Thời Sự, Bình Luân

vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

NHÂN QUYỀN CHO NGƯỜI CHẾT-
Ðấu tranh giành Nhân Quyền cho các Anh Hùng Vô Danh Những Tử Sĩ Việt Nam Cộng Hòa.

Giao Chỉ


Tin riêng ghi nhận được từ Việt Nam. 58 mẫu đất còn lại tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũ, thuộc xã Bình Thắng, quận Dĩ An đã được đơn vị quân đội cộng sản sư đoàn 7 bàn giao xong cho tỉnh Bình Dương, vào đầu tháng 7 - 2007

Giới chức hữu trách tỉnh ủy Bình Dương vừa cho biết đang tổ chức để lo công việc bảo vệ và quản trị. Các cơ sở doanh trại của đơn vị huấn luyện bộ đội đã di chuyển nay sẽ dùng để mở trường học. Khu mồ mả giữ nguyên và cho phép tảo mộ. Muốn cải táng phải xin phép. Ðiều quan trọng hơn hết là tỉnh Bình Dương theo lệnh Thủ tướng coi đây là nghĩa địa dân sự Bình An. Ðang nghiên cứu thể lệ để cho phép dân thường được chôn tại những nơi còn trống trong khu mai táng.

Ðây là một chủ trương hết sức thâm độc của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội.

Không cần phải xóa bỏ nghĩa trang quân đội Miền Nam, chỉ cần đưa ra chiêu bài dân sự hóa rất bình thường. Sau một thời gian đem dân vào chôn ngay các nơi an táng chiến sĩ VNCH . Mạnh ai nấy xây cất kiểu cọ dân sự. Với thời gian, ý nghĩa của mảnh đất lịch sử thiêng liêng không còn nữa. Xét trên một bình diện khác, nghĩa trang quân đội Biên Hòa là phòng tuyến cuối cùng còn lại của Miền Nam, nơi yên nghỉ của 16 ngàn tử sĩ Cộng Hòa đang bị tấn công trong trận sau cùng. Vì sự bình an của chiến hữu nằm dưới mộ phần, chúng tôi lên tiếng kêu gọi hãy đấu tranh nhân quyền cho người chết.

Bản nhận định và đề nghị

Bản nhận định và đề nghị về đề tài này đã được soạn thảo gởi dân biểu Mike Honda và các dân biểu Hoa Kỳ. Nhân danh là một người Mỹ gốc Việt cư ngụ tại San Jose, đơn vị của dân biểu Mike Honda, chúng tôi đã mời ông đến Viện Bảo Tàng VNCH để thảo luận về việc này, thăm mộ bia đem qua từ nghĩa trang quân đội năm 2004, quan sát mô hình nghĩa trang và các tài liệu liên hệ.

Sau đây là bản lược dịch tài liệu liên quan đến đề tài:

“ Human Rights for Unsung Heroes - The fallen Soldiers of South VietNam ”.

1) Vấn Ðề:

Từ năm 1975, người Việt đi tìm tự do đã tiếp tục rời bỏ quê hương trong 30 năm. Ðã có hàng triệu thuyền nhân, tỵ nạn, tù chính trị, con lai và sau đó là đoàn tụ gia đình. Tổng số 3 triệu người định cư trên toàn thế giới và cho đến năm 2007 hiện có 1 triệu 500 ngàn người lập nghiệp tại Hoa Kỳ. Những người còn ở lại Miền Nam là thương phế binh, cô nhi quả phụ và những người chết vì chiến tranh. Trong số đó có rất nhiều anh hùng vô danh, các tử sĩ của Miền Nam đã nằm lại trong lòng đất quê hương.

Trong chiến tranh Việt Nam đã có trên 300 ngàn chiến binh VNCH được chôn cất trong các nghĩa trang quân đội khắp Miền Nam. Kể từ năm 1965, Miền Nam xây cất một nghĩa trang quy mô tại quận Dĩ An, 30 cây số phía Ðông Bắc Sài Gòn. Khu đất 125 mẫu dành để chôn từ 30 đến 40 ngàn chiến sĩ. Trong 10 năm từ 1965 đến 1975 đã có 16 ngàn tử sĩ được yên nghỉ tại đây.

Nghĩa trang này gọi là nghĩa trang quân đội, nhưng chính là nghĩa trang quốc gia Việt Nam tương tự như nghĩa trang Arlington của Hoa Kỳ tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Chúng tôi hiện có đầy đủ tài liệu và mô hình bao gồm tất cả các di tích lịch sử như tượng Thương Tiếc, Cổng Tam Quan, Ðền Tử Sĩ và Nghĩa Dũng Ðài.

2) Tác giả:

Khi viết bản đúc kết về đề nghị này, tôi nhân danh một người Mỹ gốc Việt, cư ngụ tại Hoa Kỳ 32 năm và là giám đốc cơ quan định cư bất vụ lợi IRCC , Inc. từ 27 năm qua tại San Jose . Trước 1975 tôi là đại tá quân lực VNCH , làm việc tại bộ tổng tham mưu, có dịp liên hệ với công trình xây cất và bảo toàn nghĩa trang quân đội tại Biên Hòa.

Cá nhân chúng tôi là một trong số ít những người cao niên còn lại trong quân đội VNCH tại hải ngoại biết được các tin tức về nghĩa trang.

Tôi có sưu tầm hình ảnh, làm mô hình nghĩa trang cho viện Bảo tàng và là tác giả một tác phẩm duy nhất viết về đề tài này. Tựa đề: “16 ngàn tử sĩ ở lại nghĩa trang quân đội Biên Hòa” phát hành năm 1993. Chúng tôi cũng đã tổ chức chương trình tảo mộ nghĩa trang Biên Hòa trong suốt 10 năm qua dưới hình thức thân nhân thăm viếng.

Ngoài ra cũng có rất nhiều người Việt trên khắp thế giới và Hoa Kỳ hết sức quan tâm đến nghĩa trang quân đội tại Việt Nam đã cùng tiếp tay trong việc bảo toàn nơi yên nghỉ của thân nhân và chiến hữu.

Nhưng hiện nay nhà cầm quyền Việt Nam vừa ra thông cáo và bắt đầu áp dụng các thể thức dân sự hóa dưới hình thức làm mất ý nghĩa lịch sử thiêng liêng của khu đất cần được coi là di tích của quốc gia.

3) Bài học:

Là công dân Hoa kỳ, người Việt tỵ nạn đến đất này đã ghi nhận được bài học vĩ đại về câu chuyện phe miền Bắc đối xử với miền Nam sau cuộc nội chiến. Một trăm bốn mươi hai năm trước sau khi tướng Lee ký bản văn đầu hàng tướng Grant ngày 4 tháng 9 năm 1865 đã không có những hành động bạo hành thù hận của phe chiến thắng đối với người thua trận. Ngay cả sau khi tổng thống Lincoln của miền Bắc bị ám sát chết cũng không có các hành động trả thù của chính phủ liên bang đối với quân dân miền Nam. Tượng của tổng thống và tướng lãnh miền Nam vẫn được tôn trọng. Các nghĩa trang của phe thua trận được bảo toàn.

Và sau cùng, các di hài chiến binh miền Nam còn được mai táng trong khu dành riêng tại nghĩa trang quốc gia Arlington tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Tất cả những hành động cao quí đó không hề xảy ra tại miền Nam Việt Nam khi Sài Gòn sụp đổ năm 1975. Hàng trăm ngàn quân nhân công chức miền Nam bị tập trung trong tù cải tạo và hàng triệu người phải bỏ nước ra đi.

Sau 32 năm, qua nhiều giai đoạn và nhiều hoàn cảnh, Hoa Kỳ đón nhận một triệu 500 ngàn người Việt đi tìm tự do đến định cư tại đất nước vĩ đại này. Những tân công dân đã đóng góp vào việc xây dựng quê hương mới và đồng thời cũng đã học được bài học lớn về tự do dân chủ, đặc biệt đối với việc gìn giữ các mộ phần chiến sĩ sau cuộc chiến.

Nhưng câu chuyện về quê hương Việt Nam thì hoàn toàn khác biệt. Sau 30 tháng 4 năm 1975 bức tượng Tiếc Thương nổi tiếng của miền Nam bị kéo sập và nghĩa trang quân đội bị cộng sản phá hoại. Tuy nhiên phần kiến trúc còn lại và các mồ mả vẫn tồn tại. Mười năm sau này hoàn cảnh thay đổi và người Việt trong và ngoài nước bắt đầu có cơ hội thăm viếng trông nom mộ phần các chiến hữu.

4) Giá trị tinh thần:

Theo truyền thống Á Châu, di hài tử sĩ và mộ phần là những lãnh vực linh thiêng cần được cả hai phía tôn trọng trong cuộc chiến. Phía Tây Phương cũng có cùng chung quan điểm. Chiến binh miền Nam trong cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ đã được an táng ngay trong nghĩa trang quốc gia Hoa Kỳ cũng như tại các nghĩa trang của quân đội miền Nam khắp các tiểu bang. Sau đệ nhất và đệ nhị thế chiến, nghĩa trang của quân đội Ðức vẫn được phe Ðồng minh bảo toàn.

Nghĩa trang của Quốc Dân Ðảng tại Trung Hoa, vẫn được chính quyền Cộng sản gìn giữ như là một di tích lịch sử của quốc gia.

Cho đến năm 2005, ba mươi năm sau cuộc chiến, chính quyền Cộng sản Hà Nội không hề lưu tâm và đề cập đến nghĩa trang Quân đội của miền Nam tại Biên Hòa. Mặc dù bỏ hoang phế nhưng nghĩa trang này vẫn còn tồn tại với vẻ hùng tráng đặc biệt qua các tượng đài, kiến trúc và mộ phần. Hiện nay vẫn còn Cổng Tam Quan, Ðền tử sĩ và Nghĩa Dũng đài

5) Pháp lý:

Nước Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ 20 tháng 9 năm 1997 nên có nghĩa vụ phải tôn trọng các thỏa ước quốc tế.

A- Công ước Geneve 12 tháng 8 năm 1949, chương III điều 120 và 121 nói rõ về trách vụ bảo vệ tù binh và bảo toàn mộ phần của các phe tham chiến.

B- Ðiều 23 của hiệp định đình chiến Geneve ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 về việc bảo toàn gìn giữ nghĩa trang trong vùng trách nhiệm.

C- Ðiều 8 của Hiệp Ðịnh Ðình Chiến Paris ký ngày 17 tháng 1 năm 1973 lại một lần nữa xác định các quốc gia ký kết có trách nhiệm bảo vệ nghĩa trang và phần mộ của phe đối nghịch.

6) MIA Hoa Kỳ và Việt Nam

Sau cuộc chiến tại Việt Nam, chính phủ Mỹ đã được chính quyền Hà Nội giúp đỡ trong việc đi tìm hài cốt binh sĩ. Phe cộng sản Việt Nam cũng nỗ lực đi tìm hài cốt bộ đội để đem chôn cất tại các nghĩa trang khắp mọi nơi. Trong khi đó mộ phần của các chiến binh Nam Việt Nam, của các tù binh và tù cải tạo tại miền Trung và Bắc Việt chưa bao giờ được đặt thành vấn đề. Gia đình thân nhân không có phương tiện để thực hiện công việc tìm kiếm. Ðặc biệt là các mộ phần và di hài chiến sĩ Cộng Hòa tại miền biên giới Cam Bốt, Lào, cùng các phần mộ tù binh tại Hàm Tân, Thanh Hóa và miền thượng du Bắc Việt.

7) Hiện trạng:

Cuối năm 2006 Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng ra lệnh bàn giao khu nghĩa trang quân đội từ giới chức quân sự qua tỉnh Bình Dương. Cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại hết sức quan tâm đến việc này vì những điểm sau đây qua kinh nghiệm nhiều năm:

1) Cộng sản đã phá hủy bức tượng Thương Tiếc nổi danh tại nghĩa trang ngay sau 30 tháng 4 năm 1975

2) Năm 2002 cộng sản cắt bớt hơn 10 thước ngọn tháp của Nghĩa Dũng Ðài.

3) Trước 1975 toàn thể khu nghĩa trang rộng 125 mẫu với 16 ngàn ngôi mộ. Ngày nay chỉ còn lối 10,000 ngôi mộ. Gia đình có di chuyển một phần. Một phần bị phá hoại. Không có ai kiểm tra để biết con số chắc chắn.

4) Phẫn còn lại để bàn giao giữa quân sự và dân sự đã hoàn tất tháng 6 năm 2007 chỉ còn 58 mẫu. Như vậy sau 30 năm do bộ đội quản lý đã sử dụng 67 mẫu đất để làm doanh trại, nhà cửa, lập nhà máy nước Bình An và lập ra Ấp Bình Thắng.

5) Với 58 mẫu đất bàn giao cho phía dân sự cũng chỉ còn lối 30 mẫu có mồ mả.

Phần còn lại cũng đã được xây cất doanh trại huấn luyện và nay tỉnh Bình Dương định dùng làm trường học.

6) Ðiều quan trọng hơn hết là, theo lệnh của Thủ Tướng từ Hà Nội, tỉnh ủy Bình Dương đang nghiên cứu để cho phép dân thường đem thân nhân vào chôn tại đây và coi đất này là khu nghĩa địa dân sự Bình An.

8 )Ðề nghị.

Tháng 2 ố 2007 Thủ tướng Hà Nội mở đường dây trên mạng gọi là đối thoại trực tuyến với người Việt mọi nơi. Chúng tôi có đưa vấn đề nghĩa trang quân đội VNCH ra hỏi. Tiếp theo ngày 30 tháng 4 - 2007 chúng tôi gởi thư trực tiếp đặt lại vấn đề. Cả hai lần đều không được trả lời.

Ngày nay vì tính cách thời sự đặc biệt của vấn đề, chúng tôi yêu cầu Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra nghị quyết đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội thực hiện các điểm sau đây:

1 # Yêu cầu giữ nguyên tình trạng nghĩa trang quân đội VNCH tại Biên Hòa. Quốc hội Hoa kỳ cần lưu ý xác định rõ ràng với nhà cầm quyền Việt Nam đây là di sản quốc gia và khu đất thuộc về lịch sử. Không thể phá hủy, di chuyển, hay sử dụng qua các mưu đồ chính trị dưới mọi hình thức.

2 # Cho phép thân nhân, gia đình, chiến hữu được thăm viếng, tu bổ, sửa chữa mộ phần và thực hiện các nghi lễ tôn giáo cho người đã khuất. Thân nhân không được xây cất các phần mộ quy mô kiểu cách. Trong khi sửa chữa các mộ phần cũ, phải giữ gìn hình thức đã có từ trước. Tuyệt đối cấm không cho dân sự chôn cất trong khu vực được coi là di sản quốc gia.

3 # Bảo toàn tất cả các công trình kiến trúc hiện có gồm cổng Tam quan, đền Tử sĩ, và Nghĩa Dũng đài

4 # Cho phép và dành mọi sự dễ dàng cho gia đình, thân hữu, chiến hữu cũng như các đoàn thể từ thiện từ Hoa Kỳ về Việt Nam giúp gia đình đi tìm di hài tử sĩ trên toàn quốc để đem về chôn cất tại các nơi thích hợp.

5 # Với các nhận định kể trên, xin quốc hội yêu cầu tổng thống Hoa Kỳ, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao và ông lãnh sự Hoa Kỳ tại Việt Nam sử dụng mọi ảnh hưởng và quyền hạn để đòi hỏi chính phủ Việt Nam thực hiện các nhu cầu kể trên. Ðòi hỏi này dựa trên căn bản Việt Nam là quốc gia hội viên của Liên Hiệp Quốc, dựa trên sự quan hệ giao thông Việt Mỹ hiện nay và dựa vào tư cách công dân của 1 triệu 500 ngàn người Việt cư ngụ tại Hoa Kỳ.

Trên đây là phần lược dịch bản nhận định và đề nghị chúng tôi gửi đến dân biểu Mike Honda để xin hạ viện cứu xét. Khi dự thảo hoàn tất, chúng tôi sẽ báo tin quí vị để cùng gởi thư xin các dân biêu Hoa Kỳ khắp nơi ủng hộ và chấp thuận.
Bản nghị quyết chính thức của Hạ Viện khi được thông qua sẽ phổ biến rộng rãi.
Trải qua nhiều năm, Hoa Kỳ đã nỗ lực giúp cho quân dân chính miền Nam qua các chương trình định cư nhân đạo. Chào đón thuyền nhân tỵ nạn. Tiếp nhận cựu tù chính trị, con lai và mở rộng chương trình đoàn tụ. Tất cả đều là những người còn sống trên đất tự do.

Chúng tôi tin tưởng rằng ngày nay đã đến lúc chúng ta cùng đấu tranh cho những người đã chết.

Giành lại nhân quyền cho các anh hùng vô danh
Cho các tử sĩ của Việt Nam Cộng Hòa.
***
Cùng đăng trên báo này là:
Bản Anh ngữ gửi dân biểu Mike Honda và các dân biểu Hoa Kỳ.
IRCC, Inc.420 Park Ave. San Jose CA. Tel: 408 971 7878 Email: irccsj@yahoo.com
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Không ai yêu Việt Nam hơn Việt Cộng
Nguyễn Ðạt Thịnh
Chủ tịch thượng viện Ba Lan, nghị sĩ Bogdan Borusewicz kể lại cho cô Vân Anh, thông tín viên đài phát thanh RFA, nghe cuộc đàm thoại giữa ông và Nguyễn Tấn Dũng.

"Thủ tướng Việt Nam nói rằng không ai yêu Việt Nam hơn chính quyền Việt Nam," ông Borusewicz kể. "Và rốt cuộc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói nếu Lê Thị Công Nhân muốn đi ra nước ngoài thì cô ấy sẽ được Việt Nam cho đi."

Câu nói chỉ có 2 vế mà nội dung vô cùng xúc tích. Vế thứ nhất "không ai yêu Việt Nam hơn chính quyền Việt Nam," vừa thật thà ngây ngô, vừa khôi hài rẻ tiền, đủ giúp Mao Tôn Cương bàn mòn đến vài cây bút nguyên tử vẫn chưa hết chuyện bàn.

Nghị sĩ Borusewicz bàn là Dũng không nên yêu nước bằng cách bỏ tù những người đối lập vì những chiến sĩ dân chủ cũng chỉ làm điều mà Dũng tự cho là mình đang làm: yêu nước. Hành động độc quyền yêu nước của Dũng đưa tới nhà thơ Nguyễn Bính và bài thơ "Ghen" bất hủ của ông với bốn câu cũng vô cùng bất hủ đuợc Dũng cụ thể hoá bằng việc bắt bỏ tù tất cả những ai dám yêu Việt Nam.

Bốn câu thơ đó,

Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,

Thế nghĩa là yiu quá mất zồi.

Và nghĩa là cô là tất cả,

Cô là tất cả của riêng tôi.

Mỗi người một cách Nguyễn Bính và Bùi Tiến Dũng giúp mọi người hiểu tình yiu nước của Nguyễn Tấn Dũng; Nguyễn Bính bắt mạch tìm ra căn bệnh ghen; Tiến Dũng tố cáo con vi khuẩn "bờ mu 18" trong máu Tấn Dũng.

Qua vế thứ nhì của câu nói "… nếu Lê Thị Công Nhân muốn đi ra nước ngoài thì cô ấy sẽ được Việt Nam cho đi." Câu này giúp người Việt hải ngoại lật tẩy Nguyễn Tấn Dũng một cách công khai trước dư luận quốc tế.

Cộng đồng người Việt hải ngoại tại Hoa Kỳ có thể lập ngay một team gồm luật sư, chính khách, nhà văn, nhà báo, những người Mỹ gốc Việt thành danh trên thương trường, trong khoa học, những chính khách Mỹ bênh vực dân chủ Việt Nam như Laura Sanchez, Chris Smith, v. v… , đứng ra làm những thủ tục cần thiết để yêu cầu Dũng thả người nữ luật sư anh hùng Lê thị Công Nhân ra và để cô qua sống tại Hoa Kỳ.

Việt Cộng sẽ phải trơ mặt mo ra vì không thể nào chúng dám trả tự do cho cô Công Nhân. Chúng ý thức đuợc giá trị của cô tạo khí thế "tập họp" những tiềm năng chống cộng riêng rời của người Việt hải ngoại hiện nay thành một khối; chúng không muốn khối lớn lao đó thành hình, vì chỉ đối phó với từng mảnh Ba Lan, Pháp, Hoa Kỳ, Úc, v.v… Dũng và Triết cũng đã chóng mặt lắm rồi.

Thêm một lời bàn bên lề: chỉ dấu khiến nhân viên an ninh tháp tùng Nguyễn Tấn Dũng thấy là bất an cho Dũng. Ðài RFA viết, "Chuyến đi của thủ tướng Việt Nam tới Ba Lan mang đến những bất ngờ. Bắt đầu là thư ngỏ kêu gọi nhân quyền cho Việt Nam gửi Tổng Thống, Thủ Tướng và chính quyền Ba Lan, sau đó là cuộc biểu tình nêu giá trị truyền thống Ba Lan bên ngoài phủ Thủ tướng.

"Cuộc hội ngộ hai vị Thủ tướng ngoặt sang ngã khác khi báo chí Ba Lan rầm rộ đưa tin về vụ an ninh Việt Nam báo động bất an chỉ vì phát hiện thấy sự có mặt của ký giả của đài Á Châu Tự Do RFA trong phủ Thủ tướng Ba Lan.

Hôm thứ Hai 17-9, một nguồn tin khác lại tới: Chủ tịch Thượng Viện Cộng Hòa Ba Lan, ông Bogdan Borusewicz tiết lộ có tiếp xúc với Thủ tướng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nói về những quan ngại trước vấn đề ‘hạn chế quyền công dân tại Việt Nam’ và ‘chính quyền Việt Nam sẵn sàng thả cô Công Nhân khỏi tù để cô ấy sang cư ngụ tại Ba Lan’.

"Tin được tiết lộ trong thư ngỏ gửi Chủ tịch Ủy ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam, ông Trần Ngọc Thành."

Cô Vân Anh trông cũng hiền hoà, xinh đẹp như đa số đàn bà Việt Nam, nhưng nhân viên an ninh Việt Cộng lại thấy cô là một đe dọa cho boss của họ. Thử đoán xem tại sao họ lại thấy như vậy.

Lý do thứ nhất khiến phái đoàn Việt Nam yêu cầu "mời" cô Vân Anh ra khỏi buổi lễ tiếp đón Nguyễn Tấn Dũng vì Vân Anh là một người đàn bà, do đó cô có thể giống hai người đàn bà khác mà Dũng sợ là cô Nguyễn Thị Ngọc Hạnh và cô Lê thị Công Nhân; lý do thứ nhì khiến Vân Anh bị coi là một yếu tố làm mất an ninh của Dũng là cô là một ký giả và cô không chịu đi trên lề mặt của con đuờng tự do báo chí đuợc Việt Cộng vẽ vạch.

Thêm một lời bàn bên lề chuyến công du Ba Lan của Nguyễn Tấn Dũng: nghị sĩ Borusewicz nói với cô Vân Anh, "Trong cuộc gặp, tôi có thổ lộ quan ngại của tôi về những hạn chế quyền công dân tại Việt Nam. Tôi đưa ra danh sách dài tên tuổi các tù nhân chính trị. Tôi có nhắc tới linh mục Tadeo Nguyễn Văn Lý, hòa thượng Thích Quảng Độ và cả cô Lê Thị Công Nhân, ông Nguyễn Văn Đài, những nhà dân chủ tiên phong trẻ tuổi tháng hai vừa qua bị kết án nhiều năm tù.

"Tôi có nói, rằng vấn đề tù nhân chính trị tại Việt Nam cản trở quan hệ chính trị Việt Nam, Ba Lan. Tôi có nói rằng tôi cũng từng là tù nhân chính trị và hiện tôi là chủ tịch Thượng Viện."

Ông Borusewicz quên không nói cho Dũng biết số phận của ông thủ tướng chính phủ cộng sản Ba Lan hiện đang nằm ấp hay tị nạn tại Nga; chi tiết này có thể giúp Dũng suy ngẫm về độc quyền yêu nước của bộ ba Mạnh, Triết, Dũng.

Lời bàn chót nhưng chưa phải là lời bàn cuối cùng: Xin ban tổ chức biểu tình dàn chào Nguyễn Tấn Dũng chuẩn bị cấp tốc 500 bích chương mới in ảnh cô Lê Thị Công Nhân và những khẩu hiệu đòi trả tự do cho cô. Bích chương đó có giá trị thời sự và có tác dụng làm Dũng chóng mặt, như Triết đã chóng mặt vị dị ứng cờ vàng.

Nguyễn Ðạt Thịnh
dailien
Posts: 2458
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Hội luận về điều 4 hiến pháp Việt Nam Cộng Sản

Việt Hùng, RFA

Liên quan đến quyền độc tôn lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam qua lời tuyên bố mới đây của Chủ Tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết “bỏ điều 4 là đồng nghĩa với tự sát...” các nhà đấu tranh dân chủ trong-ngoài nước nhận định ra sao?

Mời quí vị theo dõi phần đầu cuộc Hội Luận Chính Trị Trong-Ngoài Nước do Việt Hùng điều hợp, khách mời từ Hà Nội là Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang, từ Hoa Kỳ là ông Lê Minh Nguyên, trưởng ban phối hợp Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam.

Trước tiên ông Thanh Giang đưa ra quan điểm về lời tuyên bố của ông Nguyễn Minh Triết.

Ông Nguyễn Thanh Giang: Ông Nguyễn Minh Triết nói bỏ điều 4 tức là đảng Cộng Sản Việt Nam tự sát. Nói như vậy bộ lộ cái bất an, sự hoảng loạn, không còn đủ tự tin nữa và biểu lộ sự “bất chính” của đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ðảng Cộng Sản Việt Nam muốn tồn tại được ít nhất như đảng Cộng Sản Việt Nam từng tuyên bố là đội tiền phong của giai cấp công nhân thì đảng Cộng Sản Việt Nam phải sống bằng tính chất tiền phong của mình, bằng sự gương mẫu trước dân tộc, bằng đạo đức tư cách của mình, bằng sức mạnh và trí tuệ của mình chứ không thể sống tựa vào một cái gọi là điều 4 ghi trên giấy trong hiến pháp ấy để mà sống? Có tuyên bố hùng hồn đến mấy sụp đổ vẫn hoàn sụp đổ vì đấy chỉ là hình thức, không có nội dung.

Người ta còn nhớ vào ngày 20 Tháng Mười Một 1989 trong cuộc họp Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Liên Xô chính ông Michael Gorbachev tuyên bố phải giữ cho được điều 6 hiến pháp, phải giữ cho được điều đó, đó không phải là tình trạng cứu hỏa và cũng không phải là tình trạng đặc biệt. Tuyên bố hùng hồn như vậy nhưng mà sau đó sụp đổ vẫn hoàn sụp đổ, phải chăng điều mà ông Nguyễn Minh Triết đi theo vết xe đổ thì đấy là một “điềm xấu” của đảng Cộng Sản Việt Nam hay chăng?

Việt Hùng: Ðó là ý kiến của ông Nguyễn Thanh Giang từ Hà Nội, từ bên ngoài thưa ông Lê Minh Nguyên ông có ý kiến gì về vấn đề này?

Ông Lê Minh Nguyên: Tôi cũng đồng ý với nhận xét của anh Thanh Giang, tôi chỉ thêm một điểm nhỏ là đảng Cộng Sản Việt Nam trước đây họ chặt chẽ là vì có ba yếu tố, thứ nhất là tin vào chủ nghĩa, thứ hai là thế hệ đầu tiên đi vào đảng là thế hệ sống trong bưng biền, đồng lao cộng khổ và thứ ba vào đảng là vì lý tưởng chứ không phải vì quyền lợi, nhưng mà ba yếu tố đó ngày nay gần như không còn nữa.

Ngày nay những đảng viên đảng cộng sản ít ai tin vào chủ nghĩa đó, mà chủ nghĩa chính là chất keo để ràng buộc họ lại với nhau do đó lúc này đảng Cộng Sản Việt Nam giống như anh chàng khổng lồ nhưng lại rất dễ vỡ...

Theo tôi thấy, chính vì có những vấn nạn trong đảng chứ không phải từ bên ngoài mà ông Triết ông ấy tuyên bố như vậy.

Việt Hùng: Câu hỏi đặt ra với ông Nguyễn Thanh Giang, điều 4 về quyền độc tôn lãnh đạo được đưa vào hiến pháp sau này, khởi thủy hiến pháp đầu tiên của chính phủ Việt Minh năm 1946 hoàn toàn không có điều này?

Ông Nguyễn Thanh Giang: Hiến pháp năm 1946 không có điều này, thậm chí sau này sửa đổi đến năm 1960, 1980 không có điều này, thế mà đến hiến pháp năm 1992 thì điều 4 xuất hiện.

Vừa rồi ông Lê Minh Nguyên có hồi tưởng lại thế hệ đầu tiên đi làm cách mạng là họ có lý tưởng, có chủ nghĩa, có một tấm lòng đối với đất nước cho nên họ đi làm cách mạng, cho nên lúc đầu họ chỉ có 5,000 đảng viên, họ không cần dùng đến hiến pháp để áp đặt mà họ vẫn tồn tại. Họ vẫn lãnh đạo được cuộc cách mạng Tháng 8 thắng lợi và đánh thắng được thực dân Pháp.

Có một điểm đáng lưu ý cho đến bây giờ đảng Cộng Sản Việt Nam đang xa rời lý tưởng và đang trở nên hèn kém rất nhiều so với ban đầu để đến nỗi bây giờ sống chết phải giữ cho được điều 4 hiến pháp.

Ðảng CSVN khi bí thì thường đem ông Hồ Chí Minh ra làm thần hộ mệnh cho mình và nói rằng, “Ðây là cụ Hồ chọn Chủ Nghĩa Xã Hội, Chủ Nghĩa Mác-Lênin... là con đường của bác Hồ đã chọn”. Họ bám lấy cái đó để áp đặt nhân dân không cho ai quyền suy nghĩ.

Việt Hùng: Thưa ông Lê Minh Nguyên, ông có đồng ý với những điều mà ông Thanh Giang đưa ra hay không?

Ông Lê Minh Nguyên: Về hiến pháp 1946 tôi cũng đồng ý với những gì mà ông Giang đưa ra, tôi chỉ muốn nói thêm hiến pháp đầu tiên năm 1946 là một bản hiến pháp tương đối có dân chủ, trong đó có điều 70 quy định muốn sửa đổi hiến pháp này phải được 2/3 đại biểu Quốc Hội thông qua và phải đem ra trưng cầu dân ý.

Vì điều kiện đất nước lúc đó không có tổ chức được trưng cầu dân ý, nhưng về mặt căn bản của hiến pháp có phần trưng cầu dân ý vì hiến pháp nói của dân, do dân và vì dân...

Trong khi hiến pháp năm 46 nói gần như tuyệt đối tôn trọng nhân quyền, thí dụ như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng, hay quyền tự do tôn giáo...

Hiến pháp 1946 tôn trọng gần như tuyệt đối là bởi vì nó không để cho luật pháp giới hạn như bản hiến pháp 1992 về những quyền đó như hiện nay đều có một câu thòng “bởi sự giới hạn của luật pháp...”

Chúng ta thấy hiến pháp 1946 cũng không qui định một đảng phái nào, một ý thức hệ nào thống trị đất nước. Do đó hiến pháp năm 1946 là một hiến pháp tương đối dân chủ và hiến pháp có nền tảng. Rất tiếc là những hiến pháp 1960, 1980 và 1992 đã không tôn trọng những thủ tục của hiến pháp 1946 và giết chết bản hiến pháp 1946 này.

Việt Hùng: Tuyên bố như vậy có phải là quyết định chung của Chính Trị Bộ hay ông Triết bị sức ép từ những thế lực bảo thủ trong Bộ Chính Trị?

Ông Lê Minh Nguyên: Theo tôi ông Triết tuyên bố như vậy không phải là quyết định chung của Bộ Chính Trị, nếu là quyết định chung thì sẽ có những thủ tục văn bản... tôi nghĩ ông Triết bị sức ép từ những thế lực bảo thủ trong đảng.

Ông Nguyễn Thanh Giang: Tiếp ý của ông Lê Minh Nguyên tôi rất “tâm đắc” cái ý có thể ông Triết bị một sức ép nào đó của những thế lực bảo thủ ở trong đảng CSVN ví dụ như ông cựu Tổng Bí Thư Ðỗ Mười.

Cho đến bây giờ tôi vẫn có một cảm giác rằng những người như ông Nguyễn Minh Triết, ông Nguyễn Tấn Dũng cũng là những người cấp tiến, nhận thức được thời đại và thấy rằng Việt Nam phải chuyển mình về phương diện chính trị, nhưng khi ông ấy muốn chuyển mình, muốn bước chân sang hữu một chút thì miệng ông ấy lại phải hô lên tả một chút để dùng cái miệng che cái chân bước... để tránh được sự đả kích thậm chí tránh được những đòn nguy hiểm của phe bảo thủ như trước đây họ đưa vụ T4-Tổng Cục 2 ra, những người như ông Võ Văn Kiệt, Nông Ðức Mạnh, Võ Nguyên Giáp... cũng còn bị họ uy hiếp huống hồ gì những ông mới sau này.

Việt Hùng: Câu hỏi chúng tôi xin được đặt ra với ông Lê Minh Nguyên, điều 4 quan trọng đến mức như thế nào mà ông Triết lại chọn thời điểm đưa ra những lời tuyên bố như vậy, trong khi về mặt ngoại giao Việt Nam đang vận động để trở thành thành viên không thường trực Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc?

Ông Lê Minh Nguyên: Theo tôi thấy về mặt ngoại giao Việt Nam đang vận động làm thành viên không thường trực Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, đáng lý ra Việt Nam phải chứng tỏ với thế giới Việt Nam càng ngày càng cởi mở, gần gũi hơn với hệ thống chính trị bên ngoài tức là có những sự tương đồng trao đổi giữa các quốc gia dễ dàng hơn thì ông Triết lại tuyên bố điều 4 vào lúc này theo cái nhìn của tôi trong đảng CSVN hiện đang có hai cái lực, một là lực đẩy tác động rất mạnh là muốn Việt Nam cải cách chính trị, thay đổi chính trị cho kịp với đà thay đổi của thế giới bên ngoài.

Chính cái lực này đã làm cho những người bảo thủ trong đảng CSVN vô cùng lo sợ, do đó ông Triết đưa ra trong một thời điểm gần như không thuận lợi trong lúc này cho thấy có một sự rạn rứt nặng nề về tư tưởng trong nội bộ đảng CSVN.

Ông Nguyễn Thanh Giang: Tôi nghĩ rằng nếu mà đảng CSVN muốn duy trì quyền lực bằng cách bán vào điều 4 hiến pháp thì ẩn sau đó tức là bán lấy vũ lực để áp đặt lên nhân dân Việt Nam và cái đó hoàn toàn sai lầm.

Việt Hùng: Cũng liên quan đến điều 4 có ý kiến cho rằng việc ông Triết tuyên bố như vậy là hiện nay trong hàng ngũ tướng lãnh quân đội có ý kiến muốn đưa vấn đề này ra để luật hóa điều 4 trong sự can thiệp của đảng vào chính quyền?

Ông Nguyễn Thanh Giang: Tin tức lọt ra ngoài cũng chưa nhiều về bàn tay của quân đội nhiều hay không hiện cũng chưa rõ... nhưng tôi nói dù thế lực nào muốn duy trì quyền lãnh đạo của đảng CSVN theo điều 4 đó là hoàn toàn sai lầm.

Việt Hùng: Theo ghi nhận hiện nay trong quân đội có ý kiến đưa ra nói vai trò của quân đội phải bảo vệ tổ quốc, trung thành với tổ quốc, với nhân dân, trong khi có ý kiến khác đưa ra phản bác lại khi cho rằng, vai trò của quân đội là phải bảo vệ đảng, bảo vệ tổ quốc...

Ông Lê Minh Nguyên: Nhìn ra thế giới đa số những quốc gia văn minh họ đều dùng quân đội để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân, phòng chống chiến tranh xảy ra từ bên ngoài. Họ đâu có dùng quân đội để bảo vệ quyền lợi của một thiểu số hay làm công cụ cho một đảng.

Vai trò của quân đội là để bảo vệ tổ quốc, trung thành với tổ quốc tôi nghĩ là hoàn toàn đúng, trong khi có ý kiến phản bác lại cho rằng vai trò quân đội là bảo vệ đảng, bởi vì họ cần phải bảo vệ quyền lợi của một số người, thành ra theo tôi quan điểm đó là cái nhìn rất lệch lạc, chính vì vậy mà vấn đề về điều 4 có dư luận cho rằng trong quân đội có ý kiến muốn rằng phải luật hóa điều 4 để hạn chế sự can thiệp của đảng CSVN vào trong quân đội cũng như vào trong nhà nước và nếu làm được điều này có nghĩ là họ đã phá vỡ được nguyên tắc đảng trị.

Ðây là chúng ta nói bên trong hệ thống chứ chúng ta chưa nói bên ngoài hệ thống độc tài đảng trị của đảng CSVN vì bên ngoài còn nhiều thế lực khác nữa... do đó trở lại câu hỏi tôi thấy rằng quân đội là phải để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân chứ không phải là để bảo vệ đảng.

Ông Nguyễn Thanh Giang: Việc đưa điều 4 vào hiến pháp Việt Nam là khác với ý ông Hồ, trái ý ông Hồ. Việc đưa đảng ra bắt quân đội chỉ phục vụ đảng, bảo vệ đảng thôi thì điều đó trái với nhận thức chung của nhiều nước trên thế giới. Quân đội phải là phi đảng phái để từ đó chỉ để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân.

Cái mà Việt Nam bây giờ họ đem hình ảnh ông Hồ ra để noi theo thì ở đây cái đó chính họ lại phản bội lại cụ Hồ của họ là vì lúc xưa cụ Hồ nói “quân đội ta trung với nước hiếu với dân” thì bây giờ họ cứ nói “quân đội ta trung với đảng hiếu với dân”.

Việt Hùng: Vừa rồi là phần một cuộc Hội Luận Chính Trị Trong-Ngoài Nước liên quan đến lời tuyên bố của Chủ Tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết “bỏ điều 4 đồng nghĩa với tự sát”.

Vai trò của các nhà dân chủ trong và ngoài nước trước vấn đề này ra sao? Sự phối hợp trong-ngoài trong nỗ lực đấu tranh để luật hóa hay bỏ điều 4 về quyền độc tôn lãnh đạo của đảng CSVN, đó sẽ là những vấn đề được bàn đến trong phần hai cuộc Hội Luận Chính Trị Trong-Ngoài Nước trong một buổi phát thanh tới, mời quí vị nhớ đón nghe.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

NHÀ LÃNH ĐẠO NÓI LÁO NHẤT THẾ GIỚI NGUYỄN MINH TRIẾT “NGẬM MÁU PHUN NGƯỜI!”
Nhận định của Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân chủ VN

Nguyễn Minh Triết trở thành “nhà lãnh đạo nói láo nhất thế giới!” từ sau chuyến đi Mỹ vào tháng 6-2007, với hai vụ xì căng đan nổi tiếng:
(1) BỊT MIỆNG CHA LÝ!
(2) “Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi” (báo Tuồi Trẻ ngày 6-7-2007)
đến nổi Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - Đức Giám Mục Nguyễn Văn Hòa - phải ra văn thư ngày 7-7-2007 gửi Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết, với câu khẳng định như sau:"Câu trả lời của Cụ Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết "Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi" là KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT!”.

Tuy đã nổi tiếng với biệt danh: “NHÀ LÃNH ĐẠO NÓI LÁO NHẤT THẾ GIỚI!”, nhưng Nguyễn Minh Triết cũng chưa sợ. Ông lại tiếp tục nói láo, và hơn một bậc nữa: “NGẬM MÁU PHUN NGƯỜI!”, qua việc vu vạ cho Hòa Thượng Thích Quảng Độ và Giáo Hội PGVNTN là có ý muốn lật đổ chế độ CSVN, theo như bài phân tích rất xác đáng sau đây của tác giả Ngô Nhân Dụng, mà chúng tôi xin được trích đăng , để chứng minh rằng Nguyễn Minh Triết đang tự vượt mức “NHÀ LÃNH ĐẠO NÓI LÁO NHẤT THẾ GIỚI”, để đạt mức thượng thừa ác ôn: “NGẬM MÁU PHUN NGƯỜI!”. Nguyễn Minh Triết là người CSVN tiêu biểu, với hai đặc tính tiêu biểu của CS: “NÓI LÁO” và “NGẬM MÁU PHUN NGƯỜI!”.

Bài viết của Ngô Nhân Dụng như sau:
Đảng muốn trốn trách nhiệm
Ngô Nhân Dụng

Tuesday, September 11, 2007
http://www.nguoi- viet.com/ absolutenm/ anmviewer. asp?a=65732&z=7
Ông Nguyễn Minh Triết mới lên tiếng đe dọa dân Việt Nam, nhắn bảo người Việt đừng chống chế độ cộng sản nữa. Điều đáng ngạc nhiên là ông đưa ra lời đe dọa này trong lúc đang ở nước ngoài. Hôm Thứ Hai vừa rồi, ông Triết tới New Zealand sau khi qua Úc Châu dự hội nghị APEC, nhưng ông lại nhắc tới chuyện có “âm mưu lật đổ” chính quyền cộng sản ở Việt Nam.

Theo bản tin BBC, ông Triết nói những người đó “có tổ chức, có quan hệ trong nước ngoài nước, người ta có kế hoạch hành động để lật đổ” chế độ cộng sản.
Ðọc tiếp những lời tuyên bố của ông Triết, thấy ông báo trước sẽ đưa ra tòa “xử những người nhân danh tôn giáo chứ không xử tôn giáo” thì người ta hiểu ông Triết muốn ám chỉ ai. Chắc không phải Linh Mục Nguyễn Văn Lý hay các vị mục sư Tin Lành, vì quý vị đó nhiều người bị bắt rồi. Gần đây chỉ thấy đảng cộng sản ra lệnh các cơ quan truyền thông của họ tấn công, vu khống và mạ lỵ hòa thượng Thích Quảng Độ. Cho nên có thể hiểu rằng ông chủ tịch nhà nước cộng sản đang chính thức đe dọa hòa thượng Thích Quảng Độ và các vị tăng ni thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, chứ không nhắm vào ai khác.

Trong những lời ông Triết đe dọa hòa thượng Quảng Độ, ông còn nói rằng, “ai đó muốn lật đổ chế độ này, muốn đổ máu” thì sẽ bị đem ra tòa xử, dù là những người đó nhân danh tôn giáo. Ông Triết đã đóng vai một cán bộ tuyên truyền chuyên môn vu khống, lăng mạ những người không đồng ý với đảng cộng sản. Không ngờ một người làm chức chủ tịch nhà nước mà lại nói năng hồ đồ, lỗ mãng như một chị cố nông đứng xỉa xói, chửi bới, vu vạ trong một màn kịch đấu tố địa chủ như lối nói của ông Triết.

Vì những điều ông Triết nói hoàn toàn là bịa đặt. Trước hết, ai muốn gây đổ máu? Hòa thượng Thích Quảng Độ hay các linh mục, các mục sư đã bị bắt, những nhà tranh đấu cho tự do dân chủ ở Việt Nam, không ai “muốn đổ máu” hết. Họ có vũ khí, có khả năng để làm những việc mà các cán bộ cộng sản vẫn làm đâu mà gây đổ máu? Gán cho người ta ý gây đổ máu, là vu oan giá họa, vì cái tật “suy bụng ta ra bụng người.” Chỉ có những đảng cộng sản khắp thế giới từ thế kỷ trước đến giờ mới chủ trương cách mạng đổ máu để cướp chính quyền, để thiết lập chuyên chính vô sản, như bài học mà ông Lênin dậy họ. Bây giờ đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tôn thờ Chủ Nghĩa Lênin, vẫn suy tôn ông Hồ Chí Minh đã “tìm thấy Lênin.”

Những nhà tranh đấu dân chủ trong nước ta hiện nay, nhất là các vị tu hành, không ai nỡ lòng nuôi ý định làm người khác chảy máu. Các vị hòa thượng, thượng tọa theo giới cấm sát sanh, vu cho họ ý muốn gây đổ máu là một hành động độc ác vô ý thức, chắc chắn người nghe sẽ không ai tin mà còn khinh cho nữa. Không thể tưởng tượng người đóng vai chủ tịch một quốc gia mà lại có hành động “ngậm máu phun người” như vậy!

Hơn nữa, các nhà tranh đấu cho dân chủ và các vị tu hành có “muốn lật đổ chế độ này” như lời ông Triết tố khổ hay không?

Chế độ cộng sản này đổ hay không đổ hoàn toàn do chính họ. Nếu họ thuận theo lòng dân muốn được tự do và xu hướng lịch sử của thế giới loài người đang dân chủ hóa thì họ còn tồn tại. Nếu họ khăng khăng bám lấy địa vị độc quyền, bao che tham nhũng, bịt miệng báo chí, bất chấp luật pháp và lẽ phải, thì sớm muộn sẽ bị đổ.

Những nhà tranh đấu dân chủ chỉ đòi cho người dân Việt được sống tự do hơn. Cả các đảng viên cộng sản không tham nhũng, không lạm quyền, không cướp đất của dân, mong được sống trong một xã hội tôn trọng pháp luật, họ cũng muốn đất nước ta được tự do hơn. Những người tranh đấu đòi quyền tự do dân chủ là đòi cho tất cả mọi người Việt Nam được sống trong pháp luật với phẩm giá con người, dù là đảng viên cộng sản hay không cũng như nhau cả. Nếu chế độ hiện nay thực hiện các quyền tự do như các nước tiến bộ đang thi hành thì không ai có thể làm cho chế độ đổ cả. Chọn con đường độc quyền cai trị, chỉ lo dùng vũ lực củng cố độc quyền để hưởng lợi, đó mới là con đường “tự sát.” Khi vu khống cho các nhà tu hành ý muốn lật đổ chế độ, ý muốn gây đổ máu, quả là những lời nói lỗ mãng, thô bỉ.

Một cựu đảng viên cộng sản như ông Lê Hồng Hà cũng nhận xét với phóng viên đài Á Châu Tự Do về những đề nghị công khai của hòa thượng Thích Quảng Độ đòi đa nguyên đa đảng, ông nói, “Đứng về hiến pháp và luật pháp thì những đề nghị đó đâu có phạm pháp? Mà cũng đâu phải chỉ có ông Quảng Độ đề nghị đâu, cũng có nhiều người đề nghị rồi.”

Cho nên phải thấy những lời ông Nguyễn Minh Triết nói ở Tân Tây Lan sẽ khiến cho mọi người Việt Nam phải thất vọng về tư cách và hiểu biết của ông, người đang mang danh hiệu là chủ tịch một quốc gia.
Nhưng tại sao ông Nguyễn Minh Triết phải lên tiếng đe dọa hòa thượng Thích Quảng Độ trong lúc còn đang ở nước ngoài như vậy? Chắc vì đảng cộng sản đang chuẩn bị một cuộc tấn công mới nhắm vào hòa thượng Thích Quảng Độ và các nhà tranh đấu dân chủ khác ở trong nước. Họ có thể sẽ bắt giam, quản thúc và đưa ra tòa nhiều người, nhưng sẽ còn gây thêm một chiến dịch dùng báo, đài làm “tòa án nhân dân” đấu tố những ai dám lên tiếng không đồng ý với đảng cộng sản.

Vì phong trào tranh đấu dân chủ ở trong nước hiện nay đang nhắm vào một nhược điểm quan trọng của chế độ: cướp đất đai của người dân mà không bồi thường xứng đáng. Phong trào dân oan khiếu kiện tràn lan, những nông dân can đảm và có khả năng tài chánh mới kéo được về tới Hà Nội, Sài Gòn biểu tình, còn hàng triệu người khác chỉ biết ngậm oán hờn. Đảng cộng sản không biết cách nào giải quyết, vì giải quyết công bình thì sẽ đụng tới quyền lợi những ông kẹ địa phương, chính bọn đó là rường cột bảo vệ chế độ cộng sản bây giờ.

Trong cảnh lúng túng đó, đảng cộng sản tìm ra một giải pháp, là vu oan cho đồng bào bị “bọn xấu” xúi giục chống đảng, chống nhà nước! Không thể nào đàn áp thẳng tay tất cả hàng chục triệu nông dân, cũng không thể buộc tội “phản cách mạng” cho họ; đảng cộng sản sẽ tìm ra một “bung xung” để tấn công, từ đó, gián tiếp đe dọa đồng bào đang uất ức, buộc họ phải ngậm nỗi oan không dám nói ra nữa. Đó là lý do đảng cộng sản đang tìm cách gán cho hòa thượng Thích Quảng Độ cái tội xúi giục nông dân biểu tình, dù cả nước ai cũng biết những vụ biểu tình khiếu oan đó diễn ra hàng chục năm nay rồi. Không những thế, người dân nào dám khiếu oan còn có thể bị kết tội liên hệ với “bọn phản động nước ngoài” nữa!

Đó chính là thủ đoạn mà ông Hồ Chí Minh đã dùng khi tìm cách tiêu diệt các đảng phái quốc gia không cộng sản, bằng cách vu cho những người vô tội là làm gián điệp cho Pháp, trong khi chính ông ta làm gián điệp cho Nga Xô, lãnh tiền của Đệ Tam Quốc Tế để đưa chủ nghĩa cộng sản vào nước ta! Nhưng một thủ đoạn đã dùng nửa thế kỷ trước, liệu bây giờ có hiệu quả hay không?

Người dân Việt Nam bây giờ không nhẹ dạ cả tin như xưa. Ông Lê Hồng Hà, một nhân viên cao cấp trong ngành công an cộng sản từ xưa nay đã thất vọng về đảng của ông, đã nói với đài Á Châu Tự Do về vụ chụp mũ những dân oan khiếu kiện, rằng, “quy cho cái đó là các lực lượng phản động bên ngoài, bên trong” là một hành động “nhằm lờ đi trách nhiệm chính của mình!”
Trách nhiệm của một chính quyền là phải bảo vệ quyền lợi của người dân. Để cho bọn tham nhũng hút máu người dân, không dám bắt tội vì bọn chúng là đồng đảng, cho nên nhóm lãnh đạo đảng cộng sản phải quy trách nhiệm cho những thế lực thù địch “có quan hệ trong và ngoài nước.” Đó là một cách trốn tránh trách nhiệm, đúng như ông Lê Hồng Hà nhận thấy.

Ông Lê Hồng Hà nhận xét rằng những người trong đảng cộng sản đang nêu lên vấn đề “phản động bên trong, phản động bên ngoài” thực ra là một thiểu số trong đảng. Ông nói như vậy vì ông nhìn vào toàn thể mấy triệu đảng viên cộng sản. Quả thực, những kẻ đang hưởng lợi lộc khi đi cướp đất của dân, từ trung ương đến địa phương, họ là một nhóm nhỏ, chắc chỉ chiếm một vài phần trăm trong số các đảng viên cộng sản. Nhưng bọn họ lại là những người nắm quyền quyết định mọi việc! Cấp lãnh đạo trong đảng cũng không dám đụng vào đám cán bộ tham nhũng, chỉ khi nào bên trong bọn đó tranh ăn, không được ăn thì đạp đổ, thì mới tố cáo lẫn nhau thôi. Cho nên ông Nguyễn Minh Triết mới đại diện cho nhóm thiểu số đó mà lên tiếng đe dọa hòa thượng Thích Quảng Độ, ngay trong lúc còn đang ở nước ngoài! Người Việt nào nghe thấy những lời vu khống, dọa nạt đó, cũng phải thấy hổ thẹn!
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Ðất nước phát triển là phải phát triển cả kinh tế, tư tưởng và dân chủ
Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang

LTS.- Tủ sách Tiếng Quê Hương văn phòng đặt tại Virginia đã cho ấn hành 3 tác phẩm mà những độc giả miền Ðông cho rằng những ai còn nuôi dưỡng việc chống độc tài Cộng Sản nên đọc. Ðó là các tác phẩm “Nhân Quyền và Dân Chủ ở Việt Nam” của Giáo Sư Nguyễn Thanh Giang, “Hoa Phượng” của Nguyễn Thị Hoài Thanh và “Thư Gởi vào Không” của Mai Nguyễn. Tủ sách này dự định cho ra mắt các tác phẩm trên với đồng hương quận Cam vào hạ tuần Tháng Mười năm nay tại Phòng Sinh Hoạt nhật báo Người Việt.

Ba tác phẩm trên là 3 luận đề được viết với các thể loại khác nhau, nhưng nói chung là các tác giả đều muốn nói lên một khát vọng: loại bỏ những điều xấu xa, một chế độ áp bức và chà đạp nhân phẩm con người mà người Cộng Sản hiện nay vẫn cố gắng bám víu vào. Dưới chế độ này, một nhà trí thức, một nhà thơ, một nhà giáo, một dân đen... cũng rất khó sống yên ổn, ngay cả sống yên phận với sự nghèo khó của mình.

Riêng với “Dân Quyền và Dân Chủ ở Việt Nam”, Giáo Sư Nguyễn Thanh Giang đã nêu rõ những nguyên ủy để chứng minh chế độ Cộng Sản độc tài ngày nay ở Việt Nam không xứng đáng được tồn tại trong cộng đồng thế giới. Qua tác phẩm này, Giáo Sư Nguyễn Thanh Giang đã đốt lên ngọn đuốc tranh đấu sáng rực ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại. Sau đây, mục Diễn Ðàn xin đăng một chương nói về sự phát triển đất nước Việt Nam và mối liên hệ của nó với tự do, dân chủ và nhân quyền. Bài khá dài, đăng nhiều kỳ.

...

Tôi phải ghi nhận diễn giải bằng hình tượng ngắn gọn và đơn giản của BS Phạm Hồng Sơn như sau: “Chúng tôi thiển nghĩ một đất nước phát triển, phải là một đất nước phát triển cả về kinh tế và tư tưởng, cũng như một người không chỉ chú ý đến việc bồi bổ thể lực, cơ bắp mà quên đi phát triển tinh thần, trí tuệ. Mà để phát triển tinh thần trí tuệ thì không có con đường nào khác tốt hơn là để cho cong người được tiếp xúc, trao đổi va chạm với xã hội chung quanh trong đó có các cá thể và thiên nhiên rộng lớn”.

Trong lịch sử cận đại, Hà Lan được xem là đất nước phát triển sớm nhất. Sau đó mới đến Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Người ta nói thế kỷ 17 là thế kỷ của Hà Lan, thế kỷ 18 là thế kỷ Anh. Từ thế kỷ 19, Hoa Kỳ lên ngôi bá chủ toàn cầu. Tiếp đó, Nhật Bản đã vương lên mạnh mẽ như một hiện tượng thần kỳ. Dựa trên thuyết phát triển nảy sinh “do sự tình cờ của hoàn cảnh lịch sử, bộ máy chính quyền trở thành vắng mặt”, tác giả Nguyễn Gia Kiểng đã giải thích sự phát triển sớm và rực rỡ của Hà Lan lúc ấy chủ yếu là do Hà Lan không bị cai trị bởi một ông Vua hay một lãnh chúa mà chỉ bởi một “đại thường trú” cư ngụ tại một tòa nhà được dựng ra để giải quyết các vấn đề hành chánh tối cần thiết. Ông nói trong hoàn cảnh như thế “những người Hà Lan không thể có vinh quang được làm vương làm tướng, họ chỉ có một lý tưởng là làm giầu”.

Trước đó, giải thích sự phát triển của Hà Lan, Montesquieu cho rằng do bị thiên nhiên ngược đãi nên đất nước này phải phấn đấu để tiến lên và để tiến lên được thì cần có tự do. Khác với các dân tộc Ðông Nam Á, vì được ngủ trên nệm êm thiên nhiên ưu đãi nên không cần phấn đấu dù cam chịu kiếp nô lệ. Max Webe thì cho rằng sự phát triển của Hà Lan và Anh, Mỹ sau đó là nhờ quốc đạo Tin Lành ở xứ này năng động và cởi mở hơn đạo Công giáo.

Thuyết phát triển dựa vào phấn đấu vượt bực của các quốc gia, phải vật lộn khắc phục tình trạng thiên nhiên ngược đãi không tồn tại được trước câu hỏi vì sao Hoa Kỳ với đất đai trù phú, tài nguyên dồi dào, điều kiện sinh sống dễ dãi đã phát triển rất mạnh, trong khi các nước có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, tài nguyên không phong phú như Mali, Ethiopia, Bangladesh lại nghèo nàn lạc hậu mãi. Nói rằng nước Nhật phát triển mạnh vì người Nhật bắt buộc phải sản xuất để lấy ngoại tệ mua nguyên liệu và nhiên liệu thì giải thích ra sao trường hợp nước Anh trở nên hùng cương nhờ than đá và sắt...

Tìm nguyên nhân phát triển trong trường hợp trên dễ bị rơi vào bài toán đa nghiệm, rất khó qui kết mối liên quan giữa nghiệm số và ẩn số. Bài toán sẽ trở nên đơn nghiệm trước các câu hỏi: vì sao xuất phát từ cùng một nền văn hóa, một tâm lý dân tộc, một điều kiện thiên nhiên mà Nam Hàn đã trở thành một Con Rồng trong khi Bắc Triều Tiên ngày một kiệt quệ, dân chúng đói khổ vật vờ bên những lò phản ứng nguyên tử lăm le đe dọa chế tạo vũ khí hạt nhân? (Hai miền của bán đảo này không chỉ cách biệt về đời sống kinh tế mà cả về đời sống tinh thần. Người Việt Nam rất mê và được xem rất nhiều phim Nam Hàn nhưng không thích xem và hầu như không có phim Bắc Triều Tiên để xem).

Cũng câu hỏi trên đặt ra cho các trường hợp giữa Trung Quốc và Ðài Loan-Hồng Kông, giữa Tây Ðức với Ðông Ðức, câu trả lời đơn nhất sẽ nhận được là: sở dĩ Tây Ðức phát triển hơn Ðông Ðức, Ðài Loan Hồng Kông giầu có hơn Trung Quốc, Nam Hàn phồn vinh hơn Bắc Triều Tiên vì Tây Ðức, Nam Hàn, Ðài Loan Hồng Kông có dân chủ hơn Trung Quốc, Ðông Ðức và Bắc Triều Tiên.

Dẫn chứng để minh định kết luận trên còn có thể nêu lên từ các nước chung quanh vùng Ðông Nam Á. Với các hoàn cảnh tự nhiên và chủng tộc na ná nhau, nhưng xét trình độ phát triển, chúng ta dễ dàng nhận thấy Singapore, Thái Lan, Malaysia là đối cảnh của Myanma (Miến Ðiện), Lào, Kampuchia và Việt Nam và trên một bậc so với Indonesia, Philippines. Tình trạng đối cảnh gây nên do nhóm nước này có chế độ dân chủ, còn nhóm nước kia không. Tình trạng phát triển, cao thấp, chênh lệch nhau liên quan tới chất lượng và trình độ dân chủ ở các nhóm nước.

Từ một làng đánh cá có khoảng 100 dân, Singapore được thành lập bởi một người Anh từ thế kỷ 19 và chưa hề biết tổ chức xã hội nào khác ngoài khuôn mẫu tự do dân chủ Tây phương. Chính quyền Singapore nằm trong tay Quốc Hội hình thành từ bầu cử tự do, và quốc hội chỉ định thủ tướng. Ở Singapore, tuy đảng Nhân Dân Hành Ðộng cầm quyền liên tục từ ngày độc lập cho tới nay, nhưng các đảng đối lập không bị cấm, người đối lập không bị trấn áp, báo chí tư nhân được tự do phát hành. Singapore là một nước có luật lệ khắt khe, nhưng cái cơ bản ở đây là luật pháp được áp dụng nghiêm ngặt và công bằng cho mọi đối tượng xã hội, không kể đảng viên hay ngoài đảng, không kể quan chức hay thường dân...

Ông Lý Quang Diệu lớn tiếng phê phán dân chủ, nhân quyền Tây phương, nhưng đề cao các giá trị Châu Á là chỉ cốt tỏ vẻ có tư tưởng độc lập của một lãnh tụ Ðông Nam Á. Thực tế, hơn tất cả các nước Ðông Nam Á, hơn cả Hồng Kông, Singapore là nước Châu Á bị Tây phương hóa nặng nhất. Mọi người Singapore đều thông thạo tiếng Anh mà quên tiếng mẹ đẻ Trung Quốc của mình. Ngay cả Lý Quang Diệu cũng nói tiếng Anh trơn tru hơn tiếng Trung Quốc và trong suốt thời gian làm thủ tướng, ông đã cố gắng học và làm theo Tây phương tối đa. Khi về già, ông bày tỏ muộn màng đôi chút vương vấn với cội nguồn Trung Hoa của mình.
dailien
Posts: 2458
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Từ Miến Điện Tới Việt Nam

Đa Nguyên
Image
Các nhà sư Miến Điện đang diễn hành đến trung tâm thành phố Yangon. Quân đội Miến Điện sử dụng dùi cui, hơi cay bao vây thẳng tay đàn áp và làm chết ít nhất 4 người.


Trong tuần qua, tình hình Miến Điện đã khiến cả thế giới chú ý. Nước Miến Điện đã được nhà cầm quyền quân phiệt đổi tên thành Myanmar từ năm 1989, nhưng Mỹ không công nhận tên mới này, cũng như tư cách đại diện của chế độ quân phiệt. Việt Nam đã quen với tên Miến Điện, nên chúng tôi vẫn dùng tên cũ này.

Vốn là thuộc địa của Anh, và được độc lập vào đầu năm 1948, Miến Điện là một nước giầu tài nguyên, và đã là một quốc gia có uy tín cách đây nửa thế kỷ. Một chính khách lỗi lạc của Miến là ông U Thant đã được bầu làm vị Tổng Thư Ký thứ ba của Liên Hiệp Quốc trong hai nhiệm kỳ, từ 1961 tới 1971. Nhưng chỉ vì đám tướng lãnh tham quyền cố vị, đã làm đảo chánh cướp lấy quyền hành, rồi áp dụng chế độ độc tài, gọi là "Chủ nghĩa xã hội kiểu Miến", đưa dân tộc Miến Điện vào cảnh lầm than cơ cực suốt mấy thập kỷ qua.

Cách đây hai chục năm, nhân dân Miến Điện cùng với tập thể sinh viên đã nổi dậy chống áp bức bằng những cuộc biểu tình lớn, các tướng lãnh cầm quyền đã ra lệnh đàn áp, tài liệu cho biết có tới ba ngàn người bị giết. Nhưng chế độ quân phiệt cũng nhượng bộ bằng cách chịu cho bầu cử tự do vào năm 1990.
Image
Trong cuộc bầu cử này, Liên Minh Quốc gia Dân chủ (National League for Democracy) của bà Aung San Suu Kyi đã thắng với tỉ lệ 60%. Nhưng phe quân phiệt cầm quyền đã phản bội, chẳng những không chấp nhận kết quả bầu cử, còn bỏ tù bà Aung San Suu Kyi. Năm 1991, bà Suu Kyi đã được tặng giải Nobel Hòa Bình trong lúc đang bị giam trong tù. Trong khi cả thế giới coi bà Aung San Suu Kyi như một lãnh tụ đáng kính, là niềm hy vọng của tương lai dân chủ Miến Điện, thì giới quân phiệt cầm quyền tiếp tục khủng bố và giam giữ bà. Trong 18 năm qua, bà đã bị tù tới 12 năm. Cả Tổng thống Bush và Đệ nhất Phu nhân Laura đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu thả bà Suu Kyi.

Từ cuối tháng Tám, do hậu quả việc bất ngờ tăng giá dầu xăng tới 500%, đời sống dân chúng càng thêm cơ cực. Thông cảm cảnh dân chúng bị đàn áp quá lâu và ngày càng thêm đói khổ, lần này các nhà sư, là giới được dân chúng kính trọng nhất, đã trực tiếp tham gia tranh đấu. Khởi đầu chỉ là những cuộc biểu tình nhỏ của mấy trăm nhà sư, và dân chúng được kêu gọi đừng tham gia để tránh bị đàn áp.

Nhưng rồi những cuộc biểu tình của các nhà sư, cả nam lẫn nữ, ngày càng đông, nhất là tại các thành phố lớn. Vào ngày Thứ Bảy 22 tháng 9, khoảng 500 nhà sư đã đi qua trước căn nhà nơi bà Suu Kyi đang bị quản thúc, và bà đã ra trước cửa vẫy chào đoàn biểu tình. Ngày Chủ Nhật 23 tháng 9, các nhà sư biểu tình tại Rangoon lên tới hai chục ngàn, và tại Mandalay mười ngàn người. Sang ngày Thứ Hai 24 tháng 9, các nhà sư kêu gọi cả dân chúng tham gia, hàng trăm ngàn người đã biểu tình tại Rangoon và trên hai chục thành phố khác. Trong cùng ngày, các nhà lãnh đạo các nước dân chủ trên thế giới như Canada, Anh, Đức, Mỹ đã mau mắn lên tiếng ủng hộ phong trào tranh đấu dân chủ ôn hòa ở Miến Điện, và lên án chế độ hà khắc của giới quân phiệt, do tướng Than Shwe cầm đầu.

Tại một cuộc họp của Đảng Lao Động ở miền Nam nước Anh vào ngày 24 tháng 9, Thủ tướng Anh Gordon Brown tuyên bố: "Có một sợi chỉ vàng chung cho cả nhân loại qua mọi dân tộc và tôn giáo đã buộc chúng ta lại với nhau, và nó có thể làm sáng cả những góc tối nhất của thế giới". Ông muốn gửi một thông điệp tới cho mọi người đang phải đối diện với cảnh đàn áp tại khắp nơi trên thế giới, từ Miến Điện tới Zimbabwe, rằng: "Nhân quyền là chung cho cả hoàn vũ và không bất công nào có thể tồn tại mãi".

Lên tiếng trước Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York sáng Thứ Ba 25 tháng 9, Tổng thống Bush tố cáo quân phiệt Miến Điện đã áp đặt một chế độ cai trị bằng sự sợ hãi trong 19 năm, phủ nhận các tự do căn bản về ngôn luận, hội họp, và thờ phượng. Ông nói rằng "Hoa Kỳ phẫn nộ về tình hình tại Miến Điện". Tổng thống Bush cũng tuyên bố Hoa Kỳ sẽ tăng gia các biện pháp trừng phạt chế độ quân phiệt Miến Điện một cách gắt gao hơn.
Image
Trong khi ấy, riêng hãng thông tấn Tân Hoa Xã của Trung Quốc, vào ngày 24 tháng 9 đã loan báo lời đe dọa của tướng Thura Myint Maung, Tổng trưởng bộ Tôn giáo của chính quyền Miến, rằng: "Những cuộc biểu tình gần đây của các nhà sư trẻ đã bị khuấy động bởi các phần tử phá hoại ở trong và ngoài nước", và "Các nhà sư biểu tình không những làm phương hại tới sự ổn định của quốc gia, mà còn làm hư hình ảnh của các nhà tu hành". Tướng Thura cũng đe dọa những nhà sư nào không tôn trọng các luật lệ tôn giáo sẽ bị trừng phạt.
Image
Lời tuyên bố của phe quân phiệt Miến Điện khá giống với thái độ của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đối với các nhà sư thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, cũng như với phong trào đòi công lý, tự do dân chủ và nhân quyền. Tất cả đều đổ tội cho các phần tử phản động trong và ngoài nứơc, mà không bao giờ nghĩ rằng thủ phạm của tất cả mọi rắc rối là chính mình.
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Chuyện Trọng Thủy Thời Nay
Cộng Đồng Hải Ngoại và Những Con Ong Trong Tay Áo

Đỗ Văn Phúc
Cuộc đấu tranh giữa các thế lực Dân chủ Tự do chống bạo quyền Mafia Cộng sản Việt Nam đã chuyển qua giai đoạn quyết liệt, khi hàng ngàn, vạn đồng bào trong nước đã ý thức vai trò của mình mà anh dũng đứng lên đòi hỏi quyền lợi rất chính đáng đã bị bạo quyền tước đoạt từ hàng chục năm qua. Hải ngọai đã và đang làm hết sức mình để hỗ trợ; mong ước cuộc cách mạng dân chủ sẽ sớm thành.

Nhưng đồng thời với sự bang giao ngày càng chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và VC (mà chủ yếu là do quyền lợi kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ đối đầu với hiểm họa Trung Cộng), chúng ta đã thấy gần đây những kẻ trở cờ, nội tuyến đã công khai xuất đầu lộ diện, thách thức người Việt Quốc Gia. Từ Quận Cam, San Jose, Massachusetts đến nhiều thành phố Tiểu bang khắp nước Mỹ. Hiện tượng này là tất yếu khi các cơ hội tốt đã đến với những tên gián điệp, tay sai, trở cờ… Chúng nó đâu mà nhiều thế? Sao trước đây thì im re, mà nay vung vít thế. Có những kẻ đã ra mặt, nhưng cũng không thiếu những người còn âm thầm như những loại sleeping cells theo thuật ngữ tình báo.

Có Phải Ai Vượt Thoát Khỏi VN Đều Là Tị Nạn Chính Trị Không?

Chúng ta nên phân tích đúng đắn, đánh giá lại để nhận diện những phần tử mà từ lâu tưởng là bạn; nhưng thực tế không hề là đồng minh đồng chí của chúng ta.

Vì mục tiêu đấu tranh, chúng ta thường tạo ra ảo tưởng rằng tất cả những người vượt thoát ra khỏi Việt Nam đều là tị nạn chính trị. Chính những thuyền nhận trong các trại tị nạn Thái Lan, Hồng Kông, Philippines cũng tìm mọi lý lẽ để chứng minh rằng họ là thành phần tị nạn chính trị để được các phái đoàn phỏng vấn các nước cho đi định cư. Những cộng đồng Việt Nam hải ngoại cũng đấu tranh quyết liệt để cứu vớt đồng bào mình ra khỏi các trại tị nạn, cho dù đa số trong trại Hongkong xuất phát từ miền Bắc mà có rất nhiều gắn bó với chế độ Cộng Sản (Tại Canada đã xảy ra trường hợp một tập thể tị nạn từ Hong Kong đã tổ chức văn nghệ đầy màu sắc CS).

Khi những Việt hốt hoảng tranh đạp nhau để thoát ra khỏi Việt Nam những ngày biến động trước sau 30 tháng 4, năm 1975, cũng như hàng vạn thuyền nhân trong suốt hơn hai thập niên mà đã tạo ra “Thảm trạng Biển Đông”; ngay cả trong các chương trình đoàn tụ, chúng ta hẳn phải nhìn ra sự phức tạp trong sự phân loại dựa trên yếu tố chính trị.

Ngoài những thành viên có nhận thức chính trị về một cuộc chiến ý thức hệ, thì có rất nhiều người lựa chọn ra đi là vì không thể sống trong cuộc sống ngột ngạt, đói khổ, mất nhà, mất phương tiện sinh tồn (những ngày cuối cuộc chiến, có những làng ngư dân ven biển bơi thuyền ra biển tránh bom đạn, và được tàu Mỹ bốc hết). Sự lựa chọn giữa chín phần chết, một phần sống chưa hẳn là dựa trên nhận thức chính trị, mà chỉ vì sinh kế. Vì thế, một khi họ nhìn thấy cơ hội có thể làm ăn, kiếm tiền; họ sẽ không ngần ngại quay trở lại. Nhưng chỉ để làm ăn chứ không phải trở về sinh sống hẳn, vì họ cũng biết cuộc sống ở ngoại quốc sung sướng, an toàn hơn nhiều.


Đã Đến Lúc Đen Trắng Dần Dà Phân Minh

Chúng ta vô cùng hãnh diện khi thấy đại đa số người Việt tị nạn đến Hoa Kỳ đã từ con số không, hai bàn tay trắng; mà nay có những thành công đáng kể. Có người thành công về tài chánh, trở nên những triệu phú với những cơ ngơi bề thế; Có người thành công về danh vọng, đỗ đạt, làm rạng danh dân Việt. Những người không may mắn bằng thì ít ra cũng nuôi dạy con cái nên người, vươn lên trong xã hội mới. Nói chung tuyệt đại đa số người Việt đang được xếp vào hàng trung lưu của nước Mỹ. Đó là do khả năng tiềm tàng của một dân tộc có truyền thống hiếu học, cần cù và có tinh thần thăng tiến. Nhưng cũng phải nhận một lợi thế là đất nước Hoa Kỳ là một xứ sở của cơ hội. Cơ hội được ban phát đồng đều cho mọi người mà không hề có sự phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ…

Tuy thế, lòng ham muốn của con người là vô hạn. Có một muốn trăm, có trăm muốn vạn. Biết bao nhiêu nghệ sĩ, trí thức, văn giới đã nổi tiếng ở Hoa Kỳ vẫn chưa hài lòng với số lượng người ái mộ vài ngàn, vài chục ngàn, trăm ngàn. Họ mò về Việt Nam trình diễn, in bán sách, tham gia những hoạt động văn học, nghệ thuật do CS chủ xướng để trước hết kiếm thêm tiền, nhưng có lẽ mục đích chính là được thêm hàng triệu người biết đến. Họ quên rằng việc làm của họ trong giai đoạn dân tộc đang đấu tranh giữa Thiện và Ác; là một sự hà hơi tiếp sức cho cái Ác; ru ngủ, lèo lái tinh thần người dân quốc nội vào một thế thụ động, an hưởng, có cái nhìn lệch lạc về chính nghĩa và gian tà. Một người bạn văn của tôi đã dùng tên tuổi của mình để viết bài biện minh cho thầy tu Nhất Hạnh về những việc ông ta làm gần đây ở Việt Nam; cũng chính ông nhà văn này đã đưa sách của mình về VN in và phát hành sau khi lược bỏ những đoạn chống Cộng mà ông viết trước đây để lấy lòng cộng đồng tị nạn..

Chúng ta không trách cứ những người này. Về phương diện pháp luật, họ có quyền làm ăn, kiếm tiền, kiếm danh dù ở bất cứ nơi đâu, miễn là chánh đáng. Chỉ trên phương diện đạo đức, chính trị của những người Quốc gia chống Cộng, chúng ta buộc phải đánh giá họ nếu như việc làm của họ góp phần to điểm cho chế độ CS hay đi ngược lại công cuộc đấu tranh của chúng ta. Nhưng ngay trong anh em chúng ta, khi còn nằm trong bàn tay CS trong các trại tù, cũng đã có những người hân hoan lao động hăng say mỗi khi bọn cai tù nới lỏng một chút kiềm chế, khủng bố. Thì trách chi những người dân tầm thường không hề có một ý thức chính trị Quốc Cộng nào.

Gần đây, bọn đầu nậu đã tổ chức liên tiếp những chương trình văn nghệ với các nghệ sĩ từ Việt Nam qua. Làm đến đâu, bị cộng đồng phản đối đến đó. Và đa phần là chúng thất bại. Nhưng một khi còn có người sẵn sàng bỏ tiền mua vé đi xem, thì dù lời hay lỗ, bọn đầu nậu sẽ còn manh nha tổ chức tiếp. Và vì đây là một phần trong Nghị quyết 36, của Việt Cộng, chuyện lời lỗ đã được tính toán cả rồi. Trong công tác tuyên vận, Việt Cộng luôn luôn rất hậu hỉ. Chúng ta cũng không nên ngạc nhiên khi thấy những chương trình này cũng hấp dẫn được một số lượng khán giả đã bất chấp sự thuyết phục của Cộng Đồng về tính chất tuyên vận của các chương trình văn nghệ đó. Họ là ai? Nếu không phải là những người tị nạn kinh tế và một phần những người mới đến Hoa Kỳ theo các chương trình đoàn tụ, vợ chồng mới cưới… Hoặc họ là những người dễ tính, không có quan điểm chính trị; hoặc họ là những người sinh ra lớn lên trong chế độ CS, đã quá quen thuộc với lời ca tiếng nhạc trong xã hội CSVN.

Vấn đề đáng nói, và phải nói ở đây là những người đang đu dây hai hàng.

Họ là những người hăng hái tham gia vào các công tác của cộng đồng từ nhiều năm, đã tạo ra uy tín không những trong cộng đồng mà còn với các giới chức, doanh nghiệp Hoa Kỳ. Đùng một cái, người ta phát giác biết họ có những cơ sở làm ăn bề thế bên Việt Nam, có những quan hệ với nhiều giới chức cao cấp của CS. Có người từng hướng dẫn những lãnh tụ cao cấp của CS tham quan các doanh nghiệp địa phương hay tháp tùng trong các phái đoàn cao cấp Hoa Kỳ đến Việt Nam để làm môi giới. Có người đang từ một doanh gia bình thường, chủ một cơ sở nhỏ, tự nhiên phất lên có trong tay vài ba công ty lớn với doanh số phải đến hàng triệu, chục triệu đô la. Người dễ tính nhất cũng phải đặt câu hỏi về số tiền đầu tư kếch xù này. Liệu có phải là một cuộc rửa tiền cho bọn cán bộ CS tham nhũng không? Hay là tiền CS trả công trước cho những hoạt động khuynh đảo cộng đồng khi có điều kiện về sau? Về tuyên vận, ngoại giao, khủng bố, bọn CS có những ngân sách rất dồi dào.

Những người lớn tuổi, dày dạn kinh nghiệm sẽ không thể chấp thuận một giải thích nào về sự việc một người vừa làm ăn với địch, mà lại vừa tham gia những hoạt động có tính cách chống lại kẻ địch đó. Nhất là khi kẻ địch đó là Cộng sản Việt Nam, mà quá khứ cũng như hiện tại đã chứng minh sự kỳ thị, thù hận trong lòng họ đối với những người không theo họ. Ngay những người thân Cộng như Nguyễn Đình Hoan, Trần Trường (US), Trịnh Vĩnh Bình (Hoà Lan)… về VN đầu tư giúp CS xây dựng, mở mang kinh tế, giáo dục còn bị chúng cho vào tù, cướp đoạt tài sản. Thì việc những doanh gia hoạt động Cộng Đồng mà được yên ổn làm ăn lớn tại VN phải có những gì rất bí ẩn, nguy hiểm mà chúng ta cần tìm hiểu và cảnh giác

Chúng ta từng bị nội tuyến bởi Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo. Đó là những bài học phải thuộc.

Nõ thần có sức mạnh vạn năng đến đâu, thành Cổ Loa có kiên cố đến đâu; cũng không nguy hiểm bằng những lời đường mật mà Trọng Thủy rót bên tai nàng Mỵ Châu. Xin hãy luôn nhớ lời thần Kim Quy khi vua An Dương Vương – thua trận đang trên đường tị đào và bị địch đuổi riết - ngước mặt lên trời than thở cho sự suy vong.


“Kẻ thù đang ngồi sau lưng nhà ngươi đó!”.

Đỗ Văn Phúc
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Nhà cầm quyền quân phiệt Miến Điện trước sức ép nặng nề của quốc tế nhằm chấm dứt cảnh “đêm đấu tố, đêm thủ tiêu, đêm chém giết cho đầy chỉ tiêu…”

Trần Thị Sông Dinh, Oct 01, 2007
Cali Today News – Oâng đặc sứ Ibrahim Gambari của LHQ vừa đến Miến Điện vào cuối tuần rồi với mục đích gặp gỡ các tay chóp bu của nhà câàm quyền quân phiệt, nhất là ông trùm Than Shwe, nhằm thuyết phục họ chấm dứt đàn áp và truy lùng những người biểu tình đòi dân chủ, nhưng ông đặc sứ cứ phải chờ từ ngày này sang ngày nọ và nhà cầm quyền quân phiệt cứ hẹn tới hẹn lui.

Trong lúc ông ta chờ gặp nhà cầm quyền quân phiệt, thì ông ta “bị” đưa đi xem cuộc tập hợp ủng hộ chính quyền do nhà cầm quyền tổ chức, theo lệnh “mỗi hộ phải có hai người tham dự cuộc biểu dương ủng hộ chính quyền.” Nhiều người sợ bị để ý, trù dập, nên đành phải đi xuống đường ủng hộ chính phủ, cho yên thân.
Con số người chết vẫn là đề tài được nói tới nhiều.

Chính quyền quân phiệt đưa ra con số 13 người, thế nhưng, các nhà đấu tranh đang cố gắng tổng kết tình hình, và theo nhiều nguồn tin khác thì có tới hàng trăm người bị chêátvà hàng ngàn người bị bắt.

Hình ảnh một tu sĩ Phật giáo bị giết chết, và bị ném xuống giòng sông Ngưỡng Quảng, đầu úp mặt xuống nước, làm thế giới và dân chúng Phật tử Miến Điện kinh hoàng. Còn bao nhiêu người khác bị thủ tiêu, hay bị rượt đuổi nên phải trốn chạy sang Thái Lan và tá túc trong chùa chiền Thái.

Sự can đảm xuống đường của giới tu sĩ Miến Điện được thế giới ngưỡng mộ vì trong suốt 45 năm cướp chính quyền, bọn quân phiệt cai trị bằng “bàn tay sắt” (an iron fist), và bất cứ hành vi nổi day nhỏ nào cũng bị trù dập, thế nhưng, lần này, cuộc xuống đường bởi cả trăm ngàn người là một cuộc biểu dương long can đảm tuyệt vời của người Miến, và cũng là sự bất mãn cùng cực đối với chế độ khát máu này.

Thế nhưng, tại diễn đàn LHQ, ngoại trưởng Miến Điện Nyan Win không ngượng miệng khi nói là cuộc bất ổn do các phần tử cơ hội chính trị gây ra vì bị các cường quốc giật dây, và chính vì thế chính quyền Miến Điện không chịu trách nhiệm.

Ông ta cũng cho rằng chính quyền quân phiệt Miến đã tự chế tối đa rồi.

Phó ngoại trưởng Nhật là ông Mitoji Yabunaka đang hội họp với các giới chức quân sự cao cấp tại Naypyidaw về cái chết của ký giả Nhật trong tuần qua. Ông Yabunaka yêu cầu nhà câà quyền Miến Điện phải trả lại máy video camera mà ký giả nói trên đang mang trên người khi bị bắn chết. Nhật Bản đang tính chuyện cắt viện trợ cho Miến Điện.

Hoa Kỳ vào hôm thứ hai này cũng bày tỏ sự quan tâm nghiêm trọng về “tình trạng bạo lực và đe dọa tiếp tục” tại Miến Điện và Hội Ân Xá Quốc Tế yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ cấm vận vũ khí ngay lập tức đối với Miến Điện mà Trung Cộng là nguồn cung cấp vũ khí chính yếu đối với Miến Điện.

Trần Thị Sông Dinh
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Ông Bush đưa bà Clinton lên
Ngô Nhân Dụng

Nhiều người vẫn khó tin là dân Mỹ đã sẵn sàng bầu một phụ nữ lên làm tổng thống. Nghĩa là, cho đến gần đây. Trước khi người ta thấy bà Hillary Clinton càng ngày càng bứt xa các đối thủ trong đảng Dân Chủ cũng như các “chuẩn ứng cử viên” tổng thống đảng Cộng Hòa. Bây giờ thì những người hoài nghi nhất cũng công nhận triển vọng bà Hillary Clinton lên làm tổng thống là có thật, là “Không cách nào khác! Không thể tránh được!” Và người ta thấy nguyên nhân chính là do ông Tổng Thống George W. Bush đã gián tiếp giúp cả hai tay! Chính hai nhiệm kỳ của ông Bush đã đẩy nhiều cử tri chạy khỏi đảng Cộng Hòa, và khi nhìn quanh thì họ thấy bà Hillary Clinton coi bộ có những chủ trương bảo thủ gần với đảng Cộng Hòa nhất!

Ngày hôm qua, có tin bà Hillary Clinton đã lạc quyên được 27 triệu Mỹ kim trong quý thứ ba năm nay, lần đầu tiên bà vượt qua đối thủ sát gót là Nghị Sĩ Barack Obama, ông này chỉ thu được 20 triệu. Người thứ ba, cựu Nghị Sĩ John Edwards chỉ nhận được 10 triệu. Phía đảng Cộng Hòa, cựu Thống Ðốc Mitt Romney cũng được 10 triệu, Nghị Sĩ John McCain được 5 triệu. Cựu Thị Trưởng New York Rudy Giuliani chưa tiết lộ con số. Những số tiền này không chứng tỏ ứng cử viên nào sẽ thắng sang năm nhưng cho thấy hiện giờ ai được nhiều người có tiền ủng hộ nhất, tức là số người đánh cá ông hay bà đó sẽ thắng cao nhất. Tới giờ, các ứng cử viên Dân Chủ nhận được 200 triệu tiền ủng hộ, cao hơn bên Cộng Hòa 70%.

Kể về số người, bà Clinton đã được thêm 100 ngàn người góp tiền trong ba tháng qua, so với ông Obama chỉ có thêm 93 ngàn người. Chính Tổng Thống Bush cũng tiên đoán rằng bà Hillary Clinton sẽ là đại biểu của đảng Dân Chủ ra tranh cử tổng thống sang năm. Ông nói vậy với ý định huy động các lực lượng trong đảng Cộng Hòa đoàn kết lại sau một ứng cử viên của đảng ngõ hầu tránh cái cảnh hai vị tổng thống tên Clinton tiếp theo hai vị tổng thống mang tên Bush! Trong số các nhà chính trị đảng Dân Chủ, có lẽ bà Clinton là người bị giới cử tri bảo thủ ghét nhất - ít nhất là ai cũng nhớ đến bộ mặt thách thức của bà khi tố cáo một “âm mưu của bọn bảo thủ” muốn làm hại chồng bà, hồi bảy tám năm trước đây! Nếu huy động được lực lượng những người bảo thủ này thì chưa biết kết quả sẽ ra sao.

Nhưng lực lượng bảo thủ ở nước Mỹ đang ly tán, mà đó là do kết quả của hơn 6 năm ông Bush làm tổng thống. Năm 2000 và năm 2004, ông Bush đã có công thu hút những khuynh hướng bảo thủ khác nhau đứng vào chung một chiến tuyến, theo đuổi một mục tiêu: Bầu ông George W. Bush làm tổng thống, hai nhiệm kỳ liền. Nhưng bây giờ thì người ta đổ lỗi cho chính ông, người đã đưa đảng Cộng Hòa đến chỗ ly tán.

Ðảng Cộng Hòa thường được coi là đảng của giới doanh thương và những người chủ trương phải giữ ngân sách chính phủ được quân bình. Họ ủng hộ việc giảm thuế, nhưng cũng muốn hạn chế việc chi tiêu của guồng máy nhà nước. Ông Bush đã làm họ thất vọng. Tiêu biểu cho đám người này là vị cựu chủ tịch Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang nổi tiếng, ông Alan Greenspan. Trong cuốn hồi ký mới xuất bản, ông Greenspan không ngần ngại than phiền rằng trong những năm đảng Cộng Hòa kiểm soát cả hành pháp lẫn lập pháp, ông Tổng Thống Bush và Quốc Hội đã làm sai các quy tắc cơ bản mà đảng Cộng Hòa vẫn theo đuổi từ bao nhiêu đời tổng thống. Họ không giữ kỷ luật ngân sách, họ chi tiêu vung vít, chỉ cốt để kiếm phiếu. Họ đã biến tình trạng ngân sách thặng dư trong những năm cuối của ông Clinton thành ra tình trạng khiếm hụt bây giờ.

Giới doanh nhân đã bỏ đi. Một cuộc nghiên cứu dư luận những nhà quản đốc xí nghiệp và giới chuyên gia cho thấy chỉ có 37% ủng hộ đảng Cộng Hòa, so với 44% ba năm trước đây. Tháng Bảy vừa qua, ông John Mack, đứng đầu ngân hàng đầu tư Morgan Stanley đã đứng ra mời một bữa tiệc gây quỹ cho bà Hillary Clinton ở ngay trong trụ sở công ty. Mỗi người tham dự góp 1,000 đô la cho quỹ tranh cử của bà Clinton. Ông Mack vốn là người trước tới nay vẫn ủng hộ đảng Cộng Hòa, năm 2004 ông đã gây quỹ cho ông Bush, được trên 200 ngàn Mỹ kim.

Một điều đáng ngạc nhiên là nhiều nhà kinh doanh bây giờ tin rằng một vị tổng thống đảng Dân Chủ sẽ có khả năng đưa ngân sách chính phủ Mỹ trở lại quân bình, nhiều hơn là một người đảng Cộng Hòa! Một cuộc nghiên cứu dư luận vào Tháng Bảy vừa qua của nhật báo bảo thủ Wall Street cho thấy người Mỹ đảng Dân Chủ có khả năng giảm bớt khiếm hụt ngân sách hơn đảng Cộng Hòa với tỷ số chênh lệch 25%. Số người tin đảng Dân Chủ có khả năng điều hành nền kinh tế hơn đảng Cộng Hòa, cách biệt 15%. Về việc cải tổ thuế vụ, Dân Chủ hơn Cộng Hòa 9%, và về phát triển ngoại thương, hơn 3%. Những điểm mạnh của đảng Cộng Hòa đã trở thành những điểm yếu, đó là một điều thật bất ngờ. Trong khi đó, ông Alan Greenspan mới khen ngợi cựu Tổng Thống Bill Clinton là đã cắt giảm nạn khiếm hụt để cân bằng ngân sách, đã phát triển ngoại thương, mặc dù những chủ trương đó bị các đại biểu Quốc Hội đảng Dân Chủ chống đối! Trong khi đó, ông Greenspan nhận xét, các nhà chính trị đảng Cộng Hòa của chính ông thì không ngần ngại chi tiêu thả giàn “bất cứ lúc nào thấy có thể kiếm thêm một vài ghế cho đảng.”

Tổng Thống George W. Bush đã liên kết giới bảo thủ kinh tế với một thành phần kiên cố khác trong đảng Cộng Hòa, là những người bảo thủ về mặt đạo lý và xã hội. Ông đề cao việc cắt giảm thuế và khuyến khích kinh doanh, đồng thời kịch liệt chống phá thai, chống hôn nhân đồng tính, tuyên bố phải bảo vệ các giá trị của gia đình. Nhờ liên minh giữa hai khối cử tri bảo thủ kinh tế và bảo thủ xã hội, ông Bush đã đắc cử hai nhiệm kỳ. Nhưng trong hành động, chính phủ của ông đã làm cho những người quan tâm đến vấn đề kinh tế thất vọng. Trong kỳ bầu cử Quốc Hội năm ngoái, những cử tri Cộng Hòa thất vọng đã quay ra bỏ phiếu cho đảng Dân Chủ để trừng phạt các nhà chính trị phe mình, giúp cho đảng Dân Chủ kiểm soát cả hai viện Quốc Hội.

Trong nội bộ đảng Cộng Hòa, mối liên kết giữa hai thành phần trên đã thay đổi. Một cuộc nghiên cứu dư luận đầu năm nay cho thấy trong 10 năm qua những cử tri cốt cán của đảng Cộng Hòa đã thay đổi ra sao. Năm 1997, có một nửa những người này coi vấn đề kinh tế là quan trọng nhất, và một nửa khác coi các vấn đề đạo đức, xã hội là yếu tố quyết định việc bỏ phiếu. Năm nay, một cuộc phỏng vấn 2000 cử tri vẫn bầu đảng Cộng Hòa cho thấy số người lo lắng về kinh tế vẫn chiếm một nửa, nhưng số người bảo thủ về đạo đức và xã hội đã giảm xuống chỉ còn khoảng 15%. Những người quan tâm đến kinh tế cho là chính phủ của Tổng Thống Bush đã quá chú ý tới giới bảo thủ về tôn giáo và xã hội, trong khi đó lại vi phạm những quy tắc lớn về kinh tế. Hai nhóm người cùng bảo thủ bây giờ không cùng nhắm tới một mục tiêu chung nữa. Ông Richard Cooper, một người vẫn hoạt động trong đảng Cộng Hòa, đã từng ứng cử thống đốc tiểu bang Illinois năm 1976, nay đã đổi sang ủng hộ bà Hillary Clinton. Ông nói, “Ðảng Dân Chủ bây giờ là những người bảo thủ mới!” Ðó là những lời mà bà Hillary Clinton không cải chính. Bà có thể vẫn giữ được sự ủng hộ của các cử tri Dân Chủ, nhờ những kỷ niệm người ta còn giữ về những năm ông Bill Clinton làm tổng thống. Kinh tế nước Mỹ phát triển, số người lãnh trợ cấp xã hội giảm và phần lớn kiếm được việc làm có phẩm giá, không có cuộc chiến tranh nào ngoài mấy lần can thiệp ngắn hạn, và như ở Kosovo thì đã thành công. Nếu bà Hillary Clinton lại thu hút được những cử tri bảo thủ về kinh tế vẫn ủng hộ đảng Cộng Hòa nữa thì bà có thể thắng lắm!

Xã hội Mỹ cũng đang thay đổi. Những cuộc nghiên cứu dân ý của công ty Pew Research cho thấy trong 20 năm qua số người Mỹ coi trọng các giá trị của gia đình và hôn nhân đã giảm bớt 11%. Số người đồng ý phải cách chức các giáo viên đồng tính đã giảm bớt 23%. Ngay cả số người ủng hộ chính sách can thiệp quân sự của Mỹ để bảo vệ hòa bình thế giới cũng giảm bớt. Ðó là những vấn đề đi cùng các chủ trương “mạnh” của đảng Cộng Hòa, nay đang giảm sức thu hút. Ngược lại, những cuộc nghiên cứu của Pew cũng cho biết nhiều vấn đề mà đảng Dân Chủ vẫn đề cao nay đang chiếm địa vị mạnh hơn. Ba phần tư dân Mỹ coi tình trạng chênh lệch giàu nghèo phải được giảm bớt. Hai phần ba dân Mỹ đồng ý chính phủ nên đứng ra điều hành một phần nào hệ thống bảo hiểm y tế. Tỷ số người Mỹ ủng hộ một mạng lưới an toàn xã hội cho những người nghèo cũng tăng lên cao nhất kể từ 20 năm qua.

Ngay trong hàng ngũ những người dân tự coi mình thuộc một trong hai đảng cũng thay đổi. Năm năm trước đây, công ty Pew nhận thấy, mỗi đảng chiếm được 43% dân Mỹ, bằng nhau. Năm nay, Dân Chủ hơn Cộng Hòa với tỷ lệ 50% và 35%. Có thể nói sự thay đổi này là do các chính sách của Tổng Thống Bush đưa tới nỗi bất mãn của chính những người đã ủng hộ ông và đảng Cộng Hòa. Ông tiên đoán bà Clinton sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Dân Chủ; nhưng chắc chắn ông vẫn mong rằng một ứng cử viên Cộng Hòa sẽ thắng. Vì bà Clinton vẫn là một khuôn mặt đặc biệt, có những người thương nhưng có nhiều người cũng ghét đến mức không thể nào thương nổi! Hiện nay có 88% cử tri Dân Chủ ủng hộ bà, nhưng chỉ cần một lầm lẫn nào đó, trong thời đại tin học này, là một ứng cử viên có thể rớt rất nhanh!

Nếu bà Hillary Clinton sẽ là ứng cử viên tổng thống Dân Chủ thật, hay bất cứ ai đóng vai trò đó năm 2008, họ có thể yên tâm một điều. Là họ chỉ cần thắng “thêm một tiểu bang” cho đảng Dân Chủ so với cuộc bỏ phiếu năm 2000 là chắc chắn thắng cử!
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

NỖI SỢ HÃI CÓ THẬT


Nhân dịp Tổng thống Đại Hàn (Nam Hàn) sang thăm Triều Tiên (Bắc Hàn), CNN xin lạm bàn một từ ngữ mà tuỳ chỗ đặt có thể là danh từ, động từ hoặc tĩnh từ. Đó là chữ hoà-giải, có gạch nối. Không phải là nhà ngôn ngữ học nên không biết định nghĩa hoà-giải ra sao nhưng có một điều lạ là nghe nó có vẻ hiền hoà như vậy mà rất nhiều người sợ.

Theo CNN biết: đạo công giáo có một nghi thức trở thành 1 bí tích đó là bí tích hoà-giải hay bí tích giải tội. Bí tích hoà-giải được hiểu như là một cơ hội để người nhận giao hoà với Thiên chúa và qua đó gia hoà với tha nhân. Quên đi, không lầm lẫn tái phạm những lỗi về tư tưởng và hành động. Đơn giản như vậy nhưng nhiều người vẫn sợ vì phải đi xưng tội với 1 linh mục nhất là nếu lại là một linh mục quen. Hiện nay, do thiếu linh mục nên nhiều chỗ đã giản lược chuyện xưng tội cá nhân, các giáo hữu cứ đợi gần ngày lễ lớn để đi chịu phép giải tội tập thể là xong.

Qua tới chuyện ngoài đời, có những người phải một sống một còn mới được, không chịu đội trời chung. Họ không biết rằng cả trái đất này chỉ có 1 bầu trời. Lấy thí dụ điển hình là những người Việt chống Cộng và những người Việt Cộng sản. Người chống Cộng kỵ hoà-giải vì đã bị Cộng sản lừa còn người Cộng sản sợ hoà-giải vì sợ mất quyền lực. Cả hai bên cứ chửi nhau mà không biết, không bên nào giám nói chuyện hoặc nghĩ đến chuyện hoà-giải. Cái buồn cười là cách chửi rất ấu trĩ, chỉ cho bên mình nghe/coi mà thôi.

Người Cộng sản có lúc tự thấy là mình không cần hoà-giải vì mình là kẻ thắng cuộc. Những người khác chiến tuyến trước đây, chỉ còn 10 hoặc 15 năm nữa sẽ chết hết, thế hệ mới lớn lên trong nước từ thuở nghèo đói nay không giầu nhưng khá hơn một chút sẽ, chỉ cần nới lỏng một chút là xong. Chẳng còn ai biết đến chuyện chống đối và đảng Cộng sản sẽ muôn năm cai trị Việt Nam. Một người lãnh đạo Cộng sản đã từng nói: hoà-giải là mất hết, như vậy chẳng phải là họ sợ hoà-giải hay sao.

Người chống Cộng sợ hoà-giải là 1 chuyện nhưng trong thực tế không còn cơ hội hoà-giải nữa. Họ chỉ nghĩ đơn thuần là phải đánh đổ trong khi họ không có phương tiện lại phải nhờ vào thế lực này nọ khi chính các thế lực ấy đã lừa họ và sẵn sàng bỏ họ bất cứ lúc nào để có được cái lợi cho các thế lực ấy. Hãy nhìn Đức Đà Lai Lạt Ma, chỉ vì áp lực kinh tế của Trung Hoa mà ngày nay đi đâu cũng không còn được coi như là quốc khách, một vị quốc trưởng, thậm chí còn bị từ chối đến dù đã được mời trước đây.

Đã vậy, những người chống Cộng lại sẵn sàng đội cho nhau cái mũ Cộng sản nếu anh không chống Cộng giống tôi. Rồi hai bên nghi kỵ nhau cùng đổ cho nhau là Cộng sản. Như một nhận xét thật chính xác của tác giả Đinh Lâm Thanh: "Thành phần chuyên nghiệp hành nghề chụp mũ là những ai ? Có thể là một trong ba hạng người sau đây : Cán bộ điệp viên đội lốt người tỵ nạn. Người nhẹ dạ đã-đang-sẽ hưởng bổng lộc của Cộng sản Việt Nam. Người bị ‘dính chàm’ của Cộng sản vì một vấn đế nào đó và một khi vết ‘chàm’ của Cộng sản đã dính lên người thì không bao giờ gội rửa được ! ..".

Không ai chịu mở mắt, không ai chịu hoà-giải chỉ vì họ đều sợ, họ chưa mù nhưng đã bị loà gần hết. Nếu biết suy nghĩ, chịu đi giải phẫu thì may ra còn kịp. Nếu không ai sợ ai và toàn dân không sợ, có thể hai vị lãnh đạo Đại Hàn sẽ làm nên lịch sử. Lúc đó quốc gia sợ nhất có lẽ là Nhật Bản vì Đại Hàn gần Trung Hoa hơn và kỹ thuật hàng hoá tiêu dùng Nam Hàn chẳng mấy chốc theo kịp Nhật Bản.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Hy Sinh Đời Bố

TRẦN NAM .
Image
Sân cầu Đồng Mô, tiền hội viên $25000/năm. Ai có khả năng chơi sân cầu ngoài trừ tầng lớp đảng viên tham nhũng đảng CSVN.

Sự kiện cầu Cần Thơ bị sụp Bộ Công An còn trong vòng điều tra. Tuy nhiên, đây là điểm báo để Đảng CSVN thấy được tai họa về lâu dài. Những công trình xây dựng tầm cỡ quốc gia bị tham nhũng đục khoét sẽ dẫn đến thãm hoạ khi Việt Nam bị thiên tai, bão lụt, sóng thần hay động đất. Nước mắt cá sấu của lãnh đạo không giải quyết được vấn nạn, cốt lõi nằm ở chổ độc tài, độc đảng đã sinh ra tham nhũng và nuôi dưỡng tham nhũng.

Ngày 26 tháng 2 năm 2005 ông Nguyễn Lai, cựu giám đốc cảng hàng không Miền Trung đã tự tử bằng cách tự thiêu. Trước đó vài ngày ông bị cách chức với lý do "sử dụng ngân sách đơn vị 23.7 tỉ đồng để mua đất sai mục đích, sai nguyên tắc". Ông Lai, trong thời gian còn làm giám đốc đã chơi ngon xuất quỹ mua liền hai chiếc xe cao cấp, Mercedes và BMW với tổn phí hơn 125,000 mỹ kim chưa kể hàng loạt các sai phạm khác, nói trắng ra là tham nhũng.

Tham nhũng vô tội vạ, bất kể lãnh vực nào trong bộ máy nhà nước, bộ máy đảng chỉ là bình thường. Chuyện không bình thường chính là có chức quyền, có bỗng lộc mà không tham nhũng. Tuy nhiên, tham nhũng đầy bụng bị Đảng đưa ra tòa, giam vài năm rồi ân xá là chuyện nhỏ. Nhưng tẩm xăng đốt chết khi bị truy tố vẫn còn là chuyện tương đối mới ở Việt Nam.

Mới Chứ Không Lạ, Do Đảng Lãnh Đạo

Hồi năm 2004, có hơn 1200 đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc đã tự tự chết vì bị truy tố tội tham nhũng. Hơn 8400 đảng viên đã nhanh chân chạy ra nước ngoài trốn khi Đảng cộng sản Trung Quốc phát động chiến dịch tảo trừ tham nhũng. Số đảng viên tự tự chết cùng với số tiền khổng lồ tẩu táng ở Trung Quốc là kết quả của nổ lực ráng cứu đảng cộng sản Trung Quốc trước tệ nạn tham nhũng mang tính toàn quốc. Con số thấy vậy mà chắng to tát gì so với mức độ tham nhũng tàn khốc.

Năm 2004 vừa qua, theo ước tính của báo chí ngoại quốc, trung bình mỗi tháng, một ủy viên trung ương đảng bị trừng phạt vì dính vào tệ nạn này, nhưng hầu hết đều phải cho chìm xuồng vì nhu cầu bảo vệ uy tín Đảng. Đó là chưa kể đến nạn xử án cho qua loa hoặc bị thủ tiêu để khỏi bị phanh phui đường dây tham nhũng.

Trong năm 2003, đã có 1252 đảng viên tự tử, 8371 đảng viên đang tìm cách trốn và 6528 đảng viên bị mất tích. Hàng ngàn đảng viên khác bị tuyên án và giam giữ trong các trại tập trung. Chỉ riêng ở tỉnh Quảng Đông đã có hơn 1240 cán bộ đảng chạy ra nước ngoài mang theo không biết bao nhiêu tiền. Đây là con cháu cũa những viên chức cao cấp nằm trong bộ máy chánh quyền đảng cộng sản Trung Quốc. Con trai của cựu bộ trưởng bộ Tư Pháp, ông Cai Xiaohong vừa bị bắt vì can tội bán tài sản bí mật quốc gia cho nước Anh. Ông Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào tuyên bố chính phủ Trung Quốc sẽ tìm mọi cách để tịch biên các tài sản nằm ở ngoại quốc trực thuộc chủ quyền cũa những đảng viên tham nhũng, con số ước lượng chừng 3.8 tỷ đô (1)

Riêng ở Việt Nam, nhiều người vẫn cứ tự hỏi, tiền ở đâu mà đảng viên lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam có thể tham nhũng hàng tỷ mỹ kim. Biết họ tham nhũng, biết họ đục khoét của công, nhưng con số tỷ mỹ kim là một con số khổng lồ, không ai có thể tưởng tượng được một cá nhân có thể thủ đắc số tiền to như vậy. Nhất là trong xã hội được xếp hạng nghèo trên thế giới, bình quân đầu người chỉ có chừng $500 mỹ kim một năm. Mới đây, khi lượng định về mức độ tham nhũng của Việt Nam so với các nước trên thế giới, giới đầu tư quốc tế cho biết Việt Nam xếp hạng thứ hai, chỉ đứng sau có Nam Dương.

Trần Đức Lương Lãnh $260 Mỹ Kim Một Tháng Nhưng Tài Sản Khổng Lồ

Ông Đặng Quốc Bảo, một "lão thành cách mạng", đã chất vấn ông chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương, về các điểm sau đây:

Sở hữu 5 khách sạn năm sao nằm dọc từ Bắc tới Nam.

Sở hữu 6 ha đất ở khu du lịch Đồng Mô, Hà Tây.

Sở hữu 2000 m2 đất ở khu du lịch Tuần Châu, Quảng Ninh.

Sở hữu hàng triệu USD đang gửi ngân hàng nước ngoài.

Sửa nhà hết 3 tỉ đồng.


Sau khi nghe chất vấn, ông Lương đã cười và nói: “DDảng ta khuyến khích đảng viên làm kinh tế, tôi cũng muốn trước khi về hưu, kiếm lấy một chút làm vốn cho vợ con sau này” (2)

Đánh giá mức độ tham nhũng ở Việt Nam để có một con số cụ thể là một điều khó. Dưới chế độ cộng sản, tin tức được giữ kín, nhiều thông tin không được phép loan báo và nếu tiết lộ có khả năng bị truy tố, cầm tù. Vì vậy, tin ông Ủy viên trung ương này sở hữu hàng trăm triệu mỹ kim, ông Thủ tướng kia tham nhũng gửi trăm triệu ra nước ngoài đều dựa trên yếu tố ước lượng có cơ sở.

Sau 1975, hơn 16 tấn vàng đã được Hà Nội tung tin cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đem ra nước ngoài sống lưu vong. Thực chất, số vàng này còn giữ lại trong tay các đảng viên lãnh đạo cộng sản và bị chia năm xẻ bảy, biến mất không dấu vết. Thời đó, Lê Duẫn nắm quyền sinh sát trong tay, suy luận có cơ sở, không ít thì nhiều, dòng họ Lê phải có chấm mút. Lê Ngọc Báu, con thứ năm của Lê Duẩn và vợ là Nguyễn Thị Nga sở hửu 40% sân chơi cầu Đồng Mô, thời giá hồi năm 2002 chừng 5 triệu mỹ kim. Ông Báu còn làm chủ 3 siêu thị, có phần hùn trong nhiều công ty vàng bạc đá quý và kể cả ngân hàng Á Châu. Riêng con gái Lê Thị An, năm 2002 đã đầu tư 700,000.00 mỹ kim trong công ty Đồng Mô, đồng thời làm chủ hàng loạt các khách sạn ở Hà Nội.

Cách đây vài năm, Đỗ Mười đã nhận 1 triệu mỹ kim từ một công ty đầu tư Hoa Kỳ. Số tiền này trao qua trung gian một vị giám đốc người Hàn Quốc. Con của Đổ Mười làm chủ khách sạn Bảo Sơn, công ty xe khách Việt Phương tại Hà Nội. Trong khi đó thì tin Võ Văn Kiệt loan truyền từ lâu đã dính líu đến vụ tham nhũng đường dây xây dựng hệ thống điện cao thế 500KVA. Vợ bé, bà Lương thị Cầm chuyên nhập khẩu xe hơi lậu vào VN. Gia đình Kiệt sở hữu Plaza Hotel, Ty-Top Beach và có hàng trăm triệu mỹ kim bỏ ở các trương mục ngoại quốc. Con số này đuợc biết đến từ năm 2002. Đến nay đã 3 năm, tiền đẻ ra tiền, tham nhũng đẻ ra tham nhũng. Hồi 2002 tham nhũng còn ở mức độ trung bình, bây giờ dự án nào cũng tính con số hàng trăm triệu mỹ kim. Thử hỏi chương mục ngân hàng và tài sản của Võ Văn Kiệt tăng hay giảm?

Để có chân trong bộ máy chánh quyền, để được nằm trong tỉnh ủy, thành ủy, đảng viên đã phải hối lộ, lo loát hàng tỷ đồng Việt Nam nhằm mua một ghế. Chạy được vô trung ương, nắm giữ vị trí béo bở, hoặc tay chân thân tín, hoặc phải có tiền hối lộ. Con số bao nhiêu chắc chắn là bí mật quốc gia. Đối với Lê Đức Anh, từ lâu đã được biết đến như nguời ban phát chức tước bổng lộc cho đàn em trong quân đội nếu có quan hệ trung thành hoặc biết cách chạy chọt.

Năm 2004, án tham nhũng ở tổng công ty dầu khí Việt Nam dính líu đến hơn 43 viên chức. Số tiền thất thoát chạy vô các trương mục nước ngoài hoặc trị giá qua tài sản cố định không biết bao nhiêu mà kể. Chỉ cần phù phép một tí với 2 dự án nhỏ, nhiều “ddại gia” trong nghành này như Nguyễn Quang Thường, phó tổng giám đốc Tổng công ty Dầu khí VN, Dương Quốc Hà, phó tổng giám đốc phụ trách thương mại của Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro đã bỏ túi 2.4 triệu mỹ kim, làm thất thoát hơn 3.5 triệu mỹ kim khác.

Ông Dương Quốc Hà giữ chức Phó tổng giám đốc phụ trách thương mại của Vietsovpetro (VSP) từ năm 1996, dư luận cho rằng ông Hà có lẽ nằm trong danh sách những người giàu có nhất Việt Nam. Những tài sản "nổi" của ông Hà mà người dân Vũng Tàu nhìn thấy rõ nhất là 4 căn nhà (trong đó có 3 biệt thự) và 6 mảnh đất rộng hàng nghìn mét vuông. Mỗi năm VSP có hơn 1.300 hợp đồng mua sắm trang thiết bị, vật tư... với tổng giá trị 300-500 triệu USD (4). Ông Hà đang ngồi trên mỏ dầu, hàng năm bao nhiêu phần trăm sẽ chuyển thẳng vô chương mục của ông trên tổng số 500 triệu đô từ hợp đồng mua bán trang thiết bị.

Tuy con số tham nhũng trên tương đối tầm cở nhưng chẳng thấm gì so với mức độ ăn chận tiền viện trơ và các nguồn tiền mang tính quốc tế. Nhiều dự án do ngoại quốc viện trợ cứ chảy vô ngân hàng nhà nước Việt Nam một cách hợp pháp. Dư án xây cầu Bắc Mỹ Thuận do Úc viện trợ ước tính đã chi hơn 90 triệu mỹ kim. Trước đây, hàng năm chương trình viện trợ phát triển do các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật, Pháp, Thụy Điển, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu chuyển vào hệ thống ngân hàng Việt Nam chừng 1.7 tỷ mỷ kim. Tiền này chạy vào Việt Nam, qua tay các viên chức đảng và nhà nước trên danh nghĩa tiền mươn nợ lãi thấp. Năm 2003, chỉ riêng Ngân hàng phát triển Á Châu (ADB) cũng đã đổ vào Việt Nam 179 triệu mỹ kim, chưa kể Qủy tiền tệ quốc tế (IMF) cho mượn từ 400 đến 500 triệu mỹ kim hàng năm. Việt Kiều đổ vào Việt Nam chừng 3 tỷ mỹ kim mỗi năm, con số không chính thức có thể lên đến 4 tỷ mỹ kim. Nếu tính từ 1990 đến 2005, Việt Nam đã nhận trên dưới 30 tỷ mỹ kim từ khối người Việt hải ngoại.

* Củng Cố Đời Con

Năm 2004, các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật, Pháp, Khối Âu Châu đã viện trợ cho Việt Nam 2.8 tỷ mỹ kim. Đầu năm 2005, số tiền tăng lên 3.4 tỷ mỹ kim, trong đó 2.14 tỷ do các quốc gia nêu trên, phần còn lại, hơn 1.2 tỷ do ngân hàng thế giới viện trợ. Khi được hỏi Việt Nam dự phóng sẽ phân phối số tiền này như thế nào cho có hiệu quả, ông Võ Hưng Phú, Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch và Phát triển từ chối trả lời. (3)

Làm một con tính nhẩm sơ sơ, hàng năm chỉ mới có các đầu vô nêu trên đã có hơn 10 tỷ mỹ kim chạy vào Việt Nam bằng nhiều ngõ ngách, bao nhiêu phần trăm trên tổng số tiền này rớt vào đường dây tham nhũng chằng chịt, dính líu trực tiếp, gián tiếp đến các ủy viên Chính trị bộ.

Cấp thấp cở như Phó chủ nhiệm uỷ ban thể dục thể thao quốc gia, Lương Quốc Dũng được các cơ quan điều tra ước tính tài sản là 150 tỉ đồng, gần 10 triệu mỹ kim. Con số này không chính xác vì mới khởi tố, điều tra, còn nhiều tài sản của chìm, của nổi khác chưa tiết lộ. Ông Dương Quốc Hà, Phó tổng giám đốc của Vietsovpetro (VSP) nằm trong danh sách những người giàu có nhất Việt Nam. Tuy nhiên, so với Võ Văn Kiệt, Trần Đức Lương, Đỗ Mười, Lê Đức Anh…. thì Lương Quốc Dũng, Dương Quốc Hà, chỉ là cò con, giữ chức thấp trong Đảng và chính quyền mà đã giàu như vậy, nắm giữ vị trị cao nhất nước, ngồi trên mõ vàng, mõ kim cương thì giàu cở nào? Như vậy, từ hơn 20 chục năm nay, hàng năm bao nhiêu tiền rút từ hơn 10 tỷ mỹ kim này chảy vào chương mục của Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Đỗ Mười, Phan Văn Khải?

Ở Việt Nam người ta thường nói, “hy sinh đời bố để củng cố đời con”. Ông Nguyễn Lai, cựu giám đốc hàng không Miền Trung đã hy sinh đời bố rồi. Riêng những ông bố ủy viên, cựu ủy viên Chính Trị Bộ như Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng thì chưa hy sinh sớm vì còn phải sống để vơ vét thêm.

Đảng cộng sản tự nhận quyền sở hửu chủ đất nước Việt nam. Tất cả tài nguyên quốc gia, sức góp của cải vật chất hơn 80 triệu người, tổng sản lượng mậu dịch, kinh tế cả nước và luôn cả khối Việt kiều đang sống ở hải ngoại, tất cả đều thuộc qui trình kinh tế đơn giản là đầu thu chảy vô guồng máy đảng, cụ thể là lãnh đạo Bộ chính trị. Đầu ra thế nào cũng được, nhưng chia chác và phân bổ phần trăm cho lãnh đạo Đảng hợp lý thì ai nấy cứ tiếp tục vô tư hưởng. Đảng là tao và tao cũng chính là đảng. Lê Đức Thọ đã từng tuyên bố như vậy.

Vợ chồng nhà lãnh đạo độc tài Lỗ Ma Ni trước giờ bị bắn chắc không còn hồn để nhớ có bao nhiêu chương mục gửi ngân hàng nước ngoài. Sadam Hussen khi bị lôi ra khỏi hang chuột tâm trí thất thần, quên trước đó mình từng sở hữu hàng chục tỷ mỹ kim. Ponpot khi trên lưng voi đã giết hàng triệu dân Khơme, lúc xuống chó bi án tù chung thân, chết ở xó rừng như kẻ vô danh, tiểu tốt. Số phận những lãnh đạo độc tài cộng sản Việt Nam cũng vậy, sẽ phải kết thúc bi thảm khi sóng gió chính trị trong nội bộ đang mỗi lúc một căng, bên cạnh sự kiện Đảng đã đánh mất bản chất độc lập dân tộc, cộng thêm nạn tham nhũng, bất công hoành hành trầm trọng. Cả nước bị đè nén, âm ỉ chờ ngày nổ tung. Việt Nam khó lòng thoát ra khỏi một cuộc cách mạng để chấm dứt sinh mạng chính trị của chế độ độc tài.

Nhân dân Việt Nam sẽ dành quyền ban phát ân huệ cuối cùng bằng sợi dây thòng lọng hoặc thùng xăng để Đảng hy sinh như trường hợp đảng viên Nguyễn Lai. Lúc đó cả nước không ai nói "hy sinh đời bố để củng cố đời con" mà chắc sẽ nói "hy sinh đời bố để khủng bố đời con".
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

SÀI GÒN : BÀI HỌC MIẾN ĐIỆN
HẢI NGOẠI : BÀI HỌC CHO TẤT CẢ MỌI NGƯỜI

Cuối tuần, nhân có mặt tại San Jose nên tôi có đến tham dự buổi ra mắt sách của chị Trần Khải Thanh Thủy tổ chức tại đây. Mặc dù đã đọc một số bài lên tiếng về vụ gọi là lem nhem tiền bạc của nhóm tổ chức in và bán sách cho chị Trần KhảI Thanh Thủy ở hải ngoại, nhưng tôi cũng đã mua hai cuốn Viết Từ Hang Đá - Nhỏ Lệ Cùng Dân; vì thiết nghĩ ngoài vấn đề tài chánh cho một nhà văn “đang ở trong hang đá” thì vấn đề phổ biến tiếng nói gởi đi từ hang đá đến mọi người đang ở “hang cẩm thạch đậu đầy ô tô con” là điều cần thiết lắm.

Thật ra, cuốn Viết Từ Hang Đá - Nhỏ Lệ Cùng Dân không có gì đặc sắc lắm, lại nhiều cường điệu gượng ép, người đọc phải đọc nó bằng tấm lòng, tấm lòng ngưỡng mộ và kính phục một phụ nữ can đảm của xứ Việt; từ đó mừng rằng người trẻ Việt Nam hiện nay đã dám vén bỏ tấm màn sợ hãi mà đảng và nhà cầm quyền Việt Cộng dầy công kéo chụp xuống để kéo dài sự thống trị của họ.

Không quy trách ai, bên nào, trong cái lăng nhăng lộn xộn hiện thời về vấn đề tài chánh in và bán sách cho người phụ nữ can đảm trong nước Trần Khải Thanh Thủy, tôi chỉ tiếc rẽ cho sự hy sinh trong nước đã bị hải ngoại tầm thường hóa một cách vô ý thức.

Về lại Orange County, bắt tay vào công việc thường ngày, tôi lại được đọc trong mục diễn đàn đài BBC một bài viết cũng của một người trẻ Việt Nam khác, Luật sư Lê Công Định nhận định về vụ biểu tình chống nhà cầm quyền quân phiệt Miến Điện. Bài của anh Lê Công Định chẳng những tượng trưng cho việc bức màn sợ hãi ở Việt Nam đã bị giới trẻ vén lên, mà còn khiến người đọc phải mừng rỡ vì kiến thức và sự khôn ngoan của giới trẻ Việt Nam.
Tôi xin giới thiệu đến quý thính giả bài viết có tựa đề “Bài Học Miến Điện” của Luật sư Lê Công Định, nguyên văn như sau :

“Sự kiện quân đội Miến Điện sử dụng vũ lực đàn áp những cuộc tuần hành hòa bình dẫn đầu bởi các vị sư dũng cảm một lần nữa minh chứng hùng hồn tính xác thực của lý thuyết bạo lực cách mạng của Lenin, người thầy vĩ đại của Cách mạng Nga 1917.

Lenin nhận định rằng giai cấp thống trị ở mọi thời đại không dễ dàng chấp nhận từ bỏ quyền lực, dù họ đang ở thế yếu chăng nữa, trừ phi quần chúng dùng bạo lực cách mạng thách thức và lật đổ địa vị thống trị ấy.
Lenin cũng xác định rằng chính quyền là mục tiêu của mọi cuộc cách mạng và chỉ bằng cách giành chính quyền, thành quả cách mạng mới được bảo đảm. Gần 100 năm trôi qua, lý thuyết đó vẫn là bài học lớn về cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng.

Quyền lực chính trị thường gắn liền với lợi ích kinh tế. Chỉ nhờ vào quyền lực, giai cấp thống trị mới có thể khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia theo ý riêng của mình. Dù đóng vai trò chính trong quy trình tạo lập của cải xã hội, đại đa số quần chúng bị trị vẫn không thể can dự vào công việc hoạch định chuyện quốc kế dân sinh và phân chia lợi tức thu được từ hoạt động sản xuất chung của toàn bộ nền kinh tế.
Số đông người làm công nghèo khổ vẫn vật vã với đời sống khó khăn chồng chất trong khi giới cầm quyền và đám con ông cháu cha thì sống xa hoa và hưởng thụ. Từ phân tích thực trạng xã hội như vậy của nước Nga và tranh thủ sự bất mãn tột cùng của người dân Nga nghèo khổ, Lenin đã nhanh chóng tập hợp được lực lượng cách mạng và tiến hành thành công cuộc Cách mạng 1917 lừng danh.

Tuy nhiên vẫn có ngoại lệ ở Bắc Âu vào thời ấy. Giới vua chúa của những nước này đã chấp nhận chia sẻ quyền lực và tạo điều kiện cho các tầng lớp xã hội khác nhau cùng tham chính thông qua hiến pháp dân chủ và quốc hội đa thành phần. Mọi giới, không phân biệt quý tộc, địa chủ, tư sản hay thợ thuyền, thông qua các đảng phái khác nhau, đều có cơ hội đóng góp ngang bằng cho quốc gia, mà không cần dùng đến bạo lực cách mạng, vì chính quyền là của chung.

Tất nhiên, chia sẻ quyền lực luôn là quyết định đau đớn của giai cấp thống trị, vì ở Bắc Âu vương quyền đã tồn tại hàng trăm năm, không thể chuyển giao trong phút chốc dù họ là những bậc minh quân cấp tiến chăng nữa. Đã có những cuộc tranh luận nảy lửa và thương lượng sóng gió, nhưng cuối cùng tư tuởng dân chủ của thời đại vẫn chiến thắng. Các chế độ quân chủ độc đoán nhờ vậy đã chuyển mình nhẹ nhàng sang thể chế dân chủ pháp trị, ít khốc liệt và ít trả giá hơn nếu so với nước Nga và thậm chí một số nước Tây Âu đương thời.
Bài học về chia sẻ quyền lực ấy đã được nhiều nước học hỏi, đặc biệt sau Đệ nhị thế chiến.

Nhật Bản là một ví dụ về sự thành công của việc chuyển đổi từ thể chế chính trị chuyên chế sang dân chủ. Tầm vóc và tầm nhìn của giới lãnh đạo Nhật Bản lúc bấy giờ vẫn được lưu truyền và ca tụng đến tận ngày nay vì chính họ đã anh minh quyết định chia sẻ quyền lực kịp thời, giúp tạo mọi nguồn lực đưa nước Nhật đến địa vị siêu cường kinh tế từ hơn 5 thập kỷ qua.

Tiếc thay chính quyền độc đoán ở Miến Điện đã không còn đủ sáng suốt để nhận biết và học hỏi kinh nghiệm chuyển giao quyền lực trong hòa bình đáng quý nói trên ở Bắc Âu và Nhật Bản mà lại chọn giải pháp đàn áp bằng bạo lực thường thấy ở những thể chế độc đoán. Tất nhiên người dân Miến Điện rồi đây cũng sẽ được sống trong tự do dân chủ, song cái giá mà dân tộc Miến Điện phải trả sẽ khó lường và e rằng không nhỏ.
Bạo lực chỉ chuốc lấy oán hận. Oán hận chồng chất sẽ tạo nên những cơn địa chấn cách mạng không lường truớc, có thể làm sụp đổ bất kỳ vương triều nào, dù thoạt trông có vẻ vững chắc nhất. Dẫu người dân Miến Điện vừa vuột mất thêm một cơ hội lịch sử để tạo lập nền dân chủ vĩnh cửu cho mình, song ngày chiến thắng cuối cùng của họ và những người yêu chuộng tự do dân chủ trên toàn thế giới tất phải đến vì dân chủ là nhịp thở của thời đại, là mạch đập của hàng triệu trái tim nhân loại và, quan trọng hơn, đó là lòng dân. Vấn đề chỉ còn là thời gian …”.


Kính thưa quý thính giả, đó là nguyên văn bài viết của Luật sư Lê Công Định từ Sài Gòn. Như đã nói ở trên, đọc xong bài viết của người trẻ trong nước này, tôi thật sự mừng rỡ - thán phục kiến thức và sự khôn ngoan của anh. Nhưng rồi, tôi lại chợt nhớ tới trên diễn đàn pal-talk gần đây vừa lại xuất hiện vài “người ba muơi năm lẻ cũ”, vẫn kiêu căng tự đại như thuở chưa thành cụ, cả thiên hạ tỵ nạn này chỉ đáng là học trò của ta, và vẫn ba cái trò diễu dỡ xưa meo xưa mốc thiu ỉu lại tái diễn chẳng ngượng mồm như … “sẽ về Việt Nam làm Thủ tướng”, hoặc “nếu tôi không làm Thủ tướng thì tôi sẽ … cho học trò tôi làm”, và “Mỹ nó phục thầy trò tôi nhất”, vân vân và vân vê, nghe mà phát bệnh.
Tiếng Việt Nam “khôn” đi liền vớI một chữ khác, thì nó sẽ không đồng nghĩa vớI “khôn ngoan”!

ĐỖ SƠN
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Khắp Thế Giới Chống Độc Tài Miến Điện

VI ANH .
Đa số chánh quyền các nước, lãnh đạo tinh thần các tôn giáo lớn, các tổ chức nhân dân các nước đều tỏ thái độ bất mãn, lên tiếng chống lại nhà cầm quyền độc tài quân phiệt Miến Điện đã dùng quân đội đàn áp đẫm máu, bắt bớ như bắt cóc, giam cầm như giam tử tội đối với quí vị tăng ni và dân chúng biểu tình một cách ôn hòa để đòi hỏi dân chủ ở Miến Điện.

Đức Giáo Hoàng của Công Giáo La Mã chia xẻ niềm đau của tôn giáo bạn, kêu gọi giáo dân toàn thế giới cầu nguyện cho nhân dân Miến Điện. Đức Đạt Lai Lạt ma Phật Giáo Tây Tạng bị Trung Cộng đang lưu vong ở Ấn độ, HT Quảng Độ Phật Giáo VN Thống Nhứt đang bị Việt Cộng quản thúc ở Thiền viện Thanh Minh từ Saigon, cùng kêu gọi ủng hộ Phật Giáo và nhân dân Miến Điện. Ô Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc gởi đặc phái viên đến Miến Điện gặp nhà cầm quyền và lãnh tụ đối lập tìm hướng giải quyết. Hội Đồng Bảo An Liên hiệp quốc họp dự trù đưa nghị quyết lên án nhà cầm quyền độc tài quân phiệt đàn áp tăng ni, Phật tử, và dân chúng biểu tình đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, một cách ôn hòa. Nhưng Nga và Trung Cộng, hai hội viên thường trực có quyền phủ quyết vì quyền lợi riêng với nhà cầm quyền Miến Điện không đồng ý. Hội Đồng Bảo an tái nhóm nghe đặc phái viên của LHQ tường trình, sớm muộn gì cũng có thái độ với độc tài quân phiệt. Liên Âu, nhứt là TT Pháp có biện pháp cụ thể chế tài kinh tế riêng. TT Mỹ tăng cường biện pháp cấm vận, cấm nhập cảnh Mỹ đối với 14 viên chức có thẩm quyền của nhà cầm quyền Miến Điện. Đồng thời chỉ thị cho Đại sứ xử lý thường vụ ở Miến Điện trực tiếp gặp giới chức thẩm quyền quân phiệt. Anh, Pháp, Mỹ luân chuyển một nghị quyết khuyến cáo nhà cầm quyền quân phiệt phải ngưng đàn áp, đối thoại với đối lập. Có lẽ nghị quyết thứ hai này sẽ được thông qua sau khi TC và Nga yêu cầu sửa văn từ cho nhẹ nhàng hơn.

Có một vài dấu chỉ lạc quan bề ngoài. Vị Tướng cầm đầu quân phiệt đánh tiếng sẽ đối thoại với lãnh tụ đối lập là Bà Suu Kyi với điều kiện tiên quyết, một là ngưng vận động thế giới cấm vận nhà cầm quyền, hai là chấm dứt đối đầu với nhà cầm quyền.

Người ta nghi đề nghị của quân phiệt bên trong không thực thà. Từ lâu lãnh tụ đối lập đã hơn một lần kêu gọi đối thoại vô điều kiện. Đại diện đối lập cũng có gặp riêng đại diện quân phiệt. Đại diện Mỹ do dàn xếp của TC cũng đã gặp đại diện quân phiệt hồi tháng 6 năm nay ở Bắc Kinh. Mọi cuộc gặp gỡ kín đáo không kết quả vì quân phiệt luôn tránh né vấn đề chánh yếu là trả lại quyền cho dân làm chủ đất nước. Đề nghị của quân phiệt bị nghi là giải pháp mua chuột thời gian, xoa dịu sự bất mãn của thế giới. Phát ngôn viên của Bà Su u Kyi đã cho biết khó có một cuộc đối thoại với điều kiện tiên quyết như thế.

Miệng quân phiệt thì nói đối thoại nhưng hành động thì trấn áp tăng ni, Phật tử, dân chúng và những nhà đối lập. Nhà cầm quyền nói đã bát giữ 2 000 người. Nhưng thực tế thì khác. Con số của những ngoại giao có mặt ở Miến điện là 4 000 người. Con số của tổ chức lưu vong của Miến Điện khoảng 6000 người. Nhà cầm quyền dùng quân đội điều từ biên thùy về, đa số là những sắc tộc khác đạo để bắt các nhà sư, những người có uy tín trong các biểu tình, bắt ban đêm, đem giam chỗ kín. Quân phiệt gỡ rào cản nhưng siết vòng theo dõi bằng mật vụ, cài giáo gian vào chùa, cho tiền, cho thuốc, thả một số tăng ni không quan trọng nhưng bát thêm vi sư uy tín trong cuộc biểu tình. Chỉ thị các sứ quán không cấp chiếu khán nhập cảnh cho ký giả ngoại quốc. Mở lại Internet nhưng kiểm soát thông tin công tư, chặt chẽ.

Phật Giáo Miến Điện bị cô lập, bất động hóa nhưng vẫn kiên trì không nhận thức ăn của quân nhân Phật tử cúng dường - một hành động làm quân nhân Miến Điện giác ngô, cảm thấy quân đội có tội với tam bảo. Sĩ quan chỉ huy đơn vị không thi hành lịnh trấn áp tăng ni, Phật tử, đã có người vượt biên giới sang Thái Lan tỵ nạn. Có nhà ngoại giao Miến Điện làm việc tại Anh từ chức vì bất mãn nhà cầm quyền đàn áp dã man tăng ni. Có tin có sự rạn nứt trong hàng ngũ lãnh đạo quân phiệt vì vấn đề Phật Giáo.

Làn sóng cách mạng "áo cà sa" đòi dân sinh và dân chủ do tăng ni lãnh đạo chống nhà cầm quyền quân phiệt bị nhà cầm quyền quân phiệt trấn áp đã làm rung động lương tâm Nhân Loại. Nhân dân thế giới bắt đầu đứng lên bao vây lãnh tụ, đòi hỏi LiênHiệp Quốc, chánh quyền phải có hành động với nhà cầm quyền quân phiệt. Hội Ân xá Quốc tế và nhiều tổ chức nhân quyền kết họp kêu gọi nhân dân công chính tổ chức biểu tình khắp các thủ đô các nước lớn. Lấy ngày 6 tháng 10 làm ngày đồng loạt biểu tình trước tòa đại sứ Miến Điện, trước Tòa đại sứ Trung Cộng trước để ủng hộ tăng ni Miến Điện sau là chống độc tài. Bắt đầu gởi kiến nghị cho chánh quyền mình, gởi thơ cho các cơ quan truyền thông, gởi thơ cho các công ty còn làm ăn ở Miến Điện. Mục đích tạo thành một phong trào toàn thế giới ủng hộ cuộc cách mạng dân sinh, dân chủ ở Miến Điện.

Gió ở Miến Điện phải đổi chiều. Sớm hay muộn dân chủ sẽ thắng độc tài, tình thương thắng bạo ác. Độc tài là hủ lậu; dân chủ là tiến bộ. Không thể vì đồng tiền mà cản ngăn bánh xe tiến hóa của lịch sử Nhân Loại. Có nhiều dấu chỉ cho thấy Liên hiệp quốc không muốn trở thành đền thờ của luật quốc tế, mà muốn có hành động thiết thực nhơn cuộc cách mạng dân chủ ở Miến Điện với tinh thần nghi quyết thứ hai do Anh, Pháp, Mỹ chủ xướng sắp được đồng thuận thông qua. Tổ chức LHQ là tổ chức của các chánh quyền các nước. Khi nhân dân các nước tỏ thái độ bất mãn, hành động biểu tình đồng loạt chống độc tài quân phiệt, LHQ phải xem xét và thêm sức ép. Không thể hy sinh những quyền lợi thiêng liêng của Con Người sanh ra với tư cách Con Người cho quyền lợi kinh tế. Tài phiệt phải nhượng bộ những nhà chánh trị thương dân, yêu nước, yêu đồng loại.

VI ANH
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Từ Miến Điện tới Việt Nam: Dân Chủ Tự Do sẽ bùng lên!

Trương Sĩ Lương, Chủ bút tạp chí Thế Giới Mới, Oct 12, 2007
Cali Today News - Cuộc đứng dậy đòi tự do dân chủ của các tăng ni Phật giáo và người dân Miến Điện đến nay đã gần một tháng. Vào thời gian cuối tháng 9, khi tình hình lên tới con số hàng trăm ngàn người xuống đường tại Ngưỡng Quảng và các thành phố khác – mà cả thế giới hồi hộp theo dõi – thì ngày 26 tháng 9 năm 2007, nhà cầm quyền quân phiệt Miến Điện đã thẳng tay đàn áp các cuộc biểu tình bất bạo động này. Lực lượng quân đội, công an, cảnh sát đã chĩa súng trực xạ vào những người biểu tình không một tấc sắt trong tay. Số người chết và bị thương, theo ước đoán, có thể lên tới số ngàn. Sau đó là những cuộc bố ráp, bắt bớ, giam cầm, tra tấn dã man đã xảy ra liên tục ở những tu viện, chùa chiền và các khu gia cư khắp nơi trên lãnh thổ Miến Điện.

Theo nguồn tin của các hãng thông tấn, khi màn đêm buông xuống là lúc bọn công an mật vụ gõ cửa từng nhà lục xét và bắt đi bất cứ ai mà chúng muốn bắt. Các nguồn tin cho rằng ít nhất là khoảng trên 6000 sư sãi và người biểu tình đã và đang bị lùa vào giam giữ tại các trại tập trung, bằng những vụ tra tấn cực hình rất dã man. Tình hình cho thấy người dân Miến Điện đang lâm vào những nỗi sợ hãi kinh hoàng và căng thẳng đến tột độ. Dù rằng người dân xứ Miến cũng đã quen chịu đựng dưới ách độc tài quân phiệt này trong 45 năm rồi, nhưng trước sự đàn áp dã man, trấn lột thô bạo trong hai tuần qua, bầu không khí ngột ngạt một cách đáng sợ đang phủ lên đầu người dân Miến.

Để hỗ trợ tinh thần cho công cuộc đấu tranh tại quốc nội, tập thể tự do Miến Điện hải ngoại đã tổ chức nhiều cuộc xuống đường khắp nơi trên thế giới, được sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân bản xứ và các cộng đồng bạn. Từ Á sang Úc, từ Âu sang Mỹ... nơi nào cũng có những cuộc tuần hành chống nhà cầm quyền quân phiệt Miến Điện. Đặc biệt, chống Trung Cộng, một nước đàn anh đang có nhiều ảnh hưởng tới guồng máy cai trị của tập đoàn Miến Điện, nhưng họ đã làm ngơ trước tình trạng đàn áp thô bạo vừa qua. Họ không những chỉ làm ngơ, mà còn phủ quyết (veto) trước sự đề nghị một giải pháp trừng phạt Miến Điện của Đại Hội Đồng Bảo An LHQ.

Sau chuyến đi Miến 4 ngày của đặc sứ Liên Hiệp Quốc, khi trở về, ông Gambari đã trình bày trước Hội Đồng Bảo An LHQ về việc gặp gỡ cả bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ đối lập đang bị giam lỏng 12 năm qua và tướng Than Shwe, lãnh tụ quân phiệt Miến để tìm giải pháp dung hòa và dân chủ hóa chế độ. Thế nhưng giới bình luận tình hình Miến cho rằng, phe quân phiệt chỉ câu giờ để tìm cách trấn áp thành phần chống đối mạnh hơn tại Miến. Điều này không phải hoàn toàn vô lý, vì nếu tướng Than Shwe thật lòng muốn gặp gỡ bà Aung san Suu Kyi thì cần gì phải đợi tới khi đưa quân đội đàn áp đẫm máu, bắt bớ, bỏ tù hàng vạn người dân rồi mới đề nghị gặp gỡ đối lập với điều kiện bà Aung Kyi phải từ bỏ việc vận động quốc tế chống bạo quyền quân phiệt Than Shwe?

Xét cho cùng về khía cạnh tâm lý, ít có tập đoàn độc tài đảng trị, hoặc chế độ chuyên chế nào có thể rời bỏ quyền lực trong khi họ đang hưởng thụ cung vàng điện ngọc, ăn trên ngồi trước, kêu dạ bảo vâng. Trừ khi họ bị cô lập, suy yếu, hoặc bị một thế lực khác đứng dậy lật đổ như các triều đại độc tài và bạo quyền cộng sản sụp đổ ở Đông Âu v.v... Nghĩa là phải đổ máu mới giành được tự do dân chủ thực sự mà nhân loại đã trải qua ở cuối thế kỷ thứ 20.

Từ những lý luận và nghiên cứu tình hình trên, các bình luận gia nổi tiếng đã không mấy lạc quan về sự sụp đổ nay mai của phe quân phiệt Miến vì 2 yếu tố chính:

1) Cuộc đấu tranh đòi dân chủ trường kỳ của dân Miến đã xảy ra trong suốt 45 năm qua. Nổi bật nhất là “cách mạng 8888”, tức là cuộc tổng nổi dậy vào ngày 8 tháng 8 năm 1988 chống quân phiệt Miến Điện. Thế nhưng, cuộc xuống đường quyết liệt ấy đã bị bọn quân phiệt tắm máu bằng cách xả súng tàn sát trên 3000 người dân vô tội. Tiếc thay, suốt gần 20 năm qua, mặc cho khối Tây phương lên án, cấm vận, cô lập đủ điều, nhưng bọn quân phiệt thống trị vẫn phè phỡn, xa hoa và vẫn tồn tại với bàn tay đàn áp sắt máu, mà kẻ hỗ trợ đàng sau lưng là tập đoàn lãnh đạo Trung Cộng.

2) Yếu tố then chốt khác phải nói tới là ba nước láng giềng Ấn Độ, Thái Lan và Trung Cộng. Chỉ vì quyền lợi khai thác kinh tế nên họ đã cố tình làm lơ cho đám quân phiệt tung hoành với lý do “không xen vào nội bộ của Miến Điện”. Điều đáng nói và cả thế giới đều biết, Trung Cộng là quốc gia có tầm ảnh hưởng mạnh nhất, quan trọng nhất đối với bạo quyền Miến Điện từ kinh tế đến quân sự, do đó, việc tiếp tay cho bạo quyền Miến tồn tại để thủ lợi là chuyện dễ hiểu. Bất cứ ai cũng có thể lý luận: “Tập đoàn cai trị Trung Cộng đã cho người dân của họ có tự do chưa, mà bảo họ phải cổ vũ cho chư hầu Miến Điện có tự do!”

Thế nhưng có người lạc quan cho rằng, ngày nay nhờ vào văn minh của mạng lưới toàn cầu (Internet), điện thoại (Cell phone), những hình ảnh đàn áp thô bạo đã lọt ra thế giới bên ngoài, mặc dù bạo quyền Miến đã bắt giữ và ngăn cấm giới truyền thông vào đất Miến. Những khúc phim sống ấy – do những phóng viên amateur gửi đi – được chiếu đi chiếu lại khắp nơi trên thế giới là những bằng chứng hùng hồn nhất, rõ ràng nhất, đã làm cho nhân loại bàng hoàng ghê tởm chế độ quân phiệt tàn ác này. Có lẽ những hình ảnh dã man, vi phạm nhân quyền trắng trợn của bạo quyền Miến, đã giúp cho cuộc đấu tranh đòi dân chủ trên đất Miến có nhiều hy vọng sớm thành công hơn.

Mặt ngoài, thông tin báo chí nhà nước Miến Điện khoe rằng, các cuộc nổi loạn đã bị đập tan, sinh hoạt phố phường đã trở lại bình thường. Thế nhưng chính giới cho rằng, đó là một sự yên tĩnh đáng lo ngại vì: “Tức nước vỡ bờ, người dân bị họng súng, lưỡi lê kềm kẹp nên tạm thời nín thở chịu đựng qua sông, nhưng không chóng thì chầy các cuộc vận động khác có quy mô hơn sẽ xảy ra bất cứ lúc nào”. Thật vậy, không có chế độ bạo lực nào có thể tồn tại vĩnh viễn. Càng gây thêm nhiều hận thù, nhiều nợ máu thì máu sẽ đổ khi bạo quyền ở vào số tận. Gieo nhân thì nhận quả! Điều đó có thể chứng minh cụ thể qua lịch sử nhân loại trong quá khứ.

Một tin hành lang đang được thế giới chú ý là sự rạn nứt trong hàng tướng lãnh quân phiệt Miến Điện. Sự bất đồng về việc đàn áp tàn bạo những nhà tu hành và sinh viên trong thời gian qua, chính là ngòi nổ chậm trong giới lãnh đạo. Nếu vấn đề được quốc tế và và Liên Minh Dân Chủ của bà Aung San Suu Kyi khai thác một cách khéo léo, người ta cho rằng đại cuộc đứng dậy đòi tự do dân chủ của người dân Miến Điện sẽ có cơ hội thành công.

TỪ MIẾN ĐIỆN TỚI VIỆT NAM

Nhìn vào công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ tại Miến Điện, là người Việt Tự Do, ai cũng thấy có sự trùng hợp giữa Miến Điện và Việt Nam trong thời gian qua. Việc khởi sự xuống đường chống bạo quyền Miến tăng giá nhiên liệu, cũng như việc người dân Việt xuống đường khiếu kiện (dân oan) chỉ là nguyên nhân gần. Nguyên nhân xa chính là đại cuộc đòi tự do dân chủ, đòi công bằng cho đời sống sinh hoạt xã hội, chính trị. Người dân Miến Điện đã rầm rộ xuống đường, tạo thành một làn sóng đòi quyền làm người trước văn minh nhân loại ở thế kỷ 21. Dù họ đang bị bắn giết, tù đày, hành hạ thể xác, nhưng ánh sáng cuối con đường hầm mong đợi đang lóe lên. Sinh thức, tâm thức và tinh thần vô úy của người dân Miến Điện đã và đang động lòng nhân loại, động lòng trời, động lòng đất. Trên website You Tube của giới trẻ thế giới đã vang lên bài ca: The wind of change from Burma to Việt Nam (Gió đã xoay chiều từ Miến Điện tới Việt Nam).

Người dân Việt Nam cũng cùng chung cảnh ngộ như Miến Điện, chướng nghiệp vẫn còn nặng nề, bao trùm lên đầu dân tộc một cách oan khiên. Y như lời HT Thích Quảng Độ đã nói: “Cộng sản là nhân tai”. Bao giờ thì nhân tai của nước Việt sẽ chấm dứt? Câu trả lời rất đơn giản: “Bao giờ thông tin báo chí hết bị bịt miệng, người dân hết bị bịt miệng thì đại nạn của dân tộc sẽ chấm dứt.” Và bao giờ giai cấp thống trị của đảng CSVN biết ăn năn sám hối trước hồn thiêng sông núi, lìa bỏ tham lam, chấm dứt vọng tưởng, mê nuội, trả lại quyền sống cho dân tộc thì đất nước sẽ thoát khỏi hiểm họa đổ máu và sẽ tiến lên giàu mạnh ngay.
Ba triệu người Việt hải ngoại, tuy là một tập thể nhỏ so với đại khối dân tộc, thế nhưng, có thể nói rằng, khi đất nước hồi sinh trong ánh sáng tự do dân chủ, chắc chắn họ sẽ sẵn sàng đóng góp nhân lực và tài lực để xây dựng đất nước khi tiếng gọi non sông rền vang bên kia bờ Thái Bình Dương.

Trương Sĩ Lương
dailien
Posts: 2458
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Niềm Vui Dân Mỹ

VI ANH .
Trong bài quốc ca Mỹ có câu, "O'er the land of the free and the home of the brave!" "Đất của người tự do và nhà của người dũng cảm". Sự thành đạt của một người Ý nhập cư trở thành người Mỹ gốc Ý là Ô. Mario Capecchi vừa được giải Nobel về Y khoa là một minh họa của lời ca ấy.

Thực vậy tìm hiểu tiểu sử của Mario Capecchi, một người Mỹ gốc Ý, trước đây sanh ở Verone (Ý đại lợi) ngày 6 tháng 10 năm 1937, vừa được trao giải Nobel Y khoa, cùng với Huân tước Sir Martin Evans (Anh cát lợi) và Oliver Smithies, công dân Mỹ như Mario Capecchi, mới thấy thấm thía với lời kết của bài quốc ca Mỹ. Khác với Phó Tổng Thống Al Gore sau khi rời khỏi chính trường Mỹ, tích cực tham gia việc bảo vệ môi sinh, làm một phim tài liệu nhưng được giải thưởng Cannes cũng như Gs Mario Capecchi, được chia giải Nobel về Bảo vệ Môi sinh.

Khen Ô Al Gore chỉ là khen phò mã tốt áo. Ong đã có quá nhiều vốn liếng Mỹ để thành công. Uy thế của một Phó Tổng Thống Mỹ hai nhiệm kỳ, suýt chút nữa đã thành tổng thống. Trái lại đằng sau những công nghiệp nổi tiếng, ngưng động gene của chuột, của Giáo sư Mario Capecchi, cuộc đời người Mỹ gốc Ý nhập cư được giải Nobel Y khoa này là cả một cuốn tiểu thuyết.

Cuốn tiểu thuyết về một người nhập cư xuất thân từ đóng tro tàn chiến tranh độc tài Phắc xít Ý. Nhân vật chánh là một em bé Ý mồ côi cha, mới gặp được mẹ vừa trong trại tù tập trung của Đức quốc xã ra. Hai mẹ con đã dũng cảm rời quê hương xứ sở ra đi. Mario Capecchi đến Mỹ vào tuổi mới lên tám, không đọc được tiếng Anh, đã dũng cảm cố gắng vươn lên nhờ đất Mỹ tự do, dân chủ và nhiều cơ hội.

Hai ngày trước ngày sinh nhật thứ 70 của Ong, Giáo sư Mario Capecchi được tuyên bố đoạt giải Nobel Y học, trong một cuộc nói chuyện bằng điện thoại với đặc phái viên Vittorio Zucconi của tờ báo Ý La Repubblica ở Washington D.C.

Ong đã nói một phần tiểu sử của Ong không có ghi trong tiểu sử chánh thức của hồ sơ xét giải Nobel. Ong kể lại làm thế nào một đứa trẻ lạc loài, đói khát trong thời chiến tranh ở Ý và may mắn được cứu giúp như một phép lạ và trở thành một nhà khoa học ở Mỹ. Lúc chưa được 5 tuổi, Ong đã xa mẹ vì mẹ bị cơ quan mật vụ Đức Gestapo bắt giữa ban ngày, đày đi trại tập trung Dachau như một người "đối lập chánh trị" khi nhà cầm quyền ban hành luật có tính kỳ thị chủng tộc. Bà viết và luân chuyển những cuốn sách nhỏ chống Phắc xít. Ong mất cha vì cha Ong bị gọi vào Không quân và gởi đi Phi Châu và sau đó có báo cáo "chánh thức mất tích".

Ong được cha Ong trước khi đi gởi cho một gia đình nông dân vùng Thượng Adige. Sau một năm thì tiền của cha ông gởi hết. Ong bị gia đình này "đuổi đi". Ong nói, "Tôi nhớ đã lang thang trên đường giữa vùng Bolzano và Vérone và đã gặp một đám trẻ em như tôi, mất cha mẹ, đi kiếm ăn từ nơi này dến nơi khác. Chúng tôi ăn cắp tất cả những gì gặp được khi đi xuôi về miền Nam."

Vào năm 1945, trên giường bịnh của nhà thương trị bịnh thương hàn ở vùng Reggio d'Emilie, Ong gặp lại.. Gặp lại mẹ Ong. "Bà sống sót. Khi người Mỹ giải tỏa trại tập trung Dachau, bà trở lại nước Ý và bắt đầu tìm kiếm con. Ngày bà xuất hiện bên giường bịnh của tôi, tôi mới được tám tuổi."

Vừa mới gặp được nhau, mẹ và con quyết định di cư sang Mỹ. Hai mẹ con gặp được Henry, một người chú. Ong này dạy ở Khoa vật lý học ở Princeton." Vào thời đó, Einstein cũng ở đây, và tôi nhớ tôi đã thấy Ong. "Mario Capecchi kể lại một ngày sau khi đến Mỹ, Ong vào "lớp sơ cấp". "Tôi chẳng hiểu gì cả. Hơn nữa tôi gần như chẳng biết đọc, tôi là một trẻ em ngoài đường phố."

Phần còn lại của tiểu sử của người Mỹ gốc Ý được giải Nobel đó đã được ghi và phổ biến trong tiểu sử chánh thức trong hồ sơ giải Nobel: trung học ở New York, đại học ở Antioch, tiểu bang Ohio nơi Ong đậu bằng về vật lý và hóa học, kế đó là sự khám phá về sinh vật phân tử học, được đại Harvard thu nhận và gặp một vị giáo sư đã được giải Nobel, là James Watson, cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại và người tìm ra "cái chong chóng kép" DNA của chúng ta, là bí mật của sự sống.

Qua cuộc nói chuyện của Giáo sư Mario Capecchi với phóng viên tờ báo Ý La Repubblica, vị giáo sư người Mỹ gốc Ý không ngần ngại nói lên thân phận vi tiện xuất thân của mình: "Tôi là một trẻ em ngoài đường phố." Chính phần tiểu sử ngoài hồ sơ Nobel của Gs Mario Capecchi là một niềm vui của dân Mỹ, như đã được diễn ý và diễn âm trong quốc ca và quốc thiều Mỹ". Người ta thấy nước Mỹ là đất địa của người nhập cư. Người ta thấy nước Mỹ là khát vọng tự do. Người ta thấy nước Mỹ là đất hứa của những người tự do và dũng cảm, giấc mơ có thể biến thành sự thật, có thể cố gắng vươn lên.

Tình yêu tự do, lòng dũng cảm phải mạnh lắm Ô Mario Capecchi với tuổi vừa lên tám mới vượt qua được những ngày mất cha, vắng mẹ, lang thang trên đường để kiếm ăn, có khi đói quá phải ăn cắp để sống và rời khỏi quê hương, đất nước nhà để cùng với mẹ đi Mỹ sau khi gặp lại nhau quá ngắn ngủi. Mỹ phải là một xứ sở của cơ hội, nên từ một đứa trẻ chưa đọc tiếng Anh học trường sơ cấp, học trường đại học, và nghiên cứu khám phá, mới cố gắng vươn lên được.

Nền giáo dục Mỹ phải vì dân, do dân, khoa học, khai phóng, tạo mọi điều kiện cho người muốn học học được, không phải bỏ trường, bỏ lớp vì phương tiện tài chánh để có những nhân tài hữu cho đất nước nhân dân và nhân loại như Mario Capecchi. Người ta thấy con đường học vấn là con đường tắt nhưng chắc cho một người từ tầng lớp dưới có thể vươn lên cao ở Mỹ.

Bình đẳng giữa con người Mỹ với con người Mỹ được coi như nguyên tắc sống, quyền thăng tiến trong xã hội Mỹ tự do, công bình nên một người nhập cư nghèo mới chen vai thích cánh được với những người Mỹ sở tại đồng trang lứa, vươn lên và ngồi ngang hàng cùng những khoa học gia Mỹ và thế giới.

Mới có cảnh một người Mỹ gốc Ý Mario Capecchi xuất thân lạc loài ngoài "đường phố" ở Ý đến Mỹ trong 62 năm ngồi ngang với một cựu Phó Tổng Thông Mỹ hai nhiệm kỳ Al Gore. Mỹ phải đầu tư lớn lắm thì các nhà khoa học kỹ thuật mới có phương tiện sống, phương tiện làm việc để những người có tài năng mới có đủ thì giờ và tâm trí ngồi mày mò, tìm tòi, khám phá và phát minh.

Không phải trường hợp Gs Mario Capecchi là trường hợp hãn hữu hay duy nhứt ở Mỹ. Thống Đốc Arnold của tiểu bang California, tiểu bang giàu mạnh nhứt Mỹ, cũng là một người Áo nhập cư vào Mỹ gần như đồng thời với nhiều người Việt trong cuộc di tản vô tiền khoán hậu của lịch sử VN, đại đa số chọn Cali làm quê hương.

So lợi tức trung bình kiếm được hàng năm và tỷ lệ tốt nghiệp đại học 4 năm của người Việt ở Mỹ và đồng bào trong nước (chưa quá 400 Đô la một năm), người ta mới thấy chế độ tự do, dân chủ là điều kiện tiên quyết, chánh quyền vì dân, do dân, của dân là điều kiện cần và đủ để phát triển xã hội tiến lên, cá nhân thăng tiến.

VI ANH
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests