Bình Luận , Quan Điểm

dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Đảng CSVN Làm sao bảo vệ nổi Chủ nghĩa Mác Lê đã như cái xác chết thối rữa?

Đỗ Đăng Liêu


Báo Quân Đội Nhân Dân mới đây đăng bài viết của Đại Tá, Thạc Sĩ Nguyễn Đức Thắng, với tựa đề: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cần tiếp tục được bảo vệ và phát triển. Tác giả nhắc lại sự sụp đổ của chủ nghiã cộng sản tại ngay cái nôi của nó là nước Nga, nhưng lập tức đổ hết lý do cho "chủ nghĩa đế quốc" và "các thế lực thù địch". Ông viết:

"Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã nhân cơ hội đó ra sức tuyên truyền đề cao xã hội tư bản, hô hào rời bỏ CNXH và đi theo con đường TBCN. Chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và CNXH, thậm chí còn định ra cả thời gian sụp đổ chế độ XHCN ở những nước còn lại, trong đó có Việt Nam. Trong hàng ngũ những người cộng sản và nhân dân, thực tế có một số người đã nhiễm phải những luận điệu tuyên truyền hết sức tinh vi, hiểm độc của các thế lực thù địch, từ đó nảy sinh t¬ư tưởng bi quan, dao động, bàng quan, thậm chí đánh mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin và CNXH. Trước tình hình đó, những người cộng sản chân chính cần phải bình tĩnh, tăng cường đoàn kết thống nhất ý chí và hành động để bảo vệ các giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và toàn bộ thành quả của cuộc cách mạng XHCN".

Và tác giả bồi thêm vào lời khẳng định bất cần lý lẽ đó bằng hàng loạt các khẳng định khác cũng ngang tàng không kém, chẳng hạn như: "… không thể mượn cớ sự sụp đổ mô hình CNXH cụ thể ở một quốc gia nào đó để bài bác và phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và CNXH". Cả thế giới cộng sản theo cùng một mô hình nhà nước Liên Xô và đã sập gần như toàn bộ, chỉ còn 4 nước đang ráo riết chạy theo kinh tế tư bản (hay kinh tế thị trường mà Mác lên án từ ngày đầu là loại "kinh tế tư bản bóc lột") để sống còn thì tác giả không hề hay biết?

Còn nhiều khẳng định bất cần trí óc của cả người đọc lẫn chính người viết, như: "…trong hơn 80 năm qua, đặc biệt những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước trong gần 30 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, càng củng cố vững chắc niềm tin, niềm tự hào của mỗi đảng viên, cán bộ và nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vào con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn."

Tựu trung, cả bài viết chỉ biết chép lại những câu mang tính kinh điển mà mọi người đã quá ngấy, đã biết quá rõ từ lâu là vô tích sự, và biết là chúng bị tùy nghi bẻ xuôi lẫn bẻ ngược theo nhu cầu của Đảng trong từng giai đoạn. Do đó, chính bài viết đó đã không bảo vệ được chủ nghĩa Mác Lê cho ra hồn chứ chưa nói gì đến động viên người khác làm chuyện đó, và lại càng không có chút hy vọng gì về "phát triển" nó cả.

Nhưng có lẽ chẳng ai chê bai gì khả năng của tác giả Nguyễn Đức Thắng vì ông bị giao một việc quá khó. Làm sao mà bảo vệ nổi chủ nghĩa Mác Lê trong thực tế ngày nay?!

Làm sao bảo vệ nổi khi thực tế đã chứng minh điều hoàn toàn ngược lại. Trên tổng số gần 100 quốc gia tự nhận là theo Chủ Nghiã Xã Hội, khởi đi từ cái nôi là nước Nga, ngày hôm nay chỉ còn có 5 nước vẫn cố bám víu (hoặc còn giả dạng bám víu) vô vọng vào CNXH là Trung Cộng, Việt Cộng, Lào Cộng, Cu Ba và Bắc Hàn. Tình trạng 5 quốc gia này, từ chính trị, đến văn hoá xã hội, nếu không ngày một tồi tệ, lạc hậu thì cũng cực kỳ bất ổn và khủng hoảng. Nói chung là trong tình trạng chết dần hoặc có thể bùng vỡ bất cứ lúc nào. Trong khi đó, tất cả các nước thoát độc tài cộng sản để chuyển sang thể chế dân chủ đều bừng sống lại về mọi mặt, như những người bị bóp cổ lâu ngày nay được thở lại dưỡng khí trong lành.

Làm sao bảo vệ nổi khi nước cộng sản nào càng rời xa mô hình kinh tế XHCN và chạy theo kinh tế tư bản thì càng rời xa vực thẳm. Chính Trung Cộng đã vất mô hình kinh tế XHCN để chạy theo "kinh tế thị trường với đặc tính Trung Quốc" từ năm 1976, và CSVN bắt chước từ năm 1986. Cái mà tác giả gọi là "thành tựu của 30 năm đổi mới" chính là kết quả của việc ném kinh tế XHCN lại để bỏ chạy đó.

Làm sao bảo vệ nổi khi hiện nay, các lãnh đạo ở tầng cao nhất đều không biết tiến lên CNXH là đi đâu và làm gì. Chính Tổng Bí Thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã công khai bộc bạch:“Đến hết thế kỷ này (tức 86 năm nữa) không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa". Những chính sách gọi là xây dựng XHCN triệt để tại các nước đàn anh tiên tiến chứ không chỉ riêng tại Việt Nam, đều dẫn đến chết đói, lệ thuộc ngoại bang, tụt hậu, băng hoại xã hội, và sụp đổ hoàn toàn như các nước Đông Âu và Liên Xô.

Làm sao bảo vệ nổi khi ĐCSVN, từ lời nói đến việc làm, nhất nhất không còn chút gì là các đặc tính của xã hội XHCN. Các hứa hẹn nền tảng như "Tài sản và phương tiện sản xuất là thuộc về toàn dân" hoàn toàn biến mất trong nền kinh tế tư bản hoang dã hiện nay. Tất cả phục vụ cho nhu cầu vơ vét của tầng lớp "tư bản đỏ" vừa xuất hiện ở mọi cấp. Các quan chức với số tài sản lên đến hàng chục tỉ mỹ kim không còn là chuyện lạ nữa, dù họ trên danh nghĩa đã "hiến dâng cả đời cho cách mạng" và không làm gì riêng ngoài đồng lương cán bộ. Cũng vậy, loại hứa hẹn nền tảng như"Giai cấp công nhân, đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" đã nhường chỗ cho một nhà nước tiếp tay các chủ hãng ngoại quốc trấn áp các cuộc tranh đấu đòi quyền lợi chính đáng của công nhân; và một nhà nước xua công an cưỡng chế đất đai của nông dân
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Nguyệt Quỳnh

Sau một loạt các trấn áp của lãnh đạo CS nhắm vào các trang mạng xã hội, bằng cách liên tiếp bắt giam các blogger Ba Sàm, Bọ Lập, Nguyễn Ngọc Già… báo lề dân vẫn tiếp tục mọc rễ và vươn cành. Các blogger khác vẫn ngoan cường, cứng cỏi, tuyên bố sẵn sàng đối mặt với tù tội.

Nhà văn Phạm Đình Trọng gọi thời đại này là Thời Ngục Tù. Ông viết: “Năm tháng qua đi nhưng thời ngục tù đau đớn này sẽ còn mãi trong trang sách lịch sử”. Thân phận lầm than của đất nước, thân phận bèo bọt của người dân, thực tế nhức nhối của xã hội đã không thể câm lặng mãi trong tâm hồn nhạy cảm của các nhà văn, dù họ biết họ có thể là nạn nhân kế tiếp. Viết, đối với nhà văn Phạm Đình Trọng và đối với các blogger vừa như là sự đòi hỏi của cái riêng, vừa là trách nhiệm với cái chung.

Để mong tô đậm thêm nữa tác động khủng bố lên các nhà văn, ngày 14/01/15 ông thứ trưởng Bộ Thông Tin Trương Minh Tuấn và Phó chủ nhiệm Văn Phòng Quốc Hội Nguyễn Sỹ Dũng cùng xuất hiện trên truyền hình VTV1. Họ cảnh báo rằng hàng trăm trang mạng có máy chủ ở nước ngoài đang sử dụng chiêu bài nguy hiểm nhằm xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu Đảng, Nhà nước và các cấp lãnh đạo, gây chia rẽ, làm giảm sút niềm tin của dân đối với Đảng.

Nhưng những nhà hoạt động Việt Nam lại nhìn khác. Khi những con người chỉ với cây bút và bàn phím trong tay, bằng tất cả mọi nỗ lực trong cô đơn, kể cả chịu bị đánh đập đến đổ máu, chịu tù tội, đã buộc cả guồng máy tuyên truyền khổng lồ của nhà nước phải xôn xao đối phó, thì các blogger và sự thật đã chiến thắng. Khi Ban Tuyên Giáo Đảng phải công khai chỉ thị cho đội ngũ chuyển sang hướng “minh bạch để giành trận địa thông tin”, thì rõ ràng báo lề dân đã thắng hiệp 1.

Đề cập đến mức ảnh hưởng của làng dân báo ông Trương Minh Tuấn vừa thú nhận vừa cố tình đánh hỏa mù:

“Có thể gọi chung đây là tội phạm không gian ảo, vi phạm pháp luật VN. Loại tội phạm này có thể bị xếp vào những nguy cơ đe dọa an ninh lớn nhất cho đất nước. Như ở Anh tội phạm này bị xếp ngang hàng tội phạm tấn công khủng bố, thảm họa hạt nhân…”.

Ông Trương Minh Tuấn quen lối phát biểu xem thường dư luận, xem thường trí tuệ của người dân. Trong khi ba ngày trước đó, những thông tin trên khắp các trang mạng xã hội cho thấy Thủ tướng Anh, ông David Cameron đang cùng 40 vị lãnh đạo thế giới dẫn đầu đoàn tuần hành ở Pháp để cổ vũ cho quyền tự do ngôn luận. Ông Tuấn tiêu biểu cho giàn lãnh đạo CSVN, vẫn muốn tiếp tục chính sách ngu dân bằng bưng bít thông tin. Vẫn muốn cai trị dân bằng bạo lực nên phải lấy dối trá làm phương châm hàng đầu. Quả thật, đây chính là cuộc chiến cam go mà người dân VN phải đối mặt. Cuộc chiến giữa sự thật và dối trá, giữa lương tâm và họng súng.

Nhà văn Pháp Emile Zola bảo rằng: “Nếu anh bịt miệng sự thật và chôn nó xuống đất, nó sẽ phát triển, và tập hợp sức mạnh dữ dội của chính nó để một ngày khi nó mọc lên, nó sẽ thổi bay mọi thứ”.

Sự thật bị chôn giấu hàng bao lâu nay đang chứng tỏ sức mạnh dữ dội của chính nó. Và làng dân báo, càng ngày càng lớn mạnh với hàng trăm những con người chịu vác thập tự để được đem sự thật đến với cuộc đời. Dù cô thế, dù thiếu phương tiện so với lực lượng báo đài của đảng, báo lề dân đang trở thành nỗi lo sợ lớn của lãnh đạo CS. Nỗi lo sợ đó bao gồm những sự thừa nhận sau đây:

- Đảng đã phải thừa nhận chính sách bưng bít thông tin từ ngày lập đảng đến nay đã thất bại, dù với bao nhiêu công an mạng đi chăng nữa. Đặc biệt vì hiện có rất nhiều chuyên gia điện toán trên thế giới luôn nghĩ ra các cách vượt rào cản để tặng không cho nhân dân các nước đang bị độc tài cai trị.

- Đảng đã phải thừa nhận lực lượng 80 ngàn Dư Luận Viên hàng ngày đi chửi bới, cố đánh lạc hướng dư luận cũng đã thất bại. Tệ hơn nữa, hàng ngũ này chỉ tạo thêm các tác động ngược. Người dân ngày càng khinh rẻ cả Dư Luận Viên và những kẻ thuê mướn họ.

- Đảng đã phải thừa nhận hiện tượng người dân đang lũ lượt bỏ mặc báo đài công cụ và kéo nhau đi nơi khác tìm kiếm tin tức. Từ các nguồn quốc tế đến các nguồn do chính dân chúng tự tìm hiểu, tự dịch thuật, tự tổng hợp, tự nhận định, tự thực hiện — tức làng dân báo. Không những thế, người dân nay còn định ra công thức chung: cứ chuyện gì Ban Tuyên Giáo ra chỉ thị cho báo đài chối cãi càng căng thì chuyện đó càng chính xác theo chiều ngược lại. Đơn cử một thí dụ như trường hợp ông Nguyễn Bá Thanh thì rõ.

Nhưng có lẽ phải đọc các phát biểu của thứ trưởng Tuấn cùng với nhiều bài vở khác của Ban Tuyên Giáo gần đây cũng như các dặn dò của ông Nguyễn Tấn Dũng với công an mới thấy đủ chính sách “minh bạch” của đảng. Đó là phải làm chủ thông tin bằng cách không chặn tin nữa nhưng chủ động tung tin theo chiều của Đảng; hoặc chủ động minh bạch phần tin nào không hại cho đảng. Nếu thế thì cũng chẳng mới là mấy. Ai cũng biết cách đó sẽ chỉ cứu vãn tình hình trong một thời gian ngắn thôi, vì hiện có nhiều nguồn khác cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác, tức minh bạch 100%. Một khi người dân nhận ra đảng chỉ “minh bạch một phần” hay “minh bạch một chiều” thì số người kéo đi sang báo lề trái còn đông và nhanh hơn nữa. Có ai muốn phí thời giờ đưa óc mình cho đảng rót các thông tin nghiêng lệch, cắt xén vào không?! và như thế thì có khác gì mấy tình trạng hiện giờ ?!

Dù chính sách tuyên truyền kiểu mới của đảng chỉ vừa bắt đầu, nhiều người dân Việt đã bày tỏ thái độ chán chường về cái “lòng thành nửa mùa” đi kèm đủ thứ hăm dọa trên báo đảng. Điều dân khao khát là sự thật, là quyền được biết về những chính sách của chính phủ, những sự việc có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của đất nước và của chính họ, kể cả những dữ kiện thuộc loại tối kỵ như nội dung Hội nghị Thành Đô, các bản đồ biên giới Việt Trung, … Ngày nào những đòi hỏi đó chưa được đáp ứng, ngày đó Đảng còn tiếp tục phải đối mặt với làng dân báo. Cái trận địa mà Đảng gọi là “chiến tranh thông tin truyền thông” đó chẳng ở đâu xa, chẳng phải từ lực lượng phản động nào cả. Họ là dân, nơi mà rất nhiều người đã từng hết lòng yêu Đảng và từng đặt hết niềm tin vào Đảng. Niềm tin đưa Đảng lên ngôi đó đã cạn, đã chết lịm khi người ta biết Đảng đã bịt mắt để xử dụng họ như lừa, ngựa suốt bao nhiêu năm qua.

Đến nước này Đảng chỉ còn có hai chọn lựa:
• hoặc là phải mở tung hẳn cánh cửa truyền thông ra. Bỏ hẳn cái trò “800 báo đài với một ban biên tập” đi.
• hoặc phải chấp nhận đứng nhìn cảnh: toàn dân chỉ dùng báo đài công cụ làm phương tiện giải trí hay giấy gói hàng; còn khi cần các tin tức đúng đắn, mọi người sẽ chỉ đọc các nguồn do báo lề dân cung cấp.

Nhìn những gì vừa xảy ra trên “mặt trận truyền thông”, ai còn dám bảo người dân “tay không” thì không thể tạo áp suất đổi thay. Khi phương pháp Đấu Tranh Bất Bạo Động được đủ số đông cùng áp dụng, thế lực độc tài sẽ bị dồn vào chỗ bí. Họ buộc phải thay đổi hay phải bỏ chạy. Nhiều dân tộc đã khám phá ra công thức này trước chúng ta.

Cuộc đọ sức hiện nay – dù muốn hay không – vẫn ảnh hưởng đến và bao gồm tất cả mọi người dân Việt. Một là ta góp mặt dũng cảm cho sự đổi thay. Hai là ta chấp nhận trở thành nạn nhân, dự phần cùng những bóng đen câm lặng trong sự tụt hậu của đất nước mình. Chúng ta chọn đứng bên nào của Sự Thật?
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »


Ông Nguyễn Tấn Dũng: Hành Trình Danh Vọng và Quyền Lợi Dân Tộc



Đại hội 12 đảng cộng sản Việt Nam còn hơn một năm nữa mới khai mạc, nhưng trên các phương tiện truyền thông đã xuất hiện nhiều bi kịch với kẻ chết bất thường, kẻ bị đầu độc, kẻ treo cổ tự tử, kẻ tìm đường trốn ra nước ngoài, bao nhiêu dinh cơ của một số tham quan được công bố, những tay trùm ngân hàng xộ khám và có thể còn nhiều sự kiện làm ngẩn ngơ người dn nghèo trong nước sẽ được lôi ra trong những ngày tới.

Có thể đây là bước một trong chặng đua, cũng là bước quan trọng để được “chốt” trong danh sách 22 người được “huy hoạch” cho Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư, cùng với khoảng 220 trung ương ủy viên đảng cho khoá tới.

Trong đợt bỏ phiếu tín nhiệm tại quốc hội vừa qua, ông Nguyễn Tấn Dũng là người có số phiếu cao nhất, theo tin từ Chân Dung Quyền Lực. Nếu điều nầy đúng, thì ông Dũng có nhiều cơ hội trở thành Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam trong đại hội 12. Và với vị thế đó ông là người chịu trách nhiệm cao nhất trong chánh sách đối nội lẫn đối ngoại mà Việt Nam đang là con bài chiến lược trong chánh sách của Mỹ lẫn Trung Quốc về vấn đề Biển Đông và chiến lược xoay trục sang Châu Á của Mỹ.

Trước tiên xin điểm qua ba lá bài chủ là Mỹ, Trung Quốc và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam mà nhân vật được nhắc nhở nhiều nhất là đương kim Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, người được coi là có xu hướng thân Tây phương và những gì ông cần và phải làm để bảo vệ quyền lợi cho Việt Nam trong ván cờ Mỹ Trung ở châu Á.

Chánh sách của Mỹ

Trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 21-23/1/2015, tại Học Viện Ngoại Giao Việt Nam hôm 23/1/2015, trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề chính trị, quân sự, ông Puneet Talwar, cho biết: “Việc mở rộng và củng cố quan hệ với Việt Nam là yếu tố mang tính quyết định cho nỗ lực xoay trục sang Châu Á của Hoa Kỳ”. Ông tuyên bố thêm: “Việc mở rộng và củng cố quan hệ với Việt Nam là một yếu tố mang tính quyết định trong nỗ lực tái cân bằng đó”.

Ông Ted Osius, được cử làm đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam với mục tiêu rõ ràng được trình bày tại cuộc hội thảo “Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ: 20 năm thành công hơn nữa” do Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, Ðại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, Trung tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế của Hoa Kỳ (CSIS) và Ðại Học Portland của Hoa Kỳ phối hợp tổ chức.

Trong cuộc hội thảo nầy ông Ted Osius tuyên bố: “Hoa Kỳ muốn giúp Việt Nam trở thành một quốc gia lớn mạnh, giàu có và độc lập, tôn trọng luật pháp và nhân quyền”.

Hoa Kỳ cũng bày tỏ mong muốn sẽ trở thành quốc gia dẫn đầu về đầu tư vào Việt Nam. Ông Hà Kim Ngọc, thứ trưởng của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, có cùng nhận định là sự can thiệp sâu hơn của Hoa Kỳ sẽ có lợi cho toàn khu vực trong những năm sắp tới.

Trả lời BBC ngày 28/1, ông Kevin Snowball, Giám đốc điều hành quỹ tài sản PXP tại Việt Nam, cho rằng dù đang có một số khó khăn về ngắn hạn, nền kinh tế Việt Nam đã sẵn sàng để phát huy những lợi ích của TPP về dài hạn.

Với chiến thuật “củ cà rốt”, Hoa Kỳ muốn giúp Việt Nam phát triển kinh tế để tránh xa dần Trung Quốc, và có thể trở thành một mắc xích trong chiến lược kiềm chế Trung Quốc. Khi Việt Nam đạt được lợi ích kinh tế trong sự gắn bó với Hoa Kỳ, thì họ sẽ đưa Việt Nam vào luật chơi quốc tế. Điều đó thể hiện rõ ràng trong câu nói của Đại sứ Osius “Hoa Kỳ muốn giúp Việt Nam trở thành một quốc gia lớn mạnh, giàu có và độc lập, tôn trọng luật pháp và nhân quyền”.

Nếu Hoa Kỳ thực hiện được mục tiêu nầy thì Trung Quốc sẽ ở vào thế vô cùng khó khăn. Việt nam từ vai trò phên dậu, sẽ trở thành người “chăn gối với kẻ thù”.

Quyền lợi cốt lõi củaTrung Quốc.

Cũng trong thời gian này, tờ Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc đăng bài “Ðòn bẫy thương mại có thể ngăn chặn Việt Nam quay sang với Mỹ.” Theo phân tích của ông Chu Phương Ngân, làm việc tại Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế Quảng Ðông, thì Hoa Kỳ sẽ có một số nhượng bộ trong vòng đàm phán mới về Hiệp Định Tự Do Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Việt Nam. Để hoàn tất thương lượng vào tháng 3 và trình Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua vào tháng năm. Đó là một tính toán chiến lược để tác động đến toàn cảnh chính trị khu vực Đông Nam Á.

Cũng theo ông Chu Phương Ngân, Việt Nam hy vọng vào TPP sẽ tạo tăng trưởng bền vững kinh tế và từ đó sẽ giảm bớt sự lệ thuộc vào nhập cảng từ Trung Quốc. Thêm vào đó sự căng thẳng tại biển Ðông giữa hai quốc gia cũng là lý do quan trọng thúc đẩy Việt Nam lựa chọn đối tác chiến lược mà Hoa Kỳ là quốc gia có tiềm năng cao nhất hiện nay. Nếu Hoa Kỳ mở rộng và củng cố quan hệ vững chắc với Việt Nam đó sẽ là yếu tố mang tính trụ cột cho nỗ lực xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ. Điều đó cho thấy lý do tại sao cựu ngoại trưởng Clinton đã nhiều lần viếng Việt Nam trong nhiệm kỳ của bà. Việc nầy cũng góp phần tạo thêm sự vững chắc cho an ninh trong khu vực, đồng thời đó cũng là nguy cơ cho sự an ninh và phát triển của Trung Quốc.

Trong cuộc trao đổi với Bàn Tròn Trực Tuyến của BBC tuần này nhân dịp Việt Nam và Mỹ đang đánh dấu tròn 20 năm hai nước cựu thù bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Cù Chí Lợi, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Châu Mỹ nói: “Trung Quốc có một số quan ngại của họ mà vì thế quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ có cải thiện, thì có thể họ cũng có ý kiến, lo ngại về mối quan hệ này, rằng nó có thể ảnh hưởng đến vấn đề bao vây rồi hạn chế sự phát triển của Trung Quốc”.

Trước vấn nạn đó Hoàn Cầu Thời Báo đưa ra phương thức cũng với tinh thần Đại Hán. Một mặt chiêu dụ, sử dụng các biện pháp kinh tế đa dạng, tăng cường đầu tư, giúp phát triển hạ tầng cơ sở và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam.

Trung Quốc sẽ tỏ ra mềm mỏng hơn để xoa dịu căng thẳng ở biển Ðông, chắc họ sẽ không quên triệt để khai thác các lợi thế truyền thống, tình hữu nghị giữa hai đảng cộng sản anh em, dùng lá bùa bốn tốt và mười sáu chữ vàng để ru ngủ những người còn lú lẩn tại Ba Đình vẫn một lòng tin tưởng vào giặc Hán. Thậm chí họ có thể tìm cách đe nẹt, gây ảnh hưởng để có người lãnh đạo cao cấp nhất theo lập trường Trung Quốc. Một mặt họ doạ nạt nếu Việt Nam đứng về phía Hoa Kỳ, Trung Quốc sẽ có những biện pháp trừng phạt. Đồng thời họ không quên lên án Hoa Kỳ, với giọng cũ rích của kẻ côn đồ khu vực, là không được can thiệp vào việc nội bộ khu vực.

Quyền lợi của dân tộc Việt Nam

Lựa chọn hợp tác với ai, sẽ làm gì và làm như thế nào, đó là quyết định của giới lãnh đạo Việt Nam mà một số dư luận trong nước, khu vực Đông Nam Á và có thể cả Hoa Kỳ, đều nhắm vào đương kim Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, người có nhiều cơ hội sẽ trở thành lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản Việt Nam trong năm 2016.

Nếu suy đoán nầy đúng thì ông Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu từ thời điểm nầy cần suy nghĩ kỷ những vấn đề sau đây:

– Ông nên nhớ rằng Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất để Hoa Kỳ có thể xử dụng cho chiến lược xoay trục sang châu Á nầy. Ấn Độ với 1, 25 tỉ dân trong một nước dân chủ, có tiềm năng cao trong việc xử dụng để làm lực đối trọng với Trung Quốc. Bên cạnh đó, nếu không thành công trong việc tìm đồng minh có khả năng và vị trí địa lý thích hợp, Hoa Kỳ có thể tìm một giải pháp hoà hoản để cùng chia xẻ lợi ích trên Biển Đông với Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam chỉ là thừa thãi và nếu muốn trở lại hợp tác với Mỹ cũng không còn kịp nữa.

– Đây là thời điểm quyết định để đưa đất nước đến phát triển, để chia phần thịnh vượng trong vùng Đông Nam Á. Bỏ lở cơ hội nầy là một trọng tội với đất nước, với dân tộc.

– Ông cũng cần nhớ lại bài học lịch sử là sau Thế Chiến thứ hai, Mỹ dùng kế hoạch Marshall để giúp những đồng minh Âu Châu tham chiến với họ, kết quả là những nước đồng minh Tây Đức, Anh, Pháp đều thịnh vượng nhờ kế hoạch nầy.

Hiện tại, đầu thế kỷ 21, Mỹ áp dụng chiến lược chuyển trục sang châu Á, Mỹ đang cần đồng minh thân cận để thực hiện chiến lược nầy. Và Việt Nam được Mỹ chọn với vị thế địa chính trị. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để vực dây kinh tế, dân chủ hoá đất nước. Dĩ nhiên những quốc gia đi với Mỹ trong chiến lược nầy sẽ được hưởng lợi nhuận kinh tế từ TPP mà Mỹ là nước đóng vai trò quan trọng, quyết định. Phải nắm cho bằng được cơ hội nầy để phát triển đất nước. Có được điều nầy chúng ta mới hy vọng được rằng trong vòng từ 10 đến 20 năm tới Việt Nam sẽ đuổi theo Hàn Quốc, Nhựt Bổn và có thể vượt qua được Mã Lai, Nam Dương, và Thái Lan. Vận hội không chờ bất cứ ai. Bỏ qua vận hội là mang trọng tội với dân tộc.

Lịch sử sẽ không bỏ sót những tên phản bội, những kẻ phản quốc, nhưng lịch sử cũng không hẹp hòi với bất cứ ai làm điều có lợi cho đất nước, nhất là lúc đất nước đang lâm nguy trước kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

TS Nguyễn Ngọc Sẵng
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Lê Diễn Đức - Nhộn nhịp chợ chạy chức quyền

Trong Hội Nghị Cán Bộ toàn quốc về công tác tổ chức xây dựng đảng diễn ra tại Hà Nội vào sáng 29 tháng 1 năm 2015, ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) than “sốt cả ruột” vì nạn chạy chức, chạy quyền.

“Tôi cứ nghe bao nhiêu tỷ để vào chức nọ chức kia mà sốt cả ruột! Nếu có chúng ta phải tìm có ở đâu chứ để râm ran thế này mà không có thì oan...,” ông Trọng nói.

Quả thật, hoặc sống xa hoa ở trên cao, quan liêu quá mức, hoặc vừa mù vừa điếc, hoặc giả vờ, nên ông tổng bí thư mới “tâm tư” ngớ ngẩn như thế!

Nạn chạy chức, chạy quyền, theo tờ Thanh Niên Online ngày 29 tháng 1 năm 2015, được xếp thứ hai sau tệ nạn tham nhũng và là một trong những “vấn đề gây bức xúc dư luận nhất hiện nay.”

Nạn chạy chức, chạy quyền thực sự không phải mới xuất hiện gần đầy mà đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội Việt Nam, tăng dần lên tỉ lệ thuận với tệ nạn tham nhũng và tỉ lệ nghịch với sự xuống cấp đạo đức xã hội.

Cho rằng “không có lửa sao có khói,” tờ Người Lao Động trong ngày 30 tháng 1, 2015 viết rằng, “Từ lâu công luận đã lên tiếng về các đường dây tiêu cực, như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy danh hiệu, chạy dự án, chạy kinh phí...”

Chạy chức, chạy quyền cũng trở thành đề tài nóng trong các kỳ họp của Quốc Hội. Tại phiên họp thứ 21 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội (khóa 13), Chủ Tịch Hội Đồng Dân Tộc Ksor Phước cũng nhìn nhận phản ánh dư luận về vấn đề chạy chức, chạy quyền, chạy việc, chạy ghế. Các kết luận thanh tra đều cho rằng có hiện tượng “chạy” song không phổ biến, nhưng đáng lo ngại và cần loại trừ.

Trong ngày 15 tháng 7 năm 2012 tờ Dân Luật ghi lại ý kiến của bạn đọc về tình trạng “chạy” này trước phát biểu của Bộ Trưởng Nội Vụ Nguyễn Thái Bình rằng ông có nghe nói “chạy việc” tốn nhiều tiền của.

Bạn Quỳnh Anh viết:

“Tôi nghĩ bộ trưởng nói la, ‘Tôi có nghe chạy việc tốn nhiều tiền...’ thì chắc là một lời nói không thật, vì chuyện đó ai mà chẳng rõ như ban ngày. Vấn đề là bộ trưởng nhìn nhận và giải quyết như thế nào thôi.”

Bạn Nguyễn Hiệp:

“Bộ trưởng Nội Vụ chả lẽ không biết chuyện chạy tiền để có việc sao? Nếu phải thi công chức thì 50% là phải chạy tiền, còn 40% là ‘con ông cháu cha’ nên không phải chạy, chỉ khoảng 10% là thi bằng khả năng.”

Vào ngày 10 tháng 11 năm 2003, bộ trưởng Công An lúc bấy giờ, ông Lê Hồng Anh, trả phỏng vấn tờ Việt Báo, Trung Tâm Báo Chí và Hợp Tác Truyền Thông Quốc Tế của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, đã khẳng định, “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền.”

“Đúng là hiện nay có một thế lực ngầm, đường dây ngầm để chạy dự án, chạy chức, chạy tội. Đường dây này tồn tại lâu rồi, có điều là làm chưa ra được thôi nhưng có khi nó nằm ngay trong bộ máy nhà nước. Theo tôi nó vẫn tồn tại. Có những dự án này, dự án kia ngoài kế hoạch mà nó vẫn chạy được, tất nhiên không phải tất cả các dự án ngoài kế hoạch và ngoài qui hoạch đều thế, nhưng rõ ràng là có. Có những dự án chả có yêu cầu nhưng vẫn thấy chạy được,” ông Lê Hồng Anh nói. [2]

Có lẽ cũng đã đủ các dữ kiện để nói với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng rằng, chạy chức chạy quyền là hoàn toàn có thực, như đinh đóng cột! Dối trá là bản chất các vị, những người đã tạo nên và làm băng hoại kỷ cương, chuẩn mực của xã hội Việt Nam.

Hiện tượng chạy chức chạy quyền là hành vi tham nhũng của những người có chức có quyền. Cả guồng máy vận hành của ĐCSVN là hang ổ của tham nhũng, chức vụ càng cao càng có cơ hội đục khoét của công nhiều hơn. Người ta ra giá chức vụ như một món hàng. Cuộc mua bán được thực hiện kín đáo, tinh vi trong bóng tối, tại nhà riêng, qua các trung gian thân cận hay vợ, con trong gia đình, nên rất khó có bằng chứng.

Trần Văn Thuyết với biệt danh “Thuyết Buôn Vua” trong vụ án Năm Cam là bằng chứng của việc mua bán các chức vụ cao nhất không còn là những giao dịch bình thường mà trở thành tội phạm, ân oán của xã hội đen.

Nguyễn Thế Thảo, hiện là chủ tịch Hà Nội, trong một lần gặp gỡ với bạn bè cùng học ở Ba Lan đã tiết lộ ông ta phải mua cái ghế “chủ tịch” mất gần 40 tỷ. Một người khác (xin được giấu tên), bạn học cũ của tôi, vụ trưởng của Quốc Hội, cho hay, trong nội các của Nguyễn Tấn Dũng, giá cao nhất (50 tỷ) thuộc về bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải, cơ quan đảm trách nhiều dự án đầu tư công lớn nhất.

Dịch vụ mua quan bán chức tuân thủ đúng nguyên tắc cạnh tranh của thị trường: Nếu không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền.

Ông Phạm Quang Nghị, bí thư Thành Ủy Hà Nội, từng phát biểu, “500 ngàn đô la không hạ gục được sự liêm khiết của người lãnh đạo đó thì một triệu đô la. Nếu một triệu đôla không đủ mạnh để hạ gục thì nhiều đô la hơn nữa... Bức thành trì liêm khiết của con người cũng có lúc bền vững hơn dãy Trường Sơn nhưng nhiều khi chỉ yếu như tờ giấy bị thấm nước.” [3]

Mua quan bán chức được xem như một khoản đầu tư lấy lãi nhanh nhất. Vì thế đã có rất nhiều sai phạm xảy ra nhưng ít có ai chịu trách nhiệm, xin từ chức. Xả lũ đập thủy điện vô lối gây ra cái chết cho hàng chục người hay tiêm nhầm vác xin làm nhiều trẻ em tử vong, là những ví dụ gần. Cái ghế đã mua rồi, còn phải thu hồi vốn và kiếm lãi đã

Vì lẽ không thể bỗng dưng bốc một anh nhà quê vô học đặt vào chức vụ cao, tiêu chuẩn học vị trở thành chất xúc tác cho các thương vụ. Hoặc khi đã có một chức vụ kha khá, ước mơ một vị trí cao hơn để có nhiều quyền lực hơn, cơ chế đòi hỏi phải có trình độ học vấn.

“Thế là một cuộc chạy đua để có bằng cấp bằng mọi giá. Bằng cấp càng cao, thì khả năng càng được cất nhắc ở vị trí cao. Không chỉ bằng cấp trong nước mà còn bằng cấp quốc tế rởm với giá 17 ngàn đôla và học trong 6 tháng.” [3]

Ông Phạm Minh Hạc, giáo sư của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, trong bài “Cán bộ xài bằng giả để kiếm cái ghế” nói (bee.net.vn):

“Tôi còn nhớ năm 2001, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo phát động phong trào thanh tra bằng giả, đưa nó thành chủ trương của ngành. Đến năm 2005, sau 4 năm, đã phát hiện được 10 ngàn bằng giả. Số bằng giả này chủ yếu tập trung ở công chức nhà nước trong đó có cả cán bộ cấp cơ quan trung ương.”

Tại cuộc họp của Hội Đồng Quốc Gia về giáo dục và phát triển nhân lực, ông Phạm Vũ Luận, bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã nói, “Người học giả, bằng giả, học thật nhưng chất lượng giả chỉ có thể chui vào hệ thống công chức nhà nước, không vào được doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài.”

Tờ Đất Việt ngày 21 tháng 1 năm 2015 viết:

“Vì bằng giả mà dẫn đến lương tâm giả, nhân cách giả. Và rốt cục sản phẩm của những kẻ ấy làm ra là đường sá cầu cống vừa khánh thành đã hỏng, cầu vừa đi đã sập, đường trên cao chưa làm xong đã mấy lần gây họa chết người.

“Tại Hội Nghị Tổng Kết Công Tác Tư Pháp của Bộ Tư Pháp, bộ này cho biết trong 10 tháng của năm 2014, đã có đến 9,017 văn bản pháp luật vi hiến, trái pháp luật, chiếm 22% tổng số các văn bản đã ban hành.”

“Một con số thật đáng hãi hùng, cứ 10 văn bản pháp luật ban ra thì có đến hơn 2 văn bản vi hiến hoặc trái với các điều khoản đã được quy định trong luật pháp. Thử hỏi có nền tư pháp nào hoạt động với sai sót nhiều đến thế chăng?” [4]

Một lực lượng động đảo những kẻ cơ hội, giả trá và bất tín trong bộ máy quản lý xã hội của ĐCSVN là hệ quả tất yếu của hệ thống chính trị độc quyền không do dân lựa chọn qua bầu cử tự do.

Độc quyền kéo theo đặc quyền, đặc lợi và lạm quyền như là một đặc tính tự nhiên. Những người lãnh đạo nhà nước từ trung ương tới địa phương thao túng và dung dưỡng các tệ nạn, biến tài sản công cộng thành nguồn thu bất chính.

Dân chúng ai ai cũng biết nhưng chỉ bất lực kêu ca và cam phận “sống chung với lũ.” Đó là bi kịch của Việt Nam!

Lê Diễn Đức
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Còn đảng cộng sản thì không còn mình

Tú Kép

(Danlambao) - Nhân ngày thành lập đảng côn đồ cộng sản năm nay, một tờ báo côn an trong nước ra ngày 31-1-2015
đã chạy một bài báo với tựa đề chữ lớn “Chỉ biết còn đảng thì còn mình”, được Dân Làm Báo copy lại như sau:

Image


“Chỉ biết còn đảng thì còn mình” là nội dung tuyên truyền chẳng mới mẻ gì, được côn đồ côn an hâm đi hâm lại nhiều lần như là khẩu hiệu chiến lược sống còn của côn đồ côn an, bởi vì một lý lẽ thật đơn giản như đang giỡn, vì còn đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) thì còn đàn áp, bóc lột, bất công, bạo hành, tù đày. Do vậy, CSVN mới còn cần côn đồ côn an, vì tụi nầy là công cụ “bạo lực cách mạng” để đảng CSVN đàn áp dân chúng.

Đảng CSVN được ví như cái ghế ba cẳng: một cẳng là quân đội, một cẳng là côn an và một cẳng là thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Thanh niên CSHCM là tổ chức tình báo “vi mô”, tức phạm vi nhỏ, hay tình báo địa phương trá hình, rình mò từ trong nhà ra ngoài phố, làm ăng-ten cho đảng, đánh hơi ở đâu có tin tức gì mới lạ thì báo cáo cho đảng ngay tức khắc. Nhiều em bé ngây thơ, không biết việc mình làm có hại cho gia đình, cứ “thật thà khai báo” chuyện gia đình cho lãnh đạo đoàn TNCSHCM. Thế là tai họa gia đình xảy ra.

Quân đội do đám chính ủy chỉ huy. Quân đội nhân rân CSVN tự hào là đã từng chiến thắng hai đế quốc sừng sỏ Pháp và Mỹ, nay bị hớp hồn trước đám âm binh chính ủy do đảng CSVN thống lãnh. Tướng lãnh, sĩ quan đều xếp ve, nằm im dưới quyền điều khiển phù phép của đám chính ủy là những đảng viên CS. Giống như đàn cừu hay đàn dê khiếp vía trước đàn chó săn giữ trật tự cho chủ. Các tướng lãnh nòng cốt của quân đội nhân rân lại mới được dẫn qua Trung Cộng cấy sinh tử phù từ 16 đến 18-10-2014. Về lại nước, tên đại tướng bộ trưởng Quốc phòng, đã phát ngôn ngày 29-12-2014 một câu nghe mà thối lổ nhĩ, thật là nhảm nhí, “xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc”. Đại tướng bộ trưởng Quốc phòng, tổng tư lệnh quân đội mà chủ bại như thế, sợ sệt như thế, thì còn gì là oai phong quân đội.

Côn đồ côn an là bộ máy trấn áp hữu hiệu của đảng CSVN. Đảng CSVN càng đàn áp, càng bóc lột, càng bất công, càng bán nước, và dân chúng càng kêu ca, càng phản đối, thì côn đồ côn an CS càng có nhiều “job” để làm. Vì vậy chế độ CS đàn áp bóc lột bất công nhiều chừng nào thì côn đồ côn an nhiều chừng đó. Chưa có bộ máy cầm quyền nào trên thế giới mà côn an đông đến thế so với tỷ lệ dân số như ở Việt Nam cộng sản.

Hãy thử nhìn vào mỗi phường, xã, cứ khoảng 10 gia đình (CS gọi là hộ dân) thì có 1 côn an khu vực. Mỗi phường, xã có từ vài chục đến hàng trăm côn an, lục lạo, rình mò, vào tận bếp của nhà dân, vừa ngửi mùi phản động, vừa để dòm ngó xem có gì để cướp khéo không? Cướp khéo bằng nhiều trò ảo thuật. Thật thà thì xin, khôn ngoan thì mượn, ngoại giao thì khen, rồi nhờ mua giùm nhưng không trả tiền.

Chưa có một tổ chức côn an của một nước nào trên thế giới nhiều loại côn an đến thế. Côn an chìm, côn an nổi, côn an khu vực, côn an giao thông, côn an văn hóa, côn an tôn giáo, côn an bảo vệ chính trị, côn an kinh tế, côn an phản gián, thôi thì đủ thứ côn an… Và có một loại côn an lạ lùng là côn an bảo vệ những gia đình có thân nhân ở nước ngoài, theo dõi cả người ngoài nước.

Ở mỗi trường trung hay tiểu học (mà CS gọi là trường cấp 1, cấp 2, cấp 3), và cả trường đại học, luôn luôn có một côn an bảo vệ văn hóa theo dõi. Tên côn an nầy đứng đầu một hệ thống mật báo viên là những học sinh trong trường, thuộc đoàn thanh niên CSHCM. Bất cứ trường nào có gì động tĩnh là côn ao biết liền và báo cáo ngay, nhất là ngày nay, hệ thống cell phone rất nhạy bén. Cũng thế, tại các chùa hay nhà thờ, đều có côn an bảo vệ tôn giáo, cầm đầu là mấy tên giáo sĩ quốc doanh, báo cáo đầy đủ tình hình sinh hoạt trong chốn thờ phượng tôn nghiêm. Quý vị đi chùa hay nhà thờ đều phải cẩn thận với loại côn an tôn giáo. Dại dột mà tâm sự là bị tù ngay.

Vì vậy, câu châm ngôn “chỉ biết còn đảng thì còn mình” hoàn toàn đúng với lũ côn đồ côn an CSVN. Tuy nhiên, khổ nỗi, người dân Việt Nam cảm thấy câu nầy chẳng hạp lổ nhĩ tý nào. Trật lất. Người dân Việt Nam hoàn toàn nghĩ khác. Thầm tính sổ cuộc đời mình, người Việt Nam thấy từ khi có đảng CSVN thì mình chẳng còn chi cả. Chẳng có quyền làm người (nhân quyền), chẳng có quyền làm dân (dân quyền), cũng chẳng có tý mẹ gì thứ quyền gì bỏ túi làm thuốc chơi, ngoài cái quyền cúi đầu vâng lệnh đảng CSVN, tung hê đảng CSVN.

Nầy nhá! Trước đây, nhà nước CSVN thi hành chính sách kinh tế chỉ huy, ngăn sông cấm chợ. Ở nông thôn thì lùa tất vào hợp tác xã nông nghiệp, đánh kẻng ra đồng làm việc tính điểm, gọi là “lúa điểm”, tức “liếm đủa”, chứ có cóc gì đâu mà ăn. Ở thành thị thì nhà nước đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, tiểu thương, thi hành chủ trương “Công Tư Hợp Doanh”, mà dân chúng diễn dịch lại là “Của Tôi Họ Dành”. Nhà nước, đảng viên, cán bộ dành hết, cơ cấu hết. Đó là nói chữ cho vui chứ thật ra nhà nước cướp hết. Cướp nhà, cướp xưởng, cướp máy, cướp xe, cướp tài khoản. Rồi nhà nước bao cấp, ban phát lợi lộc xã hội theo cấp bậc trong đảng. Đi mua hàng theo kiểu “xã hội chủ nghĩa” là “xếp hàng cả ngày”.

Đến khi dân đói quá, không có tiền có của hối lộ đảng, đảng cũng đói, nên mở he hé cho kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trời đất quỷ thần ơi! Định hướng xã hội chủ nghĩa là cái quái gì, ai hiểu nổi? Ngay cả tổng bí thư đảng CSVN cũng không hiểu nỗi. Không ai biết thằng cha nào nghĩ ra chữ nghĩa thật hoa mỹ, định hướng xã hội chủ nghĩa, cho dân chúng ăn bánh vẽ. Dựa vào định hướng nầy, đảng viên cán bộ càng ngày càng vẽ với, càng tham nhũng tợn. Dân oan khắp nước kêu gào long trời lỡ đất mà chẳng có ai xét xử, vì không lẽ chúng tự xét xử chúng. Chúng tự xét xử chúng, diệt tham nhũng đi, còn ai là cộng sản nữa. Ủy ban bài trừ tham nhũng là trò xiếc mua vui mà thôi.

Đó là ở thành thị, còn ở nhà quê thì dân chúng khổ cực không bút nào tả được. Xem hình ảnh những trường học trống trơn, học trò qua sông phải đu giây như tạc dzăng trên rừng xanh, hoặc qua các cầu khỉ lắt lẻo rất dễ rớt tõm xuống sông, có em phải chui vào bao ny lông kéo qua sông, trông thật tội nghiệp.

Đó là vài hàng phát thảo vắn tắt đời sống kinh tế. Còn về chính trị, thì điều 4 hiến pháp 1992 định rằng đảng CSVN lãnh đạo toàn dân, ngổi chễm chệ trên đầu dân, mà chẳng ai bầu cho cái đảng thổ tả nầy cả. Nghe dân kêu ca quá, vừa rồi, đảng CSVN quăng ra một miếng da lừa cho dân gặm. Dân đâu có ngu mà gặm. Chỉ có mấy bác trí thức trí ngủ bu vào bàn loạn, đề nghị bỏ điều 4 nầy. Đúng là vớ vẩn.

Đây là kịch bản khôi hài đen của CSVN vì CSVN quá có kinh nghiệm về việc nầy. Điều 4 hiến pháp 1992 của VNCS sao chép lại điều 6 hiến pháp 1980 của Liên Xô. Ở Liên Xô cũng có thời nổi lên xôn xao dư luận đòi bỏ điều 6 nây. Nhưng nếu bỏ điều 6 thì còn gì là quyền lực của đảng CSLX, nên lãnh đạo CSLX nhất quyết không chịu bỏ. Bây giờ ở VN, các đảng viên CSVN dại gì bỏ điều 4 nầy, vì nếu bỏ điều 4 nầy thì đảng viên chỉ đi ăn mày chứ biết làm gì mà sống, mà ăn trên ngồi trước thiên hạ.

Hơn nữa, chẳng những điều 4 hiến pháp, mà tất cả những luật lệ của Việt Nam cộng sản hiện nay đều bàng bạc không khí điều 4 hiến pháp. Luật lệ nào ở Việt Nam bây giờ cũng để bào vệ đảng, mà bảo vệ đảng nghĩa là một hình thức điều 4 hiến pháp. Nếu bỏ điều 4 thì cũng như không, vì các luật lệ khác còn khắt khe hơn điều 4 nữa. Xin hãy bỏ ảo vọng đi các bác trí thức trí ngủ ơi. Chế độ CS không bao giờ sửa đổi được, đừng có dại tham gia ý kiến ý cò, chỉ có vứt chế độ CS vào sọt rác là hay nhứt.

Nếu không vứt vào sọt rác, nếu đảng CSVN vẫn còn đó, thì người dân Việt Nam chẳng còn gì cả. Từ năm 2009, sinh viên Lê Trung Thành đã báo động: "Các anh ơi! Các chị ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc." (đăng trên các website 13-03-2009.) Người dân Việt Nam chúng tôi chẳng có tý tự do nào cả. Đi chùa hay đi nhà thờ thì gặp giáo sĩ quốc doanh. Báo chí thì rặt cả phường bồi bút, chỉ còn một số liêm sỉ thì kẻ bị nghỉ việc, người bị bắt. Nhẹ nhứt là bị theo dõi, de dọa, bôi bẩn...

Còn chính trị thì nhiều chuyện vui nữa. Bầu cử thì đảng cử dân bầu. Người ra ứng cử phải do đảng CSVN cử ra, thông qua Mặt trận Tổ quốc. Cái mặt trận nầy là mặt trận phản quốc vì là cánh tay nối dài của cái đảng thổ tả phản quốc từ khi thành lập cho đến ngày nay. Mà mấy tên dân biểu bầu ra chỉ để làm bù nhìn gật đầu hợp thức hóa những luật lệ do đảng CSVN bày ra.

Theo điều 4 hiến pháp, đảng lãnh đạo chế độ, nên lãnh đạo tuốt tuột, từ trung ương xuống địa phương. Năm năm đảng họp một lần. Nội bộ tranh giành, chia chác quyền lực. Tên nào cũng bặm trợn, gian ác, tham nhũng, bóc lột. Chỉ khổ người dân. Ỳ ạch đóng thuế để nuôi bộ máy cầm quyền cồng kềnh gồm đảng, chính quyền, rồi cái mặt trận phản quốc nữa.

Không có gì thì dân chúng kêu oan. Dân chúng kêu oan biểu tình khắp nước thì bị bắt bớ đánh đập. Dân bị bóc lột, cướp nhà, cướp đất, hết đường sinh sống, đâm ra liều lĩnh, biểu tình dài dài. Tuy nhiên, dân oan, khiếu nại, kiện tụng, chống tham nhũng biểu tình, bị bắt rồi có cơ hội được thả ra. Ngược lại những người biểu tình bất bạo động vì đối kháng chính trị, chống Trung Cộng xâm lược, thì bị côn an CSVN đánh dập, bắt giam nặng nề, cô lập, bao vậy, cho chừa cái tật yêu nước chống ngoại xâm.

Sinh viên Phương Uyên chỉ viết một câu ngắn “Tàu khựa cút đi”, mà bị đì cho đến giờ nầy còn bị đì, không được học hành gì cả. Còn anh chàng nhạc sĩ Việt Khang nhẹ nhàng hỏi: “Xin hỏi anh là ai? / Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai? / Xin hỏi anh là ai? / Sao đánh tôi chẳng một chút nương tay? / Xin hỏi anh là ai? / Không cho tôi xuống đường để tỏ bày / Tình yêu quê hương này, dân tộc này đã quá nhiều đắng cay!/ Xin hỏi anh ở đâu? / Ngăn bước tôi chống giặc Tàu ngoại xâm / Xin hỏi anh ở đâu? / Sao mắng tôi bằng giọng nói dân tôi?...” Thế là Việt Khang vào ngồi nhà tù nhỏ gở khoảng 1.500 tờ lịch.

Tỏ bày lòng yêu nước liền bị côn an CS bắt giam. Như thế, không khác gì nhà nước CSVN tịch thu lòng yêu nước của người dân. Dân chúng không còn gì, chỉ còn lòng yêu nước mà cũng bị tịch thu. Thế thì còn ai dại gì nuôi dưỡng, tỏ bày lòng yêu nước nữa. Vì vậy lòng yêu nước dần dần bị thui chột trong dân chúng. Dân chúng trở nên ù lỳ, vô cảm, lao vào cà-phê, rượu chè, cờ bạc, cá độ, trác táng. Những nhà nghiên cứu xã hội ưa trách cứ thanh niên trong nước ngày nay cà phê cà pháo, rượu chè bù khú cả ngày. Xin đừng trách họ mà hãy dẹp bỏ cái đảng CS và nhà nước CS thổ tả lưu manh thì tình trạng xã hội mới khá hơn được.

Tình hình dân khí như thế, thì lấy gì mà bảo vệ độc lập dân tộc khi sơn hà nguy biến. Như thế, nếu còn đảng CSVN thì nguy cơ mất nước lồ lộ trước mắt. “Giờ đây / Việt Nam còn hay đã mất / Mà giặc Tàu, ngang tàng trên quê hương ta / Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội / Chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu...” (Việt Khang).

Những mô tả trên đây còn nhiều thiếu sót, chưa nói hết thực trạng xã hội Việt Nam, nhưng cũng đủ cho thấy còn đảng CSVN thì dân Việt Nam chẳng còn gì. Đó là chuyện ở trong nước. Còn chuyện bên ngoài thì thê thảm hơn nữa.

Không cần trở lui quá khứ xa xôi làm chi, chỉ xin bắt đầu từ thế kỷ 21 trở đi. Đầu tiên, ngày 30-12-1999, hai ngày trước khi bước qua thế kỷ 21, hai bộ trưởng Ngoại giao Việt Cộng và Trung Cộng ký kết tại Hà Nội “Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc”, theo đó Việt cộng nhượng cho Trung Cộng 720 Km2 đất liền ở hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn; làm mất ải Nam Quan lịch sử và một phần thác bản Giốc.

Xin mời độc giả tìm đọc các sách về địa lý và lịch sử xuất bản từ sau năm 2000, hầu như không có địa danh Nam Quan. Như thế, con cháu chúng ta sau nầy sẽ không biết có Nam Quan, và nếu có nghe nói đến Nam Quan thì không biết Nam Quan nằm ở đâu? Như thế là còn đảng CSVN thì Ải Nam Quan không còn là ải của mình. Mất mà con cháu về sau không biết. Đau thật.

Một năm sau, ngày 25-12-2000, tại Bắc Kinh, đại diện hai nước lại ký kết “Hiệp ước phân định lãnh hải”, phân chia quyền lợi trên Vịnh Bắc Việt, làm mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển, tức khoảng hơn 8% diện tích Vịnh Bắc Việt. Từ đó, bản đồ Biển Đông của chúng ta không còn một số hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa, vì đã lọt vào tay Trung Cộng. Ngư dân Việt Nam ra biển Đông đánh cá liền bị tàu lạ đuổi chạy có cờ, nghĩa là với chế độ CSVN, mất biển mất đảo mà người dân không biết. Biển Đông không còn là biển của mình. Mất biển mà chính ngư dân không biết. Chán không?

Rồi núi rừng và cao nguyên Bắc Việt, cùng núi rừng và cao nguyên Trung Việt (mà Việt cộng gọi là Tây nguyên) cho tụi Tàu khựa thuê, khai thác đủ mọi thứ trên đời, làm đồn điền, khai bô-xít, trở thành cứ địa riêng của Tàu khựa. Nhà cầm quyền Việt cộng không được quyền kiểm soát. Biết đâu đó là những căn cứ quân sự của Trung Cộng khi có biến cố gì xảy ra. Như thế còn đảng csvn, núi và cao nguyên cũng không còn là của mình. Mất mà dân không biết.

Tóm lại, với côn đồ côn an, “chỉ biết còn đảng thì còn mình”. Tuy nhiên, côn đồ côn an chỉ là thiểu số tay chân của đảng CSVN, một đảng thổ tả ăn cướp, phản dân hại nước. Trong khi đó, với đại đó số dân chúng Việt Nam còn lại, còn đảng CSVN thì dân chúng mất hết, mất dân quyền, mất nhân quyền, mất tự do, kể cả những tự do căn bản, và nhất là mất nước.

Vậy thì câu kết luận thật rõ ràng: “còn đảng csvn thì không còn mình”. Bởi vì khi nước đã mất, thì mình làm sao còn được! Phải không bà con?

Tú Kép
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Dân chủ không tự trên trời rơi xuống

Lê Diễn Ðức

Năm 2015 bắt đầu với các diễn biến chính trị từ hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 10, khoá 11, trong các ngày 5 đến 12 tháng 01 năm 2015.

Tại hội nghị này, theo báo chí trong nước, ĐCSVN đã quy hoạch 22 Uỷ viên Bộ Chính Trị và 290 Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương cho khoá tới, sẽ diễn ra trong Đại hội đảng 12 vào đầu năm 2016.

Đã có rất nhiều bình luận, phân tích và dự đoán nhân sự cho ĐCSVN và nhà nước CSVN, cũng như những biến động đối với tình hình dân chủ trong bối cảnh đó.

Tin ở phép mầu

Nhiều người dựa vào sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để tiên đoán những biến chuyển chinh trị ở Việt Nam trong năm 2015 và năm 2016. Các ý kiến chủ yếu dựa trên bốn câu thơ sau:

“Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình”.

Thực tế, không phải trong năm Rồng, năm Tỵ (1940, 1941) thì bắt đầu có chiến tranh. Chiến tranh thế giới II đã bắt đầu trước đó, vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, khi quân Đức tấn công xâm lược Ba Lan.

“Can qua xứ xứ khổ đao binh”, tức là khắp nơi đều khổ vì đao binh trong hai năm từ 1940, 1941 nhưng còn tiếp tục các năm sau đó nữa.

“Mã đề dương cước anh hùng tận” vào năm Ngọ (1942) và đến cuối năm Mùi (1943) cũng không chính xác, vì tuy nhiều triệu người chết vì chiến tranh, nhưng anh hùng không bao giờ tận.

Đến năm Thân (1943) trên các mặt trận khắp thế giới vẫn nóng bỏng, và tới năm Dậu (1945) thì phát xít Đức, rồi phát xít Nhật mới đầu hàng đồng minh, một phần nhân loại được hưởng thái bình, nhưng chế độ thực dân vẫn còn hiện diện ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin.

Với Việt Nam, năm 1946 Pháp quay lại Đông Dương và cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm tiếp diễn đến năm 1954 khi ký kết hiệp định Geneve.

Người ta suy diễn những biến cố lịch sử và tưởng tượng sự tái diễn một cách gượng ép, hy vọng sấm truyền ứng nghiệm.

Người ta tin cũng tin rằng năm Ngọ (2014) Năm Mùi (2015) là năm sẽ có nhiều thay đổi lớn tại Việt Nam và trong năm Thân (2016) và năm Dậu 2017 sẽ có thái bình, tức là không còn chế độ Cộng sản!

Trông chờ “minh chủ”

Dư luận có vẻ trông chờ vào nhân vật Nguyễn Tấn Dũng, vốn xuất thân từ một y tá miệt vườn, không có học thức.

Trong 9 năm Nguyễn Tấn Dũng giữ chức Thủ tướng, từ năm 2006, kinh tế Việt Nam là một đồ thị đi xuống, tăng truởng suy giảm chỉ còn hơn 5%, các tập đoàn và tổng công ty nhà nước nợ nần khủng khiếp (khoảng 1,5 triệu tỷ đồng) mà chủ yếu là nợ khó đòi, các dự án đầu tư lớn chập chạp về thời gian bàn giao công trình, bê bối về chất lượng, nợ công chồng chất, nền kinh tế sa lầy trong vòng lệ thuộc Trung Quốc, đặc biệt về nguyên liệu…

Về xã hội, đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, tình trạng tham nhũng càng ngày càng phổ biến, tinh vi hơn, trở thành những đường dây có tổ chức.

Về chủ quyền lãnh thổ, ngoài những câu tuyên bố mị dân của ông Dũng, thực chất Biển Đông vẫn không ngừng bị Trung Quốc khiêu khích, đe doạ. Tàu thuyền của ngư dân Việt Nam vẫn bị xua đuổi, đập phá trên vùng biển Hoàng Sa. Trung Quốc vẫn ngang nhiên tiến hành xây dựng các cơ sở quân sự, hậu cần ở Trường Sa và Hoàng Sa.

Rõ ràng, di sản “thành tích” của ông Nguyễn Tấn Dũng trong những năm qua là một bức tranh đen tối. Tuy vậy, như một ngôi sao sáng, ông ta vẫn củng cố được vị trí của mình nhờ có chỗ dựa của sân sau là an ninh và quân đội, hai khu vực mà trong 9 năm qua ông ta đã ban phát khá nhiều ân huệ, lợi ích.

Nếu quyền lực tập trung vào một con người không có trình độ học thức và mưu mô xảo quyệt như ông Dũng thì là thảm hoạ cho Việt Nam như tôi đã viết trong bài “Thảm hoạ của độc đoán, chuyên quyền”.

Cho rằng ông Nguyễn Tấn Dũng là một người có tư tưởng cải cách dân chủ là một sai lầm lớn.

Ông Dũng là người đã thực hiện nhiều chính sách đàn áp dân chủ, nhân quyền, cấm tự do báo chí và quyết không để hình thành lực lượng đối lập tại Việt nam. Ông ta là một người ham quyền cố vị, ở tuổi 65 vẫn đeo đuổi tham vọng quyền lực, cài cắm hai con trai vào bộ máy công quyền chuẩn bị cho tương lai và tạo điều kiện cho con gái trúng thầu những dự án kinh tế lớn.

Tuy nhiên, chiếc ghế Tổng Bí thư mà ông ta nhắm tới không phải dễ dàng. Bởi vì ông ta không có thế mạnh tuyệt đối trong tương quan quyền lực của nội bộ lãnh đạo cao nhất. Tham vọng trở thành Tổng Bí thư như ông Dũng còn có Phạm Quang Nghị, Lê Hồng Anh, Đinh Thế Huynh…

Thất bại của Nguyễn Phú Trọng- Trương Tấn Sang trong cuộc xung đột với Nguyễn Tân Dũng tại hội nghị 6 và 7 vẫn còn là ẩn số của một bài toán dài hạn. Không dễ gì Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang để Nguyễn Tấn Dũng “lên ngôi” một cách suôn sẻ.

Hơn nữa, hiến pháp của VNCS xác định quyền lãnh đạo duy nhất của ĐCSVN. Cấu trúc tổ chức tập quyền hiện tại của ĐCSVN còn mạnh. Cho nên, khả năng Nguyễn Tấn Dũng nắm chức Tổng Bí thư, kiêm Chủ tịch nuớc, rồi sẽ cải cách thể chế, tức là thay đổi Hiến pháp, để trở thành một Tổng thống toàn năng, rất khó xảy ra.

Từ nay đến năm 2016, tất nhiên, cuộc tranh đua quyền lực sẽ còn quyết liệt. Nhưng cuối cùng, ai nắm quyền thì cũng thế, cục diện chinh trị sẽ không thay đổi.

Hy vọng vì bất lực

Mặc dù dân chúng Việt Nam cảm nhận đuợc sự phản bội của ĐCSVN, chán chường trước một xã hội bị băng hoại kỷ cương, chuẩn mực, nhưng sự phản kháng chỉ nằm ở một thiểu số rất nhỏ. Đa phần cam phận “sống chung với lũ”. Xuất phát từ tâm lý đã trải qua một cuộc chiến tranh gian khổ, người ta sợ một sự xáo trộn bất ổn, ảnh huởng đến miếng cơm, manh áo hàng ngày.

Do bị nhồi sọ, dân chúng tưởng tượng sự tranh giành quyền lực trong một xã hội đa đảng sẽ rất phức tạp. Họ không hề có khái niệm về bầu cử tự do và các nguyên tắc của cuộc chơi dân chủ là quyền lực sẽ do lá phiếu quyết định chứ không phải bằng bạo lực cấu xé nhau.

Những người mong muốn Việt Nam dân chủ, có tư tưởng chán ghét chế độ cộng sản, một số nhóm dân sự ra đời, hoạt động phần nhiều mang tính tự phát, tổ chức kém. Cần một thời gian dài nữa họ mới có thể trưởng thành và thu hút sự ủng hộ của số đông trong một xã hội còn vô cảm về chính trị.

Trong bối cảnh như trên, lộ trình dân chủ hoá của Việt Nam còn rất xa vời và mờ mịt. Từ cái nhìn bất lực này, phát sinh ra tâm lý chờ đợi phép mầu, mong xuất hiện “minh chủ”, khả dĩ có thể làm thay đổi đất nước.

Lịch sử đã cho thấy “minh chủ” không tự nhiên sinh ra mà được tạo nên từ phong trào xã hội. Không một nhà độc tài nào lại muốn ban phát dân chủ cho dân chúng. Tự do và dân chủ phải tranh đấu để giành lấy chứ nó không từ trên trời rơi xuống. Không có cuộc cách mạng nào tự dưng từ trên xuống mà không có áp lực từ dưới lên. Các cuộc cách mạng dân chủ đều phải đổi bằng tổn thất và xương máu, kể cả những cuộc cách mạng được cho là hoà bình.

Bức tường Berlin sẽ không sụp đổ nếu như không có hàng trăm ngàn người Đông Đức xuống đường đòi dân chủ liên tục, nếu không có 4 triệu công dân Đông Đức xin ra khỏi nước vĩnh viễn và hàng trăm người bị bắn chết khi chạy sang Tây Đức.

Sẽ không có một Thein Sein nếu như không có hàng ngàn sinh viên, phật tử MIến Điện bị đàn áp đẫm máu trong các cuộc biểu tình năm 1988 và sự hoạt động phản kháng của Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ, đứng đầu là nhà hoạt động đối lập nổi tiếng Aung San Suu Kyi.

Tóm lại, năm 2015, 2016, theo tôi, sẽ chẳng có chuyển biến chính trị nào mang tính bước ngoặt. ĐCSVN tiếp tục tồn tại, cầm quyền và trên đất nước Việt Nam vẫn kéo dài sự ngự trị chế độ độ độc tài toàn trị cộng sản.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

'Tam Quốc Chí' thời nay ở Syria

Hà Tường Cát

Tổng thống Syria Bashar al-Assad nói chính quyền ông nhận được thông tin từ liên minh quốc tế chống 'Nhà Nước Hồi Giáo” do Hoa Kỳ lãnh đạo,
nhưng không có sự hợp tác gì vào chiến dịch không kích.

Image
Những gì còn lại ở thành phố Kobani miền Bắc Syria sau khi quân nổi dậy lấy được của chính quyền Syria,
ISIS chiếm của quân nổi dậy và dân quân peshmerga người Kurd thâu hồi. (Hình: BULENT KILIC/AFP/Getty Images)


Tổng Thống Assad cho biết như vậy trong cuộc phỏng vấn dành cho Jeremy Bowen, chủ biên BBC vùng Trung Đông. Ông minh định thêm rằng các thông tin mà Syria nhận được không phải là trực tiếp mà từ những phía khác như là Iraq.

Tình thế tại Syria là cuộc xung đột giữa 3 bên bao gồm: chính quyền Syria của Tổng Thống Assad, lực lượng quá khích tự xưng là Nhà Nước Hồi Giáo (được gọi bằng tên IS, ISIL hay ISIS) và liên minh quốc tế chống IS đồng thời ủng hộ cho quân nổi dậy chống chính quyền Assad. Mỗi bên đều trực tiếp hay gián tiếp chống hai bên kia, và có thêm sự hợp tác hoặc chỉ là thỏa hiệp không công khai với những phe phái khác. Đó là thực tế vô cùng phức tạp ở khu vực Trung Đông mà không thể nào dễ dàng giải quyết, dù là bằng phương cách quân sự, hay ngoại giao và chình trị.

Khởi đầu từ mùa xuân năm 2011 trong khuôn khổ phong trào quần chúng tranh đấu dân chủ ở Bắc Phi và Trung Đông, những cuộc biểu tình ôn hòa chống chính quyền trên toàn quốc Syria đã diễn biến thành võ trang nổi dậy và đưa tới nội chiến.

Có một câu hỏi đáng được đặt ra là vì sao chính quyền al-Assad có thể tồn tại qua 4 năm bất ổn, nội chiến và những biện pháp trừng phạt, cấm vận khắt khe của Tây Phương?

Tổng Thống Bashar al-Assad kế nghiệp cha, Tổng Thống Hafez al-Assad (1971-2000), tiếp tục là một nhà lãnh đạo độc đoán, cầm quyền bằng đảng chính trị Xã Hội Chủ Nghĩa Á Rập Baa'ath . Gia đình ông là Hồi Giáo Alawite, một giáo phái nhỏ trong ngành Shiite. Hồi Giáo Sunni chiếm đa số, 11 triệu, trong 18 triệu dân Syria, còn lại khoảng 3 triệu Hồi Giáo Shiite và 2.5 triệu Thiên Chúa Giáo.

Dù thuộc thành phần thiểu số, Tổng Thống al-Assad vẫn có sự ủng hộ của đa số dân chúng và nắm vững quân đội cùng lực lượng an ninh nên có thể đàn áp mạnh mẽ. Sau 6 tháng, phong trào dân chủ coi như tan rã và tới tháng 7 năm 2011, cuộc tranh đấu hoàn toàn mang tính cách võ trang nổi dậy. Syria dần dần trở thành chiến địa của các phe nhóm nổi dậy được sự hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp từ các thế lực bên ngoài. Qua 4 năm, nội chiến đã làm gần200,000 người thiệt mạng và 4 triệu dân chúng phải di tản, hầu hết qua các trại tị nạn ở Jordan.

Các nhóm nổi dậy hình thành và gia tăng sức mạnh qua cuộc chiến đấu, đồng thời cũng làm biến thể cuộc nội chiến trong đó các yếu tố chính trị, tôn giáo và sắc tộc đều có vai trò quan trọng. Trong khi Iran và phong trào Hezbollah ở Lebanon, thuộc phái Hồi Giáo Shiite, ủng hộ chính quyền Syria thì Hồi Giáo Sunni và dân thiểu số Kurd, đứng ở phía quân nổi dậy. Các nhóm quá khích khủng bố phát triển lớn mạnh và trở thành nguy cơ mới ở Trung Đông không chỉ riêng cho chính quyền al-Assad.

Những năm đầu, các nước Tây Phương chủ trương Tổng Thống al-Assad phải ra đi, nhưng từ giữa năm 2014, hiểm họa bành trướng của khủng bố trở thành mục tiêu hàng đầu cần đối phó. Vì vậy mặc dầu chỉ còn kiểm soát được khoảng 40% lãnh thổ và 60% dân chúng Syria, chính quyền al-Assad vẫn có thể tồn tại.

Nga, Trung Quốc, Iran, những đồng minh cố hữu của Syria từ thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, vẫn mạnh mẽ bênh vực chính quyền al-Assad. Chưa có một nghị quyết nào của Liên Hiệp Quốc về Syria được thông qua, tất cả đều gặp sự phủ quyết của Nga và Trung Quốc. Lập trường này được củng cố khi ISIS, một trong những nhóm có lục lượng quan trọng nhất trong phía nổi dậy lại là địch thủ đáng lo ngại nhất của các chính quyền và dân chúng Trung Đông cũng như toàn thế giới.

Nhà nước Hồi giáo IS là một nhóm chiến binh Jihad cực đoan dòng Sunni, hoạt động xâm lăng và khủng bố trên lãnh thồ Iraq và Syria. Tổ chức này được thành lập vào những năm đầu của cuộc chiến tranh Iraq nhưng không tạo nên kết quả cụ thể đáng kể và chỉ đột nhiên phát triển lớn mạnh bằng việc tham gia cuộc nội chiến Syria. Cũng như vậy, Mặt Trận al Nusra thuộc al-Qaeda cũng bằng cuộc nội chiến tại Syria đã có thể tạo lập được căn cứ và tiếp tục hoạt động khủng bố tại Trung Đông. Còn rất nhiều các phe nhóm nổi dậy trong cuộc nội chiến Syria với lập trường và đường lối khác nhau, nhưng đáng kể nhất lại là những tổ chức quá khích có tính cách khủng bố.

Do đó có rất nhiều sự việc trớ trêu trong cuộc xung đột ở Trung Đông. Syria mặc nhiên để cho Hoa Kỳ và liên minh chống ISIS mở các cuộc oanh kích không quân trong lãnh thổ của họ. Nếu không có sự thỏa thuận như thế, máy bay xâm phạm không phận sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm vì Syria có hệ thống phòng không đáng kể trang bị hỏa tiễn của Nga. Iran cũng trở thành một đồng minh không tuyên bố và không có hợp tác trong cuộc chiến ấy mặc dầu nước này đưa qua Syria và lãnh thổ của người Kurd những cố vấn quân sự và cả các đơn vị lực lượng đặc biệt. Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chống người Kurd vì dân tộc này không ngừng tranh đấu đòi quyền tự trị và thành lập một quốc gia trên đất Thổ, nhưng chấp nhận cho lực lượng dân quân peshmerga của người Kurd được quá cảnh để đánh ISIS ở biên giới Syria. Và mặc dầu lệnh cấm vận, hầu như Nga vẫn có thể tiếp tục bí mật cung cấp vũ khí cho Syria.

Trong cuộc phỏng vấn của BBC, Tổng Thống Bashar al-Assad khẳng định là sẽ không tham gia lực lượng liên minh quốc tế chống ISIS. Ông nói: “Chắc chắn là chúng tôi không thể, không có ‎‎ý định, và không muốn như thế, chỉ vì một lý do đơn giản là chúng tôi không thể ở trong cùng một liên minh với những nước ủng hộ khủng bố,” Chính phủ Syria vẫn thường gọi chung tất cả các nhóm nổi dậy, dù là chiến binh jihadist hay thành viên của phe đối lập chính trị là “những kẻ khủng bố”.

Ông Assad loại bỏ các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm đào tạo và trang bị cho một lực lượng nổi dậy “trung hòa” để chiến đấu chống lại IS trên lãnh thổ Syria. Ông lập lập rằng không có những người trung hòa mà chỉ có những kẻ cực đoan từ IS và từ al-Nusra Front, một nhánh của al-Qaeda ở Syria.

Ngược lại, các quốc gia tham gia liên minh chống ISIS do Hoa Kỳ lãnh đạo cũng từ chối hợp tác với ông Assad, người mà họ vốn thúc giục từ chức kể từ sau cuộc nổi dậy chống lại chế độ của ông và những hành động vi phạm nhân quyền, tội ác chiến tranh của chính quyền đối với chính dân chúng Syria.

Với tình hình như vậy, chưa ai có thể dự đoán thế “tam quốc chí”, cuộc xung đột của những phe phái phức tạp tại Trung Đông sẽ đi đến một kết thúc như thế nào. Bởi lẽ cuối cùng, nếu một hay hai phe nhóm bị tiêu diệt thì cũng còn lại nhiều phe nhóm khác không kém nguy hiểm đáng lo ngại.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Mừng Diễn Hành Văn Hoá Việt

Vi Anh


Tin vui, niềm vui của người Việt hải ngoại. Tết năm nay vẫn có diễn hành văn hoá Việt ở Little Saigon. Và hàng năm người Việt Hải ngoại đều có diễn hành văn hoá Việt Nam trước Liên Hiệp Quốc.

Học giả Phạm Quỳnh nói, tiếng Việt còn thì nước Việt còn. Tuy ngôn ngữ là một thành tố chánh nhưng cũng chỉ là một thành tố của nhiều thành tố cấu tạo văn hoá thôi. Theo giáo sư xã hội học John J. Macionis, trong quyển “Society the Basics” đã tái bàn sáu bảy lần rồi, một loại xã hội học nhập môn, sinh viên đại học Mỹ nào cũng phải học, thì văn hoá có yếu tố chánh: biểu tượng, ngôn ngữ, giá trị mà nhiều người đồng ý chấp nhận chung một ý nghĩa. Nếu ai làm ngược như đốt quốc kỳ là một trong những biểu tượng văn hoá thì hành động đó bị đa số lên án là phản văn hoá (counter cultural), là vô văn hoá. Chỉ có con người là sinh vật duy nhứt biết tạo ra văn hoá cho mình. Văn hoá là do thừa kế, chớ không do di truyền. Kiến, mối có tổ chức tinh vi; kiến thợ, kiến lính, kiến chúa hoạt động nhịp nhàng, qui củ, nhưng theo bản năng ngàn đời không thay đổi nên không có văn hoá.

Người Việt Nam nói chung và người Mỹ gốc Việt nói riêng dù không sống được ở nước nhà VN đang bị kềm kẹp trong gọng kềm CS, đã di tản qua Mỹ cách nước nhà nửa vòng trái đất, vẫn đem VN, đem văn hoá Việt theo mình, cố gắng bảo tồn trong xã hội đa văn hoá, đa chủng tộc Mỹ.

Ở Little Saigon những năm gần đây đều có tổ chức những sinh hoạt về văn hoá VN trong những ngày trở thành truyền thống chánh trị như ngày Quốc Hận 30-4 và phong tục như Tết Nguyên Đán. Và người Việt Hải Ngoại cũng tranh thủ được với Liên hiệp Quốc đại diện cho văn hoá VN trước LHQ trong cuộc diễn hành văn hoá của các nước.

Năm nay cũng như nhiều năm vừa qua, cộng đồng và các đoàn thể Việt cũng có tổ chức hay tham gia tổ chức diễn hành văn hoá trên đại lộ Bolsa con đường sầm uất nhứt của Little Saigon, một thành phố quen thuộc và thân thương của đồng bào người Việt hải ngoại nên gọi là thủ đô tinh thần của người Việt hải ngoại.

Hình thái văn hoá vật thể và tinh thần, con người, các đoàn thế, màu cờ sắc áo, ngôn ngữ VN, những nét chánh của lịch sử, phong tục VN của người Việt quốc gia có trên 4000 năm văn hiến được trình bày một năm một lần, nhắc nhớ ngươi lớn tuổi và gây hiểu biết cho đoàn hậu tấn.

Văn hoá như dòng chảy của cuộc sống VN, sống liên tục của tiền nhân để lại được người đi sau phát huy trong lòng dân tộc. CS cố gắng cào bằng mà cào không được. Trái lại dòng văn hoá người Việt Quốc gia cao hơn của CS nên san lấp văn hoá CS theo nguyên tắc bình thông nhau. Văn hoá quốc gia VN được lòng dân yêu thích, người dân nuôi nấng, nên tuy len lỏi nhưng đều đặn phổ biến trong môi trường khô cằn của CS, CS cấm mà không được. Tại vì đó là văn hoá, văn học, giáo dục, văn nghệ, âm nhạc thời VNCH gọi là nhân bản, dân tộc và khai phóng nên được chấp nhận. Tại vì văn hoá ở Miền Bắc CS vì ngoại lai, mất gốc, đượm mùi Tàu rất nặng, nên bị phủ nhận.

Bình tâm mà xét, phải khen vai trò bảo tồn và phát huy văn hoá của người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại chẳng những bảo vệ và phát huy văn hoá ở đất nước mình sống. Tuy cách xa nước nhà VN nửa vòng Trái Đất nhưng còn bằng cách này hay cách khác, công khai hay âm thầm đem nhựa sống về cho nền văn hoá VN trong nước. Nền văn hoá VN trong nước, trong hàng ngũ nhân dân chẳng những sống còn mà phát huy tuy không mạnh như ở hải ngoại nhưng ít nhứt vẫn sống còn được.

38 năm qua thế hệ thứ nhứt và một rưỡi đã làm tất cả những gì có thể làm được và không từ bỏ cơ hội nào để làm điều ấy. Số đầu sách xuất bản ở hải ngoại, tỷ lệ quá cao so với dân số người Việt hải ngoại. Vắt tim óc ra viết, để dành tiền ra in, bán thường không đủ vốn nhưng người Việt hải ngoại vẫn làm. Số tờ báo ở hải ngoại ra rất nhiều, người làm báo làm là vì muốn đem thông tin, nghị luận đầy đủ đến cho đồng bào khi truyền thông quốc tế không coi VN là tiêu điểm nữa -- hơn là làm để kiếm tiền. Dù khó khăn kinh tế vẫn cố gắng giữ truyền thống làng báo Việt, ra báo xuân. Phát thanh hải ngoại cũng thế đổ mồ hôi với quảng cáo để có đủ tiền trả tiền mướn phát sóng để giữ tiếng nói của người Việt Quốc gia hơn là nghề sống. Truyền hình cũng vậy, vặt gấu vá vai để người Việt có tin, có hình đầy đủ hầu có nhận định đúng đắn bộ mặt thật của nhà cầm quyền CS. Các cá nhân và hội đoàn, cộng đồng đi năn nỉ hết chỗ này đến chỗ khác để có nơi bỏ thì giờ, kiến thức và kinh nghiệm truyền đạt tiếng Việt cho thế hệ thứ hai và ba. Sau gần 40 năm định cư, cho đến bây giờ, chưa có một sắc tộc nào trong xã hội đa văn hoá, đa sắc tộc Mỹ, đầu tư thời giờ, tiền bạc và tâm huyết để bảo tồn và phát huy văn hoá như người Mỹ gốc Việt.

Và gần 40 năm qua, dù bi quan thế mấy, người ta cũng thấy người Việt hải ngoại đã thành công. Văn hoá VN, tiếng Việt không bị chìm trong Anh văn, Pháp văn, Tây ban nha mà vươn lên bầu trời tự do, vào lòng người tự do, còn chuyến ánh sáng tự do, dân chủ về nước nhà VN. Đài truyền hình trung ương Hà nội, VT4, đài địa phương Saigon, Thuần Việt, của CS Hà nội làm công tác “thông tin đối ngoại” cho CS Hà Nội, coi miển phí mà chẳng mấy ai người Việt hải ngoại gắn đĩa để xem. Trái lại hết đài của người Việt hải ngoại xem phải đóng lệ phí, mà số gia đình xem hàng theo DirecTV, rất cao.

Được như thế, thế hệ thứ nhứt và một rưỡi không thể không nhớ ơn di sản văn học, nghệ thuật mà VNCH đã đóng vai trò tiếp nối tiền nhân từ Hán, Nôm qua Quốc ngữ và truyền thừa cho người Việt hải ngoại.

Phần còn lại là lớp trẻ thế hệ thứ hai, thứ ba. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhờ người đào giếng. Nếu không có ngày 30-4-75, dù du học đậu bằng tiến sĩ, bác sĩ ở Mỹ muốn xin ở lại, định cư ở Mỹ, cũng không được. Nếu không có 30-4-75, nếu không có những người CS bắt đi tù cải tạo, đi kinh tế mới, bị trấn lột qua bao lần đổi tiền và đánh tư sản, không có những thuyền nhân dũng cảm và dứt khoác không sống với CS đã dùng thuyền nan vượt đại dương. Thì đâu có nhưng bác sĩ, kỹ sư, dân biểu, nghị sĩ, nghị viên đang làm việc trong chánh quyền Mỹ bây giờ. Thế hệ cha anh của những người trẻ có học đó đã giữ văn hoá Việt, không để bị trốc gốc nơi quốc gia định cư mà còn vươn tay vun bồi cho nền văn hoá nhân bản, dân tộc, khai phóng đang trong lòng người dân Việt ở nước nhà VN. Thế hệ cha anh đến Mỹ với hai bàn tay trắng mà còn có thể bảo tồn và phát huy van hoá Việt được, lẽ nào thế hệ trẻ được thừa hương bao nhiều cơ hội tiến thân ở Mỹ lại không làm được như cha anh. Thế hệ cha anh đã hy sinh mạng sống, những ngày hoa niên của cuộc sống, hy sinh cho con cháu để đưa con cháu đến bến bờ tự do để có cơ hội vạn lần hơn so với người đồng trang lứa ở VN, và tạo nhiều kỳ tích văn hoá cho dân tộc Việt, lẽ nào lớp trẻ không biết ơn./.(Vi Anh)
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Bàn chuyện rời bỏ đảng
Nguyễn Minh Cần
Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), chúng tôi thiết nghĩ những đảng viên Cộng Sản còn có lương tri, còn có lòng yêu nước, thương dân, nên khách quan nhận định lại ĐCSVN mà mình đang có chân trong đó, thực ra nó như thế nào?

Những việc nó đã làm trong suốt 85 năm qua như thế nào? Công và tội của nó đối với dân, với nước ra sao? Để từ đó xác định thái độ cần phải có đối với ĐCSVN mà mình đang có chân và đã từng phục vụ. Tất nhiên, chúng tôi không nói chuyện với đám nịnh thần, đám bồi bút cung đình, bọn dư luận viên... những kẻ chỉ biết cúc cung phục vụ cái ác vì chút bổng lộc được bọn độc tài toàn trị thí cho.

Thiết nghĩ có mấy điều đáng suy nghĩ sau đây:

Điều thứ nhất

Có thể nói không ngoa là rất hiếm có một đảng chính trị nào giống như ĐCSVN, coi sinh mạng con người hết sức rẻ rúng. Xin các bạn cứ ngẫm mà xem! Đọc các chuyện kể của những nhân vật đã từng ở trong Đảng Cộng Sản hay những người đã từng bị Đảng Cộng Sản đày đọa, rồi nhìn kỹ vào thực tế, thì thấy rằng, quả là ĐCSVN “giết người như ngóe.” Ai chống đảng - đảng diệt! Ai chưa chống đảng, mà đảng nghĩ là người đó có thể có ngày sẽ chống đảng - đảng cũng diệt! Những người có quan điểm khác với đảng - nhất là người thuộc các đảng yêu nước không Cộng Sản - thì đảng cho “đi mò tôm,” tức là bỏ rọ trôi sông. Ai bị đảng nghi, ngay cả đối với đảng viên của đảng - chẳng cần chứng cớ gì hết, chẳng cần điều tra gì hết - đảng “thịt.” Người nơi khác lơ ngơ đi lạc vào A-Tê-Ka (ATK, an toàn khu) của đảng - đảng “thịt” ngay, để giữ bí mật của đảng. Người cảm tình với đảng từ nơi xa lần mò tìm đến ATK của đảng mà không có ai trong ATK chứng nhận - đảng cũng “thịt.” Thậm chí, trong kháng chiến, người dân có mang vật gì trong người, chẳng hạn, chiếc khăn lau mặt, có ba màu: xanh, trắng, đỏ, đảng nghi là gián điệp - đảng “thủ tiêu.” Đã có biết bao nhiêu mạng người đã bỏ xác vì những lý do vớ vẩn như thế! Mà chỉ cần một cái hất đầu, một cái nháy mắt, một ngón tay đưa lên... của cán bộ thôi, chứ không cần phải có bất kỳ giấy tờ, quyết định, chữ ký lôi thôi gì cả - thế là một, hai hay nhiều mạng người “đi toong”! Chính cái đầu óc “coi mạng người như ngóe” đó, mà đảng nhất quyết bác bỏ “nhân tính,” chỉ thừa nhận “giai cấp tính,” mà nghĩ cho cùng có khi đó lại là “thú tính.” Xin hãy nghĩ mà xem: cái lối giết người bị quy là “địa chủ” trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), như chôn sống, hay chôn người đến cổ rồi cho trâu bừa qua nhiều lần cho đến chết, giam người ở chuồng trâu rồi bỏ đói cho chết; cái lối giết người Hoa trong chuyến ĐCSVN đuổi trên 300 nghìn người Hoa về nước, có nơi đã thu vàng bạc của người ta rồi, cho lên tàu xua về nước lại còn cho tàu đuổi theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm... đến nỗi xác người nằm san sát nhau lềnh bềnh trên sông như củi rều vậy. Như thế gọi là gì? “Giai cấp tính” ư? Rõ ràng là “thú tính”! Và cái lối tàn sát dân lành kiểu này có khác gì lối giết người của bọn Phát-Xít? Và như vậy, ĐCSVN có khác gì bọn khủng bố quốc tế thuộc các giáo phái cực đoan ngày nay?

Thế nhưng, hễ ai - các nhà trí thức, các đảng viên của đảng - dám đề cao “nhân tính” thì đảng liền phê cho là “mất lập trường,” là tư tưởng xét lại, là quan điểm tư sản, phản động, là không có “đảng tính.” Chính vì thế mới xảy biết bao nhiêu vụ oan khiên suốt trong 85 năm tồn tại của ĐCSVN. Nào là các vụ giết hàng trăm lãnh tụ và đảng viên các đảng yêu nước không Cộng Sản, như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đảng Đại Việt, v.v... những năm sau khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền, để không còn ai có thể cạnh tranh quyền lực với đảng nữa. Ngay cả đối với những người yêu nước cùng ý hệ với đảng, nhưng khác về đường lối, như những người trotskistes Việt Nam đã từng một thời hợp tác tốt đẹp với những người Cộng Sản ở miền Nam, ĐCSVN cũng không tha - phải giết hết! Vì sao? Vì hồi 1937-38, Nguyễn Ái Quốc từng hùa theo Stalin, lu loa chửi bới thậm tệ những người trotskistes là “một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát-Xít Nhật và chủ nghĩa Phát-Xít quốc tế,” “đàn chó trotskistes,” “những kẻ đầu trâu mặt ngựa,” “những đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác,” “kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ,” “bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất,” v.v... Những câu, chữ này còn nằm trong ba bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho trung ương (TƯ) đảng (xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr.97-100). Cho nên những ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sổ, Lê Ngọc, Lê Văn Hương, v.v... (hồi năm 1945-46), Nguyễn Văn Linh, Lưu Khánh Thịnh, Liu Jialang (hồi năm 1948) đã bị sát hại thê thảm! Ngay cả những đảng viên CSVN bị nghi ngờ, dù chẳng có chứng cớ gì hết cũng bị giết hại dễ như bỡn: như vụ giết oan mười mấy đảng viên CSVN người Hoa đã từng bị tù đày vì đấu tranh cách mạng Việt Nam (do Lý Ban “chỉ điểm”) và vụ giết oan mấy chục đảng viên Cộng Sản người Việt (trong vụ H122 do Hoàng Quốc Việt phụ trách). Đó là chưa kể đến các vụ bắt bớ, đày đọa trong trại tù hàng chục nghìn người đã từng làm việc dưới chế độ cũ thời Pháp (có nhiều khi chẳng làm việc gì cho chế độ cũ, như các linh mục, các chánh trương, trùm đạo, các nhà sư Phật Giáo...) sau khi Đảng Cộng Sản tiếp nhận miền Bắc (theo nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Nước VNDCCH do Chủ Tịch Trường Chinh ký ngày 20 tháng 6, 1961), còn sau 30 tháng 4 năm 1975 là vụ đánh lừa gọi đi học ngắn ngày để bắt giam và đày đọa mấy chục năm ròng trong các trại tù trên hai trăm nghìn người đã từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (do lệnh gọi đi học của Uy Ban Quân Quản). Trong cả hai vụ đó đã có hàng nhiều chục nghìn người phải bỏ xác trong các trại tập trung kiểu Phát-Xít, mệnh danh là “trại cải tạo.” Đó là chưa kể đến các vụ thảm sát chừng bốn nghìn người thường dân vô tội trong Tết Mậu Thân 1968, vụ bắn trọng pháo ngay trên đường người dân lành chạy lánh nạn ở Quảng Nam-Đà Nẵng hồi 1975... Chính vì phủ nhận “nhân tính,” nên trong kháng chiến đã từng xảy nhiều vụ tung lựu đạn vào xe đò hay đặt bom mìn trên đường ray để nổ tung các đoàn tàu chợ (chở hành khách) giết hại thường dân “vùng địch.”

Đặc biệt cần nói đến vụ Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở miền Bắc trong những năm 1953-1956 đã tàn sát vô cùng man rợ trên 172 nghìn người dân vô tội, thậm chí giết cả những người đã từng ủng hộ tiền, vàng, thóc gạo, quần áo cho đảng, đã từng che giấu, nuôi nấng cán bộ của đảng và quân kháng chiến trong thời kỳ khó khăn nhất. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên của đảng từng chiến đấu cho đảng đã bị vu oan và hành quyết trong CCRĐ. Tài liệu chính thức của Đảng Cộng Sản đã phải thừa nhận là trong số 172 nghìn người bị giết trong CCRĐ thì 70% là những người bị oan! Đây thực sự là một tội diệt chủng, một tội ác đối với nhân loại, một tội ác tày trời đối với dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Tự cổ chí kim chưa từng xảy ra một tội ác như vậy trên Đất nước Việt Nam này! Tội ác đó không thể nào tha thứ được! Thế mà Hồ Chí Minh và Trường Chinh, những kẻ đã gây nên tội ác đó, vẫn ngụy biện tuyên bố “dù CCRĐ có sai lầm, nhưng thắng lợi vẫn là căn bản.”

Vẫn chưa hết, cuộc phiêu lưu của nhóm cầm quyền thân Mao là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... hồi đầu thập niên 60 thế kỷ trước, đã phát động cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, vô cùng tàn khốc trên mười mấy năm trời đã làm cho trên sáu triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng, đem đến cho cả hai miền biết bao đau thương, tang tóc, biết bao thiệt hại về nhân mạng, về của cải vật chất, về tinh thần, đạo đức và tình cảm. Đã thế, Tổng Bí Thư (TBT) Lê Duẩn, một trong những kẻ khởi xướng cuộc nội chiến, cuối cùng lại nói, “Chúng ta chiến đấu là để cho Liên Xô, Trung quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.” Một câu nói hết sức phũ phàng đối với biết bao hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam!

Việc phát động chiến tranh chứng tỏ nhóm chóp bu Đảng Cộng Sản thân Mao hồi đó coi thường sinh mạng người dân của cả hai miền, coi thường sinh mạng của hàng triệu binh lính, thanh niên xung phong và dân công. Thế nhưng, khi một số cán bộ - mấy ủy viên TƯ đảng, nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp, một số sĩ quan trong quân đội, gồm mấy vị tướng, nhiều sĩ quan cấp tá, ở trong nước và ngoài nước đã phản đối chiến tranh, phản đối đường lối thân Mao của bọn chóp bu Cộng Sản, thì họ bị quy là “phần tử xét lại chống đảng,” bị vu khống “làm gián điệp cho nước ngoài” và bị đàn áp ác liệt, bị tù ngục nhiều năm, thậm chí có những cán bộ đã bị chết trong tù.

Chính việc ĐCSVN phủ nhận “nhân tính” đã đem lại hậu quả nguy hại rất nghiêm trọng cho đạo đức xã hội, là ngày nay trong dân gian, người dân học đòi đảng cũng coi thường tính mạng con người: Cái thói độc ác ngày càng phổ biến, chỉ vì một việc cỏn con thôi, người ta sẵn sàng chém giết nhau. Một nhà báo trong nước đã phải kêu lên, “Chưa bao giờ các hành vi vô nhân tính, vô đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, kể cả giữa những người thân trong gia đình lại xuất hiện với một tần xuất dày đặc trên báo chí như hiện nay.”

Điều thứ hai

Từ khi ra đời cho đến nay, 85 năm ròng rã, ĐCSVN đã tỏ rõ là một đảng vô cùng gian dối, thường xuyên dối trá, lừa gạt, chẳng những đối với địch, mà cả đối với dân, cả đối với đảng viên của đảng. Đảng luôn luôn nói dối trắng trợn, nói một đằng, làm một nẻo. Thí dụ thì nhiều vô kể. Chỉ xin đưa ra vài chuyện thôi. Cú lừa gạt đau đớn nhất là đối với “bạn đồng minh gần gũi, thân cận nhất” của đảng (tầng lớp nông dân) là khẩu hiệu “người cày có ruộng.” Khi cần lôi kéo nông dân theo đảng làm cách mạng, Đảng Cộng Sản tung ra khẩu hiệu đó lên, ra rả quanh năm suốt tháng; khi làm CCRĐ, Đảng Cộng Sản vẫn còn hò hét cái khẩu hiệu đó. Nhưng, khi CCRĐ vừa xong, nông dân chưa kịp thụ hưởng gì trên mảnh đất mới được chia, thì Đảng Cộng Sản đã vội lùa họ vào cái gọi là hợp tác xã bậc thấp, rồi nhanh chóng đưa lên bậc cao, lấy ruộng của nông dân cho ban quản trị, thực tế là Đảng Cộng Sản, quản lý; biến nông dân từ người chủ ruộng thành người “làm công ăn điểm” để rồi “Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài sắm xe/Mỗi người làm việc bằng ba/Để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân,” v.v... Vẫn chưa hết, đến năm 1980, sau khi Đảng Cộng Sản đã nắm quyền trên cả nước, đảng liền thảo hiến pháp (HP) của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), đưa ra điều 19 HP chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là “sở hữu toàn dân”! Tuyên bổ đất đai là “sở hữu toàn dân,” có nghĩa là Đảng Cộng Sản đã “quốc hữu hóa” đất đai, hay nói chính xác hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của Đảng Cộng Sản là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, Đảng Cộng Sản thực tế đã tự biến mình thành một tên siêu đại địa chủ. Đến những lần sửa đổi HP 1992 và HP 2013, điều khoản về đất đai vẫn giữ nguyên nội dung giống như HP 1980, tức là tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, nhất là nông dân. Từ nay, nông dân chỉ được Nhà nước chuyên chính vô sản cho quyền sử dụng. Khi nào cần thì Nhà nước chuyên chính sẽ cưỡng chế tước đoạt lại! Và cái lối “quốc hữu hóa,” nói đúng hơn là “đảng hữu hóa” này chỉ có lợi cho đám quan lại Cộng Sản cầm quyền ở các địa phương. Bọn này tha hồ áp bức nông dân, cưỡng chế cướp đoạt ruộng đất của nông dân, tự biến chúng thành những địa chủ mới, những cường hào đỏ, biến nông dân thành hàng triệu “dân oan” khốn khổ, hàng chục năm trời đi khiếu kiện khắp các cửa quan một cách vô vọng, chịu biết bao tủi nhục, bị đánh đập, thậm chí bị giết thê thảm. Đấy, sự lừa gạt bỉ ổi, khủng khiếp nhất đối với nông dân là như vậy. Cái vết thương đau đớn này trên cơ thể Dân tộc vẫn còn rướm máu mãi.

Một sự lừa gạt trắng trợn nữa là sau khi phát động cuộc nội chiến dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam,” để kích động người dân tham gia cuộc chiến, những kẻ gây chiến phải ra sức nói dối, ra sức lừa gạt, nào là người dân ở miền Nam dưới ách Mỹ Diệm bị khốn khổ vô cùng, nào là chế độ miền Nam độc tài, gia đình trị ghê gớm, người dân không có chút tự do, xã hội thối nát, sa đọa, người ta còn dựng lên biết bao chuyện bẩn thỉu, như Tổng Thống Diệm ngủ cả với em dâu, vợ Ngô Đình Nhu, v.v. và v.v... Ngày nay, sự thật như thế nào thì chắc mọi người đã thấy rõ. Ngay trong ngày đầu tiên khi quân miền Bắc mới vào Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, lúc bấy giờ là thanh niên xung phong, thấy và hiểu được sự thật, và chị đã ngồi bên vệ đường khóc ròng!

Còn biết bao chuyện lừa dối, phỉnh gạt khác nữa không thể kể hết. Nào là “nhà nước công nông,” “nông” thì đã rõ như cái thí dụ vừa kể trên, còn “công” thì đồng lương mà “nhà nước công nông” trả cho công nhân, viên chức là “đồng lương bóc lột,” “đồng lương chết đói,” thực tế chỉ đủ ăn trong mười ngày. Nào là “chuyên chính vô sản,” thực tế có anh vô sản nào được xơ múi gì ở cái “chuyên chính” đó, chung quy chỉ là một lũ quan tham lại nhũng tham quyền cố vị, thậm chí những tay hoạn lợn, cai cao su, lưu manh đường phố... khoác cái áo “vô sản lưu manh” (từ ngữ của ông Marx) chễm chệ ngồi trong Bộ Chính Trị (BCT), làm TBT ĐCSVN, làm chủ tịch nước, làm bộ trưởng công an để nắm chặt “chuyên chính” mà đè đầu cưỡi cổ “thằng dân.” Nào là “dân làm chủ, cán bộ là đày tớ của dân” - điều này chẳng cần bình luận gì nữa, dân ta đã chế nhạo quá nhiều rồi. Nào là những hứa hẹn huy hoàng trong “Chương Trình Việt Minh”: xóa bỏ mọi thứ thuế, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, dân chủ, tự do, hạnh phúc,... nhưng khi Đảng Cộng Sản nắm chính quyền rồi thì tất cả những thứ đó chỉ là những lời nói suông. Nhà báo Trần Đĩnh kể về “nghệ thuật” lừa đảo siêu đẳng của ủy viên BCT Tố Hữu trong việc mua ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản ở Hà Nội đã từng quyên góp nhiều vàng và nhà cửa cho Đẳng Cộng Sản. Bà còn lại một ngôi nhà, Ban Tuyên Huấn TƯ muốn mua; người ta đặt giá thì chê đắt không mua. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở mấy bao tiền đến, đắt mấy cũng mua. Ba ngày sau, đổi tiền! Trần Đĩnh nhận xét rất hay: “Tố Hữu, nguyên trưởng Ban Tuyên Huấn TƯ đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ bảo nhà thơ trên gió trên mây.”

Việc ĐCSVN cho công an lập ra những tổ chức “kháng chiến” cuội, “phục quốc” cuội để đánh lừa thanh niên yêu nước ở miền Nam, làm cho hàng nghìn người mắc bẫy để tống họ vào tù. Đó cũng là một tội ác kinh tởm.

Trên đây là những chuyện đối nội, còn về đối ngoại thì không thiếu chuyện ĐCSVN gian dối, lừa gạt trắng trợn dư luận thế giới. Chuyện ông Hồ Chí Minh sang Pháp nói dối như thế nào, nhiều người đã biết. Chẳng hạn, có tờ bảo hỏi thẳng: Ông có phải là Cộng Sản không? Ông Hồ chối đây đẩy: không. Trả lời câu hỏi của báo Journal de Genève, ông tuyên bố như đinh đóng cột: “Các bạn của chúng tôi không nên lo chủ nghĩa Mác-Xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi.” Trên báo Le pays ông cũng đã nói: “Những lý thuyết Mác-Xít không thể áp dụng ở nước chúng tôi được.” Còn trong cuộc phỏng vấn ngày 25 tháng 6, 1946, trả lời đảng viên xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, ông Hồ đã nói như sau: “Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés,” tạm dịch: “(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt.” Ông Hồ giả dối làm ra vẻ đau buồn về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, trong lúc đó chính ông ta biết quá rõ ai là người ra lệnh giết ông Thâu, và chắc chắn ông ta cũng không thể quên ba bức thư ông gửi cho TƯ những năm 1937-38 chửi bới thâm tệ những người trotskistes.

Việc ĐCSVN vi phạm Hiệp Định Genève 1954, để lại vũ khí, cài lại cán bộ ở trong Nam, vi phạm hiệp định ngừng bắn năm 1973, hay là những vi phạm thường xuyên các công ước quốc tế về nhân quyền, về chống tra tấn, v.v. và v.v... càng nổi bật sự gian trá quen thuộc của tập đoàn cầm quyền ĐCSVN. Có thể họ biện bạch rằng đứng trên lập trường vô sản, đánh lừa quốc tế, tức là đánh lừa bọn đế quốc, là đúng đường lối giai cấp và chỉ có lợi cho ta thôi. Họ không hề nghĩ rằng làm như thế là có hại cho quốc thể, là tạo thêm nỗi quốc nhục cho đất nước Việt Nam: đã mang danh tên ăn mày quốc tế vác bị đi xin khắp thế giới lại còn muốn quàng thêm cái danh xưng thằng bạc bịp quốc tế nữa thì thanh danh của tổ quốc Việt Nam mãi mãi bị chôn vùi dưới ba thước đất, làm sao còn ngẩng mặt lên trước thế giới văn minh được?

Điều thứ ba

ĐCSVN thực tế là một đảng độc tài toàn trị, phản dân chủ. Ngay từ sau khi cướp được chính quyền, để củng cố quyền lực độc tài toàn trị đảng đã ra sức tiêu diệt mọi đảng phái yêu nước có thể tranh chấp quyền lực với Đảng Cộng Sản hoặc đánh quỵ mọi thành phần có tiềm năng chống đối để bảo đảm cái mà Lenin gọi trong là tiếng Pháp là hégémonie du prolétariat, tức là địa vị độc tôn của giai cấp vô sản, thực ra là của Đảng Cộng Sản (Hà Nội dịch là độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản). Để bảo đảm cái địa vị độc tôn đó thì trong tất cả các cơ quan nhà nước - lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong tất cả các cơ quan chuyên môn, như bệnh viện, trường học, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu bóng, v.v..., trong tất cả các đoàn thể xã hội, trong tất cả các cơ quan truyền thông, tất cả các báo chí của đảng... đều phải do các đảng viên Cộng Sản nắm giữ địa vị chủ chốt. Dù rằng ở một số bộ và cơ quan nhà nước có thể có người ngoài đảng trên danh nghĩa là bộ trưởng, vụ trưởng, giám đốc, v.v... nhưng đảng viên Cộng Sản hay đảng đoàn Cộng Sản những nơi đó vẫn là người có thực quyền quyết định, còn các vị ngoài đảng chỉ “làm vì.” Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của đảng. Đối với các lực lượng có tiềm năng chống đối đảng, tính ra chỉ còn giới trí thức và giai cấp tư sản thì Đảng Cộng Sản chủ trương phải “cải tạo” họ. Ở nông thôn, từng lớp phú nông đã bị đánh gục trong CCRĐ rồi, nên đảng không lo. Học theo Trung Cộng, ĐCSVN chủ trương cải tạo trí thức bằng cách “chỉnh huấn,” rập khuôn theo bài bản “chỉnh phong” của Mao Trạch Đông. Trong “chỉnh huấn,” buộc những người trí thức phải tự bộc lộ, tự kiểm điểm, tự xỉ vả những thói hư tật xấu của mình, họ còn phải khai báo về xuất thân của mình, nếu thuộc về những giai cấp gọi là “đối tượng của cách mạng” như địa chủ, tư sản... thì họ phải tố cáo, xỉ vả và căm thù ngay cả bố mẹ, ông bà mình. Tất nhiên, đây là điều sỉ nhục lớn đối với người trí thức biết tự trọng, nhưng nếu anh ta chịu đựng được thì tỏ ra rằng anh ta đã khuất phục giai cấp vô sản, tức là Đảng Cộng Sản, và anh ta sẽ được đảng sử dụng. Tuy vậy, đảng vẫn không hoàn toàn tin anh ta, còn những điều anh ta đã bộc lộ với đảng thì đảng ghi vào hồ sơ lý lịch và theo dõi anh ta suốt đời. Hơn nữa, dù được đảng sử dụng, nhưng bao giờ đảng cũng kỳ thị, phân biệt đối xử với trí thức. Cái đó gọi là “chủ nghĩa thành phần.” Cái “chủ nghĩa” quái gở này áp dụng không chỉ cho cán bộ, nhân viên, sĩ quan và binh lính, mà cả cho học sinh, sinh viên, nhất là khi xét duyệt cho họ vào đại học hay đi nước ngoài. Cái “chủ nghĩa” này đã hủy diệt biết bao tài năng của tuổi trẻ! Giáo Sư Tạ Quang Bửu bị thất sủng chính vì đã phản đối cái “chủ nghĩa” này.

Còn nếu người trí thức có thái độ ngang bướng, không phục tùng đảng, hoặc lời ăn tiếng nói không vừa ý lãnh đạo thì đảng sẽ mở trận đấu tranh không khoan nhượng. Đó là trường hợp đối với các văn nghệ sĩ, các giáo sư trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm” hồi giữa những năm 50 thế kỷ trước. Hậu quả của việc ĐCSVN đánh “Nhân Văn-Giai Phẩm” là cả một nền văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật miền Bắc bị lụn bại, méo mó, què quặt trong mấy chục năm ròng, và cả một lớp tinh hoa của dân tộc tiêu biểu cho trí tuệ và sức sáng tạo đã bị đánh gục, bị vùi dập, bị dìm xuống bùn đen trong nỗi sợ triền miên làm cho sự tiết tháo, nhân cách của giới trí thức miền Bắc Việt Nam bị sa sút nặng nề. Đó là một tội ác của ĐCSVN đối với trí tuệ của dân tộc.

Còn việc cải tạo công thương nghiệp, chủ yếu là để tước đoạt (từ ngữ của Marx) phương tiện sản xuất, cơ sở kinh doanh của giai cấp tư sản, lại là một đòn chí tử nữa Đảng Cộng Sản đã giáng xuống những mầm mống đang lên của nền kinh tế non yếu của đất nước làm cho nó càng thêm suy bại.

Mặc dù Đảng Cộng Sản đã độc quyền thao túng bộ máy cai trị gồm cả chính quyền lẫn các tổ chức và đoàn thể xã hội, đã nắm chắc hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng sau những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, sau những sai lầm và thất bại nặng nề về kinh tế, xã hội, đã làm cho đời sống người dân cực kỳ khó khăn, thua kém rất nhiều so với thời còn dưới chế độ cũ, thì uy tín của ĐCSVN ngày càng sa sút trầm trọng. Vì thế, tập đoàn cầm quyền CSVN thấy cần phải bắt chước ĐCSLiên Xô dưới thời trì trệ của TBT Brezhnev đã đưa điều 6 vào HP Liên Xô 1977, thì họ cũng đã đưa điều 4 vào HP CHXHCNVN 1980. Và sau này họ vẫn giữ nguyên cả trong HP 1992 và 2013. Đây là âm mưu dùng HP để thể chế hóa sự độc quyền cai trị và địa vị độc tôn của ĐCSVN, siết chặt hơn nữa chế độ độc tài toàn trị của một nhúm nhỏ mấy người trong BCT TƯ đảng, nhằm chặn đứng con đường dân chủ hóa xã hội, con đường đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập. Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa.

Cũng nên thấy rằng một khi Đảng Cộng Sản cầm quyền buộc phải ghi điều đó vào HP thì chứng tỏ là chế độ thống trị Cộng Sản đã rệu rã, rung rinh và có cơ sụp đổ, vì thế tập đoàn thống trị phải dùng điều đó để siết chặt hơn nữa nền thống trị Cộng Sản. Trước đây, khi mới cầm quyền, dân chúng còn hy vọng, còn tin tưởng vào Đảng Cộng Sản, họ không cần đưa điều đó vào HP mà vẫn chuyên chính được. Bây giờ, hy vọng và tin tưởng đã mất hết, nên điều đó là tối cần thiết cho kẻ thống trị. Cho nên TBT Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên BCT khác đều nói: “Bỏ điều 4 HP là tự sát!” Nhưng đó cũng chính là tiên triệu báo trước sự sụp đổ không xa của chế độ độc tài. Đấy, năm 1977, ĐCSLiên Xô đưa điều 6 vào HP thì 13 năm sau, Liên Xô sụp đổ và ĐCSLiên Xô tan tành! Vì thế, ngày nay, các quan chức CSVN phải tính chuyện đường dài, họ bắt chước các lãnh tụ Cộng Sản họ Kim ở Bắc Triều Tiên, hay họ Castro ở Cuba, dần dần cài người thân trong gia đình vào bộ máy lãnh đạo từ tỉnh lên đến TƯ để dùng lối cha truyền con nối mà đảm bảo sự độc quyền thống trị của họ. Còn một cách nữa: chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Theo báo Nhân Dân ngày 29 tháng 1, 2015, tại hội nghị cán bộ do Ban Tổ Chức TƯ triệu tập ngày 27 tháng 1, 2015, ông Tô Huy Rứa, ủy viên BCT, trưởng Ban Tổ Chức TƯ đã cho biết cuộc họp Ban Chấp Hành TƯ lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách gồm 290 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết cho Đại Hội XII, và danh sách 22 ủy viên BCT và ủy viên Ban Bí Thư (BBT) cho khóa XII. Đây quả là một “sáng kiến tân kỳ,” chưa từng thấy của ĐCSVN: bất chấp Điều Lệ Đảng, toàn bộ nhân sự của ĐCSVN khóa XII sắp tới đã được hội nghị TƯ đảng lần thứ 10 khóa XI, gồm 197 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết khóa XI quyết định xong xuôi. Toàn bộ danh sách các vị ủy viên trong BCT và trong BBT khóa XII cũng quyết định xong. Như thế là hội nghị TƯ lần thứ 10 đã làm thay cho toàn bộ quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại Hội Toàn Quốc lần thứ XII cả trong việc ứng cử, lựa chọn, bầu cử các cấp ủy từ dưới lên trên cho đến Ban Chấp Hành TƯ, BCT và BBT khóa XII. Tập đoàn thống trị hiện nay cố đấm ăn xôi, quyết bảo đảm cho kỳ được là tập đoàn cầm quyền sắp tới phải theo ý chí của họ. Quả là một sự độc tài, chuyên quyền trắng trợn không thể tưởng tượng nổi.

Điều thứ tư

Hãy nhìn lại trong 85 năm qua, ĐCSVN đã làm được gì cho dân, cho nước.

ĐCSVN rất thích kể công về thời trước. Mà nhiều khi cái “công” đó chưa hẳn là công thật. Đảng thường tự hào là đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật, Pháp, về sau gọi đó là Cách Mạng tháng 8. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó là sự dối trá: Việt Minh (tức là Đảng Cộng Sản) đã cướp chính quyền không phải từ tay Nhật, Pháp, mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là ai? Thực ra, họ không phải là “chính phủ bù nhìn” cho Nhật như Việt Minh và tờ Cờ Giải Phóng của Đảng Cộng Sản đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra sau khi Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3, 1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam. Vì điều kiện phức tạp hồi bấy giờ, chính phủ đó chỉ tồn tại trong bốn tháng thôi. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm được nhiều việc lớn: Đã cố thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng nhằm giữ được toàn vẹn lãnh thổ; đã tổ chức việc cứu đói cho dân miền Bắc; đã Việt hóa nền giáo dục, và việc này đã có ảnh hưởng lâu dài cho cả những thời kỳ và nhiều thế hệ sau này; đã cải tổ thuế má, tư pháp; đã vận động và tổ chức thanh niên, sinh viên (tổ chức Thanh Niên Tiền Tiến) đưa thanh nên vào sinh hoạt chính trị, xã hội... Đại diện của chính phủ Trần Trọng Kim đã năm lần gặp đại diện của Việt Minh (Đảng Cộng Sản) để bày tỏ lòng mong mỏi hợp tác với Việt Minh để cùng lo việc nước, nhưng đại diện của Việt Minh đã khước từ vì chủ trương của Đảng Cộng Sản là: Đảng Cộng Sản phải là đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền.

Đảng Cộng Sản thường kể công và tự hào đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Nhưng cũng có lắm ý kiến bác lại rằng: nếu Đảng Cộng Sản có chính sách mềm dẻo hơn thì chưa chắc đã cần phải đổ máu kháng chiến chống Pháp trong gần 10 năm. Nếu cứ tiếp tục đứng trong Khối Liên Hiệp Pháp (theo Hiệp Định Sơ Bộ – 6 tháng 3, 1946) mà đấu tranh thì cuối cùng Pháp cũng phải trả lại độc lập cho ta, giống như các nước thuộc địa khác đã được Pháp trả lại độc lập, chẳng phải tốn máu xương mà còn được độc lập sớm hơn ta nhiều. Đấy, cái “công” đó cũng chưa hẳn là công thật. Đảng Cộng Sản còn tự hào đã lãnh đạo chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Nhưng cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, mà những người lãnh đạo thân Mao hồi đó, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... đã phát động, do sự xúi giục và mưu đồ của Mao Trạch Đông: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về cái tội đã phát động cuộc nội chiến này gây ra biết bao đau thương, tang tóc, tốn biết bao máu xương của dân tộc: trên sáu triệu người đã bỏ mạng. Cái “công” này không phải là công mà chính là tội, tội ác.

Về đối ngoại, từ chỗ suy tôn “Mao Trạch Đông là Lenin của thời đại ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La,” chửi Liên Xô là “xét lại hiện đại,” rồi lại kình địch với Trung Quốc, chửi Mao, tiến hành chiến tranh với Campuchia Pol Pot, chiếm đóng Campuchia; Lê Duẩn và ĐCSVN lại quay ngoắt chạy theo Liên Xô, tuyên bố coi Liên Xô là tổ quốc thứ hai (nhưng, thực ra trong nội bộ CSVN vẫn coi Liên Xô là “xét lại hiện đại”) cốt để xin viện trợ nhằm tiếp tục chiến tranh, rồi ký kết Hiệp ước Tương Trợ với Liên Xô. Đến khi bị Trung Cộng tung 300 nghìn quân đánh một trận trên suốt đường biên giới phía Bắc, Đảng Cộng Sản lại chửi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, ghi hẳn điều đó vào HP. Còn khi Liên Xô và các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Mông Cổ sụp đổ, ĐCSVN bơ vơ, bị cô lập hoàn toàn, thì nhóm chóp bu CSVN là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng lại muối mặt bay đến Thành Đô, Trung Quốc (3-4 tháng 9, 1990) hạ mình khuất phục Trung Cộng, chui đầu vào dây thòng lọng của Trung Cộng. Sau đó, CSVN lại tự nguyện quàng thêm vào đầu “vòng kim cô” “mười hai chữ vàng” của Giang Trạch Dân ban, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc mới. Sở dĩ nhóm chóp bu của ĐCSVN phải quy phục như vậy là vì muốn cứu cái chế độ độc tài toàn trị của chúng, cứu cái địa vị thống trị của chúng trên đầu trên cổ người dân. Từ đó đến nay, nhóm cầm đầu ĐCSVN tiếp tục tự biến mình thành những tên “thái thú” nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc; mặc cho Trung Cộng làm mưa là gió trên Biển Đông, cấm đoán, săn đuổi, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân, bắn giết ngư dân; mặc cho Trung Cộng làm sân bay, củng cố công sự trên các đảo Việt Nam đã bị chúng chiếm; mặc cho chúng làm thêm những đảo nhân tạo... Còn trên đất liền thì sao? Bất chấp sự phản đối của các nhà trí thức và nhân dân, ĐCSVN cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của tổ quốc, trên diện tích hàng chục nghìn hec-ta rừng, với hai nhà máy Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ, tỉnh Đak-Nông, với hàng nghìn công nhân, lao động Trung Quốc đang “chiếm cứ” ở đó. Gần 80% các công trình quan trọng trên cả nước Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu xây dựng. Các tỉnh miền biên giới đã cho Trung Quốc thuê trên 300 nghìn hec-ta rừng đầu nguồn của 18 tỉnh phía Bắc trong 50 năm. Trung Quốc được phép lập nhiều khu dân cư nhiều nơi trên đất Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam bị Trung Quốc lũng đoạn nặng nề. Văn hóa Trung Quốc cũng xâm nhập sâu vào Việt Nam. Viện Khổng tử cũng đã khai trương tại đại học Việt Nam. Một điều đáng chú ý nữa là gần đây một đoàn cán bộ cao trung cấp của đảng đã đưa sang đào tạo ở Trung Quốc. Đó là chưa nói tới việc Trung Cộng còn tác động đến quyết định chọn lựa các nhân vật quan trọng trong cơ cấu Việt Nam mà nhiều người đã biết. Như vậy là với đường lối đối ngoại hiện nay, rõ ràng là nhóm cầm quyền trong ĐCSVN đã phản bội lại quyền lợi của Đất nước và Dân tộc Việt Nam.

Về đối nội cần nói rõ rằng, trong lúc khuất phục Trung Cộng thì nhóm cấm quyền ĐCSVN lại ra sức đàn áp những người yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; đàn áp các cuộc biểu tình tố cáo và phản đối những vi phạm bờ cõi và biển đảo Việt Nam, phản đối việc đưa giàn khoan dầu vào lãnh hải Việt Nam. Thậm chí việc đồng bào kính viếng các tử sĩ Việt Nam trong cuộc chiến Việt Trung 1979 cũng bị cấm cản, xua đuổi. Bộ mặt phản nước hại dân của nhóm cấm quyền ĐCSVN ngày càng rõ rệt.

Về đối nội, trong 40 năm kể từ khi cuộc chiến tranh Bắc-Nam chấm dứt, một thời gian dài với đường lối phiêu lưu, duy ý chí của tập đoàn Lê Duẩn, đất nước đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khốn khổ, dù Lê Duẩn luôn luôn huênh hoang hứa hẹn mọi điều tốt đẹp. Đến thời “đổi mới” có dễ chịu hơn một chút, kinh tế bắt đầu phát triển, nhưng ban lãnh đạo ĐCSVN vẫn bảo thủ, cứ khư khư giữ chặt địa vị của mình, chỉ đổi mới về kinh tế, mà nhất định không đổi mới về chính trị. Hơn nữa, đổi mới kinh tế mà đảng lại cứ kiên trì cái phương châm trái khoáy: “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,” cho nên dù có nhưng tiến bộ về kinh tế nhưng đà phát triển không mạnh làm cho sụ tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực, như Singapore,Thái Lan, Indonesia, Malaysia, v.v... ngày càng lớn. Phải nói rằng ở Việt Nam chưa bao giờ nạn tham nhũng, cửa quyền trầm trọng và tràn lan như bây giờ. Từ trên xuống dưới hiện tượng tham nhũng rất phổ biến, nó làm cho nền kinh tế phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, đồng thời làm cho cuộc sống người dân càng thêm khó khăn. Đám cầm quyền luôn miệng nói tham nhũng đã trở thành quốc nạn, làm ra vẻ hò hét chống tham nhũng, dọa sẽ “hốt, hốt hết,” nhưng tham nhũng vẫn không hết mà càng nặng nề thêm. Vì sao? Vì cái chế độ cực quyền toàn trị không cho người dân cất tiếng nói, không cho báo chí được tự do ngôn luận, cho nên cái gọi là quyền lực thứ tư không thể nào phát huy tác dụng. Hơn nữa, dưới chế độ độc tài đảng trị, không có tam quyền phân lập, không có tư pháp độc lập nên không thể trừng phạt được những cán bộ đảng viên tham nhũng nắm giữ các địa vị cao. Biết bao nhiêu vụ bị tố cáo đều đã “chìm xuồng,” mà có nhiều trường hợp các nhà báo dũng cảm tố cáo thì lại vô tù.

Dưới chế độ toàn trị của Đảng Cộng Sản, quyền công dân cũng như quyền con người không hề được tôn trọng, người dân không cảm thấy mình là người chủ của Đất nước, trong lúc đó Đảng Cộng Sản lại o bế công an, cảnh sát, lại sử dụng bọn côn đồ trong việc đàn áp dân lành, biến công an, cảnh sát thành những kiêu binh, tha hồ nhũng nhiễu, hành hạ, đánh đập, tra tấn, thậm chí đánh chết người dân. Số người bị công an đánh chết, bị tật nguyền không phải là ít. Trong khi đó, tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, xì ke ma túy, đĩ điếm lan rộng, chẳng những ở thành thị mà tràn lan đến cả vùng nông thôn. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại đến nỗi Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu đã phải kêu lên: “Hãy nhìn vào thực tiễn xã hội: Có bao giờ người Việt Nam lại thờ ơ trước nguy cơ vong quốc, nguy cơ bị đồng hóa như bây giờ? Có bao giờ sự thờ ơ trước đau khổ của đồng loại, sự đâm chém, băm chặt nhau dễ dàng như cơm bữa, sự nhố nhăng mất gốc, sự phô bày thú tính, sự vênh váo rởm đời, sự hành hạ người yêu nước một cách ngang nhiên, sự nịnh bợ kẻ nội xâm và ngoại xâm... lại được tôn vinh trước thanh thiên bạch nhật như bây giờ? Có bao giờ sự thành thật thua sự giả dối, người lương thiện lại sợ kẻ gian manh, người yêu nước lại bị lép vế, bậc thức giả lại bị cười khinh, công lý lại bị nhạo báng một cách thảm hại như bây giờ?” Đấy, kết quả nhãn tiền của “đạo đức Cộng Sản” và việc “xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa” của Hồ Chí Minh và ĐCSVN như thế đó.

Điều thứ năm

ĐCSVN là một đảng rất bảo thủ, thủ cựu, muôn năm vẫn nhìn thế giới, nhìn đất nước và dân tộc qua cái lăng kính Marx-Lenin quá cũ kỹ và lệch lạc. Chủ Nghĩa Marx-Lenin mà loài người đã vứt vào sọt rác hàng mấy chục năm rồi, dân ở các nước vốn là nôi của chủ nghĩa đó đã vĩnh biệt nó từ lâu rồi, thế mà cho đến ngày nay, từ đại hội đảng kỳ này qua kỳ khác vẫn lặp đi lặp lại mãi “phải kiên trì chủ nghĩa Marx-Lenin.” Nghe quá nhàm tai đến nỗi dân phải kêu lên “mãi mãi cái loa rè,” “già rồi đâm lú.” Buồn cười nhất là dưới thời TBT Đỗ Mười, ông ta vẫn nhai đi nhai lại “hai phe, bốn mâu thuẫn,” cái công thức từ đời xửa đời xưa Cộng Sản dùng để nhận định tình hình thế giới. Nhóm cầm quyền trong đảng cứ khư khư ôm cái cũ, không dám, và cũng không đủ trí tuệ, để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non, cái tương lai, để dám đi những bước sáng tạo. Cái thói quen của họ là bắt chước “hai ông anh,” cứ Liên Xô, Trung Quốc làm gì thì rập khuôn làm theo. Ban lãnh đạo, nhất là BCT, BBT già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ, văn minh và tiến bộ, nên Đảng Cộng Sản mãi mãi lạc hậu, dù họ vênh vang tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người.” Nhìn vào thực tế thì thấy rõ ĐCSVN chống lại văn minh và tiến bộ, chống lại chế độ dân chủ đích thực. Thế mà có ai đề xuất cái mới thì BCT đã vội kêu lên “đổi mới, nhưng không được đổi màu.” Đã thế, nội bộ ban lãnh đạo chóp bu luôn luôn gầm ghè lục đục nhau, cấu xé nhau, và mỗi người đều lợi dụng chức, quyền để trục lợi và tham nhũng!

Chỉ nêu lên năm điểm như thế thôi cũng đủ để mỗi người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng vì nước vì dân, có tinh thần tự trọng hãy tự mình lựa chọn: ánh sáng hay bóng đêm, đức hạnh hay tội ác, dân chủ hay độc tài, văn minh, tiến bộ hay dã man, lạc hậu, vì tổ quốc và dân tộc hay vì một đảng, thậm chí một nhúm độc tài... Mỗi người sẽ tự hỏi và tự quyết định: Có nên tiếp tục ở trong cái Đảng Cộng Sản này nữa không hay rời bỏ nó? Cái đảng khủng bố, gây chiến. Cái đảng phạm tội diệt chủng, phạm tội ác với loài người và với dân tộc. Cái đảng gian dối, lừa gạt, lật lọng. Cái đảng trong 85 năm qua đã gieo rắc bao đau thương, tang tóc, khổ cực, tủi nhục cho mấy chục triệu con người. Cái đảng đang tham quyền cố vị, bám vào quyền lực để thống trị dân tộc và đất nước. Cái đảng đang thuần phục và rước kẻ thù vào nhà.

Ngày nay, ĐCSVN đang là khối u ác tính bám vào cơ thể dân tộc, cơ thể đất nước. Nếu không dũng cảm làm một cuộc phẫu thuật để vứt bỏ khối u đó đi mà để nó di căn thì dân tộc và đất nước chắc chắn sẽ mất vào tay Trung Cộng đầy tham vọng bành trướng. Lẽ nào người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng yêu nước thương dân, có tinh thần tự trọng mà không dám rời bỏ cái đảng tội ác đã phản lại cuộc cách mạng Đảng Cộng Sản từng rêu rao và hứa hẹn?

Chính lúc này là lúc phải quyết định! Rời bỏ cái đảng mang tội ác với dân, với nước này sớm được ngày nào càng tốt ngày đó. Đừng có hy vọng là những kiến nghị hay ho, những đề nghị sáng suốt, những yêu cầu thiết tha của các trí thức, các cán bộ, đảng viên, các lão thành cách mạng, cũng như của nhân dân có thể chuyển hóa được được những cái đầu đã bê-tông hóa của đám cầm quyền vì cái đít của chúng quen ngồi ghế cao bao giờ cũng thích leo cao hơn nữa và bám chắc hơn nữa vào cái ghế của chúng. Đừng có hy vọng đại hội đảng kỳ tới sẽ có thay đổi gì tốt đâu. Câu nói dân gian khi xem tuồng chèo: “Vô ra vẫn thằng cha lúc nãy!” Đại hội đảng cũng chỉ là một lớp tuồng chèo, “vô ra vẫn thằng cha lúc nãy” thôi.

Chúng tôi rất thông cảm có nhiều bạn đang phân vân, ngập ngừng, do dự. Đó là điều rất tự nhiên trước một quyết định quan trọng. Nhưng khi đã dám quyết định bước ra khỏi cái đảng độc tài, dối trá, tham nhũng này rồi, thì các bạn sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường. “Vòng kim cô” trên đầu bạn sẽ biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để bạn có thể cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho tổ quốc và dân tộc. Tin chắc rằng những người dũng cảm, như các anh Nguyễn Chí Đức, Phạm Đình Trọng và nhiều người khác... đã ra khỏi ĐCSVN cảm thấy thấy nhẹ nhàng, rất thoải mái, vì bây giờ các anh đã thực sự là những con người tự do.
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

VẤN ĐỀ ĐẦU ĐỘC BẰNG PHÓNG XẠ VÀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG NGUYỄN BÁ THANH (1953-2015)


TK Tran
Theo những mô tả được phổ biến trên các phương tiện truyền thông, thì bệnh mà ông Nguyễn Bá Thanh mắc phải là bệnh rối loạn sinh tủy - pancytopenia - khi hồng huyết cầu, tiểu huyết cầu và bạch cầu bị suy giảm trầm trọng. Bệnh này là một bệnh hiếm hoi, không phải là bác sĩ nào cũng gặp trong suốt cuộc đời hành nghề. Theo những thống kê thì tỷ lệ mắc bệnh chỉ là 1-2 phần triệu, nghĩa là trong 1 triệu dân cư chỉ có 1-2 người mắc bệnh. Trong những tháng qua, bệnh của ông được dư luận quan tâm đặc biệt, không hẳn là vì chứng bệnh hiểm nghèo hiếm hoi mà ông mắc phải, mà vì nguyên do gây ra bệnh của ông. Đã có giả thuyết là ông bị đầu độc bằng phóng xạ.

Ngày 13.2.2015 ông đã từ trần vì bệnh rối loạn sinh tủy này cùng với suy gan nặng và nhiễm nấm.

Quan điểm của nhà nước về nguyên nhân gây bệnh, vai trò của phóng xạ

Trong cuộc gặp gỡ với báo chí ngày 7 tháng 1 vừa qua, ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương đã thông tin cho báo chí về tình hình sức khỏe của ông Thanh. Ông Quốc Khánh, phó giám đốc viện Huyết học nói rằng, hội chứng rối loạn sinh tủy này trên thế giới chưa ai tìm được nguyên nhân. Nếu tìm được thì đã phòng, chữa được.

Phát biểu của ông Khánh là đúng, song không hoàn toàn chính xác. Theo những thống kê quốc tế, thì có đến 70-80% trường hợp bệnh không tìm ra nguyên nhân. Song trong số 20-30% còn lại, người ta biết rằng chứng rối loạn sinh tủy là phản ứng phụ hiếm hoi của việc sử dụng một số thuốc thông dụng, ví dụ thuốc chống tê thấp như Indomethacin, Phenylbutazone, Diclofenac, thuốc cường giáp như Carbimazol, Thiouracil, tiểu đường như Tolbutamid, thuốc sốt rét Chloroquin, kháng sinh như Sulfonamide, Cotrimoxazol, Chloramphenicol… Bệnh viêm gan của ông Thanh cũng nằm trong danh sách gây bệnh rối loạn sinh tủy. Có nguyên nhân do di truyền (late onset hereditary bone marrow failure syndromes). Được lưu tâm hơn cả là nguyên nhân do nhiễm phóng xạ.

Trong buổi gặp báo chí nói trên, khi phóng viên báo Tuổi Trẻ đặt câu hỏi: Căn cứ nào để Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương khẳng định ông Bá Thanh không bị đầu độc, thì bị ông Nguyễn Thế Kỷ, phó Ban tuyên giáo trung ương vặn ngược lại với cung cách kẻ cả: Vậy căn cứ nào nói bị đầu độc? Ông Phạm Gia Khải, phó trưởng Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương trả lời câu hỏi này nghiêm chỉnh hơn: Chuyện có đầu độc hay không: làm khoa học phải có chứng cứ... chúng tôi chỉ chấp nhận những giả thuyết có bằng chứng cụ thể... Đến nay chưa có triệu chứng nhiễm độc ở bất cứ nơi nào trong cơ thể.

Đầu độc bằng phóng xạ: một phương pháp tối ưu của tội ác

Nếu cho rằng ông Thanh bị đầu độc bằng phóng xạ thì trường hợp của ông không phải là đầu tiên và duy nhất trên thế giới.

Đầu tháng 11 năm 2006 Alexander Liwinenko, một điệp viên nhị trùng làm việc cho phản gián Nga KGB và dồng thời cho phản gián Anh, xin tỵ nạn chính trị ở Anh, bị giết chết ở London bởi chất phóng xạ Polonium 210, chỉ 3 tuần sau khi ông uống 1 ly trà có hòa tan chất phóng xạ này. Người ta cho rằng Putin đã ra lệnh giết Liwinenko vì những cáo buộc của ông ta về những tội ác của chế độ Putin.

Ngày 28 tháng 10 năm 2004 ông Jassir Arafat, thủ lãnh của Palestine đột nhiên lâm bệnh nặng, sau 1 tuần ông không ăn uống được vì viêm đường ruột. Ông được đưa ngay sang Paris, điều trị ở bệnh viện quân đội Percy. Vài ngày sau đó ông bị hôn mê, thận và gan không còn hoạt động, cuối cùng là chảy máu óc. Ngày 11 tháng 11 năm 2004 ông chết, chỉ quãng 2-3 tuần sau khi có những triệu chứng bệnh tật đầu tiên. Các bác sĩ điều trị không kết luận được về nguyên nhân cái chết của ông. Việc mổ tử thi để giảo nghiệm không được gia đình ông cho phép.

Đầu năm 2012 người ta tìm thấy dấu vết của Polonium 210 trong những vật dụng cá nhân của ông còn giữ lại. Từ đó dẫn đến nghi ngờ là ông đã chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ . Tháng 10 năm 2013 mộ của ông được cải táng và di cốt của ông được 3 nhóm chuyên gia Pháp, Thụy Sĩ và Nga khảo nghiệm. Kết quả phân chất (8 năm sau khi ông chết) không đồng nhất: Trong khi Thụy Sĩ cho rằng ông Arafat có khả năng (moderately support) nhiễm độc Polonium 210, thì Pháp và Nga không tìm thấy bằng chứng cụ thể. Cuối cùng, tới nay vai trò của Polonium trong cái chết của Arafat vẫn còn là một hoài nghi.

Mặt khác, điều này cũng cho thấy là việc điều tra chứng minh tác động của chất độc phóng xạ không hề đơn giản. Trong trường hợp cái chết của Litwinenko các bác sĩ và những điều tra viên trong những ngày đầu tiên đã phải xếp vào loại chết không rõ nguyên nhân. Chỉ sau một thời gian dài mò mẫm người ta mới xác định được nguyên nhân ngộ độc phóng xạ. Điều này khẳng định thêm một lần nữa tính „ưu việt“ của chất độc Polonium 210 là giết người không để dấu vết hay rất khó khăn để tìm ra dấu vết.

Polonium 210

Chất độc phóng xạ polonium 210 phát ra tia alpha, không màu sắc, không mùi vị, chỉ cần 1 lượng rất nhỏ (quãng 1-2 µg, nghĩa là 1-2 phần triệu gram) tương ứng với 1 năng lượng quãng 10 Gray là đủ để giết một mạng người. Polonium 210 không cần chuyên chở trong những hộp chì dầy cộm nặng nề lộ liễu dễ gây nghi ngờ như những chất phóng xạ tia gamma bình thường. Cách sử dụng lại rất dễ dàng. Khi sử dụng không gây nguy hiểm gì cho kẻ chủ mưu, bởi vì tia phóng xạ alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 5 cm ở ngoài không khí, có thể được chặn đứng bằng 1 tờ giấy. Hiệu năng phá hoại của nó chỉ được phát huy khi chất độc này lọt vào trong cơ thể qua đường tiêu hóa, hô hấp hay trực tiếp vào mạch máu. Ở trong cơ thể, tia alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 0,04-0,1 mm, song đủ để phá nát các tế bào trên đường đi của nó. Khi polonium 210 còn nằm trong dạ dày, nó làm các tế bào niêm mạc (mucosa) bị phá hoại, nạn nhân cảm thấy khó chịu, buồn nôn sau chừng 6-7 tiếng đồng hồ. Khi chất phóng xạ theo đường máu tỏa ra khắp các mô trong cơ thể thì phá hủy các tế bào, nhanh nhất là những tế bào có khả năng phân chia nhanh ở trong các tủy xương. Từ đó gây ra chứng rối loạn sinh tủy là một biến chứng nguy hiểm sớm đầu tiên. Tủy xương không thể sinh sản được đầy đủ các tế bào máu. Khi làm khám nghiệm sinh học sẽ thấy chỉ số bạch cầu xuống thấp (leucopenie) rất sớm, trong vòng 4-5 ngày, tiểu cầu xuống thấp (thrombopenie) sau chừng 9 ngày. Một khi đã lọt vào trong cơ thể, thì không còn phương pháp nào để trục xuất chất độc này ra khỏi cơ thể, ngoại trừ một phần theo đường bài tiết tự nhiên (phân, nước tiểu) được đưa ra ngoài. Khi đã có rối loạn sinh tủy, tối thiểu lượng phóng xạ đã phải là 3-5 Gray, thì tiên lượng (prognosis) là LD50 (lethal dosis 50), có nghĩa là 50% nạn nhân sẽ phải chết. Nếu bị đầu độc với lượng cao hơn, quãng 10 Gray sẽ có ngay rối loạn đường tiêu hóa và hệ thần kinh, thì tiên lượng là LD100, nạn nhân không có hy vọng sống sót.

Giả thuyết về việc ông Bá Thanh chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ

Trang mạng Chân Dung Quyền Lực (CDQL) đã quả quyết rằng một phó thủ tướng đương nhiệm đã chủ mưu việc đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh bằng phóng xạ. Việc đầu độc được cho là vào thời điểm cuối năm 2013, khi ông Thanh đi công tác ở Trung Quốc, rồi được „bạn“ chiêu đãi, đưa đi đây đi đó ăn uống và mua sắm. Ở một thời điểm thích hợp ông đã bị đánh thuốc độc phóng xạ. Từ khi đó sức khỏe ông xuống dốc. Trong khi công tác ở Thụy Điển, ông đã vài lần ngất xỉu.Vào đầu tháng 5-2014 đã được điều trị tại bệnh viện 108 với chuẩn đoán „rối loạn sinh tủy“. Tháng 6 và tháng 7–2014 điều trị tại Singapore và từ tháng 8–1014 tới tháng 1-2015 điều trị tại Mỹ. Ngày 9 tháng 1 năm 2015 ông được đưa trở lại Việt Nam. Ông mất hơn 1 tháng sau đó, vào ngày 13–2–2015 tại Đà Nẵng.

Trang mạng CDQL quyết đoán là các bác sĩ Mỹ đã định bệnh „Ngộ độc phóng xạ ARS“ và đã thực hiện phẫu thuật ghép tủy. Nay ông Thanh đã mất, vấn đề trách nhiệm về cái chết này lại càng trở nên sôi bỏng. Thông tin của CDQL có khả tín hay không là vấn đề được mổ xẻ ở đây.

Chỉ có 2 tình huống có thể đã xảy ra:

– Tình huống thứ nhất: Có âm mưu thực sự muốn giết ông Thanh bằng phóng xạ.

Một chi tiết biện minh cho giả thuyết này là yếu tố Trung Quốc. Polonium 210 chỉ sản xuất được ở một số lò nguyên tử trên thế giới, trong đó có lò ở Trung Quốc. Sản xuất ở Nga chiếm tới 95% tổng số sản lượng thế giới. Việc cho rằng người chủ mưu phải nhờ tới nước ngoài để có được Polonium như vậy cũng hợp lý. Song tất cả diễn biến của bệnh ông Thanh lại không „điển hình“, như tiên liệu của một cuộc đầu độc kinh điển bằng phóng xạ: Vài tiếng đồng hồ sau khi ăn uống phải chất phóng xạ ở Trung Quốc là ông Thanh đã phải khó chịu nôn mửa. Sau 2-3 tuần là lẽ ra tủy xương đã bị tiêu hủy dẫn tới chứng suy/rối loạn sinh tủy. Chậm lắm là 1-2 tháng sau là nạn nhân chết. Ở trường hợp ngộ độc phóng xạ điển hình như trường hợp điệp viên Litwinenko cái chết tới chỉ trong vòng 3 tuần. Ở trường hơp ông Bá Thanh thì không như vậy. Chứng rối loạn sinh tủy phát sinh 5-6 tháng sau khi ông từ Trung Quốc trở về, và tới nay, hơn 1 năm sau ngày bị „đầu độc“ ông mới mất.

Nếu đặt tiền đề rằng chứng „rối loạn sinh tủy“ của ông Thanh phải là do phóng xạ gây ra bởi vì ai đó đã có chứng cớ gì mà hiện nay chưa công bố, thì năng lượng nguyên tử đã dùng chỉ tới mức 3-5 Gray vì „chỉ có“ tủy xương bị tàn phá: Để cố ý giết người thì năng lượng này tương đối thấp. Năng lượng thấp này thường là do tai nạn nguyên tử gây ra. Một khả năng khác là cũng có thể là nguyên nhân cố ý giết người, song lại dùng liều lượng thấp hay dùng chất phóng xạ khác, ít nguy hiểm hơn (như Yttrium 90, cũng phát tán tia alpha, vốn được dùng trong Y khoa hạt nhân để chữa phong thấp, dễ mua và rẻ hơn là Polonium 210). Dù sao chăng nữa, với một năng lượng nguyên tử 3-5 Gray thì tiên lượng bệnh của ông cũng là nghiêm trọng: LD50 (lethal dosis 50). Cái chết hay lẽ sống tương đương ngang ngửa 50% với nhau. Nay cái chết đã thắng thế trên thân xác ông.

– Tình huống thứ hai: Bệnh của ông Thanh không liên quan gì tới phóng xạ.

Trong thời gian qua trang mạng CDQL đã tung ra công luận một số thông tin vô cùng phong phú với những chứng cớ, hình ảnh, giấy tờ khó lòng chối bỏ về tài sản bất chính của một số quan chức cao cấp nhất nước. Những người bị nêu tên đích danh không thốt nổi nửa lời để chống cự lại những cáo buộc trên. Song, trong trường hợp của ông Thanh thì lại khác. CDQL chỉ khẳng định,mà không nêu lên bất cứ bằng chứng, tư liệu nào chứng minh cho cáo buộc là ông Thanh bị đánh thuốc độc phóng xạ. Nếu hình ảnh chụp ông Thanh gầy gò, rụng hết tóc được chụp vài tuần sau khi ông từ Trung Quốc trở về vào cuối năm 2013 thì hình này minh chứng được cho tác động phóng xạ làm ông rụng hết tóc,làm thân xác ông tiều tụy. Song hình ảnh này lại được chụp ở Mỹ, sau 2-3 lần hóa trị, thì đó chỉ là phản ứng rất bình thường của hóa trị. Người dân chờ đợi CDQL tung ra hình ảnh chụp ông Thanh trước khi ông được chữa trị, trưng ra bản copie các kết quả thử nghiệm và kết luận sau cùng của các bác sĩ Mỹ, ví dụ như nồng độ Polonium 210 hay chất phóng xạ khác trong nước tiểu, tủy xương của ông Thanh, ví dụ như báo cáo cytology về những biến dạng hay hư hoại của các tế bào máu trong tủy xương hay kết quả khảo nghiệm chromosome ở các bạch cầu trong máu của ông.

Kết quả thử nghiệm máu vào tháng 5-2014 mà ông Phạm gia Khải cho báo chí biết (hồng cầu giảm, tiểu cầu giảm, bạch cầu không rõ ràng) không đưa ra được kết luận cụ thể. Kết quả này cũng không điển hình với biến đổi do phóng xạ gây ra, bởi vì thông thường thì bạch cầu rất nhạy cảm với phóng xạ, sẽ bị phá hủy nhanh chóng và rõ ràng nhất.

Lời kết

Cho tới ngày ông Thanh mất vẫn chưa có thêm thông tin hay bằng cớ gì mới cho biết là ông Thanh có hay không bị đầu độc bằng phóng xạ. Tất cả cáo buộc từ phía CDQL hay phủ nhận từ phía nhà nước cho tới nay chỉ là những khẳng định chung chung, không bằng chứng.

Ông Nguyễn Bá Thanh đã được khám bệnh, trị bệnh nhiều tháng trời ở những bệnh viện hàng đầu ở 3 quốc gia: Việt Nam, Singapore và Mỹ. Tất nhiên là những dữ kiện về bệnh tình của ông không thể thiếu. Kết luận cụ thể về nguyên nhân bệnh của ông từ những bác sĩ chuyên môn hàng đầu thế giới chắc chắn đã có, song tới nay vẫn được giữ kín như một bí mật quốc gia.

Ngày 7 tháng 1 vừa qua ông Nguyễn Quốc Triệu, trưởng ban bảo vệ săn sóc sức khỏe trung ương, cho rằng việc không cung cấp thông tin bệnh tình của ông Nguyễn Bá Thanh là do: Trong luật khám chữa bệnh, bệnh nhân có quyền bí mật về bệnh, việc cung cấp thông tin bệnh tật của cán bộ cao cấp phải xin ý kiến của cấp trên. Chính sách giấu kín thông tin trong lãnh vực sức khỏe của từng cá nhân là phổ thông và ở khắp nơi. Ở phương Tây cũng thế. Song có một điểm khác biệt quan trọng là ở nơi có chế độ dân chủ, người bệnh nhân có quyền cho phép tiết lộ thông tin sức khỏe của mình cho một người thứ ba mà không cần phải xin ý kiến của cấp trên nào. Ở trường hợp có người tố cáo là có kẻ gian đầu độc người khác, như chuyện Bá Thanh, thì không những là có vấn đề sức khỏe của người bệnh mà còn có vấn đề hình sự đối với kẻ gian, còn vấn đề sử dụng pháp luật để ngăn đe trừng trị. Như vậy không thể có chuyện mượn cớ bí mật sức khỏe để bỏ qua việc điều tra được.

Trong trường hợp không có yếu tố phóng xạ, thì công luận và cá nhân Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phải được thông tin giải oan, và là cơ hội để ông Phó Thủ tướng truy tố kẻ vu khống và đòi bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp có yếu tố phóng xạ, thì đây là là một tội ác không thể khoan nhượng vì đã có người chết. Gia đình ông Thanh phải khởi tố. Nhà nước phải vào cuộc, điều tra kỹ lưỡng để tìm ra chính xác thủ phạm của vụ đầu độc này.

Ngành công an Việt Nam, với số lượng nhân sự và phương tiện khổng lồ, vốn nổi tiếng về những vụ giết người, đánh người trong đồn công an hay đàn áp người dân bất đồng chính kiến, không thể bỏ qua cơ hội để phát huy đúng mức chức năng của mình khi làm sáng tỏ vụ án này.

T.K.T.
Tác giả gửi BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 11:42 [/size]
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Di Sản và Ước Mơ Đầu Năm

Sơn Tùng


Tới một tuổi nào đó, khi thực sự bước chân vào đời, một người trẻ thường nhìn lên những thế hệ đi trước để trông đợi nhận được một vài di sản. Của cải vật chất hay những di sản mang giá trị tinh thần giúp họ làm hành trang trên đường đời.


Ngược lại, vào một lúc nào đó, thế hệ đi trước cũng nghĩ đến việc để lại một vài cái gì đó cho con cái và những thế hệ đi sau.

Với một người giàu có và coi của cải vật chất là sự nghiệp, công việc ấy có vẻ dễ dàng và đơn giản. Người ta sẽ tính sổ xem của cải thu nhặt trong cả một đời người có được bao nhiêu và sẽ chia ra như thế nào, để lại cho những ai, mỗi người bao nhiêu, trước khi rời khỏi thế giới này với hai bàn tay không như lúc đến.

Với người không có của cải vật chất và không cho nó một giá trị tuyệt đối, công việc không đơn giản. Người ta cũng sẽ phải tính toán – nhưng không phải bằng những con số - xem sự nghiệp mình có được những gì, và sẽ để lại ra sao.

Việc “tính sổ” này thường được nhìn như một sự bàn giao giữa thế hệ đi trước và thế hệ đi sau để đời sống được tiếp tục. Những thế hệ tới sau sẽ nhận lấy cái thế giới mà những thế hệ đi trước giao lại – với những cái đẹp và cả những cái xấu.

Nhưng, cũng có một quan niệm khác cho rằng “thế giới này không phải do bố mẹ tặng cho ta mà là do con cái cho ta mượn tạm” như câu thơ của một thi sĩ người Nga.

Tôi thích cái quan niệm thứ hai hơn, vì tính chất lãng mạn và yếm thế của nó cũng có, nhưng vì nó buộc con người phải suy nghĩ nhiều hơn về ý nghĩa sự hiện hữu của mình trên hành tinh này. Chúng ta là những con nợ của các thế hệ đi sau.

Với quan niệm này, tôi cho rằng thế hệ trẻ Việt Nam đã không nhận được những gì họ mong đợi khi được “thanh toán nợ nần”.

Vào đầu thập niên 1990, sau khi Liên-Sô sụp đổ, tôi đã có dịp thăm viếng nước Nga vài lần, và đã trải qua một cơn chấn động tâm não khi nhìn thấy nhiều thanh niên Việt Nam ngồi co ro trên mặt cỏ phủ băng tuyết, bán những chiếc quần áo rẻ tiền tại một khu chợ trời ở Mạc-tư-khoa. Đôi mắt họ chứa đựng tất cả nỗi bơ vơ và bóng đen của ngày mai vô định.

Tôi cũng đã nhìn thấy những đôi mắt như vậy của những người trẻ Việt Nam tại ngay quê nhà trước khi tôi bỏ nước đi tị nạn hơn ba mươi năm về trước. Họ không bị lưu đày sang một đất nước xa xôi, nhưng cũng đang sống vất vưởng tại các khu chợ trời hay tụ họp nơi những hàng quán trên hè phố, tự đốt cuộc đời bằng những ly rượu mạnh, tách cà-phê đắng, điếu thuốc nặng cháy phổi. Tôi đã không trở lại Việt Nam từ ngày bước chân xuống chiếc tàu gỗ nhỏ ra khơi trong đêm tối, nhưng ngày nay tôi vẫn nhìn thấy những hình ảnh này trên Internet.

Ở trong nước hay ngoài nước, những thanh niên Việt Nam ấy cũng đã không có được một chỗ đứng trên mặt đất này, và đã bị tước mất cơ hội để được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.

Những người trẻ Việt Nam tại các nước Tây Âu và tại Hoa Kỳ có đời sống vật chất khá hơn, và có cơ hội để chọn một nghề nghiệp theo ý‎ muốn, nhưng không ít người cũng đã cảm thấy bơ vơ khi muốn định hướng cuộc đời, hay muốn “trở về nguồn”, muốn sống như một người Việt Nam chứ không phải một người Mỹ da vàng, Pháp da vàng…

Những người trẻ Việt Nam ở trong hay ngoài nước quả thật đã không nhận được những gì mà họ mong đợi khi “được trả nợ”, từ các thế hệ đi trước.

Tuổi trẻ Việt Nam đã không được tiếp nhận từ tay các thế hệ đi trước một đất nước tươi đẹp, tự do, giàu mạnh như tuổi trẻ Nhật Bản, Nam Hàn, và ngay cả Singapore hay Malaysia ở gần Việt Nam.

Hẳn nhiên nhiều người trẻ Việt Nam đã oán trách những thế hệ đi trước. Đất nước ta không thiếu tài nguyên thiên nhiên, và dân ta không thiếu nhân tài. Người “chủ nợ” có quyền bày tỏ nỗi bất bình khi không được thanh toán thỏa đáng.

Nhưng, thế giới đang thay đổi rất nhanh, ý niệm tương đối về mỗi thế hệ cũng đang bị thu ngắn lại. Bánh xe tiến hóa của loài người cũng quay với tốc độ nhanh hơn.

Tuổi trẻ Việt Nam hãy đứng dậy hành động hơn là buông trôi ngày tháng và chê trách những thế hệ đi trước, hay lên án các thế hệ đi trước như “những con nợ” đã không làm tròn nghĩa vụ. Hãy làm cái gì để thay đổi vận mệnh của chính mình và của đất nước. Và không có đổi thay nào mà thiếu vai trò nòng cốt của tuổi trẻ.

Tôi không muốn đóng vai trò luật sư để biện hộ cho các thế hệ đi trước và cho chính mình, nhưng không nên gom cả những tội phạm và nạn nhân vào một bó để buộc tội và lên án.

Các thế hệ đi trước, nếu có những kẻ ươn hèn, ích kỷ, cam tâm làm tôi tớ cho ngoại nhân thì cũng có vô số người khí phách đã đứng lên lấy xương máu mình làm phân bón cho các thế hệ đi sau có thể vươn lên tươi tốt hơn. Nếu có những kẻ mang cuồng vọng nô lệ hóa dân tộc cho một chủ thuyết xa lạ điên rồ thì cũng đã có không thiếu những người can trường chống lại.

Trong cái “gia tài xấu xí” do các thế hệ đi trước để lại, có một di sản hết sức quan trọng bị vùi lấp bên trong mà những người đi sau nên đào bới lên: sự không phân biệt phải/trái, chính/tà, đúng/sai chính là lỗi lầm lớn nhất trong những thời đại đã qua và thời đại ngày nay.

Chính não trạng mờ ảo ấy đã khiến Việt Nam không thể ra khỏi bóng đêm và không cất cánh lên được. Hãy nhìn vào xã hội Việt Nam ngày nay: những con người tốt nhất là những kẻ sống khổ nhất với lương tâm của họ, những kẻ gian ác nhất, phạm nhiều tội ác nhất lại là những kẻ đang ngự trị trên ngôi cao để thi hành công lý.

Mọi người hầu như không cần biết đến sự kiện nghịch l‎ý ấy, hay thậm chí còn coi là bình thường, hay tệ hơn nữa, khai thác tình trạng vô đạo ấy để mưu lợi riêng cho mình.

Thời gian gần đây có những dấu hiệu cho thấy đã có sự thay đổi, từ trong giới trẻ, thế hệ sinh ra và lớn lên trong chế độ hiện tại. Có những người trẻ, rất trẻ, đã bất khuất đứng lên, dõng dạc nói ra những đòi hỏi về nhân quyền, về tự do, về nhân phẩm và về những bất bình mà con người có lương tâm không thể bị đè nén mãi dưới bạo lực và lừa dối.

Số người này lúc đầu không có nhiều nhưng đang tăng lên dần. Và, như một tín hiệu gửi ra cho thế giới bên ngoài nhân vụ đứng lên của tuổi trẻ Hồng Kông, 22 tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam đã cùng đứng chung trong bản “Tuyên cáo về tập hợp vì nền dân chủ tại Hồng Kông và Việt Nam”, trong đó có đoạn nguyên văn:

“...Toàn dân trong nước hãy noi gương tranh đấu của người dân, đặc biệt của giới trẻ tại các quốc gia Đông Âu cuối thế kỷ trước, của các quốc gia Bắc Phi và Ả Rập vùng Trung Đông gần đây, hiện thời là của người dân Ukraina, Tân Cương, Tây Tạng và lúc này là giới trẻ Hồng Kông trong tinh thần và khí phách của sinh viên Thiên An Môn. Các dân tộc ấy đã mạnh mẽ cho thế giới thấy họ nghĩ gì, muốn gì. Với truyền thống hào hùng và dòng máu bất khuất của nòi Lạc Việt, chúng ta hãy đồng lòng và can đảm quyết định thay đổi đường đi, thay đổi vận mệnh của quốc gia dân tộc. Bởi lẽ ngày càng hiển hiện nguy cơ mất nước do sự xâm lấn của ngoại thù Cộng sản Tàu và sự bạc nhược, đồng lõa của một bộ phận trọng yếu trong giới cầm quyền Cộng sản Việt.
Cuối cùng, chúng tôi cầu chúc cho cuộc biểu tình bất tuân dân sự của nhân dân, giới trẻ Hồng Kông đạt được các mục tiêu cao cả, đồng thời khơi dậy được tinh thần đấu tranh cho người dân ở Đại lục, để từ đó thêm sức mạnh cho phong trào tranh đấu tại Việt Nam... (hết trích)

Trước sự kinh ngạc và ngưỡng mộ của thế giới trong mấy năm cuối cùng của Thế kỷ 20 và đầu Thế kỷ 21, tuổi trẻ đã đem mùa xuân đến cho một nửa Âu Châu sau mấy chục năm chìm sâu trong đêm dài của gông cùm cộng sản.

Với tín hiệu trên đây từ Việt Nam, chúng ta có lý do để ước mơ một ngày không xa trong năm mới, tuổi trẻ Việt Nam sẽ đồng loạt đứng lên đem Mùa Xuân Dân Tộc về trên đất nước để người Việt trong và ngoài nắm tay cùng nhau xây dựng một quốc gia tự do, phú cường, trở thành một di sản mà các thế hệ mai sau, những người “chủ nợ” tương lai, mong được tiếp nhận khi chúng ta giã từ thế giới này.

Virginia, Mùa Xuân 2015

Sơn Tùng
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Chân Dung Quyền Lực và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Bùi Tín
Mạng Chân Dung Quyền Lực (CDQL) xuất hiện từ năm 2011, đến nay được hơn 3 năm. CDQL được đặc biệt chú ý từ hơn 2 tháng nay, khi cuộc họp Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) lần thứ 10/Khóa XI sắp họp để chuẩn bị cho Đại Hội XII, trong cuộc họp này có cuộc bỏ phiếu thăm dò tín nhiệm của 20 ủy viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư.

Cho đến nay CDQL vẫn là một điều bí hiểm. Nó thuộc lề trái hay lề phải? lề quan hay lề dân? do ai, nhóm nào chủ trương? mặt mũi và tư cách chính trị của họ ra sao? đang sống ở đâu, vùng miền nào, môi trường chính trị nào? và mục đích chính trị của nó thực sự là gì? đã đạt kết quả như mong muốn chưa? CDQL không có thêm bài nào từ ngày 21/1/2015, vậy còn sống hay đã chấm hết».

Thật là bí hiểm, cũng là lý thú để giới theo dõi thời cuộc trong ngoài nước bình luận, tranh luận, chung sức tìm cho ra ngọn nguồn, giải mã một bài toán chính trị hiểm hóc giữa tình hình chính trị khẩn trương của đất nước. Đây cũng là một đề tài sinh động cho những cuộc họp mặt ấm cúng, có hương hoa, bánh chưng xanh, câu đối đỏ, chén rượu hồng những ngày Tết Ất Mùi gần đến.

CDQL không thuộc «lề dân », hay «lề trái» như ta thường hiểu, không giống như các blogger tự do mang tinh thần đối lập phản biện với chính quyền.

Đây là điểm đen của CDQL bị nhiều người bỏ qua nên ngộ nhận về nó. Cần vạch rõ CDQL có cách nhìn bất lương đối với các chiến sỹ dân chủ, các tổ chức trong xã hội dân sự đang lớn mạnh. Trong bài «Chủ tịch Trương Tấn Sang và cú lừa dân chủ của thế kỷ», CDQL cho rằng nhóm sỹ phu «Bắc Hà háo danh» gồm các ông Nguyễn Quang A, Chu Hảo, Tương Lai, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Phạm Văn Đào, Nguyễn Xuân Diện, Huỳnh Ngọc Chênh… và nhóm Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long …ở miền Nam đều là dân chủ cuội, tay chân của ông Trương Tấn Sang cả. CDQL đã tự làm mất uy tín trước công luận do sự vu cáo trắng trợn này.

CDQL cũng không phải là cơ quan truyền thông thuộc lề đảng, được cơ quan tuyên huấn, báo chí của đảng chỉ đạo. Nó chắc chắn chỉ thuộc về một phe nhóm riêng của đảng cầm quyền, nhưng chưa được nhận diện rõ là phe nhóm nào, nhân vật nào ở đằng sau nó.

Vì trong một phe nhóm cầm quyền nên CDQL mới có trong tay nhiều tài liệu, hồ sơ, tin tức, công văn, hình ảnh, hoá đơn, giấy tờ… chuẩn xác, người ngoài khó có thể có. Có lúc CDQL có vẻ nắm độc quyền nhiều tin tức tuyệt mật, như kết quả thăm dò tín nhiệm tại hội nghị 10, đầy đủ, cụ thể, chuẩn xác trong khi báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam chưa tiết lộ. CDQL cũng là mạng duy nhất phổ biến nhiều hình ảnh ông Nguyễn Bá Thanh nằm chữa bệnh trong bệnh viện ở Hoa Kỳ, cùng với tin về hành trình - đường bay, sân bay, ngày giờ cất, hạ cánh khi trở về nước.

Có những nhận định khác nhau về mạng CDQL. Ban Tuyên huấn Trung ương đảng cho rằng đây là một mạng truyền thông phản động, nhảm nhí, có hại, vô giá trị, nhưng không kết tội, không đề nghị truy tố và phá sóng của nó.

Một số ý kiến cho rằng CDQL phê phán tố cáo nặng nề hầu hết các ủy viên Bộ Chính tri và Ban Bí thư như các ông Nguyễn Xuân Phúc, Phùng Quang Thanh, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Hòa Bình, Phạm Quang Nghị, Lê Thanh Hải, Tô Huy Rứa, và cả Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Riêng với ông Nguyễn Tấn Dũng có bài phê phán nhẹ nhàng, nhưng lại có bài tâng bốc ông rất đặc biệt, ra ngày 21/1/2015: «Mũi thuyền rẽ sóng - mũi Cà Mau». Do đó CDQL có thể là thuộc phe nhóm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, vì nó rất có lợi cho ông. Đây là nhận định của rất nhiều người. CDQL phục vụ khá rõ cho ý đồ và tham vọng của ông Dũng nhằm chức Tổng Bí thư, thậm chí kiêm nhiệm thêm chức Chủ tịch nước (như tại Trung Quốc) tại Đại Hội XII tới.

Cũng có ý kiến cho rằng CDQL có tay nghề cao trong săn tin, bài viết có tính chuyên nghiệp, bài bản, văn phong chải chuốt, lập luận chặt chẽ, nhiều tin mật, phải là từ một cơ quan an ninh, phản gián có kinh nghiệm, phải chăng từ Tổng cục an ninh 1 do Trung tướng Nguyễn Chí Thành, một người rất thân cận với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nắm giữ, và chỉ có cơ quan an ninh, phản gián này mới có thể vươn xa, nhập sâu để có những tấm ảnh thật và tin tức mật nói trên. Đây là những phán đoán cần có thời gian để xác minh.

Nhân dịp này tôi xin có đôi lời nhắn nhủ chân thành với ông Nguyễn Tấn Dũng, người mà do làm nhiệm vụ nhà báo tôi đã có hai lần gặp ở Kiên Giang và Hà Nội những năm 1978 và 1984.

Thưa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,

Tôi là một nhà báo tự do sống ở nước ngoài, theo dõi sát tình hình trong nước. Ông là nhân vật có uy tín nhất trong số người lãnh đạo ở trong nuớc, đang ở thế thượng phong trong Ban Chấp hành trung Trung ương đảng cũng như trong Quốc hội.

Con người không có ai hoàn hảo. Do đó thật đáng tiếc là công luận còn phân vân về những thiếu sót ở nơi ông. Sự thiếu hiểu biết sâu sắc về nền chính trị, kinh tế, tài chính, đối ngoại và quốc phòng của thế giới của ông theo tôi thấy hình như được bù đắp khá tốt bởi một số cố vấn chuyên gia tin cẩn. Do dó ông đã có những phát ngôn rất chuẩn, đi vào lòng người. Chỉ còn là việc thực hiện trong cuộc sống. Không thể để nó chỉ nằm trên giấy.

Việc rất hệ trọng là xin ông hết sức suy nghĩ về cuộc sống cá nhân, gia đình. Xin được nói thẳng rằng có người đã chê ông là ông còn tệ hơn vài ông trong Bộ Chính trị. Mong ông lấy đó làm tự răn mình. Nếu ông tự nguyện ngay từ hôm nay thực hiện đúng phương châm của người CS «Hy sinh trước thiên hạ, hưởng thụ sau thiên hạ», lấy tự phê bình làm lẽ sống, gương mẫu về liêm khiết, không lấy một đồng của dân, của nước, sống thanh bạch như những ông quan thanh liêm thời trước, không chạy theo tư lợi vật chất và thói hường lạc của bọn trọc phú vô văn hoá, từ đó chống tham nhũng quyết liệt và có hiệu quả như ông đã hứa hẹn, thì ông sẽ có cả thiên hạ trong tầm tay. Tôi biết đây là việc khó chỉ có những người có bản lãnh đặc biệt mới vượt qua nổi. Cuộc đời ông theo tôi biết đã vượt qua bao thử thách cam go. Nay là bước thử thách cuối cùng.

Xin ông trong một đêm yên tĩnh, nghĩ đến hàng triệu đồng đội, đồng bào ta đã ngã xuống với hy vọng dân ta có tự do và hạnh phúc. Ông đang có điều kiện là một nhà cứu quốc, cứu dân tuyệt vời trong cơn trầm luân khổ ải mấy chục năm nay. Ông hãy vượt qua chính mình, trong một cuộc tâm sự thần kỳ, tự mình đối diện với chính mình, và quyết chí. Hàng trăm triệu con người Việt Nam sẽ ghi công ơn ông trong lòng, trong trái tim họ.

Xin ông nghĩ cho kỹ, suy cho cùng. Xin ông chớ bỏ qua thời cơ ngàn năm một thuở này. Ông hãy tự nguyện đứng ra với một nhóm nhân tài tâm huyết kiên cường khôn khéo cùng nhân dân đưa Tổ Quốc Việt Nam từ độc đoán toàn trị sang Kỷ nguyên Độc lập, Dân chủ, Tự do và Hạnh phúc thật sự cho mọi người. Được vậy lịch sử sẽ mãi mãi ghi công ơn ông.

Theo tôi nghĩ, ông muốn là ắt được, vì đó cũng là khát vọng cháy bỏng chân chính của toàn dân lúc này.

Kính thư,

Bùi Tín.
Paris ngày 19/2/2015; mồng Một Tết Ất Mùi.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Không chỉ là "một bộ phận" tham nhũng

Hoàng Ngọc-Tuấn
Trong những năm gần đây, khi nạn tham nhũng đã trở thành một quốc nạn, một thứ bệnh ung thư trầm trọng di căn tràn lan trên hình hài của đất nước Việt Nam, với cả một hệ thống tham nhũng từ trung ương cho đến địa phương, từ trong dinh phủ cho đến ngoài lề đường, khiến người dân càng ngày càng cảm thấy kinh tởm, thì hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam bèn bắt đầu rêu rao khẩu hiệu "bài trừ tham nhũng". Thế nhưng, đây là một màn kịch rẻ tiền, vì tất cả những cái loa của hàng ngũ lãnh đạo đều oang oang cho rằng nạn tham nhũng chỉ có ở "một bộ phận cán bộ, đảng viên...”!!!

Gần đây nhất, trong bài diễn văn chúc Tết Ất Mùi, Trương Tấn Sang nói: "... đấu tranh mạnh mẽ ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu và sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, góp phần vào sự thành công của Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng."

1/ "MỘT BỘ PHẬN" NÀO?

Tất nhiên, Trương Tấn Sang không thể nói rõ ra "một bộ phận" tham nhũng ấy là bộ phận nào. Vì sao vậy? Vì nhóm chữ “một bộ phận” chỉ là một nhóm chữ láo toét, nhằm thu nhỏ tầm cỡ của nạn tham nhũng, với chủ tâm đánh lừa người dân.

Kiểu nói này giống như một anh lang băm nói “an tâm đi, bệnh này là do một bộ phận trong cơ thể bị hỏng, tôi sẽ chữa trị bộ phận đó.” Nghe thì đơn giản, nhưng sự thật thì không phải như vậy. Khi một bệnh ung thư đã di căn trầm trọng thì nó không còn ở “một bộ phận” nữa, mà nó đã lan sang nhiều bộ phận khác, thậm chí lan đi khắp cơ thể của bệnh nhân. Ngay cả nếu cắt bỏ hẳn “một bộ phận” nào đó, thì cũng hoàn toàn vô ích.

Nói tóm lại, khi hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam nói rằng chỉ có “một bộ phận cán bộ, đảng viên...” là tham nhũng, thì họ đang nói láo một cách trắng trợn.

2/ BÀI TRỪ “MỘT BỘ PHẬN” THAM NHŨNG ĐỂ LÀM GÌ?

Nếu cứ giả thiết rằng Trương Tấn Sang và cả hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam có thực tâm muốn bài trừ “một bộ phận” tham nhũng nào đó, thì mục đích của họ là gì? Phải chăng họ muốn bài trừ “một bộ phận” tham nhũng nào đó để chấn hưng đất nước?

Không, không phải vậy. Trương Tấn Sang đã nói rõ rằng việc bài trừ “một bộ phận” tham nhũng nào đó là chỉ để “góp phần vào sự thành công của Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng."

Như vậy thì hiển nhiên là họ chẳng hề quan tâm đến đất nước. Họ chỉ quan tâm đến bộ mặt của Đảng. Nói bài trừ “một bộ phận”tham nhũng nào đó chỉ là nói suông để rửa bớt bộ mặt nhơ nhớp của Đảng, mà thực chất là không hề bài trừ "một bộ phận” tham nhũng nào cả.

3/ KẾT LUẬN:

Rất hiển nhiên, như đã nói, đối với một bệnh ung thư đã di căn trầm trọng thì có cắt bỏ hẳn “một bộ phận” nào đó cũng hoàn toàn vô ích. Đằng này, thậm chí chính họ cũng không thể xác định “một bộ phận” nào đó là bộ phận gì, nằm ở đâu, mà thật ra là bệnh ung thư đã di căn lan tràn trên cả cơ thể, thì việc cắt bỏ “một bộ phận” nào đó cũng chỉ là chuyện nói suông để lừa dối, và tất nhiên kết quả là hoàn toàn hư huyễn.

Bệnh ung thư di căn tham nhũng ở Việt Nam bây giờ chỉ có thể được chữa trị bằng những liều thuốc thật mạnh, tiêu diệt toàn bộ những tế bào ung thư trên cả hình hài đất nước Việt Nam, và thay vào đó bằng những tế bào trong sạch và lành mạnh. Nghĩa là phải hoàn toàn xoá bỏ hệ thống cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam, và thay vào đó bằng một hệ thống chính quyền dân chủ đích thực.
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Mùa Xuân năm thứ 40

Ngô Nhân Dụng
Tết năm nay tình cờ tôi lại nhớ đến các bạn tôi ở Phần Lan. Nói tình cờ, vì tôi chỉ bấm con chuột vào máy vi tính, lấy một bản nhạc để nghe, không cố ý chọn trước. Theo lối “Bói Kiều” của các cụ đời xưa, mở bất cứ trang nào trong Truyện Kiều ra đọc, từ đó đoán được cụ Nguyễn Du, cô Thúy Kiều, Vãi Giác Duyên báo trước tương lai thế nào. Sáng Mùng Một Tết, trong số mấy trăm bản nhạc chứa sẵn trong máy, tình cờ con chuột bấm trúng tên Sibelius, và bản nhạc mở ra là bài Finlandia!

Âm thanh khoảng khoát, mênh mang, vươn lên như những rừng tùng bách khổng lồ bát ngát của xứ Phần Lan cho thấy năm nay sẽ là một năm tốt đẹp. Finlandia không phải là tâm sự cá nhân mà kể chuyện một dân tộc, một dân tộc nhỏ từng bị các đế quốc Thụy Điển và Nga thống trị; nhưng cuối cùng vẫn giành được độc lập. Động cơ mạnh mẽ nhất của giống dân này là bảo vệ ngôn ngữ của tổ tiên!

Nghe Sibelius phải nghĩ ngay tới Nguyễn Văn Tài ở Helsinki, Nguyễn Bá Trạc ở Turku và hơn ba ngàn người Việt khác đang sống ở xứ Phần Lan! Có lần, một người đã tâm sự, so sánh anh không được ma mắn như tôi. Anh nói: Hơn ba mươi tuổi tôi mới bắt đầu học một ngôn ngữ mới; học nói, học nghe tiếng Phần Lan cho thông thạo, cuối cùng thì cũng chỉ có bốn triệu người nói ngôn ngữ đó mà thôi! Nếu sống ở Canada như anh, tập nói tiếng Anh, tiếng Pháp, anh đã lời to, vì có thể trò chuyện với năm, bẩy trăm triệu người nói những thứ tiếng đó! Tôi giải thích với anh rằng, “Tôi chưa bao giờ được trò chuyện với một trăm, chứ đừng nói một triệu người anh ạ!” Rồi nói đùa thêm, “Nếu chạy tị nạn qua Trung Quốc thì anh có may mắn hơn không? Anh sẽ học tiếng phổ thông, sẽ trò chuyện được với hơn một tỷ người! Lời to, anh có muốn như thế không?”

Để an ủi anh bạn, tôi kể anh nghe mấy tuần trước đó, một người bạn của tôi ở Montréal, Canada vui mừng khoe rằng bà đã gặp một cô gái Việt Nam tại Tel Aviv! Cô sinh viên làm trong một quán ăn, tới đưa bà cái thực đơn, và cô nói tiếng Hebrew như một cô gái Israel có học! Bà không thể tưởng tượng được có một người Việt Nam lại đi tị nạn ở một xứ lúc nào cũng đang “lâm chiến” như quê hương tổ tiên của bà. Tổ tiên dân Do Thái đã “di tản” khỏi đất nước họ trước đây hơn hai ngàn năm! Bây giờ bà trở về thăm đất tổ, không ngờ lại gặp một cô gái Việt Nam nói tiếng “Hy Bá Lai” của tổ tiên mình (người Trung Hoa phiên âm Hebrew là Hy Bá Lai).

Người Việt Nam đi tị nạn Cộng Sản mới 40 năm. Đối với người Do Thái 40 năm là một con số thiêng liêng. Đó là thời gian tổ tiên họ đã “lang thang trong hoang dã” trước đây 3,500 năm. Câu chuyện được kể trong “sách thánh Số Mục,” cuốn thứ tư trong Kinh Torah, cũng chép trong Cựu Ước của Thiên Chúa Giáo. Dân Do Thái được ông thánh tiên tri Moses lãnh đạo thoát khỏi Ai Cập, thoát cuộc đời nô lệ, tìm về nơi “Đất Hứa” mà Jahveh đã hẹn sẽ giành cho tổ tiên họ. Nhưng họ phải lang thang trong sa mạc Sinai suốt 40 năm trước khi vào được miền “Đất Hứa.” Lý do, vì nhiều người đã mất niềm tin.

Người Việt tị nạn cũng “đi trong vùng hoang dã” trong 40 năm qua. Không phải chỉ những người tị nạn. Đồng bào chúng ta ở trong nước đã trải qua 40 năm “lang thang trong vùng hoang dã,” từ năm 1975 cho tới bây giờ.

Từ cuối thế kỷ 19, dân Việt vẫn tìm đường về miền “Đất Hứa,” là một nước Việt Nam độc lập, tự do. Chiến tranh chấm dứt năm 1975, nhưng trong 40 năm qua dân Việt vẫn “lang thang trong vùng hoang dã.” Khi dân Do Thái về đến quê cha đất tổ thì thế hệ những người khởi đầu cuộc viễn hành đã chết gần hết, thế hệ thứ nhì mới được nhìn thấy “Đất Hứa.” Năm nay, sau 40 năm chờ đợi hy vọng dân Việt sắp tới miền “Đất Hứa,” chế độ Cộng Sản đang lâm vào cảnh phá sản, chỉ còn chờ ngày sụp đổ.

Người Việt ở hải ngoại may mắn hơn đồng bào trong nước. Phần lớn họ đã thành công, ở Phần Lan cũng như ở các nước châu Âu khác và châu Mỹ. Ngay tại nước Israel, một cô gái Việt Nam da vàng đã thành một thi sĩ nổi tiếng khi kể chuyện vượt biển của gia đình cô. Trong tuần lễ cuối năm Giáp Ngọ, Bộ Canh Nông Hoa Kỳ (USDA) mới vinh danh một cặp vợ chồng người Việt Nam thành công ở Hazlehurst, tiểu bang Mississippi. Anh chị Phạm Hùng và Nancy vượt biển năm 1975, trên những chiếc thuyền câu tôm, rồi được Hải quân Mỹ vớt. Hùng định cư ở Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, đi học rồi đi kiếm việc làm. Còn Nancy sống ở vùng Ft. Worth, Texas. Họ gặp lại nhau, kết hôn và sống ở Texas. Hùng đang làm cho hãng Lockheed Aircraft thì mất việc, khi đôi vợ chồng đã có hai con. Có người thân rủ đi nuôi gà, Hùng vừa làm việc vừa học nghề. Năm 2006, lại có người mách anh một trại gà ở Mississippi đang bán, người chủ cũ muốn bán. Hai vợ chồng họ Phạm đã làm lại cuộc đời. Họ làm việc cần cù, chăm chỉ, biến khu trại gà đổ nát thành một gia sản mới. Năm 2014, nhờ chương trình Khuyến khích Bảo vệ Môi trường (Environmental Quality Incentives Program) của USDA, bây giờ trại gà của họ được khen ngợi như một nông trại kiểu mẫu! Trại sản xuất năm lứa gà một năm, mỗi lứa gần hai tháng, cung cấp cho thị trường 200,000 con gà. Hùng có thể ngồi trong nhà mình dùng máy vi tính điều khiển nhiệt độ, độ ẩm và hơi gió trong những căn trại được điều hòa không khí, với ống dẫn nước và hệ thống sưởi điện. Cũng trong Batesville, Mississippi, tại làng Batesville, tu viện Mộc Lan của Phật Giáo Việt Nam được thành lập hai năm trước khi gia đình họ Phạm tới tiểu bang này. Mộc Lan được coi là một tu viện rộng và đẹp nhất ở Bắc Mỹ, nhờ sự đóng góp của những nông dân Việt Nam lập nghiệp và thành công trong vùng. Nói chung, người Việt tị nạn tới đâu cũng có cơ hội để thành công.

Dân Do Thái phải lang thang trong vùng hoang dã suốt 40 năm vì họ mất niềm tin. Không tin họ có khả năng sống trên miền Đất Hứa như những con người tự do. Nhiều người muốn trở lại Ai Cập sống cuộc đời nô lệ. Tâm lý nô lệ ăn sâu hàng ngàn năm không dễ xóa bỏ. Phải chờ tới thế hệ thứ hai mới đủ tự tin để xây dựng một quốc gia tự do, độc lập. Những đứa trẻ lớn lên trong cuộc sống mới, đổ mồ hôi lấy miếng bánh ăn, chúng không coi sống nô lệ là cuộc đời tự nhiên; chúng mới có quyết tâm dựng nên một nước tự do, tự chủ. Người Do Thái coi đó là một bài học lịch sử ngàn đời, và họ tâm niệm không bao giờ để tâm lý nô lệ kiềm hãm mình nữa. Người Việt Nam cũng vậy. Các bạn trẻ đang lớn lên trong thời đại internet đã được nếm mùi tự do, trong tư tưởng, trong ngôn ngữ và hành động. Thế hệ này sẽ xây dựng một nước Việt Nam tự do và độc lập thật sự. Nhất định không chịu cúi đầu chờ nghe ý kiến từ Bắc Kinh nói vọng sang. Người Việt đã chịu đựng một ngàn năm nghe người ta ra lệnh bằng tiếng Tàu. Không thể chấp nhận được, đã đứng dậy đòi độc lập. Cũng như dân Phần Lan đã dứt khoát không chịu nghe lệnh bằng tiếng Thụy Điển hay tiếng Nga.

Tại Phần Lan, tôi đã nhờ một người bạn của Nguyễn Văn Tài sống ở Turku đưa tới ngôi nhà tưởng niệm Jean Sibelius. Chúng tôi ngồi xuống nghe bài Finlandia, trong hội trường có một đám học sinh tiểu học cũng ngồi chờ. Thầy cô dẫn các em tới, các em ngồi im lặng nghe bài nhạc mươi phút, trang nghiêm như trong một giáo đường. Ước chi nước mình có một ngôi nhà tưởng niệm Nguyễn Du như vậy, để các học sinh tới đó ngồi im lặng nghe các cụ bà kể Kiều, ngâm Kiều, và các em có thể thử lẩy Kiều, tập Kiều, bói Kiều một lần trong đời! Ước chi khi thế hệ thứ ba của người Việt tị nạn năm 1975 về thăm quê hương Việt Nam thì các em sẽ được tới một ngôi Nhà Nguyễn Du để thử các trò chơi văn hóa đó. Nếu chúng ta còn giữ được tiếng Việt. Ngay thế hệ đang sống ở hải ngoại bây giờ, tiếng Việt đã “xơ xác” lắm rồi. Một vị độc giả mới viết về tòa báo một câu như vầy: “Thưa bổn báo. Ngày đầu năm chúc bổn báo nhiều sức khỏe để phục vụ độc giả. Xin bổn báo xem lại...” Đọc một hàng chữ mà muốn khóc. Khóc vì cảm động thấy có người còn viết được tiếng Việt rành rõi. Cũng khóc vì chữ viết sai. Chỉ khi nào tờ báo tự nói về mình thì mới dùng hai chữ “bổn báo,” nghĩa là “báo của chúng tôi.” Còn khi viết gửi cho tờ báo mình nên dùng chữ “quý báo,” cũng như khi nói “quý khách,” “quý vị!” Mới thế hệ thứ hai mà đã quên tiếng Việt rồi! Mà đây chắc là lỗi của “bổn báo.” Bổn báo lắm lúc cũng viết chính tả sai tàn nhẫn! Tuần trước, có bản tin blogger Nguyễn Quang Lập được tự do. Bổn báo Người Việt viết cái tựa nói rằng nhà văn đã “được tại ngoại hầu tra,” chữ “hầu” dấu huyền! May mắn, sáng hôm sau ban biên tập thấy sai, đã sửa lại thành “tại ngoại hậu tra,” chữ “hậu” dấu nặng.

Nhưng chữ nghĩa bây giờ nó bay nhanh như điện, mấy phút đã lan ra khắp thế giới. Tin Bọ Lập được tự do bay khắp thế giới, nhiều bản tin gửi qua internet vẫn viết “tại ngoại hầu tra,” với dấu huyền! Nguyễn Quang Lập thuộc thế hệ trẻ hơn những người thuộc lớp tuổi tôi. Chúng tôi hy vọng kỳ hạn 40 năm sắp chấm dứt, vì đặt hy vọng vào thế hệ những Nguyễn Quang Lập, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, và bao nhiêu người trẻ tuổi khác. Có thể nhìn thấy họ như một rừng hoa Xuân đang nở rộ. Họ đang sẵn sàng xây dựng lại đất nước sau 40 năm lang thang trong vùng hoang dã.

Lớp tuổi chúng tôi giống như những bông hoa sắp tàn, còn cố gắng không để héo hắt sớm. Ngày Mùng Một Năm Ất Mùi, Linh Mục Nguyễn Thái ở Quận Cam giảng bài đầu Xuân đã dẫn hai câu thơ Tô Thùy Yên:

Nếu như hoa biết chiều nay rụng
Âu cũng vui mà nở sáng nay!

Phải nở, phải vui mà nở mãi. Lớp hoa nào cũng biết trách nhiệm của mình.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Quốc Phụ và Quốc Sư

Huy Đức

Tuy thất vọng trước chương trình Táo quân Giao thừa 2015, nhưng ngay sáng mùng Một Tết, công chúng đã được đền bù khi nhìn thấy những tấm hình chụp "thâm cung" nhà Cựu TBT Nông Đức Mạnh.

Trận cười chưa dứt thì hôm qua, mùng 6 Tết, dân chúng lại mục kích loạt ảnh GS Vũ Khiêu hôn má và cho chữ hoa hậu Kỳ Duyên. Nhưng đừng tưởng truyền thông nhà nước chỉ đóng vai trò mua vui. Các nhà báo lề phải thâm thúy hơn những gì vài facebookers đang chế nhạo.

Lâu nay, giới học thật - căn cứ vào những "tác phẩm" từng xuất bản khi ông còn trẻ - không lạ gì vốn chữ nghĩa của học giả Vũ Khiêu.

Nhưng với công chúng số đông, nếu truyền thông nhà nước không cho chúng ta đọc câu đối mà Vũ Khiêu tặng Kỳ Duyên - “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc - Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” - làm sao biết, GS Vũ Khiêu không những không biết "niêm luật" tối thiểu khi viết câu đối mà còn, phần văn vẻ nhất, lại đạo thơ Lý Bạch (chưa kể về ý, vế đầu tự viết thì tối nghĩa, vế sau của Lý Bạch thì dung tục khi dùng cho tình huống một ông già trăm tuổi tặng cô gái 19 tuổi - Vũ Khiêu cũng đã từng đạo lời Quản Trọng nói về Thúc Nha, thời Đông Chu, khi "khóc" Tướng Giáp).

Một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất

Nhiều người sững sờ khi nhìn thấy Nông Đức Mạnh ngồi trên chiếc ghế tay rồng, trước một hương án "thếp vàng". Không nói về sự xa hoa. Dân chúng không còn kỳ vọng vào sự thanh liêm của những người như ông.

Nhưng dân chúng, theo lẽ tư duy thông thường, nghĩ, một người đã ngồi ở vị trí tột đỉnh quyền lực suốt gần hai thập niên, về mức độ trọc phú, lẽ ra phải khá hơn các đại gia buôn đất.

Ngoài khía cạnh văn hóa, việc tổng bí thư của một đảng cộng sản khi về hưu tự thửa cho mình một chiếc ghế mô phỏng ngai vàng còn cho thấy, tuy kêu gọi dân chúng làm cách mạng, quét sạch tàn dư phong kiến nhưng trong thẳm sâu, không ai thèm khát tàn dư phong kiến bằng họ - những nông dân có quyền vua chúa.

Có lẽ những chức tước đã kinh qua và những danh hiệu "cao quý nhất" mà Chế độ đã gắn cho GS Vũ Khiêu không những làm công chúng mà chính ông cũng choáng ngợp và tưởng thật.

Khi ngồi trên cái ngai vàng hàng nhái đó để tiếp khách chính thức, có chụp ảnh (có thể còn quay phim), chắc chắn ông Mạnh không nhận ra thân phận của một "hoàng đế cởi truồng". Nhưng vàng, thau thì không bao giờ lẫn lộn. Khi xuất hiện trước công chúng, những công dân trưởng thành đã chỉ ra sự tồng ngồng của họ.

Sau thất bại của "Táo quân" tưởng không có gì vui. Sau những cuộc cười đau bụng tưởng đã có gì vui. Nhưng đời chẳng có gì vui.

Văn chương như Vũ Khiêu mà biết bao năm qua vẫn được không ít người tôn là "quốc sư", vẫn được không ít người trông coi đình đền miếu mão mời viết văn bia; Văn hóa như Nông Đức Mạnh mà vẫn có thể làm Chủ tịch Quốc hội tới 9 năm, vẫn làm Tổng bí thư tới 10 năm... thì, đất nước không như thế này mới lạ.

Bài đã được đăng trên Facebook của nhà báo Huy Đức từ Sài Gòn.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests