Bình Luận , Quan Điểm

khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Hãy giữ lấy một chút lòng tự trọng, thưa ông thủ tướng
Hoàng Nam
(DanLamBao)
Thưa ông Thủ Tướng!.

Nói đúng ra tôi cũng không muốn nói và viết về ông. Thực tình tôi cũng như các người dân Việt Nam khác, đã quá nhàm chán và coi thường những lời ông nói và những việc ông làm.

Chúng tôi đều biết ông là ai?. Thủ vai diễn nào trong kịch bản “Mãi Quốc Cầu Vinh”. Được đảng CSVN các ông kiên trì thực hiện từ thời HCM đến nay. Nhưng chúng tôi thấy ông phát biểu nhiều quá, tuyên bố hùng hồn đình đám quá, mà ông không hề thực hiện được một việc gì, dù rằng thật nhỏ nhoi như những gì ông nói. Điều đó ông cứ lập đi lập lại lần này qua lần khác, khiến người dân chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm. Vì ông làm như vậy là đã quá coi thường sự hiểu biết của người dân về ông, và cái đảng CS thổ tả ôn dịch của ông.

Trong thâm tâm ông nghĩ người dân chúng tôi là những con Cừu, chính vì vậy mà ông luôn dùng ba tấc lưỡi Tào Tháo để bịp bợm dối trá mị dân, lừa đảo chúng tôi hết lần này lần khác. Nói cho bằng đúng ra là ông thực hiện cái vai diễn “Phản Thùng” của ông với Tàu Cộng, là nhằm mục đích an dân, thực hiện kế sách “Kẻ đánh người đàm” để người dân chúng tôi yên tâm không vong động chống lại bọn Tàu Cộng xâm lược, làm mất đi cái hòa khí của hai đảng, hai nhà nước đang trong tiến trình sát nhập làm một, mà các ông đã thỏa thuận với nhau trong cái gọi là “Mật Nghị Thành Đô” quái quỷ gì đó, mà các ông đang mong muốn thực hiện. Tôi nói vậy có đúng không thưa ngài Thủ Tướng?...

Ngài Thủ Tướng quý mến!

Có thể ông quá bận rộn với trăm công nghìn việc triều chính, mà quên đi những điều ông đã từng tuyên bố rồi bỏ đó. Nên ở đây tôi xin được nhắc lại một vài lời tuyên bố của ông trên các diễn đàn quốc tế và quốc nội để ông nhớ. Những điều ba hoa mà ông thốt ra khiến người dân chúng tôi thấy tội nghiệp cho lòng tự trọng của ông. Hình như nó đã bị ông mài mòn và biến nó thành chai lỳ gỗ đá trong con người của ông.


Tôi thiết nghĩ khi con người không có lòng “Tự Trọng” thì việc gì người ta cũng có thể nói, có thể làm mà không biết xấu hổ hay ngượng ngùng chi cả. Họ lừa dối mọi người và lừa dối chính mình. Tôi xin được trích ra đây một vài tuyên bố hùng hồn từ ngày bắt đầu ông chấp chính quyền Thủ Tướng đến nay. Như người Việt Nam ta có câu: “Nói có sách mách có chứng” Để ông khỏi nghĩ ngợi là chúng tôi đặt điều, vu khống cho ông.

Trước hết là trên các diễn đàn quốc tế.

- Ngày 31/05/2013 ở hội nghị Shangri La Singgapore, ông đã nhập vai diễn “Phản Thùng” một cách khá là thành công, nhẹ nhàng, êm ả bằng lời tuyên bố bóng bẩy xa gần về hành động bá quyền của Trung Cộng: “Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”. Qua lời tuyên bố úp úp mở mở của ông nêu trên, khiến người dân chúng tôi vô tình đã bị ông dẫn dụ một cách khéo léo tài tình, đặt hết tin tưởng vào lòng “Yêu Nước Phản Trung, Viển Vông của ông. Và cũng chính vì lòng khát khao Dân Chủ cháy bỏng trong tâm khảm, mà người Việt Nam dễ dàng quên đi 70 năm qua, đảng CS của ông đã lừa bịp, và cai trị dân tộc này một cách tàn nhẫn, bạo lực và độc tài, dưới đủ mọi hình thức, mọi chiêu trò, được che đậy sau lớp áo đỏ tươi rực rỡ, vì độc lập, vì tự do, vì hạnh phúc của dân tộc. Ngẫm nghĩ lại việc các ông làm tội cảm thấy tội nghiệp cho sự chất phác, cả tin và bao dung của người dân VN chúng tôi...


- Ngày 22/05/2014. Trả lời báo chí quốc tế tại Philipine, ông tuyên bố và khẳng định một cách có khí có phách, có cả nhu lẫn cương, chứng tỏ ông là một người có tài hùng biện: “Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình hữu nghị, nhưng phải trên cơ sở độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không đánh đổi điều thiêng liêng này, để nhận lấy một thứ hòa bình viễn vông lệ thuộc nào đó”.

Thật tuyệt vời! Nội dung hàm chứa đầy đủ ý nghĩa và những điều cần phải khẳng định, một cách rất là rõ ràng, ngắn gọn xúc tích. Lời lẽ uyển chuyển bóng bẩy, được lồng trong những khôn khéo chính trị. Có thể nói một câu trả lời xứng đáng với tâm vóc của một Thủ Tướng, không chê vào đâu được, làm nức lòng người dân VN không ngớt lời ca ngợi, Thủ tướng đã nói thay cho nguyện vọng của người dân, đã can đảm nói thẳng vào ý đồ xâm lăng của bọn Đại Hán Trung Cộng, thậm chí có người còn nghĩ rằng rồi đây ông sẽ là một Gorbachyov của VN, và còn lo sợ cho ông bị bọn Tàu Cộng trả thù, hãm hại bản thân và gia đình của ông, và khuyên ông nên cẩn thận đề phòng. Ha! Ha! Ha! buồn cười quá...Buồn cười cho cái sự ngây ngô, đến độ khờ khạo của dân mình.

Thật tội nghiệp đã bị ông lừa phỉnh.

Xin hỏi ông TT. Ông đã làm gì sau những lời tuyên bối hùng hồn, đẹp đẽ ấy?...
Xin Thưa! Tôi sẽ trả lời thay ông để ông bớt đi phần ngượng ngập: Ông đã cấm cản người dân không được biểu tình chống lại hành vi xâm lược lãnh hải VN của Tàu Cộng qua giàn khoan HD981. Ông đã cho CA truy cản, bắt bớ, đánh đập người biểu tình. Thậm chí ông còn cho nhắn tin vào từng chiếc ĐTDĐ của người dân đang sử dụng, chỉ thị của ông là không ai được manh động, hay tự ý biểu tình. Như vậy việc nói và làm của ông là bất nhất, trái ngược nhau hoàn toàn.

Điều đó đã làm cho người dân chúng tôi sáng mắt và hiểu ra rằng: Lời nói của ông chỉ là thao thao bất tuyệt, đọc lên những câu cú đã được sắp sẵn trong kịch bản mà đảng của ông đạo diễn, phân vai cho ông. Nhưng dù sao, nhìn ở góc độ diễn xuất, ông quả là một diễn viên tài ba đẳng cấp, ai cũng phải công nhận ông là một tài năng về các thủ đoạn lưu manh chính trị. Biết tung ra những lời lẽ có lông, có cánh vào những sự kiện và thời điểm thích hợp để trấn an lòng dân, để đánh bóng tên tuổi và sự nghiệp chính trị của mình. Ở phần này tôi xin được nhắc cho ông nhớ. Cổ nhân người việt có câu: “Đong đấu nào trả đấu nấy, Chơi dao có ngày đứt tay” xin ông luôn nằm lòng ghi nhớ...

Thưa ông TT! Nếu viết về những lời nói và những việc làm của ông thì nhiều, rất nhiều, chắc có lẽ không người dân VN nào mà không biết về những chuyện của ông. Nên tôi chỉ xin viết ra đây một số việc của ông như một bằng chứng nói lên con người thật của ông. Còn những việc ông làm, chắc hẳn ông là người rõ hơn ai hết. Và cũng nhân chuyện này, tôi cũng muốn nhắc nhở với ông một chuyện cần thiết: Người dân bây giờ họ hiểu biết và sáng suốt hơn xưa rất nhiều, không dễ dàng gì xỏ mũi, hay che mắt họ như những ngày đầu CS vùng lên, nên xin ông hãy cẩn thận trong những việc ông nói và làm, kẻo bị họ coi thường khinh rẻ ông là con người thiếu lòng Tự Trọng.

Dưới đây tôi xin được trích dẫn những lời tuyên bố vuốt đuôi của ông sau sự kiện dịch chuyển của giàn khoan Tàu Cộng. Xin lưu ý ông là họ chỉ dịch chuyển, chứ không phải rút lui như ông lầm tưởng, thậm chí họ còn tiến vào sâu hơn nữa trong thềm lục địa VN, mà ông đã vội vàng tuyên bố vuốt đuôi một cách hồ đồ, trớt gướt. Đây là nguyên văn lời tuyên bố về vấn đề biển Đông của ông trong phiên họp chuyên đề của chính phủ về công tác xây dựng pháp luật ngày 16/07/2014: “Việt Nam kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp, và các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế. Yêu cầu TQ không tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan, cũng như các hành vi, vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển VN.”

Lời tuyên bố nghe rất “Kêu” và mạnh bạo quá đi chứ!... Nhưng rất tiếc. Chỉ là lời vuốt đuôi khi sự việc đã rồi. Ngán ngẩm thay khi cứ “Soan lại hoài bổn cũ”...(Vấn đề này tôi xin được trở lại sau).


Ông Thủ Tướng quý mến!

Xuyên suốt quá trình hoạt động của ông, từ lúc ông nắm quyền TT đến nay. Người dân chúng tôi chỉ nghe thấy ông nói. Nói có bài có bản, nói hùng hồn khí phách, nhưng hầu như ông chẳng làm được việc gì, và cái việc “Nói khơi khơi” như vậy của ông, người VN chúng tôi có câu: “Ba voi chẳng được bát nước xáo” hay câu nói bình dân cửa miệng thì gọi là: “Ăn tục nói phét”. Cả hai câu trên đây, không biết có đúng không trong trường hợp của ông?...


Trở lại vấn đề “Nói” mới nhất của ông mà tôi vừa nêu ở trên. Trung Cộng họ không rút lui, mà họ còn cắm giàn khoan của họ vào sâu hơn trong lãnh hải VN. Trong trường hợp này ông sẽ làm gì?... Ông yêu cầu họ không được tái diễn, nhưng nay họ đã lại tái diễn rồi đó. Họ coi thường và phớt lờ các yêu cầu của ông cũng như khinh rẻ cái nhà nước mà ông đang cai quản. Ông kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp. Tôi thiết nghĩ đây là Thời điểm thích hợp” như ông đã từng nói, để kiện họ ra tòa. Ông có dám làm không? Hay phải chờ họ tái diễn thêm nhiều lần như vậy nữa, hoặc họ chiếm hết đảo Trường Sa rồi mới bắt đầu “Chuẩn Bị”. Việc kiện họ ra tòa bây giờ cũng là một phần trong cái mà ông gọi là sức mạnh tổng hợp. Vậy trước mắt ông hãy đấu tranh bằng biện pháp pháp lý này thôi, người dân chúng tôi cũng ủng hộ và hoan hô ông hết lời, chứ chưa cần ông phải đấu tranh bằng sức mạnh tổng hợp nào khác “Viển vông”...

Cũng như nhận định của tất cả người dân. Ông đúng là một diễn viên có tài. Diễn xuất của cá nhân ông rất đạt. Nhưng kịch bản của các ông quá vụng về luộm thuộm. Đúng ra phải để cho ông làm được một việc gì đó cho có vẻ trung thực, hợp lý một chút, để khán giả (Nhân dân) còn tin. Các ông đã khinh suất, để chính cái vụng về thiếu sót đó, đã tố cáo các ông, và làm lộ ra cái “Đuôi Sam Đại Hán” đang mọc ra từng ngày, ngay sau gáy các ông.

Thưa ông Thủ Tướng!

Người VN chúng tôi đã mơ màng ngủ quên 70 năm nay, trong sự lừa bịp dối trá, tuyên tuyền quá khôn lanh nham hiểm của các ông. Nhưng cho đến hôm nay, họ bàng hoàng tỉnh giấc, sau những đêm dài trằn trọc quá nhiều ác mộng. Họ giật mình trỗi dậy, khi cảm nhận được những âm mưu xâm lược của “Người bạn láng giềng” 16 vàng 4 tốt, như lời các ông gọi. Đang từng ngày xâm chiếm và Hán Hóa dân tộc VN, với sự tiếp tay của đảng CSVN mà ông TT là một thành viên đắc lực trong đó. Ông ký cho Trung Công đem quân vào Tây Nguyên qua dự án Boxit, ông phá hoại kinh tế vĩ mô bằng “Quả đấm thép” Vinanin, Vinaline. Ông đã không ngần ngại ký xuất 200 ngàn dolla là tiền thuế của dân, cho TW đoàn TNCSVN, để nuôi dưỡng một lũ DLV Hồ đồ, lõ mãng và thiểu năng trí tuệ, có nhiệm vụ lên mạng nói bậy nói bạ, để vu khống chống lại những người dân chủ VN yêu nước. Ông ra nghị định 72 hòng bóp chết những tiếng nói trung thực, xây dựng đất nước trên các trang mạng Internet VN. Ông lên kế hoạch bỏ tù những người bất đồng chính kiến, chống lại ông, cụ thể như trường hợp của TS Cù Huy Hà Vũ. Và ông cũng không quên làm giàu cho gia đình mình bằng cách thâu tóm các Ngân hàng thông qua bầu Kiên và cô Phượng con gái rượu của ông. Ông bao che, dung túng cho tên Phó TT người Tàu Hoàng Trung Hải được toàn quyền quyết định, thao túng các dự án mang tầm vóc quốc sách về kinh tế, quốc phòng như cửa khẩu quan trọng Vũng Áng chẳng hạn.


Qua những việc ông thực hiện như nêu trên, khó có ai nghĩ rằng ông là người VN, mà người ta nghĩ ông là người “Lạ” của một cái nước “Lạ” nào đó.

Ông TT quý mến!

Nhìn những việc ông làm từ trước đến nay, hoàn toàn chẳng có gì ích nước lợi dân, ngoài những việc họp hành rồi tuyên bố ì xèo, thời gian còn lại của ông là dành cho công việc kết cấu Nhóm Lợi Ích (Cũng có thể gọi là băng đảng) để tham nhũng, làm giàu, và đấu đá nội bộ để tranh giành quyền lực. Đó là một sự thật hiển nhiên phơi bầy ra trước mặt người dân mà ông không thể nào phủ nhận, chối cãi, vì sự thật thì không thể che dấu được mãi...

Trước khi chấm dứt câu chuyện kể về ông. Tôi xin có được một lời khuyên cho ông và cái đảng CS chết tiệt của ông. Vẫn biết rằng tất cả các ông đều là diễn viên trong kịch bản “Mãi Quốc Cầu Vinh”. Từ BCT, cho đến 500 cái đầu để gật theo sự chỉ đạo của đảng. Người dân đều nhận thấy các ông, ai cũng có tài năng diễn xuất, “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Nhưng tôi nghĩ cũng vẫn cần góp ý:


Nhân dân VN gần 70 năm qua. Ăn bánh vẽ của các ông quá nhiều và đã chán. Thế nên xin các ông vui lòng ngưng lại, cho chúng tôi nhờ. Kẻo chúng tôi như người say rượu, nuốt vào rồi lại phải cho ra tội nghiệp.

Xin các ông cứ âm thầm, hoặc công khai thực hiện những gì mà đảng và các ông đã ký kết cùng bọn Trung Cộng trong “Mật Nghị Thành Đô”, dân tộc này đã biết, và cũng chẳng bận tâm, nhưng xin các ông đừng lạm dụng hai từ “Nhân Dân” để tuyên bố um xum trời đất. Làm như vậy là làm tổn thương đến lòng tự trọng của người dân chúng tôi. Còn những việc còn lại của Tổ Quốc VN, như chống lại kẻ thù xâm lăng Tàu Cộng, và xây dựng một đất nước Dân Chủ. Nhân dân VN sẽ làm, và làm được, trong một ngày rất gần. Các ông hãy chờ đấy mà xem!...


Xét cho cùng. Việc kêu gọi các ông “Quay Đầu Lại Là Bờ”, là một điều “Không Tưởng”, như xây dựng thiên đường CS. Nên tôi xin mượn lời của một vị tổng thống của nước Nga, khi nói về những con người CS các ông, để kết thúc bài viết: “Đối Với CS thì không thể sửa chữa, mà chỉ có tiêu diệt”.


Chào tạm biệt, ngài Thủ Tướng

Hoàng Nam
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

Luôn ủng hộ dù Anh là ai!
Viết ngắn khi đến thăm nhà nhạc sĩ Việt Khang

Nguyễn Võ
(Blog Huỳnh Ngọc Chênh) -

Ngoại anh ấy sau nhiều biến cố, gần năm nay bắt đầu sợ người lạ đến nhà, và bà luôn lẩm bẩm rằng thà giết bà đi, đừng bắt bớ giam cầm bà, bà có tội gì đâu! Thà cắt cổ bà đi, chứ đừng hành hạ, bỏ đói bà, không cho bà nhận thức ăn...

Ba anh ấy chỉ vừa ra đầu hẻm đón chúng tôi vào nhà, thì trong này bà đã ăn gần nửa con cá sống... bà không còn đủ minh mẫn để nhận ra mùi tanh nữa, chỉ khóc lóc la toáng lên rằng: "tại sao cá khô mà cũng không cho gửi vào, trong đó nó đói chết thì sao, sao tụi bây ác vậy?"...

Mình hiểu tại sao bà lại nói sảng như vậy....!!! Chỉ biết im lặng, những người bạn đi chung với mình ai cũng quay mặt đi mà khóc.

Em anh ấy thì học xong sư phạm ra cũng không được thi tuyển viên chức ở tỉnh, không được nhận vào bất cứ trường nào trong khu vực. Người làm tài xế cho một công ty thuộc khu công nghiệp Sóng thần cũng mất việc vì không may công ty ấy lại là công ty nhà nước.

Hôm qua,nghe đâu mẹ và vợ con anh đã đón xe khách chuyến 3h khuya để thăm anh. Trong 15-20p gặp mặt ngắn ngủi ấy không thể nào đủ để kể nhau nghe hết trăm nỗi khó khăn, ngàn mối lo toan của người trong nhà cùng những gian khổ bất công anh đã chịu đựng trong 1 tháng qua.

Nhưng thôi, âu cũng nhờ vậy mà họ còn chút niềm tin vào cuộc sống, dìu dắt nhau bước qua quãng đường cam go này. Biết nhiều chỉ khổ đau thêm thôi...

Cũng đã gần 3 năm rồi... thôi cố lên anh nhé, mọi người vẫn luôn bên anh, luôn ủng hộ anh... dù ANH LÀ AI!

Nguyễn Võ

Bản chất Cộng Sản muôn đời vẫn không thay đổi: Tuyên truyền dối trá, bóp méo sự thật, dã man giết hại nhân dân là sỡ trường của Cộng Sản.
Đảng Cộng Sản VN xử dụng chính sách dùng côn đồ để đàn áp, đánh đập, bỏ tù nhân dân và những người yêu nước biểu tình chống Tàu Cộng.
Nếu tất cả người dân Việt Nam không đoàn kết đứng lên lật đổ chế độ Cộng Sản.
Chắc chắn một ngày không xa, cả Dân Tộc Việt Nam sẽ làm nô lệ cho Tàu cộng.
Lần này không chỉ 1000 năm, mà có thể vĩnh viễn.
Hơn bốn nghìn năm lịch sử Việt Nam. Không có một triều đại hay một chánh phủ nào chịu dâng nước cho ngoại bang, chỉ có duy nhất đảng Cộng Sản Việt Nam qúa hèn hạ bán nước và chấp nhận làm nô lệ cho giặc Tàu.
Muốn giữ gìn đất nước, trước tiên phải tiêu diệt đảng Cộng Sản Việt Nam.

http://www.youtube.com/watch?v...

Chạy Dân Làm Báo: Luôn ủng hộ dù Anh là ai! - Mỗi người chúng ta là một chiến sỹ thông tin * Citizen Journalism
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Gian dối từ trên xuống dưới

Ngô Nhân Dụng


Một bức hình được truyền đi trên mạng trong tuần qua cho thấy cảnh một đống tiền lẻ, đồng đô la Canada, để lộn xộn trên mặt một hộp cao bằng kim loại, tại cửa ra vào trạm xe điện ngầm (metro). Người chuyển bức hình đi giải thích rằng máy bán vé tự động bị hư nên hành khách đã để tiền lên mặt vuông cái máy, thay vì “nhẩy rào” qua mà đi. Nhiều người lên tiếng khen ngợi dân Canada lương thiện; so sánh với tiếng tốt của dân Nhật Bản vẫn được truyền tụng từ lâu. Có người, ở một nước Châu Âu, viết rằng, “Nếu ở nước tôi thì mấy đồng tiền đó đã biến mất sau mấy giây đồng hồ!”

Không ai kiểm chứng bức hình trên là thật hay một trò đùa nghịch. Nói như vậy không phải vì nghi ngờ tính lương thiện của dân Canada. Tôi đã sống ở Montréal, Canada hơn 20 năm dài (hơn thời gian từng sống ở Sài Gòn hay Hà Nội) nên đã gặp rất nhiều người thành thật, lương thiện, rất đáng kính trọng. Nhưng trong một thành phố lớn (cho nên lập đường metro) mấy triệu người, chắc một phần tư dân chúng là di dân mới một đời, ta không biết ai là “người Canada” thật sự. Di dân mới tới có khi vẫn “nhẩy rào” để được đi metro miễn phí! Tôi đã chứng kiến, ở một xứ được coi là lương hảo nhất thế giới, là Thụy Ðiển, cảnh người đi xe lửa bị lấy trộm, người thì bị móc túi. Bạn tôi ở Phần Lan kể trước đây 20 năm dân xứ này bỏ xe đạp trước cửa nhà, không cần khóa, mà không bao giờ mất. Nhưng mươi năm nay, sau khi các chế độ cộng sản sụp đổ ở Âu Châu thì người Phần Lan cũng bị mất trộm; vì rất nhiều di dân mới đổ vào. Du lịch ở các nước khác như Anh, Pháp, Ý, người ta cũng được khuyến cáo phải coi chừng kẻ cắp.

Dân Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada vẫn thường đứng đầu trong bảng xếp hạng các nước có “cuộc sống hạnh phúc” trên thế giới. Những người hạnh phúc thường cũng sống thật thà, lương thiện; có thể tin như vậy. Nhưng dân các nước nghèo không nhất thiết phải sống kém lương thiện. Một thế kỷ trước đây, Huân tước Baden Powell, người sáng lập phong trào Hướng Ðạo thế giới, đã viết những lời nồng nhiệt ca ngợi đời sống hiền hòa, lương hảo của dân Miến Ðiện. Mà lúc đó Miến Ðiện còn nghèo hơn Việt Nam bây giờ!

Khi nào thì một nước sinh ra đầy trộm cắp? Khi có nhiều người dân nghèo và xã hội bất công, thì nạn trộm cắp sẽ phát sinh. Khi một nước có cả hai yếu tố, nghèo và bất công, thì do “thượng bất chính, hạ tất loạn” nên mới có “bần cùng sinh đạo tặc.” Giữa Nghèo và Bất Công thì nạn Bất Công là thủ phạm chính gây ra cảnh “trộm cắp như rươi;” nếu chỉ nghèo không thôi người ta vẫn muốn sống lương thiện. Khi mọi người đều tôn trọng luật pháp, ai làm giầu được đều do công sức của chính họ, thì cả xã hội vẫn có thể sống trong đạo lý. Giấy rách giữ lấy lề. Ðói cho sạch, rách cho thơm. Người Việt Nam vẫn dạy con cháu như thế, từ lúc cả nước cùng nghèo.

Quý vị độc giả có thể mới đọc bản tin về một cô gái lấy cắp của đại sứ một nước Trung Á, trong một siêu thị ở Hà Nội. Người Việt Nam xưa nay vốn thật thà, hay là vốn tính bất lương? Cũng vậy, hãng Hàng Không Việt Nam mới lập “sổ đen,” kê tên những người Trung Quốc đã từng lấy trộm trên máy bay. Nếu Hàng Không Việt Nam gửi cả danh sách này cho các công ty hàng không khác trong vùng thì có bêu riếu cả dân tộc Trung Hoa hay không? Cũng không khác gì các cửa hàng bên Nhật viết bảng cảnh cáo “không được lấy trộm,” viết bằng tiếng Việt, cho khách hàng dễ hiểu!

Tôi không tin rằng dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều có tính trộm cắp. Thói ăn cắp, ăn trộm phát triển trong các nước này, vì hoàn cảnh sống trong cảnh vừa nghèo lại vừa bất công. Suốt từ thế kỷ 19, 20 dân Việt Nam đã sống trong chế độ thuộc địa bóc lột và bất công. Nước Trung Hoa sống dưới chế độ ngoại thuộc Mãn Thanh từ thế kỷ 17, rồi bị các cường quốc Tây phương lấn ép. Rồi cả hai dân tộc, Trung Hoa và Việt Nam đều sống dưới chế độ cộng sản hơn nửa thế kỷ vừa qua. Chế độ cộng sản tàn phá luân lý, đạo đức của hai dân tộc mạnh hơn các chế độ ngoại thuộc, thực dân. Vua quan nhà Mãn Thanh và thực dân Pháp gây ra cảnh bất công, nhưng họ không tìm cách xóa bỏ các nền nếp đạo lý của dân bản xứ. Trái lại, các chế độ cộng sản đều lật đổ, xóa sạch các quy tắc luân lý cổ truyền, đề ra mục tiêu “xây dựng những con người mới,” mà không biết phải xây dựng như thế nào.

Khi Hồ Chí Minh viết về việc xây dựng một nền đạo đức mới, thì các đảng viên cộng sản được dạy rằng đạo đức cách mạng quan trọng nhất là “luôn luôn tuân phục đảng.” Ðiều này ông ta cũng chỉ họ được từ Mao Trạch Ðông và Lưu Thiếu Kỳ. Hậu quả là người ta không cần theo một quy tắc luân lý nào khác, nếu chỉ hành động theo lệnh “Ðảng.” Mà Ðảng chính là các lãnh tụ; không còn ai khác nữa.

Các chế độ độc tài chuyên chế đều kèm theo một guồng máy tuyên truyền dối trá. Khi người dân một nước phải nghe nói dối ngày này sang ngày khác, phải lấy giả làm thật, đen nói ra trắng, nếu không biết dối trá, không biết cúi đầu sợ sệt thì không sống được, khi đó xã hội sẽ phải suy đồi, không còn chút luân thường đạo lý nào nữa. Các đảng Cộng sản Trung Hoa và Việt Nam đã phá hủy nền đạo lý cổ truyền của hai dân tộc. Hơn nữa, họ xóa bỏ tập quán sống theo pháp luật, vì đặt chính trị lên trên luật pháp. Do đó, tới khi họ mở cửa cho kinh tế thị trường xuất hiện, thì những tệ hại lớn nhất của thời “tư bản hoang dã” bộc phát rất nhanh.

Từ khi các đảng cộng sản quay chiều theo kinh tế tư bản, nói chung dân Việt Nam và Trung Hoa không thể coi là nghèo được nữa. Nhưng vì chế độ vẫn độc tài chuyên chế, cho nên xã hội càng bất công hơn các nước tư bản vào thế kỷ 19. Tiền của được tích lũy vào tay các lãnh tụ, các đảng viên, cho đàn em và phe cánh. Khi những người nghèo khổ sống bên cạnh những kẻ làm giầu vừa bất hợp pháp vừa không bất lương, thì người ta không còn tin ở đạo lý nữa, dễ làm bậy. Khi lòng tham nổi lên, kẻ trộm cắp và tự biện hộ với lương tâm mình rằng chung quanh họ bao nhiêu đứa nó trộm cắp nhiều gấp hàng ngàn lần mình, nếu mình có tội cũng là tội nhỏ!

Những người Trung Hoa đi máy bay chắc không thể coi là nghèo. Cô gái ăn cắp trong siêu thị chắc cũng có công việc làm đủ sống. Tại sao họ lại ăn cắp? Vì họ đã chứng kiến cảnh những kẻ khác đã trộm cắp hàng triệu, hàng tỷ đô la, giầu gấp trăm, gấp ngàn họ, vẫn sống nhởn nhơ!

Ðạo lý suy đồi không phải chỉ là một vấn đề xã hội, văn hóa. Khi nhìn về lâu về dài, thì cảnh cả luật pháp lẫn đạo lý suy đồi sẽ khiến cho kinh tế một nước không thể tiến lên được. Nền kinh tế tư bản dựa trên luật pháp, mà nhờ luật lệ nghiêm minh nên mọi người bị bắt buộc phải sống lương thiện hơn. Tại các quốc gia bình thường, dù là ở những nước nổi tiếng lương thiện như Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada, vẫn có kẻ trộm. Nhưng khi làm ăn, làm ăn lớn, thì người ta có thể tin nhau, vì có luật pháp. Nếu luật pháp không đủ rộng để ràng buộc tất cả, thì còn có đạo lý. Kinh tế thị trường phát triển nhờ các nền tảng đó.

Những người Trung Hoa ăn cắp trên máy bay không làm hại cho kinh tế Trung Quốc bằng quan chức điều khiển các doanh nghiệp nhà nước, hoặc tư doanh. Bởi vì khi họ gian dối, người ta sẽ sợ không còn muốn làm ăn với nước Trung Hoa nữa.

Công ty hàng ăn McDonald hôm qua vừa quyết định ngưng không mua thịt từ một xí nghiệp Trung Quốc nữa. Các công ty Burger King và Yum Brands, chủ nhân các cửa hàng KFC cũng làm theo. Công ty Trung Quốc là Phúc Hỷ, ở Thượng Hải đã cung cấp thịt cũ, quá hạn cho các cửa hàng ăn này. Từ nay, McDonald sẽ mua thịt từ Thái Lan.

Tháng trước, mấy ngân hàng ngoại quốc, trong đó có Citigroup và Standard Chartered đã lâm nạn vì một vụ gian trá khác của mấy xí nghiệp Trung Quốc. Một công ty Trung Quốc vay, Ðức Thành Khoáng Nghiệp vay tiền của nhiều ngân hàng và đem một số kim loại làm thế chấp. Nhưng người ta khám phá ra là số kim loại này, chứa trong nhà kho tại hai cảng Thanh Ðảo và Bồng Lai, đã được đem thế chấp cho nhiêu món nợ khác nhau!

Những vụ gian dối của các công ty Phúc Hỷ và Ðức Thành sẽ làm hại cả các công ty Trung Quốc khác, điều này hiển nhiên. Từ chuyện ăn cắp trên máy bay đến chuyện đánh lừa trong thương trường quốc tế, tất cả đều là hậu quả của một chế độ gian dối, tham nhũng, bất công. Không thoát khỏi chế độ đó thì tương lai sẽ mù mịt!
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Chủ nhiệm luật sư đoàn Sài Gòn bị khai trừ đảng

SÀI GÒN (NV).- Nguyễn Đăng Trừng, chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Sài Gòn, vừa bị khai trừ khỏi đảng CSVN
vì bị cáo buộc 'vô kỷ luật' với những dấu hiệu có vẻ là một chuyện đấu đá nội bộ.

Image
Ông Nguyễn Đăng Trừng, chủ nhiệm luật sư đoàn Sài Gòn, vừa bị khai trừ khỏi đảng CSVN. (Hình: Lao Động)


“Chiều 31/7, Ban Tuyên giáo Thành ủy TP HCM đã họp báo công bố quyết định của Ban Thường vụ Thành ủy thi hành kỷ luật với hình thức khai trừ Đảng đối với ông Nguyễn Đăng Trừng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP do một số khuyết điểm, vi phạm trong quá trình công tác.” Bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) loan báo và các tờ báo chính thống ở Việt Nam đều nhất loạt loan tin này.

TTXVN kể tội ông Nguyễn Đăng Trừng rằng “Theo thông báo kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy, từ năm 2012, ông Nguyễn Đăng Trừng trong lãnh đạo, điều hành hoạt động của Đảng đoàn đã có khuyết điểm, vi phạm: xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng đoàn đối với hoạt động của Đoàn Luật sư Thành phố; không tổ chức cho Đảng đoàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng đoàn theo quy chế làm việc đã ban hành; phân công, bổ nhiệm, đề bạt một số cán bộ tại Đoàn Luật sư Thành phố vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng, vi phạm quy chế làm việc của Đảng đoàn”.

Bản tin TTXVN cáo buộc ông Trừng “đã chỉ đạo chuẩn bị nhân sự Đại hội Đoàn Luật sư TP HCM nhiệm kỳ VI (2013-2018) không đúng quy trình, thiếu công khai, minh bạch; không tổ chức cho Đảng đoàn Đoàn Luật sư TP thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo quy định của Đảng...”

Hồi tháng 1/2014 vừa qua, ông Nguyễn Đăng Trừng “đã kiểm điểm, nhận các khuyết điểm, vi phạm và xin tự phê bình, rút kinh nghiệm trước tập thể Đảng đoàn Đoàn Luật sư TP...” nhưng “không những không khắc phục các khuyết điểm, vi phạm mà còn tiếp tục có những vi phạm ngày càng nghiêm trọng hơn.”

Bản tin vừa kể đổ tội cho ông Trừng là “không thực hiện nghị quyết, quyết định, kết luận của tập thể Đảng đoàn, của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP; lợi dụng chức vụ Chủ nhiệm Đoàn Luật sư, không thông qua Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP, tự ý ký 4 văn bản để phản bác ý kiến chỉ đạo của UBND TP, của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.” Bản tin còn cáo buộc ông Trừng “đã nói không đúng sự thật về ý kiến chỉ đạo công tác chuẩn bị Đại hội đại biểu Đoàn Luật sư TP nhiệm kỳ VI (2013-2018) đối với một số cán bộ lãnh đạo trong Ban Thường vụ Thành ủy và Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam”.

* Đấu đá nội bộ

Trên trang mạng của Đoàn luật sư thành phố Sài Gòn mà ông là chủ tịch, ông Trừng phổ biến các văn bản phản bác các văn bản “chỉ đạo” từ ông Lê Thúc Anh, chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, và các văn bản “chỉ đạo” của Ủy ban Nhân dân thành phố, liên quan đến việc tổ chức bầu cử ban chấp hành mới cho Đoàn luật sư Sài Gòn nhiệm kỳ 2013-2018 cũng như đòi những người cầm đầu tổ chức đó, đặc biệt là chủ nhiệm “không quá 70 tuổi” và “chỉ được bầu là chủ nhiệm nhiều nhất 2 nhiệm kỳ liên tiếp”.

Nếu cả hai điều ràng buộc này được thi hành thì đồng nghĩa với việc gạt ông Nguyễn Đăng Trừng ra ngoài. Nguyễn ĐăngTrừng, sinh năm 1942, vừa quá tuổi đó lại đã ngồi lỳ trên ghế chủ nhiệm Đoàn Luật sư Sài Gòn suối từ năm 1995 đến nay, tức đã 19 năm rồi.

Một điều khác không được nhiều người để ý là ông Nguyễn Đăng Trừng, trước 1975 từng là sinh viên Đại học Luật khoa Sài Gòn, từng với các sinh viên thân Cộng hay cán bộ Cộng sản nằm vùng khác nằm lấy Tổng hội Sinh Viên Sài Gòn để biểu tình chống chính phủ, chống chiến tranh. Nguyễn Đăng Trừng là chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn nhiệm kỳ 1967-1968 nhưng khi cộng sản vi phạm thỏa thuận lệnh ngưng bắn ăn tết, tổng tấn công tết Mậu Thân thì ông Trừng rút ra bưng.

Sau 1975, Nguyễn Đăng Trừng trở thành đại úy an ninh, giống như Huỳnh Bá Thành, thẩm vấn, bắt giam rất nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo thời VNCH. Bị đẩy ra khỏi ngành công an vì phạm lỗi thì chuyển sang ngành tòa án rồi trở thành “Bào chữa viên nhân dân” ở thời kỳ không có luật sư được huấn luyện bài bản và cũng không công nhận nghề luật sư.

Tới khi chế độ Hà Nội “đổi mới” muốn hội nhập với thế giới thì nghề luật sư mới được tái lập, đại học luật được thành lập, và ông “bào chữa viên nhân dân” Nguyễn Đăng Trừng được “biên chế” thành “luật sư” dù không có bằng cử nhân luật. Chủ nhiệm Đoàn luật sư Sài Gòn đầu tiên là ông Triệu Quốc Mạnh và người kế nhiệm ông Mạnh là Nguyễn Đăng Trừng suốt từ năm 1995 đến nay.

Trong văn thư phản bác lại đòi hỏi của ông Lê Thúc Anh, chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam, cũng như các cấp chỉ huy đảng ở Sài Gòn, ông Trừng lập luận rằng tổ chức luật sư ở Việt Nam là “kết hợp sự quản lý của nhà nước với chế độ tự quản của đoàn luật sư”. Sự tự quản được ông hiểu là tổ chức và hoạt động độc lập không bị nhà nước cũng như đảng đoàn chi phối, ra lệnh.

Bởi vậy, ông đả kích cái công văn đòi giới hạn tuổi và giới hạn nhiệm kỳ của chủ nhiệm đoàn luật sư của ông Lê Thúc Anh, Chủ tịch liên đoàn luật sư CSVN, là “Không phù hợp với Luật Luật Sư, điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam, điều lệ đoàn luật sư thành phố Sài Gòn”. Ông Trừng gọi ý kiến của ông Lê Thúc Anh là “không có cơ sở pháp lý và thực tế”.

Ông Trừng đả kích ông Lê Thúc Anh là “tiếp tay cho sự áp đặt không dân chủ và sự can thiệp trái pháp luật” mà như vậy “càng không xứng đáng là chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam”. Một số phiên họp do Ban Nội Chính thành ủy Sài Gòn tổ chức về vấn đề tổ chức bầu bán đoàn luật sư địa phương với những thay đổi theo ý “ở trên” đã bị ông Trừng phản bác, tẩy chay và trình bày trong các văn bản phổ biến trên mạng.

Khi ông Lê Thúc Anh được “cơ cấu” từ Tòa án nhân dân tối cao sang ngành luật sư để chuẩn bị nắm liên đoàn luật sư, ông nộp đơn xin gia nhận Đoàn luật sư Sài Gòn, năm 2006, thì bị ông Nguyễn Đăng Trừng gạt ra ngoài.

Cái thẻ đảng là cái bùa hộ mạng cho những ai dựa vào cái tổ chức này để tiến thân, câu cơm và tham nhũng, khi bị khai trừ thì đồng nghĩa với những quyền lợi và cơ hội trong đảng không còn. Việc ông Nguyễn Đăng Trừng bị hất ra khỏi đảng không đi xa hơn là chuyện cái ghế mà ông muốn giữ. (TN)
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image


Nhân danh chủ nghĩa xã hội là “bất chính” (*)
Hoàng Thanh Trúc

(Danlambao) - “Bất chính”: Là hành vi không chính đáng, trái với đạo đức, luật pháp. Bất chính rơi vào cá nhân nó hạ thấp nhân cách ngang hàng với súc vật. Rơi vào bậc cha mẹ nó làm băng hoại gia đình. Rơi vào vai trò lãnh đạo xã hội nó làm cho lòng người ly tán, đất nước suy vong.

Mới đây, trong một bức thư gởi Ban chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam, đề ngày 28/07/2014 Những con người cùng chiến hào đồng chí với họ, 61 đảng viên lão thành, quân, cán, chính, kỳ cựu, đứng đầu là tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, kêu gọi các nhà lãnh đạo CS Việt Nam từ bỏ “đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội”.(**)

Trong số đó có nhà văn và nhà nghiên cứu “Huế học”? Nguyễn Đắc Xuân ở TP/Huế, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao động tại khu vực Miền Trung Tây Nguyên, hơn 40 năm tuổi Đảng, là một trong những người ngưỡng mộ CS, sẵn sàng ra tay tàn bạo với đồng bào Huế trong Mậu Thân 1968 vì nhiệt tình với cách mạng XHCN, thế nhưng bây giờ ông đã “vỡ mộng” Khi tuyên bố với PV quốc tế, (lời ông Nguyễn Đắc Xuân): “đảng Cộng Sản Việt Nam không thể tiếp tục nhân danh chủ nghĩa xã hội để nắm độc quyền nữa, vì làm như thế là bất chính ”.

Không lâu trước đó, ông Đặng Xương Hùng, một đảng viên CS nguyên Vụ phó Bộ Ngoại giao Việt Nam, từng là Lãnh sự Việt Nam tại Genève nhiều năm, củng đã trả lời cho PV quốc tế biết, một trong những lý do khiến ông công khai tuyên bố từ bỏ đảng CSVN là: “Trên thế giới thực tế hiện nay (190 quốc gia) chỉ còn có Trung Quốc, Việt Nam, Cuba với Bắc Triều Tiên là còn theo xã hội chủ nghĩa cộng sản thì một người bình thường người ta cũng thấy điều đó là một sự vô lý rồi” (***)

Còn hơn thế: Liên Xô, đế chế hùng mạnh hàng đầu của CS quốc tế và toàn khối CS Đông Âu cũng như các quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa vệ tinh, 90% những chế độ một thời theo CS ấy, đã từ bỏ XHCN/cộng sản, loại bỏ tư tưởng Mac, đạp đổ tượng đài Lê Nin để hội nhập với “trào lưu văn minh tiến hóa của nhân loại” cụ thể như thế giới hiện nay, mà toàn bộ số người đang ngồi (trong ảnh dưới) đều đã theo dõi chứng kiến suốt hơn 20 năm qua...


Ấy vậy, mà thật là xấu hổ, những con người (trong ảnh) tự cho mình là “tầm cao trí tuệ” giành quyền lãnh đạo toàn xã hội với veston cà vạt, áo dài đạo mạo ấy vẫn cứ trơ tráo giương những cặp mắt thao láo trên khuôn mặt dày tựa da trâu, trơ trẽn, vô hồn, như “robot” cùng nhau ca tụng: “CS/XHCN là khát vọng của toàn dân Việt Nam”!?.

Họ, những kẻ (đang ngồi trong ảnh) ấy rất ù lì tới độ như “chai mặt” khi tránh né không thể giải thích được: Vì sao 99% các quốc gia thế giới còn lại, không lấy CNXH (như CSVN) làm “khát vọng” thì họ đang xây dựng quốc gia họ bằng thứ chủ nghĩa gì? mà phần lớn giàu mạnh hơn Việt Nam hiện nay, đến nỗi hàng năm CH/XHCN/CSVN phải ngửa tay xin “ăn mày” viện trợ của họ (EU, Nhật, Mỹ..v.v…)

Khác với loài “bọ hung” chỉ duy nhất với một món “chất thải vò viên”, con người bản chất thông minh rất nhạy cảm cả về tri thức lẩn tư duy, biết phân biệt sạch bẩn, tốt xấu, đúng sai, nhưng sao trước nhiều sự chọn lựa, các quan chức và tập đoàn chóp bu CSVN lại rất giống loài bọ hung, chỉ thích một thứ bẩn thỉu duy nhất là chế độ “CS độc tài và chủ nghĩa xã hội”, một thứ chủ nghĩa ảo tưởng phù phiếm không có thật nhưng lại tàn bạo khát máu mà nhân loại nguyền rủa, định danh là chủ nghĩa tội ác chống lại loài người với hàng trăm triệu nạn nhân khắp thế giới, trong đó có Việt Nam!?.

Ngay cả “thần tượng vĩ đại” của họ là Lenin, tại nơi sinh ra, số phận không hơn một thứ phế thải…
Image
Số phận tượng đài Lenin tại Nga và khắp thế giới như một thứ phế thải

Image
Thì riệng tại Việt Nam, họ kính cẩn đặt vòng hoa cuối đầu,đưa tay chào!?
Một thứ mà thiên hạ khinh bỉ, miệt thị, vô giá trị, đập bỏ mang ra khu phế thải thì họ (những người CSVN) nhất mực tôn vinh thờ tự như tiên tổ cha mẹ nhà mình!? Hơn 20 năm “đảng ta” không thể giải thích nỗi cho thỏa đáng hành vi như“mất trí” này nhưng vẫn cứ “tụng niệm” tư tưởng Lenin duy trì chế độ CS/XHCN như loài “bọ hung” đặc trưng duy trì thói quen lấy chất thải như một thứ vô địch để tiêu hoá tồn tại

Dưới mắt cả thế giới, dáng đứng cuối đầu của họ trước “cục xi măng” Lenin đủ nói lên nhân cách phẩm giá của đảng CSVN là như thế nào giữa thế kỷ văn minh này, một hành vi “không giống ai” mà họ (các chóp bu CSVN) vẫn không thấy nhục, không biết xấu hổ!?

Không phải ai khác, mà chính những người cộng sản đương thời, đồng chí với họ, cuối cùng thì củng phải thốt lên “người bình thường người ta cũng thấy điều đó (duy trì CS/XHCN) là một sự vô lý rồi” và khi CSVN cứ nhắm mắt bịp bợm lường gạt “tiếp tục nhân danh chủ nghĩa xã hội để nắm độc quyền nữa, thì như thế là bất chính”

Hai mặt của một vấn đề. Khi nhà nước “đảng ta” ra “chính sách” (xuất khẩu thịt sống không cần đông lạnh) đưa nữa triệu (500.000) thanh niên nam nữ đi làm vợ hờ, đầy tớ, bán sức lao động khắp các quốc gia láng giềng khu vực và thế giới thì cái bảng hiệu sơn son thếp vàng “XHCN là chống người bóc lột người” trở thành rác rưởi, tự nó đã không hoàn thành cái sứ mạng XHCN mà người CS rêu rao là “nhân đạo” lấy đó làm tiêu chí hàng đầu, ngược lại thì chính nó lại biến thành một chủ nghĩa gây ra hàng loạt tội ác chống nhân loại.

Chính xác, đúng là như thế. Một thứ CNXH thủ phạm tạo nên núi xương sông máu với hàng trăm triệu nạn nhân vô tội khắp thế giới mà ngay tại nước Nga, nơi sinh ra nó, Mikhail Gorbachev (Tổng Bí Thư CS/Xô Viết) củng thú nhận: Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.

Sau khi nước Nga từ bỏ CS/XHCN, Boris Yeltsin (Tổng Thống Nga) xác định: Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải chúng nó.

Tiếp theo là Vladimir Putin (Tổng Thống nước Nga, hiện nay) Nói với công luận: Ai tin cộng sản, là không có cái đầu. Ai làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim.

Với các dữ liệu cụ thể minh chứng ấy, rất rõ ràng: Tại thời điểm hiện nay CSVN “nhân danh chủ nghĩa xã hội là bất chính”.

Một nhà nước “bất chính” thì không thể tồn tại, rất cần thiết phải tiêu huỷ, chôn lấp nó hay đưa lên giá treo cổ nếu nó cứ ngoan cố nhân danh XHCN lừa bịp nhân dân.

Hơn ai hết, các tướng lĩnh và con em nhân dân trong quân đội và LL vũ trang cần vận dụng tư duy nhận thức sâu sắc về thực trạng khách quan này tạo nên chuyển biến mới đưa dân tộc thoát khỏi vòng kim cô XHCN để hội nhập với trào lưu văn minh tiến hóa chung cùng nhân loại thế giới.

Bởi vì hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 190 quốc gia nhưng chỉ còn sót lại 4 nước CS/XHCN, Việt Nam không thể nào theo ý muốn của một nhóm nhỏ các “chóp bu CSVN” những cá nhân đặt quyền lợi vinh hoa phú quí gia đình, đảng phái phe nhóm bầy đàn, lên trên quyền lợi dân tộc của 85 triệu người, khiến Việt Nam mãi là một trong 4 nước thiểu số CS/XHCN độc tài lạc hậu luôn bị khinh bỉ trong mắt, trong tư duy của môi trường văn minh quan hệ quốc tế. Đó là tiếng kêu gọi thống thiết của toàn dân tộc.

Hoàng Thanh Trúc

danlambaovn.blogspot.com
quaichao
Posts: 1182
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »


Image

Vô đạo không thể an dân giữ nước
Phạm Trần
(Danlambao) - Lịch sử Việt Nam đã chứng minh không có bất kỳ thời đại nào, từ Vua chúa đến hậu Phong kiến và Cộng sản, dù tàn bạo và hà khắc bao nhiêu và dù có “trăm mưu ngàn kế” đề ra những luật lệ để kiểm soát và hạn chế tối đa các quyền tự do cơ bản của con người thì Nhà nước cũng không thể tiêu diệt được niềm tin của người dân vào Tôn giáo và Tín ngưỡng.

Bằng chứng đã xảy ra cho đạo Công giáo trong suốt 271 năm bị bách hại từ thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1615-1635) cho đến thời Văn Thân (1885-1886).

“Người ta ước lượng: dưới thời các chúa Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30,000 giáo dân bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, chừng 40,000 tín hữu bị xử tử hay chết trong lao tù; nhưng dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60,000 người dân Công Giáo bị sát hại.” (Trích tập sách Vụ Án Phong Thánh của tác giả Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)

Đến thời vô thần Việt Minh Cộng Sản, dù các Tôn giáo có bị “ngăn sống cách núi” hay “làm khó đủ điều”, dân chúng vẫn âm thầm thờ phương các đấng linh thiêng theo tôn giáo hay tín ngưỡng của mình. Tình trạng hiếm Cha, thiếu Thầy, Nhà Thờ bị bỏ hoang cho thời gian tiêu hủy, Đình, Miếu bị rêu phong điêu tàn hay nhà Chùa thiếu hương khói vẫn không làm cho tín đồ nản chí bỏ đạo. Và người dân thì vẫn hiên ngang tuyên xưng ra Tôn giáo của mình với chính quyền dù có bị kỳ thị trong đời sống hàng ngày.

Và tuy lý luận duy vật coi“tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (Karl Heinrich Marx, 1818-1883) đã được người Cộng sản Việt Nam “tuyệt đối tin và áp dụng méo mó” vào đời sống bằng những Sắc lệnh, Nghị quyết, Chỉ thị, Pháp lệnh, Nghị định bắt đầu từ Sắc lệnh thời Hồ Chí Minh (Số: 234/SL14 Tháng 06 năm 1955) cho đến Nghị định 92/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2012 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, các đạo giáo vẫn tìm mọi cách vượt qua lực cản để tồn tại.

Bằng chứng nhãn tiền đã diễn ra ở miền Bắc Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trước 1975, theo phổ biến của Bách Khoa Toàn thư (mở): “Sau cuộc di cư 1954, số linh mục còn lại tại miền Bắc chừng 28%, giáo dân chừng 60%, có những giáo phận như Thái Bình, Bùi Chu, Bắc Ninh, Phát Diệm, Hải Phòng... số người Công giáo di cư vào miền Nam khá đông. Các hoạt động chủ yếu của người Công giáo miền Bắc là giữ đạo thay vì truyền giáo bởi vì thiếu người lãnh đạo, cộng với chính sách kiềm chế tôn giáo, đặc biệt là đạo Công giáo của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các chủng viện, trường học và hầu hết các tu viện Công giáo đều bị nhà nước tịch thu. Một số linh mục và chức sắc của xứ đạo bị bắt, đi tù trong chính sách cải cách ruộng đất (1955-1956). Ngoại trừ Dòng Chúa Cứu Thế và Dòng Thánh Phaolô còn lại ở miền Bắc, các dòng tu khác đều rút lui vào miền Nam. Vì nhu cầu cần có thêm linh mục nên nhiều Giám mục đã phải truyền chức "chui" (lén chính quyền) cho một số người làm linh mục.”

Tình trạng tịch thu tài sản, đất đai của các Tôn giáo và hạn chế hoạt động của các Giáo hội cũng đã diễn ra ở trong Nam kể từ sau ngày quân Cộng sản chiếm Sài Gòn 30/04/1975. Đối với các Tôn giáo hay Giáo phái không muốn để cho Nhà nước quản trị, dù có được thêm ân huệ khi gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Ấn Quang), hệ phái Hòa Hảo thuần túy, Cao Đài độc lập Vĩnh Long và một số hệ phái Tin Lành miền Nam v.v... vẫn thường xuyên là đối tượng bị đàn áp, canh chừng và đối xử bất công của nhà nước.

Thái độ thù nghịch với Tôn giáo và phân biệt đối xử với người dân có niềm tin vào các “đấng thiêng liêng” của đảng CSVN đã được Nhà nước thú nhận: “Do nhận thức không đầy đủ, đã có một thời kỳ chúng ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc đấu tranh chống tôn giáo. Chúng ta đã quá nôn nóng, cực đoan trong ứng xử với các tôn giáo cũng như với các cơ sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo đã bị đập phá, các sinh hoạt tôn giáo bị ngăn cấm, người có đạo bị kỳ thị. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bảo. Chính sự nóng vội đó đã dẫn đến hậu quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế lực phản động lợi dụng chống phá cách mạng nước ta. ở điểm này, rõ ràng chúng ta đã không vận dụng tốt những quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin.” (Theo: Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr.236.)

Nhưng đảng chưa bao giờ xin lỗi các Tôn giáo và bồi thường thiệt hại cho các Giáo hội về những “sai lầm nghiêm trọng” của mình. Ngược lại đảng và nhà nước CSVN vẫn liên tục chống phá các Tôn giáo, người hành đạo và người theo đạo từ 1954 ở miền Bắc rồi sau đó trên phạm vi cả nước từ sau 1975.

Như vậy thì không thể bảo là “do nhận thức không đầy đủ” nên đã “nóng vội” cho hành động chống Tôn giáo của đảng. Sự liên tục thù nghịch và gây khó khăn cho các tổ chức Tôn giáo không chịu gia nhập các Giáo hội quốc doanh của đảng đã phản ảnh đầy đủ trong các văn kiện về Tôn giáo, Tín ngưỡng của nhà nước.

Hai Tác giả Mai Thị Quý (Tiến sĩ triết học, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa) và Bùi Thị Hằng (Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa) đã để lộ điều này trong một bài viết chung trên Tạp chí Triết học ngày 14/11/2011.

Họ viết: “Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và được cụ thể hóa bằng các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, như Nghị quyết số 24/NQ-TW (ngày 16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới... Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về công tác tôn giáo trong tình hình mới... Ngoài ra, còn có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng về các mặt công tác đối với tôn giáo nói chung và từng tôn giáo nói riêng trong từng thời kỳ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003) Về công tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo được cụ thể hóa trong Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004.”

Quan điểm này được tóm tắt trong 5 điểm:

- Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

- Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng phải động viên được đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

- Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng nòng cốt.

- Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật.

Sau khi đã “giảng giải” về chính sách Tôn giáo của Đảng qua các văn bản quy định hoạt động và quyền lợi của các Tôn giáo, hai Tác giả Mai Thị Quý và Bùi Thị Hằng tự mãn cho rằng:

“Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hòa bình” vô cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ.”

Gáo nước lạnh

Oái oăm thay và cũng trớ trêu cho hai cái loa “dư luận viên” Mai Thị Quý và Bùi Thị Hằng khi cả Thế giới được nghe Ông Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói trong cuộc họp báo ngày 31/07 (2014) tại Hà Nội: “Tôi kinh ngạc thấy phạm vi của tự do tôn giáo vẫn còn rất hạn chế và không rõ ràng.”

Ông Bielefeldt đã đưa ra “những phát hiện sơ bộ và một số nhận xét” sau 10 ngày làm việc tại Việt Nam từ 21 đến 31 tháng 7 năm 2014. Ông nói với báo chí: “ Không định kiến về tính chính xác của tất cả các sự kiện thực tế của tất cả các trường hợp cụ thể đã được báo cáo với tôi, tôi tin rằng, những vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng là một thực tế đang diễn ra ở Việt Nam - nhất là ở các vùng nông thôn, tuy không phải chỉ có ở nông thôn.”

Không có gì phải bàn cãi thêm về nhận xét bi quan của ông Bielefeldt vì sự thật đã diễn ra như thế từ khi đảng CSVN cầm quyền ở miền Bắc Việt Nam sau ngày đất nước chia đôi 20/07/1954.

Chủ trương bài xích tôn giáo, tín ngưỡng và chống người có đạo để bảo vệ Chủ nghĩa vô thần luôn luôn được coi là nhiệm vụ cốt lõi hàng đầu của mỗi đảng viên Cộng sản Việt Nam.

Vì vậy, ông Bielefeldt mới nói: “Trong bối cảnh này, tôi muốn nhấn mạnh rằng thông qua nhiều cuộc trao đổi thảo luận của tôi với các thành viên của các cộng đồng tôn giáo, mà một vài tổ chức trong số đó đã chính thức đăng ký với chính quyền và thậm chí còn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mọi người đã bộc lộ nhận thức chung về những hạn chế hiện tại trong quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều đáng ngạc nhiên hơn cả là các lãnh đạo cấp cao của tòa án chưa hề nghe đến bất kỳ trường hợp nào một cáo buộc vi phạm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng đã được đưa ra tòa.”

Sự ngạc nhiên của ông Bielefeldt rất dễ hiểu vì hệ thống Tòa án do đảng kiểm soát và chi phối ở Việt Nam không có thói quen bảo vệ quyền lợi tinh thần của người dân, dù có thấy rõ những vi phạm của nhà nước. Đối với các quan tòa do đảng chỉ định thì các quyền tự do của người dân, nhất là các các quyền tự do ngôn luận, tư tưởng và tín ngưỡng dù đã được Hiến pháp quy định là “dân quyền”, nhưng chúng vẫn thấp hơn và không quan trọng bằng “quyền lãnh đạo toàn xã hội của đảng”.

Hơn thế nữa, với một chế độ công an trị như ở Việt Nam thì không người dân nào dám đi kiện nhà nước đã “vi phạm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng” để tránh bị đàn áp bằng đủ mọi mưu chước của công an và “công an đội lốt côn đồ” mà chưa biết đến bao giờ vụ án mới được đem ra xét xử, nếu có.

Đặc phái viên của Liên Hiếp Quốc còn cáo buộc Chính phủ Việt Nam đã ngăn cản và làm khó dễ chuyến đi của ông: “Dự định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn không may đã bị gián đoạn từ ngày 28 đến 30 tháng 7. Tôi nhận được những thông tin đáng tin cậy là một số cá nhân tôi muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt chẽ, cảnh cáo, đe dọa, sách nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi lại. Ngay cả những người đã gặp được tôi cũng không tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc chất vấn ở một mức độ nhất định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng bị giám sát chặt bởi “những cán bộ an ninh hoặc công an” mà chúng tôi không được thông báo rõ, đồng thời sự riêng tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh hưởng. Những việc này là sự vi phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu của bất kỳ chuyến thăm quốc gia nào.”

Tố cáo nghiêm trọng này đã bị phủ nhận bằng câu nói ngắn của Phó Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao Phạm Hải Anh: “Về một số vấn đề ông Beilefeldt nêu tại cuộc họp báo ngày 31/7, tôi cho rằng đã có sự hiểu lầm, chưa trao đổi hết thông tin.”

Tại sao lại “hiểu lầm” vì “chưa trao đổi hết thông tin” khi bằng chứng gây khó khăn điều tra cho đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc đã rõ như ban ngày? Tại sao nhà nước Việt Nam lại không điều tra cho ra nhẽ để bảo vệ “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền” mà để bị mang tiếng xấu đã ngăn cản cuộc “thăm dân cho biết sự tình” của đặc phái viên Liên hiệp quốc?

Ông Bielefeldt còn nói: “Tôi đã được nghe một số cáo buộc nghiêm trọng về các vi phạm cụ thể đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng ở Việt Nam. Các vi phạm được báo cáo gồm có những vụ vây bắt nặng tay của công an; những trường hợp thường xuyên được mời lên đồn công an “làm việc”; các hoạt động tôn giáo bị giám sát chặt chẽ; các lễ hội và nghi thức làm lễ tôn giáo bị cắt ngang; các vụ giữ tại nhà, đôi khi trong thời gian dài; các vụ bỏ tù, đôi khi cũng trong cả một quãng thời gian dài; các vụ đánh đập và hành hung; bị mất việc làm; mất phúc lợi xã hội; gây áp lực đối với những người trong gia đình; hành động phá hoại; phá dỡ những nơi thờ tự, nghĩa trang và các nhà tang lễ; tịch thu tài sản; gây áp lực một cách có hệ thống để phải từ bỏ một số hoạt động tôn giáo nhất định và chuyển sang hoạt động theo các kênh chính thức được thiết lập cho việc thực hành tôn giáo; và gây áp lực để bắt từ bỏ tôn giáo hay tín ngưỡng. Tôi cũng đã gặp một tù nhân lương tâm tại trại giam nơi đang thụ án.”

Trong thâm tâm CSVN

Ngoài ra ông Bielefeldt cũng nêu ra nhiều điều “mơ hồ” của Hiến pháp, luật pháp hay các văn kiện liên quan đến thực thi quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng nhằm hạn chế tối đa quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Những nhóm chữ như: “lợi ích xã hội”, “lợi dụng”, “pháp luật Việt Nam”, “không phù hợp với lợi ích chính đáng của số đông” v.v.. đã được các viên chức Chính phủ đưa ra để bảo vệ cho quyền kiểm soát các hoạt động tôn giáo.

Nhìn chung tất cả những đánh giá càng ngày càng tồi tệ về các quyền con người, đặc biệt quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam của ông Heiner Bielefeldt rất chính xác. Những “hầm chông” và “bãi mìn” đã được đảng CSVN gài đặc trong Hiến pháp khi nói về Quyền con người luôn luôn có sợi dây thòng lọng “do pháp luật quy định” theo quy định của pháp luật” hay “do luật định”!

Những Nghị quyết, Nghị định, Pháp lệnh, Chỉ thị liên quan đến hoạt động Tôn giáo đã chồng chéo lên nhau với muôn vàn những hạn chế, điều kiện bắt buộc chỉ cốt làm mất đi hiệu lực của Hiến pháp, bộ Luật cao nhất của Quốc gia.

Và ai cũng biết từ lâu, nhà nước Việt Nam thường đưa ra những con số tu viện, chủng sinh, nhà thờ, thánh thất, đền, chùa, tu sĩ và số người đi lễ chùa, dự lễ nhà thờ của bổn đạo để phô trương Việt Nam có “tự do tôn giáo” và quyền tự do thờ phượng của người dân được nhà nước nhìn nhận và bảo vệ.

Nhưng trong đời sống thực tế thì đảng Cộng sản vô thần Việt Nam chưa bao giờ chứng minh họ đã thật tâm muốn thấy Tôn giáo “không phải là liều thuốc độc”, “không còn là thế lực thù địch”, không phải nằm trong “âm mưu diễn biến hòa bình” của Đế quốc và những người có tín ngưỡng, nhất là người theo đạo Công giáo và Tin lành cũng là những công dân như những người khác không còn bị kỳ thị và theo dõi.

Và đến bao giờ thì đảng CSVN mới hết còn xuyên tạc Công giáo và Tin lành là hai Tôn giáo được “địch lợi dụng” để chống phá Đàng và Nhà nước như một Tài liệu được luân chuyển “nội bộ” ở Tỉnh Lào Cai, ngày 24 tháng 12 năm 1998?

Cũng như thế, bao giờ ở Việt Nam mới có một Quốc hội và một Đảng cầm quyền không còn ngót 100% người ghi trong lý lịch chữ “KHÔNG” to tướng khi khai về Tôn giáo-Tín ngưỡng?

(08/014)
Phạm Trần

danlambaovn.blogspot.com
quaichao
Posts: 1182
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

McCain nhắc nhở VN về dân chủ

Image
Ông McCain là một vị khách quen thuộc ở Việt Nam
Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain đã nhắc nhở Việt Nam về dân chủ trong bài phát biểu trước báo giới tại Hà Nội hôm thứ Sáu ngày 8/8 nhân chuyến thăm Việt Nam của ông và người đồng nhiệm Sheldon Whitehouse.

Chính trong bài phát biểu này, vị thượng nghị sỹ hàng đầu của Đảng Cộng hòa đã đề cập đến khả năng Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nhưng nhấn mạnh rằng việc này tùy thuộc rất lớn vào thành tích nhân quyền của Chính phủ Việt Nam.

Tuy nhiên, báo chí trong nước khi đưa tin về bài phát biểu của ông McCain không hề đả động gì đến lời nhắn gửi của ông McCain về dân chủ và nhân quyền.

Nhắc lại lời thủ tướng

“Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhìn nhận rằng cần phải làm nhiều hơn (về nhân quyền) chỉ vì một lý do trên hết: điều này tốt cho Việt Nam, có lợi cho ổn định, thịnh vượng và thành công của đất nước,” theo toàn văn bài phát biểu được đăng trên trang web riêng của ông McCain.

Nhắc lại thông điệp Năm Mới của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rằng ‘dân chủ là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển’ và rằng ‘Đảng phải giương cao ngọn cờ dân chủ’, ông McCain nói:

“Chúng tôi mong là Việt Nam sẽ đưa những lời nói ấn tượng này thành hành động táo bạo chẳng hạn như thả tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự và cuối cùng là ghi rõ vào luật và chính sách rằng quyền lực nhà nước là giới hạn và những quyền con người phổ quát – quyền tự do phát biểu, hội họp, tín ngưỡng, xuất bản và tiếp cận thông tin – cần phải được đảm bảo cho mọi công dân.”

Ông nói ông tin rằng Việt Nam có thể ‘là một tấm gương đáp ứng được những mong đợi ngày càng tăng của người dân về dân chủ, quản trị tốt và pháp trị, thịnh vượng và phát triển xã hội, môi trường trong sạch và sức mạnh quốc gia để bảo vệ nền độc lập’.

“Đó sẽ là một tấm gương có thể khuyến khích những nước khác trong khu vực, bao gồm láng giềng của quý vị ở phương Bắc, phải tự hỏi: tại sao chúng ta không làm giống như Việt Nam?”

Cựu ứng viên tổng thống Mỹ bày tỏ mong muốn quan hệ Việt-Mỹ trong những năm tới sẽ dựa trên ‘những giá trị chung’ sau gần 20 năm dựa trên ‘những mục tiêu và lợi ích chung’.

Ông McCain cũng hứa hẹn Mỹ sẽ có ‘tư duy và hành động mới’ trong quan hệ với Việt Nam.

“Chúng tôi sẵn sàng đàm phán xong hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), làm việc với Việt Nam để đáp ứng các tiêu chuẩn để được Mỹ công nhận là nền kinh tế thị trường,” ông nói.

“Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự và tăng các chuyến viếng thăm của tàu chuyến đến mức mà Việt Nam cho phép – không phải bằng cách thiết lập căn cứ, điều mà chúng tôi không có ý định – mà bằng các thỏa thuận giữa hai nước,” ông nói thêm.

“Chúng tôi cũng sẵn sàng tăng hỗ trợ an ninh để giúp Việt Nam cải thiện khả năng nhận thức về lãnh hải và xây dựng năng lực bảo vệ quyền chủ quyền.”
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Làm luật để nuôi tham nhũng
Ngô Nhân Dụng

Nước nào cũng có luật lệ. Không đặt ra luật thì lộn xộn lắm. Nhưng nhiều luật quá thì không tốt. Chính phủ mới ở Ấn Ðộ đang tính sẽ giảm bớt các luật lệ ràng buộc giới kinh doanh, đặc biệt là những xí nghiệp, cửa hàng nhỏ. Giảm bớt luật cho người làm ăn thì chắc chắn kinh tế sẽ khá hơn. Còn một lý do nữa: Luật càng nhiều, càng khó khăn thì càng nuôi tham nhũng. Bởi vì một điều luật nào đặt ra cũng giới hạn quyền hành động của một số người; tự nhiên phải ban thêm quyền thi hành luật cho một số người khác, từ luật đổ rác tới luật đi đường, luật bảo hiểm y tế hay luật ngân hàng, vân vân.

Tôi mới đọc, đọc lại, cuốn sách kể chuyện nước Tàu cộng sản, nước Trung Hoa của Jan Wong, tác giả là Jan Wong, tên cô đầy đủ, đọc theo lối Hán Việt là Vương Quý Minh. Có một chuyện cũ nhưng vẫn rút được ra bài học về tham nhũng lạm quyền.

Jan Wong đã sống ở Bắc Kinh hai lần, lần đầu làm một sinh viên, lần sau là nhà báo, mỗi kỳ lâu năm, sáu năm. Năm 1999 cô trở lại Trung Quốc trong khi vẫn bị cấm từ năm 1996 vì viết cuốn Red China Blues. Cô may mắn qua mắt được trạm kiểm soát biên giới ở Hồng Kông nhờ khi làm lại passport (hộ chiếu) cái tên cô đã được vị thư ký nào đó vô tình viết theo cách khác. Người Tây viết tên Tàu (hay Việt) thường lẫn lộn tên với họ, chữ nào trước, chữ nào sau, lại thêm tên đệm! Chuyến du hành bí mật này được cô viết thành sách: Jan Wong's China. Trong chương 12 cô kể kinh nghiệm những người học lái xe hơi ở Bắc Kinh.

Năm 1981 chỉ có 20 chiếc ô tô của tư nhân ở Bắc Kinh, năm 1999 đã có hơn triệu rưỡi xe, cả công và tư chia nhau mặt đường cùng với hơn sáu triệu chiếc xe đạp. Ðiều kinh hoàng là ở Bắc Kinh có một triệu người mới lái xe lần đầu trong đời. Tất nhiên, mở trường dạy lái xe là một việc kinh doanh hái ra tiền. Chính quyền đã làm luật: Nếu không “tốt nghiệp” từ một trường dạy lái thì không được dự thi lấy bằng lái xe.

Nghe điều kiện này, chắc quý vị nghĩ đó là chuyện thường tình; nhiều nước trên thế giới chắc cũng có luật tương tự. Một số nước có thể cho ai muốn tự học lấy cứ nhờ người chỉ, rồi tự ghi tên thi; còn ai muốn đi học lái thì trả tiền nhà trường chứ không bắt buộc.

Khi nhà nước bắt phải làm một điều gì, ghi thành luật lệ, thì sinh ra nhiều chuyện lắm. Luật lệ ở Bắc Kinh bắt đi học, vậy phải học bao lâu người ta mới được đi thi bằng lái xe? Cô Jan Wong sinh trưởng ở Canada, cô cho biết tại tỉnh Québec cô phải học lái xe 12 tiếng đồng hồ mới đủ sức đi thi. Còn ở Bắc Kinh thì sao? Thưa, từ bốn tháng tới sáu tháng! Tới sáu tháng? Thưa vâng, nếu quý vị may mắn. Vì nếu thi rớt lần thứ ba, thí sinh bắt buộc phải đi học lại từ đầu, thêm sáu tháng nữa! Có một trường, của công ty Toyota, mở lớp luyện thi cấp tốc, trong hai tháng!

Quý vị có thể nghĩ oan, kết luật rằng người Trung Hoa bẩm sinh khó học lái xe cho nên phải mất đến sáu tháng mới tập lái xe được, trong khi người Canada chỉ tập mất 12 giờ. Bởi vì ở Ðài Loan, cũng là người Trung Hoa mà họ không mất nhiều thời giờ như vậy. Dân Ðài Loan có thể xin một “Bằng lái xe tập sự,” được phép lái ở trong khu thực tập và một số đường có giới hạn, sau ba tháng đến thi lấy bằng chính thức. Sở Xe Tự Ðộng (giống như DMV ở Mỹ) còn khuyên người ta “đi học ở trường cũng được, nhưng rất tốn tiền và tốn thời giờ.” Trong lục địa Trung Hoa Cộng Sản, phải học một trường lái xe, dự một kỳ thi viết của nhà trường. Bài thi có 100 câu hỏi, đáp trúng 90 câu mới đậu, sau đó mới được đi thi với nhà nước.

Cho nên cô Jan Wong kể chuyện một cô bạn đi học lái xe, rất vất vả. Sáng dậy sớm, tới trường, việc đầu tiên là lau rửa xe cho thầy, bằng tay tất nhiên. Sau đó, pha trà mời thầy xơi. Cảnh này làm tôi nhớ hồi sáu, bẩy tuổi đi học chữ Nho. Bài học đầu tiên là “sái, tảo, ứng, đối.” Nghĩa là quét dọn, thưa gửi. Chúng tôi đã quét nhà, trải chiếu, lau bàn, rửa ấm, tách, đu nước, pha trà, rồi mời thầy ra phòng học. Té ra người Trung Hoa là cộng sản mà vẫn giữ nền nếp cũ! Khi thầy bắt đầu dạy lái xe, bốn cô học trò cùng lên xe với thầy, ba cô ngồi sau, có dịp nghe thầy giảng, lại thực hành đúng câu: Học thầy không tày học bạn. Cứ như thế, học năm ngày mỗi tuần. Nhiều buổi thầy cho ba cô về sớm, chỉ giữ một cô lại học riêng với thầy.

Một anh bạn khác của Jan Wong, anh này là một ký giả, cho biết trong tháng đầu tiên anh chỉ học luật đi đường thôi. Trong hai tháng tiếp theo, học về bộ máy của cái xe. [Hay thật. Mình không được sống ở Bắc Kinh, lái xe cả đời vẫn không để ý trong xe nó có cái máy, cũng chẳng bao giờ biết vì sao cái máy nó lại làm cho xe chạy được, lái được. Ðúng là đồ vô học.] Riêng một tháng thứ tư, học sinh được dạy cách đậu xe. [Bây giờ mới nghĩ ra, thảo nào mà mình cứ hay bị phạt vì đậu xe! Chỉ vì không được học!] Tới tháng thứ năm, anh nhà báo này mới được “ra đường.” Nhưng nhà trường thiếu xe nhỏ, anh được tập với chiếc xe vận tải hai tấn. Anh bạn của Jan Wong (tôi đoán tên là Giang Thiệu Vi) may mắn, là người duy nhất lên bảng vàng ngay lần thi đầu (nhà báo chắc phải thông minh lắm), năm người bạn cùng lớp trúng cách lần thi thứ nhì, hai người chót lần thứ ba mới đậu.

Cứ theo câu chuyện này thì thấy người Trung Hoa theo chế độ cộng sản mà vẫn giữ được nhiều nếp cũ. Thứ nhất là coi việc giáo dục là quan trọng, đi thi bằng lái xe mà mất sáu tháng chứng tỏ người ta kính trọng việc học đến thế nào. Thứ nhì là họ vẫn kính trọng thày, không thày đố mày làm nên. Khác hẳn đám sinh viên ở Canada. Trong mười lăm năm làm việc ở đó, mỗi khóa tôi đều phải phát giấy cho sinh viên dùng để chấm điểm thầy, niêm kín, nộp cho ban giám hiệu.

Nhưng bất cứ người dân nào ở Canada, hay ở Mỹ, nếu bắt họ phải tới trường học lái xe như người dân Trung Hoa rồi mới được thi lấy bằng, người ta sẽ biểu tình phản đối ngay. Bởi vì một điều luật như vậy giới hạn quyền tự do của người dân “một cách vô ích.” Nếu họ tập lái xe trong vòng 12 giờ cũng được, tại sao bắt người ta phải tới trường học mấy tháng? Tại sao lại quy định phải được nhà trường chấm đậu rồi mới được đi thi thật? Riêng một điều luật cỏn con đó thôi cũng đủ sinh ra bao nhiêu thứ nhũng lạm. Bởi vì nó ban cho một số người thêm “quyền khảo hạch” các công dân khác trong xã hội. Khi đã nắm được một món quyền hành nào đó trong tay, người ta sẽ nghĩ ra ngay cách lạm dụng!

Một bản tin Reuters cho biết người đi học lái xe ở Bắc Kinh vào năm 2012 phải trả 8,000 đồng Nguyên, tương đương với 1,300 Mỹ kim. Trong năm 2011, nhà nước phát gần 23 triệu bằng lái xe mới, đây là một ngành kinh doanh trị giá gần 24 tỷ Mỹ kim! Một trường dạy lái xe ở Bắc Kinh mỗi năm sản xuất 10,000 cái bằng, số thu hơn hơn 10 triệu đô la! Với các kỳ thi ngặt nghèo như vậy, khi ra trường các thí sinh sẽ sống với thực tế phũ phàng: Người lái xe thật chẳng ai quan tâm đến luật lệ! Trong năm 2010, báo cáo chính thức của nhà nước Trung Cộng cho biết có 3 triệu 900 ngàn tai nạn, chết hơn 65 ngàn người và 254 ngàn người bị thương tật. Ở Mỹ, dân ít hơn nhưng xe nhiều hơn, trung bình mỗi năm 37,000 người chết vì đụng xe, và hơn 2 triệu người bị thương, cũng không khác bao nhiêu.

Nhưng điều đáng chú ý, là luật lệ về thi bằng lái xe ở Trung Quốc đã tạo ra một tầng lớp nắm đặc quyền: các trường và các ông thày dạy lái xe. Nhờ một điều luật thôi, họ có một nguồn lợi lớn, và nắm quyền “sinh sát” bao nhiêu người khác trong tay, trong đó có các cô cậu đi học lái xe. Quyền hành sinh ra nhũng lạm; quyền tuyệt đối đẻ ra nhũng lạm tuyệt đối. Câu này ai cũng biết, nhưng khi nghe kể chuyện đi học để thi bằng lái xe ở Bắc Kinh chúng ta thấy một thí dụ cụ thể. Cô Jan Wong còn kể nhiều chuyện cô bí mật ghi lại trong chuyến lẻn vào thăm nước Trung Hoa năm 1999.

Jan Wong sinh ra ở Montréal, Canada. Gia đình khá giả, ai cũng biết những “tửu lâu,” tức là tiệm cơm Tàu do cha cô làm chủ, từ giữa thế kỷ 20. Lúc đang học Ðại Học McGill, cô đọc báo thấy sinh viên Trung Quốc làm Cách Mạng Văn Hóa, thích quá, tự ý xin vào Bắc Kinh Ðại Học. Rồi tham gia Hồng Vệ Binh. Rồi vỡ mộng. Trở về nhà, cô lại đi học nghề báo (Ðại Học Columbia), rồi được báo Globe and Mail cử sang Bắc Kinh. Trong dịp đó cô lại được chứng kiến (trước mắt) cảnh sinh viên, công nhân bị tàn sát tại Thiên An Môn. Cô đếm, theo lối học từ trường báo chí, kết luận có ít nhất 3,000 người bị giết.

Một người bạn ở Montréal tặng tôi cuốn Jan Wong's China từ hơn 10 năm trước, có lần tôi đã trích thuật mấy chuyện trong sách khi viết mục này. Tuần trước, tôi đang đứng trước cửa thư viện xã Fountain Valley thì gặp nhạc sĩ Võ Tá Hân. Trò chuyện với nhau bên cạnh mấy kệ bày sách cũ, giá một đô la mỗi cuốn, tôi chợt trông thấy cái bìa cuốn sách quen quen, đọc tên thì nhận ra: Jan Wong's China. Tôi rút cuốn sách ra, giới thiệu với Võ Tá Hân: Nên đọc cuốn này, hay lắm, mình đã đọc cuốn này rồi. Ðã có một cuốn rồi, lâu lắm không nhớ để đâu nữa. Hân nói anh cũng để ý, vì ngó cái bìa cuốn sách thấy ló hình một anh cán bộ. Mở cuốn sách coi, Võ Tá Hân bảo tôi: Anh đọc thử trang này đi. Nhìn mới thấy, trên trang đầu có hàng chữ đề tặng, tặng cho tôi, với chữ ký của Trần Tuấn Dũng, Montréal! Mang cuốn sách về nhà, đọc lại, vẫn thấy có nhiều chuyện lý thú. Bởi vậy mới có câu chuyện kể hầu quý vị hôm nay.

[Nhân tiện, xin kể thêm một chuyện ngoài lề. Tháng trước, tôi cũng thấy ở trước cửa viện xã Fountain Valley một cuốn sách History of Mathematics của David Eugene Smith. Nhìn gáy sách quen quen, tôi nhớ mình đã có một trong hai cuốn của bộ này, đọc đi đọc lại không chán. Ðây là cuốn số hai, chắc ở nhà mình đã có cuốn số một. May quá, bèn thỉnh về! Về nhà, mở coi, mới thấy những trang có đánh dấu vạch vàng, vạch xanh, đỏ, rất quen. Coi nội dung thì nhận ra cuốn này mình đã có rồi. Cuối cùng, lại thấy cả những hàng chữ bên lề trang sách, viết bút chì, mới nhận ra đây chính là chữ mình viết. Không hiểu ai mượn rồi quên trả, cuốn sách đã lưu lạc, được đem tặng thư viện, rồi lại có dịp trở lại nhà mình! Phải cảm ơn tất cả những người tặng sách cũ cho thư viện. Tôi vẫn ghi một câu của Anatole France, mà không chịu áp dụng. France nói: Ðừng cho ai mượn sách. Hãy coi gương tôi: Trong tủ sách của tôi toàn là sách mượn.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Trung Quốc: gieo gió rồi chặn bão

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vì sao kinh tế Trung Quốc khó tránh được khủng hoảng?

Khi một tổ chức lạc quan kinh niên như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF - lạc quan vì không dự báo được nhiều vụ khủng hoảng kinh tế đã qua - mà lại vừa cảnh báo vào Tháng Bảy về nguy cơ “hạ cánh nặng nề” của kinh tế Trung Quốc, thì ta nên chú ý đến tin tức khí tượng kinh tế: Giông bão kinh tế xứ này có thể nổi lên từ nay đến năm 2020.

Khi các chuyên gia quốc tế đều đổi vui thành buồn mà nói về nguy cơ khủng hoảng sắp tới tại Trung Quốc, tất nhiên là lãnh đạo Bắc Kinh cũng phải biết. Họ còn biết được và nói ra những gì phải làm để thoát khỏi cơn chấn động ấy. Nhưng, vì kinh tế cũng là chính trị - nội dung của cột báo định kỳ này - họ biết mà làm không nổi.

Ác nghiệp kinh tế cũng là một quy luật!

Nói nôm ra, đã gieo gió rồi thì khó chặn bão - mà chỉ có thể gặt. Mùa gặt thảm khốc đang bắt đầu....


***


Quý độc giả không có nhiều thời giờ, mà cột báo này cũng chẳng là một cuốn sách, nên xin... vèo trông lá rụng đầy sân:

Sáu năm trước, tổ hợp đầu tư Lehman Brothers sụp đổ vào Tháng Chín năm 2008 và thổi lên vụ khủng hoảng tài chánh toàn cầu. Khi đó, tổ hợp Lehman đứng hạng bốn trong các ngân hàng đầu tư Mỹ, đang quản lý một số tài sản trị giá khoảng 640 tỷ Mỹ kim, bằng 5% tổng sản lượng Mỹ. Ngày nay, tài sản do ngân hàng đứng hạng thứ tư của Trung Quốc đang quản lý lại trị giá 25% tổng sản lượng Trung Quốc. Mà ngân hàng BOC này đứng sau ICBC, CCB và ABC: tài sản của bốn ngân hàng ấy lớn bằng 60% tổng sản lượng GDP của kinh tế Trung Quốc.

Người không biết đếm thì trầm trồ ngợi khen kinh tế Trung Quốc đã lớn như thổi trong mấy chục năm và vượt mặt kinh tế Anh, rồi Ðức rồi Nhật để nay mai sẽ bắt kịp Hoa Kỳ. Người biết đếm thì biết lo vì không đếm ra phần nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc, thuộc diện bí mật quốc gia. Bí mật đến nỗi lãnh đạo Bắc Kinh cũng không biết luôn!

Người không biết đếm thì nói đến khối dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh, nay lên tới bốn ngàn tỷ đô la. Nếu kể thêm lượng vàng dự trữ trong công khố - một bí mật quốc gia khác - được ước lượng khoảng bốn ngàn năm trăm tấn, trị giá gần 200 tỷ đô la tính theo giá hiện hành, thì Bắc Kinh có đủ vốn dằn lưng để vượt qua sóng gió.
Người biết đếm thì biết lo hơn vậy.

Qua ba thập niên, kinh tế Trung Quốc thuộc diện “uống sâm để đạp xe hai bánh cho mạnh.” Xe chạy chậm là đổ. Ðó là chiến lược ráo riết đầu tư để tìm tốc độ tăng trưởng cao và sản xuất dư thừa thì xuất cảng bằng mọi giá để thu về ngoại tệ cho nhà nước. Nhưng kinh tế chính trị học Trung Quốc khiến lãnh đạo và tay chân thì uống sâm, còn dân đen và các doanh nghiệp tư nhân thì đạp xe chết bỏ. Kinh tế học gọi đó là hiện tượng “tầm tô,” rent seeking, là những kẻ có ưu thế chính trị và kinh doanh thì khai thác ưu thế đó cho mình, qua chánh sách và luật lệ đầy lệch lạc.

Ưu thế ấy không tạo ra những của cải có giá trị cho quốc dân trong trường kỳ mà chỉ đem lại đặc lợi cho một thiểu số ở trên. Ðó là chuyện gieo gió.

Khi Mỹ bị khủng hoảng từ vụ Lehman và hàng loạt cơ sở tài chánh và bảo hiểm khác, kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm 2008-2009. Ðấy là lúc Bắc Kinh lại rót sâm nữa: gia tăng công chi và bơm thêm tín dụng qua hệ thống ngân hàng của nhà nước cho các doanh nghiệp của nhà nước cùng các công ty đầu tư của các chính quyền địa phương, tức là vẫn của nhà nước. Nếu có gì lọt xuống dưới thì tư nhân còn được hưởng, nhưng đa số thì phải vay lại, hoặc vay chui với giá đắt hơn và bị nhiều rủi ro hơn.

IMF thì đếm là từ 2008 đến 2013, tổng số tài trợ tăng bằng 73% của tổng sản lượng và xác nhận rằng con số thật có thể cao hơn. Nhiều tổ hợp đầu tư hay cơ quan nghiên cứu thì nói đến 100%, tăng gấp đôi tổng sản lượng. Tổng sản lượng đó nay ở khoảng chín ngàn tỷ đô la: trong năm năm, Trung Quốc đã rót sâm trị giá chín ngàn tỷ! Gấp đôi liều thuốc bổ của Mỹ.

Con số thật có khi còn vĩ đại hơn: Tháng Năm vừa qua, công ty đầu tư Hoisington Investmnent Management Company tại Hoa Kỳ ước tính là tổng số dư nợ của tư nhân và nhà nước Trung Quốc lên tới 420% tổng sản lượng 2013, so với 320% vào năm 2008.

Người biết đếm vì theo dõi tin tức khí tượng kinh tế còn chỉ ra một quầng mây đen khác: khi đầu tư và tín dụng tiếp tục đổ ra thì phần tiêu thụ nội địa lại giảm. Từ 40% tổng sản lượng - con số quá thấp - nay chỉ còn chừng 36%, thậm chí 34%. Người uống sâm và kẻ đạp xe là vậy, nếu ta so sánh với tiêu thụ tại Mỹ (70%), Nhật (61%) hay Nam Hàn (52%).

Bây giờ, hãy nói đến trận bão.

Lãnh đạo Bắc Kinh là lương y có tài, hơn người Hà Nội, vì biết kinh tế Trung Quốc cần phương thuốc vừa “bổ” vừa “tả,” vừa tăng trưởng vừa sửa sai thì mới phát triển. Sai thì rất nhiều và họ có nói tới từ năm 2003, từ 10 năm trước. Nhưng sửa không được vì đụng vào thực chất “tầm tô.” Cải sửa là thu hẹp quyền lợi của thiểu số ở trên. Vì vậy, chỉ có bổ mà chẳng có tả và kinh tế lâm bệnh.

IMF nhẹ nhàng nói theo ngôn ngữ ngoại giao, rằng kinh tế Trung Quốc đang là mạng lưới rủi ro (web of vulnerabilities) trùm lên năm khu vực là địa ốc, doanh nghiệp, chính quyền địa phương, các ngân hàng và hệ thống ngân hàng chui shadow banking. Mà muốn đẩy lui giông bão thì phải trả lại nợ và chấn chỉnh lại sổ sách chi thu, tức là chấp nhận một đà tăng trưởng thấp hơn.

Nhưng, dù Nghị Quyết Ba của Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương đã nói ra nhu cầu cải sửa để chuyển hướng từ cuối năm ngoái, qua năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh tiếp tục rót sâm với biện pháp kích thích kinh tế được nói trước là nhỏ nhoi xíu xiu, mà thật ra lại cao hơn dự tính.

Cánh buồm vẫn góp gió để lao vào giông bão.

Vì kinh tế cũng là chính trị, ta có quyền tự hỏi vì sao Bắc Kinh vẫn không chuyển hướng? Có hai cách giải thích đều... nguy như nhau.

Một là lãnh đạo xứ này muốn xoay tay lái mà vẫn thúc thủ vì tay lái đã bị các thế lực hay nhóm lợi ích xiềng vào một hướng - cái hướng có lợi cho họ. Vì thế, Tập Cận Bình mới ra tay diệt trừ tham nhũng và tìm cách thâu tóm lại quyền lực để rồi mới xoay trong tương lai.

Hai là vì chủ quan duy ý chí, lại căn cứ trên cách đếm của mình, Bắc Kinh cho là tình hình chưa đến nỗi nào. Như gánh công trái (nợ của khu vực công) và ngoại trái (nợ ngoại quốc) còn thấp, tiết kiệm của dân còn cao và hệ thống kiểm soát của nhà nước còn có khả năng chặn đường tháo chạy của tư bản, v.v... Cho nên Trung Quốc có thể vững tay chèo trong ít lâu nữa - và tiếp tục gây bão.

Nhưng, điều mà họ thiếu chính là thời gian. Càng trì hoãn thì càng gia tốc cho sóng gió.

Trong khi đó, môi trường quốc tế lại có những rủi ro mới từ Âu Châu, Hoa Kỳ đến Nhật Bản và nhiều nước đang phát triển khác. Khi ngần ấy vấn đề lại dồn làm một, Bắc Kinh không thể chặn bão. Và khác với các vụ khủng hoảng tại Nhật năm 1991, tại Ðông Á năm 1997, tại Âu Châu và Hoa Kỳ năm 2008, một vụ khủng hoảng tại Trung Quốc lần này có thể quạt thẳng vào chế độ...
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Chuột và người

Ngô Nhân Dụng

Tư Mã Thiên kể sự tích Lý Tư, thừa tướng nước Tần, giới thiệu: Lý Tư là người Thượng Thái, nước Sở, lúc thiếu thời làm tiểu lại cấp quận, thấy tại nhà xí của lại xá chuột ăn đồ không sạch; người hay chó đến gần thì nhiều con kinh sợ. Tư vào kho lẫm, nhìn chuột ăn thóc trữ trong kho, ở dưới ngôi nhà lớn, chuột không vì thấy người hoặc chó mà lo lắng gì cả. Lý Tư thấy thế thở dài than rằng: “Con người ta tốt xấu, cao thấp cũng giống như chuột, tùy chỗ mà cư xử.” Ðoạn này trích từ Sử Ký, số 87, Lý Tư liệt truyện, nằm trong phần liệt truyện.

Tình cờ chiều hôm qua gặp lại đoạn văn kỳ thú trên, tôi chợt liên tưởng tới đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì tuần trước mới được biết thêm về hành trạng của quý vị lãnh đạo đảng sau khi đọc Ðèn Cù của Trần Ðĩnh. Nếu đặt đoạn này vào trang mở đầu cho Ðèn Cù thì thú lắm. Cũng những người đó, khi ở trong rừng thì họ cư xử với nhau một cách, khi về thành phố họ đối đãi với nhau khác hẳn. Ở trong rừng Việt Bắc, Trần Ðĩnh kể, lãnh tụ với thuộc cấp không xa cách. Trường Chinh vừa là tổng bí thư đảng, vừa làm chủ nhiệm báo Sự Thật, khi thấy mấy anh em trong tòa báo đùa giỡn ồn ào, nói một câu thì họ nói lại, phải dịu giọng yêu cầu: “Các cậu ra ngoài đùa với nhau cũng được, ở đây tôi đang làm việc.” Nói vậy thì ai cũng hiểu, vui vẻ nghe lời; mà không khí thấy thân mật, không phân biệt cao, thấp, trên dưới.

Khác hẳn cảnh sau này, Trường Chinh bị Lê Duẩn gạt ra ngoài, đưa Lê Ðức Thọ, Nguyễn Chí Thanh lên làm vây cánh. Khi Trần Ðĩnh được lệnh Thọ viết tiểu sử chính thức của Hồ Chí Minh. Viết xong, đem in rồi, Lê Ðức Thọ mới bảo đem một bản cho Trường Chinh đọc. Trần Ðĩnh tới, “Xin anh cho ý kiến.” Trường Chinh hỏi: “In xong cả rồi, còn hỏi ý kiến tôi làm gì?” Trần Ðĩnh chỉ biết nói rằng anh Thọ bảo em đưa, có gì anh cứ hỏi anh Thọ. Bị coi thường đến như vậy, trước mặt một người vốn là đàn em thân cận của mình từ mấy chục năm trước, mà Trường Chinh vẫn chịu nhục, nhận cuốn sách mới in để mà đọc. Như người có khí phách thì sẽ đưa trả lại cuốn sách, nói rằng nếu có góp ý cũng quá muộn rồi. Nhưng Trường Chinh biết rằng mình chỉ là chủ tịch Quốc Hội, mà cả cái Quốc Hội đó cũng chỉ làm bù nhìn, đóng vai cây cảnh thôi. Không quyền hành bằng ông trưởng Ban Tổ Chức, càng sợ ông tổng bí thư lên thay chân mình. Quan hệ giữa hai, ba lãnh tụ đảng đã thay đổi, cách người ta đối xử với nhau đã khác.

Trần Ðĩnh nhớ lại lời Nguyễn Cơ Thạch khoe, một ngày mùa Ðông ở chiến khu Thạch ghé thăm ban biên tập báo Sự Thật: “Sáng nay Chủ Nhật, tớ ra suối giặt cho anh Giáp (Võ Nguyên Giáp) biết bao nhiêu quần áo... Này, tay còn nhợt đi đây này!” Ðèn tắt, chiếu ngay sang cảnh khác: Trong đại hội đảng kỳ thứ bẩy, Võ Nguyên Giáp đã bị đánh bật ra khỏi Trung Ương Ðảng, còn lên phát biểu ý kiến rằng đảng cần phát huy dân chủ, thì cậu thư ký giặt áo quần ngày nào, nay [đã vào] Bộ Chính Trị và đang ngồi trên chủ tịch đoàn, liền giơ tay cắt: “Ðồng chí nói quá mất mấy phút rồi, xin thôi. Ðồng chí hãy chú ý cho là đảng ta rất chú ý phát huy dân chủ!”

Cách cư xử thay đổi, không phải trong việc ngắt lời người phát biểu ý kiến, bởi vì trong một cuộc họp ai nói quá giờ cũng nên cắt. Hành vi thay đổi đổi quan trọng ở đây là cậu học trò lên giọng dạy dỗ ông thầy cũ của mình, mà lại dạy một điều rất sơ đẳng. “Ðồng chí hãy chú ý cho nhé!” “Ðảng ta rất chú ý phát huy dân chủ mà đồng chí nghe không thủng hay sao?”

Vì đâu mà các cán bộ, đảng viên và lãnh tụ cộng sản thay đổi nhiều như vậy? Nói vắn tắt như Tư Mã Thiên thuật lời Lý Tư: “Tại sở tự xử nhĩ,” tùy chỗ mà thay đổi cách cư xử đó thôi. Loài chuột sống dưới hầm nhà xí, hoặc sống trong kho thóc, đổi chỗ ở chúng thay đổi cả hành vi (bây giờ hay gọi là động thái).

Vậy trong đời sống của các đảng viên cộng sản, cái gì là “tại sở,” là cái “chỗ ở” đã thay đổi? Mới đầu, có thể nghĩ rằng đời sống trong rừng nó khác, thành phố nó khác. Hoặc giả, sống khi nghèo khó, thiếu thốn khác với lúc sung túc, thừa thãi. Muốn giữ lập trường thì nói rằng khi vào thành phố, từ đảng viên đến các lãnh tụ đều bị nhiễm “nọc độc tư bản, phong kiến,” cho nên “biến chất.” Làm như tác phong tư bản nó bay ở trong không khí, hay ngấm vào trong đất, trong nước! Giải thích như vậy thì trút được hết tội lỗi lên đầu người khác, mình lại tiếp tục ngồi bát ăn bát vàng!

Nhưng chúng ta không nên chỉ nhìn thấy nhà xí và kho lúa trong truyện Lý Tư. Loài chuột ở đâu thì cũng là chuột; mà cuộc sống thay đổi hành vi, cách cư xử của chúng không hoàn toàn do nơi chúng sống và kiếm ăn. Chính công việc kiếm ăn của loài chuột đổi khác. Ở một nơi kín đáo tối tăm như nhà kho, khác ở ngoài trời như trong hầm xí. Nơi này thì sinh nhai khó khăn, người và chó qua lại đông, nơi kia thì chẳng mấy khi thấy bóng một sinh vật nào, ngoài giống chuột. Lại thêm con số khác nhau, một nơi lèo tèo mấy ổ chuột sống chui nhủi, nơi kia họ hàng nhà chuột đông hàng đoàn hàng lũ, giống chuột chúng ta tự do tung hoành, dọc ngang nào biết trên đầu có ai! Sống cách khác, hành vi loài chuột cũng khác.

Cho nên cũng khó dùng các điều kiện địa dư cũng như kinh tế để giải thích hành vi con người thay đổi. Có lẽ thay đổi lớn nhất trong cuộc sống của các lãnh tụ và đảng viên cộng sản khi từ rừng về thành, rồi từ Bắc vào Nam, là quyền hành của họ đã thay đổi với thời gian.

Ở trong rừng thì Trường Chinh cũng không biết ngày nào mình còn sống, hay sẽ trúng bom, trúng đạn; mà nhìn người chung quanh cũng thấy họ sống chết dễ như mình. Mình có thể sai khiến họ vì được họ thỏa thuận, nếu họ rút ra khỏi cái “hợp đồng ngầm” đó thì họ bỏ về thành phố, chẳng ai làm gì được ai. Quyền hành, dù được xác định hay chỉ hiểu ngầm, là do người dưới thỏa thuận cho người trên được hưởng.

Nhưng trong đời sống chính trị ở Hà Nội những năm 1960 thì quyền hành của đảng Cộng sản đối với dân chúng đã bám rễ, khó ai lay chuyển được. Hậu quả là quyền hành của các lãnh tụ trên các đảng viên của họ cũng kiên cố hơn. Tất cả đã được định chế hóa. Các cấp bậc được xác định, quyền sinh sát không bị ai kiểm soát.

Yếu tố giúp củng cố quyền hành cho các lãnh tụ là chế độ độc tài toàn trị. Trong một quốc gia tự do dân chủ thì mỗi chức vụ, mỗi cơ quan có quyền hành bao giờ cũng được một hay nhiều cơ quan, chức vụ khác kiểm soát. Việc kiểm soát có tính chất thường xuyên, định kỳ, do pháp luật yêu cầu và bảo đảm. Vì thế, quyền hành nào cũng có phạm vi giới hạn. Một chức vụ được phép sử dụng quyền hành trong một lãnh vực nào đó thôi, bước ra ngoài là thuộc quyền của chức vụ khác.

Trong chế độ độc tài toàn trị, đảng Cộng sản nắm toàn quyền trên tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống con người và xã hội. Ðiều 4 bản Hiến Pháp Cộng Sản Việt Nam ghi rằng đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Bên trong nội bộ, đảng cũng lãnh đạo cuộc sống của từng đảng viên, trên tất cả các mặt. Không chỉ có lập trường chính trị, sinh hoạt kinh tế, mà ngay cả nhà anh ở, quần áo anh mặc, anh được phép yêu ai, cưới ai, đọc sách, coi phim nào, cũng phải nghe lời đảng lãnh đạo hết! Tự nhiên, hành vi con người, cách người ta cư xử với nhau cũng thay đổi. Lý thuyết chuyên chính vô sản của Lê Nin làm thay đổi hành vi con người, từ lúc chưa đảng cộng sản có quyền tới lúc nắm quyền sinh sát trong tay.

Phải công nhận Tư Mã Thiên là tay cự phách. Ông mở đầu Lý Tư liệt truyện bằng câu chuyện chuột. Rồi sau đó, không bao giờ nhắc tới nữa. Chúng ta theo dõi cuộc đời Lý Tư, sau khi quan sát loài chuột, cho là mình đã hiểu loài người rồi, bèn đi học “đạo làm đế làm vương” với Tuân Tử (Nãi tùng Tuân Khanh học đế vương chi đạo). Sự nghiệp lên như diều từ khi đầu quân cho nước Tần. Nhiều lần bị chống, lại biết phản bác, lần nào cũng lọt tai Tần Thủy Hoàng. Khi Tần Thủy Hoàng chết dọc đường, bị Triệu Cao thuyết phục tham dự âm mưu phế trưởng lập thứ. Cuối cùng, cũng tiêu vong với cơ nghiệp nước Tần. Suốt cuộc đời Lý Tư dùng biết dùng thuật giúp Tần Thủy Hoàng trị quốc dựa trên tâm lý con người, qua bài học về chuột.

Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng nắm được cái thuật cai trị nhờ học từ các ông Stalin và Mao Trạch Ðông. Như Trần Ðĩnh nhận xét: “Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp kém của con người: Sợ và tham.” Nhưng các cụ ta vẫn dạy: Thực thà là cha quỷ quái. Tấm gương nhà Tần cho thấy quỷ quái đến máy cũng tiêu vong.

––

Gửi Diễn Ðàn Thế Kỷ

Chú thích:

Sau đây là nguyên văn trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, để quý vị quan tâm tham khảo. Nếu thấy người viết đã hiểu sai, dịch sai, xin quý vị giúp sửa lại.

李斯者,楚上蔡人也。年少時,為郡小吏,見吏舍廁中鼠食不絜,近人犬,數驚恐之。斯入倉,觀倉中鼠,食積粟,居大廡之下,不見人犬之憂。

於是李斯乃嘆曰:「人之賢不肖譬如鼠矣,在所自處耳



Lý Tư giả, Sở Thượng Thái nhân dã. Niên thiếu thời, vi quận tiểu lại, kiến lại xá xí trung thử thực bất khiết, cận nhân, khuyển, sổ kinh khủng chi. Tư nhập sương, quan sương trung thử, thực tịch túc, cư đại vũ chi hạ; bất kiến nhân khuyển chi ưu. Ư thị Lý Tư nãi thán viết: Nhân chi hiền bất tiếu thí như thử hĩ, tại sở tự xử nhĩ.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Thời gian không đợi

Bùi Tín
(Nguồn: VOA)
Bộ Chính Trị đảng CS Việt Nam đang bị chiếu tướng từ nhiều phía. Từ tổ chức Liên Hiệp Quốc, từ Hội Ðồng Nhân Quyền LHQ mà Việt Nam là một thành viên, từ chính quyền Hoa Kỳ, từ Quốc Hội Hoa Kỳ đang xem xét việc có chấp nhận để Việt Nam vào khối kinh tế Xuyên Thái Bình Dương TPP và có hủy quyết định không bán vũ khí sát thương cho Việt Nam hay không?

Từ trong nội bộ đảng CS, khi một loạt 61 đảng viên trí thức có uy tín lên tiếng đòi đảng từ bỏ nền cai trị độc đoán chuyên quyền, từ bỏ học thuyết Mác-Lênin lỗi thời, thẳng tay diệt trừ tham nhũng, từ bỏ độc quyền kinh tế quốc doanh tệ hại, công khai hóa cuộc họp Thành Ðô.

Từ nhân dân, đòi hỏi chống bành trướng mạnh mẽ, chấm dứt bỏ tù công dân yêu nước chống bành trướng, trả tự do cho các chiến sĩ dân chủ một cách sòng phẳng, chấm dứt chơi trò “thả rồi lại bắt, bắt rồi lại thả” làm vốn mặc cả theo kiểu đèn cù. Những lời hứa với cử tri về “Luật biểu tình,” “Luật lập hội, trong đó có lập công đoàn tự do,” về chống tham nhũng quyết liệt không thể trì hoãn.

Bộ Chính Trị 16 người ở Hà Nội đang nằm trong tình thế dầu sôi lửa bỏng, thật sự là khốn khổ bối rối. Nước đến chân rồi. Trước hết vì họ tham quá. Họ vừa muốn giữ ghế quyền lực lại muốn mị dân, vừa muốn tiếp tục hưởng đặc lợi, lại vừa muốn tỏ ra biết điều, khôn ngoan, vừa muốn tỏ ra thân thiết giữ cam kết keo sơn với ông đồng chí khổng lồ lại muốn tỏ ra xiêu lòng với những lời hứa ngon lành ngay thật từ phương Tây. Giang 2 tay rộng ra 2 phía để bắt cá, có khi không được con nào. Cái trò đi trên dây luôn mạo hiểm. Chỉ mất thăng bằng tý chút là lăn kềnh, đổ vỡ, có khi nguy khốn.

Bộ Chính trị đang bị dồn vào thế phải lật hết tẩy ra. Nghĩa là phải dứt khoát lựa chọn. Muốn gắn bó thật sự với phía này thì phải buông bỏ phía bên kia. Không thể nói và làm trái ngược, đánh đố nhau, đánh lừa nhau mãi được. Ôm đồm, quá tham, sẽ rơi hết sạch.

Vừa qua 2 thượng nghị sĩ Mỹ vào loại có thế lực nhất đã sang tận Hà Nội để nói rõ rằng phía Hoa Kỳ nhận thấy tình hình đã chín để có thể nhận Việt Nam gia nhập khối TPP và bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, từ đó nâng mối quan hệ Mỹ-Việt lên một tầm cao mới. Cánh bảo thủ trong lãnh đạo đừng tưởng bở, cho là họ cần ta hơn ta cần họ.

Quà mang sang không cho không. Hãy hiểu cho rõ điều này. Tuyên bố của TNS John McCain (ngày 8 tháng 8 ) nói rõ: “Làm được bao nhiêu trong lĩnh vực này (tức nhận VN vào TPP và bán vũ khí sát thương) cũng như các mục tiêu thương mại và an ninh, còn tùy thuộc nhiều vào hành động của VN về cải thiện nhân quyền.”

Ông còn nhắc lại lời hứa của thủ tướng VN hồi đầu năm: “Dân chủ là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của nhân loại” và “đảng phải giương cao ngọn cờ dân chủ”; Ông nói thêm: “Chúng tôi hy vọng Việt Nam sẽ chuyển những lời đáng trân trọng như thế thành những hành động mạnh mẽ, như thả các tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự, và cuối cùng là làm cho rõ ràng trong luật pháp và chính sách là quyền lực Nhà nước phải được giới hạn và các quyền làm người phổ cập như tự do phát biểu, lập hội, tín ngưỡng, xuất bản, truy cập thông tin phải được bảo vệ cho tất cả mọi công dân.”

Rõ ràng ông McCain đã nói thẳng ra những điều kiện trên đây, để có đi mới có lại. Ngay sau đó (10 tháng 8 ) khi gặp Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh ở Miến Ðiện, Ngoại Trưởng John Kerry lại nhấn mạnh: “Thành tích nhân quyền của Việt Nam là vấn đề tranh cãi còn tồn đọng giữa 2 nước để tạo điều kiện cho mối quan hệ được nở rộ.” Quả bóng đang ở phía Việt Nam. Việt Nam phải chứng minh bằng hành động.

Có một nhận định hơi vội là phía Hoa Kỳ có vẻ nghiêng về phía cánh bảo thủ giáo điều trong Bộ Chính Trị, trong cơ quan lãnh đạo của đảng CS. Hoa Kỳ đang chờ, chưa nhóm nào trả lời thật rõ.

Thông điệp của phía Hoa Kỳ là gửi cho phía Việt Nam, cho toàn bộ 16 người trong Bộ Chính Trị, cho cả 200 người trong Ban Chấp Hành Trung Ương đảng, cho cả 500 đại biểu Quốc Hội, cũng là gửi cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Bộ Chính Trị, cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa 2 kỳ đại hội đảng, luôn quyết định theo đa số. Hiện có vẻ chưa nhóm nào đạt đa số, chưa dứt tình với đồng chí bành trướng vì “nặng nợ.” Nhưng chỉ còn dăm tuần lễ nữa thôi, không thể ấm ớ mãi, vì việc quyết định về gia nhập TPP sẽ sớm ngã ngũ, Quốc Hội Mỹ sẽ bàn chuyện Việt Nam vào kỳ cuối năm, sau đó sẽ dồn nỗ lực cho việc bầu cử. Thời gian thật cấp bách, không chờ ai.

Ðể xem ngày Lễ Quốc Khánh, 2 tháng 9, 2014 tới, Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang sẽ ký lệnh trả tự do dưới dạng ân xá giảm án cho bao nhiêu tù chính trị, tù lương tâm? Danh sách phía các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam đưa ra là 25 người cấp bách nhất, danh sách phía Hoa Kỳ, Liên Âu Bắc Âu, Úc... đưa ra cũng ngang như vậy. Không thể chỉ vài ba, hay dăm sáu người, kiểu nhỏ giọt. Bộ Chính Trị có dám mạnh tay thả luôn 200 người, như Miến Ðiện từng làm khá là sòng phẳng năm 2013 không?

Xin nhớ chưa bao giờ ở Thượng Viện cũng như ở Hạ Viện Mỹ các ông bà nghị lại đòi phía Việt Nam phải tỏ ra thực tâm tôn trọng quyền làm người của người dân nước mình đến vậy. Thêm nữa, dư luận trong và ngoài nước sẽ xem xét kỹ trong kỳ họp Quốc Hội cuối năm nay, luật về biểu tình, về lập hội, đặc biệt là lập công đoàn tự do ở các xí nghiệp có còn bị đẩy lùi nữa hay không? Những điều luật mơ hồ, hết sức phi lý về an ninh, rất bất công gây oan ức, lạm dụng có được hủy bỏ, sửa chữa hay không?

Và một chỉ dấu nữa không kém phần hệ trọng là công luận trong và ngoài nước sẽ quan sát kỹ xem việc chống tham nhũng có “quyết liệt” như đã hứa hay vẫn giơ cao đánh khẽ, đánh kẻ thù nội xâm như phủi bụi, trong khi ở bên Tàu họ đánh từ “siêu hổ đến ruồi nhặng,” bắt giam 2 cựu ủy viên Thường Vụ Bộ Chính Trị - Chu Vĩnh Khang và Tăng Khánh Hồng - cùng 400 cán bộ và nhân viên phe cánh, điều tra tài sản của hàng vạn quan chức cấp cao, trừng trị hàng loạt cán bộ ngành công an, một ngành bị tố cáo là lạm quyền, tham nhũng, tàn bạo với dân có hệ thống, từ cao nhất đến cơ sở.

Vậy thì trong thời gian sắp đến bất cứ ai hay nhóm nào trong Bộ Chính Trị, trong Ban Chấp Hành Trung Ương đảng, dù là tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng hay chủ tịch Quốc Hội, nếu có những việc làm theo hướng thực thi dân chủ, nhân quyền, thực hiện nền pháp trị nghiêm minh, ngay thật làm đúng theo lời hứa, lời cam kết với Liên Hiệp Quốc, với Hội Ðồng Nhân Quyền, với cử tri nước mình, với nhân dân thì sẽ được ca ngợi, đề cao và tin cậy.

Sau khi phía Trung Quốc đã tỏ ra tham lam ngạo mạn ngang nhiên đưa giàn khoan lớn vào vùng biển nước ta, tàn sát ngư dân ta, hành động phi pháp, bất nhân, lãnh đạo nước ta phải biểu thị lòng yêu nước thương dân chống bành trướng, từ đó cảnh giác với thái độ lấn lướt gặm nhắm của họ, không thể để họ cắm chốt sâu trên các địa bàn trọng yếu, hạn chế việc họ đấu thầu, đầu tư, kinh doanh, buôn bán, lập nghiệp, mua chuộc các quan chức tham nhũng địa phương trên đất nước ta, tất cả phải thành chính sách đồng bộ từ trên xuống dưới của chính phủ bao gồm các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, đầu tư, thương mại, lao động. Cùng với chính sách nội trị chống bành trướng như thế, chính sách ngoại giao cũng phải mang xu thế chống bành trướng rõ rệt, quan trọng nhất là kết nhiều bạn mới cùng chung ý chí chống bành trướng như Philippines, Nhật Bản, Malaysia, Ấn Ðộ, Miến Ðiện, và đặc biệt là để ngỏ khả năng liên minh chiến lược với Hoa Kỳ, cường quốc mũi nhọn đương đầu với sự trỗi dậy hung hãn nguy hiểm của Trung Quốc.

Tất cả sự mong đợi ở thời điểm thử thách này là xem đa số Bộ Chính Trị có dám nắm chắc tay lái, bẻ ngoặt chuyển sang hướng mới, phóng mạnh vào đại lộ dân chủ nhân quyền, cải cách toàn diện và đồng bộ cả hệ thống cai trị đối nội và đối ngoại, chấm dứt thời kỳ đổi mới nửa vời, đổi mới kinh tế chập chờn, đóng băng về chính trị, tự trói về ngoại giao, chống tham nhũng hời hợt, tiêu phí biết bao của cải và thời gian của xã hội. Xem nhóm nào thật sự vượt lên trong nước rút này.

Chỉ còn vài tháng ngắn ngủi cuối năm, bao nhiêu việc cần làm để được công luận thế giới cùng dư luận trong nước đánh giá là “được,” là “tốt,” là “đạt yêu cầu,” chưa nói là “rất tốt,” là “vượt yêu cầu,” “là nêu gương về tôn trọng nhân quyền cho người láng giềng phương Bắc” như TNS McCain đã khuyến cáo. Hay lại bị dư luận quốc tế cũng như dư luận trong nước chê là “nhỏ giọt,” “miễn cưỡng,” “chưa thật dứt tình với ông đồng chí xấu bụng nham hiểm,” “chỉ là thủ đoạn chiến thuật để mua thêm thời gian,” “về cơ bản vẫn thế”... Ðể phải xóa bài làm lại, chờ thêm một thời gian nữa.

Xét cho cùng là lãnh đạo đảng CS lần này chọn ai, chọn quê hương mình, Tổ quốc mình, nhân dân mình, đồng bào mình, hay là đặc quyền đặc lợi cá nhân, chủ nghĩa cá nhân, quyền lợi phe nhóm gắn chặt với “ông láng giềng tốt, ông bạn vàng tốt, ông đồng chí tốt, ông đối tác tốt” để cam chịu làm tay sai ô nhục.

Sức mạnh quyết định không phải ở “nhóm bảo thủ” hay “nhóm cấp tiến” trong Bộ Chính Trị, vì họ rất giống nhau ở lòng tham quyền lực và tham đặc lợi phe nhóm, rất giống nhau dính quá chặt với thế lực bành trướng, cả 2 nhóm chỉ đua nhau nói dân chủ, nói pháp trị, nói nhân quyền nhưng không làm.

Sức mạnh vô tận lâu bền của xu thế dân chủ và nhân quyền đích thật nằm trong đại khối nhân dân, trong đại khối đảng viên CS và đoàn viên CS ở cơ sở - không thuộc phe nhóm ăn chia nào - do hơn 20 tổ chức xã hội dân sự như Văn Ðoàn Ðộc Lập VN, Hội Nhà Báo Ðộc Lập VN, Hiệp Hội Dân Oan VN, Hội Phụ Nữ Nhân Quyền, Phong Trào Lao Ðộng Việt... cùng hàng loạt blogger, facebooker lề trái làm vai trò tiên phong mở đường.

Ðó mới thật là thế lực của hiện tại VN và tương lai VN, bạn bè chí cốt với xu thế dân chủ và nhân quyền quốc tế đang nắm chắc tương lai của thế giới này.
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Ðược làm vua thua làm tham nhũng

Ngô Nhân Dụng
Giai đoạn truyền ngôi trong một chế độ độc tài bao giờ cũng nguy hiểm, cho kẻ thắng cũng như người bại. Trước khi dứt điểm, không ai biết chắc mình sẽ lên hay xuống, sống hay chết. Khi ngôi vị định rồi, vẫn còn lo phản nghịch. Hai ông vua mạnh nhất đời Ðường (Thái Tông) và đời Minh (Thành Tổ), đều cướp ngôi, lần lượt, của anh và của cháu. Tập Cận Bình lên ngôi vào Tháng Mười Một năm 2012, trong một năm rưỡi, ai cũng công nhận ông đã chứng tỏ nắm được quyền hành mạnh nhất; với những cuộc thanh trừng “bắt cọp” trong chiến dịch chống tham nhũng. Nhưng địa vị của ông có vững chắc thật hay không? Ai đã đọc truyện Tàu có thể vẫn thấy phải chờ “hạ hồi phân giải.”

Trên nguyên tắc, Cộng sản Trung Quốc không có chế độ cha truyền ngôi cho con; nhưng mỗi người được lên ngôi đều được một lãnh tụ đời trước ủy nhiệm. Mao Trạch Ðông chọn Hoa Quốc Phong. Ðặng Tiểu Bình hạ bệ Hoa Quốc Phong nhưng vẫn cho giữ nguyên các quyền lợi. Bốn đời “vua” nước Tàu đều do Ðặng Tiểu Bình chọn. Bình chỉ định Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương làm tổng bí thư. Giang Trạch Dân được Bình đem từ Thượng Hải về sau biến cố Thiên An Môn. Hồ Cẩm Ðào được Bình điểm danh chọn sẵn trước khi lìa đời. Tập Cận Bình là lãnh tụ đầu tiên trong 30 năm không dựa vào uy tín của Ðặng Tiểu Bình.

Vì vậy, trước khi Tập Cận Bình được Trung Ương Ðảng đưa lên bên cạnh Hồ Cẩm Ðào để chờ ngày kế vị, chắc chắn có rất nhiều lãnh tụ muốn giành chức. Sau khi họ Tập được chọn rồi, vẫn còn chưa xong. Kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa và kinh nghiệm các cuộc thay đổi lãnh tụ trong chế độ cộng sản, từ Nga qua Tàu, cho thấy một tay trùm đỏ lúc nào cũng lo bị đâm sau lưng, mất chức và mất mạng. Stalin tránh khỏi mối lo đó bằng cách đã giết hàng trăm đồng chí trong Trung Ương Ðảng, sau tra tấn khiến họ phải thú nhận tội phản đảng, cầu xin được tha, khi đưa ra tòa. Mao Trạch Ðông tàn ác theo lối Trung Hoa, dùng “tòa án nhân dân” đưa đối thủ ra đấu tố công khai, bắt tự phê bình, bị đến cả trẻ con hành hạ, chửi bới sỉ vả, rồi cho sống trong nhục nhã cho đến chết. Ðặng Tiểu Bình vẫn dùng phương pháp “kiểm thảo” và “tự phê bình” để hạ bệ các đối thủ, nhưng địa vị của ông ta không đòi phải giết hết. “Cải cách” lớn nhất của Ðặng Tiểu Bình là thiết lập một thế quân bình trong hàng ngũ lãnh đạo: Chia phần với nhau, anh làm giầu, tôi cũng làm giầu, chúng ta che chở lẫn nhau, cho con cháu cùng hưởng. Mọi việc chia chác quyền hành và lợi lộc đều có thể mặc cả theo quy tắc kinh tế thị trường!

Nhưng thế quân bình nào cũng đến lúc chông chênh, khi hoàn cảnh kinh tế, xã hội thay đổi. Sau hai đời chủ tịch được hưởng “phúc ấm” của Ðặng Tiểu Bình, cuộc tranh giành quyền chức không giản dị như khi buôn bán. Bởi vì có những địa vị không thể định giá trong thị trường; như ông bố của Lã Bất Vi dạy con về lợi nhuận khi buôn vua: Không thể đếm được. Thứ hai, số con buôn được dự việc mua bán nhỏ quá (trong môn tài chánh học gọi là “thị trường mỏng - thin market”), cho nên giá tha hồ lên, xuống, không biết chắc giá nào là đúng ai cũng lo mình hớ.

Tập Cận Bình đang sống trong hoàn cảnh đó. Trước khi ông được công nhận sẽ kế nghiệp, Bạc Lai Hy nuôi tham vọng dùng địa vị, gia thế, của cải để mưu chiếm ngôi “thái tử.” Bạc Lai Hy bị hạ, nhưng lên ngôi rồi Tập Cận Bình vẫn chưa tha. Vợ chồng họ Bạc bị đưa ra tòa, bỏ tù cho thân bại danh liệt, để tránh hậu họa. Nhưng bất cứ ai nuôi tham vọng như Bạc Lai Hy cũng phải có phe cánh. Trong một năm rưỡi vừa qua, Tập Cận Bình phải tỉa dần những “nanh vuốt” đó, nếu không thì cũng khó ngồi yên trên ngai vàng. Do đó, có chiến dịch “đánh tham nhũng.” Họ Tập đã ra tay xé bản hợp đồng trong giới lãnh đạo Trung Cộng, được ngầm thỏa thuận suốt 25 năm qua, từ sau cuộc tàn sát ở Thiên An Môn năm 1989.

Từ năm đó tới nay, ai lên ngôi cửu ngũ ở Bắc Kinh đều thấy mình yếu hơn người tiền nhiệm. Hồ Giang Trạch Dân thua Triệu Tử Dương, Cẩm Ðào lép vế đối với Giang, tất cả không anh nào mạnh bằng Ðặng Tiểu Bình. Nhưng trong năm 2014 này, Tập Cận Bình chứng tỏ quyền lực của mình cao hơn cả hai người đi trước, và đang có triển vọng tiến lên đứng ngang hàng với Ðặng Tiểu Bình trong lịch sử đảng Cộng sản. Ðặng Tiểu Bình thay đổi nước Trung Hoa về kinh tế. Tập Cận Bình có thể thay đổi hoàn toàn cách đảng Cộng sản quản lý nước Tàu, nếu chưa nói đến thay đổi thể chế chính trị.

Cuối Tháng Bảy vừa qua, Chu Vĩnh Khang chính thức bị điều tra về tham nhũng, lạm quyền, sau 18 tháng bị giam lỏng và chứng kiến con, em mình bị đưa ra tòa cũng về tội tham nhũng. Khang là người địa vị cao nhất bị chính thức điều tra, kể từ năm 1989 đến nay. Trong hàng vai vế đảng, ông ta kiểm soát mạng lưới công an, cảnh sát, tình báo, tòa án, với ngân sách lớn hơn ngân sách về quốc phòng. Trên mặt kinh tế, ông là “Bố Già” của ngành dầu lửa, tất cả các công ty năng lượng nằm trong tay. Ông cũng từng nắm tỉnh Tứ Xuyên, một tỉnh lớn bậc nhất nước Tàu. Sau vụ bắt con hổ lớn này đến các cọp nhỏ: Vương Ðại Xuân (Wang Yongchun) từng làm trong ngành dầu lửa dưới quyền Chu Vĩnh Khang bị trục xuất khỏi đảng và truy tố về tham nhũng. Hai người khác là Lý Ðông Thành (Li Dongsheng) và Tưởng Cát Mẫn (Jiang Jiemin), đều bị đuổi ra khỏi đảng và truy tố. Lý từng là thứ trưởng công an, họ Tưởng đóng vai giám sát tất cả các tài sản của nhà nước.

Một tháng trước khi Chu Vĩnh Khang bị điều tra, Tướng Cù Tài Hậu (Xu Caihou) cũng bị cùng số phận. Hậu là phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương, nhân vật thứ nhì trong cơ cấu quyền hành cao nhất có khả năng điều động quân đội Trung Cộng. Tập Cận Bình đã hạ ba tay đầu sỏ có khả năng âm mưu lật đổ ngai vàng: Bạc Hy Lai, dòng dõi công thần (bố là Bạc Nhất Ba, một trong Bát Ðại Nguyên Lão thời Ðặng Tiểu Bình), tới Chu Vĩnh Khang nắm an ninh và ngành kinh tế quan trọng dầu lửa, rồi tới Cù Tài Hậu, có thể giành ảnh hưởng trong quân đội vì Tập Cận Bình không phải là tướng. Cả ba người này đều liên hệ tới cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân. Tay chân của Giang Trạch Dân vẫn còn nắm các chức vụ quan trọng trong đảng Cộng sản, và suốt 10 năm khi Hồ Cẩm Ðào ngồi trên ngai, Giang Trạch Dân vẫn đóng vai giám sát sau rèm. Giang can thiệp vào các vụ cách chức, thăng chức, các quyết định chính sách, chia phần quyền lợi giữa các lãnh tụ, và ngay trong việc nâng Tập Cận Bình lên địa vị lãnh đạo. Tập Cận Bình trừ khử ba đối thủ, mà cả ba đều được Giang Trạch Dân bảo trợ, là để chứng tỏ mình đang nắm thực quyền. Dùng chiến dịch đánh tham nhũng, Tập Cận Bình đang mở cuộc thanh trừng lớn nhất kể từ sau vụ thanh toán Tứ Nhân Bang do Mao Trạch Ðông để lại.

Họ Tập hạ đối thủ một cách tàn nhẫn không thua gì Mao hay Ðặng. Ngay sau khi Chu Vĩnh Khang chính thức bị đặt trong tình trạng điều tra, trên mạng lưới WeChat's xuất hiện một trò chơi điện tử, với đề tài: Săn bắt bè đảng Chu Vĩnh Khang. Người chơi phải đi tìm tên những người như vợ con, cháu, bạn bè, thông gia của Chu Vĩnh Khang, nối họ với những công ty, xí nghiệp làm ăn trong mạng lưới kinh tế của gia đình này. Vì báo chí quốc tế đã tìm và vẽ ra mạng lưới tham nhũng này trong hơn một năm trời, cho nên trò chơi rất hấp dẫn. Hơn 400,000 người dự trò chơi trong một ngày. Trong chiến dịch tuyên truyền sử dụng các phương tiện truyền thông mới, Giang Trạch Dân có lúc cũng bị dính. Trên các mạng thông tin, công dân mạng truyền nhau chuyện cười về hình con cóc bằng nhựa, thổi phồng rất lớn nằm trong một công viên ở Bắc Kinh. Hình con cóc này vẫn được Tân Hoa Xã dùng trong website của họ. Họ tán nhau rằng con cóc này trông giống Giang Trạch Dân quá! Có người còn dùng photoshop cái hình, cho con cóc cậu ông trời đeo đôi kính giống hệt cặp kính nặng của Giang Trạch Dân. Dân mạng làm ồn ào đến nỗi Tân Hoa Xã phải bỏ hình con cóc đi.

Song song với việc thanh toán phe đối nghịch, Tập Cận Bình bắt đầu đưa tay chân của mình lên; dựa vào nhóm “vương tôn” (princelings), con cháu các công thần của chế độ cộng sản. Một người được cất nhắc là tướng Trần Trị Nghiệp (Chen Zhiya), được phong làm phó chủ nhiệm An ninh Quân đội. Tướng Nghiệp này là con của Trần Canh (Chen Ghen), người đã được Mao Trạch Ðông cử sang làm cố vấn quân sự cho Hồ Chí Minh năm 1950.

Chiến dịch đánh tham nhũng cho Tập Cận Bình cơ hội thanh toán các đối thủ có thể đe dọa địa vị của mình. Trong tháng tới, tập đoàn lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sẽ họp nhau ở khu nghỉ mát Bắc Ðới Hà, họ Tập có thể yên tâm không còn đồng chí nào đang nuôi ý thoán nghịch. Trong cuộc tranh chấp quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc, người thắng lên làm vua, còn kẻ bại bị truy tố tham nhũng. Không ai hỏi đến những tài sản hàng tỉ Mỹ kim của gia đình Ôn Gia Bảo; vì ông này không còn tham vọng quyền lực nào nữa.

Họ Tập có đánh được tham nhũng hay không, và nhờ thế cứu được đảng Cộng sản hay không, cũng phải chờ “coi hồi sau mới rõ.” Tập Cận Bình đi theo con đường giống như triều đình Mãn Thanh vào những năm sau cùng, trước khi sụp đổ năm 1911. Các vua quan nhà Thanh cũng thử cải tổ, hành chánh, giáo dục cũng như quân sự. Nhưng sau cùng họ không thể từ bỏ phương cách cai trị độc tài chuyên chế. Cho nên những cải tổ nửa vời nối tiếp nhau không cứu vớt được một chế độ quá thối nát. Ông Bao Ðồng (Bao), một sinh viên tranh đấu tại Thiên An Môn năm 1989, mới viết rằng: “Tham nhũng ở Trung Quốc chỉ là một phó sản của chế độ độc quyền đảng trị.” Vì vậy, chỉ chống tham nhũng trong đảng với nhau mà không cho dân chúng bên ngoài tham dự thì không bao giờ giải quyết được.
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Hãy nhìn sang Miến Ðiện!

Bùi Tín
(Nguồn: VOA)

Trung Quốc đại Hán luôn tự coi mình là con Trời, tha hồ có tham vọng lớn, vì ý muốn của mình được Trời phù hộ, bao giờ cũng được toại nguyện, dù cho đó là cuồng vọng. Gần đây ý muốn của Bắc Kinh là bành trướng xuống phương Nam, vừa để khai thác những tài nguyên dồi dào, vừa nhằm mở đường cho giao thông vận tải tỏa rộng ra khắp thế giới.

Vụ đưa giàn khoan cực lớn HD-981 xuống vùng biển Việt Nam là biểu hiện của tham vọng kép ấy. Nó vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam, của khu vực, và của toàn thế giới.

Mặt khác, cũng theo hướng bành trướng xuống phương Nam, Bắc Kinh từng cố nài ép Miến Ðiện thực hiện một kế hoạch xây dựng đường sắt quy mô lớn nối liền Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, với thị trấn Kyaukpyu thuộc bang Rakkhine của Miến Ðiện. Con đường sắt dự định dài 1,200 kilômet, dọc theo ống dẫn dầu và ống khí đốt đã có cũng do Trung Quốc đầu tư từ cuối thế kỷ trước. Thỏa thuận đầu tiên giữa 2 bên được ký từ tháng 4 năm 2011, với vốn đầu tư là 20 tỷ đôla. Ðây là đường sắt chiến lược trọng điểm sẽ mở đường giao thông vận tải xuống phương Nam, đến vùng biển Andaman trong vịnh Bengal của Ấn Ðộ Dương. Khi mở được con đường này hàng hóa của Trung Quốc từ Trung Ðông và phương Tây chuyên chở về sẽ được rút ngắn rất nhiều, không phải đi vòng xuống eo biển Malacca rồi hướng lên phía Bắc đi qua vùng biển của các nước Ðông Nam Á, của Việt Nam để cập các bến cảng Trung Quốc.

Ngày 22 tháng 7 vừa qua báo Myanmar Times đưa tin chính quyền Miến Ðiện đã quyết định từ bỏ hẳn kế hoạch hợp tác với Trung Quốc xây dựng tuyến đường sắt lớn Kyaukpyu-Côn Minh, với lý do là bảo vệ môi trường và tôn trọng nguyện vọng của nhân dân địa phương kiên quyết phản đối kế hoạch này vì nó sẽ đảo lộn cuộc sống của họ.

Dư luận còn nhớ cuối năm 2013 Miến Ðiện đã hủy bỏ kế hoạch đã ký với Trung Quốc cùng hợp tác xây dựng một con đập lớn và một nhà máy thủy điện ở Myitsone trên sông Irawaddy có giá trị 3,6 tỷ đôla, với điều kiện sẽ bán điện với giá rẻ cho Trung Quốc trong 20 năm. Việc hủy bỏ việc xây dựng đập và nhà máy thủy điện lớn Myitsone là một thất bại lớn về chính trị-kinh tế-đầu tư của Trung Quốc. Nay việc hủy bỏ việc xây dựng đường sắt chiến lược lớn xuống vịnh Bengal ra Ấn Ðộ Dương là thêm một thất bại lớn nữa về chính trị-kinh tế-đầu tư của Trung Quốc.

Nguyên nhân của thất bại chiến lược kép liên tiếp trên đây của Trung Quốc là sự thay đổi hệ thống chính trị-kinh tế ở Miến Ðiện, từ chế độ quân phiệt độc đoán của nhóm tướng lãnh thân Trung Quốc chuyển sang hệ thống dân chủ đa đảng, tôn trọng lá phiếu tự do của cử tri, đẩy mạnh quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện với các nước dân chủ phương Tây, trong khi vẫn giữ quan hệ láng giềng bình thường, bình đẳng với ông bạn cũ Trung Quốc.

Do sự bẻ lái chính trị ngoạn mục trên đây của nhóm lãnh đạo chính quyền cao nhất của Miến Ðiện, thông hiểu nguyện vọng của đông đảo nhân dân và am hiểu thời đại mới của thế giới, Miến Ðiện bước vào thời kỳ phát triển và hội nhập hoàn toàn mới mẻ. Ðây là một trong những chuyển biến tiến bộ có ý nghĩa đột phá của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI.

Thế là bao nhiêu mưu đồ, tiền của, gạ gẫm, răn đe của Trung Nam Hải từ thời Mao-Chu đến thời Ðặng Tiểu Bình bị tiêu tan. Giấc mộng tràn xuống phương Nam mở đường xuống Ấn Ðộ Dương của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Ðào, Tập Cận Bình đang trở thành ảo ảnh.

Báo Myanmar Times ra cuối tháng 7, 2014 cho biết năm 2010 vốn đầu tư của Trung Quốc đổ vào Miến Ðiện còn là 8,6 tỷ đôla, đứng đầu các nước bỏ vốn vào nước này, từ năm 2011 số vốn này bị rơi tõm theo chiều thẳng đứng, đến năm 2013 chỉ còn vẻn vẹn có 200 triệu đôla. Các nước hiện dẫn đầu trong đầu tư vào nước này là Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Ðài Loan, Ấn Ðộ. Quỹ viện trợ để phát triển ODA của Miến Ðiện cũng tăng nhanh, chủ yếu từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu, Úc, Canada và từ Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Một sự xoay chuyển hoành tráng, đồng bộ, toàn diện: chính trị-kinh tế-tài chính đầu tư-ngoại giao.

Ðài VOA ngày 1 tháng 8, 2014 cho biết một tòa án Miến Ðiện đã tuyên án 8 công dân Trung Quốc mỗi người hơn 10 năm tù giam vì đã nhập vũ khí trái phép vào Miến Ðiện. Ðây không phải chỉ là việc buôn lậu vũ khí kiếm lời, mà còn là âm mưu của nhóm lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Trung Quốc trang bị cho một số nhóm tàn dư Maoist thuộc dân tộc thiểu số, nhằm gây bất ổn chính trị, phá hoại quá trình dân chủ hóa ở vùng giáp giới với Trung Quốc. Rõ ràng Miến Ðiện không còn là “sân sau” của Trung Nam Hải như các ông con Trời mong muốn lâu nay.

Lúc này, hơn lúc nào hết, giới lãnh đạo cộng sản ở Việt Nam, Bộ Chính Trị, Quốc Hội Việt Nam, nhân dân Việt Nam hãy theo dõi kỹ những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện của Miến Ðiện để khám phá ra những cảm hứng chính trị quý giá rất cần thiết khi chính lãnh đạo đảng cộng sản đặt ra việc tổng kết sự nghiệp đổi mới gần 50 năm qua, từ 1965 đến nay.

Cái yếu kém, có thể nói thẳng ra là thất bại trong đổi mới ở Việt Nam là đã đổi mới nửa vời, không toàn diện, không đồng bộ, không nhất quán, đổi mới kinh tế mà không đổi mới về chính trị, đổi mới về hành chính mà không đổi mới về thi hành pháp luật, về quyền sở hữu tư nhân, về quản trị ngành ngân hàng, rồi “bỏ quên” hẳn đổi mới trên lĩnh vực đối ngoại để kết bạn, kết liên minh với các bạn bè tốt đáng tin cậy, do trót dại, nhẹ dạ, bí hiểm chui vào cái “cũi Thành Ðô” từ tháng 9, 1990 đến nay.

Không tỉnh táo và dũng cảm về chính trị, không dám nhìn thẳng vào sự thật thì sẽ không rút ra được bài học nào bổ ích, sự nghiệp đổi mới vẫn nửa vời, què quặt, đất nước vẫn chìm đắm trong bất công, tham nhũng và lạc hậu, ngày càng tụt hậu thêm, có nguy cơ trở thành nước độc đoán chậm tiến toàn diện cuối cùng của thế giới hiện đại.
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Bùi Thị Minh Hằng hơn cả Rosa Parks

Nguyễn Ngọc Già
(Danlambao) - Bản án dành cho ba Tù Nhân Lương Tâm: Bùi Thị Minh Hằng (3 năm), Nguyễn Thị Thúy Quỳnh (2 năm), Nguyễn Văn Minh (2,5 năm) kết thúc ngày 26/8/2014 lúc 18 giờ 45 phút - thời điểm "twilight" trong ngày.


Ngoài nghĩa đen "chạng vạng" tương ứng trong tiếng Việt, từ tiếng Anh này còn mang nghĩa bóng - thoái trào. Đó là một điềm gở cho chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam hiện nay. Mê tín dị đoan lên ngôi "cửu ngũ" và trở thành "đức tin" chi phối mạnh mẽ trên khắp các lĩnh vực, do đó, ý nghĩa "lịm tắt dần" trở nên có giá trị như một lời cảnh cáo, dành cho người cộng sản.


Võ Thị Thắng


Trong "tiết xử thử" của những ngày thu, người cộng sản trang nghiêm và u sầu tiễn biệt người đồng chí của họ - bà Võ Thị Thắng.

Trong sổ tang của bà Thắng, Trương Tấn Sang - Chủ tịch nước bày tỏ [1]:

"...Với Võ Thị Thắng: Khi nước nhà tao loạn, Võ Thị Thắng phận gái mà vẫn hiên ngang đứng lên cầm súng "sống vĩ đại chết vinh quang"!. Khi đất nước thanh bình, lý ra Võ Thị Thắng phải được cống hiến công sức mình cho đất nước trong môi trường thuận lợi nhưng không hẳn được như vậy! Thời nào cũng có kẻ hiểm ác, giấu mặt đối xử bất nhân nhưng Võ Thị Thắng vẫn lại hiên ngang ngẩng cao đầu: "Sống vĩ đại chết vinh quang"!..."


Với vài dòng chữ, ông Sang đã thành công, khi phác họa ra cuộc đời của "người đồng chí thân thương", dù trong đó phần cay đắng làm người dân chú ý và tò mò hơn.

Nói đến Võ Thị Thắng không thể không nhắc lại "dấu ấn" riêng bà, khi ám sát một viên chức trong chính quyền VNCH - ông Trần Văn Đỗ.

Không biết do trục trặc súng ống hay vì run rẩy trước việc giết người, bà Thắng đã không thể hoàn thành nhiệm vụ do đảng của bà giao phó, dù phát súng thứ ba được bóp cò như báo QĐND mô tả.

Tuy nhiên, từ thất bại, "Nụ Cười Chiến Thắng" đã chói lòa trong "vòng tử sinh" lúc bấy giờ, với phát ngôn trước tòa án VNCH: "Liệu chính quyền của các ông có tồn tại đến 20 năm để bỏ tù tôi không?". Hình như Võ Thị Thắng xem việc ám sát là một việc làm "quang minh chính đại"(?).

Để từ đó xuất hiện trong chính trường nước CHXHCNVN bà Tổng Cục Trưởng Tổng cục Du lịch với oan án thấu trời - làm gián điệp cho CIA - theo ông Đào Hiếu viết trên trang nhà, trong tư cách người thân cật ruột với bà.

Mười tám năm qua, cho đến ngày Võ Thị Thắng quy tiên, sự thật vẫn chập choạng tựa những ánh hào quang chập chờn phủ quanh bà. Thời khắc nhá nhem - âm dương vẫn đang tranh nhau, kể ra cũng khó cho "những người con trung kiên" trả lại "tấm biển tiết liệt" cho "nữ đồng chí" vào lúc xuôi tay nhắm mắt(?).

Không chỉ vậy, ông Sang lại gây khó cho "Ông Tiên sống mãi", khi nâng người nữ biệt động thành Sài Gòn - Gia Định năm xưa lên hàng "sống vĩ đại" - vốn dĩ Hồ Chí Minh độc quyền về "sự hùng vĩ và lớn lao" hơn trăm năm qua, kể từ ngày đất Nghệ An sinh ra vị "cha già dân tộc" suốt đời không màng lợi danh (!).

Riêng việc bà Thắng "chết vinh quang" trở nên thô ráp, khi đến nay, dù trên cương vị Chủ tịch nước - đại diện cả một quốc gia - ông Sang vẫn không chỉ ra được "...kẻ hiểm ác, giấu mặt đối xử bất nhân..." với đồng đội - người chịu hàm oan cũng tròm trèm 20 năm, gần bằng cái án nhận lãnh vì tội ám sát để góp công cho "đảng ta" gầy nên nghiệp lớn (!).

Dù bà Thắng mất đi, việc rửa oan vẫn rất cần thiết, khi "thằng bán tơ" được lôi ra ánh sáng, mới chứng minh nổi "đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng" như thế nào trước thân bằng quyến thuộc của bà và công luận. Ông Chủ tịch nước bỏ đi đâu danh tiếng "Cơ quan điều tra VN thuộc diện giỏi nhất thế giới" (?).

Hay bên nén nhang bùi ngùi của những người đồng chí, bà Võ Thị Thắng đành ngậm cười nơi chín suối, cùng gia quyến đang văng vẳng đâu đây lời an ủi: Trung cộng nó đánh ta nhưng nó cùng là cộng sản, huống gì, những người lỡ tay hãm hại đồng chí Võ Thị Thắng, đều là Việt... cộng với nhau.


Bùi Thị Minh Hằng



Ánh Trăng Vằng Vặc vừa lâm vào tình trạng "Nguyệt Thực". Dù Nguyệt Thực toàn phần, hãy an tâm, bởi cũng chỉ là tạm thời.

Chị Hằng được biết đến từ những ngày xuống đường chống giặc Tàu cách đây ba năm.

Hình ảnh người đàn bà Việt Nam tuổi ngũ tuần cùng nhân dáng mặn mòi với hình ảnh xông xáo, ồn ã, nhiệt huyết, chân thành làm một số người "học cao" không dành thiện cảm cho chị. Cũng chắc bởi lẽ, vì chị không có bằng cấp đáng nể nào cả.

Chị là một người bình dân như hàng chục triệu thường dân khác. Chị sống đúng chính bản thân mình. Yêu - Ghét rõ rệt. Trắng - Đen phân minh.

Bùi Thị Minh Hằng khá giả với tàu bè đánh cá, cổ phần cây xăng, nhà hàng, sau nhiều năm chắt chiu vốn liếng từ việc đi lao động tận xứ sở của nhà độc tài Lê Nin.

Vì oan ức cá nhân, chị Hằng dần hiểu ra đấu tranh nhân quyền là cho chính mình, đấu tranh dân chủ là cho chính mình. Một cá nhân không thể làm gì được trong xã hội toàn trị hôm nay. Chị đến với cộng đồng dân oan và trở thành bạn của tất cả những ai cùng cảnh ngộ. Từ đó, như gặp "con nước lớn", "Cánh Hoa Thời Loạn" quyết dấn bước trên con đường đấu tranh chính trị như số phận ông Trời đã đặt để.

Minh Hằng không phải nữ sinh danh tiếng trường Gia Long như Võ Thị Thắng. Chị cũng may, không phải học những tư tưởng cao siêu mà vô bổ lại độc hại, như những người cùng sinh ra dưới thời cộng sản cai trị.

Mẹ và chị em ruột đối xử gần như không còn tình nghĩa với Bùi Thị Minh Hằng. Chị cũng thật gieo neo với hai đời chồng, cùng ba đứa trẻ. Một mình chị nuôi chúng lớn khôn, từ khả năng vén khéo và tháo vát của người Mẹ Việt Nam.

Chị không giả tạo. Nhiều lúc chị cộc cằn, bổng chảng và điên tiết theo cách của những người bình dân trước những quá quắt, côn đồ đến bất nhẫn do giới an ninh gây ra.


Chị không che giấu mâu thuẫn gia đình và số phận cá nhân đen đủi. Nhiều người thuộc "trường phái" "đỉnh cao trí tuệ", mỗi khi nhận lệnh từ nơi "rũ bùn đứng dậy sáng lòa" để bôi nhọ chị, thường mang những đau khổ cá nhân của chị ra bêu rếu. Chị không màng.

Không có ai dạy Minh Hằng cầm súng giết người, như bà Võ Thị Thắng đượcdạy. Chị cũng không học theo chị Út Tịch leo lên cây đái xuống cho bỏ ghét, khi bị chọc ghẹo "Đàn bà đái không qua ngọn cỏ" như ông Nguyễn Đình Thi mô tả trong "Người Mẹ Cầm Súng".

Minh Hằng thích hoa và trang điểm. Chị cũng thích ăn ngon và mặc đẹp. Điều thú vị, chị ăn ngon và mặc đẹp từ đồng tiền lương thiện do tự tay tạo ra. Lúc chị bị khủng bố mọi mặt, cả về kinh tế, chị vẫn không quên son phấn mỗi khi xuất hiện. Bạn bè khắp nơi biếu chị tiền. Chị không giấu. Chị cũng không quên làm sinh nhật cho con và ra tay đầu bếp đãi bạn, mỗi khi có dịp.


Minh Hằng đẹp - Cái đẹp đậm đà theo nghĩa đen và đẹp cả từ tấm lòng đối với bạn cũng như quê hương của chị.

Minh Hằng không có uẩn khúc như bà Võ Thị Thắng mang trọng tội phản quốc, đến nỗi thà hy sinh danh dự để chú mục bảo vệ uy tín ĐCSVN - vốn dĩ "cái lai quần" của chị Út Tịch cũng không còn chỗ chứa.

Minh Hằng không có gì phải dằn vặt với bạn bè hay Đất Mẹ. Chị cũng không bận lòng bởi "quá nửa đời phiêu bạt" [*], chị chẳng có gì ân hận để "úp mặt vào sông quê" [*] mà sám hối (!).

Thích, chị bày hết tất cả những gì từ trong lòng và sẵn sàng xổ toẹt vào thói đạo đức giả. Chị không chất chứa. Không để bụng.

Minh Hằng lại là người biết lắng nghe lời ngay ý thẳng, có lẽ từ đó chị chưa bao giờ cô đơn, bởi rất nhiều người bạn chân thành luôn quan tâm và thương mến chị.

Từ buổi xử tội Bùi Thị Minh Hằng và hai người bạn, dù không có bất kỳ tấm ảnh nào, cho thấy cả ba người đứng trước những kẻ "kết án thuê", nhưng người quan sát vẫn cảm nhận được sự trưởng thành chính trị - tinh thần bất khuất - lòng tin về chân lý - sự chín chắn trong chiều sâu tâm hồn của chị và bạn hữu thật rõ rệt. Những tính chất đó sáng lấp lánh từ hình ảnh bầm dập của cả trăm người bạn do phía an ninh Cao Lãnh - Đồng Tháp ruồng bố và đàn áp khốc liệt. Tôi tin điều đó.


Rosa Parks

Người phụ nữ Mỹ da đen nổi tiếng khắp thế giới, khi dứt khoát không nhườngchỗ trên xe buýt cho người da trắng theo yêu cầu của tài xế. Bà đã đưa lịch sử nhân quyền Mỹ quốc sang trang mới.

Năm 1955, Rosa Parks - ở tuổi 42 - quyết liệt bằng hành động giản đơn như thế, để chống lại sự phân biệt kỳ thị chủng tộc.

Từ hành động "cỏn con" đó, Rosa Parks trở thành nhà hoạt động nhân quyền và được quốc hội Mỹ tôn vinh là "mẹ đẻ của phong trào nhân quyền hiện đại". Bà được tạp chí Time bầu chọn là một trong 100 nhân vật có tầm ảnh hưởng nhất thế kỉ 20.

Nhà báo Huy Đức gọi Rosa Parks là "niềm tự hào của nước Mỹ" [2], khi viết bài tưởng niệm, ngày bà mất vào năm 2005, thọ 92 tuổi.

Nếu Rosa Parks xứng đáng vinh danh như thế, những tưởng Bùi Thị Minh Hằng còn vượt lên cả người phụ nữ Mỹ cùng xuất thân không học cao như chị. Thậm chí Rosa Parks có phần kém hơn Minh Hằng về sự sắc sảo và tài kinh doanh, cùng khả năng trong vai trò hoạt náo viên, thu hút đám đông.

Không những thế, Rosa Parks chỉ dừng lại ở lĩnh vực nhân quyền, đấu tranh cho cộng đồng người da màu lúc bấy giờ. Trong khi Bùi Thị Minh Hằng, ngoài vấn đề nhân quyền, chị trở thành biểu tượng tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc chống ngoại xâm thời hiện đại.

Rosa Parks đấu tranh cho cộng đồng da màu tại Hoa Kỳ, Bùi Thị Minh Hằng đấu tranh cho cả dân tộc Việt Nam.

Bùi Thị Minh Hằng nói: Chúng tôi nằm xuống để đất nước này đứng lên - Một câu nói xuất thần và bất hủ, lúc chị sẵn sàng hy sinh thân mình để đấu tranh chống lại cường quyền.

Bùi Thị Minh Hằng - Một Phụ Nữ Việt Nam khả ái và khả kính. Chị xứng đáng được vinh danh, không chỉ trong quốc nội mà cả trên thế giới.

Nguyễn Ngọc Già
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


CÓ NÊN TRANH LUẬN VỚI CS HAY VIỆT GIAN CỘNG SẢN KHÔNG ?

Lê Tường An

Kính Thưa Quý Vị,

Góp ý nầy dựa trên bài viết mới đây của LS Lê Duy San, trong đó LS San đề nghị là chúng ta không nên tranh luận với CS hay VGCS.

Trước hết, tôi đồng ý với luật sư San là ta nên tẩy chay những cuộc thảo luận do người Việt thân cộng (cs nằm vùng (?)) tổ chức và điều khiển. Trong các cuộc thảo luận nầy họ sẽ thiên vị cs và làm đủ mọi cách để cho cs chiếm ưu thế mà tuyên truyền. Do đó, tẩy chay là thái độ chống cộng rất khéo léo và hữu hiệu.

Một câu hỏi cần đặt ra là: Ta có nên tranh luận với CS hoặc VGCS hoặc người Việt hải ngoại "vô tình" đưa lên diễn đàn những bài viết gây ra chia rẻ cộng đồng người Việt QG hải ngoại, hoặc làm tổn thương chính nghiã của Người Việt QG hay không ?

LS San đã trả lời câu hỏi nầy như sau:

"Tranh luận ở trên diễn đàn với các thành phần VC hay VGCS cũng tương tự như vậy [tức là tẩy chay] Chúng ta nên dành hết thì giờ để đánh thẳng vào mục tiêu của chúng ta là bọn Việt Cộng."(LS/LDS)

Nói cách chung, tôi cũng đồng ý với LS San . Tuy nhiên, có những trường hợp ta cũng nên đối phó một cách thiết thực để bảo vệ sự đoàn kết của cộng đồng người Việt hải ngoại, đồng thời vạch rõ ác tâm cũng như những ngụy luận của tác giả. Tôi xin nói rõ suy nghĩ của tôi để đọc giả rộng đường suy luân.

1/ Đối với những bài viết (trên diễn đàn) tuyên truyền của cs như bài ca tụng Hồ Chí Minh (như của Chế Trung Hiếu), hoặc bài viết nhằm mục đích chia rẻ, như chia rẻ tôn giáo (thí dụ bài viết nặc mùi thân cộng của Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang, ...) và những emails kém văn minh vô giáo dục của nicks ma, nicks qủy, chúng ta phải tẩy chay.

2/ Tẩy chay như thế nào? Tẩy chay bằng cách BLOCK (hoặc SPAM hoặc bỏ vào TRASH) emails của họ để cô lập họ. Tuyệt đối không tranh luận và chửi bới bằng email gởi kèm bài viết tuyên truyền, gây chia rẻ, hoặc ăn nói lộng ngôn của nhóm người xuẩn động, nhưng nham hiểm nầỵ. Đối đáp với lũ người nầy là mắc kế của kẻ gian, tiếp tay đăng tải những bài viết tuyên truyền, đầu độc gây chia rẽ của chúng.

Tôi hiểu quý vị vì lý tưởng của mình nên không chịu nổi phải chửi lại, viện cớ : "Gặp Phật thì tu, gặp quỷ thì trừ" ! Nhưng trừ quỷ cách nầy thì rõ là không hiệu quả mà còn mắc kế, loan tải những bài viết đầu độc của kẻ địch. Người QG ta có sĩ diện, nếu ai chửi ta, ta nổi giân không chịu nỗi. Nhưng cộng sản thì khác, chúng không có sĩ diện gì cả, chúng không nao núng khi bị chửi mà còn lấy lời chửi bới của ta để tuyên truyền xấu về người QG. Do đó xin quý vị nào không nhịn được CS thì thay vì chửi bới họ trên diễn đàn, nên cô lập họ bằng cách nhốt họ vào "TRASH" hoặc đày họ bằng "BLOCK"! Dĩ nhiên có người không "TRASH" và cũng không "BLOCK" chúng vì họ cùng phe với chúng. Cứ để cho VGCS viết cho VGCS đọc. Nếu họ forward ra diễn đàn thì ta biết rằng họ là đồng lỏa của VGCS, thì ta TRASH và BLOCK họ luôn. Thế mới trừ được bọn VGCS.

Có người hỏi rằng nếu ta block hết thì còn ai trên diễn đàn. Xin quý vị đừng lo, trên các diễn đàn nầy có rất nhiều độc giả thầm lặng và những người QG chân chính. Hãy loại trừ những bài viết có tính cách đầu độc và chỉ phổ biến những bài viết đúng đắn, giúp ích cho công cuộc chống cộng. Những bài viết đúng đắn, dù hiếm hoi, luôn được loan truyền khắp thế giới. Chẳng hạn như bài thơ "Khép Lại Quá Khứ" của Trần Chiêu Yên được post lên các websites và được đọc đi đọc lại nhiều lần trên các paltalks.

(3) Đối với những bài viết của người QG, nhưng vì phe nhóm, "vô tình" viết những bài một chiều gây chia rẻ trong cộng đồng người Việt chống cộng. Điển hình là loạt bài mới đây của tác giả Trần Văn Thưởng (một sĩ quan trong QLVNCH).Bài viết nầy nhằm đả đảo TT Ngô Đình Diệm (NĐD) và nền Đệ I Công Hoà. Ở đây tôi miễn bàn về nội dung của bài viết. Tôi chỉ nói đến tính cách không hợp thời, không có tác dụng tốt mà còn gây chia rẻ trong cộng đồng người Việt QG. Lý do rõ ràng là trong khối người Việt chống cộng, có kẻ chống chính phủ NĐD, mà cũng có kẻ bênh . Thế nên, sau loạt bài của Trần Văn Thưởng, có kẻ bênh mà cũng có người chống kịch liệt. Kết qủa là : CHIA RẺ . Và câu hỏi đáng đặt ra là ai có lợi trong cuộc tranh biện nầy? Câu trả lời hiển nhiên là: Cộng sản hưởng lợi ! Và công đồng người Việt QG phải thiệt thòi!

Đối với những loại bài như thế nầy, tôi thiết nghĩ là người Việt QG chân chính và có kiến thức cần ra tay để baỏ vệ chính nghĩa và sự đoàn kết của cộng đồng chống lại những bài viết có lợi cho công sản (dù tác giả vô tình hoặc cố ý).

Trong những ngày vưà qua tôi học được rất nhiều từ những người trẻ dấn thân như tác giả Hương Saigon (HSG) và Amie Nguyễn. Những người tuy trẻ, nhưng không khờ khạo hoặc kém kinh nghiệm. Ngược lại, họ có can đảm, kiến thức, và nhiệt tình với quốc gia dân tộc. Họ rất nhạy bén, nhanh nhẹn dấn thân đánh đổ ngay ngụy biện, và tính cách thiên lệch của tác giả, đập tan mối đe doạ cho tình đòan kết của người Việt QG.

Cũng như các độc giả bình thường khác, trước kia tôi từng đọc và cảm thấy bị thuyết phục bởi các tác giả như Lữ Giang, Hà Tiến Nhất, Sơn Tùng, v.v. vì họ "viết có sách mách có chứng". Nghĩa là những gì họ viết đều dựa vào tin tức, sách vở, hoặc do các giới chức tuyên bố. Vì không có thì giờ cũng như không có cơ hội để đọc tất cả mọi tài liệu, tôi nông cạn và hầu như chấp nhận những gì các tác giả nầy viết.

Sau khi đọc một số bài phản luận của HSG, tôi phải thú nhận rằng tôi đã “giác ngộ” . Nhờ những phản luận nầy mà tôi thấy rõ rằng không phải "viết có sách, mách có chứng" là lúc nào cũng đúng và chân thật. Theo ngôn ngữ của tác giả HSG, bài viết của Lữ Giang chẳng hạn, là lối viết “lộng giả thành chân”, và thiên lệch do lực chọn (selection bias -- chọn tài liệu theo lập trường của mình).

Thật vậy, thữ đọc lại một đoạn của Lữ Giang viết trên diễn đàn nầy:

“Trước 30.4.1975, Tổng Thống Thiệu không hề biết Mỹ đang làm gì và Việt Cộng đang làm gì, ngay cả Mỹ đem miền Nam giao cho Trung Quốc từ năm 1972 ông cũng không biết. Ông cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, ôm chặt “Bốn Không” và nhìn vào số tiền viện trợ Mỹ để quyết định số phận của miền Nam: Mỹ viện trợ 2 tỷ, ta sẽ giữ cả miền Nam. Mỹ rút xuống còn 700 triệu, ta thu nhỏ lãnh thổ lại, chỉ giữ từ Tuy Hoà trở vào .. Ông làm như miền Nam là của Mỹ, ông chỉ là người lính đánh thuê! Kết quả, thi hành những ý nghĩ ngông cuồng và thô thiển của mình, ông đã làm mất miền Nam trong không đầy 40 ngày, gây ra vô số tang tóc cho các chiến sĩ và dân chúng. Trên tỉnh lộ số 7 từ Pleiku về Tuy Hoà và trên các đường từ Huế đến Sai Gòn nơi nào cũng vung vãi đầy xe tăng, đại pháo, súng ống, quần áo trận..., máu, nước mắt và mồ hôi! “ [Lữ Giang]

Tôi xin che'p lại phản luận của HSG:

“Ông Lữ Giang viết một cách trơn tru như một chú học trò lém lỉnh kể lại cho thầy giáo nghe những gì đã xãy ra về một cuộc "uýnh lộn" trong giờ nghĩ. Ông đưa ra những cáo buộc nghiêm trọng mà không có một dữ kiện nào để làm bằng chứng: Nào là "Tổng Thống Thiệu không hề biết Mỹ đang làm gì" nên làm mất MNVN. Nào là "Mỹ đem miền Nam giao cho Trung Quốc từ năm 1972".

Đến nay chưa ai thấy tài liệu đáng tin cậy nào nói rõ ràng là "Mỹ đem miền Nam giao cho trung cộng." Nhưng ông Lữ Giang viết lên đây như là một sự thật hiễn nhiên không phản bác được. Thật ra, Lữ Giang không còn đủ trí để nhận biết mình nói gì, bởi lẽ nếu Mỹ đã giao MNVN cho trung cộng rồi, thì còn gì để TT N.V. Thiệu làm mất?

Ông Lữ Giang có cách viết theo lối "lộng giả thành chân" rất "có hệ thống" . Ông luôn đưa ra những con số, ngày tháng và địa danh thật (như là năm 1973, 2 tỷ , 40 ngày, tỉnh lộ số 7 ...) cũng như chép tài liệu từ báo chí rồi lồng vào đó những khẳng định theo định hướng của ông. Đây là một tiểu xảo tuyên truyền có nghiên cứu đã được áp dụng từ nhiều năm qua nhằm hướng dẫn quần chúng tin tưỡng vào một đường hướng chính trị mà tác giả (hoặc một quyền lực nào đó) mong muốn.” [HSG].

Suy nghĩ cho kỹ, lý luận trên của HSG rất vũng và chính xác. Chính vì thế mà Lữ Giang chưa bao giờ chống đở được. Tam thập lục kế, ông chọn kế “CHẨU (TRỐN)” là lẽ đương nhiên.

Tóm lại, đối luận trên của HSG chống lại bài viết của Lữ Giang là một bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng ta nên trực diện với những bài viết của bất cứ ai có hại cho chính nghĩa và cuộc chiến đấu của người Việt QG chống cộng. Nếu những đối luận nầy không làm cho kẻ ác tâm lùi bước, nó cũng giúp cho đọc giả thấy rõ dả tâm của tác giả và không mắc bẩy của kẻ gian.

Trong thời đại truyền thông, một bài viết trong phút chốc có thể được truyền di khắp năm châu. Để mặc cho CS và VGCS tự do tuyên truyền mà không phản bác là một thái độ tiêu cực nguy hiểm.

Lê Tường An
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests