Bình Luận , Quan Điểm

huynhtruong25
Posts: 142
Joined: Sun Sep 25, 2011 9:48 pm
Contact:

Post by huynhtruong25 »

Việt Nam, về đâu?
Bảo Giang
Có một sự thật mà ai cũng thấy là: Trong những năm gần đây, ở bất cứ nơi đâu, dù là giữa thành thị, nơi phố xá đông người qua lại hay tại những ngõ ngách vắng lặng ở thôn quê, miền thượng, nơi vắng hẳn những thông tin, truyền hình, mạng internet, nhưng không có một nơi nào mà người ta không to nhỏ với nhau về chuyện mất nước. Chuyện mất nước không còn là chuyện bi quan của riêng một ai. 40 năm về trước, nói đến mất nước là nói đến sự kiện Việt Nam rơi vào tay cộng sản. Hôm nay, nói đến mất nước là nói đến chuyện Việt Nam mất chủ quyền Độc Lập của một quốc gia, trở thành một chư hầu, một tỉnh bang của Trung cộng do công lao của tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh dàn dựng và thực hiện.

Thật ra, chuyện cộng sản ra công ra sức dàn dựng để được làm chư hầu cho Trung cộng là diều không còn che dấu được bất cứ ai nữa. Người thì biết qua tin tức, trang mạng, chuyện trò trao đổi. Kẻ thì nhìn biêt sự việc qua cung cách đối xử của nhà nước với công chúng Việt Nam và với những người “lạ” đến trú tại địa phương. Cách riêng, đối với ngưòi từng sinh trưởng ở miền nam Việt Nam, họ đã biết chuyện này từ lâu. Bởi lẽ, cố Tổng Thống Ngô đình Diệm đã công khai hóa chuyện tồi bại của tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh ( lúc bấy giờ chưa mấy người biết y là Hồ tập Chương, người Tàu) ra trước công luận trong bài diễn văn của ông nhân dịp khánh thành Đập Đồng Cam ở Tuy Hòa vào ngày 17 tháng Chín, 1955 là “Chúng ta hiện nay đang tiếp tục cuộc chiến đấu lớn lao để hoàn thiện nền độc lập của quốc gia chúng ta và để đảm bảo tự do của nhân dân chúng ta…. Nếu Việt Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng. Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa, Trung cộng tạo ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình.” Nguồn: Major Policy Speeches by President Ngo Dinh Diem

Nhìn lại những sự kiện và những diễn biến đã và đang xảy ra, người người lắc đầu ngao ngán và chán nản. Tuy thế, tôi cho rằng, nỗi đau tận cùng trong lòng ngưòi Việt Nam không phải vì câu chuyện mất nước. Nhưng chính là sự kiện, chúng ta không biết phải làm gì để chặn đứng việc tập đoàn CS HCM đang thu xếp những thủ tục cuối cùng để giao nước ta cho Trung quốc. Chuyện “ không biết” này là một việc đáng trách hay đáng buồn?
Đáng trách vì chúng ta không chịu hành động gì? Đáng buồn vì chúng ta đã buông xuôi?

Tôi không biết rõ câu trả lời sẽ ra sao. Tuy nhiên, có thể nói là từ sau cái chết của Tổng thống Ngô đình Diệm đến nay, chưa bao giờ ngưòi Việt Nam, kể cả những người trong hàng ngũ cán binh cộng sản còn có chút tấm lòng với tổ quốc Việt Nam, đã đặt ra câu hỏi này một cách nghiêm túc, ngõ hầu, cùng tìm ra một câu trả lời rõ nét mà định vị cho tư thế Việt Nam. Trái lại, tất cả như mơ, như hoặc, trong một giấc mộng mị “ông nói gà, bà nói vịt”, và không hề biết rằng, chúng ta không còn nhiều thời gian để đặt lại câu hõi này nửa. Bởi vì, khi đi ngủ là người Việt Nam. Sáng mai mở mắt ra, lại bị gọi bằng một cái tên lạ khác với cái cờ 6 sao treo ngay trên mảnh đất của mình đang sinh sống! Lúc đó mới chợt biết tên nước đã không còn, mới nhớ đến câu gào thét “ Việt Nam tôi đâu?”nghe tan gan, nát ruột, vỡ tim óc của Việt Khang thì đã qúa muộn!

Tôi viết ra câu chuyện này, tưởng lạ, mà không lạ. Cho là hoang tưởng mà lại rất thực. Bởi lẽ, ngay khi Putin ký sắc lệnh xát nhập Crimea vào lãnh thổ của Liên Bang Nga vào ngày 21-3-2014, thì Ukraine mất đất và người Ukraina ở Crimea thành dân Nga! Đứng trước cái “ hoang tưởng” này, cả thế giới, chẳng riêng gì Tây Âu và Mỹ, đều trắng mắt ra mà nhìn một “con cá lớn, nuốt con cá bé”. Nuốt một cách công khai, còn có thể gọi là “hợp pháp” nữa, mà chẳng có một thành viên nào của quốc tế dám nói đến chữ “can thiệp” để bảo đảm luật pháp của thế giới, ngoại trừ một vài kiểu phủi bụi ngoại giao là cấm vận năm bảy thành viên nào đó của những bên liên hệ, hoặc mời Nga ra khỏi G8 là hết chuyện.

Mời ra rồi, cấm vận rồi, vài năm sau thế nào? Thế giới lại trôi vào một dòng chảy khác, chẳng mấy ai còn nhắc đến chuyện cấm vận và Crimea hôm nay nữa. Họ lại ngồi chung một bàn! Như thế, nếu câu chuyện ngưng lại ở đây, không tiến thêm một bước nào nữa, Ukraina không mất thêm đất thì đó là điều may mắn cho Ukraina và cho thế giới. Chỉ sợ, chẳng bao lâu nửa, tỉnh phía đông , thành phố phía tây, hay khu vực trong lòng Ukraine lại bỏ phiếu đòi tự trị và xin xát nhập vào Liên Bang Nga thì mới là câu chuyện dở khóc dở cười cho thế giới trong thế kỷ này. Bởi vì, nếu chuyện ấy xảy ra, cũng sẽ không bao giờ có những “ can thiệp” dưới dạng “đưa ra trước công lý” như đã từng xảy ra ở Iraq và Afganistan trước đây.

Từ câu chuyện “hoang tưởng “ ấy, một câu hỏi như bài học vô cùng qúy gía được đặt ra cho người Việt Nam chúng ta sau sự kiện này là: Liệu “cuộc đổi thay vĩ đại” này, có là một bước đột phá cho Trung Cộng tiến bước xuôi phương nam, và số phận Việt Nam có được định đoạt theo một thời khoá biểu hẹn trước do Trung cộng và tay sai thực hiện chăng? Nếu chuyện ấy xảy ra, Việt Nam sẽ ra sao, về đâu? Ta vẫn là ta hiên ngang khí phách. Hay ta là một vùng đất được hưởng quy chế tự trị trong cái túi bọc của Trung quốc theo sách lược của đảng nhà nước CS VN? Đi tìm câu trả lời, tôi cho là bài học từ Crimea trong ván cờ của thời đại, rất có gía trị với chúng ta.

Ở Crimea, để biện minh cho ý đồ của mình, Putin nói trong bài phát biểu 18-3-2014.“ bây giờ, tôi nghe người dân Crimea kể rằng, năm 1991, họ đã bị trao đi như bao tải khoai tây”. Điều này cho thấy, chính Nga là phía không ngừng tìm đủ mọi phương cách để bành trướng cương thổ sau khi đế chế cộng sản Liên Bang Sô Viết sụp đổ vào năm 1990. Nghĩa là, sau khi gượng đứng dậy được từ cuộc sụp đổ của đế chế cộng sản vào năm1990, Liên bang Nga lại đã manh nha một cuộc thôn tính láng giềng để mở rộng biên giới của mình? Dĩ nhiên, cuộc thôn tính này phải là một diển tiến mang tính “ hợp pháp” hơn là cuộc bành trướng bằng bạo lực cách mạng của đế chế cộng sản trước kia. Từ đó, Putin không ngần ngại tạo ra những loại ngôn ngữ về tính lịch sử của sự xát nhập như: Ở nơi đó, ngoài quân hải cảng Sevastopol, một vị trí then chốt giữ biển đen của Nga. Nó còn là nơi ”đã thấm máu xương của ngươi Nga qua nhiều đời”. Và rằng, đó là nơi có nhiều người Nga sinh sống, nó là phần đất không thể bị tách rời khỏi nước Nga… Nên nó phải về với Nga?

Nếu cái tính hợp pháp chỉ đơn giản được giải quyết bằng sức mạnh của cơ bắp với đôi ba lý luận như thế, xem ra nhiều phần đất trên thế giới này sẽ có nguy cơ bị xóa tên! Bởi vì, nhiều nơi cũng có máu xương của người Mỹ, người Nga, người Tàu, người Pháp, người Đức… đã đổ xuống.
Thử hỏi, những phần đất ấy, có phải trở về với quốc gia, mà con dân của họ đã đổ máu xương xuống hay không? Có lẽ, chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời dứt khoát, có hay là không. Bởi vì nó còn tùy thuộc vào nhiều vấn đề. Và không phải mọi trường hợp đều có thể “đưa nó ra” trưóc công lý. Đơn giản hơn, công lý đôi khi cũng phải chạy mặt trong một số trường hợp. Mà rủi Crimea hôm qua đây là một điển hình? Liệu nó có ngoại lệ trong tương lai không?

a. Chuyện máu xương đã đổ xuống!

Trở lại câu chuyện của Crimea. Tôi không biết là có bao nhiêu máu xương của quân dân Nga đã đổ xuống trên phần đất Crimea để hôm nay nó phải thuộc về Nga. Nhưng tại Việt Nam, máu xương của quan, binh và người từ bắc phương đã đổ xuống trên phần đất Việt Nam chắc chắn là nhiều hơn con số của Nga gấp bội lần, và cũng chẳng phải là mới đây mới có. Trái lại, những con số này đã có trong những cuộc chiến từ nghìn năm cũ, từ hơn hai trăm năm trưóc và mới đây, nhiều vệt máu còn tươi. Dù đã khô hay còn tươi, con số đều không thể đong đếm được. Rõ ràng máu xương của họ không thể đong đếm. Nhưng những cai tên như gò Đống Đa, kèn Ngọc Hồi, đuốc Hàm Tử, giáo Chương Dương, bến Vân Đồn, ngựa Chi Lăng… thì chưa bao giờ có thể vùi quên. Hơn thế, xem ra còn uất nghẹn trong lòng người phương bắc hơn cả người phương nam! Bởi vì, những phần đất ấy đã không bao giờ thuộc về phương bắc, dù đã có đôi ba kẻ, đôi ba lần mài quóc cầu vinh, muốn dâng cúng đất Việt cho ngoại bang. Kết qủa, tất cả đều toi mạng trước khi mộng bán nước cầu vinh thành sự. Phần tổ quốc và người dân Việt Nam vẫn kiên vững, còn đây!

b. Đường biên giới.

Nhìn trên bản đồ, Crimea không liền da với liên bang Nga. Nhưng Việt Nam ta với Tàu thì đất liền đất, sông liền sông, chỉ phân biệt bên này và bên kia bởi một lằn ranh gọi là biên giới. Lằn ranh này chẳng có tường cao, hào sâu để ngăn chặn đối phương. Tuy thế, lịch sử qua nghìn đời đã khẳng định rằng, không phải cứ đất liền đất, sông liền sông và thêm cái bụng to và đông nhân mạng là có thể nuốt trửng được đối phương, là bôi xóa được cái cái lằn ranh ngăn cách kia đi. Trái lại, sau những cuộc chui vào ống đồng, tổn hại máu xương nhiều đời, cả hai đều biết rõ về nhau và cùng nghiệm ra rằng nếu ” sấm động phương nam” thì sẽ có “ vũ qua bắc hải” nên ai giữ phận nấy.

Tuy nhiên, kể từ thời điểm 3-2-1930 và nhất là sau ngày 20-7-1954 đã khác đì. Truyền thống ấy, bất khuất ấy, lịch sử ấy đã bị bào mòn và có nguy cơ biến thành một bức tranh vô cảm treo trên tường cho người ta ngắm nhìn xuông. Nó không còn gía trị trong thực tế. Không còn sức sống, không còn tiếng nói, nếu như không muốn nói, nó chỉ còn là câu chuyện của dĩ vãng? Bởi vì tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh ( Hồ tập Chương?) đã đưa ra một sách lược hoàn toàn đối kháng với truyền thống và lịch sử của dân tộc Việt Nam. Sách lược của họ vỏn vẹn chỉ có 8 chữ “ xin được làm chư hầu cho Trung quốc”!

Xin nhớ, tập đoàn CS tại VN đả chủ trương xin được làm chư hầu cho Trung cộng từ trước khi chúng cưóp được chính quyền tại Việt Nam, chứ không phải Trung cộng dám tự mình xóa bỏ lằn ranh giới giữa hai nước. Khi ấy, Hồ tập Chương người Tàu, còn gọi là Hồ chí Minh đã chỉ thị cho Đặng xuân Khu, tổng thư ký đảng, đồng thời thay mặt “Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Công Hòa năm thứ VII. TTK sồ 84/LD.” , nóí lên ý chí và cương lĩnh hành động của đảng cộng sản Việt Nam trong văn thư kêu gọi đồng bào vào tháng 8 năm 1951. Đây phải được coi là bản văn chỉ đạo tối quan trọng của của đảng CSVN. Nếu không, chính Đặng xuân Khu đã bị cộng sản xóa sổ từ lâu rồi, tên tuổi của y không còn được lưu dụng cho đến hôm nay. Và làm gì có chuyện báo chí và đảng CSVN tâng bốc cái tên Đặng Xuân Khu trong kịp “ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà lãnh đạo cách mạng (vô văn hóa) Trường Chinh. giới báo chí Việt Nam cùng với toàn đảng, kính cẩn nghiêng mình trước anh linh cây bút bậc thầy lỗi (đạo) lạc” này?( nguồn laodong.com.vn). Trong bản văn chủ đạo này gồm có hai điểm chính:

- Kêu gọi đồng bào Việt Nam học chữ Tàu và bỏ chữ quốc ngữ.
- Xin được làm chư hầu cho Trung quốc.

Dĩ nhiên, những chủ điểm này không phải là một ngoa ngữ nhằm lôi kéo hoặc lừa Trung cộng giúp họ cướp chính quyền tại Việt Nam. Trái lại, nó là sách lược cột sống của tổ chức này.

Bằng chứng là, chẳng bao lâu sau ngày cướp được chính quyền, để mở đường cho Phạm văn Đồng ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại Hoàng Sa, Trưòng Sa, và cho các thế hệ sau ký các hiệp ước về đường biên giới, về vịnh bắc bộ và các khế ước thuê rừng đầu nguồn, khai thác khoáng sản của Việt Nam “ngày 15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của lãnh sự quán Trung Quốc tại Việt Nam, Lý Chí Dân, rằng: "Căn cứ vào tư liệu của phía Việt Nam, về mặt lịch sử thì quần đảo Tây Sa và Nam Sa là một phần lãnh thổ của Trung Quốc". (wikipedia). Nên từ đó đến nay, qua tất cả những thành phần lãnh đạo kế tiếp của tập đoàn Việt cộng tứ Lê Duẫn, kẻ tuyên bố là đánh miền nam là đánh cho Trung quốc, đến Đỗ Mười, Nguyễn văn Linh, Lê khả Phiêu, Lê Đức Anh, Nguyễn mạnh Cầm… xin quy thuận Trung Cộng vô điều kiện trong hội nghị Thành Đô. Rồi Mạnh, Sang, Trọng, Hùng, Dũng, Luận… tất cả đều cúc cung khuyển mà, thực hiện triệt để chủ trương này của đảng CS bằng cách này hay cách khác. Kết quả:

1. Về nhân sự.

Bạn có biết, hay bạn có đọc được bất cứ một tài liệu nào của nhà nước CS tại Việt Nam công bố liên quan đến vần đề nhân sự, nói toạc ra là, có bao nhiều người Tàu đã nhập cư lậu vào Việt Nam kể từ sau năm 1954 đến nay hay không? Bạn có biết, hay có đọc được bất cứ một tài liệu nào của nhà nước CS tại Việt Nam công bố rõ ràng về con số những nhân công của Tàu, cùng với các nhà thầu sang Việt Nam, (chiếm thị trường lao động của người Việt Nam), làm việc có thời hạn, cũng như là không có thời hạn bằng văn bản chính thức hay không? Bạn có biết, hay có đọc được bất cứ tài liệu nào của nhà nước CS báo cho công chúng Việt Nam biết là hiện này có tất cả bao nhiêu công trình, dự án từ cơ sở hạ tầng, như cầu đường đến các nhà máy thuỷ điện, các cơ sở sản xuất ở rải rác trên toàn quốc Việt Nam mà Trung cộng đứng thầu và họ có độc quyền để đưa người sang làm công nhân dười sự quản trị của họ hay không?

Bạn có biết, hay có được nghe nhà nưóc CS công bố rõ ràng là hiện nay ở Việt Nam có bao nhiêu vùng đất được gọi là đặc khu của người Tàu ở các vùng từ Quảng Ninh, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Cao Nguyên , Tân Cơ, Đắc Nông đến Bình Dương, Hà Tiên không? Rồi ở tận rừng sâu thì có bao nhiêu vùng rừng đầu nguồn, với diện tích như thế nào đã được ký giao nộp cho người Tàu? Về phía biển đông, ngoài công hàm của Phạm văn Đồng về Hoàng Sa trường Sa và hiệp ước vịnh bắc bộ đã nhượng địa, nhượng biển cho tàu cộng ra, còn bao nhiêu vùng biển được khoanh vùng cho người Tàu thuê mướn dài hạn mà quan cán và nhân dân Việt Nam không được phép lui tới nữa? Rồi bao nhiêu cửa khẩu quan trọng mang tính chiên lược như cửa Việt ở Quảng Trị. Vũng Áng ở Đèo ngang đã được âm thầm ký giao cho Tàu cộng kiểm soát? Bạn có thể trả lời được những câu hỏi trên không?

Tôi biết chắc là chúng ta không thể trả lời và kiểm tra được những con số liên quan đến những câu hỏi trên. Điều ấy không lạ, vì chính nhà nước Việt cộng cũng bó tay nốt. Bởi vì trên lừa dưới, dưới lừa trên, nên họ cũng không có khả năng để kiểm toán được những con số này. Điển hình ở Bình Dương, ngoài đặc khu Bình Dương dành riêng cho Tàu khựa có sinh hoạt riêng, còn bao nhiêu địa điểm khác cũng có những sinh hoạt tương tự và có bao nhiêu người Tàu cư ngụ bất hợp pháp và hợp pháp ở Bình Dương đây? Hỏi và có lẽ chính viên tỉnh ủy, chủ tịch ủy ban gọi là nhân dân ở đây cũng không thể trả lời được câu hỏi này, chứ nói chi đến thành ủy Sài Gòn nắm được rõ con số! Những con số có chăng chỉ là những con số láo lếu báo cáo mà thôi. Con số thực sự, không một ai biết kể cả cấp chóp bu của đảng và
nhà nước tại Hà Nội.

Ở đây tôi chỉ võ đóan là. Có lẽ con số nhân sự của họ ở trong nước ta không thể dưới một triệu nhân danh đã ở vào tuổi trưởng thành! Con số này cho tôi một cái nhìn tiêu cực. Đó là một binh đoàn thiện chiến chưa được võ trang, nhưng đã có sẵn cơ sở sinh hoạt và nắm, biết rõ hiện tình và phương hướng hành động! Như thế, dù chưa được võ trang, tôi vẫn cho rằng những người này đã có được một hệ thống chỉ huy rất chặt chẽ từ trên xuống dưới, để bất cứ lúc nào cũng có thể đồng loạt thi hành lệnh riêng của họ một cách quyết liệt. Đã thế, bạn nên nhớ rằng, bình đoàn chưa được võ trang này còn được đảng và nhà nước Việt cộng hết sức ưu đãi và phục tùng. Họ có một ưu thế hơn
hẳn ngưòi dân tại địa phương. Bằng chứng thì bạn cứ nhìn cái lưng của Trương tấn Sang, Nguyễn phú Trọng hay Nguyễn tấn Dũng… luôn cúi gập xuống thì biết rõ sự việc. Ấy là chưa kể đến những ẩn số “nửa nạc nửa mỡ” đang sống ngay bên cạnh nhà bạn, hoặc gỉa, là cấp lãnh đạo trực tiếp của bạn nữa đấy!

- Vẽ chuyện, chỉ nói chuyện bò trắng răng!

Bạn trách tôi vẽ chuyện, lo bò trắng răng thật đấy à? Sự thật thì tôi không vẽ chuyện, cũng không lo bò trắng răng. Nhưng trước nay đã lo, sau vụ Crimea là thêm rét. Nếu chẳng may một “ vùng ” nào đó trong nước ta, do một nhúm người nói tiếng lạ đứng lên đòi tự trị thì bạn trả lời sao đây? Rồi điểm này chưa đáp ứng được đòi hỏi thì tụ điểm khác lại
trương cờ hiệu nổi lên, bạn giải quyết thế nào?

- Không còn luật phá à?

Lạ, bạn nói đến luật pháp nào thế? Luật pháp quốc tế hay là luật pháp của nhà nước Việt cộng? Luật pháp quốc tế thì xem ra không được áp dụng ở Việt Nam. Còn luật pháp của nhà nước thì chỉ bảo vệ các đoàn đảng viên Việt cộng và quyền lợi của họ thôi. Nó không bảo vệ cho quyền lợi của tổ quốc và con dân Việt Nam? Không tin à, bạn đã gặp Nguyễn chí Đức, Lê thị Công Nhân, Bùi Hằng, Phương Uyên, Nguyên Kha, Việt Khang, Cù huy Hà Vũ, Lê quốc Quân và 12 thanh niên yêu nươc ở Vinh cũng như những người tù vì nhân quyền, công lý chưa? Có phải họ là những ngưòi đã nhìn thấy trước cái họa ”tự trị “ mà lên tiếng không ? Nay họ ra sao rồi?

- Anh bảo quân đội và công an nhân dân của ta là đống… bùn à?

Nào tôi có dám vọng ngôn mà bảo họ là đống bùn đâu! Tôi chỉ thấy ban tuyên truyền của nhà nước cộng sản Việt Nam thì om xòm, vỗ tay reo mừng trong vụ Nga …. đớp Crimea. Theo “Bài báo của BBC ngày 03/3/2014 dưới nhan đề “ Báo chí VN ủng hộ Nga về Ukraina? Đưa ra vài dẫn chứng, như báo CAND dẫn lời ông Putin: “nước Nga có quyền bảo vệ lợi ích của người dân Nga và những người nói tiếng Nga” và “Nga hành động trong khuôn khổ luật pháp cho phép”. Thưa bạn, chỉ mấy hôm nữa có lẽ cũng báo chí của tập đoàn CS này sẽ lập lại nguyên văn câu viết trên và chỉ cần thay đổi vài cái tên, Nga thành Trung Quốc, Crimea thành Việt Nam thì ý bạn thế nào nhỉ?

Phần tuyên truyền họ đã sửa soạn sẵn tư tưởng và dư luận như thế. Riêng về phía quân đội sẽ có bao nhiêu tàu chiến, bao nhiêu xe tăng, bao nhiêu máy bay, bao nhiêu đại pháo, hỏa tiễn và bao nhiêu phần trăm binh lính đã sẵn sàng “can đảm” đứng lên làm cuộc xát nhập không đổ máu như lời TT Nga khen ngợi binh lính Crimea đây? Thực tình không ai biết. Nhưng nếu được 50/50 còn lo cho sự độc lập và vẹn toàn cho lãnh thổ Việt Nam thì quả là một điều vạn phúc cho nước Việt. Tuy thế, cái nguy ở đây là việc chỉ huy và nắm những chức chưởng quan trọng thì không biết là được mấy người còn nghĩ về một tương lai Độc Lập của dân tộc Việt Nam đây? Liệu có thể có một Ngô Vương Quyền hay ít ra một Trần bình Trọng hay không?

Riêng cánh công an CS, một tập thể hung tàn đối với đồng bào Việt Nam xem ra đã tỏ rõ lập trường rồi. Khi trả lời VTC News ngày 03/03/2014, Lê Văn Cương, nguyên Viện Trưởng viện nghiên cứu chiến ược của bộ Công An CSVN đã tự ý hay được chỉ đạo tuyên bố như sau: “Nga có trách nhiệm bảo vệ công dân của mình và hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Đây được xem là hành động bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nga tại Crưm nói riêng và Ukraine nói chung. Đây không phải là hành động gây sự của Nga như chính quyền mới của Ukraine cáo buộc, mục đích của Nga công khai và đúng luật.”( Cảnh báo Mỹ đến Crum ( Crimea), Nga không đùa). Về chuyện này, trong bài “ Bài học Ukraina…” tg Lê Thiên nhận định về sách lược của họ là “ông tướng Công an lại công khai cổ võ cho hành động xâm lược, coi đó là “hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế”, một kiểu đánh giá phù hợp với đường lối chủ trương cố hữu của CSVN: bán nước với bất cứ giá nào và ngụy biện dưới bất kỳ hình thức nào, vào bất cứ cơ hội nào!”

Thế là rõ trắng đen rồi phải không? Đoàn quân hung tàn mà Nguyễn văn Cương làm “ chiến lược gia” đã úp mở cho biết, họ không có trách nhiệm gì với đồng bào Việt Nam. Trái lại theo lời của Y, chỉ cần trong một ngày nào đó Y sẽ thay chữ Nga bằng chữ Trung Quốc. Tên Crimea thành Việt Nam là hàng hàng binh đoàn từ bên kia biên giới có quyền tràn sang phía nam để bảo vệ cho quyền lợi của ngưòi nước “lạ” đang ở đây đòi tự trị theo kiểu vô pháp vô cương? Nếu cán bộ và công an đã có sẵn một chiến lược phải hỗ trợ cho binh đoàn này tiến về phương nam theo chủ trương của CS đã đề xướng ra từ năm 1951 là ” xin được làm chư hầu cho Trung Quốc “, theo bạn, ai sẽ ra đấy mà cản, Nguyễn phú Trọng, Trương tấn Sang, hay Nguyễn tấn Dũng đây?

Rồi khi kịch bản bàn giao hoàn tất theo công thức từ trước. Bạn đoán xem, có anh hùng hào kiệt nào ở phương tây nhẩy vào “can thiệp” nỗi bất bình của dân chúng Việt Nam hay chăng? Những cuộc biểu tình phản đối của đồng bào hải ngoại có cứu nổi cái nguy này không? Hay, ít lâu sau đâu cũng vào đấy. Ván đã đóng thành thuyền và quyền lợi của phương tây cũng chẳng… mất mát gi nên chẳng một ai nhắc đến tiếng kêu uất hận của người Mông Cổ ở Tân Cương nữa. Trường hợp không có kịch bản như Crimea, Việt Nam từ đây cũng không còn nguyên vẹn truyền thống Việt Nam, nhưng là một Việt Nam bị lệ thuộc, bị ràng buộc vào phương bắc từ chính trị, văn hóa, tiền tệ, quân sự và mọi sinh hoạt xã hội. Việc học sinh từ tiểu học phải học chữ Tàu để mai sau dễ … kiếm việc trên quê hương của mình có lẽ cũng là một chuyện phải đến?

Viết ra những dòng này, bạn có cho tôi là bi quan, cực đoan chống cộng, thích suy diễn và xuyên tạc những đường lối “quang minh” lỗi đạo của đảng và nhà nước CSVN hay không ? Hy vọng là không! Phần tôi, tôi khẳng định là. Tôi không viết trong bi quan hoảng loạn. Tôi chỉ đưa ra những dẫn chứng cho thấy, cộng sản đang từng bước từng bước thực hiện chủ trương “ xin làm chư hầu cho Trung Cộng” và đây có thể là những bước sau cùng trong giai đoạn cuối. Như thế, có chăng đây chỉ là những dòng nước mắt của người Việt Nam trước khi trời tối! Nước mắt không phải vì tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam không còn, nhưng chính vì kịch bản bán nước do tập đoàn CS HCM dàn dựng, thực hiện mà chúng ta không có cơ hội để lên tiếng, chống đỡ! Bởi vì, guồng máy công quyền, mọi phương tiện kể cả quân đội, công an và các thùng phiếu đều ở trong tay chúng. Theo đó, người Việt Nam chỉ còn một chọn lựa duy nhất. Hoặc, xé bỏ cờ một sao của Phúc Kiến do Hồ chí Minh mang về. Hoặc theo chúng tiếp quản và phất cờ 6 sao của phương bắc ngay trên quê hương mỉnh!
MatVit
Posts: 1309
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Chủ trương lớn của đảng - Tai họa khủng cho dân

J.B. Nguyễn Hữu Vinh,
viết từ Hà Nội (Blog RFA)

Thông tin về việc dự án Bôxit Tây Nguyên lỗ hàng ngàn tỷ đồng đến với người dân Việt Nam đã là chuyện hiển nhiên không cần bàn cãi. Người ta đón nhận tin đó không chút nào ngạc nhiên.

Trước đó, nhà nước đã phải dừng công trình Cảng Kê Gà đã đầu tư cả ngàn tỷ, việc phá nát đường sá, đe dọa đời sống người dân, đặc biệt là nếp văn hóa vùng Tây Nguyên.

Thậm chí việc báo chí kêu gào rằng Bôxit lỗ nặng, lỗ hàng ngàn tỷ đồng, lỗ nhiều mặt, lỗ hàng chục triệu đôla mỗi năm... nhưng tận cho đến khi có con số rất cụ thể rằng: “Riêng Tân Rai năm 2013 lỗ hơn 258 tỉ đồng, Nhân Cơ dự kiến năm 2015 sẽ lỗ hơn 671 tỉ đồng...” thì ông Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Trọng Lú vẫn nhơn nhơn phát biểu: “Nói Bôxit lỗ là chưa có cơ sở” - thật “khách quan, biện chứng” và hài hước.

Chủ trương lớn - sai lầm càng lớn

Người ta không ngạc nhiên khi nghe tin Bôxit Tây Nguyên lỗ nặng, bởi lời ông thủ tướng vẫn còn đó: “Bôxit là chủ trương lớn của Ðảng, phản đối vẫn làm”. Và đã là chủ trương lớn của đảng, hẳn nhiên là sai lầm và thất bại.

Biết bao chủ trương của đảng đã thất bại thảm hại. Chủ trương càng lớn, sai lầm càng nặng. Lẽ ra, với một đảng tự xưng là trí “tuệ nhân loại” là “khoa học của mọi khoa học” thì không được để xảy ra sai lầm, hoặc chỉ là hãn hữu. Thử xem lại các chủ trương lớn xưa nay của đảng, được mấy cái thắng lợi và bao cái thất bại? Cứ đụng đâu, sai đó. Ngay từ khi mới cướp được chính quyền ít năm, cuộc cải cách ruộng đất với những sai lầm kinh hoàng để lại biết bao hậu quả cho dân tộc đến bao đời mới sửa được? Sai lầm này được đổ cho là vì Trung Quốc bắt ta nhập khẩu cách mạng của họ.

Ðiều buồn cười cho những giải thích này, là lúc bấy giờ Việt Nam được tuyên bố là một nước độc lập.

Thế rồi chủ trương lớn của đảng, đưa tất cả vào HTX nông nghiệp, cả đất nước, hàng chục triệu người dân biến thành đàn chuột bạch thí nghiệm cho những chủ trương lớn chẳng ai giống ai, để cuối cùng thì muốn trở về điểm xuất phát đã là hết sức khó khăn và nhiều khi là không thể. Liên tiếp các chủ trương khác như mô hình pháo đài cấp huyện, chủ trương cả nước là một chiến trường, chủ trương 16 chữ vàng và 4 tốt... cứ cái sau đạp cái trước.

Gần đây, các chủ trương lớn của đảng liên tiếp được đưa ra, và liên tiếp đất nước hứng chịu hậu quả. Từ “nắm đấm thép” là các tập đoàn mạnh của ty nhà nước, cho đến Vinashin, Vinaline rồi điện lực, khoáng sản...

Về mặt văn hóa, đời sống tinh thần, chủ trương cách mạng văn hóa tư tưởng... đã phá hủy biết bao nhiêu đền đài, chùa chiền, miếu mạo nhà thờ... là những sản phẩm văn hóa ngàn năm của dân tộc để “tiêu diệt tàn dư phong kiến, đế quốc” và “bài trừ mê tín dị đoan.” Ðể rồi nay lại trở lại “phục hồi” mà nhiều cái thành những thứ hổ lốn râu ông sãi cắm cằm bà sư cho đám qua chức cộng sản suốt ngày giẫm đạp xin ấn, hối lộ thần, phật.

Kết quả là sau những chủ trương đấu tố, con đấu cha, vợ tố chồng, con chửi bới vu cáo bố mẹ... thì văn hóa đất Việt nát như tương bần. Những hiện tượng bất luân, bất nghĩa, nghịch tử và phản trắc du qua nhiều mô hình xã hội không xuất hiện, thì lại nhan nhản trong chế độ cộng sản.

Chỉ có điều, thường thì sau những thất bại to lớn dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và sáng suốt của đảng, thì thỉnh thoảng có người nhận trách nhiệm. Sau thất bại bởi những tội ác gây ra với dân tộc trong cải cách ruộng đất, không rõ ông Hồ Chí Minh có nhỏ giọt nước mắt nào không, nhưng động tác ông rút khăn mùi soa châm chấm khóe mắt để thay cho những lời tạ tội với hàng ngàn người mất mạng và hàng vạn người đã chịu hệ lụy bởi một chiến dịch do đảng của ông tiến hành lại được ca ngợi như một hành động anh hùng.

Sau những thất bại thảm hại của chiến dịch “chống tham nhũng” của những chủ trương và đường lối gần đây, có kết quả là tham nhũng từ nguy cơ, thành “quốc nạn” từ cá nhân thành tổ chức, thành “lợi ích nhóm” thì ông Trọng Lú ố tổng bí thư Ðảng Cộng Sản - đã “nghẹn ngào nhận lỗi” sau hội nghị trung ương đảng.

Chúng tôi đã có bài viết “Khi người cộng sản nhận lỗi” để nêu lên hiện tượng này, ở đó nói rõ: “Khi những người cộng sản nhận lỗi, khi đó đất nước và dân tộc đã đi qua một thảm họa và đang ở trong trạng thái kiệt quệ về tinh thần lẫn thể chất. Khi những người cộng sản nhận lỗi là khi cả đất nước phải chuẩn bị gồng mình, nghiến răng đau đớn để khắc phục những sai lầm của họ gây ra. Khi những người cộng sản nhận lỗi, cũng là khi mà đất nước, dân tộc chuẩn bị cho những cuộc phiêu lưu mới và sẵn sàng để chấp nhận những sai lầm mới của họ.”

Nhưng, thất bại này chưa thấy ai “chịu trách nhiệm.” Bởi đơn giản là trách nhiệm nằm chủ trương của đảng và bởi đảng mà ra.

Bất chấp ý nguyện người dân?

Nhiều chứng cứ cụ thể, sờ sờ ra đó, nhiều bài báo, luận cứ khoa học vạch rõ tương lai của Bôxit ngay từ khi nó mới hình thành, mới manh nha. Rồi bằng những kiến nghị của hàng ngàn nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa học... thậm chí cả tiếng kêu của ông Võ Nguyên Giáp, một “công thần chế độ” - người có hàng vạn fan hâm mộ sau khi chết - đòi ngưng ngay dự án Bôxit Tây Nguyên vì không chỉ thiệt hại về kinh tế mà còn là vận mệnh quốc gia, là an nguy của xã tắc...

Ðể bỏ ngoài tai tất cả mọi lời khuyên ngăn, kiến nghị và những tiếng nói tâm huyết với tiền đồ đất nước, của những nhà khoa học, quản lý và mọi tầng lớp nhân dân, người đứng đầu chính phủ chỉ cần buông một câu “Bôxit là chủ trương lớn của đảng.”

Thế là, tất cả đều như tiếng kêu thất thanh trước cái gọi là “chủ trương lớn của đảng” hết sức quái gở kia.

Ngay cả cái gọi là Quốc Hội, một cơ quan được miêu tả là của dân, thể hiện ý nguyện của dân và quyết định các vấn đề của dân cũng bó tay trước chủ trương này và cứ răm rắp cúi đầu vâng lệnh. Thậm chí, ngay khi Quốc Hội còn chưa họp, người ta đã biết tỏng vụ cá độ là “Quốc Hội sẽ ủng hộ Bôxit” - Xem lại “đã có bán độ trước diễn đàn Quốc Hội.”

Câu trả lời này vừa thể hiện sự trịch thượng, hỗn láo trước những ý kiến của người dân, vừa thể hiện bản chất của cộng sản bất chấp tất cả sự thật, ý kiến và những quyền của người dân trong khi thực hiện những việc hại nước hại dân.

Thử hỏi, trên thế giới này, việc lỗ lãi do buôn bán, làm ăn, cá cược, thương mại là chuyện bình thường.

Nhưng, đào cả gia sản đi để bán, ăn luôn cả phần con cháu vẫn lỗ mà vẫn cắm đầu cắm cổ làm bằng được, bất chấp mọi lời khuyên can thì đó là bệnh khùng hay hành vi của những kẻ tâm thần?

Thấy gì qua vụ Bôxit?

Qua những hậu quả nhãn tiền của “chủ trương lớn của đảng” nhân vụ Bôxit, điều người ta rút ra, cảm nhận không chỉ là vấn đề kinh tế, lỗ, lãi hay là sự phá hoại nền kinh tế, phá hoại non sông, đất nước và tài nguyên của tổ quốc, mà qua đó, người ta rút ra nhiều vấn đề khác nhau.

Trước hết, đó là chủ trương của đảng, đi ngược ý nguyện của người dân gây bao thảm họa nhưng không ai chịu trách nhiệm. Ðiều này lặp đi lặp lại hết thời kỳ này qua thời kỳ khác và tất cả là ở “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và sáng suốt” của đảng. Vậy đảng đang là tổ chức nào, họ làm gì cho đất nước và chịu trách nhiệm gì với đất nước này? Liệu cái câu trong cái gọi là Hiến pháp rằng “đảng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật” có ý nghĩa gì trong thực tế?

Tiếp theo, đó là những tội ác gây ra ngay sau khi chủ trương lớn được phát ra. Những tiếng nói trung kiên, thẳng thắn và đầy trách nhiệm, đầy tinh thần yêu nước qua việc ngăn cản dự án đáng xấu hổ này đã phải vào tù oan ức và trái pháp luật. Những Cù Huy Hà Vũ, Ðinh Ðăng Ðịnh... là những nhân chứng về tội ác đối với nhân dân của “chủ trương lớn” này. Ai chịu trách nhiệm trước những đau khổ mà họ đã và phải chịu đựng khi rõ ràng tiếng nói của họ đã được chứng minh là đúng đắn qua thực tế?

Quốc Hội, cơ quan quyền lực cao nhất, tại sao không phản đối được những chủ trương hại nước, hại dân lại hùa theo và vâng lệnh vô điều kiện khi đã có nhiều người can ngăn việc khai thác Bôxit? Cơ quan này có tác dụng gì cho nhân dân ngoài việc tiêu tiền dân không biết xót?

Hệ thống báo chí cộng sản cũng “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và sáng suốt” này đã có tác dụng gì cho nhân dân. Hay chỉ nhằm để phục vụ “chủ trương” của đảng mà bất chấp lợi ích của quốc gia, của dân tộc và nhân dân? Hó có trách nhiệm gì trước những thất bại này? Nên xét xử họ như thế nào?

Các cơ quan lập dự án, xét duyệt đề nghị, ủng hộ và bảo kê cho dự án này, họ có trách nhiệm gì khi càng khai thác tài nguyên để bán thì càng lỗ?

Chừng đó câu hỏi cần được trả lời. Những điều rút ra qua vụ Bôxit để trả lời câu hỏi đó, đã thể hiện bản chất của những chủ trương lớn và cái đảng đã đẻ ra những chủ trương lớn kia đang phục vụ ai? Khi mà các chủ trương lớn của đảng là tai họa khủng khiếp cho nhân dân mà không ai phải chịu trách nhiệm?

Và câu trả lời vắn tắt nhất, gọn gàng nhất là hãy trả quyền tự quyết về cho nhân dân.
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Những cái nón cối đi qua đời tôi
Nguyễn Bá Chổi
(danlambao) - Nhiều thứ nón đã đi qua đời tôi, như Phớt, Trai, Nồi, Rừng, Trận, Nhựa, Sắt, Lá... nhưng Cối để lại trên đầu tôi nhiều dấu ấn nhất. "Hiện tượng" nhiều dấu ấn nhất về nón Cối, phải chăng cũng chỉ là lẽ tự nhiên, như nỗi lòng thiếu phụ nhớ lại mối tình đầu thuở trước, vì Cối là “người” đầu tiên đi qua đời tôi, hay vì đó là cái duyên nợ đã vận vào thân.

Ngày ấy, sau Chiến Thắng Điện Biên Phủ một thời gian không lâu, quê tôi, làng Yên Phú bên bờ Sông La, lần đầu tiên đón tiếp các chú Bộ đội Cụ Hồ về đóng quân tại nhà dân. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được thấy tận mắt cái nón cối.

“Chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về, giữa mùa hoa nở”. Nghe các chú ấy hát, tôi hình dung những cái nón cối nhấp nhô trên đường phố Hà Nội giữa tiếng reo hò của đồng bào Thủ Đô, thấy oai phong lẫm liệt hùng tráng làm sao; bây giờ hồi tưởng laị cảm xúc lúc ấy, tôi chỉ biết mượn mấy chữ của nhà văn Hoàng Hải Thủy để diễn tả ra đây nỗi lòng mình: “cảm khái cách gì”.

Các chú bộ đội phân tán từng nhóm ba người, ở hẳn trong hầu hết nhà dân; nhà tôi không “được” vinh dự ấy, nhưng bù lại, nhà bác tôi bên cạnh là nơi tôi được gặp các chú hằng ngày.

Năm ấy tôi là đứa bé lên mười, nhưng có lẽ “nhờ” sớm thấm đòn máy bay Pháp thường xuyên đánh phá: phải đến trường giữa đêm khuya ; ban ngày thì luôn trong tư thế chạy xuống hầm do anh em tôi đào dưới những gốc cây cổ thụ chung quanh vườn để tránh bom đạn; phải trải qua bao kinh hoàng khi nghe tiếng khu trục cơ gầm rú, tiếng bom nổ và những đám cháy ở làng trên xóm dưới và bên kia sông; lâu lâu phải chứng kiến xác người chết do máy bay trương sình đang lềnh bềnh trôi hoặc tấp vào bờ trông thấy mà rờn rợn..., nên chi sớm “giác ngộ” công ơn các chú bộ đội đã hy sinh xương máu, chiến đấu gian lao để xứ sở được hòa bình, mọi người trở lại sinh hoạt bình thường với đầy đủ quyền làm người như lời Bác Hồ mượn của ai ghi lại trong Tuyên Ngôn Độc Lập của nước ta.

Ngoài cái công ơn ấy, cách ăn ở của các chú bộ đội khiến bọn con nít có đứa nào lại không thích. Chú này làm cho con diều dấy; chú kia đẽo cho cái vụ gỗ; chiều chiều được các chú dắt ra tắm ngoài sông, đứa thì được tập bơi, đứa được các chú cho đứng trên vai nhảy cái ùm xuống nước. "Yêu ai yêu cả tông chi họ hàng", tôi yêu chú bộ đội, nên yêu luôn cái nón Cối.

“Tình yêu nón cối” của tôi đã không qua mắt mẹ tôì dù bà luôn đi sớm về tối với đôi quang gánh trên vai lo việc buôn bán nơi chợ bên kia song. Bà đã dắt hai anh em tôi đi chợ Huyện sắm cho mỗi đứa một cái nón Cối và một đôi dép Lốp (sau này được biết còn gọi là dép Bình Trị Thiên hay dép Râu). Cái món thời trang quý hiếm này, hai anh em tôi may mắn có sớm nhất trong làng khiến những đứa khác trầm trồ càng làm tôi hãnh diện, rồi từ đó hay có cớ này cớ kia để xỏ dép râu, chụp nón cối đi xenh xang ngoài đường.

Nhưng rồi ngày vui qua mau. Làng bỗng xuất hiện một tốp người lạ cũng đội nón Cối mang dép râu, quần áo màu nâu, vai mang cái xắc cốt dây dài thượt... Rồi bổng dưng không lâu sau đó dân làng người nhìn nhau xa lạ, kẻ nói nhau xầm xì, và những cuộc đấu tố... Bữa ăn cơm phải đóng kín cửa và nghe mẹ dặn "nay con phải gọi cá bằng cà, thịt bằng dưa. Nhớ nha con, không thì chết cả nhà".

Đóng kín cửa lúc ăn cơm, ngụy trang tiếng gọi cho miếng thịt, gắp cá vẫn chưa đủ để khỏi chết cả nhà, nên thầy mẹ tôi đã giắt con cái trốn khỏi làng Yên Phú ra đi giữa đêm khuya. Trời sáng trăng, tôi nhìn sang nhà người bác lo sợ các chú bộ đội thức giấc bắt gặp, trước khi lên được thuyền bà Ph. Đang chờ ngoài bãi.

Tôi như con chim phải rời tổ bay đi, và đã tìm được chốn đất lành. Nhưng chẳng được bao lâu lại gặp “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Những cái nón cối lại nhấp nhô trên đường mòn HCM. Tôi, cậu bé ngày nào mân mê cái nón cối giờ đã khôn lớn, ra trận đối đầu với đoàn quân “GPMN”, đầu óc lẫn vẩn với ý nghĩ biết đâu trong đó lại chẳng có chú bộ đội giải phóng Điện Biên một thời tôi quấn quýt.

Đội cái nón sắt made in USA trên đầu để tránh đạn AK, B,40, 41, đại pháo và hỏa tiển sản xuất từ Tiệp Khắc, Hung gia Lợi, Liên Xô... từ tay người anh em với cái nón Cối chế tạo tại Trung Quốc chụp trên đầu, đã nhiều lần tôi thèm được trở lại cậu bé năm xưa tránh bom đạn giặc Pháp bằng cách chạy xuống hầm dưới gốc cây...

Quy luật của chiến tranh là chỉ có chiến thắng trong thế công. Trong cuộc “hai mươi năm nội chiến từng ngày” trong kho tàng “Gia tài của Mẹ” vừa qua, Nón Sắt luôn ở thế thủ, nên đã thua nón Cối. Trong nhiều năm làm “Tù Binh Ngụy”, rồi đổi tên thành “Phạm Nhân”, rồi “Trại Viên”, đã bao lần tôi nhận “được” từ dưới cái nón Cối những ánh mắt gầm gừ vì đủ thứ “tội”, chẳng hạn có lần cùng hai bạn tù (Đ/Úy CVN và Đ/Úy BN) sau một ngày xách nước dưới suối lên tưới rau mệt lả, đói quá, gặp cơn mưa dông kéo đến, “cướp thời cơ”, “cải thiện linh tinh” mấy cọng rau rừng chưa kịp nuốt khỏi cổ họng thì quản giáo đội mưa đến rình bắp gặp quả tang … nay đã gần bốn chục năm rôì mà y như còn đứng đó trước mặt với đôi mắt loài ác thú hàm răng mã tấu nghiến lại như phát thành tiếng, nhưng tôi vẫn không chút ân hận trước kia mình đối xử tử tế với cán binh nón Cối từ Bắc vào bị bắt làm tù binh, mặc dầu trong trận đánh họ đã gây cho chúng tôi nhiều tổn thất sinh mạng.

Nón Cối đã đi qua đời tôi nhiều vô kể xiết. Nhưng nay giặc Tàu bên cạnh nguy hiểm hơn giặc Tây giặc Mỹ nhiều, các chú biến đi đâu cả. Chỉ thấy mấy chú đầu tóc chải láng bóng kéo nhau đi phủ phục phương bắc và hứa hẹn “hướng dẫn dư luận nhân dân Việt Nam để ổn định; và trong nước thì nón Cối của “chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về giữa mùa hoa nở” bị dấu nhẹm tông tích, thay bằng Băng Đỏ Dân Phòng, hay gậy gộc côn đồ để “giữ gìn hoà bình cho thủ đô”, cho anh Ba nhi nhô “bốn tốt” với “16 chữ vàng”. Hay chính các chú cũng đã bị rút ruột như ruột tượng đài chiến sĩ Điện Biên. Ruột Việt Nam?

Nguyễn Bá Chổi
(danlambao)
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Vụ Bắc Sơn: Chế độ lung lay từ nền tảng

Ngô Nhân Dụng


Trong cuộc tranh đấu của người dân xã Bắc Sơn đang diễn ra, chúng ta thấy một hiện tượng mới: Các cán bộ cấp xã đã công khai bày tỏ nỗi bất mãn đối với “lệnh trên.” Họ phân trần rằng họ cũng chỉ là nạn nhân bị đặt vào cảnh trên đe dưới búa. Cái búa ở trên là đảng cộng sản liên kết với giới tư bản đỏ bày ra các “công trình” mà mục đích xưa nay vẫn là cướp ruộng đất của dân để rút ruột. Bên dưới là các nông dân cần bảo vệ đất nên chống lại cường quyền. Khi các cán bộ cấp dưới công khai tỏ ra bất mãn, tòa nhà chế độ bắt đầu rạn nứt từ nền móng.

Trước đây, trong các vụ dân biểu tình bảo vệ ruộng đất, báo chí không chú ý tới các cán bộ cấp xã, vì người ngoài mặc nhiên coi họ cũng là thủ phạm hoặc đồng lõa trong các âm mưu cướp ruộng, cướp đất. Nhưng trong vụ xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, viên xã trưởng đã nói chính mình, và có thể từ cấp huyện, bị áp lực từ trên xuống phải xúc tiến dự án làm công viên và nghĩa trang, dù họ không đồng tình. Lời bộc lộ này, xưa nay chưa ai từng nói ra trong các vụ xung đột giữa nông dân và đảng cộng sản, cho thấy một biến chuyển tâm lý đe dọa sự tồn tại của cả chế độ.

Các chế độ chuyên chế đều dựa vào một đạo quân thừa hành. Ở cấp thấp nhất là các tay chân kiểm soát từng xã, từng thôn, và các sĩ quan chỉ huy từng trung đội, đại đội công an. Khi nào chính lớp cán bộ đó ngả nghiêng, chao đảo, thì cái thang chống đỡ chế độ độc tài đang sập gẫy từ những bậc thang dưới cùng.

Tất cả những tin tức chúng ta đang biết về cuộc tranh đấu của đồng bào xã Bắc Sơn từ hơn mười ngày qua đều do các báo, mạng của đảng cộng sản phổ biến. Theo dõi các tin tức được truyền đi theo lối nhỏ giọt dưới sự chỉ huy của công an văn hóa tư tưởng, chúng ta thấy những người làm báo cũng khéo léo trình bày cho độc giả những uẩn khúc đằng sau cuộc đàn áp, để dần dần thấy được cảnh tan hàng đang diễn ra.

Nguyên ủy gây ra cuộc đấu tranh của người dân xã Bắc Sơn là một dự án xây dựng “công viên nghĩa trang” mang tên Vĩnh Hằng-Bắc Sơn, rộng trên 38ha, trị giá 386 tỉ đồng, tương đương 19.3 triệu đô la. Chính quyền đã ra lệnh “thu hồi” khoảng 30 mẫu (ha) đất trong đó có 8 mẫu là đất trồng trọt của 21 gia đình cư dân xã này để thực hiện dự án. Thu hồi, nghĩa là “lấy lại,” một hành động bề ngoài có vẻ là “hợp pháp.” Vì trong chế độ cộng sản hiện nay tất cả đất đai trên toàn quốc do đảng cộng sản kiểm soát dưới danh nghĩa “thuộc về toàn dân,” tất cả các nông dân đều chỉ được ban cho “quyền sử dụng” chứ không có quyền sở hữu, cho nên đất có thể bị nhà nước “thu hồi” lại bất cứ lúc nào. Nông dân oan ức vì ruộng đất bị cướp mất chỉ có cách duy nhất là biểu tình phản đối. Hàng ngàn vụ công an đàn áp “dân oan” đã diễn ra ở nước ta từ Nam ra Bắc, vụ xã Bắc Sơn, với hơn 3000 người dân chỉ là một biến cố gần nhất.

Tin tức sớm nhất do VietNamNet đưa ra, dẫn lời phó giám đốc Công an tỉnh Hà Tĩnh, cho biết ngày 10 Tháng Tư, sáu viên công an được cử đến thi hành “lệnh bắt đối với một đối tượng tên Trường, trú trên địa bàn xóm Trung Sơn, xã Bắc Sơn về tội gây rối trật tự công cộng.” Bản tin nghe như một vụ đàn áp bình thường, với một “đối tượng” duy nhất. Cách sử dụng từ “đối tượng” là văn chương của công an, với ẩn ý hạ thấp giá trị của người bị đàn áp, không coi đó là một con người mà chỉ là một“đối tượng!” Báo chí ở trong nước thường họa theo lối gọi tên “phi nhân hóa” này, có thể vì lười biếng không muốn tìm một từ khác, hoặc vì sử dụng những từ ngữ trong báo cáo của công an thì sẽ tránh được tai họa. Ðọc bản tin đầu tiên đó, người ta không biết “đối tượng tên Trường” này là ai.

VietNamNet sau đó loan tin một số dân tụ tập phản đối lệnh thu hồi đất, bị buộc tội “gây rối trật tự công cộng,” bị công an đến tận nhà đòi bắt giữ; lúc đó người đọc mới biết không phải chỉ một “tên Trường gây rối” mà còn những nông dân khác, và biết dân chúng đã đánh và bắt giữ bốn công an. Trong lúc người đọc còn đặt câu hỏi “Tại sao dân dám đánh công an?” thì tờ báo mạng cho biết thêm có hơn 100 công an và cảnh sát cơ động đã “được huy động để giải vây cho một tổ công tác bị người dân 'vây đánh' tại xã Bắc Sơn.” Chi tiết được nêu ra là: “Nông dân đã dùng gậy gộc, gạch đá tấn công làm bốn người bị thương; mất một tiếng rưỡi đồng hồ sau, bốn cán bộ công an mới được giải cứu khỏi vòng vây, đưa vào bệnh viện.” Bị đẩy lùi trước sức mạnh của lực lượng công an vũ trang, dân chịu thua; nhưng ngay sau đó, họ chia thành nhiều nhóm kéo đến ném đá vào nhà ông chủ tịch xã Trần Bá Hoành, và đốt phá nhà trưởng công an xã Nguyễn Khắc Sơn.

Cho tới lúc đó, người đọc vẫn chưa biết nguyên ủy tại sao dân dám liều mình đánh công an. Cho tới khi báo mạng Một Thế Giới nói rõ hơn, khi thuật lại lời của ông Trần Bá Hoành. Ông Hoành cho biết, “Cách đây một tháng, có bốn trưởng thôn và hai bí thư chi bộ thôn đã xin nghỉ việc; mà từ đó đến nay, chưa có ai thay thế. Những cán bộ trên thuộc bốn thôn chịu ảnh hưởng trực tiếp của dự án làm công viên nghĩa trang, là Ðồng Vĩnh, Trung Sơn, Kim Sơn, Xuân Sơn.” Ông Trương Văn Trường, là trưởng thôn Trung Sơn đã xin nghỉ nên bị công an tới bắt, gây ra cảnh dân đánh lại công an. Hậu quả của cuộc xung đột là hai cán bộ đứng đầu xã từ chức, trụ sở xã đóng cửa vì hầu hết các cán bộ lãnh đạo xã không dám ra đường.

Chủ tịch xã Trần Bá Hoành nói rằng, chính ông ta và chủ tịch huyện đều không biết tỉnh Hà Tĩnh quyết định chọn Bắc Sơn lấy đất làm dự án xây nghĩa địa. Riêng trong vụ này, ông và chủ tịch huyện đều không đồng tình thực hiện dự án vì khi hỏi ý kiến chỉ có 17% dân chúng đồng ý. Tuy nhiên, vì là cấp dưới, ông Hoành tâm sự, nên chỉ biết tuân thủ lệnh của cấp trên. Ông Trần Bá Hoành tự giới thiệu mình đã làm chủ tịch xã suốt 13 năm qua mà không bị dân ghét. Nay chỉ vì một dự án, mà chính ông không đồng ý, ông biến thành đối nghịch với dân. Ông Hoành còn nói thêm rằng xung đột giữa dân và chính quyền bùng nổ từ cuộc họp tại trụ sở xã hôm vào tháng 11 năm 2013. Trong cuộc họp này, nhiều người giật máy ảnh của công an huyện; đấm đá bí thư đảng ủy và trưởng ban dân vận của huyện.

Những tiết lộ của ông Trần Bá Hoành cho chúng ta thấy vết rạn nứt trong hàng ngũ những cán bộ cấp thấp nhất trong guồng máy cầm quyền thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Người dân đã biết cả bộ máy đảng chỉ là một tổ chức phân chia quyền hành để kiếm. Các dự án, công trình được bầy ra để các quan chức rút ruột cùng các nhà tư bản đỏ khai thác làm giầu. Cán bộ xã, thôn làm theo lệnh của giới lãnh đạo, từ trung ương đến địa phương, chính họ cũng được chia phần. Khi người dân bị cướp đất biểu tình phản đối, thì đã có công an vũ trang đến “đánh dẹp.” Ðó là cảnh đã diễn ra từ hàng chục năm qua.

Tại xã Bắc Sơn, tình trạng đã thay đổi. Người dân Hà Tĩnh không “hiền lành” cúi đầu chịu nhục và mất cơ nghiệp, đã tấn công thẳng vào các cán bộ cấp xã. Nhà của chủ tịch, bí thư đảng ủy và trưởng công an xã bị đập phá, đốt cháy; hàng chục cán bộ khác đưa gia đình đi lánh mặt và gửi các vật dụng quý giá như xe cộ đến nơi khác để khỏi bị đốt phá.

Nhưng chính trong hàng ngũ các cán bộ thấp nhất cũng có người phản đối âm mưu cướp ruộng đất của dân. Ông trưởng thôn Trung Sơn Trương Văn Trường là một người can đảm bày tỏ thái độ bằng cách từ chức; vì vậy khi công an đến bắt thì dân bênh ông ta. Trong bốn trưởng thôn từ chức, mình ông Trường bị bắt, theo chiến thuật quen thuộc của cộng sản là chia tách các đối thủ để đánh lẻ. Có thể ông Trường bị chọn làm mục tiêu vì ông tỏ thái độ mạnh nhất, hoặc vì ông được lòng dân nhất. Khi các cán bộ khác bị dân tấn công, lúc đó mới có người, như ông Trần Bá Hoành, tỉnh ngộ thấy mình đang sống trong cảnh trên đe dưới búa. Họ phải lựa chọn: Ðứng về phía người dân bị bóc lột và bị đàn áp, hay đứng về phía đảng Cộng sản? Khi ông Trần Bá Hoành “lật tẩy” phân trần rằng mình và chủ tịch huyện không đồng ý với dự án làm công viên, ông muốn ngỏ ý đứng về phía người dân. Người Việt Nam nào cũng biết câu “Quan nhất thời, dân vạn đại.” Sau cùng, các cán bộ thôn xã sẽ phải thức tỉnh, nhận ra rằng chính họ và gia đình, con cháu họ sẽ phải sống bên cạnh người trong thôn xã, chứ không thể được guồng máy bạo lực che chở mãi mãi.

Dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh vốn nổi tiếng đấu tranh. Nông dân nổi giận chống chính quyền khi bị cướp đất, cướp cơm. Nhưng người ta cũng nổi dậy khi thấy mình bị sỉ nhục, nhất là bị nhục nhã trước ngoại bang. Ở phía Nam xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà, ở huyện Kỳ Anh người dân cũng đang phẫn uất trước cảnh người Trung Quốc tràn ngập trong khu kinh tế Vũng Áng. Trong khu kinh tế này có hơn 3,200 công nhân làm việc, trong đó có đến 2,000 người là “lao động chui” người Trung Quốc đang làm cho dự án Formosa của tư bản Ðài Loan. Theo báo chí trong nước, người Trung Quốc không chỉ đánh lộn, ăn cắp, mà còn ăn nhậu bừa bãi tại các khách sạn, nhà hàng, các quán karaoke mọc như nấm dọc quốc lộ 1A. Một khu giải trí mang tên “Hồng Thiên Hy” hình như chỉ dành riêng cho người Trung Quốc, tất cả các quán nhậu, nhà hàng đều có “tiếp viên” sẵn sàng phục vụ người Trung Quốc “trọn gói từ A đến Z.” Gần đây kế toán viên dự án Formosa bị đâm trọng thương ngay tại khu nội trú của người Trung Quốc.

Vụ Bắc Sơn là một tiếng chuông đánh thức tất cả nông dân trên cả nước. Khi người dân tự giành lấy quyền quyết định vận mạng của mình, thì chính các cán bộ cấp thôn, cấp xã cũng phải theo họ. Ðảng Cộng sản đang giống như một một tòa nhà sắp tan rã vì nền móng đang rạn nứt. Gần đây, ngay trong việc đàn áp dân và phá phách các cuộc biểu tình yêu nước ở Hà Nội và Sài Gòn, đảng Cộng sản đã phải thuê toàn bọn đầu gấu đến thay thế hoặc phụ lực cho công an, chứng tỏ họ không dám tin tưởng hoàn toàn vào các sĩ quan chỉ huy công an nữa. Nay tới các cán bộ thừa hành cấp xã, thôn cũng nao núng. Ðây là lúc các nhà tranh đấu dân chủ tự do ở nước ta bắt đầu nhập cuộc tranh đấu cùng giới nông dân. Ðảng Cộng sản đang bị bắt buộc trả tự do cho nhiều nhà tranh đấu, để mong được gia nhập tổ chức mậu dịch Thái Bình Dương (TTP) ngõ hầu cứu vãn nền kinh tế suy sụp. Luật Sư Nguyễn Văn Ðài nhìn thấy một “không gian chính trị an toàn hơn đã được tạo ra,” một cơ hội để giới tranh đấu dân chủ tiến tới.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Sau cộng sản, sẽ có tự do dân chủ?

Từ Thức (Bauxit VN)

Muốn xây dựng lại một đất nước đổ vỡ, phải chấm dứt chế độ cộng sản. Sự tồn tại của một chế độ kỳ quái như vậy là một hiện tượng bất bình thường trong một quốc gia bất bình thường trong thế kỷ 21. Nhưng khi chế độ kỳ quái đó sụp đổ, có chắc chắn sẽ có tự do dân chủ? Theo nhà văn Nga Svetlana Alexievitch, dân chủ, tự do đã không thực hiện ở Nga sau khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ những năm 1990, vì “chúng tôi, giới trí thức tiến bộ, đã có một thái độ lãng mạn”, trong khi xây dựng dân chủ là một tiến trình lâu dài, phải chuẩn bị. Muốn có dân chủ, phải có tổ chức dân chủ, có người dân chủ (démocrates), văn hóa dân chủ.
Svetlana Alexievitch, tác giả chiếm giải Médicis-Essai 2013, trong một cuộc phỏng vấn dành cho tập sanPhilosophie, số Đặc biệt (1), nói “chúng tôi tưởng tự do nằm sau cửa sổ, muốn có, chỉ việc dẹp chế độ cộng sản. Khi chúng tôi ngồi thảo luận với nhau trong phòng ăn, chúng tôi nhìn sự việc như vậy. Những người cộng sản đã ra đi dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên, không hề chống cự. Chỉ sau này, chúng tôi mới hiểu họ chỉ cần hoạt động ngầm cũng đủ để trở lại nắm quyền.”

Bà Alexievitch, một nhà văn có cái nhìn sắc bén, là tác giả của nhiều cuốn sách về xã hội hậu cộng sản ở Nga (2) mà những người tranh đấu cho dân chủ ở Việt Nam nên đọc, để tránh khỏi cái bi kịch dã tràng, bao nhiêu hy sinh, tù đày mà cuối cùng dân chủ vẫn chỉ là một ảo tưởng.

“Chúng tôi đã có ảo tưởng về một dân tộc chống Cộng, khao khát tự do, dân chủ. Điều đó chỉ có trong đầu chúng tôi (giới trí thức). Khi tự do rơi xuống đầu dân tộc đó những năm 1990, họ không đổ xô tìm đọc Soljenitsyne hay tìm hiểu sự thực về goulag như chúng tôi tưởng tượng. Họ muốn, trước hết, sống và tiêu thụ. Một số người, mà chúng tôi không nghĩ tới, đã lợi dụng, bám vào trào lưu này để leo lên cầm quyền, như Loukachenko ở Biélorussie năm 1994 hay Poutine ở Nga năm 2000. Tóm lại, chúng tôi đã hoàn toàn không chuẩn bị cho đời sống thực tế. Bởi vì dân chúng không muốn kinh tế tự do (libéralisme). Hãng xưởng đóng cửa, tình trạng thất nghiệp khiến chúng tôi, những người trí thức tự do, đã rất sớm trở thành thiểu số. Hơn nữa, chúng tôi không có chương trình hành động gì cụ thể, ngoài chuyện đẩy cộng sản ra khỏi chính quyền. Chúng tôi nghĩ chỉ việc dẹp cộng sản là một bảo đảm cho tự do. Chúng tôi không có một kinh nghiệm gì trong việc xây dựng một xã hội bình thường; chúng tôi chỉ có kinh nghiệm bạo lực.”

Svetlana Alexievitch giải thích tại sao ngày nay vẫn còn những người Nga tưởng nhớ chế độ cộng sản: Khi một nhóm chính trị và kinh tài cướp đoạt, vơ vét hết tài nguyên của đất nước, dân chúng trở thành tay trắng, không nghề nghiệp, không tương lai, họ mơ tưởng trở lại chế độ bao cấp của cộng sản. Nhất là từ những năm 1990, người ta không còn bị gởi đi Goulag, không còn những vụ đàn áp đẫm máu, và đa số dân Nga sống trong xã hội tương đối bình đẳng – tất cả đều nghèo như nhau, lối sống đó thích hợp với nhiều người Nga.

Theo Alievitch, vài năm sau khi chế độ cộng sản bị lật đổ, người cộng sản có thể trở lại cầm quyền nếu họ muốn. Trong cuộc bầu cử 1996, bà tin rằng đã có thỏa hiệp giữa Eltsine với những người cộng sản. Cộng sản có thể thắng cử nếu họ muốn, vì họ vẫn chiếm đa số cử tri. Nhưng họ không muốn công khai nắm chính quyền một lần nữa, họ lựa chọn đứng đằng sau để giật dây và trên thực tế vẫn nắm vận mệnh nước Nga. Đó là một chế độ cộng sản “giả dạng thường dân” communisme de seconde main, đề tài của cuốn sách La fin de l’homme rouge(3) của Alievitch. Người cộng sản không mặc áo đỏ nữa, nhưng vẫn nắm quyền.

Thực trạng nước Nga cho thấy những quan sát của Svetlana Alievitch không sai sự thực. Quyền lực nằm trong tay Poutine, một cựu trùm KGB. Tất cả sinh hoạt chính trị, kinh tế đều nằm trong tay những tay cựu KGB đồng lõa với Poutine. Dân chủ Nga chỉ là dân chủ giả hiệu. Tham nhũng cao độ, bất công xã hội cùng cực, kinh tế thị trường man rợ. Những người lợi dụng được chế độ lao đầu vào phong trào tiêu thụ, những người bị gạt ra ngoài xã hội ngồi hối tiếc một xã hội cộng sản trong đó không có thất nghiệp và những nhu cầu tối thiểu được nhà nước bao cấp. Trong bối cảnh đó, xây dựng một xã hội dân chủ, tự do là một ảo tưởng, một tiếng kêu giữa sa mạc.

Đó là hiện tượng chung ở những nước hậu cộng sản nghèo, dân trí thấp, như những quốc gia trước đây thuộc Liên bang Xô Viết. Hiện tượng đó không có ở Đức hay Ba Lan.

Hiện tượng đó không xảy ra ở Đức bởi vì Đông Đức được Tây Đức gồng mình xây dựng lại theo mô hình Tây Đức, một quốc gia tiến bộ và thịnh vượng nhất Âu Châu. Nhất là một văn hóa dân chủ cao, cao hơn nhiều nước Âu Châu khác, bởi vì họ còn ám ảnh bởi những kỷ niệm đen tối, ghê rợn của những năm độc tài phát xít, ý thức rằng dân chủ là con đường sống duy nhất. Dân tộc Đức đã đạt một thành quả vĩ đại: đưa một nửa quốc gia từ xã hội độc tài, nghèo đói tới một xã hội dân chủ đích thực.

Hiện tượng đó không xảy ra ở Ba Lan bởi vì Ba Lan, với trợ cấp khổng lồ của Cộng Đồng Âu Châu, đã xây dựng một nền kinh tế lành mạnh và có khả năng phát triển. Adam Michnik, một trí thức đấu tranh cho dân chủ Ba Lan: “nếu bạn ghé thăm Ba Lan, sẽ thấy ít có chuyện hồi tưởng chế độ cộng sản. Không có ai muốn quay lại với quá khứ” (1).

Chính mô hình Ba Lan hậu cộng sản đã khiến những người tranh đấu ở Ukraine nổi loạn.

Những gì xảy ra ở Nga có thể lặp lại ở Việt Nam. Chế độ cộng sản đổ nhưng vẫn không có dân chủ và người cộng sản vẫn nắm quyền, mặc dầu không mặc áo đỏ nữa. Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của xã hội Nga: một giai cấp trí thức lãng mạn (cộng thêm cái thói chia rẽ khủng khiếp, bệnh hoạn độc quyền của dân tộc ta), không chuẩn bị, không tổ chức, một văn hóa dân chủ mơ hồ trong quần chúng, một hàng ngũ cộng sản có tổ chức, dư tiền bạc để lũng đoạn các sinh hoạt chính trị.

Dân chủ là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi những điều kiện khách quan. Một trong những nguyên tắc căn bản: muốn có dân chủ (démocratie), phải có người dân chủ (démocrates). Hàng ngũ những người dân chủ phải đông đảo để bảo vệ khi dân chủ đang thành hình, để những người tranh đấu cho dân chủ không bị cô đơn, những lực lượng phản dân chủ không thể lộng hành.

Muốn có một hàng ngũ những người dân chủ, phải có một giai cấp trung lưu. Bởi vì giai cấp thượng lưu thường thường đồng loã với chính quyền để bảo vệ quyền lợi. Giai cấp bình dân chỉ nghĩ đến nhu cầu thực tiễn trước mắt là lo ăn, kiếm sống. Giai cấp trung lưu có ý thức, có nhu cầu tự do dân chủ, là rường cột cho bất cứ một xã hội dân chủ nào. Huấn luyện, đào tạo một văn hoá dân chủ trong giai cấp trung lưu là chuyện cần thiết, lâu dài và cấp bách. Vừa lâu dài vừa cấp bách. Cấp bách vì nước đã đến chân, nếu không muốn nói đã tới cổ. Lâu dài vì nếu La Mã không được xây trong một ngày, xây dựng văn hóa dân chủ còn nhiều đường đất hơn nữa. Một thí dụ: những người cổ võ cho dân chủ không thể chỉ thoả mãn với những lời hô hào suông, những khẩu hiệu rỗng tuếch đã nhắc đi nhắc lại ngàn lần. Phải có những bài, những sách mổ xẻ cụ thể dân chủ là gì, cần những điều kiện khách quan nào, phải tránh những cạm bẫy nào, tại sao không thể xây dựng lại đất nước nếu không có dân chủ…

Đó là chỉ là một thí dụ nhỏ trên mặt lý thuyết, chưa nói đến vấn đề tổ chức vốn là điểm yếu của người Việt. Nhưng lý thuyết không phải là chuyện vô bổ. Trái lại, đó là nền tảng cho việc xây dựng sau này. Làm thế nào để biến hàng ngũ trung lưu càng ngày càng đông đảo trở thành nền móng của một xã hội dân chủ sơ khai, trước khi họ trở thành những cái máy tiêu thụ.

Những nhận xét rất thực tế của những người trong cuộc như Svetlana Alexievitch khiến người Việt phải suy nghĩ. Nếu không muốn đi vào bánh xe đổ. Cộng sản đổ, chưa chắc đã có ngay dân chủ nếu không chuẩn bi, không có tổ chức, không có ý thức chính trị đứng đắn. Con đường sẽ còn nhiều chông gai.

Đó là một cái nhìn thực tiễn, không phải một cái nhìn bi quan. Dân chủ không ở trên trời rơi xuống, nhưng mặc dù dân chủ chưa thành hình, mặc dù những người cựu cộng sản sẽ còn lộng hành, điều chắc chắn là chủ nghĩa cộng sản đã chết. Svetlana Alexievitch trích dẫn một câu của sử gia Nga Serguei Averintsev: chế độ cộng sản“đã xây dựng những cái cầu trên một con sông của ngu dốt, nhưng dòng sông ngày nay đã hoàn toàn là dòng sông khác.”

(Paris, tháng 4.2014)

T. T.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Bản chất của chế độ qua việc bắt và thả người

Nguyễn Hưng Quốc (Blog VOA)


Thời gian gần đây, chính quyền Việt Nam quyết định trả tự do cho khá nhiều người bị xem là bất đồng chính kiến, trong đó, được dư luận chú ý nhất là việc thả ông Vi Ðức Hồi và Nguyễn Tiến Trung vào ngày 12 tháng 4; trước đó gần một tuần, thả và cho phép Luật Sư Cù Huy Hà Vũ cùng vợ được sang Mỹ với lý do “chữa bệnh”; trước đó nữa, ông Nguyễn Hữu Cầu cũng được thả sau 38 năm bị giam cầm; và trước đó nữa nữa, nhà giáo Ðinh Ðăng Ðịnh cũng được thả khi sức khỏe đã hoàn toàn cạn kiệt (mấy tháng sau đó, ông mất).

Theo nhà bình luận Phạm Chí Dũng, “Ðầu năm 2014 đã chứng kiến một đợt thả tù nhân chính trị lớn nhất và mang tính 'Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước' sắc nét nhất tính từ thời điểm năm 1975 đến giờ.”

Với một sự kiện đáng chú ý như thế, không có gì lạ khi số người tham gia tranh luận, đặc biệt trên các diễn đàn mạng, rất đông. Nhiều vấn đề, đặc biệt lý do khiến chính quyền Việt Nam trả tự do cho năm “tù nhân chính trị” trong một quãng thời gian ngắn ngủi như thế, đều có tính chất phỏng đoán. Không có ai có đủ thông tin từ trong Bộ Chính Trị hoặc Trung Ương đảng để có thể khẳng định được một cách chính xác. Bởi vậy, thay vì phỏng đoán tìm nguyên nhân, tôi chỉ ghi nhận một số phân tích từ các sự kiện ai cũng thấy.

Mô tả bản chất độc tài của một chế độ, người ta có thói quen tập trung vào các vụ án. Các phiên tòa trở thành tụ điểm của sự áp bức. Tuy nhiên, phần lớn người ta chỉ chú ý đến giai đoạn đầu: giai đoạn buộc tội và kết án. Thì cũng đúng. Tất cả các phiên tòa liên quan đến chính trị ở Việt Nam đều có hai đặc điểm nổi bật: Một là bắt bớ và buộc tội một cách vô cớ hoặc, nếu có cớ, những chứng cớ ấy không có chút chính đáng gì cả. Lý do để bắt: hoặc “hai cái condom đã qua sử dụng” hoặc trốn thuế. Lý do để buộc tội thường là “tuyên truyền chống phá nhà nước,” một cái tội vô duyên không thể tìm thấy ở bất cứ một quốc gia tự do nào trên thế giới, nơi người ta hợp thức hóa và hợp pháp hóa vai trò đối lập, một hình thức “chống phá chính phủ” bất bạo động. Hai là án lệnh dành cho những người bất đồng chính kiến bao giờ cũng nặng, nặng đến mức vô nhân đạo.

Với hai đặc điểm ấy, không có gì đáng ngạc nhiên khi thế giới thường quan tâm đến các phiên tòa xét xử các nhân vật bất đồng chính kiến tại Việt Nam.

Tuy nhiên, theo tôi, khi quá chú ý vào các phiên tòa với những lời buộc tội và kết án oan ức, người ta mắc phải một sai lầm là ít chú ý đến những gì xảy ra sau các phiên tòa, trong đó, bao gồm cả việc trả tự do một cách bất bình thường.

Liên quan đến việc thả năm tù nhân chính trị vừa rồi, nhiều nhà bình luận cho nguyên nhân chính là chủ trương hòa hoãn của nhà cầm quyền Việt Nam trước yêu sách của nước ngoài, đặc biệt là Mỹ. Nếu đúng, điều đó lại có rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nói theo lời của Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo Quốc Tế (CPJ) mới đây, nhà cầm quyền Việt Nam đã sử dụng các nhân vật đối lập như những “con tin để đổi lấy sự nhượng bộ của cộng đồng quốc tế về kinh tế hay quân sự.”

Thứ hai, bằng những sự “trao đổi” dã man như vậy, nhà cầm quyền cũng mặc nhiên thú nhận cái gọi là tòa án, hay rộng hơn, pháp luật ở Việt Nam, không có chút giá trị gì cả: Người ta muốn bắt lúc nào thì bắt, muốn thả lúc nào thì thả, tùy theo các ý đồ chính trị chứ không phải là căn cứ vào pháp luật. Nếu những việc bắt giữ và kết tội một cách oan ức, thậm chí, vô lý, tố cáo sự tàn bạo của nhà cầm quyền, ngay cả việc trả tự do để đáp ứng một đòi hỏi của nước ngoài, tự nó, cũng là một việc làm tàn bạo: Nó không coi trọng những giá trị căn bản của con người. Nó chỉ xem con người như một phương tiện hay một món hàng.

Thật ra, đàng sau sự tàn bạo ấy là một sự yếu đuối đến hèn hạ. Trấn áp những người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền bất bạo động, không có một vũ khí gì trong tay trừ ngôn ngữ là một sự sợ hãi bệnh hoạn. Khuất phục trước các yêu sách thả tù nhân chính trị trong nước để hy vọng nhận được một ân huệ gì đó từ nước ngoài cũng là một việc làm rất thiếu tự tin. Sự thiếu tự tin ấy lại làm phô bày bản chất bất nhân và trơ tráo của chế độ: Nó trở thành hèn hạ.

Nhưng điều quan trọng mà chúng ta cần chú ý không phải ở phạm trù đạo đức với những sự tàn bạo hay hèn hạ mà là ở phạm trù chính trị: Một chế độ sử dụng luật pháp để trấn áp dân chúng trong nước và để trao đổi với nước ngoài nhất định không phải là một chế độ dân chủ.

Một trong những đặc điểm lớn nhất trong chính trị thế giới từ nửa sau thế kỷ 20 trở lại đây là luật pháp không còn là tiêu chí để phân biệt một chế độ dân chủ với một chế độ độc tài. Bởi, mọi chế độ đều có luật pháp và đều nhân danh luật pháp cho mọi chính sách và mọi hành động của mình. Nói cách khác, mọi chế độ độc tài thời hiện đại đều mang bộ mặt dân chủ: Họ cũng có Hiến Pháp và luật pháp. Họ cũng có bầu cử và tòa án. Họ có tất cả những gì các nước dân chủ có.

Sự khác biệt giữa một chế độ dân chủ và một chế độ độc tài không phải ở những cái có mà ở những cách thức thực thi những cái có ấy. Ví dụ, liên quan đến luật pháp. Một, ở các nước dân chủ, luật pháp là tối thượng. Không có ai ở trên và/hoặc ở ngoài luật pháp. Hai, ở các nước độc tài, ngược lại, luật pháp được sử dụng như một công cụ để hợp thức hóa các hành động độc quyền và trấn áp của họ: những người hoặc nguyên cả tầng lớp lãnh đạo đều ở trên và/hoặc nằm ngoài luật pháp. Trường hợp trên được gọi là pháp quyền (rule of law); trường hợp dưới gọi là pháp trị (rule by law).

Chính quyền Việt Nam, trên mọi thứ giấy tờ chính thức, đều tự nhận là một nhà nước pháp quyền. Thực chất, họ chỉ là pháp trị: Họ sử dụng luật pháp để cai trị: Luật pháp chỉ có tác dụng đối với tầng lớp bị trị. Còn với tầng lớp thống trị thì không: Ở đó, họ chỉ có các “điều lệ đảng.” Mà các điều lệ đảng thì do họ viết và họ có thể thay đổi từ điều lệ đến cách diễn dịch các điều lệ một cách dễ dàng.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Chân lý Tháng Tư

Bùi Tín
(Nguồn: VOA)

39 năm đã qua kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày chiến tranh kết thúc.

Sau 39 năm - bằng hơn một nửa đời người trung bình - đất nước vẫn trong tình trạng chậm tiến, công nghiệp hóa dang dở, nền giáo dục ở vị trí đèn đỏ giữa các nước Ðông Nam Á, nền y tế kém cả một số nước Bắc Phi, tự do báo chí được xếp ở vị trí 171 trên 180 nước của thế giới.

Năm 2012, nhân dịp 30 Tháng Tư, một cô giáo dạy văn năm thứ 2 tại Ðại Học Xã Hội Nhân Văn Sài Gòn ra đầu đề luận văn sau đây cho sinh viên khoa báo chí: “Cảm nghĩ về toàn thắng của nhân dân ta trong sự nghiệp chống đế quốc Mỹ xâm lược.” Nói chung các em đều viết luận văn của mình như giáo trình dạy, nghĩa là y như báo Nhân Dân hết lời ca ngợi đảng ta, quân đội ta, nhân dân ta, ca ngợi sự lãnh đạo anh minh, sáng tạo của đảng CS, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng của dân tộc,...”

Riêng có một em băn khoăn về đề tài vừa kể, suy nghĩ kỹ rồi mạnh dạn nói lên niềm lo lắng của mình: “Thưa cô em rất muốn hiểu và nói như cô dạy, như giáo trình, nhưng em đã nghĩ kỹ, và em không thể... Em thấy Hoa Kỳ không phải là đế quốc xâm lược...”

Cô giáo giật mình. Lại một em sinh viên cứng đầu, khó bảo. Cô khuyên em hãy cẩn trọng. Em là đoàn viên Ðoàn Thanh Niên CS Hồ Chí Minh. Rồi em sẽ còn phấn đấu vào đảng CS. Em hãy lên thư viện đọc nhiều tài liệu hơn để nắm bắt được lẽ phải, chân lý, để viết luận văn cho hay cho đúng...

Em sinh viên Lê Vũ Cát Ðằng vẫn tự mình đi tìm chân lý theo cách của em, suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của mình, không để lệ thuộc vào điều gì khác, đọc nhiều sách báo, suy luận rốt ráo bằng phương pháp khoa học, khách quan, hợp lý, công bằng và ngay thẳng.

Em viết nên một bài luận văn, thực tế là một bài phản biện súc tích, sinh động, đầy tính thuyết phục (được đăng trên mạng Dân Làm Báo Tháng Tư năm 2013) do nhà báo Hoàng Thanh Trúc tóm tắt giới thiệu. Em nói lên nhận định, đánh giá của chính mình về cuộc chiến ở Việt Nam, rằng:

- Hoa Kỳ không phải là đế quốc, vì không có một tham vọng nào về lãnh thổ, về thuộc địa kiểu cũ hay kiểu mới, về tài nguyên ở Việt Nam;

- Hành động của Hoa Kỳ ở VN do đó không thể nào gọi là xâm lược;

- Chứng minh nữa của em Cát Ðằng là Hoa Kỳ ở Châu Âu sau khi tham gia đánh bại bọn phát xít Hitler đã tận lực cùng các nước đồng minh Châu Âu giúp cho Tây Ðức xây dựng lại đất nước về mọi mặt sau chiến tranh, còn hỗ trợ cho công cuộc thống nhất nước Ðức thành một cường quốc dân chủ ngày nay, được toàn dân Ðức ca ngợi và biết ơn;

- Ở Ðông Nam Á trong Thế Chiến 2, quân đội Hoa Kỳ đã chiến đấu chống quân đội Nhật Bản, tham gia giải phóng các nước Indonesia, Philippines, Ðài Loan, sau đó giúp 3 nước này xây dựng lại sau chiến tranh, phát triển kinh tế mạnh mẽ như ngày nay, được nhân dân 3 nước đó quý mến biết ơn;

Em Cát Ðằng nêu lên sự giúp đỡ đặc biệt của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản, kẻ thù chính trong chiến tranh. Em viện dẫn tài liệu cho thấy nhân dân Nhật đã nhất trí vinh danh 12 vị anh hùng đã có công lao to lớn trong phục hồi và xây dựng lại Nhật Bản sau tàn phá kinh hoàng của chiến tranh; trong 12 vị anh hùng đó có 11 người là người Nhật, từ nhà lãnh đạo chính trị, nhà tư tưởng, nhà kinh tế - tài chính, nhà sáng chế phát minh, nhà giáo dục, nhà kinh doanh và chỉ có 1 người nước ngoài, là đại tướng Hoa Kỳ Douglas Mac-Arthur (1880-1964), tư lệnh đạo quân chiếm đóng Nhật Bản.

Vị tướng này và đạo quân Hoa Kỳ trên đất Nhật đã tận lực giúp cho Nhật Bản phục hồi nhanh chóng, toàn diện, tạo nên nét thần kỳ Nhật Bản, chỉ trong thời gian ngắn, duy trì và hiện đại hóa chế độ hoàng gia thành một cường quốc dân chủ và pháp quyền đứng đầu Châu Á, được toàn dân Nhật Bản ca ngợi, biết ơn và mãi mãi ghi công. Tướng như thế, quân như thế không thể là đế quốc xâm lược.

Nhân Tháng Tư năm nay, bộ máy tuyên truyền của nhà nước VN năm nay, sau 39 năm dài, vẫn giữ nguyên não trạng cũ kỹ, giáo điều, không tưởng, huênh hoang về cái gọi là “toàn thắng đế quốc Mỹ xâm lược,” về “lịch sử oai hùng ta đánh bại cả 3 đế quốc lớn thuộc 3 châu Á, Âu, Mỹ,” giăng khẩu hiệu khắp nơi, tổ chức mít tinh rầm rộ, nhưng thật ra là không có thực chất, tự lừa mình và lừa nhân dân, khi nhân dân đã thức tỉnh và phần lớn đã nhận ra lý lẽ xác đáng của em sinh viên Lê Vũ Cát Ðằng.

Nhân dịp này cần chỉ ra việc viếng nghĩa trang, tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh trong chiến tranh, được bày ra trong những ngày lễ Tết, ngày kỷ niệm và mỗi phiên khai mạc họp Quốc Hội hay đại hội đảng... cũng không có thực chất, không chân thành, còn ngày càng trở nên cay đắng mỉa mai. Vì hàng triệu chiến sĩ ngã xuống mỗi người đều mang theo niềm tin rằng ta hy sinh không hề tiếc thân mình vì đất nước sẽ hoàn toàn độc lập, toàn dân sẽ có tư do dân chủ đầy đủ và Tổ quốc sẽ phồn vinh, hạnh phúc, giàu có được chia cho toàn dân cùng hưởng. Hàng triệu thanh niên ưu tú nhất đã hy sinh đời mình trong niềm tin “đánh xong giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay.” Niềm tin thiêng liêng ấy đến nay rõ ràng đã bị bỏ quên, bị phản bội rõ ràng.

Chế độ độc đảng đã suy thoái đến băng hoại, phá hủy tài sản quốc gia, chia nhau thành quả phát triển do toàn dân tạo nên cho các phe nhóm lợi ích riêng tư, để cả một tầng lớp quan lại bất tài - trừ tài tham nhũng - chia nhau tùy tiện không có ai giám sát, thanh tra, kiểm soát, tạo nên khoản nợ khổng lồ hơn 50 tỷ USD đè lên lưng nhân dân, để cho hàng vài chục đại án tham nhũng không sao phá án nổi như đã hứa hẹn thề thốt với nhân dân.

Nếu như hàng triệu liệt sĩ của cả 2 bên bừng tỉnh dậy và chất vấn Bộ Chính Trị trong dịp Tháng Tư này, về vì sao để cho tình hình sa sút tệ hại đến thế này, vì sao đã quên lời hứa năm xưa, ta hình dung họ sẽ ấp úng, loay hoay, cứng hàm, không còn biết thanh minh, lý giải ra sao.

Nhân dịp 30 Tháng Tư năm nay, tất cả Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, Ban Chấp Hành Trung Ương đảng, Quốc Hội mà 90% là đảng viên CS, cũng như Mặt Trận Tổ Quốc VN do đảng CS lập ra để sai khiến, hãy lắng tai nghe cho thật rõ hai tiếng nói “Chân lý Tháng Tư.” Một là tiếng nói của một em sinh viên dám là mình, có tư duy độc lập, phản biện về cái gọi là “toàn thắng trong sự nghiệp chống đế quốc Mỹ xâm lược” điều đến nay họ vẫn còn huênh hoang. Hai là một tiếng nói âm thầm nhưng rộng khắp, quyết liệt như vang lên từ hàng triệu ngôi mộ liệt sĩ khắp nơi, “chất vấn nghiêm khắc về lời hứa của lãnh đạo CS là sẽ xây dựng nước ta trong hòa bình to đẹp gấp mười lần hơn trước, đạt tự do và hạnh phúc cho toàn dân cùng hưởng.” Một lời hứa cuội đã bay theo chiều gió, thay vào đó là thu nhập của các “đày tớ “ thường là cao gấp 10, gấp trăm, có khi gấp ngàn lần lương ba cọc ba đồng của hàng chục triệu “ông chủ” đã trắng tay, do đày tớ làm loạn mà nên. Xin quý vị hãy lắng nghe hai tiếng nói ấy để nhận ra những sự thật và tình thế nhãn tiền của đất nước.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Putin đề cao CIA

Ngô Nhân Dụng
Khi đọc hàng chữ này trên Người Việt Online, xin bạn đọc hết sức thận trọng, đề cao cảnh giác. CIA đang theo dõi quý vị. Họ có thể nhìn từng hàng chữ quý vị đang đọc, biết rõ quý vị đọc bài báo trong bao nhiêu phút, đã ngưng lại đi đâu đó mấy lần, vân vân. Chính ký giả này cũng không biết CIA có âm mưu như vậy, cho tới khi nghe lời tiết lộ của ông Vladimir Putin, tổng thống Cộng Hòa Nga.

Ngày hôm qua, Ngân Hàng Trung Ương Nga tăng lãi suất lần nữa, kể từ khi Nga chiếm Crimea đến giờ lãi suất căn bản đã tăng từ 5.5% lên 7.5% (lãi suất đó ở Mỹ và khối Tây Âu vẫn chỉ trên dưới 2%). Mục đích của việc này là bảo vệ giá trị đồng Rúp, vì đồng tiền Nga đã mất giá 10% kể từ Tháng Ba đến nay. Công ty Standard & Poor's hạ thấp điểm tín nhiệm của nước Nga xuống một cấp, tức là Nga sẽ khó vay nợ nước ngoài hơn. Nhưng ông Putin không nói gì về tình trạng kinh tế nước ông đang trên đà suy thoái. Ông lại dành thời giờ báo tin rằng tất cả mạng lưới Internet nối các máy vi tính trên khắp thế giới là một chương trình của CIA, Cơ quan Tình báo Trung ương của chính phủ Mỹ. Bài nói chuyện với cho một số nhà báo trẻ được chiếu trên ti vi ở Nga. Ðóng vai một ông bác dạy dỗ các ký giả còn non dại, ông Putin nói: “Ðời là thế đấy. Bọn Mỹ như thế đấy. Các cháu cũng biết rồi, từ lúc bắt đầu Internet là một dự án đặc biệt của CIA. Chúng vẫn tiếp tục mở rộng nó ra thêm...” Ông Putin cảnh cáo những ai vào Google tìm thông tin và tài liệu: “Tất cả đều đi qua những ‘máy chuyển’ (servers) nằm ở nước Mỹ; làm cái gì cũng bị chúng theo dõi hết.”

Ðiều ông Putin tiết lộ sẽ không chỉ áp dụng cho mạng Google của Mỹ, mà cho cả Baidu, phổ thông nhất trong giới công dân mạng Trung Quốc, và Yandex, mạng tìm kiếm được 60% người Nga dùng. Dù phát xuất từ nước nào, cả ba mạng “máy tìm kiếm” trên và những mozbot hay Qwant ở Pháp, đều đi qua Internet cả. Nghĩa là ai vô trong đó đều bị CIA theo dõi từng bước, từng cái nháy, cái bấm. Thí dụ, có ngày mở email của mình ra, bạn thấy có người gửi cho một “điểm nối” (link) lạ. Vô tình bạn bấm vào, thấy trong đó toàn hình ảnh khiêu dâm. Bạn tắt nó ngay, nhưng nó cứ bám chặt không dứt ra được; có khi phải tắt máy, bắt đầu lại. Trong mấy phút đó, bọn CIA chúng đều theo dõi và biết hết! Kể từ đó, lâu lâu bạn mở Internet ra lại thấy hiện lên những quảng cáo phim cấm trẻ em dưới 9 tuổi, mời vào coi, miễn phí! Có khi còn quảng cáo hình các cô gái (hoặc cậu trai) sẵn sàng chia sẻ tâm tình với bạn và “phục vụ từ A đến Z,” cho biết địa chỉ các cô ở ngay trong vùng bạn ở, trong vòng 30 cây số! Làm sao họ biết nhà mình ở đâu và mình đang thích coi cái gì? Theo ông Putin, đó là cả một âm mưu to lớn của CIA!

Ông Putin chỉ nói nhầm một điều. Internet không do CIA khai sinh, mà do sáng kiến của các nhà khoa học ở các đại học như UCLA, Stanford, và Berkerley. Mà những người này đều ký hợp đồng với Bộ Quốc Phòng Mỹ chứ không phải CIA, hai cái đó khác nhau và thường xuyên tranh giành nhau cùng một ngân sách. Lúc đầu, họ chỉ, tìm cách làm sao cho các máy vi tính có thể liên lạc với nhau để trao đổi các sáng kiến kỹ thuật nhanh chóng hơn việc gửi thư. Cho đến ngày, có người chợt nghĩ ra có thể dùng mạng lưới này để gửi thư tình, lúc đó mới thấy hệ thống này có thể được thương mại hóa, kiếm ra tiền! Sáng kiến bày ra “World Wide Web” làm nảy sinh ra phong trào sử dụng Internet toàn thế giới cũng không bắt đầu ở Mỹ, mà ở Thụy Sĩ, một nước trung lập chưa bị Mỹ đô hộ ngày nào. Nhưng các nhà báo trẻ ở Nga chắc không để ý chi tiết đó. Họ có thể chỉ nghe và tin tưởng khi bác Putin giải thích lý do tại sao sắp đặt thêm rào cản trên hệ thống tìm kiếm Yandex; giống như các bác ở Bắc Kinh đang thắt chặt vòng kiểm soát trên Baidu và Wibo.

Nhưng lời cảnh báo của ông Vladimir Putin sẽ tạo một tác dụng quan trọng trên nước Mỹ. Nó tăng thêm mầu sắc cho huyền thoại về Cơ quan Tình báo Trung ương; trong lúc chính dân chúng và Mỹ đang thất vọng về khả năng của CIA. Giới chính trị ở Washington đã than rằng CIA chỉ tiêu phí tiền mà chẳng được tích sự gì cả. Những biến cố lớn nhất trên thế giới, sau khi xảy ra người ta mới biết CIA hoàn toàn không biết. Thí dụ, năm 1978, CIA vẫn tin rằng nước Iran còn nằm trong tay ông “Sa hoàng” vĩnh viễn, năm sau thì dân chúng Iran theo ông Khomenei lật đổ nhà vua. Cho tới khi cả khối cộng sản Ðông Âu rồi Liên Xô sụp đổ, CIA vẫn cung cấp cho chính quyền Mỹ một hình ảnh nước Nga mạnh mẽ, hùng cường! Năm 1991, trước khi quân Mỹ sang giải phóng Kuwait, CIA báo trước đạo quân của ông Saddam Hussein rất mạnh, ít nhất 600,000 người, hỏa lực hùng hậu, với hàng ngàn xe thiết giáp, và các đội cao xạ bắn máy bay và hỏa tiễn SCUD có mặt khắp nơi, bảo vệ cả bầu trời. Quân đội Mỹ đã vội vã đi đặt hàng 30,000 cái túi ni lông để chở thi hài binh sĩ tử trận; trước khi cuộc chiến chấm dứt đã có 15,000 cái túi được trao hàng. Như sách vở đã ghi lại, trong cả cuộc chiến Iraq năm 1991, chỉ có 390 quân nhân Mỹ tử trận, và 458 người bị thương.

Trong hành động, tình báo CIA còn nuôi ong tay áo trong thời gian quân Nga chiếm đóng Afghanistan. Trong hàng chục năm, họ giúp các toán quân kháng chiến Afghanistan đánh Nga; nhưng chính những người được họ giúp đã huấn luyện hàng chục ngàn “cảm tử quân” sau này quay lại đánh bom các tòa đại sứ Mỹ, rồi khủng bố ngay tại nước Mỹ. CIA đưa 2,300 hỏa tiễn nhỏ Stingers sang cho quân du kích có thể đeo trên vai mà bắn máy bay Nga. Sau khi quân Nga rút về nước, CIA biết vẫn còn 600 chiếc chắc chắn chưa dùng, đang giấu kín đâu đó. Phải làm một kế hoạch “mua lại.” Nhân viên CIA đi tìm mua, với giá từ 75,000 đến 150,000 đô la một chiếc Stinger, gây ra cả một “chợ đen” mua hỏa tiễn Stingers để bán lại. Nhưng khi gặp các thủ lãnh Taliban, họ từ chối không bán! Chắc bây giờ Taliban vẫn còn giữ nhiều hỏa tiễn!

Một thất bại gần đây nhất của CIA là không biết trước một chút nào về hiện tượng “Mùa Xuân Á Rập” bắt đầu từ Tunisie rồi lan sang Ai Cập. Mà các thanh niên phát động cuộc cách mạng này đều liên lạc với nhau và tổ chức các cuộc biểu tình bằng Facebook bằng Twitter, kể cả các máy điện thoại di động; và tất cả đều chuyển qua mạng Internet! Nếu CIA làm chủ cả hệ thống Internet trên thế giới, tại sao họ không biết trước?

Ông Vladimir Putin chắc chắn biết khả năng của CIA trong việc sử dụng Internet như thế nào; vì chính ông đang chứa chấp Edward Snowden, một người đã đánh cắp bao nhiêu tài liệu mật của chính phủ Mỹ! Một cá nhân Edward Snowden cũng chứng tỏ “huyền thoại CIA” nghe thì lớn lắm nhưng sự thật khả năng rất khiêm tốn! Trong khi những người thành lập các công ty eBay, Facebook, Amazon kiếm hàng tỉ bạc nhờ Internet, thì chính CIA chẳng được hưởng đồng nào; thế mà ông Putin vẫn quảng cáo cho họ!

Cuối cùng sau khi ông Putin tiết lộ CIA làm trùm Internet, ai được lợi nhất? Chắc là chính cơ quan CIA. Trong mấy chục năm qua, họ liên tiếp bị Quốc Hội Mỹ cắt bớt ngân sách. Có đại biểu Quốc Hội còn đề nghị xóa bỏ cơ quan cơ quan tình báo dân sự Mỹ này, vì không cần thiết. Ông Putin đã đề cao CIA, coi như là nơi bắt đầu cuộc cách mạng Internet. Ông còn coi tất cả các phát minh sáng kiến sau đó đều do CIA đóng vai chủ động. Chắc ông muốn kể tên Facebook, Youtube, Google, và hàng trăm ngàn áp dụng khác dùng Internet trên các máy điện di động. Tất cả đều được ông Putin ghi công cho CIA hết! Ðó là ông chưa nhắc tới việc sử dụng GPS, hệ thống bản đồ tìm đường qua vệ tinh nhân tạo! Ngày xưa chỉ có các điệp viên mới có một cái máy như vậy trong tay. Bây giờ, cứ đi mua xe hơi là người ta hỏi có muốn gắn GPS luôn trong đó hay không!

Sau những lời quảng cáo cho CIA của Tổng Thống Vladimir Putin, năm nay chắc Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ hy vọng sẽ được Quốc Hội Mỹ tăng ngân sách. Ðối với họ, đó mới là chuyện quan trọng nhất.
hoanghoa
Posts: 2256
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Kiện phóng viên BBC Nguyễn Hùng: Hu hu hu, anh Kông chơi anh Ku!
Vũ Đông Hà

(Danlambao) - Thường thì nếu nghe ai đó la toáng lên rằng "ra xem thằng kia ở truồng!" thì cũng có người tò mò, có người mặc kệ nó.
Nhưng khi một đồng chí trên vai có hai sao, dưới có AK, lựu đạn, tay có còng số 8 nghiến răng bặm trợn đòi bỏ tù người la toáng
thì đâm chết thiên hạ cũng đi tìm xem cái thằng có thông tin đang ở truồng là thằng nào.

Image
Anh Kông đây là anh Kông Tư - Trung tướng công an Hoàng Kông Tư. Anh Ku ở truồng là anh... Q - Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang.


Hôm thứ năm, 24 tháng 4, 2014 phóng viên Nguyễn Hùng của BBC lại lôi hủ mắm Phạm Quý Ngọ đã được chôn, mở nắp ra cho thiên hạ ngửi (1). Hủ mắm đã được chôn kỹ, chôn kín hôm tháng 2, trong đó có 20 tỷ đồng, có bàn tay Ngọ nắm tiền, có trợ lý của anh Ku và có luôn anh Ku.

Chuyện dài Dương Chí Dũng cúng tiền mãi lộ để "tạm lánh" sang Miên, chuyện Ngọ đang phi bỗng đột quỵ, chuyện cái bóng anh Ku đằng sau hồn ma bóng Ngọ xin xem lại ở đây:

- Dân ta tự mở hồ sơ Phạm Quý Ngọ (2)

- Vụ Phạm Quý Ngọ: Đại tá công an Nguyễn Như Phong muốn "cứu"
hay "giết" Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang? (3)

- Bàn cờ đấu đá nội bộ đảng với xe Dũng, mã Ngọ (4)

- Vui biết mấy Ngọ đồng chí đang sống chuyển sang từ trần! (5)

Nội dung chính của vụ lộ hàng này là lời khai của Dương Chí Dũng tại tòa sơ thẩm: Dương Chí Dũng hối lộ Thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ 20 tỷ đồng, có sự dính líu của Thiếu tướng Trần Quang Tiệp, trợ lý Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang và chỉ đạo của Bộ trưởng công an Trần Đại Quang.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao có nhiều bài viết liên hệ đến lời khai của Dương Chí Dũng trong mấy tháng qua mà ông Hoàng Kông Tư không đòi khởi tố các tác giả. Bây giờ khi đảng "ta" đã cố gắng cho vụ việc chìm xuồng theo cái chết có nhiều dấu chấm hỏi của tướng công an Phạm Quý Ngọ thì ông Kông Tư lại lôi ra qua hành động đòi khởi tố án hình sự về tội Vu khống đối với phóng viên Nguyễn Hùng (6)?

Trước hết, nếu chúng ta đọc nguyên bài viết của Nguyễn Hùng (1) thì thấy tất cả những dữ kiện liên quan đến cái mà ông Hoàng Kông Tư gọi là vu khống đều được lấy từ lời khai của Dương Chí Dũng tại tòa:


Phóng viên Nguyễn Hùng viết rằng: "Theo ông Dũng, người đưa tiền của bà Lan cho ông tên là Tiệp. Các nguồn tin nói đây là ám chỉ Thiếu tướng Trần Quang Tiệp, trợ lý Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang."

Trong khi đó Dương Chí Dũng khai tại tòa: "Và anh Tiệp là người đưa cho tôi. Tức là có 2 người biết việc, chứ không phải một mình tôi. Đấy là cái thứ nhất, tức là có 2 người biết...

Anh Tiệp có nói là "Anh yên tâm đi, tôi đã gặp và báo cáo với anh Trần Đại Quang - bộ trưởng bộ công an, để anh Quang có ý kiến với anh Ngọ. Và anh Quang sẽ điện cho anh, để anh Ngọ không can thiệp hay gây khó cho doanh nghiệp nữa".

Đọc đoạn văn trên thì câu viết "Theo ông Dũng... và Các nguồn tin nói đây là ám chỉ Thiếu tướng Trần Quang Tiệp, trợ lý Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang" của phóng viên Nguyễn Hùng không phải là một câu viết thiếu chuyên nghiệp. Anh còn cẩn thận viết "các nguồn tin nói...".

Còn "Tiệp" nào khác trong lời khai của Dương Chí Dũng nếu không phải là Trần Quang Tiệp - trợ lý của bộ trưởng Công An - mới là người có thể gặp và báo cáo với xếp của mình.

Thực tế như vậy nhưng lý do ông Hoàng Kông Tư đưa ra để đòi truy tố ký giả Nguyễn Hùng là: "tôi khẳng định thông tin này là hoàn toàn bịa đặt, vì trong quá trình điều tra, Dương Chí Dũng có khai người đưa tiền của bà Lan cho ông tên là Tiệc. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã xác minh, làm rõ và xác định người tên Tiệc như Dương Chí Dũng khai là ông Ngô Xuân Tiệc, sinh năm 1961, thường trú tại 277 Phạm Văn Hải, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, là Chủ tịch, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư phát triển Tâm Sinh Nghĩa. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã làm việc với ông Ngô Xuân Tiệc và ông Ngô Xuân Tiệc đã viết bản tường trình cam đoan, khẳng định hoàn toàn không có sự việc như Dương Chí Dũng khai."

Cho dù, giả dụ, tạm ráng tin... điều ông Hoàng Kông Tư nói trên đúng với sự thật thì người bị truy tố phải là Dương Chí Dũng với tội mới (bên cạnh 2 tội đã bị kết án tử hình - “Tham ô tài sản” và “Cố ý làm trái quy định của nhà nước) là khai gian trước tòa, vu khống cho Ngô Xuân Tiệc.

Rõ ràng (theo lý luận đầy tính "khẳng định" của ông Kông Tư) người vu khống là Dương Chí Dũng. Thế thì tại sao ông Trung tướng công an Hoàng Kông Tư đã "chuyện không có gì mà ầm ĩ" với phóng viên BBC để thiên hạ ùn ùn đi tìm bài viết Dương Chí Dũng và những triệu đô la "của phóng viên Nguyễn Hùng, BBC tiếng Việt, ngày 24/4/2014" (báo CAND online đã cẩn thận dẫn đường chỉ lối giới thiệu như thế) (6)

Tuy nhiên, chuyện tưởng vậy mà không phải vậy!:

Trở lại điều "khẳng định" của Hoàng Kông Tư nói rằng "Dương Chí Dũng có khai người đưa tiền của bà Lan cho ông tên là Tiệc." Nếu nghe lại clip ở trên từ phút số 1 đến 1:15 ở trên thì rõ ràng Dương Chí Dũng, giọng Hải Dương, nói về "anh Tiệp". Do đó:

1. Ông Hoàng Kông Tư lôi thương gia Ngô Xuân Tiệc ra để "viết bản tường trình cam đoan, khẳng định hoàn toàn không có sự việc như Dương Chí Dũng khai" thì dĩ nhiên ông Tiệc này cam đoan là đúng rồi. Ông Dương Chí Dũng có khai ông Tiệc đâu!

2. Ông Hoàng Kông Tư đã lộ hàng gian dối vì trong cương vị Thủ trưởng Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an thì ông dư biết đối tượng điều tra phải là Thiếu tướng Trần Quang Tiệp, trợ lý Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Tuy nhiên, lo sợ rút dây động rừng, Kông Tư đã dùng trò nhập nhằng giữa "Tiệp" và "Tiệc" để lôi một người không liên quan tên Tiệc ra làm giấy cam đoan là... không liên quan.

Điểm cần ghi nhận là bài viết của phóng viên Nguyễn Hùng được đăng tải trên BBC vào lúc 15:04 GMT - thứ Năm, 24 tháng 4, 2014, tức là khoảng 10 giờ tối tại Việt Nam.

Rất là nhanh, lẹ, thần tốc - chỉ một ngày sau, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án hình sự về tội Vu khống theo Điều 122 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với phóng viên Nguyễn Hùng.

11:29h, CAND Online đăng bài phỏng vấn ông Hoàng Kông Tư. Một vài phút sau, các trang web mang tên của các quan to chấm ọt và hàng loạt các báo lề đảng đăng theo, tin tức tràn lan trên mạng. Tất cả nhịp nhàng như vũ điệu loài Kông.

2 giờ 30 phút sau, vào lúc 14h, TAND tối cao tại Hà Nội hoãn tuyên án phúc thẩm Dương Chí Dũng.

Và Dương Chí Dũng đã rời tòa án vào chiều ngày thứ 6 với nét mặt và nụ cười hân hoan, rạng rỡ.


Điều gì đã xảy ra đằng sau hậu trường của vở tuồng tham ô bất trị trong đó những diễn viên chính, phụ, lớn, nhỏ toàn là cán bộ cao cấp của đảng và các ban ngành, những nhân vật đứng đầu Bộ Công an?

Sân khấu hài đang được cắm cọc, ngăn rào, khoanh vùng kỹ lưỡng trong đó các đồng chí đồng bọn đỗ thừa nhau (7) xoay quanh 28 tỷ đồng tiền lại quả từ ụ nổi đã chìm 83M đột nhiên anh Kông lại dùng cái chuyện tào lao kiện tụng không có cơ sở ra để làm cớ tung mắm Dũng-Ngọ-Tiệp-Quang ra khắp mọi miền cho nhân dân ngửi lại.

Phóng viên Nguyễn Hùng chỉ là diện. Những đồng chí không còn là đồng bọn mới là điểm đánh.

Anh Kông muốn cứu anh Ku,
Nhưng hơi bị ngu,
Hóa ra lại chơi anh Ku,
Hu hu hu...

Vũ Đông Hà
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

BÀI HỌC ĐẮNG CAY.


Bây giờ các tài liệu bí mật của Mỹ liên quan đến cuộc chiến Việt Nam đã được giải mã gần hết. Những tài liệu này giúp chúng ta tìm... hiểu tại sao miền Nam Việt Nam có một quân lực khá hùng mạnh và thiện chiến, có tinh thần chiến đấu rất cao, từng giữ vững miền Nam trong suốt 20 năm, lại có thể bị sụp đổ chỉ trong 40 ngày? Câu trả lời sẽ là một bài học lịch sử đắt giá mà mọi người Việt khi chiến đấu cho quê hương không thể không biết đến.

QUYẾT ĐỊNH BỎ MIỀN NAM :

Vào tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức (từ 9.8.1974 đến 9.8.2004), Miller Center of Public Affairs thuộc Đại Học Virgina cho công bố cuốn băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và Kissinger về cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972, trong đó có đề cập đến số phận của miền Nam Việt Nam.
Tài liệu cho thấy mặc dầu đang mở cuộc oanh tạc Bắc Việt trong suốt mùa xuân và mùa hè 1972, Tổng thống Nixon đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách nào.” (South Vietnam probably can never even survive anyway). Ông nói với Cố vấn An ninh Kissinger:
“Henry, chúng ta cũng phải nhận thức rằng thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó hết sức quan trọng trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống còn (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger trả lời:
“Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao sống còn, nếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam Việt Nam (if it’s the result of South Vietnamese incompetence.)


Lúc đó, Tổng Thống Thiệu và các nhà cầm quyền tại miền Nam không hay biết gì. Khi Hoa Kỳ ép buộc VNCH phải ký Hiệp Định Paris có những điều khoản hoàn toàn bất lợi cho miền Nam, TT Thiệu cũng đã chấp nhận ký sau khi Tổng Thống Nixon hứa: “Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài rằng nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ, và ác liệt.”
Nhưng để cho miền Nam sụp đổ trong vòng một hay hai năm sau Hiệp Định Paris không phải là chuyện dễ, vì lúc đó Quân Lực VNCH còn khá mạnh.


TÌNH HÌNH QUÂN LỰC VNCH NĂM 1975 :


Đầu năm 1975, QLVNCH vẫn còn có một lực lượng khá hùng hậu, với quân số khoảng 1.351.000 người, trong đó có 495.000 chủ lực quân, 475.000 địa phương quân và 381.000 quân “phòng vệ dân sự” có vũ trang.
Lục quân gồm 11 Sư đoàn Bộ binh, 1 Sư đoàn Nhảy dù, 1 Sư đoàn Thủy quân lục chiến, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, 15 Liên đoàn Biệt động quân (tương đương với 5 Sư đoàn), Lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, 4 Lữ đoàn Kỵ binh thiết giáp (với 2074 xe thiết giáp). Về pháo binh, QLVNCH có 1492 khẩu đại bác (hơn một nửa là 105 ly, 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là 175 ly).
Không quân có khoảng 60.000 quân, có 5 sư đoàn Không quân tác chiến gồm: 20 Phi đoàn khu trục cơ, 23 Phi đoàn trực thăng, 1 Sư đoàn vận tải, 1 Không đoàn tân trang chế tạo, 4 Phi đoàn hỏa long, v.v, với 1850 phi cơ các loại (trong đó có 510 máy bay chiến đấu và 900 trực thăng).
Hải quân có hơn 40.000 quân, gồm: 3 lực lượng tác chiến: (1) Hành quân lưu động sông (với 14 Giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh), (2) Hành quân lưu động biển (một Hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm và giang vận hạm, và (3) các Lực lượng đặc nhiệm, trong đó có Liên đoàn Người nhái. Làm thế nào để hủy hoại lực lượng này rồi giao cho Tàu Cộng, và CSVN trong một thời gian khoảng hai năm, và Mỹ sẽ không còn dính líu gì đến cuộc chiến nữa?


ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU :


Để thực hiện chủ trương nói trên, Hoa Kỳ vừa cắt bớt viện trợ để miềm Nam suy yếu dần, vừa đánh lừa Thổng Thống Thiệu.
Miền Nam lúc đó cũng có nhiều nhà phân tích tình hình chính xác, nhưng TT Thiệu là người độc đoán, và thích hành động theo cảm tính nên chẳng nghe ai. Trong cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết chính Tổng Thống Thiệu đã nói với ông:
“Tôi luôn là người quyết định. Luôn luôn như vậy. Tôi có thể nghe người khác gợi ý một quyết định, nhưng rồi làm quyết định ngược lại.” (tr. 373).
Khi chọn người để thay thế ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ không chọn một nhà chính trị có khả năng bảo vệ miền Nam mà chỉ chọn những người bảo đảm sẽ làm theo ý họ. Trước hết Mỹ chọn Tướng Nguyễn Khánh, và Tướng Trần Thiện Khiêm. Nhưng khi Tướng Nguyễn Khánh gây rối loạn, họ dùng cặp Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm. Đây là những người không có tầm nhìn chiến lược cả về chính trị lẫn quân sự. Mọi việc đều để Mỹ lèo lái.
Quả thật ông Thiệu không có khả năng nhìn thấy Mỹ sẽ bỏ miền Nam, và tìm ra được một con đường nào khác để cứu miền Nam. Ông coi miền Nam như của Mỹ. Mỹ đưa đủ tiền, ông giữ cả miền Nam. Mỹ rút bớt tiền, ông thu nhỏ lãnh thổ lại.

1.- Cắt bớt viện trợ :
Như chúng ta đã biết số viện trợ quân sự Mỹ cho VNCH đã bị giảm dần sau Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973:
1972 – 1973: 1 tỷ 614 triệu;
1973 – 1974: 1 tỷ 026 triệu và
1974 – 1975 xuống còn: 700 triệu.
2.- Đánh lừa bằng tài liệu :
Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (từ tr. 231 – 236), ông Hưng có kể lại rằng ông có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lập một tập báo cáo do Tướng John E. Murray (người điều khiển cơ quan DAO) và Bộ Tổng Tham Mưu trình lên.
Mặc dầu có nhiều báo cáo của DAO đã được giải mã, chúng tôi chưa tìm thấy bản văn này, nhưng ông Hưng cho biết ông nhớ được những điểm chính của bản báo cáo đó như sau:
- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
- Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
- Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt;
- Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều đình được với Bắc Việt;
- Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Ông Hưng cho biết Tướng John Murray kết luận: “Tôi có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy.”
Từ ngày Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến ngày miền Nam mất, chúng ta chưa bao giờ thấy các báo cáo hay tài liệu phân tích nào của cơ quan MACV, hay DAO được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu, hay bất cứ cơ quan nào của VNCH. Chúng ta chỉ biết được một số tài liệu này sau khi được chính phủ Hoa Kỳ giải mã. Thế thì tại sao tài liệu nói trên lại được tiết lộ cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH? Chắc chắn là phải có âm mưu gì.
Ông Hưng cho rằng: vì bản báo cáo này, ông Thiệu đã nghĩ ra chiến lược mới “Đầu bé đít to”, tức bỏ Vùng I và II (đầu). Ông Thiệu thường nói: “Từng chiến lược cho từng mức viện trợ.” (tr. 235), sau đó ông dùng chữ “tái phối trí”. Thật ra, bản báo cáo mà ông Hưng nhắc đến ở trên, nếu có, cũng chỉ là một bản phân tích tình hình, chứ không phải là một giải pháp, hay một kế hoạch hành động được đề nghị. Nếu TT Thiệu nghĩ đó là một đề nghị về kế hoạch hành động là hoàn toàn sai lầm.
3.- Đánh lừa bằng kế hoạch giả :
Cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã không dùng một tướng Mỹ mà dùng một tướng Úc để đánh lừa Tổng Thống Thiệu.
Trong bài thuyết trình “”Get Me Ten Years’: Australia’s Ted Serong in Vietnam, 1962-1975″, bà Tiến sĩ Anne Blair, một Giảng viên về Quan Hệ Quốc Tế và Nghiên Cứu về Á Châu tại Đại Học Victoria University of Technology ở Úc, đã cho biết vào tháng 12 năm 1974, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có tiếp xúc với Tướng Ted Serong, và yêu cầu ông ta đưa ra một kế hoạch cứu vãn miền Nam. Tướng Ted Serong đã khuyến cáo rút khỏi Quân Khu I và Quân Khu II, với lý do là 2/3 Quân Lực VNCH đã được triển khai ở phía bắc trong khi ở nơi này chỉ có 1/10 dân số và 1/3 tài nguyên của miền Nam.
Chúng ta nên nhớ rằng cả Tướng Trần Thiện Khiêm, lẫn tướng Đặng Văn Quang đều là nhân viên CIA được cài vào, để theo dõi và kiểm soát các hành động của Tổng Thống Thiệu. Nhiều người nghi ngờ việc Tướng Khiêm đi tìm gặp tướng Ted Seron là theo lệnh của CIA.
Ông Hưng cho biết TT Thiệu đã chỉ thị Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh Phủ Tổng Thống, phối hợp với Tướng Ted Serong nghiên cứu lập một phòng tuyến kéo dài từ Tuy Hoà đến Tây Ninh để làm phòng tuyến rút quân! Tướng Ted Seron là ai mà được giao cho nhiệm vụ lập phòng tuyến ở Tuy Hoà?
Tướng Francis Philip “Ted” Serong (1915 – 2002) tốt nghiệp Trường Huấn Luyện Quân Đội Hoàng Gia tại Duntroon vào năm 1937, có nhiều kinh nghiệm về chiến trường Đông Nam Á. Năm 1961 ông được cử làm cố vấn cho quân đội Miến Điện. Do kinh nghiệm của ông về chống nổi dậy (counterinsurgency), theo đề nghị của CIA, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Úc cho ông đến phục vụ tại miền Nam Việt Nam. Tại đây, ông vừa chỉ huy một toán nhỏ người Úc vừa là Cố Vấn Chống Nổi Dậy cho MACV dưới thời Tướng Harkins. Theo bà Blair, Tướng Harkins không tin vào chống nổi dậy, và ông không muốn một cố vấn. Tướng Ted Serong đã đưa nhiều đề nghị về huấn luyện quân lực VNCH nhưng không được đáp ứng.
Như vậy, Tướng Ted Serong chỉ là một chuyên gia về du kích chiến. Ông không phải là một nhà chiến lược. Ông chỉ là người được Mỹ dùng để gài bẩy Tổng Thống Thiệu.


MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐIÊN RỒ :


Năm 1974, tin Tổng Thống Thiệu sẽ bỏ Cao Nguyên và miền bắc Trung Phần, rút quân về phòng thủ ở Tuy Hoà đã được tiết lộ ra, nhưng không ai tin vì hai lý do:
(1) Không thể lập một phòng tuyến từ Tuy Hòa kéo dài tới Tây Ninh được vì địa hình không cho phép hình thành một phòng tuyến như vậy.
(2) Muốn rút quân ở Cao Nguyên và phía bắc miền Trung phải thương thuyết với Hà Nội, và ký một hiệp ước như Hiệp Định Genève 1954, trong đó ấn định lại biên giới giữa hai bên, thời hạn di tản, rút quân… việc “tái phối trí” mới có thể thực hiện được.
Vì thế, không ai tin việc “tái phối trí” có thể xẩy ra khi ông Thiệu chưa thương thuyết để ký với Hà Nội một hiệp ước thu nhỏ lãnh thổ lại. Nhưng ông Thiệu đã làm điều điên rồ đó.
Đầu năm 1975, Tướng Ted Serong thông báo cho Tổng Thống Thiệu thời hạn chót cho việc tái phối trí quân đội phải kết thúc nội trong tháng hai. Ông cũng đã nói với Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Nha Trang, rằng: Ngài nên “chuẩn bị cho năm 1955 một lần nữa”, tức lại đi di cư!
Ngày 10.3.1975 Ban Mê Thuột bị mất, và Quân Lực VNCH khó có thể lấy lại được. Nhân vụ này, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Cao Văn Viên:
- Còn quân trừ bị để tăng cường cho Quân Đoàn 2 không?
Tướng Viên trả lời:
- Không còn.
TT Thiệu quay qua hỏi Tướng Phú:
- Nếu không có quân tăng viện, anh còn giữ được bao lâu?
Tướng Phú trả lời:
- Tôi có thể giữ được một tháng với điều kiện Không quân yểm trợ tối đa, và tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về tiếp liệu, vũ khí, đạn dược…
TT Thiệu nói rằng các điều kiện đó không thể thỏa mãn được. Vậy phải rút khỏi Kontum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, đưa quân về giữ đồng bằng ven biển tiếp tế thuận lợi hơn.
TT Thiệu hỏi:
- Rút bằng đường 19 có được không?
Tướng Viên trả lời:
- Trong lịch sử chiến tranh Đông Dương chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị tiêu diệt.
Tổng Thống Thiệu lại hỏi:
- Thế thì đường 14 ra sao?
Tướng Viên nói:
- Đường 14 càng không được.
Sau khi thảo luận, mọi người thấy chỉ còn đường số 7 từ lâu không dùng đến, tuy dài (khoảng 228 km), và xấu, nhưng tạo được yếu tố bất ngờ.
TT Thiệu chỉ thị không thông báo cho các Tiểu khu và Chi khu biết, cứ để họ tiếp tục chống giữ, khi ta rút xong, ai biết thì biết. Tổng Thống nói Địa phương quân (36 tiểu đoàn) toàn là người Thượng, trả chúng về với Cao nguyên. Như vậy các Tỉnh trưởng, quận trưởng, cảnh sát và các nhân viên hành chánh cũng bị bỏ lại. Đại Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Biệt Động Quân Quân Đoàn 2 được thăng Chuẩn Tướng để chỉ huy cuộc rút quân. Tổng Thống cấm không ai được thông báo cho Mỹ biết.


ĐOÀN QUÂN TAN RÃ :


tl 7Diễn biến về cuộc tháo chạy trên Liên tỉnh lộ 7 rất bi thảm. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại những nét chính. Lúc đó QLVNCH còn có tại Kontum và Pleiku 7 Liên Đoàn Biệt Động Quân, đó là các Liên Đoàn 22, 23, 24 và 25, được tăng cường thêm 3 Liên Đoàn biệt phái từ Sài Gòn lên là 4, 6 và 7. Ngoài ra, Cao Nguyên còn có 36 tiểu đoàn địa phương quân.
Liên tỉnh lộ 7
Xe tăng và thiết giáp: 4 Thiết đoàn với 371 xe. Pháo binh: 8 Tiểu đoàn với 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175 mm.
Không quân: 1 Phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 Phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 Phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc). Riêng Sư đoàn 23 gồm các Trung Đoàn 44, 45 và 53 và Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đã bị tan rã trong trận Ban Mê Thuột. Sáng ngày 15.3.1975, hai Liên Đoàn 6 và 23 BĐQ từ Kontum được chuyển về Pleiku. Dân chúng chạy theo gây ra náo loạn.
Lúc 1 giờ chiều ngày 15.3.1975 cuộc di tản chính thức bắt đầu. Thiết đoàn 19, Liên Đoàn 6 và Liên Đoàn 24 BĐQ mở đường, đến tối đã vượt qua khỏi Phú Bổn, đèo Tuna, và tới quận Phú Túc để yểm trợ công binh làm cầu. Sáng 16.3.1975 đoàn quân mở đường tiếp tục đi xuống Củng Sơn. Cuộc hành trình mà đoàn quân phải di tản khá dài: Từ Pleiku tới Phú Bổn khoảng 93 km, và từ Phú Bổn đến Tuy Hòa khoảng 130 km.
Ngày 17.3.1975, Thiết Đoàn 21 và Liên Đoàn 7 BĐQ dẫn đầu đoàn quân và dân tiến về Phú Bổn. Theo sau là Liên Đoàn 22 và Liên Đoàn 23, kéo theo một đoàn quân xa khoảng 2000 chiếc và một đoàn xe dân sự đủ loại cũng gần 2000 chiếc. Liên Đoàn 4 và Liên Đoàn 25 đi tập hậu. Đoàn di tản đi rất chậm vì đường hẹp, bị hư hỏng và thường đạp lên nhau để tiến tới trước. Tối 17.3.1975 đoàn xe dừng lại ở tỉnh lỵ Phú Bổn vì không tiến được nữa. Cộng quân đã chận ở đèo Tuna cách Phú Bổn khoảng 4 km.
Vì cuộc rút quân quá bất ngờ, nên phải đến chiều ngày 17.3.1975, Bộ Tư Lệnh Tây Nguyên của Cộng quân mới biết được, và ra lệnh cho Tiểu đoàn 9, thuộc Trung đoàn 64, Sư đoàn 320, đang đóng chốt trên đường đi Thuận Mẫn, đem quân chận ở đèo Tuna, và pháo kích vào đoàn quân và dân đang dừng lại ở Phú Bổn. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất được trực thăng tới bốc đi từ trường Tiểu học Phú Bổn, chỉ huy ở trên trời, ra lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, đang chỉ huy ở dưới đất, phải phá cho được cái chốt này. Có Không quân bay tới yểm trợ.
Liên đoàn 25 BĐQ đang đi tập hậu cùng với Liên Đoàn 7 và thiết giáp tiến lên phá cái chốt ở đèo Tuna. Nhưng Đại Tá Nguyễn Văn Đồng cho chúng tôi biết Biệt Động Quân, Thiết giáp, và Không quân không phá nổi cái chốt đó. Chiếc xe tăng nào bò lên, chúng bắn cháy chiếc đó. Thảm hoạ xảy ra khi máy bay oanh tạc lầm quân của phe ta. Địch lại pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ Phú Bổn, quân và dân chạy tán loạn, nên đoàn quân tan rã. Không còn chỉ huy được, ông và một số quân nhân phải lội bộ đi vòng dưới chân đèo Tuna để vượt qua, nhưng rồi cũng bị bắt khi đến gần Củng Sơn. Đại Tá Đặng Đình Siêu, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, theo tàn quân của Liên Đoàn 4 BĐQ chạy băng rừng, và về được đến Phú Yên.
Liên Đoàn 24 BĐQ đóng gần Củng Sơn do Trung Tá Niên chỉ huy bị tấn công dữ dội, cũng bị tan rã. Chỉ có Thiết Đoàn 19, và Liên Đoàn 6 BĐQ về tới được Tuy Hòa. Một cuộc kiểm tra cho biết có ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II bị Cộng quân tiêu diệt, bắt sống, đào ngũ, hay rã ngũ. Khoảng 40.000 dân chúng di tản theo đoàn quân, chỉ có khoảng 1/4 đến nơi. Số người chết do hỏa lực của cả hai bên, do đuối sức, hay đói không ước tính được. Đa số phải trở lại Pleiku.
Kể từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, Hoa Kỳ đã chi phối miền Nam cả về quân sự, kinh tế, lẫn chính trị, và đưa người của họ lên nắm chính quyền. Trong tình trạng như vậy, miền Nam khó quyết định được số phận của mình. Nhưng Tổng Thống Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước dân tộc, và trước lịch sử về những thảm trạng do các quyết định sai lầm của ông gây ra. Chiều 29.4.1975, Tướng Ted Seron đã rời khỏi Việt Nam trên một chiếc trực thăng ở trên nóc của Toà Đại Sứ Mỹ. Số phận của VNCH chấm dứt.


Lữ Giang.
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »


Image

Ba mươi chín năm ngày Quốc Hận

LỜI KINH ĐÊM:

Ba mươi chín năm đã trôi qua kể từ cái ngày oan nghiệt 30 tháng 4 năm 1975 !
Dẫu cho thời gian đã trôi đi, nhưng vết thương vẫn chưa lành !
Mỗi năm, vào dịp 30 tháng tư là vết thương lại chẩy máu.
Đau xót cho đất nước Việt Nam, đau xót cho bao chiến sĩ đồng bào, đau xót cho chính thân phận của mình.
Chỉ biết thắp lên một ngọn nến hay một nén nhang để tưởng nhớ… Tất Cả !

Tôi thắp ngọn nến này cho những chiên sĩ thuộc mọi quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đã anh dũng hy sinh trên khắp các chiến trường để bảo vệ miền Nam. Nhưng than ôi ! lệnh đầu hàng đã khiến miền Nam rơi vào tay giặc. Để họ thấy dân ta không quên ơn họ !

Tôi thắp ngọn nến này cho những anh hùng bất khuất, thà chết không chịu nhục. Đó là những Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm văn Phú, Lê Nguyên Vĩ, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Chánh Thành… và bao nhiều người vô danh khác… Để cho họ thấy lòng cảm phục của toàn dân !

Tôi thắp ngọn nến này cho những người tù cải tạo, gầy gò, ốm đói, đã bỏ mình nơi rừng thiêng nước độc ở các trại tù cải tạo…

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu, tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn !
Để họ thấy được nỗi đau chung của dân tộc !

Tôi thắp ngọn nến này cho những oan hồn dưới đáy đại dương, đã vùi thân trong sóng bạc đầu trên đường đi tìm Tự Do. Sóng to, gió lớn đã đánh nát con thuyền mong manh, trong đêm tăm tối, chới với không tìm được chỗ nào bám víu… Tưởng đã thoát nạn nhưng quân biên phòng phóng tầu đuổi theo, những tràng đạn đại liên đã bắn xối xả vào con thuyền mong manh, máu loang đỏ đại dương… Ra ngoài khơi, cướp biển dã man, cướp của, giết người, bao nhiêu tang tóc… Để họ thấy niềm đau xót của dân ta !

Tôi thắp lên ngọn nến này cho bao người yêu nước, quyết một sống một còn với quân giặc, đã chấp nhận gian nguy, xây dựng kháng chiến với lý tưởng giải phóng Việt Nam khỏi ách thống trị của độc tài cộng sản. Họ đã anh dũng hy sinh như một tấm gương cho lớp trẻ phải dấn thân tranh đấu chấm dứt độc tài đảng trị, mưu đồ dân chủ tự do cho quên hương Việt Nam của chúng ta. Để họ thấy lý tưởng của họ đang được tiếp nối !

Tôi thắp lên ngon nến này cho những đồng bào trong nước đang bị chế độ đàn áp, cướp đất, cướp nhà, lang thang đầu đường, xó chợ… Những dân oan bị tù, bị đánh, đến chết… những nhà dân chủ bị trù dập, hành hung… Để họ thấy chúng tôi đứng cùng chìến tuyến vói họ !

Tôi thắp lên ngọn nến này như một "Lời Kinh Đêm" cho quê hương Việt Nam yêu quý. Khẩn cầu Hồn Thiêng Sông Núi, các Anh Hùng Liệt Sĩ, soi sáng con đường đấu tranh của dân tộc Việt Nam hầu chấm dứt chế độ độc tài cộng sản dã man để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, tự do, phú cường !

Trần Đức Tường
(Đêm tưởng niệm 30 tháng Tư-Paris)
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc
30.04.2014
Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

http://www.voatiengviet.com/content/su- ... 04798.html
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Sau 39 năm

Ngô Nhân Dụng


Ngày 30 Tháng Tư năm 2014, lần đầu tiên người dân miền Nam Việt Nam đã can đảm xuống đường, không phải để ca ngợi mà để chống chính quyền. Họ trưng những biểu ngữ công khai nói lên những sự thật, sau 39 năm bị bịt miệng: 30-4 NGÀY TANG DÂN TỘC! 30-4 DÂN VIỆT MẤT QUYỀN CON NGƯỜI!

Tại sao cuộc biểu tình này có thể thực hiện trong một ngày “nhạy cảm” như vậy?

Vì kỹ thuật tổ chức của dân Việt ngày càng tinh vi, nhưng cũng vì chính quyền không thể gán cho những người biểu tình tội “chống Cộng” trong ngày 30 Tháng Tư, cho công an đàn áp ngay lập tức. Nhìn trong hình thấy những bạn trẻ và các em bé chưa sinh ra trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Có cả những bà già có con đi theo cộng sản và chết, cho các quan chức bây giờ được hưởng giàu sang. Những người biểu tình đeo khăn tang trên đầu, trên đó viết chữ tự giới thiệu họ là những “dân oan.” Dân Oan một danh từ thường chỉ chung những người đã bị đảng cộng sản cướp ruộng, cướp đất để khai thác chia phần cùng với đám tư bản đỏ.

Nhưng tại sao dân biểu tình không bị đàn áp, có thể rất dã man như những cụ già, phụ nữ, trẻ em, ở Dương Nội, Văn Giang chống cướp đất đã bị đánh đập?

Vì chính quyền địa phương và guồng máy công an tại Dương Nội, Văn Giang có quyền lợi thiết thực cho họ khi đảng cướp đất của nông dân. Trên dưới tất cả đều được “chấm mút” trong những công trình rút ruột này. Còn guồng máy công an và chính quyền tại Sài Gòn thường không được ăn miếng nào khi các đồng chí lãnh đạo Bạc Liêu hay Cần Thơ cướp ruộng đất của nông dân. Có ngu gì mà họ lại chấp nhận cảnh đứa khác ăn ốc để mình phải đi dọn vỏ?

Cũng trong ngày 30 Tháng Tư năm 2014, một Hội Dân Oan Việt Nam ra đời. Trước đó ông Nguyễn Xuân Ngữ đại diện dân oan phía Nam đã gặp gỡ nhiều dân oan các tỉnh phía Bắc, đồng ý chọn ngày 24 Tháng Tư làm Ngày Dân Oan Việt Nam.

Cuộc nội chiến Việt Nam đã chấm dứt từ năm 1975. Ngay sau đó cho tới bây giờ, một cuộc chiến mới diễn ra. Một bên là chính quyền độc tài, tham nhũng, bất lực và thối nát. Bên kia là người dân đấu tranh đòi quyền sống làm người, quyền được hưởng tự do dân chủ. Những sinh viên học sinh, những nhà trí thức, và có những nông dân chân lấm tay bùn cùng tham gia mặt trận đấu tranh.

Sau 39 năm, dân Việt vẫn phải đấu tranh đòi quyền sống làm người, đòi được hưởng những quyền tự do tối thiểu như được nói, được suy nghĩ, được hội họp tự do. Sau 39 năm, dân Việt Nam vẫn nghèo khó nhất trong vùng Á Ðông. Trong những năm tới còn lo sẽ nghèo hơn cả người Campuchia, người Lào. Sau 39 năm, mối họa phương Bắc cho thấy chính sách ngoại giao “cõng rắn cắn gà nhà” từ năm 1950 đã gây họa trường kỳ cho dân tộc như thế nào. Cho nên những người biểu tình năm nay đã nói đúng sự thật: 30 Tháng Tư năm 1975 là một Ngày Tang của Dân Tộc. Cảnh nghèo nàn chậm tiến, mất tự do và lệ thuộc ngoại bang hiện nay có thể đoán trước được từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975, khi thi sĩ Nguyễn Chí Thiện ngồi ở trong tù cũng nhìn thấy “Một mối nhục nhằn, một mối đau thương” trùm lên đất nước.

Bài trước trong mục này kể lại những ngày kết thúc cuộc nội chiến ở nước Mỹ vào Tháng Tư năm 1865; nhân ngày 30 Tháng Tư. Cả bài chỉ kể chuyện về cung cách đối xử của những người chỉ huy miền Bắc nước Mỹ đối với người miền Nam thua trận. Những gì xảy ra ở nước ta vào năm 1975 thì chắc quý vị độc giả đã biết cả rồi. Khi đọc bài, chắc thế nào quý vị cũng nảy ra ý so sánh cảnh các cuộc nội chiến kết thúc, ở Mỹ vào thế kỷ 19 và ở Việt Nam trong thế kỷ 20.

Cuộc chiến tranh nào cũng tàn khốc, và gây nên nỗi hận thù. Nhưng khi quân miền Bắc chiếm Richmond, Tổng Thống Abraham Lincoln vào thủ đô của chính phủ miền Nam. Richmond lúc đó đã vô cùng hỗn loạn vì các cuộc cướp phá, đốt nhà, hôi của. Khi Tướng Weitsel hỏi ý kiến nên đối xử với người miền Nam thế nào, Lincoln bảo: “Hãy cho họ dễ dàng - Let 'em up easy!” Ông bị nhiều người phản đối, kể cả phó tổng thống của ông, và vị bộ trưởng chiến tranh. Vì vậy, khi nghe tin ông bị ám sát, người miền Nam lo lắng cho số phận của họ. Vị tướng miền Nam Joseph Johnson đã nói với Tướng William Sherman miền Bắc, khi hai người gặp nhau thảo luận về điều kiện đầu hàng: “Ðây là tai họa lớn nhất cho miền Nam!” Nhưng sau cùng, tai họa cũng không xảy ra. Khi còn đang đánh nhau, Tướng Sherman từng nói với dân và quân miền Nam rằng: “Khi nào hết chiến tranh, các bạn cần gì cứ tìm đến tôi! Nếu tôi có mấy cái bánh cracker, sẽ chia sẻ với bạn; tôi sẽ bảo vệ gia đình các bạn.” Hai ông tướng bàn bạc mất mấy ngày mới đồng ý về điều kiện đầu hàng, cho quân sĩ miền Nam được tự do trở về nhà, mang theo ngựa hoặc lừa, để cầy bừa vườn ruộng. Sau đó, Tướng Sherman còn quyết định cung cấp cho tất cả 25,000 quân sĩ còn lại của Tướng Johnson mỗi người mười ngày lương thực. Sherman biết kho lẫm miền Nam đã cạn kiệt, chắc ông muốn những địch quân của mình, trên đường trở về nhà không ai phải đi xin ăn hay cướp bóc. Ðiều này không nằm trong các điều kiện đầu hàng đã ký kết. Khi “Old Joe” Johnson nhận được “quà tặng bất ngờ” đó, ông thẳng thắn ca ngợi: “Lòng yêu nước lớn lao” của vị tướng đối nghịch. Trước đây ông vẫn nghĩ rằng phải đối đầu với Tướng Sherman trên chiến trường nỗi bất hạnh của đời mình; nay hóa ra đó lại là điều may mắn cho cả đạo quân dưới quyền.

Nghĩ đến cảnh những người lính miền Nam nước Mỹ đem theo mười ngày lương thực trên đường về nhà, lại nhớ đến cảnh ở Việt Nam, sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Các sĩ quan và công chức miền Nam từ giã gia đình, “đem theo lương thực đủ dùng trong mười ngày;” có người đem theo đủ một một tháng, như ghi trong giấy mời trình diện. Họ ôm theo thức ăn, và quần áo, xà bông, khăn mặt, kem đánh răng, tự mình đi vào tù, ai cũng nghĩ rằng sẽ chỉ phải “học tập” một tháng là xong. Các lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội tự vỗ bụng khen mình là “đỉnh cao trí tuệ” vì đã bày mưu đánh lừa được mấy trăm ngàn người tự nguyện chui đầu vào cái thòng lọng họ đã giương ra, sẵn sàng siết cổ. Bản thân ký giả này, nếu không may mắn thoát đi trước, chắc cũng đã tự nguyện chui đầu vào cái thòng lọng đó.

Nhiều người sẽ tự hỏi: Có phải người Mỹ vào thế kỷ 19 họ hiền lành, tử tế với nhau hơn người Việt Nam 110 năm sau hay không? Tôi không nghĩ như vậy. Ðã đi qua nhiều nước và đọc truyện kể từ nhiều nơi, tôi vẫn tin chắc rằng loài người ở đâu cũng như nhau, không ai tốt hơn mà cũng chẳng ai xấu hơn ai.

Vậy thì tại sao chính quyền miền Bắc nước Mỹ, các tướng lãnh và quân đội của họ lại đối đãi tử tế với những đạo quân miền Nam và dân chúng miền Nam thua trận như vậy? Vì vào năm 1965, chế độ dân chủ ở nước Mỹ đã được thực hiện hơn nửa thế kỷ. Một nguyên nhân chính gây nên cuộc nội chiến là các tiểu bang miền Nam không công nhận người da đen có quyền công dân như người da trắng, trong khi miền Bắc đã làm luật giải phóng nô lệ. Nhưng trong thời gian nội chiến 4 năm, chính quyền cả hai miền đều dùng các Hiến Pháp bảo đảm các công dân được bầu cử tự do, báo chí tự do, hội họp tự do, bộ máy nhà nước phải tôn trọng hiến pháp, luật pháp và các công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật. Với thể chế tự do, những người lãnh đạo phải theo ý dân. Mà dân chúng nước nào thì cũng sẵn sàng bao dung, đùm bọc đồng bào của mình.

Vào năm 1975, chế độ miền Nam Việt Nam được đặt trên nền tảng dân chủ, mặc dù chưa vì trong cảnh chiến tranh không được đầy đủ như nhiều người dân mong muốn. Tại miền Bắc thì chế độ cộng sản hoàn toàn bác bỏ các quy tắc dân chủ, coi đó là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Nhưng nguyên nhân chính khiến cho chế độ miền Bắc thắng trận đối xử với quân và dân miền Nam một cách khắc nghiệt tàn tệ, là vì họ theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin.

Theo Mác-Lê Nin là theo một “tín ngưỡng,” mặc dầu vẫn là vô thần. Những người cộng sản tin những điều Mác-Lê Nin nói đều là “chân lý” tuyệt đối, không khác gì tín đồ các tôn giáo thời Trung Cổ. Tinh thần cuồng tín đó được nhồi sọ cho các đảng viên cộng sản, bảo họ chia thế giới ra làm hai phần; những người theo mình là bạn, còn tất cả những người khác ý kiến là kẻ thù. Và đối với kẻ thù, họ không cần áp dụng các quy tắc luân lý cũng như luật pháp nào cả. Cho nên họ tha hồ dùng thủ đoạn lừa gạt, dối trá, tha hồ dùng bạo lực, cho đến việc thu hộ khẩu, cắt tem phiếu, và bây giờ là thu hồi quyền sử dụng đất, để bắt mọi người phải phục vụ cho mình.

Các đảng viên cộng sản được đào tạo như vậy từ khi xin vào đảng, từ 1920, 30 cho tới năm 1975 vẫn như vậy. Trong thế giới cộng sản tình cảm giữa người với người bị xóa bỏ, thay vào đó là lòng trung thành tuyệt đối với Ðảng (viết hoa), tức là sẵn sàng tuân lệnh cấp trên. Những người như Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Ðức Thọ đã được đào tạo như vậy.

Ðược “giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lê Nin” cho nên các lãnh tụ cộng sản vào năm 1975 trong lòng coi tất cả dân, quân miền Nam không phải là người, không phải là “đồng bào;” mà chỉ là những kẻ thù của cuộc cách mạng vô sản toàn thế giới.

Người Việt Nam bình thường không đối xử với nhau tàn tệ như bọn lãnh tụ cộng sản vào năm 1975. Nếu được bỏ phiếu lựa chọn, chắc chắn dân chúng miền Bắc không ai nỡ bắt dân chúng miền Nam phải qua cảnh tập thể hóa, đánh tư sản, tù cải tạo. Vì chính họ đã bị đem ra làm thí nghiệm cho chủ nghĩa cộng sản mấy chục năm rồi! Chính chủ nghĩa cộng sản đã biến dân Việt Nam thành kẻ thù đối với nhau, chia rẽ cả dân tộc khắp mọi nơi chứ không chỉ chia hai miền Nam Bắc.

Một độc giả mới gửi thư hỏi, “Tại sao nội chiến Mỹ người ta nhanh bỏ qua, còn ở Việt Nam thì sau 39 năm rồi vẫn còn còn nhiều việc phải làm?”

Câu trả lời là: Vì suốt 39 năm qua, dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống dưới quyền cai trị của một đảng cộng sản.
dailien
Posts: 2454
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Sai lầm trong chính sách đối ngoại của Việt nam đã đến lúc phải trả giá
Do vậy việc cho rằng thực chất đây được coi là hành động đối phó của Trung quốc, vì thông báo của Cục Hải sự Trung Quốc được đưa ra ngay sau khi có tin Việt Nam vừa đề nghị giao thêm hai lô cho Công t

Câu chuyện Biển Đông một lần nữa lại nóng bừng lên, sau khi chính quyền Trung quốc chính thức đưa giàn khoan HD-981 vào trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và chỉ cách bờ biển Việt nam 120 hải lý. Điều đó chứng tỏ Trung quốc đang có những bước đi mới rất quyết đoán rất nguy hiểm và chắc chắn tất cả các bước đi này đều được họ tính toán một cách kỹ càng.

Điều này đã khiến cho không ít người giận dữ và hỏi rằng tại sao chính quyền Việt nam lại làm ngơ để Trung quốc hoành hành trên Biển Đông như trong ao nhà của họ, vì theo họ đây chắc chắn là một sự việc nghiêm trọng và có thể ví như giặc đã vào trong nhà, nghĩa là Trung quốc đã chính thức xâm lược lãnh hải của Việt nam.

Trên thực tế thì vị trí tọa độ của giàn khoan HD-981 nếu xét theo quy ước về thềm lục địa tính từ quần đảo Hoàng sa hiện tại thuộc quyền quản lý của Trung quốc, thì giàn khoan này vẫn nằm trong thềm lục địa của quần đảo Hoàng sa mà Trung quốc cho là của họ. Nếu vậy thì đương nhiên Trung quốc có quyền đặt giàn khoan trên mọi khu vực thuộc phạm vi này. Nhưng một khi khu vực này vẫn đang là khu vực tranh chấp, thì phía Trung quốc không có quyền đưa giàn khoan vào vùng biển này.

Do vậy việc cho rằng thực chất đây được coi là hành động đối phó của Trung quốc, vì thông báo của Cục Hải sự Trung Quốc được đưa ra ngay sau khi có tin Việt Nam vừa đề nghị giao thêm hai lô cho Công ty ONGC Videsh của Ấn Độ thăm dò dầu khí chỉ là bao biện và khó đứng vững. Cho dù trước đây Việt Nam từng đề nghị giao cho OVL năm lô để công ty này tổ chức thăm dò dầu khí ở biển Đông vào tháng 11.2013 và theo báo chí nước ngoài thì OVL chỉ chọn một trong 5 lô mà Việt Nam đề nghị giao hồi năm ngoái và đang thẩm định hai lô mà Việt Nam mới đề nghị giao thêm.
Image
Giàn khoan mở màn cho một giai đoạn xâm lấn mới?


Việc tranh chấp trong việc khai thác dầu khí ở khu vực này không phải là chuyện mới, mà trước đây đã có chuyện một số các công ty dầu khí của Hoa kỳ, Anh... đã đơn phương hủy bỏ các hợp đồng thăm dò và khai thác với Việt nam do chịu sức ép từ phía Trung quốc. Điều đó khiến Trung quốc càng ngày càng được thể lấn tới. Không chỉ thế, còn nhớ trong nhiều năm gần đây Trung quốc còn ra sức cản trở các hoạt động tìm kiếm, khảo sát thăm dò địa chấn của các tàu nghiên cứu của Việt nam, cụ thể là các hành động cắt cáp của các tàu thăm dò như Viking, Bình Minh 2... các năm 2011 và 2012. Hành động đó cộng với các hoạt động khác trên Biển Đông giới được quan sát cho rằng tất cả những động thái này đều nhằm hỗ trợ cho yêu sách đòi chủ quyền gần như toàn bộ vùng biển này của Trung quốc đã được cụ thể hóa trong đường lưỡi bò chín đoạn mà họ đơn phương đưa ra.

Tuy nhiên để đáp trả các hành động này từ phía Trung quốc thì chính quyền Việt nam chỉ có các phản ứng yếu ớt, lấy lệ cho qua với chiêu bài cũ rích và lặp đi lặp lại. Đó là luôn luôn chỉ bài ca: "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.".

Thử hỏi rằng với cách phản ứng lặp đi lặp lại như vậy trong nhiều năm qua, chính quyền Việt nam đã đạt được một kết quả gì đáng gọi là khả quan hay chưa? Chỉ bằng biện pháp thông qua con đường ngoại giao để phản đối, chỉ trích thì liệu có thể bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia? Do đó vấn đề đặt ra bây giờ là tại sao chính quyền Việt nam không đưa vấn đề Biển Đông ra kiện Trung quốc trước tòa án quốc tế như Philippines đã và đang tiến hành? Vì chỉ có bằng các hành động kiên quyết, cụ thể và sức ép quốc tế như vậy mới có thể hy vọng ngăn chặn chính sách vết dầu loang trong việc bành trướng lãnh hải của Trung quốc trên Biển Đông.

Đây có thể nói là hệ quả của vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng sa đã bị mất vào tay Trung quốc từ năm 1974 nhưng không được giải quyết một cách cụ thể và rõ ràng trong suốt thời gian 40 năm qua. Vì theo luật quốc tế, nếu có tranh chấp lãnh thổ mà giữa các kháng nghị có 1 khoảng gián đoạn 50 năm hoặc nhiều hơn thì những đòi hỏi lãnh thổ trở nên vô hiệu. Nếu như vậy, Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm 40 năm vaf từ đó đến nay Việt Nam chưa gửi bất kỳ một kháng nghị, hoặc đơn kiện nào lên Tòa án Quốc tế về luật Biển. Như vậy Việt Nam chỉ còn 10 năm nữa để tiến hành, nếu như trong vòng 10 năm tới phía Việt nam không có bất kỳ một kháng nghị hay đơn kiện nào thì theo Luật biển quốc tế coi như Việt Nam chấp nhận mất Hoàng Sa và một số đảo ở khu vực Trường Sa vĩnh viễn về tay Trung Quốc.

Hiện nay, với đường lối đối ngoại giữa Việt nam và Trung quốc bị trói chặt vào nền tảng quan hệ láng giềng hữu nghị theo tinh thần bốn tốt và khẩu hiệu 16 chữ vàng và trong suốt một thời gian dài điều đó đã và đang bị phía Trung quốc triệt để khai thác trong quan hệ nước cộng sản lớn đối với một nước cộng sản nhỏ để lấn lướt, kể cả việc xâm chiếm lãnh thổ. Trong lúc các lãnh tụ cộng sản thì nhu nhược, cúi đầu trước các yêu sách và đòi hỏi hết sức ngang ngược của nhà cầm quyền Trung quốc đi từ các nhân nhượng này đến các nhân nhượng khác. Nhưng ngược lại trong chính sách đối nội thì vấn đề Biển Đông luôn được coi là vấn đề nhạy cảm, là vùng cấm mà người dân không có quyền quan tâm đến, mà để "Đảng và nhà nước lo". Với tình hình như vậy thì nguy cơ mất vĩnh viễn quần đảo Hoàng sa và một số đảo thuộc quần đảo Trường sa là điều tương đối chắc chắn. Nhất là trong lúc này nếu như Hoa kỳ đã bật đèn xanh cho Trung quốc trong chính sách Biển Đông để đổi lấy các chính sách có lợi cho họ từ phía Trung quốc, điều mà Hoa kỳ đã từng bắt tay với Trung quốc để bỏ rơi VNCH vào năm 1972. Nếu điều đó thực sự xảy ra thì có nghĩa là trong một tương lai gần Trung quốc sẽ lần lượt chiếm hết các đảo trong khu vực Biển Đông của Việt nam, điều đó cũng có nghĩa là Trung quốc đã làm chủ hoàn toàn Biển Đông.

Trở lại vấn đề giàn khoan HD-981 của Trung quốc nằm trong vị trí các lô mà Việt nam đã cho Công ty ONGC Videsh của Ấn Độ thăm dò dầu khí. Nếu như lần này phía Trung quốc tìm mọi cách để gây áp lực để buộc Công ty ONGC Videsh tự động đơn phương ngưng hợp đồng để rút khỏi việc khai thác và thăm dò dầu khí trong khu vực thềm lục địa của Việt nam thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu không phải là việc phía Việt nam bị vô hiệu hóa và phải bất lực trong việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trong phần thềm lục địa thuộc chủ quyền hợp pháp của mình. Và cứ như thế, nếu lần lượt có nhiều các giàn khoan cỡ lớn như DH-981 án ngữ trong khu vực quần đảo Hoàng sa và Trường sa thì điều gì sẽ xảy ra đối với Việt nam?

Việc Trung quốc đưa dàn khoan HD-981 vào thềm lục địa của Việt nam cách bờ biển Việt nam chỉ 120 hải lý cùng với việc Việt nam ngày càng lệ thuộc vào Trung quốc về kinh tế, đặc biệt là những dự án đầu tư của Trung quốc ở các vùng địa bàn chiến lược của Việt nam đã khiến người ta không thể không nghi ngờ về sự tồn tại của vùng biển cũng như các hòn đảo thuộc chủ quyền của Việt nam.

Sai lầm trong chính sách đối ngoại của Việt nam đã đến hồi phải trả giá.

Ngày 05 tháng 5 năm 2014

Kami
(Blog Kami)
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Thôi rồi, biển Đông!
Dẫu vậy, người Việt vẫn thua rất đậm. Với cảnh báo gây sự của Cục Hải sự Trung Quốc, có nhiều khả năng, chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông chỉ còn trên giấy, trong các tuyên bố…

Mình tin, giàn khoan Hải dương 981 của Trung Quốc sẽ không cắm mũi khoan xuống bất kỳ chỗ nào ở lô 143 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Dẫu vậy, người Việt vẫn thua rất đậm. Với cảnh báo gây sự của Cục Hải sự Trung Quốc, có nhiều khả năng, chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông chỉ còn trên giấy, trong các tuyên bố…

***
Tuyên bố của Cục Hải sự Trung Quốc về việc đưa giàn khoan Hải dương 981 vào tìm dầu ở vị trí chỉ cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) chừng 220 cây số khiến người Việt sôi sùng sục.

Giống như nhiều lần trước, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng phản đối.

Trung Quốc đáp lại bằng việc tăng bán kính cấm tiếp cận khu vực Hải dương 981 hoạt động từ một hải lý thành ba hải lý.

Không có bằng chứng nào khắc họa rõ hơn cho bi kịch ra sức xiển dương “Tinh thần bốn tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt), “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) mà Trung Quốc đề ra.

Mới đây, theo tường thuật của Thông tấn xã Việt Nam, anh Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam đã gọi điện thoại cho anh Dương Khiết Trì, Ngoại trưởng Trung Quốc về vụ giàn khoan Hải dương 981.

Anh Minh nhấn mạnh, Việt Nam không thể chấp nhận và kiên quyết phản đối chuyện đưa giàn khoan 981 vào thăm dò ở lô 143 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Anh Minh yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải dương 981 và các tàu hộ tống ra khỏi khu vực vừa kể. Anh Minh kêu gọi Trung Quốc cùng đàm phán để xử lý những bất đồng xung quanh vấn đề này.

Anh Minh khẳng định: “Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình”. Đồng thời bày tỏ hi vọng Trung Quốc “không để vấn đề này tổn hại đến sự tin cậy chính trị và hợp tác giữa hai bên”.

Mình tin giàn khoan Hải dương 981 sẽ không làm gì ở lô 143 cả. Tuy nhiên chuyện đó không phải do công của anh Minh, cũng chẳng phải “ơn Đảng, ơn Nhà nước”, hay vì Trung Quốc không muốn làm “tổn hại đến sự tin cậy chính trị và hợp tác giữa hai bên” (nếu quả thật giữa Trung Quốc và Việt Nam có cái gọi là “sự tin cậy chính trị và hợp tác”).

***
Quan sát kỹ các diễn biến thời sự, hẳn ai cũng thấy Trung Quốc đang gia tăng nỗ lực ve vuốt, trấn an lân bang trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Mình tin Trung Quốc đủ khôn ngoan để hiểu rằng, bối cảnh khu vực và thế giới không có lợi cho việc thực hiện một hành động như đưa giàn khoan Hải dương 981 vào thăm dò dầu khí ở lô 143.

Thế thì Cục Hải sự của Trung Quốc phát cảnh báo gây sự nhằm làm gì?

Mình tin là nó có liên quan tới chuyện Việt Nam đề nghị giao thêm hai lô cho Công ty ONGC Videsh của Ấn Độ thăm dò dầu khí.

Cảnh báo gây sự của Cục Hải sự có tính chất như một thông điệp, gửi cho ONGC Videsh của Ấn Độ.

Ai cũng biết, thăm dò dầu khí rất tốn kém. Cũng vì vậy, các tập đoàn dầu khí trên thế giới không bao giờ bỏ tiền thăm dò – đeo đuổi kế hoạch hợp tác khai thác dầu khí ở những vùng bất ổn về chính trị, bởi điều này rất dễ dẫn tới tình trạng “xôi hỏng, bỏng không”.

Tiền của các tập đoàn dầu khí nước ngoài không giống như tiền của tập đoàn dâu khí Việt Nam. thành ra cách người ta xài cũng rất khác.

***

Để dễ hình dung về hiện trạng và tương lai biển Đông của người Việt, mời bạn tưởng tượng…

Mình được thừa kế một khoảnh đất bên hông nhà. Trong lòng của khoảnh đất đó có một mỏ vàng. Phía bên kia khoảnh đất là một gã hàng xóm tham lam và nham hiểm. Y muốn hưởng lợi lớn nhất từ khoảnh đất bên hông nhà mình nên bảo nó là của y. Cũng vì vậy mà khỏanh đất này rơi vào tình trạng “đang có tranh chấp về chủ quyền”.

Vì không đủ sức tự khai thác vàng, mặt khác muốn có ai đó thay mình đương đầu với gã hàng xóm mạnh hơn, mình đi tìm người, mời đến cùng khai thác. Đã có vài người đến xem nhưng sau đó họ lần lượt rút lui, vì nhận ra cả vốn đầu tư lẫn công sức của họ trong chuyện “hợp tác thăm dò, khai thác” có thể tiêu tán.

Một phần do gã hàng xóm hung hãn quá, y có thể sẽ liên tục quấy rối. Phần khác, mình nhu nhược, khó hiểu quá.

Thiên hạ, đặc biệt là những kẻ có tiền để “hợp tác khai thác vàng” không mù, cũng chẳng ngu.

Ai cũng dễ dàng nhận ra, trên khoảnh đất mà mình bảo là của mình, con cái mình không thể tự do chạy nhảy, chơi đùa. Chúng liên tục bị gã hàng xóm rượt đuổi, đánh đập, có đứa còn bị gã bắn bỏ. Là chủ và là cha song thỉnh thoảng mình mới phản đối cho con cái yên tâm, thiên hạ không chê cười, còn thường thì mình vẫn “bá vai, bá cổ” gã hàng xóm, thề thốt, hứa hẹn trước thiên hạ, rằng mình suốt đời sẽ là “láng giềng tốt, bạn bè tốt”, thậm chí là “đồng chí tốt, đối tác tốt” của y. Đôi khi do… say, mình cao hứng tuyên bố, mình và y đã, đang, sẽ còn dựa vào nhau, bởi giống nhau từ cung cách quản trị gia đình, đến suy nghĩ về ứng xử với thiên hạ!

Ai cũng dễ dàng nhận ra, thay vì phải đối đầu với gã hàng xóm tham lam, độc ác, bảo vệ di sản của tiền nhân, mình ở trong nhà, khuyến khích con cái chạy nhảy, chơi đùa trên mảnh đất “đang có tranh chấp” để thay mình chứng minh “quyền chủ quyền”, rồi tiếp tục đi tìm đối tác. Đứa nào bị gã hàng xóm rượt đuổi, đánh đập, bắt giữ, bắn bỏ là chuyện của… nó. Mình không bận tâm, trừ khi điều đó ảnh hưởng tới vai trò… chủ gia đình của mình!

Hợp tác với một người chủ, một người cha thuộc loại “xưa nay hiếm” như mình, thay mình đối đầu với một gã phàm phu như hàng xóm của mình, chấp nhận đứng giữa một mối quan hệ phức tạp như quan hệ giữa mình và gã hàng xóm thì không thể loại trừ khả năng ngay cả cái… lai quần cũng mất. Chả ai dại!

Trước sau, dẫu mình vẫn ra rả bảo với thiên hạ và con cái mình rằng, khoảnh đất bên hông nhà mình là của mình nhưng do mình như thế và gã hàng xóm của mình là lọai như vậy, khoảnh đất đó không sinh lợi.

Với một người chủ và một người cha như mình, sẽ có ngày, hoặc là mình chấp nhận cùng gã hàng xóm hợp tác khai thác vàng để khỏi đi móc bọc. Hoặc tệ hơn, gã hàng xóm sẽ mời những đối tác cũ của mình cùng gã hợp tác khai thác.

Một người cha, một người chủ như mình phỏng sẽ làm được gì cho rạng rỡ tổ tông, con cái hoan hỉ.


***

Để dễ liên hệ với câu chuyện mình vừa kể, mời bạn xem lại các diễn biến thực tế mà mình tạm thống kê một số sự kiện mà hẳn bạn đã biết. Thống kê này có thể chưa đầy đủ nhưng đó là lý do tại sao: Thôi rồi, biển Đông!

- 6/ 2007: Tập đoàn Dầu khí British Petroleum (BP) của Anh, tuyên bố tạm ngưng thăm dò tại lô 5.2 và 5.3 vì “áp lực từ tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc”. BP giải thích việc tạm ngưng thăm dò là “để cho các quốc gia có liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề”.


BP có 55,5% cổ phần ở lô 5.2 và 75% cổ phần ở lô 5.3. Các đối tác khác trong Dự án Nam Côn Sơn là ConocoPhillips của Hoa Kỳ và PetroVietnam.


BP đầu tư vào Việt Nam từ năm 1989 để thăm dò sản xuất dầu khí, phân phối khí gas lỏng LPG và dầu nhờn.


- 7/2008: Trung Quốc khuyên tập đoàn Exxon Mobil của Mỹ nên rút ra khỏi những dự án khai thác dầu với Việt Nam, sau khi có tin Exxon Mobil hợp tác với Petro Vietnam thăm dò các lô 135, 136, khu vực Tư Chính – Vũng Mây của bồn trũng Nam Côn Sơn.


Exxon Mobil cho biết chưa ký thỏa thuận nào về việc thăm dò – khai thác dầu ở biển Đông, trừ việc cùng PetroVietnam lượng định kỹ thuật và thương mại cho một số địa điểm có triển vọng ở biển Đông.

Tuy không rút lui nhưng Exxon Mobil không làm gì thêm.

- 3/2009: BP của Anh chính thức tuyên bố rút khỏi dự án thăm dò dầu khí tại hai lô 5.2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam, sau gần hai năm tạm ngưng hợp tác thăm dò – khai thác.


- 5/2010: Việt Nam phải cử chiến hạm hộ tống tàu Aquila Expoler của Công ty thăm dò – khai thác dầu khí Neon Energy (Úc) khi tàu này tiến hành thăm dò địa chấn hai chiều ở lô 120 ngoài khơi Quảng Ngãi.

- 5/2011: ConocoPhillips – Tập đoàn Dầu khí lớn thứ ba tại Mỹ xác nhận kế hoạch bán cổ phần trong ba công trình khai thác dầu hỏa và khí đốt tự nhiên ở biển Đông.

Lúc đó, ConocoPhilips nắm giữ 23,3% cổ phần trong một cụm gồm 5 mỏ dầu thuộc lô 15-1, 36% cổ phần của mỏ Rạng Đông trong lô 15-2 tại khu vực bể Cửu Long. Trong năm 2009, sản lượng các mỏ dầu này đạt mức tương đương 32.000 thùng mỗi ngày. Ngoài ra, Conoco còn có 16,3% cổ phần trong đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, công suất 700m3/ngày, nối liền bể Nam Côn Sơn với miền Nam Việt Nam.

- 6/2011: South China Morning loan báo, Trung Quốc liên tục đe dọa Idemitsu (Nhật), BP (Anh) và ExxonMobil (Mỹ) nếu các tập đoàn này không rút khỏi những dự án hợp tác thăm dò – khai thác dầu với Việt Nam.

- 10/2011: Trung Quốc cánh cáo “các công ty nước ngoài không tham gia thăm dò và khai thác dầu khí tại các vùng biển đang tranh chấp” sau khi ExxonMobil loan báo đã phát hiện ra dầu khí sau mũi khoan thứ hai trong lô 119 ngoài khơi Đà Nẵng.

- 06/2012: Tổng công ty Dầu khi Hải dương Trung Quốc (CNOOC) mời thầu 9 lô dầu khí ở biển Đông, cả 9 lô này đều nằm sát bờ biển miền Trung và miền Nam của Việt Nam.

- 2/2014: Lưu Khiêm – chuyên gia Viện Hàn lâm Chiến lược Năng lượng Trung Quốc thuộc Đại học Dầu khí Trung Quốc, tuyên bố do rất nhiều điểm tương đồng trong nhu cầu năng lượng, Ấn Độ và Trung Quốc cần phải hợp tác với nhau. Các hãng dầu khí Ấn Độ sẽ không thể hợp tác với Trung Quốc trong các dự án khai thác dầu hay đường ống dẫn khí nếu tiếp tục tham gia vào các dự án dầu khí với Việt Nam ở biển Đông.


- 2/2014: Lukoil – tập đoàn dầu khí lớn thứ hai của Nga tuyên bố rút khỏi dự án Hanoi Trough-02 (НТ-02), tại biển Đông. Lukoil mua 50% cổ phần trong dự án từ tháng 4 năm 2011. Ông Vagit Alekperov cho biết. Lukoil “phải rút khỏi dự án này” nhưng không cho biết lý do.

***
Cũng cần phải nhắc thêm để bạn… giận. Đó là tháng 3 năm 2009, sau khi ông Đới Bỉnh Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc, sang thăm Việt Nam và hai bên “nhất trí” lấy năm 2010 là “Năm Hữu nghị Việt – Trung”, nhằm kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai bên, BP chính thức thông báo ngưng hợp tác thăm dò – khai thác dầu khí trên biển Đông.

Trước đó, BP chỉ tạm ngưng hợp tác thăm dò – khai thác dầu khí trên biển Đông để chờ Việt Nam – Trung Quốc giải quyết tranh chấp chủ quyền. Họ chờ như thế gần hai năm và dứt hẳn khi quyết định chọn 2010 là “Năm Hữu nghị Việt – Trung” được công bố!

Tháng 11 năm ngoái, Việt Nam từng đề nghị giao cho ONGC Videsh của Ấn Độ năm lô để công ty này tổ chức thăm dò dầu khí ở biển Đông. Tuy nhiên, ONGC Videsh của Ấn Độ chỉ chọn một trong 5 lô mà Việt Nam đề nghị giao hồi năm ngoái và đang thẩm định hai lô mà Việt Nam mới đề nghị giao thêm.

Bảy lô mà Việt Nam giao cho ONGC Videsh của Ấn Độ là giao trực tiếp, không tổ chức đấu thầu theo thông lệ. Dưới gầm trời này chẳng lẽ chỉ còn ONGC Videsh của Ấn Độ đủ khả năng thăm dò, khai thác hay vì thiên hạ vẫy tay từ biệt hết rồi?

***
Đảng, Nhà nước nhận lo mọi chuyện. Cả mình và bạn đã nhiều lần tặc lưỡi, thôi thì… và bởi có rất nhiều người giống hệt chúng ta nên hậu quả phải là thế thôi! Tiên trách kỷ, hậu trách nhân!

Ngày hôm kia, nếu bạn hoan hỉ trước tin tàu của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam đang chặn đường tiến của giàn khoan Hải dương 981 và những hộ tống hạm của Trung Quốc trên biển Đông, ngày hôm qua nếu bạn hả hê trước viễn cảnh mà mấy ông tướng nghỉ hưu vạch ra, đó là tịch thu giàn khoan này thì cứ hoan hỉ, hả hê. Loại doping này không mất tiền mua mà tác dụng lại lớn.

Nếu thấy chưa đã, bạn cũng có thể tuyên bố “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982”. Thậm chí bạn có thể gào lên “không thể chấp nhận và kiên quyết phản đối”, có thể thề “sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình”.

Song ráng nhớ là chỉ có thể đứng trong bờ để ti toe thôi. Biển Đông? Xong rồi!

Đồng Phụng Việt
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests