Bình Luận , Quan Điểm

khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Tháng Tư mãi là nỗi buồn!

Cao Huy Huân

(Nguồn: VOA)

Bước sang Tháng Tư, không khí của những ngày định mệnh lịch sử bắt đầu rộ khắp các tuyến đường, con phố, bờ sông. Năm nay đặc biệt hơn
vì đây là cột mốc lần thứ 40. Bởi lẽ, những cột mốc ý nghĩa luôn nhắc người ta nhìn lại quãng đường chúng ta đã đi suốt mấy chục năm ròng.


Image
Ði trên đường phố Sài Gòn luôn phải đối mặt với khói bụi và nạn kẹt xe. (Hình: Getty Images)



Sài Gòn những năm 1975, vốn mệnh danh là “hòn ngọc Viễn Ðông,” từng là giấc mơ của Lý Quang Diệu những ngày đầu thành lập Singapore. Bốn mươi năm sau, các khẩu hiệu treo đầy đường phố nêu cao thông điệp về một Sài Gòn đầy thành tích. Kẻ đứng trên những con số tăng trưởng kinh tế “đầy tranh cãi” sau 40 năm cười “ngặt nghẽo.” Tôi chưa bao giờ phủ nhận một Sài Gòn mở rộng sau 40 năm - nay trở thành trung tâm kinh tế của cả nước, thu hút đầu tư mạnh từ trong và ngoài nước với chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay các dự án viện trợ chính thức (ODA) khiến nhiều nước khác phải ganh tỵ. Tốc độ phát triển chóng mặt của những con số phát triển GDP Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung luôn khiến giới quan sát, ngay như các vị lãnh đạo cấp bộ trưởng, cũng phải giật mình. Nhưng xin thưa! nếu “gói ghém” thành tích của Sài Gòn, có lẽ cũng chỉ dừng ở chữ “tiềm năng.” Trong khi hàng tá vấn đề cho đến nay, Sài Gòn vẫn loay hoay, bế tắc, và sẽ còn tiếp tục loay hoay, bế tắc, nếu chính quyền vẫn cứ hoạt động một cách luộm thuộm như nhiều năm qua họ vẫn làm.

Trước hết hãy bàn về kết cấu hạ tầng, đô thị - điều khiến mấy chục triệu dân cứ mãi phàn nàn, rồi lại phàn nàn một cách vô vọng. Bốn mươi năm các vị mở rộng Sài Gòn cả về chiều rộng địa lý lẫn về chiều sâu kinh tế-xã hội. Các áp lực dân số, chênh lệch giàu nghèo, môi trường, tệ nạn xã hội, sức ép hạ tầng cơ sở, văn hóa đô thị... là không thể tránh khỏi. Ðể rồi người dân Sài Gòn - vốn đã “già trước khi giàu” - nay phải quẩn quanh bên một “thành phố ao làng” với hàng loạt các hệ lụy nhức nhối: ngập nước ngày càng nặng; ô nhiễm (khói, bụi, tiếng ồn, nguồn nước) ngày càng trầm trọng hơn; văn hóa tiểu nông, lúa nước lũ lượt kéo nhau vào Sài Gòn, trong khi cái mà các vị lãnh đạo gọi là “văn minh thành phố” lại chính là việc bê-tông hóa các tuyến đường vốn được cây xanh bao phủ, là hầm vượt sông tốn kém nghìn tỷ đồng vốn có thể được thay thế bằng nhiều cây cầu khang trang hơn, là các đề xuất dự án “ăn trước-chặn sau” theo kiểu nhóm lợi ích, ví như học sinh tiểu học phải trang bị máy tính bảng khi đến trường. Ðể rồi bọn trẻ, dù nhiều gia đình khó khăn cũng phải vét tiền của lo cho con “sang nước ngoài tỵ nạn giáo dục.” Nhà ổ chuột cho dân ở, trong khi nhà cao ốc thì chỉ biết để chuột “định cư” do hệ quả bong bóng bất động sản vỡ...

Mỗi thế hệ lãnh đạo Mỹ, EU, Nhật Bản hay Singapore đều để lại dấu ấn bằng những công trình tầm cỡ phục vụ lợi ích của dân. Tổng Thống Mỹ Barack Obama với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân (dù bị phe nhà giàu tranh cãi), Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe với cải cách kinh tế Abenomics vực dậy Nhật Bản, đặc biệt sau thảm họa kép 2011. Hay như Lý Quang Diệu với gần 50 năm xây dựng một đảo quốc Singapore bị Malaysia “bỏ rơi” trở thành con rồng Châu Á. Trong khi Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, các vị nhận không biết bao nhiêu vốn ODA đổ vào đầu tư hạ tầng, ưu tiên phát triển cơ sở vật chất phục vụ đời sống hiện đại hóa, để rồi số công trình hạ tầng phục vụ lợi ích cho dân đạt chuẩn quốc tế chỉ nằm trên đầu ngón tay bởi sự đục khoét bằng đủ các kiểu tham nhũng: lót tay, hối lộ, bôi trơn, lại quả. Các nhóm lợi ích thì xem vốn ODA vẫn là thứ tiền phải “giải ngân cho kịp” để “ăn,” trong khi dân phải mang tiếng “xin,” chấp nhận những “cảnh cáo” từ phía đối tác mà mới nhất là Nhật Bản, rằng “còn tham nhũng sẽ cắt tiền ODA.”

Thứ hai, không khỏi xót xa khi nhìn vào các ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp ưu tiên. Trong tầm nhìn chiến lược phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2020, Sài Gòn đã xác định ba ngành mũi nhọn của công nghiệp bao gồm: i) Cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tàu, thiết bị toàn bộ, máy công nghiệp, cơ điện tử); ii) Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; iii) Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp phần mềm, nội dung số).

Phải khẳng định đây đúng là “ba mũi nhọn” quan trọng, không chỉ Việt Nam, mà nhiều quốc gia khác như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản cũng từng trải qua. Nhưng sau 40 năm giải phóng thì nay là lúc ai cũng hốt hoảng khi chúng ta chỉ còn 5 năm để đạt ba mục tiêu mũi nhọn trên. Nhưng xin thưa, 5 năm là một con số “viển vông và không tưởng” khi hiện tại Sài Gòn đang đứng sau vạch số 0. Nghĩ làm gì đến công nghệ cao siêu khi ngay cả con ốc vít, hay các phụ kiện nhỏ nhất phục vụ ngành công nghiệp lắp ráp, cho đến nay gần như Việt Nam đều phải nhập khẩu. Khái niệm “công nghiệp phụ trợ” - ngành công nghiệp cơ bản của mọi ngành công nghiệp đã được đưa ra thảo luận và đầu tư - ra đời từ hơn chục năm trước ở Việt Nam, nhưng các vị lãnh đạo vẫn để nó giậm chân tại chỗ, mệt mỏi, thoi thóp và rồi chết đứng, nhường chỗ cho hàng hóa tiểu ngạch, chính ngạch của Bắc Kinh.

Xin phép được hỏi các vị “bao nhiêu doanh nghiệp phụ trợ mới có thể làm ra một chiếc xe hơi?” Xin thưa! Trên dưới 200 doanh nghiệp con “trợ sức” từng chi tiết máy mới có một chiếc ô tô mà các vị lãnh đạo ngồi mỗi ngày đến công sở. Cho nên có vị nào dám cam đoan sau 5 năm nữa, khi rào cản thuế quan phải hạ xuống dưới bước chân của gã khổng lồ WTO hay các thể chế mậu dịch tự do tương tự, một chiếc ô tô “lắp ráp in Vietnam” có thể sống trước ô tô ngoại nhập? Báo chí mấy hôm nay đưa tin “ô tô Việt Nam vẫn loay hoay lắp ráp để... chờ chết,” chứ Sài Gòn đừng bàn đến công nghiệp công nghệ cao - chỉ tổ khiến dân chờ, đợi, mỏi mòn và thất vọng.

Trong khi đó, bảy ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển của Sài Gòn là: dệt may, da giày, nhựa, chế biến nông lâm thủy sản, khai thác chế biến nhôm, thép, hóa chất cũng đã và đang hấp hối. Xưa nay, không ít các vị lãnh đạo vẫn cứ sống trong mớ bong bóng “rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu,” cho rằng Sài Gòn có nhân công giá rẻ, gần các khu tài nguyên. Ðể rồi khi công nghệ cao ngoại nhập khỏa lấp đi sức lực của đôi bàn tay không chỏng chơ, chai sượng của những người dân nghèo khốn khổ, thì các doanh nghiệp nội địa bắt đầu xếp hàng phá sản, đá bể toàn bộ chén cơm của hàng trăm nghìn người thất nghiệp. Hãy nhìn các doanh nghiệp nội địa ngành dệt may, mía đường, sữa,... liên tục “than trời trách đất” trong những năm qua trước áp lực của các doanh nghiệp ngoại đến từ Lào, Campuchia sẽ thấy chúng ta đang yếu đến cỡ nào.

Cuối cùng, xin hãy thẳng thắn nói về môi trường đầu tư. Chỉ chưa đầy một tháng, Việt Nam nhận liên tiếp ba sự kiện “choáng váng.” Một là, Nhật Bản tuyên bố “cắt viện trợ ODA nếu có thêm bất kỳ một dự án tham nhũng nào tại Việt Nam. Hai là, tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) bị điều tra tham nhũng, hối lộ nhà thầu Việt Nam trong các dự án cao tốc giai đoạn 2009-2012. Ba là, Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) tuyên bố cấm hoạt động trong vòng một năm đối với Tập đoàn Louis Berger Group (LBG, Mỹ) vì dính líu đến các hành vi hối lộ trong hai dự án do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ tại Việt Nam. Công ty mẹ của LBG cũng bị hạn chế quyền đấu thầu đối với các dự án của Ngân Hàng Thế Giới vì không quản lý được các hoạt động “chung chi, hối lộ quan chức” mà LBG đã thực hiện trong hai dự án: Giao Thông Nông Thôn 3, và Ðầu Tư Ưu Tiên Cơ Sở Hạ Tầng Ðà Nẵng do Ngân Hàng Thế Giới tài trợ. Tất nhiên, không ai điểm mặt chỉ tên Sài Gòn, nhưng những vấn nạn tương tự: thủ tục kinh doanh, đầu tư rườm rà, phức tạp mở đường cho các nghi thức “lót tay,” hay “lại quả.” Ðó là chưa kể đến các vụ bê bối về tham nhũng, lừa đảo trong hệ thống ngân hàng; hối lộ trong hệ thống cảnh sát giao thông... Tất cả làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Sài Gòn.

Một Sài Gòn mà hàng triệu dân mơ ước bất kể phải nếm mật nằm gai trong suốt 40 năm qua phải theo đuổi tám mục tiêu: i) Hệ thống cung cấp nước và vệ sinh môi trường (Water supply and sanitation); ii) Giao thông vận tải (Traffic and transport); iii) Năng lượng (Energy); iv) Chức năng đô thị (Urban functions); v) Kiến trúc (Architecture); vi) Quản lý chất thải (Waste Management); vii) Quy hoạch cảnh quan (Landscape Planning); viii) Hợp tác giữa khối nhà nước và khối tư nhân (Public and private stakeholders).

Nhưng rồi trước mắt họ, con đường từ nhà đến nơi làm việc đang đối diện quá nhiều rủi ro từ hệ lụy tích tụ suốt 40 năm: Ðó là một con đường đầy khói bụi, lô cốt dựng khắp nơi, dây điện chằng chịt, nước ngập úng với lượng rác thải khổng lồ. Thỉnh thoảng lại gặp vài ba anh cảnh sát giao thông “nghiêm khắc” rất thích bắt lỗi đèn xi-nhan, lấn tuyến dù con đường nhỏ hẹp và biển báo đánh đố người dân - những kẻ ngoài việc đóng thuế nuôi quan chức phải tự nguyện trả thêm ít tiền “lót tay” nếu không muốn bị “vạch ví” giữa đường. Và cũng trên con đường ấy, những chiếc xe hơi sang trọng, vẫn âm thầm và lạnh lùng lướt qua những mảnh đời cơ cực phải lam lũ đội nắng trên đầu, lội mưa tới bụng và trong hai hốc mắt sâu hoắm vẫn mong chờ bữa ăn chiều có đủ cháo, rau.

Vậy đấy, chẳng biết sau những ngày tiệc tùng mừng 40 năm chiến thắng, có vị quan chức nào giật mình thốt lên “đã 40 năm rồi cơ đấy” khi thấy tại quảng trường độc lập vẫn còn không ít kẻ lang thang nhặt lấy từng chiếc lọ, cái lon để bán kiếm tiền mà quên mất “ngày độc lập phải vui lên.”
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Cuộc chiến ‘biệt vô tăm tích’

Bùi Tín (VOA)
Cuộc nội chiến Nam-Bắc ở Việt Nam đã chấm dứt được mấy mươi năm, biết bao tài liệu sách báo, hồi ký đã được viết ra, biết bao tư liệu tuyệt mật của các bên đã được công bố, nhiều cánh cửa đã được mở ra để nhìn rõ bản chất, nguyên nhân, diễn biến, các góc cạnh của cuộc chiến.

Trong suốt hơn 20 năm qua, tôi đã được đọc không biết bao nhiêu là sách báo, tài liệu của Ngũ Giác Ðài, của Bộ Quốc Phòng Liên Xô, Pháp, Anh, của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, các hồi ký của các tướng tá cả của Quân Ðội Nhân Dân (QÐND) và của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), hồi ký về nhà tù Cộng Sản, hồi ký về thuyền nhân, rồi những tài liệu tù mù thật giả lẫn lộn, phóng ra từ ổ đen tình báo Hoa Nam Trung Quốc. Vậy mà theo tôi vẫn còn nhiều “góc khuất” của cuộc chiến tranh rất nên làm rõ, để cuộc chiến được tái hiện đúng như nó từng diễn ra trên mọi khía cạnh.

Có những sự kiện nhỏ bé ít người nói đến nhưng lại đóng vai trò rất lớn, có khi có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của cuộc chiến.

Xin nêu lên một vấn đề làm thí dụ. Tôi tạm gọi vấn đề này là “cuộc chiến biệt vô tăm tích.” Ðó là tình trạng quân nhân trong QÐND ở miền Bắc khi đã lên đường vào Nam chiến đấu là cắt đứt mọi quan hệ với gia đình, bạn bè thân thuộc trong một thời gian dài, cho đến khi sống sót được trở ra miền Bắc.

Có thể nói có hàng mấy triệu lượt quân nhân QÐND vượt tuyến như thế, và hàng triệu người đều ở trong hoàn cảnh như thế. Họ lên đường, rồi “biệt vô tăm tích,” vì bưu điện Bắc-Nam bị cắt đứt hoàn toàn. Nhưng không hề có một văn bản nào ghi nhận thành chính sách “biệt vô tăm tích” như thế.

Có lẽ rất hiếm quân đội nào trong thời chiến cùng gia đình họ chịu cảnh chia ly triệt để, kéo dài, chịu một cuộc tra tấn đày đọa tinh thần thâm hiểm đau xót triền miên như thế.

Trong thời chiến tôi có dịp hỏi chuyện một số sỹ quan phi công Hoa Kỳ bị bắt, họ còn mang theo cả thư, ảnh vợ con, bố mẹ nhận được trước đó vài hôm từ Mỹ gửi sang Thái Lan hay Hạm Ðội 7. Họ chiến đấu ở xa hàng ngàn dặm mà mối quan hệ tình cảm được đều đặn. Quân nhân của chế độ Cộng Sản miền Bắc nước ta chiến đấu trên đất nước mình mà cứ như bị tha hương, đến một tinh cầu nào xa lạ, không một lá thư nào, một hình ảnh nào.

Bao nhiêu bà mẹ, ông bố, người vợ đêm nằm thương nhớ khôn nguôi người con, người chồng yêu quý của mình, thế rồi chỉ còn có cách nuốt nước mắt vào lòng, cầu Trời khấn Phật cho người thân “biệt vô tăm tích” của mình sống sót trở về.

Các ông cha bà mẹ, người vợ ấy càng chua xót, đau đớn vì cái tỷ lệ sống sót trở về ngày càng hiếm hoi, “sinh Bắc tử Nam” đã thành số phận gần như thiên định, do cuộc chiến ở miền Nam hết sức ác liệt, do bộ phận lãnh đạo cộng sản sùng bái bạo lực, sắt máu, có dã tâm quyết hy sinh không hạn độ sinh mạng công dân cả nước mình cho tham vọng nhuộm đỏ toàn thế giới của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Chiến tranh để giành độc lập, rồi “chống Mỹ cứu nước” chỉ là nhãn hiệu bề ngoài che đậy dã tâm trên đây.

Nếu như đảng Cộng Sản Việt Nam để cho quân nhân mình được phép liên lạc với gia đình, tổ chức ngành bưu điện quân sự tỏa rộng vào các chiến trường, theo tôi nghĩ, bộ mặt cuộc chiến đã khác hẳn. Chỉ riêng cảnh rùng rợn của chiến trường, số chết và bị thương phía Cộng Sản miền Bắc quá lớn, do quân đội miền Nam và lực lượng Hoa Kỳ có hỏa lực quá mạnh (từ trước năm 1964 chiến trường miền Nam, quân đội miền Bắc nói chung chưa đưa chiến xa vào miền Nam, pháo binh còn thưa thớt, không quân miền Bắc chưa hoạt động được) nên thường thương vong các trận đánh là 3/1, 5/1, có khi 10/1. Theo một số báo cáo tuyệt mật tôi được biết khi đi trong các đoàn quân sự cao cấp do Tướng Võ Nguyên Giáp và Tướng Văn Tiến Dũng dẫn đầu, với nhiệm vụ là bí thư báo chí của bộ trưởng Quốc Phòng, sau các đợt “Tổng tiến công và tổng nổi dậy” năm 1968, lực lượng QÐND bị tổn thất nặng hơn bao giờ hết, cơ sở nhân dân bị lộ, nhiều nơi bị mất trắng, có nơi phải đưa bộ đội chính quy miền Bắc vào làm bộ đội địa phương quận huyện. Nhiều đại đội, tiểu đoàn, cho đến cả trung đoàn phải giải thể, sáp nhập vào nhau, có khi đến 2 hay 3 lấn, phải lấy phiên hiệu A, B, C, như trung đoàn 275 A, 275B, 275C. Ở Khu 5 hồi ấy sĩ quan tử trận nhiều phải đôn gấp tiểu đội trưởng lên đại đội trưởng, tiểu đoàn phó lên trung đoàn trưởng do miền Bắc cử vào không kịp.

Nếu như thư từ thông suốt, các trận đánh thua tơi bời, chết và bị thương như ngả rạ, người bị thương không được cứu chữa, người chết chôn vội rồi đơn vị di chuyển, giải thể không còn biết ở đâu, nếu như cả xã hội được thông tin từ chiến trận, biết rõ những thất bại chồng chất khi ấy thì hậu phương sẽ không cho phép đảng đem con em mình vào lò thiêu sống như thế. Ở Hoa Kỳ khi các trận đánh qua màn ảnh truyền hình đi vào phòng ngủ người dân, số tử vong lính Mỹ lên đến 50 ngàn trong 5 năm là toàn xã hội lên tiếng đòi chấm dứt chiến tranh.

Tôi từng tham dự nhiều buổi tiễn đưa một số đơn vị vào Nam, khi qua binh trạm cuối “làng HO” thuộc đất Vĩnh Linh là anh em vĩnh biệt miền Bắc trong cảnh tượng xé lòng mà vẫn phải làm ra vẻ bình thản. Ai nấy đều giống nhau, hiểu nhau, cùng nhau đóng kịch. Lúc ấy không còn đường rút lui. Cứ như qua cầu bắc ngang sông là cầu bị cắt. Ðã có một số anh em mất tinh thần, liều mạng, muốn quay lui, vào tù cũng được, nhưng không sao lọt. Vì trách nhiệm của các chính ủy đoàn, các chính trị viên, của các chi bộ là ngăn chặn hiện tượng “B tụt,” “B tạt,” “B quay,” nghĩa là tìm cách lẩn vào rừng, tụt lại sau, tạt ra các bản người dân tộc, rồi tìm cách quay về nhà. Rất ít ai thoát được.

Những anh em ấy bị truy lùng ráo riết, bị giải về hậu phương, bị tù đày không xét xử, cuối cùng ra tù còn phải chịu cuộc sống bị chính quyền Cộng Sản phường xóm giám sát, khinh thị, cả họ hàng không sao ngẩng đầu lên được.

Thời gian “biệt vô tăm tích” người thân của mỗi gia đình một khác, có khi 2, 3 năm, có khi 5, 6 năm, nhiều khi trên 10 năm, tùy chiến trường Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ, hay chiến trường Lào, Miên. Không ai biết rõ con em mình ở nơi nào. Rất hiếm khi có những tin tức của bạn bè, đồng hương bị thương trở ra, được biết là người thân ở Khu 5 hay Nam Bộ, hay Tây Nguyên, còn sống, vắn tắt, sơ sài thế thôi. Những quân nhân tử trận được báo tử rất chậm, chậm 1 năm được coi là bình thường, có khi chậm đến 2, 3 năm, do các đơn vị di chuyển sâu, sổ sách luộm thuộm mất mát, các đơn vị chia ra, nhập vào, thay phiên hiệu, cán bộ tử thương. Vì lẽ ấy mà đến nay QÐND miền Bắc có đến 300 ngàn trường hợp quân nhân mất tích, không biết bị tử trận ngày nào, ở đâu.

Ðây là món nợ xã hội của đảng Cộng Sản đối với nhân dân cho đến nay vẫn không sao trả được. Trong cuộc chiến tranh chống Pháp, con số chính thức của phía Pháp cho biết số tù binh bị phía Việt Nam bắt giam là 5,782 người, đã trao trả nhiều đợt là 3,290, số còn lại là 2,492 phía Việt Nam không giải thích được là sống chết ra sao, vì sao, ở đâu. Ðối với tù binh là người Mỹ cũng vậy, số bị bắt giam là gần 2,000, được trao trả là 591 người, số còn lại là 1,350 hay là 1,469 người, (tùy theo tài liệu của Ngũ Giác Ðài hay của Quốc Hội Mỹ), phía Việt Nam vẫn không giải thích được.

Ðây là thêm chứng minh về lãnh đạo đảng Cộng Sản cực kỳ vô trách nhiệm đối với sinh mạng con người trong chiến tranh, mặc dầu đã có những quy định quốc tế về trách nhiệm các bên đối với tù binh, về cấm tra tấn, về nuôi dưỡng, chữa bệnh, cho nhận thư từ gia đình, trao trả tù binh đầy đủ sau chiến tranh. Không thể để “biệt vô tăm tích” hàng ngàn trường hợp như thế.

Có thể nói chính sách “biệt vô tăm tích” là quốc sách rất thâm và cực kỳ độc ác, phi nhân có tính toán của đảng cộng sản trong thời chiến.

Nó được thực hiện cùng với chính sách cắt đứt triệt để quan hệ Bắc-Nam trong suốt gần 30 năm chiến tranh, nhằm triệt hạ mọi tình cảm ruột thịt, gia đình, bạn bè ở 2 miền, đặc biệt là giữa hàng triệu bà con di cư từ Bắc vào Nam với người thân ngoài Bắc, buộc phải coi nhau là thù địch, cũng là để bóp nghẹt tinh thần phản chiến âm thầm của bà con ta ở cả 2 miền.

Ðây phải chăng cũng là một tội ác, trời không dung đất không tha, của đảng Cộng Sản để làm nên cái gọi là toàn thắng giả tạo và tạm thời cách đây 40 năm?
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Nguyễn Tấn Dũng không thể học Machiavelli

Ngô Nhân Dụng
Các lãnh tụ Cộng Sản rất giỏi trong nghề nói dối, và họ đã thành công trong việc đánh lừa dân nhiều lần. Chẳng hạn, năm 1945 Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương; mục đích là đánh lừa các tướng Tàu, đánh lừa các đảng phái quốc gia, và đánh lừa dân chúng cả nước Việt Nam. Bề ngoài, Đảng Cộng Sản không còn nữa, đến năm 1950 mới tái sinh dưới tên mới là Đảng Lao Động.

Nhưng từ 1945 tới 1950 Đảng Cộng Sản Đông Dương vẫn hoạt động, vẫn kết nạp đảng viên và thủ tiêu những người bất đồng ý kiến. Năm 1947 và 48, Hồ Chí Minh vẫn nhân danh đảng gửi thư cho Mao Trạch Đông. Một cuộc triển lãm năm 2007 tại Hà Nội còn trưng bày những điện văn Hồ gửi cho Mao mà Trung Cộng còn lưu giữ. Trong các thư này Hồ nhân danh “Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Đông Dương gửi Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Trung Quốc” (nguyên văn bản dịch chính thức). Bức thư ngày 18 tháng 4 năm 1947 viết, “Từ nay về sau tôi sẽ thường xuyên thông báo những tin tức và tình hình kháng chiến chống Pháp của Việt Nam và chính sách của đảng và chính phủ trong kháng chiến. Hy vọng các đồng chí có thể thường xuyên đề xuất ý kiến và góp ý.” Bức thư ngày 20 tháng 2 năm 1948 gửi lời mời, “Chúng tôi quyết định triệu tập đại hội đại biểu toàn quốc của đảng vào tháng 8, 1948. Hy vọng quý đảng chuẩn bị cử đại biểu đến dự đại hội để cung cấp cho chúng tôi kinh nghiệm cách mạng của các đồng chí, đồng thời hy vọng thông báo giúp bốn đảng anh em Liên Xô, Nhật Bản, Miến Điện, Ấn Độ cử đại biểu tham gia. Đường đến có hai tuyến, hoặc là từ Hương Cảng đến Châu Nam rồi tới Việt Nam, hoặc đến Xiêm La.”

Sau năm 1954, văn kiện Đảng Cộng Sản công khai thú nhận rằng việc tuyên bố giải tán đảng chỉ là một thủ đoạn đánh lừa. Nhưng lúc đó dân Việt đã chui vào rọ của đảng rồi, không ai dám hỏi tội lừa bịp cả.

Đảng Cộng Sản chuyên dối trá. Và đã thành công! Cho nên, nửa thế kỷ sau đám con cháu vẫn tiếp tục thói man trá. Khi lên làm thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố sẽ tấn công tham nhũng, còn to miệng thề thốt rằng nếu không diệt được tham nhũng sẽ từ chức. Để bắt đầu, Nguyễn Tấn Dũng thu tất cả các xí nghiệp quốc doanh vào trong tay mình. Rồi thành lập các doanh nghiệp nhà nước lớn, bổ nhiệm tay chân cầm đầu, như Vinashin, Vinalines. Được mấy năm, những vụ tham nhũng hàng tỷ Mỹ kim tại các doanh nghiệp này bị đổ bể. Khi bị hạch, Nguyễn Tấn Dũng trâng tráo chối biến trách nhiệm của mình: Tôi làm thủ tướng là do Đảng (Cộng Sản) bảo tôi làm, Đảng trao phó nhiệm vụ tôi phải nhận. Tức là mất mấy tỷ đô la nhưng không thằng nào con nào có tội hết!

Đảng viên Cộng Sản chuyên môn nói dối không phải vì cha mẹ họ dạy con như vậy, nhưng vì họ đã được đảng dạy. Họ vào đảng để “tranh đấu.” Đảng Cộng Sản ra đời để “đấu tranh giai cấp.” Mà trong các cuộc đấu tranh thì nói dối là việc bình thường: “Binh bất yếm trá.” Cho nên trước khi có chiến tranh Cộng Sản đã gài gián điệp khắp nơi rồi, gián điệp là đỉnh cao của nghề lừa bịp, được tuyên dương về tài lừa thầy phản bạn cũng không tự thấy thẹn thùng. Họ gọi nghề dối trá bằng cái tên “thủ đoạn chính trị.”

Các nhà chính trị phương Tây, dù Cộng Sản hay tư bản, đều biện minh cho thủ đoạn dối trá trong chính trị bằng những lý luận của Machiavelli. Nguyễn Tấn Dũng nghĩ rằng trong mười năm mọi người sẽ quên hết, không ai còn nhớ những lời cam kết chống tham nhũng nữa. Năm thế kỷ trước đây, Niccolo Machiavelli (1469-1527) viết cuốn Quân Vương (Il Principe) đã dạy rằng dân chúng như trẻ con, chúng rất mau quên. Hơn nữa, trong chương 18, Machiavelli nhắc lại điển tích đời xưa Achilles và các nhà lãnh tụ khác đều được các con Centaur Chiron nuôi dưỡng, con vật thần thoại này đầu người mình ngựa. Ông nói thẳng rằng các quân vương phải biết hành động theo lối “nửa người nửa thú,” cả hai không bỏ cái nào được.

Nhưng làm học trò của Niccolo Machiavelli không dễ. Nguyễn Tấn Dũng không thể cứ tiếp tục đóng vai “nửa người nửa thú.” Vì Il Principe không chỉ khuyên các nhà chính trị nói dối. Một quy tắc của Machiavelli là: Muốn gian dối phải làm cho mọi người tưởng rằng mình là người đáng tin! Thủ đoạn dối trá chỉ có thể thành công trong một số điều kiện, trong đó có phần chủ quan nơi người gian thi hành thủ đoạn. Nhà chính trị trước hết phải làm sao cho người ta tin rằng mình là người thành thật, đáng tin, không bao giờ dối trá.

Cho nên Machiavelli khuyên các lãnh tụ chính trị phải làm sao mọi người thấy mình là một người hiền từ, chung thủy, nhân đạo, chính trực, và có tín ngưỡng. Ông nhấn mạnh, “Điều cần thiết nhất là phải tạo hình ảnh mình là người có đức tính thứ năm,” tức là tín ngưỡng. Vào thế kỷ 16, điều này có nghĩa là các quân vương phải có bề ngoài của một người “ngoan đạo.” Chỉ khi nào nhà chính trị làm cho dân tin rằng mọi hành động của mình đều do một đức tin nhiệt thành chỉ đạo thì lúc đó mới có khả năng làm những việc dối trá. Như câu tục ngữ Ý từ thời đó đã nói, “Alexander nói những điều không làm, Cesare làm những điều không nói,” bởi vì vị giáo hoàng và ông đại đế đã làm cho dân tin tường rằng họ có đủ năm đức tính, trong đó tín ngưỡng quan trọng nhất.

Các lãnh tụ Cộng Sản thời Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh đều áp dụng bài học Machiavelli dạy, và đều thành công trong cuộc đời đóng kịch của họ. Nhưng đến thời nay, đám con cháu của họ không thể dùng các thủ đoạn dối trá nữa. Dù có thể đóng kịch giỏi tạo hình ảnh đã đạt được bốn trong năm năm điều kiện mà Machiavelli khuyên bảo, nhưng điều kiện khó đóng kịch dối nhất là chứng tỏ một niềm tin.

Stalin, Mao, Hồ hay Pol Pot ít nhất cũng trình bày họ với hình ảnh những người nhiệt thành tin tưởng vào một chủ nghĩa. Bây giờ, Chủ Nghĩa Cộng Sản đã chết, không ai có thể chối cãi được. Kẻ nào còn tuyên dương giáo điều Cộng Sản, như Nguyễn Phú Trọng bắt buộc vẫn phải làm, thì chỉ khiến mọi người nhìn mình như một anh không “lú” cũng “khùng.”

Một người chính trị không thể dùng thủ đoạn dối trá nếu không chứng tỏ mình còn tin vào một lý tưởng hay khát vọng nào đó, một niềm tin được nhiều người chia sẻ.

Vladimir Putin vẫn dối gạt dân chúng và đang thành công, vì ông ta không còn dính dáng gì đến chủ nghĩa Cộng Sản nữa. Putin đã “cải đạo,” bây giờ dân Nga nhìn ông như một lãnh tụ cố gắng tái lập địa vị huy hoàng của nước Nga như thời các hoàng đế cũ. Các lãnh tụ Cộng Sản ở Bắc Kinh cũng không còn nói đến chủ nghĩa Mác-Lê Nin cũng như Mao Trạch Đông nữa. Họ thay thế cái áo khoác đó bằng niềm hy vọng vào một đế quốc Đại Hán mới. Còn những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam thì chưa dám xé bỏ ngọn cờ Mác Xít! Cho nên những thủ đoạn dối trá sẽ không hiệu nghiệm!

Mất cái áo khoác của một chủ nghĩa, các ông Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang chỉ còn lo tranh giành quyền lực với nhau, lộ nguyên hình là những tay hoạt đầu chính trị. Những thủ đoạn chính trị kiểu Machiavelli không thể dùng được nữa. Bọn họ cũng không thể bắt chước Putin hay Tập Cận Bình, tự khoác cho mình những cái áo khoác mới. Vì người dân Việt đã thấy cả tập đoàn lãnh đạo đảng “hèn với giặc, ác với dân” như thế nào.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Mây mù Tháng Tư

Tác giả: Phan Thanh Tân
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Như một thông lệ vào những ngày gần cuối Tháng Tư trong năm, ông Hòa thường lấy ra tập nhật ký viết về biến cố Tháng Tư 1975 ra đọc.
Tập nhật ký này không phải của ông. Ông không viết một chữ nào, cũng không ghi chú một lời nào trong tập nhật ký với khổ giấy 8x10,
mà những trang giấy trắng đã phai màu theo thời gian.

Image
Trại tiếp cư Camp Pendleton, Tháng Tư, 1975. (Hình: Tác giả cung cấp)



Ông Hòa nhớ lại cách đây gần 25 năm, lúc dọn vào căn apartment ở thành phố Westminster, ông đã nhặt được tập nhật ký này trong đống rác ở phía sau nhà.

Thời gian lướt qua với biết bao công việc lo toan cho cuộc sống mới, ông Hòa gần như quên tập nhật ký vẫn còn nằm trong tủ sách. Ðể từ đó ông trở thành chủ nhân bất đắc dĩ tập nhật ký, kể lại những sự kiện liên quan đến biến cố trọng đại của người Việt tỵ nạn trên khắp năm châu.

Nhân vật ghi chép tập nhật ký này là chàng sinh viên năm thứ ba ở đại học Luật Khoa Sài Gòn và đối tượng của chàng là một cô sinh viên năm dự bị, tên Mỹ Linh, ở đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Ðọc nhiều lần tập nhật ký ông Hòa gần như thuộc lòng truyện tình hai người, trai Luật khoa, gái Văn khoa và do đó sau này ông chỉ đọc những đoạn có liên hệ đến biến cố Tháng Tư 1975 mà thôi.

Cũng giống như những năm trước, năm nay sau đúng 40 năm ngày Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, ông Hòa lôi ra tập nhật ký, đọc chậm rãi như muốn nuốt từng lời, từng chữ, thả hồn về quá khứ xa xưa, để ghi nhớ và tưởng niệm đến các anh hùng nghĩa sĩ đã anh dũng bỏ mình vì dân vì nước.

***

Ngày Thứ Tư, 2 tháng 4 năm 1975: Khoảng gần 10 giờ sáng tôi có mặt trong lớp học hai giờ Dân Luật với Giáo Sư Vũ Quốc Thông. Tin Cộng quân đã chiếm Nha Trang được lan truyền nhanh trong lớp. Vừa nghe xong tôi bay ra khỏi lớp, chạy nhanh qua đại học Văn Khoa tìm Mỹ Linh. Bước nhanh lên lầu ba, tôi ngó quanh khắp giảng đường, không thấy bóng dáng Mỹ Linh ngồi trong đó. Trông thấy tôi đứng dáo dác nhìn quanh tìm Mỹ Linh, cô bạn của Mỹ Linh bước ra cho biết Mỹ Linh không đến lớp vào sáng nay. Tôi nói cám ơn cô ta và vội vàng phóng xe nhanh đến nhà dì của Mỹ Linh, nơi hai chị em nàng đang ở trọ nằm trên đường Ðinh Tiên Hoàng. Khuôn mặt Mỹ Linh đỏ hoe, bước ra mở cổng. Trông nàng thảm não và buồn đau vì mất tin tức mẹ cha, tôi cảm thấy thương yêu nàng quá đỗi và tự nhủ sẽ không lìa xa nàng trong bất kỳ tình huống tồi tệ nào xảy ra.

Ngày Thứ Tư, 9 tháng 4 năm 1975: Tất cả nhật báo đều loan tin Sư Ðoàn 18 đóng ở tỉnh Long Khánh, đã oanh liệt đẩy lui sự tấn công của Quân Ðoàn 4 Bắc Việt muốn thôn tính thị xã Xuân Lộc.

Sau giờ học buổi chiều ở Luật khoa, tôi ngồi đấu láo với đám bạn ở quán cà phê Thu Hương. Trước chiến thắng của sư đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy, tôi nhận thấy đám bạn tôi đều lạc quan và tin tưởng miền Nam không thể rơi vào tay Cộng quân. Chỉ riêng tôi lo lắng và bi quan trước tình hình nguy kịch của đất nước và nêu thắc mắc tại sao chính phủ không đóng cửa tất cả các trường trung và đại học và ban lệnh Tổng Ðộng Viên trên toàn quốc?

Ngày Thứ Hai, 14 tháng 4 năm 1975: Mỹ Linh tan lớp học lúc 10 giờ và theo tôi vào ngồi uống nước trong câu lạc bộ trường Văn Khoa. Tại đây tôi nói với nàng do bởi tình hình chiến tranh căng thẳng, trường đại học Văn Khoa vừa ra thông cáo kỳ thi cuối năm được tổ chức sớm hơn thông lệ và sẽ tổ chức vào đầu Tháng Sáu.

Nói xong tôi bảo nàng đưa thẻ sinh viên để tôi ghi danh dự thi cuối khóa giùm nàng, bởi tôi có người bạn là thành viên trong ban đại diện của niên khóa này và đang phụ giúp việc ghi danh.

Ðưa tấm thẻ sinh viên cho tôi, nàng rầu rĩ kể tôi nghe vừa được thư của người anh ruột đang làm việc ở thành phố Washington DC, nói rằng ở bên Mỹ đang chuẩn bị giăng lều, căng trại đón người thua trận, bởi miền Nam sắp sửa kết thúc như Campuchia vậy. Do đó anh nàng sẽ gởi giấy tờ để bảo trợ nàng đi qua Mỹ du học.

Tôi ngồi lặng im, tiếp tục lắng nghe nàng cho biết ông giáo sư người Mỹ đã nói riêng với nàng rằng tình hình miền Nam càng ngày càng thê thảm và có thể hạ màn vào cuối Tháng Tư này. Sau đó ông ta trân trọng hỏi nàng chịu đi Mỹ với ông ta hay chăng? Tôi chưa kịp hỏi nàng trả lời ra sao, thì Mỹ Linh còn cho tôi biết thêm người chị của nàng là Mỹ Lan hiện làm việc cho cơ quan DAO ( Defend Association Organization), có thể dẫn nàng đi nếu tình thế đến hồi kết cuộc.

Lòng tôi tê tái và se thắt lại khi nghe nàng nói như thế, nàng có nhiều cơ hội sang Mỹ và tôi sẽ phải xa nàng. Tình tôi đối với nàng càng ngày càng đậm sâu và tự nghĩ sau này không gặp được nàng, cuộc đời chắc vô vị lắm! Nhìn thấy khuôn mặt tôi đượm nét không vui, Mỹ Linh nắm tay tôi, mếu máo nói tiếp, ngày nào chưa biết tin tức của song thân nàng vẫn chưa muốn đi đâu hết.

Nghe nàng nói như vậy tôi cảm thấy an tâm và nhẹ nhõm, bởi vì tôi không muốn xa nàng, mất nàng. Lúc đưa Mỹ Linh về nhà, chiếc xe chạy ngang qua Tòa Ðại Sứ Mỹ, tôi đã thấy có một số người đứng xếp hàng một ở bên ngoài, chờ đợi vào bên trong lập thủ tục chuẩn bị rời nước ra đi. Lòng tôi cảm thấy xốn xang và buồn đau quá!

Chiến tranh còn đang tiếp diễn, Sư Ðoàn 18 ở Xuân Lộc đang anh dũng chống trả Cộng quân, thế mà các nhân viên làm việc cho các cơ quan Mỹ đang lặng lẽ chuồn khỏi nước. Hơn hai tuần sau ở Subic Bay tôi tình cờ gặp ông thầy dạy ở Luật khoa, đã tiết lộ rằng vào ngày 15 tháng 4 Tòa Ðại Sứ Mỹ đã gởi mật điện đến trường, yêu cầu cấp tốc lập danh sách những ai muốn rời Sài Gòn.

Sau này khi định cư ở Mỹ, tôi được nghe một anh bạn là sinh viên Y Khoa Sài Gòn năm cuối cùng, cũng tiết lộ Tòa Ðại Sứ Mỹ đã bốc đi gần hết các sinh viên Y Khoa từ năm thứ năm trở lên qua Mỹ. Ðiều đó cho tôi hiểu rằng ông bạn đồng minh của VNCH đã sẵn có kế sách bỏ rơi miền Nam từ lâu, nên tìm cách bốc đi các nhân viên làm việc chung với họ, cùng các chất xám trong nước.

Ngày Thứ Hai, 21 tháng 4 năm 1975: Sau khi đưa Mỹ Linh về nhà, tôi hấp tấp lái xe nhanh về nhà để đón xem bài nói chuyện của Tổng Thống Thiệu với quốc dân đồng bào. Toàn thân tôi đã nổi gai ốc khi nghe Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức và giao quyền lãnh đạo quốc gia cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Tôi có linh cảm chiến tranh hai miền Nam Bắc sắp kết thúc, với mây đen sắp sửa ập xuống dải đất miền Nam Cộng Hòa. Ðêm đó ngồi trước quyển Hình luật vừa mới mua, tâm trí tôi nhảy múa lung tung trước hiện tình đất nước, không thể nhét một chữ nào vào trong đầu.

Ngày Thứ Ba, 22 tháng 4 năm 1975: Mấy ngày qua tôi không thấy thằng bạn thân xuất hiện trong giảng đường, nên chiều nay sau khi tan học, tôi tạt qua nhà hắn ở cư xá Chi Lăng, tỉnh Gia Ðịnh. Bấm chuông nhiều lần vẫn không thấy ai ra mở cửa, khiến tôi nghi ngờ gia đình hắn đã chuồn ra khỏi nước. Quả đúng như ý nghĩ, sau này hai đứa trùng phùng nhau trên xứ người, hắn cho biết toàn thể gia đình được mục sư Cơ Ðốc Giáo âm thầm dẫn đi di tản từ ngày đó.

Ngày Thứ Năm, 24 tháng 4 năm 1975: Bởi người anh rể tôi là một kiến trúc sư, làm việc cho cơ quan Mỹ, nên khoảng 10 giờ sáng nay gia đình anh chị tôi cùng với năm cháu được xe ở cơ quan đến tận nhà chở vào phi trường Tân Sơn Nhất. Lòng tôi buồn rười rượi cho nỗi chia ly với anh chị và các cháu, biết bao giờ gặp lại nhau! Vì vậy tôi càng thương cảm cho hoàn cảnh của Mỹ Linh nhiều hơn, đã bặt tin tức song thân từ ngày Nha Trang lọt vào tay Cộng quân. Khoảng 4 giờ chiều tôi đến trường Văn Khoa đón Mỹ Linh. Hai đứa chui vào một quán kem quen thuộc nằm trên đường Nguyễn Huệ. Sau khi một ly kem dâu, một ly kem chocolate và một dĩa bánh su-kem được đặt lên bàn, tôi mới kể nàng nghe anh chị hai cùng năm đứa cháu nhỏ của tôi đã vào phi trường Tân Sơn Nhất hồi sáng hôm nay. Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi tôi sao không đi theo gia đình anh chị? Mỹ Linh thực sự cảm động khi nghe tôi trả lời cho dù có cơ hội di tản, tôi vẫn nhất quyết không đi, chỉ muốn được gần bên nàng mà thôi. Bằng tấm lòng chân thật nàng bày tỏ cũng muốn ở lại đây với tôi và gặp lại mẹ cha. Hai đứa không muốn lìa xa nhau dẫu cho tình thế có rối rắm tới đâu đi nữa.

Ngày Thứ Sáu, 25 tháng 4 năm 1975: Vào khoảng 8 giờ sáng bọn sinh viên năm thứ ba ban Kinh Tế ngồi trong giảng đường chờ thầy Vũ Văn Mẫu đến dạy hai giờ Công Pháp Quốc Tế. Thầy Mẫu không xuất hiện, thay vào đó là thầy Phó Khoa Trưởng Phan Tấn Chức đến cho biết thầy Mẫu bận công vụ không đến dạy vào sáng nay. Vào dịp này trước tình thế hiện tại thầy Chức cho biết ngày thi sẽ được tổ chức sớm hơn và nhấn mạnh ai có thi sẽ được cho đỗ tất cả. Cả lớp học từ từ giải tán, riêng tôi chạy qua Văn Khoa tìm Mỹ Linh. Hai đứa đến rạp Vĩnh Lợi xem phim “Tình Thù Rực Nắng” (Summertime Killer) do nữ tài tử Olivia Hussey thủ diễn, rất sexy trong phim này trái với hình ảnh xinh xắn và dễ thương trong vai nàng Juliet ở phim Romeo & Juliet.

Ðứng trước rạp Vĩnh Lợi tôi không thể tưởng tượng được cảnh tranh giành nhau, chen lấn nhau trước phòng bán vé. Không làm sao tôi quên được quang cảnh bỉ ổi và kinh tởm trước rạp Vĩnh Lợi vào buổi sáng nay. Trời ơi! Ðám đông la hét, chen lấn, chèn ép, xô đẩy nhau chỉ mong đạt được mục đích nhỏ nhoi là mua được tấm vé xi nê. Rồi khi giành mua được tấm vé, khuôn mặt họ đẫm ướt mồ hôi cùng nụ cười rạng rỡ trên môi, trông trơ trẽn và nham nhở vô cùng. Vì những tấm vé hát, đám đông không hề lo lắng và quan tâm đến tình hình chiến cuộc, mà Ban Mê Thuột, Huế, Ðà Nẵng, Nha Trang đã từ từ lọt vào tay Cộng quân. Vì những tấm vé hát, đám đông không mảy may sợ sệt và lo âu một Sài Gòn sẽ mất như thành phố Nam Vang đã lọt vào tay Khmer Ðỏ? Vì những tấm vé hát, đám đông đã nhẫn tâm phản bội và vô ơn đối với những anh chiến sĩ đang ngày đêm trực diện với Cộng quân, để bảo vệ cho họ an lành ở thành thị vui chơi và hưởng thụ. Tủi hổ, chán chường và tức giận, tôi và Mỹ Linh ra về. Buổi tối tôi ngồi xem tin tức, được biết cựu Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đã rời Việt Nam. Quả thật tình hình đất nước biến chuyển đen tối hơn và niềm âu lo nơi tôi thành phố Sài Gòn rồi sẽ thất thủ như thành phố Nam Vang càng tăng hơn gấp bội.

Ngày Thứ Bảy, 26 tháng 4 năm 1975: Buổi sáng tôi đến trường Văn Khoa lo việc ghi danh thi cử cho Mỹ Linh. Nàng đã cho tôi biết hôm nay hai chị em nàng đi vào các trại tạm cư để dọ hỏi tin tức song thân, nên tôi không cần tìm kiếm nàng trên Văn Khoa. Vào khoảng 2 giờ trưa người bạn thân tên Bổng đến rủ tôi đi uống cà phê. Trong quán cà phê Hân, Bổng hỏi tôi có ý định rời bỏ Sài Gòn không? Tôi đáp nhanh cho Bổng hiểu tôi không có ý định đi đâu hết, bởi tôi không muốn xa Mỹ Linh. Nhà Bổng gần bên Khánh Hội, nên hắn cho biết hắn sẽ tìm cách ra đi nếu nhìn thấy bóng dáng Cộng quân xuất hiện trong thành phố. Nghe như thế, tôi cười và khuyên Bổng dẹp bỏ ý nghĩ rời nước ra đi, bởi “cùng tắc biến, biến tắc thông,” chiến tranh rồi sẽ kết thúc bằng một thỏa ước hòa bình. Nhưng Bổng cãi lại, nói “biến tắc thông, thông rồi tắc tịch” luôn và khuyên tôi nên tìm đường chạy thoát khỏi Sài Gòn, đừng vì con gái mà lụy thân.

Ngày Chủ Nhật, 27 tháng 4 năm 1975: Bởi tình hình chiến sự đang đến hồi khốc liệt, Cộng quân đang tiến dần vào thủ đô Sài Gòn, chính phủ phải ban hành lệnh giới nghiêm vào 7 giờ tối. Vì vậy khoảng gần ba giờ chiều tôi chạy đến tìm gặp nàng. Xa nhau mới chỉ vỏn vẹn một ngày, cả hai tưởng như xa nhau suốt một năm! Tôi gặp cô chị của Mỹ Linh cũng có mặt trong nhà. Mỹ Linh nói ngày hôm qua hai chị em nàng đã đi khắp nơi chứa người lánh nạn để tìm song thân. Tuy không gặp mặt nhưng được tin ba mẹ nàng vô sự và bình an. Mỹ Linh nói thêm rằng song thân nàng nhắn tin bảo hai chị em nàng nếu có cơ hội thì hãy ra đi trước. Nhìn tôi bằng ánh mắt u buồn, Mỹ Linh nghẹn ngào nói hai chị em nàng đã quyết định nghe lời song thân và dự định ra đi. Sau đó chị Mỹ Lan tiếp lời Mỹ Linh cho tôi biết, bởi tình hình biến chuyển ngoài dự liệu, vào sáng mai sẽ có vài vị cao cấp ở cơ quan DAO túc trực ngoài cửa phi trường để rước các nhân viên của DAO vào bên trong phi trường. Nhưng cơ quan DAO chỉ cho phép người phối ngẫu và cha mẹ con cái của nhân viên đi cùng mà thôi. Nước mắt rưng rưng Mỹ Linh nghẹn ngào nói nếu tôi muốn thì sáng ngày mai tôi và chị Mỹ Lan, giả như một cặp vợ chồng, đón xe vào phi trường Tân sơn Nhất, còn nàng ở lại nhà chờ ông giáo sư Mỹ đến rước vào tòa Ðại Sứ Mỹ. Sau đó hai đứa ra ngồi ngoài hành lang tâm sự và bàn tính việc ra đi. Bàn tính chưa xong thì sắp đến giờ giới nghiêm. Tiễn tôi ra tận cửa, hai đứa bịn rịn chẳng muốn lìa xa nhau. Ngoài đường mọi người vội vã chạy về nhà trước giờ giới nghiêm, gây cảnh ồn ào náo động như ngày lễ hội, nhưng bên tôi không nghe gì hết ngoài hơi thở của người yêu mà thôi! Suýt nữa tôi quên trả lại nàng tấm thẻ sinh viên, nên vừa vội vàng móc bóp lấy ra thẻ sinh viên trao nàng, vừa cho nàng biết sự ghi danh thi cử giùm nàng đã xong. Mỹ Linh cười buồn nói rằng tấm thẻ sinh viên này trong nay mai rồi sẽ trở nên vô dụng.

Ngày Thứ Hai, 28 tháng 4 năm 1975: Ðồng hồ trên tường chỉ đúng 9 giờ sáng, chiếc xe taxi chở Mỹ Lan đậu trước nhà tôi. Từ giã những người thân yêu, tôi bước vào trong xe và chiếc xe taxi đưa Mỹ Lan và tôi hướng về phi trường Tân Sơn Nhất. Quang cảnh đường phố sáng nay mang bộ mặt khác thường, bởi con đường nào cũng đông nghịt xe hết. Bóng dáng các cảnh sát gìn giữ trật tự lưu thông lặn mất, khiến lưu thông xe cộ kẹt cứng khắp nơi, một hiện tượng rất lạ thường đối với thành đô. Quả thật sáng nay người dân Sài Gòn đang trực diện với không khí chiến tranh, nỗi lo âu và sợ sệt đang bao trùm khắp thành phố. Xe cộ lưu thông loạn xạ, vô trật tự, tiếng còi xe kêu vang inh ỏi, trộn lẫn với tiếng người kêu la thất thanh, tạo ra bầu không khí hoang mang, sợ hãi tột cùng một sự tắm máu sắp sửa xảy ra do tin đồn loan ra từ cả tuần qua. Chắc vì thế mà mọi người túa ra đường tìm lối ra đi, nên đường phố càng lúc càng đông, mạnh ai hối hả chạy không còn tuân theo luật lệ gì nữa!

Ông tài xế taxi nói tình hình chiến sự kể như vô vọng, Cộng quân tiến gần Biên Hòa rồi. Tin tức Cộng quân đang tiến dần vào ngoại ô thành phố Sài Gòn được lan truyền nhanh chóng, bắt đầu tạo ra bầu không khí hỗn loạn khắp mọi nơi. Chiếc xe taxi nhích từng chút khiến Mỹ Lan ngồi trong xe tỏ vẻ nóng ruột, lo lắng không gặp viên chức DAO, thì làm sao vào bên trong phi trường được. Nhưng rồi đến gần 12 giờ trưa xe taxi mới tới được phi trường, Mỹ Lan thở phào nhẹ nhõm trong khi lòng tôi bồn chồn nhớ đến Mỹ Linh. Chung quanh phi trường được canh phòng bởi nhiều vòng kẽm gai, cùng các Quân Cảnh và vài viên chức người Mỹ đứng canh gác. Lúc ấy tôi mới để ý rất đông người tụ tập bên ngoài phi trường, với ước mong vào bên trong phi trường thì mới có cơ hội đào thoát khỏi thành phố Sài Gòn có nguy cơ bị nhuộm đỏ bởi Cộng quân. Trong thấy bóng dáng Mỹ Lan, một viên chức ở cơ quan DAO đứng tuổi bước đến gần Mỹ Lan, phàn nàn rằng tại sao Mỹ Lan tới đây quá trễ, nếu mà trễ thêm chút nữa hẳn không gặp được ông ta, vì ông ta vừa được lệnh phải quay vào Tòa Ðại Sứ Mỹ. Sau đó ông ta ra lệnh cho lính Quân Cảnh gỡ vòng kẽm gai để tôi và Mỹ Lan bước vào trong phi trường, rồi đính thân ông ta lái xe chở hai đứa đến một căn phòng to rộng, nơi đang có vài ngàn nhân viên Mỹ chờ đợi ra đi. Bước vào trong căn phòng, tôi nhìn thấy mọi người đang nằm, ngồi la liệt, bàn tán tình hình đen tối trước mắt. Vì vậy tôi mới biết trong phi trường vừa có lệnh giới nghiêm 24/24, với lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, mọi cổng gác chung quanh phi trường đều đã đóng kín và được canh phòng nghiêm ngặt bởi lính hỗn hợp Quân Cảnh Việt và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ.

Vừa ngồi xuống một khoảng trống trong căn phòng, toàn thân tôi như bị đông lạnh và tức nghẹn khi được nghe rằng do bởi tình hình đột biến quá nhanh, cơ quan DAO không thể kiểm tra danh sách nhân viên ghi tên ra đi. Do đó bất cứ thân nhân nào đi cùng với nhân viên của DAO, cũng được DAO vớt hết. Còn Mỹ Lan buông tiếng thở dài, than thầm phải mà biết được như thế thì đã kéo Mỹ Linh đi theo luôn vào phi trường. Bỗng nhiên tôi có linh cảm ông giáo sư Mỹ không thể đến bốc nàng đi như đã hứa hẹn và Mỹ Linh sẽ bị kẹt lại. Trong lòng tôi nổi lên sự linh cảm mạnh mẽ hơn khi trời đang nắng gay gắt, bỗng mây đen trên cao đột ngột kéo đến, báo hiệu cơn mưa sắp sửa đổ xuống.

Ngước mắt nhìn trời cao, tôi chỉ thấy toàn đám mây đen, mù mịt che phủ kín mặt trời. Phải chăng hiện tượng mây mù là dấu hiệu đen đúa sắp phủ xuống cuộc đời Mỹ Linh? Mây mù ngự trị trên bầu trời khá lâu, đến buổi chiều trời bắt đầu đổ mưa, tuy không nặng hột nhưng tạo ra hoàn cảnh thê lương hơn, kinh sợ hơn và u ám hơn cho thành phố Sài Gòn. Lòng tôi nóng như lửa đốt, muốn chạy ra gặp Mỹ Linh, nhưng phải đành ngồi bó chân chờ đợi lệnh giới nghiêm được tháo gỡ. Như đọc được ý nghĩ tôi muốn trở ra ngoài, bằng giọng trách móc Mỹ Lan nói rằng trong khi ai ai cũng muốn chạy vào trong đây để được chính phủ Mỹ bốc ra khỏi nước, tránh một cảnh tắm máu có thể xảy ra ngay trong lòng thành phố, thì tôi lại muốn chạy ra ngoài đặng hứng bom rơi đạn nổ. Lời Mỹ Lan nói hoàn toàn không sai! Khoảng 7 giờ tối để “chào mừng” bài diễn văn của Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Ðại Tướng Dương Văn Minh, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào trong phi trường. Lúc này tôi nghe nhiều tiếng la thét, tiếng kêu réo, tiếng than khóc vang lên trong đêm tối và mọi người bò lê bò lết nằm xuống tránh đạn, nhưng rất may đạn đã không rơi vào nơi căn phòng tôi và Mỹ Lan đang trú ẩn. Hình như tôi không thể ngủ được một phút giây nào, mắt mở trao tráo nghĩ đến tình thế đen tối miền Nam rơi vào tay Cộng quân, cùng nhớ ray rứt về Mỹ Linh.

Ngày Thứ Ba, 29 tháng 4 năm 1975: Nơi phi trường Tân Sơn Nhất lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập” vẫn tiếp tục thi hành một cách triệt để và gắt gao hơn nữa. Bằng cách nào tôi chạy thoát ra ngoài trước lính canh phòng với khí giới trên tay và các vòng kẽm gai? Lòng tôi uất nghẹn và điếng đau ghê gớm đã không thể trở ra phi trường tìm gặp người yêu dấu. Ðến khoảng gần một giờ trưa mọi người chứng kiến quang cảnh đoàn lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ giựt sập cột đèn, cắt đứt dây điện, lượm lặt rác, thu dọn các chướng ngại vật dưới đất. Nhiều tiếng la hét và tiếng khóc than nổi lên, bởi lúc ấy ai cũng đều nghĩ chắc chắn đã bị Mỹ bỏ rơi, nên ùn ùn xách hành lý chạy ra khỏi các dãy nhà trú ẩn. Như bừng sống dậy, tôi vội vã chào từ biệt Mỹ Lan, nhập vào đoàn người ùn ùn chạy ra phi trường. Thấy tôi bỏ chạy, Mỹ Lan cũng chạy theo tôi. Chạy được một khoảng ngắn, đoàn người bỗng nghe loa phát thanh vang lên: “Tất cả hãy dừng lại và ngồi xuống đất có trật tự. Ai bất tuân sẽ bị trừng trị. Trong chốc lát sẽ có hàng trăm chiếc trực thăng đáp xuống, bốc quí vị rời khỏi đây.” Ðến giờ mọi người mới hiểu hành động của lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là chuẩn bị bãi đáp cho chiến dịch Trực Thăng Vận vào giờ chót bốc người đi di tản của tổng thống Mỹ.

Khoảng hơn 3 giờ trưa từng đoàn trực thăng ào ào đáp xuống bãi đất trống, nơi có vài ngàn người đã mỏi mệt chờ đợi mấy ngày qua. Trái với nỗi lo âu nơi tôi có sự hỗn loạn và chen lấn đến chết người như đã xảy ra ở phi trường Ðà Nẵng, mọi người trên tay xách một hành lý nhỏ, trật tự xếp hàng một, từ từ bước vào từng chiếc trực thăng.

Buổi chiều hôm đó mây đen che kín bầu trời, từ một radio cầm tay trong đoàn người, tôi nghe giọng nói của Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, hiện là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, kêu gọi người Mỹ hãy rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ. Ðể đáp ứng lời kêu gọi đó, Cộng quân pháo kích như mưa vào phi trường Tân Sơn Nhất, nơi đang có vài ngàn người đang xếp hàng một, tuần tự leo vào từng chiếc trực thăng rời khỏi thành phố Sài Gòn thân yêu. Tiếng đạn pháo kích, tiếng cánh quạt của chiếc trực thăng hòa lẫn với tiếng mưa rơi, tạo ra âm thanh thê lương đứt từng khúc ruột trong lòng người bỏ nước ra đi. Ðôi chân nặng nề bước vào chiếc trực thăng, cõi lòng tôi nát tan cho hoàn cảnh đẩy đưa phải đành xa Mỹ Linh từ đây. Từng hạt mưa rơi đầy trên mặt trên môi tôi. Hay nước mắt đang đẫm ướt trên mặt tôi đây?

Tôi nhớ như in, đúng 7.30 tối chiếc trực thăng, có tôi và Mỹ Lan trong đó, từ từ cất cao lên mặt đất, rồi bay cao lên không trung và bay khuất thành phố Sài Gòn dấu yêu. Lúc này tôi biết rõ nước mắt đang nhạt nhòa trên đôi mi tôi. Khoảng chừng thời gian ngắn từng chiếc trực thăng hạ cánh trên Hạm Ðội Thứ Bảy ở ngoài khơi Vũng Tàu.

Ngày Thứ Tư, 30 tháng 4 năm 1975: Vào 10 giờ sáng tôi cùng với số đông đồng bào trên boong tàu của chiến hạm Okinawa, gục đầu buồn bã nghe Ðại Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng trên đài phát thanh. Mọi người bàng hoàng và kinh ngạc sao Sài Gòn thất thủ nhanh quá! Không ai nói được một lời nào! Một sự im lặng đến rợn người trên boong tàu, cúi đầu rơi lệ đón nhận tin Cộng quân đã chiếm được thành phố dấu yêu Sài Gòn. Sự im lặng đến không thể bày tỏ bằng lời nói của từng khuôn mặt thất thần trên chiến hạm Okinawa, khác nào mọi người đang mặc niệm cho thành phố Sài Gòn đang giẫy chết bởi Cộng quân.

Chiến hạm Okinawa tiếp tục lướt sóng ra đại dương mênh mông, mang chở nỗi cảm xúc kinh hoàng trên từng khuôn mặt của mọi người vừa hay tin thành phố Sài Gòn đã thất thủ. Cho tới hơn hai giờ trưa cùng ngày tất cả người tỵ nạn từ trên chiến hạm được chuyển xuống từng chiếc xuồng nhỏ. Rồi từ chiếc xuồng nhỏ, tôi và Mỹ Lan cùng đoàn người bỏ nước ra đi được chuyển sang một chiếc tàu thương mại to lớn, đậu cách chiến hạm Okinawa không xa mấy. Sau gần hai đêm ba ngày lênh đênh trên biển rộng bao la, con tàu thương mại chứa đầy người tỵ nạn cập bến tại đảo Subic Bay, Phi Luật Tân. Và sau vài đêm tá túc ở đảo Subic Bay, bằng những chuyến bay dân sự những người tỵ nạn được chở đến đảo Guam hay đảo Wake trước khi chính thức nhập cảnh vào đất Mỹ. Riêng tôi và Mỹ Lan được đưa đến đảo Wake, một căn cứ quân sự của Mỹ ở Honolulu. Rồi sau đúng ba tuần lễ tá túc trên đảo Wake, hai đứa được tạm trú trong trại tỵ nạn Camp Pendleton ở tiểu bang California.

***

Uống vài hớp tách trà đã nguội lạnh từ lâu, ông Hòa ngả dài lưng trên ghế sofa, lòng bồi hồi nhớ về các bạn đồng ngũ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam. Chính ông đã bị thương tích đầy mình và bị giam cầm gần 8 năm ròng rã trong trại cải tạo, để suốt cuộc đời còn lại phải sống với đôi chân tật nguyền. Lòng ông cũng ngậm ngùi giùm cho các nhân vật trong tập nhật ký, bởi vì biến cố Tháng Tư 1975 đã tạo ra mối tình oan trái “tình em duyên chị” đến dở khóc dở cười, ra ngoài ý muốn cả ba.

Ông Hòa cũng ý thức được rằng biến cố Tháng Tư 1975 đã để lại biết bao chuyện oan khiên khác, mà mỗi khi hồi tưởng lại thời gian đó, lòng người bỏ nước ra đi gặm nhấm nỗi buồn đau khó thể quên được.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Giấc mơ 40 năm chưa thành

Tidoo Nguyễn
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
14 tháng 4 2015


Image
Nhiều người miền Nam lên tàu chạy trốn vào cuối cuộc chiến năm 1975
40 năm đánh dấu sự kiện quân đội Bắc Việt chiếm lĩnh và cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập, và cũng là 40 năm đánh dấu ngày tôi ra đời trong ngày đầu tiên của chế độ mới.

Nền giáo dục của chế độ mới dạy tôi rằng ngày 30 tháng 4 là ngày “Thống nhất đất nước”, “Ngày giải phóng miền Nam” bằng chiến thắng vẻ vang. Nhưng khi lớn lên tôi nhận thức được rằng mình phải tìm hiểu sự thật về sự kiện ngày 30 tháng 4.

Mãi cho đến đầu thế kỷ 21 tôi mới tiếp cận được với internet và tìm hiểu sự thật lịch sử qua những tài liệu bằng tiếng Anh trên những trang web nước ngoài, qua những đoạn phim tài liệu về những ngày cuối cùng của Sài Gòn được đăng tải trên Youtube. Và gần đây nhất là được xem bộ phim tài liệu đầy đủ mang tên “Last days in Vietnam”.

Vào ngày 3 tháng 4 năm 1975, khi chiến tranh đã đến hồi hỗn loạn, tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố tất cả trẻ em mồ côi Việt Nam ngay lập tức sơ tán bằng máy bay ra khỏi Sài Gòn. Ước tính có 3.000 trẻ em, bao gồm 150 trẻ sống sót trên máy bay C-5 bị rơi, đã được sơ tán ra khỏi miền Nam Việt Nam vào khoảng ngày 3 tháng 4 cho đến 26 tháng 4 năm 1975. Cuộc sơ tán đó là chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam hay còn gọi là Operation Babylift.

Tôi đã tham gia vào những cộng đồng “Operation Babylift” trên Facebook, đọc những câu chuyện của những đứa trẻ ấy, và tìm hiểu những thông tin liên quan đến chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam trên báo mạng. Qua đó tôi đã biết được những đứa trẻ nàyđã và vẫn tiếp tục dằn dặt với những câu hỏi : “Tại sao tôi là con nuôi?”, “Tại sao bố mẹ đẻ bỏ rơi tôi?”, “Tại sao tôi là người Châu Á duy nhất trong khi các thành viên trong gia đình là da trắng?” Cũng không ngoại trừ trường hợp có người trong số đó muốn đánh đổi tất cả để trở thành người da trắng.

Mỉa mai thay, tôi đã từng mơ ước rằng mình là một trong những đứa trẻ của chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam, được đưa ra khỏi đất nước Việt Nam để làm con nuôi cho gia đình ở nước ngoài trong chiến dịch đó. Nếu được như vậy thì cuộc đời của tôi đã không phải chịu đựng nhiều cơn đói khát, đau đớn trong quá khứ và đầy lo âu ở hiện tại.
Image
Những năm đầu đời của tôi cũng là những năm tháng đất nước bị “ngăn sông cấm chợ”.
Thời đấy tôi không mong ước gì hơn ngoài việc được ăn no. Bữa ăn mà tôi mơ ước chỉ cần có cơm và muối ớt. Thế nhưng cơm và muối ớt là những bữa ăn vô cùng hiếm hoi trong gia đình tôi. Hàng ngày, chúng tôi hái những quả mít non, quả chuối xanh, cắt những mụt măng sau nhà hay đi lượm mót từng hạt mít mà người ta bỏ đi để đem về luộc lên ăn. Chúng tôi ăn cả vỏ khoai mì, cây chuối non để sống. Những hôm “nguồn tài nguyên” cạn kiệt, chúng tôi không có gì để ăn đành nhịn đói ngủ qua đêm.

Cái mặc thì cũng không kém phần khó khăn như cái ăn. Quần áo cũ đứa lớn mặc không còn vừa thì đứa nhỏ hơn sử dụng lại. Tôi là con trai mà phải mặc quần áo của chị tôi. Vì vậy tôi thường là tâm điểm bị đem ra làm trò cười khi đến lớp học trong bộ quần áo của con gái. Chúng tôi không nhận được bất cứ sự trợ giúp nào từ chính phủ.

Tôi không còn mơ ước được sống ở nước ngoài mà mong ước đất nước Việt Nam có sự thay đổi lớn để lấy đi những nỗi lo của tôi và trả lại một xã hội có trật tự như miền Nam Việt Nam nói chung và như Sài Gòn nói riêng của những ngày tháng cũ.

Năm 1978, mẹ tôi chết trong nghèo khó vì không có tiền chữa bệnh, bỏ lại 6 đứa con, 3 gái và 3 trai. Tôi là con trai út trong nhà. Chúng tôi sống cùng người cha đẻ. Tuy nhiên, không phải người bố đẻ nào cũng thương con. Ông ta thường xuyên đánh đập và hành hạ tôi mà không cần lý do gì. Cho đến khi tôi 18 tuổi , thoát khỏi ngôi nhà để đến Sài Gòn sống thì mới tránh được những cơn đòn thừa sống thiếu chết của ông. Chính phủ không có bất cứ tổ chức nào để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi.

Đất nước mở cửa đã hơn 25 năm, tôi đã đi làm cho những công ty nước ngoài. Ước mơ được ăn no của tôi đã thành hiện thực và không còn chịu đựng những cơn đau thể xác từ việc ngược đãi của người cha đẻ. Tuy nhiên, đêm đêm những cơn ác mộng vẫn ập về với hình ảnh bị hành hạ, bị đói khát. Và những nỗi lo về cuộc đời vẫn còn đó. Nếu chẳng may tôi thất nghiệp thì sẽ không có trợ cấp của chính phủ. Tôi chỉ có thể nhận được bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần vì tiền bảo hiểm đã bị trừ vào lương hàng tháng. Tuy nhiên, hiện nay bảo hiểm xã hội đang có nguy cơ vỡ quỹ, dẫn đến điều khoản vô lý của Luật bảo hiểm xã hội mới là không trả trợ cấp bảo hiểm một lần!

Ngoài ra, tôi đang đối đầu với những căng thẳng trong môi trường sống đang bị đe dọa, giao thông càng ngày càng hỗn độn, tệ nạn xã hội tràn lan, cướp giật hoành hành v.v.

Mặc dù vậy, tôi không còn mơ ước được sống ở nước ngoài mà mong ước đất nước Việt Nam có sự thay đổi lớn để lấy đi những nỗi lo của tôi và trả lại một xã hội có trật tự như miền Nam Việt Nam nói chung và như Sài Gòn nói riêng của những ngày tháng cũ.

40 năm đã đi qua, 40 năm nhìn lại với những ước mơ của tôi đã thay đổi theo thời gian. Tôi chỉ có một ước mơ hiện tại rất đơn giản mà đáng lẽ ra cuộc sống của một con người phải có. Chẳng lẽ cả đời này tôi không đạt được ước mơ ấy hay sao?
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Tháng Tư từ hai góc nhìn

Nguyễn Hưng Quốc


Lại tháng Tư. Lại thấy trên báo chí và các mạng lưới truyền thông xã hội trên internet những bài viết về một trong những biến cố lớn nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại: tháng Tư 1975. Tuy nhiên, năm nay, các bài viết, đặc biệt ở hải ngoại, dường như khác những năm trước. Trước, người ta chỉ tập trung vào sự sụp đổ của chính quyền miền Nam và những hậu quả của nó. Năm nay, bên cạnh cái nhiều người gọi là ngày “đổi đời” ấy, người ta còn tập trung vào một khía cạnh khác: 40 năm người Việt định cư ở nước ngoài.

Thì cả hai đều có quan hệ nhân quả với nhau thôi: Bởi vì chính quyền miền Nam sụp đổ nên mới có hàng triệu người liều mình vượt biên hay vượt biển để ra đi tìm tự do. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến khía cạnh sụp đổ, người ta chỉ thấy những bi kịch; khi chú ý đến khía cạnh định cư ở nước ngoài, người ta thấy những khía cạnh tích cực và lạc quan hơn. Cho nên, cùng một biến cố, tuỳ theo góc nhìn, người ta thấy những mảng màu khác hẳn nhau.

Chỉ nhìn vào khía cạnh “thua trận”, sau việc mất chính quyền là nạn độc tài và tàn bạo với cảnh hàng chục ngàn người bị lùa vào các trại lao động cải tạo, cảnh đánh tư sản mại bản, cảnh xua dân chúng vào các khu kinh tế mới đầy khổ ải, cảnh con cái của những người từng làm việc cho chế độ cũ bị kỳ thị ngay cả trong việc học vấn, và cuối cùng, cảnh hàng triệu người bỏ nước ra đi, trong đó có cả hàng trăm ngàn người bị hải tặc hoặc bị đắm tàu bỏ xác ngoài biển khơi. Ngày ấy, nói theo Võ Văn Kiệt, có triệu người vui và triệu người buồn. Nói thế là hơi nhẹ. Bởi đâu phải chỉ “buồn”. Người ta còn đau khổ, thống khổ vì những mất mát không thể bù đắp được. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người gọi đó là ngày quốc hận.

Sau ngày “quốc hận” ấy là những ngày tháng tang thương bi thảm. Về phương diện kinh tế, đời sống mọi người càng ngày càng cùng cực, ngay cả lúa gạo cũng không đủ ăn, phải ăn độn khoai, độn sắn và ăn cả bo bo từ năm này sang năm khác. Về phương diện xã hội, với chính sách hộ khẩu và sổ lương thực, mọi người bị mất cả các quyền tự do cư trú và đi lại. Về phương diện tôn giáo, người ta cũng không được quyền tự do thờ phượng: các nhà tu đào tạo tu sĩ bị đóng cửa, việc đi chùa hay đi nhà thờ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Về phương diện chính trị, tất cả các quyền căn bản của con người, từ quyền tự do tư tưởng đến tự do ngôn luận, từ quyền tự do đi lại đến tự do hội họp, từ quyền tự do biểu tình đến quyền tự do lập đảng phái… tất cả đều bị bóp nghẹt.

Bên cạnh những sự “đổi đời” như thế, có một khía cạnh khác năm nay mới được chú ý nhiều: cộng đồng đông đúc với khoảng trên bốn triệu người Việt sống ở rải rác trên 100 quốc gia khác nhau kể từ sau năm 1975.

Nhìn từ góc độ di dân học, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có mấy đặc điểm nổi bật:

Thứ nhất, trong khi các làn sóng tị nạn trên thế giới phần nhiều có tính chất khu vực, chủ yếu di cư đến một quốc gia láng giềng nào đó (ví dụ từ Iraq chạy sang Saudi Arabia, Jordan hay Turkey; từ Afghanistan chạy sang Pakistan), làn sóng tị nạn của người Việt, ngược lại, có tính chất toàn cầu: sau khi đến một quốc gia láng giềng, họ được phép tái định cư ở một quốc gia thứ ba, hầu hết là các nước Tây phương, vừa xa xăm vừa xa lạ về văn hoá (trong đó, đông nhất là ở Mỹ với gần 2 triệu; kế tiếp là Pháp với khoảng 300.000; Úc và Canada mỗi nơi trên 200.000 người).

Thứ hai, ở các quốc gia ấy, người Việt thường có xu hướng sống tập trung ở các tiểu bang hoặc các thành phố lớn và đông dân nhất.

Thứ ba, mặc dù cộng đồng người Việt hải ngoại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ di tản đến vượt biên, từ diện HO đến diện bảo lãnh gia đình, trên căn bản, yếu tố chính trị vẫn là nòng cốt: đó là một cộng đồng tị nạn.

Đặc điểm thứ nhất là một trở ngại cho quá trình hội nhập: từ một nước thuộc loại nghèo khó nhất thế giới đến sống ở một quốc gia thuộc loại tiến bộ và giàu có nhất thế giới với một ngôn ngữ và một văn hoá khác biệt, nhiều người cảm thấy ngỡ ngàng và cần thời gian mới có thể ổn định được cuộc sống. Đặc điểm thứ hai làm xuất hiện những khu phố người Việt, ở đó, người Việt sống tập trung bên cạnh nhau với một bản sắc riêng khác với những người bản xứ hay các cộng đồng di dân khác. Đặc điểm thứ ba làm cho xu hướng chính trị thành một trong những yếu tố chủ đạo hình thành bản sắc của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại: dù sống ở nước ngoài lâu đến mấy, phần lớn người Việt vẫn đau đáu theo dõi những chuyển biến chính trị ở trong nước và vẫn tha thiết muốn góp phần vào việc cải thiện tình hình ở quê nhà.

Khi nhìn lại 40 năm sống ở hải ngoại, hầu hết các cơ quan truyền thông đều nhấn mạnh đến những thành tựu, từ lãnh vực khoa học, giáo dục đến các lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Ở đâu cũng có những điểm son rất đáng tự hào.Phần lớn các tờ báo bằng tiếng Việt ở hải ngoại đều dành một số trang để đăng tải các bài viết ca tụng những người thành đạt. Ở đây, tạm gác qua một bên những cá nhân xuất sắc, chúng ta chỉ nhìn cộng đồng người Việt như một tập thể. Với tư cách tập thể, trong quan hệ với Việt Nam, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có hai đóng góp nổi bật nhất.

Thứ nhất, về phương diện kinh tế, số tiền người Việt ở nước ngoài gửi về Việt Nam hằng năm là một nguồn doanh thu quan trọng cho Việt Nam. Chỉ tính qua con đường gửi tiền chính thức, số tiền người Việt gửi về cho thân nhân trong nước vào năm 2009 là 6.2 tỉ Mỹ kim; năm 2010 là 8.1 tỉ; năm 2011 là 9 tỉ và năm 2013 là 11 tỉ biến Việt Nam thành một trong 10 quốc gia nhận kiều hối cao nhất trên thế giới.

Thứ hai, về phương diện chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại tồn tại như một lực lượng đối kháng chế độ độc tài trong nước. Cái gọi là “lực lượng” này phần lớn khá tản mác và tự phát, không có lãnh tụ và cũng không có phương hướng hoạt động chung. Tuy nhiên, đóng góp của họ đối với cuộc tranh đấu cho dân chủ ở trong nước không nhỏ. Trong bài “Cộng đồng hải ngoại như một lực lượng đối lập” đăng trên blog này vào đầu năm 2010, tôi viết: “nếu không có những tiếng nói đối lập ồn ào và gay gắt xuất phát từ, hoặc được khuếch tán bởi, cộng đồng hải ngoại, thì những vụ tham nhũng khủng khiếp ở Việt Nam làm sao có thể phơi bày ra trước công luận? thì những kế hoạch khai thác bauxite ở Tây nguyên làm sao có thể thu hút sự chú ý của quần chúng đông đảo đến như vậy? thì những hành động lấn chiếm vùng biển Việt Nam của Trung Quốc và thái độ nhu nhược của chính phủ Việt Nam làm sao có thể làm nhức nhối nhân tâm đến như vậy? thì những vụ vi phạm nhân quyền thô bạo ở Việt Nam làm sao đến tai thế giới bên ngoài được?”

Hai khía cạnh vừa nêu mâu thuẫn với nhau: Một mặt, về chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại phản đối gay gắt chính quyền trong nước; mặt khác, về tài chính, qua việc chuyển tiền về cho thân nhân trong nước, họ góp phần làm cho chính quyền Việt Nam giàu có hơn và có nhiều điều kiện để trấn áp dân chúng hơn.

Nghịch lý ấy ai cũng biết nhưng không phải dễ giải quyết.
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

TC Lấn Sang Ấn Độ Dương
Vi Anh

Mấy tháng nay TC đã lắp biển, bồi hàng chục bãi đá ở Hoàng sa của VN thành một quân khu đủ hải, lục, không quân mà các chiến lược gia gọi là những hàng không mẫu hạm không thể đánh chìm ở Biển Đông.

Phía Mỹ TT Obama phản đối TC ỷ lớn hiếp nhỏ, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Ashton Carter công bố điều chiến đấu cơ tàng hình tối tân nhứt thế giới về Á châu Thái bình dương và Đô Đốc Harris Harry Jr.,Tư Lịnh lực lượng Thái Bình dương của Mỹ báo động TC xây Vạn Lý Trường Thành trên Biển Đông làm cho tình hình trong vùng thêm căng thẳng, đầy bất trắc. TC mặc kệ những cảnh cáo của Mỹ, TC sau khi coi như đã lập được căn cứ kiểm soát được Biển Đông và con đường hàng hải huyết mạch của thế giới từ Nam Thái Bình Dương và Ấn độ dương đi lên qua Eo Biển Mã Lai đi lên. TC tự tiện dùng danh nghĩa chống hải tặc tung tàu lặn vào Ấn độ dương.

Như TC đã tự tiện đưa hai tàu chiến đến Vịnh Aden làm nhiệm vụ quốc tế chống hải tặc, không cần thông báo cho nước nào hay cơ quan quốc tế biết. Nhưng kỳ này TC tung tàu lặn nguyên tử, một phương tiện quân sự chiến lược không phải để chống hải tặc khiến Hải Quân Ấn độ vô cùng lo ngại và thế giới rất chú ý theo dõi.

Và các chiến lược gia Tây Phương, nhứt là Mỹ cũng hết sức quan tâm, tìm hiểu coi ý đồ chiến lược và chiến thuật quân sự của TC là cái gi khi tung tàu lặn vào Ấn độ dương sau khi đã kiểm soát được Biển Đông là tiền đồn kiểm soát con đường hàng hải quốc tế vô cùng quan trọng từ Eo Biển Mã Lai lên Bắc Thái Bình Dương.

Dưới cái nhìn chiến lược, việc TC tung tàu lặn, mở rộng sự thám sát và kiểm soát sang Ấn độ dương là một bước tiến chiến lược và chiến thuật rất nhiều ý nghĩa. Tàu lặn trên phương diện lý thuyết và thực hành không phải là phương tiện quân sự để chống hải tặc. Hải tặc tiêu biểu và tinh luyện nhứt như ở Somali chỉ dùng những thuyền gọn nhẹ, nhanh, dễ rượt đuổi, tấn công tập trung hay lẻ tẻ tàu lớn như tàu dầu, tàu hàng thường đi chậm hơn, điều khiển chậm hơn. Với những tàu hải tặc nhanh gọn, linh hoạt như thế, thì tàu lặn công kềnh, chập chạp hơn gần như bó tay, khó mà xoay trở, theo đuổi kịp, khó mà dùng thuỷ lôi để bắn trúng, khi nổi lên hay khi lặn.

Do vậy không ai tin là TC tung tàu lặn ra Ấn Dộ Dương để chống hải tặc.

Mà người ta tin TC lợi dụng danh nghĩa làm nhiệm vụ quốc tế, tung tàu lặn ra để tuần thám, để mở rộng vònh kiểm soát, giành thế hải thượng của Mỹ và Ấn độ.

Cũng như TC lợi dụng danh nghĩa chống khủng bố để trấn áp, triệt hạ phong trào người thiểu số như Duy ngô nhỉ, Tây Tạng chống TC đã thôn tính quê cha đất tổ và cào bằng văn hoá của người thiểu số vậy.

Nhận định ấy càng được thực tiễn tình hình chứng minh. Vùng biển Ấn độ Dương và Nam Thái bình dương đi qua Eo Biển Mã Lai, lên Biển Đông và Bắc Thái Bình dương là vùng hiện tượng hải tặc rất ít khi xảy ra nếu không muốn nói là không có vì tàu bè đủ loại qua lại thường xuyên, thăm dò khai thác, đánh bắt cá rất đông.

Khác với vùng biển ngoài khơi Somali, bên trong đất liền Somali thi chánh quyền quá yếu, sứ quân bộ lạc quá mạnh, hải tặc được dung dưỡng như một nguồn kiếm tiền bằng bắt con tin để đòi tiền chuộc của các công ty tàu hàng và tàu dầu không có vũ khí bảo vệ.

Việc TC bung ra biển quốc tế để bảo vệ con đường chở dầu nhập cảng về và hàng xuất cảng sang các nước là một chiến lược lâu dài của TC, bắt dầu từ khi trổi dậy tới giớ đã mấy thập niên. Bên cạnh tung tàu ra bảo vệ con đường, TC còn dàn xếp tay đôi với một số nước ven biển, hoặc mua hoặc mướn những vùng đất làm hải cảng thành một chiến lược mà TC gọi là “chuổi trân châu” qua Á châu, Phi Châu và Nam Mỹ. Hai kinh đào Suez ở Âu và Phi châu và Panama ở Nam Bắc Mỹ châu, bây giờ TC đều có cấy các hãng thầu quốc doanh của TC nhận bảo trì, sưa chữa, liên doanh nhưng thực tế có vai trò quyết định bảo vệ quyền lưu thông của tàu bè TC.

Trên con đường TC lạm dụng danh nghĩa chống hải tặc để tung tàu ra bảo vệ thương thuyển của TC, miệng thì nói dể làm nhiệm vu quốc tế, nhưng TC tự chủ, tự khỏi làm một mình, chẳng cần bàn luận với các tổ chứ quốc tế. Thí dụ năm 2008, TC đưa hai tầu chiến đến Vịnh Aden để chống hải tặc, thì TC tự tiện làm. Khi ra thực dịa thấy có tàu của Nhựt, Nam Hàn hiện diện, thì TC phối họp theo công tác món, chớ không hiệp ước, hiệp định gì cả.

Cũng như trong thời gian từ ngày 13 tháng 12, năm 2014 đến ngày 14 tháng 2, 2015, TC tung cả một hải đoàn tàu lặn, hải đoàn18 của Hạm đội Nam Hải của TC, đến Biển Đông, qua Vịnh Thái Lan, như ao nhà của TC, chăng cần thông báo với nước nào dù những tàu lặn này có hoã tiễn mang đầu đa.n nguyên tử, theo thông lệ khi điều đi phải thông báo theo thoả ước kiểm soát vũ khi nguyên tử.

Hải quân Ấn độ đang báo động Hải Quân TC vào Ấn độ dương để nghiên cứu vể hải dương, đo độ sâu và vẻ bản đồ đáy biên biển vùng miền Tây của Ấn độ dương, và đoàn tàu lặn của TC có cả một đoàn táu chiến theo hộ tống.

Từ tiền lệ tự tiện đưa tàu chiến đến Somali gọi là chống hải tặc, đến chiến dịch đưa tàu lăn vào Ấn dộ dương vẻ bãn dồ, những nhà nghiên cứu phân tich ý đồ của TC mới đây.Một là TC lợi dụng danh nghĩa đưa tàu ra làm nhiệm vu quốc tế chống hải tặc, thực chất là TC muốn mở rộng vòng thám sát, sự hiện diện ra những vùng biên xa, đặc biệt là Ấn độ dương một nước dăng sau lưng TC và có nhiều tiền cừu hậu hận về chiến tranh biên giới và hiện thời liên minh với Mỹ khi Mỹ chuyển trục quạn sự về Á châu Thái bình dương ngăn đà bành trướng của TC. Hai là TC muốn cho liênn minh Mỹ, Nhựt, Úc nhứt là Ấn thấy hải lực của TC đã đầy đủ sức mạnh bền vững trên bốn biển, ý muốn nói Mỹ không phải là một nước duy nhứt có thế “ hải thượng” (maritime suprémacy) nữa đâu.

Ba là cho thế giới biết lực tượng tàu lặn nguyên tử đời XIA trước đây của TC chỉ công tác ở vùng biển gần, thời gian ngắn nay đã dược thay thế. Đổi mới thanh loại Shang và Jin kỹ thuật tân tiến hơn, hiện đại hơn như đã thấy đang hải hành trên biên xa và xanhthời gian lâu. Nói một cách khác, TC đã khẳng đinh khoa hoc, kỹ thuật tảu lăn nguyên tử dã hiện dại, có thể hải hành, tác chiến bền vững ơ vùng biễn xa và thơi gian lâu.

Bốn là tau lăn nguyên tử của TC có mặt lâu ở Á độ dương giúp cho Hải Quân TC quen thuộc với đia hình và tinh hình qua lại của tàu bè của vùng biển này dể dễ dàng cho tàu lặn TC khi cần hoạt động ở Ấn dộ dương.

Sau cùng, trong khi các nước tìm cách giảm bớt gánh năng tài chánh khi tham gia tàu trong chiến dich chống hải tăc, thì TC cứ giữ hai tàu ờ Somali và viện lẻ thêm tàu chống hải tặc ở Ấn độ dương và Biển Đông. Ý đồ chánh của TC là giúp mở rộng lớn vòng kiểm soát biên quốc tế chứng tở sự hiện diện hùng mạnh của hải lực của TC.

Nếu Ấn độ, VN, và 10 nước trong ASEAN lơ là coi thường đà bánh trướng hải lực của TC, là sớm hay muộn sẽ tự chuốc họa vào thân./.(Vi Anh)
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »


Ngày mất tự do cũng là Ngày Tìm Tự Do
Ngô Nhân Dụng


Quốc Hội Canada đã thông qua dự luật (Bill S-219) quy định ngày 30 Tháng Tư mỗi năm là ngày “Tìm Tự Do” (Journey to Freedom),
và đạo luật đã được ban hành một tuần trước ngày kỷ niệm 40 năm dân miền Nam bị Cộng Sản cướp mất tự do.


Image
Thượng nghĩ sỹ gốc Việt ông Ngô Thanh Hải (bên phải) là người hỗ trợ việc trình đạo luật ’30/4′.
Năm ngoái, Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đề nghị dự luật này với tên là “Ngày Tháng Tư Ðen” (Black April Day). Khi thảo luận tại Thượng Viện, nhiều nghị sĩ đề nghị đổi tên để mang một ý nghĩa tích cực hơn và dễ được người Canada thuộc các sắc dân khác ủng hộ; do đó đề nghị đổi tên thành luật Hành Trình Tìm Tự Do. Nhiều người Việt không thỏa mãn với tên gọi không phản ảnh nỗi đau buồn và uất hận vì mất tự do. Nhưng đổi tên là một thỏa hiệp khôn ngoan để đạt mục đích muốn cả nước Canada ghi nhận phong trào vượt biển tị nạn của người Việt sau ngày 30 Tháng Tư 1975 là một biểu tượng cho khát vọng tự do của con người. Chưa một sắc dân nào ở Canada được Quốc Hội đối xử đặc biệt như vậy.

Tại các nước khác, do yêu cầu của các công dân người Việt tị nạn, nhiều thành phố hoặc tiểu bang đã biểu quyết về ngày 30 Tháng Tư, hoặc đã ghi nhận giá trị biểu tượng của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Tại các nơi đó nhiều cử tri gốc Việt tham dự trong các cuộc bầu cử. Canada là nước đầu tiên ban hành một đạo luật hiệu lực trên toàn quốc, ghi nhớ ngày 30 Tháng Tư tượng trưng cho khát vọng tự do của loài người, dù các công dân gốc Việt chiếm khoảng 1% dân số. Người Việt ở các nước khác có thể nêu trường hợp Canada như một tiền lệ khi yêu cầu các đại biểu quốc hội noi theo gương Canada.

Cho nên việc ban hành đạo luật Hành Trình Tìm Tự Do là một thắng lợi của người Việt tị nạn khắp thế giới, không riêng ở Canada. Thắng lợi này càng nổi bật lên vì chính quyền Cộng Sản đã phản đối và ngăn cản bằng nhiều cách trước khi dự luật được đem ra thảo luận. Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh đã gửi thư cho Bộ Ngoại Giao Canada yêu cầu Quốc Hội không thảo luận bản dự luật S-219. Nguyễn Tấn Dũng chính thức gửi thư phản đối với Thủ Tướng Stephen Harper, còn đe dọa rằng dự luật này có thể làm phương hại quyền lợi thương mại và đầu tư của Canada ở Việt Nam.

Những lời phản đối này được báo chí loan tải, các công dân Canada biết tin và theo dõi. Vì thế việc hai viện Quốc Hội Canada lần lượt biểu quyết chấp thuận bản dự luật ghi nhận ngày 30 Tháng Tư càng có ý nghĩa mạnh hơn! Một luật sư người Việt tại Canada, ông Vũ Ðức Khanh nhận xét: “Tôi nghĩ Hà Nội đang làm trò hề vì họ không hiểu luật chơi, không biết ở một nước dân chủ như Canada vận động ai.” Ở một nước tự do dân chủ ông thủ tướng không thể ra lệnh cho quốc hội như một nước độc tài đảng trị. Dù Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải thuộc cùng đảng với Thủ Tướng Harper nhưng trong Quốc Hội còn hai đảng lớn khác. Ðối với các vấn đề có tính cách nhân bản và lịch sử vượt trên các quyền lợi phe phái, các đại biểu chỉ bỏ phiếu theo lương tâm. Bộ Trưởng Jason Kenney, phụ trách đa văn hóa nói ông ủng hộ dự luật bởi đó là cách ghi nhớ thành tích của 60 ngàn người Việt “đã dám đánh đổi mạng sống để đi tìm tự do, và đã tìm được tự do tại Canada.”

Nhiều công dân Canada gốc Việt đã điều trần trước Quốc Hội giải thích lý do tại sao nên ghi nhận ngày 30 Tháng Tư như một ngày tưởng niệm hàng năm. Ông Lê Duy Cấn, từng là hội trưởng Liên Hội Người Việt ở Canada nhiều năm và đề xướng lập Tượng Ðài Thuyền Nhân ở thủ đô Ottawa. Ông Cấn giải thích: Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bỏ tù mấy trăm ngàn người và đầy ải những người khác lên các “vùng kinh tế mới” dân miền Nam quyết định phải chạy thoát chế độ cộng sản; một nhà báo Pháp đã nhận xét: Nếu cái cột đèn biết đi nó cũng chạy. Ðặc biệt, các người Việt gốc Hoa bị tống xuất ra biển, sống chết không cần biết. Ông nhắc tới thảm cảnh của các thuyền nhân vào năm 1978, 79 khi các nước Ðông Nam Á không chấp nhận cho họ cập bến. Tình trạng này gây xúc động cho mọi người dân Canada.

Ông Cấn kể lại, lúc đó chủ tịch Công Ðoàn Canada là ông Dennis McDermott đã nói, “Rõ ràng là vấn đề thuyền nhân Việt Nam đã lớn lên thành một cuộc khủng hoảng nhân đạo của cả thế giới. Các phản ứng duy nhất là phải hành động quyết liệt ngay lập tức. Một phong trào phát xuất từ phía người dân đã kêu gọi hành động, riêng tại thủ đô Ottawa đã có 3,000 người biểu tình thỉnh nguyện; trong một tháng có 347 nhóm đứng ra bảo trợ. Thị trưởng Ottawa lập “Dự án 4,000” để tiếp nhận bốn ngàn người tị nạn. Giáo Sư Howard Adelman ở Toronto đã sáng lập “Chiến Dịch Cứu Nạn” (Operation Lifeline). Trước làn sóng nhân đạo đó, Thủ Tướng Joe Clark quyết định nhận 50,000 người tị nạn, sau tăng lên 60,000.

Một phụ nữ Việt Nam ở Quebec, cô Anne Quách Minh-Thu đã điều trần về chuyến vượt biển tìm tự do của gia đình cô, với hai đứa con mới hai, ba tuổi. Cô nói: “Hôm nay tôi được đứng nói ở Quốc Hội này là vì cha mẹ tôi đã trốn thoát và được tị nạn ở Canada, bắt đầu một cuộc đời mới trong hòa bình, tự lực lao động để sống còn. Tôi sinh ra và lớn lên ở Canada vì lòng can trường của cha mẹ tôi và vì lòng hào hiệp của dân Canada, để hôm nay tôi được tham dự vào cuộc sống dân chủ của xứ sở này.”

Sứ quán Việt Cộng cũng tìm được người ủng hộ họ ra điều trần trước Quốc Hội. Mai Thu ở Ottawa đã phê bình rằng nước Canada có bao nhiêu nhóm người tị nạn từ khắp thế giới đến, không nên chọn một ngày riêng cho dân Việt Nam. Ông còn nghi ngờ dự luật này có thể gây chia rẽ vì chỉ có một nửa trong số 220,000 người Việt ở Canada là dân tị nạn, những người khác thì không chống chính quyền hiện nay. Giáo Sư Nguyễn Duy Vinh ở Ottawa đã phản bác, nói rằng 90% những người “không tị nạn” là những thân nhân đã được người tị nạn bảo trợ. Mai Thu cũng biện hộ rằng chính quyền Việt Nam hiện nay không còn là Cộng Sản nữa mà theo kinh tế tư bản với khuynh hướng xã hội; nhưng ông Vinh đã vạch rõ chế độ độc tài tàn bạo hiện nay vẫn còn, mà điều số 4 trong Hiến Pháp vẫn cho đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quyền chuyên chế.

Trong bài điều trần của ông Lê Duy Cấn tại Quốc Hội Canada, ông kết luận rằng việc đưa tay đón nhận người Việt tị nạn là một chương sách sáng chói trong lịch sử Canada. Nó cho thấy tấm lòng từ bi và hào hiệp của dân tộc Canada trước những thảm cảnh của loài người khắp thế giới, trong đó có những người chạy trốn khỏi ách độc tài tàn bạo. Chương sách chói lọi này đáng được vinh danh, ghi vào lịch sử, bằng dự luật S-219.

Nhờ các cuộc điều trần trước Quốc Hội Canada, các đại biểu được nhắc nhở tới thảm cảnh của các thuyền nhân chạy trốn Cộng Sản. Một điều không ai muốn nhắc tới vì nó quá bỉ ổi, là dã tâm của đảng cộng sản Việt Nam lợi dụng cả phong trào chạy trốn chế độ tàn ác của họ để trục lợi. Vào những năm 1978, 79, cả thế giới xúc động trước làn sóng người Việt tị nạn; trong khi đó các lãnh tụ và cán bộ cộng sản đã nhân cơ hội kiếm tiền, bằng cách bán chứng chỉ công nhận là Hoa kiều, và tiền “bán bến.” Một cán bộ cấp tỉnh kiếm nhiều tiền nhất chính là Nguyễn Tấn Dũng. Thái độ tính toán lạnh lùng của Việt Cộng không qua mắt được những quan sát viên ở ngoài, như Lý Quang Diệu.

Tháng Năm năm 1979, một chiếc Anh quốc là Roach Bank cứu nhiều người tị nạn, nhưng tới Ðài Loan thì bị đó từ chối không cho lên bờ. Bà Margaret Thatcher, thủ tướng Anh đã viết thư nhờ ông Lý Quang Diệu ở Singapore can thiệp giúp, để chiếc tàu này không phải qua Hồng Kông, thuộc địa của Anh. Các nước cứ đổ lẫn cho nhau xem nước nào có bổn phận đón nhận người Việt tị nạn, ông Lý Quang Diệu đã viết trong thư trả lời: “Tôi tin rằng những tin tức về vấn đề người tị nạn qua truyền thông và qua phát ngôn viên các chính phủ phương Tây chỉ làm lợi cho chính quyền Việt Nam.” Cho nên, ông đề nghị: “Các nước này... nên tập trung vào việc vạch trần tính bỉ ổi của chính quyền Việt Nam. Phải nói, phải nhắc đi nhắc lại cho nhân dân và các nhà lãnh đạo toàn thế giới biết rằng chính quyền nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chính là những kẻ tích cực thúc đẩy cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng cho các nước Ðông Nam Á.”

Nội dung bức thư này đã được nhà văn Phạm Thị Hoài dịch và công bố trên mạng. Ông Lý Quang Diệu nói với bà Thatcher rằng, “Chúng ta phải đẩy họ vào thế thủ. Các người lãnh đạo Việt Nam không phải là những thằng điên... Họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề động lòng trắc ẩn với chính đồng bào của họ, nhưng làm con tính so sánh chi phí với lời lãi thì rất nhanh. Chỉ có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ mới khiến họ phải suy xét lại đường lối hiện tại. Từ giờ đến lúc đó, họ sẽ còn tung ra hàng ngàn người tị nạn mỗi tuần.”

Những con người “bỉ ổi, lạnh lùng, chỉ tính toán lời lỗ” sau đó quả nhiên đã “bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ.” Cho đến khi đất nước cùng kiệt và chế độ sắp tan rã vì cả khối cộng sản ở Châu Âu sụp đổ, họ mới thay đổi. Giờ này họ vẫn còn ngự trị trên quê hương chúng ta. Vì vậy, mỗi năm đến ngày 30 Tháng Tư người Việt Nam vẫn thấy là một ngày tang tóc. Nhưng từ năm nay, ngày 30 Tháng Tư còn có thể mang thêm một ý nghĩa mới: Ngày quyết tâm xây dựng tự do dân chủ.

Nhờ các dân biểu và nghị sĩ Canada đã lắng nghe lương tâm và lẽ phải, Dự luật S-219 đã chính thức thành đạo luật “Hành Trình Tìm Tự Do,” có giá trị tích cực với 35 triệu dân Canada, và tất cả mọi con người yêu tự do trên thế giới. Chúng ta tưởng niệm ngày 30 Tháng Tư bằng những nỗ lực cùng tất cả mọi người Việt Nam tranh đấu đòi dân chủ, cuộc Hành Trình Tìm Tự Do cho dân tộc sẽ tiến nhanh hơn.
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image
Nhìn Lại 40 Năm

Trần Khải

Như thế là tròn 40 năm, kể từ ngày 30-4-1975, khi kết thúc Cuộc Chiến Việt Nam.

Một cách căn bản, đây là Nội Chiến Quốc-Cộng. Một cách tổng thế, đây là cuộc chiến quốc tế, với lãnh thổ Việt Nam trở thành chiến trường -- nghịa là, Việt Nam là điểm nóng của Cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa Thế Giới Tự Do, và Thế Giới Cộng Sản.

Nhìn từ lý luận, đây là cuộc chiến ý thức hệ; trong khi nhìn về cảm xúc ẩn kín, đây là cuộc chiến thống nhất đất nước, nhưng phủ màu kích động Chống Mỹ.

Nói một cách tổng quát qua diễn tiến biên niên, theo Tự Điển Bách Khoa Mở, Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979).

Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ và một số đồng minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là hình nộm bù nhìn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đều do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc.

Cuộc chiến này tuy gọi là "Chiến tranh Việt Nam" do chiến sự diễn ra chủ yếu tại Việt Nam, nhưng đã lan ra toàn cõi Đông Dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2.

Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Cộng quân.

Bao nhiêu người chết?

Theo Wikipedia, Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết của từ 2 đến 5 triệu người Việt (tùy từng nguồn khác nhau).

Trong số các nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế).

Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể.

Nhà văn Phạm Đình Trọng bên thắng trận, trong bài viết nhìn lại 40 năm đăng ở mạng Bauxite Việt Nam, nhan đề “Cần gọi đúng tên cuộc chiến này” đã ghi nhận, trích như sau:

“Lần thứ 40 ngày 30 tháng Tư của lịch sử đau thương mất mát, của vui nông nổi mà buồn thăm thẳm lại đến.

Suốt 40 năm qua, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đã ngốn quá nhiều tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên đất nước vào việc tự huyễn hoặc mình và lừa dối người dân về ngày 30 tháng Tư năm 1975, ngày huy hoàng đại thắng, ngày vẻ vang thống nhất đất nước.

Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người Việt, hệ quả tất yếu của hiệp định Genève cắt đôi đất nước Việt Nam thành hai tiền đồn, hai trận tuyến của hai ý thức hệ quyết liệt đối kháng, tiêu diệt nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam thành hai thế lực thù địch không đội trời chung, hai tên lính xung kích của hai lực lượng đối kháng đó. Việc chia cắt độc đoán, phũ phàng, oan nghiệt đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam hoàn toàn do những người cộng sản thực hiện, cộng sản Tàu mưu toan và áp đặt, cộng sản Việt cam tâm cúi đầu chấp nhận.

Rắp tâm làm cuộc nội chiến, lực lượng cộng sản Việt Nam ở miền Nam phải chuyển ra miền Bắc theo qui định của hiệp định Genève nhưng họ đã bí mật ém lại lượng lớn súng đạn và khá đông đội ngũ lãnh đạo cộng sản chỉ biết có đấu tranh giai cấp bạo liệt, sắt máu, không biết đến đạo lí thương yêu đùm bọc giống nòi. Đầu năm 1959, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành nghị quyết 15 xác định rõ việc thâu tóm miền Nam bằng bạo lực cách mạng, tiến hành chiến tranh trong lòng dân tộc, quyết thực hiện nội chiến tương tàn.

Có nghị quyết 15, những người cộng sản ở miền Bắc liền hối hả mở đường đưa súng đạn và lực lương chiến đấu vào miền Nam. Tháng năm, 1959, đường mòn từ miền Bắc xâm nhập miền Nam được mở dọc theo dãy Trường Sơn. Tháng Bảy, 1959, mở tiếp đường mòn trên biển, mở luồng mở bến cho những con tàu không số chở súng, đạn, thuốc nổ từ Đồ Sơn, Hải Phòng vào Vũng Rô, Phú Yên, Trung Bộ, vào Gành Hào, Cà Mau, Nam Bộ.

Có nghị quyết 15, cán bộ cộng sản ở lại miền Nam nằm vùng liền tổ chức, tập hợp lực lượng. Những hầm súng đạn được khui lên. Cuối năm 1959, tiếng súng nội chiến bùng nổ ở Trà Bồng, Quảng Ngãi. Ngày 17.1.1960, tiếng súng nội chiến rộ lên ở huyện Giồng Trôm và huyện Mỏ Cày, Bến Tre. Từ đó tiếng súng nội chiến lan ra khắp miền Nam. Khắp miền Nam, nơi nào cũng có lãnh đạo cộng sản nằm vùng, nơi nào cũng mịt mù lửa khói nội chiến, lênh láng máu người Việt giết người Việt. Từ đó, ngày 17.1.1960 được những người Cộng sản tự hào coi là ngày Đồng khởi vẻ vang của họ. Còn lịch sử Việt Nam phải đau buồn ghi nhận ngày 17.1.1960 là ngày khởi đầu cuộc nội chiến Nam Bắc.

Chiến tranh vũ trang thảm khốc và chiến tranh chính trị lừa dối do những người cộng sản phát động đã đẩy chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam vào cuộc khủng hoảng nặng nề, triền miên không có điểm dừng. Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, một chính quyền được tổ chức theo mô hình dân chủ văn minh, có tam quyền phân lập thực sự, nhờ thế người dân miền Nam bước đầu đã có tự do dân chủ thực sự, một chính quyền đang chiến đấu ngăn chặn sự tràn lan bạo lực cộng sản; trước nguy cơ cả Đông Nam Á bị tràn ngập trong sắt máu bạo lực cộng sản, năm 1965, sáu năm sau nghị quyết 15 của Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng bạo lực thâu tóm miền Nam, gần sáu năm sau tiếng súng nội chiến bùng nổ ở miền Nam, Mĩ mới đưa quân vào miền Nam Việt Nam cứu đồng minh Việt Nam Cộng hòa trước nguy cơ sụp đổ và củng cố một tiền đồn ngăn chặn cơn thác lũ cách mạng bạo lực cộng sản đang ở đỉnh cao trào.

Năm 1965, quân đội Mĩ đổ vào Việt Nam cũng như năm 1944 quân đội Mĩ đổ bộ vào châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như năm 1950 quân đội Mĩ đổ bộ lên bán đảo Triều Tiên đều không có mục đích xâm lược, không đánh chiếm lãnh thổ mà chỉ để làm trách nhiệm của một đồng minh và làm trách nhiệm của một nước lớn bảo đảm một thế giới ổn định, công bằng, bảo vệ những giá trị tự do, dân chủ của con người, ngăn chặn thảm họa phát xít thời thế chiến hai và ngăn chặn thảm họa cộng sản đang như bệnh dịch nhấn chìm thế giới vào hận thù đấu tranh giai cấp, vào bạo lực chuyên chính vô sản và nô dịch con người…”(ngưng trích)

Cần ghi nhận: nhà văn Phạm Đình Trọng, 71 tuổi, cũng là một đại tá hồi hưu của bên thắng trận, và bản thân ông đã trả thẻ đảng, tự ý ly khai đảng Cộng sản sau hơn 40 năm tuổi đảng!
quaichao
Posts: 1182
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »



30 Tháng Tư,
cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát

Ngô Nhân Dụng
Ai đọc bài viết về ngày 30 Tháng Tư của diễn viên Kim Chi mà mắt không đẫm lệ thì chắc không phải là người Việt Nam. Nỗi đau đớn của người “nghệ sĩ ưu tú” này cũng là nỗi đau của tất cả dân tộc, nhất là những người đã bị lừa gạt, đã bị nghe tuyên truyền dối trá.

Kim Chi hồi tưởng lại 40 năm trước, “Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, chúng tôi vui thực sự, vui đến phát khóc.” Rồi cô kể tâm trạng ngày nay: “Bây giờ tôi mới thấy đó là niềm vui ngộ nhận. Hóa ra, niềm vui, niềm tin và những hy vọng cứ sáng lên trong tôi suốt thời chiến trường khói lửa ấy là do ‘nghệ thuật tuyên truyền...’’”

Năm 1954, Nguyễn Thị Kim Chi được đưa đi “tập kết” ra Bắc khi mới 11 tuổi, thân phụ cô đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Khi lớn lên, cô chỉ được nghe những lời “nghệ thuật tuyên truyền” của đảng Cộng Sản. Năm 21 tuổi cùng chồng là nhà quay phim Hồng Sến vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Nam. Năm 1964, đảng Cộng Sản đưa thêm quân từ Bắc vào, tăng cường độ chiến tranh để chiếm miền Nam nhanh chóng hơn. Một hậu quả là thúc đẩy chính phủ Mỹ phải đưa quân vào cứu chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời gian đó Mỹ vẫn còn lo lắng ngăn cản cuộc bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Ðông Nam Á. Kim Chi tham dự cuộc chiến mà không biết mình đang đóng vai người một lính tiên phong, mở đường cho đạo “giải phóng quân” của Mao Chủ Tịch chiếm Hoàng Sa và Trường Sa sau này.

Ðọc những cảm nghĩ của Kim Chi về các đồng đội đã chết trong thời chiến ai cũng phải rớt nước mắt. Bao nhiêu con người đã hy sinh. Mà kết quả cuộc chiến là một đất nước đau buồn. Ông Võ Văn Kiệt đã công nhận ngày 30 Tháng Tư có triệu người vui cũng có triệu người buồn. Nhưng ông Kiệt là một nhà chính trị, suy nghĩ trong thế giới trừu tượng. Kim Chi là một nghệ sĩ, cô sống với những nỗi vui buồn của đồng đội. Cô đau khổ khi đối diện với thực tế sau ngày 30 Tháng Tư 75, dần dần tỉnh giấc mơ. Mọi người nên đọc toàn thể bài cô viết để chia sẻ tâm trạng “Nỗi riêng lớp lớp sóng vùi - Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.”

Là một nghệ sĩ với tấm lòng đa cảm, cô Kim Chi chỉ kể tâm trạng mình sau 40 năm thay đổi ra sao. Nhưng đọc toàn thể bài viết của cô, chúng ta có thể thấy đằng sau tâm sự đó còn chứa đựng những ý nghĩ dứt khoát. Cô Kim Chi không viết thẳng những ý kiến này, nhưng trong lòng cô đã lên án những sai lầm tác hại cho đất nước của đảng Cộng Sản.

Ðiều dứt khoát thứ nhất là: Cuộc chiến xâm chiếm miền Nam là sai. Vì những hậu quả của cuộc chiến đó Kim Chi đã nhìn thấy rõ. Cô viết: “Với tôi bây giờ 30 Tháng Tư không phải là giải phóng miền Nam. Miền Nam trước đây là mơ ước của Thái Lan, của Singapore. Vậy mà bây giờ Việt Nam ta tụt sau họ hằng thế kỷ.” Kinh nghiệm cá nhân cô là, “Những văn nghệ sĩ trên chiến trường thời ấy, cũng như tôi, ai cũng tin tưởng sau chiến tranh Việt Nam sẽ có một tương lai tươi sáng. Nhưng bây giờ,... tôi lại phải khóc ‘trong nỗi đau thời cuộc,’ trong những nỗi buồn da diết!”

Lớn lên ở miền Bắc nhưng bản chất Kim Chi vẫn là “người Nam Bộ.” Cô thông cảm được ngay với nỗi đau đớn của người miền Nam. Cô đã bất bình khi chứng kiến cảnh “những kẻ chiến thắng đã cư xử với người thua cuộc tàn bạo một cách tiểu nhân.” Mà một hậu quả họ gây ra là “hàng triệu người miền Nam buộc phải trở thành thuyền nhân. Ðã hàng ngàn người chết chìm, làm mồi cho cá mập. Khi nhận ra được sự tồi tệ này tôi thấy vô cùng đau đớn.”

Năm 1975, Nguyễn Ðình Toàn đã từng khóc “Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên.” Năm nay, 2015, Kim Chi viết, “Nhiều lần tôi bay vào Sài Gòn cùng đồng đội về thăm căn cứ cũ ở miền Ðông, miền Tây Nam bộ.” Cô đã trả lại tên cho thành phố Sài Gòn, không dùng cái tên mới do “Bên Thắng Cuộc” đã áp đặt mà không người Sài Gòn nào chấp nhận.

Ðiều dứt khoát thứ hai của cô Kim Chi trong bài viết về 30 Tháng Tư là: “Nô lệ Trung Cộng là sai.” Cũng như tất cả mọi người, Kim Chi nhìn thấy: “Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc một cách thảm hại cả kinh tế lẫn chính trị.” Cô nói thẳng: “Nhà nước lúc nào cũng ra rả 'bạn 16 chữ vàng' và '4 tốt.' Giờ luận điệu đó chỉ lừa được trẻ con chứ sao lừa được nhân dân.”

Cô Kim Chi cũng dư biết rằng óc “tôn thờ Trung Quốc” đã bắt đầu từ thời Hồ Chí Minh. Trả lời một nhà báo Pháp, Hồ Chí Minh giải thích lý do ông không viết sách vì “tất cả những gì cần đã có Mao Trạch Ðông viết cả rồi.” Nghĩa là, chính ông Hồ chỉ cần học tập và thi hành mà thôi. Năm 1947, chỉ năm tháng sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu, Hồ Chí Minh đã gửi thư xin ý kiến đảng Cộng Sản Trung Quốc về đường lối kháng chiến. Ðiều này dễ hiểu vì ông đã từng làm thiếu tá trong Giải Phóng Quân Trung Cộng, làm một chuyên viên điện đài trong Ðệ Bát Lộ Quân. Khi đã làm chủ tịch nước Việt Nam rồi, Hồ Chí Minh cho các văn nô ca ngợi Trung Cộng bằng những câu thơ hèn hạ như: “Bên ni biên giới là nhà - Bên kia biên giới cũng là anh em” (Tố Hữu). Hồ Chí Minh đồng ý cho phổ biến câu thơ Chế Lan Viên: “Bác Mao không ở đâu xa - Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao,” chứng tỏ ông chấp nhận đóng vai một “phó bản” của Mao Trạch Ðông, một “Mao con.” Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, Lê Duẩn còn nói: “Ta đánh là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô.”

Cũng chỉ vì Cộng Sản Việt Nam sợ Trung Cộng, cô Kim Chi nhận xét: “Lãnh đạo Việt Nam sợ Trung Quốc đến nỗi cho đục bỏ cả tên tuổi của các chiến sĩ khắc trên bia đá ở biên giới (những người hy sinh trong cuộc chiến tranh 1979). Tàn nhẫn hơn là mỗi lần anh em chúng tôi tổ chức những cuộc tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh ở Gạc Ma, ở Hoàng Sa, ở biên giới đều bị đám côn đồ quấy phá, chửi bới tục tĩu.” Nỗi sợ hãi Trung Cộng của giới lãnh đạo đảng đã truyền xuống cả hạ tầng bộ máy cai trị. Nhà văn Dương Thu Hương mới kể rằng “... các sĩ quan của Bộ Nội Vụ cấm vợ con họ ăn các loại quả ngâm thuốc bảo quản xác chết nhung không để lọt tin ra vì 'tránh làm mất lòng nước bạn.'”

Không cần nói ai cũng hiểu, chính quyền Cộng Sản sợ Trung Cộng chỉ là hậu quả, nguyên nhân là Hồ Chí Minh đã theo chủ nghĩa Cộng Sản. Suốt đời ông Hồ lúc nào cũng hãnh diện nhắc tới giờ phút quan trọng nhất đời ông là “giác ngộ chủ nghĩa Mác Lênin.” Năm 1950, đối mặt tay ba, Stalin đã “trao Việt Nam cho Mao Trạch Ðông phụ trách,” ông ông Hồ đã tuân hành. Ông Hồ vẫn răn dạy cán bộ: “Bác cháu chúng ta có thể nhầm chứ đồng chí Stalin không thể nhầm được.” Từ câu nói đó nhìn thấy số phận đau khổ của cả dân tộc.

Cho nên trong bài mới viết cho ngày 30 Tháng Tư, cô Kim Chi cho thấy một điều dứt khoát thứ ba của cô, là nhìn nhận “Chọn lựa đưa nước ta theo chế độ Cộng Sản là sai.” Chính cô đã từng sung sướng tuyên thệ gia nhập đảng Cộng Sản: “Ngày ấy tôi tin mãnh liệt vào sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng NHÂN DÂN CÁCH MẠNG (đảng cộng sản đổi tên). Rằng “Giải phóng miền Nam để chấm dứt chiến tranh. Sẽ xây dựng một Việt Nam ẤM NO, TỰ DO, DÂN CHỦ, HẠNH PHÚC và GIÀU MẠNH.”

Ngày nay, cô mỉa mai: “Những điều nói và làm khác biệt, 'làm ngược với nói' như thế, dân Nam Bộ chúng tôi đã đúc rút: 'Nói dzậy mà hổng phải dzậy... Bây giờ mỗi lần 30 Tháng Tư, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời.’”

Vì vậy, trong bài viết của Kim Chi chứa đựng điều dứt khoát thứ tư là: Phải chấm dứt chế độ Cộng Sản! Lý do thì ai cũng đồng ý với cô: Cộng Sản là một đảng cướp, cướp của cải, ruộng đất và đàn áp dân oan. Cô viết: “Có còn xứ sở nào nhiều dân oan như ở Việt Nam không? Ðoàn Văn Vươn đã khiến dư luận trong và ngoài nước phẫn nộ... Rồi cái chết của Ðặng Ngọc Viết ở Thái Bình càng khiến dư luận xót xa. Rồi tiếp nữa Cấn Thị Thêu ở Dương Nội đang phải ở tù vì bảo vệ đất... Khắp nơi dân oan khiếu kiện bị mất đất, mất nhà. Ðau xót lắm! Căm hận lắm!”

Trong khi đó, cô viết: “Ðảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam vẫn quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội không tưởng. (Mặc dù Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng nói rằng ‘có thể trăm năm nữa Xã Hội Chủ Nghĩa cũng chưa hoàn thiện.’)” Kim Chi lên án: “Chính vì cái đường lối kỳ quái này mà hiện nay đất nước vẫn đói nghèo lạc hậu.” Cho nên phải chấm dứt chế độ Cộng Sản thì mới có hy vọng, như Kim Chi ước mơ: “Nước Việt Nam sẽ đổi mới theo cùng thời đại trên trái đất này với một thể chế chính trị thực sự hợp lòng dân, không còn ‘độc đảng sinh ra đảng trị độc đoán, chuyên quyền,’... một đất nước thực sự có tự do, dân chủ, nhân quyền.”

Sau khi đọc những lời tâm tình của Kim Chi, chúng ta thấy bốn tư tưởng dứt khoát trong suy nghĩ của cô, dù cô không viết đầy đủ: (1) Ðảng Cộng Sản gây chiến chiếm miền Nam là sai. (2) Tôn thờ, lệ thuộc Trung Cộng là sai. (3) Theo chủ nghĩa Cộng Sản, lập chế độ Cộng Sản là sai. (4) Duy trì chế độ Cộng Sản là sai; cần phải chấm dứt.

Người Việt Nam hiện nay ai cũng đồng ý với Kim Chi; nhưng ít người dám nói dứt khoát như vậy. Năm 2013, cô Kim Chi đã can đảm từ chối không chấp nhận một bằng khen có chữ ký của Nguyễn Tấn Dũng với lý do là, “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm.” Năm đó, trả lời ký giả Mặc Lâm, đài RFA, cô cho biết bốn chữ “làm khổ nhân dân” là do chồng cô đề nghị thêm vào. Trong cuộc phỏng vấn này cô cũng nhớ lại các đồng đội trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979: “Chị đã từng diễn trong lúc pháo bầy bắn tới, khán giả chết nhưng mà mình không chết. Chị di chuyển với đồng đội thì đồng đội bị bắt, bị giết, bị mổ vú, bị Tàu ăn thịt, nhưng chị vẫn còn sống.”

Kim Chi giữ một niềm tin và tính Thiện của con người: “Quan niệm đầu tiên của chị là: sống phải tử tế. Sống trung thực, không cúi đầu trước bất cứ cái gì... Chị vững tin như thế vì con người có lương tri còn nhiều lắm. Lẽ phải còn nhiều lắm vì vậy những người mong cái gì tốt đẹp cho quê hương cho đất nước vẫn còn rất nhiều.”

Chúng ta cũng đều tin tưởng của Kim Chi: “...tôi có một niềm tin mãnh liệt vào ý chí của toàn dân Việt Nam cả trong và ngoài nước, sẽ không để mặc cho những người lãnh đạo muốn làm gì cũng được. Theo xu thế văn minh tiến bộ của loài người nhất định nhân dân sẽ đòi được NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ. Phải có hai thứ đó thì mới mong THOÁT TRUNG. Chỉ có ‘Thoát Trung’ thì Việt Nam mới cất cánh... Tôi tin rồi sẽ tới lúc mọi người sẽ nhận ra mình phải tự cứu mình. Nhất định ngày đó sẽ tới... Khi đó, tôi ‘lại sẽ vui’ biết bao khi được đoàn tụ cùng tất cả bà con, anh chị em ở hải ngoại trở về cùng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh.
quangminh
Posts: 547
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Post by quangminh »


Sàigòn 4O năm


Song Lam Anh Trinh Nguyen

I.
Cuối cùng thì tôi cũng về cái ổ của mình. Nằm thẳng cẳng, hai tay đan trên ngực, mắt nhắm nghiền, tôi giống hệt như những người được Chúa gọi về. Chỉ có khác đôi điều là còn thở phì phò và trái tim còn đập lổn nhổn khi trồi khi sụt.
Ba tuần lễ ở Sàigon để thăm lại người mẹ ra đi năm ngoái, tôi như con thú hoang đi lạc. Mọi thứ đều lạ lẫm, trễ tràng. Sàigon thật sự không còn của riêng tôi.
Đứng thật lâu ở cửa Tây chợ Bến Thành, ngay tiệm vàng Nguyễn Thế Tài trước 75, tôi không hiểu mình muốn tìm gì, gặp ai trong lúc này. Con đường Lê Thánh Tôn ngày xưa đi học bằng xe đạp đôi lần dừng lại vì xe bị tuột sên, có ít nhất vài anh con trai tới sửa dùm. Bây giờ, đứng đây cả buổi, nhìn ngó tứ tung, chẳng có ma nào ngó tới tôi.
Buồn tình, tôi đi lang thang. Đi bộ lòng vòng ngang kem Bạch Đằng, tôi ngán ngẫm chẳng thèm vào. À, nhà sách Khai Trí cũ đây rồi. Vô chút. Hình bóng cũ nào còn đây, sách vở ích gì cho buổi ấy? Tôi mua vài quyển sách dạy nhạc, Tự học Tây Ban Cầm với ước mong dợt lại bài Thu Ca ngày nào, bài dư âm kỷ niệm ngày hai đứa mới quen nhau, bài Thuyền và Biển mà mấy đứa em già chế lại hát như thế này: “Nếu phải sống xa em, anh chỉ còn bão tố. Nếu phải sống bên em, anh chỉ còn… cái khố.”
Bùng binh Sàigon ngày nào có tượng đài Trần Nguyên Hãn oai phong, tượng nữ sinh Quách thị Trang bằng đá trắng… nay đã mất tăm, mất tiêu. Xe cộ thật nhiều, ồ ạt, ào ào khiến tôi chóng mặt.
Sàigòn bây giờ đầy dẫy, ngập tràn nhà cao tầng không khác gì các đô thị văn minh Âu Mỹ.
Sàigon có Bicotex Trung tâm tài chính, mà dân Saigon gọi là bà đầm bưng mâm xôi, Saigon có Center Tower 72 lầu, Saigon có đường hầm bắc qua sông Thủ Thiêm. Bến đò Thủ Thiêm bên bến sông Bạch Đằng năm xưa chạy xập xình, ành ạch sóng nước cả ngày cả đêm nay đã không còn. Con đò Thủ Thiêm đã lùi vào dĩ vãng! Trong trí nhớ người dân Sàigon vẫn còn câu hát: “Bắp non đem nướng lửa lò. Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm”. “Con đò” Thủ Thiêm tức là cô lái đò trẻ tuổi xinh đẹp chèo đò đưa khách sang sông. Tôi thích quá chừng chữ “ve” này, mà chữ “cua” hay chữ “dê” không tài nào sánh kịp!
Sàigon có cầu vượt, có xa lộ Đông Tây, có siêu thị lớn nhỏ sang trọng không thua gì ở Mỹ. Sàigon có tất cả, nhưng Saigon không có nụ cười.

Sàigon không có nụ cười? Các bạn có cho rằng tôi nói quá sự thật không? Một lần nữa, tôi xin xác định: Saigon không có nụ cười. Trong công việc hàng ngày của tôi, tôi cười với khách hàng hàng trăm lần, nói hai chữ “cám ơn” hàng ngàn lần. Saigon không có được chuyện này.

Hàng ngàn chiếc xe gắn máy đổ xô ra đường mỗi giờ, mỗi ngày, mọi người chen lấn nhau, tranh giành nhau từng centimet đường, mặt mày hằm hè như sắp sửa gây gổ, chửi mắng nhau và mặt lạnh như… tiền Việt Nam.

Vào cơ quan chính quyền, quý vị sẽ thấy được sắc mặt này: họ nhìn mình ghẻ lạnh, soi mói coi mình thuộc tầng lớp nào trong xã hội, họ nhìn qua cách ăn mặc để đoán xem mình có tiền nhiều hay ít… ôi cái nhìn xa lạ, dửng dưng, không có một chút tình cảm con người nào hết. Sao kỳ vậy cà? Tôi tự hỏi mình. Biết hỏi ai bi giờ?

Saigon có những bộ trang phục đắt tiền, những chiếc xe hơi bạc triệu, những biệt thự sang trọng với phòng master bedroom dát vàng ròng bốn số chín, nhưng Saigon không có được tình yêu thương. Saigon vắng bóng lòng nhân ái và chết tiệt sự bao dung.

Những ngày cận kề Christmas, Saigon treo đèn kết hoa cùng khắp những con đường lớn. Những công trình xây dựng còn dang dở khắp nơi gây ra sự kẹt xe dữ dội vào những giờ cao điểm.
Dân Saigon ăn nhậu tối ngày, từ sáng sớm cho tới giữa khuya. Quán nhậu san sát, từ bò dê cao cấp cho đến rắn mối thằn lằn. Hình như mọi người đang lâm vào cảnh mê hồn trận cứ ăn nhậu thả cửa chừng nào chết hẳn hay.

Tôi có những đêm Saigon mất ngủ triền miên vì tiếng xe gắn máy ầm ầm trong từng hang cùng ngõ hẹp. Bốn năm giờ sáng lại nghe rội rã tiếng rao hàng: “Bánh mì nóng đây, bánh mì nóng đây”. Saigon lúc nào cũng hực hở lửa nóng, rít rịt tay chân, chỉ nhờ mong ngọn gió mát bất chợt.

Tuổi trẻ Saigon bây giờ cao hơn, đẹp hơn, sang trọng hơn. Con gái ra đường không ai biết đẹp hay xấu, cao hay thấp, da trắng mịn màng hay đen thui rổ chằng chịt, vì họ trùm kín mít, chỉ chừa hai con mắt vẽ chỉ đen thui, lạnh lùng. Ai cũng chen lấn, vội vã, chụp giựt. Và hoàn toàn không có một nụ cười nào hết.

Ở Saigon ba tuần, tôi không biết mình cười được bao nhiêu lần, chỉ thấy lòng trĩu nặng sầu thương.
Đã nhiều lần tôi thấy được những người già như tôi đã về hưu ngồi trong nhà thu lu bất động. Nếu không bận rộn được làm ô-sin không công cho con cháu thì họ cứ ngồi trước bực cửa nhìn ra ngoài đường. Họ ngồi đó, buồn, bất động và héo tàn.

Central Tower lộng lẫy sửa soạn chào mừng năm mới 2015, sẵn sàng giơ cao dao sắc chém ngọt khách hàng. Ly kem bạc hà chỉ có hai viên kem tròn vo lớn hơn cái trứng cút chút xíu, trả 11 dollars cho tui. Trời ơi giá cả hơn cả bên Mỹ. Nhưng lo gì. Đại gia thừa tiền lắm bạc, “bi nhiêu bi!”

Saigon cũng có những buffet đắt tiền dành cho nhà giàu mới mở mắt sau này như ở Hoàng Yến, Newworld, nhất là ở nhà hàng năm sao Newworld này, ăn trưa 26 dollars và ăn tối 42 dollars trong khi người lao động buôn gánh bán bưng chỉ mong kiếm được 2 dollars/ngày (42.000 đồng Việt Nam). Saigon ơi, nhức nhối lòng tôi.

Mở mắt chào đời ở Saigon, sống và thở với Saigon qua bao nhiêu thăng trầm của đất nước, của thời cuộc, tôi vẫn ôm Saigon vào trong lồng ngực tưởng như lúc nào cũng son trẻ của mình.

Xa Saigon 40 năm, Saigon đã ngủ vùi 40 năm, Saigon đã mất đi vẻ thơ mộng, lãng mạn, đã mất đi hoàn toàn văn hóa phương Nam, để trở thành thứ lai căng chú kiết, Tây chẳng ra Tây, Tàu chẳng ra Tàu. Saigon bây giờ vẫn đang còn một triệu ba trăm ngàn người nghèo khổ đói khát lầm than. Có những cái chết vội vàng non yểu, trăm thứ bệnh lạ do thực phẩm độc hại mang đến, Saigon có trăm ngàn chuyện giả từ lông mi giả đến tôm khô, bánh tráng, gạo lúa ăn uống hàng ngày.

Bên cạnh những building cao vòi vọi, những nhà hàng sang trọng, những resort năm sao, quý bạn đọc sẽ còn thấy được những trường học xuống cấp thê thảm, những bệnh viện ghẻ lở hoang phế hàng trăm năm không sửa sang.

Quý bạn đọc hãy ghé mắt vào bệnh viện T.C ở Saigon để thấy bệnh nhân nằm la liệt từ hành lang cho đến trước cửa nhà vệ sinh, nằm luôn cả dưới gầm giường. Y tế quả là quá tải và giáo dục đi đoong.

Chúng tôi đến thăm đứa cháu họ tại phòng vô trùng của Trung tâm huyết học mà sững sờ: thằng nhỏ chuẩn bị trình luận án tốt nghiệp cao học kinh tế, lại được phát hiện bị ung thư máu. Tôi phát khóc khi nhìn bốn thanh niên trẻ không quá 25, mặt mũi sáng láng khôi ngô với những cái đầu trọc lóc vì vừa trải qua mấy đợt Chemo. Những khuôn mặt trắng bệt đang cần vô máu, mà xác suất sống còn chỉ có từ 20-25% đã làm tôi đau lòng, không biết phải nói gì để an ủi các cháu. Không ai trả lời được câu hỏi tại sao trong khi tiền đóng cho bệnh viện cao ngất ngưỡng được tính bằng hàng chục ngàn dollars, cha mẹ các cháu phải cầm cố nhà cửa, ruộng vườn…

Làm sao ngoảnh mặt quay lưng với cảnh đời trái ngược ở Saigon: bên cạnh cuộc sống xa hoa dư thừa phủ phê của kẻ có quyền lực, vẫn còn hằng hà sa số cuộc đời của những con người Việt Nam bần cùng đói khát kiếm ăn từng bữa toát mồ hôi, còn những mồ hoang mả lạnh, còn bao nhiêu cái chết tức tưởi, âm thầm… những người muôn năm cũ hồn ở đâu bây giờ? (Vũ Đình Liên-Ông Đồ).

Người lính cũ VNCH, người thương phế binh của chế độ cũ vẫn còn sống vất vưởng, lê la đầu đường xó chợ mà sự giúp hàng năm của đồng bào hải ngoại vẫn không thấm thía vào đâu!

Chương trình “Cám ơn Anh” hàng năm ở California với số thu lên đến bảy tám trăm ngàn dollars vẫn còn quá ít so với nỗi đau quá lớn, những thương tật trùng điệp của hàng chục ngàn chiến binh sau 75. Chúng ta đời đời chịu ơn họ, cái ơn sâu không bao giờ trả nổi…

Saigon thân yêu của tôi ơi. Em đã ngoài 40 từ 1975, tù dạo người Saigon chen chân vội vã chen lấn xuống tàu bạt mạng thừa sống thiếu chết vượt trùng dương tìm đường trốn chạy, biết bao người đã chìm sâu đáy nước, biết bao nhiêu người lưu lạc phương trời?
Biết nói gì với em hôm nay, Saigon 40?
Hôm nay thăm lại Saigon, em chỉ còn trong tôi hình bóng cũ: Con đường Bà Huyện Thanh Quan những chiều tan học mát rượi lối đi, vòng xe quay thanh thản nói cười với bạn, tà áo dài trắng quấn quít mối tình đầu.
“Saigon ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời. Saigon ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời…” (Saigon ơi vĩnh biệt-Nam Lộc)

Tôi vẫn còn hoài hình ảnh Saigon tráng lệ, tươi đẹp trong trái tim già nua khô héo của mình. Và Saigon ơi, tôi còn mãi Saigon xưa trong trí nhớ.
II.
Tôi trở lại Valley Forge vào những ngày cuối của năm 2014, tôi nghe lòng giá buốt với cái lạnh 6 độ F về đêm và những tai ương nổ ra từ khắp thế giới trong khi năm 2015 từng bước đến gần.

Hai cảnh sát viên New York bị kẻ gian sát hại ngày 20/12 là vết thương lớn cho nhân dân Mỹ, đặc biệt là cộng đồng New York. Sự sát hại đó có lẽ bắt nguồn từ sự phân biệt chủng tộc âm ỉ, dai dẳng sau khi người thanh niên Michael Brown ngả xuống từ viên đạn của người cảnh sát da trắng trong tháng 8/2014.

Và chỉ một tuần sau 28/12, Air Asia của Malaysia mang biển số 8501 lại bị rớt ở đáy biển Java mang theo 162 hành khách và phi hành đoàn, trong khi vừa cất cánh từ Jakarta (Indonesia) đi Singapore được 45 phút…

Dù vậy, ở Times Square New York, trái cầu mà cả thế giới dõi mắt mong chờ count down như một thông lệ chào mừng năm mới, với hy vọng sẽ tốt đẹp hơn năm cũ, đã qui tụ hàng trăm ngàn người trẻ tuổi bất chấp cái lạnh giá mùa Đông.

Ở quanh vùng chúng tôi cư ngụ, Valley Forge Casino đã chuẩn bị hàng trăm chai Champagne sẳn sàng mở nnắp để đón khách. Liệu 2015 có khá hơn chăng?Ai mà biết được?

Tôi đã não lòng với đồng hương của tôi ở Saigon Việt Nam, tức Saigon lớn.

Còn Saigon nhỏ? Khi nghĩ đến Little Saigon là tôi có chút vui. Sao kỳ vậy cà? Saigon nhỏ hình thành khắp nơi trên thế giới, nơi có người Việt Nam sinh sống và thành lập cộng đồng. Phải chăng người Việt Nam tị nạn khắp nơi trên thế giới muốn tìm lại những gì đã mất? Vì Saigon lớn không còn của mình nữa, mà là của họ, của người chủ mới!

Những lần đến Little Saigon ở Cali, tôi tìm lại được hình ảnh quá khứ, rất Việt Nam. Hình ảnh chiếc áo bà ba, vành nón lá, tà áo dài thanh tú ngày xưa đã không còn thấy ở Saigon lớn, lại vẫn ung dung hãnh diện khoe khoang ở Saigon nhỏ, đặc biệt tôi tìm thấy được con người Saigon xưa với đặc trưng văn hóa Saigon và tôi có được từ họ, những nụ cười thân ái.

Làm sao nói hết được những gian khổ, nhục nhằn của người Việt Nam lưu lạc nơi xứ người từ 40 năm qua?

Họ đã từ bỏ hết những gì có được trong tay để làm lại từ đầu bằng bất cứ công việc gì, vị trí nào để mưu sinh nuôi sống gia đình, gầy dựng cuộc sống mới.

Biết bao mồ hôi nước mắt đã tuôn đổ cho 40 năm lưu vong? Hai ba giờ sáng phải trở dậy đáp xe buýt đến chỗ làm với đồng lương rẻ mạt, phải sinh hoạt trong những điều kiện eo hẹp, phải tiết kiệm từng đồng bạc kiếm được, và cũng không thiếu những ê chề, tủi nhục trong quãng đường dài nơi xứ người. Nhưng người Việt Nam với bản tính chịu khó, cần cù, chịu đựng gian khổ để gầy dựng tương lai cho thế hệ thứ hai.

Sau 40 năm ròng, lớp người thế hệ thứ nhất đã già rồi, một số người đã ngàn đời yên nghỉ, để lớp trẻ đầy đủ năng lực, trưởng thành vươn lên nơi quê hương thư hai này.
Họ có mặt ở các ngành nghề với vai trò lãnh đạo và thật sự bước vào chính trường của Mỹ như Janet, Trí, Andrew… ở Little Saigon Nam Cali, như Nguyễn Xuân Hùng ở Texas hay Tâm Nguyễn ở San Jose… Công việc của họ hãy còn ở phía trước, trong đó có dự định đề nghị Thượng Viện Mỹ can thiệp cho người lính cũ VNCH, những thương phế binh sống vất vưởng ở quê nhà được định cư sang Mỹ, sang Uc để bù đắp phần nào thiệt thòi của họ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mộng ước này thành sự thật!

Người Saigon sống dễ dãi, chan hòa tình cảm với mọi người, với bà con hàng xóm láng giềng, với đồng hương đồng khói.
Người viết cứ tự hỏi mình hoài: Ở Cali có nhiều hội đoàn, như Hội Nhớ Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng, Bạc Liêu, Gò Công… mà sao không có Hội Saigon? Có thể Saigon là điểm hẹn, điểm đến của các miền đất nước chăng?

Ở vùng New Jersey, có Saigon Plaza, có chợ Bến Thành… và cái Logo chợ Bến Thành dùng làm bảng hiệu cho khắp nơi có Saigon nhỏ, tức Little Saigon.

Đây là niềm hãnh diện chung cho người Việt Nam, cho Saigon, cho người Saigon, cho nên 40 năm qua, tâm tình ấy vẫn đầy thương, đầy nhớ.

Bây giờ ở Little Saigon Nam Cali chắc đang có những lo toan hạnh phúc? Nào là chuẩn bị Hội Tết hàng năm, cuộc diễn hành ở phố Bolsa, cuộc thi nấu bánh chưng ở Phước Lộc Thọ, thi hoa hậu áo dài truyền thống… để đón mừng năm mới Ất Mùi 2015. Tết Việt Nam vẫn còn mãi trong lòng người Việt Nam, người Saigon!

Những chuẩn bị rậm rịch, rộn ràng của mọi người từ đầu tháng Chạp. Các bà mẹ sẽ lui cui nấu nướng sớm chiều cho ngày 30 Tết cúng rước ông bà, tổ tiên, chào đón Giao thừa. Ngoài chợ lao xao mua sắm đồ ăn thức uống, bánh trái rượu bia và nhất là hoa Tết.

Trời ơi làm sao nói hết cái cảm giác vui sướng khi đi dạo chợ hoa tìm mua những cành mai đẹp nhất? Người bán người mua lao xao nói cười, chợ ngày không đủ ngày giờ, còn có chợ đêm nữa chứ! Về đêm Cali mát rượi, đi chợ đêm vừa đi vừa ăn bắp nướng thoa mỡ hành thì hạnh phúc biết bao?

Ngày Tết đến rồi, những chiếc áo dài được phơi phóng, ủi là cho thật phẳng phiu để đem ra chưng diện với mọi người. Áo gấm chữ thọ dành cho các ông, áo gấm đủ màu, đủ các loại hoa Mai lan cúc trúc dành cho các bà và các cô gái trẻ. Ai cũng mặc áo dài, từ trẻ nít cho đến cụ già, thậm chí các dân cử Mỹ lẫn Việt trên truyền hình chúc Tết đồng hương cũng diện áo dài. Áo dài được mùa. Người viết cảm thấy thật vui, thật gần gũi với họ. Ai cũng trang trọng chúc Tết nhau, nói cười thật vui như… Tết.
Người Việt Nam ở Little Saigon nói cười với nhau trong chợ, trên xe đò, ngoài bãi biển, trên xe buýt, trong buổi coi văn nghệ… dù họ chửa quen nhau, quen nhau đôi lần, gặp nhau đôi bận, họ cũng sẳn sàng chia xẻ tâm tình, mọi hoàn cảnh được phơi bày để hỏi ý kiến, thật hoàn toàn khác với những khuôn mặt “chằm vằm” của người Saigon ở Việt Nam.
Xin lỗi bạn đọc thật nhiều vì tôi cứ nhắc hoài những hình bóng ngày xưa.

Quả thật quãng đường 40 năm của người Việt Nam với những kỷ niệm đã cũ, rất cũ, đã là của hôm qua. Và 40 năm lưu vong tị nạn nơi xứ người, cũng tưởng chừng như mới hôm qua.
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Rồi tất cả sẽ qua, sẽ qua, sẽ là của quá khứ rộn ràng trong lòng mỗi người dân Việt.

Dù thế giới hiện giờ chưa được bình an dù chưa hoàn toàn hạnh phúc, nhưng có lẽ nào ta lại hờ hững với mùa xuân đang từng bước đến gần?
Ở miền Đông lạnh giá mù sương này, tôi chỉ ao ước có một ngày nào đó được hưởng sự nồng ấm tình người, tình đất ở Cali, để thấy mình trẻ lại trong ngày Tết truyền thống, với văn hóa Saigon qua tiếng pháo mừng Xuân.
Với đồng hương, bằng hữu, gia đình ở Little Saigon Nam Cali, tôi xin gởi đến quý vị những tình cảm tốt đẹp, lời chúc mừng trân trọng nhất trong ngày đầu năm Ất Mùi 2015 này.
Và, với Saigon lớn của tôi ngày xưa, tôi xin chào em, Saigon 40, và chỉ xin em, tha thiết xin em, chỉ một nụ cười.

Song Lam Anh Trinh Nguyen
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

CS Chết Vì Tham Nhũng

Vi Anh
Tham nhũng là cái chết của độc tài CS. CS chống tham nhũng cũng chết mà không chống cũng chết. Đó là định mệnh của CS, đó là lẽ vô thường, pháp nhân hay thể nhân không ai tránh khỏi. Điều này có thể thấy rõ trong chiến lược đả hổ diệt ruồi do Chủ Tịch Tập cận Bình đang thực hiện ở Trung Quốc.

Một, không chống tham nhũng, Đảng Nhà Nước CS cũng chết. Vì tham nhũng là mầm sanh và mầm tử của CS. Đảng Nhà Nước CS là cha sanh mẹ đẻ của tham nhũng vì chế độ CS là độc tài, đảng trị toàn diện, không một cơ quan nào giám sát, không có tự do báo chí phanh phui, đảng viên cán bộ tự tung tự tác, nhỏ ăn theo nhỏ, lớn ăn theo lớn. Đảng Nhà Nước hủ hoá trở thành tổ chức tội ác có tổ chức như Mafia. Phe này trong đảng chống phe kia, thịt nhau theo kiểu CS ai thắng ai, một mất một còn, chớ không tương nhượng hay thoả hiệp như trong chánh trị tự do.

Hay dân chúng không thể chịu nổi quốc nạn tham nhũng, dân chúng sớm muộn gì cũng phải vùng lên, chế độ độc tài đảng trị bị nổ bùng hay nổ chụp, làm suy tàn, sụp đổ Đảng Nhà Nước CS như ở Liên xô và các nước CS ở Đông Âu chết yểu quá trẻ không tới 75 tuổi trong khi thế giới sử các chế độ tuổi thọ tính bằng thế kỷ.

Hai, chống tham nhũng thì Đảng Nhà Nước CS cũng chết. Hoặc chết vì lợi dụng việc chống tham nhũng để triệt hạ phe phái lẫn nhau. Hay chết vì cán bộ, đảng viên bất động, không ăn được không dại gì làm hay sợ càng làm càng có nhiều khuyết điểm chết uổng mạng.

Hai cái chết vì tham nhũng của CS, trong một chế độ Đảng CS kiểm soát một quốc gia dân tộc đông dân nhứt hoàn cầu, với một kiểu độc tài đảng trị toàn diện, và là một chế độ CS còn sót lại ở Á châu, là Trung Quốc bị CS thống trị gần 60 năm, nên gọi gọn là Trung Cộng.

Trong những chủ tịch TC, muốn hay không muốn, chống hay không chống, cũng phải nói Chủ Tich Tâp cận Bình của TC hiện thời là người chống tham nhũng mạnh nhứt. Chiến lược bài trừ tham nhũng của Ông được “quần chúng nhân dân” quan tâm nhứt so với các chính sách của Đảng, Nhà Nước, Quân Đội mà Ông là người lãnh đạo tối cao và toàn diện.

Dân chúng cũng thích vì không có người dân nào ưa bọn sâu dân mọt nước. Và người dân thích vì nay không phải tốn tiền đút lót cho đảng viên, cán bộ tham nhũng là kẻ cướp ban ngày như hồi đó tới giờ, khi CS cướp được chánh quyền nước Trung Hoa.

Phải nói Tập cận Bình là người dám chơi trội, chơi nổi trên thế giới, không sơ mang tiếng, quyết đào tận gốc, trốc tận rễ, có nhiều hành động ít ai dè như công bố danh sách hàng ngàn cán bộ, đảng viên tham nhũng nhờ các nước và Interpol cảnh sát quốc tế truy lùng bắt dùm cho TQ.

Nhưng bức tranh nào cũng có phía sau của nó. Mặt tối đó là khoảng 11 triệu đảng viên, cán bộ, công nhân viên mất đi một tư lợi rất lớn, do không dám tham ô nhũng lạm của nước và của dân nữa.

Theo thống kê chánh thức của Ban Tổ chức Chánh quyền đặc trách về quản lý cán bộ, đảng viên, công nhân viên, công chức làm việc cho Đảng Nhà Nước, thì có 10 ngàn người bỏ việc chỉ trong ba tuần lễ của tháng Hai năm 2015. Số công chức thôi việc này tạo nhiều khó khăn cho việc điều hành hệ thống tư pháp của TQ.

Bên cạnh còn một số khó khăn, trở ngại có tính quốc gia đại sự cho TQ. Tai hoạ tham nhũng thẩm thấu, mọc rễ chằn chịt trong mọi cán bộ, đảng viên, công chức và công nhân viên của Đảng Nhà nước TC. Một giáo sư luật của Đại Học Renmin phỏng tính, chiến dịch đả hổ diệt ruồi của Chủ Tịch Tập chưa sờ gáy, chưa mở hồ sơ điều tra tham nhũng đối với khoảng hai triệu viên chức của TQ, nhung nếu làm thì những người này sẽ bị tù với án không dưới 45 năm mỗi người.

Chưa làm không có nghĩa là không làm. Chủ Tich Tập từng tuyên bố không ngưng chiến dịch, không tha thứ cho bất cứ ai. Điều đó có ý nghĩa Chủ Tịch Tập sẽ đào tận gốc, trốc tận rễ những bè lũ của đối thủ của Ông đã chống Ông trên đường chinh phục quyền lực của Ông như Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang và những nha trão, tay chân bộ hạ của họ còn nằm trong Đảng Nhà Nước đang cầm quyền.

Quyết tâm của Chủ Tịch Tập cho thấy qua hành động là được ăn cả ngã về không trong ý đồ dùng tham nhũng diệt đối thủ, đã làm cho đối phương của Ông cảm thấy quá nguy hiểm. Một số chọn con đường tự tử. Và một số bí mật đoàn kết lai chống kẻ thù chung là Chủ Tịch Tập.

Một số bỏ việc. Một số trốn ra ngoại quốc cả ngàn người. nhiều nhứt ở Mỹ và Canada,Chủ Tịch Bình đang nhờ Cảnh sát Quốc tế bắt dẫn giải về TQ.

Bên cạnh chiến dịch bài trừ tham nhũng, Chủ Tịch Tập còn nỗ lực chống ô nhiễm môi sinh, đụng chạm đến quyền lợi của cán bộ, đảng viên CS ở địa phương sống nhờ ăn xới ăn bớt quỹ qui hoach lấy đất của dân trả rẻ mạc rồi đem bán hay hùn với ngoại quốc giá cao cả trăm lần hơn.

Càng ngày Chủ Tịch Tập càng thấy cô đơn và lo sợ cho mạng sống của mình. Nhứt là khi thấy Chu Vĩnh Khang, một nhân vật nắm trọn quyền an ninh nội chính cả chục năm, đã có cả một hệ thống tay chân bộ hạ chân rít trong nhiều địa phương, ngành nghề. Khang lại tư thông với tình báo gián điệp ngoại quốc nữa.

Tóm lại tham nhũng là cái chết của chế độ CS độc tài đảng trị toàn diện. CS chống tham nhũng, CS cũng chết. CS không chống tham nhũng, CS cũng chết. Đó là định mạng, là số kiếp của độc tài CS./.(Vi Anh)
MatVit
Posts: 1308
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

"]
Image

CS Còn: VN Mất Biển Đảo

Vi Anh

Tin trong tuần buồn năm phút cho Việt Nam ở Mỹ cũng như ở Đông Nam Á. Nhơn chuyến Thủ Tương Nhựt Abe công du Mỹ, đọc diễn văn trước Quốc Hội, họp bàn với TT Obama, TT Obama tuyên bố, khẳng định liên minh giữa Washington với Tokyo «không gì lay chuyển» được, nhưng không nên được xem là «một sự khiêu khích» đối với Trung Quốc. Còn Hội nghị thượng đỉnh, lãnh đạo 10 nước Đông Nam Á, ASEAN ra thông cáo chung không dám đề cập thẳng đến vấn đề TC tranh chấp tại biển Đông. Dù chỉ nói mé mé, chung chung kêu gọi phát huy tinh thần ôn hòa và chống cực đoan trong khu vực; thế mà TC, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi họp báo nói và Đài Phát thanh quốc tế Trung Quốc truyền đi. Rằng các hoạt động xây dựng, bồi đắp ở quần đảo Nam Sa, tức quần đảo Trường Sa, là hoàn toàn thuộc chủ quyền của Trung Quốc và điều này không thể phản bác được.

Suy cho cùng, nghĩ cho tận tình hình Biển Đông của VN coi như mất trắng vào tay Trung Cộng rồi. Còn CSVN không hy vọng, trông mong gì giành lại chủ quyền trên vùng biển, vùng trời của VN được. Để một bên lịch sử ngàn năm thuộc VN, xét qua hiện tình thì thấy TC chiếm gần hết Biển Đông mà không cần nổ một tiếng súng. Mỹ và Nhựt có lợi gì để chống TC đề đòi lại cho VN. Biển đảo của VN mà Đảng Nhà Nước CSVN đang cầm quyền VN không đánh tái chiếm, không thưa kiện ra toà án quốc tế, thì hà cớ gì Mỹ, Nhựt, ASEAN các nước xen vào. Còn Đảng Nhà Nước VN thì thừa biết đánh TC là từ chết tới bị thương vì không có nội lực dân tộc, nên cắn răng chịu đựng, lâu lâu làm bộ tuyên bố chủ quyền để dân bớt nguyền rủa, để TC bớt xâm lăng để Đảng Nhà Nước CSVN còn có thể thống trị dân chúng VN để thu vén cuối đời.

Thực vậy, từ hình thức đền nội dung, Biển Đông của VN đã vào tay TC. Tổng Bí Thư Đảng CSVN bị TC triệu hồi sang Bắc Kinh về nói nhăn, nói cuội về Biển Đông thì một ngày sau Ngoại Trưởng Vương Nghị tuyên bố TQ bồ lắp, xây dựng trên đảo Trường sa và Biển Nam Trung Hoa (VN gọi là Biển Đông) là trên sân nhà, ở ao nhà của TQ, không nước nào có quyền xía vào.

Và trước đó, chính Ngoại Trưởng này của TC cũng “trước sau như một”, ngày 08/03/2015, Vương Nghị đã mở cuộc họp báo ở Bắc Kinh công khai và minh thị tuyên bố Biển Đông là nhà, là sân của Trung Quốc. Bộ Ngoại Giao TC còn kỹ lưỡng đưa những lời đanh thép này của Ngoại Trưởng TQ lên web tiếng Anh của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc. Ở đây Ông khẳng khái tuyên bố: «Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác đã xây dựng trái phép trong nhà của người khác. Và chúng tôi không chấp nhận những lời chỉ trích từ người khác khi mà chúng tôi chỉ xây dựng các cơ sở trên sân riêng của chúng tôi.»

Chính hai vị tướng của Mỹ phụ trách lực lượng Mỹ ở Thái bình dương và Đệ Thất Hạm đội cũng tuyên bố TC đã quân sự hoá Biển Đông, biến Biển Đông và một số đào thành “vạn lý trường thành bắng cát.”

Nhựt, Phi luật tân có hiệp ước liên minh quân sự với Mỹ mới bị TC tranh chấp sơ sơ mà chông lại TC. Phi kiện TC ở toà án Liên Hiệp Quốc. Nhưt và Mỹ xuất kich hàng mấy trăm phi tuần bảo vệ đảo Senkaku không người ở. Còn VN mất 90% Biển Đông và gần hết hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa nhưng vẫn không có hành dộng bảo vệ nào coi cho được, trừ những lời tuyên bố chủ quyền sói mòn, lo sợ TC không dám nói tới tên TQ sợ phạm huý khi tàu TC tấn công tàu VN thì nói là “tàu lạ.”

Còn TC, kế hoạch xâm lăng Biển Đông và các quần đảo của VN rất có “bài bản”, ngon ăn nhứt trong dòng lịch sử 4000 năm của VN. Quân Tàu Cộng không cần nổ một tiếng súng, rút một cây gươm. TC dàn dựng dễ dàng cuộc xâm lăng, chiếm đóng, thôn tính. Tuyên bố chủ quyền, cho tàu ra chứng tỏ sự hiện VN đánh cá. Không làm rùm beng, súng nổ, bom rơi như thực dân Pháp chiếm thuộc địa. Mà làm bằng quyền lực mềm như Mao trạch Đông thôn tính, sáp nhập thành đất nước tỉnh, huyện của TQ như biến Cộng Hoà Hồi Giáo Turkestan thành tinh Tân Cương, Tây Tạng thành tỉnh Thanh Hải của TQ và Hoàng sa, Trường sa của VN thành Huyện Tam sa trực thuộc tỉnh Hải Nam một tỉnh trực thuộc của Trung Quốc vậy. Thôn tính là nghề của CS Trung Quốc. Trong thời đại Mao Trạch Đông, sử sách cho biết CS đã mở rộng được đất đai thêm một phần ba diện tích của TQ bây giờ.

TC làm công tác tuyên truyền dân, quân, địch vận, qui mô, liên tục, nhiều ngày, dưới mọi hình thức tuyên truyền đen, trắng, xám rất có phương pháp. TC thành lập chánh quyền quân dân, cán chính đủ mọi mặt. TC chứng tỏ sự có mặt của chánh quyền địa phương và của dân chúng Trung Quốc từ lục địa.

Theo thông tấn xã của AFP nhận định ngày 10/03/2013 chính TC chánh thức làm nhiệm vụ bảo quốc an dân như tại nước non nhà trên Biển Đông. Cho ngư dân TC ngang nhiên tràn ngập ra đánh cá trên Biển Đông như ao nhà của đất nước TQ. Quân dân TC thấm nhuần tuyên truyền của Bắc Kinh và được kích động tinh thần thượng tôn dân tộc Đại Hán. Tin của RFI, trích AFP, dẫn chứng Ông Wang, một chủ tàu cá ở Đàm Môn (Tanmen), nói như thuộc lòng: «Biển Đông là của chúng tôi, tổ tiên chúng tôi đã từng đánh cá ở đây». Ông nói đầy tin tưởng theo đề tài dân vận của Đảng Nhà Nước CS Bắc Kinh, rằng ngư dân Trung Quốc đã có mặt trên vùng biển này từ thời Hán, tức 200 năm trước Công nguyên.

Còn CS Bắc Kinh thì bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, cũng “trước sau như một” khẳng định Biển Đông là của TQ, là ao nhà, là sân nhà của TQ, nhứt quyết đó là điều không thể tranh cãi gì nữa cả. Bắc Kinh đã tự ý vạch ra, phổ biến bằng nhiều cách «Đường lưỡi bò» 9 đọan chạy dài thậm chí đến đảo Bornéo, cách vùng duyên hải Trung Quốc đến hơn 1.000 cây số. TC bất chấp mọi phản đối, cứ tiếp tục tung ra bản đồ này dưới nhiều hình thức, trong nhiều cơ hội.

TC còn mở rộng vành đai bảo vệ thêm với chiến lược chính Chủ Tịch TC Tập cận Bình tuyên bố, mở “Con đường tơ lụa trên biển” của TQ. Trước khi bàn giao chức vụ cho người kế nhiệm, trong cuộc họp khoáng đại Quốc hội ngày 05/03/2013, Thủ tướng mãn nhiệm Trung Quốc Ôn Gia Bảo còn đã nhấn mạnh, rằng Bắc Kinh quyết tâm «phát triển kinh tế biển (…) và bảo vệ các quyền và lợi ích trên biển».

Còn Đảng Nhà Nước VNCS là nhà cầm quyền đang thống trị VN lại “định hướng dư luận” theo lịnh cũa CS Bắc Kinh, không để cho người dân Việt bày tỏ lòng yêu nước, chớ đừng nói là bảo vệ giang sơn gấm vóc. Hỏi như vậy, Biển Đông, Hoàng sa, Trường sa của VN làm sao còn, nếu CSVN chưa mất./.(Vi Anh)
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Obama ‘rất quan tâm’ nhân quyền VN
BBC Quốc Phương
02-05-2015[/a

Tổng thống Barack Obama ‘rất quan tâm’ tới tình hình tự do ngôn luận, báo chí và nhân quyền ở Việt Nam, theo blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải,
cựu tù nhân lương tâm, người vừa được nhà lãnh đạo Hoa Kỳ mời tới Nhà Trắng để gặp gỡ và trao đổi nhân ngày Tự do Báo chí Quốc tế hôm 01/5/2015.

Image
Có 30 nhà báo được đề nghị trong danh sách mời gặp Tổng thống Obama, nhưng chỉ có ba nhà báo trong đó
có blogger Điếu Cày được dự cuộc gặp hôm 1/5/2015.


Trao đổi với BBC từ Washington D.C. hôm thứ Bảy, nhà báo tự do Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải nói:

“Chuyến gặp lần này đã cho tôi một cảm xúc rất đặc biệt. Tổng thống Obama là một người rất bình dị. Khi chúng tôi ngồi ở bên cạnh nhau để thảo luận về các vấn đề tự do báo chí, tự do ngôn luận của các nước có các nền báo chí tồi tệ, tôi thấy rằng Tổng thống Obama rất quan tâm đến tình hình của các nước như là Ethiopia, Nga hay Việt Nam.

“Cách Tổng thống diễn đạt những câu chuyện rất bình dị và ấm áp.”

Khi được hỏi vì sao Tổng thống Mỹ chọn gặp ba nhà báo từ Việt Nam, Nga và Ethiopia trong cuộc gặp này, blogger Điếu Cày đáp:

“Đấy cũng là một chỉ dấu cho thấy là ba quốc gia này có nền báo chí tồi tệ nhất.

“Theo tôi được biết có một danh sách trên 30 nhà báo được lựa chọn, nhưng chỉ có 3 người được vào gặp Tổng thống, và như vậy cũng cho thấy rằng những người mà đã bị đàn áp ở những quốc gia có nền báo chí tồi tệ, thì Tổng thống lựa chọn để gặp mặt.”

‘Giữ kín cuộc gặp’

Blogger Điếu Cày cho hay ông đã được biết trước về cuộc gặp cách đó không lâu:

“Tôi đã biết trước được khoảng một tuần trước, nhưng vì lý do an ninh nên cái này phải giữ kín…

“Bên Bộ Ngoại giao và sau đó là bên phía Nhà Trắng (đặt vấn đề mời).”

Điếu Cày cũng chia sẻ thêm về một danh sách các tù nhân lương tâm, trong đó có nhiều nhà báo, blogger đang bị giam giữ ở Việt Nam, mà ông đã gửi Tổng thống Obama nhân dịp này.

Blogger, chủ nhiệm Câu lạc Bộ Nhà báo Tự do mới tái lập ở Hoa Kỳ nói:

“Có Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, anh Vinh Ba Sàm (blogger Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh), chị Bùi Hằng, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang và một số tù nhân nữa, chúng tôi có đưa một danh sách.”

Khi được hỏi về phản ứng của Tổng thống Hoa Kỳ, blogger Điếu Cày cho hay:

“Tổng thống đã rất quan tâm tới câu chuyện này,” nhà tranh đấu cho tự do báo chí, ngôn luận và nhân quyền ở Việt Nam nói với BBC hôm 02/5/2015.

‘Hoàn toàn ngẫu nhiên’

Bình luận về việc Tổng thống Hoa Kỳ tiếp đón nhà báo tự do, blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải tại Nhà Trắng, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, một nhà quan sát chính trị, xã hội Việt Nam, nói với BBC:

“Nhân ngày tự do báo chí quốc tế, Tổng thống Obama đã gặp ba nhà báo như vậy, trong đó có anh Điếu Cày.

“Tôi nghĩ đây thể hiện một sự quan tâm của nước Mỹ cũng như là của Tổng thống Obama rất nhiều đến vấn đề tự do ngôn luận ở Việt Nam

“Mà anh Điếu Cày là một người tiêu biểu bị đàn áp trong vấn đề không có tự do ngôn luận ở nước ta (Việt Nam).”

Nhà quan sát cho rằng phía Mỹ đã có sự chuẩn bị từ trước cho sự kiện này.

Theo ông, cuộc gặp đã diễn ra ‘ngẫu nhiên’ sau khi chính quyền Việt Nam long trọng kỷ niệm 40 năm ngày 30/4 với một bài diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được cho là có một số lời lẽ ‘không mới’ và khá ‘rắn’ khi nói về nước Mỹ.

Tiến sỹ Nguyễn Quang A nói:

“Tôi nghĩ rằng đây là một sự ngẫu nhiên hoàn toàn, bởi vì một cuộc tiếp các nhà báo của các nước khác bị đàn áp, thì Nhà Trắng đã phải chuẩn bị từ lâu rồi.

“Chứ không phải là vì cái chuyện lời phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng hôm trước đó mà họ có phản ứng như thế này,” ông nói với BBC hôm thứ Bảy từ Hà Nội.

‘Hy vọng tiến bộ’

Còn từ Sài Gòn, thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung, cựu tù nhân lương tâm, nhà tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ hóa của Việt Nam chia sẻ cảm tưởng của mình về cuộc gặp giữa ông Obama với blogger Điếu Cày cùng các nhà báo quốc tế.

Thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung, người từng được Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush mời gặp mặt vào tháng 8/2006 trước khi về lại Việt Nam sau thời gian du học ở nước ngoài, nói:

“Đầu tiên, tôi thấy rất vui bởi vì tôi còn có một người bạn nữa thân thiết là chị Tạ Phong Tần vẫn đang ở trong tù, thì qua sự kiện này, cộng với sự kiện trước đó nữa là Bộ Ngoại giao Mỹ đã liên tiếng yêu cầu Việt Nam cần phải trả tự do ngay lập tức cho chị Tạ Phong Tần, tôi thấy chứng tỏ chính phủ Hoa Kỳ rất quan tâm đến tình trạng các bloggers Việt Nam bị giam giữ nói riêng và tình trạng nhân quyền của Việt Nam nói chung, cho nên tôi hy vọng là thời gian tới sẽ có những tiến bộ hơn nữa về nhân quyền Việt Nam…

“Vừa qua ngày 1/5 là ngày Tự do Báo chí Quốc tế cho nên Tổng thống Mỹ gặp gỡ những nhà báo, bloggers đã bị đàn áp, và tôi nghĩ anh Điếu Cày cũng hạn chế trong việc đưa ra danh sách những người, chủ yếu là những bloggers, nhà báo ở Việt Nam bị giam giữ.

“Còn những người bị bắt giữ vì lý do khác, như là ‘gây rối trật tự công cộng’, hay là kết các tội khác ngoài vấn đề ‘tuyên truyền, chống phá’ này nọ, thực ra những anh em, đồng đội của tôi ở Mỹ, ở châu Âu, kể cả ở Việt Nam nữa thì đều có sự vận động đối với quốc tế.

“Để mà thả tất cả những tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm và tù nhân tôn giáo Việt Nam ra, thì điển hình như sắp tới Đối thoại Nhân quyền Việt – Mỹ, phía Mỹ cũng có nói chuyện với tôi để biết quan điểm của phía tôi như thế nào để mà có thể đối thoại với phía Việt Nam.

“Và tôi nghĩ phía Mỹ cũng san sẻ với rất nhiều người đấu tranh dân chủ khác để họ nắm được bức tranh toàn diện về vấn đề nhân quyền Việt Nam để mà có thể đối thoại với Việt Nam, cũng như nắm được thông tin về các tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm và tù nhân tôn giáo, để có biện pháp thuyết phục chính quyền Việt Nam cần phải thả họ ra,” thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung nói với BBC hôm 02/5.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Bài phát biểu của Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy...

Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu toả sáng trong Tháng Tư Đen 40 năm tị nạn.

Image
Nữ tác giả Trần Khải Thanh Thủy phát biểu trước cử tọa đông đảo. Photo by Nguyễn Minh.

Văn học Việt Nam dưới ách cai trị của đảng Cộng Sản.

Kính thưa bà con, cô, bác, anh, chị, em có mặt trong hội trường hôm nay!
Thưa toàn thể các bạn đồng nghiệp yêu quý của tôi!

Trong 30 thứ tang mà đảng cộng sản dành cho dân tộc Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 (từ vượt biển, ép dân đi kinh tế mới, đổi tiền, đánh tư sản mại bản, xua người dân vào cái đũng chật hẹp của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “bao nhiều, cấp ít” v.v… ) thì văn học cũng bị bức tử không thương tiếc, trở thành niềm thương, nỗi nhớ, sự đau đớn, xót xa cho những người hiểu biết, có lương tri thời đại, đặc biệt là có lương tâm văn học.

Nếu coi xã hội Việt Nam là một máy vi tính khổng lồ, gồm hai phần chính là “ổ cứng” và “ổ mềm”, thì phần “ổ cứng” bao gồm sông hồ, rừng núi, biển đảo, tài sản, tài nguyên thiên nhiên v.v… còn “ổ mềm” chính là nền văn hóa của xã hội Việt Nam hiện tại.

Trong chiến tranh, bàn tay các đồng chí nhuốm máu đồng bào mình theo khẩu hiệu nằm lòng, sặc tanh mùi máu: “Cơm xào thịt giặc mới ngon. Canh chan máu thù thì lòng mới cam” nên trong thời bình, bàn tay các đồng chí tiếp tục tàn sát đồng bào mình qua các công cuộc, cướp bóc, bắt bớ, bán chác v.v… Bán từ kho vũ khí Long Bình đến thềm lục địa, cùng bao nhiêu tài sản thiên nhiên của đất nước. Từ đất hiếm (chứa nhiều kim loại quý) cho Nhật Bản, dầu thô cho Nga, rừng đầu nguồn, Bô xit Tây nguyên, vỉa than lớn nhỏ cho Tàu, bãi biển cho Hồng Kông, nhà máy, cơ xưởng cho Đài Loan, Hàn Quốc v.v… Chưa kể bao nhiêu người nằm vật vờ trên sóng nước, trên con đường vượt biển. Bao nhiêu sĩ quan Cộng Hòa chỉ còn là những nắm xương di động trên mặt đất hoặc xương khô trong mả. Nhiều gia đình bằn bặt tin cha, anh, chồng, khi tìm vào trại thăm nuôi, chỉ còn một cách duy nhất là thuê người đào trộm mộ đem nắm xương khô cô quạnh về lại quê nhà. Nghĩa là từ “cải tạo” thành cải táng, cải mả (Người chịu đựng được 3 tháng, người 1 năm, người 20 năm )... Hàng triệu người đã chết trong các trại tập trung trá hình, vì không chịu nổi sự bạo hành tàn tệ của bè lũ cán bộ, sự khắc nghiệt của thời tiết nơi rừng sâu nước độc. Chính vì thế, dưới sự cai trị nham hiểm bậc thầy của đảng cộng sản, tất cả những gì thuộc về “ổ cứng” đều bị trầy vi xước vẩy, móp méo, biến dạng, thể hiện rõ nét qua những điều chúng ta đã và đang nhìn thấy ở Việt Nam trong vòng 40 năm qua.

Bởi văn hóa là “phần mềm” trong cơ thể xã hội, nên cũng như “phần cứng” trong chiếc vi tính khổng lồ gồm 90 triệu người (tạm coi là 90 triệu linh kiện), văn hóa cũng bị bầm dập, bóp nát. Giữa thời hội nhập toàn cầu đầu năm 2015, Hà Nội từ một thành phố 4000 năm văn hiến trở thành thành phố vô văn hóa. Cụ thể văn hóa giao tiếp không, văn hóa giao thông không, văn hóa xã hội lại càng không, bởi trên môi người dân Hà Nội nào, từ thằng bé 5 tuổi đến các ông già, bà cả 60, 70 cũng tươi roi rói tiếng chửi, câu thề, nói lóng, nói trại. Giao thông hỗn độn chưa từng thấy, tất cả tràn ra đường, tranh cướp nhau từng cen-ti-mét đất, hễ người này sơ ý chạm vào xe người kia là có tiếng chửi: - “Đ.m. mày, thích rúc vào đít ông à?”. Còn nếu là phụ nữ thì tiếng chửi nanh nọc hơn: -“Thằng mặt...” Ngay sau đó là một đám chen lấn xô đẩy, người ta sẵn sàng quẳng xe xuống lề đường để xông vào cô gái kia, làm một việc vô cùng vô văn hóa là tụt bằng được quần cô ta để chứng minh những lời cô vừa nói xem mặt của người bị chửi, có giống “mặt dưới” của cô ta không?

Còn Sài Gòn, từ Hòn ngọc Viễn đông trong thời Việt Nam Cộng Hòa trở thành điểm đen, đất dữ trong thời cộng sản, không những với người dân trong quốc nội còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của Việt Kiều và du khách nước ngoài với tỷ lệ tội phạm tăng vọt chưa từng thấy. Những hình ảnh mà 40 năm trước người dân Sài Gòn chưa từng phải chứng kiến thì hiện tại nhan nhản trên đường phố. Nhiều cặp vợ chồng du khách, mặt nhợt nhạt, miệng méo xệch, ngực đeo tấm biển: -“Tôi là người nước ngoài, bị kẻ cắp lấy toàn bộ tài sản, vật dụng, tiền bạc, giấy tờ... Xin chỉ đường cho tôi tới đại sứ quán của nước tôi để xin cấp lại visa và ứng tạm ít tiền về nước”. Nhiều cháu bé buổi sáng còn chào ba mẹ đi học, mắt long lanh, miệng mỉm cười mà đêm về đã thành cái xác không hồn vì bị ăn cắp nội tạng từ tim, gan, thận v.v…

Vì thời gian có hạn xin nói về nền văn học Miền Bắc sau 70 năm cai trị của Đảng Cộng Sản VN, bởi ai cũng biết, văn học là một phần quan trọng trong “ổ mềm” văn hóa nước nhà.

Ngay từ 1945 sau khi cướp được chính quyền từ tay nhân dân, đảng cộng sản đã coi Văn Nghệ như một thứ công cụ chính trị để mị dân, trấn áp người tài để bóp nghẹt tự do ngôn luận. Chính vì vectơ chuyển động của đảng cộng sản về phía cái ác, cái xấu và cái dốt, nên bốn tiêu chuẩn đặc trưng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam là: Nhất dốt, nhì tham, tam ngông, tứ độc. Tất cả các nhà văn nếu không chịu tuân theo các tiêu chuẩn này thì dù tác phẩm có hay đến mấy cũng bị bóp nghẹt từ trong trứng.

Nhà văn, nghệ sĩ, thay vì sinh ra để phụng sự chân, thiện, mỹ, để nói thật, tạo động lực cho xã hội phát triển, cũng là tạo ra cho xã hội loài người những di sản đẹp thì đảng bắt họ còng lưng, quỳ gối, uốn ba tấc lưỡi để nói những điều dối trá, triệt tiêu chân lý, đến mức người dân phải sửa thơ Phùng quán từ 60 năm trước để đau đớn thốt lên: “Đem bục công an đặt giữa trái tim người. Tình cảm ngược xuôi theo luật côn đồ đảng, bác”

Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1957 thực sự là một cuộc cải cách chữ nghĩa long trời lở đất. Thay vì các bần cố nông lên đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất rồi bắn chết họ, thì cuộc cải cách chữ nghĩa còn để lại di họa hàng trăm năm.

Nhà thơ Lê Đạt phải lao động cải tạo một ngày 2 khối đất, làm từ 6 giờ sáng đến hai giờ đêm, cả tháng trời không một giọt nước tắm, người hôi hám như súc vật, chưa kể còn bị cấm cầm bút 30 năm. Nhà văn Nguyễn Hữu Đang bị biệt giam 25 năm ở cổng trời Hà Giang, không hề biết tới cuộc kháng chiến toàn diện, toàn dân do đảng cộng sản phát động trong vòng 21 năm. Ra khỏi tù chỉ được lĩnh 8 kg gạo mỗi tháng, không nhà cửa, không thực phẩm, không lương, phải ở nhờ trong chái bếp lợp rạ của khu tập thể giáo viên, đặt một cái vại để xin nước vo gạo của cả khu, gạn lấy nước đặc dưới đáy để quấy với nắm gạo thành cháo loãng thay cơm, phải bắt cóc, ngóe, rắn thay thực phẩm. Khi nào chết cố bò ra vũng đất nông cạnh bụi tre thay mộ.

Khi bóng ma cộng sản gõ vào ngôi nhà nào thì điêu linh mở ra ở đó, đặc biệt gõ vào cánh cửa của ngôi đền văn học thì điêu linh biết bao nhiêu mà kể xiết. Sau 1975, hết chiến tranh, văn học vẫn không được quyền sống cho riêng mình mà vẫn phải gồng mình lên làm nhiệm vụ theo cây gậy chỉ huy của Đảng: “Bắt câm mồm phải câm mồm, nếu kêu ca sẽ lìa hồn, văng thây”. Một cây bút nghiệp dư tại hội văn học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình, một hôm làm bài thơ tả cảnh nhà sàn của đồng bào dân tộc, tất cả đều chỉn chu, mạch lạc, rõ ràng, chỉ câu kết của bài thơ: “Có hay đâu giá lạnh dưới chân sàn” lập tức bị coi là ám chỉ, động chạm đến ngôi nhà sàn của lãnh tụ tôn quý, thiêng liêng. Xúc phạm tới tình cảm cao đẹp của bác Hồ kính yêu với đồng bào dân tộc. Lập tức bị đuổi việc, đuổi khỏi hội nhà văn Hòa Bình, cắt hộ khẩu lên vùng kinh tế mới và chết mất xác nới rừng thiêng nước độc, vì thung thổ khí hậu qúa khắc nghiệt, chưa kể mảnh bom, mảnh đạn, không hộ khẩu, điện đường , trường học, trạm y tế, nước sạch v.v…

Với số đông nhà văn ngoan ngoãn dễ bảo còn lại, đảng dùng giải thưởng còm cõi nhuốm màu chính trị, bè phái để mua lương tâm họ, bắt họ phải quên đi chính nghĩa rạng ngời của ông bà tiên tổ truyền lại từ bao đời.

Máu đổ một giây di họa đủ một đời, máu đổ suốt 21 năm trời ròng rã ( từ 1954-1975) thì di họa biết bao nhiêu mà kể xiết? Vậy mà đảng cứ thích “quang vinh, muôn năm” bắt nhà văn phải cầm bút ca ngợi thành tích ảo, chiến công ma, sự chỉ đạo mù quáng của đảng, chứ không được phép nói đến di họa của chiến tranh, như trường hợp của tác giả. Ngày 27-7- ngày thương binh liệt sĩ, còn gọi là “ngày bới xác, mò xương, đếm khăn tang và đong máu chiến hào” tôi viết một chùm ba bài: “Nước mắt chưa khô trên má mẹ hiền”. “Bão thổi không ngừng trong những vành tang trắng” và “Đêm đêm nhang cháy đỏ bàn thờ”. Lập tức bị “phơi mặt” trên truyền hình vì tội xúc phạm đến những tình cảm cao đẹp của nhà nước dành cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, đồng thời bị treo bút 6 tháng, đi khỏi báo cựu chiến binh, tịch thu thẻ nhà báo, cho dù sau đó ký hợp đồng với báo khác vẫn không được cấp thẻ.

Nếu viết về nỗi niềm củi lửa, cháo rau trong thời bình, cấm nhắc đến sự thiếu thốn của thời hậu chiến. Dù cả xã hội “run trong từng cọng rau”, lương cán bộ chỉ đủ sống mười ngày. Cô giáo sáng vào trường bán cháo phổi, tối vào nhà hàng rẻ tiền bán thân, kiếm sống bằng sự sa đọa, suy đồi của lũ khách ăn đêm. Thầy giáo một buổi dạy, hai buổi đạp xích lô kiếm cơm v.v… Chuyện vỉa hè phải để lại vỉa hè, cấm được ngứa bút đưa lên mặt báo mà mang tội “bôi bác xã hội”, “không tin tưởng vào sự lãnh đạo tuyệt đối sáng suốt, uy tín của đảng”.

Nhà văn đứng về phía nước mắt, vạt áo của nhà văn đong đầy nỗi khổ của dân nước trong thời hậu chiến. Từ chỗ “ra ngõ gặp anh hùng” thành “ra ngõ gặp ăn mày” vì “người người ra trận, nhà nhà ra trận”. “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Một tỉnh nhỏ như Thanh Hóa, Thái Bình vẻn vẹn 1,5 triệu dân mà có 4 vạn 6 bộ đội và thanh niên xung phong. Từ “kho cung cấp người trong chiến tranh” thành nghĩa trang liệt sĩ khổng lồ trong thời bình. Nếu may mắn không bị “Tổ Quốc cắt cơm, gia đình vắng vẻ”, thì cũng trở thành “Tổ quốc quên công gia đình đói khổ”... Thế mà phải im miệng, bẻ cong ngòi bút, coi nỗi khổ của dân, của mình là vùng cấm của đảng không được động đến vì “nhạy cảm”. Từ nhạy cảm đến vô cảm chỉ cách một bước chân, từ vô cảm đến tội ác, khoảng cách còn ngắn hơn nữa, nên chúng ta hiểu vì sao sau 40 năm cầm quyền trên phạm vi cả nước, Nhờ “sự hy sinh to béo” của đảng, nước ta lại có nhiều tội phạm đến thế? Ở Na Uy trung bình 100 nghìn người dân mới có 6 tội phạm, ở Hà Lan, nhiều nhà tù bỏ trống, còn ở Việt Nam đã xây tới 900 nhà tù lớn nhỏ (theo quy định 31 CP của chính phủ do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký): “Mỗi quận, huyện được phép xây mới một nhà tù”. Vậy mà hiện tại vẫn thiếu chỗ ở cho 26 nghìn tội phạm hình sự. Xã hội suy đồi, tha hóa, khiến nhà văn Ma Văn Kháng - một cây “đại bút” của nền văn học xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đau đớn thốt lên trong tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” từ 1989: “Xã hội loạn lạc đến mức mỗi gia đình phải có trách nhiệm đóng góp cho xã hội từ một đến hai đứa con...hư hỏng”. Nhà nào càng đông nhân khẩu, mức đóng góp càng lớn, thậm chí có nhà 7,8 người bị bắt cả chùm luôn vì người buôn ma túy, người hút hít, người lừa đảo, trộm cắp, cờ gian bạc lận hay đâm chém, giết người v.v…

Một xã hội không có sự phản biện là một xã hội chết, xã hội Việt Nam trong suốt 70 năm trị vì của đảng cộng sản thực sự đã chết lâm sang, vì làm người mà không được cất lên tiếng nói trung thực của mình, không được làm những việc mình muốn, ngược lại phải “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương con đầu đàn vĩ đại”. Nhà văn cũng vậy, đẻ ra tác phẩm không theo đúng cách thức của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương thì lập tức tác phẩm ấy sẽ bị đập chết bằng cách cấm đoán, thu giấy phép, cấm xuất bản, cấm đăng ký bản quyền v.v… Nếu trước đó đã trót “thai nghén”, không muốn đứa con tinh thần của mình rơi vào “lề trái”, “vùng nhạy cảm” hoặc “phản động” phải lập tức... nạo thai ngay lập tức

Lẽ ra theo đúng quy luật của sự sáng tạo: Tác phẩm rời nhà văn như con thuyền rời bến, tìm về bờ bến xanh trong và neo đậu vào bến bờ tâm cảm của người đọc, thì tác phẩm lại rơi vào vũng ao tù, nước đọng là các nhà xuất bản, cục xuất bản, Ban văn hóa tư tưởng Trung Ương, phòng PC25 (chuyên phụ trách về văn hóa phản động) hoặc PC 35 (cục phản gián) của bộ công an, bị các lưỡi dao kiểm duyệt của các biên tập viên, giám đốc, trưởng ban, trưởng phòng thẳng thừng cắt xén, trở thành nhợt nhạt, vô hồn không sức sống.

Bình thường ở các nước dân chủ tự do, nhà văn bình đẳng với Chúa trong việc sáng lập ngôn ngữ, thì ở Việt Nam, nhà văn buộc phải trở thành những “con chiên ngoan đạo” của cả bầy đàn lãnh đạo vô học dốt nát. Vì thế thay vì sinh ra để bảo vệ và phát triển văn hóa cũng như văn học theo quy định của luật pháp, thì nhà văn bị bịt miệng vì luật rừng, luật chết quái gở độc địa, khai tử bao nhiêu đứa con trung thực, khỏe mạnh, theo sự chỉ đạo áp đặt của đảng.

Cả một nền văn học bị bức tử trở thành xanh xao, còi cọc, suy dinh dưỡng hoặc chết yểu trong bóng tối ngột ngạt, ám khí, ác độc của Đảng Cộng Sản. Ngược lại, chỉ những tác phẩm nhảm nhí , thiếu chất lượng , làm tổn hại đến thẩm mỹ của công chúng, cũng như làm tầm thường nền văn học nước nhà lại được phát triển ào ào như nấm độc sau mưa.

Một nền văn học chỉ toàn những kẻ vinh thân phì gia, vờ vịt, dối trá, tự nguyện tiếp tay ca tụng cái ác, cái xấu cái dốt, rồi ăn không nói có, bợ đỡ, xu nịnh thì đó là văn học gì? Nếu không phải là sự khốn nạn, nhục nhã. Không ít tác giả nữ phải dùng “vốn tự có” của mình để làm ván bắc cầu nhảy xa, cùng quan lớn thừa hưởng sự giàu sang phú quý trên máu và nước mắt dân tộc. Hầu hết các tác giả nam phải quên nghèo khổ, bất công, tham nhũng, nước mắt người già, trẻ thơ hay nỗi đau quặn thắt của cha mẹ khi không có tiền cho con đến trường, phải đẩy con ra lề đường kiếm sống. Quên luôn cả các vết thương lịch sử đau đớn làm bao triệu người phải chết như “Cưỡng chiếm Miền Nam, đánh bắt các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bài xích, chèn ép vợ con họ, đẩy cả vạn triệu người lên khu kinh tế mới để chiếm nhà cửa ruộng vườn cho các quan lớn. Quên cả cuộc vượt biển kinh hoàng, làm chấn động toàn thế giới trong gần 3 thập kỷ từ giữa 70 đến 80, 90...”

Bao nhiêu nhà văn sa đà vào việc mô tả tính dục rồi dùng phong bì lót tay để sách được nhà xuất bản, hội nhà văn tổ chức những đợt tuyên truyền quy mô, rầm rộ để nhận về những giải thưởng độc hại còm cõi như “Giải thường Hồ Chí Minh”; “Giải văn học về đề tài công an nhân dân” , Giải “Quốc phòng toàn dân” v.v…

Nói tóm lại, có cả một chủ trương ngầm để dung tục hóa văn chương theo đúng vectơ chuyển động của đảng cộng sản, bốc thơm ca ngợi cái ác, cái dốt, cái xấu, khiến những nhà văn có tài, có lương tâm văn học mất chỗ đứng trong lòng độc giả, và văn học cũng tự đánh mất thiên chức của mình là đánh thức lương tri và khai sáng cho độc giả. Tiếc rằng những hành xử tinh vi và tàn độc này đã kéo dài 70 năm (với Miền Bắc) và 40 năm (với Miền Nam), biến hàng vạn nhà văn, nhà báo thành những kẻ “ăn theo, nói leo” hệt những con rối bị giật giây. Bao nhiêu tác phẩm đích thực được các tác giả hoài thai trong đau đớn vật vã của tâm hồn, tình cảm trí não mình, bị cắt, xẻo xử trảm từ trong trứng nước. Những cuộc “nạo thai”, khai tử diễn ra hàng ngày, hàng giờ nơi đất nước mặt trời lặn, trong góc tăm tối cuối cùng của Thế Giới, khiến hơn 93 triệu người dân thành một biển người dối trá. Dù nói ngược, nói xuôi, nói xưa nói nay, hay ám chỉ, vòng vo, cuối cùng cũng phải quay về giọng Đảng... Đó chính là bóng đêm nô lệ của một nền văn học nhồi sọ, phục vụ cho các nghị quyết, chính sách dốt nát, sai trái của Đảng. Cái xấu, cái ác, cái dốt được lên ngôi, cái đạo lý trung thực, công bằng bị bóp chết. Thật không còn gì để nói ngoài việc “thành kính phân ưu” với nền văn học nước nhà dưới sự cai trị kéo dài của Đảng Cộng Sản. .

Cuối cùng xin dành lại thời gian cho người kế tiếp.

Cám ơn ban tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi được phát biểu chính kiến, quan điểm của mình, cũng như cám ơn toàn thể bà con, anh chị em đã chú ý lắng nghe.

Santa Ana April 18-2015.

Trần Khải Thanh Thủy
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests