Bình Luận , Quan Điểm

tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »


Image

Thông điệp của Tuổi trẻ qua phiên tòa Long An

Trần Gia Phụng

(Danlambao) - Vấn đề phân biệt giữa đảng CSVN và chính quyền VN tuy do hai sinh viên nhỏ tuổi đặt ra, nhưng là một tiền đề chính trị lớn, hết sức lớn lao, chẳng những liên hệ đến quyền lực của đảng CSVN mà còn liên hệ đến cơ cấu tổ chức công quyền Việt Nam và cao hơn hết, liên hệ đến cả điều 4 hiến pháp hiện hành. Đặc biệt em Uyên Phương dùng máu của chính mình, viết huyết thư “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” và “Đảng cộng sản chết đi”, chứng tỏ ý chí mạnh mẽ của một người trẻ tuổi Việt Nam, nêu cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, chống độc tài toàn trị...

“Mình với ta tuy hai mà một / Ta với mình tuy một mà hai” là câu ca dao diễn tả tình nghĩa gắn bó lứa đôi, được cộng sản (CS) ứng dụng trong sinh hoạt chính trị khi tổ chức cầm quyền. Đảng CS chủ trương rằng đảng CS và nhà nước CS tuy hai mà là một, trong khi thực chất cơ cấu của một chính quyền dân chủ thì đảng CS với nhà nước CS không thể một mà phải là hai.


1. Tuy hai mà một

Ngay sau khi cướp chính quyền và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2-9-1945, hội nghị Trung ương đảng Cộng Sản Đông Dương ngày 11-9-1945 tại Hà Nội đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền cai trị đất nước. (1)

Từ đó, đảng CS tìm cách hội nhập hai khái niệm về đảng và chính quyền thành một. Rõ nét nhất là quốc hiệu “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” được đặt ra từ năm 1976. Tổng số đảng viên CS hiện nay khoảng 3 triệu đảng viên trên tổng dân số Việt Nam khoảng gần 90 triệu người, nghĩa là số đảng viên chỉ bằng khoảng hơn 1/30 tổng dân số Việt Nam. (Con số phỏng chừng, chưa chính xác). Như thế tại sao gần 87 triệu người Việt Nam không CS, phải mang trên lưng quốc hiệu “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa”, toàn màu sắc CS. Đây phải chăng là nguyên tắc đa số phục tùng thiểu số theo kiểu CS?

Nền hành chánh của CS là nền hành chánh song hành, vì bên cạnh chính quyền, luôn luôn có ủy ban đảng CS, gọi tắt là đảng ủy. Đảng ủy có mặt từ trung ương xuống tới địa phương, xuống tới làng xã, cả hành chánh dọc, lẫn hành chánh ngang. Nền hành chánh song hành CS còn nặng nề hơn nền hành chánh song hành thời Pháp thuộc. Nền hành chánh song hành thời Pháp thuộc chỉ ngang đến cấp tỉnh mà thôi. Bên cạnh triều đình có viên khâm sứ (Trung Kỳ) hay viên thống sứ (Bắc Kỳ). Bên cạnh các tổng đốc hay tuần phủ có viên công sứ. Pháp không có hành chánh cấp huyện ở Việt Nam. Đàng nầy, bên cạnh chính phủ có Ban bí thư Trung ương đảng, trong đó các trưởng ban TƯĐ có vai vế và quyền lợi còn hơn các bộ trưởng trong chính phủ. Bên cạnh Ủy ban Nhân dân tỉnh hay thành phố có tỉnh ủy, thành ủy đảng bộ địa phương. Xuống tới quận, huyện, phường, xã... Bên cạnh các cơ quan ty sở, luôn luôn có đảng ủy cơ quan ty sở... Dân chúng lâm vào tình trạng một cổ hai tròng, phải đóng thuế để nuôi cả hai nền hành chánh: hành chánh thông thường và hành chánh đảng CSVN vì các đảng viên trong đảng ủy được xem như công nhân viên chức nhà nước. Đảng là của một nhóm người, mà đảng viên làm việc cho đảng lại lãnh lương nhà nước do toàn dân đóng thuế.

Trong quân đội cũng có đảng ủy. Viên chính ủy (ủy viên chính trị) có quyền quyết định mọi sinh hoạt của đơn vị. Nhân buổi lễ mừng quân đội CSVN tròn 20 tuổi tại Hà Nội ngày 22-12-1964, có sự hiện diện của đại tướng Kim Tsang Bông và đoàn đại biểu quân đội Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (Bắc Hàn), Hồ Chí Minh nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.” (2). Tại sao không trung với nhân dân, với tổ quốc mà lại trung với đảng? Không có nhân dân, không có tổ quốc thì làm sao có đảng mà bắt phải trung thành? Ngày nay, để làm đẹp hình tượng Hồ Chí Minh, có người sửa lại: “Quân đội ta trung với nước...(?)”

Nhà nước CSVN nhồi sọ dân chúng bằng một câu khẩu hiệu lạ lùng: “yêu tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa”. Không lẽ ngày xưa chưa có “xã hội chủ nghĩa”, tổ tiên chúng ta không yêu tổ quốc hay sao? Không yêu tổ quốc sao đã bao phen tổ tiên chúng ta anh dũng chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc?

Cao điểm của sự nhập nhằng giữa đảng và tổ quốc, đảng và chính quyền là điều 4 hiến pháp năm 1992, nguyên văn như sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.” (3)

Đảng CS nắm độc quyền cai trị, đè đầu đè cổ dân chúng, nhưng cái gì cũng đổ tiệt cho dân. “Đất đai là sở hữu của toàn dân”, nhưng “do nhà nước quản lý”. Công an đàn áp dân chúng thì gọi là “công an nhân dân”. Ngược lại chuyện tiền bạc, cái hầu bao của đất nước thì thuộc về “ngân hàng nhà nước”. Mỗi khi có nguy biến, đảng liền đẩy dân chúng ra làm vật hy sinh, đỡ đạn cho đảng CS. Ví dụ khi bị Pháp truy bức, Hồ Chí Minh và đảng CS sợ bị Pháp bắt ở Hà Nội, liền hô hào kháng chiến chống Pháp tối 19-12-1946, rồi toàn bộ lãnh đạo CS trốn ra khỏi Hà Nội, chạy lên rừng núi ẩn tránh. Trong suốt cuộc chiến từ 1946 đến 1975, hoàn toàn không có một tướng lãnh hay sĩ quan CS nào hy sinh hoặc tuẫn tiết, mà CS chỉ toàn đẩy binh sĩ ra phía trước theo chiến thuật biển người, bất kể hỏa lực của đối phương, nên cán binh CS chết nhiều, đúng như câu thơ của Phùng Quán trong bài thơ “Chống tham ô lãng phí”: “Những con người tiêu máu của dân / Như tiêu giấy bạc giả!...”


2. Thông điệp của Tuổi Trẻ

Đảng CSVN quyết kềm hãm chính quyền trong vòng tay đảng, xem chính quyền chỉ là công cụ của đảng CSVN, chỉ là cánh tay nối dài của đảng CSVN. Trong quá khứ, có nhiều cuộc phản đối trong nội bộ đảng CS vì khác chủ trương chính sách của đảng, cũng như đã xảy ra những cuộc phản đối của dân chúng chống lại chế độ CS độc tài toàn trị, nhưng hầu như không có cuộc phản đối nào đặt vấn đề tách biệt hệ thống đảng ủy ra khỏi hệ thống cầm quyền của chế độ do CS kiểm soát.

Vào tháng 2-2013, trong “Vài lời gởi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng”, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên cho rằng đảng CSVN và nhân dân Việt Nam là hai thành phần riêng biệt. Vì vậy, theo Nguyễn Đắc Kiên, tổng bí thư đảng CS Nguyễn Phú Trọng không có tư cách để phê phán toàn thể nhân dân là suy thoái, mà tổng bí thư Trọng chỉ có thể nói với đảng viên đảng CS của ông mà thôi. Ý kiến của Nguyễn Đắc Kiên trình bày công khai trước dư luận quần chúng phải nói là rất can đảm, nhưng chỉ tách biệt giữa đảng CS và nhân dân, chưa phải là vấn đề pháp lý trong sinh hoạt chính trị đất nước.

Bỗng nhiên, ngày 16-5-2013, tại pháp đình Long An, trong phiên tòa xét xử hai sinh viên yêu nước, bùng nổ vấn đề rất quan trọng về pháp lý nầy. Tại phiên tòa nầy, sinh viên Nguyễn Thị Phương Uyên tuyên bố: “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất… Tôi vẽ bức tranh này trong 15 phút để thể hiện thực tế người dân thấp cổ bé miệng khi nói ra thì bị đàn áp…. Việc tôi làm, tôi chịu, yêu cầu không gây khó khăn cho gia đình tôi. Tôi là một sinh viên, là đại diện cho tầng lớp trí thức, sức mạnh của đất nước, tôi mong muốn phiên tòa hôm nay xét xử công bằng để tôi sớm được trở về với cộng đồng, tiếp tục cống hiến cho đất nước và thể hiện lòng yêu nước.” (Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Nhung, thân mẫu của Phương Uyên, sau khi tham dự phiên tòa Long An ngày 16-5-2013.) (VOA ngày 16-5-2013)

Cũng sau phiên tòa nầy, bà Nguyễn Thị Kim Liên kể về con mình, Đinh Nguyên Kha, như sau: “Kha nói từ đầu đến cuối mình yêu nước, mình không chống dân tộc, mà chỉ chống đảng cộng sản. Kha nói chống đảng thì không phạm tội… Kha nói theo bản cáo trạng xem việc chống đảng là phạm tôi thì nó không biết, vì không có luật nào nói như vậy” (4).

Đây là lần đầu tiên có hai người không phải là chính trị gia, cũng không phải là luật gia, cũng chẳng khoa bảng cao cấp, mà chỉ là hai em sinh viên trẻ, đặt vấn đề công khai trước tòa án, cơ quan pháp luật đại diện cho nhà cầm quyền CSVN, rằng chính quyền là chính quyền, còn đảng CS là đảng CS. Cả hai sinh viên đều xác nhận họ là những người yêu nước, chống Trung Quốc xâm lược, chống đảng CSVN, chứ họ không chống chính quyền hiện nay trong nước, không vi phạm điều 88 bộ luật Hình sự.

Nguyên văn điều 88 luật Hình sự đã được Quốc hội CS sửa đổi và bổ sung năm 2009 như sau: “1) Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2) Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.”

Rõ ràng điều 88 luật Hình sự trên đây chỉ nói đến “Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...” chứ hoàn toàn không đề cập đến việc chống Trung Quốc hay chống đảng CSVN, đúng như Đinh Nguyên Kha nói. Thật sự không có luật lệ nào trừng phạt người Việt Nam chống Trung Quốc vì bá quyền Trung Quốc xâm lược Việt Nam, chỉ trừ trường hợp công an CS, tòa án CS và nói chung là nhà nước CSVN hiện nay, nhận Trung Quốc chính là nhà nước của CSVN, thì mới dùng điều 88 luật hình sự của nhà nước CSVN kết án hai em vào tội tuyên truyền chống nhà nước mà thôi.

Nếu tòa án CS kết tội hai em vì hai em đã chống âm mưu xâm lược của Trung Quốc, thì CSVN có thể kết tội luôn tổ tiên chúng ta đã bao phen chống Trung Quốc xâm lược, từ Bà Trưng, Bà Triệu, đến Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Phải chăng vì vậy CSVN bỏ thi môn sử năm nay trong kỳ thi tốt nghiệp trung học, nhằm dẫn đến bỏ thi môn sử về sau, từ đó bỏ luôn môn sử trong học trình hoặc thay đổi môn sử trong học trình, để học sinh không biết sử, không biết quá khứ giữ nước, chống phương bắc rất hào hung của dân tộc Việt.

Cũng không có luật lệ nào quy định việc chống đảng CS là vi phạm luật pháp, trừ trường hợp chính bản thân ban lãnh đạo đảng CSVN đứng làm nguyên đơn kiện những ai đã dùng các phương tiện trái pháp luật nhà nước để chống đảng CSVN. Điều nầy, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể làm được, chứ ông chẳng có quyền kết án dân chúng suy thoái khi dân chúng đòi loại bỏ điều 4 hiến pháp 1992.

Cần chú ý là cả hai sinh viên nầy đều sinh sau năm 1975, dưới chế độ CS. Nguyễn Thị Phương Uyên 21 tuổi, Đinh Nguyên Kha 25 tuổi. Hai em đều học hành dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, sống trong lòng của chế độ CS, nên chắc chắn hai em hiểu khá rõ chế độ CS Việt Nam. Các em bị bắt giam từ tháng 10-2012, tức đã nằm trong tù CS khoảng 7 tháng, đã bị hành hạ, bị ngược đãi trong tù. Các em cũng biết rõ nhà tù CS dã man như thế nào, khổ cực như thế nào. Hai em cũng dư biết rằng nếu hai em “ăn năn nhận tội”, chấp nhận lời mớm cung hay ép cung của công an CS, thì hai em có thể sẽ được tòa án khoan hồng, giảm án. Chắc chắn hai em cũng bị công an CS đe dọa, nếu không nghe lời chúng, thì hai em sẽ bị trọng án, tù đày khổ cực trong thời gian dài.

Tuy nhiên, trong sắc phục học sinh hiền hòa, còn mang bảng hiệu nhà trường như hai học sinh gương mẫu, hai em tỏ thái độ hết sức tự tại, chững chạc, với ngôn ngữ hết sức tự tin khi đối đáp trước tòa án. Hai em can đảm xác định vững vàng thái độ của mình, nói thẳng, nói thật những suy nghĩ chin chắn của mình về hiện tình đất nước. Hai em khẳng định vì lòng yêu nước, hai em chống Trung Quốc xâm lược, chống đảng CSVN, là những điều mà bộ luật hình sự không quy tội, có nghĩa là hai em không vi phạm luật pháp nhà nước, hai em không phạm tội.

Thế mà phiên tòa Long An ngày 16-5-2013 đã vận dụng điều 88 luật Hình sự để kêu án Nguyễn Thị Phương Uyên 6 năm tù giam, 3 năm quản chế và Đinh Nguyên Kha 8 năm tù giam, 3 năm quản chế. Đặc biệt thái độ của hai em rất bình tĩnh, vững vàng, nói năng chừng mực, chứng tỏ hai em đã suy nghĩ chin chắn trước khi phát biểu, chứ không phải vì bồng bột, xúc động hay tức giận. Cuối cùng, sau khi quan tòa tuyên án, hai em yên lặng chấp nhận mà không nhận tội và không xin khoan hồng.

Luận điểm của Phương Uyên và Nguyên Kha về sự tách biệt giữa tổ chức chính quyền (đại diện của toàn dân) và đảng CSVN (đại diện cho một nhóm người) hoàn toàn hợp lý, vững vàng. Trên thế giới, hiện nay nước nào cũng có các đảng cầm quyền, nhưng đảng cầm quyền và chính quyền không thể là một. Nhà cầm quyền và đảng CSVN phải chấm dứt chuyện lợi dụng chính quyền, lợi dụng pháp luật của chính quyền để làm công cụ bảo vệ đảng CS.

Vấn đề phân biệt giữa đảng CSVN và chính quyền VN tuy do hai sinh viên nhỏ tuổi đặt ra, nhưng là một tiền đề chính trị lớn, hết sức lớn lao, chẳng những liên hệ đến quyền lực của đảng CSVN mà còn liên hệ đến cơ cấu tổ chức công quyền Việt Nam và cao hơn hết, liên hệ đến cả điều 4 hiến pháp hiện hành. Đặc biệt em Uyên Phương dùng máu của chính mình, viết huyết thư “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” và “Đảng cộng sản chết đi”, chứng tỏ ý chí mạnh mẽ của một người trẻ tuổi Việt Nam, nêu cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, chống độc tài toàn trị.

Đây là thông điệp của tuổi trẻ Việt Nam gởi cho toàn dân và gởi cho giới lãnh đạo đảng CS, như là một tiếng chuông đánh thức mọi người, nhằm phá vỡ chủ trương toàn trị của đảng CS và dọn đường cho thể chế tự do dân chủ trong tương lai. Thông điệp nầy chỉ được trình bày trong phòng xử án của pháp đình Long An, ít người dự khán, nhưng chẳng mấy chốc, thông điệp nầy đã truyền xa vạn dặm, bay khắp năm châu, làm cho toàn thể người Việt khắp thế giới bàng hoàng, xúc động và có thể nói nhức nhối tận tâm can.

Sau phiên tòa Long An ngày 16-5-2013, cha mẹ hai em Nguyễn Thị Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha tỏ ra rất hãnh diện về cách ứng xử của hai em. Chẳng những thế, toàn thể đồng bào Việt Nam trên thế giới đều khâm phục hai em. Hai em sống dưới chế độ CS mà không bị ô nhiểm theo chủ nghĩa CS. Hai em gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Những lời nói của hai em đã đi vào lịch sử đấu tranh cho tự do dân chủ của người Việt, thể hiện rõ nét hào khí dân tộc Việt, chính là sự kết tụ của hồn thiêng sông núi tiềm tàng trong lòng dân tộc, cho thấy rằng tiền đồ dân tộc Việt Nam vẫn còn đó, sáng rực ở phía trước...

Trần Gia Phụng
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Bước chân tự do

Nguyệt Quỳnh

Mỗi cuộc hành trình dù xa bao nhiêu, gian nan bao nhiêu, đều phải bắt đầu bằng những bước chân đầu tiên. Tôi nhớ một câu hát đã nghe được ở đâu đó: “Nếu ngày không còn nắng, con đường không còn ai, bốn phía vây kín chỉ là nỗi buồn, em hãy bước ra đi.” Cuộc dã ngoại để thảo luận về nhân quyền ngày 5 tháng 5, 2013 vừa qua là một cuộc chia tay của những công dân tự do với bóng tối và sự cam chịu bấy lâu.

Các công viên 30 tháng 4 ở Sài Gòn, Nghĩa Ðô Hà Nội và Bạch Ðằng Nha Trang tuy không dầy đặc người, và người dân bị lẫn, bị ngợp trong đám thanh niên áo xanh, đám công an chìm/nổi; nhưng người ta có thể nhìn thấy sự thiết tha của họ qua các tấm bảng dơ lên trước ngực, sự cương quyết muốn thể hiện niềm khao khát của từng con người. Họ đã thực sự bước những bước chân đầu tiên để làm người tự do.

Cách đây 58 năm, người phụ nữ da đen tên Rosa Parks cũng đã bước những bước chân đầu tiên trong cuộc cách mạng đòi quyền bình đẳng. Bà đã từ chối nhường chỗ ngồi trên xe buýt cho một người đàn ông da trắng khi được yêu cầu phải đứng lên. Bà bị cảnh sát Alabama bắt giam và phạt $14, nhưng bà trở thành biểu tượng cho cuộc đấu tranh của người da đen chống lại sự kỳ thị chủng tộc. Bà Rosa Parks không phải là người da đen đầu tiên đi xe buýt ở Montgomery bị bắt vì tội không nhường chỗ cho người da trắng, nhưng bà là người đầu tiên dám thách thức những bộ luật phân biệt chủng tộc tại tiểu bang Alabama. Hành động của bà, một người thợ may bình thường đã châm ngòi cho một phong trào tẩy chay của người da đen đối với hệ thống xe buýt kéo dài suốt 381 ngày. Kết quả dẫn đến là chính phủ đã phải xóa bỏ các quy định phân biệt chủng tộc trên hệ thống giao thông công cộng của toàn nước Mỹ.

Khi được hỏi về hành động của mình trên chuyến xe buýt định mệnh ở Montgomery, bà Rosa Parks đã trả lời:

“Nguyên nhân thực sự khiến tôi không đứng dậy lúc đó là vì tôi cảm thấy mình có quyền được đối xử như bất cứ hành khách nào khác. Chúng tôi đã phải chịu đựng kiểu đối xử đó quá lâu rồi.”

Nhân dân Việt Nam có quyền được đối xử bằng sự tôn trọng đúng mực như bất cứ một người dân ở một đất nước văn minh nào. Ðã đến lúc phải chấm dứt bạo lực và những thông tin dối trá. Hãy nhìn những ước muốn được thể hiện quyền con người của mình qua những tấm bảng được giơ cao trước mặt, trước ngực của những người tham dự buổi dã ngoại. Giữa cái khoảng trống an lành khi đám công an chưa xuống tay côn đồ; họ đứng, họ đi, họ ngồi với những biểu ngữ. Số lượng công an nhiều ngang ngửa với họ. Tôi cảm nhận như nghe thấy từ cái đám đông còn giới hạn đó những lời kêu gọi rất thiết tha: Hãy đến cùng với chúng tôi, chúng ta muốn được thực thi quyền làm người, chúng ta phải được đối xử như một người dân sống ở một quốc gia văn minh.

Chưa có thời đại nào người dân Việt Nam phải chịu nhiều nỗi oan trái, sỉ nhục, và bất công như hiện nay. Kẻ cầm quyền muốn bắt ai thì bắt, muốn đánh ai thì đánh, muốn cướp của ai thì cướp. Cứ nghe, cứ đọc, cứ nhìn thấy những chuyện oan khuất hàng ngày xảy ra cho người dân trên cả nước mới thấy rằng sự góp mặt của họ trong buổi dã ngoại này quan trọng như thế nào. Hôm 5 tháng 5 có lẽ có nhiều người chưa dám đến, nhưng ngày mai, ngày kia họ sẽ đến. Ðó là lý do mà chị Bùi Minh Hằng, blogger August Anh, blogger Nguyễn Hoàng Vi và bạn bè các anh chị đã luôn có mặt. Trong họ có người đã từng bị bắt bớ, đánh đập, Hoàng Vi đã từng bị lăng nhục trong đồn công an. Hoàng Vi dư hiểu rằng chị có thể bị chúng đánh đập lần nữa nhưng chị đã có mặt. Chị đang nối gót những người đi trước và tôi tin rằng chị cũng đang bước tới cho những người âm thầm sau lưng chị; như một bạn trẻ đã gởi thư riêng đến trang mạng Dân Luận.

Bạn trẻ này tâm sự: “Ngày hôm qua có quá nhiều sự kiện, có quá nhiều câu chuyện đáng nhớ, từ những câu chuyện cười ra nước mắt cho đến những giọt nước mắt đau đớn, căm phẫn và nhói lòng nên không biết phải kể cho chị nghe bắt đầu từ đâu, chưa bao giờ em thấy cảnh một chục thằng (công an) mà đi đánh một người như thế. Nhìn bạn Quốc Anh (blogger Angust Anh) bị đánh tơi bời như vậy, mà em chỉ còn biết bất lực đứng nhìn, muốn xông vào giải cứu thì sợ mình sẽ bị đánh như bạn ấy. Rồi đang đi trên đường trở về nhà em chỉ còn biết khóc và tự trách mình thật hèn.”

Thực sự, bạn ấy đã không hèn một chút nào, bạn ấy đã có mặt để bước cái bước chân đầu tiên. Mưu cầu một sự đổi thay tốt đẹp cho cả một dân tộc là việc làm đòi hỏi sự dũng cảm của rất nhiều người. Và bạn ấy đã có mặt.

Trong những năm gần đây, những biến cố của thế giới đã cho thấy sức mạnh của người dân là những dòng thác có thể cuốn trôi đi tất cả các chế độ độc tài mạnh mẽ nhất. Những cuộc cách mạng ngoạn mục đã xảy ra tại nhiều quốc gia như cách mạng Nhung tại Tiệp Khắc, cách mạng Cam tại Ukraine, cách mạng Hoa Lài tại Tunisia đã giải thoát hàng triệu người và tạo nên ngọn lửa hy vọng cho những dân tộc đang đắm chìm trong nỗi sợ hãi dưới chế độ độc tài. Chiến thắng bất ngờ của các cuộc cách mạng trên cho thấy khi người dân bình tĩnh, sẵn sàng đối đầu với những trấn áp; sự sợ hãi chuyển dần sang những kẻ cầm quyền, cuối cùng các chế độ bạo lực phải buông súng.

Bốn năm trước, trong cuộc xuống đường của dân chúng Iran có một đoạn phim ghi lại hình ảnh một thiếu nữ bị trúng đạn của cảnh sát. Video này ngay sau đó đã lập tức lan tràn, cả dân tộc Iran đặc biệt là nam giới đã vùng lên như chính mình bị thương. Rõ ràng bạo lực không chiến thắng được dân tộc Iran.

Còn hình ảnh ba người phụ nữ của gia đình blogger Nguyễn Hoàng Vi bị đánh đập đến đổ máu sẽ khiến dân tộc tôi nghĩ gì? Liệu có ai co rút lại không? Riêng Nguyễn Hoàng Vi thì không! Cô gái với nụ cười tươi thắm ấy vẫn tiếp tục đi Long An ủng hộ hai bạn Phương Uyên và Nguyên Kha trong ngày đối diện với tòa án công cụ.

Công luận thế giới cũng vậy. Hình ảnh Nguyễn Thảo Chi với những vết máu trên mặt, trên áo, hình ảnh của mẹ Nguyễn Hoàng Vi với dấu thuốc lá dúi vào mặt là những hình ảnh nói rõ nhất với thế giới về bản chất của giới lãnh đạo Việt Nam và sự bỉ ổi cùng cực của việc họ đang xin vào làm thành viên Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc.

Nếu 58 năm trước bà Rosa Parks chịu đứng dậy nhường cái ghế của bà, tôi tin chắc bà và những người Mỹ da màu khác sẽ còn phải tiếp tục đứng trên xe buýt ít nhất là một thập niên nữa. Nếu người dân Việt Nam không đòi hỏi phải được tôn trọng, phải được thực thi những quyền cơ bản nhất của chính mình ngay trong thời khắc này, tôi cũng tin con cháu chúng ta sẽ tiếp tục bị công an tha hồ đánh đập như những Nguyễn Hoàng Vi, Nguyễn Thảo Chi... và công an sẽ tiếp tục dúi thuốc lá vào mặt cả dân tộc ít nhất là một thập niên trước mắt.

Mọi cuộc hành trình dù dài ngắn bao nhiêu, đều phải bắt đầu bằng một bước chân. Nhiều người đã bắt đầu rồi, còn chúng ta thì sao?
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Tiền đã đổi luật chơi trong đảng
Các nhà quan sát thời sự đều đồng ý rằng Nguyễn Phú Trọng đã bị Nguyễn Tấn Dũng đánh bại thảm thương trong kỳ hội nghị Trung Ương Ðảng Cộng sản vừa qua, họ gọi là “Trung Ương Bẩy,” viết là TW7. Nhưng đằng sau “hiện tượng” đó, có những vấn đề sâu xa hơn, cho thấy trên sân banh chính trị đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay luật chơi đang thay đổi; ngay các cầu thủ cũng không biết họ đang theo “luật chơi” nào.

Nguyễn Tấn Dũng biết sử dụng một thứ luật chơi mới cho nên làm bàn liên tiếp, còn Nguyễn Phú Trọng thì vẫn quen đá theo lối cũ cho nên luôn luôn bị việt vị. Hiện tượng này không phải mới bắt đầu thấy trong TW7 mà đã diễn ra từ năm ngoái. Trong trận đá Hội nghị TW6, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang đồng loạt tấn công với khí thế rất phấn khởi, mà sau cùng Nguyễn Tấn Dũng vẫn không bị lung lay.

Ðối với quý vị không quen theo dõi thời sự, cần phải giải thích thêm vài lời. Hiện nay đảng Cộng sản đang cai trị nước Việt Nam. Có 175 người được gọi là Ban Chấp hành Trung ương Ðảng nắm quyền chọn người vào các chức vụ trong đảng và trong chính phủ. Họ bầu ra một nhóm 14 người gọi là Bộ Chính Trị, trong hội nghị TW7 đầu Tháng Năm 2013 mới bầu thêm hai người nữa thành 16. Ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư, một chức vụ xưa nay vẫn được coi là đứng đầu đảng. Nhưng hai ứng viên ông đề nghị vào Bộ Chính Trị, Nguyễn Bá Thanh và Vương Ðình Huệ đều bị rớt; hai người mới được vô, Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân đều thuộc phe Nguyễn Tấn Dũng. Thấy rõ bên nào thắng, bên nào thua.

Ít tiền thì thua?

Ông Nguyễn Phú Trọng đã chuẩn bị cho các ứng viên của mình trong nhiều bước. Thứ nhất là tái lập hai ban chuyên môn của Trung Ương Ðảng đã bị xóa bỏ từ năm 2007, là Ban Kinh Tế và Ban Nội Chính. Sau đó, cử hai người “phe ta” đứng đầu các ban này, tin tưởng rằng đến kỳ họp TW7 hai người đó sẽ được bầu vào Bộ Chính Trị; vì các trưởng ban khác đều được ngồi trong đó cả. Chuẩn bị kỹ như thế mà lại thua, cho nên thất bại của ông Nguyễn Phú Trọng kỳ này càng đau đớn hơn.

Trong lịch sử các đảng Cộng sản, thường thì người làm tổng bí thư nắm toàn quyền cài đặt người vào Bộ Chính Trị, trong ngôn ngữ của họ gọi là “cơ cấu.” Nhà báo Huy Ðức mới kể chuyện hồi Ðỗ Mười là tổng bí thư, ông lần lượt gọi hai người thuộc Bộ Chính Trị tới, nói với mỗi ông rằng: “Kỳ này tôi nghỉ, anh thấy sao?” Ông thứ nhất thật thà hỏi: “Thế ai sẽ thay anh?” Ông thứ hai thì đập tay xuống bàn kêu lên: “Trời ơi, đất nước đang như thế này làm sao anh nghỉ được?” Kết quả, ông thứ nhất bị mất chức, không được Ðỗ Mười cơ cấu cho nữa, còn ông thứ nhì giữ nguyên được ghế ủy viên Bộ Chính Trị.

Thời Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, cho tới Ðỗ Mười chức tổng bí thư trong đảng Cộng sản tương đương với ngôi hoàng đế trong thời quân chủ chuyên chế. Không đoán được ý tổng bí thư là mất chức, có khi còn mất mạng. Ngày nay luật chơi đã thay đổi.

Cái gì đã làm thay đổi luật chơi?

Tiền!

Nói một cách văn hoa, cái làm thay đổi luật chơi trong đảng Cộng sản là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Trong khẩu hiệu này, phần thứ nhất “kinh tế thị trường” sinh ra tiền. Cho dân được phép làm ăn tự do hơn, nhờ thế đô la từ nước ngoài đổ vào nhiều hơn, trước mắt thấy nhiều cơ hội làm tiền hơn. Phần thứ hai “Xã hội Chủ nghĩa” tức là vẫn nắm chặt quyền hành tập trung vào trong tay đảng. Nắm quyền thì khai thác được lòng sợ hãi, dùng đồng tiền thì kích thích lòng tham.

Ngày xưa, thứ năng lượng chính yếu đẩy cho cả guồng máy đảng vận hành là lòng sợ hãi, giống như dùng than đá hay xăng; còn lòng tham đóng vai phụ trợ, giống như dầu nhớt giúp máy chạy êm hơn. Ngày xưa, trên bảo dưới phải nghe, vì chức tổng bí thư nắm được đảng thì nắm quyền điều động cả bộ máy cưỡng chế; ra lệnh cho quân đội, công an, và các tổ chức mật vụ. Ngày nay, các khẩu hiệu và chiêu bài đó phai nhạt dần dần, thần thánh đã hết thiêng. Lòng sợ hãi không còn là năng lượng chính yếu nữa, lòng tham lên ngôi thay thế.

Sau khi Chủ nghĩa Xã hội lại có thêm Kinh tế Thị trường thì hai yếu tố quyền và tiền quyện lại với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, tạo thành một cơ chế vận hành mới điều động cả guồng máy đảng. Quyền chức không, chưa đủ. Người ta cần thứ quyền nào tạo ra được đồng tiền. Hậu quả là, đối với tất cả xã hội bên ngoài thì kẻ nào nắm quyền sẽ có cơ hội kiếm được nhiều tiền. Còn ở bên trong đảng thì chức vụ nào có khả năng chia chác cơ hội kiếm tiền cho người khác thì sẽ được bên dưới kính sợ; đến khi bỏ phiếu, sẽ được người ta theo lời “hướng dẫn.”

Trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, Ðại hội thứ chín, năm 2001 bắt đầu gia đoạn đồng tiền lên ngôi. Ðại hội này chọn một nhân vật lu mờ, không khả năng mà cũng không có cá tính; Nông Ðức Mạnh được bầu lại làm tổng bí thư Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng. Chọn một người như vậy cho lên làm “hoàng đế” cho thấy khuynh hướng giảm bớt sức nặng và vai trò của quyền. Nhưng đại hội đó cũng “xác định đường lối kinh tế là đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, vân vân.” Nói đến “phát triển lực lượng sản xuất” tức là mục tiêu kiếm tiền đã được đề cao.

Nông Ðức Mạnh ngồi yên trên cái ghế tổng bí thư suốt 10 năm là giai đoạn “quá độ,” quyền đang giảm giá, tiền dần dần lên ngôi. Kể từ đại hội lần thứ 11 của đảng Cộng sản thì vai trò của đồng tiền nổi bật lên.

Người thấy được sự thay đổi sớm nhất là ông Nguyễn Tấn Dũng. Có lẽ nhờ kinh nghiệm làm ăn với nhiều thứ nghề nghiệp và chức vụ khi còn sống ở miền Nam, Nguyễn Tấn Dũng đã dần dần nhận ra thứ quy luật mới đang thành hình trong cuộc chơi giành quyền hành trong đảng. Nguyễn Tấn Dũng đã nằm trong guồng máy công an, lại từng nắm quyền điều khiển cả Ngân Hàng Trung Ương, cho nên hiểu được cuộc vận hành của cả đồng tiền lẫn bạo lực.

Từ khi làm thủ tướng năm 2006, ông ta đã vận dụng các quy luật mới để củng cố địa vị. Nguyễn Tấn Dũng tập trung quyền điều động các xí nghiệp quốc doanh vào phủ thủ tướng, thay vì chia quyền cho các “bộ chủ quản” theo lối cũ. Từ đó, người đóng vai thủ tướng tạo cơ hội kiếm tiền cho tay chân của mình; phân phát cơ hội kiếm tiền để mua lòng trung thành của đồng đảng. Các ủy viên Trung Ương Ðảng được chia chỗ trong Hội Ðồng Quản Trị của các doanh nghiệp nhà nước. Các chương trình kinh tế đều nhằm tạo cơ hội kiếm tiền cho những thủ túc chứng tỏ lòng trung thành. Khi người dân Việt Nam nhận thấy cả guồng máy cai trị là một mạng lưới tham nhũng chằng chịt liên kết với nhau, người cầm đầu mạng lưới đó là ông thủ tướng.

Nguyễn Phú Trọng không nhìn ra là trên sân banh luật chơi đã thay đổi. Cho nên ra sân hai lần đều thất bại. Năm ngoái, tính lật Nguyễn Tấn Dũng mà không lật được. Năm nay, hai đàn em đều không vào được Bộ Chính Trị. Người Hà Nội vẫn nói Lú như Trọng, nhưng chắc không ai ngờ ông ta lú đến như vậy. Khi đọc diễn văn kết thúc hội nghị Trung Ương 7, ông Nguyễn Phú Trọng phải giới thiệu Bộ Chính Trị có thêm hai ủy viên mới, mà không thèm nhắc đến tên người nào cả. Thái độ đó chỉ cho mọi người thấy là ông quá “cay cú.” Mà cay cú như vậy thì ông sẽ phải tìm cách phản công. Phương pháp phản công duy nhất là thay đổi lại luật chơi. Còn nhiều thứ luật chơi khác có thể thay đổi tình thế. Người Việt mình vẫn nói “Nó lú nhưng chú nó khôn. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng không nghĩ ra kế nào thì “các chú” của ông chắc chắn khôn hơn thế nào cũng nghĩ ra!

Ngô Nhân Dụng
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Trương Duy Nhất: Cái còng và khẩu súng không thể chĩa vào Nhất

Image
Blogger Trương Duy Nhất bị Bộ Công an áp giải ra Hà Nội vào lúc 16g cùng ngày (Ảnh: Báo Tuổi Trẻ)

Đào Tuấn

Tháng 10 năm ngoái, “Một góc nhìn khác” đã nhận được lời cảnh cáo về “thái độ tiêu cực, thiếu ý thức xây dựng, thậm chí kích động dư luận xã hội“.

Tuy nhiên, bấy giờ Trương Duy Nhất đã trả lời rằng “nếu chỉ đọc thấy trên trang này “thái độ tiêu cực, thiếu ý thức xây dựng, thậm chí kích động dư luận xã hội“, thì chính quí vị mới là kẻ tiêu cực, thiếu ý thức và kích động, thậm chí là… phản động!”. Nói thẳng như thế, với cơ quan an ninh.

Không ít lần, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp (trên một bản sử ký chẳng hạn tôi đã nói anh “mó dái ngựa”) tôi bóng gió nói về việc Trương quá thẳng thắn và những lời lẽ sắc bén như dao cạo của anh khiến ngay cả những người đọc bình thường cũng gây sốc. Nhưng, với tính cách người xứ Quảng (nơi anh lớn lên từ bé), Trương Duy Nhất nói anh không chịu nổi “cách nói kiểu Bắc Hà”.

Sau khi anh post bài này, tôi có trao đổi với anh rất dài. Trương Duy Nhất có đùa rằng nếu anh “có làm sao” thì hy vọng tôi là người sẽ đi thăm anh. Tuy nhiên, Nhất khẳng định Công an không thể bắt anh được. Vì anh công khai tên tuổi. Vì anh nói thật. Vì người ta không thể bắt một người vì nêu chính kiến cá nhân, dẫu những ý kiến đó là chỉ trích và có thể làm người khác tức giận.

Nhưng hôm nay, Trương Duy Nhất đã bị bắt. Dù lý do chưa được tiết lộ. Nhưng với điều 258, có lẽ, sẽ ít nhiều liên quan đến những điều anh viết. Thôi thì cứ coi như là “Sinh nghề tử nghiệp”. Cứ coi như anh phải trả giá cho khí chất xứ Quảng thẳng đến không thể chịu nổi.
Image
(Ảnh: Trương Duy Nhất (áo đen) trong một lần ra Hà Nội)

Đây là bài mà Trương Duy Nhất đã viết vào tháng 10 năm ngoái, với nhan đề “Viết sau 3 cuộc làm việc với công an”.

*
Sau khi về quê ngoại truy lục lý lịch, sáng qua thứ sáu 12/10/2012, công an tiếp tục làm việc với tôi.

Thật ra đây là lần thứ ba. Hai lần trước tôi đã im lặng bởi coi đó là những động thái góp ý thiện chí, tích cực. Lần này là A 87 (cục an ninh thông tin truyền thông Bộ Công an), cơ quan an ninh văn hóa và an ninh điều tra. Thượng tá Trần Quốc Bảo khuôn mặt tươi tỉnh, dễ cảm tình. Phía công an Đà Nẵng, đại tá Nguyễn Ngọc Dương và thượng tá Nguyễn Nho Chinh (trưởng - phó phòng PA83) thì không xa lạ gì. Đây là 3 khuôn mặt tạo cho tôi nhiều ấn tượng tốt, cho tới bây giờ.

Nhưng sau khúc chào hỏi dạng tuyên bố lý do, giới thiệu mục đích quen thuộc khá nhã nhặn cảm tình là một buổi khảo tra, qui chụp khá nặng nề kéo dài đến gần 12 giờ trưa (cho dù tôi đã tuyên bố trước là chỉ làm việc đến 11 giờ). 3 cán bộ khá trẻ với những tập bài viết photo dày cộp ngồi đối diện tôi là Nguyễn Văn Cương (A87, không biết hàm chức gì vì mặc thường phục, không phù hiệu không bảng tên), thiếu tá Nguyễn Ngọc Ánh (PA83) và thượng úy Lê Thanh Dương (PA92).

Phía công an gọi cuộc làm việc, truy hỏi này là “trao đổi đối thoại”, nhưng tôi không có nhu cầu trao đổi đối thoại với công an. Những gì cần viết tôi đã viết, những gì cần nói tôi đã nói, những gì cần trao đổi tôi cũng đã trao đổi, trao đổi đến cạn nghĩa dốc lòng qua hai lần làm việc trước. Vì thế lần thứ 3 này tôi không còn nhu cầu trao đổi đối thoại nữa.

Một “biên bản lấy lời khai” được lập như mọi lần. Tôi ký như muốn rạch nát tờ giấy sau khi ghi “Tôi không đồng ý với cách ghi “lời khai” bởi tôi không phải là tội phạm và cũng không có hành vi sai phạm nào. Tôi không đồng ý với những nhận xét mang tính qui chụp của câu hỏi. Trang blog của tôi không có bất cứ điều gì sai phạm”.

Đã 3 lần công an mời tôi lên làm việc. Thậm chí đã nhiều lần tôi chấp nhận cả các hình thức “trao đổi đối thoại” ở quán nhậu - cà phê. Vì thế, đây cũng sẽ là lần cuối cùng tôi chấp nhận đến làm việc với công an theo giấy mời.

Tôi đã định dành một bài chi li trả lời lại những câu hỏi khảo tra đầy tính qui chụp qua tất cả 3 cuộc làm việc, nhưng nghĩ lại thấy không cần thiết. Điều đó đến giờ là quá thừa.

Nên biết đọc và nhìn những bài viết trên trang của tôi ở nghĩa tích tực. Và thật sự rất nhiều bài viết, nhiều phản biện góp bàn của tôi đã tạo ra những hiệu ứng và thay chuyển tốt. Hơn 4 năm trước, khi một ông Phó trưởng ban tuyên giáo trung ương phán định trang Trương Duy Nhất có “thái độ tiêu cực, thiếu ý thức xây dựng, thậm chí kích động dư luận xã hội“, tôi đã trả lời rằng “nếu chỉ đọc thấy trên trang này “thái độ tiêu cực, thiếu ý thức xây dựng, thậm chí kích động dư luận xã hội“, thì chính quí vị mới là kẻ tiêu cực, thiếu ý thức và kích động, thậm chí là… phản động!”.

Tôi không phải tội phạm. Những bài viết trên trang blog Trương Duy Nhất- Một góc nhìn khác cũng không đả phá, không phản động. Những loại giấy mời, triệu tập và hình thức khảo tra đó hãy dành cho những thằng phản động đang “cõng rắn cắn gà nhà”, những “nhóm lợi ích” đang thâu tóm hệ thống ngân hàng và tài sản quốc gia, những “bầy sâu ăn hết phần của dân”, những “bộ phận không nhỏ” trong đảng đang đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ.

Đấy mới là cách bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ. Bọn đó mới là tội phạm, là lũ trọng phạm đang đục khoét đe dọa đến sự tồn vong của đảng và chế độ, chứ không phải là trang blog của tôi. Bọn đó mới là lũ phải gửi “giấy mời”, phải triệu tập, phải bắt giam, phải… chém đầu bêu trước nhân dân!

Đó mới đúng là chức phận của ngành công an. Cái còng và khẩu súng là để chĩa vào bọn vinh thân phì gia, những kẻ đang cài nhét con cháu vào ghế này chức nọ bất chấp nguyên tắc và đạo lý, đục khoét ăn hại tàn phá đất nước, chứ không phải chĩa về những cây bút dám vứt bỏ hi sinh tất tật mọi quyền lợi để dốc lòng cạn tâm đêm ngày phản biện góp bàn cho sự chuyển thay tích cực của đảng và dân tộc như Trương Duy Nhất.

Nguồn: Blog Đào Tuấn
buikiem
Posts: 501
Joined: Sat Sep 22, 2012 12:45 am
Contact:

Post by buikiem »

Image

Võ Thị Thắng và Nguyễn Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng

Trần Trung Đạo

Một nữ đặc công thuộc lực lượng biệt động thành Sài Gòn được bộ máy tuyên truyền Cộng Sản đánh bóng đến mức không thể nào bóng hơn. Đó là bà Võ Thị Thắng. Nụ cười khá ăn ảnh của bà bên ngoài tòa đại hình Sài Gòn, được một phóng viên Nhật chụp ngày 27 tháng 7 năm 1968 và được Trần Quang Long đưa vào nhạc phẩm Nụ cười chiến thắng. Bắt lấy cơ hội tuyên truyền, theo chỉ thị của đảng, từ đó, không biết bao nhiêu phim, nhạc, thơ, bình luận, hồi ký, bút ký đã viết về bà Võ Thị Thắng.

Kỹ thuật nhồi sọ theo kiểu “Tăng Sâm giết người” rất đơn giản nhưng vô cùng hữu hiệu. Những thông tin có tính chỉ đạo của đảng đã theo nhiều ngã tấn công và tấn công liên tục vào ý thức vào con người. Từ sáng đến chiều, từ ban ngày qua ban đêm, từ năm tàn qua tháng tận, dần dần không chỉ các em học sinh có tâm hồn ngây thơ trong trắng yêu “nụ cười chiến thắng” của bà mà cả người lớn cũng say mê những “mẫu chuyện anh hùng” về bà Võ Thị Thắng.

Và không những đảng viên CS mà cả những người “phê bình đảng”, những “nhà phản biện” cũng không thoát ra khỏi sức hút của “nụ cười Võ Thị Thắng”. Trong phiên tòa xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tháng 4 năm 2011, và lần nữa sau phiên tòa xử hai em Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha mới đây, “nụ cười chiến thắng” của Võ Thị Thắng lại được một số tác giả nhắc đến để ca ngợi tinh thần yêu nước dũng cảm của hai em Phương Uyên và Nguyên Kha. Khi dùng nụ cười một nữ khủng bố để so sánh với ước vọng dân tộc, nhân bản và hòa bình trong tâm hồn trong như ngọc của một nữ sinh viên, các tác giả không để ý đến những nghịch lý vô cùng căn bản trong hai mục đích sống, hai phương pháp đấu tranh và hai nhân cách đạo đức hoàn toàn trái nghịch giữa hai con người.

Võ Thị Thắng là ai ?

Bà Võ Thị Thắng, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1945 tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN khóa VIII và khóa IX. Bà là con út của 10 anh em sinh ra trong một gia đình Cộng Sản hoạt động tại Long An. Từ khi còn nhỏ bà đã giúp cha mẹ đưa cơm, nuôi giấu cán bộ CS.

Sau khi từ Long An lên Sài Gòn đi học đến lớp đệ nhị, tức lớp mười một bây giờ, tại trường Gia Long. Theo tài liệu chính thức của đảng, trong thời gian tại Sai Gòn, “Thắng tham gia phong trào đấu tranh xuống đường của thanh niên sinh viên, học sinh Sài Gòn Gia Định; rồi phong trào công nhân và nhân dân lao động khu xóm, xí nghiệp nội thành; khẩn trương gây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ chính trị nội thành, diệt ác phá kềm, ém quân, vũ khí mai phục, chuẩn bị vào đợt Mậu thân - tổng công kích khởi nghĩa năm 1968.”

Từ sau Mậu Thân, bà Võ Thị Thắng gia nhập lực lượng biệt động thành Sài Gòn và được giao nhiệm vụ ám sát ông Trần Văn Đỗ. Ông Trần Văn Đỗ chẳng phải là viên chức cao cấp, một chính khách tên tuổi gì của chính phủ VNCH mà chỉ là phường trưởng phường Phú Lâm, quận 6, Sài Gòn. Theo tài liệu đăng trên Quân Đội Nhân Dân ngày 17-09-2009 “Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác thường lệ tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ. Thấy động tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng”. Vụ ám sát bị lộ, bà bị bắt, đưa ra tòa đại hình và bị kết án hai mươi năm tù. Sau khi hiệp định Paris ký kết, bà Võ Thị Thắng được trao trả về phía Cộng Sản tại Lộc Ninh vào tháng 4 năm 1974.

Tóm lại, dù “vận chuyển vũ khí mai phục” hay “ám sát”, nhiệm vụ chính của nữ cán bộ CS Võ Thị Thắng là giết người. Bà Thắng không giết Tây, không giết Mỹ nhưng như bằng chứng trước tòa, bà đi giết người Việt Nam.

Hoạt động của biệt động thành Sài Gòn chủ yếu là bắt cóc, ám sát, ném bom, đặt chất nổ tại các nơi công cộng. Những hoạt động đó xét theo tiêu chuẩn nào, vào thời kỳ nào và nhân danh bất cứ lý do gì đều là các hoạt động khủng bố. Yasser Arafat, chủ tịch Tổ Chức Giải Phóng Palestine (Palestine Liberation Organization), một tổ chức có liên hệ rất nhiều với các hoạt động khủng bố chống Do Thái và từng thề sẽ làm cho “cuộc sống của người dân Do Thái không thể nào chịu đựng nỗi” cuối cùng cũng thừa nhận khủng bố là một hành động xấu xa, tội lỗi.

Phương pháp khủng bố của biệt động thành Sài Gòn hoàn toàn giống như hoạt động của phong trào Tháng Chín Đen tại Jordan thập niên 1970, của các nhóm Hồi Giáo cực đoan tại Iraq sau 2003, Taliban tại Afghanistan sau 2001, của cánh cực đoan quân sự Hamas tại Palestine, của tổ chức al-Qaeda tại nhiều nơi trên thế giới hiện nay. Giống như hầu hết các tổ chức khủng bố, ngoài việc lấy mục đích biện minh cho phương tiện bất nhân, những kẻ giết người cũng đã được ca ngợi và vinh danh.


Để giết một người Mỹ các nhóm khủng bố al-Qaeda đã giết hàng trăm người dân chính nước họ như các hành động đặt đang bom diễn ra tại Iraq. Tương tự, để giết một người Mỹ hay một người lính VNCH, các biệt động thành Sài Gòn đã giết nhiều người Việt Nam vô tội trong đó có đàn bà trẻ em. Một người Việt Nam lớn tuổi nào cũng không thể quên “chiến công hiển hách” của lực lượng biệt động thành tại nhà hàng Mỹ Cảnh tối 25 tháng 6, 1965. Trong số hàng trăm người chết do hai trái mìm đặt tại nhà hàng có nhiều “kẻ thù nhân dân” còn mặc tả.

Nguyễn Phương Uyên là ai?


Nguyễn Phương Uyên, sinh 12 tháng 10, 1992, sinh viên năm thứ 3 trường Đại học Công nghiệp thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh, cư ngụ xã Hàm Trí, huyện Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận.

Khác với Võ Thị Thắng được cha mẹ nuôi dường bằng lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sinh viên Nguyễn Phương Uyên, dù tham gia đoàn trường của đại học nhưng bản chất là một cô bé ngoan hiền, hồn nhiên, hiếu thảo và có tấm lòng vị tha đối với mọi người. Trong hai mươi mốt năm làm người từ lúc mới sinh ra cho đến nay, cô bé mảnh mai này, ngoại trừ lúc vô tình dẫm lên, có thể chưa tự tay giết một con kiến đừng nói chi nghĩ đến chuyện giết người. Một bộ ảnh do bạn bè thu thập cho thấy một Phương Uyên sống yên vui bên cạnh gia đình. Các em vui chơi, nhảy nhóc tung tăng, cười nói hồn nhiên như một cánh bướm vàng trong khu vườn xuân tuổi trẻ. Một bạn học của em trả lời đài Á Châu Tự Do: “Năm cấp 3, em và Uyên chơi thân với nhau. Trong lớp học, Uyên học rất chăm chỉ. Bạn ấy hiền lắm. Khi đi học, bạn bè có gì là bạn ấy hay giúp đỡ lắm. Nói chung, bạn ấy rất năng động trong những hoạt động của trường lớp và hòa đồng với bạn bè.”

Khác với Võ Thị Thắng là sản phẩm tuyên truyền, được sơn bằng những lớp son phấn giả tạo, Nguyễn Phương Uyên là một con người thật, tinh khôi như một thiên thần. Trong lúc Võ Thị Thắng đấu tranh bằng phương tiện giết người, bạo động Nguyễn Phương Uyên chọn phương pháp ôn hòa để gióng lên tiếng nói của mình. Che khuất trong đôi cánh thiên thần Phương Uyên là lòng yêu nước vô cùng trong sáng. Trong vóc dáng như sợi tơ tưởng chừng một cơn gió nhẹ cũng có thể thổi em bay ra khỏi cửa sổ là một trái tim chan chứa tình dân tộc không thể nào lay chuyển được. Em đứng trước tòa án CS nhẹ nhàng như một nhánh lau non trước cơn bão lớn, điềm tỉnh nhưng cương quyết: “Việc tôi làm thì tôi chịu, xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn”. Và em nói tiếp “Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm”.

Tại sao nhiều người vẫn tin vào các “anh hùng” do đảng CS dựng nên?

Nikolai Bukharin, lý thuyết gia Cộng Sản, chủ nhiệm báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CS Liên Xô và người bị Stalin thanh trừng năm 1938, viết trong tác phẩm kinh điển “ABC về chủ nghĩa Cộng Sản”: Tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản, về lâu dài trở thành một phương tiện để xóa bỏ mọi tàn tích cuối cùng của tuyên truyền tư sản bắt nguồn từ chế độ cũ, và là phương tiện mạnh mẽ để tạo ra một hệ lý luận mới, một cách suy nghĩ mới, một tầm nhìn về thế giới mới.”

Với chủ trương đó, chính sách trồng người của các chế độ CS thể hiện qua hai phương pháp: giáo dục và tẩy não.

Về giáo dục, nền giáo dục Cộng Sản không đặt trên cơ sở khách quan khoa học nhưng là một hệ thống tuyên truyền phục vụ cho các mục tiêu của đảng và nhà nước CS trong mỗi thời kỳ. Về tẩy não, năm kỹ thuật căn bản được áp dụng triệt để trong phạm vi toàn xã hội cho đến từng người: cô lâp, kiểm soát, tạo sự bất an, lập đi lập lại và gây xúc động cho đối phương.

Nhận thức của con người không ở trong trạng thái tỉnh nhưng luôn luôn biến động, thay đổi và đón nhận các nguồn thông tin từ bên ngoài bao gồm xã hội, giáo dục, môi trường thiên nhiên và cả cơ thể của chính con người. Chủ động kiểm soát được nguồn thông tin đi vào ý thức con người là kiểm soát được con người. Cả năm phương pháp tẩy não được thực hiện liên tục, phối hợp chặt chẽ và tác dụng hỗ tương vào nhận thức con người cho đến khi đối tượng hoàn toàn bị đặt trong vòng kiểm soát. Các nguồn thông tin do chế độ CS cung cấp có tính hệ thống, theo từng tuổi, từng giai đoạn trưởng thành thâm nhập vào nhận thức con người, củng cố và đóng đinh trong đó. Có lần Stalin phát biểu một ngày nào đó vai trò của Bộ Công An sẽ không còn cần thiết. Ý của tên đồ tể này là khi đó người dân đã bị cơ chế hóa, một hình thức thuần hóa trong sinh vật, đến mức các luật lệ sẽ không cần phải áp đặt mà vẫn được chấp hành như một phản xạ tự nhiên.

Biết rõ tuổi trẻ là tuổi của khát vọng xanh tươi, nhiệt tình nồng cháy nhưng chưa có những tham vọng cá nhân, bộ máy tuyên truyền của các quốc gia Cộng Sản sản xuất các anh hùng mang tinh thần dâng hiến.

Có một thời tác phẩm Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky là tác phẩm gối đầu giường của đa số thanh niên CS khắp thế giới, trong đó có thanh niên miền Bắc. Nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, người bị giết tại Quảng Ngãi cuối tháng 6 1970, bắt đầu với câu trích từ tác phẩm này "Cả đời ta, cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời: Sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người". Tương tự, trong nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, tử trận tại Quảng Trị mùa hè 1972, cũng thế, đầy những trích dẫn Thép đã tôi thế đấy. Ngày 24 tháng 12 năm 1971, Nguyễn Văn Thạc viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp.”

Trong dòng lịch sử Việt Nam bốn ngàn năm chống ngoại xâm và xây dựng đất nước, biết bao nhiêu câu nói, thơ văn hiển hách của lớp lớp anh hùng dân tộc. Có câu nói nào hay hơn, khí phách hơn câu nói của Triệu Nữ Vương “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm cúi đầu, còng lưng để làm tì thiếp người ta”. Có cái chết nào nói lên tình yêu chung thủy, tình yêu nước đậm đà hơn cái chết của Nguyễn Thị Giang, một phụ nữ như Võ Thị Thắng, “Mờ sáng ngày 18 tháng 6 năm 1930, cô về làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường (nay thuộc Vĩnh Phúc) để lạy tạ cha mẹ chồng (ông Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh), tháo chiếc đồng hồ có khắc chữ "G" tặng cho Nguyễn Văn Lâm, em trai Nguyễn Thái Học và từ giã mọi người. Trên đường đi cô ghé quán trà bên gốc cây đề, thuộc Xóm Mới, xã Đông Vệ giáp quốc lộ số 2, cách làng Thổ Tang ước chừng một cây số. Sau khi uống bát nước trà xanh, từ biệt bà chủ quán, cô đến đứng dưới gốc cây đề, mắt nhìn về hướng làng Thổ Tang và tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học tặng cô ở đền vua Hùng ngày nào.Hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930”.

Những câu nói anh hùng, những cái chết kiên trinh như thế, tại sao thanh niên, sinh viên miền Bắc không học, không sống, không học tập, không trích dẫn lại gối đầu giường tác phẩm của nhà văn Sô Viết Nikolai Ostrovsky từ tận xứ Ukraine ?

Chỉ vì “nền giáo dục” ngoại lai và nô dịch Việt Nam thực tế chỉ là một phiên bản tuyên truyền của Liên Xô và Trung Quốc.

Trung Quốc có “anh hùng lao động” Hướng Lôi Phong, Liên Xô có “anh hùng lao động” Alexey Stakhanov, CSVN có Kim Đồng, Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Võ Thị Thắng v.v... Tuy nhiên, theo thời gian và đà tiến của kỹ thuật thông tin, hầu hết “anh hùng” của Liên Xô, Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam đều lần lượt được chứng minh là hàng giả.

Chuyện “anh hùng lao động” Hướng Lôi Phong một năm sau khi bị trụ đèn đè chết trở thành anh hùng là một ví dụ rất hề. Bộ máy tuyên truyền của đảng CSTQ, ngoài việc phát hành các tuyển tập thơ, văn còn trưng bày nhiều hình ảnh của Hướng Lôi Phong đang “lao động quên mình” khi còn sống. Tuy nhiên, Susan Sontag, một nhà sản xuất phim ảnh sau khi xem xét bộ ảnh 12 tấm của Lôi Phong đã nhận xét những bức ảnh đó được chụp bằng một phẩm chất và điều kiện kỹ thuật tuyệt hảo đến mức không có một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp nào có thể có mặt bên cạnh Hướng Lôi Phong để chụp. Làm thế nào một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp có thể biết trước một anh chàng binh nhì Hướng Lôi Phong khi anh ta gần như vô danh tiểu tốt, để đi theo và ghi lại “cuộc đời anh hùng” , “một người vì mọi người” của anh ta qua một bộ ảnh chuyên nghiệp? Không quá khó để tìm câu giải đáp. Bộ ảnh chỉ là một sản phẩm tuyên truyền được sản xuất sau khi Hướng Lôi Phong chết. Bây giờ chuyện Hướng Lôi Phong là một chuyện cười nhưng đã có một thời người dân Trung Quốc tin một cách chân thành.

Ran Yunfei, một nhà hoạt động dân chủ Trung Quốc, cho The Newyork Review of Books, biết “Tất cả những gì đảng CS dạy bạn để kính phục đều là những chuyện giả dối. Hiện nay họ lại thúc đẩy học tập Hướng Lôi Phong lần nữa nhưng ai cũng biết Hướng Lôi Phong là nhân vật giả tưởng do đảng CS nặn ra. Tất cả “anh hùng” đều là giả tạo”.

Sự kiện Tôn Đức Thắng Người thủy thủ phản chiến ở Biển đen của CSVN đã bị Giáo sư Christoph Giebel trong buổi phỏng vấn dành cho BBC khẳng định: “Trong quyển sách của tôi, tôi tin rằng ông Tôn Đức Thắng không có mặt trên bất kì con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh biến ở Hắc Hải. Tôi tin là vào thời điểm đó, ông Tôn Đức Thắng đang ở Toulon, cảng miền nam nước Pháp.” Và thê thảm hơn, Lê Văn Tám là một nhân vật ảo, từ tên tuổi cho đến đầu mình và tay chân đều do bộ máy tuyên truyền CSVN nặn ra. Sự kiện này do chính Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ tuyên truyền CSVN thú nhận và được Phan Huy Lê, một trong nhà sử học hàng đầu của chế độ tiết lộ.

Nạn nhân của các “anh hùng” trong nhiều trường hợp lại chính là “anh hùng”. Chuyện Võ Thị Sáu hái hoa cài lên tóc là một điển hình. Theo sách vở của đảng, ngày bị xử bắn, trên đường ra pháp trường Võ Thị Sáu còn rảnh rỗi để dừng lại hái mấy cành hoa cài lên tóc của mình. Lãng mạn hơn, vài phút trước khi bị bắn, bà ta còn gỡ những cành hoa trên tóc để tặng lại cho những người tù đào huyệt lát nữa sẽ chôn mình. Câu chuyện mô tả bà Võ Thị Sáu giống như một công chúa đi dạo vườn hoa chứ không phải một tử tù sắp chết. Hãy tạm gác qua bên việc bà có thể bị tâm lý bất bình thường như nhiều người đang bàn tán mà chỉ xem xét khía cạnh pháp lý. Trên thế giới này, không phải thế kỷ trước và cũng không phải thời các quốc gia nhược tiểu bị cai trị dưới ách thực dân tàn bạo mà cả ngày nay tại các nước văn minh tiên tiến, một tử tù ra pháp trường hai tay phải bị còng và chân phải bị xích. Còng và xích không phải là vì sợ tử tù bỏ chạy nhưng đó là một phần của bản án tử hình. Giống như Hướng Lôi Phong của Trung Quốc, nhân vật Võ Thị Sáu có thể là một người thật, đảng Cộng Sản lợi dụng bà trong tuổi vị thành niên để khích động lòng dân nhưng lại tô vẽ nên một Võ Thị Sáu bịnh hoạn đến độ đáng thương.

Chúng ta đều biết, về mặt kinh tế và kỹ thuật Việt Nam phát triển chậm hơn các quốc gia khác nhiều chục năm tuy nhiên đó chưa hẳn là một mối nguy nghiêm trọng lâu dài. Mối lo lớn của đất nước là về mặt dân trí, xã hội, đạo đức và những mặt này Việt Nam còn thua xa các quốc gia tiên tiến nhiều thế kỷ. Với óc cần cù của người Việt, chúng ta không phải quá lo lắng về một nền khoa học hiện đại, một nền kỹ thuật hiện đại nhưng điều đáng lo lắng nhất là làm thế nào để có những con người Việt Nam với những suy nghĩ đúng, có nhận thức đúng về hướng đi của đất nước hôm nay và mai sau. Phục hưng dân tộc, vì thế, phải bắt đầu ở việc phục hưng các đặc điểm đạo đức, các giá trị nhân bản, khai phóng từ chính trong mỗi người Việt Nam. Một xã hội lương thiện phải được xây dựng bằng những con người có tinh thần hướng thiện.

Một con vẹt có thể cất giọng ca thánh thót và ngay cả hát hay hơn một con chim sơn ca ngoài vườn buổi sáng nhưng không ai bảo tiếng hát của vẹt là biểu tượng cho “mùa xuân, hạnh phúc, hy vọng, may mắn, tự do, niềm vui, tuổi trẻ, tính sáng tạo và ngày mới” như khi nhắc đến chim sơn ca. Phương Uyên là tiếng hát của sơn ca trong khu vườn xuân đất nước. Cơn mưa dài chưa dứt, cơn bão lớn chưa ngưng nhưng hy vọng vẫn còn đây trong lòng người Việt. Tổ tiên để lại cho chúng ta một gia tài vô cùng phong phú với tất cả phương tiện cần thiết để đưa đất nước Việt Nam thành một cường quốc văn minh và hiện đại. Chúng ta có tinh thần độc lập, tự chủ cao hơn bất cứ một quốc gia nào ở vùng Đông Nam Á. Chúng ta đều ôm ấp một giấc mơ Việt Nam huy hoàng, sáng lạng. Cái duy nhất mà chúng ta chưa có đó là một cơ hội. Và cơ hội sẽ không do ai ban cho, không do ai viện trợ nhưng chính người Việt Nam trong và ngoài nước, đặc biệt là các bạn trẻ, là những người đang tạo ra cơ hội cho dân tộc mình.

Phân tích chính sách tuyên truyền của chế độ CS để thấy sự tác hại của nó trong nhận thức của các tầng lớp nhân dân và cũng cho thấy việc so sánh giữa Võ Thị Thắng và Nguyễn Phương Uyên chẳng khác gì so sánh giữa giả và thật, chiến tranh và hòa bình, hận thù và nhân ái, bóng tối và ánh sáng.

Trần Trung Đạo
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Quốc hội Việt Nam là của ai ?

Thụy My (RFI) -
Gần đây vào ngày 23/05/2013 báo chí Việt Nam đã đồng loạt đưa tin là báo chí sẽ không được tham dự các phiên họp của Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu để miễn nhiệm và bổ nhiệm các chức danh Bộ trưởng Tài chính, Tổng kiểm toán Nhà nước, cũng như phiên Quốc hội nghe Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo về việc chuẩn bị tổ chức lấy phiếu tín nhiệm.

Vì sao Quốc hội là cơ quan dân cử cao nhất nhưng lại không cho báo chí tham dự các phiên thảo luận ? Sự kiện thiếu dân chủ này lại diễn ra vào lúc lần đầu tiên Quốc hội tổ chức việc bỏ phiếu tín nhiệm.

Chúng tôi đã đặt câu hỏi với nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh.


RFI : Thưa anh, sự kiện báo chí Việt Nam không được dự các phiên thảo luận của Quốc hội, theo anh thì có phải do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) sợ lộ các thông tin bí mật liên quan đến việc bỏ phiếu tín nhiệm các nhân vật trong chính phủ ?


Nhà báo Phạm Chí Dũng : Về vấn đề này tôi cũng đang đặt câu hỏi. Tại sao báo chí lại không được tham dự những phiên họp thảo luận trong buổi đầu tiên trong lịch sử Quốc hội tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm như vậy. Đối với một cơ quan dân cử cao nhất như Quốc hội, việc không cho báo chí tham dự là một biểu hiện thiếu dân chủ một cách lạ lùng.

Tôi viện dẫn một câu trả lời chính xác và đơn giản nhất cho câu hỏi trên, là ý kiến của ông Nguyễn Minh Thuyết. Ông Thuyết nguyên là đại biểu Quốc hội, ý kiến của ông Thuyết như thế này : Quốc hội chỉ họp kín trong một số trường hợp, thường là để bàn những việc liên quan đến bí mật quốc gia. Còn bầu và phê chuẩn các chức danh lãnh đạo cơ quan nhà nước không thuộc phạm vi bí mật quốc gia.

Ở những khóa Quốc hội trước, ông Nguyễn Minh Thuyết đã từng là một nghị sĩ nổi bật về nhiều ý kiến đóng góp và phản biện sắc sảo, điều mà tất nhiên không phải tất cả 500 đại biểu quốc hội đều có đủ dũng khí nói ra một các thẳng thắn và công tâm.

RFI : Nhưng thưa anh, khi cấm báo chí tham dự những phiên họp có nội dung không bí mật, thì chủ trương dân chủ hóa và công khai hóa của Quốc hội sẽ ra sao ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Về mặt luật, chúng ta có thể thấy là báo chí - vẫn thường được xem là cầu nối giữa Quốc hội với cử tri và dân chúng - hoàn toàn có đủ tư cách được tham dự các cuộc họp của Quốc hội theo quy định của điều 67 Luật tổ chức Quốc hội về “Quốc hội họp công khai”, điều 70 về “đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan báo chí, công dân và khách quốc tế có thể được mời dự các phiên họp công khai của Quốc hội”.

Ông Nguyễn Minh Thuyết - nguyên đại biểu Quốc hội - cũng cho rằng việc tổ chức lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên được tổ chức ở Quốc hội, kể cả các buổi thảo luận về vấn đề này, cũng là một việc rất cần được công khai.

Nhưng mà hình như bất nhất là một thói quen khó chuyển dời của quan chức Việt Nam, dù là quan chức do dân cử.

Xin hãy nhớ lại, vào ngày 16/05/2013, khi chỉ đạo việc chuẩn bị kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã yêu cầu tăng cường công khai thông tin cho báo chí. Ông nói: “Ví dụ bàn về tiết kiệm chống lãng phí, đấu tranh phòng chống tham nhũng thì có gì mà họp kín. Báo chí cũng sẽ rất quan tâm đến việc lấy phiếu tín nhiệm. Vấn đề Hiến pháp cũng vậy, đồng chí Nguyễn Hạnh Phúc (chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội) cần chuẩn bị nội dung để công bố thông tin, giải thích rộng rãi với dư luận”.

Ông Hùng nói như vậy. Thế nhưng khi kỳ họp Quốc hội vừa bắt đầu, báo điện tử VnEconomy của Việt Nam, trong phần “Nhật ký nghị trường” hai ngày 21 và 22/5/2013, đã mô tả một cách đầy ẩn ý: “Trung tâm báo chí kỳ họp thứ 5, từ chiều 22/5 đã khá vất vả khi phải thay đổi đến ba lần thông cáo về các nội dung báo chí không được dự và được dự, liên quan đến công tác nhân sự”.

Một chi tiết khác cũng cần lưu tâm và nên được mổ xẻ sâu xa hơn là việc cấm báo chí tham dự lại diễn tiến ngay sau khi Quy chế cung cấp thông tin cho báo chí được Chính phủ ban hành.

RFI : Thưa anh, phải chăng đó là do sợ có những thông tin gọi là « nhạy cảm », nói theo kiểu Việt Nam là sẽ bị « các thế lực thù địch » lợi dụng ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Tôi cũng cho là như vậy, và « những thế lực thù địch » trong ngoặc kép. Cần nói thẳng là hầu hết nhân sự mà Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm đều liên quan trách nhiệm đến các lĩnh vực quản lý, điều hành quan trọng của quốc gia như ngân hàng, đất đai, xăng dầu, điện lực, y tế, giáo dục, thất nghiệp, khiếu tố, tòa án, tham nhũng… đều là những chủ đề và cả vấn nạn liên quan trực tiếp đến đời sống dân sinh và có rất nhiều ý kiến của người dân và cử tri kiến nghị và yêu cầu phải giải quyết, xử lý. Do đó việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những nhân sự liên đới trách nhiệm lại càng phải công khai cho người dân và cử tri, chứ không thể ẩn giấu được.

Câu hỏi cần đặt ra là việc cấm báo chí tham dự có liên quan đến những vấn đề nhạy cảm như điều 4 Hiến pháp, việc đổi tên nước, chế độ sở hữu toàn dân hay sở hữu tư nhân về đất đai, có thu hồi đất hay không đối với “các dự án kinh tế xã hội” trong Luật Đất đai ; ý tưởng về Luật Biểu tình, Luật trưng cầu dân ý, và nói chung là toàn bộ dự thảo Hiến pháp sau ba, bốn lần sửa đổi, thì có nên cấm báo chí hay không?

Và một câu hỏi khác là việc cấm báo chí tham dự liệu có liên quan đến việc vào đầu kỳ họp Quốc hội lần này, chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý đã đưa ra một báo cáo có tính định hướng về dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong đó đặc biệt là giữ nguyên điều 4, không đổi tên nước, giữ nguyên tinh thần sở hữu toàn dân trong Luật Đất đai, vẫn thu hồi đất các dự án kinh tế xã hội ?

RFI : Báo cáo này theo anh có những điều gì đáng quan tâm ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Có một chi tiết rất đáng chú ý là báo cáo của ông Phan Trung Lý đã xác quyết sẽ không đưa vào chương trình năm 2014 Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu dân ý theo đề xuất của chính phủ. Sự việc này xảy ra vào ngày 23/5/2013 khi UBTVQH không tán thành với đề xuất của Chính phủ đưa Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu dân ý.

Một hiện tượng đáng ngạc nhiên là ba ngày trước khi kỳ họp Quốc hội lần thứ 5 khai mạc, chính phủ đã có văn bản về hoàn thiện 7 nhóm vấn đề của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, liên quan đến những đề xuất về sự cần thiết phải có Luật Biểu tình và Luật Trưng cầu ý dân. Theo tôi đây là một hiện tượng chưa từng có từ trước đến nay.

Báo chí trong nước cũng cho biết ngoài đề nghị của Chính phủ, đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội là ông Nguyễn Đức Chung (hiện là Giám đốc Công an thành phố Hà Nội) cũng đề nghị đưa Luật Biểu tình vào chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 năm 2014. Ngoài ra, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng cũng đề nghị đưa Luật Trưng cầu ý dân vào chương trình cho ý kiến tại kỳ họp Quốc hội thứ 8 năm 2014.

« Tôi nhận thức rằng sửa đổi Hiến pháp là một cơ hội lịch sử » - đại biểu Dương Trung Quốc biểu lộ như vậy. Ông Quốc nói tiếp : Để làm được như vậy, có lẽ nên khắc phục ba vấn đề, đều là quyền của người dân đang bị treo. Một là quyền tự do hội họp và biểu tình để người dân được bộc lộ hết quan điểm của mình. Hai là quyền tự do lập hội, để mọi người chia sẻ suy nghĩ, tình cảm với nhau, qua đó phản ảnh nguyện vọng của từng nhóm xã hội. Ba là quyền được trưng cầu dân ý để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, và để Nhà nước định lượng được tâm tư, nguyện vọng của người dân trước những vấn đề hệ trọng của đất nước.

Luật Biểu tình và Luật Trưng cầu ý dân cũng là những nội dung nằm trong “Kiến nghị 72” vào đầu năm 2013 của một nhóm nhân sĩ trí thức Việt Nam và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của nhiều người dân qua hàng chục ngàn chữ ký đồng thuận.

RFI : Thưa anh, nhưng trước đây là chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng đề xuất trước Quốc hội là nên có Luật biểu tình ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Thời điểm đó là tháng 11/2011, trong một cuộc họp Quốc hội thì chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã lên diễn đàn phát biểu, và ông cũng đã đề xuất về Luật Biểu tình trước Quốc hội. Nhưng từ đó cho tới nay là gần hai năm qua mà vẫn chưa có gì cả.

Còn vào lần này thì theo một đại biểu Quốc hội là ông Trương Trọng Nghĩa - đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh, thì Thủ tướng cũng đã đề xuất, nhưng mà dự Luật Biểu tình vẫn chưa được đưa vào chương trình năm 2014.

Ông Nghĩa nói tiếp là năm ngoái Thủ tướng và một số vị đại biểu cũng đã đề xuất xây dựng luật này. Bản thân ông Nghĩa cũng trao đổi với nhiều vị công an và họ cũng mong có Luật Biểu tình. Xây dựng luật này là để trả món nợ đối với nhân dân, vì Hiến pháp đã cho mà ta không làm được.

Theo ông Nghĩa thì xây dựng Luật Biểu tình là để "trả nợ" nhân dân nhưng cũng là giúp Nhà nước, bởi quản lý vấn đề biểu tình như hiện nay là không thích hợp. Một chi tiết đáng chú ý là chính tờ Vneconomy - báo điện tử của Việt Nam, cũng nhận xét rằng nhiều vụ biểu tình vì lãnh thổ bị xâm phạm cũng bị đánh đồng với việc tụ tập gây rối mất trật tự.

Chúng ta cần nhớ rằng những vụ biểu tình vì lãnh thổ bị xâm phạm như vậy chính là những cuộc biểu tình chống sự can thiệp của Trung Quốc, xảy ra trong hai tháng Sáu và Bảy năm 2011 tại Hà Nội. Và khi đó tình hình khá căng thẳng. Sự thừa nhận trên báo chí chính thức trong nước có thể nói khá là hiếm.

Nhưng mà đối với Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì họ đưa ra lý do không tán thành với đề xuất của Chính phủ đưa Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu ý dân” là : tại một kỳ họp Quốc hội chỉ có thể thông qua từ 10 đến 13 luật. Trong khi đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sẽ được thông qua vào cuối năm 2013, nên năm 2014 sẽ phải sửa đổi, bổ sung nhiều luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, các luật phục vụ cho việc tái cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.

Điều có vẻ rất khó hiểu là trong khi Chính phủ - cơ quan phải chịu trách nhiệm trực tiếp và gay gắt nhất về việc giải quyết khiếu kiện và biểu tình đông người - đã đồng thuận với phương án cần có Luật Biểu tình và Luật Trưng cầu ý dân, thì chính UBTVQH lại không chấp thuận, dù Quốc hội chính là cơ quan thể hiện quyền lực cao nhất của người dân.

RFI : Chính phủ đưa ra Luật Biểu tình mà Quốc hội vốn là đại diện của dân lại không chấp nhận, như vậy đây là một mâu thuẫn kỳ lạ ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Có thể nói đây là lần đầu tiên có một khoảng cách lớn đến như thế giữa Quốc hội và chính phủ, chính xác là giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và lãnh đạo chính phủ. Trước đây khá nhiều ý kiến của chính phủ đưa ra Quốc hội được thống nhất, được đồng thuận. Tôi chưa bàn tới việc những chủ trương của chính phủ đưa ra có thuận tình và hợp lý hay không, và trên hết là có hợp lòng dân hay không, nhưng đa số đều được Quốc hội thông qua.

Nhưng mà lần này có những vấn đề mà chính phủ đưa ra, nhưng lại bị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bác – bác ngay khi chưa đưa ra chính thức cho đại biểu bấm nút.

Chính xác hơn, báo chí trong nước cũng bình luận một cách ẩn ý là chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý « gút » đưa ra một báo cáo định hướng về những vấn đề sửa đổi Hiến pháp. Trong đó không có những vấn đề cơ bản của chính phủ đề nghị như Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu dân ý, hay là liên quan đến cả vấn đề thu hồi đất đai.

RFI : Chẳng lẽ UBTVQH lại muốn làn sóng khiếu tố đất đai sẽ lan rộng đến mức mất kiểm soát?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Liên quan đến vấn đề vấn đề thu hồi đất đai thì cũng có một đề xuất đáng chú ý không kém của Chính phủ là “Việc thu hồi đất chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân vì lý do “các dự án phát triển kinh tế xã hội”.

Đề xuất trên được nêu ra trong bối cảnh việc giải quyết khiếu tố đất đai đang hết sức nóng bỏng ở Việt Nam, với khoảng 80% đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai và hơn 70% trong số đơn thư đó nhằm tố cáo rất nhiều sai phạm của các chính quyền địa phương về công tác bồi thường, cưỡng chế giải tỏa, tái định cư… Nhiều vụ khiếu kiện đất đai đã bị quy chụp cho cái mũ “tụ tập mang màu sắc chính trị” và đã bị đàn áp nặng nề.

Sau đề xuất “quyền phúc quyết thuộc về nhân dân” cũng xuất phát từ Chính phủ cách đây không lâu, đề nghị về thu hồi đất liên quan đến “các dự án phát triển kinh tế xã hội” của cơ quan này là động thái đáng lưu tâm không kém.

Nhưng với xác quyết của chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý, vẫn không có một cải cách xứng đáng nào được đưa ra liên quan đến Luật Đất đai. Trái ngược với mong mỏi của người dân về quyền sở hữu đất cần được quy định trong luật, Dự thảo Hiến pháp vẫn cho rằng: vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên không đặt vấn đề trưng mua vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu; đặc biệt là vẫn thu hồi đất đối với các dự án kinh tế xã hội.


Hệ lụy lớn lao mà bất cứ người dân nào cũng có thể thấy rõ là nếu không đưa đất đai về đúng bản chất thật của nó là quyền sở hữu của người dân, cũng như vẫn tạo điều kiện cho những chủ đầu tư phát huy một cách quyết liệt lòng tham của họ, rất nhiều bất công vô lối vẫn sẽ xảy ra với người dân bị thu hồi đất, và sẽ còn nhiều cuộc khiếu tố đông người và biểu tình bùng nổ ở nhiều địa phương trong cả nước.

Tôi tự hỏi, chẳng lẽ những sự kiện Ô Khảm ở Trung Quốc hay Tiên Lãng ở Việt Nam vẫn chưa đủ cấu thành một bài học nhãn tiền cho những gì có tính quả báo thời nay?

Cần nhắc lại, vào trung tuần tháng 3/2013, một đại biểu Quốc hội tên là Phan Xuân Dũng, cũng là người đóng vai trò phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, đã từng đề ra một “phát kiến”chưa có tiền lệ: “Cần có quy định bắt buộc người khiếu nại tố cáo ứng ra một khoản tiền đặt cọc. Thua thì coi như mất tiền đặt cọc, còn kiện đúng thì tiền cọc mới được Nhà nước hoàn trả”.

Theo tôi thì ngay cả thời kỳ cao điểm của hoạt động khiếu tố đông người trong những năm 2007-2008, cũng chưa từng có một cơ quan hay cá nhân quản lý nào ở Việt Nam nghĩ ra một sáng kiến mang dấu ấn thụt lùi đến mức như thế.

RFI : Nhìn lại chặng đường vừa qua thì theo anh cho đến nay, việc báo chí tham dự Quốc hội có tiến triển gì không ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Đây là một câu hỏi vừa khó mà cũng vừa dễ trả lời. Tôi chỉ xin kể một câu chuyện nhỏ nhưng lại mang ý nghĩa đối sánh rất đặc trưng – kể theo báo chí trong nước. Vào tháng 5/2012, trong một phiên họp Quốc hội, vào giờ nghỉ giữa phiên họp, tại hành lang hội trường làm việc ; trong khi đại biểu Nguyễn Đình Quyền - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đang vui vẻ trả lời phỏng vấn một số phóng viên, thì một nhân viên an ninh tiến đến yêu cầu các phóng viên và ông Quyền dừng trao đổi, còn nếu muốn tiếp tục thì phải lên phòng làm việc tầng trên.

Hiện tượng ngắt ngang hoạt động tác nghiệp bình thường như vừa nêu không phải là cá biệt. Tất cả bắt nguồn từ “Thông cáo báo chí số 1” của Trung tâm Báo chí Quốc hội, phát đi ngày 21/05/2012, quy định : “1. Không phỏng vấn đại biểu Quốc hội tại hành lang phía sau và hành lang hai bên hội trường (tầng 1); 2. Nếu phóng viên có yêu cầu phỏng vấn, mời lên tác nghiệp tại phòng phỏng vấn hoặc sảnh tầng 2”.

Sau khi cuộc phỏng vấn bị gián đoạn, ông Nguyễn Đình Quyền bày tỏ sự ngỡ ngàng với lệnh cấm này. Ông nói: “Khi nghỉ giải lao, đại biểu chúng tôi ra hành lang nói chuyện. Nếu phóng viên gặp, đặt câu hỏi mà thấy giải đáp được là trả lời. Như lần này, tôi hoàn toàn tự nguyện, thoải mái khi trả lời các câu hỏi, không hiểu sao lại bị nhắc nhở thế!”.

Đại biểu Dương Trung Quốc cũng bức xúc không kém: “Cấm như thế lại là hạn chế quyền tiếp xúc của những đại biểu như tôi”.

Cho nên không quá ngạc nhiên là có tờ báo Việt Nam đã rút tít “Được gặp gỡ, nhưng không được phỏng vấn”.

Cũng vào năm 2012, tôi nhớ là báo chí Việt Nam cũng đặt câu hỏi “Càng ngày càng siết?” với dẫn giải: Theo dõi mối quan hệ báo chí – Quốc hội những năm gần đây thì thấy dường như có những điều chỉnh nhất định.

Từ những quy định ngặt nghèo trước đây, sang khóa XI khi ông Nguyễn Văn An làm chủ tịch Quốc hội, tại các kỳ họp ở hội trường Ba Đình, báo chí được tạo điều kiện tối đa gặp gỡ, tiếp xúc, phỏng vấn đại biểu Quốc hội vào giờ nghỉ giải lao giữa các phiên họp. Cũng ở nhiệm kỳ này, lần đầu tiên các phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội được mở cửa cho báo chí theo dõi, đưa tin.

Tại giờ nghỉ giữa các phiên họp Thường vụ Quốc hội hàng tháng này, phóng viên nghị trường được tiếp xúc, trò chuyện với những người dự họp ngay ngoài hành lang phòng họp.

Tuy nhiên, sang Quốc hội khóa XII, cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc nguồn tin ở các phiên họp Thường vụ Quốc hội hàng tháng bị đóng lại. Phóng viên vẫn được theo dõi diễn biến phiên họp qua truyền hình dường như không được đến khu vực sảnh, nơi người dự họp nghỉ giải lao.

Tới khóa XIII, cánh cửa nghị trường hình như còn khép kín, hơn khi có những ý kiến đặt lại vấn đề nên hay không cho báo chí theo dõi phiên họp Thường vụ Quốc hội. Còn với kỳ họp Quốc hội mỗi năm, từ kỳ họp thứ hai lần trước đã bắt đầu xảy ra việc nhân viên bảo vệ nhắc nhở phóng viên không được phỏng vấn tại hành lang. Đến kỳ họp thứ ba này, qua hai ngày đầu, lệnh cấm ấy càng được thực hiện gắt gao hơn.

Cho nên chặng đường của báo chí tham dự Quốc hội vẫn còn khá là gian nan.

RFI : Có vẻ như Ủy ban Thường vụ Quốc hội đang muốn thể hiện một thứ quyền lực riêng, trong khi ở các nước phương Tây không chỉ báo chí mà người dân bình thường cũng có thể tham dự các phiên họp của quốc hội ?

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Tôi có cảm giác là như vậy, và tôi cũng cho là như vậy đáng buồn. Tôi có nghe những câu chuyện như ở Pháp người ta có thể cho mười người dân đầu tiên đăng ký tham dự công khai một phiên họp Quốc hội. Còn ở đây thậm chí là báo chí bị - dùng từ ở trong nước gọi là « cấm cửa », không được tham dự một số phiên nào đó, mà thật ra không có thông tin gì gọi là bí mật.

Báo chí trong nước đặt ra câu hỏi “Càng ngày càng siết”, thì điều đó lại giằng xé trong chính nghị trường được coi là “của dân, do dân và vì dân”.

Chúng ta hãy tự hỏi, Quốc hội vẫn thường yêu cầu Chính phủ và các bộ ngành phải minh bạch tình hình điều hành quản lý và các số liệu, nhưng vì sao Quốc hội lại không minh bạch việc bỏ phiếu tín nhiệm với dân chúng thông qua báo chí?

Chúng ta cũng tự hỏi rằng, việc cấm báo chí tham dự bỏ phiếu tín nhiệm là chủ trương của Văn phòng Quốc hội hay từ những người cao nhất trong Quốc hội?

Quốc hội là do dân cử, báo chí cũng là của dân. Không cho báo chí tham dự thì Quốc hội có còn là của dân hay không?

Không cho báo chí tham dự, Quốc hội trở nên độc đoán và mất dân chủ chính trong môi trường nghị trường. Vậy thì câu hỏi cuối cùng là : Quốc hội là của ai ???

RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh, đã vui lòng dành thì giờ trao đổi với RFI Việt ngữ.

Thụy My
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/2013052 ... -la-cua-ai
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Bao giờ Đảng thôi sống trong sợ hãi?
Nguyễn Hùng
bbcvietnamese.com

Image
Các lãnh đạo Việt Nam viếng lăng Hồ Chủ Tịch
Những người từng học về nghệ thuật quản lý và lãnh đạo ở nhiều nước trên thế giới hẳn biết tới Sarah.

Đó không phải là tên của một cô nàng tóc vàng óng ả có tài lãnh đạo nào mà đơn giản là những chữ cái đầu của Shock - Anger - Rejection - Acceptance - Help.

Các bài liên quanKhác biệt nhỏ hệ quả lớnChọn kinh tế hay nhân quyền?Tổ quốc cao hơn Nhà nước và Chế độ
Chủ đề liên quanDiễn đàn
Những từ tiếng Việt tương đương là Sốc - Giận dữ - Chối bỏ - Chấp nhận và Trợ giúp.

Đây là những giai đoạn tâm lý mà một cá nhân hay tổ chức phải trải qua trong các cơn khủng hoảng hay chấn động.

Trước một điều không mong muốn xảy ra, người ta thường chuyển từ cú sốc ban đầu sang tức giận, chối bỏ thực tế rồi tiến tới chấp nhận và hiểu ra mình cần được trợ giúp để vượt qua khủng hoảng.

Vẫn còn chối bỏ

Về mặt kinh tế, Đảng Cộng sản đã đi qua toàn bộ năm giai đoạn này với những mức độ khác nhau.

Từ cú sốc mà những tác hại của nền kinh tế mệnh lệnh cũng như sự sụp đổ của Liên Xô và khối Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu gây ra, Đảng giữ sự bực tức và chối bỏ thực tế trong một thời gian trước khi chấp nhận từ bỏ mô hình kinh tế Xã hội Chủ nghĩa cực đoan và đón lấy bàn tay của kẻ cựu thù Hoa Kỳ và khối được lập ra với mục tiêu chống Cộng ASEAN cùng nhiều tổ chức và quốc gia khác nhằm thoát ra khỏi vũng lầy kinh tế.

Về mặt chính trị, Đảng vẫn mới chỉ ở giai đoạn tức giận và chối bỏ.

Ngay cả những người tù chính trị năm xưa cũng không thể chấp nhận chuyện họ bị thách thức và lại bị cáo buộc bỏ tù những người bày tỏ chính kiến, điều mà nhiều lãnh đạo lão thành của Việt Nam đã và đang làm.

Họ còn chưa chấp nhận rằng tiếng nói, cho dù có trái chiều, của mỗi một người dân ở quốc gia đông dân thứ 13 trên thế giới đều có thể được bày tỏ và đều có thể có trọng lượng nhất định.

Các nhà lãnh đạo cao cấp, hầu hết ở độ tuổi trên 60, không chấp nhận cách phản ứng của người dân mà độ tuổi trung bình chưa bằng nửa độ tuổi của giới lãnh đạo chóp bu.

'Nắm chính nghĩa'

Người đi theo Cách mạng từ khi còn trẻ tuổi và từng giữ chức Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc thành phố Hồ Chí Minh, ông Lê Hiếu Đằng, nói Đảng đang "đi ngược lại lợi ích của dân tộc và xu thế của thời đại về đấu tranh cho dân quyền và nhân quyền" mà ông nói Hiến pháp 1946 của Việt Nam đã công nhận.

Ông Đằng nói khi ông theo Cách mạng, chính những người lãnh đạo của ông cũng "dạy" ông rằng người ta không bao giờ từ bỏ quyền lợi, không bao giờ rời vũ đài chính trị một cách tự nguyện.

"...Chúng tôi đấu tranh để bảo vệ độc lập và toàn vẹn đất nước, đấu tranh chống tham nhũng, đấu tranh cho một nền dân chủ, đấu tranh cho các quyền dân sinh dân chủ của các tầng lớp nhân dân Việt Nam mà do họ thấp cổ bé họng họ không thể nói được thì những người có điều kiện trong xã hội hiện nay cần phải có tiếng nói."
Cựu Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TP HCM Lê Hiếu Đằng

Ông nói thêm trong phỏng vấn với BBC hôm 27/5 về làn sóng đấu tranh của người dân hiện nay:

"Khi chúng tôi đi theo Cách mạng thì chúng tôi cũng nói là hễ mình có chính nghĩa thì sẽ thắng lợi thôi, mà hiện nay chúng tôi nắm chính nghĩa trong tay.

"Bởi vì chúng tôi đấu tranh để bảo vệ độc lập và toàn vẹn đất nước, đấu tranh chống tham nhũng, đấu tranh cho một nền dân chủ, đấu tranh cho các quyền dân sinh dân chủ của các tầng lớp nhân dân Việt Nam mà do họ thấp cổ bé họng họ không thể nói được thì những người có điều kiện trong xã hội hiện nay cần phải có tiếng nói.

"Chứ không thể để cho một bộ phận nhóm lợi ích khuynh loát chính quyền và làm thiệt hại biết bao nhiêu."

'Bạo lực chính trị'

Sự không chấp nhận thực tế mới của nhiều lãnh đạo Cộng sản ở Việt Nam thể hiện qua việc họ dùng nhiều biện pháp để trấn áp những người dám lên tiếng đấu tranh.

Ông Đằng dẫn trường hợp của hai nhà hoạt động có tiếng từ thời Cuộc chiến Việt Nam và có những hoạt động phản kháng trở lại trong thời gian gần đây, ông Huỳnh Tấn Mẫm và Hồ Ngọc Nhuận.


Bộ Công an đã gây sức ép với hiệu trưởng của trường dành cho trẻ em tự kỷ mà ông Mẫm giúp lập ra với hơn 100 học sinh theo học
trong khi gia đình và cá nhân ông Nhuận bị đe dọa, theo ông Đằng.

Image
Ông Huỳnh Tấn Mẫm trong một lần đi biểu tình hồi năm 2012
Công an đã gây sức ép với nhân viên của trường dành cho trẻ tự kỷ mà ông Huỳnh Tấn Mẫm lập ra theo sau việc ông tham gia biểu tình

Nhưng những hành động như thế này của Công an Việt Nam sẽ chỉ làm cho người dân hiểu thêm về sự sai trái của chính quyền và làm lớn thêm đa số thầm lặng ủng hộ các hành động phản kháng, người từng là lãnh đạo trong Mặt trận Tổ quốc nói.

Ông Đằng bình luận thêm rằng đa số thầm lặng này đến "một lúc nào đó" sẽ trực tiếp tham gia đấu tranh và như vậy chính các nhà lãnh đạo hiện nay đang tự làm lung lay ghế của chính họ bằng những hành động mà ông Đằng nói rằng "tạo sự khủng bố".

Ông nói: "Việc bắt bớ không làm sứt mẻ gì phong trào đấu tranh cho dân chủ trong nước mà càng làm cho mọi người phẫn nộ và tham gia nhiều hơn nữa."

Cho tới nay Đảng cộng sản không tự nguyện chấp nhận thực tế mới và ông Đằng cho rằng sẽ đến lúc các lãnh đạo Cộng sản bị buộc phải chấp nhận "xu thế của thời đại".

Có thể nói Đảng mới đi được nửa đường trong quá trình chinh phục Sarah.

Nửa đường còn lại chông gai nhất nhưng cũng hứa hẹn mang lại nhiều phần thưởng nhất cho những người dám đối diện với thực tế và với chính mình.

Thay vì sống trong sợ hãi với một trái bom nổ chậm, nhiều nhà đấu tranh trong đó có những người có hàng chục năm tuổi Đảng đang thúc giục giới lãnh đạo hiện nay dũng cảm tháo ngòi nổ.

Và một trong những cách tháo ngòi nổ là để cho mỗi người Việt Nam có quyền nói lên suy nghĩ của họ nhằm góp phần chỉ ra những gì mà một số nhà phân tích coi là "bạo lực chính trị" ẩn chứa trong những khái niệm và tổ chức nghe có vẻ trung lập và ôn hòa, từ chủ nghĩa Cộng sản tới những định chế an dân như viện kiểm sát, tòa án và quốc hội.
buikiem
Posts: 501
Joined: Sat Sep 22, 2012 12:45 am
Contact:

Post by buikiem »


Image

Im lặng hay là Chết

Trịnh Kim Tiến

Nói, nói nữa và nói mãi, tất cả sự phản đối dường như vô tác dụng đối với ngành tư pháp và công an Việt Nam trong vấn nạn công an sử dụng bạo lực với người dân.

Tôi, một người con có bố bị công an đánh chết, mọi người, những người quan tâm đến tình hình chung trong xã hội, đất nước, hay thậm chí là những người dân thường ngày đêm lo lao động kiếm sống đều biết được rằng sức mạnh của ngành công an trong xã hội hiện nay lớn đến thế nào. Chế độ này đang dần trở thành chế độ công an trị, họ có thể làm những gì họ thích bởi quyền hạn của họ ngày một nhiều, dường như không có một sự chế tài thực sự nào dành cho họ.

Những bản án bất công liên tiếp, những cách xử lý có tính chất bao che đã chứng minh một điều rằng tội ác của lực lượng công an đã được cả ngành tư pháp, bộ máy pháp luật Việt Nam dung túng. Trong khi đó người dân chỉ cần cự cãi lại công an rất dễ bị ghép cho tội danh chống người thi hành công vụ và phải lĩnh án nhiều tháng, năm tù.

Tôi cứ đếm rồi lại đếm, đăng rồi lại đăng ngày càng nhiều tin tức người dân bị công an bạo hành trên facebook của mình. Một lần đăng là một lần rớt nước mắt, cũng là một lần đau xót khi biết được rằng những chuyện đó vẫn tiếp diễn hằng ngày và đang trở thành những câu chuyện hết sức bình thường trước phản ứng bất lực vì sợ hãi của người dân.

Tôi nên làm gì, chúng ta nên làm gì khi mà sự bất công đến hồi man rợ?

Khi mà thượng sĩ công nổ súng giết người sau khi đã còng tay nạn nhân chỉ phải lĩnh án 2 năm tù giam. Sự phi nghĩa đang diễn ra một cách công khai và trắng trợn nhất mà chúng ta có thể thấy. Sự việc xảy ra vào ngày 10/12/2012, ông Bùi Văn Lợi (45 tuổi) đi xem đá gà trên sới gà tại Bắc Giang và sau đó kết quả là ông đã bị tên công an giết người Nguyễn Duy Tùng nổ súng bắn chết sau khi đã bị còng tay. Sau hơn 6 tháng quên lãng, vụ án được đem ra xét xử và kết thúc là bản án 2 năm tù giam cho kẻ sát nhân. Một lần nữa, bộ mặt của Tòa án Bắc Giang, cũng như cả ngành tư pháp Việt Nam tiếp tục bị những kẻ nắm quyền lực, mang danh thi hành pháp luật phỉ nhổ vào.

Tôi nói là một lần nữa bởi đây không phải lần đầu Tòa án Việt Nam kết luận ra được những bản án đáng kinh tởm đến như vậy về những sự vụ công an lạm quyền đánh chết dân. Và câu hỏi đặt ra cho chúng ta bây giờ là chúng ta có thể làm gì để ngăn chặn tình trạng này tiếp diễn?

Chúng ta không thể làm gì vì chúng ta là dân đen, sẽ có rất nhiều người suy nghĩ như vậy. Và chúng ta sẽ thực sự không thể nào thay đổi được hiện trạng này nếu chúng ta tiếp tục nghĩ như vậy. Điều chúng ta cần phải làm hiện nay là lên tiếng để bảo vệ quyền lợi và tính mạng của bản thân, cũng như những người xung quanh. Với diễn biến thực tế, tình trạng này sẽ còn diễn ra và diễn ra mạnh.

Ngày hôm nay có thể là gia đình chúng tôi, ngày mai nỗi đau đó có thể rơi vào gia đình các bạn. Có ai muốn điều đó xảy ra với bản thân mình, tôi chưa từng nghĩ điều đó sẽ xảy đến với gia đình tôi, nhưng khi nó đến, tôi phải học cách chấp nhận và đối mặt. Đừng ngồi im và để sự mất mát đó tìm đến với gia đình mỗi chúng ta trong sự vô cảm của chính mình.

Có vô số những gia đình đã và đang trải qua đau đớn bởi vấn nạn này gây ra. Những vụ án công an giết người rõ ràng nhưng lại bị gắn mác tự tử, tự thương. Và sự im lặng, quên lãng đáng sợ của dư luận khiến nỗi đau chồng chất lên nỗi đau. Chúng ta phải lên tiếng và không chỉ là sự lên tiếng suông được nữa, thật khó để chúng ta còn tin vào những gì họ nói là “vì dân”. Chúng ta cần phải làm gì đó để phản đối những bản án bất công của ngành tư pháp Việt Nam đối với những nạn nhân bị công an lạm quyền đánh và đánh chết. Chúng ta cần phải nói tiếng nói của mình, chúng ta không cam chịu bất công, và yêu cầu đòi hỏi những quyền chính đáng là tính mạng và nhân phẩm của người dân cần phải được tôn trọng. Vậy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta không có quyền trong tay? Chúng ta có quyền biểu tình phản đối, đó là quyền quy định trong Hiến Pháp.

Khi tôi đề cập đến chuyện biểu tình ở đây không có nghĩa là tôi cổ súy cho việc thể hiện bức xúc bằng hành động gay gắt như la hét, ném đá, sử dụng vũ lực, bạo động… Ý tưởng biểu tình ở đây là sự liên kết bằng những hành động cụ thể cùng những bước chân đồng hành với chúng tôi bằng sự cảm thông, chia sẻ và tâm tình mong muốn sự đổi thay.

Chúng tôi cần mọi người đi cùng chúng tôi, ủng hộ chúng tôi trong lúc này.

Chúng ta phải có hành động phản đối cụ thể để yêu cầu luật pháp hiện hành trả lại công lý cho người dân.
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

"Việt Nam đang thế này mà vào Hội Đồng Nhân Quyền là rất hổ thẹn cho Liên Hiệp Quốc"

Huyền Trang, VRN

VRNs (31.05.2013) – Sài Gòn – Vấn đề quan trọng của nhà cầm quyền cộng sản VN hiện nay là cải thiện tình hình nhân quyền để có thể được ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ và gia nhập vào Hiệp định mậu dịch tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thế nhưng, nhân quyền tại VN không những được cải thiện mà còn vi phạm nặng nề hơn thể hiện qua phiên tòa sơ thẩm của hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vào ngày 16.05.2013 vừa qua, tại tòa án tỉnh Long An.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, bản án rất nặng 8 năm tù giam và 3 năm quản chế cho Nguyên Kha và, 6 năm tù giam và 3 năm quản chế cho Phương Uyên nhằm mục đích đe dọa và ngăn cản những tiếng nói đấu tranh ôn hòa của các bạn trẻ trong nước, thì điều này sẽ không có kết quả và sẽ không bao giờ có kết quả.

Xin mời Quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa phóng viên VRNs với Tiến sĩ Nguyễn Quang A.

VRNs: Thưa Ông, Ông đánh giá như thế nào về kết quả bản án dành cho Phương Uyên và Nguyên Kha với bối cảnh VN trong thời gian đàm phán gia nhập vào Hiệp định Mậu dịch Tự do Xuyên Thái Bình Dương (TPP), cũng như ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016?

Ts Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng không chỉ có vụ Phương Uyên và Nguyên Kha mà còn rất nhiều vụ khác nữa, kể cả vụ ở Nghệ An [phiên tòa Phúc Thẩm các anh TNCG và TL diễn ra vào ngày 23.05.2013]. Có thể nói rằng, tình trạng nhân quyền ở Việt Nam bị sa sút rất lớn. Nhất là việc bắt bớ, giam cầm những Bloggers và những người đấu tranh ôn hòa. Đây là một sự vi phạm nhân quyền rất nghiêm trọng trong thời gian vừa qua. Điều này hoàn toàn đi ngược lại với nhu cầu của VN là muốn gia nhập vào Hội đồng Nhân quyền LHQ (HĐNQ LHQ). Nếu LHQ để VN vào HĐNQ thì đây là một sự hổ thẹn cho HĐNQ LHQ. Và đối với việc VN đang đàm phán TPP, người ta đang đặt vấn đề nhân quyền là một vấn đề rất quan trọng, tuy nhiên có thể vấn đề kinh tế khi đàm phán người ta nói thế, nhưng người ta lại không đặt nặng lắm về vấn đề nhân quyền. Tôi chỉ mong tôi sai, là khi VN đàm phán thì người ta luôn luôn đưa ra một cái gì đấy để mặc cả, [ví dụ như: nhà cầm quyền] sẽ thả những người này, người này, người này và vấn đề đổi lại là cái này, cái kia, cái nọ…chẳng hạn như thế. Tôi chỉ hy vọng là tôi sai. Nếu mà đúng như thế thì đây là một mưu tính hết sức là bỉ ổi.

VRNs: Thưa Ông, Thượng nghị sĩ Mỹ thuộc đảng Dân chủ ông Ben Cardin nhấn mạnh đến tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề Nhân Quyền sẽ đặt trọng tâm ưu tiên trong quá trình đàm phán TPP, tại các nước như Việt Nam và Malaysia. Vậy nhà cầm quyền cộng sản VN xử án tù rất nặng cho hai sinh viên này nhằm mục đích gì?

Ts Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng, có lẽ phải hỏi chính họ [nhà cầm quyền] mới biết được các mục đích đó là cái gì. Nhưng đối với những người dân như tôi, thì tôi nghĩ có lẽ mục đích đầu tiên của họ là để đe dọa, để tiếp tục ngăn cản những tiếng nói của các bạn trẻ. Nhưng mà tôi nghĩ, cách làm của họ không khôn ngoan và nó như là đổ thêm dầu vào lửa. Chúng ta thấy ngay được là sau khi phiên tòa [sơ thẩm của Phương Uyên và Nguyên Kha kết thúc] đã có sự phản đối hết sức quyết liệt của giới trẻ và người dân. Và như thế, họ [nhà cầm quyền] hoàn toàn [đi] ngược lại với ý định [của họ]. Nếu như chúng ta giả định là họ [nhà cầm quyền] muốn [dùng bản án của Phương Uyên và Nguyên Kha] để đàn áp, đe dọa thì điều này không có kết quả và sẽ không bao giờ có kết quả.

VRNs: Thưa Ông, Ông có nghĩ rằng kết quả phiên tòa này sẽ là bằng chứng để cộng đồng quốc tế từ chối VN ngồi vào ghế nhân quyền LHQ và Mỹ từ chối VN tham gia hiệp ước TPP không?

Ts Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng, vào HĐNQ LHQ chắc là khó, bởi vì các nước EU gồm mấy chục nước, Mỹ và một số nước khác nữa đã lên tiếng rất mạnh. Tôi không hiểu Hội đồng tổ chức của HĐNQ là cơ cấu gồm những cái nào thì không rõ. Như tôi đã nói, nếu để VN đang ở trong tình trạng như thế này mà vào HĐNQ là một sự rất hổ thẹn cho HĐNQ LHQ. Còn về Hiệp định TPP, tôi nghĩ rằng, họ không có ảnh hưởng lớn lắm đến chuyện VN tham gia vào Hiệp định này, bởi vì đó là vấn đề kinh tế, nó sẽ lấn át tất cả các lợi ích khác. Chúng ta chỉ nhìn sơ qua thấy báo cáo về tự do Tôn giáo của Bộ Ngoại giao Mỹ vừa rồi rất là nhẹ nhàng. Cũng có nói cái này, cái kia nhưng mà khá là nhẹ nhàng so với các Tổ chức Phi Chính phủ, các Tổ chức Nhân quyền lên tiếng. Và trong TPP thì nó còn có nhiều thứ, nhiều các lợi ích khác nó ảnh hưởng đến việc tham gia hay không. Tất nhiên, như bên Quốc hội Mỹ thì họ có những ý kiến của họ, hoặc là ý kiến của một số Dân biểu, hoặc Thượng nghị sĩ của họ, nhưng mà Hành pháp ở Mỹ thì họ lại có những cái lợi ích khác và nhiều khi nó cũng không phải hoàn toàn là đồng nhất với nhau.

VNRs: Xin cám ơn Ts Nguyễn Quang A!
trinhham
Posts: 133
Joined: Mon Dec 10, 2012 2:07 am
Contact:

Post by trinhham »

Image


TS Cù Huy Hà Vũ:
Nếu tôi chết, nhân dân Việt Nam sẽ trả thù cho tôi!


Danlambao -
Hôm 1/6/2013, LS Nguyễn Thị Dương Hà đã đến trại giam số 5 - Bộ CA (Yên Định, Thanh Hóa) để thăm nuôi chồng là tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, người hiện đang tuyệt thực đến ngày thứ 6 liên tục để phản đối hành vi ‘cố ý giết người’ của giám thị trại.

Bất chấp sự giám sát chặt chẽ của CA, TS Cù Huy Hà Vũ đã đọc lại toàn văn bức thư của ông cho vợ ghi chép lại, với lời xác quyết vẫn mạnh mẽ như ngày nào: “Tôi, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ hi sinh tính mạng của mình để dân tộc Việt Nam hồi sinh. Tôi quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh.”

Bức thư sau đó đã được người vợ tần tảo của ông là LS Nguyễn Thị Dương Hà ghi lại trọn vẹn. Nội dung thư là những lời chia sẻ của vị tiến sĩ luật danh tiếng trong hoàn cảnh tù đày, sức khỏe ngày một suy yếu do cuộc tuyệt thực phản kháng đã bước sang ngày thứ 6 liên tục.

Xin được nhắc lại, TS Luật Cù Huy Hà Vũ chính thức tuyệt thực từ hôm 27/5/2013. Đây là hành động nhằm phản kháng trước những hành vi trả thù đê tiện của cán bộ trại giam tên Lường Văn Tuyến, kẻ đã và đang liên tục thực hiện âm mưu hãm hại TS Vũ.

Được biết, TS Vũ có tiền sử bệnh tim, cao huyết áp, đau nửa đầu... Nhiều ý kiến lo ngại đây có thể sẽ là bức thư cuối cùng của TS Cù Huy Hà Vũ nếu bộ CA VN tiếp tục đẩy ông vào đường cùng.

Qua bức thư, chúng ta có thể thấy TS Cù Huy Hà Vũ dù trong cảnh tù đày vẫn rất tỉnh táo và mạnh mẽ, thể hiện qua những tuyên bố rực lửa như ngày nào.

Dưới đây là toàn văn bức thư của TS Cù Huy Hà Vũ do LS Dương Hà ghi lại và phổ biến:

*

Ngày 1 tháng 6 năm 2013

Gửi từ Trại tù số 5 – Bộ Công an tại Yên Định, Thanh Hóa

Tôi, TS Luật Cù Huy Hà Vũ, bị Tòa án nước CHXHCN Việt Nam kết án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” mà tôi luôn khẳng định là tôi hoàn toàn vô tội. Hôm nay, ngày 1/6/2013, tôi gặp vợ tôi là Nguyễn Thị Dương Hà và con trai tôi là Cù Huy Xuân Đức lên thăm tôi do việc tôi tuyệt thực để phản đối hành vi phạm pháp của Giám thị Lường Văn Tuyến.

Tôi có ý kiến như sau:

Ngày 11/11/2012, tôi đã gửi Giám thị Trại giam số 5 – Bộ Công an Lường Văn Tuyến một đơn tố cáo Lê Văn Chiến, cán bộ Trại giam số 5 Bộ Công an tố cáo “cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ”.

Tôi đã gửi đơn trên cơ sở điểm a, khoản 1 Điều 168 và khoản 2 Điều 168, khoản 1 Điều 169 Bộ luật Thi hành án Hình sự, thế nhưng đến ngày 12/5/2013, tức sau 180 ngày mà Giám thị Lường Văn Tuyến đã không giải quyết Tố cáo này của tôi mà còn tiếp tục cho cán bộ Lê Văn Chiến vào trực phòng tôi. Do đó ngày 12/5/2013, tôi tiếp tục gửi yêu cầu giải quyết đơn tố cáo ngày 11/11/2012 và ghi rõ trong trường hợp không giải quyết đơn tố cáo của tôi thì sau hai tuần tôi sẽ tuyệt thực phản đối!

Đến ngày 27/7/2013, tôi đã tuyệt thực, cho đến hôm nay 1/6/2013 là 6 ngày tôi vẫn tiếp tục tuyệt thực để phản đối việc Giám thị Lường Văn Tuyến xâm phạm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của tôi như không trả lời Đơn tố cáo, không cho gặp vợ không quá 24 giờ ở phòng riêng, không cho gửi thư cho gia đình, không cho nhận một số đồ vật thiết yếu không thuộc danh mục cấm, 10 đầu tài liệu mà Tòa án đã dùng làm chứng cứ kết tội tôi để tôi kháng cáo.

Tôi tiếp tục tuyệt thực cho đến khi nào giám thị Tuyến giải quyết đơn và các quyền lợi hợp pháp khác của tôi.

Nếu tôi chết thì nhân dân Việt Nam sẽ trả thù cho tôi bằng cách đưa ra vành móng ngựa tất cả những kẻ nào đã chỉ đạo bắt, truy tố, kết án, bỏ tù tôi trái pháp luật cũng như xử tù giám thị trại giam số 5 Lường Văn Tuyến và những kẻ có liên quan đã đẩy tôi đến chỗ tuyệt thực dẫn đến cái chết của tôi tại trại giam số 5 Bộ Công an.

Tôi, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ luôn đấu tranh vì công lý, dân chủ, nhân quyền, vì phẩm giá của con người ở Việt Nam, luôn chống chế độ độc đảng độc tài, đàn áp con người ở Việt Nam. Tôi cũng luôn chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Do đó, Tôi, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, luôn sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình để nhân dân Việt Nam sống trong tự do và dân chủ và được tôn trọng các quyền con người của mình, để Tổ Quốc Việt Nam luôn độc lập và toàn vẹn về chủ quyền và lãnh thổ.

Tôi, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ hi sinh tính mạng của mình để dân tộc Việt Nam hồi sinh. Tôi quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh.

Tôi xin gửi lời chào kính trọng và chân thành tới toàn thể nhân dân Việt Nam, tới toàn thể nhân dân các nước, các chính phủ: chính phủ Hoa Kỳ, chính phủ 27 nước liên minh Châu Âu, chính phủ Australia, Canada … và các tổ chức trên thế giới đã ủng hộ tôi mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh của tôi vì công lý, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam vì phẩm giá và quyền làm người của nhân dân Việt Nam. Tôi tin tưởng rằng trong tương lai không xa nước Việt Nam sẽ trở thành một nước dân chủ thực sự, có chế độ chính trị đa đảng và có Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Tôi tin tưởng rằng nhân dân Việt Nam sẽ là chủ nhân thật sự của đất nước mà trước mắt là thực hiện quyền phúc quyết đó với dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 cũng như đối với mọi dự thảo Hiến pháp khác.

Tôi luôn yêu thương vợ tôi là Nguyễn Thị Dương Hà, con trai trưởng là Cù Huy Xuân Đức, con trai út là Cù Huy Xuân Hiếu, cháu đích tôn Cù Huy Xuân Hoàng, con dâu Hoàng Kim Thanh và các thành viên khác của đại gia đình tôi của tộc Cù Huy – tộc Ngô Xuân và quê hương Hà Tĩnh cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi.

Tôi xin nói lại tại sao tôi quyết lấy tính mạng của mình để đấu tranh vì công lý, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vì độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam nói chung, đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm nhân quyền của giám thị Lường Văn Tuyến nói riêng có 3 lý do cơ bản sau:

1. Truyền thống gia đình tôi là gia đình yêu nước nồng nàn từ đời cụ Vương “Cù Ngọc Xán” đã là chỉ huy căn cứ địa của Lê Lợi tại Hương Sơn Hà Tĩnh cho đến các cụ, ông tôi, bố tôi Nhà thơ - Bộ trưởng Cù Huy Cận, Nhà thơ Xuân Diệu luôn đấu tranh vì quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam và của từng người Việt Nam.

2. Tôi là Tiến sĩ luật, do đó tôi biết rõ là phải đấu tranh trên cơ sở pháp luật và bằng đấu tranh của tôi, tôi tin tưởng đã và đang đóng góp quyết liệt vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

3. Tôi năm nay đã 56 tuổi tây, 57 tuổi ta, nên đã có đủ kinh nghiệm và hiểu biết về những hành vi phản dân chủ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về sự đàn áp của chính quyền cộng sản Việt Nam đối với nhân dân Việt Nam, do đó tôi phải đấu tranh để chấm dứt những hành vi phạm pháp đó.

Tôi luôn luôn biết ơn các bậc đã sinh thành ra tôi là nhà thơ - Bộ trưởng khai quốc Cù Huy Cận; mẹ tôi bác sĩ Ngô Thị Xuân Như; bác ruột và cha nuôi tôi là nhà thơ Ngô Xuân Diệu đã có công sinh và dạy dỗ tôi nên người.

Nếu tôi có chết trong cuộc tuyệt thực này thì tôi đã luôn xứng đáng với các bậc sinh thành ra tôi. Tôi cũng luôn nhớ bố vợ tôi là ông Nguyễn Bá Phụng và mẹ vợ tôi là bà Dương Thị Kính, đó là những con người đã yêu thương tôi như con ruột.

Toàn thể gia đình tôi, vợ Tôi, các con trai tôi và cháu nội tôi sẽ tiếp tục con đường đấu tranh vì công lý, nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tôi, vì dân vì nước như đã nói ở trên.

(Sau khi đọc xong thư cho vợ là Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, TS Cù Huy Hà Vũ nói thêm)

Tôi hoàn toàn không ăn là để đấu tranh, tôi tuyệt thực không phải là vì muốn tự tử, tự sát, mà là để phản đối các hành vi xâm phạm quyền lợi hợp pháp của tôi, của giám thị Lường Văn Tuyến nói riêng và của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nói chung.

Danlambao
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Biểu tình chống xâm lược là yêu nước

Hiền Sỹ
(Danlambao) - Trong thời gian gần đây, Trung cộng đang gia tăng cường độ ở Biển Đông nhằm thể hiện sức mạnh bành trướng của mình trong cuộc họp Shangri-La, Singapore. Lẽ ra phải phản đối quyết liệt và đưa sự việc tòa án quốc tế thì chính quyền cộng sản Việt Nam tiếp tục chọn giải pháp yên lặng. Ngoài ra họ tiếp tục cho bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh lặp đi lặp lại những lời mà nhân dân Việt Nam đã nghe đến nhàm tai “Chúng ta phải giữ vững lập trường ngoại giao vì hòa bình, ổn định”.

Đứng trước tình trạng nhu nhược của chính quyền cộng sản, nhân dân Việt Nam không thể nào chấp nhận nước Việt Nam dần dần rơi vào tay kẻ thù ngàn đời của dân tộc. Và lần này cũng thế, nhân dân Việt Nam một lần nữa quyết tâm đứng lên bằng lời kêu gọi của các công dân trên khắp lãnh thổ Việt Nam tiến hành “biểu tình Phản đối Trung Quốc gây hấn và xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên biển Đông” vào 08h30 ngày Chủ Nhật 02.06.2013, tại Hà Nội: Khu vực Hồ Gươm, tại Sài Gòn: Công viên 30/4.

Nhà nước cộng sản thường lập luận về những cuộc biểu tình chống giặc Trung Quốc xâm lăng như sau: biểu tình gây bất ổn an ninh trật tự, Trung cộng đâu có sợ Việt Nam biểu tình, tại sao yêu nước đi biểu tình thì không hăng hái xin ra Hoàng Sa - Trường Sa giữ đảo, biểu tình là tập dượt chống lại chính quyền. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ muốn nói với đảng cộng sản, những điều mà đảng cộng sản biện minh cho hành động đàn áp lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam là hoàn toàn vô lý. Vì sao lại nói như vậy?

Thứ nhất, biểu tình có gây bất ổn an ninh trật tự hay không? Thực ra là không. Vì trên thực tế chưa có bất cứ một cuộc biểu tình của nhân dân Việt Nam chống Trung cộng gây nên cảnh bất ổn, phá phách hay mất an ninh. Tất cả các cuộc tuần hành xuống đường phản đối giặc Tầu đều diễn ra trong trật tự và thậm chí không ảnh hưởng gì đến giao thông. Hơn thế nữa, biểu tình thể hiện chính kiến, lòng yêu nước của nhân dân chính là quyền của con người đã được nhà nước Việt Nam công nhận khi ký công ước Nhân quyền. Vậy tại sao nhân dân biểu tình chống xâm lược một cách ôn hòa lại bị vu cáo cho tội “gây rối trật tự an ninh “. Đây thực chất chỉ là một cái cớ để ngăn không cho biểu tình chống Tầu mà thôi.

Thứ hai, đảng cộng sản nói Trung cộng không sợ nhân dân Việt Nam biểu tình cũng là sai. Vì trên thực tế trong lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, chúng ta chưa bao giờ cam tâm làm nô lệ cho giặc Tầu. Biểu tình phản đối những hành động ngang ngược của Trung cộng chính là thể hiện ý chí của dân tộc mà những Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo đã làm. Giặc Tầu trong lịch sử đã thua chúng ta rất nhiều lần không phải bởi chúng ta có quân đội đông đảo, vũ khí vượt trội mà giặc Tầu thua chúng ta vì chúng ta có tinh thần đoàn kết và tự hào dân tộc. Xuống đường biểu tình phản đối những hành động ngang ngược của Trung cộng chính là thể hiện tinh thần đoàn kết và tự hào dân tộc tốt hơn bất cứ hình thức nào. Như vậy, đảng cộng sản ngăn cấm biểu tình chính là ngăn cấm sự đoàn kết của dân tộc trước quân xâm lược. Đây chính là hành động thể hiện mưu toan bán nước mà đảng cộng sản đang tiến hành.

Thứ ba, đảng cộng sản cho rằng nếu đã yêu nước, dám xuống đường biểu tình tại sao không đi ra Hoàng Sa - Trường Sa giữ đảo. Đây là một luận điệu bỏ bóng đá người quen thuộc của đảng cộng sản Việt Nam. Tại sao lại nói như vậy? vì trên thực tế, yêu nước thể hiện trong trái tim và khối óc của mỗi cá nhân. Tuy nhiên không phải cá nhân nào cũng có khả năng ra biển đảo trực tiếp đương đầu với quân thù. Mỗi người yêu nước bằng cách thể hiện và việc làm cụ thể khác nhau nhưng cốt yếu đó là trong tim có lòng yêu nước thì đó chính là chính nghĩa. Đảng cộng sản không thể bắt một cụ già, một em nhỏ thể hiện lòng yêu nước giống một anh thanh niên. Nói như vậy để thấy, mỗi người có quyền thể hiện lòng yêu nước bằng một việc làm cụ thể khác nhau, tùy thuộc khả năng và hoàn cảnh của bản thân. Đi biểu tình chống quân xâm lược chính là việc khẳng định tinh thần yêu nước và thể hiện sức mạnh đoàn kết dân tộc.

Thứ tư, đảng cộng sản cho rằng biểu tình chống Trung cộng chỉ là cái cớ để biểu tình chống chính quyền. Trên thực tế, chưa có bất cứ một cuộc biểu tình nào có khẩu hiệu của người dân kêu gọi lật đổ chính quyền mặc dù với những tội ác, việc làm của đảng thì ở những nước dân chủ tự do, nhân dân có xuống đường đòi lật đổ chính quyền cũng là điều đương nhiên. Như vậy đảng cộng sản đã vu cáo cho hành động yêu nước của nhân dân một cách trắng trợn. Và suy cho cùng thì nếu đảng yêu dân tộc, biết lo cho dân thì “Cây ngay không sợ chết đứng”, cớ sao lại “Có tật giật mình” trước nhân dân như vậy?. Điều này có lẽ đảng tự rõ hơn ai hết.

Nhân dân Việt Nam trong lịch sử chưa bao giờ sợ hãi bọn cướp nước đến từ Phương Bắc. Chúng tôi đang thể hiện tình yêu nước đó bằng việc biểu dương sức mạnh đoàn kết và lòng tự hào dân tộc thông qua các cuộc biểu tình ôn hòa. Đảng cộng sản thậm chí không cho chúng tôi thể hiện sự đoàn kết, thể hiện sự tự hào dân tộc và thể hiện quyền cơ bản của con người thì tại sao đảng lại bắt chúng tôi phải yêu nước theo kiểu nhu nhược mà đảng đang áp đặt. Người dân Việt Nam hoàn toàn có quyền thể hiện lòng yêu nước của mình mà không cần ai cho phép, không cần ai định hướng cả. Lòng yêu nước, căm thù giặc xuất phát từ chính trái tim của chúng tôi sẽ cuốn phăng những kẻ cướp nước và bán nước Việt Nam.

Hiền Sỹ
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Nhớ lại chuyện Thiên An Môn

Ngô Nhân Dụng

Tháng Năm năm 1989, một người bạn Trung Hoa chia sẻ với tôi những giờ phút hồi hộp cùng theo dõi tin tức về cuộc biểu tình của giới sinh viên, trí thức, và các công nhân tại Bắc Kinh, đã kéo dài suốt mấy tuần lễ. Lúc đó, các báo, các đài, cả thế giới cũng loan báo các hình ảnh và tin tức mỗi ngày, mỗi giờ.

Anh bạn họ Hà, tên Khoa quê ở Bắc Kinh, là một sinh viên được chính phủ Canada cấp học bổng sang học Ph.D.. Hơn một chục sinh viên Trung Quốc cùng sang một đợt; anh chọn học về ngành quản trị (management) ở ngay trường tôi, cho nên quen nhau. Tôi chú ý đến anh khi biết gia đình anh là nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông phát động; rồi trở thành bạn vì tính tình anh thành thật, cởi mở. Cha anh Khoa là một giáo sư, mẹ là một bác sĩ, cả hai anh đều bị đày từ Bắc Kinh về miền núi xa xôi trong thời gian Mao Trạch Đông huy động Vệ Binh Đỏ đi tiêu diệt các đối thủ trong Đảng Cộng sản như Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ. Anh không được đi học trong nhiều năm, cho tới khi gia đình được trở lại Bắc Kinh năm 1980. Anh tự học tiếng Anh bằng cách nghe các đài BBC và VOA, và sau khi tốt nghiệp cao học về kinh tế, anh xin được học bổng. Khoa hay thắc mắc, tìm hiểu về xã hội Canada, tiếp xúc với người Canada, khác với đa số sinh viên Trung Quốc khác, họ thường chỉ tụ tập với nhau, rất dè dặt khi phải gặp người địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian các cuộc biểu tình diễn ra tại Thiên An Môn thì các sinh viên Trung Quốc còn đối xử dè dặt giữa họ với nhau nữa.



Đó là lý do Khoa thường trò chuyện với tôi trong thời gian đó, vì anh có thể giãi bày tâm sự tự do hơn. Khoa rất hào hứng theo dõi các hình ảnh trên ti vi, anh còn điện thoại về Bắc Kinh hỏi thêm tin tức với mẹ, bà đã được hành nghề bác sĩ trở lại. Vào cuối tháng Năm, năm 1989 đó, Khoa rất lạc quan. Anh tin rằng nước Trung Hoa đang thay đổi lớn. Cũng như nhiều thanh niên, trí thức Trung Hoa khác, anh nhớ lại biến cố ngày 4 tháng 5 năm 1919, một khúc quanh trong lịch sử Trung Hoa vào thế kỷ trước. Khoa tin rằng giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Hoa sẽ đáp ứng các đòi hỏi của dân. Bởi vì họ đều thành tâm muốn đất nước họ thay đổi; nhất là họ không phải là những người tự coi mình là lãnh tụ siêu việt, quen khinh thường đám dân đen như bọn Mao Trạch Đông. Khi ông Triệu Tử Dương ra Quảng trường Thiên An Môn nói chuyện với các sinh viên, Khoa hết sức hào hứng. Anh càng lạc quan hơn.

Niềm vui lớn của Khoa là thấy dư luận cả thế giới chú ý đến cuộc biểu tình kéo dài nhiều ngày này. Anh lớn lên trong một xã hội mỗi ngày được nghe loa hô hào toàn thế giới đoàn kết, vì một lý tưởng rất xa xôi. Trong những ngày Thiên An Môn, Khoa được chứng kiến cả thế giới đoàn kết thật. Ai cũng chú ý đến câu chuyện xẩy ra ở bên Tàu, ai cũng mong các lý tưởng tự do dân chủ được thể hiện, thành đời sống thật, ở một nước mà suốt năm ngàn trước không hề có lúc nào áp dụng chế độ dân chủ. Một người Trung Quốc như Khoa cảm thấy hãnh diện khi trái tim nhân loại chung quanh đang đập cùng một nhịp với đồng bào anh ở Trung Quốc. Anh lại là một cựu sinh viên Bắc Đại, anh hãnh diện về các giáo sư và bạn học cùng trường Đại học Bắc Kinh với anh.

Tháng Năm năm 1989 không phải là lần đầu tiên loài người khắp nơi cùng hướng về một dân tộc, một quốc gia đang nổi lên đòi tự do dân chủ. Năm 1956 dân Hungary đã đốt ngọn đuốc tự do lên khắp đường phố Budapest; rồi bị xe tăng Nga dập tắt. Nhờ mấy phóng viên ngoại quốc có mặt tại chỗ, những hình ảnh của nổi dậy đòi tự do của dân Hungary được phổ biến khắp nơi.Cả loài người kính phục, ngưỡng mộ những anh hùng vô danh người Hungary. Cả loài người khóc khi chứng kiến đoạn kết tấn bi kịch. Năm 1968, cả thế giới lại chia sẽ nỗi hào hứng của thanh niên, sinh viên Paris đi biểu tình. Họ nạy cả những tảng đá lót đường để đánh nhau với cảnh sát. Cũng năm đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc cũng mở cửa cho dân được tự do hơn, dân Tiệp được hưởng một một Mùa Xuân Praha, cho tới khi xe tăng của Nga tới đè bẹp.

Những người đã sống qua kinh nghiệm các năm 1956, 1968 đều giữ trong đầu các hình ảnh hào hứng đó. Bởi vì trong một đời người không phải lúc nào chúng ta cũng được chứng kiến cảnh nhân loại cùng hướng về một phía, cùng nuôi hy vọng vào một mục tiêu như vậy. Chứng kiến cảnh đó, chúng ta cảm thấy tin tưởng hơn vào những lý tưởng của nhân loại. Những chữ “Tự Do, Công Bằng, Dân Chủ, Tình Huynh Đệ,” vân vân, vốn diễn tả những lý tưởng có thật, chứ không phải chỉ là những khẩu hiệu trống rỗng sau khi bị lạm dụng.

Tôi được chia sẻ với người bạn sinh viên Trung Quốc những tình tự đó, cùng nuôi niềm hy vọng cho dân tộc anh. Mà tôi cũng biết, nếu Trung Quốc thay đổi thì nước mình cũng sẽ thay đổi. Tuy nhiên, vào lúc đó, tôi không cảm thấy lạc quan như Khoa. Có lẽ vì tôi già hơn anh hàng chục tuổi. Có lẽ cũng vì hồi thơ ấu tôi hay đọc truyện Tàu. Những thanh niên Trung Hoa cùng tuổi với Khoa không có cơ hội đọc truyện Tàu, vì chính sách xóa bỏ quá khứ của Đảng Cộng sản. Tôi nói với Khoa: Nếu cuộc biểu tình này kéo dài, Đảng Cộng sản họ sẽ đem lính tới dẹp. Bởi vì từ bao lâu nay Đảng Cộng sản vẫn đóng vai vua. Mấy tuần nay, tôi thấy hình như ở Bắc Kinh không có ông vua nào cả. Hầu như cả triều đình Trung Nam Hải tê liệt; không ai quyết định điều gì cả. Sẽ tới lúc những người lãnh đạo đảng họ sẽ nói, như trong truyện cổ họ vẫn nói: Một nước không thể không có vua trong một ngày được. Hoặc là Đảng Cộng sản phải tuyên bố thoái vị, truyền ngôi cho người khác, mà phải làm lễ đăng quang ngay. Nếu không thì phải tiêu diệt những người chống đối. Truyện Tàu xưa nay vẫn như thế.

Cho tới ngày 4 tháng 6 năm 1989, Đặng Tiểu Bình đã ra tay. Ông ta chứng tỏ nước Tàu vẫn có vua quan, triều đình, trên bảo dưới phải nghe. Cho tới nay, năm 2013, triều đại cộng sản đó vẫn ngự trị. Gần đây khi đọc các tài liệu mới về cuộc đời Mao Trạch Đông, người ta mới thấy ông đúng là một vị vua khai sáng triều đại, giống như Lưu Bang, Triệu Khuông Dẫn hay Chu Nguyên Chương. Họ đủ tham vọng để quyết tâm cướp lấy vai trò lãnh đạo trong lúc xã hội nhiễu nhương; anh hùng hào kiệt khắp chốn cùng nổi lên. Họ cũng phải có máu tàn ác đủ để tiêu diệt hết những kẻ cạnh tranh với mình. Khi lên ngôi, họ vẫn giữ được thói quen tàn bạo thời nội chiến để tiêu diệt đến các đồng chí của mình.

Nhưng trên hết, họ phải là những người coi đám dân đen như cỏ rác. Như trâu, chó. Để sai khiến thì được. Để cùng chia quyền quyết định thì không. Khi các nhà viết truyện Tàu kể lại các nhân vật nói rằng; “Nước không thể một ngày không có vua” thì họ vẫn giữ trong đầu hình ảnh một ông vua nắm quyền tuyệt đối. Ông vua đó nhân danh “Thiên mệnh” (Ông Trời) ngồi trên đầu đám dân đen. Khi nào loài người còn tin tưởng đó là cách sống tự nhiên và duy nhất trong xã hội, thì câu trên vẫn là một chân lý, không ai dám bàn cãi cả. Nếu người dân một nước tin tưởng, chấp nhận, hay cam chịu sống theo lối đó, thì họ cứ thế tiếp tục sống như các người dân Trung Hoa đời Đường, đời Minh, đời Thanh và đời Mao.

Vậy ở các nước sống trong thể chế tự do dân chủ thì sao? Có thể sống “một ngày không có vua” được không?

Trong mấy năm qua, có những nước ở Châu Âu không thành lập được chính phủ trong thời gian rất lâu, có khi cả năm trời nước không có chính phủ; Hà Lan là một trường hợp điển hình nhất. Trong khoảng thời gian đó, guồng máy nhà nước chạy ra sao? Người dân sống ra sao? Một điều hiển nhiên là tại nước đó, các công chức vẫn tới sở làm việc, làm đúng các công việc mà họ vẫn phải làm. Cảnh sát vẫn điều khiển lưu thông và đi bắt kẻ gian. Những người thợ vẫn đến xưởng, các tài xế vẫn lái xe, các bà nội trợ vẫn đi ra chợ, chợ vẫn mở cửa. Thầy cô giáo, học sinh vẫn đến trường. Nghĩa là đời sống cả xã hội, trong toàn thể quốc gia vẫn chạy đều, dù các ông, bà thủ tướng hay bộ trưởng đều đã từ chức, chỉ được lưu nhiệm tạm thời xử lý thường vụ.

Ngay tại nước Mỹ cũng vậy. Trong mấy năm qua, trước và sau khi ông Obama tái đắc cử, người Mỹ cũng than phiền là chính quyền tê liệt, vì ông Tổng thống và Quốc hội không thể thỏa hiệp với nhau về ngân sách. Lúc bí quá, thì họ thỏa hiệp tạm trong một thời gian ngắn, chờ “hiệp sau” đấu lại. Tờ tuần báo Economist nhận xét: Mỹ đang đi theo đường Châu Âu!

Tất nhiên, không có dân nước nào lại muốn bộ máy chính quyền bế tắc cả. Nhưng ở các nước tự do dân chủ thì dù “không có vua” kinh tế vẫn chạy, xã hội, văn hóa, giáo dục vẫn chạy. Vì người ta thu xếp đời sống dựa trên luật lệ; những điều luật công khai, khách quan, được mọi người thỏa thuận cùng theo. Đó là một thứ “hợp đồng xã hội.”

Ở các nước độc tài thì ngược lại, người ta tổ chức cuộc sống theo quyền hành của người trên. Ý kiến, mệnh lệnh của người trên cao hơn luật lệ. Khi không có “chỉ thị” thì họ lúng túng không biết làm gì. Vì họ chỉ sợ làm sai ý bề trên!

Trong thời gian nghe tin tức hàng ngày ở Thiên An Môn, năm 1989, tôi cứ bị ám ảnh với mấy chữ “Nước không thể một ngày không có vua.” Tôi đã dùng câu nói cổ xưa trong truyện Tàu đó để đoán với chú bạn trẻ người Trung Quốc là thế nào Đảng Cộng sản Trung Hoa cũng sẽ đàn áp các sinh viên và công nhân. Bởi vì họ quen làm vua; quen suy nghĩ như vua. Khi nào một tỷ người dân Trung Hoa vẫn còn cam chịu có ông vua trên đầu mình, thì thế nào Đảng Cộng sản cũng đàn áp. Họ đàn áp vì lý luận: “Nước không thể một ngày không có vua được.”

Sau biến cố ngày 4 tháng 6 năm 1989, anh bạn Khoa của tôi đã xin tị nạn chính trị. Anh học tiếp chương trình Ph.D. ở một đại học khác, về kinh tế học. Bây giờ anh là một giáo sư đại học tại Canada. Anh mới gặp tôi tháng trước. Mỗi năm anh vẫn về nước Tàu làm công việc tuyển sinh, do nhà trường giao phó. Tôi hỏi: Cậu có về Trung Quốc dạy học một vài năm hay không? Khoa nói: Không thể về đấy sống được. Ô nhiễm quá. Không khí ô nhiễm, dễ nhìn thấy nhất, ai cũng biết. Nhưng nước ô nhiễm mới ghê, mà ít người để ý. Khoa kể, hồi nhỏ anh sống một thời gian ở Vân Nam. Mấy năm rồi anh trở về thành phố cũ. Cái hồ nước mà thời xưa anh thường nhảy xuống bơi lội, nước trong veo; bây giờ cũng cái hồ đó nước đóng váng và đen ngầu, không loài tôm cá nào sống được. Khoa công nhận: Nếu cái chế độ độc tài, tham nhũng này còn kéo dài thì môi trường sống sẽ bị hủy hoại, thế hệ các trẻ em Trung Hoa bây giờ mới sinh ra sẽ gánh chịu hậu quả!

N.N.D.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Nguyễn Tấn Dũng né Trung Cộng
Ngô Nhân Dụng


Cả bài diễn văn của ông Nguyễn Tấn Dũng đọc tại Hội nghị Shangri-La, Singapore, chỉ hô khẩu hiệu, rất nhiều khẩu hiệu,
chỉ nói những quy tắc chung chung, nhưng không dám đả động tới một điều gì cụ thể.
Đặc biệt, Nguyễn Tấn Dũng né tránh không dám đụng tới Trung Cộng, ngay cả khi bị một nữ ký giả của Bắc Kinh thách thức.

Image
Nguyễn Tấn Dũng

Nói những chuyện chung chung thì cũng giống như hô khẩu hiệu, một tập quán của các cán bộ cộng sản. Những ý kiến được Nguyễn Tấn Dũng nêu lên, nếu ai nói thì cũng nói giống như vậy. Và nói ở đâu, nói lúc nào cũng thích hợp cả! Thí dụ, Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi các nước “cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia – nhất là các nước lớn …” Nói như vậy thì ai chẳng nói được? Hoặc một câu được coi là ý kiến mới mẻ đối với Cộng sản Việt Nam: “Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất)” (nhấn mạnh trong nguyên văn). Nhưng câu nói này, về vai trò của Trung Quốc và Mỹ, nếu đặt vào miệng bất cứ một người nào, dù đó là tổng thống Phi Luật Tân, thủ tướng Campuchia, cũng đều nói như vậy cả. Điều mà người dân Việt Nam muốn một ông thủ tướng phải nói lên, là những gì gay go nhất trong mối quan hệ riêng giữa Việt Nam và Trung Quốc; nhưng không được ông ta nêu lên, dù chỉ nói bóng bẩy.

Bài diễn văn hô toàn khẩu hiệu, giống như các tay quản giáo thường lên lớp, sau khi học thuộc lòng. Nguyễn Tấn Dũng nêu ra các quy tắc ứng sử, các nhu cầu an ninh trong vùng Biển Đông; những điều ai cũng biết cả rồi. Nhưng Dũng lại không dám nêu tên một nước nào cụ thể đã vi phạm các quy tắc hay thỏa hiệp đó. Trong lúc Nguyễn Tấn Dũng nói ở Singapore thì ở trong nước Việt Nam lòng người đang sôi sục. Giới trí thức, thanh niên Việt Nam đang hô hào biểu tình chống Cộng sản Trung Hoa lấn cướp. Vì các tàu hải giảm, chiến hạm Trung Cộng vẫn tiến vào những vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam; lính Trung Quốc tiếp tục bắt người Việt, đâm cho vỡ tàu, bắn súng vào tàu đánh cả của người Việt Nam. Nguyễn Tấn Dũng hoàn toàn không dám nhắc đến tên chính quyền Trung Quốc, thủ phạm của các hành động xâm lược trắng trợn đó, mặc dù đã nhắc tới các xung đột đang gây căng thẳng trong vùng. Tóm lại, cả bài diễn văn là một màn múa võ tránh né, không dám nói gì tới những mối lo cụ thể của nước Việt Nam, không dám nói tới mối đe dọa của Trung Cộng trên vùng biển nước ta ngay trong lúc này.

Một ý kiến được coi là “mới nhất” do Nguyễn Tấn Dũng nói lên ở hội nghị, là nhắc tới vai trò của Mỹ ở trong vùng Đông Nam Á. Nhưng ngay khi phát biểu ý kiến này, Nguyễn Tấn Dũng cũng không dám nêu ra như một điều mình suy nghĩ, mà chỉ nhắc lại lời người khác, đã nói từ năm ngoái! Dũng nói: “Tôi cũng đồng tình với ý kiến của Ngài Thủ tướng Sinh-ga-po Lý Hiển Long trong bài phát biểu tại Bắc Kinh tháng 9 năm 2012, cho rằng sự hợp tác tin cậy và trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ đóng góp tích cực cho lợi ích chung của khu vực.” Nói như vậy để chứng tỏ với Bắc Kinh rằng việc đặt Mỹ lên ngang hàng với Trung Quốc trong vùng biển Đông Nam Á “không phải ý kiến tôi!” Lý Hiển Long đã nói từ năm ngoái rồi, tôi chỉ nhắc lại sau khi không thấy các đồng chí phản đối Lý Hiển Long thôi!

Đến lúc họp báo, trả lời câu hỏi của các ký giả, Nguyễn Tấn Dũng vẫn tiếp tục “không dám nói cụ thể,” “không dám gọi thẳng tên.” Chắc trước khi đi Singapore Nguyễn Tấn Dũng đã hứa sẽ kiên trì tuân thủ đường lối nói “vô tội vạ” này, không dám “đi chệch hướng.” Bài diễn văn rõ ràng chỉ nói những điều “vô thưởng vô phạt,” “không làm ai mất lòng.” Dùng ngôn ngữ quen thuộc của đồng bào ta bây giờ, đó là một thái độ “vô cảm.”

Thái độ vô cảm này chỉ có một lý do: Sợ phản ứng của Bắc Kinh. Nếu trước khi đi phó hội, Nguyễn Tấn Dũng chưa cam kết với sứ quán Trung Cộng ở Hà Nội sẽ theo lối nói vô cảm, thì chắc cả Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định quy tắc sống đó rồi. Nguyễn Tấn Dũng kiên quyết không chỉ đích danh Trung Quốc! Không được nhắc đến các tội ác cụ thể của Bắc Kinh! Kể từ khi Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng kéo nhau sang Thành Đô xin quy thuận năm 1992, các lãnh tụ cộng sản Việt Nam không có lựa chọn nào khác. Những người cầm đầu đảng hay chính phủ ở Việt Nam không ai dám nói thẳng những nỗi bất bình của dân Việt đối với Trung Cộng nữa.

Cho nên, khi trả lời các câu hỏi trong lúc họp báo, Nguyễn Tấn Dũng đã giữ một thái độ tránh né, đến mức độ phải coi là hèn nhát. Như khi một ký giả ngoại quốc nhắc lại rằng trong bài phát biểu Nguyễn Tấn Dũng đã nói việc phải dùng luật pháp quốc tế giải quyết các tranh chấp trong vùng biển. Vin vào câu đó, ký giả này hỏi rằng Nguyễn Tấn Dũng có ủng hộ việc Phi Luật Tân đang nộp đơn thưa kiện Trung Quốc trước tòa án quốc tế hay không?

Ai cũng phải công nhận Tổng thống Aquino đang sử dụng luật pháp quốc tế khi cần giải quyết các xung đột quyền lợi với Trung Quốc! Trước câu hỏi này, câu trả lời hiển nhiên là ông Aquino làm đúng! Nhưng Nguyễn Tấn Dũng không dám trả lời rằng mình ủng hộ hành động của Phi Luật Tân. Cũng không dám trả lời một cách chung chung, thí dụ, có thể nói rằng “Việc thưa kiện nhau ra tòa án chắc phải tốt hơn là để các tầu chiến bắn vào nhau!”

Trái lại, Nguyễn Tấn Dũng, sau khi ngồi im nghe lời thông dịch để suy nghĩ, đến lúc bắt đầu nói thì cũng chỉ nhắc lại, một lần nữa, các ý kiến chung chung như “hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển,” vân vân, để chứng tỏ mình vẫn thuộc bài. Sau cùng, câu nói mà mọi người chờ đợi để trả lời người hỏi thì lai nghe rất nhạt nhẽo. Dũng bảo: Về vấn đề này chúng tôi đã có thông cáo từ trước rồi! Xin phép không nhắc lại, sợ mất thời giờ!

Ngay cả việc mở miệng nhắc lại nội dung nói rất đại cương của bản thông cáo đó, Dũng cũng không dám nhắc tới. Người ta đến đây đặt câu hỏi cốt để biết ý kiến và thái độ của chính quyền nước Việt Nam, chứ đâu phải đến để nghe chỉ dẫn đi tìm đọc cái gì? Có ai biết bản thông cáo cũ đó có thật không? Nó nói những gì? Nhưng Dũng vẫn giữ vững đường lối: Không nói một lời nào ủng hộ việc chính phủ Phi Luật Tân thưa kiện Trung Cộng! Tức là không nói một lời nào có thể khiến các đồng chí Bắc Kinh nổi giận!

Nhưng các đồng chí từ Bắc Kinh tới vẫn không tha cho Dũng. Một cô ký giả người Trung Quốc đã đứng lên nhân danh Nhật báo Nhân Dân ở Bắc Kinh để đặt câu hỏi. Cô ta mặc bộ quân phục, với cả hàng huy chương đeo trước ngực! Quả nhiên, cô chính là một thiếu tướng trong quân đội Trung Quốc! Cô nhắc lại một câu Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.”

Người Việt Nam nghe hai chữ “đâu đó” đã thấy một thái độ lảng tránh hèn nhát rồi, vì không dám nói thẳng là ai, ở đâu! Nhưng cô thiếu tướng tự xưng ký giả báo Nhân Dân (Bắc Kinh) lại vin vào câu nói của Nguyễn Tấn Dũng mà khiêu khích, đặt thẳng một câu hỏi, đòi Dũng phải nói rõ hơn: Xin ông cho biết rõ ràng khi ông nói câu đó thì ông ám chỉ chuyện gì xẩy ra ở nước nào vậy? Và khi ông nói tới “những hành động trái với luật pháp quốc tế” thì xin ông làm ơn cho biết đó là vi phạm những điều luật nào vậy? Đúng là một câu hỏi khiêu khích, thách thức xem Nguyễn Tấn Dũng có dám nói thẳng thắn hay không!

Nếu quý vị ở địa vị một vị thủ tướng nước Việt Nam thì quý vị sẽ trả lời sao? Chắc chắn phải nói đến các hành động Trung Cộng cho tàu hải giám chạy vào vùng biển Việt Nam, tầu chiến Trung Cộng đóng vai cướp biển bắn phá tầu đánh cá, bắt cóc ngư dân Việt Nam. Những chuyện đó có thật, cả thế giới đều biết, có gì phải giấu giếm?

Nhưng Nguyễn Tấn Dũng đã không dám nhân cơ hội này vạch ra những vụ vi phạm luật biển quốc tế của chính quyền Bắc Kinh! Dũng lại tiếp tục ca sáu câu đã thuộc lòng: Hòa bình, ổn định, phát triển, tự do hàng hải, vân vân. Sau cùng, cũng trả lời cô ký giả báo Nhân Dân ở Bắc Kinh bằng cách né: Chuyện này đã nói có lẽ mọi người đã biết cả rồi, tôi không cần nhắc lại nữa!

Điều nên biết là trong hội nghị lần này, một vị thiếu tướng Trung Cộng khác, Thích Kiến Quốc (Qi Jianquo, 戚建国) cầm đầu phái đoàn quân đội sang dự. Ông ta đã ngang nhiên tuyên bố rằng việc tàu chiến của nước ông đi tuần trong vùng biển Đông Nam Á là tự nhiên, vì vùng đó thuộc lãnh hải Trung Quốc! Ông tướng chuyên viên ngoại giao, phó tư lệnh quân đội họ Thích đã khẳng định một điều hoàn toàn sai sự thật. Cả phái đoàn Nguyễn Tấn Dũng có mặt hội nghị, nghe nói thế nhưng không ai dám lên tiếng, ít nhất cũng để nói rằng chính phủ Việt Nam không đồng ý với ông tướng này! Sau đó đến lượt nghe cô thiếu tướng phóng viên đặt câu hỏi thách thức giữa làng, giữa chợ, các nhà báo khắp thế giới sẽ nghĩ thế nào khi thấy Nguyễn Tấn Dũng không dám trả lời thẳng vào câu hỏi của cô?

Với tư cách một thủ tướng, người đứng đầu chính phủ một nước đang bị Trung Cộng đè nén, bắt nạt, kinh thường, thì thái độ đó né tránh này chỉ làm nhục quốc thể. Vì tất cả các nhà báo có mặt trong phòng, và hầu hết khán giả coi cuộc phỏng vấn trên ti vi sau này, họ đều biết những gì đã và đang xẩy ra giữa Trung Cộng và Việt Nam. Họ phải biết trước câu hỏi khiêu khích đó, người cầm đầu chính quyền Việt Nam phải nói sự thật ra thế nào. Khi thấy Nguyễn Tấn Dũng né tránh, mọi người phải tự hỏi: Tại sao một thủ tướng nước Việt Nam lại không dám nói thẳng những vụ vi phạm đó ra?

Trước thái độ hèn yếu đó, người ngoại quốc coi ti vi sẽ thấy cái tên viết đặt trước mặt ông Nguyễn Tấn Dũng rất thích hợp, khi hiểu theo nghĩa tiếng Anh. Thay vì viết họ “Nguyễn,” giống như họ ông Chipman ngồi kế bên, không hiểu sao ban tổ chức họp báo lại ghi tên cúng cơm của ông thủ tướng là DUNG. Mà trong tiếng Anh, một ngôn ngữ chính thức của Singapore, thì chữ đó có nghĩa là đồ phế thải, dùng để bón ruộng!
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Cờ vàng trong bản án Nguyên Kha và Phương Uyên

Trần Trung Đạo-
“Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học. Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống, từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước mà tôi yêu quý. Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ trái tim trong sáng của Phương Uyên, một em bé gái Việt Nam vừa mới lớn và đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc. Chính nghĩa dân tộc rồi sẽ thắng. Cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính mình và tương lai của con cháu mình. Không ai xót thương và cứu vớt dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nỗi đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam như Nguyên Kha, Phương Uyên đang theo đuổi, tôi tin cuộc vận động tự do dân chủ và phục hồi chủ quyền đất nước sẽ sớm thành công. Điểm hẹn huy hoàng của lịch sử có thể chỉ còn năm phút nữa nhưng nếu không ai đứng dậy và bước đi, năm phút sẽ qua nhanh và mục tiêu không bao giờ đạt đến. Hãy đứng lên và cùng đi với Nguyên Kha, Phương Uyên và tuổi trẻ Việt Nam.”
*
Một em du sinh kể tôi nghe câu chuyện em hỏi mua một lá cờ vàng ba sọc đỏ tại một tiệm Việt Nam trong những ngày mới đặt chân đến Mỹ để theo học đại học.

Trong một lần đi mua sắm tại một tiệm tạp hóa do người Việt làm chủ tại Washington DC, thấy gần quầy tính tiền có để một số cờ Mỹ, Việt loại để bàn, em ngỏ ý muốn mua một lá. “Thưa bác, cờ này để trưng bày hay để bán, nếu bán cháu muốn mua một lá.” Em du sinh hỏi. Bác chủ tiệm nhìn em từ đầu đến chân. Qua giọng nói, cách ăn mặc, bác chủ tiệm, vốn cũng là người gốc Bắc, biết rõ chẳng những em vừa mới Việt Nam mà còn thuộc tỉnh nào ở miền Bắc nữa. “Cậu mua để làm gì?” Bác hỏi lại với giọng nghi ngờ. “Thưa bác, đấy là việc của cháu. Cháu chỉ muốn biết cờ này có bán không thôi ạ.” Em trả lời. Bác chủ tiệm vốn đã không thiện cảm lại càng khó chịu với cách trả lời hụt hẫng của em. Trong suy nghĩ của bác xuất hiện nhiều phỏng đoán nhưng không có một phỏng đoán nào tốt. Bác nghĩ đến việc “thằng Cộng con” này có thể mua để đốt, để xé bỏ, để ném xuống sông Potomac cho khuất mắt. Bác đưa tay kéo hàng cờ nhỏ cắm trên tấm bảng gỗ nhỏ lại gần tưởng như em sẽ giật chạy. “Cậu biết cờ này là cờ gì không?” Bác chủ tiệm gằn giọng như một công tố viên đang trưng bằng chứng lịch sử trước bị can. “Thưa không ạ, cháu chỉ biết đây là cờ vàng.” Em du sinh kiên nhẫn đáp tuy trong bụng than thầm “Mua một lá cờ sao khó thế”. “Đây là cờ quốc gia!” Bác chủ tiệm nhấn mạnh từng chữ. Và rồi không chờ em đáp, bác giảng cho em du sinh nghe một bài về ý nghĩa lá cờ vàng. “Không bán, cậu ra khỏi chỗ này đi.” Bác giận dữ kết luận. Em lặng lẽ ra về.

Mấy năm sau, câu chuyện đã trở thành chuyện vui trong những ngày đầu di du học, em thú thiệt với tôi khi bác chủ tiệm hỏi em cũng không biết mua để làm gì. Em không thể đem cờ về Việt Nam, không thể trưng bày cờ trong phòng khách, trong lớp học nhưng em hỏi mua vì thật sự muốn biết thêm về lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đó là một phần của lịch sử Việt Nam. Không phải riêng em du sinh, dần dần càng nhiều người Việt thuộc thế hệ em muốn biết về lá cờ vàng. Sau khi hệ thống CS Đông Âu sụp đổ, lãnh đạo các nước CS Á Châu không còn cách nào khác nên phải “tự diễn biến hòa bình” để tồn tại. Cánh cửa thông tin hé mở, ánh sáng khoa học qua những khe hở rọi vào và em là một trong những con chim nhỏ may mắn nhìn được bầu trời từ kẻ hở đó.

Tuy chưa có cơ hội nắm bắt hết ý nghĩa lịch sử, các em có đủ nhận thức để tự đặt vấn đề, rằng nếu cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của tất cả mọi xấu xa, tội ác như các em được dạy thì những gì các em đang thừa hưởng hôm nay, từ những bản tình ca các em hát mỗi ngày cho đến những bài thơ đậm đà tình dân tộc, những bài văn ca ngợi tình người, tình cha mẹ, gia đình, làng xóm, và ngay cả trong cách cách ăn, cách mặc, cách nói năng lễ độ, lối sống tự do thoải mái do ai để lại?

Dĩ nhiên không phải đến từ chính sách trồng người đang làm thui chột khả năng sáng tạo của các em, không phải từ nền giáo dục ngu dân dưới mái trường xã hội chủ nghĩa đang biến các em thành những con người vô cảm. Và nếu không phải từ hôm nay, có thể là sản phẩm để lại từ một chế độ đang bị đảng CS nguyền rủa mỗi ngày. Tìm hiểu về lá cờ vàng, do đó, đang là một trào lưu mới trong thế hệ trẻ Việt Nam.

Mới đầy, cờ vàng ba sọc đỏ lần nữa là trung tâm của vụ án Nguyên Kha và Phương Uyên. Một quan điểm cho rằng, sở dĩ đảng CS giáng xuống đời hai em những bản án nặng nề chỉ vì Phương Uyên in lá cờ vàng làm truyền đơn và đem dán tại vài địa điểm. Theo lời mẹ của Phương Uyên kể lại nội dung phiên tòa, Phương Uyên không từ chối có in lá cờ vàng ba sọc đỏ nhưng chỉ vì em muốn tìm hiểu về lịch sử.

Lời phát biểu của em Nguyễn Thiện Thành khi trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do sau đây lần nữa xác định lời khai của Phương Uyên trước tòa: “Khi học lịch sử chúng tôi hiểu được màu cờ vàng là màu truyền thống của dân tộc VN trong xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử và lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ có từ thời vua Thành Thái 1890 một triều đại Kháng Pháp, và vua Thành Thái bị lưu đày. Chúng tôi sử dụng lá cờ gần nhất trong lịch sử VN để nói lên tinh thần dân tộc bất khuất.”

Nhưng tại sao các em lại phải đi tìm một lá cờ, trong trường hợp này là cờ vàng ba sọc đỏ, để nói lên tinh thần bất khuất chống ngoại xâm?

Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng không “nói lên tinh thần dân tộc bất khuất”. Tổ quốc là không gian, thời gian, nguồn cội và là căn nhà chung của một giống dân có cùng một lịch sử, văn hóa, truyền thống, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển. Ngay trong Đại Tự Điển do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo và nhà Xuất bản Văn hóa Thông Tin ấn hành năm 1998 cũng định nghĩa tổ quốc là “Đất nước, gắn liền với bao thế hệ ông cha, tổ tiên của mình: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam của chúng ta.” Đảng CS, về đối nội, nhẫn tâm bỏ tù từ cụ già đến em bé vị thành niên nhưng đối ngoại chỉ biết cúi đầu trước Trung Quốc ngang ngược. Đọc những lời phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam của các phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN từ Lê Dũng trước kia đến Lương Thanh Nghị ngày nay gần như chỉ có một nội dung ngoại giao sáo rỗng tuy khác nhau ngày tháng. Lãnh đạo đảng biết rằng việc chỉ trích nặng lời chỉ càng thêm tổn hại cho mối quan hệ về sau giữa hai đảng chứ chẳng làm Trung Quốc nhả ra một thước đất nào. Trung Quốc biết điều đó rất rõ nên cũng rất ít quan tâm đến những lời phản đối lấy lệ của phía Việt Nam.

Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng chỉ đại diện cho đảng CS độc tài. Dù người vẽ cờ là Lê Quang Sô, Nguyễn Hữu Tiến, Hồ Tri Hạ hay nhập từ Trung Quốc, Liên Xô, lá cờ đỏ sao vàng vẫn là lá cờ CS và đã được đại hội Xứ Ủy Nam Kỳ thông qua tại Tân Hương vào tháng Bảy 1940. Chỉ cần đọc lại lịch sử thế giới trong phần tư thế kỷ qua thôi, từ 15 nước thuộc Liên Bang Xô Viết cho đến 8 nước Cộng Sản Đông Âu, 3 nước Cộng Sản vùng Baltics (Latvia, Lithuania, Estonia), Cộng Sản Phi châu (Ethiopia), Cộng Sản Á Châu (Kampuchea), có quốc gia thay đổi ít như Ba Lan hay quốc gia thay đổi hoàn toàn như Nga, nhưng không có một nước nào tiếp tục sử dụng lá cờ của chế độ Cộng Sản làm cờ đại diện cho quốc gia thời kỳ sau Cộng Sản. Trong quan điểm đó, thương hiệu nền đỏ sao vàng của đảng CSVN chỉ gắn liền với sự cai trị của đảng CS không thể gọi là cờ tổ quốc và càng không nên dùng để biểu dương lòng yêu nước của mình. Lý luận cho rằng chỉ cờ búa liềm mới là cờ đảng CS còn cờ đỏ sao vàng là cờ tổ quốc chẳng khác gì bảo Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Quốc hội CSVN, nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là những cơ quan hoàn toàn độc lập chứ không phải là một tổ chức trực thuộc trung ương đảng CSVN và đều do các ủy viên Bộ Chính Trị trực tiếp lãnh đạo.

Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ đang bị che dấu, bị trù dập là lá cờ mà các em cần phải biết nhiều hơn. Có thể các em chưa biết nhiều về lá cờ vàng ba sọc đỏ nhưng một điều các em biết cái gì đảng nguyền rủa, đảng sợ hãi cái đó phải tốt, phải đúng. Các em có thể bắt đầu do tính tò mò, do chán ngán với thực tế phũ phàng đang có, dần dần có nhận thức rõ và sâu sắc hơn về các vấn đề lịch sử. Thì ra, lá cờ vàng, không phải chỉ có một nguồn gốc lịch sử lâu dài nhưng còn từ máu xương, từ mồ hôi nước mắt, từ hơi thở của những người đã gìn giữ và bảo vệ vùng trời, vùng biển tự do của đất nước. Một tài sản dù đồ sộ bao nhiêu cũng không có giá trị lớn về mặt tinh thần nếu tài sản đó không được đánh đổi bằng mồ hôi ước mắt của những người đã tạo ra nó. Lá cờ vàng đã đắp lên bao nhiêu ngôi mộ, bao nhiêu quan tài, bao nhiêu khuôn mặt tuổi thanh niên đã chết vì lý tưởng tự do của dân tộc trong cuộc chiến tự vệ đầy gian khổ để bảo vệ từng thước đất, từng hải lý của tổ quốc thân yêu. Không giống như những năm bị khóa chặt trong bốn bức tường đen sau 1975, thế hệ trẻ ngày nay, nếu chịu khó học hỏi, đọc nhiều nguồn tư liệu khác nhau, các em sẽ biết ngay lá cờ vàng ba sọc đỏ không đơn giản là cờ của “Bù nhìn Bảo Đại”, “chế độ Ngô Đình Diệm” hay “chế độ Nguyễn Vãn Thiệu”, biểu tượng cho “tội ác ngập đầu của Mỹ Ngụy”, phản ảnh một “xã hội miền nam thối tha đồi trụy” như em đã được dạy trong trường, học tập trong sinh hoạt chi đoàn. Các chế độ chính trị, dù tốt hay xấu, hưng thịnh hay suy vong cũng đến và đi nhưng màu cờ vàng đại diện cho cả quốc gia như dòng nước vẫn tiếp tục trôi trên con sông lịch sử.

Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ không chỉ là cờ của chế độ VNCH và phục hồi giá trị lá cờ không có nghĩa là phục hồi chế độ VNCH, tái lập hiệp định Paris, chia đôi đất nước như trước 1975. Không. Dân tộc Việt Nam không hề đặt bút ký thỏa ước Patenotre, hiệp định Geneve hay hiệp định Paris. Tất cả chỉ là sự áp đặt của thực dân và đế quốc đã diễn ra dưới nhiều hình thức trong những thời điểm khó khăn của vận mệnh đất nước. Trong suốt hai thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam liên tục là nạn nhân đáng thương, bị xâm lược bởi các ý thức hệ ngoại lai vong bản. Không một người Việt Nam yêu nước nào muốn thấy quê hương chìm đắm và tiếp tục chìm đắm trong lạc hậu, độc tài triền miên như thế này. Một người Việt Nam nào thiết tha với tiền đồ đất nước cũng muốn thấy quê hương được thật sự tự do, thống nhất từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau ôm ấp Hoàng Sa, Trường Sa trong bao la tình biển mẹ. Nhân dân Việt Nam chỉ chống lại việc thống nhất đất nước bằng xe tăng và đại pháo của Nga, Tàu và đặt cả nước dưới ách cai trị độc tài chuyên chính của đảng CSVN mà thôi.

Bởi vì lá cờ đỏ sao vàng là cờ phi nghĩa. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản không thể chứng minh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Hãy đọc con số thống kê: Ba triệu người chết trong chiến tranh. Ba trăm ngàn người còn ghi nhận là mất tích sau chiến tranh. Một xứ sở 38 năm sau chiến tranh vẫn còn bị xếp vào một trong những nước chậm tiến. Một chế độ độc tài đảng trị bị loài người khinh rẻ. Một nền kinh tế khoa học kỹ thuật đi sau nhân loại hàng thế kỷ. Nhãn hiệu độc lập, tự do, hạnh phúc sau bao năm đánh bóng cũng chỉ hiện nguyên hình là những con cá gỗ. Tất cả những hậu quả đó là cái giá dân tộc Việt Nam phải trả cho cuộc chiến tranh được gọi là “giải phóng dân tộc” của lãnh đạo đảng CSVN. Đó không phải là chính nghĩa, không phải là giải phóng nhưng là tội ác diệt chủng. Ngạn ngữ Tây phương có câu “Ai giải thích được lịch sử người đó thắng”. Những cường hào ác bá đang sống trong các biệt thự nguy nga ở Hà Nội, Sài Gòn ngày nay không phải là những người làm nên lịch sử nhưng chỉ là những kẻ, trước đây, đã ăn cắp lịch sử, giải thích lịch sử, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng Cộng sản hóa Việt Nam, và ngày nay, để tiếp tục sống huy hoàng trên những thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam.

Bởi vì lá cờ vàng ba sọc đỏ là cờ chống Trung Quốc bành trướng một cách dứt khoát. Khi Phương Uyên dõng dạc tuyên bố trước tòa án CS “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất” cho thấy suy nghĩ của em chẳng những vượt cao hơn những người cùng thế hệ mà còn can đảm và rõ ràng hơn những bậc cha chú còn cam tâm nhận ơn mưa móc của đảng. “Tàu khựa cút” và “Đảng Cộng Sản chết” là hai điều kiện tiên quyết để phục hồi chủ quyền đất nước về đối nội cũng như đối ngoại. Lịch sử Việt Nam cho thấy, muốn thắng kẻ thù xâm lược dân tộc phải biết đoàn kết và phát huy nội lực. Ngày nào đảng CS còn cai trị đất nước bằng nhà tù, trấn áp và cúi đầu trước Tàu Khựa thì đừng mong gì đoàn kết và phát huy nội lực, đừng mong đòi lại được Hoàng Sa và phần lớn Trường Sa. Nguyên Kha biết điều đó. Phương Uyên biết điều đó. Nhân dân Việt Nam có nhận thức đúng về hướng đi của đất nước biết điều đó. Nếu không phải do chính bà Nguyễn Thị Nhung, mẹ của Phương Uyên và những người chính mắt tham dự phiên tòa thuật lại, thật không ai có thể tin một cô bé mong manh như giọt sương buổi sáng 21 tuổi đó đã điềm tỉnh đón nhận bản án dành cho em. Em trở thành huyền thoại ngay trong khi còn sống và ở tuổi hai mươi. Em dâng hiến tuổi thanh xuân của mình để dựng mùa xuân cho dân tộc Việt Nam.

Thế hệ tuổi hai mươi hôm nay sinh ra nhiều năm sau khi chiến tranh chấm dứt nên có nhiều điều các em chưa hiểu hết. Từ sau ngày 30 tháng Tư 1975, lá cờ vàng không còn bay trên bầu trời miền Nam nhưng đã để lại cho nhân dân Việt Nam, trong đó có các em, những tài sản vật chất và tinh thần vô cùng phong phú, và nếu lấy các giá trị và thành quả đó ra, Việt Nam hôm nay chỉ là một địa ngục Bắc Hàn.

Thật vậy, chỉ bàn sơ về âm nhạc, một lãnh vực gần gũi nhất với thế hệ trẻ. Gác qua một bên quan điểm và lối sống cá nhân của một số người viết nhạc, hãy tưởng tượng âm nhạc Việt Nam không có Phạm Duy, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Nguyễn Văn Đông, Hoàng Trọng, Cung Tiến, Phạm Đình Chương, Nguyễn Ánh 9, Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Lam Phương, Trúc Phương, Anh Bằng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Lê Hựu Hà, Nhật Ngân v.v. rồi nền âm nhạc Việt Nam với những Bài ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý, Trai anh hùng, gái đảm đang của Đỗ Nhuận, Hò kiến thiết của Nguyễn Xuân Khoát v.v. sẽ nghèo nàn và lạc hậu biết bao nhiêu. Các nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát đều là những tài năng âm nhạc, những nhạc sĩ tiên phong của nền âm nhạc Việt Nam nhưng không giống Văn Cao và Đoàn Chuẩn im lặng, họ chấp nhận làm những con ve để trỗi lên một điệu nhạc tuyên truyền rẻ tiền, buồn tẻ suốt 21 năm trong mùa hè Cộng Sản nóng bức và dài lê thê ở miền Bắc.

Sự hiện hữu và sức thu hút của cờ vàng là một thực tế không thể chối cãi. Những phản ứng tức tối của nhà cầm quyền CSVN trước việc các thành phố lớn nhỏ ở Mỹ nối tiếp nhau công nhận lá cờ vàng cho thấy sự sợ hãi của họ trước một sự thật lịch sử mà họ không còn có thể che đậy, dấu diếm, lừa gạt được ai hay giải thích cách nào khác. Hành động điên cuồng, man rợ, vô nhân của đảng CS khi kết án một cô gái chỉ 21 tuổi phải giam hãm sáu năm tới của đời con gái trong vòng lao lý và ba năm quản thúc chỉ vì em in và dán lá cờ vàng, một lần nữa, chỉ tự tố cáo sự sợ hãi của đảng CS đối với lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học. Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống, từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước mà tôi yêu quý. Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ trái tim trong sáng của Phương Uyên, một em bé gái Việt Nam vừa mới lớn và đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc. Chính nghĩa dân tộc rồi sẽ thắng. Cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính mình và tương lai của con cháu mình. Không ai xót thương và cứu vớt dân tộc Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nỗi đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam như Nguyên Kha, Phương Uyên đang theo đuổi, tôi tin cuộc vận động tự do dân chủ và phục hồi chủ quyền đất nước sẽ sớm thành công. Điểm hẹn huy hoàng của lịch sử có thể chỉ còn năm phút nữa nhưng nếu không ai đứng dậy và bước đi, năm phút sẽ qua nhanh và mục tiêu không bao giờ đạt đến. Hãy đứng lên và cùng đi với Nguyên Kha, Phương Uyên và tuổi trẻ Việt Nam.

Trần Trung Đạo
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Việt Nam Chơi Chữ, Trung Cộng Chơi Súng
Tác giả : Phạm Trần
Lần đầu tiên kể từ khi Trung Cộng biểu dương sức mạnh quân sự để hậu thuẫn cho tham vọng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam đã kêu gọi các nước trong khu vực hãy “cùng nhau chung tay xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương.”

Ông Dũng là người cầm đầu Chính phủ Việt Nam đầu tiên đã được Thủ tướng Tân Gia Ba Lý Hiển Long và Ban Tổ chức Đối thoại Shangri – La lần thứ 12 tại Singapore mời đọc diễn văn chính thức trong ngày khai mạc 31 tháng 05 (2013).

Ông nói: “Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược… Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.” (Thống tấn xã Việt Nam, TTXVN)

Lý thuyết thì đúng như thế nhưng trong thực tế, Việt Nam đã bị Trung Cộng “đánh cho nhừ đòn” ở cả trên đất liền và ngòai Biển Đông từ cuộc chiến tranh biên giới 1979 và sau khi hai nước nối lại bang giao năm 1991 mà vẫn phải ngậm đắng nuốt cay mà ca tụng tình nghĩa “vì đại cục, vừa là đồng chí vừa là anh em” !

Các lãnh tụ Cộng sản Việt Nam (CSVN), từ sau ông Phiêu biết như thế nhưng không dám than vì đã lỡ phải học thuộc lòng “hai câu thần chú” 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Mặt trái lời nói không đi đôi với việc làm của Bắc Kinh đã được chứng minh bằng máu, nước mắt và tài sản của ngư dân Việt Nam trên Biển Đông, kể từ khi lãnh tụ Trung Cộng Hồ Cẩm Đào “nhét 20 chữ xảo trá” ấy vào miệng Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu khi hai nước ký “Hiệp ước biên giới trên đất liền” ngày 30 tháng 12 năm 1999 và “Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” ngày 25 tháng 12 năm 2000.

Như vậy, phải chăng vì các vụ tầu Hải giám Trung Cộng có võ trang đã gia tăng bắn phá giết hại và làm bị thương nhiều người, săn đuổi, bắt giam,đâm chìm thuyền của ngư dân Việt Nam ở hai vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa từ tháng 3/2013 đã khiến ông Dũng phải nói tiếp trong diễn văn rằng: “ Những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ Biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.”

Rõ ràng là ông Dũng đã ám chỉ đến sức mạnh và những đòi hỏi chủ quyền phi pháp và phi đạo lý của Trung Cộng ở vùng đảo Điếu Ngư , tranh chấp với Nhật Bản ở biển Hoa Đông và trong vùng Biển Đông, nơi Bắc Kinh đã “tự vẽ” ra hình qúai đản Lưỡi Bò, hay “đường 9 đọan” chiếm từ 80 đến 85% diện tích của trên 3 triệu cây số vuông, bao gồm cả Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam !

AI BẮT CHƯỚC AI ?

Đáng chú ý là khi ông Dũng nói đến “lòng tin chiến lược” thì không hiểu những người viết diễn văn cho ông có copy, hay muốn sử dụng ngay lời tuyên bố của Lãnh tụ Trung Cộng Tập Cận Bình nói ở Washington D.C. (Thủ đô Hoa Thịnh Đốn) ngày 15/02/2012 khi ông còn là Phó Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ để làm chiêu “lấy gậy ông đập lưng ông”, hay chỉ là chuyện “trùng hợp chính trị tình cờ”?

Hồi đó, ông Tập Cận Bình cũng nói rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ nên tăng cường “lòng tin chiến lược, tôn trọng những quyền lợi cốt lõi và những mối quan tâm của nhau” (China and the United States should increase strategic trust and respect core interests and major concerns of each other).

Họ Tập cũng nói: “Không có niềm tin thì người ta chẳng đạt được gì cả” ("Without trust, one can achieve nothing)

Ông Tập, khi ấy đã cho thấy ông sẵn sàng thay thế ông Hồ Cẩm Đào để lãnh đạo Trung Quốc, còn nói với Tổng thống Barack Obama rằng : “ Đối với chúng tôi, lòng tin chiến lược là nền tảng cho sự hợp tác cùng có lợi, và sự tin tưởng lớn lao sẽ dẫn đến hợp tác rộng lớn hơn. Hai nước nên tăng cường sự tin tưởng và lòng tin hỗ tương và giảm thiểu những hiểu nhầm và nghi kỵ lẫn nhau.”

(For us, strategic trust is the foundation for mutually beneficial cooperation, and greater trust will lead to broader cooperation. The two sides should increase mutual understanding and trust, and reduce misunderstanding and suspicion)

Tại Tân Gia Ba, ông Nguyễn Tấn Dũng nói : “Mọi người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự, nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua. Vì vậy, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. Đối với Việt Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và chân thành.”

Đối với hòan cảnh của một nước nhỏ sống bên cạnh một cường quốc Trung Cộng đã từng xâm chiếm 16 lần và đô hộ Việt Nam 1,000 năm thì sự lựa chọn lời nói không gây thù oán của ông Dũng cũng dễ hiểu, nhưng rất tiếc ông Dũng, hay đúng ra là Bộ Chínhg trị và đảng CSVN, không có can đảm nói thẳng cho Thế giới biết về các vụ Trung Cộng đàn áp dã man ngư dân Việt Nam trên Biển Đông và việc Trung Cộng tự tiện vào vùng biển của Việt Nam để tìm kiến dầu và chuẩn bị xâm chiếm bất hợp pháp các đảo của Việt Nam ở Biển Đông.

Ông nói: “Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào việc củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để có một nền hòa bình thực sự và bền vững, thì độc lập, chủ quyền của các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần phải được tôn trọng; những khác biệt về lợi ích, văn hóa… cần được đối thoại cởi mở trên tinh thần xây dựng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.

Chúng ta không quên, nhưng cần khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.”

SỐNG CHUNG HAY NHU NHƯỢC ?

Và một lần nữa, trước cử tọa quốc tế, ông Nguyễn Tấn Dũng muốn chứng tỏ Việt Nam vừa có thiện chí “sống chung hòa bình” nhưng cũng muốn minh xác: “Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam không ngừng nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Chúng tôi mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốn một khi nguyên tắc độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi được cam kết và nghiêm túc thực hiện.”

Ông Dũng nói thêm rằng: “Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.”

Tuy nhiên trong bối cảnh Trung Cộng mỗi ngày một công khai thực hiện chủ trương bành trướng và bá quyền đối với Việt Nam, thì việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn cổ võ thông điệp “ chung sống hòa bình” với Trung Cộng là một “hành động chiến lược” khôn ngoan.

Nhưng cũng thật đáng tiếc là ông Dũng đã không có nghị lực (đúng ra là Bộ Chính trị và những cơ quan viết diễn văn này) nói lên sự hãnh diện chống ngọai xâm thành công của bao nhiều đời Tổ tiên người Việt và quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của người dân Việt Nam dù phải hy sinh đến tính mạng như đã chứng minh trong lịch sử hào hùng của dân tộc.

Đó là điều đáng trách, nếu không muốn nói là đáng lên án đối với một Thủ tướng chính phủ, vì ông Dũng đã đại diện cho một dân tộc và một Chính phủ tại diễn đàn Shangri – La lần thứ 12 ở Tân Gia Ba chứ không phải cho cá nhân ông.

Bởi lẽ, ngay sau khi nhận chức Tổng Bí thư đảng tháng 11/2012 và Chủ tịch Nhà nước tháng 3/2013, ông Tập Cận Bình đã chấp thuận chính sách “bảo vệ an ninh và chủ quyền biển” của Trung Cộng ở Biển Đông.

Họ Tập cũng đồng ý kế họach tập trận và tấn công ở Biển Đông của Hải quân, Không quân và Thủy quân lục chiến như đã diễn ra ở vùng Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Ngoài ra, Trung Quốc vẫn ngang nhiên ra lệnh cấm đánh cá hàng năm từ tháng 5 đến cuối tháng 8 năm 2013, nhưng thật sự là để dủng lực lượng Hải quân để hộ tống hàng trăm tầu đánh cá tối tân của Trung Quốc đến đánh bắt tự do ở Biển Đông.

Trong bài diễn văn ở Tân Gia Ba, người ta cũng không thấy ông Dũng lên án Trung Hoa đã thành lập bất hợp pháp Thành phố Tam Sa và thiết lập guồng máy chính quyền dân sự và quân sự trong khu vực bao gồm cả hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam và vùng tranh chấp với Phi Luật Tân ở khu vực Bãi Cỏ Rong mà người Phi gọi là “biển Tây Phi Luật Tân”.

Những việc này hòan tòan trái với cam kết của Trung Cộng muốn sống hòa bình với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bắc Kinh cũng cam kết không theo đuổi chính sách “bá quyền” như Thủ tướng Lý Khắc Cường đã tuyến bố sau khi được bầu vào chức vụ này ngày 17/3/2013.

Ông nói rằng Trung Cộng cam đoan giữ vững hòa bình và sự ổn định tại Á Châu và Thái Bình Dương và tòan Thế giới, cam kết có quan hệ vững chãi thêm với các cường quốc, kể cả Mỹ và Nga Sô.

(Premier Li Keqiang said Sunday that China is committed to maintaining peace and stability in the Asian-Pacific region and the whole world, pledging stronger ties with major powers, including the U.S. and Russia.-Xinhua New Agency)

Ông nói thêm: “Trung Quốc có khả năng đạt được mức phát triển kinh tế , và một nước Trung Quốc hùng mạnh sẽ không theo đưổi bá quyền.” (China is capable of achieving sustainable economic development and a stronger China will not seek hegemony- theo Tân Hoa Xã (Xinhua News Agency-)

Nhưng trong thực tế đã cho thầy an ninh cùa các nước ven biển bị Trung Cộng tranh chấp chủ quyền đang bị Bắc Kinh đe dọa và Việt Nam là nạn nhận trực tiếp và sẽ phải chịu thiệt thòi nhiều nhất nếu xẩy ra chiến tranh trên biển với Trung Cộng.

Một thực tế phũ phàng khác là trong khi Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng cổ võ “xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương” thì Công an và lực lượng dân sự trá hình đã thẳng tay đàn áp những người dân biểu tình chống Trung Quốc có mưu toan xâm chiếm biển đảo của Việt Nam.

Như vậy thì làm sao mà người dân có thể tin Đảng và Nhà nước có thật lòng muốn bảo vệ chủ quyền và sự tòan vẹn lãnh thổ ?

Hay là ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ biết dùng “chữ” để chống lại “súng đạn” của Trung Cộng trong cuộc chiến này ?

Phạm Trần
(06/013)
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests