Bình Luận , Quan Điểm

thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Di Sản và Ước Mơ Đầu Năm

Sơn Tùng

Tới một tuổi nào đó, khi thực sự bước chân vào đời, một người trẻ thường nhìn lên những thế hệ đi trước để trông đợi nhận được một vài di sản. Của cải vật chất hay những di sản mang giá trị tinh thần giúp họ làm hành trang trên đường đời.

Ngược lại, vào một lúc nào đó, thế hệ đi trước cũng nghĩ đến việc để lại một vài cái gì đó cho con cái và những thế hệ đi sau.

Với một người giàu có và coi của cải vật chất là sự nghiệp, công việc ấy có vẻ dễ dàng và đơn giản. Người ta sẽ tính sổ xem của cải thu nhặt trong cả một đời người có được bao nhiêu và sẽ chia ra như thế nào, để lại cho những ai, mỗi người bao nhiêu, trước khi rời khỏi thế giới này với hai bàn tay không như lúc đến.



Với người không có của cải vật chất và không cho nó một giá trị tuyệt đối, công việc không đơn giản. Người ta cũng sẽ phải tính toán – nhưng không phải bằng những con số - xem sự nghiệp mình có được những gì, và sẽ để lại ra sao.

Việc “tính sổ” này thường được nhìn như một sự bàn giao giữa thế hệ đi trước và thế hệ đi sau để đời sống được tiếp tục. Những thế hệ tới sau sẽ nhận lấy cái thế giới mà những thế hệ đi trước giao lại – với những cái đẹp và cả những cái xấu.

Nhưng, cũng có một quan niệm khác cho rằng “thế giới này không phải do bố mẹ tặng cho ta mà là do con cái cho ta mượn tạm” như câu thơ của một thi sĩ người Nga.

Tôi thích cái quan niệm thứ hai hơn, vì tính chất lãng mạn và yếm thế của nó cũng có, nhưng vì nó buộc con người phải suy nghĩ nhiều hơn về ý nghĩa sự hiện hữu của mình trên hành tinh này. Chúng ta là những con nợ của các thế hệ đi sau.

Với quan niệm này, tôi cho rằng thế hệ trẻ Việt Nam đã không nhận được những gì họ mong đợi khi được “thanh toán nợ nần”.

Vào đầu thập niên 1990, sau khi Liên-Sô sụp đổ, tôi đã có dịp thăm viếng nước Nga vài lần, và đã trải qua một cơn chấn động tâm não khi nhìn thấy nhiều thanh niên Việt Nam ngồi co ro trên mặt cỏ phủ băng tuyết, bán những chiếc quần áo rẻ tiền tại một khu chợ trời ở Mạc-tư-khoa. Đôi mắt họ chứa đựng tất cả nỗi bơ vơ và bóng đen của ngày mai vô định.

Tôi cũng đã nhìn thấy những đôi mắt như vậy của những người trẻ Việt Nam tại ngay quê nhà trước khi tôi bỏ nước đi tị nạn hơn ba mươi năm về trước. Họ không bị lưu đày sang một đất nước xa xôi, nhưng cũng đang sống vất vưởng tại các khu chợ trời hay tụ họp nơi những hàng quán trên hè phố, tự đốt cuộc đời bằng những ly rượu mạnh, tách cà-phê đắng, điếu thuốc nặng cháy phổi. Tôi đã không trở lại Việt Nam từ ngày bước chân xuống chiếc tàu gỗ nhỏ ra khơi trong đêm tối, nhưng ngày nay tôi vẫn nhìn thấy những hình ảnh này trên Internet.

Ở trong nước hay ngoài nước, những thanh niên Việt Nam ấy cũng đã không có được một chỗ đứng trên mặt đất này, và đã bị tước mất cơ hội để được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.

Những người trẻ Việt Nam tại các nước Tây Âu và tại Hoa Kỳ có đời sống vật chất khá hơn, và có cơ hội để chọn một nghề nghiệp theo ý‎ muốn, nhưng không ít người cũng đã cảm thấy bơ vơ khi muốn định hướng cuộc đời, hay muốn “trở về nguồn”, muốn sống như một người Việt Nam chứ không phải một người Mỹ da vàng, Pháp da vàng…

Những người trẻ Việt Nam ở trong hay ngoài nước quả thật đã không nhận được những gì mà họ mong đợi khi “được trả nợ”, từ các thế hệ đi trước.

Tuổi trẻ Việt Nam đã không được tiếp nhận từ tay các thế hệ đi trước một đất nước tươi đẹp, tự do, giàu mạnh như tuổi trẻ Nhật Bản, Nam Hàn, và ngay cả Singapore hay Malaysia ở gần Việt Nam.

Hẳn nhiên nhiều người trẻ Việt Nam đã oán trách những thế hệ đi trước. Đất nước ta không thiếu tài nguyên thiên nhiên, và dân ta không thiếu nhân tài. Người “chủ nợ” có quyền bày tỏ nỗi bất bình khi không được thanh toán thỏa đáng.

Nhưng, thế giới đang thay đổi rất nhanh, ý niệm tương đối về mỗi thế hệ cũng đang bị thu ngắn lại. Bánh xe tiến hóa của loài người cũng quay với tốc độ nhanh hơn.

Tuổi trẻ Việt Nam hãy đứng dậy hành động hơn là buông trôi ngày tháng và chê trách những thế hệ đi trước, hay lên án các thế hệ đi trước như “những con nợ” đã không làm tròn nghĩa vụ. Hãy làm cái gì để thay đổi vận mệnh của chính mình và của đất nước. Và không có đổi thay nào mà thiếu vai trò nòng cốt của tuổi trẻ.


Thời gian gần đây có những dấu hiệu cho thấy đã có sự thay đổi, từ trong giới trẻ, thế hệ sinh ra và lớn lên trong chế độ hiện tại. Có những người trẻ, rất trẻ, đã bất khuất đứng lên, dõng dạc nói ra những đòi hỏi về nhân quyền, về tự do, về nhân phẩm và về những bất bình mà con người có lương tâm không thể bị đè nén mãi dưới bạo lực và lừa dối.

Số người này lúc đầu không có nhiều nhưng đang tăng lên dần. Và, như một tín hiệu gửi ra cho thế giới bên ngoài nhân vụ đứng lên của tuổi trẻ Hồng Kông, 22 tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam đã cùng đứng chung trong bản “Tuyên cáo về tập hợp vì nền dân chủ tại Hồng Kông và Việt Nam”, trong đó có đoạn nguyên văn:

“...Toàn dân trong nước hãy noi gương tranh đấu của người dân, đặc biệt của giới trẻ tại các quốc gia Đông Âu cuối thế kỷ trước, của các quốc gia Bắc Phi và Ả Rập vùng Trung Đông gần đây, hiện thời là của người dân Ukraina, Tân Cương, Tây Tạng và lúc này là giới trẻ Hồng Kông trong tinh thần và khí phách của sinh viên Thiên An Môn. Các dân tộc ấy đã mạnh mẽ cho thế giới thấy họ nghĩ gì, muốn gì. Với truyền thống hào hùng và dòng máu bất khuất của nòi Lạc Việt, chúng ta hãy đồng lòng và can đảm quyết định thay đổi đường đi, thay đổi vận mệnh của quốc gia dân tộc. Bởi lẽ ngày càng hiển hiện nguy cơ mất nước do sự xâm lấn của ngoại thù Cộng sản Tàu và sự bạc nhược, đồng lõa của một bộ phận trọng yếu trong giới cầm quyền Cộng sản Việt.

Cuối cùng, chúng tôi cầu chúc cho cuộc biểu tình bất tuân dân sự của nhân dân, giới trẻ Hồng Kông đạt được các mục tiêu cao cả, đồng thời khơi dậy được tinh thần đấu tranh cho người dân ở Đại lục, để từ đó thêm sức mạnh cho phong trào tranh đấu tại Việt Nam... (hết trích)

Trước sự kinh ngạc và ngưỡng mộ của thế giới trong mấy năm cuối cùng của Thế kỷ 20 và đầu Thế kỷ 21, tuổi trẻ đã đem mùa xuân đến cho một nửa Âu Châu sau mấy chục năm chìm sâu trong đêm dài.

Với tín hiệu trên đây từ Việt Nam, chúng ta có lý do để ước mơ một ngày không xa trong năm mới, tuổi trẻ Việt Nam sẽ đồng loạt đứng lên đem Mùa Xuân Dân Tộc về trên đất nước để người Việt trong và ngoài nắm tay cùng nhau xây dựng một quốc gia tự do, phú cường, trở thành một di sản mà các thế hệ mai sau, những người “chủ nợ” tương lai, mong được tiếp nhận khi chúng ta giã từ thế giới này.

Virginia, Mùa Xuân 2015

Sơn Tùng









__._,_.___
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »



Mục đích và hệ quả chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng là gì?


THIỆN Ý

Sau nhiều lần đình hoãn, chuyến đi Mỹ của Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng được thực hiện trong tuần lễ tiếp ngay sau ngày Quốc khánh Hoa Kỳ 4 Tháng 7.

Câu hỏi được nhiều người quan tâm đặt ra là: Mục đích và hệ quả của chuyến đi này là gì? Câu trả lời chính xác chỉ có thể là những người trong cuộc. Là người ngoại cuộc, chúng tôi cũng thử đưa ra một số nhận định về mục đích và hệ quả của chuyến đi này.

I/- Mục đích chuyến đi Mỹ

Theo chúng tôi, chuyến đi Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có mục đích chủ yếu là đưa mối quan hệ Việt-Mỹ đi vào thực chất, tạo bước ngoặc quan trọng trong quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ với một số hệ quả rõ nét hơn là các chuyến đi trước đây của Thủ tướng Phan Văn Khải, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước Nguyễn Tấn Sang.

Các chuyến đi Hoa Kỳ trước đây của những người đứng đầu bộ máy nhà nước chỉ có ý nghĩa ngoại giao, với mục đích nâng quan hệ Việt- Mỹ lên một bước trong chính sách đi giây giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng của đảng CSVN. Nhưng nay, mặc dầu đảng Cộng Sản Việt Nam đã hết sức nhún nhường, nhượng bộ đủ điều, Trung cộng vẫn lấn lướt, đẩy Hà Nội vào thế phải có sự chọn lựa dứt khoát khi có cơ hội.

Nhưng trước khi có sự chọn lựa dứt khoát, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đi Trung Quốc gặp Chủ tịch Tập Cận Bình 3 tháng trước khi đi Hoa Kỳ và dường như trên đường đến Hoa Kỳ, ông Nguyễn Phú Trọng còn ghé qua Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình một lần nữa như để tái khẳng định rằng Hà Nội vẫn trung thành với Bắc Kinh nếu được Trung Quốc đối xử khác hơn trong vấn đề tranh chấp Biển Đông. Sự nhún nhường này được thể hiện trong Thông cáo Chung Việt-Trung sau chuyến đi Bắc Kinh của ông Trọng, theo đó Hà Nội vẫn trước sau như một bày tỏ lòng trung thành với Trung Quốc.

Theo chúng tôi, ai cũng hiểu trong chuyến đi này Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ chọn Hoa Kỳ để có đối trọng, không phải để đối đầu với Trung Quốc mà để được sức mạnh của Hoa Kỳ che chở, ngăn chặn, đẩy lùi tham vọng bành trướng, độc chiếm Biển Đông, xâm lăng các nước nhỏ yếu trong vùng của Trung Quốc, trong đó có Việt Nam.

Hành động thực tế thấy được là, Hoa Kỳ đã công khai lên án các hành vi xâm lấn biển đảo mới đây của Trung Quốc, điều động hải lục, không quân về Biển Đông, tăng cường các hoạt động quân sự liên kết với các đồng minh trong vùng, để chứng tỏ quyết tâm của Hoa Kỳ sẵn sàng ngăn chặn tham vọng của Trung Cộng. Đồng thời, nhiều nhân vật cao cấp chính trị, quân sự, ngoại giao của Hoa Kỳ đã liên tục đến Việt Nam trong thời gian gần đây, gần nhất là chuyến đi Việt Nam lần thứ 5 của cựu Tổng thống Bill Clinton vào những ngày đầu tháng 7 này, để sau đó cùng chung chuyến bay với phái đoàn Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng trở về Mỹ. Chuyến đi này của ông Clinton, tuy bề ngoài nói là để tham dự lễ kỷ niệm 20 năm Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, song bề trong mang ý nghĩa đặc biệt, có tác dụng thúc đầy Hà Nội theo chiều hướng dứt khoát chọn Hoa Kỳ là đồng minh tốt bụng, xa lánh người “đồng chí” láng giềng Trung Quốc xấu bụng và đầy tham vọng xâm lăng, bá quyền.

Trước những lời nói và các hành động khả tín, có lợi cho Việt Nam của Hoa Kỳ, trong khi Trung Quốc tiếp tục có những hành đồng tiếp tục lấn lướt Việt Nam (tấn công táu đánh cá trong hải phận Việt Nam, kéo giàn khoan HD-981 vào gần sát hải phận Việt Nam…), dường như các nhà lãnh đạo của đảng CSVN đã tỉnh ngộ và có thêm can đảm trong việc dứt khoát chọn lựa trong chính sách đi dây giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã được theo đuổi bao lâu nay. Một số dấu hiệu trong nước trước chuyến đi Hoa kỳ của Tổng Bí thư đảng CSVN chứng tỏ sự giác ngộ theo dự đoán này. Báo chí chính dòng đã công khai gọi Trung Quốc là kẻ xâm lược, tố cáo đích danh tàu Trung Quốc tiếp tục tấn công tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam… mà trước đây chí dám nói là “tầu lạ” và không dám gọi Trung Quốc là xâm lược. Đồng thời có những dấu hiệu không thấy được, như những lời đồn đoán là nội bộ đảng CSVN đang có sự chuyển biến về nhận thức trong giới lãnh đạo có khuynh hướng thân Trung Quốc trước đây, khuynh hướng thân Mỹ đã thắng thế, sẽ hậu thuẫn cho sự chọn lựa một chính sách ngoại giao thực dụng và hữu hiệu hơn. Người ta hy vọng rằng, những điều này sẽ giúp ông Nguyễn Phú Trọng cùng tập đoàn lãnh đạo của Đảng CSVN “phản tỉnh tập thể”.

II/- Hệ quả của chuyến đi Mỹ

Người ta có thể tin rằng hệ quả tổng quát là Hà Nội sẽ chủ động khởi sự một tiến trình dân chủ hóa Việt Nam theo một tiến trình và tốc độ thích hợp. Nghĩa là một sự chuyển đổi hòa bình, ổn định, vừa có lợi cho đất nước, vừa có lợi cho chính đảng CSVN, theo kinh nghiệm chuyển đổi của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, và gần nhất là kinh nghiệm chuyển đổi của Miến Điện đã và đang diễn ra đã có hiệu quả thực tiễn.

Hệ quả thực tiễn tại Việt Nam có thể là nội bộ đảng CSVN và chính quyền sẽ có nhiều thay đổi về nhân sự, với những người có khuynh hướng thân Mỹ chia nhau nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy đảng và nhà nước. Đồng thời về chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại cũng thay đổi cho phù hợp với chiều hướng mới.Tất cả những thay đổi nhân sự và chính sách sẽ diễn ra trước, trong và sau Đại hội đảng toàn quốc lần thứ 12 sắp diễn ra vào đầu năm tới 2016 tới đây. Sẽ không có những cuộc thanh trừng khốc liệt theo kiểu Stalin hay Mao Trạch Đông. Một khi phe thân Mỹ thắng thế, do có thêm một số đông những đảng viên hàng đầu của đảng thân Trung Quốc nay “phản tỉnh” và sự hậu thuẫn của số đông đảng viên CS các cấp, thì sự sắp xếp lại nhân sự chỉ cần dùng các biện pháp loại trừ nhẹ nhàng đối với các đảng viên cấp cao thân Bắc Kinh còn “ngoan cố”. Tuy nhiên, vẫn không loại trừ trường hợp phe thân Trung Quốc phản kháng quyết liệt, thì có thể phe thân Mỹ sẽ phải sử dụng các biện pháp loại trừ mạnh bạo, âm thầm và kín đáo, nhưng chắc sẽ không tàn bạo như kiểu thanh trừng của Stalin và Mao.

Tất nhiên, để thực hiện sự thay đổi toàn diện về nhân sự và chính sách cai trị theo chiều hướng trên, nội dung nghị trình và nghị quyết của Đại hội 12 sẽ phải thay đổi theo chiều hướng “chuyển đổi”. Căn cứ trên “Nghị quyết của Đại hội Chuyển đổi” này, Quốc hội và các cơ quan dân cử các cấp đương nhiệm sẽ tu chính Hiến pháp, điều chỉnh luật lệ cho phù hợp… Chính quyền các cấp sẽ làm nhiệm vụ chuyển đổi trên bình diện thực tế theo một tiến trình và tốc độ thích hợp. Theo dự kiến của chúng tôi, tiến trình “chuyển đổi” này có thể diễn ra và hoàn tất trong vòng 5 năm tới (2016- 2020).

III/- Kết luận

Trước hiểm họa xâm lăng trắng trợn lãnh thổ, lãnh hải và các hải đảo của Việt Nam của Trung Quốc, mặc dầu Hà Nội đã hết sức quỵ lụy, nhún nhường, nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước trông đợi chuyến đi Hoa Kỳ lần này của người đứng đầu đảng CS cầm quyền sẽ là cơ hội thuận lợi tạo bước ngoặt có tính đột phá trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước, có lợi cho đất nước cũng như cho chính đảng CSVN, vì lợi ích chung cũng như riêng của nhân dân Hoa Kỳ và Việt Nam. Ước mong Tổng Bí thư đảng CSVN đừng đề mất cơ hội thuận lợi trong chuyên đi Hoa Kỳ lần này.

__._,_.___
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Image

Bài diễn văn chấn động của nữ sinh 17 tuổi: Hai ngàn năm nữa, tổ quốc tôi, ông là ai?

Tiểu Thiện chuyển ngữ
Một trường trung học phổ thông tại Trung Quốc, tổ chức hội diễn văn với chủ đề “Tổ quốc thân yêu”, dưới đây là bản thảo bài diễn văn của nữ sinh thể hiện những nhận thức rất lí trí và sáng suốt, vượt xa phần đông thế hệ thanh niên Trung Quốc hiện tại. Liệu cô gái này có thể thay đổi Trung Quốc?

Dưới đây là toàn bộ bài nội dung bài diễn văn:

“Kính thưa các thầy cô, bạn bè thân mến!

Tôi tên Vương Khả Nhi, là học sinh lớp 10A6, tiêu đề bài diễn văn của tôi hôm nay là “Nếu tôi sống thêm hai nghìn năm nữa, thì tổ quốc của tôi, ông sẽ là ai?”. Tôi không có những ngôn ngữ hùng hồn như mọi người, cũng không có nhiệt huyết dâng trào như những người khác; đối với hai từ “tổ quốc”, cái tôi có chính là suy nghĩ độc lập của riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy rằng xã hội chúng ta không thiếu những người đứng đầu về tri thức, mà cái thiếu chính là những người có tư duy vậy.

Tôi đang nghĩ rằng: Nếu như tôi có thể sống thêm hai nghìn năm nữa, thì thử hỏi tổ quốc của tôi sẽ là ai? Vào thời nhà Hán, tổ quốc của tôi chính là nhà Hán, chính là Đại Hán đã tiêu diệt hết thảy những kẻ xâm phạm bờ cõi. Vào triều đại nhà Đường, tổ quốc của tôi chính là Đại Đường, triều đại hưng thịnh bậc nhất khiến cho hàng nghìn nước khác đến viếng thăm. Vào thời Tống, tổ quốc của tôi là triều đại nhà Tống, triều đại đứng đầu về khoa học kỹ thuật, kinh tế phồn vinh. Vào triều đại nhà Nguyên, vó ngựa Mông Cổ đã chà đạp giày xéo chúng tôi thành những người dân thấp kém, vậy thì tổ quốc của tôi chính là Đại Nguyên sao? Và tôi phải yêu thương nó sao? Vào thời nhà Thanh, người Mãn giết người ngoài biên ải, để đầu không để tóc, để tóc không để đầu, cuộc tàn sát tại Dương Châu cũng ảm đạm thê lương không khác gì cuộc tàn sát tại Nam Kinh, vậy thì tổ quốc của tôi chính là Đại Thanh sao? Tôi phải yêu thương nó sao?

Thời gian lâu dần, tôi đã dần dần nhận ra rằng, nếu như có ai cưỡng đoạt mẹ của các vị, vậy thì mọi người đều nhận kẻ đó là cha của mình sao, chúng ta không có lòng tự trọng đến như thế sao? Có những lúc tôi cũng nghĩ rằng, nếu như lúc đầu Nhật Bản chiếm lĩnh Trung Quốc chúng ta, hỡi các bạn, có phải hôm này chúng ta sẽ hô lớn lên rằng “thiên hoàng vạn tuế” hay sao?

Nếu như tôi sống thêm hai nghìn năm nữa, thì thử hỏi xem, ai sẽ là tổ quốc của tôi đây, thật khiến cho tôi rất mơ màng khó hiểu .

Trong lòng tôi có một tổ quốc, đó chính là một nơi công bằng, công chính và không có sự bất công nào cả; trong lòng tôi có một tổ quốc, đó chính là nơi để cho bạn chiến thắng, chiến thắng một cách đường đường chính chính. Còn thua thì sao, chính là thua một cách tâm phục khẩu phục. Trong lòng tôi có một tổ quốc, đó là nơi mà ông lúc nào cũng có thể dang rộng đôi cánh che chở cho tôi; trong lòng tôi có một tổ quốc, bất luận cuộc sống của tôi vất vả gian khổ đến thế nào, thì tổ quốc cũng sẽ khiến cho lòng bạn tràn đầy hy vọng về một tương lai không xa.

Nước Mỹ sinh ra Washington, còn nước Anh thì sinh ra Churchill, nhưng họ đều đã ra đi vĩnh viễn; trách nhiệm hôm nay đây, không thể trông cậy vào họ nữa, mà là nằm ở thế hệ trẻ chúng ta. Trí tuệ của thế hệ trẻ chính là trí tuệ của quốc gia, thế hệ trẻ hùng mạnh chính là quốc gia hùng mạnh, thế hệ trẻ độc lập chính là quốc gia độc lập, thế hệ trẻ đứng đầu thế giới chính là quốc gia đứng đầu thế giới. Trong tay thế hệ trẻ chúng ta nhất định sẽ được cầm tờ báo nói về tổ quốc tân tiến văn minh bậc nhất của chúng ta, ông sẽ để cho mỗi người đều yêu mến ông sâu sắc từ tận đáy lòng, ông sẽ khiến cho nước Mỹ phải ngưỡng mộ về chế độ dân chủ của chúng ta, khiến cho nước Đức phải ngưỡng mộ về những thành tựu khoa học kỹ thuật của chúng ta, khiến cho Nhật Bản phải ngưỡng mộ đất nước dân giàu nước mạnh của chúng ta, khiến cho Singapore phải ngưỡng mộ về môi trường sạch đẹp của chúng ta. Nhìn xem ngày đó, tổ quốc của tôi, tất nhiên sẽ là một bầu trời rực sáng, một tổ quốc khiến cho con cháu muôn vàn đời sau cũng không thể nào quên được.

Người Trung Quốc cổ nuôi dưỡng ba giấc mộng Trung Hoa: Giấc mộng thứ nhất gọi là giấc mộng minh quân, chính là hy vọng có được một hoàng đế tốt, hy vọng tất cả vấn đề đều được giải đáp và hiện thành. Tất cả mọi đều tốt đẹp đến từ sự ban ơn của kẻ thống trị. Giấc mộng thứ hai gọi là giấc mộng thanh quan, nếu như hoàng đế đã không thể trông cậy được nữa, thì người dân hy vọng sẽ có một vị thanh quan, thanh liêm chính trực, còn có thể trực tiếp nói lời can gián lên bề trên, mà không sợ xúc phạm đến những người có quyền có thế. Giấc mộng thứ ba gọi là giấc mộng hiệp khách, nếu như thanh quan cũng không thể trông cậy được nữa, thì hy vọng sẽ có một vị hiệp khách thay dân báo thù rửa hận.

Ba giấc mộng của người Trung Quốc thời nay: Giấc mộng thứ nhất gọi là giấc mộng tự do, chính là thoát ra khỏi sự chuyên chế của bộ máy chính trị một đảng độc tài, không còn bị đàn áp bức hại bởi những kẻ thống trị cậy quyền cậy thế cũng như bè lũ quan lại quyền quý hống hách lộng hành, giấc mộng thứ hai gọi là giấc mộng nhân quyền, chính là tất cả người dân đều có thể hưởng quyền lợi bình đẳng, không còn có bất cứ tầng lớp nào có đặc quyền cao hơn quảng đại quần chúng nhân dân để rồi khiến cho những người dân thấp cổ bé họng chỉ có thể uất ức căm hận mà chẳng làm được gì. Giấc mộng thứ ba chính là giấc mộng chính trị dân chủ, cũng chính là chế độ dân chủ toàn dân, tất cả người dân trong cả nước cùng nhau lập ra hiến pháp căn bản dựa trên cơ sở người người bình đẳng, đồng thời sẽ theo đó mà làm việc.

Ba giấc mộng thời xưa chính là “giấc mộng kê vàng” giữa ban ngày, mang tính bị động tiêu cực đối với nhân dân, là chính sách ngu dân mang lại ác mộng nghìn năm, chỉ có thể khiến cho dân chúng trở thành những con cừu ngoan ngoãn, mặc cho kẻ thống trị làm mưa làm gió, xâu xé giết hại, thống trị vĩnh viễn.

Ba giấc mộng thời nay chính là yêu cầu tất yếu của văn minh thương nghiệp, là một xã hội dân chủ khai sáng mà người người đều đã thấy rõ, là biểu hiện của toàn dân thức tỉnh, là kết quả mà tất cả kẻ sĩ và những người nhân nghĩa đều đang mong chờ, và ngày ấy nhất định sẽ đến”.
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Đảng Cộng Sản từ khước vai trò lãnh đạo đất nước

Nguyễn Hưng Quốc

(Blog VOA)
Về phương diện chính trị, ở Việt Nam hiện nay có một nghịch lý: Một mặt, Đảng Cộng Sản tự khẳng định một cách công khai, chính thức và dõng dạc trong Hiến Pháp là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước; mặt khác, trên thực tế, chưa bao giờ Việt Nam lại thiếu sự lãnh đạo như là bây giờ.

Lãnh đạo chứ không phải là cai trị. Đó là hai điều hoàn toàn khác nhau. Cai trị chỉ cần dùng sức mạnh để dập tắt mọi sự phản kháng của những người bị trị để giữ nguyên tình trạng hiện có trong đó người cai trị vẫn là những người cai trị và những người bị trị vẫn tiếp tục bị trị. Nói cách khác, cai trị là nỗ lực kéo dài một quá khứ. Lãnh đạo thì khác: Lãnh đạo hướng tới tương lai. Lãnh đạo là dẫn dắt một tập thể hướng tới một chân trời mới trong tương lai. Cai trị cần sự vâng phục trong khi lãnh đạo cần sự đồng thuận. Cai trị được xây dựng trên bạo lực và áp chế trong khi lãnh đạo được xây dựng trên sự khai sáng và tin tưởng. Cai trị cần ngục tù và súng đạn trong khi lãnh đạo cần ánh sáng và trí tuệ.

Trong quá khứ, Đảng Cộng Sản, với một mức độ nào đó, từng đóng vai trò lãnh đạo. Những người lãnh đạo biết rõ họ tin gì và muốn gì. Dân chúng cũng biết rõ các nhà lãnh đạo tin gì và muốn gì: Họ tin vào chủ nghĩa xã hội và muốn đất nước, hoặc thoát khỏi ách Pháp thuộc hoặc được thống nhất. Những điều họ tin và họ muốn chưa chắc đã chính đáng, có khi, ngược lại, chỉ dẫn đến chiến tranh tang tóc và họa độc tài hà khắc. Nhưng có hai điều quan trọng nhất là: một, dân chúng biết rõ giới lãnh đạo tin gì và muốn gì, và hai, một số bộ phận không nhỏ trong dân chúng chia sẻ những điều họ tin và muốn ấy.

Còn bây giờ?

Trong các kỳ đại hội đảng, người ta cũng có những bản báo cáo về những thành tựu trong quá khứ cũng như những kế hoạch năm năm, nhưng tất cả đều được viết theo những công thức chung chung, mơ hồ và rối rắm. Người ta vẫn nói đến chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng tất cả đều không có một nội dung cụ thể nào cả. Không ai có thể hiểu chủ nghĩa xã hội sau khi bị phá sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu ấy có diện mạo ra sao. Còn cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay vẫn chưa có một đường nét rõ rệt. Ngay cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà người ta thường lặp đi lặp lại trong các nghị quyết cũng như trong ngôn ngữ tuyên truyền cũng không ai biết là gì. Từ các văn bản chính thức ở các đại hội đảng ấy, dân chúng hoàn toàn không thể hình dung con đường mà Đảng Cộng Sản muốn dẫn dắt mọi người đi sẽ đến đâu. Không. Hoàn toàn không thể biết. Ngay chính Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cũng không biết khi thừa nhận có khi đến tận cuối thế kỷ 21 người ta mới có thể đạt đến chủ nghĩa xã hội. Lâu. Lâu quá. Trong hiện tại thì tất cả đều mù mịt. Trước sự mù mịt ấy, mọi danh xưng lãnh đạo đều mất hết ý nghĩa.

Mà chưa bao giờ dân tộc Việt Nam cần sự lãnh đạo như là bây giờ.

Ở đâu cũng thấy bế tắc.

Về giáo dục, ai cũng than là chưa bao giờ xuống cấp như bây giờ: học trò đạo văn, các thầy cô giáo cũng đạo văn. Không đạo văn thì cũng nhai lại những kiến thức cũ mèm. Quan hệ giữa thầy trò cũng càng lúc càng tệ hại: thầy cô thì coi học sinh như những khách hàng mình vơ vét được bao nhiêu trong các lớp dạy kèm được thì vơ vét còn học sinh thì cũng chả coi trọng gì các thầy cô giáo; có học sinh còn đánh gục các thầy cô giáo ngay trong lớp học. Nhà nước có chính sách gì để ngăn chặn tình trạng xuống cấp ấy không? Không.

Về đạo đức thì càng lúc càng suy đồi, quan hệ giữa người và người càng lúc càng lạnh lẽo, tâm lý vô cảm trước những nỗi đau của người khác càng lúc càng phổ biến. Cái gọi là tình hàng xóm hay tình người vốn là nét son mà người Việt Nam trước đây thường tự hào đến giờ biến mất. Nhà nước có chính sách gì để diệt trừ nạn vô cảm ấy và khôi phục lại truyền thống tốt đẹp ngày trước không? Không.

Về kinh tế thì nợ công càng ngày càng chồng chất kéo theo những di hại có khi đến cả mấy thế hệ, mức phát triển càng lúc càng chậm chạp, về nhiều phương diện, có khi còn thua cả Campuchia và Lào. Về xã hội, nạn tham nhũng tràn lan, lớn ăn lớn, nhỏ ăn nhỏ, làm gì cũng cần tiền đút lót; người ta mua bán chức quyền cho nhau, bất kể tài năng và tư cách. Nhà nước có chính sách gì để giải quyết các khó khăn và đẩy mạnh sự phát triển kinh tế cũng như giảm trừ nạn tham nhũng không? Không.

Về nhân quyền, tất cả những quyền căn bản của con người đều bị vùi dập. Tự do ngôn luận: không. Tự do biểu tình: không. Tự do lập hội, dù chỉ là những hội dân sự rất ư bình thường: không. Xuống đường để chống đối các chính sách của nhà nước bị cấm đoán, đã đành. Ngay cả xuống đường để chống Trung Quốc một cách chính đáng cũng bị ngăn cấm, hơn nữa, khủng bố. Nhà nước có chính sách gì để cải thiện tình trạng ấy không? Không.

Nhưng quan trọng nhất là những bế tắc trong lãnh vực chính trị. Cả chính trị đối nội lẫn chính trị đối ngoại đều bế tắc. Về đối nội, ai cũng biết cái nhãn chủ nghĩa xã hội chỉ là một chiêu bài dối trá, nhưng vất bỏ cái chiêu bài ấy, Việt Nam sẽ có một thể chế như thế nào? Không ai biết cả. Cả chính quyền có lẽ cũng không biết. Người ta chỉ đe dọa: đa đảng và đa nguyên chỉ dẫn đến hỗn loạn. Nhưng các nước dân chủ trên thế giới thì sao? Sao không có hỗn loạn? Tại sao dân chủ chỉ gây hỗn loạn ở Việt Nam mà thôi? Về đối ngoại, có một trọng tâm khiến mọi người đều nhức nhối: chính quyền Việt Nam sẽ giải bài toán Trung Quốc ra sao? Sẽ theo hùa Trung Quốc và mặc kệ các sự xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc hay sẽ tìm cách chống lại Trung Quốc để bảo vệ độc lập và chủ quyền trên biển và đảo? Gần đây, Việt Nam có vẻ muốn thắt chặt quan hệ với Mỹ nhưng quan hệ ấy sẽ được đẩy xa đến mức nào? Việt Nam sẽ tìm kiếm điều gì ở Mỹ? Đó chỉ là một trò đu dây để mua thời gian hay một thực tâm muốn có đồng minh để đối đầu với Trung Quốc? Tất cả những thắc mắc ấy không có ai trả lời cả. Ở điểm dân chúng cần sự lãnh đạo nhất, những người gọi là lãnh đạo lại kín như bưng. Mà chưa chắc họ đã có một chính sách nào cụ thể.

Bởi vậy, có thể nói không có gì quá đáng khi cho Đảng Cộng Sản hiện nay đang từ khước vai trò lãnh đạo của mình. Họ chỉ còn là những nhà cai trị độc đoán và hung bạo. Vậy thôi.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Giấc mơ Trung Hoa đang dần sụp đổ?
Duy Duy
( HOA TỰ DO )

“…Ngay tại thời điểm mà giá cổ phiếu sụt giảm một cách đáng lo ngại như lần này, chúng tôi đều có chung một ý nghĩ rằng tình hình ổn định xã hội tại Trung Quốc sẽ bị đe doạ”, theo Dong Tao, một chuyên gia phân tích của Crédit Suisse…”

- Đến cuối cùng, cho dù cả thế giới nghĩ gì đi chăng nữa thì có một thực tế không thay đổi, đó chính là việc Trung Quốc đang dần sụp đổ.

Trước đây hầu hết các quốc gia khác đều nhìn nhận Trung Quốc như một “kỳ phùng địch thủ” của Mỹ trên mọi mặt trận. Thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng, trong một tương lai gần, đất nước Trung Hoa này sẽ vượt mặt đế quốc Mỹ, vươn lên trở thành cường quốc số một thế giới.

Tuy nhiên, đà lao dốc không phanh trên thị trường chứng khoán đã khiến toàn bộ nền kinh tế nước này chìm sâu trong một màu xám ảm đạm, nỗ lực cứu vãn tình thế của Chính phủ nước này lao vào ngõ cụt khi không nhận được sự đồng tình của người dân đã khiến tình trạng thêm phần nguy cấp. Và dường như giấc mơ của người Trung Hoa đang dần lụi tàn.

Giấc mơ Trung Hoa sụp đổ

Chỉ số Shanghai Composite Index tăng vọt 150% trong 12 tháng tính đến ngày 12.6 vừa qua đã khiến bong bóng chứng khoán Trung Quốc phình to hơn và vỡ nhanh hơn. Đà lao dốc không phanh ngay sau đó khiến các nhà đầu tư mua cổ phiếu bằng tiền đi vay đã phải ồ ạt bán ra để có tiền trả nợ, khiến tốc độ lao dốc của thị trường càng bị đẩy nhanh. Và trước khi đà sụt giảm chấm dứt vào thứ 5 tuần trước, sàn Thượng Hải đã xoá sạch những gì kiếm được từ 3 tháng trước đó.
Image
Một nhà đầu tư chứng khoán nhìn chằm chẳm vào bảng
điện tử theo dõi chỉ số. Ảnh được chụp vào ngày 10/7
tại Thượng Hải (Nguồn: Reuters/Aly Song)
Có thể nói, đà sụt giảm ập đến bất ngờ trên sàn chứng khoán Trung Quốc khiến các nhà đầu tư nhỏ lẻ lao đao, các tỷ phú trong và ngoài nước mất trắng hàng chục tỷ đồng, hơn 3.200 tỷ đô la “bốc hơi” chỉ trong ba tuần trên thị trường chứng khoán. Hàng loạt biện pháp của giới chức nước này đưa ra nhằm giải cứu thị trường như nỗ lực mua vào cổ phiếu, tung ra gói kích thích kinh tế mới, huỷ các thương vụ IPO, phá giá đồng nội tệ,… đều gặp thất bại bởi không nhận được sự tin tưởng từ người dân.

Trong khi Trung Quốc đang nỗ lực chống chọi, cố gắng vượt qua cú sốc này thì cả thế giới lại chưa hết bàng hoàng trước biến động nặng nề đến từ đất nước Trung Hoa.

Thậm chí, các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương cho rằng Trung Quốc đáng nguy hơn đất nước mới vỡ nợ, Hy Lạp. Bởi nếu Trung Quốc đột nhiên bị một cú huých mạnh thì các nền kinh tế từ gần đến xa sẽ bị tàn phá nặng nề.

Liệu có đáng sợ?

Đà sụt giảm 30% của thị trường chứng khoán đã khiến toàn bộ kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng nguy cấp.

Giới chức nước này quan ngại đất nước sẽ rơi vào tình trạng hoảng loạn, mất đi trật tự xã hội. Bởi một khi người Trung Quốc cảm thấy những kế hoạch của Chính phủ đưa ra nhằm cứu vãn tình thế nhưng lại không mang về bất cứ lợi ích gì cho mình, họ sẽ tự động cô lập nó và không tuân theo luật lệ.
Image
Người đàn ông theo dõi giá cổ phiếu trên bảng điện tử.
Ảnh được chụp tại một sàn chứng khoán ở Bắc Kinh
hôm 6.7 (Nguồn: Reuters/Kim Kyung-Hoon)
Đó là lý do tại sao chuyện sụp đổ của thị trường chứng khoán vô cùng nghiêm trọng với Chính phủ Trung Quốc. Một khi xảy ra sự việc như vậy, người dân nước họ sẽ không còn niềm tin để tiếp tục thực hiện giao dịch.

“Ngay tại thời điểm mà giá cổ phiếu sụt giảm một cách đáng lo ngại như lần này, chúng tôi đều có chung một ý nghĩ rằng tình hình ổn định xã hội tại Trung Quốc sẽ bị đe doạ”, theo Dong Tao, một chuyên gia phân tích của Crédit Suisse.

Đến cuối cùng, cho dù cả thế giới nghĩ gì đi chăng nữa thì có một thực tế không thay đổi, đó chính là Trung Quốc đang dần sụp đổ.
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Kết quả chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng: Không ngoài ‘dây rốn’ Trung Hoa?

Võ Thị Hảo (Blog RFA)
Việc tổng bí thư đảng CS VN được tổng thống Mỹ đón tiếp tại Nhà Trắng đã khiến rất nhiều người quan tâm đến vận nước phấp phỏng hy vọng.

Ðảng Cộng Sản VN đã có phần thay đổi theo khuynh hướng tôn trọng quyền lợi của đất nước?

Một sự cải thiện về chất trong mối quan hệ Mỹ-Việt?

VN có cơ cải cách thể chế theo chiều thướng tiến bộ, có dân chủ và nhân quyền?

Những văn bản quan trọng cam kết về lộ trình thực hiện để có thể thay đổi thể chế độc tài độc đảng sẽ được ký kết? Một hợp tác quân sự đủ lớn ở mức VN có thể kiềm chế được cái lưỡi tham lam của TQ và giữ hòa bình ổn định lâu dài?

Nhưng sau cuộc họp báo và bản Tuyên bố Tầm nhìn chung Việt Nam-Hoa Kỳ được công bố ngày 7 tháng 7, 2015, nhiều người đã thất vọng.

Giẫm chân tại chỗ

Theo nội dung đã công bố, hai bên vẫn chỉ là “đối tác hợp tác toàn diện.” Mà hợp tác toàn diện, thì ông Trương Tấn Sang đã ký với Mỹ từ cách đây 2 năm, cần gì phải đến chuyến đi này của ông Trọng!

Ngày 25 tháng 7, 2013, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng Thống Obama quyết định xác lập quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Mỹ nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ... Quan hệ đối tác toàn diện mới sẽ tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ thương mại và kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, văn hóa, thể thao và du lịch.”

Như vậy, về vị trí đối tác, sau rất nhiều nỗ lực của Tổng Thống Obama, Mỹ cũng vẫn nằm tại vị trí hai năm trước, chỉ là một trong mười một nước “đối tác toàn diện” của VN, ngang hàng Chile và Malaysia!

Cho đến giờ này, VN vẫn giữ lập trường cộng sản, chỉ “hợp tác chiến lược toàn diện” với Trung Quốc (năm 2008) và Nga (2012).

Theo định nghĩa thì đối tác toàn diện là quan hệ thông thường giữa các chủ thể đã có một hoặc một vài mặt nào đó đạt đến mức chiến lược, nhưng chưa có sự đồng đều giữa các mặt hợp tác. Do sự tin cậy lẫn nhau chưa đủ hoặc thời điểm chưa chín muồi...

Ðối tác chiến lược toàn diện hay còn gọi là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, tức là hai hay nhiều bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực mà các bên cùng có lợi. Ðồng thời hai bên còn xây dựng sự tin cậy lẫn nhau ở cấp chiến lược.

Vế đối “đạo văn” TQ

“Thú vị,” “sâu sắc,” “ngỡ ngàng,” “kỳ diệu,” “hết sức tâm đắc”... đó là những mỹ từ mà tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã dùng trong phát biểu với Tổng Thống Obama và trong bài diễn văn đọc trước bữa tiệc chiêu đãi do Phó Tổng Thống Joe Biden chủ trì.

Nguyễn Phú Trọng còn đưa ra một vế của câu đối - ngay cả điều này cũng mang phong cách đặc quan thầy TQ - để tán dương quan hệ VN và Mỹ: “Gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai.”
Ngay nội dung của “16 chữ bạc” này cũng thể hiện một ý nghĩa hợp tác hời hợt, chỉ là gác lại quá khứ, khác biệt, phát huy những điểm giống nhau mà thôi. Ðiều đó khác hẳn với nội dung hợp tác với TQ - nước đã xâm lược VN và nhiều năm nay đã bằng mọi cách, như con trăn nuốt dần VN.

Người ta không thể không nhớ lại, năm 1999, trong tuyên bố chung cấp cao, Trung Quốc đã khái quát phương châm “16 chữ vàng” với Việt Nam, cụ thể như sau: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.

Ký, nhưng là những văn bản hợp tác vòng ngoài

Nếu được kể là nội dung mới trong Tuyên bố tầm nhìn chung Việt Nam-Hoa Kỳ thì không đáng kể.

...Việt Nam và Hoa Kỳ mong đợi phối hợp chặt chẽ với các bên tham gia đàm phán khác để hoàn tất sớm nhất có thể Hiệp Ðịnh Ðối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) toàn diện, nhiều kỳ vọng và tiến hành những cải cách mà thấy có thể cần thiết nhằm đáp ứng tiêu chuẩn cao của Hiệp Ðịnh TPP, kể cả khi cần thiết đối với các cam kết liên quan tới Tuyên bố của ILO năm 1998 về Nguyên tắc cơ bản và Quyền tại nơi làm việc...”

Ngay khi TQ đang xâm lấn VN, nhà cầm quyền VN vẫn liên tục ký những văn bản hợp tác bất bình đẳng và im lặng trước sự xâm lược của TQ. Chỉ trong năm 2015 đã dồn dập ký tới hàng chục văn bản ảnh hưởng cốt tử, gây nguy hiểm cho VN, luôn thọ mệnh “từ quan thầy TQ qua cái gọi là Ủy Ban Chỉ Ðạo Hợp Tác Song Phương”...

Trong khi đó các hiệp định và thỏa thuận vừa ký với Hoa Kỳ chỉ là: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn lậu thuế, bản ghi nhớ về hợp tác gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc, chương trình các mối đe dọa đại dịch mới nổi, an ninh y tế toàn cầu, về hàng không dân dụng và giấy phép lập Ðại Học Fulbright VN.

Ðó chỉ là những văn bản hợp tác “vòng ngoài,” chưa thể tạo ra một cải cách, một thay đổi về chất trong quan hệ hợp tác giữa hai nước.

Chữ “tăng cường” trong Tuyên bố Tầm nhìn chung Việt Nam-Hoa Kỳ ngày 7 tháng 7, 2015 được nhắc lại đến 9 lần.

Số lượng hình dung từ này nhiều đến mức gợi nhớ đến nghị quyết của Ðảng Cộng Sản và bản kế hoạch, chương trình hành động của chính phủ VN. Người VN đã dị ứng với những từ như “đẩy mạnh,” “tăng cường,” “làm sâu sắc hơn,” “thúc đẩy”... Họ biết rằng với Hoa Kỳ có thể tin vào những lời hứa đó nhưng VN thì thường chỉ là hứa suông, thậm chí làm ngược lại.

Sự hài lòng của TQ

Kết cục giống như những người thực tế đã dự tính. Mặc dù Mỹ đã tạm thời bỏ qua tất cả những khác biệt về thể chế, những vi phạm nhân quyền... để chìa cánh tay cho VN, nhưng một VN giảo hoạt vẫn lập lại những bài nói đã cũ mèm, nghe thì đầy những hình dung từ kêu như chuông nhưng cuối cùng vẫn chỉ bộc lộ bản chất bên trong: hăng hái gia nhập TPP, mong ông Mỹ thể tất cho để được công nhận là nền kinh tế thị trường. Tiền đầu tư thì nhận nhưng điều cốt tử của nhà cầm quyền là giữ thể chế Cộng Sản độc tài, hợp tác chỉ ở mức hời hợt...

Những lời hoa mỹ về hứa hẹn hợp tác tăng cường nhân quyền được nhắc đến nhiều lần. Nhưng cơ sở để tin là VN sẽ thực hiện thì gần như bằng không, vì từ năm 2013, sau khi ông Sang ký với Mỹ một văn bản hợp tác toàn diện, nhà nước CSVN đã tăng mức độ đàn áp người bất đồng chính kiến, dân oan, bạo lực xã hội và tham nhũng cũng tăng vọt. 2015 là năm của những vụ tàn sát cả gia đình vô cùng tàn bạo. Số lượng công an, an ninh xã thôn xóm... là khổng lồ, tiêu phí rất nhiều tiền thuế của dân nhưng chủ yếu để đàn áp những tiếng nói bất đồng hoặc để phục vụ cho việc bảo kê lợi ích của quan chức chính quyền...

Quan hệ đồng minh: xa vời

Qua chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ, có thể thấy rằng một khi còn thể chế chính trị Cộng Sản độc tài, sự lệ thuộc của họ vào TQ gần như tuyệt đối.

Dù nhà cầm quyền Cộng Sản VN đi đâu, làm gì, dù họ có đặt chân tới vương quốc tự do nào, thì “con rắn Trung Hoa” trong tay áo họ vẫn nhả nọc độc ngấm vào tim họ, sai khiến họ theo những tiêu chí quyền lợi của TQ. Rất tiếc là quyền lợi này luôn đi ngược quyền lợi của đất nước VN.

Viết cho BBC, Tiến Sĩ Vũ Tường, phó giáo sư, Ðại Học Oregon nhận định:

...Qua việc bày tỏ thiện chí, chính quyền Obama có thể thuyết phục Bộ Chính Trị chấp nhận viết vào Hiệp Ðịnh TPP một vài câu mơ hồ về cải thiện nhân quyền ở Việt Nam để Quốc Hội Mỹ dễ chấp thuận hơn.

Washington cũng có thể hy vọng công an Việt Nam thả một vài nhân vật đối kháng và giảm bớt việc bắt bớ đàn áp trong một giai đoạn nào đó.

Có thể tiên đoán Washington sẽ đạt được những mục tiêu khiêm tốn trên...

Thứ hai, vì sao Việt Nam nhận lời?

Tại sao ông Trọng (và trước đó là Nghị và Quang) nhận lời đi Washington?
Áp lực từ Trung Quốc và đấu đá nội bộ là những lý do chủ yếu...

Chuyên gia này cũng đã tiên đoán một cách thuyết phục về xu hướng sắp tới:

...Nhìn xa hơn chuyến đi, những xu hướng căn bản của chính trị Việt Nam cho phép chúng tôi tiên đoán ba điều sau đây:

Thứ nhất, Hiệp Ðịnh Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ được thông qua, nhưng kinh tế Việt Nam ngày càng lệ thuộc Trung Quốc nhiều hơn;

Thứ hai, chiến tranh Việt-Trung sẽ không xảy ra dù Trung Quốc ngày càng lấn lướt;

Và thứ ba, lệnh cấm vận vũ khí sát thương của Mỹ sẽ được dỡ bỏ phần lớn, nhưng quan hệ đồng minh thực sự giữa Việt Nam và Mỹ vẫn xa vời.” (Theo BBC - Toàn cảnh chuyến thăm Mỹ của Nguyễn Phú Trọng. 7/7/2012)
Cũng có thể thấy sự đắc ý của TQ qua Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc ngày 8 tháng 7 trong bài xã luận về chuyến thăm Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng.

“...Một số nhà quan sát và trí thức Mỹ có thể muốn đưa Việt Nam vào trại của Mỹ để chống Trung Quốc. Mục tiêu này dường như luôn hiển hiện, nhưng mãi mãi không làm được.

“...Trung Quốc không cần làm ầm lên trong khi Việt Nam và Mỹ phát triển quan hệ bình thường...

“Cho đến nay, không nước nào có lợi khi mời Mỹ vào can thiệp tranh chấp với Trung Quốc. Thực tế, chuyện này sẽ chỉ thất bại.”

Xem đó để biết rằng, dù có những tín hiệu tốt hơn về bang giao Việt-Mỹ, nhưng nước Mỹ và những nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền cùng cải cách thể chế ở VN sẽ hoàn toàn bị ngăn trở nếu chưa xóa bỏ được thể chế Cộng Sản độc tài.

Bởi chế độ này chung một “dây rốn” ăn vào “tử cung” của nhà độc tài TQ.

Trong sự kiềm tỏa của “dây rốn” đó, dẫu ông Nguyễn Phú Trọng hay ai đó bỗng bất chợt ăn năn thì cũng đã bị trói tay.

Vẫn phải vững chí bền gan, Việt Nam ơi!
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Đi Với Mỹ Là Chuyện Phải Làm
Vi Anh

Đi với Mỹ lúc này là hợp tình, hợp lý, là chuyện phải làm, trên cả hai phương diện quyền lợi của nhà cầm quyền CS cũng như của nhân dân VN.

Chuyến công du Mỹ của Ô. Nguyễn phú Trọng là một đổi thay có tính chiến lược của đảng CS cầm quyền, quan trọng như khi CSVN chuyển hệ tư duy sang kinh tế thị trường để cứu nguy nền kinh tế tập trung cứng rắn theo chủ nghĩa CS làm cho kinh tế tài chánh VNCS sắp phá sản và dân chúng VN lần đầu tiên trong lịch sử phải ăn độn.

Chuyến công du của Ông Trọng là kết quả của cả một chuổi cố gắng ngoại giao của đại đa số các thành phần trong Đảng Nhà Nước chủ trương đổi mới kinh tế, xích lại gần Mỹ để hoá giải phần nào hành động đà xâm lấn biển đảo, thao túng kinh tế, chánh trị của TC đối với quốc gia dân tộc VN.

Chuyến công du của Ô. Trọng là hành động Mỹ lung lay, nhổ gốc TC ở VN, làm yếu tinh thần bảo thủ lệ thuộc TC trong Đảng Nhà Nước CSVN. Đây là một nhận định sau cùng của Đảng Nhà Nước CSVN, yên lòng thấy Mỹ không có tham vọng đất đai và rất hy vọng Mỹ có thể giúp làm lá chắn ngăn chận, be bờ TC xâm lấn biển đảo của các nước Á châu Thái bình dương, trong đó VN là nước bị mất nhiều nhứt.

Đó là một phát triển ngoại giao, tăng gia hợp tác từ toàn diện đến toàn diện sâu sắc. Đó là nhịp cầu để phát triển đối tác chiến lược toàn diện. Đó cũng là một quyết định hợp tình, hơp lý, hợp lòng dân trong cũng như ngoài nước. Đúng là một chuyện cần làm, phải làm, làm ngay, làm sớm càng tốt. Nên trong cuộc biểu tình chống TBT Nguyễn phú Trọng, đề tài biều tình của các cộng đồng người Mỹ gốc Việt và Canada gốc Việt, không thấy một điều nào chống CSVN tăng cường bang giao, giao thương, họp tác với Mỹ. Chỉ chống CS vi phạm nhân quyền, yêu cầu TT Obama tranh thủ nhân quyền khi đàm đạo với Tổng Trọng thôi.

Các dân biểu nghị sĩ Mỹ cũng vậy. Những vị từng chống CSVN như 9 vị dân biểu Mỹ đã cùng ký vào một bức thư gửi cho ông Obama, chống “hệ thống độc đảng độc tài” vì đó chính là “nguyên nhân gốc rễ của tình trạng nhân quyền tồi tệ tại Việt Nam”, và đòi thả tất cả tù nhân chánh trị. Phong trào đấu tranh chống CSVN của người Việt hải ngoại từ khá lâu đã đã ít hay không còn nghĩ đến chuyện đưa quân về tấn công võ trang CS nữa. Mà đa số chuyển sang đấu tranh chánh trị, đấu tranh cho nhân quyền VN cho tự do dân chủ VN, cho hợp xu thế thời đại, hợp với tình hình của các siêu cường ngày càng bình thường hoá bang giao và giao thương với CSVN. Đấu tranh chánh trị cho CS chuyển biến, diễn biến hoà bình, tạo vận hội cho đồng bào ở nước nhà giành lại những quyền bất khả tương nhượng của người dân mà CS đã tước đoạt. Xu thế này được các siêu cường ủng hộ càng ngày càng mạnh, trong đó có Mỹ.

Thời đại này là thời đại các quốc gia liên lập. Một nước nhược tiểu bị nước lớn áp bức thì nhờ nước khác giúp đỡ là chánh nghĩa, là thuận đạo lý và pháp lý quốc tế. VN bị Trung Quốc đông dân, nhiều tiền, mạnh sức, nhiều mưu áp bức, đe doạ thì tìm đường hoá giải là chuyện phải làm. Con đường đi với Mỹ là con đường logic, thuận lòng dân, hợp ý các nước trong vùng. Tổng thống Mỹ Barack Obama hơn một lần bày tỏ bất bình, Trung Quốc đang dùng sức mạnh và quân số đông đảo của mình để hiếp đáp các nước nhỏ hơn trong vùng Á châu Thái bình dương. Cụ thể hơn, Ông nói Hoa Kỳ không chấp nhận việc Trung Quốc “hiếp đáp Philippines hay Việt Nam, chỉ vì các nước này nhỏ hơn Trung Quốc”.

Thử hỏi tại sao TC rút giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế VN hồi tháng 7 năm ngoái. Một phần là do Thượng Viện Mỹ ra nghị quyết phản đối TC gây bất ổn và muốn vẽ lại địa lý chánh trị Biển Đông và Thượng Viện bồi thêm một cú đà đao nữa là hứa bán một phần vũ khi sát thương cho VN.

Còn mới đây nhơn TBT Trọng công du Mỹ, Hoàn Cầu Thời Báo một dạng bản của Nhân dân Nhựt Báo tiếng nói chánh thức của TC hăm VN mẻ răng, mà TC đâu có đánh VN. Hăm nếu CSVN tiến gần hơn với Mỹ để đối phó Trung Quốc, thì Hà nội coi chừng sẽ gặp phải các đòn trả thù từ phương Bắc. TC còn mở chiến dịch tuyên truyển rỉ tai, nói TC hàng trăm sư đoàn áp sát biên giới phía Bắc VN. TC còn xúi giục Miên tạo xung đột ở biên giới phía Tây của VN, giữa tỉnh Tân an và Svay Rieng của Miên. TC giương oai diệu võ. triệu Bộ Trưởng Quốc Phòng Miên cầm đầu và 23 tướng lãnh trong đó có 3 tư lịnh của ba binh chủng Hại, Lục, Không Quân Miên đi TC như để chỉ dẫn cách bày binh bố trận gây ra chiến tranh biên giới với VN.

Nhưng vòng ngoài, ngoài Biển Đông, Mỹ làm một việc rất êm nhưng rất thấm tận tim gan TC, là TC xếp de. Tin đài VOA tiềng nói chánh thức của Mỹ, cho biết Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ hôm 14/7 cho hai tàu chiến của Mỹ là tàu tác chiến cận duyên USS Fort Worth phối hợp với tàu khu trục có hoả tiễn dẫn đường USS Lassen tuần tra vùng biển tranh chấp ở Biển Đông. Chỉ huy tàu Fort Worth Rich Jarrett, nói trong thông cáo báo chí, để “thể hiện cam kết của Hoa Kỳ đối với khu vực Ấn Độ Dương và Á Châu-Thái Bình Dương, đồng thời chứng tỏ khả năng của chúng tôi thực hiện các hoạt động tự do trên biển cả”. Truyền hình CNN của Mỹ thì hôm 14/7 dẫn lời các giới chức Mỹ cho biết là Mỹ đang cân nhắc việc đưa thêm máy bay và tàu để thách thức những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc tại các hòn đảo trên Biển Đông.Thế là TC xuống giọng liền, phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói, trong khi Bắc Kinh ủng hộ tự do hàng hải ở Biển Đông, Hoa Kỳ phải thận trọng và sử dụng quyền này một cách đúng đắn.

Tóm lại, chưa lúc nào thời cơ lại thuận lợi cho Đảng Nhà Nước CSVN hơn lúc này trong việc đi với Mỹ để cứu Biển Đông đang bị TC xâm thực một cách bạo ngược như lúc này. Trong chánh trị không có thù muôn thuở bạn muôn đời, chỉ có quyền lợi quốc gia dân tộc là miên viễn, là trên hết. Không có đảng phái nào cao hơn quốc gia dân tộc. Không có chế độ nào bền vững hơn quốc gia dân tộc. Không có gì phải mặc cảm khi liên minh với nhưng nước có thể giúp mình. Thế giới ngày xưa cũng như ngày nay, một quốc gia dân tộc nhỏ cần liên minh với quốc gia dân tộc lớn hơn để bảo vệ giang sơn gấm vóc bờ cõi nước mình là một việc làm chánh nghĩa, không ai có quyền phê phán. Quyền lợi quốc gia, sinh mạng dân tộc là vấn đề tối thượng. Nếu Đảng Nhà Nước CSVN không làm, là thông đồng với TC để cho TC xâm thực VN, dần dần biến VN thành thuộc địa kiểu mới của TC. Và trong trường họp đó Đảng Nhà Nước CSVN thành tội đồ muôn thuở của lịch sử VN./.(Vi Anh)
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Việt Nam và Mỹ
Monday, July 20, 2015 1:45:15 PM

Nguyễn Hưng Quốc (Blog VOA)

Theo dõi báo chí trong nước từ sau chuyến đi Mỹ của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vào đầu tháng 7 vừa rồi, chúng ta dễ dàng ghi nhận hai sự kiện chính: Một, khác hẳn với trước đây, bây giờ người ta công khai công kích âm mưu xâm lấn của Trung Quốc trên Biển Ðông, tố cáo những hành động cướp cá hay đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam trên vùng biển gần Hoàng Sa, bày tỏ sự đồng tình với việc Philippines kiện Trung Quốc lên toà án Liên Hiệp Quốc, tổ chức các buổi tưởng niệm tử sĩ và nạn nhân trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1989. Hai, thể hiện sự vui mừng trước sự phát triển tốt đẹp của quan hệ Việt-Mỹ và tin tưởng vào chiến lược tái cân bằng ở Châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ.

Hai sự kiện ấy cho thấy một sự biến chuyển quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trước, họ, một mặt, né tránh nêu đích danh Trung Quốc như một kẻ bành trướng ngang ngược, hoặc nếu có, cũng chỉ đề cập một cách hết sức nhẹ nhàng, không kèm theo một sự phê phán nào cả; mặt khác, ít khi nhắc đến Mỹ, hoặc nếu nhắc, chỉ nhắc một cách bâng quơ, đặc biệt về chiếc lược xoay trục sang Châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ.

Bây giờ, mọi sự khác hẳn.

Dấu mốc của sự thay đổi ấy chắc chắn đến từ chuyến đi Mỹ của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Nhưng thật ra, chuyến thăm viếng ấy không đánh dấu một sự đột biến nào. Trừ bản thoả thuận về tầm nhìn chung giữa hai nước, không có hiệp ước quan trọng nào được ký kết. Nội dung của bản thoả thuận về tầm nhìn chung cũng không có gì mới mẻ: Tất cả đã được nêu lên trong một số cuộc gặp gỡ trước đó. Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ vẫn dừng lại ở tầm “đối tác toàn diện” vốn đã được chính thức hoá từ chuyến viếng thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào năm 2013. Quan hệ ấy chưa được nâng lên tầm “đối tác chiến lược,” điều có lẽ Việt Nam rất mong muốn, ít nhất trong thời điểm hiện nay, khi Việt Nam cần một chỗ dựa vững chắc trong thế trận đối đầu với Trung Quốc trên Biển Ðông.

Rõ ràng là quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tiến triển khá chậm và có lúc, khá khúc khuỷu. Người đầu tiên thúc đẩy quá trình hợp tác giữa hai nước là Mỹ chứ không phải là Việt Nam. Trong chuyến viếng thăm Việt Nam vào giữa năm 2010, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton đã đề nghị thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước nhưng Việt Nam làm ngơ. Trước đó, trong bản tường trình mỗi bốn năm Quadrennial Defense Review của Bộ Quốc Phòng Mỹ cũng đã nêu lên sáng kiến xây dựng quan hệ chiến lược với Việt Nam. Tháng Bảy năm 2012, Mỹ mời Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ nhưng Nguyễn Phú Trọng lưỡng lự, không đáp ứng ngay. Trong khi đó, Việt Nam lại tìm kiếm quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác, trong đó, có Úc nhưng bị Úc từ chối hai lần: lần đầu, vào năm 2009 khi Kevin Rudd làm thủ tướng và lần sau, năm 2015, khi Tony Abbott làm thủ tướng. Lý do từ chối ở cả hai lần là vì, dưới mắt của Úc, quan hệ đối tác chiến lược ấy chỉ có tính chất tượng trưng chứ chưa thể có thực chất vì thiếu những sự tin cậy cần thiết giữa hai bên.

Thái độ của Việt Nam đối với Mỹ chỉ thay đổi một cách rõ rệt nhất là sau vụ Trung Quốc mang giàn khoan HD-981 đến thăm dò dầu khí trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và đặc biệt, từ khi Trung Quốc ra sức bồi đắp các bãi đá thành đảo nhân tạo ở Trường Sa. Sau hai sự kiện ấy, các chuyến thăm giữa hai nước được tổ chức dồn dập, hết phái đoàn này đến phái đoàn khác đến thăm, gặp gỡ và bàn luận với nhau. Chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng là đỉnh điểm của các cuộc hội đàm ấy. Tuy nhiên, sau chuyến thăm của Nguyễn Phú Trọng, có hai điều vẫn chưa xảy ra: Một, quan hệ giữa hai nước vẫn chưa được nâng cấp lên thành đối tác chiến lược; và hai, Mỹ vẫn chưa giở bỏ hẳn lệnh cấm vận các loại vũ khí sát thương cho Việt Nam. Hai sự kiện ấy cho thấy vẫn còn sự e dè từ phía Mỹ.

Tại sao có sự e dè ấy?

Theo tôi, có hai lý do chính:

Thứ nhất là tình trạng nhân quyền của Việt Nam. Mỹ không đòi hỏi thay đổi chế độ tại Việt Nam nhưng họ vẫn thường xuyên lên án các hành động vi phạm nhân quyền trầm trọng tại Việt Nam và vẫn yêu sách Việt Nam phải thả các tù nhân lương tâm vẫn còn bị giam giữ khá nhiều tại Việt Nam.

Thứ hai có lẽ Mỹ cũng chưa tin tưởng hẳn vào quyết tâm của Việt Nam trong nỗ lực chống lại âm mưu bành trướng của Trung Quốc trên Biển Ðông. Ai cũng biết giới lãnh đạo Việt Nam chia làm hai phe: phe thân Tàu và phe thân Tây phương. Người ta đoán là sau vụ giàn khoan HD-981, phe thân Tây phương càng lúc càng thắng thế. Tuy nhiên, tất cả vẫn là suy đoán. Không ai biết chắc chắn mức độ của sự thắng thế ấy và cũng khó biết những toan tính thực sự trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Ðặc biệt, người ta lại càng không biết những ai sẽ trở thành những nhà lãnh đạo cao nhất tại Việt Nam sau kỳ đại hội đảng vào đầu năm tới.

Tôi nghĩ quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ sẽ rõ ràng hơn sau kỳ đại hội sắp tới của đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong lúc này, từ giới chính khách đến giới truyền thông, mọi người chỉ biết “chờ và xem.”
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Nga và Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhứt của Mỹ
Wednesday, July 22, 2015 1:57:43 PM

Võ Long Triều
Theo bản báo cáo về “Chiến lược quân sự quốc gia mới” của Bộ Quốc Phòng Mỹ ngày 2 tháng 7, 2015, Tướng Martin Demsey - Tổng tham mưu trưởng liên quân, cho rằng “bất ổn toàn cầu đã gia tăng nghiêm trọng.” Báo cáo nêu cụ thể hai cường quốc Nga và Trung Quốc đe dọa an ninh quốc gia Hoa Kỳ nhiều nhứt, kế đến là Iran và Triều Tiên. Tài liệu còn cảnh báo lợi thế quân sự của Mỹ bắt đầu bị xói mòn. Tình hình quốc tế tiềm ẩn những nhân tố xung đột. Tướng Demsey nhấn mạnh “chúng ta đang đối mặt với nhiều thách thức an ninh từ các quốc gia đối thủ.” Tài liệu còn đánh giá, xung đột trong tương lai có thể sẽ nổ ra nhanh hơn, kéo dài lâu hơn, trên một mặt trận đầy thách thức về công nghệ, do các khái niệm kỹ thuật mới, vì vậy hình thức chiến tranh cũng sẽ thay đổi. Tuy nhiên Mỹ khẳng định sẽ ngăn chận và nếu cần, sẽ đánh bại các đối thủ tiềm tàng, đồng thời tiếp tục làm suy giảm sức mạnh và sẽ triệt hạ những tổ chức bạo lực trên khắp thế giới.

Bộ Trưởng Quốc Phòng Ashton Carter nói rằng, “Chúng ta cần có một lực lượng chẳng những đủ lớn, mà còn được huấn luyện và trang bị đủ tốt, được trả lương đủ cao để tuyển mộ và lưu dụng những người thích hợp để ứng phó với hai tình huống khẩn cấp đó. Quân đội phải có khả năng ứng phó với những thách thức tại hai khu vực cùng một lức.”

Tại sao hai tình huống? Tại sao hai khu vực? Và tại sao Nga-Trung Quốc là hai quốc gia đe dọa an ninh Hoa Kỳ? Sở dĩ bản báo cáo về chiến lược quân sự của Hoa Kỳ nêu đích danh hai cường quốc Nga-Tàu, là vì Moscow và Bắc Kinh đã chọn con đường phá hệ thống pháp luật quốc tế, khi Nga dùng vũ lực huy hiếp Ukraine và xác nhập Crimea năm 2014. Còn Trung Quốc bất chấp Công ước Quốc tế về Luật Biển năm 1982, dùng vũ lực xâm chiếm các đảo Hoàng Sa (1974), Gạc Ma (1978) của Việt Nam. Tham vọng bành trướng của hai cường quốc cựu Cộng Sản Nga và Cộng Sản Tàu, gây phản ứng bất bình cả thế giới. Liên Hiệp Âu Châu và Mỹ thực hiện biện pháp chế tài đối với Nga, đồng thời trang bị vũ khí hạng nặng cho các nước Ðông Âu phòng chống Nga. Riêng Hoa Kỳ thi hành chính sách “xoay trục” về Á Châu, sẽ chuyển 60% lực lượng hải quân về Châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời liên kết quân sự với đồng minh nhằm mục đích bao vây Trung Quốc.

Những biện pháp nêu trên có tác dụng thúc đẩy Nga-Tàu, hai cựu đồng chí bắt tay nhau thành một trục độc tài bành trướng mưu đạt bá quyền, đối chọi với một trục khác do Mỹ đứng đầu chủ trương dân chủ nhân quyền. Lưỡng cực đương đầu về mọi mặt, xã hội, kinh tế và quân sự gần như thời chiến tranh lạnh giữa hai khối Cộng Sản và Tư Bản.

Mặc dù Nga được các nước tự do công nghiệp phát triển, chấp nhận cho vào nhóm G7 gồm các nước Mỹ, Anh, Pháp, Ðức, Ý, Canada và Nhật Bản, để trở thành G8. Tuy nhiên sự thật Nga chỉ mạnh về quân sự chứ công nghiệp chưa được phát triển vì còn mang cái lốt Cộng Sản nên các nước G7 vẫn đối xử e dè. Nga cảm thấy bị coi thường nên muốn kết thân với Tàu, dù sau Tàu cũng là đồng chí đồng cảnh ngộ. Tham vọng bá quyền sẽ đưa đẩy Nga-Tàu lập thành một khối kinh tế, quân sự hùng mạnh, sẽ áp đặt một trật tự thế giới mới, thay Mỹ là tên “sen đầm quốc tế” thời Chiến Tranh Lạnh.

Nếu quả thật Bắc Kinh và Moscow liên kết kinh tế quân sự thì sẽ là mối đe dọa anh ninh cho thế giới, đặc biệt là anh ninh cho Hoa Kỳ. Vì thế mà giới lãnh đạo quân sự Mỹ cảnh báo “phải đối phó với hai tình huống, hai khu vực cùng một lúc.”

Các chuyên gia Nga và phương Tây thân Nga đã ca tụng Nga như là một phần của Ðại Á Châu. Nga ước mong Trung Quốc sẽ giúp họ giảm bớt áp lực lệnh trừng phạt của Tây phương. Bộ máy tuyên truyền của Nga cho rằng tình hữu nghị với Trung Quốc là một cơ hội tuyệt vời, và có thể là một liên minh toàn diện sẽ thay đổi trật tự thế giới.

Trong bối cảnh Nga-Tàu hình thành một liên minh quân sự, Hoa Kỳ buộc phải phản ứng. Tướng Joseph Dunford - Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến, người được đề cử giữ chức chủ tịch Hội Ðồng Tham Mưu Liên Quân nói trong buổi điều trần trước Ủy Ban Quân Vụ Thượng Viện hôm 9 tháng 7, 2015: “Nga hiện là mối đe dọa lớn nhứt đối với an ninh quốc gia của Mỹ.” Ông đặt biệt lưu ý, với kho vũ khí hạt nhân lớn, Nga vừa là mối đe dọa cho các quốc gia NATO vừa là một thách thức đối với Mỹ, hành vi của Nga tại Ukraine quả là đáng báo động. Tướng Dunford còn nêu đích danh Trung Quốc là nước thứ hai đe dọa an ninh Mỹ và quốc tế, qua các hành vi của họ tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.

Cùng lúc Ðô Ðốc Scoot Swift, tân tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ khẳng định trước một nhóm báo chí tại thủ đô Manila của Philippines ngày 17 tháng 7, 2015, “Quân đội Mỹ được trang bị tốt và sẵn sàng phản ứng trước bất cứ tình huống bất ngờ nào trên Biển Ðông, tôi rất hài lòng với những nguồn lực mà tôi đang nắm trong tay.” Ông cho rằng tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các nước Philippines, Việt Nam, Ðài Loan, Malaysia, và Brunei đã kéo dài nhiều năm đang gây lo ngại về sự xung đột vũ trang trên Biển Ðông. Ðô Ðốc Swift còn nói, “Chúng tôi không ủng hộ việc sử dụng vũ lực hay chiến thuật ép buộc. Những lời tuyên bố không ám chỉ đích danh Trung Quốc nhưng kỳ thật là một sự nhắn gởi của phía Hoa Kỳ nhằm trấn an các nước láng giềng của Bắc Kinh.

Sau đó ngày 18 tháng 7, 2015 ông đích thân ngồi trên chiếc máy bay P-8 Poseldon, 7 giờ liên tiếp thị sát tình hình trong khu vực, để chứng minh Hoa Kỳ bảo đảm quyền tự do lưu thông trong vùng Biển Ðông. Ðô Ðốc Swift ghi nhận “có những yếu tố gây bất ổn trong khu vực và điều đó dẫn đến tình huống bất trắc.”

Trước đây cựu Ngoại Trưởng Hilary Clinton cũng đã từng xác định tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN năm 2009 rằng Hoa kỳ có lợi ích chiến lược tại khu vực Châu Á. Và năm 2011 tại diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội ngày 22 tháng 7 bà Clinton khẳng định lập trường của Mỹ tại Á Châu và tương lai chính trị sẽ được quyết định tại Châu Á, lời tuyên bố trên đã làm cho ngoại trưởng Trung Quốc tức giận bỏ ra ngoài.

Ông Bryan Clark, nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Ðánh giá Chiến lược và Ngân sách ở Washington nói với đài phát thanh VOA rằng, những hành động hung hăng của Nga ở Ðông Âu và của Trung Quốc ở Biển Ðông là các yếu tố thúc đẩy sự chuyển đổi chiến lược của Mỹ. Tình hình chính trị thế giới buộc Hoa Kỳ phải chuẩn bị cho một vụ xung đột quyền lực qui mô lớn. Ông Bryan nhận định chiến lược mới của Ngũ Giác Ðài nhắm tăng cường khả năng để có thể tiến hành một cuộc chiến tranh, qui mô lớn và nhiều giai đoạn, chống lại một địch thủ tại khu vực này mà không để cho địch thủ khác tại khu vực khác đạt mục tiêu của họ.

Những biến chuyển và lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nhằm mục đích răn đe, cảnh cáo đối phương, đồng thời cũng chuẩn bị dư luận quần chúng rằng, Mỹ đang đứng trước mối đe dọa có thể xẩy ra xung đột quân sự, nhưng Hoa Kỳ sẽ đánh bại mọi đối thủ, sẽ triệt hạ mọi tổ chức bạo lực như Tổng Tham Mưu Trưởng Martin Demsey khẳng định. Sự răn đe còn được dậm thêm bằng tin tức đang loan truyền, Hoa Kỳ có những vũ khí thượng thặng: Nào là máy bay không người lái có trí thông minh nhân tạo, quân phục tàng hình Quentum, bom xung điện EMP là loại vũ khí đặt trên vệ tinh, tên lửa siêu thanh tấn công các mục tiêu trên toàn thế giới, pháo điện tử với đầu đạn đi nhanh 2-4 cây số trong một giây, vũ khí Laser Law có thể bắn hạ tên lửa UAV, súng phóng lựu đạn cho nổ ở cự ly hợp lý và vũ khí laser lắp trên vệ tinh. Những điều đó đúng hay sai chưa thấy Bộ Quốc Phòng xác định nhưng nó vẫn có tính cách hù dọa ít nhiều.

Tuy nhiên trên thực tế đôi bên vẫn cố tránh nổ ra chiến tranh dù cục bộ, nó sẽ phá vỡ tình trạng an ninh hòa bình tối cần thiết cho sự cạnh tranh thị trường kinh tế mà đôi bên nhắm cùng một mục tiêu. Cả đôi bên đều không muốn nổ ra một cuộc thế chiến thứ III với kho vũ khí nguyên tử mà kẻ chiến thắng chưa chắc tồn tại an lành. Vì thế phải hiểu rằng sự quyết tâm giáng trả của Hoa Kỳ chỉ là một sự cảnh cáo và đe dọa đối với Nga và Trung Quốc nhằm mục đích ngăn chận sự hung hăng quá đáng của Moscow và Bắc Kinh mà thôi. Trừ khi một sự rủi ro hay cuồng tín của một nhà lãnh đạo nào đó làm nổ tung thế giới như giả sử “Big Bang” làm nổ tung trái đất, tái tạo lại thế giới mới từ thời xa xưa nào đó.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Ăn cắp ở Thụy Sĩ sao bằng ở Hà Nội

Ngô Nhân Dụng
Khi đọc bản tin hai du khách người Việt bị bắt vì ăn cắp ở mấy đôi kính mát ở Zurich, Thụy Sĩ tôi rất buồn. Ðã đi tính ăn cắp tại sao hai cháu không làm ăn “quy mô lớn xã hội chủ nghĩa” mà lại đi ăn cắp vặt như vậy? Về Hà Nội, “phấn đấu vào đoàn,” rồi “phấn đấu vào đảng” để làm những vố lớn có hơn không? Nếu sau này không được như Phùng Quang Thanh, Nguyễn Tấn Dũng, thì ít nhất cũng theo gót được Nguyễn Xuân Sơn chứ?

Sau Nhật Bản, Thái Lan, Ðài Loan, từ nay lại thêm Thụy Sĩ là nơi người ta phải cảnh giác khi thấy du khách người Việt Nam. Sỉ nhục cho cả dân tộc! Nhưng nghĩ cho cùng, không phải mấy cá nhân phạm pháp gây ra mối nhục này; họ cũng là nạn nhân. Chính phạm là một chế độ ăn cắp từ trên xuống dưới, lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ!

Khi trở về Hà Nội, chắc hai cháu đã nghe tin Nguyễn Xuân Sơn. Mấy bữa trước còn chễm trệ trên ghế chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PetroVietnam), giờ Sơn đang bị truy tố về tội “làm mất” 800 tỷ đồng (tương đương 36 triệu Mỹ kim) của công ty dầu khí, khi còn làm tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Ðại Dương (OceanBank).

Nguyễn Xuân Sơn đã làm trong ngành dầu khí từ 30 năm. Ông trở thành tổng giám đốc OceanBank sau khi PetroVietnam góp số vốn lớn vào ngân hàng này, có lúc chiếm hai phần ba vốn góp. Một công ty dầu khí lại đi khai thác ngân hàng, cũng như một công ty hàng hải Vinashin đi làm khách sạn, mua địa ốc, vân vân. Ðó là chính sách kinh tế quốc doanh của Nguyễn Tấn Dũng: Chúng mày làm cái gì ra tiền thì cứ làm! Trong một năm từ 2008 khi Nguyễn Xuân Sơn nhậm chức, số nợ xấu của OceanBank tăng gấp 9 lần, lên hơn 100 tỷ đồng! Ðến năm 2012 thì vọt thành 700 tỷ. Nợ xấu là những món tiền ngân hàng cho vay nhưng khó đòi lại được, để lâu “cứt trâu hóa bùn.”

Thế thì 100 tỷ đồng năm trước, 700 tỷ đồng bạc năm sau, chúng chạy đi đâu cả? Chắc chắn nó vào túi những thằng đứng vay cũng như những thằng cho vay! Cái đứa chấp thuận cho vay còn phải “đóng hụi chết” cho những đứa ngồi trên đầu nó nữa, chứ không ai cho ngồi vào những cái ghế béo bở!

Nhưng mà các đồng tiền ấy nguyên thủy chúng ở đâu mà ra? Như trong vụ này, họ lấy tiền của PetroVietnam đưa qua cho OceanBank. Mà PetroVietnam kiếm được tiền nhờ bán dầu của nước Việt Nam, của dân Việt Nam. Ðồng tiền của dân chạy sang một ngân hàng của nhà nước, rồi từ đó chạy qua túi những đứa đứng vay tiền và cho vay tiền! Những người “phấn đấu vào đảng” nới có cơ hội hóa phép cho các đồng tiền chạy lòng vòng, cuối cùng biến chúng lọt vô túi mình một cách dễ dàng như vậy! Ngân hàng chỉ là cái dây chuyền đem tiền của dân vào túi bọn tham nhũng! Hàng ngàn tỷ đồng tiền mất tích! Mà 90 triệu người Việt Nam không ai thấy gì cả, cho tới khi chúng nó đánh lẫn nhau! Ðó là phép lạ kinh tế thị trường theo định hướng ăn cắp!

Nguyễn Xuân Sơn đã trở về PetroVietnam khi nợ xấu mới lên tới 700 tỷ, rồi leo lên đến chức chủ tịch, chứng tỏ cán bộ tài chánh này đã được cấp trên tán thưởng và tin cậy. Nhưng với những món nợ không đòi lại được cao ngất nghểu thì tất nhiên sau khi Sơn chạy rồi, OceanBank chỉ còn đường xuống dốc. Từ cuối năm ngoái, những người kế nghiệp ông ta ở ngân hàng là Hà Văn Thắm và Nguyễn Minh Thu đã bị bắt, bị truy tố. Mới đây, ngân hàng trung ương gọi là Ngân hàng Nhà nước báo tin đã mua lại tất cả vốn và nợ của OceanBank với giá 0, số không, zero đồng! Tức là tất cả số vốn do PetroVietnam góp vô đó tan thành mưa bụi, thành mây khói. Ðây không phải là lần đầu có chuyện này mây mưa như vậy. Năm tháng trước, Ngân hàng Nhà nước mới “mua lại” Ngân hàng Xây dựng với giá cũng zero đồng - chủ tịch cũ Phạm Công Danh với tổng giám đốc Phan Thành Mai đã bị bắt vào năm ngoái!

Ðọc những tin tức trên, chúng tôi tội nghiệp hai cô chú bị bắt ở Zurich, hay những người ăn trộm chó bị bắt ở Ðài Loan, những cô tiếp viên phi hành xinh đẹp bị cùm ở Nhật Bản! Toàn là những món trộm cắp lặt vặt, không bao giờ tiến lên chủ nghĩa xã hội được! Mà bọn họ tất cả đều là nạn nhân, vì họ chỉ nhiễm độc thói sống bằng cách ăn cắp, thăng quan tiến chức nhờ ăn cắp, trong một xã hội mà bọn cầm đầu từ trên xuống dưới đứa nào cũng phải ăn cắp!

Nhắc lại: Phải ăn cắp! Vì không ăn cắp thì không sống được trong hệ thống “đạo kiếp trị” (kleptocracy) đó. Một người cháu sống ở Hà Nội đã giải thích cho tôi tại sao đường sá ở Việt Nam mới làm năm trước năm sau đã hư: “Khổ lắm bác ơi; nước mình nó khác nước Mỹ! Nếu bác làm đường mà cả mười năm không chỗ nào hư hỏng thì chúng nó làm thế nào kiếm ăn được? Không đứa nào nó cho bác trúng thầu đâu! Mỗi năm chúng nó phải kiếm một món về đường sá, một món về trường học, một món nhờ chỗ này, nhờ chỗ khác chớ?”

Ai cũng biết Hồ Chí Minh không phải là tác giả câu “Bách niên chi kế mạc như thụ nhân.” Nhưng chế độ cộng sản do ông lập ra ở nước ta đã đẻ thêm được một kế mới, Quản Trọng đời xưa không thể nào bịa ra được: “Niên niên chi kế mạc như tu lộ!” Thế là “Người người ăn cắp, ngành ngành ăn cắp,...” Nền văn hóa ăn cắp xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ bản này: Nhìn lên trên thấy đứa nào cũng ăn cắp, những người lương thiện tự hỏi: Tại sao mình “ngu” mãi để cho cái chúng nó thèm thuồng? Thèm từ đôi kính mát Gu gu Chi chi chi đó!
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Căng thẳng biên giới Việt – Miên có dẫn đến xung đột võ trang?

HÀ TƯỜNG CÁT
/Người Việt


WESTMINSTER - Sau một phần tư thế kỷ Việt Nam và Cambodia duy trì mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp,
đến nay tình hình lại trở nên căng thẳng ở biên giới do từ nhiều nguyên nhân cụ thể cũng như tiềm ẩn đã tồn tại qua lịch sử

Image
Dân chúng tản cư trong cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam – Cambodia năm 1978. (Hình: Jean-Claude LABBE/Gamma-Rapho via Getty Images)



Rắc rối trước hết là do từ quá khứ đã thiếu minh bạch trong việc đàm phán về biên giới giữa hai chính phủ. Công dân của cả hai nước sống dọc theo biên giới đã không được thông hiểu đầy đủ về vấn đề đàm phán biên giới, cắm mốc.

Một nguyên nhân sâu xa không kém phần quan trọng là tâm lý thù hận và đối nghịch vẫn còn tồn tại giữa hai dân tộc Khmer và Việt trải qua những quá trình lịch sử từ ít nhất 300 năm gần đây.

Nhiều nhà phân tích tin rằng Trung Quốc đóng một vai trò trong sự kiện này tương tự như tình huống đã đưa đến cuộc chiến Việt Nam – Cambodia cuối thập niên 1970.

Từ năm 2006 đến nay, Việt Nam và Cambodia đã phân giới được khoảng 920 km trong tổng số chiều dài đường biên giới khoảng 1,137 km; xác định được 260/314 vị trí mốc (đạt 84.1%); dựng được 305/371 cột mốc (đạt 82.2%). Ngoài ra cũng quy thuộc được 104 cồn bãi, trong đó: 39 cồn bãi quy thuộc Việt Nam, 65 cồn bãi quy thuộc Cambodia.

Chính trị nội bộ của Cambodia cũng là một yếu tố góp phần gây nên những căng thẳng với Việt Nam. Sau khi đất nước đã trở lại hòa bình, chủ nghĩa dân tộc phát triển ở Cambodia từ đầu thiên kỷ này và gia tăng với cuộc xung đột biên giới Thái Lan – Cambodia năm 2010-2011. Chủ nghĩa dân tộc Khmer cũng được thúc đẩy bởi tranh chấp biên giới với Việt Nam với quan điểm cho rằng đây là sự xâm lấn của Việt Nam. Đảng đối lập Cứu nguy Dân tộc Cambodia (CNRP) nhiều lần cáo buộc chính phủ của Thủ Tướng Hun Sen sử dụng những tấm bản đồ do Việt Nam vẽ ra trong những năm 1980 để đàm phán về biên giới. Bộ ngoại giao Campuchia đã gửi công hàm chống lại việc Việt Nam xây dựng trong khu vực tranh chấp.

Ngày 6 tháng Bảy, 2015, Thủ Tướng Hun Sen gửi thư tới ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon, đề nghị cho mượn những bản đồ gốc do Liên Hiệp Quốc lưu trữ để kiểm tra tính xác thực của các bản đồ mà Phnom Penh đang sử dụng để phân định biên giới với các nước láng giềng. Đây là bản đồ tỷ lệ 1/100,000, do Sở Địa Dư Đông Dương thời Pháp thuộc vẽ năm 1933 và tái ấn hành năm 1955. Theo ông Hun Sen, năm 1964, cố quốc vương Norodom Sihanouk đã gửi tới Liên Hiệp Quốc xin lưu chiếu các bản đồ này.

Ngoại trưởng Hor Namhong nói với các phóng viên hôm 15 tháng 7 rằng Cambodia chưa nhận được phản hồi từ Liên Hiệp Quốc về đề nghị này, và "qua các kênh không chính thống, chúng tôi được biết họ chưa tìm thấy bản đồ."

Sau đó Thủ Tướng Hun Sen tiếp tục viết thư gởi các nhà lãnh đạo ba cường quốc Pháp, Anh, Mỹ đề nghị "hợp tác" bằng việc cung cấp những phiên bản bản đồ biên giới với Việt Nam. Ông Hun Sen giải thích lý do của việc làm này là để chấm dứt các "kích động của chủ nghĩa cực đoan vốn đang gây rắc rối trong dư luận trong nước và quốc tế."

Cũng nên lưu ý rằng đây là lần đầu tiên Cambodia có lập trường mạnh mẽ chống lại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam kể từ khi quân đội Việt Nam triệt thoái khỏi Cambodia năm 1989. Trong một cuộc phỏng vấn của BBC, tiến sĩ Vannarith Chheang, nhà nghiên cứu Khmer dạy tại đại học Leeds Anh Quốc, cho rằng “việc tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại Cambodia đã làm cho Cambodia cảm thấy tự tin hơn và đẩy cao sức mạnh mặc cả, thương lượng với Việt Nam. Nói cách khác thì Cambodia đang chuyển quan hệ từ liên minh bè bạn với Việt Nam sang phía Trung Quốc.”

Trong lịch sử, Việt Nam đã lấy của Cambodia phần đất Thủy Chân Lạp, đồng bằng Cửu Long ngày nay. Chỉ tới khi người Pháp chiếm thuộc địa Đông Dương, lãnh thổ Cambodia mới được bảo vệ nguyên vẹn trong hơn 100 năm. Mối hận thù dân tộc nổi lên mạnh mẽ vào những giai đoạn bất ổn của tình thế và rắc rối trong quan hệ giữa hai nước. Xung đột chủng tộc đã từng nhiều lần xảy ra từ hơn 200 năm trước, tuy nhiên chỉ ở mức độ lẻ tẻ, tự phát như các vụ “cáp duồn” - cap yuon – chặt đầu người Việt, thời Minh Mạng, sau Thế Chiến II, khi Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa mở chiến dịch Cambodia năm 1971 và chiến tranh biên giới với Khmer Đỏ cuối thập niên 1970.

Tháng Tư, 1975, chỉ 5 ngày sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc; sáu ngày sau, quân Khmer Đỏ đánh chiếm và sát hại hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Châu. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong thời gian tiếp theo và làm Việt Nam lo ngại vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Cambodia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự, cung cấp vũ khí cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ. Chiến tranh toàn diện xảy ra năm 1977 và tới 1989 mới kết thúc hẳn, với Khmer Đỏ bị tiêu diệt và Việt Nam chấp thuận triệt thoái toàn thể quân đội về nước.

Trong hai thập niên, mối quan hệ giữa hai nước được cải thiện. Cả hai đều là thành viên của các tổ chức đa phương trong khu vực như ASEAN và Tổ chức Hợp tác sông Mê Kong. Hai nước đều đang mở cửa và phát triển thương mại cửa khẩu, tìm cách nới lỏng các quy định về du lịch cho công dân hai nước. Thương mại song phương Việt Nam-Cambodia dự tính sẽ tăng từ $2.3 tỷ năm 2010 lên $6,5 tỷ năm 2015. Trong khi Campuchia chỉ là nhà nhập khẩu lớn thứ 16 của Việt Nam thì Việt Nam lại là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Campuchia.

Năm 2012 quan hệ giữa hai nước bắt đầu xuất hiện những rạn nứt, với việc Cambodia do ảnh hưởng của Trung Quốc gây chia rẽ tại hội nghị ASEAN khiến cho không đạt tới thỏa thuận về bộ Quy Tắc Ứng Xử Chung ở Biển Đông. Căng thẳng biên giới khởi sự vào cuối tháng Sáu trong khu vực mốc 203, giáp ranh giữa hai tỉnh Long An và Sway Rieng. Ngày 28 tháng Sáu, tại đây xảy ra một vụ xô xát giữa một nhóm nhà hoạt động Cambodia do dân biểu Real Camerin cầm đầu với dân chúng địa phương làm gần 20 người Việt Nam bị thương. Ngày 19 tháng Bảy, khoảng 2,000 người Khmer dẫn đầu là các dân biểu thuộc đảng Cứu Quốc đối lập chính quyền, tới vùng này để biểu thị điều được mô tả là “Việt Nam vi phạm lãnh thổ Cambodia.”

Mặc dầu những căng thẳng đó, cả hai bên tỏ ra muốn kiềm chế không để tình thế phát triển trầm trọng thêm. Tại một hội nghị về quốc phòng an ninh và phát triển kinh tế xã hội họp ở Cần Thơ hôm 22 tháng Bảy, bộ trưởng công an Việt Nam tuyên bố các diễn biến gần đây ở các tuyến biên giới luôn được đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. Ông cho biết "đã có những đề xuất quan trọng, trong đó có việc đẩy nhanh việc phân giới, cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Cambodia.”

Trước đó, thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Việt Nam, đã tiếp đại tướng Vong Veasna, Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tư Lệnh quân đội hoàng gia Cambodia tại Hà Nội. Hai bên cũng có cuộc thảo luận ở Siem Reap để bàn cách giải quyết bất đồng.

Infonet, trang tin chính thức của bộ Thông Tin – Truyền Thông Việt Nam, nói “sẽ không có chuyện hai quốc gia phải sử dụng đến các biện pháp quân sự để xử lý.”

Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng bác bỏ tin đồn loan tải trên mạng nói Việt Nam đưa vũ khí, khí tài, bao gồm xe thiết giáp và trọng pháo, vào miền Nam vì căng thẳng biên giới với Campuchia. Trong buổi họp báo ngày 16 tháng Bảy, phát ngôn viên Lê Hải Bình nói “các thông tin mà phóng viên nêu ra không có tính xác thực."

Còn theo ý kiến của giáo sư Vannarith Chheang thì trong việc này, do nguyên tắc không can thiệp, ASEAN không thể đóng vai trò trung gian giải quyết các tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia thành viên. Theo ông: “Nếu căng thẳng tiếp tục, Cambodia có thể chọn để đưa vụ việc ra Tòa án Công lý Quốc tế. Hiện nay, chính phủ Hun Sen không có ý định ấy nhưng những áp lực ngày càng tăng từ các đảng đối lập và công chúng nói chung có thể buộc chính phủ phải tìm kiếm sự hòa giải của bên thứ ba.” Về phía Việt Nam, ông tin là sẽ dùng giải pháp ngoại giao và đàm phán để giải quyết những xung khắc. (HC)
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Dư luận nghi ngờ việc Đại Tướng Phùng Quang Thanh về nước
Sunday, July 26, 2015 4:30:38 PM

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) - Báo chí chính thống CSVN đưa tin “lịch làm việc dày đặc” của bộ trưởng Quốc Phòng vừa về Việt Nam trong khi dư luận
vẫn chưa hết nghi ngờ tấm hình chụp ông “bước xuống máy bay ở phi trường Nội Bài” hôm 25 Tháng Bảy.

Image
Tấm hình với chú thích, “Đại tướng Phùng Quang Thanh, mặc complet
màu nhạt chuẩn bị lên xe.”
Các báo điện tử VietnamNet, Tuổi Trẻ, Đất Việt, VnExpress đưa một số tin tiếp theo hôm Chủ Nhật 26 Tháng Bảy cho biết, vừa về tới Việt Nam sau một tháng ở thủ đô Pháp chữa bệnh, Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh, ủy viên Bộ Chính Trị Đảng CSVN, không những bận rộn với sự đón tiếp, thăm hỏi của các lãnh đạo đảng và nhà nước, mà đã đến ngay Bộ Quốc Phòng “làm việc đến chiều” sau khi ghé qua nhà một thời gian ngắn.

Trong một bản tin hôm Chủ Nhật, tờ Tuổi Trẻ dẫn lại lời Trung Tướng Vũ Văn Hiển, chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng, cho biết, “Hôm qua 25 tháng 7, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sau khi điện đàm đã đến trực tiếp trò chuyện với anh Phùng Quang Thanh. Hôm nay 26 tháng 7, Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc... cũng đến thăm.”

Tờ Tuổi Trẻ thuật lời ông Hiển cho hay, “theo lịch công tác dự kiến và đã được sự đồng ý của Bộ Trưởng Phùng Quang Thanh, vào ngày 27 tháng 7, đại tướng sẽ làm trưởng đoàn đại biểu Quân Uy Trung Ương, Bộ Quốc Phòng vào lăng viếng Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Tối cùng ngày, bộ trưởng dự kiến tham dự chương trình giao lưu nghệ thuật khát vọng đoàn tụ được tổ chức tại hội trường Bộ Quốc Phòng và được truyền hình trực tiếp trên sóng truyền hình quốc gia và kênh truyền hình Quốc Phòng Việt Nam.”

Tuy nhiên, sau đó, trong một bản tin khác, tờ Tuổi Trẻ nói lại chuyện đến lăng ông Hồ Chí Minh là “do bộ trưởng bận công việc nên lịch trình này có thể thay đổi vào giờ chót, nếu có sự thay đổi thì Thượng Tướng Đỗ Bá Tỵ (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội nhân dân Việt Nam) sẽ dẫn đầu đoàn.”

Image
Người ta đưa ra tấm hình này để nêu nghi vấn ông này đóng thế cho
ông Phùng Quang Thanh. (Hình: Facebook-TTXVA)

Tương tự như vậy, “việc Bộ Trưởng Phùng Quang Thanh tham dự chương trình giao lưu nghệ thuật Khát vọng đoàn tụ được tổ chức tại hội trường Bộ Quốc Phòng hiện mới là dự kiến, chưa được khẳng định chính thức,” tờ Tuổi Trẻ viết lại.

Một số báo, kể cả TTXVN, thuật lời đưa tin hãng thông tấn Đức DPA gửi thư xin lỗi ông Phùng Quang Thanh đưa tin sai nói ông đã chết một tuần trước đó, hôm Thứ Bảy, 19 Tháng Bảy.

Nhiều báo ở Việt Nam đưa tin ông Phùng Quang Thanh từ Pháp về đến Hà Nội sáng Thứ Bảy 25 Tháng Bảy sau một tháng vào bệnh viện George Pampidou tại Paris cắt “khối u” ở phổi. Chỉ có tờ Tuổi Trẻ là có tấm hình duy nhất với chú thích: “Đại Tướng Phùng Quang Thanh, mặc complet màu nhạt chuẩn bị lên xe.”

Tấm hình hơi mờ nên một số người cho rằng người trong tấm hình của tờ Tuổi Trẻ chỉ là người khác “đóng giả” Phùng Quang Thanh. Nhiều tờ báo đồng loạt đưa tin ông Phùng Quang Thanh về đến Hà Nội sáng Thứ Bảy, 25 Tháng Bảy, nhưng hoặc đưa các tấm hình cũ, hoặc không có hình gì cả.

Một số trang mạng xã hội phổ biến trên Facebook cho rằng có người “đóng thế” cho ông Phùng Quang Thanh ở phi trường, và nói rằng đó là ông Nguyễn Thanh Bình, một người có chiều cao và nét mặt hơi giống với ông Thanh.

Ông Nguyễn Thanh Bình (sinh 1957) hiện đang là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa XI, phó trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương, nguyên bí thư Tỉnh Ủy, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Hà Tĩnh. Ông là bí thư tỉnh đầu tiên tại Việt Nam trúng cử theo phương thức đại hội bầu trực tiếp.

Hồi ông Nguyễn Bá Thanh, trưởng Ban Nội Chính Trung Ương Đảng CSVN, bị bệnh viện Mỹ điều trị ung thư khuyến cáo về nhà nằm chờ chết vì họ đã hết cách, không thấy báo chí trong nước đưa tin cho tới khi có một tấm hình nói rằng đó là hình ông trong một bệnh viện ở Mỹ được tung ra trên các diễn đàn thông tin “lề trái.” (TN)
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Vụ Phùng Quang Thanh và truyền thông Việt Nam
Nguyễn Hưng Quốc


Mấy tuần qua, trên các phương tiện truyền thông xã hội, đặc biệt là facebook, tin tức khiến người ta chú ý và bình luận nhiều nhất là về Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng của Việt Nam. Thoạt đầu, có tin ông bị ám sát, sau đó, tin ông chết vì ung thư phổi trong bệnh viện Georges Pompidou của Pháp. Mà không phải chỉ có người Việt Nam. Ngay cả hãng thông tấn Đức Deutsche Press-Agentur (DPA) cũng loan tin ông qua đời. Chính quyền Việt Nam phải lên tiếng cải chính. Mới đây, báo chí trong nước loan tin ông Phùng Quang Thanh đã bay từ Pháp về Việt Nam với tình trạng sức khoẻ rất tốt. Tuy vậy, tin đồn về cái chết của ông vẫn tiếp tục râm ran trong dư luận. Người ta vạch ra những sự mơ hồ và không đáng tin cậy trong các bản tin đăng trên báo chí Việt Nam: Chỉ có những lời tường thuật chung chung chứ không có một bức ảnh nào của Phùng Quang Thanh cả. Thật ra, cũng có. Có một bức ảnh ông đứng sau chiếc xe Lexus ra phi trường đón. Nhưng trong bức ảnh ấy, hình của Phùng Quang Thanh rất mờ. Người ta nghi ngờ đó không phải là ông.

Thực tình, tôi không quan tâm đến chuyện Phùng Quang Thanh chết hay sống. Ông chết hay sống, tình hình chính trị Việt Nam, đặc biệt trong quan hệ với Trung Quốc, cũng không có gì thay đổi. Người này mất thì người khác lên thế. Chính sách của Việt Nam ít khi lệ thuộc vào một người, ngay cả khi người ấy đang ở một vị thế rất cao là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Điều khiến tôi quan tâm nhiều nhất là vấn đề truyền thông của Việt Nam. Về phương diện này, có mấy vấn đề cần được chú ý:

Thứ nhất, chúng ta thấy rất rõ sự vụng về của giới truyền thông Việt Nam. Trước sự vắng mặt của Phùng Quang Thanh trong các buổi lễ lớn tại Việt Nam và trước sự ngạc nhiên và tò mò của dư luận, người ta hoàn toàn im lặng. Mãi đến khi tin đồn về cái chết của ông lan rộng, người ta mới lên tiếng cải chính. Nhưng sự cải chính cũng không thuyết phục. Ai cũng thấy một điều: Chỉ cần đưa một bức ảnh mới của Phùng Quang Thanh trong bệnh viện, mọi người sẽ an tâm ngay tức khắc. Vậy mà người ta không làm. Ngay cả khi loan tin Phùng Quang Thanh đã về nước, người ta cũng không đăng một bức ảnh nào cụ thể cả khiến dư luận vẫn tiếp tục xôn xao và thắc mắc. Nếu mục tiêu chính của bộ máy truyền thông nhà nước là để tuyên truyền và an dân, trong mấy tuần vừa qua, có thể nói bộ máy ấy hoàn toàn thất bại.

Thứ hai, mặc dù nắm trong tay hơn 800 tờ báo các loại cũng như tất cả các cơ quan truyền thông chính thống khác (như truyền thanh và truyền hình), chính quyền Việt Nam cũng không làm chủ được dư luận. Hơn nữa, càng ngày họ càng ở thế bị động. Thường, họ không phải là người loan tin mà chủ yếu là người cải chính. Bởi vậy, khi có điều gì thắc mắc, nơi dân chúng tìm kiếm tin tức không phải là các cơ quan ngôn luận lề phải mà là báo chí thuộc lề trái, nhiều nhất là trên mạng internet. Tôi có một số bạn, khá đông, hầu hết đều thuộc giới trí thức, ở Sài Gòn có và Hà Nội cũng có, nói giống nhau: để nắm tin tức hàng ngày, điều họ thường làm nhất là vào facebook hoặc các blog nổi tiếng chứ không phải là mở các trang báo của đảng. Những chuyện họ bàn tán nhiều nhất những lúc gặp nhau cũng vẫn là những chuyện được đề cập trên những trang mạng ấy. Có thể nói chính quyền Việt Nam đã thua cuộc ngay trên chính sân chơi mà họ muốn hoàn toàn độc quyền.

Thứ ba, như là hệ quả của đặc điểm thứ hai ở trên, càng ngày các phương tiện truyền thông xã hội càng phổ biến và càng quan trọng. Ngoài các tin tức liên quan đến Phùng Quang Thanh, một ví dụ tiêu biểu nhất về tầm ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông xã hội là vụ chặt cây xanh ở Hà Nội cách đây mấy tháng. Dư luận ồn ào đến độ chính quyền Hà Nội phải ra lệnh ngưng ngay việc chặt cây và sau đó, tiến hành kiểm điểm và kỷ luật một số cán bộ liên hệ. Có thể xem các trang truyền thông xã hội ấy là một đối trọng của ngành truyền thông nhà nước. Nghe nói hiện nay ở Việt Nam có khoảng một phần ba dân số, tức khoảng 30 triệu người, thường xuyên sử dụng internet. Chắc không phải ai cũng lên internet để đọc tin tức. Nhưng con số ấy chắc cũng không ít. Điều rất dễ thấy: với số người đọc đông đảo như vậy, internet sẽ là một trận tuyến quan trọng của trào lưu dân chủ hoá Việt Nam.

Thứ tư, trong cuộc chiến giữa báo chí chính thống và truyền thông xã hội, nhà nước Việt Nam chỉ có một cách duy nhất để chiến thắng: minh bạch. Lý do khiến nhiều người tìm kiếm tin tức trên internet là vì họ không tìm thấy ở đâu khác. Lý do khiến cái gọi là báo lề trái thu hút sự quan tâm của dân chúng hơn báo lề phải là vì trên báo chí lề phải người ta chỉ thấy toàn những sự dối trá. Lý do khiến người ta tin và lan truyền các tin đồn, đôi khi hoàn toàn sai sự thật, là bởi vì người ta không tin vào các cơ quan truyền thông chính thống. Sống ở Tây phương đã lâu, tôi chưa bao giờ thấy dân chúng đồn đãi bất cứ chuyện gì trong đời sống chính trị nước họ. Tất cả những gì họ bàn luận đều là những chuyện được công khai hoá trên các cơ quan truyền thông chính thức. Giới chính trị gia biết rõ điều đó nên họ thường xuyên tổ chức các cuộc họp báo để cung cấp thông tin và giải đáp các thắc mắc của dân chúng.

Có thể nói chính sự thiếu minh bạch làm nảy sinh các tin đồn và sự lan rộng của các tin đồn dần dần bào mòn sự tin tưởng của dân chúng đối với chính phủ. Cũng có thể nói sự tồn tại phổ biến của các tin đồn về chính trị là một trong những bằng chứng rõ nhất tố giác một xã hội thiếu dân chủ.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

“Hãy phá đổ bức tường này!”

Image
Từ trái qua: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rời khỏi lăng cố chủ tịch Hồ Chí Minh hôm 20/10/2014.

AFP photo
Để sống sót

Theo nhiều nhà quan sát thì các phe nhóm cầm quyền Việt Nam vẫn canh chừng nhau, ăn miếng trả miếng. Quyền lực có lúc phân tán giữa phe thân TQ và phe thân Mỹ bởi rất nhiều người cơ hội gió chiều nào che chiều ấy.

Tình hình có biến chuyển gần đây. Theo báo Boxun của TQ và một số nguồn tin “phái thân TQ” đã phải đầu hàng “phái thân Mỹ”. Phái thân Mỹ hiện đã chiểm được sự ủng hộ của khoảng 80% ủy viên TW và rồi sẽ nắm ưu thế tuyệt đối.

Dưới sức ép đấu tranh trong nước và quốc tế đang dâng lên mạnh mẽ, người thâu tóm được quyền lực sẽ lựa chọn điều gì?

Có thể xẩy ra hai trường hợp: hoặc độc tài hơn và tàn bạo hơn, hoặc sẽ cải cách và đổi mới ở một mức độ tương thích để sống sót. Kinh tế, chính trị và ngoại giao VN sẽ sụp đổ và bế tắc nếu không thay đổi theo những giá trị dân chủ, tự do theo nguyện vọng của người dân.

Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Trung quốc cùng nhiều dấu hiệu cho thấy ngày tàn của đế chế “tư bản đỏ” TQ không xa. Tương tự thời kỳ mà chính Liên xô cũng đã không thể lo nổi phận mình, buộc phải buông các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Cái phao cứu sinh duy nhất của VN hiện nay là nước Mỹ và khối đồng minh.

Hiện trạng này khiến người ta nhớ lại Diễn văn lịch sử của Tổng thống Hoa kỳ Ronald Reagan ngày 12/6/1987 tại Bức tường Berlin:

“Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông mưu tìm hòa bình, nếu ông mưu tìm thịnh vượng cho Liên xô và Đông Âu,, nếu ông mưu tìm giải phóng, hãy đến đây nơi cổng này. Ổng Gorbachev, hãy mở cổng này, hãy phá đổ bức tường này!”

Răng và mắt đều “phát triển vượt bậc”

Người Việt Nam ít nhiều đều hoặc là người của Cộng sản hoặc nạn nhân của Cộng sản. Hành trình gần một thế kỷ trong con đường xã hội chủ nghĩa đã sinh ra những thế hệ thần tượng sự tăm tối, thế hệ ngu trung, thế hệ lầm lạc… Nhưng cho đến nay, trước đỉnh điểm phô bày những khối ung thư của thể chế này, thì ngay cả nhiều đảng viên đã cả đời trung thành với thể chế này cũng thấy rằng không thể chấp nhận nó nữa. Đơn giản chỉ vì họ biết họ đang lênh đênh trên một con thuyền thủng đáy. Tiếng sôi réo chết chìm đã vang động không gian.

Cuộc đấu đã đến một mất một còn. Hiện tượng Phùng Quang Thanh chết hay sống vừa rồi cùng với những che chắn vụng về của nhà cầm quyền cùng ngành tuyên giáo Việt Nam thật ly kỳ như phim trinh thám, khiến cho dân chúng được một phen mãn nhãn.
Image
Đại tướng Phùng Quang Thanh đến hội trường Bộ Quốc phòng tối ngày 27/07/2015

Việc ông Phùng trở về, nhưng bỗng có sở thích khác thường như chỉ thích xem văn nghệ, không thích vào lăng viếng “Cha già”. Hình hài của ông sau khi xuất viện từ Pháp quốc có vẻ như là một hình ảnh quảng cáo siêu hiệu quả cho tài năng biến dạng của bệnh viện này. Khán giả tính toán ông trong ảnh của báo “lề phải” dường như cao hơn cả chục cm chỉ trong hơn một tháng nằm viện. Răng và mắt ông đều phát triển vượt bậc. Đặc biệt lại thêm sở thích kỳ lạ: không chịu về nhà, chỉ ở lại Bộ quốc phòng… Những hình ảnh của ông càng khiến dư luận thêm thắc mắc. Khổ là nhà cầm quyền và “lề phải” dối trá quá nhiều rồi nên ngay cả khi nói thật cũng chẳng ai tin. Tất cả những lùm xùm quanh vụ này tố cáo sự giằng co hai phe nhóm quyền lực.

Ai nắm được đồng thời cả công an và quân đội, người đó sẽ thắng.

Và người thắng ấy, nếu là “phái thân Mỹ”, sẽ có được vô số thuận lợi, được sự ủng hộ của dân VN trong và ngoài nước, được điều kiện vô tiền khoáng hậu để bảo vệ và tái thiết đất nước dưới sự hỗ trợ toàn diện của Mỹ và các nước đồng minh.

“Phá bỏ bức tường này”

Có thể cải tổ Đảng CS được không?


Cải tổ tương tự chữa một vết thương. Vết thương chỉ có thể lành khi đó không phải là khối ung thư. Với khối ung thư, không thể cải tổ. Dẫu là dạ dày, cũng phải cắt bỏ để thoát chết.

Đảng cộng sản với thể chế độc tài toàn trị có cải tổ được không?

Rất tiếc là không. Lịch sử đã minh chúng điều đó.

Nguyên Tổng Bí thư Đảng CS Liên xô Mikhain Gorbachev, khi trả lời phỏng vấn về những điều mà ông hối tiếc nhất, đã nói: “Đó là việc tôi nấn ná quá lâu với nỗ lực cải tổ đảng Cộng sản.”

Những người theo cộng sản Việt Nam nên hiểu rằng thay đổi thể chế chính trị sang dân chủ đa nguyên không phải với mục đích là trừng trị, cướp đoạt quyền lợi của họ, như đảng cộng sản đã làm với người dân trong Cải cách ruộng đất và sau này. Mà thay đổi thể chế chính trị là để sống sót, cứu tất cả mọi người và để cứu chính cả những người cộng sản.

Tại các nước khối Đông Âu đã không có tắm máu, thậm chí đời sống của người theo cộng sản trước đây đều được cải thiện vượt bậc theo mức sống chung cả nước. Đó không phải vì lòng tốt của một ai đó, mà chỉ vì trong chính thể chế chính trị dân chủ đa nguyên cùng nền tự do ngôn luận, hệ thống giám sát minh bạch đã tự động bảo vệ quyền lợi của mọi công dân khỏi những phân biệt đối xử và thù địch.

Tổng thống Nga V. Putin, vốn là một trong những con cưng và đồng phạm của chế độ cộng sản Liên Xô, lại là một cựu sĩ quan KGB, hẳn cũng khó tránh khỏi một số tội ác, chí ít là khi phải tuân lệnh cấp trên, đã nhận thức rất rõ về việc không thể để nước Nga quay lại thể chế cộng sản. Ông nói: “Đừng mong cái triều đại cộng sản gian tà ấy có cơ hội sống lại trên đất nước này khi dân tộc Nga còn tồn tại.”

Bàn tay nào?


Cán cân sẽ thay đổi, nếu có một ai đó trong tứ trụ triều đình đủ tài năng và khôn ngoan chớp thời cơ nắm cả ngành công an và quân đội để đưa Việt Nam đi theo con đường phong quang nhất mà Liên xô và các nước Đông Âu đã đi từ những năm 90.

Đó là con đường duy nhất để cứu Việt Nam lúc này. Nếu các phe phái nhận thức rõ tình thế, chịu ngồi lại với nhau theo quyền lợi đất nước thì người Việt Nam sẽ không phải đổ máu. Một cuộc thay đổi từ trên xuống, dưới áp lực của người dân Việt Nam và các lực lượng quốc tế. Tại sao không?

Nhiều người nghi ngờ khả năng này. Và ai mà chẳng phải ngờ, bởi các nhà cầm quyền Việt Nam đều đã gây ra quá nhiều thất vọng, đã làm mọi biện pháp để tước đoạt những quyền đương nhiên của các công dân và đẩy đất nước vào thảm họa.

Nhưng nếu ta nhìn lại lịch sử, những cuộc thay đổi thể chế từ trên xuống là điều không hiếm.

Mùa xuân năm 1991, Tổng Bí thư Đảng CS Liên xô Gorbachev đã bị mắc kẹt giữa hai khuynh hướng quyền lực khiến ông rất khó xoay chuyển tình hình. Một bên là phe bảo thủ cứ cố lật ngược mọi chính sách cải cách của ông. Bên kia là những người am hiểu thời thế, có lương tâm với đất nước, muốn ông thiết lập một hệ thống chính trị đa đảng và đi theo xu hướng cải cách thị trường. Ông phải lựa chọn.

Và nền dân chủ đã đến từ bàn tay của Mikhain Gorbachop. Đương nhiên đó không phải là bàn tay sạch. Ông vốn là một trong những kẻ thống soái thể chế độc tài cộng sản lớn nhất, gần một thế kỷ dìm nhân loại vào ác mộng.

Nhưng ông đã tỉnh ngộ, đã kịp thời hành động và được nhân loại mãi tri ân trên phương diện là người trực tiếp trả lại quyền dân chủ và tự do cho người dân. Lãnh đạo Liên bang Xô viết chỉ 6 năm nhưng nỗ lực của ông là không thể tính đếm. Ông đã giúp chấm dứt Chiến tranh lạnh, giải thể Liên bang Xô viết, làm sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa trái tự nhiên, chấm dứt gần một thể kỷ ác mộng của loài người trong chủ nghĩa cộng sản. Từ chỗ là một trong những thủ phạm lái con tàu độc tài cản trở phát triển, ông đã được trao giải Nobel Hòa bình và trở thành một anh hùng thời đại.

Có vô số ví dụ về việc con cưng của một thể chế chính trị - vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm, đã thức tỉnh và đứng lên thay đổi thể chế ấy.

Có thể có nhiều người có khát vọng hơn họ, trong sạch hơn họ, nhưng không hội đủ nguồn lực và tài năng, đủ thủ đoạn chính trị để đốn vào tử huyệt của chính thể hiện thời.

Tại sao Myanmar - chế độ độc tài quân phiệt đã đi theo khuynh hướng tự do dân chủ? Ngoài những nỗ lực của bà Aung San Suu Kyi, ai mà ngờ được rằng Than Shwe, kẻ độc tài có nhiều nợ máu với người dân lại là kiến trúc sư của nền dân chủ hiện tại của Myanmar?

Tổng thống Thein Seinn đương nhiệm chính là người được tiền nhiệm Than Shwe – vị tổng thống được cho là tàn nhẫn nhất trong các nhà độc tài quân sự của Myanmar lựa chọn. Thein Sein đã có công thúc đẩy cải cách thể chế chính trị này bằng việc thoát Trung và mở cửa, đi với Mỹ và phương Tây, bỏ cấm vận, dưới âm hưởng của cách mạng mùa xuân A rập.

Nền dân chủ đa nguyên sơ khai của Việt Nam có thể đến qua tay một vài nhân vật nào đó trong đám cầm quyền độc tài hiện tại, khi họ tận dụng được sự đấu tranh của người dân, áp lực quốc tế và thời cơ, là điều hoàn toàn tin được.

Tốt nhất là có một Thánh Gióng. Nhưng Gióng là huyền thoại và chỉ biết đánh giặc rồi bay về trời.

Vậy thì cần những ai đó trong đám nhân quần, với những ưu nhược và vị thế sẵn có, dám sám hối và dâng tặng phần cuối cuộc đời mình cho dân nước Việt Nam, trước hết là cũng để cứu chính họ.

Sao không là một vài người nào đó trong Tứ trụ “Sang Trọng Hùng Dũng?”

Hoặc, sao không là Nguyễn Tấn Dũng?

Các vị này đã kịp hưởng thụ quá nhiều tiền rừng bạc bể mặn mồ hôi và máu của dân Việt. Họ chỉ còn thiếu việc biết sám hối bằng hành động “để có danh gì với núi song.”

Võ Thị Hảo
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Kịch bản nào cho Việt Nam trong Đại hội Đảng Cộng Sản lần 12



Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng
- Trên con đường đến Đại Hội 12 của đảng cộng sản Việt Nam chúng ta thấy xuất hiện nhiều sự kiện rất đáng chú ý. Muốn đoán Việt Nam sẽ ở trong kịch bản nào, thiết nghĩ chúng ta cần xem nhân vật nào là thiết kế viên và ai là diễn viên, cùng những thế lực tác động vào kịch bản. Sau đây chúng tôi xin lược trình một số diễn biến nổi bật trong sân khấu chánh trị VN hiện tại để từ đó nhìn ra kịch bản trong tương lai.

Tôi chỉ xin nêu lên những sự kiện nổi bật trong thời gian gần đây. Mốc thời gian xin lấy từ sự kiện bỏ phiếu tín nhiệm ông Nguyễn Tấn Dũng đến thời gian nầy.

Chỉ còn vỏn vẹn sáu tháng nữa là đại hội đảng cộng sản bắt đầu. Trong khoảng thời gian chạy nước rút đó, có thể sẽ xảy ra những cảnh tượng bi phẫn để đưa đến kịch bản mới cho Việt Nam và quyết định vận mạng chính trị, kinh tế cả nước trong năm năm sắp tới.

A- Thiết kế viên của kịch bản

Thiết kế viên thứ nhất, không ai khác hơn là Trung Cộng, họ muốn Việt Nam mãi mãi chịu dưới áp lực kinh tế, chánh trị, cả mặt quân sự để phục vụ Giấc Mơ Trung Hoa và có thể trở thành nước chư hầu phương Nam của họ. Họ không coi Việt Nam là đồng minh, họ chỉ muốn VN là chư hầu; họ không cần cam kết quan hệ bền vững, mà họ chỉ muốn có sự qui phục lâu dài (Mạnh Kim). (Kịch bản Bắc Kinh).

Thiết kế viên thứ hai là Mỹ, họ muốn Việt Nam trở thành đối tác toàn diện với họ và có thể sẽ ký kết hiệp ước quân sự giữa hai bên với mục đích sử dụng Việt Nam là một quân bài trong chuổi bao vây sự bành trướng của Trung Cộng. Họ dùng lợi ích kinh tế và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ làm động lực và họ sẽ làm nhiều cách để Việt Nam thấy rõ được hưởng lợi khi là đồng minh trong chiến lược Xoay Trục sang Thái Bình Dương của họ. (Kịch bản Tây phương)

Trong chính trường Việt Nam hiện có hai nhóm được coi là đại diện cho hai kịch bản đó. Nhóm ông Nguyễn Phú Trọng tiêu biểu cho kịch bản Bắc Kinh và nhóm ông Nguyễn Tấn Dũng được coi như “thụ ủy” cho kịch bản Tây phương mà Mỹ là đại biểu. Ở đây cũng cần lưu ý là người Mỹ rất thực tế, ông Trọng hay ông Dũng đều như nhau, ai chấp nhận và thực hiện chiến lược Chuyển Trục sang Thái Bình Dương là được.

B- Nhân vật chính của các kịch bản.

Nguyễn Phú Trọng: đại diện cho kịch bản Bắc Kinh, nhưng tôi xin được nói đến nhân vật Nguyễn Bá Thanh trước.

Nguyễn Bá Thanh



Ông Nguyễn Bá Thanh, bí thư thành phố Đà Nẵng, được chuyển về Hà Nội nắm chức vụ trưởng ban Nội Chính Trung Ương và được ông Trọng đề cử vào Bộ Chánh Trị (nhưng thất bại). Nhưng thình lình có tin ông nhiễm phóng xạ và tin tức loan ra nhanh chóng nhưng bị phe báo lề phải phủ nhận. Cuối cùng thông tin từ Ban Bảo Vệ Sức Khỏe Trung Ương: Ông Nguyễn Bá Thanh đã bị đầu độc!

Ngày 16/8/2014, ông Nguyễn Bá Thanh đã được đưa sang Mỹ, ngay sau khi nhập viện, ông đã được chẩn đoán “Ngộ độc phóng xạ - ARS” và lập tức được chuyển đến bệnh viện Johns Hopkins Medicine (Baltimore, Mỹ), đây là cơ quan chuyên nghiên cứu và điều trị nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ về các bệnh do nhiễm xạ gây ra.


Tháng sau ông được chuyển về Việt Nam điều trị và qua đời ít lâu sau đó. Người tín cẩn bị đầu độc chết, đó là sự thất bại, sự suy thoái quyền lực đau đớn của ông Trọng.

Phạm Quang Nghị

Người cùng phe với ông Trọng, được cử đi Mỹ thay ông Phạm Bình Minh, được ngoại trưởng Mỹ John Kerry chính thức mời. Ông là Ủy Viên Bộ Chính Trị kiêm Bí Thư Thành Ủy Hà Nội. Ông được xem là người có nhiều khả năng được kế vị chức tổng bí thư sau khi ông Trọng nghỉ vào đầu năm 2016. Ông Nghị không có tên trong thành phần phái đoàn đi Mỹ với ông Trọng. Ộng cũng là nhân vật "diện kiến" giới chính khách Mỹ vào tháng Bảy năm ngoái. Nhưng từ sau chuyến đi, dường như vai trò của ông bị lu mờ. Có phải chăng phe thân Bắc Kinh đã yếu thế?

Phùng Quang Thanh

Sự vắng mặt của ông trong hai hội nghị quan trọng của đảng cộng sản Việt Nam gây ra rất nhiều đồn đoán, nhất là tin ông Thanh đang chữa bệnh tại Pháp. Ngày 2 tháng 7/ 2015 trả lời cho BBC, Giáo sư Phạm Gia Khải, thành viên Ban Bảo Vệ Chăm Sóc Sức Khỏe Trung Ương, đưa ra trong cuộc phỏng vấn tuyên bố: “Các kết quả xét nghiệm tại Việt Nam cho thấy Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh chưa có dấu hiệu bị ung thư”. Giáo sư Khải cho biết ông Thanh được chuyển sang Pháp từ ngày 24/6.

Xét nghiệm không thấy có triệu chứng bệnh ung thư, tại sao lại đưa sang Pháp điều trị? Lý giải thế nào để phản biện lại những đồn đoán về việc loại trừ phe thân Trung Cộng trong đại hội 12. Với điều kiện sức khoẻ như vậy, ông Phùng Quang Thanh sẽ không hội đủ điều kiện để đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Nước, như dư luận đồn đoán sau khi bỏ phiếu tín nhiệm kỳ rồi. Ông đã không tham dự Đại Hội Thi Đua Quyết Thắng Toàn Quân Lần Thứ IX năm 2015 khai mạc sáng thứ Tư 1 tháng 7 tại Hà Nội, sự kiện do Quân Ủy Trung Ương và Bộ Quốc Phòng tổ chức. Ông Thanh cũng vắng mặt trong cuộc họp Chính Phủ Thường Kỳ tháng 6 hôm 29 tháng 6 vừa qua.

Ông Thanh là Bộ Trưởng Quốc Phòng, nhiệm vụ là bảo vệ đảng, nhưng sa vào hoàn cảnh bi đát nầy, phe Bắc Kinh yếu thế rõ rệt.


Nguyễn Phú Trọng: đại diện cho kịch bản Bắc Kinh

Ông Trọng phải diện kiến Tập Cận Bình từ 7 đến 10 tháng 4 năm 2015 trước khi đi Mỹ hội kiến với Tổng Thống Obama Hoa Kỳ ngày 7 tháng7 năm 2015. Chuyến viếng thăm TC của ông Trọng có thể để củng cố quyền lực cho phe đảng, cũng có thể có những hứa hẹn những điều làm Trung cộng yên lòng và họ sẽ không làm cản trở chuyến đi Mỹ của ông.


Chuyến đi cũng hàm ý được Mỹ thừa nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tạo tư thế cho đảng cộng sản VN tiếp tục lãnh đạo đất nước trong ít nhất 5 năm nữa, cũng là liều thuốc an thần cho giới lãnh đạo Bắc Kinh về mối bang giao VN-Mỹ không đi quá xa như Bắc Kinh lo sợ. Gần đây có những động thái chứng tỏ ông Trọng đưa ra những cố gắng sau cùng để lấy thanh thế cho đảng trước khi ông hết nhiệm vụ năm 2016. Vài vụ sau đây:

1- Ngăn chận thành công chuyến đi Mỹ của Phạm Bình Minh theo lời mời của ngoại trưởng Mỹ Kerry.

2- Cử Phạm Quang Nghị, người cùng phe, đi Mỹ thay ông Phạm Bình Minh.

3- Ông Trọng đề cử 2 người vào Bộ Chánh Trị là Nguyễn Bá Thanh và Vương Ðình Huệ nhưng Ban Chấp Hành Trung Ương đã lại bác bỏ.

4- Sau khi đi Trung Cộng về, ông đi Mỹ và được Tổng Thống Obama hứa tiếp theo nghi thức quốc trưởng. Theo thông cáo của Tòa Bạch Ốc cuộc thảo luận giữa ông Obama và ông Trọng ngày 7/7 sắp tới sẽ bao gồm ba trọng điểm: (1) Tăng cường hợp tác kinh tế sâu rộng, đặc biệt với việc sớm kết thúc đàm phán TPP; (2) mở rộng khuôn khổ sự tiếp cận cảng Cam Ranh của Hải Quân Mỹ; và (3) năng cấp hợp tác quốc phòng thông qua việc tiến tới hủy bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

5- Phái đoàn đi Mỹ của ông Trọng không có Phạm Quang Nghị cũng không có bộ trưởng công an Trần Đại Quang và Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh - hai nhân vật còn tuổi để ứng cử vào Bộ chính trị khóa tới.(theo Việt Nam Thời Báo).


Sự đuối thế của ông Trọng quá rõ cho dù ông đã hết sức gắng gượng. Đó chứng tỏ xu hướng thân Bắc Kinh có thể sẽ bị loại trừ nhanh chóng, hoặc bằng chánh trị, có thể bằng con đường không êm thấm. Trang mạng Boxum của Trung Cộng nói phái thân Hoa thất thế.


Nguyễn Tấn Dũng: được coi là “thụ ủy” của kịch bản Tây phương


Ông Dũng bị tố cáo tội tham nhũng, thất bại trong việc điều hành kinh tế ở Việt Nam. Dưới trướng ông là nhóm lợi ích. Họ ra sức vơ vét của cải từ tài nguyên quốc gia đến đất đai, ruộng vườn của người dân đem bán rồi chia nhau. Đến nổi bà Đoan phải thốt lên: “ăn hết không chừa thứ gì”. Nhưng họ là nhóm có thế lực tài chánh thực sự ở Việt Nam hiện nay, điều nầy tạo thêm sức mạnh cho ông Dũng.


Sau đây là một vài sinh hoạt tạo đà cho ông trong cuộc chạy đua vào đại hội 12 năm 2016:

1- Ông thất bại trong việc điều hành kinh tế, nên vào tháng 10 năm 2012, khi Bộ Chính Trị định kỷ luật, nhưng Ban Chấp Hành Trung Ương đã bác bỏ. Ông thắng một bàn ngoạn mục làm ngơ ngác phe Bắc Kinh và khiến ông Trọng bật khóc.

2- Ông thành công trong việc cử ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị Kim Ngân vào Bộ Chánh Trị, nối thêm vây cánh cho phe ông.

3- Nguyễn Bá Thanh, người được coi thân cận ông Trọng chết với đầy nghi vấn, là một lợi thế cho ông Dũng.

4- Quốc hội chấp nhận đề nghị nới rộng quyền chánh phủ, trước đó ông Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch quốc hội, phản bác, và gần đây chính ông chấp nhận đề nghị nầy. Đó là hành động đầu hàng ông Dũng.

5- Việc ông Phùng Quang Thanh đi chữa bệnh ở Pháp, gián tiếp loại trừ quyền lực ông, người thuộc phe ông Trọng. Lý do sức khoẻ của ông Thanh không đáp ứng yêu cầu cho chức vụ Chủ Tịch Nước. Thêm một thắng lợi cho phe Tây phương.

6- Thượng Tướng Đỗ Bá Tỵ, phe ông Dũng, được đề cử thay thế nhiệm vụ Phùng Quang Thanh và liền sau đó Tư Lệnh và Chánh Ủy Bộ Tư Lệnh bảo vệ thủ đô Hà Nội bị thay thế. Một lợi thế rất lớn cho ông Dũng, vì vậy ông mới dám mạnh dạn kêu gọi quân đội trung thành với tổ quốc mà không đề cập phải trung thành với đảng như từ khi thành lập đảng đến bây giờ.
Những dấu hiệu trên đây chứng minh gần như rõ ràng là phe Tây phương đang thắng thế.


C- Những thế lực gây áp lực chánh trị

Trong chiến lược Xoay Trục của Mỹ sang Châu Á, Việt Nam chắc chắn được Mỹ lưu tâm vì vị trí địa chánh trị. Vì vậy Mỹ áp dụng nhiều biện pháp để giúp VN phát triển kinh tế cũng như vai trò của mình trong khu vực Đông Nam Á, và trên hết là vấn đề bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của VN. Do đó họ đã liên tục gởi những nhân vật cao cấp trong chánh phủ sang để hội đàm với cấp lãnh đạo VN. Sau đây là những chuyến đi gần đây nhất.

Trợ lý Ngoại Trưởng Phụ Trách Kiểm Soát và Thanh Sát Vũ Khí của Hoa Kỳ, ông Frank A. Rose, có chuyến công du đến Việt Nam và các nước châu Á từ 5 đến 16 tháng 7. Ngày 13 đến 14 tháng 7 ông sẽ có mặt tại Hà Nội, Việt Nam để làm việc với lãnh đạo Bộ Ngoại Giao và Trung Tâm Vệ Tinh Quốc Gia về các vấn đề liên quan an ninh không gian và kiểm soát vũ khí đa phương. Tháng Ba năm ngoái, ông Rose đã có chuyến thăm và làm việc với Trung Tâm Vệ Tinh Quốc Gia (VNSC) thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam.

Hồi tháng Hai năm nay, Thứ Trưởng Ngoại Giao Phụ Trách Vấn Đề Kiểm Soát Vũ Khí và An Ninh Quốc Tế của Hoa Kỳ, bà Rose Gottemoeller, cũng đã có chuyến thăm Việt Nam để thảo luận về an ninh khu vực, hợp tác an ninh và an ninh hàng hải.

Sau khi Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Ashton Carter có chuyến thăm chính thức tới Việt Nam ngày 1 tháng 6 năm 2015, trong đó ông Carter và người đồng nhiệm Phùng Quang Thanh ký một văn bản về thúc đẩy hợp tác quốc phòng. Thời Báo Hoàn Cầu lại có bài xã luận kêu gọi Việt Nam giữ cái đầu lạnh trước 'lời đường mật' của Hoa Kỳ. “Người Việt Nam thừa biết Washington đang dùng Hà Nội để kiềm chế Trung Quốc ở Biển Đông”.

Trước đó, trợ lý Ngoại Trưởng đặc trách các vấn đề về chính trị và quân sự Hoa Kỳ Puneet Talwar cũng đã có chuyến thăm Việt Nam hồi cuối tháng Giêng. Trong một phát biểu tại Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, ông Talwar nói việc "mở rộng và củng cố quan hệ với Việt Nam" là "yếu tố mang tính quyết định" cho nỗ lực xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ.

Bà Bộ Trưởng bộ Nội Vụ Hoa Kỳ cũng có mặt tại Hà Nội vào cuối tháng 6 năm 2015.

Bao nhiêu chuyến đi, tiếp xúc của những giới chức cao cấp hai bên để làm gì nếu không phải để thuyết phục Việt Nam theo quỹ đạo của phe Tây phương.

Áp lực chính trị từ những tổ chức xã hội dân sự, những nhà tranh đấu cùng những đảng viên cộng sản phản tỉnh.

Theo thiển ý, những áp lực chính trị từ những thành phần nầy chưa đủ mạnh để tạo sự thay đổi chính trị trong nước, nhưng họ đang từng bước vững mạnh và tiếng nói của họ có được sự chú ý nghiêm chỉnh từ nhà cầm quyền. Vụ ngừng chặt cây xanh ở Hà Nội là một bằng chứng.

Phần nữa, đại đa số dân chúng ít khi biểu lộ thái độ chính trị, nhưng không có nghĩa là họ phó mặc, không quan tâm. Họ có thái độ chính trị rõ rệt.

Theo sự thăm dò của cơ quan PEW, cơ quan được đa số những nhà nghiên cứu tín nhiệm kết quả thăm dò. Pew đưa ra bản kết quả thăm dò như sau:

- “78 phần trăm người Việt Nam được khảo sát cho biết họ có cái nhìn tích cực về nước Mỹ”.

- Họ “nói ‘không’ với Trung Quốc”.

- “Trung Quốc nhìn chung nhận được đánh giá tích cực từ cộng đồng quốc tế, tuy nhiên Nhật Bản và Việt Nam là hai nước nổi bật trong cuộc khảo sát vì có quan điểm rất tiêu cực về Trung Quốc với tỉ lệ lần lượt là 89 và 74 phần trăm. 19 phần trăm người Việt Nam có quan điểm tích cực về Trung Quốc, cao hơn năm ngoái 3 điểm phần trăm”.

- Về quân sự, đồ biểu dưới đây cho biết sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Châu Á được 71% người Việt Nam cho là tốt và 13% cho là xấu.

Những con số đã chứng tỏ quan điểm chánh trị của người Việt Nam. Tự nó là một áp lực mà nhà cầm quyền Hà Nội đã, đang thấy và đặc biệt quan tâm.

Cùng với áp lực chánh trị từ những tổ chức xã hội dân sự, những nhà tranh đấu, những đảng viên cộng sản phản tỉnh, tất cả những tiếng nói nầy sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi trong tương lai.


Image


Tóm lại, những vận động ngoại giao của Mỹ và những đòi hỏi của đồng bào trong nước có một số điểm gần giống với chánh sách của ông Nguyễn Tấn Dũng hơn là chánh sách của phe đảng quyền, trừ phi họ xoay chiều nhanh chóng để phù hợp và tồn tại.

Kịch bản có thể thấy trong và sau đại hội đảng cộng sản lần thứ 12

Tôi xin đưa ra dự đoán, chỉ là dự đoán mà thôi, dựa trên những phân tích trên.

1- Ông Trọng sẽ hưu trí và phe Đảng chỉ chiếm những vị trí kém quan trọng, đảng cộng sản VN tiếp tục suy yếu kể từ Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Phú Trọng cho đến khi bị đào thải.

2- Ông Dũng có thể sẽ là Tổng Bí thư kiêm Chủ Tịch nước như trường hợp Tập Cận Bình với quyền hạn tuyệt đối và vẫn giữ đảng cộng sản như là bình phong để áp dụng chánh sách độc đảng, độc đoán.

3- Có thể có một số thay đổi để biến Việt Nam thành nước “tự do, dân chủ” chỉ trên danh nghĩa, nhưng trên thực tế là chế độ độc tài, sắt máu kiểu Putin cai trị Nga Sô.

4- Vì nhu cầu khẩn cấp để cải thiện kinh tế, ông Dũng sẽ xích gần với Mỹ nhanh hơn, tham dự chặt chẽ hơn trong hệ thống kinh tế tư bản.

5- Vì nhu cầu kiềm chế Trung Cộng ở biển Đông, Mỹ có thể nhượng bộ một số yêu cầu để Việt Nam trở thành quân bài trong thế Xoay Trục của Mỹ, tạo cơ hội cho kinh tế VN được tăng trưởng. Mỹ có thể bải bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí mà Thượng Nghị Sĩ John McCain vừa kêu gọi hôm 5 tháng 7 năm 2015 và ông đề nghị chánh phủ Hoa Kỳ bán cho Việt Nam những vũ khí cần thiết để tự bảo vệ.

Việt Nam không có nhiều thì giờ để chần chờ, Mỹ không còn đủ kiên nhẫn để đợi. Chúng ta hãy chờ xem những diễn biến có tánh cách “định hình” trong quan hệ Mỹ- Việt-Trung trong thời gian gần đây khi Tổng Thống Obama, và Tổng Bí Thư Tập Cận Bình sẽ cùng đến Việt Nam trong cuối năm nay.

04.08.2015

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests