Bình Luận , Quan Điểm

hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Sự giao thoa giữa quyền lực cứng và quyền lực mềm trong chính trị

Joseph Nye

Quyền lực cứng và quyền lực mềm đôi khi củng cố và đôi khi cản trở lẫn nhau. Một quốc gia muốn được công chúng ủng hộ thường không muốn sử dụng quyền lực cứng khi cần thiết; nhưng một quốc gia cậy thế mà không màng đến quyền lực mềm của mình thường sẽ gặp phải sự đối đầu khi sử dụng quyền lực cứng. Không có quốc gia nào muốn bị thao túng, ngay bởi cả quyền lực mềm. Đồng thời, như đã nêu trên, quyền lực cứng có thể giúp tạo dựng huyền thoại về sự bất khả chiến bại và tính thiên mệnh vốn thu hút các quốc gia khác. Năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy vẫn tiến hành thử nghiệm vũ khí hạt nhân cho dù các cuộc thăm dò công luận tỏ ra phản đối, vì ông e ngại thế giới nghĩ rằng Liên Xô đang chiếm ưu thế trong cuộc chạy đua vũ trang. Kennedy “sẵn sàng đánh đổi một phần uy tín ‘mềm’ của Hoa Kỳ để thu được uy tín quân sự.”Có một sự kiện vui là năm 2003, chỉ vài tháng sau khi xảy ra các cuộc biểu tình phản chiến ở Luân Đôn và Milan, các buổi trình diễn thời trang tại hai nơi này cho các người mẫu mặc quần áo lính biệt kích Mỹ và họ làm nổ hàng loạt bong bóng. Như một nhà tạo mẫu nhận xét, các biểu tượng của Hoa Kỳ“vẫn là tấm mền an ninh tốt nhất.”

Xuyên suốt lịch sử, các quốc gia nhược tiểu thường liên kết với nhau để cân bằng và giới hạn quyền lực của một quốc gia mạnh hơn đang gây uy hiếp. Nhưng không phải luôn luôn như vậy. Đôi khi các nước yếu bị thu hút và đi theo một nước mạnh, nhất là khi họ không có lựa chọn nào khác, hoặc do nước đó có cả sức mạnh quân sự lẫn quyền lực mềm hỗ trợ. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy, quyền lực cứng đôi khi cũng có khía cạnh mềm và thu hút. Như Osama bin Laden đã nói trong một băng video, “Khi người ta thấy một con ngựa khỏe và một con ngựa yếu, theo bản tính tự nhiên, họ chọn con ngựa khỏe.” Cũng dùng phép ẩn dụ tương tự, chúng ta thường thương hại kẻ yếu hơn là đánh cược cho họ.
Cuộc Chiến tranh Iraq năm 2003 là một ví dụ về sự giao thoa giữa hai dạng quyền lực này. Một số động lực gây chiến tranh dựa trên khả năng răn đe của quyền lực cứng. Người ta nói rằng khi Donald Rumsfeld nhậm chức, ông cho rằng Hoa Kỳ “trong cái nhìn của thế giới chỉ là một con cọp giấy, một gã khổng lồ yếu ớt không thể nào chịu nổi một cú đấm” và vì vậy, ông quyết tâm thay đổi cách nhìn này. Chiến thắng về quân sự của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần trước đã giúp thúc đẩy cuộc đàm phán hoà bình Trung Đông tại Oslo, và chiến thắng năm 2003 tại Iraq đã có thể có một kết quả tương tự. Hơn nữa, các quốc gia như Syria và Iran có lẽ sẽ cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ủng hộ các hoạt động khủng bố khác trong tương lai. Tất cả đều là những lý do quyền lực cứng được dùng để phát động chiến tranh. Nhưng cũng có một loạt các động lực khác liên quan đến quyền lực mềm. Những người theo trường phái tân bảo thủ cho rằng có thể dùng quyền lực của Hoa Kỳ để xuất khẩu dân chủ qua Iraq và biến đổi chính trị tại Trung Đông. Nếu thành công, chiến tranh sẽ tự hợp thức hoá sự tồn tại của nó. Như William Kristol và Lawrence Kaplan đã nói, “Sự thống trị đâu có gì là sai trái nếu như ta dùng nó để phục vụ các nguyên tắc đúng đắn và những lý tưởng cao cả?”
Người ta tranh cãi về cuộc chiến tranh Iraq một phần do họ cố lý giải tính hợp pháp của cuộc chiến này. Ngay cả khi không có đối trọng về quân sự (như hiện nay, Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất), các quốc gia khác vẫn có thể liên kết với nhau và tước đi tính chính danh trong các chính sách của Hoa Kỳ, và qua đó làm suy giảm quyền lực mềm của Mỹ. Pháp, Nga và Trung Quốc tỏ ra bực bội trước tính đơn cực về quân sự của Mỹ và kêu gọi một thế giới đa cực. Theo quan điểm của Charles Krauthammer, Iraq “tạo cơ hội cho Pháp hình thành thách thức nhất quán đầu tiên đối với sự thống trị đó.” Ngay cả khi không đối đầu trực tiếp với sức mạnh quân sự của một siêu cường, các nước yếu hơn mong rằng họ có thể cản trở Hoa Kỳ bằng cách làm cho Hoa Kỳ phải tốn kém nhiều hơn khi sử dụng quyền lực cứng. Cho dù không thể ngăn cản Hoa Kỳ phát động chiến tranh, nhưng bằng cách làm cho Hoa Kỳ mất tính chính danh thông qua nghị quyết thứ hai của Hội Đồng Bảo An, họ đã làm cho cuộc chiến tranh này tốn kém hơn.
Quyền lực mềm không chỉ giới hạn trong đấu trường Liên Hiệp Quốc. Ngoài Liên Hiệp Quốc, ngoại giao và các phong trào hoà bình đã biến đổi cuộc tranh luận trên thế giới từ những tội lỗi của Saddam chuyển sang mối đe dọa của đế quốc Mỹ. Điều đó khiến cho các quốc gia đồng minh khó có thể cho phép Hoa Kỳ sử dụng căn cứ quân sự, hoặc hỗ trợ Hoa Kỳ, và vì vậy, làm suy giảm quyền lực cứng của Hoa Kỳ. Những ví dụ như đã đề cập ở trên bao gồm việc quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ từ chối cho phép Mỹ quá cảnh quân đội trên lãnh thổ của họ, và Saudi Arabia không sẵn lòng cho Mỹ sử dụng các căn cứ không quân mà họ đã cho phép từ năm 1991.
Image
Ảnh (st)
Do việc triển khai sức mạnh quân sự Hoa Kỳ trong tương lai đòi hỏi việc sử dụng lãnh thổ cũng quyền bay quá cảnh của các quốc gia khác, những hành vi cân bằng quyền lực mềm như vậy có thể ảnh hưởng thực tế lên quyền lực cứng. Khi mà việc ủng hộ Hoa Kỳ khiến các chính trị gia mất phiếu bầu của dân chúng, ngay cả các lãnh tụ vốn thân Mỹ cũng sẽ khó lòng chấp nhận các thỉnh cầu của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, việc qua mặt Liên Hiệp Quốc đã làm tăng chi phí kinh tế cho Mỹ sau khi cuộc chiến kết thúc, khiến nhà báo Fareed Zakaria nhận xét rằng “Chính sách đối ngoại kiểu đế quốc chủ nghĩa đãnđem lại kết quả trái ngược. Khi cuộc chiến tranh Iraq kết thúc, chính quyền Mỹ đã chối bỏ bất kỳ hình thức đối tác thực sự nào với thế giới. Mỹ liên tục coi thường Liên Hiệp Quốc.”
Mùa hè năm 2003, chính quyền Bush thoạt đầu phản đối việc Liên Hiệp Quốc giữ một vai trò quan trọng trong việc tái thiết Iraq. Việc này tính ra làm cho Hoa Kỳ tốn đến hơn 100 tỷ đô la, hay khoảng 1.000 đô la trên một hộ gia đình Mỹ. Trong đa phần các sứ mạng gìn giữ hoà bình, Liên Hiệp Quốc tài trợ phần lớn chi phí cho các quốc gia đóng góp quân đội. Trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, liên minh do Tổng thống George H. W.Bush tạo dựng trang trải 80% toàn bộ phí tổn; và trong những vụ can thiệp của Tổng thống Clinton tại nước ngoài, Hoa Kỳ chỉ phải gánh vác 15% phí tổn gìn giữ hoà bình và tái thiết.[45] Khi không có sự ủy thác của Liên Hiệp Quốc, một số quốc gia từ chối tham gia gìn giữ hoà bình tại Iraq, và đối với một số quốc gia tham gia như Ba Lan, Ukraine, Nicaragua, El Salvador, Honduras cùng những nước khác, ước tính Hoa Kỳ đã phải trang trải 250 triệu đô la để giúp họ tham gia.
Một số người theo chủ nghĩa tân bảo thủ biện luận rằng giải pháp họ chọn lựa nhằm né tránh Liên Hiệp Quốc và làm cho Liên Hiệp Quốc mất đi tính chính danh. Đối với những người này, phá được Liên Hiệp Quốc cũng được xem như là một thắng lợi. Họ đánh giá cuộc Chiến tranh Iraq như “một mũi tên trúng hai con chim”: vừa lật đổ được Saddam, vừa làm tổn hại đến Liên Hiệp Quốc. Một số còn kêu gọi thành lập một liên minh mới bao gồm các quốc gia dân chủ để thay thế Liên Hiệp Quốc. Những phản ứng như vậy quên đi một điều là sự chia rẽ chính là giữa các quốc gia dân chủ, và Hoa Kỳ có thể gây ảnh hưởng nhưng không thể một mình quyết định quan điểm của thế giới về tính chính danh của Liên Hiệp Quốc. Hơn nữa, cân bằng mềm nhằm tạo áp lực lên quốc hội của các nước dân chủ có thể được thực hiện bên ngoài khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc. Internet tạo điều kiện cho các phong trào chống đối nhanh chóng triệu tập các nhóm phi tổ chức với cơ cấu lỏng lẻo thay vì những tổ chức có thứ bậc như trước đây. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, tổ chức một cuộc xuống đường đòi hỏi phải chuẩn bị nhiều tuần lễ, có khi cả mấy tháng trời, các tờ truyền đơn, biểu ngữ, các cuộc điện thoại; trải qua bốn năm các cuộc xuống đường này mới có số đông đáng kể, thoạt đầu là 25.000 người, rồi lên đến nửa triệu người vào năm 1969. Để tiện so sánh, 800.000 người tại Hoa Kỳ và 1,5 triệu người tại châu Âu đã tụ họp vào một ngày cuối tuần tháng 2 năm 2003 trước khi cuộc chiến bắt đầu.

Mặc dù những cuộc phản kháng này không đại diện cho cả “cộng đồng quốc tế”, nó gây ảnh hưởng đến quan điểm của các nhà báo, nghị viên và các nhân vật có thế lực tại các quốc gia quan trọng; quan điểm của nhóm này tiêu biểu cho “cộng đồng quốc tế” nêu trên. Mặc dù khái niệm về một cộng đồng quốc tế là không chính xác, ngay cả những người vốn bác bỏ mối quan ngại trên thế giới về phương cách mà Hoa Kỳ đã dấn thân vào cuộc chiến, có vẻ cũng chấp nhận ý kiến nêu trên khi họ cho rằng tính chính danh của Hoa Kỳ sẽ được chấp nhận một khi thu được kết quả khả quan tại Iraq. Cách chính danh hóa hậu kỳ này có thể giúp tái tạo quyền lực mềm của Hoa Kỳ vốn bị đánh mất khi tham chiến, nhưng đồng thời nó cũng cho thấy rằng tính chính danh là quan trọng. Trong những trường hợp khó khăn hơn như với Iran hay Bắc Triều Tiên, Tổng thống Bush tranh thủ quan điểm của cái gọi là “cộng đồng thế giới” mà một số cố vấn của ông cho là “viển vông.” Cuộc đấu tranh liên tục để giành tính chính danh cho thấy sự quan trọng của quyền lực mềm. Đạo đức có thể là sức mạnh trong thực tế.
Chiến tranh Iraq có tác động ban đầu hoàn toàn tiêu cực lên công luận của thế giới Hồi Giáo. Đài truyền hình Al Jazeera (nguồn lực quyền lực mềm của chính phủ Qatar, cũng là nơi đồn trú quyền lực cứng của Hoa Kỳ) chiếu những cảnh dân thường đổ máu hết ngày này qua ngày khác. Một nghị viên Ai Cập nhận xét, “Quý vị không thể tưởng tượng nổi những cuộc hành quân tại Baghdad và các thành phố khác gây phẫn nộ trong công chúng đến mức nào.” Tại Pakistan, một cựu viên chức ngoại giao đã tường trình rằng “việc Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq là món quà tặng cho các đảng phái Hồi Giáo tại đây. Những người trước đây vốn xem thường các đảng phái này thì nay lại đi theo họ thành đoàn.” Tình báo Mỹ và các nhân viên công lực cho hay Al Qaeda và các nhóm khủng bố khác tăng cường việc tuyển mộ trên ba đại lục bằng cách “xoáy vào sự giận dữ ngày càng gia tăng đối với việc Hoa Kỳ mởchiến dịch tấn công Iraq.” Sau khi cuộc chiến kết thúc, các cuộc thăm dò công luận cho thấy công chúng ủng hộ bin Laden hơn trước, và Hoa Kỳ ngày càng mất lòng dân ngay tại các quốc gia thân cận với Hoa Kỳ như Indonesia và Jordan. Trong khi đó, các cuộc thăm dò ý kiến tại châu Âu cho thấy phương cách Hoa Kỳ tiến hành cuộc chiến tranh Iraq đã làm tiêu tan sự thông cảm và thiện chí dành cho Hoa Kỳ sau ngày 11 tháng 9. Hiện nay còn quá sớm để có thể đánh giá những thắng lợi về quyền lực cứng trong cuộc chiến tranh Iraq về lâu dài có hơn được những tổn thất về quyền lực mềm hay không, hay những tổn thất này có lâu dài không. Tuy nhiên cuộc chiến tranh này đã là trường hợp nghiên cứu rất thú vị về sự tương tác giữa hai hình thái quyền lực này.
Hướng về tương lai, nhiều điều phụ thuộc vào hiệu quả chính sách của Mỹ nhằm xây dựng một Iraq tốt đẹp hơn và quá trình vận động hoà bình tại Trung Đông. Ngoài ra, nhiều điều cũng phụ thuộc vào việc những thất bại tình báo và sự thổi phồng chính trị những bằng chứng tình báo này có gây tổn hại lâu dài đến uy tín của chính phủ Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ tiếp cận các quốc gia khác để được giúp đỡ trong những trường hợp như Iran và Bắc Hàn, cũng như trong cuộc chiến tranh chống khủng bố hay không. Tuần báo Anh The Economist nhận định rằng, “Điệp viên phạm sai lầm, chính trị gia thổi phồng… Cuộc chiến tranh, theo nhận định của chúng tôi, đã được biện minh. Nhưng khi vận động sự ủng hộ, ông Bush và ông Blair đã không thẳng thắn với công chúng.”
Những người hồ nghi biện luận rằng các quốc gia cần hợp tác do quyền lợi của họ, vì vậy dù có mất đi quyền lực mềm cũng không phải chuyện to tát. Những người này quên mất một điều là hợp tác cũng có nhiều mức độ khác nhau, và mức độ đó phụ thuộc vào sự thu hút hay ghét bỏ. Họ cũng quên mất một điều là các thành tố phi quốc gia cũng như tổ chức khủng bố không phụ thuộc vào quan điểm của chính quyền. Vào năm 2002, trước khi xảy ra chiến tranh Iraq, đã có phản ứng trước chính sách cứng rắn của Hoa Kỳ tại bán đảo Triều Tiên, dẫn đến giảm sút nhiều – chỉ trong vòng ba năm – tỷ lệ dân chúng Hàn Quốc ủng hộ liên minh với Hoa Kỳ, từ 89% xuống còn 56%. Điều đó sẽ đưa đến những khó khăn trong việc giải quyết tình trạng Bắc Triều Tiên vốn dĩ có nhiều rủi ro. Cho dù là tại Trung Đông hay Đông Á, quyền lực cứng và quyền lực mềm liên hệ chặt chẽ với nhau trong thế giới ngày nay.
– Trích Quyền lực mềm: Phương tiện để thành công trong chính trị thế giới -
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Chống độc quyền tư pháp của một đảng

Ngô Nhân Dụng


“Các bà mẹ bị oan ức, hãy đoàn kết lại!” Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam có thể phát động lời kêu gọi đó, thay cho khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết lại!” của Karl Marx ai cũng biết là hoàn toàn trống rỗng, giả dối.

Trong nước Việt Nam bây giờ, các bà mẹ, các bà vợ đang lo chồng, con có thể chết oan ức, cần kết hợp lại cùng tranh đấu. Phải lật đổ một guồng máy tư pháp vô hồn, tham nhũng, thối nát nằm trong bàn tay đảng Cộng sản, đã kết tội tử hình bao nhiêu người oan uổng, đã dung túng bao cảnh người bị bắt vào đồn công an đánh chết, rồi báo tin nạn nhân tự dưng treo cổ chết.

Bà Nguyễn Thị Loan, người mẹ của tử tội Hồ Duy Hải đã bắt đầu cuộc chiến đấu này, suốt bẩy năm qua, và đã khiến guồng máy tàn bạo, bất nhân bị lay chuyển. Cuộc hành trình của bà từ Thủ Thừa, Long An, ra tới Hà Nội, đi lại nhiều lần, cần được phổ biến cho tất cả phụ nữ trên thế giới biết. Cũng như mọi người đã ca ngợi cuộc hành trình của bà Nguyễn Thị Kim Liên, mẹ người tù vì lương tâm Đinh Nguyên Kha, khi bà đi khắp thế giới vận động đòi tự do cho con. Hai bà mẹ cùng xuất thân từ quận Thủ Thừa là những tấm gương cho các phụ nữ nước ta muốn bảo vệ chồng, con của mình khỏi bị bộ máy kìm kẹp nhân danh công lý của đảng Cộng sản Việt Nam.

Đầu năm 2008 hai nữ nhân viên bưu điện Cầu Voi bị cắt cổ chết. Hai tháng sau, anh Hồ Duy Hải, lúc đó 22 tuổi, bị truy tố là thủ phạm. Tòa sơ thẩm (Long An) và phúc thẩm (Sài Gòn) đã kết án tử hình, mặc dầu không đủ chứng cớ để kết tội anh, ngoài những “lời thú tội.” Nhưng anh Hồ Duy Hải cho biết bản văn tự thú đó hoàn toàn do công an bầy ra bắt anh ký. Anh đã phải ký sau khi bị tra tấn quá không chịu nổi.

Các phiên tòa trên đều bất chấp những quy tắc sơ đảng của pháp luật. Biên bản khám nghiệm nơi xẩy ra vụ giết người của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An cho biết có rất nhiều dấu vết: dấu chân trên sàn nhà, dấu tay dính máu trên cửa và các dấu vân ngón tay trên chiếc gối đè mặt một nạn nhân, trên kính cửa buồng ngủ, cánh cửa nhà vệ sinh, vòi nước rửa tay, trên thanh sắt cài cửa sau, trên công tắc điện, vân vân. Phòng giảo nghiệm thấy không một dấu ngón tay nào giống 10 dấu ngón tay của Hồ Duy Hải.

Các bản cáo trạng trong tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều mô tả chi tiết hành vi giết người của hung thủ, đập đầu nạn nhân bằng cái thớt và cắt cổ bằng con dao, cả hai thứ có sẵn trong bệnh xá. Nhưng công an không đưa ra các tang vật trên mà lại sai một nhân viên bưu điện ra chợ mua con dao và cái thớt về nộp làm tang chứng khi xử án. Bà Loan còn cho biết có “một nhân chứng cho biết không nhìn thấy Hồ Duy Hải tại nơi xẩy ra vụ giết người, nhưng trước tòa án công an vẫn khai là người đó có thấy.” Bà Loan nói rằng nhân chứng này vẫn còn sống và sẵn sàng đứng ra làm chứng điều này.”

Mỗi năm bà Nguyễn Thị Loan lại ra “Văn phòng tiếp dân” của chính quyền cộng sản ở Hà Nội, cầm băng rôn kêu oan hàng tháng rồi đi về, chứ không được ai tiếp nhận đơn. Ngày 25 tháng 11 vừa qua, cán bộ tỉnh đến bảo bà rằng họ sắp tiêm thuốc độc giết con bà để thi hành án tử hình, họ bảo gia đình chỉ cần làm đơn xin nhận xác, hoặc không nhận. Trong cơn tuyệt vọng bà Nguyễn Thị Loan ra Hà Nội một lần nữa, nơi bà đã đến gõ cửa nhiều lần nhưng chỉ gặp những cánh cổng vô tình. Bà tới Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội dự lễ cầu nguyện cho con, tay nâng tấm bảng viết: “Con tôi vô tội! Con tôi không giết người!” Bà đã được báo Lao Động phỏng vấn và được nhiều bloggers đưa tin, hỗ trợ. Cuối cùng, nhờ công lao vận động của bà mẹ và dư luận sôi nổi khắp nước, ngày 4 tháng 12, phó chánh án tòa Long An đã ký giấy hoãn việc chích thuốc độc giết Hồ Duy Hải, đáng lẽ thi hành vào ngày hôm sau. Chỉ hoãn, không hứa hẹn điều tra lại, xét xử lại. Cái án tử hình vẫn treo trên đầu chàng thanh niên 29 tuổi.

“Dư luận ở Long An từ lâu đã đồn rằng, Hải phải chết thay cho người khác vì vụ đó dính dáng đến nhiều người ở trên cao to lắm.” Một blogger đã viết như thế. Nếu những dấu vân ngón tay tại hiện trường không phải của Hồ Duy Hải thì của ai? Tại sao cảnh sát công an điều tra không đi tìm những người bị nghi ngờ khác, có thể mang những dấu ngón tay đó? Chắc chắn cơ quan điều tra đã biết những ngón tay đó là của ai rồi. Trong bẩy năm qua, bao nhiêu cơ quan thẩm quyền tiếp tục nhơn nhơn ngậm miệng, trong khi người mẹ có đứa con mang án tử hình chạy khắp nơi kêu cứu. Bà Nguyễn Thị Loan đã quyết tâm không để cho đứa con mình chết thay cho một hoặc nhiều hung thủ đang nhởn nhơ sống ngoài vòng pháp luật. Cả bộ máy tư pháp, từ công an, viện kiểm sát tới quan tòa được dùng để bảo vệ một quan chức lớn hay một đại gia nào đó. Điều đáng kinh tởm là nhiều tờ báo đã nhận được lệnh là không được viết gì về vụ Hồ Duy Hải.

Bà Nguyễn Thị Loan sẽ còn tiếp tục cuộc tranh đấu, không phải chỉ để cứu sống con trai bà, mà còn muốn cứu chồng, con của bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác. Bà Loan nói: “Tôi ra trước quốc hội cũng không ai cho tôi nói hết… Tới trước tòa tôi cũng bị công an đuổi. Tôi đi đến đâu khiếu kiện và biểu tình thì công an đều đuổi tôi đi. Không ai giải quyết cho con tôi hết. Nếu ai cũng im lặng và bỏ qua thì rồi có thể một ngày nào đó, con cháu bạn cũng sẽ là một nạn nhân như Hồ Duy Hải.”

Lời kêu gọi của Bà Nguyễn Thị Loan sẽ có nhiều người hưởng ứng vì thông cảm. Báo chí đã loan tin rất nhiều vụ án oan khuất. Ông Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Phòng bị cáo buộc giết một thiếu tá công an để cướp xe máy buổi tối năm 2007, ở Hải Phòng. Blogger Nguyễn Tường Thụy vẫn theo dõi vụ này. Nguyễn Văn Chưởng, 31 tuổi, đã chứng minh được rằng lúc xảy ra vụ giết người thì ông ở xa chỗ đó tới 40 cây số. Nhiều người bạn và em trai anh làm chứng vào lúc xẩy ra vụ giết người, từ 19 giờ đến hơn 21 giờ ngày 14 tháng 7, 2007, Chưởng đang gặp những ai, đi nhậu với ai. Ðặc biệt trong thời gian xảy ra vụ án, số điện thoại 0974863087 của Chưởng có rất nhiều lần gọi đến và gọi đi. Nhưng khi cung cấp bảng kê các cú điện thoại đó, họ cũng lờ không nhận.

Nguyễn Trọng Ðoàn, em trai Chưởng kể rằng bị công an bắt, “Còng tay xong, họ thay nhau đấm đá em, bắt em phải khai là anh em sáng 15 tháng 7, 2007, mới nhà về thì họ mới thả em. Không chịu được những trận đòn trí mạng, Nguyễn Trọng Ðoàn đành phải khai theo sự chỉ đạo của cán bộ điều tra. Nhưng sau đó Đoàn cũng bị đưa ra tòa và xử hai năm tù chỉ vì muốn thanh minh cho anh, gây trở ngại cho guồng máy tư pháp đảng Cộng sản.

Chưởng kể với phóng viên báo Người Ðưa Tin: Những vết tích khi bị tra tấn, chịu nhục hình vẫn in hằn trên thân thể em. Không chỉ dùng hình với em, họ còn đe dọa lấy tính mạng người thân trong gia đình em. Lúc đó em chỉ có một suy nghĩ là cần hy sinh để bảo vệ người thân và không còn cách nào khác là phải nghe theo họ.

Năm 2005 xẩy ra vụ ông Hàn Đức Long ở Bắc Giang bị kết tội “hiếp dâm trẻ em” và “giết người” rồi bị cả Toà án Bắc Giang lẫn Tòa án Tối cao tuyên án tử hình hai lần. Ông Long tố giác công an đã tra tấn ông để buộc ông nhận tội, nhưng ông đành “nhận tội” với hy vọng có thể sống sót để kêu oan trước tòa. Cho đến nay, dù sau gần 10 năm bị bắt, tử tù Long vẫn không ngừng kêu oan. Bà Nguyễn Thị Mai, vợ ông Long, vẫn thay chồng đều đặn gửi đơn, thư "gõ cửa" không biết bao nhiêu cơ quan, thuộc lòng từng địa chỉ. Bà nói:
"Tối hôm xảy ra vụ án, tôi ở nhà với chồng, tận mắt thấy chồng đi xát gạo về rồi ăn cơm với cả nhà thì làm sao anh ấy gây án được?”

Ông Nguyễn Thanh Chấn cũng ở Bắc Giang đã được trả tự do vào đầu tháng 11, sau 10 năm thi hành bản án chung thân về “tội giết người.” Ông được tòa tuyên bố vô tội sau khi thủ phạm thật sự đã ra đầu thú. Ông nói đã bắt buộc phải nhận tội sau khi bị cán bộ công an tra tấn. Nên nhớ rằng chính quyền cộng sản Việt Nam đã ký Công ước Liên Hiệp Quốc chống Tra tấn UNCAT. Nhưng trong tất cả các vụ án oan khuất trên đây, công an cộng sản vẫn dùng tra tấn, nhục hình kết án, giết người vô tội.

Một vụ án từ năm 1998 cũng mới được xét lại. Huỳnh Văn Nén ở tỉnh Bình Thuận bị cáo buộc giết người cướp của. Ông bị tù chung thân dù đã khai bị điều tra viên đánh đập, mớm cung, ép cung. Bây giờ người ta công nhận trong việc khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra không thu giữ được số vật chứng, như ổ khóa nhà nạn nhân và một chỉ vàng 24K bị cướp, và cả sợi dây ông Nén đã “khai” dùng để siết cổ nạn nhân, sau khi bị đánh đập. Các lời khai nhận tội cũngmâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với lời khai của con bà Bông và một số nhân chứng khác.

Những vụ điều tra gian dối, xử án oan ức trên đây chỉ là những thí dụ cho thấy cả guồng máy tư pháp tại Việt Nam là một đảng mafia nhỏ nằm trong đảng mafia lớn là đảng Cộng sản. Bắt người vô tội vào đồn công an đánh đến chết. Ngụy tạo tang chứng. Nhắm mắt, bịt tai không nghe không nhìn sự thật. Cả guồng máy tư pháp chỉ được sử dụng để bảo vệ quyền hành của đảng và quyền lợi các đảng viên, từ lớn đến nhỏ. Đây chỉ là một hậu quả của chủ trương chuyên chính vô sản mà ông Karl Marx đã đề nghị trước đây 160 năm mà chính ông không thể tưởng tượng nó sẽ biến hóa thế nào. Khi một nhóm người chiếm độc quyền cai trị cả nước, tự tung tự tác hơn nửa thế kỷ, thì guồng máy chuyên chế đó chắc chắn sẽ sinh ra những đám mafia thao túng tất cả các lãnh vực, từ kinh tế, văn hóa, chính trị đến tư pháp, bất chấp đạo đức cũng như công lý.

Ai có khả năng lật đổ guồng máy tư pháp mafia này? Những người như bà Nguyễn Thị Loan mẹ anh Hồ Duy Hải bà Nguyễn Thị Mai, vợ ông Hàn Đức Long, hay bà Nguyễn Thị Kim Liên mẹ anh Đinh Nguyên Kha, có thể đứng lên tranh đấu, nhân danh các bà mẹ, các bà vợ bảo vệ mạng sống và tự do của con, của chồng mình. Các bà mẹ oan ức có thể cứu bao nhiêu nạn nhân vô tội có thể bị nền tư pháp mafia giết trong tương lai.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Giá dầu lửa xuống hại Putin

Ngô Nhân Dụng
Ngày hôm qua đồng tiền của Nga lại mất giá mặc dầu hôm trước, 11 tháng 12, mới tăng lãi suất lên 10.5% mỗi năm. Lãi suất ở Nga đã tăng năm lần kể từ đầu năm 2014 luôn một điểm. Tiền Nga xuống thấp kỷ lục, 58 rúp đổi một đô la Mỹ so với giá 53 rúp hôm đầu tuần. Ðồng rúp đã mất 20% giá trị kể từ khi bà Elvira Nabiullina, thống đốc Ngân Hàng Trung Ương bắt đầu chính sách thả nổi cho đồng tiền lên xuống theo thị trường. Mà trong thị trường, các người có tiền ở Nga chỉ tính đổi lấy đô la Mỹ hoặc đồng Euro. Ông Putin chỉ hy vọng trong tháng tới nhiều người sẽ cần giữ đồng rúp để đóng thuế cuối năm, áp lực sẽ giảm bớt.

Một lý do khiến đồng rúp mất giá là một số ngân hàng và xí nghiệp Nga bị các nước Mỹ và Châu Âu phong tỏa, vì ông Putin giúp những người Nga muốn ly khai ở Ukraine. Tuần trước, ông Vladimir Putin mới đe dọa sẽ “trừng phạt” những người đầu cơ làm mất giá đồng rúp, nhưng không ai sợ. Vì họ có đủ lý do chính đáng để đi tìm mua đô la. Các công ty và ngân hàng bị phong tỏa đều thuộc phe cánh của ông Putin; họ không còn được phép sử dụng các dịch vụ tài chánh của Mỹ và Châu Âu nữa nên chỉ còn cách đi mua đô la trong thị trường, kể cả chợ đen. Nhưng lý do quan trọng hơn, và khó chữa được, là giá dầu lửa trên thế giới đã và còn đang giảm mạnh. Mà kinh tế nước Nga tới nay vẫn hoàn toàn lệ thuộc vào việc bán dầu và khí đốt.

Gần một nửa (44%) ngân sách chính phủ Nga là do tiền bán mỗi ngày 7.5 triệu thùng dầu. Tiền bán dầu chiếm hơn một nửa (54%) số tiền thâu nhờ xuất cảng. Ngay trong thập niên 1980 vào lúc chiến tranh lạnh căng thẳng nhất, Liên Xô cũng vẫn tiếp tục xuất cảng dầu sang các nước tư bản để lấy Mỹ kim. Trong hai chục năm qua Putin không cải tổ cơ cấu kinh tế Nga, vẫn tiếp tục dựa trên những gì đào được ở dưới đất lên, là dầu, khí và quặng mỏ. Putin cũng trấn áp các nhà kinh doanh tư, tịch thu nhiều xí nghiệp tư lớn để biến thành quốc doanh, và bao bọc những đàn em thân tín khiến cho hiệu năng của nền kinh tế không tăng lên được.

Dầu lửa xuống giá hoàn toàn do luật cung cầu. Hiện nay số dầu đem ra bán trên thế giới cao hơn nhu cầu tiêu thụ ở khoảng 30 triệu thùng mỗi ngày, mỗi ngày số cung cao hơn một triệu thùng. Trong khi đó không quốc gia sản xuất dầu nào có ý định giảm bớt máy bơm lên để giữ giá cao. Khối OPEC hôm qua mới tiên đoán năm tới nhu cầu tiêu thụ của thế giới sẽ chỉ còn 28.9 triệu thùng mỗi ngày. Hôm qua, giá dầu thô tiêu chuẩn quốc tế (Brent crude) xuống dưới 65 đô la một thùng, năm tháng trước đây giá dầu vẫn còn là 100 đô la. Ngân sách chính phủ Nga được tính toán dựa trên giá dầu 100 đô la. Bộ trưởng dầu lửa Iran tuyên bố giá dầu có thể xuống tới mức 50 đô la một thùng, hoặc thấp hơn nữa, 40 đô la. Công ty tài chánh Merrill Lynch tiên đoán giá dầu trong năm 2015 sẽ còn giảm thêm, xuống 55 đô la một thùng. Kinh tế Nga sẽ còn khó thoát cơn suy thoái nếu số cung dầu lửa trên thế giới không giảm xuống đồng loạt.

Trong tháng trước, các nước sản xuất dầu trong khối OPEC đã họp bàn về giá cả, và nước sản xuất nhiều dầu nhất là Saudi Arabia không chịu cắt giảm số dầu hút lên khiến các nước khác cũng phải đồng ý không cắt sản lượng, mặc cho giá dầu tiếp tục xuống. Giá sẽ còn ở mức 65 đô la trong ít nhất nửa năm nữa.

Thay vì giảm số lượng dầu, Saudi đã tự ý giảm giá cho khách hàng. Ngày Thứ Tư, 10 tháng 12, Bộ Trưởng Năng Lượng Ali al-Naimi của Saudi được hỏi: “Bao giờ quý vị giảm bớt dầu sản xuất?” Ông hỏi lại: “Tại sao lại phải giảm số sản xuất?” Tháng 9 vừa rồi, Saudi đã giảm giá mỗi thùng dầu thô một đô la cho các nước Châu Á. Trong vòng một tuần lễ, các nước Iraq, Kuwait cũng theo gương đó. Các nước Á Châu đều được hưởng giá dầu thấp nhất từ sáu năm nay. Kuwait hứa sẽ đại hạ giá gần 4 đô la một thùng dầu ($3.95/thùng) cho các nhà máy lọc dầu

Những nước tiêu thụ dầu được lợi nhờ giá hạ. Nếu giá tiếp tục tại mức $65 hiện nay cho hết năm 2015, các nước tiêu thụ sẽ được lợi 500 tỷ đô la. Ba nước tiêu thụ dầu lửa nhiều nhất thế giới là Mỹ, Trung Quốc, và Nhật Bản. Giá xăng ở Mỹ sẽ xuống trung bình $2.5 một ga lông vào đầu năm tới, dân chúng Mỹ sẽ tiết kiệm được mỗi nhà $750 tiền xăng trong năm 2015. Nhờ họ thêm tiền tiêu thụ, kinh tế Mỹ sẽ được kích thích mạnh.

Ngược lại, các nước xuất cảng dầu sẽ bị thiệt thòi. Riêng Saudi Arabia, nếu giá dầu không tăng lên trong nửa năm hay tám tháng nữa, họ sẽ thiệt mất 117 tỷ đô la một năm. Kuwait sẽ mất 32 tỷ đô la, bằng 20% tổng sản lượng nội địa (GDP). Các nước xuất cảng dầu đều thiệt thòi, từ những nước nhỏ nhất như Algeria và Nigeria.

Ðặc biệt là các nước đang thù nghịch với Mỹ đều xuất cảng dầu để sống. Kinh tế Nga hiện đang suy thoái, tức là GDP giảm xuống thay vì tăng lên, sẽ bị thiệt 100 tỷ đô la nữa chỉ vì giá dầu xuống, tức là mất 5% tổng sản lượng nội địa. Iran cũng như Nga, vừa bị phong tỏa kinh tế, vừa lệ thuộc dầu lửa xuất cảng, GDP cũng sẽ giảm mất 5%. Venezuela, một nước đối nghịch với Mỹ cũng lâm nguy vì lệ thuộc tiền xuất cảng dầu; chưa kể là xứ Cuba cũng sẽ khốn khó vì lệ thuộc vào trợ cấp dầu lửa của Venezuela. Một thù địch của Mỹ hiện nay là Quốc Gia Hồi Giáo (Islamic State) đang hoành hành ở Iraq và Syria. Hiện nay nhóm dân quân này sống nhờ tiền bán dầu lửa, từ những nhà máy lọc dầu ở Syria, bán trong thị trường chợ đen quốc tế. Giá dầu xuống thì số vũ khí họ mua được cũng giảm.

Nhưng nước xuất cảng dầu mất thế khiến giới đầu tư quốc tế không muốn cho họ vay. Các công ty và ngân hàng ở Nga khi đi vay phải trả lãi suất cao hơn lúc bình thường. Vì giới đầu tư không biết tương lai kinh tế Nga sẽ xuống tới mức nào, và những xí nghiệp, ngân hàng đi vay tiền mai mốt có khả năng trả nợ hay không. Một hậu quả là trái khoán của các nước chuyên sống nhờ xuất cảng dầu đều mất giá, vì người mua không tin tưởng vào các giấy nợ đó nữa. Một trái khoán của chính phủ Venezuela vay bằng đô la Mỹ, đến năm 2027 mới đáo hạn phải trả lại vốn, nhưng trong ngày Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014, đã xuống giá chỉ còn bán được với giá bằng 44%, tức là trái khoán 1000 đồng chỉ bán được giá 440 đồng, mặc dù ai mua đều được hứa hẹn sẽ được trả đủ 1000 đồng trong 13 năm nữa. Tương tự, một trái khoán của chính phủ Kazakhstan, đáo hạn trong 10 năm nữa, chỉ bán được với giá 90%.

Tình trạng dầu lửa xuống giá sẽ còn kéo dài, kinh tế các nước như Iran, Nga, Venezuela sẽ còn gặp khó khăn, vì Saudi Arabia vẫn tiếp tục bơm dầu lên, kéo theo cả khối OPEC không cắt giảm bớt số sản xuất. Tại sao Saudi Arabia không chịu ngưng bơm dầu để giữ giá cao? Vì họ đã rút kinh nghiệm những lần giảm sản xuất để giữ giá trong quá khứ. Mỗi lần Saudi Arabia giảm bớt dầu xuất cảng, thì các nước khác, kể cả nhiều nước trong khối OPEC vẫn lén bán dầu với giá thấp hơn. Thiệt hại tiền bạc không đáng kể, nhưng hoàng gia Saudi Arabia giận nhất là mỗi lần như vậy các nước khác đã nhân cơ hội chiếm mất các thị trường của họ, bằng cách cắt giá bán với những hợp đồng dài hạn.

Nhưng một lý do khiến năm nay Saudi Arabia không muốn giữ giá dầu cao là vì họ muốn “triệt hạ” một số công ty dầu lửa Mỹ, nhưng “đối thủ” đang đe dọa không những tiền bạc mà cả địa vị của Saudi Arabia trên thế giới. Ðó là các công ty Mỹ đang khai thác dầu bằng phương pháp mới, bơm dầu từ lòng khe đất đá chứ không cần tìm đến các túi dầu lớn. Ðúng ra, họ dùng chất lòng đẩy dầu ra khỏi các mạch đất, đá. Phương pháp này giúp các công ty bắt đầu khai thác các vùng đất đã bị bỏ qua trong thế kỷ trước, vì nơi đó có dầu nhưng không đọng lại trong các túi lớn để bõ công đào. Họ cũng khai thác lại những vùng có túi dầu nhưng đã cạn, bị bỏ hoang từ lâu, nhưng vẫn còn dầu đọng trong các mạch đất, đá.

Hoạt động này bắt đầu từ năm 2008, khi người ta khai thác mỏ dầu đầu tiên với kỹ thuật mới tại Cotulla, một thị trấn nhỏ nằm giữa thành phố San Antonio và biên giới Mexico, trong tiểu bang Texas. Trong những năm 2009, 2010, giá dầu lửa trên thế giới gia tăng khuyến khích người Mỹ đầu tư vào kỹ thuật mới nhiều hơn. Phương pháp mới đã giúp gia tăng số lượng dầu, khí sản xuất ở Mỹ, khiến nước Mỹ ngày càng bớt lệ thuộc vào dầu nhập cảng từ khối OPEC, kể cả Saudi Arabia. Năm 2008, nước Mỹ chỉ sản xuất 4.7 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, năm nay con số lên tới 8.9 triệu thùng, gần gấp đôi. Tháng 8 năm 2008, các nước OPEC bán sang Mỹ 180.6 triệu thùng dầu. Tháng 8 năm nay, Mỹ chỉ còn mua của các nước này gần 93 triệu thùng, giảm gần một nửa. Nước Mỹ còn đe dọa địa vị của vương quốc Saudi khi nào bắt đầu xuất cảng dầu ra thế giới, một điều cho đến nay các công ty Mỹ vẫn bị cấm.

Chính phủ Saudi tính rằng chi phí hút dầu theo lối mới rất tốn kém; nếu giá dầu lửa xuống thấp thì sẽ tới lúc việc khai thác dầu theo lối mới không còn lợi nữa. Như vậy, chính các công ty dầu ở Mỹ sẽ bị đe dọa, phải ngưng sản xuất để khỏi lỗ vốn. Hơn nữa, các công ty này sẽ ngưng không đầu tư mở thêm các công trường hút dầu mới. Như vậy thì địa vị thống ngự thế giới bằng dầu lửa của Saudi sẽ vững vàng được lâu hơn. Vì thế, Saudi chấp nhận thu vào ít tiền hơn trong một năm, hai năm nữa, nếu cần.

Chiến lược dìm giá dầu của Saudi Arabia đã gây ra kết quả như họ mong muốn. Công ty Mỹ Continental Resources đang khai thác dầu theo lối mới ở North Dakota đã quyết định sẽ giảm ngân sách đầu tư trong năm tới bớt 600 triệu đô la, chỉ còn 4.6 tỷ đô la. Công ty ConocoPhillips cũng sẽ giảm bớt 20% trong ngân sách đầu tư mới.

Trận chiến sẽ còn tiếp diễn. Chính phủ Saudi Arabia muốn bảo vệ địa vị của họ trong thị trường dầu lửa, nên tiếp tục để cho dầu xuống giá cốt gây khó khăn cho các công ty dầu Mỹ. Nhưng hành động của họ sẽ làm hại cho ông Vladimir Putin nhiều nhất. Ông Putin sẽ chịu đựng được tới bao giờ? Thật ra, câu hỏi chính là: Dân Nga sẽ chịu đựng được ông Putin đến bao giờ?
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


CSVN Thiểu Năng, Khôn Vặt Nên Tưởng Không Ai Biết Chúng Giở Trò...


Le Nguyen
Khoa học đã sử dụng nhiều thí nghiệm sinh học để chứng minh “di truyền sinh học” là sự kiện di truyền đặc tính tốt lẫn xấu, từ đời này sang đời khác, từ tổ tiên ông bà đến con cháu đời sau và hiện tượng “di truyền quán tính”không phải là quy luật sinh học di truyền của loài người vốn có. Di truyền quán tính là sản phẩm mang tính đặc thù của các chế độ cộng sản sản xuất, làm ra, phát tán bừa bãi trong cuộc sống xã hội chủ nghĩa và nó cũng là sự kiện di truyền có thật trong đời sống cộng sản. Đặc biệt di truyền sinh học có cả đặc tính tốt lẫn xấu nằm dưới dạng bẩm sinh nhưng di truyền quán tính chỉ có duy nhất đặc tính xấu được nhồi nhét vào đầu để sản phẩm con người trở thành cái máy, chỉ biết phát tiếng nói theo nút đóng mở do lập trình cài sẵn.

Di truyền quán tính của con người cộng sản, nhất là di truyền quán tính của CSVN manh tính đặc thù không lẫn vào đâu được: thứ nhất là di truyền thiểu năng trí tuệ; thứ hai là di truyền khôn vặt, nói theo ngôn ngữ của giai cấp công nông là môi mép lẻo lự, láo cá vặt...và những câu lời di truyền quán tính thể hiện sự thiểu năng trí tuệ, láo cá vặt...truyền từ lãnh đạo đời đầu, đời giữa đến đời nay, xuống đến ban, bộ, ngành các cấp lãnh đạo và ăn sâu vào đời sống của hầu hết cán bộ, đảng viên đảng CSVN, thường nghe nói lẫn bắt gặp trong các loại tài liệu giáo dục tẩy não của tuyên giáo cộng sản như sau:

“...Ai có thể sai chứ đồng chí stalin, đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được...Mấy cái đảo hoang ngoài khơi đó của ai thì tôi không rõ lắm nhưng cũng chỉ là mấy cồn đá hoang toàn phân chim ỉa. Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi (Hồ Chí Minh)...”

Hậu quả câu nói thiểu năng của Hồ Chí Minh “...đồng chí Stalin, đồng chí Mao Trạch Đông không thể sai được...” nên Hồ Chí Minh vâng lệnh Mao, ra lệnh cho đám cộng sản di truyền tố chất thiểu năng gây ra cuộc cải cách ruộng đất long trời đất lở, cướp đi mạng sống của chừng hai chục vạn dân Việt Nam cùng với việc gây ra cuộc chiến tranh đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng cho Liên Xô – Trung Quốc như lời nguyên tổng bí thư Lê Duẩn “hãnh diện” thú nhận.

Cũng như hậu quả của câu nói “... Mấy cái đảo hoang chim ỉa ngoài khơi đó....Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi...” là sự hình thành công hàm Phạm Văn Đồng gián tiếp công nhận mấy cái đảo hoang chim ỉa đó là của Trung Cộng nên ngày nay Trung Cộng mới có cớ áp đặt bản đồ lưỡi bò lên 80% biển đông!

Tuy vậy điều đáng quan ngại hơn cả, là sự hiểu biết giới hạn về Hoàng Sa, Trường Sa đã di truyền vào bộ não quán tính của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên nên chúng như cái máy được lập trình, là lặp lại các đảo Hoàng Sa, Trường sa chỉ là “bãi hoang chim ỉa” trong một thời gian dài trong nội bộ đảng CSVN. Mới đây là ông Ba Náo nguyên bí thư chi bộ, hiện đang là ủy viên chi bộ lặp lại lời Hồ Chí Minh “...Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa...” ông ta phát biểu trong cuộc họp chi bộ kiểm điểm ông Tống Văn Công cựu tổng biên tập báo Lao Động.

Hiện tượng di truyền quán tính thiểu năng trí tuệ, khôn vặt như trẻ con...còn được thể hiện qua các phát ngôn của các lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản, ở mọi nơi mọi lúc trong mọi bộ, ban, ngành của đảng lẫn nhà nước CSVN, cụ thể có những câu sau và những ai có đầu óc tỉnh táo đều không khỏi rùn mình ghê sợ:

“...Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...dân chủ của ta cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản (phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan)... Người bạn láng giềng lớn, muốn hay không cũng phải ăn đời ở kiếp với nhau, có ai chọn được láng giềng đâu (tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng)...”

Có lẽ ai cũng biết, lãnh đạo các nước dân chủ văn minh, tiên tiến không ai đem dân chủ ra để so sánh hơn kém, chỉ có những lãnh đạo thiểu năng trí tuệ mới khen dân chủ ta là dân chủ hơn như bà phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan. Dân chủ là những hiện thực được thể hiện cụ thể trong cuộc sống không cần phải tốn nhiều công sức tiền bạc để tuyên truyền cổ động và người dân thời a còng(@) thừa hiểu biết để hiểu thế nào là dân chủ, thế nào là phi dân chủ? Thực ra chỉ những chế độ chống lại xu thế dân chủ mới cần đến chiêu trò bịp bợm để che dấu bản chất phi dân chủ, phản dân chủ của nó.

Về lời phát ngôn của ông Nguyễn Phú Trọng không khó để nhận ra đó là lời ngụy biện của người không lú thì cũng là môi mép lẻo lự, láo cá vặt nhằm đối phó với sự phẫn nộ của ngưới dân chống Tàu xâm lược và che dấu sự hèn nhược của kẻ đứng đầu đảng lãnh đạo. Nếu không thiểu năng hẳn ai cũng thấy nằm đằng sau các con chữ “láng giềng lớn, không ai chọn được láng giềng, phải ăn đời ở kiếp...” của ông Trọng phun ra, hàm chứa tư tưởng bi quan yếm thế, đầu hàng giặc trước khi đánh giặc, là lời của các tên tay sai nằm vùng đã di truyền sang bộ não và phát ra thành lời “vừa hợp tác vừa đấu tranh” của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, “giữ nguyên hiện trạng” của bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh...về mối “quan hê hũu nghị” với láng giềng đầy tham vọng bá quyền đại hán.

Mọi người đều biết, việt Nam không phải là láng giềng duy nhất của Tàu Cộng và không có láng giềng nào của Tàu Cộng có lời nói, hành động cam chịu phận tôi đòi như các lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể là các láng giềng Bắc Hàn, Nam Hàn, Đài Loan, Phi, Mã...kể cả Miến Điện, Lào...nhỏ yếu hơn vẫn không chịu nhục, nhượng bộ hết đòi hỏi này đến đòi hỏi khác của tàu Cộng. Nhượng bộ đến độ vô lý và khó hiểu trừ phi là do những ràng buộc bí mật của hai đảng, hai chính phủ Viêt – Tàu?

Hiện tượng di truyền quán tính thiểu năng trí tuê, láo cá vặt không chỉ tập trung ở các lãnh đạo cao cấp của cộng sản mà nó được truyền lại cho các cán bộ cấp trung, cấp thấp lẫn hầu hết đảng viên đảng cộng sản và để thấy rõ hơn di truyền quán tính của cộng sản, chúng ta cùng nhau đọc một số phát ngôn tiêu biểu của các loại thiểu năng, láo cá lẻo lự này:

“...Chúng tôi nghiên cứu đồng bằng sông Cửu Long, đến vùng này tôi thấy tình hình đi làm thuê và bán vé số rất phổ biến nhưng có thu nhập cao, họ đủ trang trải cho một ngày ăn ( bộ trưởng ủy ban dân tộc Giàng Seo Phử)...

...So với quy định, loại nhiều nhất cũng chỉ cao hơn 2-3 lần. Mức này là cực kỳ an toàn và người tiêu dùng đã sử dụng số hoa quả mà chúng tôi phát hiện nhiễm độc vẫn đang còn rất an toàn( cục trưởng cục bảo vệ thực vật Nguyễn Xuân Hồng)...

...Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông... (Phùng Quang Thanh)...

...Học kém thì đạo đức không thể tốt được (bộ trưởng giáo dục đào tạo Phạm Vũ Luận)...

...Một khi có bệnh, đi khám chữa bệnh thì vẫn có thể khỏi bệnh, có thể biến chứng, tai biến và có thể tử vong. Còn khám chữa bệnh là còn sai sót. Tai biến y khoa là điều không thể tránh trong y học, có những điều y học bất lực.” (Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến)...

...Quốc Hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai? (Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng)”

Đọc qua những phát ngôn của lãnh đạo đương thời lẫn những câu phát ngôn mang tính lịch sử của các thế hệ lãnh đạo đảng CSVN. Không cần diễn giải ai cũng có thể nhận ra di truyền quán tính “thiểu năng, khôn vặt” mang tính hệ thống, thối không ngửi được, ngu không thể tưởng luôn tồn tại trong con người cộng sản. Từ đó chỉ ra di truyền quán tính cộng sản để mọi người đấu tranh cùng góp phần ngăn chận, tiêu trừ thiểu năng trí tuệ, khôn vặt cộng sản bất khả cải tạo nhưng chúng cứ hiu hiu tự đắc, tự nghĩ mình là “đỉnh cao trí tuệ” và hiện tượng này đang có nguy cơ lây lan gây ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của con ngưòi Việt Nam.

Hiện tượng di truyền quán tính cộng sản dễ nhận diện nhất là những lý luận, lập luận rất trẻ con đang phổ biến rộng rãi trong đầu óc thiểu năng, khôn vặt, môi mép lẻo lự... của các văn nô bồi bút, báo nô, dư luận viên...qua các bài viết nói đi nói lại cùng một luận điệu vắng bóng trí tuệ, không thể chối cãi hay biện minh được. Điển hình là lý luận, lập luận mê cuồng của tên bồi bút đầu to óc trái nho Đông La. (Nếu cần sẽ có bài viết về tên này.)

Chẳng hạn như khi người dân bức xúc lên án tham nhũng tràn lan hết thuốc chữa trong đảng, trong chế độ thì những đối tượng này hùa nhau cãi rằng “tham nhũng, hối lộ ở đâu, nước nào chẳng có...” hay khi nói đến việc nhà nước để cho người “hoa” ngênh ngang đi lại, tự do lập phố xá trên lãnh thổ Việt Nam thì chúng nhốn nháo tranh nhau cãi rằng “Mỹ, Anh, Úc, Pháp, Đức... đâu cũng có phố Tàu...phố Tàu ở Việt Nam là chuyện bình thường... đừng lợi dụng tự do dân chủ nói xấu đảng, nhà nước...” hoặc khi những người dân hiểu biết lên tiếng đòi những quyền chính đáng của mình thì chúng lại lu loa theo lập trình của tuyên giáo bảo rằng “...bị các thế lực thù địch xúi dục, là nhận tiền nước ngoài tuyên truyền chống phá, âm mưu lật đổ...”

Thời đại tin học này, nếu không thiểu năng, khôn vặt thì không ai lý luận, lập luận như thế cả bởi tham nhũng ở đâu, thời nào cũng có nhưng không phải phổ biến như trong nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam - là ở đâu, chỗ nào cũng có tham nhũng, ngay cả những nơi nắm giữ giềng mối, nền tảng ổn định xã hội như các cơ quan thi hành luật pháp, nơi sản sinh đào tạo con người như giáo dục, nơi thể hiện lòng yêu thương giữa người với người như nhà thương...còn phải đút lót hối lộ, tham nhũng, phong bao, phong bì không thể ngăn chận thì còn gì để biện hộ cho tham nhũng nữa?

Chưa kể tham nhũng ở đâu cũng có nhưng trong các nước dân chủ tiên tiến khó tồn tại với tai mắt của người dân, của các cơ quan truyền thông, báo chí độc lập và không ai được bao che, được đứng trên, đứng ngoài luật pháp kể cả lãnh đạo tối cao của chính quyền, của đảng cầm quyền. Tất cả không có ngoại lệ, mọi người đều phải trả giá cho những vi phạm luật pháp dù lớn dù nhỏ, không phân biệt ít hay nhiều - tham nhũng là tham nhũng đều bị luật pháp trừng trị thích đáng bằng án tù, bằng sinh mệnh chính trị của chính họ!

Cũng như phố tàu đầy dẫy trong các nước dân chủ tiên tiến nhưng khác biệt của nó là chủ của các phố Tàu là công dân bản xứ nằm dưới sự kiểm soát của luật pháp nước sở tại. Cụ thể như phố Tàu ở Mỹ do người Mỹ gốc hoa, người Mỹ gốc Đài loan, người Mỹ gốc Hongkong, người mỹ gốc âu châu..cũng có thể là người Mỹ chính gốc làm chủ. Đặc biệt, cho dù ai làm chủ đi nữa thì vẫn phải nằm trong khuôn khổ luật pháp nước Mỹ chi phối chứ không như phố Tàu, làng Tàu, khu công nghiệp Tàu, khu nông lâm nghiệp Tàu... không phải là người Việt, công dân Việt làm chủ và những “ông chủ Tàu này” còn được ưu đãi, có đặc quyền khai thác 50 năm, 100 năm, thậm chí là không một người dân Việt Nam mang tiếng là làm chủ đất nước được héo lánh, đến gần xem chúng làm trò gì trong mảnh đất “sở hữu toàn dân”của mình?

Đáng ghê tởm hơn cả là những ai can đảm lên tiếng phản biện những chính sách sai trái đó, chỉ ra những luận điệu ngụy biện dối trá của đảng, nhà nước CSVN, dũng cảm thể hiện quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ quan điểm chính kiến đúng như luật pháp Việt Nam quy định cũng như theo lời Việt Nam hứa hẹn, cam kết tuân thủ thi hành với quốc tế về các giá trị chung về quyền con người.

Những con người can đảm này đều bị các tên thiểu năng, khôn vặt đồng ca dưới chiếc gậy chỉ huy của tuyên giáo nhốn nháo với ngôn ngữ chợ búa như: “...vì tiền nói xấu dân tộc, chống phá tổ quốc...bị các thế lực thù địch mua chuộc, vu khống đảng, nhà nước vi phạm nhân quyền...các cơ quan chức năng cần có biện pháp cứng rắn hơn...”

Khi những ồn ào ngôn ngữ chợ búa của đám di truyền quán tính không hù dọa, không ngăn cản được những con người can đảm đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do ngôn luận... đòi quyền con người của người dân Việt Nam bị cầm tù trong bốn bức tường thiểu năng trí tuệ, khôn vặt của CSVN và khi không đạt hiệu quả trong việc “nói xấu” thì chúng giở trò khôn vặt qua việc áp đặt “tội lơi dụng quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân” qua các bài viết đăng tải trên blog cá nhân như là bằng chứng buộc tội để cầm tù bịt miệng họ như các trường hợp... Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập...

Đối với những cá nhân đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền, bảo vệ nhân quyền mà văn nô bồi bút, báo nô, dư luận viên... không thể khống chế được trên mặt trận tuyên truyền và không đủ bằng chứng, yếu tố buộc tội lợi dụng tự do dân chủ để tống tù thì mật vụ, an ninh cộng sản vào cuộc giả dạng côn đồ hành hung tàn bạo nhằm dập tắt các tiếng nói đấu tranh kiên cường, thách thức bạo quyền cộng sản như các nạn nhân...Trần Thị Nga, Trương Văn Dũng, Nguyễn Văn Thạnh, Huỳnh Ngọc Tuấn, Trương Minh Đức, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Hoàng Vi, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh...các tín đồ, các cơ sở tôn giáo...

Những hành động bất chính, giở trò dơ bẩn, ném đá dấu tay của CSVN đối với các tôn giáo, các cá nhân đấu tranh cho tự do, dân chủ, đấu tranh đòi quyền làm người phải được thực thi trong thực tế cuộc sống. Điều đó chỉ ra cho thế giới thấy, chúng đã vi phạm cam kết quốc tế, vi phạm luật pháp của chính chúng làm ra là không thể chối cãi. Thế nhưng vì mang trong người đặc tính thiểu năng trí tuệ, khôn vặt môi mép do yếu tố di truyền quán tính nên CSVN cứ đinh ninh là chuyện chúng bịa đặt nói xấu... sử dụng luật pháp kết tội lợi dụng... lệnh cho công an giả dạng côn đồ hành hung những người đấu tranh cho dân chủ, đấu tranh bảo vệ nhân quyền, là không ai biết, không ai nhận ra trò khôn ranh kiểu con nít của chúng để chúng mồm loa mép vải, lẻo lự trên diễn đàn quốc tế như Nguyễn Tấn Dũng: “...nhân quyền được bảo đảm...nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người...”
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »


Từ ISIS nghĩ về Khmer Đỏ

Trần Vinh Dự
(Nguồn: VOA)


ISIS, viết đầy đủ là “Islamic State in Iraq and al-Sham” (Nhà Nước Hồi Giáo ở Iraq và al-Sham),
là một chế độ tự phong với mục đích hình thành một vương quốc Hồi Giáo trải rộng từ Iraq tới Nam Thổ Nhĩ Kỳ qua Syria đến tận Ai Cập
(bao gồm cả Lebanon, Israel, vùng lãnh thổ Palestine và Jordan).

Image
Nhân loại vẫn chưa quên tội ác của Khmer Đỏ đối với người dân Cambodia.
(Hình: Getty Images)


Được thành lập từ năm 2006 bởi chi nhánh Al Qaeda tại Iraq (AQI) với cái tên ban đầu là ISI, nhưng mãi tới vài năm gần đây ISIS mới thu hút được sự chú ý của cả thế giới sau khi tổ chức này chiếm được một phần lãnh thổ rộng lớn ở Iraq và Syria.

Có lẽ đặc điểm nổi bật nhất của ISIS, và cũng là lý do quan trọng nhất tổ chức này trở nên nổi tiếng, là sự tàn bạo. Báo cáo của Liên Hiệp Quốc hồi tháng 10 cho thấy chỉ trong vòng 8 tháng đầu năm 2014, ISIS đã giết và làm bị thương khoảng 24 nghìn thường dân. Con số này còn chưa ghê sợ bằng thủ đoạn thời Trung Cổ mà ISIS dùng để hành quyết các nạn nhân. Báo cáo của UN cũng nêu ra tình trạng tổ chức này bắt cóc, biến phụ nữ thành nô lệ tình dục, và biến trẻ em thành vũ khí giết người.

Sự tàn bạo của ISIS khiến nhiều người liên tưởng đến phong trào Khmer Đỏ ở Campuchia trước đây. Có một số người so sánh ISIS với Khmer Đỏ trên góc độ tâm lý học tiến hóa như Clay F. Naff trên Huntington Post. Một số người khác phân tích chính sách của Mỹ với tư cách là nguồn gốc để Khmer Đỏ, và giờ là ISIS, có đất phát triển (như John Wight hoặc John Pilger trên RT.Com).

Thế nhưng sự so sánh này dù sao vẫn có phần khập khiễng. Mức độ diệt chủng mà Khmer Đỏ gây ra ở Cambodia trong thập kỷ 70 lớn hơn rất nhiều so với những gì ISIS đang gây ra ở Iraq và Syria. Chỉ trong khoảng 4 năm cầm quyền (1975 đến 1979), Khmer Đỏ đã gây ra cái chết của hơn 1,7 triệu người Campuchia, xấp xỉ 20% dân số nước này tại cùng thời điểm.

Điểm giống nhau giữa hai trường hợp (mà tới nay ít người nói đến), là sự thất bại của quốc tế trong việc can thiệp để chấm dứt các thảm họa này. Trong trường hợp Campuchia, cộng đồng quốc tế hầu như không có bất cứ động thái gì (trừ Việt Nam). Còn trong trường hợp ISIS, họ có mặt ở Iraq theo lời kêu gọi của chính phủ nước này, nhưng không tham gia gì vào cuộc chiến trống ISIS ở Syria (trừ Mỹ).

Lập luận hay được dẫn ra là luật pháp quốc tế liên quan đến việc không can thiệp vào nội bộ nước khác trừ phi được chính phủ hợp pháp của nước đó yêu cầu/nhờ vả (như tại Iraq hiện nay). Thế nhưng các ràng buộc (trong phần lớn trường hợp là cần thiết) này có vẻ như không giúp được gì trong những tình huống đặc biệt như ở Campuchia hồi thập kỷ 70 và ở Syria hiện nay nếu như các nước lớn có những agenda khác. Trái lại, nó còn tạo điều kiện để việc diệt chủng có môi trường tốt để phát huy.

Lý do là trong các trường hợp như ở Campuchia, khi một nước nhỏ (khi đó là Việt Nam) can thiệp để chấm dứt chế độ của Khmer Đỏ mà không có sự ủng hộ của các nước lớn (đặc biệt là Hoa Kỳ), chính quốc gia đi can thiệp (Việt Nam) còn bị các nước lớn trừng phạt.

Trong trường hợp của Việt Nam là một cuộc cấm vận kéo dài. Ngay cả Campuchia, quốc gia nạn nhân, cũng bị áp lệnh trừng phạt kéo dài này cho đến tận khi Hoa Kỳ thay đổi chính sách ngoại giao và nhìn nhận lại vai trò của Khmer Đỏ.

Trường hợp ở Campuchia có lẽ rất đặc biệt vì chính sách của Mỹ khi đó là kiềm chế sự mở rộng ảnh hưởng của chế độ Cộng Sản ở Việt Nam. Vì thế Hoa Kỳ không bận tâm tới việc Khmer Đỏ thực sự là gì.

Trong trường hợp của ISIS ở Syria thì khác. Có vẻ như thế giới đã có đồng thuận căn bản về bản chất của thể chế này. Thế nhưng vẫn không có quốc gia nào ngoài Hoa Kỳ muốn dính líu đến cuộc chiến ở đây.

Với tư cách là một nước lớn, có quyền phủ quyết ở Hội Đồng Bảo An, dĩ nhiên Hoa Kỳ không chịu sự trừng phạt từ Liên Hiệp Quốc.

Thêm nữa, với việc ISIS không được quốc gia nào chính thức ủng hộ/bảo trợ, cũng không có quốc gia nào đơn phương trừng phạt Mỹ (hoặc bất cứ nước nào khác tham gia vào cuộc chiến này, nếu có). Trong trường hợp này, bài toán tham gia hay không cơ bản nằm ở chuyện có lợi ích gì khi tham gia cuộc chiến trống lại ISIS hay không. Và vì lợi ích không có, hoặc không rõ ràng, việc dựa vào luật quốc tế để có cớ không tham gia xem ra rất thích hợp.
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Bùi Minh Hằng ghi lại lý lịch của mình
Nguyệt Quỳnh

Chúng ta
Tự tay ghi vào lý lịch
Định mệnh của dân tộc mình

(Chúng Ta - Những Kẻ Bội Thu, Đỗ Trung Quân)

Trong bài thơ “Chúng Ta - Những Kẻ Bội Thu,” nhà thơ Đỗ Trung Quân viết về một điều không mới, dường như ai cũng biết rồi,
thế nhưng ông đã làm người đọc rúng động! Ông viết, “Chính sự thờ ơ của chúng ta tạo nên định mệnh khắc nghiệt cho mình và cho dân tộc mình.
Chúng ta gieo mầm dửng dưng nên gặt về lạnh nhạt, chúng ta thờ ơ với con người nên gặt về con vật.”


Image
Bà Bùi Thị Minh Hằng trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội,
ngày 14 tháng 8, 2011. (Hình: Getty Images)

Bài thơ mạnh. Mạnh về ý lẫn lời. Và điều làm người ta rúng động là sự thật, là những gì đang xảy ra hàng ngày trong xã hội chúng ta đang sống. Phải chăng mọi sự việc xảy ra đều có lý do, mọi hậu quả chúng ta nhận lãnh đều có nguyên nhân của nó.

***
Chúng ta thờ ơ với con người nên gặt về con vật. Câu thơ làm ta liên tưởng đến những chuyện xảy ra quanh mình, những hành động gần như thiếu hẳn tính người, như: chuyện cả làng hùa nhau đánh chết hai thanh niên trộm chó; chuyện người lái xe chở bia gặp nạn van xin những kẻ hôi của vô cảm; hay nụ cười đểu của viên quản giáo khi ngợi khen những hình ảnh nhục mạ kỹ sư Đặng Xuân Diệu do gã tù hình sự vẽ trên tường trại giam...Những giọt nước mắt uất nghẹn của tù nhân Trương Minh Tam cùng các hình ảnh bị vẽ nửa người nửa chó của người thanh niên mộ đạo, thành viên của nhóm Bảo Vệ Sự Sống, sẽ khắc ghi vào ký ức chúng ta một thời đại đen tối nhất của xã hội và của quyền con người trên đất nước Việt Nam.

Trong khi những giá trị về nhân quyền đã được các quốc gia trên thế giới tôn trọng và ngay cả nhà cầm quyền Việt Nam cũng công khai thừa nhận, thì người Việt Nam vẫn tiếp tục phải sống trong khổ đau, đọa đày và áp bức. Người dân vẫn tiếp tục bị cướp đất, bị ép cung, bị đánh chết trong các đồn công an, bị chà đạp nhân phẩm trong các trại tù, bị bắt giam vô cớ... Mới đây, để tránh né sự trơ trẽn trước thế giới, lãnh đạo đảng vừa cho dời phiên tòa xử chị Bùi Thị Minh Hằng, chị Thúy Quỳnh, và anh Nguyễn Văn Minh qua ngày 12 tháng 12, 2014 tức là sau ngày Quốc Tế Nhân Quyền. Họ biết rằng các lý cớ để giam giữ các anh chị trên chỉ làm trò cười trước mắt nhân loại.

Chẳng có một chính phủ đúng nghĩa nào lại bày cái trò “cản trở lưu thông” như một cái cớ để mà bắt giam, để nhốt tù người dân trong nhiều tháng trời. Ngay cả các chế độ thực dân, đế quốc cũng còn đủ tự trọng để không làm những việc như vậy.

Các trò hèn kém đó chỉ khiến cho công luận Việt Nam và quốc tế thấy rõ những kẻ nắm quyền đang bí lối và bối rối đến mức độ nào. Mọi loại biện hộ để chà đạp các quyền đương nhiên của con người đều không còn lừa bịp được ai. Người dân Việt Nam ngày nay thừa kiến thức và thừa khả năng để vạch ra sự thật về tiêu chuẩn nhân quyền của nhân loại mà nhà cầm quyền Việt Nam đã long trọng ký kết. Chị Bùi Minh Hằng là một trong những người đã miệt mài quảng bá để người dân Việt biết đến các quyền của họ là gì và ai đang cướp trắng các quyền đó của họ.

Nhưng...có thực bên cạnh những con người đang bị hành hạ vì đấu tranh cho nhân quyền, đấu tranh chống Trung Quốc, chúng ta luôn nhìn thấy sự thờ ơ, dửng dưng, và ích kỷ của đại đa số quần chúng chung quanh không? Tôi cho rằng không hẳn thế.

Mặc dù không nói ra, hầu như ai ai, cả những người đang phục vụ trong bộ máy cầm quyền đều bức xúc trước các vấn đề của xã hội, các vấn nạn của đất nước. Có lẽ nên nói rằng xã hội của chúng ta bao gồm phần lớn những con người hoang mang, thụ động, sợ hãi, đánh mất chính mình thì đúng hơn. Nhưng càng hoang mang, càng sợ hãi thì chính chúng ta lại trở thành nạn nhân của chính mình.

Trong hoàn cảnh sợ hãi tràn lan đó, đã có những người chọn cho mình một thái độ khác. Sau kết quả của phiên tòa sơ thẩm, với những bản án khắc nghiệt được tuyên cho chị Bùi Hằng, chị Thúy Quỳnh và anh Minh, Luật Sư Trần Thu Nam kể lại rằng, “Chị Bùi Hằng đã phản ứng rất bình tĩnh, chị điềm đạm nở một nụ cười trên môi, chị hát một bài hát gì đó về Đức Mẹ khi đi từ vành móng ngựa ra xe tù. Cô Thúy Quỳnh thì im lặng tỏ ra bình tĩnh, khi đón nhận kết quả.” Còn anh Văn Minh quay lại nói với vợ rằng, “Không có vấn đề gì cả, 2 năm 6 tháng cũng nhanh thôi. Sự thật thì đó là một bản án với mục tiêu khủng bố tinh thần những người đấu tranh, nhưng các anh chị trên và hầu hết những người đấu tranh hiện nay đều chấp nhận vì họ tin vào những việc mình đang làm. Họ hiểu rằng cái giá của nhân quyền, dân chủ không hề nhỏ. Nhưng nếu chúng ta không dũng cảm, không chấp nhận hy sinh để giành được nó, thì cái giá mà chúng ta phải trả còn đắt hơn gấp trăm lần. Tất cả đang miệt mài gieo những hạt giống mới cho đất nước mình, cho thân phận mình.”

Bởi chính vì chúng ta sợ hãi và im lặng nên thiểu số lãnh đạo mới dám làm chuyện đem bán tài nguyên đất nước làm của riêng. Chúng ta có dửng dưng, thờ ơ thì họ mới dám bán từng phần chủ quyền quốc gia từ ngoài khơi xa xăm đến sâu trong đất liền và cùng khắp đất nước. Chúng ta vô cảm trước giá trị con người thì họ mới dám mạnh miệng tuyên bố rằng lý do phải trì hoãn nhân quyền là vì dân trí thấp...Chắc chắn sẽ không có một sự nhượng bộ nào từ những kẻ cai trị nếu chúng ta, những người bị cai trị, tiếp tục giữ thái độ cam chịu.

Nhưng rõ ràng bất cứ một sự phản kháng lớn hay nhỏ nào của người dân lúc này đều làm cho kẻ cầm quyền run sợ vì họ biết họ đang cản bánh xe tiến hóa của nhân loại. Hãy xem sự cuống cuồng của lãnh đạo đảng khi phải ra lịnh “bắt quả tang” một người đang ngồi viết văn; “bắt khẩn cấp” một nhà văn kiêm blogger hiền lành, điềm đạm, cao tuổi lại đang bị bệnh liệt nửa người. Đó là Nguyễn Quang Lập tức Bọ Lập, chủ trang blog nổi tiếng Quê Choa. Nhìn cảnh ông Lập bị công an kéo đi, lòng ta tự hỏi những kẻ cầm quyền này sẽ hành xử ra sao nếu bên cạnh nhà văn Nguyễn Quang Lập là sự góp mặt của hàng trăm, hàng ngàn người khác?

Tôi tin rằng có rất nhiều người khác cũng có cùng câu hỏi đó trong lòng mỗi khi nhìn các blogger bị bắt. Bằng chứng là càng ngày càng có nhiều người dấn thân bước tới sau các vụ bắt bớ. Đúng như bài giảng của Linh Mục Giu-se Nguyễn Văn Toản tại Dòng Chúa Cứu Thế vào đầu tháng 12, 2014. Dù là người ngoại đạo, tôi đã nhìn thấy hình ảnh vác thập giá của Chúa Giêsu. Đây là lời tự hứa phải tuyên chiến với sự dối trá. Linh Mục Toản đang theo chân Chúa Giêsu vác thập giá giữa cuộc đời nhiễu loạn này cho chính mình và cho tha nhân. Còn ai nữa muốn đứng nhanh lên để cùng đi với Linh Mục Toản?

Nếu đất nước chúng ta may mắn, tôi tin rằng ngay trong thập niên trước mặt thôi, người ta sẽ quên dần những năm tháng đen tối này mà chỉ nhớ đến với lòng biết ơn sâu xa những con người can đảm, những con người chịu đau đớn, chịu bách hại, chịu trả giá để nhân quyền có mặt tại Việt Nam.

Nhưng dù với sự hy sinh cao cả đó, chuyện đẩy lùi được bóng tối trên đất nước này vẫn không thể thực hiện được nếu chỉ do một nhóm người nỗ lực. Đẩy lùi bóng tối, tuyên chiến với sự giả dối, với cái ác chắc chắn cần sự góp mặt của tất cả chúng ta.

Xin hãy giúp nhau vực lại niềm tin, vực lại bản sắc của chính mình trong mỗi con người Việt Nam. Chúng ta sẽ tự tay ghi một lý lịch mới cho chính mình và cho định mệnh cả dân tộc.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Thắp lại bình nhang

Ngô Nhân Dụng
Chúng ta đang nhận được nhiều lời chúc bình an, hạnh phúc vào dịp Lễ Giáng Sinh. Dù người bên lương hay bên giáo, ai cũng có thể chia sẻ những giờ phút bình an khi nghe câu hát “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời” đang vang vang chung quanh mình nhắc nhở sự tích Chúa xuống làm người.

Chúng tôi muốn gửi đến quý vị độc giả những lời chúc lành bằng một câu chuyện, hy vọng sẽ chia sẻ một niềm vui trong mùa của hy vọng. Chuyện này lấy từ tiểu thuyết Ác Mộng của Ngô Ngọc Bội, xuất bản trước đây chừng một phần tư thế kỷ.

Một nhân vật của Ngô Ngọc Bội trong tiểu thuyết Ác Mộng là Lê Đôn. Ông thầy giáo yêu nước đã tham gia kháng chiến chống Pháp, đã lập công, nhưng đến thời “cải cách ruộng đất” thì bị truy là địa chủ. Vợ ông phải đấu tố chồng. Học trò ông đứng ra tố cáo thầy. Hai đứa con 11 tuổi và 16 tuổi bỏ trốn lên miền núi, sống nhờ người Mán.

Nhà thầy giáo Lê Đôn đã bị đám cốt cán chiếm, họ chia nhau các món đồ đạc, hành động được các cố vấn Trung Quốc dạy là “chia quả thực.” Họ gỡ cả cánh cửa, cả bàn thờ đem bán. Có cái “bát nhang” cổ là của gia bảo, được tổ tiên truyền lại từ năm sáu trăm năm, các bần cố nông cũng đem đổi lấy gạo chia nhau. Mấy năm sau, Đảng Cộng Sản “sửa sai,” ông Lê Đôn được “đổi nhãn hiệu;” từ “địa chủ cường hào ác bá” đổi thành “địa chủ kháng chiến.” Khi nhà được trả lại, tất cả đã tan hoang. Con rể ông, từng là một cán bộ cải cách ruộng đất, đi lên miền núi tìm em vợ. Hai cậu con trai không nhận gia đình nữa, bỏ hết cả họ hàng, nhất định không về. “Bố mẹ chết rồi. Anh em ly tán. Máu mủ họ hàng chẳng biết thương nhau... Cái đất nước này chỉ cần ba lần làm, ba lần sửa sai như thế thôi, nó sẽ trở thành một vùng hoang mạc.”

Trong chương cuối cuốn Ác Mộng, gia đình thầy giáo Lê Đôn đã xin được phép cải táng mộ. Hai xương cánh tay của ông bị trói bằng dây dù gỡ mãi không ra. Anh con rể ghé răng cắn, dây không đứt. “Khốn nạn quá, chả nhẽ lại không tháo dây trói cho thầy!” Ngô Ngọc Bội kể, “Đã có nơi người ta lấy đoạn dây thép [trói địa chủ trước khi hạ sát] đem về thờ; [chính quyền] địa phương phải cho người lẩn vào nhà ăn cắp để thủ tiêu... Có anh cán bộ đã nhặt ba cái đầu đạn [bắn chết cha mẹ mình] cất đi. Chi bộ phải dỗ mãi anh mới đem ra trả, rồi mang vứt xuống sông.”

Sau lễ cải táng thầy giáo Lê Đôn, buổi chiều gia đình đang ngồi ăn cơm thì có một ông khách lạ lớn tuổi không biết từ đâu tới thản nhiên bước vào nhà. Ông mở cái túi sách, lấy ra một bát nhang, đặt lên bàn thờ.

“Tôi người xã bên, quen thân với ông Lê Đôn từ nhỏ. Có người bên làng ta đem bán cho tôi cái bát hương này. Chẳng đáng bao nhiêu đâu, chỉ hai đấu gạo thôi. Tôi là người Công Giáo, bên chúng tôi không thờ bát hương. Nhưng biết gia đình ông Lê Đôn, [biết cái bát hương này là] của gia bảo, nên tôi đã trả hai đấu gạo [mua] và giữ lại. Hôm nay gia đình làm việc ‘thay nhà’ cho ông Lê Đôn,” ông nghẹn ngào bật khóc. “Tôi trả lại cho gia đình để thờ phụng tổ tiên, ‘uống nước nhớ nguồn!’ Thứ này nếu tôi tham lam đem bán cũng có thể kiếm cho cháu chiếc xe đạp sang. Nhưng tôi là người ‘có đạo’ không bao giờ làm thế... Ở vùng ta những người như ông Lê Đôn rất hiếm hoi... Tôi xin phép cắm một tuần nhang... tưởng niệm ông...”

Nhưng giữa cơn ác mộng mênh mang, oán mờ trời đất, Ngô Ngọc Bội đã kết thúc với một niềm hy vọng. Chúng ta biết người Việt là một dân tộc “có đạo,” dù theo đạo Phật, đạo Chúa hay đạo Khổng, đạo Lão. Đảng Cộng Sản đã tàn phá, hủy hoại những nền móng đạo lý, nhưng không giết được tính thiện trong con người. Không giết được trí nhớ tập thể của dân tộc, trong đó người ta đều biết ăn ở với nhau có nghĩa, có tình. Nền đạo lý cổ truyền như những đóm lửa vẫn cháy leo lét suốt những đêm dài, chỉ chờ ngày cùng bùng lên soi sáng tương lai. Mọi người sẽ thắp lại bình nhang trên bàn thờ, xin nhận lỗi với tổ tiên, xin hứa chính mình sẽ giữ gìn đạo lý cho con cháu bắt chước, theo nền nếp cha ông. Cái đất nước này sẽ không trở thành một vùng hoang mạc. Ngày hồi sinh sắp tới. Trong mùa Lễ Giáng Sinh năm nay chúng ta hãy cùng thắp lại bình nhang trong lòng mình, chia sẻ với nhau niềm tin tưởng ngày phục sinh sắp tới.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Trần Trung Đạo, trái tim nồng nàn dành cho tổ quốc Việt.

Du Tử Lê
chinhluan(ngày 10 tháng 11-2014): Nhà xuất bản Cổ Loa mới ấn hành tác phẩm tựa đề “Chính Luận” của nhà thơ nổi tiếng Trần Trung Đạo, ở Boston, Mass.

Đây là tác phẩm thứ 10 của một tác giả có nhiều bài thơ được độc giả khắp nơi yêu thích.

Như tựa đề, “Chính Luận” là một tác phẩm tâm huyết, cũng có thể nói đó là một thứ “tâm huyết bút”, nằm trong loạt “tâm huyết bút” của họ Trần.

“Chính Luận” của Trần Trung Đạo, không chỉ đáng kể ở độ dầy 600 trang chữ nhỏ, khổ lớn mà, “Chính Luận” còn có chiều sâu của những bài viết, như những bản cáo trạng khẩn thiết báo động về những vấn đề trực tiếp liên quan tới sinh mệnh của dân tộc, tổ quốc Việt. Điển hình như những bài viết về “Hiểm họa Trung Cộng”, “Hiện trạng Việt Nam”, “Bàn về tẩy não”, ‘‘Cách mạng tại Việt Nam, khoảng cách và hy vọng”, hoặc “Hãy nói trước ngày chết” v.v…

Nói cách khác, với 600 trang “tâm huyết bút” của một người trẻ đang đứng ở tuyến đầu thao thức về vận mạng đất nước, “Chính Luận” của Trần Trung Đạo, không chỉ là những trang viết nóng bỏng, nồng nàn tâm cảm của một người yêu nước mà, nó còn là tấm lòng, trái tim của một Thi Sĩ cống hiến đời mình cho hy vọng một Việt Nam khác – – Với những câu hỏi được cất lên, gửi tới bất cứ một người Việt Nam yêu nước nào, như:

“Việt Nam tôi đâu? Câu hỏi vang lên theo từng đợt sóng dội vào bờ cát nhưng tuyệt nhiên không có tiếng trả lời. Một người đứng trên đất khách và một kẻ đang ở trong tù có cùng một câu hỏi. Thì ra, không chỉ người đi xa mới thấm thía nỗi đau của kẻ thiếu quê hương mà cả những người đang sống trên đất nước vẫn đi tìm kiếm quê hương. Và quê hương chúng tôi đang tìm kiếm, không chỉ là núi đồi, sông biển, ruộng vườn cây trái nhưng là một quê hương có khối óc tự do, có tâm hồn nhân bản, có trái tim dân chủ, có đôi chân tiến về phía trước và đôi tay kiến tạo một xã hội thanh bình, thịnh vượng cho mãi mãi Việt Nam” (“Chính Luận” trang 597).

Trong bài “Hãy nói trước ngày chết”, họ Trần viết:

“…Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người thì lại là chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, hay Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.

“Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có chồng bị Khơ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là ‘gían điệp CIA’. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà Samrith. Hiện nay kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay kết án (…)

“Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm Sát Mậu Thân 1968.

“Số người bị giết trong vụ Thảm Sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và ‘kẻ thù nhân dân’ không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc. Ông Võ Văn Bằng, nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: ‘Các hố cách khoảng nhau. Mỗi hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng’.

“Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy thảm thương cho dân tộc Việt Nam này là những người Huế ‘nhảy núi’. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo cộng sản và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thị của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ.

“Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, Những du kích nằm vùng, những thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách ‘mời đi trình diện’ rồi sẽ trả về nhà ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra ‘tòa án nhân dân’ và kết án tử hình (…)

“Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên (…)

“…Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người ‘nhảy núi’ còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.

“Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lại dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.” (Trích “Chính luận”, Tr. 586, 587, 588, 593, 594).

Được biết, nơi trang cuối “Chính Luận”, tiểu sử nhà thơ Trần Trung Đạo, người mang trái tim nồng nàn tình yêu dành cho tổ quốc Việt, ghi nhận như sau:

“Quê quán Duy Xuyên, Quảng Nam. cựu học sinh Trung Học Duy Xuyên, Trung Học Trần Quý Cáp, Hội An. Cựu sinh viên Luật Saigon và Kinh Tế, Vạn Hạnh. Vượt biên bằng đường biển năm 1981, tạm trú tại trại Palawan, Philippines, định cư tại Mỹ trong cùng năm. Học điện toán tại Wentworth Institute of Technology và Boston University. Tốt nghiệp kỹ sư điện toán và hiện đang làm việc cho một công ty đầu tư tài chánh tại Boston. Góp phần xây dựng mạng lưới Internet đầu tiên tại hải ngoại vào đầu thập niên 1990. Đóng góp tích cực vào nỗ lực xây dựng các phong trào trẻ tại hải ngoại. Thuyết trình về các chủ đề tuổi trẻ, nhân quyền, văn hóa tại các cộng đồng Việt Nam, hội nghị, đại học, tổng hội sinh viên, trại hè. Sáng tác thơ, văn, dịch, nghiên cứu, tiểu luận và chính luận…”
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?
Nguyễn Văn Tuấn

Image
Lo lắng cho tính mạng của con, mẹ tử tù Hồ Duy Hải là bà Nguyễn Thị Loan đã phải dùng biện pháp cuối cùng -
khỏa thân trước trại giam CA tỉnh Long An để đấu tranh đòi gặp mặt con.

Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói “tôi không tự hào là người Việt” thì chắc chắn sẽ bị “ném đá” như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình. Một cuốn sách có tựa đề là “Tôi tự hào là người Việt Nam” mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lí do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một “devil advocate” về đề tài này.

Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc? Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima.

Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định, phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt.

Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực

Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt Nam. Hỏi một người Việt Nam bình thường chỉ ra một nét văn hoá định hình Việt Nam, chắc chắn người đó sẽ lúng túng. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ, tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong “Việt Nam văn hoá sử cương”) như sau:

“Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo”.
Image
Bức ảnh chụp lại biển cấm ăn cắp vặt viết bằng tiếng Việt tại một cửa hàng ở Nhật
Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm cho chúng ta tự hào. Những nét văn hoá đó càng lộ ra khi người Việt bắt đầu hội nhập quốc tế hay định cư ở nước ngoài. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhiều người biện minh rằng đó chỉ là số ít và chỉ tập trung vào một nhóm người ít học. Nhưng biện minh đó không thuyết phục, khi chúng ta biết rằng những người Việt ăn cắp ở nước ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền, thậm chí đang hành nghề giảng dạy về đạo đức sống! Chúng ta cũng biết rằng sự hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ không nên trốn tránh.

Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài cả vài chục năm vẫn giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt ở Sydney, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt mang tính văn hoá nào cả.

Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây. Người Việt chẳng phát kiến được một chủ thuyết chính trị nào, mà chỉ rập khuôn theo chủ nghĩa Mao – Stalin. Không thể nào tự hào khi mà chính quyền ra rả mỗi ngày bảo người dân phải làm gì và giảng giải rằng yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội!

Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó người dân có tự do thực hiện hoài bão của mình, và chính phủ không lên lớp dạy bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị.

Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Chiến tranh là giải pháp của người thích cơ bắp chứ đâu phải là biện pháp của người thông minh. Vả lại, chiến tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng có gì để tự hào. Nhưng để thắng Pháp, thắng Mĩ, thì hàng triệu người Việt phải hi sinh, và đất nước nghèo mạt cho đến ngày hôm nay. Đằng sau những cái vinh quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội ác đã bị che dấu. Người Thái Lan tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ tự hào điều đó. Tôi nghĩ nếu VN tránh được chiến tranh mới là điều đáng tự hào, chứ chiến tranh –- bất kể thắng hay thua –- thì chẳng có gì đáng tự hào. Làm người hùng vài phút để sau này mang tật suốt đời và rách nát thì rất khó xem đó là niềm tự hào.

Thất bại về kinh tế

Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những “VINA” hoặc là đã thất bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Nói đến Hàn Quốc người ta nghĩ đến Samsung, Kia, Hyundai; nói đến Nhật người ta nghĩ đến Toyota, Honda, Mazda, Sony, Panasonic, Toshiba và vô số các thương hiệu khác; còn nói đến VN chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim, vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng.
Image
Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều “di sản” tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một loạt tập đoàn kinh tế bị sụp đổ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà. Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại khác.

Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD.

VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ nghèo ở VN tuy có cải tiến, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho chó mèo ở, có những người “đày tớ của nhân dân” sẵn tay vung tiền xây lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá nhiều người nghèo như thế?

Giáo dục và khoa học làng nhàng


Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước ngoài chủ trì hay giúp đỡ.

Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger (3) từng nhận xét về người Việt vào đầu thế kỉ 20 như sau:

“Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ.”

Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất cả những nhận xét đó đều đúng. Không khó khăn gì để có thể đi tìm những bằng chứng thực tế làm cơ sở cho những nhận xét đó. Gần đây khi công ti thời trang Hermes muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt, và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất … hỡi ôi. Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung chung hay làm cho có mà thôi. Nhiều công trình của Việt Nam chỉ làm hình như nhằm mục tiêu khoe là “ta làm được”, rồi dừng ở đó, chứ không đi xa hơn. Thật ra, ngay cả “ta làm được” cũng không hẳn là làm được. Điều này rất tương phản với người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền.

Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, và khi ra ngoài này, thường bán với giá rất cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn hiệu “chất lượng cao” thì sao? Nói ngắn gọn là chất lượng thấp thì đúng hơn. Họ cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, Tommy Hilfiger, v.v., nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước. Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của Tàu lợi hại đến nỗi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà nói đến chuyện lớn được.

Do đó, có thể nói rằng người Việt thiếu tính sáng tạo, không tinh xảo và không khéo tay. Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con “gà chọi” chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt, nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì đến VN. Kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” như thế và kiểu lấy những tấm huy chương đó để tự hào là một sự ấu trĩ.

Xã hội bất an

Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất an. Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng bạo lực, và sự “ưa chuộng” đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761 vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần!

Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản (10%).

Một trong những tội phạm đáng kinh tởm nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán!

Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và nạn nhân bị cưỡng hiếp thấp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ. Việt Nam là nước tìm kiếm “sex” trên Google nhiều nhất thế giới (6). Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế?

Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và trả giá! Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội.

Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở du khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31,266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người và bị thương 32,266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến!

Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng

Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quang thiên nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như Nhật. Ngoài ra, điều kiện khí hậu nhiệt đới rất khắc nghiệt, làm cho con người dễ bị mệt và đển buổi trưa thì uể oải, và ảnh hưởng đến năng suất làm việc.

Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sống, và đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân. Tình trạng ô nhiễm này đã tồn tại hơn 20 năm, thậm chí lâu hơn nữa, nhưng cho đến nay chính quyền vẫn chưa thấy có biện pháp gì để giải quyết.

Còn ở thành phố lớn (như Sài Gòn và Hà Nội) thì cũng chẳng có gì đáng tự hào. Môi trường sống và sinh hoạt ở thành phố có thể nói là rất xấu. Vi khuẩn, vi trùng, mầm mống bệnh tật gần như ở mọi ngóc ngách. Chỉ cần một trận mưa là thành phố bị ngập nước kinh hoàng. Kiến trúc nhà cửa thì lố nhố, trồi ra, thụt vào, chẳng ra cái thể thống gì. Những con hẻm ngóc ngách và ngoằn ngoèo, nhỏ xíu và dơ bẩn thấy phát ghê. Những con hẻm ở phố cổ Hà Nội phải nói là một nỗi ám ảnh kinh hoàng, giống như địa ngục trần gian. Hẻm ở Sài Gòn thì khá hơn Hà Nội một chút, nhờ thông thoáng hơn, nhưng vẫn thể hiện cái nét hỗn độn, vô trật tự của cái gọi là “thành phố”. Đường xá thì xe gắn máy và xe bốn bánh chạy loạn xạ như chẳng có luật lệ gì, cực kì nguy hiểm cho người đi bộ. Còn đường dành cho người đi bộ thì bị chiếm dụng hết. Chẳng có thành phố nào, mới hay cũ, ở VN có thể nói là đáng tự hào cả.

Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoành tráng hay tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiền, bia miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời “Cải cách ruộng đất”, và sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn “sống sót” cũng không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó làm niềm tự hào. Nhưng Việt Nam nói chung không có những công trình kiến trúc tinh tế và càng không có công trình hoành tráng để người dân có thể lấy đó làm tự hào.

Bủn xỉn với cộng đồng thế quốc tế

Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng gọi là “Good Country Index” (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi đứng chung với những nước đó?

Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó?

Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống không có gì nổi bật, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng, và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế.

Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vả mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu.

Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ.

Đã ăn xin và đi vay mà lại còn tham nhũng và hối lộ. Tham nhũng đã đến mức độ mà những người đứng đầu đảng và Nhà nước xem là “quốc nạn”, là đe doạ đến sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng hiện diện ở mọi cấp trong chính quyền. Hầu như đụng đến các cơ quan công quyền, không hối lộ là không làm được việc. Ngay cả quan chức cao cấp (bộ trưởng, thứ trưởng) khi cần làm việc nhà vẫn phải hối lộ. Bổ nhiệm vào các vị trí trong trường học, bệnh viện, cơ quan Nhà nước, v.v. tất cả đều phải hối lộ, phải “chạy”. Nói trắng ra là mua chức quyền. Hối lộ trở thành một văn hoá sống và làm việc ở VN. Tham nhũng đã trở thành một nguồn sống của quan chức và những kẻ có quyền. Không ngạc nhiên khi VN bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng tham nhũng hàng 116 trên 177 nước trên thế giới (12).

Còn trong quan hệ quốc tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật.

Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã Lai, v.v.. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới, tức miễn visa (13), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng.

Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sĩ diện nên thích làm anh hùng rơm, thiếu tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của tương lai.

© Nguyễn Văn Tuấn
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

2014 và những bài học đắt giá cho ngành hàng không

Hà Tường Cát
Hai vụ máy bay mất tích ở vùng Ðông Nam Á trong năm 2014 khiến các chuyên gia nhận thức được rằng ngành hàng không hãy còn nhiều khiếm khuyết về kỹ thuật và an ninh, cần phải được xem xét để cải tiến.

Ba ngày sau khi chiếc máy bay Airbus A320-200 của hãng hàng không giá rẻ AirAsia Indonesia mất tích trên đường bay từ Surababaya đến Singapore, các toán cấp cứu đã tìm thấy những mảnh vỡ màu đen, trắng, đỏ - màu sơn của máy bay hãng AirAsia - cùng thi hài của một số nạn nhân nổi trên mặt biển. Những vật này vớt được ngoài khơi khoảng 100 dặm và cách xa 6 dặm nơi tọa độ cuối cùng mà đài kiểm soát không lưu ghi nhận được trước khi máy bay mất liên lạc.
Image
Cho tới hôm 19 Tháng Mười Hai, hơn 9 tháng sau khi chuyến bay MH370 mất tích, một số thân nhân của những hành khách nạn nhân người Hoa
vẫn còn tới biểu tình trước trụ sở Bộ Ngoại Giao Trung Quốc ở Bắc Kinh, phản đối việc họ không được thường xuyên
cho biết tin tức cập nhật về việc tìm kiếm máy bay mất tích. (Hình: Greg Baker/AFP/Getty Images)

Như vậy tai nạn của chuyến bay QZ8501 làm 162 người thiệt mạng không còn là bí mật, dù cho đến bây giờ chưa hiểu rõ nguyên nhân.

Nhưng vụ chiếc máy bay Boeing 777-200ER của Malaysian Airlines chuyến MH370 với 239 người, mất tích từ đầu Tháng Ba, vẫn còn là hoàn toàn bí ẩn sau 11 tháng không tìm ra bất cứ một dấu vết gì.

2014 là năm nhiều thảm kịch của hàng không thương mại Ðông Nam Á kể cả vụ máy bay Malaysian Airlines chuyến MH17 bị bắn rớt ở miền Ðông Ukraine làm 298 người chết.

Chuyện trớ trêu là cả 3 tai nạn này đều liên quan đến Malaysia, quốc gia gặp rủi ro nặng nhất trong năm 2014. Hai tai nạn xảy ra cho hãng hàng không Malaysia Airlines làm thiệt mạng toàn thể 537 hành khách và phi hành đoàn. Tai nạn thứ ba là của AirAsia Indonesia, tổ hợp công ty AirAsia đặt trụ sở chính ở Malaysia giữ 49% cổ phần trong AirAsia Indonesia và đối với người dân Malaysia thì AirAsia là hãng hàng không của nước mình.

Trong ba tai nạn này có một điểm giống nhau, đó là sự thiếu khả năng theo dõi được máy bay ở tất cả mọi thời điểm của phi trình.

Trong hai tai nạn ở Malaysia và Indonesia, người ta theo dõi được máy bay qua sự báo cáo của phi hành đoàn hoặc bằng những dụng cụ tự động đã được lập trình sẵn. Nhưng khi xảy ra việc bất thường gì, thông tin chính xác không còn nữa và chỉ có thể dự đoán căn cứ trên việc nghiên cứu thêm các dữ kiện thu được ở các dụng cụ có chức năng và mục đích khác.

Còn ở Ukraine thì người ta tin rằng máy bay đã bị bắn rơi vì lầm lẫn. Ngày nay không dùng mắt để nhận diện một máy bay ở xa, do đó máy bay dân sự cần phải trang bị thêm các phương tiện thông báo khác để luôn luôn được xác nhận không lầm lẫn. Trong tương lai với sự phát triển các loại máy bay không người lái, vấn đề này sẽ còn phức tạp và cần thiết hơn nữa.

Chuyến MH370 và QZ8501 đều mất tích trên biển nhưng hai trường hợp khác hẳn nhau. Biển Java, nơi chuyến bay QZ8501 lâm nạn, là một biển nông nên máy bay rớt ở đây dễ tìm ra trong khi Nam Ấn Ðộ Dương là vùng biển hoang vắng và độ sâu của đáy biển nhiều nơi chưa được biết rõ. Máy bay A320-200 chỉ mang theo nhiên liệu đủ bay trong 4 giờ trong khi Boeing 777 có nhiên liệu để bay trong 7 giờ, cho nên sau khi mất liên lạc, MH370 có thể bay đi rất xa rồi mới rớt còn QZ8501 rõ ràng rớt gần tọa độ báo tin cuối cùng.

Khi máy bay đi qua biển, không có đài radar để tiếp vận liên lạc, các điều hành viên không lưu ấn định sẵn một phi trình và dựa vào những liên lạc radio với phi hành đoàn từng khoảng thời gian để theo dõi máy bay. Trong trường hợp tai nạn, báo cáo cuối cùng nhận được từ phi công sẽ là rất quan trọng để có thể xác định vị trí gần đúng của tai nạn.

Bình thường, dụng cụ chính để máy bay liên lạc với mặt đất là radar, có tên gọi là transponder. Ðể tìm biết một máy bay đang ở đâu và còn bay hay không, trạm kiểm soát phát đi một tín hiệu “ping” và transponder sẽ tự động trả lời. Nhưng nếu máy bay ở ngoài tầm sóng radar hoặc transponder bị tắt đi không rõ vì nguyên nhân gì như trường hợp của chuyến bay MH370 thì mặt đất sẽ không thể nhận được thông tin gì.

Ðể giải quyết việc này, kỹ nghệ hàng không đã chế ra kiểu transponder liên lạc qua vệ tinh gọi là ADS-B. Tuy nhiên không phải tất cả các máy bay hiện nay đều có bộ ADS-B và tại Hoa Kỳ, FAA đã có dự án đòi hỏi tất cả máy bay của các hãng hàng không Mỹ đều phải trang bị ADS-B trong năm 2015.

Những máy bay mới sau này còn có một hệ thống gọi là ACARS tự động báo tình trạng hoạt động của động cơ, nhiên liệu và những dữ kiện phi hành khác. Trên chuyến bay MH370 bộ ACARS cũng bị tắt nhưng vẫn tự động liên lạc với vệ tinh theo định kỳ dù không cung cấp dữ kiện thông tin gì và nhờ đó người ta biết phi cơ vẫn còn bay nhiều giờ sau khi mất liên lạc. Nhưng điều đáng tiếc là với những kỹ thuật vừa nói, chưa đủ để xác định nơi máy bay MH370 rớt dù chỉ là gần đúng.

Do đó không có bằng chứng nào để biết tại sao máy bay MH370 bỗng nhiên mất liên lạc rồi đổi hướng bay và không biết bay tới đâu thì bắt buộc phải rớt vì không còn nhiên liệu. Sự tính toán và dự đoán máy bay rớt xuống Ấn Ðộ Dương chưa hẳn đã là chính xác mà công tác tìm kiếm hàng tháng trời từ trên không, trên mặt biển và dưới đáy biển hãy còn tiếp tục nhưng chưa có thêm kết quả gì mới. Hơn nữa nếu may mắn tới một lúc nào đó tìm ra chiếc máy bay thì cũng chưa chắc hiểu thêm được nhiều điều về tai nạn bởi lẽ bộ phận ghi nhận các dữ kiện quen gọi là chiếc hộp đen đã hết năng lượng hoạt động và có thể bị hủy hoại sau một thời gian quá dài nằm dưới đáy nước.

Vì vậy trường hợp chuyến máy bay MH370 mất tích đến nay vẫn hoàn toàn là khó hiểu. Ðây là bí ẩn lớn nhất trong lịch sử hàng không thế giới, ở thời đại mà kỹ thuật thông tin liên lạc và định vị đã có rất nhiều tiến bộ chưa từng thấy. Nếu chuyện này xảy ra trong thế kỷ trước khi ngành hàng không mới phát triển thì phải chấp nhận, còn ngày nay tình trạng ấy không thể để xảy ra thêm một lần nào khác nữa. Ðó chính là bài học từ thảm họa năm 2014 mà các nhà kỹ thuật chế tạo máy bay và các chuyên viên hàng không chắc chắn phải tìm phương cách giải quyết để tăng cường an ninh cho hàng không ngày nay là phương tiện giao thông quan trọng bậc nhất của nhân loại.
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Image

Cuba: Obama Thắng, Mỹ Thua

Vi Anh

TT Obama quyết định bang giao với Cuba CS sau hơn nửa thế kỷ và 11 đời tổng thống Mỹ cấm vận Cuba CS. Có một số nghị luận phản biện cho rằng đó là một nước cờ TT Obama thắng nhưng Mỹ thua.

Một, trước nhứt, bước đầu TT Obama thắng như một tổng thống thứ 44 được đi vào lịch sử trong tương quan Mỹ- Cuba như một người thay đổi dòng lịch sử hơn 50 năm gián đoạn ngoại giao giữa Mỹ và Cuba CS

TT Obama thắng, trước nhứt được uy tín trong nội bộ đảng Dân Chủ như một nhân vật của Đảng vực dậy tinh thần cho đảng Dân Chủ sau cuộc thất bại lớn trong cuộc bầu cử ngày 4 tháng 11 năm 2014 Dân Chủ thua ở cả hai viện Quốc Hội.

TT Obama thắng trong việc đưa đảng Cộng Hoà vào thế khó xử. Ông tin mình thắng là có thể đẩy đảng Cộng Hoà đối lập đang chiếm đa số ở lưỡng viên Quốc Hội vào thế chống đối khiến mất lòng dân. Cộng Hoà gặp khó khăn hơn trong việc chống TT Obama dùng sắc lịnh hành pháp gián tiếp hợp thức hoá cho 5 triệu di dân Hspanics nhập cư lậu ở lại Mỹ để kiếm phiếu cho Đảng Dân Chủ trong kỳ bầu cử năm 2016. Nếu Cộng Hoà không cấp kinh phí cho Bộ Ngoại Giao mở toà đại sứ Mỹ ở Cuba, không xả cấm vận cho Cuba, không mở cửa rộng cho du lịch Cuba, gởi tiền nhiều hơn cho Cuba thì Cộng Hoà sẽ mất phiếu của người Mỹ gốc Hispanics và những thế lực tài phiệt muốn làm ăn với Cuba CS.

TT Obama thắng, coi mình như một tổng thống chấm dứt Chiến Tranh Lạnh, không còn hiện hữu và không còn ưu tiên nào nữa. Coi như Ông biện minh được cho giải Nobel Hoà Bình mà Ông đã nhận hồi năm 2009, một phần thưởng Ông bị rất nhiều chỉ trích về không có công đức, thành tich gì cho hoà binh thế giới.

Hai, Mỹ thua vì mất niềm tin của thế giới. Mỹ cắt ngoại giao với Cuba và cấm vận Cuba CS suốt 53 năm là vì ý thức hệ tự do, dân chủ chống độc tài cộng sản. 53 năm Mỹ cấm vận CS Cuba mà CS Cuba hãy còn đó. Cuba CS không thắng lợi nhưng vẫn còn sống, nhờ ngành du lịch và viện trợ của Venezuela thiên xã hội chủ nghĩa. Trong lúc Mỹ phải trở cờ, đưa tay ra nắm người láng giềng Cuba vẫn còn theo chủ nghĩa CS.

Bài diễn văn của TT Obama tuyên bố bang giao với Cuba không ít người cho là một bài diễn văn thất bại của nước Mỹ. Trong hơn nửa thế kỷ đường lối, chính sách của Mỹ đối với Cuba vẫn giản dị không nhương bộ: không quan hệ ngoại giao với Cuba khi chế độ không có dân chủ và Castro còn cầm quyền. Và bây giờ khi TT Obama tuyên bố bang giao với Cuba thì Castro, anh Fidel và em Raul hãy còn ngồi đó, cầm đầu chánh quyền độc tài CS toàn tri trên đất nước và nhân dân Cuba. TT Obama còn nói chuyện điện thoại suốt 45 phút đồng hồ với Chủ Tich Đảng Nhà Nước Cuba CS Raul Castro, em của Fidel Castro đang đóng vai thái thưọng hoàng. Và chính TT Mỹ là Obama tự miệng nói ra rằng chính sách Mỹ dùng để cô lập Cuba không kết quả.

Ba và sau cùng, suốt hơn 50 năm thành đồng chống CS độc tài của Mỹ bị chánh trị gia thiên tả, “cực kỳ” thực dụng san bằng lợi lộc kinh tế. Tiền bạc kinh doanh vô tổ quốc làm lung lay niềm tin của Mỹ và của các dân tộc bị độc tài áp bức bóc lột, do nhiều đời tổng thống Mỹ trong đó có TT Obama thường tuyên bố nước Mỹ sẽ đứng bên cạnh khi những người bị áp bức bóc lột đứng lên. Giai cấp bị bóc lột áp bức trên thế giới nhìn hành động của TT Obama làm là một hy sinh những giá trị tự do, dân chủ lịch sử của Mỹ cho những quyền lợi vật chất – một thất bại lớn trong chiến tranh chánh trị của nước Mỹ.

Nhưng Mỹ không phải chỉ có Hành Pháp, chỉ có tổng thống, mà còn Quốc Hội, có lập pháp nữa, giám sát, ngăn chận tổng thống. TT Obama có thể đơn phương dùng biện pháp hành chánh của hành pháp dể bang giao với CS Cuba. Nhưng cái mà Cuba CS thực sự cần là Mỹ xả cấm vận, mở giao thương, mở rộng du lịch, tăng số tiền gởi về Cuba và viện trợ phát triễn, bỏ vốn đầu tư để Cuba tăng trưởng kinh tế hầu Đảng Nhà Nuớc thêm phương tiện kinh tế tài chánh. Nếu không, bang giao chỉ là nghi thức, nghi lễ mà thôi. Nếu Quốc Hội chống thì chưa chắc TT Obama có tiền để lập toà đại sứ Mỹ ở Habana.

Nhiều dấu chỉ cho thấy khối nghị sĩ, dân biểu Công hoà đa số ở Thượng và Hạ viện sẽ chống không cho quyết định bang giao của TT Obama với Cuba CS đạt mục tiêu. TNS Marco Rubio, (Cộng Hoà -TB Florida) con của một người Cuba tỵ nạn CS nhập cư Mỹ, có nhiều triễn vọng sẽ tham gia cuộc chạy đua tranh cử tổng thống Mỹ năm 2016 sẽ chống bang giao của T Obama không thể hiện được. TNS Marco Rubio là một chánh trị gia gốc Cuba tin chắc bang giao với Cuba CS chẳng thay đổi gì trong cuộc sống của đồng bào mình, CS Cuba sẽ không chuyển biến một cái gì có thể giảm quyền lực của CS. Như tiền lệ mở cửa kinh tế nhưng khoá chặt chánh trị trong hai chế độ CS mà Mỹ đang bang giao, viện trợ và giao thương từ lâu là CS Trung Quốc và CS Việt Nam.

Và Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner (Cộng Hoà- TB Ohio) cũng chống, nói sự bang giao với Cuba của TT Obama là những “nhượng bộ ngu đần cho một chế độ độc tài với dân và âm mưu với kẻ thù của chúng ta”. Và Ông khẳng định, tương quan với chế độ Castro sẽ không được tái xét, cho đến khi nào dân chúng Cuba được hưởng tự do.

Cộng Hoà đa số ở lưỡng viên đã và đang dự trù, bàn tính một số biện pháp ngăn cản không cho quyết định của TT Obama bang giao với Cuba CS không đạt mục tiêu, như không xả cấm vận cho Cuba; Biểu quyết chống lại những dự luật giảm những hạn chế du lịch Cuba; bế toả kinh phí dành cho việc mở toà đại sứ Mỹ ỏ La Havana.

Nếu Cộng Hoà làm được một số việc khiến quyết định bang giao với CS Cuba của TT Obama không thành hiện thực và cụ thế thì những thắng lợi của TT Obama trở thành thất bại của Ông./.( Vi Anh)
MatVit
Posts: 1308
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Ngoái nhìn 2014

Lê Phú Khải



Chịu khó quan sát một chút, người ta sẽ thấy một điều thật quái gở, thật buồn cho loài người tiến bộ
là vẫn có những kẻ muốn làm hoàng đế, muốn làm đại đế ở thế kỷ @!

Image
Đó là “hoàng đế” Tập Cận Bình và “đại đế” Putin.
Trước hết nói về “hoàng đế” họ Tập ở sát nách nước Việt ta.

Từ khi lên cầm quyền ở nước Tàu mới đây, ông bỏ ngay chế độ lãnh đạo tập thể truyền thống đang có và thâu tóm mọi quyền hành về tay mình. Công cuộc chống tham nhũng mà ông đang thực hiện thực chất là tiêu diệt các đối thủ chính trị. Cả nước Tàu rung chuyển trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi”, nhiều người sợ quá đã phải tự tử. Cùng với trò mỵ dân này, ông kích động tư tưởng Đại Hán bằng thuyết “Giấc mộng Trung Hoa”. Đàn áp, mỵ dân và ngu dân là những bảo bối của bất cứ chế độ độc tài nào, đang được ông khai thác tối đa. Và để chính thức lên ngôi hoàng đế ở thế kỷ tin học 21, ông ra lệnh cấm nghiên cứu và giảng dạy 7 đề tài tại các đại học: đó là các giá trị phổ quát, xã hội dân sự, các quyền của công dân, tự do báo chí, các sai phạm của Đảng Cộng sản, các đặc quyền của chủ nghĩa tư bản, và tính độc lập của ngành tư pháp (xin xem Elizabeth C. Economy 2014, Chủ tịch hoàng đế Trung Hoa: Tập Cận Bình thắt chặt quyền kiểm soát).

Tất cả những gì mà “hoàng đế” Tập Cận Bình cấm đều là những thành tựu văn minh của nhân loại. Vậy là ông Tập đã quyết tâm đưa nước Tàu của ông “đi giật lùi đến tương lai” (Nguyễn Trần Bạt 2009, Không gian tinh thần)!

Sau hơn ba thập niên phát triển nóng, đầu tư lan tràn, chạy theo số lượng, Trung Quốc đã tàn phá môi trường, người dân không còn không gian cư trú (trong 20 thành phố ô nhiễm nhất thế giới, Trung Quốc chiếm 15 thành phố), hố phân biệt giàu nghèo ngày một lớn, 350 triệu công nhân và 650 triệu nông dân sống nghèo khổ, quan chức tham nhũng từ trên xuống dưới thành bệnh dịch hạch, chia rẽ sắc tộc ngày một sâu sắc… Tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đến 2014 bắt đầu chựng lại. Và, chỉ giảm thiểu 1% GDP thì sẽ đẩy 40 triệu công nhân lành nghề ra đường, họ không có đường trở về quê cũ nữa, vì ruộng đất đã bị cướp sạch. Cái nền kinh tế lấy công nhân rẻ mạt làm gia công là chính, không phân biệt mèo trắng mèo đen “miễn là bắt được chuột”, thứ lý thuyết AQ ấy chỉ giúp nước Trung Hoa nghèo khổ thoát nạn chết đói và làm giàu cho đảng cầm quyền mà không có sáng chế, phát minh gì cả. Vì thế, nó tất nhiên phải chựng lại. Vì thế, 85% công dân Trung Quốc có tài sản trên 1 triệu đô, hơn 65% người có tài sản 1,65 triệu đô đã di cư và có kế hoạch di cư ra nước ngoài. Còn người nghèo ở Trung Quốc thì chính Đảng Cộng sản Trung Quốc đang đẩy họ đi châu Phi, đi Việt Nam, đi Lào, đi Campuchia…

Một nước Trung Hoa phát triển hài hoà như mong muốn của người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào không thực hiện được.

Làm sao có thể “hài hoà” ở một nước mà cùng đoạt giải Nobel, ông Mạc Ngôn thì được tung hô, còn ông Lưu Hiểu Ba thì bị tống vào tù!

Cái hiện thực đang có ở Trung Quốc được ông Tập Cận Bình thay thế bằng hiện thực muốn có là “giấc mộng Trung Hoa”! Nhưng cơn ác mộng đã đến với họ Tập trong năm 2014. Vì phần còn lại của thế giới đứng đầu là Mỹ đã có lập trường dứt khoát với chủ nghĩa bá quyền bành trướng Bắc Kinh.

Bây giờ nói về “đại đế” Putin.
Image
putin-as-alexander
Ngay khi mới lên cầm quyền, hình ảnh ông Tổng thống Nga buổi chiều đi đấu võ judo, đi công tác tự lái máy bay phản lực… đã được báo chí Nga đăng tải, báo chí Việt Nam cũng hùa theo ca ngợi, thì các nhà bình luận phương Tây, vốn sẵn các từ ngữ chính trị ở một xã hội phát triển đa nguyên đã gọi ông bằng cái tên rất chính xác: “polichinelle de la politique” (tên hề chính trị), “politicailleur” (con buôn chính trị)!

Anh con buôn chính trị Putin những năm đầu gặp thời nhờ kích động tinh thần Đại Nga mà thực chất là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đồng thời nhờ vào nguồn tài nguyên trời cho nước Nga là dầu khí, khí đốt, đá quý, gỗ quý mà tha hồ xuất khẩu để “nâng cao đời sống cho dân Nga”, biến những người lao động kiên cường thời Xô Viết trở thành những công dân lười biếng thời “đại đế” Putin! Những doanh nhân Việt Nam đang làm ăn ở Liên bang Nga về thăm quê đều ca cẩm rằng, dân Nga bây giờ rất trì trệ, trì trệ còn hơn cả thời Xô Viết. Các hợp đồng, dịch vụ làm ăn mà chỉ người Nga mới được ký với nhà nước thì sau đó đều được “bán cái”, thuê lại người nhập cư làm, họ chỉ ngồi hưởng chênh lệch! Có người còn nói với tôi rằng, rất khó kiếm được một người Nga lái xe buýt ở Moscow bây giờ. Đường phố thủ đô Nga tràn ngập xe đời mới nhập ngoại từ Hàn Quốc, Nhật, Đức… Ngành sản xuất xe hơi của Nga coi như chết hẳn! Hàng hoá tiêu dùng thì đã có hàng Trung Quốc…



Tưởng rằng đã có dầu lửa để khống chế phương Tây, anh chính trị con buôn Putin sát nhập Crimea vào Nga, tuồn vũ khí vào miền Đông Ukraine. Và thế là thảm hoạ đã giáng xuống đầu nhân dân Nga – người viết xin nhấn mạnh điều này. Phương Tây cấm vận, giá dầu giảm thê thảm, đồng rúp mất giá chưa từng có, 1 đô la “ăn” hơn 65 rúp, một đồng Euro “ăn” hơn 75 rúp, mà 50% ngân sách nước Nga dựa vào xuất khẩu dầu lửa. Dân Nga đã nhận ra họ bị anh chàng con buôn chính trị Putin lừa!

Nhưng Putin không lừa được phương Tây. Ngay sau khi Putin sát nhập Crimea vào Nga, Tổng thống Mỹ Obama đã đột xuất đến Arab Saudi bàn về việc khai thác mạnh dầu lửa để giảm giá dầu. Sau đó từ tháng 3 đến tháng 9/2014, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã 7 lần gặp Ngoại trưởng Arab Saudi, đất nước có trữ lượng dầu lửa 190 tỷ thùng – lớn nhất thế giới (Iran 160 tỷ, Iraq 150 tỷ thùng dầu) – đã ra tay. Đồng thời Mỹ dùng công nghệ mới fracking trong khai thác dầu và khí đá phiến… Hai mũi giáp công này đã kéo tụt giá dầu xuống. Mỹ đã làm chủ cuộc chơi dầu lửa chứ không phải Putin!

Putin không hiểu rằng, nền văn minh của nhân loại có hôm nay là nhờ vào việc khai thác và dự trữ carbon từ thời kỳ Carbon. Của cải của loài người hiện nay đều dựa vào nguồn gốc nhiên liệu hoá thạch, hoá dầu. Nhưng cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã gióng lên hồi chuông về nguồn nhiên liệu hoá thạch đang suy tàn.

“Vào tháng 7 năm 2008, nền kinh tế toàn cầu sụp đổ. Đó là một cuộc địa chấn kinh tế khủng khiếp báo hiệu kỷ nguyên nhiên liệu hoá thạch đi đến hồi kết mà dư chấn là sự sụp đổ của thị trường tài chính 60 ngày sau” (Jeremy Rifkin 2014, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, NXB Lao động Xã hội, trang 30).

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba mà phương Tây đã và đang chuẩn bị là sự chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời, năng lượng gió và nước. Người ta đã tính toán rằng, chỉ một giờ ánh sáng mặt trời có thể cung cấp đủ năng lượng để vận hành nền kinh tế toàn cầu trong một năm. Nước Mỹ đủ nguồn gió để cung cấp gấp vài lần nhu cầu điện cho cả nước. Phương Tây đang xúc tiến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba này. Dẫn đầu là EU.

Nước Đức đang trong quá trình cách mạng hoá ngành công nghiệp xe hơi và đang tích cực chuẩn bị cho việc sản xuất hàng loạt ô tô, xe tải, xe buýt chạy bằng pin nhiên liệu hydro vào năm 2015. Sự chuyển đổi từ động cơ đốt trong sang pin nhiên liệu sẽ là một bước ngoặt quan trọng trong chuyển đổi nền kinh tế Đức, sự chuyển đổi từ năng lượng hoá thạch hoá dầu sang năng lượng xanh.

Chỉ có nền kinh tế tự do và thể chế dân chủ mới đủ sức mở cánh cửa đến tương lai. “Đại đế” Putin cố tình hay vô tình không hiểu điều đó. Một đô la dầu giảm giá ngân sách của Nga sẽ mất đi 2 tỷ đô la! Vì thế Putin không thể chỉ dựa vào tài nguyên trời cho nước Nga để “phục hưng” vị thế siêu cường thời Liên Xô cũ! Năm 2014 đã trịnh trọng ra thông điệp này với nước Nga.

Nghĩ đến tình cảnh của nước Nga bây giờ, người ta không khỏi nhớ đến những câu thơ của thi hào Nga Puskin (1799-1837):

Tôi muốn ca ngợi tự do cho trần thếTôi muốn đạp vào những tật xấu gian thamĐang nghiễm nhiên ngự trị trên ngai vàng!

Ngoái nhìn sang nước Mỹ, thiếu khách quan nhất người ta cũng không thể phủ nhận vai trò tích cực của Mỹ với thế giới. Ai đã bỏ ra gần 7 tỷ đô la để ngăn chặn thảm hoạ ebola cho cộng đồng thế giới? Ai đã đứng ra nghiêm trị phiến quân Hồi giáo cực đoan IS?

Trong một ngôi làng, không ai có thể được xem là có ảnh hưởng nếu kẻ đó làm ngơ với những sự cố xảy ra trong ngôi làng. Không hề thấy các “cường quốc” Nga, Tàu có động thái gì trong ngôi làng bé nhỏ ấy khi sự cố ebola, IS xảy ra!

Khi Trung Quốc đưa giàn khoan khủng Haiyang Shiyou 981 vào thăm dò dầu khí ở vùng biển đặc quyền của Việt Nam, đe doạ an ninh toàn khu vực thì người lên tiếng đầu tiên vẫn là Mỹ. Ngay ngày 7.5.2014 phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki đã cho rằng hành động của Trung Quốc là khiêu khích và gây căng thẳng.

Ngày 9 tháng 5 tiếp theo, 6 thượng nghị sĩ Hoa Kỳ cũng lên tiếng, và đến 10.7.2014 Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua Nghị quyết S.RES 412 về Biển Đông. Vì thế có người Việt Nam đã nói một cách hóm hỉnh rằng: “Mỹ không phải là thiên đường nhưng ngày càng xa địa ngục”. Và cái “không phải là” thiên đường ấy đã bỏ cấm vận với địa ngục Cuba.

Năm 2014 đầy hiểm hoạ. 30 chuyến bay đã gặp nạn, cả ngàn người thiệt mạng. Đắm tàu, cháy tàu ở nhiều vùng biển. IS giết người man rợ, cuộc chiến đẫm máu Ukraine ở ngay giữa châu Âu thanh bình…

Tuy nhiên, loài người tiến bộ cũng được chứng kiến một đất nước rộng lớn có dân số trên một tỷ người đã bầu bán dân chủ, hoà bình người lãnh đạo của mình. Đó không chỉ là điều hãnh diện của người Ấn mà còn là niềm vui của nhân loại tiến bộ về nền dân chủ đông dân nhất hành tinh này.

Năm 1947 Ấn Độ độc lập. Đất nước đông dân thứ hai này với đa số công dân mù chữ và dùng hai mươi ba ngôn ngữ khác nhau, chưa kể các thổ ngữ. Nhiều tôn giáo cùng tồn tại như Ấn Độ giáo, Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, đạo Sikh, Hoả giáo, Jaina giáo… Sự phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo trong xã hội rất sâu sắc. Cuộc sống ở nhiều nơi lộn xộn, mất vệ sinh đến mức… huyền bí. Nhiều nhà quan sát đã cho rằng Ấn Độ là một đất nước… tuyệt vọng!

Cứ theo luận điệu của độc tài thì một đất nước như thế, dân trí như thế, không thể có dân chủ. Chỉ có thể cai trị bằng dùi cui và chó nghiệp vụ! Nhưng tầng lớp tinh hoa của Ấn Độ đã chọn con đường dân chủ. Khác với Trung Quốc chọn mình làm công xưởng của thế giới, Ấn Độ chọn mình làm văn phòng của thế giới. Và, tương lai của thế kỷ 21, sẽ thuộc về cường quốc hạt nhân, tin học, âm nhạc, điện ảnh này.

Ngày 26.5.2014, ông Narendra Modi đã tuyên thệ nhận chức thủ tướng mới của Ấn Độ sau chiến thắng vang dội của đảng BJP trong cuộc bầu cử Quốc hội. Đó là một ngày đáng nhớ của năm 2014.

Nước Việt của chúng ta cũng không nằm ngoài những buồn vui của năm 2014. Vui vì kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi. Sau nhiều năm ngân hàng Nhà nước “chọn thằng quịt nợ để cho vay”, như một vị chủ tịch ở đồng bằng sông Cửu Long đã từng nhận xét như thế, nay ngân hàng đã đi tìm những doanh nghiệp có thực lực, làm ăn có lời để đầu tư cho vay. Chính phủ đã nhận thấy phải chăm sóc thực sự cho khối doanh nghiệp tư nhân phát triển để giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân, sau những năm dài quốc doanh lỗ lã.

Buồn vì đầu năm Thủ tướng có bài phát biểu cởi mở về chính trị, “dân chủ và xã hội dân sự là xu thế của thời đại… Việt Nam cũng không ngoại lệ”, đến giữa năm thì một số tù nhân lương tâm bị trục xuất, và cuối năm thì một loạt blogger bị bắt.

Việc Nguyễn Quang Lập, một nhà văn hiền lành, viết lách ôn hoà lại cao tuổi và bệnh hoạn, bị bắt như giọt nước tràn ly, gây sốc cho xã hội. Nhiều người phát biểu: nhà văn Nguyễn Quang Lập bị bắt thì ai cũng có thể bị bắt. Cả ngàn người đã ký tên đòi tự do cho Nguyễn Quang Lập. Trong những cuộc gặp gỡ cuối năm người ta cười vui hỏi nhau: Bao giờ thì anh bị bắt? Người kia cãi lại: Câu đó phải để tôi hỏi hỏi anh chứ!

Đã đến thế thì phải xem lại!

L. P. K.
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Ông Phùng Quang Thanh: ông có thể cho biết những điểm nào
trong khối tài sản khổng lồ sau đây là xuyên tạc, bịa đặt?

Không thể phản biện, không thể phủ nhận những thông tin mà Chân Dung Quyền Lực (CDQL) đã đưa, thậm chí truyền thông nhà nước truyền tải theo ngay sau đó, đặc biệt liên quan đến những âm mưu chính trị thấp hèn, khối tài sản tham nhũng cực lớn ở đỉnh cao quyền lực… Những người cầm quyền bắt đầu dùng cả một hệ thống chính trị to lớn để tìm mọi thủ đoạn ngăn chặn, tuyên truyền, cho rằng CDQL là phản động, xuyên tạc, bịa đặt….

Trong số đó, người lớn tiếng nhất phải kể đến là ông Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tại sao ông Phùng Quang Thanh không thể giữ được bình tĩnh, quyết liệt đòi trấn áp thông tin, ngăn chặn thông tin? Phải chăng ông có tật giật mình dù CDQL chưa nhắc nhiều đến ông? Thời gian qua, chúng tôi mới chỉ bắt đầu vẽ bức chân dung quyền lực của ông PTT Nguyễn Xuân Phúc với đầy đủ thông tin xác thực, dễ dàng kiểm chứng về khối tài sản lên tới hàng nghìn tỷ đục khoét của dân. Thưa ông Phùng Quang Thanh, ông có thể cho dư luận biết chúng tôi xuyên tạc điểm nào? Theo tiêu chí của CDQL, chúng tôi sẽ không chừa một ai thiếu đức, thiếu tài mà lại cho mình cái quyền quyết định vận mệnh dân tộc, trong đó bao gồm cả ông nữa.

Image
Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Vì không thể chấp nhận các lời xuyên tạc, xem thường Nhân Dân của ông trên báo www.qdnd.vn và cả trên www.vtv.vn nên chúng tôi xin phép ông được thống kê một chút về tài sản của Đại tá Phùng Quang Hải, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty 319, người đang thay mặt ông mượn danh nghĩa Bộ Quốc phòng, vơ vét tài sản nhân dân để xây dựng mạng lưới kinh tài cho dòng họ Phùng.

Image
Đại tá Phùng Quang Hải, con trai Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh
Sau khi xem xong, ông hãy bình tĩnh để tiếp tục phát biểu và hãy cho Nhân Dân biết rằng những thông tin này có thật không? ông có biết chuyện của Đại tá Phùng Quang Hải không? và quan trọng nhất, đây có phải là thông tin xuyên tạc, bịa đặt không? Nếu ông Phùng Quang Thanh vẫn cho rằng đây là thông tin xuyên tạc, bịa đặt thì chúng tôi sẽ tiếp tục có loạt phóng sự điều tra, thống kê và công bố chi tiết toàn bộ khối tài sản bất minh khổng lồ của gia đình ông, trên thực tế hơn gấp nhiều lần ông PTT Nguyễn Xuân Phúc! Sau đây là một số thông tin để ông tham khảo:


1- Về bất động sản


Đại tá Phùng Quang Hải, con trai Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh đang sở hữu06 biệt thự, căn hộ hạng sang với tổng trị giá là 230,4 tỷ đồng, chưa tính chi phí xây dựng, cải tạo, nội thất sẽ còn lớn hơn nhiều:


(1) Căn biệt thự số BL07-01 tại đường Bằng Lăng 07, Khu đô thị Sinh thái Vinhomes Riverside (Long Biên, Gia Lâm, Hà Nội) được mua với giá 31,7 tỷ đồng ngày 19/10/2011.

(2) Căn biệt thự số BL07-02 sát bên cạnh căn BL07-01 được mua cùng thời điểm 19/10/2011 với giá 30,2 tỷ đồng.
Image
Hai căn biệt thự trên đã được vợ chồng Phùng Quang Hải mua với tổng trị giá 61,9 tỷ đã được đập bỏ sau đó sát nhập,
xây dựng lại thành một căn biệt thự hoành tráng bậc nhất tại Vinhomes Riverside

Image

Sảnh tiếp khách mang tên “Bình An” nằm bên ngoài kiến trúc chính căn biệt thự của Phùng Quang Hải

Image
Một khoảnh sân của căn biệt thự 61,9 tỷ (chưa tính chi phí xây dựng) của Phùng Quang Hải
(3) Căn biệt thự số BL04-07 tại đường Bằng Lăng 04, cũng thuộc Vinhomes Riverside được mua cùng thời điểm ngày 19/10/2011 với giá 31 tỷ đồng, căn này do Phùng Thị Thu Huyền(sinh năm 1982, con gái ông Phùng Quang Thanh) đứng tên.

Image
Căn biệt thự BL04-07 được Phùng Quang Hải mua với giá 31 tỷ đồng cùng ngày 19/10/2011 và cho em gái là Phùng Thị Thu Huyền đứng tên

(4) Căn Penhouse tại Tầng 25, Vincom Center Tp. HCM (72 Lê Thánh Tôn, Quận 1, TP.HCM) được mua ngày 13/11/2013 với giá 1,7 triệu đô la Mỹ tương đượng khoảng 35 tỷ đồng.

Image
View và nội thất căn Penhouse tại Tầng 25, Vincom Center Tp. HCM được Phùng Quang Hải mua với giá 35 tỷ đồng


(5) Căn biệt thự rộng 1.000m2 tại Khu biệt thự lâu đài Chateau Phú Mỹ Hưng (Quận 7, Tp.HCM) được mua ngày 30/4/2014 với giá 82,5 tỷ đồng.
Image
Vị trí căn biệt thự tại khu biệt thự lâu đài Chateau Phú Mỹ Hưng được Phùng Quang Hải mua với giá 82,5 tỷ đồng


(6) Căn hộ hạng sang A2, tầng 20 tại khách sạn 5 sao Premier Havana Plaza, Nha Trang (38 Trần Phú, Nha Trang) được mua ngày 30/7/2014 với giá 20 tỷ đồng.

Image
Khách sạn 5 sao Premier Havana Plaza tọa lạc tại số 38 Trần Phú – con đường vàng của thành phố biển Nha Trang

Image
Bản thiết kế căn A2, tầng 20 của Premier Havana Plaza được Phùng Quang Hải mua với giá 20 tỷ đồng
2- Về siêu xe, du thuyền

Bỏ qua nhiều loại xe hạng sang trọng mà Phùng Quang Hải đang sở hữu, gần đây Phùng Quang Hải đã đặt mua thêm chiếc siêu xe và du thuyền với tổng trị giá hàng trăm tỷ đồng:

- Ngày 10/10/2014, Phùng Quang Hải đặt mua chiếc Rolls-Royce Phantom phiên bản đặc biệt có tên Đông Sơn (chỉ có 6 chiếc trên toàn thế giới) với giá 46 tỷ đồng.
Image
Chiếc xe Rolls-Royce Phantom Đông Sơn Phùng Quang Hải đặt mua với giá 46 tỷ đồng

Image
Nội thất bên trong phiên bản đặc biệt trị giá 46 tỷ của Phùng Quang Hải đã đặt mua
- Ngày 18/11/2014, Nguyễn Thị Minh Hương (vợ Phùng Quang Hải) đứng tên, dùng danh nghĩa công ty công ty TNHH Tràng An để ký hợp đồng với công ty TNHH Sài Gòn Xây dựng Du thuyền (địa chỉ số 101 Trần Hưng Đạo, Q.1, TP. HCM) đặt mua chiếc du thuyền Manhattan 63có mã số 3851463 do hãng Sunseeker (Đức) sản xuất với giá 2,54 triệu USD tương đương khoảng 53,4 tỷ đồng.
Image
Chiếc du thuyền Manhattan 63 trị giá 53,4 tỷ đồng được vợ Phùng Quang Hải đứng tên đặt mua dài 21,07m, rộng 5,13m, màu trắng gồm 3 tầng đầy đủ tiện nghi sang trọng

Image
Phòng ngủ trên tầng dưới của chiếc du thuyền trị giá 53,4 tỷ đồng

Đấy là chưa kể những tài sản giá trị khác mà Phùng Quang Hải đang sở hữu hàng loạt, chẳng hạn như bộ sưu tập điện thoại, đồng hồ đang để trong căn biệt thự Bằng Lăng:

Image
Một góc tủ trưng bày điện thoại, đồng hồ hạng sang trong căn biệt thự Bằng Lăng
3- Về quan hệ bất chính

Đại tá Phùng Quang Hải có sở thích quái đản chinh phục các người đẹp, đặc biệt thích gái đã có chồng, tạm thời chỉ nêu đích danh 3 cô để ông Phùng Quang Thanh được rõ:
- Cô Vũ Thị Thu Hằng, sinh năm 1979, gốc Hưng Yên, thường trú tại P206, Nhà 46, Khu tập thể Vật tư Du lịch số 46 Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội.

Image
Cô Vũ Thị Thu Hằng, người tình thứ nhất của Phùng Quang Hải

- Cô Nguyễn Kim Thanh là cán bộ ban Tài chính Dự án của Tổng công ty 319, thực tế, cô này thuộc nhóm tiếp khách gồm 5 nữ nhân viên thường xuyên tháp tùng Phùng Quang Hải.


Image
Cô Nguyễn Kim Thanh, người tình thứ 2 của Phùng Quang Hải

- Cô Lê Nhã Uyên (người đẹp trong TOP 20 tại Cuộc thi Hoa hậu Việt Nam năm 2010).

Image
Người đẹp Lê Nhã Uyên trên bàn làm việc của Phùng Quang Hải
Thưa ông đại tướng Phùng Quang Thanh, các nội dung trên đây những chi tiết nào ông cho là xuyên tạc, bịa đặt? chúng tôi sẽ căn cứ vào phát ngôn của ông để tiếp tục làm rõ từng chi tiết cụ thể và còn hơn thế nữa, ví như tài khoản ngân hàng của vợ, con, dâu, rể,… ví như việc ông và Đại tá Phùng Quang Hải con ông chữa bệnh tại bệnh viện của PLA, Trung Quốc, ví như thủ đoạn biến đất quốc phòng thành đất riêng rồi quy hoạch bán,… Còn nếu ông biết đó là những thông tin trung thực, ông có quyền giữ im lặng và chờ đợi.


Nguồn: Thanh tra Nhân dân
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Đại tướng Phùng Quang Thanh 'lo lắng' vì dân Việt ngày càng ghét Tàu Cộng.

Image
PhungQuangThanh_Cho_Ba_c_Kinh_babui_danlambao

Bảng Đỏ (Danlambao) - Phát biểu hôm 29/12/2014, bộ trưởng bộ quốc phòng Phùng Quanh Thanh bày tỏ sự quan ngại trước xu thế người Việt Nam ngày càng ghét Trung Cộng, điều mà người đứng đầu lực lượng quân đội CSVN cho rằng sẽ là "nguy hiểm cho dân tộc".

“Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”, báo Thanh Tra trích nguyên văn lời phát biểu của ông Phùng Quang Thanh tại hội nghị của Chính phủ với địa phương triển khai Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015.


Cũng theo người đứng đầu quân đội CSVN, khi giữa hai nước xảy ra xung đột thì cần phải “hết sức bình tĩnh, tin tưởng tuyệt đối vào Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”.

“Chúng ta tăng cường hợp tác để hạn chế mặt phải đấu tranh, nhưng đấu tranh cũng để hợp tác. Đấu tranh không thể để đỗ vỡ, xung đột”, đại tướng Phùng Quanh Thanh 'lý luận'.

Trước dã tâm ngày càng thâm độc của Trung Cộngxâm lược, thay vì lo lắng cho vận mệnh tồn vong của đất nước thì ông Thanh lại 'lo lắng' khi người dân Việt Nam ngày càng ghét Trung Cộng. Quả là chuyện ngược đời.

Một lần nữa, bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã lộ rõ bộ mặt nâng bi, nịnh bợ của một kẻ thân Tàu. Bởi lẽ chỉ có Tàu Cộng mới cảm thấy lo lắng khi bị người khác ghét.

Cũng cần nói rõ với tướng Thanh, người dân chúng tôi không hề ghét nhân dân Trung Quốc, bằng chứng là rất nhiều người Hoa vẫn đang sống và làm ăn yên bình tại Việt Nam.

Dù có thể không thích người Hoa, nhưng người dân Việt Nam cũng không làm hại họ. Trong khi đó, chính đảng CSVN là thủ phạm cướp bóc và xua đuổi người Hoa hồi cuối thập niên 70.

Do đó, Phùng Quang Thanh hãy thôi ngay cái trò quy chụp như trên.

Nhân đây, cũng xin nói rõ với tướng Thanh, thế lực mà nhân dân chúng tôi căm ghét đó chính là đảng cộng sản Trung Cộng với chủ trương xâm lược. Đối với kẻ thù xâm lược thì chỉ ghét chứ không ai yêu cả.

Và cũng nói thêm một điều, chúng tôi ghét bọn cộng sản Trung Cộng một, nhưng ghét cái đảng cộng sản Việt Nam này đến 10. Bởi chính đảng CSVN là một đảng bán nước hại dân. Lịch sử đã chứng minh, chế độ CS đã tiếp tay cho Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

Lòng dân còn biết ghét bọn xâm lược, biết phẫn nộ trước bọn bán nước hại dân thì vẫn còn là điều may mắn cho dân tộc.

Mỗi sự thật hiển nhiên là dân Việt ghét Tàu Cộng cũng đủ khiến bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh lo sợ, không hiểu đến khi lâm trận thực sự thì ông đại tướng sẽ cầm quân như thế nào đây?

__._,_.___
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Vì nó là thái thú!

Vũ Đông Hà

(Danlambao) - Nó không ngu vì nếu ngu thì đã không leo lên được ghế ủy viên Bộ chính trị, nắm đầu hơn 3 triệu đảng viên không dại, cai trị 90 triệu người. Nó không "hèn với giặc, ác với dân" bởi vì Tàu khựa không phải là giặc của nó và người Việt không phải là dân của nó; nó là đứa con hoang gọi Mao bằng nội, gọi Tập bằng cha. Nó cũng không khùng, không điên vì nó nói có chủ ý, có mục tiêu phục vụ thiên triều của nó.

Nó là ai? Nó là Phùng Quang Thanh, tên thái thú tay sai của Bắc Kinh và đang nắm đầu nắm cổ toàn thể quân đội của nước Việt Nam.

Tại hội nghị trực tuyến Chính phủ cuối năm 2014, tên Thái thú này đã nói: "vừa qua, trên mạng nói xấu cả Đảng, Nhà nước, Bộ Chính trị, cả lãnh tụ là rất căng, gây phân tâm...". (1)


Ai nói xấu? Nói xấu điều gì? Không cần phải tìm kiếm đâu xa. Kẻ nói xấu chính là nó - Phùng Quang Thanh. Tự bản thân Phùng này đã làm công việc xé áo, cởi quần để phơi bày trần truồng hình dáng thái thú made in china của nó khi một tuần sau đó nó phát biểu: "Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc."

Nó nói thiếu, hay lỗi thằng đánh máy sót chữ "Trung Quốc" sau danh từ "dân tộc" ở cuối câu.

Chẳng có ông có bà nào, chẳng có "thế lực thù địch" nào đủ tầm đủ cỡ để có thể viết được một câu nói xấu rằng: "lãnh tụ" đảng CSVN rất lo lắng, xem việc già trẻ lớn bé tại Việt Nam ghét Tàu là một mối nguy cho dân tộc. Chỉ có những đứa con hoang đàng của Dương Khiết Trì mới nói được câu đó. Chỉ có những đứa như Phùng Quang Thanh mới có tư thế hoang đàng, biết mình là ai, "tâm tư" như thế nào để nói được câu đó. Không ai có đủ khả năng cởi truồng người khác một cách... chân thật bằng chính nó tự cởi cho thiên hạ ngắm nghía cái con tự do có mã số 164 của nó.

Hãy... ngắm nghía câu nói của tên thái thú này.

Khi nói rằng "từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc" nó đã xác nhận một sự thật không thể chối cãi: người dân Việt Nam già trẻ lớn bé ghét Tàu. Và đó là xu thế. Tên thái thú họ Phùng này thừa biết rõ nhân dân Việt Nam không ghét bõ gì hơn 1 tỉ nhân dân Trung Hoa - vốn cũng là những nạn nhân bị thống trị bởi bộ máy độc tài đảng trị. Đối tượng của sự căm ghét là đám Tàu cộng - cha đẻ của đám con hoang đàng Việt cộng - đã, đang và tiếp tục bành trướng, xâm lược Việt Nam.

Chính vì "xu thế từ trẻ con đến người già" đó mà những tên thờ Khựa Bắc Kinh mới "tâm tư" rằng "Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại". Nhưng Phùng thái thú này chỉ ngại... giùm cho những tên tay sai bản địa khác chứ hắn thì đã thoát y từ lâu, không còn ngại trần truồng.

Nó đã không ngại ca tụng giặc tàu là "Bạn đón tiếp ta rất nhiệt tình, trọng thị, chu đáo và rất hữu nghị..." khi hắn sang còng lưng với thiên triều vào hôm tháng 10, 2014.

Nó đã không ngại một điều bạn, hai điều bạn, ba điều bạn, trăm điều bạn và tuyên bố "phải giữ nguyên trạng", khép nép kẹp đùi OK việc bạn có những công trình xây dựng quy mô trên những vùng chủ quyền của Việt Nam đã bị bạn cướp chiếm. Nó ngại ngùng gì khi đã trở thành đứa phát ngôn hoang đàng tích cực nhất cho chủ trương tằm ăn dâu của Bắc Kinh: "biến vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của Tàu cộng, và sau cùng biến vùng khai thác chính thức thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Tàu cộng" (2)

Cũng tại hội nghị trực tuyến Chính phủ, tên thái thú quân đội-Tàu-lên-đầu này cũng đã tuyên bố: "Trong Quân đội có giáo dục cán bộ chiến sĩ nhưng về nhà, hay ra quán đọc thì rất khó kiểm soát. Anh em bảo vệ biên giới, biển đảo mà đọc những điều này thì rất gay. Phải có biện pháp chứ không nên thả nổi".

Chỉ hơn 1 tuần sau khi nó mở mồm tâm tư rất gay này thì anh em chiến sĩ sau khi được tên thái thú giáo dục, chẳng cần phải ra quán, lén lút vào những trang "phản động" bị Nguyễn Tấn Dũng ra lệnh cấm đọc như Danlambao để tìm hiểu thêm những điều... khó kiểm soát. Anh em chiến sĩ chỉ cần vô tư và thênh thang không cần trèo tường vượt lửa vào trang Thanh Tra của chính phủ đọc câu nói đầy tâm tư tàu vị yểu của tên đại tướng thái thú là thấy... gay ngay. (3)

Một lần nữa, câu nói của tên lãnh tụ cầm súng tàu bắn sau lưng chiến sĩ của anh em là:

“Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc. Chúng ta bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước nhưng vẫn phải bảo vệ hòa bình, ổn định chính trị, thành quả cách mạng và giữ quan hệ hữu nghị Trung Quốc, tăng cường phát triển toàn diện kinh tế - xã hội đất nước. Chúng ta tăng cường an ninh quốc phòng là để tự vệ, khi nào buộc phải tự về thì chúng ta mới tự vệ”.

Nghe theo lời tên tướng con hoang của Tàu này, đến lúc anh em buộc phải tự vệ thì chắc hẳn số phận của anh em sẽ không khác gì số phận của 64 người lính hải quân Việt Nam bị thảm sát ở Gạc Ma khi mà tên thái thú Lê Đức Anh ra lệnh thà (tụi bây) chết chứ không được nổ súng chống lại thiên triều.

Đọc lời "tâm tư" của tên Phùng đại tướng này có lẽ đã đến lúc các chiến sĩ QĐND phải đối diện với một câu hỏi cũng thật gay: nòng súng đang cầm trên tay của các anh cần phải quay lại hướng nào và nhắm tới ai!?


Vũ Đông Hà
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests