trữ nước làm đập thủy diện trên thượng nguồn những dòng trường giang để làm áp lực với những nước ở hạ nguồn nhằm bắt bí và buộc họ phải chìu theo ý muốn của mình. Ðó là trường hợp Trung Cộng đang dần dà lấn chiếm hết Biển Nam Hoa, tức Biển Ðông, đồng thời ngăn dòng chảy của Sông Mekong - mà Trung Cộng gọi là Sông Lan Thương - để làm áp lực chính trị đối với các nước láng giềng, từ Miến Ðiện, Lào cho tới Thái Lan, Căm Bốt, và nhất là Việt Nam. Những đòn nham hiểm để chiếm đất của Nga tại Georgia (2008) và Ukraine (2024) cũng như của Trung Cộng tại Tây Tạng từ 1950 đến nay coi như không có một thế lực nào trên thế giới ngăn chặn được.

Thế giới phản phúc hơn:


Sau sự phản bội giữa đồng minh với đồng minh trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam trong hai thập niên 1960 và 1970 của thế kỷ trước, con người dường như ngày càng phản phúc hơn, cụ thể là việc Trung Cộng đã “ăn cháo, đá bát” khi dùng những miếng võ hiểm hóc và những đòn chí tử trên mọi lãnh vực để đánh lại ân nhân Mỹ quốc, kẻ đã từng hy sinh luôn đồng minh Việt Nam Cộng Hòa và lờ đi chuyện đầu tư kinh tế vào Nga thời hậu Liên Xô để dắt đưa Trung Quốc vào chỗ hùng cường như ngày nay. Nhiều nước Âu Châu, sau Thế Chiến Thứ Hai, cũng đã quên ơn Mỹ quốc đã giúp họ phục hồi, qua Kế Hoạch Marshall (1948-51), khỏi những tàn phá của chiến tranh mà tiến tới chỗ thịnh vượng để hùa theo Cộng Sản Bắc Việt mà chống Mỹ trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam trước đây. Các ví dụ gần đây nhất cón bao gồm việc các nước Âu Châu đã về phe với Trung Cộng trong ý đồ loại bỏ đồng đô-la Mỹ ra khỏi vị thế thứ tiền tệ giao dịch chính của thế giới, cụ thể hơn là bất chấp lời khuyên can của Hoa Kỳ mà đua nhau gia nhập Ngân Hàng Ðầu Tư Hạ Tầng Á Châu, gọi tắt là AIIB, do Trung Quốc chủ trì cũng chỉ với mục đích làm suy yếu nước bạn đồng minh Mỹ lâu đời của họ (mà không biết rằng, rồi đây, họ sẽ sống với ai?)

Thế giới vô liêm sỉ hơn:


Chưa hết, thế giới ngày nay còn vô liêm sỉ hơn thế giới ngày xưa nữa, khi, chỉ vì mãnh lực của đồng tiền, các công ty và xí nghiệp từ Hoa Kỳ đến Âu Châu đã đua nhau đem tiền đầu tư vào Trung Cộng, biến quốc gia này từ nền kinh tế thứ mười mấy của thế giới trở thành nền kinh tế thứ nhì của thế giới, với triển vọng sẽ vượt luôn cả nền kinh tế Hoa Kỳ để chiếm lĩnh địa vị Số Một thế giới. Những vụ nhịn nhục của các cường quốc Tây Phương trước những hành động phi pháp và đe dọa an ninh thế giới của Bắc Hàn (thử bom nguyên tử và hỏa tiễn tầm xa), Syria (sử dụng vũ khí hóa học) và Iran (bí mật chế tạo võ khí nguyên tử) từ cả chục năm nay cũng cho thấy cái vô liêm sỉ của nhiều quốc gia khi cứ giả điếc, làm ngơ trước những vi phạm luật lệ quốc tế của các nước thuộc loại ma quỷ kia chỉ để trục lợi. Ðó là chưa kể đến cái vô liêm sỉ của giới cầm quyền tại các nước cộng sản ngày nay trên thế giới khi họ vẫn cứ khư khư ca tụng và bám víu vào một chủ nghĩa mà họ thừa biết là vừa vô nhân đạo vừa lỗi thời chỉ vì mục đích muốn củng cố quyền lực để tiếp tục cai trị và tham nhũng trên đầu, trên cổ của người đồng chủng mãi mãi.

Thế giới vô thần hơn:


Mối lo lắng lớn lao nhất của các vị Giáo Hoàng thời nay tại Tòa Thánh Vatican vẫn là tình trạng nhân loại đang ngày càng vô thần hơn, bởi vì cái Ác luôn thắng cái Thiện trong sự vắng bóng một cách lạnh lùng của Thiên Chúa, Ðấng quyền năng mà theo kinh điển thì luôn thưởng, phạt công minh. Ngay tại nước Mỹ giàu có nhất thế giới hiện nay, số tín đồ bỏ đạo và không chịu đi nhà thờ cũng ngày càng gia tăng, và ảnh hưởng của Ki-tô Giáo nơi đây đang ngày càng sụt giảm, đến độ những câu thề, những lời nguyện truyền thống hướng đến Chúa Ki-tô từ thời lập quốc đến nay cũng đang dần dà bị xóa bỏ trước những vụ kiện do những kẻ vô thần khởi xướng, khiến người ta đâm ra lo lắng vì chưa biết câu “In God We Trust” được in khắc trên đồng bạc của Mỹ có còn tồn tại được thêm nữa hay không. Những cuộc giết tróc lạnh lùng của quân khủng bố, dù thuộc tôn giáo nào đi nữa, cũng nói lên một điều là loài người ngày nay chẳng hề biết kính sợ Thượng Ðế hoặc lo sợ bị quả báo, bởi vì họ không hề tin tưởng vào sự hiện hữu của Ðấng Tối Cao, mặc dù có thể họ vẫn nhân danh tôn giáo mỗi khi ra tay hành động.

Thế giới ham mê vật chất hơn:

Khỏi cần phải nói, chưa thời đại nào trong lịch sử hằng chục nghìn năm của nhân loại mà con người lại ham mê vật chất nhiều như bây giờ. Bởi vì chủ nghĩa vật chất (materialism) vốn là cùng đích của cả tư bản lẫn cộng sản, hai chủ nghĩa kình địch nhau quyết liệt từ thế kỷ 19 tới bây giờ, con người thời nay tôn sùng vật chất là điều cũng dễ hiểu thôi. Chưa bao giờ mà đồng tiền lại ngự trị thế gian một cách vững chãi như ngày nay, bằng chứng là bất cứ cường quốc nào, dù tàn ác đến đâu, hễ có tiền tung ra viện trợ cho nước khác là tức khắc được các nước nghèo đói này nghe theo răm rắp, bảo gì làm nấy, làm quấy cứ khen hay. Ðiều lý thú là khi Hoa Kỳ, kẻ tôn sùng vật chất hạng nhất, nhì thế giới, đem chủ nghĩa vật chất ra để mồi nhử Cộng Sản Trung Hoa những mong quốc gia này sẽ trở thành ham mê vật chất phồn hoa mà từ bỏ chủ nghĩa cộng sản nghèo đói, ai dè Trung Cộng lại tương kế, tựu kế, kết hợp cái độc tài đảng trị của Cộng Sản vào chủ nghĩa vật chất của tư bản Tây Phương để tạo nên một nước Cộng Sản vừa giàu có về tiền bạc mà cũng vừa hùng mạnh về quân sự trên đường chinh phục thế giới, với tham vọng đánh sập cả siêu cường Hoa Kỳ lẫn các cường quốc cấp miền, như Nhật Bản và Ấn Ðộ.

Thế giới vô đạo đức hơn:

Sau hết, thế giới đang ngày càng vô đạo đức hơn, hậu quả trực tiếp của sự thể cộng đồng nhân loại không còn tin tưởng vào sự hiện hữu của Thượng Ðế cùng quyền năng thưởng, phạt công minh của Ðấng Tối Cao cũng như vào thuyết luân hồi và nhân quả (của Phật Giáo) nữa. Vì con người trong thời đại này chỉ ưa chuộng cái bề ngoài hoa mỹ để gạt gẫm nhau mà thôi, cho nên cái phần đạo đức thâm sâu trong trái tim và bộ óc của con người khô
thuytrieu
Posts: 90
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:09 pm
Contact:

Post by thuytrieu »

Biển Ðông đỏ máu và nước mắt
Ngô Nhân Dụng
Trên mạng Anh Ba Sàm, Tuấn Khanh nhìn thấy: “...những con cá chết nằm dọc bờ biển Việt Nam như những xác người...” Vụ cá chết trôi lên bở biển suốt mấy tỉnh phía Bắc miền Trung là một đại họa cho môi trường sống, ảnh hưởng tới hàng triệu người dân. Một bản “Tuyên Bố về Tội Ác đầu độc Biển Miền Trung Việt Nam” hôm qua đã được 600 người, trong và ngoài nước ký tên, lên án chính quyền Cộng Sản “vô trách nhiệm, vô cảm và bất chấp lợi ích quốc gia, bất chấp cuộc sống của người dân...”

Trước ảnh nước biển bị ô nhiễm mang mầu đỏ lan dần dần từ Hà Tĩnh vào đến bờ biển ở Huế, Ðà Nẵng, nhiều người đã nhìn thấy một “Biển Ðông chảy máu!” Nhưng nói tới Biển Ðông bây giờ, không người Việt Nam nào không nghĩ tới cuộc xâm lăng do Cộng Sản Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Trung Cộng đang đe dọa thôn tính tất cả vùng biển Ðông Nam Á, trong đó có hàng trăm hòn đảo và bãi đá ngầm thuộc Quần Ðảo Trường Sa mà người Việt Nam vẫn còn giữ được. Những cuộc xâm lăng biển đảo liên hệ với vụ tàn phá môi trường sống mới xảy ra hay không? Từ đầu, dư luận đã nhắm vào một công ty Ðài Loan, mang tên Formosa, làm nhà máy gang thép trong vùng Vũng Áng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Muốn quy kết trách nhiệm cho công ty Formosa phải chờ các cuộc thử nghiệm và điều tra kỹ thuật, nhưng đằng sau công ty Formosa đã có bóng dáng chính quyền Cộng Sản Trung Quốc!

Mạng VietNamNet đăng một bài trên Dân Việt, với tựa đề: “Vũng Áng thành 'lãnh thổ' Trung Quốc!” Formosa nằm trong khu vực Vũng Áng.

Tại sao Vũng Áng được coi là thuộc ‘lãnh thổ’ Trung Quốc? Vì chính quyền Cộng Sản Việt Nam không được vào kiểm tra trong khu vực đó. Ông Phạm Khánh Ly, vụ phó Vụ Nuôi Trồng Thủy Sản, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tuyên bố: “Ðoàn công tác không vào kiểm tra tại khu công nghiệp Vũng Áng vì đây là khu công nghiệp có yếu tố nước ngoài, đoàn công tác không có thẩm quyền, chức năng kiểm tra tại khu vực này.” Muốn vào Vũng Áng, ông Ly nói “cần thành lập đoàn công tác liên ngành, có chỉ đạo của thủ tướng thì mới tiến hành kiểm tra được.” Bài báo đánh dấu hỏi: “Hàng chục nghìn người Trung Quốc có ‘quyền’ tự do vào Vũng Áng, nhưng Việt Nam thì không được vào?”

Con số “hàng chục ngàn” là phỏng đoán. Bài báo trên Ðất Việt cho thêm chi tiết: “Theo báo cáo của ban quản lý khu kinh tế Hà Tĩnh), tính đến tháng 9 năm 2014, tổng số lao động nước ngoài tại khu kinh tế Vũng Áng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) là 5,321 người (trong đó lao động Trung Quốc là 3,680 người). Có hơn 3,000 lao động Trung Quốc không có giấy phép đang làm việc tại Formosa. Tuy nhiên, lãnh đạo... Hà Tĩnh... không nắm được số lượng lao động Trung Quốc trên địa bàn là bao nhiêu vì Ban Quản Lý Khu Kinh Tế được quyền cấp phép lao động trực tiếp.” Sở Lao Ðộng Hà Tĩnh cũng không có đủ người để đếm con số lao động Trung Quốc, nếu Formosa không báo cáo thì họ cũng không biết là bao nhiêu! Nhà báo Tuấn Khanh cũng ước tính: “Số lượng công nhân Trung Quốc lên đến 10,000 người.”

Ông Tuấn Khanh cho biết thêm, “trên trang web mang tên Trần Ðại Quang, tên của chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, cho biết hệ thống đó (Formosa) hoàn toàn là Trung Quốc.” Ông dẫn chứng một công văn của công ty Hưng Nghiệp Formosa gửi cho chính quyền tỉnh Hà Tĩnh thì “trong số 28 công ty nhà thầu làm việc cho Formosa, đã có đến 25 công ty Trung Quốc (không phải Ðài Loan), chỉ có 3 công ty thầu của người Việt Nam.” Tại sao nhiều công ty Trung Quốc được trúng thầu như vậy?

Formosa là một tập đoàn nhiều công ty ở Ðài Loan; hoạt động trong rất nhiều lãnh vực. Họ có những công ty trong ngành hóa chất (Formosa Chemicals & Fibre), chất dẻo (Formosa Plastics), vận tải (Formosa Transportation), sản xuất dụng cụ (Formosa Tools), cho tới ngành điện tử (Formosa Microsemi co., Formosa Micro-Electronic). Tất nhiên họ có làm ăn lớn với nước Trung Hoa Cộng Sản và cần bảo vệ quyền lợi của họ ở lục địa hơn là ở nước ta.

Formosa đầu tư hàng chục tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam. Nếu làm ăn theo lối các xí nghiệp tư bản Ðài Loan bình thường thì chắc họ sẽ không dám làm bậy, không đem thải chất độc vào vùng nước ven biển. Một công ty tư bản làm ăn lâu dài, với hợp đồng 70 năm, thường lo bảo vệ thanh danh, không vì một món lợi nhỏ mà để rủi ro bị tố cáo đầu độc môi trường; trước sau cũng có ngày bại lộ.

Công ty này đã phản ứng nhanh chóng, hơn cả chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Họ sa thải ngay ông Chu Xuân Phàm, và ban giám đốc đã họp báo, nghiêng mình, cúi đầu xin lỗi về những lời tuyên bố thách thức dân Việt Nam của viên phó phòng đối ngoại này. Nếu muốn bảo vệ thanh danh, công ty Formosa Hà Tĩnh hãy bỏ tiền mở cuộc điều tra và trắc nghiệm nước biển trong cả vùng bị ô nhiễm, để biết đích thực nguồn gốc đại nạn này do đâu mà sinh ra. Do ống dẫn chất thải của công ty Formosa hay do các nguồn gốc khác, ngoài tầm kiểm soát của Formosa? Cuộc điều tra này phải do một công ty quốc tế thực hiện, chi phí do công ty mẹ Formosa ở Ðài Loan trả. Ngay cả khi Formosa tự biện hộ rằng đường ống dẫn chất thải của họ đã được chính quyền Việt Cộng chấp thuận từ đầu tới cuối, thì nếu đó là nguồn gốc tai họa môi trường, chính công ty Formosa cũng vẫn chịu trách nhiệm. Là một đại công ty quốc tế, họ phải biết chất nào là chất độc và không có quyền dựa trên giấy phép của một chính quyền tham nhũng, ô trọc mà làm hại loài người, dù đó là giống dân Việt Nam bất hạnh nằm dưới một chế độ độc tài Cộng Sản!

Nhưng khi làm ăn, Formosa cũng thừa biết có thể dựa vào ảnh hưởng chính trị của Trung Cộng trên đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông Chu Xuân Phàm (Chou Chun Fan) nói giỏi tiếng Việt, chắc đã làm việc với cả các nhà thầu Trung Cộng và quan chức Việt Cộng. Do đó biết rõ mối tương quan quyền thế giữa hai bên, ông ta suy nghĩ, nói năng dựa theo những gì nhìn thấy trước mắt đó. Ông có thể nghĩ rằng nếu các nhà thầu Trung Cộng vi phạm luật lao động hay luật lệ bảo vệ môi trường sống của dân Việt thì chắc sẽ có chính quyền Trung Cộng lo che chở. Trong mối tương quan Trung Cộng và Việt Cộng này, các cấp chính quyền Việt Cộng phải chờ “có chỉ đạo của thủ tướng thì mới tiến hành kiểm tra được” trong vùng Vũng Áng.

Vậy ông thủ tướng Việt Nam làm gì trong mấy tuần qua?

Không thấy làm gì cả. Một vụ tàn phá môi trường sống của mấy chục triệu người dân đã bắt đầu từ đầu Tháng Tư, mấy tuần sau mới có người giữ chức thứ trưởng tới nơi và họp báo nhanh trong chớp mắt! Ai cũng thấy có thể so sánh với hành động của chính phủ Nhật Bản sau trận động đất mới đây. Nghe tin có động đất, ông thủ tướng đã chạy ngay tới văn phòng, làm việc, thức suốt đêm điều động việc cứu cấp của chính quyền trung ương và địa phương. Ông bay tới ngay nơi bị nạn, khi gặp gỡ dân chúng thì ông quỳ gối dưới sàn nhà trước các nạn nhân ngồi trên ghế; hình ảnh này đã được truyền trên các mạng Internet tại Việt Nam.

Bản Tuyên Bố của 600 nhà trí thức Việt Nam đã lên án cảnh “bất lực của cả một hệ thống quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương trước một đại nạn quy mô lớn của quốc gia,...” Người không phải chính quyền chỉ bất lực, Bản Tuyên Bố viết tiếp: “Người dân càng phẫn nộ trước phát ngôn hàm ý bao che cho nghi phạm, đánh lừa, xoa dịu dư luận của một số quan chức cấp bộ và tỉnh, (và) trước hành vi hết sức khó hiểu của người đứng đầu đảng Cộng Sản - đã đến thăm nghi can số một (công ty Formosa), thay vì thăm hỏi người dân bị nạn, đúng vào thời điểm mọi mũi dùi công luận chĩa hết vào nghi can ấy.” Nếu Formosa là thủ phạm chính gây ra đại họa môi trường này, dân Việt Nam phải lên tiếng khắp thế giới, gây ra một phong trào quốc tế cùng tẩy chay đại công ty danh tiếng này. Ðó là cách phản đối duy nhất của những người thấp cổ bé miệng phải sống dưới ách độc tài đảng trị.

Ba hiện tượng, “cá chết trên bãi biển miền Trung,” “công nhân Tàu không giấy phép tràn ngập,” và “Trung Cộng lộng hành trên Biển Ðông,” đều dính dáng với nhau và bắt nguồn từ một đầu mối: Quan hệ giữa hai đảng Cộng Sản, Việt Cộng lệ thuộc Trung Cộng. Nhân ngày 30 Tháng Tư, người Việt Nam càng phẫn nộ trước cảnh một chính quyền nô lệ ngoại bang!

Chính vì đảng Cộng Sản Việt Nam lệ thuộc Trung Cộng từ năm 1950 đến nay nên “cơn hồng thủy Biển Ðông” mới xảy ra. Dân Việt Nam phải hỏi tội chính quyền Cộng Sản trước hết. Bởi vì đại họa môi trường này là do chế độ độc tài đảng trị gây ra. Ngoài Vũng Áng, còn bao nhiêu vùng khác cũng đang bị nhiễm độc, từ chất phế thải của các công trường Trung Cộng đang khai thác, trong đó có các vùng mỏ Bô Xít cũng đang “đẫm máu đỏ.”

Bản Tuyên Bố của 600 nhà trí thức kết luận: “Người dân Việt Nam quyết không chấp nhận những kẻ cầm quyền ngu dốt, tham lam, bán rẻ dân tộc vì lợi lộc, tham vọng cá nhân và phe đảng” và “Người dân Việt Nam quyết không chịu chết thảm như những con cá nhiễm độc ở Biển Ðông!”

“...Những con cá chết nằm dọc bờ biển Việt Nam như những xác người...” Biển đã khóc thương những xác người và xác cá. Nước mắt đỏ chảy ngoài Biển Ðông vì dân Việt chưa được giải thoát khỏi chế độ độc tài “vô trách nhiệm, vô cảm, bất chấp lợi ích quốc gia, bất chấp cuộc sống của người dân...”
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Để tiêu diệt một dân tộc


Lê Minh Nguyên


Khi sinh tiền bà GS Sheri Rosenberg có viết “Diệt chủng là một tiến trình, không phải một sự kiện” (Genocide Is a Process, Not an Event. Bà cho rằng đó là một sự giảm thiểu từ từ sức sống của dân tộc đó về cả hai mặt chất lượng và số lượng (genocide by attrition).

Trong lịch sử loài người, diệt chủng đã xảy ra rất nhiều cho các dân tộc, tuy hoàn cảnh và đặc tính có khác nhau, nhưng nó có các điểm giống nhau như: (1) diễn ra trong bối cảnh thế giới ít quan tâm vì do một sự kiện lớn khác chiếm hết các băng tầng của truyền thông các nước, (2) muốn xoá bỏ, làm bạc nhược, hay đuổi dân tộc đó ra khỏi một vùng lãnh thổ, (3) chủ thể gây ra là một chính quyền hay một quốc gia ở tại thực địa hay ở ngoài thực địa, (4) xem sự hiện hữu hay sự hùng mạnh của dân tộc đó là một mối đe doạ, (5) xảy ra khi dân tộc đó không có khả năng để tự bảo vệ, (6) chủ thể gây ra thường nhân danh một lý tưởng, một chủ nghĩa, một tín ngưỡng, hay một sự tự vệ, (7) chủ thể gây ra thấy không có ai ở bên ngoài thực sự có khả năng can thiệp vào, (8) sự diệt chủng xảy ra trong một thời gian dài, không phải giết hàng loạt trong một vài lần, (9) sự diệt chủng không chừa một ai, dù đàn bà hay trẻ em.

Trong quá khứ ta thấy có khoảng 6 triệu người Do Thái bị Đức Quốc Xã sát hại từ 1933-1945, khoảng 1 triệu người Tutsi bị sát hại trong năm 1994 ở Rwanda bởi chính quyền người Hutu, khoảng 1.5 triệu người Armedian bị sát hại duới tay người Thổ Nhĩ Kỳ từ 1915-1923, khoảng 1.5 triệu người Cam Bốt dưới tay Pol Pot từ 1975-1979, hơn 1 triệu người Ái Nhĩ Lan chết đói 1846-1852 mà nguời Anh gián tiếp để cho xảy ra, nhiều triệu thổ dân ở Mỹ Châu bị chết vì bệnh đậu mùa (smallpox) do nguời Âu Châu đem sang cùng sự tàn sát nguời Inca và người Aztecs, chính quyền Úc từ 1909 đến thập niên 1970s chủ truơng tiêu diệt thổ dân bằng cách bắt cóc trẻ sơ sinh của họ,….

Việt Nam là nạn nhân của tiến trình này qua cả ngàn năm lịch sử, nó giảm tốc khi Việt Nam giành được độc lập, nhưng tăng tốc trở lại khi phong trào cộng sản thắng thế với quốc tế vô sản, và càng thảm não hơn khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CSVN lệ thuộc vào CS Trung Quốc nhiều hơn để tồn tại, mà Hội Nghị Thành Đô 1990 và hai thập niên sau đó là đỉnh điểm của sự thần phục.

Trung Quốc từ ngàn năm, do địa chính trị chéo ngoe thất thế, hoặc chỉ thu mình ở trung nguyên hay chỉ có thể tiến nam để bành truớng, nên xem VN là cái gai cần phải nhổ cho trống đường, cả bộ lẫn thuỷ. TQ xem sự hùng mạnh của VN là một mối đe doạ, cản bước TQ trong việc chế ngự Đông Nam Á với khoảng trên 600 triệu dân, với tài nguyên Biển Đông và đường vào Ấn Độ Dương để tiến đến Trung Đông và Phi Châu.

Nhưng tiêu diệt dân tộc VN thì rất khó mà ngàn năm lịch sử đã chứng minh. Vậy thì diệt chủng bằng một tiến trình từ từ và đa dạng là giải pháp mà họ có thể làm được, vừa hiệu quả vừa không gây ồn ào để dư luận thế giới quan tâm.

Ở Hội Nghị Geneva 1954, trong các cuộc đàm phán giữa các bên, TQ với thủ tuớng Chu Ân Lai luôn thúc ép phía Việt Nam chia đôi đất nước. Nhà sử học Nayan Chanda nhận xét: “Trung Quốc ủng hộ sự tồn tại của hai Việt Nam và nói chung mong muốn có một đa quốc gia tại biên giới của nó…”

Trong Chiến Tranh VN, TQ cung cấp súng đạn cho Miền Bắc xâm lăng Miền Nam, muốn cho huynh đệ tương tàn, TQ còn cho cả 170,000 quân TQ vào trấn giữ Miền Bắc để CSVN dốc toàn lực lượng xâm lăng Miền Nam. Một VN yếu và tan nát là một dạng của tiến trình tiêu diệt một dân tộc.

Khi Miền Bắc chiếm được Miền Nam năm 1975, những ngày trước khi MN sụp đổ, TQ không muốn có một VN thống nhất mà muốn tiếp tục duy trì hai thực thể, họ đã liên lạc với Toà Đại Sứ Pháp và với phía ông Dương Văn Minh trong ý định này, nhưng đã không thực hiện được vì biến cố xảy ra quá nhanh và ông DVM đi về hướng người em ruột của ông là Dương Thanh Nhựt phía CSVN, đang ngã hẳn về Liên Sô. Sử gia Dương Trung Quốc đồng ý với đánh giá của truyền thông quốc tế lúc bấy giờ là TQ muốn “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Ông nêu bật là, bất chấp sự chọc gậy bánh xe của TQ, CSVN năm 1975 đã thống nhất đất nước. Phản ứng sau đó của TQ là xúi giục lực lượng Khmer Đỏ của Pol Pot mở cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và xua quân đánh vào vùng biên giới phía Bắc VN năm 1979.

Để tiêu diệt một dân tộc, TQ sử dụng một tiến trình lâu dài và đa dạng: từ chia đôi đất nước, cung cấp súng đạn cho huynh đệ tương tàn, thừa cơ hội Hoa Kỳ rút quân để chiếm Hoàng Sa, thừa cơ hội CSVN chơi vơi trước sự suy tàn của Liên Sô và Đông Âu để chiếm Trường Sa, lợi dụng lúc CSVN sẽ té nếu không có họ chống lưng để tung ra đường lưỡi bò, xây đảo, chiếm thêm ngư trường, đưa thêm giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của VN hay vùng chồng lấn ở vịnh Bắc Bộ, xâm nhập nóc nhà VN qua việc khai thác bauxite, nơi có vị trí chiến lược và xả rác bùn đỏ, chiếm các khu rừng đầu nguồn, khống chế nước sông Mekong gây nhiễm mặn cái nôi nông phẩm và huỷ diệt tôm cá, núp sau Đài Loan xây dựng nhà máy thép Formosa Vũng Áng, nơi có vị trí yết hầu dễ cắt VN cả bộ lẫn thuỷ với chỉ khoảng 40 cây số đến Lào và 320 cây số đến căn cứ hải quân Du Lâm của TQ, làm nhiễm độc biển đưa chất độc vào hệ thống dây chuyền thực phẩm tàn phá sức sống dân tộc nhiều thế hệ về sau, nhập vào VN các thực phẩm và hoá chất độc hại, xây các nhà máy không an toàn gây ô nhiễm không khí hay nguồn nước từ Bắc đến Nam như nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân, Bình Thuận hồi tháng 4/2015, xây các phố Tàu khắp các tỉnh thành.

TQ từng lấy cớ mượn đường vào đánh Chiêm Thành đời nhà Trần để xâm lăng VN. Ngày nay việc mượn đường được thể hiện dưới hình thức đầu tư kinh tế. Thâm hụt thương mại với TQ năm 2015 là khoảng 35 tỷ đôla, số tiền khổng lồ này mà TQ móc được từ VN mỗi năm giúp TQ mượn đường vào VN bằng chi phí của VN.

VN đất hẹp dân đông, mật độ dân số được coi là quá cao, khoảng 270 người cho một cây số vuông, gấp 7 lần so với tiêu chuẩn thế giới. Cho nên để dọn con đường mòn tiến nam, họ vừa cho dân TQ vào sống xôi đậu chiếm các vị thế thượng phong, vừa huỷ hoại môi trường để bào mòn sức sống, đuổi người Việt đi nơi khác. Các khu phố Tàu nở ra từ sau Hội Nghị Thành Đô ở các tỉnh như Bắc Ninh, Quảng Ninh, Bình Dương… (bit.ly/1NI09nM) càng ngày càng mọc lên nhiều hơn.

Đảng CSVN lại không quan tâm gì đến môi trường, trong khi TQ đang dùng nó để tiêu diệt một dân tộc. Các nước như Đức, Áo, Bỷ, Ý, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ và cả Phi Luật Tân đang chủ trường giảm thiểu và loại bỏ hẳn điện hạt nhân. Các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Tây Ban Nha đang cắt xuống dần các nhà máy. Trong khi đó thì VN lại hồ hởi xây dựng ở Ninh Thuận. Nếu tai nạn xảy ra thì sức tàn phá môi trường sẽ vô cùng khủng khiếp. Rất nhiều các chuyên gia điện hạt nhân bên trong và bên ngoài VN hết sức lo lắng và lên tiếng báo động, nhưng CSVN bỏ ngoài tai vì xây dựng hàng tỷ đôla thì tiền bôi trơn tham nhũng sẽ khổng lồ cho họ. VN có bờ biển dài và vô cùng xinh đẹp, các nhà máy như Formosa hay điện hạt nhân sẽ lấy đi món quà thiên nhiên quý giá của dân tộc.

Các nước theo chế độ cộng sản có một điểm chung là xem rẽ sự sống của nguời dân trong nước. Họ xem dân là con vật để thí nghiệm trong việc họ thay Thượng Đế để cơ cấu lại xã hội con người (social engineering). Coi dân như cái đinh con ốc trong bộ máy cơ khí, có thể ném bỏ một cách vô cảm (expendable), hoàn toàn không có nhân vị. Chủ nghĩa cộng sản với ý niệm “đạo đức cách mạng” mà Lê Nin cổ xuý, dạy cán bộ phải biết xem rẽ đạo đức mà các tôn giáo lớn của nhân loại xiển dương để làm bất cứ điều gì có lợi cho đảng. Sự bạo tàn từ đó mà ra! Não trạng này ngày nay cũng còn di truyền sang hậu CS của chế độ Putin. CSVN là đàn em của cộng sản Liên Sô và Trung Quốc cho nên cũng không ngoại lệ. Sự kiện cá chết và môi trường sống bị tàn phá đã phơi bày rõ nét điều này.

Các nước theo chế độ cộng sản có một điểm chung thứ hai là “khôn nhà dại chợ”, hà hiếp và giết hại dân mình nhưng sợ ngoại bang, nhất là những ngoại bang có sức mạnh quân sự hay kinh tế. Lợi dụng tâm lý “dại chợ” này của CSVN mà TQ đã và đang xây hàng rào khoá các cửa biển của VN, khoá từ các nhà máy dọc bờ cho đến những chuỗi đảo ngoài khơi, khoá từ dưới nước lên đến trên không trung, biến VN thành con đường mòn Mao Trạch Đông ven biển để họ tiến nam.

Hiện tượng cá chết xuất hiện từ ngày 4/4 nhưng tứ trụ đều lặng thinh vô trách nhiệm. Mãi đến 22/4 TBT Nguyễn Phú Trọng mới đến Hà Tĩnh, nhưng không phải để hỏi thăm dân việc cá chết hay lo lắng môi trường mà để kiểm tra mô hình sản xuất nông nghiệp và tiến độ Dự án Formosa. CTN Trần Đại Quang thì chẳng thèm thăm dân của 4 tỉnh bị nạn, hôm 29/4 vào Đà Nẵng phát biểu “Tôi cũng rất ủng hộ có chính sách đặc thù cho thành phố, có chính sách đặc thù thì Đà Nẵng mới bứt phá đi lên được, nếu không có là rất khó.” Sự vô trách nhiệm cùng câu nói này cho thấy chế độ đã quá hư hỏng, chỉ nơi nào có ngoại lệ, có chính sách đặc thù như Đà Nẵng thì mới phát triển được.

Ông Chu Xuân Phàm, Giám đốc đối ngoại Công ty Formosa Hà Tĩnh hôm 25/4 trên kênh truyền hình VTC14 nói rằng “Nhiều khi mình không được cả hai thì mình phải lựa chọn. Tôi muốn bắt cá, bắt tôm hay là tôi muốn xây một cái nhà máy thép hiện đại”. Câu nói tuy nghe rất sốc, nhưng có vẻ không phải nói với dân mà là nhờ truyền thông chuyển qua cho Đảng, vì trong quá trình thành lập, Formosa không làm việc với dân mà làm việc với Đảng CSVN, dân hoàn toàn bị gạt ra bên lề. Tiền Formosa bôi trơn trám miệng thì lãnh đạo Đảng đã ăn và đã chọn nhà máy, vì vậy Đảng “khôn nhà dại chợ” nên biết phải làm gì để bảo vệ Formosa vì công ty có yếu tố nước ngoài.

Để tiêu diệt một dân tộc nó “là một tiến trình, không phải một sự kiện” như GS Sheri Rosenberg quan sát. Tiến trình này TQ lâu nay thực hiện cho dân tộc Việt Nam. Nó lâu dài và đa dạng, được tăng tốc bởi chế độ chính trị của nước nạn nhân. Chế độ khoá tay bịt miệng người dân, không cho đất nước có sức mạnh dân tộc, hai đảng cộng sản đàn anh và đàn em rù rì rủ rỉ với nhau trong bóng tối. Nó biến VN trước tiên là bãi rác, kế đến là con đường mòn nam tiến. Nó bào mòn sức sống của dân tộc và tàn phá một đất đước xinh đẹp mà thiên nhiên ban bố. Lối thoát là đâu? – Nó nằm trong sự thông minh và dũng cảm của dân tộc ta, cho dù đã một lần uống phải bùa mê thuốc lú của chủ nghĩa cộng sản nên còn dật dờ cảnh trí. Lịch sử ngàn năm đã chứng minh, sức sống của dân ta mãnh liệt, dân tộc này không để bị tiêu diệt mà sẽ tỉnh thức để vùng lên.

30/4/2016
© Lê Minh Nguyên

__._,_.___
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Chế độ Cộng Sản hấp hối
Ngô Nhân Dụng
Ba tuần sau khi dân Hà Tĩnh thấy những con cá chết giạt vào bờ biển, trước cảnh lúng túng, trống đánh xuôi kèn thổi ngược của chính quyền Cộng Sản, nhật báo Người Việt đăng tin: “Vụ cá chết: Hệ thống công quyền Việt Nam như 'sắp chết.'”

Nhà báo ở nước ngoài tỏ thái độ thận trọng nên dùng chữ “như sắp chết.” Nhiều người Việt trong nước thì thấy đó là sự thật chứ không còn “như” gì nữa: chế độ Cộng Sản là con bệnh bắt đầu hấp hối.

Một bệnh nhân trước khi chết tâm hồn khó được bình an, lời nói bất nhất và hành vi vụng về, lúng túng, thường vì suốt đời đã sống không lương hảo. Trong một tháng qua, guồng máy chính quyền Cộng Sản biểu hiện đầy đủ các triệu chứng hấp hối đó.

Nhà nước Cộng Sản để gần ba tuần lễ trôi qua trước khi có một hành động hay lời nói nào chứng tỏ họ... đang cai trị 90 triệu con người! Trong một quốc gia bình thường, khi nghe tin cá chết hàng loạt giạt vào bờ biển, thì các cơ quan phụ trách về ngư nghiệp, về môi trường sống, về kinh tế, xã hội, chỉ trong một, hai ngày đều có phản ứng ngay. Ở Việt Nam, thì khác.

Ðầu tiên, khi xuất hiện, các quan chức chỉ nói những điều hoàn toàn vô ích: Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã long trọng tuyên bố rằng thảm họa cá chết trắng biển “chỉ có một nguyên nhân,” là do “tác động của các độc tố thải ra từ hoạt động của con người.” Ðiều này thì cả nước ai cũng biết rồi! Những con cá chết đều vì độc tố, chứ chúng đâu có tự sát hàng loạt? Chỉ có con người thải độc tố, biển cả muôn đời có bao giờ giết cá hàng loạt như vậy đâu? Tuyên bố như các ông thì cũng không khác gì nói rằng “con cá chết vì nó không còn sống!” Những câu hỏi chính ai cũng thắc mắc, là “độc tố nào?” và “hoạt động của người nào?” thì không được nêu ra, cũng không ai trả lời. Ðó là tác phong một bộ trong chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Ðến khi bộ thứ nhì xuất hiện lên tiếng giải thích thì dân được nhìn thấy cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.

Bộ thứ nhì ra mắt công chúng nói ngược lại, bác bỏ “nguyên nhân duy nhất” trên! Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường giải thích, “nguyên nhân của việc cá chết hàng loạt ở vùng duyên hải miền Trung là do tảo nở hoa, tức là hiện tượng ‘thủy triều đỏ.’” Nghĩa là không có độc tố nào làm cá chết! Cũng không phải con người tạo ra, biển mới có tội! Giới chức trách nhiệm trong Hiệp Hội Nghề Cá Việt Nam vội vã cải chính ngay giả thuyết thủy triều đỏ. Họ nói rằng “từ ngày cá bắt đầu chết cho đến nay, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy vùng biển dọc các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế có thủy triều đỏ.” Những dấu hiệu khi có thủy triều đỏ mà người trần mắt thịt nào cũng thấy được là: rong rêu (tảo) mầu đỏ trôi trên mặt biển. Nhưng không ai thấy. Tức là ông thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường nói láo. Nói láo trắng trợn, bất chấp hàng triệu đôi mắt của hàng triệu con người sống bên bờ biển bốn tỉnh miền Trung!

Người ta sẽ nói: Ðảng Cộng Sản vốn dĩ chuyên dối trá, lừa gạt người dân, hành động nói láo lần này không có gì mới lạ. Ðúng là họ quen nói láo xưa nay, nói láo lần nữa cũng do thói quen tự nhiên. Nhưng xưa nay họ nói láo rất tài, nói trắng thành đen, đen ra trắng mà nói khéo đến nỗi một nửa dân cả nước bị lừa. Chỉ có một điều mới, khá lạ, là sao lần này họ nói láo ngu ngốc và vụng về đến thế? Nói đến hiện tượng thủy triều đỏ vì rong biển sinh sôi bành trướng thì đứa trẻ lên tám cũng biết rằng nói xong người khác có thể kiểm chứng ngay, không cách nào giấu giếm được! Tại sao một viên thứ trưởng lại dại dột nói đại ra như vậy? Ông ta chỉ là một bộ phận trong cái cơ thể đang hấp hối, là đảng Cộng Sản Việt Nam, cái cơ thể đó không kiểm soát được cái lưỡi nữa rồi.

Cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược hiện ra cả tại cấp địa phương, tức là những người gần gũi với tai họa và các nạn nhân của tai họa. Một số cơ quan thấy cá chết hàng loạt đã khuyến cáo chính quyền các địa phương ngăn chặn không để dân ăn cá hay mua bán cá, dù cá còn sống. Ðiều này dễ hiểu, không phải chỉ có những con cá chết mới nhiễm độc, tất cả các sinh vật trong vùng Biển Chết Chóc này đều nhiễm độc, ăn vào người ta sẽ bị nhiễm độc!

Nhưng cùng lúc đó có nhiều quan chức khác lại khuyên dân cứ ăn cá, không sợ chết! Họ còn khuyên dân tiếp tục tắm biển, sau khi một thợ lặn chết bất ngờ và năm thợ lặn khác vào bệnh viện cấp cứu, với các dấu hiệu cho thấy họ đều bị nhiễm độc. Trên đảo Hòn Gió, tỉnh Quảng Bình, cách nhà máy thép của tập đoàn Formosa, nơi khởi đầu của thảm họa cá chết khoảng 20 hải lý, chim cũng chết hàng loạt. Những con chim này chắc đã ăn cá, ăn tôm trong vùng Biển Chết Chóc, dù đó là tôm cá còn sống!

Mấy ông lớn địa phương còn biểu diễn đi tắm biển, đi ăn cá, để lòng dân bớt hoang mang! Trông thấy cảnh đó, toàn dân Việt Nam chỉ muốn mời tất cả quý quan trong Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng đến tắm biển ở Hà Tĩnh, Quảng Bình suốt một tháng trời, để dân được yên lòng hơn! Có lẽ tất cả các đại biểu trong quốc hội bù nhìn cũng nên theo các quan trên đi tắm và ăn cá, thì lòng dân càng vui hơn nữa. Ðặc biệt là trong cả tháng qua không thấy một đại biểu nào hó hé nói một câu, kể cả các đại biểu của người dân Hà Tĩnh, Quảng Bình!

Việc nói năng dành cho quý vị quan chức đảng và nhà nước! Người dân được chứng kiến thêm nhiều hoạt cảnh ông nói gà bà nói vịt. Ngay sau khi một ngư dân phát giác “đường ống khổng lồ” dài 1.5 cây số, đường kính hơn một mét, dẫn nước thải từ Formosa Hà Tĩnh thuộc khu kinh tế Vũng Áng ra biển, một thứ trưởng Bộ Tài Nguyên-Môi Trường tuyên bố ông không hề thấy bất ngờ về sự hiện diện của ống cống khổng lồ này, vì chính Bộ này đã cấp giấy phép cho công ty Formosa Hà Tĩnh.

Ðến khi cảnh cá chết hàng loạt diễn ra, Bộ Trưởng Trần Hồng Hà của Bộ Tài Nguyên-Môi Trường nói ngược lại: Bộ ông không cho phép Formosa đặt ống dẫn nước thải ở đáy biển! Ý ông thanh minh: cho đặt ống cống, nhưng phải đặt ở trên mặt biển! Thế rồi ông Trần Hồng Hà yêu cầu Formosa phải nâng ống dẫn nước thải lên khỏi mặt nước! Nói mà không hề suy nghĩ! Ống cống ở trên mặt nước chỉ dài cây số rưỡi, khi đổ nước thải ra thì nó đổ vào đâu? Nước thải chảy xuống biển rồi nó cứ thế chạy thẳng... sang Tàu, hay là nó vẫn quanh quẩn trong biển Việt Nam? Chưa kể, bây giờ nâng ống cống lên, những cái cột chống đỡ nó sẽ làm cho ngư dân bị cản trở, hết đường qua lại, kiếm sống!

Hoạt cảnh bi hài nhất là cuộc họp báo của Bộ Tài Nguyên-Môi Trường ba tuần lễ sau khi phát hiện ra tai họa này. Họ kêu báo chí đến họp, để nghe giải thích nguyên nhân gây tai họa cá chết.

Trưa ngày 27 tháng 4, gần 150 phóng viên kéo đến chờ nghe. Nhưng các nhà báo chưng hửng, vì cuộc họp báo bị hủy bỏ! Nghe người ta chửi đã đời rồi các quan bèn nói lại: Họp báo chỉ hoãn tới bảy giờ tối! Các nhà báo quay lại họp. Ðến tám giờ tối, một ông thứ trưởng bước vào phòng họp, ông giải thích một điều ai cũng biết rồi như đã kể trên: Cá chết vì chất độc do người tạo ra! Bộ Tài Nguyên-Môi Trường còn xác định họ chưa tìm thấy bằng chứng nước thải từ Formosa khiến nước biển nhiễm độc! Hóa ra, cuộc họp báo chỉ cốt “giải oan” cho Formosa! Ðọc xong hai trang giấy, mất tất cả bảy phút, ông thứ trưởng vội vàng rút lui, không cho ai hỏi một câu nào! Sau đó ông còn đe dọa một phóng viên rằng không được nói những câu “gây tổn hại cho đất nước của mình!” Họa chăng gây tổn hại cho đảng ông và đồng chí anh em Trung Cộng của đảng!

Một con bệnh đang hấp hối tâm hồn thường hoảng loạn, nếu trong cuộc đời đã làm những việc trái với đạo lý, thất đức, ngược với lương tâm. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đang lộ ra những triệu chứng bất thường đó. Những cuộc biểu tình của hàng ngàn dân Việt từ ngày 28 tháng 4, tại làng biển Cảnh Dương tỉnh Quảng Bình, rồi từ Hà Nội vào đến Sài Gòn trong ngày 1 tháng 5, 2016, là những dấu hiệu cho thấy cơn hấp hối này sắp chấm dứt, con bệnh không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần!
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

Image

Cá Chết Hàng Loạt: Tội Của CS

Vi Anh

Vụ cá chết hàng loạt, tấp vào bờ biển bốn tỉnh miền Trung Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế dài 250 km, suốt mấy tuần gần đây không chỉ là một đại hoạ ô nhiễm môi sinh do sản xuất kỹ nghệ gây ra, mà đó còn là một quốc gia đại sự nói lên tội lỗi của Đảng Nhà Nước CSVN, làm “kinh tế kinh thế” tăng gia kinh tế với bất cứ giá nào nhưng thiếu những biện pháp bảo vệ môi sinh, bảo vệ quyền lợi của dân chúng, an ninh lãnh thổ VN trong vùng kỹ nghệ mà ngoại quốc xin lập cơ sở.

Một, không phải chỉ ở khu kỹ nghệ Vũng Áng ở Hà tĩnh gây tai họa cho bốn tỉnh Miền Trung Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế, mà đại hoạ ô nhiễm môi sinh đang chực chờ nhiều miền ở VN vì chiến lược tăng sản xuất kinh doanh bất cứ giá nào của Đảng Nhà Nước CSVN. Số tiền Đảng Nhà Nước thu vô được mấy năm nay từ khu Kỹ Nghệ Vũng Áng ở Hà Tĩnh không biết bao nhiêu, nhưng chắc chắn số tiền thiệt hại mà dân chúng 4 tỉnh này phải chịu dài dài, số tiền để giải độc vùng biển của 4 tỉnh mất nhiều năm và nhiều tiền, cao hơn số thu vào nhiều. CSVN nếu chịu khó một chút nhớ lại lời của một nhà khoa học Liên xô đã từng nói hậu quả vô cùng tai hại so với thu hoạch của cái kiểu sản xuất “duy ý chí” của Liên sô CS: bắn vào thiên nhiên một phát súng trường, thiên nhiên sẽ trả lại một tràng trọng pháo.

Bên TC chiến lược sản xuất “duy ý chí” của những người CS đã làm cho thủ đô Bắc Kinh số ngày khói bụi, khí thải làm mù mịt thành phố nhiều hơn những ngày trời trong. Chống ô nhiễm môi sinh trở thành đề tài dân chúng chống Đảng Nhà Nước và các đại công ty khắp thành phố lớn nhỏ của TQ.

Ở Miền Bắc, tin cho biết Hà Nội, nạn ô nhiễm thuỷ ngân trong không khí vô cùng nguy hiểm đang tăng. Khoảng 6 tuần vào đầu tháng 3/2016, chỉ số AQI ở Hà Nội có lúc lên đến 388 - mức ô nhiễm rất nặng, cao nhất trên thang đánh giá. Mức này, các nhà khoa học khuyến cáo mọi người nên ở trong nhà. Thủy ngân trong không khí là loại cực độc bởi vì khi hít phải khí có chứa thủy ngân, thủy ngân sẽ len lỏi vào các mô, những nơi có chứa chất nhày nhày như ở phổi và nó sẽ kích thích đường hô hấp dẫn đến ho húng hắng, ho ra đờm, khó thở, da có thể tím tái do thiếu ôxy. Còn ngộ độc thủy ngân cấp tính dễ chết người. Phụ nữ mang thai hít phải thủy ngân phát tán trong không khí, chúng có thể xuyên qua cuống nhau để lọt vào tử cung, gây hại cho cả thai nhi.

Hai, tổ chức kiểm soát môi sinh của CSVN chẳng những quá yếu về chuyên môn mà còn không thành thật với dân chúng nữa. Các nhà đầu tư ngoại quốc khinh thường họ và qua mặt vù vù vì quá dễ mua chuộc. Tin báo Tuổi Trẻ ngày 25/4, ông Chu Xuân Phàm phụ trách đối ngoại của Công ty Luyện Gang Thép của Đài Loan nói một cách xách mé: "Hồi xưa, khi giải phóng mặt bằng đã tính phương án hỗ trợ ngư dân đánh bắt cá chuyển sang nghề khác rồi, sao cứ phải đánh bắt quanh vùng biển này. Nhiều khi mình phải lựa chọn, tôi muốn bắt cá, bắt tôm hay muốn xây dựng ngành công nghiệp thép".

Còn dàn cán bộ đảng viên CS và chuyên viên có chức có quyền, thứ trưởng, giám đốc, chuyên gia thì quá dở, sợ trách nhiệm, không thành khẩn với dân, làm việc thập thò khiến người dân và báo chí bất mãn và nghi có nhận tiền chạy tội của công ty Formosa.

Thử hỏi dân chúng làm sao tin họ được khi mà ô nhiễm chết cá, chết người sờ sờ ra đó, mà họ quan liêu, họp hội nghiên cứu lê thê biến đại họa của dân thành ngâm cứu, như để lâu cứt trâu hoá bùn vậy. Trước cơn dầu sôi lửa bỏng của dân chúng, nào cá nuôi trong bè, cá nước cạn, cá nước sâu chết tấp vào bờ trắng bãi; nào hai công nhân chắn sóng biển bị nhiễm độc chết, một số khác ngất ngư, người thợ lặn phát giác ông xả nước thải của Formosa lớn dài cả 1500 m ra biển vắng mặt một cách khó hiểu; nào có bằng cớ Formosa đã mua 300 tấn hóa chất về súc rửa đường ống; thế mà cán bộ đảng viên tai to mặt lớn về môi trường và ngư nghiệp họp kín gần 3 tiếng đồng hồ, mới ra họp báo. Cả trăm phóng viên chầu chực để biết nguyên do tai hoạ xảy ra từ đầu tháng tư, gần một tháng trời sau, họ chỉ họp báo chỉ 5 phút. Họ tuyên bố, chưa thấy liên hệ của công ty Formosa với nạn cá chết, có lẽ do ảnh hưởng của tảo đỏ nở hoa gọi là thuỷ triều đỏ hay ảnh hưởng do con người trên bộ, quá phức tạp chưa biết.

Thế là từ đầu tháng Tư đến gần cuối tháng Tư cá tiếp tục chết tấp vào trắng bờ, có tin lan ra gần tới Đà nẵng rồi và có thể toả ra tới bờ biển Miền Nam. Dân Miền Trung không dám ăn cá biển, là món ăn cơm bữa của đồng bào. Đồng bào giành nhau mua muối, sợ nước biển nhiễm độc làm muối ăn nguy hiểm tánh mạng. Du khách mua tua du lịch Miền Trung trả lại. Các nơi không đặt hàng mua nước mắm, khô Miền Trung vì sợ làm từ cá chết vì nhiễm độc.

Chỉ có Tổng Bí Thư Nguyễn phú Trong đi công tác đảng trong vùng cá chết, vô tình, vô cảm, không có một lời chia xẻ niềm đau nỗi khổ của dân và thúc đẩy Nhà Nước cứu trợ dân và sớm tìm nguyên nhân.

Dân chúng VN chịu hết nổi phải sự chậm trễ, bất lực của Đảng Nhà Nước CS đã cùng nhau biểu tình ở Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vũng Tàu, v.v... cũng như tại các tỉnh vào buổi sáng ngày 1 tháng 5 năm 2016 để vận động “bảo vệ môi trường sống” và “trả lại cho dân môi trường sạch và yên bình.”

Ở hải ngoại, nhứt là ở Mỹ, Tăng Đoàn Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất lên tiếng về thảm họa do Formosa – Hà Tĩnh gây ra. Tăng Đoàn “cực lực phản đối hành vi độc hại của Formosa, lên án sự vô trách nhiệm của nhà cầm quyền và yêu cầu nhà cầm quyền phải có hành động hiệu quả và kịp thời. Đòi hỏi nhà cầm quyền sớm xác định nguyên nhân và thủ phạm gây ra hiểm họa. Nhanh chóng có biện pháp xử lý môi trường, khắc phục thảm họa, giúp đỡ hữu hiệu để người dân khôi phục sản xuất. Truy cứu trách nhiệm đối với kẻ phạm pháp và có biện pháp chế tài thích đáng để ngăn ngừa những hiểm họa tương tự trong tương lai. Xử phạt nghiêm khắc những người lãnh đạo có trách nhiệm liên quan trong việc dung dưỡng, bao che cho tập đoàn Fomosa gây tội ác. Buộc tập đoàn Formosa phải chịu trách nhiệm khắc phục khủng hoảng, bồi thường thiệt hại cho người dân.”./.(Vi Anh)
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Image

Cá đã chết, sao đảng còn chưa chết
Bùi Quang Vơm
(Danlambao) - Cá chết trắng suốt 250km bờ biển miền Trung. Hàng trăm nghìn ngư dân bỏ lưới, bỏ thuyền. Đói và sợ hãi tương lai. Hàng trăm cân cá nhiễm độc đã chui vào bụng những người nghèo. Hàng nghìn cân cá nhiễm độc đã ướp muối và chui vào các bể mắm, để sau vài tháng theo nhau đi khắp mọi miền. Hàng tấn cá nhiễm độc có thể cũng theo nhau vào bụng những con lợn, con gà, con vịt, cây rau rồi sẽ lên bàn ăn của người. Và ống xả thì vẫn thải ra chất độc, có thể giấu kín hơn, nhưng từ từ vẫn thải.

Biển sẽ vắng, vắng khách du lịch, vắng người bơi. Ngư dân sẽ bán thuyền, bán lưới. Chợ cá sẽ không còn người mua bán. Sẽ không còn ngư dân bám biển. Ngoài kia sẽ chỉ còn "tàu lạ". Biển của nhà đã thành biển của ai.

Ngày mai, rồi sẽ có những đứa bé, những người già chết vì nhiễm độc. Nhưng lâu hơn, muôn đời con cháu, khi cái nhà máy thép kia còn đó, người Việt sẽ chết dần, biến dạng dần, bởi những căn bệnh quái gở. Nòi giống Việt sẽ trở nên đần độn.

Những cái đập trên đỉnh dòng Mêkông đã làm cạn kiệt, chết khô đồng bằng Cửu Long, Đồng Tháp. Nhưng không phải chỉ không cho nước chảy, ai có thể biết, người Trung Quốc sẽ cho gì vào dòng nước? Người cộng sản Trung Quốc vốn độc ác và thâm hiểm. Liệu rồi lúa có mọc được không, cá còn sống không và người Việt có trở thành quái nhân dị dạng không.?

Những đường ống xả thải của nhà máy thép và cả khu công nghiệp Vũng Áng, nằm án ngữ giữa điểm hẹp nhất trên bản đồ nước Việt, suốt 70 năm, có ai biết nó sẽ thải cái gì, xả thải lúc nào? Hàng trăm nhà máy, hàng nghìn ống xả thải, bảy mươi năm, lượng chất độc sẽ đi đâu? Nó sẽ từng tí một ngấm vào tôm cá, rồi từng tí một biến gien con người thành những quái thai. Nó sẽ từ đấy, mùa hè nóng thì xuống phía Nam, mùa đông lạnh thì lên phương Bắc. Nó sẽ diệt cho hết người Việt và thay vào đó bằng người Trung Quốc. Đó là giấc mộng của Mao, là giấc mộng của Tập, của ngàn đời các đế chế Trung Hoa.

Đinh La Thăng


Thế mà ngày 30/4, Sài Gòn vẫn bắn pháo hoa, vẫn ca múa, văn nghệ. Đảng cộng sản vẫn ăn mừng, mừng ai, mừng cái gì? Vẫn bài ca giải phóng? Giải phóng ai, giải khỏi cái gì? Họ ăn mừng vì đã từng giết chết một nửa đồng bào, một nửa người thân, một nửa gia đình của họ? Họ ăn mừng vì đã từng chĩa súng vào đồng bào của họ mà bóp cò? khạc đạn? Bốn mươi mốt năm, họ vẫn vỗ ngực vì đã giết chết gần 6 triệu đồng bào cả hai phía, đẩy hơn 400.000 người vào trại cải tạo, hàng trăm nghìn người làm mồi cá biển, hàng triệu người tha hương, hàng ngàn người cụt chân, cụt tay lê lết ăn xin trên đầu đường xó chợ? Bốn mốt năm rồi thống nhất, lòng người vẫn hận oán chia đôi. Hàng triệu con người, hàng chục triệu trẻ em vẫn còn đeo đẳng cái lý lịch ngụy quyền, ngụy quân để luôn bị coi thuộc hàng ngũ kẻ thù, không có tương lai. Ông Võ Văn Kiệt từng nói, "30/4 có một triệu người vui, và có một triệu người buồn". Và hôm nay, cá chết trắng biển, người ta vẫn ăn mừng.

Cái mặt nạ mị dân của ông Đinh La Thăng rớt xuống mất rồi. Dân mất nghiệp, chết đói, ông bỏ 1000 tỷ đồng lát đá hoa cương, ốp gỗ lim cho đường đi bộ. Dân xuống đường đòi biển đòi cá, ông xua công an hội đồng đánh vỡ đầu. Ông đã hơn Hà Nội, ông đã phản bội trông đợi của lòng người. Ông vẫn muốn Sài Gòn thành Thượng Hải để cho giống Trung Quốc? Ông sẽ dẫn bầu đoàn đi Thượng Hải để thụ giáo và khoe lòng thần phục? Vạn Thịnh Phát đã phóng tín hiệu móc nối với ông chưa? Hãy bớt ầm ĩ đi, "cộng sản thì cũng cần sống, cần ăn" (lời Lý Long Thân vua không ngai Sài Gòn gốc Hoa thời Diệm). Nếu ông không thể không cần sống, không thể nhịn ăn, thì rồi ông cũng sẽ ngồi cùng mâm với Lê Thanh Hải, dùng cùng đũa của Vạn Thịnh Phát. Ông sẽ phải ăn, và được ăn. "Trời của Đức Như Lai", ông không có cách gì thoát được.

Những gì xảy ra

Cá bắt đầu chết ngày 6/04. Từ ngày 15/04, hàng chục tấn cá nổi trắng biển từ Hà Tĩnh tới Quảng Bình. Cá tiếp tục chết và trôi dạt, phía bắc lên Nghệ An, phía nam xuống Quảng Bình, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế.

- Ngày 21/04, báo chí đăng rầm rĩ.

- Ngày 21/04, Ông Phạm Khánh Ly, Vụ nuôi trồng thuỷ hải sản Bộ Nông nghiệp cho biết: "Đoàn công tác không vào kiểm tra tại KCN Vũng Ánh vì đây là KCN có yếu tố nước ngoài, đoàn công tác không có thẩm quyền, chức năng kiểm tra tại khu vực này".

- Ngày 22/04, C49, cục cảnh sát PCTP tài nguyên môi trường đã vào điều tra, nhưng, thiếu tướng Nguyễn Xuân Lý cho biết, phía C49 không thể phát ngôn ngay được vì ảnh hưởng tới nhiều vấn đề khác.

- Ngày 23/04, một thợ lặn làm cho công ty đê chắn sóng lặn tại cảng Sơn Dương, Formosa (Hà Tĩnh). Khi về, nạn nhân thấy tức ngực, khó thở nên được đưa vào bệnh viện, sau đó tử vong.

- 24/04, bộ TNMT vào kiểm tra Hà Tĩnh, thứ trưởng Võ Tuấn Nhân giải thích ống xả thải của Formosa đã được cấp phép.

- 24/04, phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng kiểm tra Hà Tĩnh, yêu cầu chuyên gia nước ngoài giúp điều tra xác định nguyên nhân.

- 25/04 ông Đặng Ngọc Sơn (Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh) nói dân có thể yên tâm tắm biển và ăn cá ở khu vực Vũng Áng.

- 27/04 Công điện chính phủ cấm kinh doanh và tiêu thụ hải sản nhiễm độc.

- 27/04 Bộ TNMT họp báo, chậm nửa tiếng nhưng kéo dài chỉ 10 phút, không cho phóng viên đặt câu hỏi, thứ trưởng Võ Tuấn Nhân nói có nguyên nhân do "hiện tượng tảo nở hoa gọi là hiện tượng thủy triều đỏ... chưa có bằng chứng để kết luận về mối liên quan của Formosa và các nhà máy đến vấn đề cá chết hàng loạt".

- Nhưng sau đó một ngày, 28/04, Bộ nông nghiệp và PTNT báo cáo chính phủ "loại trừ nguyên nhân hiện tượng tảo nở hoa mà thế giới gọi là thủy triều đỏ".

- 28/04 dân Quảng Bình biểu tình.

- 28/04 bộ trưởng bộ TNMT Trần Hồng Hà kiểm tra công ty Formosa, công bố đường xả thải ngầm dưới biển của Formosa là phạm luật.

- 30/04 phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng làm việc lần hai tại Hà Tĩnh, vẫn chưa thể xác định nguyên nhân cá chết.

- 01/05 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì liên bộ, yêu cầu khẩn trương phối hợp với chuyên gia quốc tế xác định nguyên nhân cá chết.

- Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh, Huỳnh Đức Thơ, Chủ tịch UBND tắm biển Mỹ Khê, ăn cá hấp.

- Hà Nội 2000 người biểu tình, không có đàn áp, không bắt bớ.

- TP HCM 5000 biểu tình, công an đánh hội đồng người dân vỡ đầu, bắt hàng loạt người, trong đó có cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên cùng chồng và nhóm bạn bè.

- 03/05 Công văn chính phủ yêu cầu các địa phương tuyệt đối không chế biến làm thực phẩm cho con người hoặc thức ăn chăn nuôi với hải sản chết dạt bờ, hải sản đánh bắt trong vùng biển 20 hải lý trở vào thuộc 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế mà có kết quả kiểm định không an toàn.

- Email của nhân viên đối ngoại FHS gửi lại câu trả lời báo Lao động “Hiện nay, cơ quan nhà nước đang tập trung điều tra, khi chưa có kết quả điều tra chính thức thì Công ty không trả lời câu hỏi nào cả."

- 04/05 Xuất hiện vệt nước đỏ 1,5 km sát bờ biển Quảng Bình đi kèm hiện tượng cá chết rải rác dạt vào bờ.

- Bộ Tài nguyên lập đoàn kiểm tra môi trường khu Vũng Áng.

- 04/05 Chuyên gia Mỹ Đức Nhật và Israel nhận phối hợp điều tra Formosa.


Bác sĩ CK1 Đào Thị Yến Thủy, Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM, cho biết người ăn phải các loại cá chết tại vùng biển miền Trung (hiện đang nghi ngờ do bị nhiễm độc hóa chất) có thể bị nhiễm độc hóa chất, gây ngộ độc cấp (nôn ói, tiêu chảy, sốt, đau bụng,...), tăng nguy cơ dị ứng (mề đai da, phản ứng phản vệ như sưng phù đỏ da, hen suyển, tiêu phân máu...


Báo Tuổi Trẻ 21/04 đưa tin:

"Hơn một tuần nay, người dân sống ven biển các xã Kỳ Ninh, Kỳ Lợi, Kỳ Hà, Kỳ Nam, phường Kỳ Phương, Kỳ Liên… thị xã Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh) hoang mang khi cá nuôi trong lồng bè nổi phơi bụng. Cá biển cũng chết hàng loạt, dạt vào bờ thối rữa, gây ô nhiễm nhiêm trọng.

Ông Võ Hữu Duật (ở thôn 1 Hải Phong, xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh) cho biết hai lồng bè thả cá sú, cá hồng… đang chuẩn bị thu hoạch thì bất ngờ chết sạch. Thiệt hại khoảng 110 triệu đồng. Nhiều hộ dân nghi ngờ nước biển bị ô nhiễm từ các nhà máy ở Khu kinh tế Vũng Áng xả ra nên di chuyển số cá còn sống xa 4-5 hải lý nhưng cũng không cứu được.

“Ở xã có năm hộ nuôi cá lồng bè tại khu vực biển Vũng Áng thì cá chết hết, thiệt hại hàng tỉ đồng” - ông Lê Xuân Vượng, Chủ tịch UBND xã Kỳ Lợi (thị xã Kỳ Anh), nói.

Theo Sở NN&PTNT, cá nuôi trong lồng bè ở các xã nằm trong phạm vi Khu kinh tế Vũng Áng (thuộc thị xã Kỳ Anh) chết hàng loạt, thiệt hại đã 4,7 tỉ đồng.

Ngư dân ở Kỳ Anh cũng bắt gặp nhiều cá chết trên biển. Thiếu tá Nguyễn Thế Vị, Đồn phó Đồn biên phòng Đèo Ngang (thuộc Bộ đội biên phòng tỉnh Hà Tĩnh), cho biết không chỉ cá nhỏ mà cá mú, cá vược biển to 3-4 kg cũng chết không rõ nguyên nhân làm người dân hoang mang.

Ngoài ra, nhiều đầm tôm bơm nước biển vào cũng khiến tôm chết như Công ty TNHH Grow Best (ở phường Kỳ Phương, Kỳ Anh) bơm thêm nước biển vào hai ao tôm khiến tám tấn tôm chết hết.


Tiểu thương ở các chợ lớn tại tỉnh Quảng Bình cũng lao đao. Ngay như các mặt hàng cá xuất khẩu có giá trị lớn như cá mú, cá hồng, các đầu mối tiêu thụ cũng ngưng mua. “Ngày trước cá móm, cá liệt, cá chim trắng giá 120.000-150.000 đồng/kg nhưng nay còn 40.000-50.000 đồng/kg. Cá phèn, cá kình giá 50.000-70.000 đồng/kg nay chỉ còn 10.000 đồng/kg. Giá rớt thê thảm nhưng không ai mua, tôi phải cho gà, vịt ăn” - tiểu thương tên Nguyễn Thị Xảo nói.
Tương tự, các ngư dân đã bỏ nhiều chi phí kéo được cá về cũng không bán được, đành bán để làm thức ăn gia súc. Vì vậy, nhiều người đề nghị các cấp chính quyền sớm trả lời thỏa đáng về nguyên nhân cũng như việc xử lý các thiệt hại."

Ngài Tống Bí thư

Có một điều không ai có thể hiểu, là giữa một không khí sục sôi như vậy cả báo chí chính luồng lẫn ngoài luồng, cả trong lẫn ngoài nước. Trước một sự cố nghiêm trọng như vậy, cả về mặt kinh tế xã hội trước mắt, đời sống hàng ngày của một số đông bà con nghèo đói khó khăn, cả sự nghiêm trọng về kinh tế và sinh thái lâu dài của đất nước, tại một điạ điểm hết sực nhạy cảm với an ninh quốc phòng, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người có trách nhiệm chính trị cao nhất của chế độ, đến hôm nay vẫn không một lời phát biểu. Không thấy ông làm gì. Bởi vậy, không biết ông đang nghĩ gì.

Ngày 21/04, gần 40 tờ báo chính thống đưa trên trang nhất, cá chết trôi dạt suốt 250km bờ biển từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên Huế. Dân nhiều người ngộ độc. Chợ cá không người mua, không còn người bán. Cá tôm kể cả được đánh bắt từ khơi xa, cũng không có người mua, phải bán rẻ làm thức ăn gia súc. Thuyền phải bán, Lưới phải bán.

Sáng ngày 22/04 ông Trọng tới làm việc tại tỉnh uỷ Hà Tĩnh, thăm và đôn đốc tiến độ thi công dự án Khu công Nghiệp Vũng Áng, thăm và động viên nhà máy thép Formosa. Không một phút ghé thăm dân tại vùng cá chết. Không một lời chia buồn san sẻ. Không một câu chất vấn tập đoàn lãnh đạo nhà máy, ngay cả khi trước đó, ban lãnh đạo Formosa đã cúi đầu xin lỗi dân Việt Nam, và cách chức phó giám đốc đối ngoại Chu Xuân Phàm vì phát ngôn xấc xược, "hoặc cá, hoặc thép, phải chọn một, muốn cả cá lẫn nhà máy thép hiện đại, thì ngay thủ tướng cũng không làm được".

Nhưng vị Tổng bí thư lại động viên khuyến khích các nhà đầu tư "tích cực đẩy nhanh hoàn thành tiến độ", giữa lúc người dân và dư luận thì gào lên, "chúng tôi chọn cá, không chọn thép", "Formosa cút khỏi Việt Nam". "Đả đảo những kẻ phá hoại môi trường, triệt đường sống của dân".

Ông Trọng đã trở thành người vô cảm, gỗ đá. Ông là đại diện cho đảng. Ông vẫn nói đảng của ông từ nhân dân mà ra, đảng của ông không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân, trong khi ông không hề thấy họ bị dồn vào đói khát, không hề thấy môi trường sống của họ đang bị những nhà lãnh đạo đang đứng trước mặt ông cướp đoạt và phá huỷ. Ông có thể bị lú thật. Ông già rồi. Đầu ông không nghĩ được nữa rồi.

Ngày 03/05, ông tiếp tục đi thăm Phú Yên, qua vùng cá chết trắng biển, vùng biển đã trở nên hoang vắng, nhưng ông vẫn không có một lời. Ông vô tình tránh né hay cố tình né tránh, cố tình ngậm miệng. Ông cố tình không mở miệng hay không thể mở miệng. Người ta hay nói, "ăn rồi há miệng mắc quai", nghĩa là có thể ông muốn nói, nhưng vì vướng quai mà ông không thể há miệng được. Chiếc quai ấy là gì. Là những giao kèo, những Cam kết có nguồn gốc "Thành Đô"? Hay phía sau cái Hiệp định ấy là tiền, rất nhiều tiền? Người ta đã từng chứng kiến ông Nông Đức Mạnh, chỉ có ký Tuyên bố chung, ký Hiệp định giữa hai "đảng anh em" mà có đủ vàng để dát kín gian thờ Hồ Chí Minh trong nhà ông ta. Tất nhiên rồi, với mức lương Tổng bí thư, 26 triệu đồng một tháng, một căn nhà ba gian cấp bốn, ông cũng không đủ tiền mua, sao có biệt thự bờ hồ, dát vàng như cung vua, phủ chúa được. Người ta nói ông không tham nhũng, nhưng không có gì làm bằng chứng, nên cũng chẳng ngăn được việc người suy luận. Và, ông Dũng cũng có nhận bao giờ là tham nhũng đâu.

Chủ Tịch nước

Còn ông Trần Đại Quang, ngài chủ tịch nước, chủ tịch hội đồng an ninh quốc gia đáng kính, suốt cả tháng trời khi người ta thải chất độc làm chết cá trên suốt chiều dài bờ biển hơn hai trăm km miền Trung, ngư dân của ông bỏ biển cho láng giềng. Biển ngoài đảo đã mất, bây giờ biển sát bờ của nước ông cũng sắp mất, ông đang ở đâu, đang làm gì? Ông có thấy dòng nước mà Formosa đang thải ra là gì không. Nó sẽ giống như thuốc độc hoá học mà người Mỹ từng dùng để diệt những cánh rừng che đậy những đoàn quân, những con đường mà các ông sử dụng để "giải phóng" miền Nam. Bảy mươi năm, chúng sẽ thải cái chất mà cá tôm sẽ tuyệt giống, không sinh sản. Cây cối sẽ không mọc. Con người không còn nguồn sống. Đất trở nên hoang tàn cằn cỗi. Suốt một cõi miền Trung, nơi đất nước chỉ có gần 50 km chiều dày, nơi phản lực bay chưa đầy hai phút, nơi xe tăng chỉ đi mất nửa giờ, sẽ chỉ còn người Trung Quốc. Khu công nghiệp Vũng Áng nằm nép theo dãy Hoành Sơn như con dao găm lách vào mạng sườn. Trong nửa giờ, đất Việt sẽ bị cắt làm đôi.

- Ngày 29/04 ông đi thăm, và làm việc với lãnh đạo Đà nẵng, thăm và làm việc với bộ tư lệnh Quân khu 5.

- Ngày 30/04 ông đi thăm và dâng hương tại khu di tích lịch sử Nước Oa, Quảng Nam.

Tuy nhiên, không lúc nào ông có ý ghé qua vùng cá chết hay nhắc với lãnh đạo các nơi ông tới thăm về vụ việc này.


- Ngày 01/05 ông chúc mừng các lãnh đạo Đà nẵng và Hà Tĩnh tắm biển và ăn cá: "lãnh đạo tỉnh nào cũng làm được như thế thì tốt qúa, ngành công an không phải tăng biên chế, có thể bớt người". Một ông chủ tịch nước không biết đến tai họa môi trường sinh thái, mà nhìn nước chỉ như một bộ máy công an. Thật là bệnh nghề nghiệp.


Quốc Hội, Mặt Trận


Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Thiện Nhân, hai vị đang ở đâu? Chủ tịch Quốc hội, và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, hai tổ chức duy nhất không phải thuần đảng, ít nhiều còn có danh nghĩa đại diện cho dân, của dân. Sao biển chết, cá chết, dân đang chết, sẽ chết mà không thấy các vị đâu? Có phải các vị đang tiếp tục vụng trộm bày trò gian lận cho vụ bầu cử sắp tới? Tôi không ngờ một ông tiến sĩ Havard, một phụ nữ Bến Tre Quê Dừa có thể làm những việc bỉ ổi như trò hiệp thương và hội nghị cử tri như vậy. Cả 870 ứng viên chỉ còn lại 11 người tự ứng cử, mà thực chất cả 11 vị tự ứng cử này cũng chỉ là thứ quân xanh, cũng là người mà các vị cài vào. Thật là bỉ ổi. Đành rằng vác vị còn có đảng, nhưng ngoài đảng còn là văn hoá, còn là lòng tự trọng nữa chứ. Các vị là những người cũng được gọi là có ăn có học mà. Người có học thì biết có người sẽ hiểu việc mình làm. Người dại để trôn, người khôn xấu hổ. Bây giờ chuyện bầu bán có còn việc gì phải làm đâu. Người của đảng sắp xếp cả, ai trúng mà chẳng thế. Còn số cử tri đi bầu thì 99,2%, số phiếu hợp lệ là 92,3%, ông Trọng thế nào chả trên 90%; v.v..., những cái này làm ngay bây giờ được, có cần gì phải đợi đến khi bầ

Thật là buồn, thật là lạ, và thật là lố bịch, đúng không?


Một thảm họa, nhưng đến giờ, hơn một tháng vẫn chưa tìm ra nguồn gốc. Cá chết là cá lớp tầng sâu. Miệng ống thải ngầm dưới biển tại khu vực cá chết có chất nhờn mầu vàng. Người thợ lặn ngạt hơi độc mà chết. Công ty Fomosa mới nhập 300 tấn hoá chất, gồm 40 chất, có chất cực độc. Công ty Fomosa vừa tiến hành súc rửa đường ống. Tiến sĩ Lê Huy Bá nói "Tôi vẫn nghiêng nhiều về khả năng cá chết do những chất cực độc, đồng thời với một lượng lớn và là tổng hợp của các loại chất độc khác nhau. Người ta vẫn có câu hỏi: tại sao cá sống ở tầng sâu chết mà cá trên tầng nước mặt thì ít hơn? Điều này chỉ được giải thích là chất độc được phóng thích từ họng xả thải tầng sâu, sát đáy". Phó giám đốc đối ngoại Formosa Chu Xuân Phàm thú nhận, hoặc chọn cá, hoặc chọ thép, không thể cả hai... Phó GS. Tiến sĩ Nguyễn Huy Thịnh nói, "nếu là tôi, chỉ một ngày tìm ra nguyên nhân. Công ty Formosa mới súc rửa và mới xả thải, như vậy, dù có tan loãng ra, dấu vết còn lại chắc chắn sẽ vẫn còn, chỉ cần luồn ống hút lấy mẫu vào sâu bên trong ống thoát"..

Thế đấy, nguyên nhân rõ ràng là đấy, nhưng một đất nước có tới 24000 tiến sĩ, chịu bó tay. Thủ tướng hai lần họp liên bộ, phó thủ tướng hai lần kéo bầu đoàn thê tử 4 bộ, vào tận nơi kiểm tra. Thứ trưởng bộ Môi trường nói Formosa được cấp phép và xả thải đúng luật. Bộ trưởng Môi trường nói, Formosa đặt ống xả thải phi pháp. Dân ăn cá bị ngộ độc, tiêu chảy, thợ lặn chết ngạt, bộ trưởng Nông nghiệp nói, nước đảm bảo các tiêu chuẩn nuôi cá. Bộ trưởng y tế nói hàm lượng độc tố dưới mức, đảm bảo ăn được. Chưa truy được ra nguồn gốc nguyên nhân, phó chủ tịch Hà Tĩnh khuyên dân tắm và ăn cá Vũng Áng. Bí thư, Chủ Tịch Đà Nẵng, Hà Tĩnh tắm, ăn cá và tổ chức ăn hải sản miễn phí. Sao người ta thấy giống một lũ rối xuẩn ngốc vậy. Sao người ta thấy lũ cán bộ chủ chốt của đảng chúng tham lam và đần độn thế.

Nhưng dù không tìm ra nguyên nhân, hay nguyên nhân không phải do lỗi của Formosa đi nữa, thì với gần 100 đường ống thải của gần 100 nhà máy tại Vũng Áng, đều đổ ra biển, có cách gì tin được rằng, vùng nước khu vực này thực không bị độc. Với một khu vực hoàn toàn thuộc doanh nghiệp nước ngoài, muốn ra vào kiểm tra phải có ngiấy phép của thủ tướng hoặc chủ tịch tỉnh, và phải báo trước, một hy vọng giám sát kiểm soát được quy trình xả thải là một chuyện không tưởng. Nếu là một việc làm hữu ý, thì với sự tích tụ khối lượng chất độc trong suốt 70 năm, sự nghiêm trọng cuả thiệt hại là khôn lường.

Người duyệt dự án là ai

Một dự án có quy mô 22.721 ha, tổng số vốn đầu tư 25 tỷ đô la, cho thuê đất 70 năm, nằm về phía bắc sát dọc sườn dãy Hoành Sơn tỉnh Hà Tĩnh.

Bạn hãy nhắm mắt lại và hình dung đi. Ở chỗ gần hẹp nhất của hình chữ S Việt Nam, rộng chừng 50 km, có một dãy núi gọi là dãy Hoành Sơn chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam từ biên giới Lào ra tận biển, tại mũi Vĩnh Sơn, cắt đôi đất nước. Khu Công Ngiệp Vũng Áng nằm ép sát và dựa lưng dọc theo dãy núi này, cắt đường cao tốc Bắc Nam Quốc lộ 1A tại mép bờ biển. Phía biên kia biển Đông khoảng 300km là đảo Hải Nam Trung Quốc, nơi có căn cứ tàu ngầm hạt nhân quan trọng nhất của Trung Quốc, căn cứ hải quân lớn nhất bờ tây Thái Bình Dương. Không khó để thấy, nếu nối vùng kiểm soát từ Hải Nam qua Vũng Áng, Vịnh Bắc bộ hoàn toàn chỉ còn là biển nội địa. Toàn bộ miền Bắc Việt Nam không còn lối ra. Với một chiều dài chưa đầy 50 km, trong bối cảnh phương tiện quân sự hiện đại hiện nay, không đầy nửa tiếng, Hoành Sơn bị kiểm soát, toàn bộ miền Bắc Việt Nam hoàn toàn bị cô lập. Với gần 100.000 quân chính quy thường trực tại toàn tuyến biên giới 1640km và một lực lượng dự bị sẵn sàng được huy động lên tới 2,5 triệu, khi đường cao tốc Vân Nam Hà Nội Hải Phòng hoàn thành cuối năm nay, đường cao tốc nối Nam Ninh, Lạng Sơn Hà Nội Hải Phòng đang hoàn thiện, sau một lọa tên lửa mang đầu đạn hạt nhân xuống Hà Nội, không đầy 3 tiếng sau, quân lính Trung Quốc đã tràn ngập lãnh thổ. Kế hoạch xâm chiếm miền Bắc Việt Nam có thể nằm trong kế hoạch có từ thời Mao, với danh nghĩa đoạt lại vùng lãnh thổ vốn thuộc Trung Quốc trước khi ký giao cho Pháp trong Hiệp định Pháp Thanh năm 1885. Vũng Áng và Trường Sa đều là chi tiết thuộc kế hoạch này.

Ai có thể phê duyệt, cấp phép đầu tư và cấp phép thuê đất. Danh nghĩa là Đài Loan, nhưng thời gian thuê đất là 70 năm trong khi Đảng cộng sản Việt Nam vẫn tuyên bố công nhận một Trung Quốc, Đài Loan chỉ là một tỉnh, sẽ phải về Trung quốc khi làm hết vai trò gián điệp hai mang. Hơn 16.000 lao động, nhưng hơn 11.000 lao động đến từ Trung Quốc, trong đó có hơn 40% lãnh đạo chủ chốt các công ty lớn là người Trung Quốc đại lục. Một lãnh thổ riêng 22.700 ha, bốn bề tường kín bao bọc, tháp canh cao 32m, xây cả Nhà thờ phụng.

Quy mô lớn như vậy, tầm quan trọng an ninh quốc phòng lớn như vậy, nhưng lại chỉ do một nhúm người trong bộ chính trị đảng cộng sản quyết định. Dự án này nằm trong chủ trương "Hiệp định về mở rộng và đi sâu hợp tác kinh tế thương mại song phương”, "Hai hành lang, một vành đai kinh tế", phát triển các dự án quan trọng, cùng với Bô xít Tây nguyên, được ký kết giữa Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Tổng Bí thư, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, trong tuyên bố chung ngày 17 tháng 11 năm 2006.

Cái bộ Chính trị này, thủ phạm của cái tội tày đình trên kia gồm 14 vị, chúng ta ghi tên họ ra đây để đừng bao giờ quên:

Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Trương Vĩnh Trọng, Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Gia Khiêm, Phùng Quan Thanh, Lê Hồng Anh, Phạm Quang Nghị, Lê Thanh Hải, Nguyễn Văn Chi, Hồ Đức Việt, Tô Huy Rứa.

Sẽ có ngày, người dân Việt sẽ đưa các vị ra Toà. Lịch sử sẽ lưu tên các vị. Con cháu những đời sau sẽ hỏi tội và đòi nợ các vị.


Có thể tin được rằng, đây là những con người ngu dốt không? Có thể có, cũng có thể không. Có thể có, vì không khó để biết được những cái bẫy nào đã được cài trong cái Dự án đó, nếu người ta thuộc sử Việt Nam và biết được "lời nguyền láng giềng" đã đeo đuổi người Việt hàng nghìn năm. [Hãy nhớ rằng biên giới (danh nghĩa)Trung Quốc tới tận năm 1885 vẫn kéo đến chính dãy Hoành Sơn này]. Có thể không, vì có nguyên nhân đến từ chỗ khác. Người Trung Quốc có nguyên tắc muôn thuở là "Tiền đi trước mọi sự". Việc lớn này không thể là ngoại lệ.


Hãy làm một con tính tạm gọi là tưởng tượng. Với cái giá 25 tỷ đôla Tổng vốn đầu tư, và luật "lại quả" 2%, thì có thể thấy số tiền mà Hồ Cẩm Đào sẽ trả cho bộ Chính trị Việt Nam là 500 triệu đôla. Số tiền này, nếu có thật, sẽ chỉ có 14 vị bộ chính trị được biết, và quá lắm thì có thêm các vị trong Ban Bí thư, tức là thêm bà Tòng Thị Phóng, ông Lê Văn Dũng, ông Ngô Văn Dụ và bà Hà Thị Khiết, như vậy kể cả Ban bí thư, bình quân đầu người mỗi vị sẽ được chia 500/18=27.7 triệu đôla.

Cái giá này có thể chỉ như vậy, nhưng có thể hơn, vì từ Dự án này, một Dự án lớn hơn có thể thành tựu, là một nửa nước Việt, với gần 200.000km2. Nếu bán cả miền Bắc với giá 0,1đôla/m2 thì Trung Quốc phải bỏ ra 0,1x 2x1014 =20.000 tỷ đôla. Đây dĩ nhiên là con tính vui, nhưng để hiểu rằng, việc Dự án Vũng Áng có thể được trả cho bình quân lớn hơn con số 27,7 triệu.
Như vậy, Dự án Vũng Áng được ký duyệt có thể vì ngu dốt, có thể do tối mắt vì tham, cũng có thể do cả hai, vừa ngu dốt vừa tham.

Hãy nghe tiếng dân

Cá chết trắng biển suốt một dải miền Trung mà lãnh đạo đảng làm ngơ. Các ngài có thể giả câm giả điếc, các ngài có thể cố tình bao che lấp liếm, bao che cho chính những mụn nhọt trên thân thể các ngài, bao che cho anh bạn láng giềng nham hiểm độc ác của các ngài, nhưng trước mặt dân, trên thân thể các ngài không có quần áo.

Ngày 01/05/2016, Hà Nội có 2000 người xuống đường. Tp HCM có gần 5000 người xuống đường. Chưa bao giờ có những cuộc xuống đường nào rầm rộ như thế. Từ những vụ công an nhổ nước bọt vào mặt dân, công an dùng võ thuật quật ngã vỡ đầu một thanh niên bán rong trên viả hè, công an phá đám vụ ném mắm tôm vào người ủng hộ các ứng viên tự do... người ta có thể thấy một người dân Việt Nam khác đã xuất hiện. Đó là loại người dân không sợ công an nữa, người dân không còn sợ bạo quyền nữa.

Hãy nghe đi, hàng ngàn người trên đường phố hai đầu đất nước họ hô vang"Chúng tôi chọn cá, không chọn thép", "Formosa cút khỏi Việt Nam". "Đả đảo Trung quốc xâm lược", "đả đảo những kẻ phá hoại môi trường". Phía sau hàng nghìn người này là hàng triệu người khác. Phía sau những khẩu hiệu kia là những câu, "đả đảo đảng cộng sản", "Hãy phế truất đảng cộng đi", "đảng cộng sản bán nước cho Trung Quốc".

Sao có thể giả câm điếc để không nghe những tiếng nói như thế. Tôi thành thực khuyên các vị đừng sợ, hãy vào mạng và đọc những lời tâm huyết. Hãy vào mạng mà nghe người dân đang chửi các vị như thế nào. Đừng cứ ngồi trong mãi tháp ngà mà nghe những lời phỉnh nịnh. Người ta đang sắp bứng các vị đi rồi. Đảng cộng sản của các vị đang chết rồi.

Các vị có nghe những cô gái như Trang Lê, Lâm Ngân Mai họ chửi các vị như thế nào không. Hãy lên YouTube mà nghe. Các vị sẽ chụp cho họ cái mũ phản động và sẽ tìm mọi cách để buộc họ câm miệng, không loại trừ thủ đoạn đê tiện nào, đúng không? Người ta biết rõ các bài tẩy của các vị rồi, họ không hề sợ nữa đâu. Nhưng họ nói ra sự thật, và quan trọng nhất, điều mà họ nói ra với các vị là lòng dân, sự thật của lòng người đấy. Vả lại, các vị sẽ thấy rằng họ đang là số đông, rất đông, nhiều triệu người và có tuổi đời rất trẻ. Chính họ là tương lai của một nước Việt Nam đích thực, không phải là những bà già nội trợ, mà các vị dùng làm loa máy trong các vụ tố tụng các ứng viên tự do, trong các hội nghị cử tri vừa rồi.

Nhiều người nói, dân Việt Nam có nguồn gốc nô lệ, có gien nô lệ. Chỉ có thể sống nhờ bằng tư tưởng của người khác. Việt Nam không có triết gia, nên Việt Nam chưa bao giờ có Đạo. Đạo Nho, Đạo Khổng, Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Mác-xít. Thế có là lạ không?

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan tự hỏi, sao người Việt Nam không chịu phát triển, cô giáo Trần Thị Lam thì hỏi người yêu mình rằng "Đất nước mình ngộ quá phải không anh?"

Nhưng tôi, tôi không hề thấy lạ.

Đất nước mình có gì ngộ đâu em


"Đất nước mình ngộ quá phải không anh?"
Nghe em hỏi lòng nặng hơn trái núi
Bốn ngàn tuổi vẫn để Tàu dắt mũi
Tại Đảng mình Ngu Dốt quá mà em!

Thép hay Cá hãy chọn đi em nhá
Cá thì không nhưng chọn Thép có Tiền
Tiền ký duyệt và tiền lại quả
Đảng của mình Tham quá mà em!

Sao em nói, "em làm sao biết được"
Nghe đắng lòng và rát bỏng tim gan
Anh vẫn hiểu em khóc vì non nước
Vì Đảng mình vừa Ngu Dốt vừa Tham.

**

Đất nước mình có gì lạ đâu em
Đảng lo hết, biển đảo dần mất hết
Rừng không còn, tôm cá rồi tận diệt
Tám mươi năm rồi, Đảng biến sáng thành đêm

Đất nước mình sẽ không lạ đâu em
Đêm qua hết trời nước rồi lại sáng
Đến một ngày sẽ không còn bóng Đảng
Dân của mình sẽ "chịu lớn" mà em!

Paris 05/05/2016
Bùi Quang Vơm
phaodai
Posts: 79
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:06 pm
Contact:

Post by phaodai »

Image

Vũng Áng - Formosa:
Chế độ CSVN đang hóc xương gà


Thạch Đạt Lang
(Danlambao) - Trong bài "Chuyện chẳng có gì mà ầm ĩ" tôi đã tiên đoán được những bước đi của chế độ CSVN khi viết:

"Trong vài ngày nữa, chắc chắn sẽ có thông báo từ bộ Tài Nguyên & Môi Trường là kết quả thử nghiệm đã có, chất độc hại, kim loại nặng chứa trong chất thải xả ra từ KCN Formosa nằm trong giới hạn cho phép."

Đến nay, sự tiên đoán của người viết đã được chứng minh là đúng. Tổng Cục Môi Trường thuộc bộ TN&MT đã ra thông báo là nước biển ở những vùng có cá chết thuộc 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quãng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế an toàn, sạch đạt quy chuẩn Việt Nam.

Dù không trực tiếp xác nhận chất thải xả ra từ KCN Formosa là an toàn, nằm trong giới hạn cho phép, việc loan tin của tổng cục Môi Trường như trên chứng tỏ chế độ CSVN cũng như bộ Tài Nguyên & Môi Trường, sắp tới sẽ không có biện pháp nào để thay đổi tình trạng hiện tại về việc xả thải của Formosa.

Không bàn chuyện Quy chuẩn Việt Nam (dĩ nhiên) không thể so sánh với Quy chuẩn quốc tế (International Standard), bởi sức chịu đựng với độc tố, kim loại nặng của người Việt Nam (chắc chắn) phải cao hơn người ngoại quốc nhiều lần.(1)

Để chứng minh điều này, lãnh đạo của chế độ ở Đà Nẵng, Hà Tĩnh đã đi tắm biển, ăn cá, các loại hải sản... (ở những nơi... không có cá chết hàng loạt).

Bên cạnh những hành động ngu xuẩn mang nặng tính trình diễn, bịp bợm, mị dân, chế độ CSVN tiếp tục phản ứng một cách chắp vá với những việc như ra lệnh cho ngư dân hoạt động ở những ngư trường xa bờ khoảng 20 hải lý hoặc hơn, tổ chức các toán thu mua, cấp giấy chứng nhận ngư trường và an toàn thực phẩm, giúp gạo cứu đói, giảm nợ, xóa lãi ngân hàng trong 6 tháng…

Những việc vừa nói có được thực hiện và thực hiện như thế nào không bàn đến trong bài này.

Đi xa hơn nữa, bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến còn tuyên bố hải sản tươi sống tại Hà Tĩnh, Quảng Bình sau khi kiểm nghiệm có chỉ số an toàn với sức khỏe người dân.(2)

Chế độ CSVN hoàn toàn không có những việc làm cần thiết ngay lập tức như phân tích, kiểm nghiệm nước biển nơi xẩy ra biến cố, nước thải từ KCN Formosa. Không thấy Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang, Nguyễn Thị Kim Ngân lên tiếng về vấn nạn đang làm rúng động cả nước.

Lời tuyên bố (có vẻ) mạnh mẽ của bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà, sẽ quan trắc (quan sát, trắc nghiệm?) nước xả thải với tần xuất dầy đặc hơn trước, sẽ bắt Formosa đưa đường ông thải lên khỏi mặt biển… khi đi thị sát KCN Formosa vào ngày 28.04.2016 chỉ là lời trấn an hay nói cho sướng miệng, cho qua chuyện.

Hùng hồn (và hùng hổ) hơn như của Nguyễn Xuân Phúc, thủ tướng của chế độ CSVN phát biểu trong buổi họp với lãnh đạo ở Hà Tĩnh ngày 01.05.2016, sẽ xử lý không nhân nhượng những vi phạm nghiêm trọng về quy định xả thải dù cá nhân hay tổ chức, sẽ rà soát hết, kể cả Formosa... rồi cũng sẽ (như cánh vạc) bay vào không khí nay mai. Bao giờ rà soát và xử lý thì không thấy ai đề cập tới.

Tuy nhiên, những phản ứng chậm chạp, rời rạc, các tuyên bố chòng chéo nhau có tính xoa dịu dư luận trong giai đoạn của các lãnh đạo chế độ cho thấy CSVN đang mắc nghẹn cái xương gà Formosa. Nuốt xuống không trôi, nhả ra cũng không được vì cái xương... lớn quá. Lòng tham đã làm mờ mắt lãnh đạo chế độ CS, họ không lường được hậu quả khi nhắm mắt ăn con gà Formosa béo ngậy quá nhanh nên... mắc nghẹn.

Từ Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc, các ủy viên trong bộ chính trị ĐCSVN đến bí thư, cán bộ Hà Tĩnh... bao nhiêu người đã ngửa tay nhận tiền hối lộ, đút lót, bôi trơn để ký hợp đồng cho Formosa thuê đất 70 năm tại Kỳ Anh?

Giờ đây thảm họa xẩy ra. Xây dựng thêm một hệ thống xử nước thải khác ở Formosa hoặc cải tiến hệ thống xử lý hiện nay cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là điều bất khả, không phải vì lý do kỹ thuật mà vì lý do tài chánh. Chắc chắn Formosa sẽ không chi thêm tiền cho việc này.

Lời tuyên bố của Chu Xuân Phàm, giám đốc đối ngoại của Formosa tuy xấc láo, hỗn xược nhưng là sự thật. Việc xả thải ở Formosa sẽ không có gì thay đổi khi nhà máy đi vào hoạt động.

Nếu chế độ CSVN phản ứng mạnh theo đúng như tuyên bố của Nguyễn Xuân Phúc, Trần Hồng Hà, ban giám đốc của Formosa (có thể) sẽ tiết lộ, phổ biến công khai trên truyền thông, báo chí những hợp đồng đã được ký kết cùng những khoản tiền hối lộ, bôi trơn chuyển vào chương mục tại ngoại quốc của các quan chức lãnh đạo CS. Đó là điều không ai trong đảng, chế độ CS Việt Nam mong muốn.

Những lời tuyên bố của Nguyễn Xuân Phúc, Trần Hồng Hà do đó sẽ được thực thi... trên sa bàn, trên giấy tờ báo cáo. Sẽ không có sự bồi thường thiệt hại nào cho ngư dân, (chắc chắn) cũng sẽ không có biện pháp nào được xúc tiến để làm sạch, tái tạo môi trường tại vùng biển có cá chết trên 4 tỉnh miền Trung vừa qua.

Chỉ riêng chuyện bỏ mặc việc thu lượm cá chết ở bờ biển cho người dân tự giải quyết cho thấy chế độ CS từ trung ương đến địa phương chỉ (có tài) hành dân.

Thủy triều có thể cuốn trôi, đưa các hóa chất độc hại, kim loại nặng về phía Nam hoặc hòa loãng chúng đi một phần lớn, nhưng phần đã thấm vào đất, cát trên bờ, dưới đáy biển sẽ tồn tại, tác hại, kéo dài ảnh hưởng trong nhiều thập niên đến môi trường cũng như con người.

Không làm mạnh mẽ, tới nơi tới chốn với Formosa thì không yên được với dân, nhưng nếu làm mạnh như đã tuyên bố thì lại không yên với tập đoàn Formosa.

Chế độ CSVN phen này sẽ tính sao với cái xương gà đang mắc ở cổ? Chắc chắn họ sẽ chọn cách giải quyết thứ hai, nuốt cái xương gà bằng mọi giá, bởi họ vốn dĩ coi thường trình độ hiểu biết cũng như phản ứng của người dân.

Sắp tới, CSVN sẽ tiếp tục giở trò tuyên truyền gian dối, lừa bịp, sẽ có những báo cáo ngụy tạo của chuyên gia nước ngoài đã thẩm định, chứng minh nước biển ở Vũng Áng, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị cũng như nước xả thải của KCN Formosa là an toàn, nằm trong giới hạn cho phép.

Đồng thời cũng sẽ có trấn áp, dùng vũ lực mạnh mẽ hơn để bịt miệng những ai biểu tình phản đối nhà máy luyện thép Formosa.

Nguyễn Xuân Phúc, trong buổi họp ngày 01.05.2016 đã nói rõ, phải xử lý nghiêm những người có hành vi lôi kéo hay tụ tập, kích động, gấy rối làm mất an ninh, trật tự xã hội.

Thạch Đạt Lang

danlambaovn.blogspot.com
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Dân chủ thế nầy là láo vô cùng
Tú Kép
(Danlambao) - Lâu nay, ai cũng nói chế độ cộng sản là chế độ độc tài đảng trị toàn trị. Chưa bao giờ có ai khen cộng sản dân chủ cả. Thế mà sau Đại hội thứ XII của đảng cộng sản vừa qua, khi trả lời trong cuộc họp báo ngày 28-1-2016, viên tổng bí thư tái đắc cử Nguyễn Phú Trọng đã phán một câu để đời như dậy nè: “Cũng có đồng chí được Trung ương giới thiệu không trúng cử, có người không được Trung ương giới thiệu nhưng được Đại hội giới thiệu cũng trúng cử. Vừa rồi, các đại biểu Quốc hội cũng tâm sự, dân chủ thế này là cùng, không thể dân chủ hơn.”

Tâm tư “dân chủ thế nầy là cùng, không thể dân chủ hơn” lập tức trở thành danh ngôn lịch sử, được nhiều cái loa trong nước đưa lên thành khẩu hiệu chiến lược quốc gia hàng đầu theo kiểu “yêu nước là yêu xã nghĩa”. Xét cho cùng, thằng côn đồ có cái lý của thằng côn đồ, thì tổng Trọng cũng có cái lý của tổng Trọng. Lý của côn đồ là lý của du côn, còn lý của tổng Trọng là lý của “đảng quyền”, tức là lý của của cái đảng ác ôn khét tiếng từ thời lão râu dài mắt hóm nhập cảng cái chủ nghĩa nước ngoài vào Việt Nam phá thối, mà nhà văn Phan Khôi cắc cớ gọi là cây cộng sản, nhưng có nơi gọi là cây cứt lợn hay cây chó đẻ, hoặc cỏ bù xít, chứ không phải cỏ Mác-xít đâu nhá...

Ai không tin thì cứ tìm những nhà thực vật học, chuyên nghiên cứu cây cỏ miền Bắc mà hỏi. Còn không tin nữa thì tìm sách Nắng chiều của nhà văn Phan Khôi mà đọc. Trong sách nầy, Phan Khôi hỏi một ông già người Thổ về loại cây nầy, thì ông già Thổ giải thích rằng: “Thứ cỏ nầy trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá và đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy.” Lúc đó dân chúng truyền nhau câu đồng dao thời thượng: “Cỏ đâu thứ cỏ lạ đời,/ Cáo già về nước cỏ thời phát sinh”.

Còn bây giờ thì hãy trở lại với tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Lão nói dân chủ thế nầy là cùng, không thể dân chủ hơn, là vì chính trong nội bộ đảng của lão, đảng viên gọi lão là Trọng Lú. Ai đời thần dân mà dám gọi sếp là lú thì dân chủ thế nầy là cùng, không thể hơn được.

Không hiểu vì sao tổng Trọng lại được đảng viên tặng cho biệt danh là Trọng Lú? Đầu tiên, nghe nói rằng thời còn nhỏ, Trọng Lú bị bệnh ngặt nghèo, cha mẹ cầu xin bốn phương tám hướng, may mà được một pháp sư giúp đỡ, cho một tô cháo lú, nấu bằng cỏ bù-xít hay cỏ cứt lợn, nói rằng ăn tô cháo lú nầy thì sẽ qua bạo bệnh và sống quá thất thập, nhưng do mùì hôi tanh của cỏ nên đầu tóc sớm bạc trắng, và sẽ bị lú, không học hành gì được, ngoại trừ các loại dích cu khố bủng phá làng phá xóm.

Nhớ lời pháp sư, Trọng Lú cầu học khắp nơi, bốn phương tám hướng, cầu khẩn ông đi qua bà đi lại, nhưng vẫn tìm không ra học viện chuyên nghiên cứu loại dích cu khố bủng, thì may có người chỉ đến môn phái Mác-xít do đứa cháu ngoại hôn của cử nhân Hồ Sĩ Tạo nhập cảng từ Liên Xô xa xôi. Mác-xít hay bù-xít thì cũng xít xít như nhau. Thế là “mặt trời chân lý chiếu qua tim”. Trọng Lú chăm chỉ học hành, dần dần tiến lên đến hàng tiến sĩ cái thứ tà thuyết ba trợn ở bên trời Âu, nay đã tuyệt tích giang hồ. Quý hiếm lắm đấy. Quý hiếm như thế là cùng. Ngày nay, đố ai học được cái môn phải gió nầy mà có bằng tiến sĩ như tổng Trọng. Tên Tập Cẩm Bình, trùm cộng sản Tàu khựa và quan thầy luôn Việt cộng ác ôn, cũng không có bằng tiến sĩ mác-xít như Trọng Lú. Lý do đơn giản như đang giỡn là cái lò đào tạo của nó ở Liên Xô đã sụp tiệm từ khuya, vì môn học nầy chẳng làm được trò trống gì ngoài chuyện giống cỏ bù xít là đi phá thối thiên hạ, khắp trời Âu đất Á, nên đành phải sụp tiệm.

Có đảng viên khác, lãnh đạo cấp cao bộ văn hóa thông tin cộng sản, vui miệng kể thêm rằng khi các thành phố ở California, xứ Huê Kỳ, rộn ràng thông qua nghị quyết Cờ Vàng, không cho cờ máu có mặt tại thù đô người Việt tỵ nạn trên thế giới, đảng côn đồ trong nước cử tiến sĩ Trọng qua Mỹ nghiên cứu tình hình. Giả dạng thường dân, tiến sĩ Trọng đến California hoa lệ, mải mê vui thú đi uống cà phê ở Quán Lú, quên cả ngày về, nên từ đó đồng đảng tặng luôn đảng danh cho Trọng là Trọng Lú.

Có người lại nói rằng hiện nay trong đảng côn đồ có nhiều người tên Trọng. Để dễ phân biệt, đảng viên bèn theo các truyền thuyết trên đây, đặt đảng danh cho tổng bí thư là “Trọng Lú”. Ở các nước mệnh danh là dân chủ Tây phương như ở Mỹ, Pháp, Anh, Đức, dù dân chủ cách mấy, cũng không có dân nước nào mà nguyên thủ của họ được thần dân ưu ái đặt cho một cái nick rất lạ lùng là “Lú”. Thế mà các đệ tử trong đảng CSVN dám gọi thiên tử của mình là “Trọng Lú”, thì quả thật “dân chủ thế nầy là cùng”.

Không biết thuyết nào đúng, nhưng thật sự Trọng Lú chẳng lú tý nào, mà còn khôn vặt, xỏ lá, điếm thúi thấy mẹ. Nghe nói ngày 29-12-2015, trong một cuộc họp nội bộ đảng cộng sản, tổng Trọng giả vờ lú lẩn, tuyên bố rằng tổng bí thư đảng côn đồ phải là “người miền Bắc, có trình độ ný nuận và không có tham vọng quyền nực”. Phân biệt địa phương một cách kín đáo như thế nầy là cùng, thì làm sao mà lú được.

Tài tình là ở chỗ chỉ có Trọng Lú mới đáp ứng đủ ba điều kiện do Trọng Lú đưa ra: Trọng Lú gốc Bắc Kỳ chăm phần chăm, có tiến sĩ ný nuận mác-xít (chứ không phải bù-xít), lại chẳng có tham vọng quyền lực, chỉ muốn ngồi lỳ như phổng đá trên ghế tổng bí thư mà thôi. Thế là Trọng Lú trúng cử, rồi bù lu bù loa rằng tớ già rồi, tớ chẳng ham gì nữa, nhưng vì đảng yêu cầu, tớ phải hy sinh ra sức gánh lấv thêm một phùa nữa… Tội nghiệp thân tớ. Trọng Lú thật đúng phong cách xỏ lá “em chả, em chả” của Xuân tóc đỏ trong truyện Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.

Thật tội nghiệp cho dân Bắc Kỳ. Vì Trọng Lú mà dân Bắc Kỳ bị hàm oan, đua đòi chức tổng bí thư. Dân Bắc Kỳ đâu có ưa cái thứ chủ nghĩa bù-xít hay cây cứt lợn hôi hám quái đản kia mà Trọng Lú lại giành ưu tiên cho dân Bắc Kỳ làm tổng bí thư bù-xít hay “bù sịt”? Khổ thật.

Thế mà tiêu chuẩn do Trọng Lú đưa ra có ép-phê mới hay chứ. Ba ếch tròm trèm muốn giành chức tổng bí thư, liền bị Trọng Lú đá văng cái một, bay về Cà Mau đuổi muỗi cho trâu. Người ta nói rằng Cà Mau nhiều muỗi đến nỗi trâu ngủ phải bỏ mùng. Có nhiều chỗ không có mùng, người ta làm quạt phất trần, khi nào trâu ngủ có người cầm quạt đuổi muỗi. Đảng viên cộng sản cao cấp như Ba ếch, quen thói hống hách chỉ tay năm ngón, về hưu chẳng có nghề ngỗng, chẳng biết việc gì làm, thì được giao việc đuổi muỗi cho trâu, giúp bà con tăng gia sản xuất.

Mánh mung như thế nên Trọng Lú đắc cử và rất tự hào về kết quả bầu cử “dân chủ thế nầy là cùng”. Xin hãy lẳng lặng mà nghe Trọng Lú nói chuyện dân chủ. Từ xưa đến rày, từ tây sang đông, ai cũng biết là hiến pháp là bản văn pháp lý cao nhứt nước. Tuy nhiên, trong buổi nói chuyện với cử tri hai quận Tây Hồ - Hoàn Kiếm, tại Hà Nội ngày 28-09-2013, Trọng Lú lại phán rằng: “Hiến Pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương Lĩnh của đảng.” Trời đất quỷ thần ơi, Trọng Lú chơi chữ khéo chưa? Hiến pháp là kết tinh trí tuệ của đại biểu toàn quốc trong tòa nhà quốc hội để làm ra luật pháp cho 90 triệu dân Việt tuân hành, được xem là văn kiện pháp lý quan trọng vào bậc nhất, thế mà ở Việt Nam của Trọng Lú chỉ thập thò đằng sau cương lĩnh của đảng côn đồ của Trọng Lú. Khéo quá là khéo. Hiến pháp sau cương lĩnh, nghĩa là dân tộc dưới chân đảng. Tài tình thật, dân chủ đến thế cùng.

Đó mới là màn dân chủ sợ bộ của Trọng Lú. Màn thứ hai cũng dân chủ không kém. Đó là để thực thi việc hiến pháp là văn kiện chính trị vào bậc nhất sau hiến pháp, Trọng Lú ra lệnh cho quốc hội tay sai tiếp tục duy trì điều 4 hiến pháp 1992. Trước khi tiếp tục, quốc hội vờ xin bà con góp ý. Mấy ông trí thức trí ngủ tưởng bở, lấy chữ ký góp ý được vài trăm tên. Trọng Lú ra lịnh cho côn đồ tới tận nhà bắt dân đen ký thỉnh nguyện giữ lại điều 4 hiến pháp 1992. Thế là Trọng Lú có vài chục triệu chữ ký tung hê điều 4 hiến pháp muôn năm, so với vài trăm chữ ký của mấy ông trí thức. Điều 4 hiến pháp 2013 cũng đưa đảng CS ngồi trên đầu trên cổ nhân dân, thật dân chủ đến thế là cùng.

Tiếp tục sự nghiệp dân chủ đến thế là cùng, Trọng Lú liền cho đại hội XII đảng cộng sản ác ôn sản xuất bộ tam xên mới thay thế gánh cải lương Nam Kỳ Sang Dũng. Thông thường bộ tam xên chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, chủ tịch hội đồng bộ trưởng do quốc hội bầu chọn, nhưng Trọng Lú là tay ný nuận giỏi. Lú tính thế nầy có phải tài tình không: Quốc hội tuy nói là dân bầu, nhưng do đảng côn đồ nhà ta chỉ định hết ráo. Quốc hội chỉ là tay sai của đảng côn đồ mà thôi. Thôi thì đảng ta chỉ định luôn bộ tam xên cho lẹ việc. Quốc hội chỉ có việc vỗ tay hoan hô là xong. Thế là thực hiện tốt chủ trương lớn, đảng ta đặt cái cày trước con trâu. “Trâu ơi, đảng bảo trâu nầy, / Trâu theo đảng dạy có ngày vinh quang./ Trâu mà dại dột nghinh ngang,/ Báo cho trâu biết thân tàn nghe trâu.” (Ca dao hiện đại). Thế là gọn gàng hết sẩy.

Bộ tam xên gồm mấy đàn em tay sai của Trọng Lú, rất đúng người đúng chỗ. Tên Quang lớn tức Đại Quang, xuất thân côn an côn đồ, cho nó làm quan lớn nhứt nước, đứng đầu bộ máy kềm kẹp là đúng nhứt. Nghe nói y phản phúc Ba ếch, chạy theo Trọng Lú để kiếm quyền, đúng tư cách của đảng viên côn đồ, phản nghịch, lật lọng. Còn em gái lá tre thì có cái tên đẹp bội phần, Kim Ngân (vàng bạc) đầy mình. Đẹp như thế sao mà em lại dại dột theo anh Bắc Kỳ Trọng Lú, phân biệt địa phương, rất đểu cáng. Em lá tre gốc Bến Tre phải canh chừng tên Trọng Lú nầy. Nếu không làm y thỏa mãn, em có thể về Bến Tre theo gương Sang Trọng, đi đuổi muỗi. Em mắt răm, thân gái dặm trường, phải cẩn thận đấy. Tên Phúc mùa xuân (Xuân Phúc) cho nó làm thủ hạ, à quên, làm thủ tướng chứ. Tên là Phúc mùa xuân, nhưng thật là vô phúc cho người Quảng, đất ngũ phụng tề phi, và đại vô phúc cho toàn dân Việt vì y thuộc loại đại hạm, ăn hối lộ từ khi còn chức nhỏ cho đến bây giờ. Ai muốn biết Phúc mùa xuân tham ô cỡ nào thì về xứ Quảng, chỉ cần hỏi mấy cháu trẻ con chăn trâu cũng biết tiếng y. Từ khi làm dân biểu, lên phó chủ tịch quốc hội, Phúc rất tròn trịa, gọi dạ bảo vâng, gọi đâu dạ đó, thực hiện đúng câu châm ngôn của đảng cộng sản: "Đảng gọi thì dạ, đảng không gọi thì không dạ. Đảng gọi mà không dạ là không được. Đảng không gọi mà dạ cũng không được."

Trường hợp đảng không gọi mà cứ dạ ẩu, dạ liều là chết tức tưởi như Nguyễn Bá Thanh. Có ai xúi dại đâu mà vừa từ Quảng Nam ra tới Hà Nội là Bá Thanh tuyên bố bá thở ngay, quyết chí dẹp hết tham nhũng. Thế là chết tức tưởi trên gường bệnh mà không biết nguyên nhân, hay biết mà không dám nói, vì nói ra sợ di lụy cho con cái. Chúng nó tham nhũng nhiều tiền và thâm hiểm lắm. Trọng Lú và bầy đảng thuộc loại "bề ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong nham hiểm giết người không dao."

Nguyễn Xuân Phúc trái ngược Nguyễn Bá Thanh. Tròn trịa như quả banh lăn. Đảng bảo lăn tới đâu thì Phúc lăn tới đó. Dạ dạ vâng vâng rất xong việc. Nhờ thế, rảnh tay nên tham ô thoải mái. Tham ô mới có tiền bôi trơn. Bôi trơn rồi tham ô tiếp. Tham ô tiếp rồi lại bôi trơn. Bôi trơn mới lên chức lên tước. Cứ thế có ngày vinh quang cướp giựt đồng bào, lên làm thủ tướng, tiếp tục sự nghiệp tham ô. Đúng là “Trâu theo đảng dạy có ngày vinh quang.”

Trâu và đảng côn đồ cộng sản có đặc tính rất giống nhau. Đó là trâu thì ngâm miệng ăn cỏ, còn đảng côn đồ cộng sản thì ngậm miệng ăn tiền. Hiện nay, ở trong nước, ngày nào cũng rộn ràng chuyện Phọt-mô-za. Cá chết đầy biển. Cá nhớn, cá bé, tôm, cua, san hô chết ráo. Dân chài đói meo vì không hành nghề được. Còn dân chúng thì muối không có ăn, do nước biển nhiễm độc, làm muối cũng độc luôn, nước mắm cá thúi càng hại nữa, xuất cảng chẳng ai dám sờ đến, khách du lịch dại gì đến tắm vùng biển độc.

Trời ơi là trời! Dân biểu tình hà rầm, mít tinh nguyền rủa đám cầm quyền ăn hối lộ cho tụi nước ngoài xả độc. Cuối tuần nào cũng biểu tình. “Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây”, bay tận lên tới Trời xanh, thế mà Trọng Lú và đám tay sai vẫn tỉnh queo, chẳng thèm lên tiếng, vì đó là việc của bộ tam xên, chứ không phải việc đảng. Đảng đã ăn tiền đủ khi cấp giấy phép cho Phọt-mô-za hoạt động, nay bộ tam xên do đảng sản xuất phải gánh cho đảng.

Tuy nhiên, bộ tam xên cũng làm thinh luôn, vì bộ tam xên đang ngồi chờ mệnh lệnh của đảng. Thế là từ trên xuống dưới đảng cộng sản đều ngậm miệng ăn tiền, để cho tên đại diện Phọt-mô-za dạy đời: Hoặc chọn sắt thép, hoặc chọn tôm cá. Đó là tên nầy nói với dân. Còn nói với lãnh đạo cộng sản, nói với Trọng Lú và bộ tam xên thì tên nầy nói thẳng vào mặt Trọng Lú và bè lũ tay sai: Hoặc chọn tiền, hoặc chọn tôm cá. Vì đã lỡ nhận tiền bôi trơn khá đậm nên lãnh đạo cộng sản, từ Trọng Lú đến Phúc tròn trịa đều làm thinh, giả điếc, xem như chẳng có chuyện gì xảy ra, miễn sao đô la vào túi tham là xong ngay.

Phải nói rằng dân Việt chúng ta quá hiền. Chứ ở các nước khác là chính phủ phải đi tàu suốt rồi. Ở Algeria đó kìa. Một anh thanh niên tự thiêu, là cái chế độ đi đoong. Đàng nầy nhiều người chết, hải sản đi chầu thủy cung hằng hà sa số, thế mà đảng cộng sản vẫn thoải mái ngồi lỳ, sống chết mặc bay. Cái thứ chính phủ gì mà ăn hại đái nát. Chuyện bê bối như thế đã gần hai tháng rồi mà chưa giải quyết, cứ để cho người nước ngoài tự do phóng uế nặng nề làm hỏng môi trường sống của dân Việt.

Nói đi thì cũng phải nói lại kẻo tội nghiệp dân mình. Đảng côn đồ cộng sản đàn áp kềm kẹp dữ dội, bảo kê, nuôi dưỡng dân du côn đánh đập đồng bào tàn bạo nên dân chúng bị chận đứng từ tận gốc. Mà sao tụi du côn chẳng có trái tim mà cũng chẳng có khối óc? Toàn là óc bò tim heo không hà. Dân chúng biểu tình bảo vệ môi trường chung cho toàn thể người Việt, trong đó có côn an, du đảng, các thế hệ con cháu mai sau, thế mà nỡ lòng nào lại đánh đập bà con đau đớn quá xá là đau. Thật hết biết. Côn an du côn đã đành. Quân đội nhân rân anh hung, đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ thế giới, mà lại cúc cung phụng sự mấy tên dở hơi như Trọng Lú, chúng bốc hốt cho sướng tay rồi tẩu tán tài sản ra nước ngoài, tậu nhà tậu cửa, còn quân đội nhân dân anh hùng chết đứng tại chỗ, làm hàng rào bảo vệ cho đảng ăn trên ngồi tróc. Đúng là “anh hùng rơm” quá xá là anh hùng rơm.

Chỉ mới vài chiêu mà Trọng Lú chứng tỏ đã quá chừng là dân chủ, theo đúng nguyên tắc đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ. Nhân dân làm chủ kiểu cái bánh vẽ, mà nói như Chế Lan Viên: “Chưa cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ/ Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bẻ bạn/ Cầm lên nhấm nháp/ Chả là nếu anh từ chối/ Chúng sẽ bảo anh là phá rối/ Đêm vui.” Phá rối đêm vui mà còn có tội, huống gì là phá rối cộng sản tham nhũng là đàn áp tận cùng bằng số…

Thế mà Trọng lú, nó dám nói “dân chủ thế nầy là cùng, không thể dân chủ hơn”. Tụi cộng sản ưa xuyên tạc nói láo phỉnh dân là chuyện thường ngày ở huyện. Thằng Lú đảng quyền nói bậy như thế là đúng phong cách tổng bí thư đảng côn đồ, nhưng bàn dân thiên hạ ai cũng hiểu rằng DÂN CHỦ THẾ NẦY LÀ LÁO VÔ CÙNG, KHÔNG THỂ LÁO HƠN!


Tú Kép
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

Nhà nước khủng bố
Nguyễn Hưng Quốc
(Nguồn: VOA)
Theo dõi cuộc biểu tình tại Sài Gòn và Hà Nội vào ngày Chủ Nhật, 8 Tháng Năm vừa qua, ngoài niềm vui khi thấy rất đông người tham dự, tôi còn có một nỗi buồn nặng trĩu trong lòng khi thấy đám công an và thanh niên xung phong, sắc phục cũng như không sắc phục, đánh đập những người đi biểu tình một cách hết sức bất nhẫn. Ðàn ông, thanh niên bị đánh, đã đành. Kể cả phụ nữ và trẻ em cũng bị đánh. Ðánh xong, người ta kéo xềnh xệch những người biểu tình và vất họ lên xe buýt để chở về các đồn công an, ở đó, một số người còn bị đánh tiếp. Xem, tôi cứ ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao người ta đối xử với dân chúng một cách tàn bạo như vậy?

Trước đây, với các cuộc biểu tình chống các hành động gây hấn ngang ngược của Trung Quốc, nhà cầm quyền mạnh tay dẹp thì cũng có thể hiểu được: Họ sợ làm Trung Quốc nổi giận. Nhưng cuộc biểu tình vào ngày 8 vừa qua, cũng như cuộc biểu tình vào ngày 1 trước đó, chỉ để đòi hỏi những điều rất ư hiền lành: cá sạch, biển sạch và môi trường sạch. Ðó là những điều ảnh hưởng đến sức khỏe của tất cả mọi người, hơn nữa, còn ảnh hưởng đến cả tương lai của dân tộc. Những đòi hỏi ấy rõ ràng là rất chính đáng, hoàn toàn phù hợp với những lời hứa hẹn của những người cầm quyền. Vậy tại sao lại đánh đập và bắt bớ những người biểu tình?

Lý do chính, theo tôi, chủ yếu là vì họ sợ.

Trước hết, họ sợ những đòi hỏi kế tiếp, đằng sau những đòi hỏi về cá sạch, biển sạch và môi trường sạch: Ðó là những đòi hỏi về sự minh bạch và những chính sách liên quan đến môi trường của chính phủ. Sự kiện cá chết hàng loạt ở bốn tỉnh miền Trung, từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế, đã bắt đầu từ đầu Tháng Tư, vậy mà, đến nay, chính quyền vẫn chưa công bố nguyên nhân và phương án giải quyết. Trong khi chính quyền trung ương im lặng, chính quyền các địa phương thì lại bất nhất, lúc người ta khuyên không tiêu thụ hải sản, lúc người ta lại khuyên mọi người an tâm ăn tôm cá, thậm chí, như ở Ðà Nẵng, người ta lại kêu gọi cán bộ ăn hải sản để làm gương cho dân chúng. Rồi người ta lại rủ nhau xuống biển tắm để chụp hình và đưa lên đài, lên báo. Ðể cứu ngành ngư nghiệp và du lịch, người ta bất chấp cả những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến sức khỏe của con người. Trong khi đó, cá vẫn tiếp tục chết. Lặn xuống đáy biển, người ta thấy các rạn san hô cũng chết. Và tôm cá cũng chết đầy dưới đáy biển.

Không phải chỉ thiếu minh bạch, chính sách của chính phủ, vốn chỉ biết tập trung vào phát triển kinh tế mà xem nhẹ môi trường cũng là một sai lầm. Môi trường không chỉ là một khái niệm trừu tượng và chung chung. Môi trường gắn liền với kinh tế. Trường hợp cá chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung là một ví dụ. Nó làm cho cả hàng chục ngàn gia đình ngư dân bị điêu đứng. Nó cũng làm cho ngành du lịch ở địa phương bị khủng hoảng trầm trọng. Ðó là chưa kể đến sức khỏe của con người. Bỏ lên bàn cân, liệu những cái lợi từ khu công nghiệp Vũng Áng có thể sánh được với những mất mát mà mọi người phải gánh chịu trước mắt cũng như trong tương lai?

Lý do thứ hai khiến chính quyền sợ biểu tình vì chính bản thân cái gọi là biểu tình. Biểu tình, bất kể xuất phát từ động cơ gì, tự bản chất, bao giờ cũng là một sự phản đối mang tính tập thể. Mà các chế độ độc tài toàn trị thì sợ mọi sự phản đối. Họ biết rõ quyền lực và quyền lợi của họ rất dễ bị lung lay trước những làn sóng phản đối của dân chúng. Hơn nữa, với bản chất lừa bịp, họ không muốn thế giới nhìn thấy những sự phản đối ấy. Hệ thống tuyên truyền của họ lúc nào cũng tô vẽ nên sự đồng thuận của dân chúng đối với sự cai trị độc tài và độc đoán của họ. Họ không những sợ biểu tình; họ còn sợ chữ “biểu tình.” Trong các phương tiện truyền thông đại chúng, khi bị buộc phải nhắc đến các cuộc biểu tình trong nước, họ đều dùng chữ “tụ tập đông người.” Chỉ là “tụ tập” chứ không phải là biểu tình, tức không phải phản đối.

Lý do thứ ba là người ta sợ việc dân chúng ý thức về những cái quyền của họ và cương quyết đòi thực thi những cái quyền ấy. Ðộc tài nào cũng chà đạp lên các quyền làm người và quyền làm dân của mọi người. Khi dân chúng nhận thức ra các quyền của họ, họ sẽ không còn ngoan ngoãn nghe lời chính quyền nữa. Bằng cách này hay cách khác, họ sẽ lên tiếng và bày tỏ thái độ. Hôm nay người ta có thể yêu sách cá sạch, biển sạch và môi trường sạch, ngày mai, họ có thể yêu sách dân chủ, đa đảng và nhân quyền. Hôm nay chỉ có mấy ngàn người đổ xô xuống đường, ngày mai có thể cả hàng chục ngàn, rồi hàng trăm ngàn, rồi có thể có cả hàng triệu người xuống đường. Sức mạnh của các cuộc biểu tình nằm ở số đông. Khi cả mấy trăm ngàn người biểu tình, không có tên bạo chúa nào dám ra lệnh bắn vào dân chúng. Mà có ra lệnh, công an và quân đội cũng không dám làm. Tấm gương về sự sụp đổ của các chế độ độc tài ở Ðông Âu và Trung Ðông cho thấy điều đó.

Những nỗi sợ hãi ấy khiến chính quyền thẳng tay trấn áp những người xuống đường biểu tình một cách ôn hòa. Từ sự sợ hãi của họ, họ muốn dân chúng cũng sợ hãi, không dám xuống đường nữa. Khi gieo rắc sự sợ hãi như thế, họ biến thành khủng bố.

Có thể nói, một cách vắn tắt, mọi chế độ độc tài, với những mức độ khác nhau, đều là những nhà nước khủng bố.
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

Đã hơn bảy mươi tuổi đời mà đảng chúng cũng vẫn còn chưa chịu lớn!

Nguyễn Dư
(Danlambao) - Những quốc gia văn minh, khi mà dân họ đòi hỏi một yêu sách hoặc là yêu cầu nhà cầm quyền giải thích minh bạch, công khai một vấn đề khúc mắc nào đó thì nhiều người thông báo liên kết với nhau, rủ tụ tập, trương biểu ngữ biểu tình mà không cần phải làm đơn xin phép ai cả. Bởi, biểu tình theo hiến pháp quy định, cho phép, thì nhà chức trách phải thừa nhận chứ không ai có có quyền và có thể gọi là biểu tình hợp pháp hay bất hợp pháp. Lúc đó buộc nhà chức trách phân bổ lực lượng an ninh đi theo bảo vệ trật tự; đôi khi công an, cảnh sát còn trò chuyện với người dân thân mật, vui vẻ. Trừ khi có những phần tử đập phá nơi công cộng, đốt nhà, đánh người thì lúc đó lực lượng an ninh mới vào cuộc, theo dõi, truy tìm thủ phạm, bắt giữ những phần tử quá khích để ngăn chận bạo loạn làm ảnh hưởng tới những người biểu tình ôn hòa khác mà thôi.


Theo dõi tình hình vừa qua vụ cá chết ở mấy tỉnh miền Trung, người ta mới thấy trung ương đảng hành xử quá lúng túng, vụng về. Đây không phải là lần đầu tiên người dân biểu tình đòi nhà cầm quyền phải minh bạch, công khai một vấn đề mà người dân cần được biết và muốn biết.

Ông Trọng đi thực địa. Ông tưởng công việc của ông tới đó là chấm hết, hoàn thành trách nhiệm rồi! Sau công việc đó, đáng lý ra ông phải có trách nhiệm tiếp theo là công bố tình hình cá chết và biện pháp, kế hoạch sắp tới trước quốc dân để làm an lòng mọi người chứ không phải sau đó rồi lặn mất, tịnh khẩu luôn. Rồi ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thì ra lệnh, chỉ đạo phải làm rõ nguyên nhân và xử lý nghiêm những ai hoặc cơ qua nào vi phạm trong vụ cá chết. Cái chuyện của ông Phúc làm là cái chuyện rất bình thường trong một quốc gia bình thường; là bổn phận của các cơ quan bên hành pháp, không cần ông thủ tướng phải chỉ đạo "công khai" rồi lặp đi lặp lại nhiều lần trên các phương tiện truyền thông để phô trương. Trung ương lại cử mấy ông từ bộ trưởng đến thứ trưởng và các cơ quan ban ngành xuống tận nơi xem xét tình hình, không ông nào nhận xét ra hồn; phát biểu: "ông nói gà" còn "bà thì nói vịt". Nếu cử người hết tốp này đến tốp khác thay phiên bát nháo xuống tận nơi theo như cái kiểu vừa qua thì ngồi nhà... ôm sờ mó cái con mụ vợ già nhăn nheo, ông Trọng cũng có thể ra lệnh cho đàn em làm được.

Từ xưa nay, cộng sản hay có cái màn đóng kịch, định hướng dư luận, qua mắt người dân để "chữa cháy". Một việc làm trơ trẻn bằng cách chỉ đạo cho cán bộ dưới quyền tắm biển, ăn cá để chứng minh biển sạch, cá sạch; rồi các cơ quan ngôn luận quay phim, chụp hình đăng báo phổ biến, tuyên truyền. Nên nhớ, cá sạch và biển sạch, những việc cải thiện môi sinh không chỉ một ngày một bữa là xong. Làm như thế thì chẳng khác nào gạt dân, "gài bẫy" những người nhẹ dạ để đạt được mục đích cho riêng mình; còn ai bị nhiễm độc, bệnh hoạn rồi vài năm sau có thể đi đến tử vong thì đó là chuyện của họ, không ai chịu trách nhiệm, không liên quan gì tới đảng. Nó là một việc làm mang tính cách tàn ác "không tên" của nhà cầm quyền đổ lên đầu người dân phải gánh chịu

Qua những hình ảnh, chúng ta thấy người dân bị ảnh hưởng trực tiếp phẫn nộ đến tột cùng, họ đổ cá ra đường để đòi nhà cầm quyền có biện pháp, tìm ra nguyên nhân, xử lý hợp tình, thỏa đáng và có trách nhiệm.

Trong khi đó trung ương ra lệnh cho Sài Gòn và Hà Nội phải ngăn chặn, dằn mặt biểu tình bằng trấn áp. Có lẽ vì gần tới ngày bầu cử, họ lo sợ bạo loạn lan tỏa nên dùng biện pháp mạnh để dằn mặt, rồi đỗ thừa tại đảng Việt Tân và "Con đường Việt Nam" xúi dục, kích động, lôi cuốn, phá rối "một quốc gia ổn định (!)" nên họ mới ra tay.

Người ta ai cũng biết là Việt Tân là một "chính đảng" có tổ chức, có "cương lĩnh" đối lập với đảng cộng sản Việt Nam. Đổ thừa cho Việt Tân phá rối, xúi giục để có một cái cớ trấn áp thì hợp lý quá, còn gì bằng.

Chỉ cần đi hỏi xem tất cả những người đi biểu tình có biết Việt Tân là ai không thì sẻ có câu trả lời liền. Đây là một cách hành xử với dân giống như đám côn đồ. Đổ thừa tại do kẻ xấu xúi giục nên đảng mới ra tay trừng trị; là cách biện minh cho một việc làm tồi bại. Giống như cái đám trẻ con đổ thừa là tại bạn nó chơi xấu, do xúi giục người khác; nhưng không nghĩ đến hành động đánh người của chúng là đê tiện. Ai phá rối? Đảng nào? Người nào xách động, gây rối (nếu có) thì bắt họ chứ tại sao lại đi đánh đập cả đàn bà và uy hiếp trẻ con để gây áp lực, buộc cha mẹ chúng ngoan ngoãn tuân theo mệnh lệnh nhà chức trách để ngồi im rồi bỏ cuộc được sao? Làm cho ngươi ta liên tưởng tới bọn bắt cóc làm áp lực tống tiền. Nhưng đối với nhà cầm quyền thì không cần tiền; mục đích của họ gây áp lực cho một mưu đồ chính trị.

Người dân bây giờ đã trưởng thành nhiều hơn đảng tưởng; hiểu rõ đảng hơn ai hết sau hơn bốn mươi năm sống dưới chế độ. Theo dõi tình hình đất nước, tôi biết rất rõ nhiều người bất mãn chế độ đến ngút trời, không còn ai tin tưởng vào sự lãnh đạo "tài tình" của đảng nữa; cũng không cần ai xúi họ, chỉ chưa có dịp để mọi người bày tỏ chính kiến mà thôi. Những lần xuống đường vừa qua là giọt nước của nhà cầm quyền đã đổ làm tràn ly. Những nhơ nhớp của đảng đã ngập lên tới tận mặt. Tôi tin đảng cộng sản Việt Nam lo sợ và biết rõ điều đó, nhưng hành xử với dân cái kiểu lấy giấy gói lửa; lấy bạo lực để chinh phục nhân tâm thì chưa phải như là một đảng đã trưởng thành; ngược lại người ta càng xem đảng cộng sản giống như cái đám trẻ con du thủ du thực.

Cái mà người dân cần hiện nay là những ông bà có trách nhiệm cao nhất lãnh đạo quốc gia phải lên tiếng, hứa có một kế hoạch trong tương lai trước quốc dân, xác định thời hạn trả lời để người dân yên tâm. Ông Nguyễn Xuân Phúc chỉ tuyên bố, hứa trong một phạm vi giới hạn với các cơ quan truyền thông và nội bộ của ông. Chưa đủ. Dùng bạo lực trấn áp để thay cho lời hứa là một việc làm ngu xuẩn, chắc chắn sẽ gây ra phản ứng ngược

Đáng lý ra bốn người có trách nhiệm với quốc gia cao nhất phải lên các phương tiện truyền thông, trước quốc dân đồng bào; có những lời lẽ xoa dịu, hứa, cam kết chứ không phải chỉ một ông thủ tướng họp hành ban bệ rồi ra lịnh. Những lời lẽ qua những tin tức, thông tin đó truyền đi không đủ thuyết phục được ai. Không còn ai tin tưởng đảng được nữa hết!


20.05.2016
Nguyễn Dư
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests