Thời Sự, Bình Luân

thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Ai là bá chủ thế giới 2007

1. Vài phác hoạ bối cảnh sân khấu chính trị thế giới

Trong chuyến thăm Âu châu và Kazakhstan đầu tháng 5/2006, phó tổng thống Hoa Kỳ, ông Dick Cheney đă chỉ trích mạnh mẽ việc nước Nga đi ngược lại trào lưu dân chủ, dùng năng lượng làm công cụ khiêu khích và đe doạ các nước láng giềng. Ngay sau đó, tổng thống Nga Putin đă biểu lộ thái độ cương quyết nhắm vào phương Tây, cụ thể là Hoa Kỳ qua bài phát biểu nhân dịp ngày lễ chiến thắng phát xít, 9/05/2006.
Mặc dầu Putin không dùng những lời lẽ quá cứng rắn như người ta chờ đợi, nhưng bức thông điệp cho thấy, từ khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, lần đầu tiên, ông chủ của Kremli nói đến "cuộc chạy đua vũ trang". Theo Putin, trên sân khấu chính trị thế giới đang "mở rộng những khu vực xung đột” và tham vọng chế tạo vũ khí hạt nhân không hề thuyên giảm. Putin nói: "Hoa Kỳ chi cho quân sự nhiều gấp 25 lần Nga. Nhà của họ là pháo đài. Cho nên, chúng ta cũng phải củng cố nhà của ḿnh. Chúng ta hăy quan sát những ǵ đang xảy ra trên thế giới”. Và Putin khẳng định Nga sẽ hiện đại hoá quân đội, quyết tâm giữ thế cân bằng chiến lược trên thế giới và không cho phép những người khác "tăng cường vị thế của ḿnh bằng cái giá phải trả của Nga”.
Mấy ngày vừa qua, tại diễn đàn quân sự Shangri-La, Singapore, Hoa Kỳ đă nhận được sự chào đón nhiệt thành của các nước thành viên tham dự vốn không muốn nh́n thấy vị trí bá quyền của Trung Nam Hải trong khu vực. Bộ trưởng quốc pḥng Hoa Kỳ Rumsfeld tuyên bố đề nghị Trung Quốc cần "vén bức màn bí mật” xung quanh chi phí quân sự cũng như các ư định chiến lược của họ để giảm lo ngại của các nước láng giềng. Ông Rumsfeld cũng nói rằng, bất luận t́nh h́nh Iraq ra sao, Hoa Kỳ vẫn cam kết đảm bảo giữ vai tṛ bảo vệ an ninh cho tất cả các nước đồng minh tại châu Á.

Thủ tướng Đức Angela Merkel mới đây đưa ra sáng kiến một NATO (Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương) không biên giới, trước mắt hợp tác chặt chẽ về quân sự với Nhật Bản, Australia, Nam Triều Tiên và Ấn Độ, chắc chắn không nằm ngoài bài toán chiến lược ḱm chân Bắc Kinh.
Ngày 4/6/2006 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Donald Rumsfeld đă tới Việt Nam trong chuyến thăm nhằm tiếp tục củng cố quan hệ với nước cựu thù mà nay ông coi là một trong các quốc gia ’’bạn bè’’. Ông Rumsfeld cho biết một tàu hải quân khác của Hoa Kỳ sẽ tới Việt Nam mùa hè này.

2. Bài toán chiến lược mới của Hoa Kỳ

"Chúng ta đang nằm ở thời điểm đáng ngại trong suốt di sản của đất nước, những mối đe doạ bất ngờ đang chờ chúng ta. Tương lai đang đứng trước dấu hỏi”. Đó là phát biểu của tướng Peter Pace, chủ tịch hội đồng tướng lănh của bộ tổng tham mưu quân đội Hoa Kỳ.
Năm nay, theo thông lệ 4 năm một lần, Pentagon tŕnh quốc hội Hoa Kỳ một sách lược mới được gọi là "Chiến lược Quốc pḥng USA". Bản phúc tŕnh này được đưa ra từ tháng 2/2006 và cũng chính dựa trên kế hoạch chiến lược này mà Hoa Kỳ đă ấn địch một ngân sách quân sự cho năm 2007.

Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và phương Tây đưa thế giới vào một cuộc chạy đua vũ trang khốc liệt suốt từ năm 1946 đến năm 1991. "Cuộc chiến dài hạn" hôm nay sẽ dẫn dắt thế giới vào một ṿng đua khác, tinh vi hơn, tốn kém hơn, và sẽ trải qua hàng thập kỷ tiếp theo.

Các nhà chỉ huy quân sự Hoa Kỳ nhận định rằng, cuộc chiến này sẽ không hề có giới hạn về thời gian và không gian, đối đầu với chủ nghĩa Hồi giáo cuồng tín mang tính toàn cầu. "Cuộc chiến đấu có thể cùng một lúc xảy ra ở mười mấy nước khác nhau và kéo dài nhiều năm” - Bản tường tŕnh viết.

Ngôn ngữ của cuộc chiến tranh thông thường với quy mô lớn kiểu như cuộc đổ bộ quân vào Iraq được chuyển thành ngôn ngữ cuộc chiến tổng phản công của các đạo quân phản ứng nhanh, đôi khi sử dụng các lực lượng bí mật và các đơn vị chống khủng bố. Pentagon không đưa ra tên những nước cụ thể nào sẽ là sân khấu của các hoạt động tương lai, nhưng địa bàn được mở rộng vượt qua Trung Cận Đông, đến bán đảo Somalia, từ Bắc Phi châu đến Đông Nam Á và cả vùng Caucasia.

Chiến lược cuộc chiến dài hạn có quy mô lớn hơn rất nhiều so với mọi giai đoạn hợp tác và can thiệp quân sự giữa Hoa Kỳ với Anh quốc hay các đồng minh NATO. Chiến lược này dựa trên sự hỗ trợ của nhiều chính phủ các nước trong các khu vực khác nhau của thế giới thông qua nguồn viện trợ kinh tế, quân sự và chính trị.

Bản tường t́nh nhấn mạnh: "Sự kết nối tất cả mọi yếu tố của tiềm lực Hoa Kỳ nhằm mục đích đạt thắng lợi trong cuộc chiến đ̣i hỏi phải xem xét lại các phương pháp truyền thống trong việc viện trợ cho nước ngoài, kiểm soát xuất khẩu, cùng với việc đưa ra những luật lệ mới”. (...) "Cuộc chiến này đ̣i hỏi lực lượng quân sự Hoa Kỳ không chỉ tham chiến tuần tuư bằng chiến tranh vũ khí thông thường nữa, không bằng các phương pháp gián tiếp để đạt mục tiêu. Chúng ta đă bắt đầu ứng dụng việc toàn cầu hoá sự có mặt của quân đội, từ lâu đă thực hiện những thay đổi cần thiết trong việc bố trí quân lực tại các căn cứ. Chúng ta từ bỏ cách thức pḥng vệ với những trang bị, quân phục đã lỗi thời từ hồi chiến tranh lạnh mà chuyển sang khả năng phản ứng nhanh, điều quân vào các điểm nóng trên toàn cầu”.

"Trên nhiều khu vực của thế giới quân đội chúng ta sẽ đồng thời tham chiến lâu dài với các lực lượng vệ tinh và nước ngoài. Đây sẽ là những hoạt động vừa bí mật và vừa công khai. Cần thiết phải giữ bí mật sự có mặt của quân đội Hoa Kỳ tại những vùng mà từ trước đến nay Hoa Kỳ chưa hoạt động”.

"Hoa kỳ cố gắng làm sao để các cường quốc hiện tại và trong tương lai trở thành những đối tác xây dựng, tham dự trong một hệ thống quốc tế. Hoa kỳ sẽ phải làm để đạt tới mục đích: không cho phép bất kỳ quốc gia nào áp đặt điều kiện an ninh trong khu vực hoặc trên phạm vi toàn cầu. Hoa kỳ cũng sẽ bằng biện pháp quân sự vô hiệu hoá các đối thủ nước ngoài nếu chúng cố t́nh giành bá quyền khu vực hoặc chống lại Hoa Kỳ và các nước đồng minh”.

Pentagon: 2007, ngân sách quân sự kỷ lục của Hoa Kỳ: 609 tỷ USD -

Kế hoạch chiến lược của Pentagon được đưa ra sau khi đă trao đổi và thoả thuận với nhiều cơ quan khác của chính phủ. Tuy nhiên, nó cũng đang gây nên một mối quan ngại trong vấn đề "đụng độ giữa các nền văn minh”. Trong thời gian dài hạn, rơ ràng quốc hội Hoa Kỳ phải tạo ra cho Pentagon một số quyền hạn thuộc lĩnh vực lập pháp và hành pháp, giống như quân đội đang có hiện nay tại Iraq. Điều này chứng tỏ rằng, các vị chỉ huy quân đội sẽ có thêm rất nhiều quyền lực.

2007, ngân sách quân sự kỷ lục của Hoa Kỳ: 609 tỷ USD

Ngân sách quân sự cho năm 2007 cho chúng ta thấy quân đội Hoa Kỳ chưa rút khỏi Iraq một cách nhanh chóng và một cuộc chiến tranh nào đó rất có thể xảy ra, trước hết là với Iran, nếu như mọi sáng kiến về ngoại giao bế tắc.

Trước ngày 11/09/2001, ngân sách quân sự của Hoa Kỳ chưa tới 300 tỷ USD. Ngân khoản cho năm nay là 439 tỷ USD, không tính một số chi phí cụ thể khác. Ngân sách riêng cho Iraq là 120 tỷ USD cộng với 50 tỷ dự pḥng. Nếu quốc hội thông qua, toàn bộ chi phí cho quân sự của Hoa Kỳ trong năm 2007 lên tới 609 tỷ USD, cao nhất kể từ cuộc chiến tranh Triều Tiên.

Steven Kosiak của Washington Center for Strategic and Budgetary Assessments nói: “Ngân sách này có thể so sánh với thời gian chiến tranh lạnh. Chúng ta nh́n thấy rơ ràng trong đề án, Pentagon muốn phát triển ǵ, mua ǵ và củng cố lực lượng nào. Tất cả chứng tỏ rằng Washington đang sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh dài hạn.
Số ngân khoản tăng thêm giành cho việc mở rộng lục quân, thuỷ quân lục chiến và lực lượng đặc biệt. Lực lượng đặc biệt sẽ có nhiệm vụ phản ứng và đổ bộ nhanh trên mọi điểm xung đột trong ṿng vài giờ. Quân đội mua sắm thêm máy bay trực thăng và xe bọc thép.

Số ngân khoản tăng thêm giành cho việc mở rộng lục quân, thuỷ quân lục chiến và lực lượng đặc biệt. Lực lượng đặc biệt sẽ có nhiệm vụ phản ứng và đổ bộ nhanh trên mọi điểm xung đột trong ṿng vài giờ. Quân đội mua sắm thêm máy bay trực thăng và xe bọc thép.

Hải quân sẽ xây dựng tiếp hai tàu ngầm nguyên tử hệ Virginia không chỉ hoạt động ở vùng sâu của đại dương mà c̣n hoạt động cả vùng cạn dọc bờ biển. Loại tàu ngầm này là vũ khí lư tưởng cho vùng Vịnh Persian nếu như xảy ra chiến tranh với Iran.

3. Quân đội Hoa Kỳ qua những con số

Pentagon chi và mua sắm cho năm 2007:
3091 xe địa h́inh Humvee - 190 ngàn USD/chiếc.
36 trực thăng chiến đấu Apache - khoảng 27 triệu USD/chiếc.
60 máy bay tiềm kích F-22 - giá 338 triệu USD/chiếc
2 tàu ngần nguyên tử hệ Virginia - 2,6 tỷ USD/chiếc]
2 chiến hạm DDX chống rada phát hiện - 1,5 tỷ US/chiếc
500 triệu USD xây dựng hệ thống quan sát và chỉ huy toàn cầu UAV (thay cho máy bay gián điệp U2 trong thời chiến tranh lạnh).
51 tỷ USD cho việc hoàn thành xây dựng lá chắn hoả tiễn.
3 tỷ USD cho việc hoàn thành Joint IED Task Force, loại robot phá bom dọc bờ biển (đă chi phí cho công tŕnh này 2 tỷ USD)

Lực lượng quân đội Hoa Kỳ trên thế giới:

Hiện nay có trên 400 ngàn lính Mỹ có mặt tại 130 nước trên thế giới, nằm trong kế hoạch cho cuộc chiến dài hạn trong nhiều thập niên tới. Dưới đây là số quân và các căn cứ quân sự:

Âu châu:
Anh quốc: 14.300 lính
Italy: 15.500 lính
Cyprus: Trung tâm thu thập và thanh lọc thông tin.
Đức: 69.800 lính
Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey): 1.700 lính
Trung Cận Đông:
Iraq: 121.600 lính
Kuweit: 25.300 lính
Qatar/Bahrain: Trung tâm chỉ huy của khu vực Trung Cận Đông và căn cứ quân sự.
Djibouti: 1.500 lính
Á châu:
Afghanistan: 18.000 lính
Diego Garcia (Ấn Độ dương): Căn cứ thuê cho máy bay ném bom chiến lược B-52.
Nam Triều Tiên: 74.400 lính
Nhật Bản: 68.300 lính
Quần đảo Guam: 4.400 lính
Singapore
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Xin mời click vào tựa đề dưới đây để chúng ta cùng nghe lại tiếng nói Dạ Lan...

Dạ Lan giới thiệu bài Xuất Quân

Ca khúc Thúc Quân
Nhạc: Văn Giảng
Lời: Hương Việt


Dồn trong đêm vắng ngàn tiếng đồng loa vang lừng
Đầu người lô nhô sát theo bờ núi sông hò reo
Thây tan trong khói mây.
Tiến quân! Tiến quân theo!
Nơi chốn sa trường quân Nam hồn thúc oai vang đời

Việt Nam hận đời đời
Diệt quân Nguyên, quân lướt tới thây kề thây
Máu tuôn rơi ướt nẻo đường
Mây chập chùng đi đến đâu ?

Việt Nam hận đời đời
Diệt quân Nguyên, quân lướt tới thây kề thây
Máu tuôn rơi ướt nẻo đường
Mây chập chùng đi đến đâu ?

Nhìn trong hơi gió thoảng bóng quân Nam lướt đi
Thề cùng diệt tan giống tham tàn thúc quân vùng lên !
Nơi đây đất nước Nam biết bao đấng anh linh
Xương trắng xây thành cố tâm đền núi sông ơn nhà.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

CHÁNH TRỊ VÀ THUA CUỘC
( POLITICS AND THE LOST WARS)

Nguyễn Bách (Montréal )
Truyên xưa kể rằng Đỗ Sinh, người xứ Tấn, là người tài hoa, văn võ tinh thông, nhưng suốt đời chỉ vui thú yên hà, làm bạn cùng mây nước. Là con nhà đại phú, Sinh rất vui với cuộc sống hiện tại nhàn tản, không phải bận tâm tới cuộc sống vật chất hàng ngày. Vua nước Tấn, An Lạc Vương, là người bạo ngược, không màng gì đến việc trị nước. Loạn lạc xẩy ra khắp nơi; dân tình đau khổ, ta thán. Giặc dã, loạn lạc nổi lên ngay tại quê hương của Sinh nhưng Sinh không bận tâm, coi việc trị nước an dân là việc của người khác. Sinh tuyên bố KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ mỗi khi bị người thân thúc dục từ bỏ thái độ rửa tay gói kiếm, từ bỏ cuộc sống nhàn hạ để làm một cái gì cho quê hương đất nước. Giặc dã tràn đến quê hương của Sinh. Sinh mất tất cả tài sản, đất đai, ruộng vườn, trở nên trắng tay. Khi Sinh biết hối hận về thái độ trùm chăn, không làm chánh trị của mình thì đã quá trễ, nước đã mất nhà đã tan; thân phận của Sinh là thân phận một kẻ lưu đầy, nhưng bị lưu đầy trên quê hương của chính mình.
Tại Việt Nam , trong suốt cuộc chiến chống Cộng bảo vệ quê hương, rất nhiều người đã trùm chăn, hành sử như Đỗ Sinh.



Cho đến bây giờ tại Hải ngoại, chúng ta lại vẫn được nghe đi nghe lại điệp khúc cũ KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ. Ta tự hỏi Chánh trị là gì?

Theo Tự điển Larousse, Chánh trị (politique) là việc điều hành đất nước, xác định các thể chế sanh hoạt (direction de l’État et determination des formes de son activité).
Theo Tự điển Canadian Dictionary ( Oxford ): Chánh trị (politics) là nghệ thuật, phương pháp cai trị trong một nước (the Art and Science of government).
Theo Việt Nam Tự điển của Nguyễn Văn Khôn, Chánh trị là việc thi hành quyền trị nước. Nghĩa rộng là lừa đảo khôn khéo như làm việc phải có chánh trị. Thiếu chánh trị khi làm việc có nghĩa là thực thà.

Thực ra hai chữ chánh trị có nghĩa rất rộng: việc đối xử, giao thiệp với nhau trong một gia đình, trong một đoàn thể, trong xã hội đều là việc chánh trị. Không làm chánh trị tức là làm chánh trị đó, làm cái KHÔNG LÀM. Việc bỏ nước ra đi làm thuyền nhân, không chịu sống với Cộng Sản là một hành vi có tính cách chánh trị. Theo những người tị nạn Cộng Sản thì đó là một hình thức bỏ phiếu bằng hai chân phủ nhận chế độ Cộng Sản. Trong ngôn ngữ thường dùng của đại chúng, hai chữ chánh trị được hiểu theo một nghĩa hạn hẹp là các tư tưởng, hành động có liên quan đến đảng phái, chánh quyền. Ta nên xác định rõ một vài từ ngữ có liên quan đến hai chữ chánh trị:
Làm chánh trị tức là trực tiếp tham dự vào các công việc có liên quan đến đảng phái, liên quan đến chánh quyền.
Lập trường chánh trị hay thái độ chánh trị là một hình thức xác định lập trường một cách tiêu cực trong một tổ chức, một tập thể.
Bất hợp tác, nhưng không tích cực chống đối, là một thái độ chánh trị. Lập trường của các người Việt quốc gia là không chấp nhận chế độ phản dân chủ Cộng Sản trên quê hương Việt Nam .

Trước ngày 30-4-1975, trong cuộc chiến đấu chống lại quân xâm lăng Cộng Sản Bắc Việt, mấy chữ KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ - được hiểu là đồng nghĩa với KHÔNG CHỐNG CỘNG - đã được Cộng Sản lợi dụng triệt để, làm lũng đoạn hậu
phương của Miền Nam . Chắc hẳn bạn đọc còn nhớ:

- Nguyên Chủ tịch của Tổng Hội sinh viên Sàigòn Huỳnh Tấn Mẫm, Chủ tịch học sinh Sàigòn Lê Văn Nuôi, Dương Văn Đầy luôn luôn hô hào sinh viên, học sinh không làm chánh trị. Những sinh viên biểu lộ ý muốn chống Cộng đều bị đe dọa hay loại trừ. Điển hình là việc ám sát Đại diện sinh viên Luật Khoa Lê Khắc Sinh Nhật hay việc bắn bị thương sinh viên Ngô Vương Toại. Toại đã may mắn được các Bác sĩ của Bệnh viện Bình Dân, Sàigòn giải phẫu kịp thời cứu sống. Sau ngày 30-4-1975, Mẫm, Nuôi, Đầy đã hiện rõ là các cán bộ Cộng Sản của Thành ủy Sàigòn.

- Ni sư Huỳnh Liên là người đã luôn luôn to tiếng khích động và cầm đầu các đoàn biểu tình xuống đường chống đối Chánh phủ của Miền Nam , hô hào đưa chánh trị ra khỏi tôn giáo. Sau khi Cộng Sản hoàn toàn chiếm được miền Nam , Ni sư Huỳnh Liên đã hiện nguyên hình là một cán bộ tôn giáo vận của Cộng Sản.

- Các phong trào đòi hỏi đưa chánh trị ra khỏi học đường, các cuộc biểu tình trong ngày ký giả đi ăn mày, đòi hỏi tự do báo chí phi chánh trị……đã tạo ra nhiều bất ổn cho xã hội miền Nam.

- Tại miền Trung, nhứt là tại Huế, nhóm người trẻ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha (em rể của Trịnh Công Sơn) Trần Xuân Kiêm ….. luôn luôn hô hào đưa chánh trị ra khỏi các sanh hoạt học đường, ra khỏi tôn giáo. Trong cuộc thảm sát hồi Tết Mậu thân tại Huế, họ đã hiện hình là các cán bộ Cộng Sản rất khát máu. Họ chính là thủ phạm trong các vụ thảm sát tại đây. Mọi người đều không lạ gì về gốc tích và hành tung của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Còn sinh viên Nguyễn Đắc Xuân thì không được nổi bằng anh em Tường, Phan, nhưng y đã nổi tiếng sau Tết Mậu Thân. Chính y là người đã tự tay xử tử bạn cũ là Trần Mậu Tý khi CS chiếm đóng Huế chỉ vì Tý là đảng viên Đảng Đại Việt (chuyện này đã được kể rõ trong tác phẩm GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ của nhà văn Nhã Ca).


Trần Xuân Kiêm là Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Huế vào thời điểm đó. Kiêm học Trung học tại Sàigòn (trường Trung học Pétrus-Ký). Kiêm đậu Tú Tài năm 1962, sau đó y về Huế học tại Đại Học Văn Khoa, Huế. Trong Phong trào Hướng đạo, Kiêm là Tráng sinh trong Tráng đoàn Lam Sơn thuộc Đạo Đông thành của Đỗ Ngọc Yến (nguyên Chủ báo Người Việt , California , USA ). Kiêm đã có vài bài thơ được đăng báo như bài thơ sau đây:

NGÕ TỐI

Xin êm bước dưới hàng cây bóng cả
Buồn mùa thu làm hết cả mầu xanh
Trong hoàng hôn tôi đếm bước một mình
Qua ngõ tối gió lùa không qua tới
Lầu cao làm mắt nhìn thêm chới với
Bầy chim về gác trọ giữa lầu chuông
Nóc giáo đường xuyên thành những vết thương
Không thương tiếc màu da trời úa máu


……………………………
Kiêm không lộ mặt như Nguễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường … nhưng Kiêm đích thực là người giữ vai trò chánh, ẩn mình trong bóng tối, đứng đằng sau các vụ ruồng bố, thảm sát hàng ngàn đồng bào vô can trong vụ Tết Mậu Thân tại Huế.


Những người dân Huế này có ai “làm chính trị” đâu?

- Trước năm 1975, các thành phố lớn như Sàigòn, Huế không bao giờ thiếu vắng các cuộc biểu tình đòi hỏi phi chánh trị, làm hậu phương của miền Nam trở nên luôn luôn bất ổn, gây khó khăn không ít cho các Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa.
Trong tham vọng và kế hoạch bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản theo lệnh Cộng Sản Quốc tế, Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngay sau khi chiếm được miền Bắc nước Việt, đã có kế hoạch xâm chiếm miền Nam. Sau năm 1954, Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đạt được nhiều tiến bộ đã khiến cho các tên Cộng Sản nằm vùng hoặc bị vô hiệu hóa, hoặc bị lộ diện. Trước viễn tượng tan rã của đám Việt Cộng nằm vùng nên năm 1958, Lê Duẩn được cử vào miền Nam nghiên cứu tình hình, hầu mong cứu vãn tình thế. Bản phúc trình của Lê Duẩn gửi Bộ Chánh Trị ở Hà Nội: Đề cương cách mạng miền Nam khẳng định chỉ có một đường lối duy nhứt để cứu vãn tình thế ngõ hầu Cộng Sản hóa miền Nam là phát động một cuộc chiến tranh giải phóng, một cuộc chiến toàn diện trên mọi lãnh vực: kinh tế, chánh trị, quân sự. Lập tức các đảng viên nằm vùng được lệnh moi vũ khí chôn dấu, lập các mật khu trong rừng núi, bắt đầu gây loạn ở miền Nam, bằng cách khuấy động, khủng bố tàn bạo tại các vùng quê theo đúng sách lược của Cộng Sản Trung Quốc: Lấy rừng núi chế ngự nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị. Gây xáo trộn trên toàn miền Nam về phương diện chánh trị là kế hoạch hàng đầu bên cạnh các áp lực về quân sự.
Tháng 5 năm 1959, Cộng Sản Bắc Việt cho mở lại đường mòn Hồ Chí Minh để bắt đầu chuyển vận võ khí, quân đội và cán bộ Cộng Sản vào thâm nhập miền Nam. Ngày 21 tháng 12 năm 1959, cái gọi là Mặt Trận Giải phóng Miền Nam chánh thức ra đời, đánh đấu một khúc quanh quan trọng của những điên loạn giải phóng giết người do Cộng sản Việt Nam gây ra cho dân tộc. Nằm đúng trong sách lược của Bắc Việt, hậu phương miền Nam bị chúng làm xáo trộn bằng đủ mọi cách, bằng các cuộc biểu tình, xuống đường đòi đưa chánh trị ra khỏi các sanh hoạt như tôn giáo, học đường…Hầu hết, nếu không nói là tất cả, các phong trào chống đối đều bị Cộng Sản xâm nhập. Mục tiêu chánh trị hàng đầu của Cộng Sản là làm cho miền Nam trở nên bất ổn định, càng bất ổn định chừng nào thì càng tốt cho công cuộc Cộng sản hóa chừng đó.

Trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam, chống lại cuộc xâm lăng của Cộng Sản, người Việt Quốc gia đã thua cuộc, để Cộng Sản thống trị cả nước từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Có nhiều nguyên nhân đưa đến sự thất trận của miền Nam . Các nguyên nhân này đã được nói tới rất nhiều kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một trong những nguyên nhân đưa đến sự xụp đổ của miền Nam, theo chúng tôi, là sự kém hiểu biết về hiểm họa Cộng Sản. không thấy được tầm quan trọng và nhiệm vụ của mỗi người trong việc bảo vệ quê hương. Điều đó đưa đến việc thờ ơ, không tích cực tham gia trong cuộc chiến đấu một mất một còn với Cộng Sản. Có nhiều người đã nhìn cuộc chiến với cặp mắt bàng quang, không mấy quan tâm, dấu mình trong cái vỏ không làm chánh trị như Đỗ Sinh trong truyện xưa. Họ coi cuộc chiến bảo vệ tổ quốc là cuộc chiến của riêng những người lính. Nay phần lớn đã thức tỉnh, nhưng thức tỉnh vào giờ thứ 25 của trận chiến. Than ôi quá muộn màng!!
Cuộc chiến Quốc-Cộng 1954-1975 là cuộc chiến mà người Quốc Gia đã thua từ đầu ngay khi Hiệp định Genève được ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 còn chưa ráo mực. Ta thua vì nhiều lý do nhứt là ta không được người bạn đông minh Hoa Kỳ cho phép thắng. Nhiệm vụ bảo vệ quê hương đè nặng trên vai người lính. Họ chiiến đấu nhưng không được phép thắng, chỉ được phép tự vệ khi bị địch tấn công. Trong những ngày cuối của tháng 4 năm 1975, họ đã chiến đấu trong bi thảm, trong đáy cùng của tuyệt vọng, Ta phải cảm ơn họ, các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, họ đã đơn độc chiến đấu. Mặc dù bị phản bội từ nhiều phía, họ đã giữ vững Miền Nam được 21 năm.

Cuộc di cư vĩ đại bỏ nước ra đi sau ngày miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản là một hành vi chánh trị, một lập trường chánh trị. Đó là khẳng định không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản.

Trên thực tế, cuộc chiến chống Cộng Sản chưa chấm dứt. Mặt trận chống Cộng đã thay đổi hình thái. Hiện nay cuộc chiến Quốc - Cộng được trải dài trên khắp thế giới.Trong suốt cuộc chiến 1954-1975, người Quốc gia chúng ta bị bắt buộc chỉ ở thế phòng thủ, không được phép tấn công, không được Hoa Kỳ bật đèn xanh cho phép đem chiến tranh ra tận hậu phương của quân xâm lăng, tức là miền Bắc của vĩ tuyến số 17. Bây giờ thế trận đã khác, hiện nay người Việt Quốc Gia đang đối đầu với bọn Cộng Sản - đối đầu trong thế công- tại khắp mọi nơi trên thế giới, tại bất kỳ nơi nào mà bọn hậu duệ của “Bác Hồ” héo lánh tới. Trong cuộc chiến mới mẻ này, chúng ta hoàn toàn không tùy thuộc vào đồng dollars, chúng ta không bị các chủ nhân ông sai khiến. Chúng ta đã và đang thắng bọn Cộng Sản tại bất cứ nơi nào họ đặt chân tới. Chúng ta đang giữ thế chủ động. Nơi nào có người Việt Quốc gia cư ngụ là nơi đó có ngọn lửa chống Cộng. Tại khắp mọi nơi trên thế giới tự do, ta không thấy một Cộng đồng thân cộng nào cả. Trên thế giới, bất cứ một lãnh tụ nào khi đến thăm viếng một nước tự do cũng được đồng hương của họ long trọng tiếp đón. Trái lại, lãnh đạo của Việt Nam Cộng Sản, khi đến bất kỳ một nước tự do nào khác, như Thủ tướng Cộng Sản Phan Văn Khải sang Hoa Kỳ, đều phải trốn chui trốn nhủi, không dám gặp đồng hương.
Cộng Sản đã áp đặt chế độ vô sản lên dân tộc ta bằng bạo lực, bằng phá hoại, bằng giết người một cách man rợ. Nói dối và giết người tàn bạo không gớm tay là sở trường của Cộng Sản. Nay sở trường khốn nạn đó trở nên vô dụng khi họ phải đối đầu với đám Người Việt di tản đang sống tại các nước tự do Ta phải nhìn nhận rằng các cuộc tranh đấu, biểu dương lực lượng, các cuộc vận động dư luận của người Việt Hải ngoại, tuy chưa thành công làm tan vỡ đảng ăn cướp Cộng Sản Việt Nam, đã thành công trên nhiều phương diện, thí dụ :

- CS Bắc Việt đã không dám làm cuộc tắm máu ở Miền Nam như Cộng Sản Cao Miên đã làm ở xứ Chùa Tháp khi chiếm được nước này.
- Cộng Sản Việt Nam đã không dám tự do giết người như họ đã từng làm trong quá khứ.
- Cộng Sản Việt Nam đã không dám đàn áp môt cách công khai các thành phần dân chúng không đồng ý với họ.
- Cộng Sản Việt Nam , dưới áp lực của Hoa Kỳ và của thế giới tự do, đã phải thả hết tù cải tạo. Áp lực đó, sở dĩ có được là nhờ các vận động của người Việt Hải ngoại.
- Cũng vì nhờ sự vận động nói rõ sự thực về con người Hồ Chí Minh trước dư luận thế giới của người Việt Hải ngoại khiến tên tội đồ của lịch sử dân tộc này không được UNESCO của Liên Hiệp Quốc tôn vinh là danh nhân của thế giới.
- Qua các cuộc vận động, tố cáo của người Việt tị nạn, công luận thế giới đã biết rõ về bản chất lưu manh, tráo trở, gian dối, độc tài chà đạp nhân quyền của những người Cộng Sản Việt Nam. Thí dụ tấm hình Cha Nguyễn Văn Lý bị Công An bịt miệng trong một cái được gọi là phiên toà tại Huế đã được truyền đi khắp thế giới, tố cáo nền Công lý bịt miệng của Cộng Sản Việt Nam .
Tại quê hương Việt Nam, sau 32 năm độc quyền cai trị đất nước, Cộng Sản đã phải thay hình đổi dạng nhiều lần (métamorphose) để sống còn. Nhứt là kể từ khi các chế độ Cộng Sản trên khắp thế giới cáo chung vào đầu thập niên 90.


”Công lý Bịt miệng” của CSVN”

Các người lãnh đạo mới của Cộng Sản Việt Nam tương đối có học thức hơn đám hậu duệ già nua của Hồ Chí Minh nên họ rất tinh ma trong việc độc quyền cai trị đất nước. Họ đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch để đối phó và khai thác đám người Việt quốc gia đang sống tại các nước tự do trên khắp thế giới. Nghị quyết 36, hoạch định các kế sách đối với đám Việt kiều di tản, là một trong muôn vàn mưu chước của Cộng Sản nhằm khống chế các Cộng Đồng người Việt Hải ngoại. Nào đổi mới, nào mở cửa, các chương trình du lịch, chấp nhận cho phép có quyền tư hữu, nới lỏng gọng kìm cai trị của chuyên chính vô sản…là những bước lùi chiến lược của Cộng Sản Việt Nam để được tồn tại. Xin cứ về du lịch, tiêu tiền ở Việt Nam nhưng tuyệt đối không được chống đối, đụng đến chế độ. Công An của họ có tai mắt ở khắp mọi nơi. Mọi mầm mống chống đối đều bị lực lượng Công An của họ dập tắt từ trong trứng nước. Mọi ý đồ thay đổi chế độ đều bị đàn áp một cách tàn bạo. Sau cùng tất cả đều trông cậy vào các áp lực đến từ bên ngoài, nhứt là các áp lực đến từ phía các người Việt Hải ngoại.
Người Việt Quốc gia vẫn chưa thành công trong mục tiêu tối hậu: đó là dứt điểm những người Cộng Sản Việt Nam , đem lại dân chủ, tự do cho đồng bào ở quê nhà. Vì đâu nên nỗi? Lý do nào đã giúp bọn phản dân hại nước vẫn nhởn nhơ trên quê hương ta?

Sau đây là một vài lý do đã khiến người Việt Quốc gia chưa thắng, và có lẽ sẽ không bao giờ thắng bọn Cộng Sản nếu vẫn chưa thức tỉnh và cảnh giác:

- Người Việt tị nạn Cộng Sản vẫn tiếp tục gửi tiền về Việt Nam, giúp đỡ đảng Cộng Sản. Ngay từ những ngày đầu tị nạn, chúng ta đã gửi tiền về giúp đỡ thân nhân còn kẹt tại quê nhà. Có ai lại không sót thương người thân đang gặp khó khăn đâu? CSVN có cả một hệ thống tổ chức qui mô để tóm thâu các số tiền gửi về quê nhà. Các trung tâm gửi tiền về Việt Nam mọc lên như nấm, tại tất cả các nước có người Việt tị nạn sanh sống. Khoảng những năm 80, CS đã đứng trên bờ vực thẳm của tan vỡ vì kinh tế lụn bại do bất tài và quản lý dở. Nhưng họ đã thoát hiểm chính vì tiền của chúng ta gửi về. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và đồng đảng đã thoát hiểm. Chánh sách đổi mới được phát động từ đó. Người Việt Hải ngoại hết bị gọi là lũ phản động, trốn khỏi nước để đi làm đĩ điếm. Chúng ta được CSVN gọi với một cái tên mỹ miều khúc ruột ngàn dặm. Hiện nay, mỗi năm các khúc ruột ngàn dăm gửi về quê độ 3 tỷ dollars USA . Ngoài ra, CSVN có trăm phương ngàn kế để dụ dỗ chúng ta mang tiền về Việt Nam : du lịch, đầu tư, các chương trình được gọi là chương trình từ thiện…..

- Bản tánh dễ quên của người Việt Quốc gia. Một số lớn người Việt tị nạn đã quên cái quá khứ tị nạn Cộng Sản của họ; quên những ngày vượt biên hãi hùng; quên những chết chóc của bạn bè, đồng đội, của người thân mà thủ phạm là các tên Cộng Sản. Điều tai hại là họ đã cố tình quên những đổ vỡ của quê nhà do CS gây ra. Họ đã và đang trở về Việt Nam hoặc để làm ăn, buôn bán với kẻ thù hoặc để hưởng thụ các thú vui vật chất để thỏa mãn thú tánh. Họ đã và đang làm hại cho chánh nghĩa của người Quốc gia. Hai vị Cựu Chủ tịch của một Hội đoàn chống Cộng khá nổi tiếng ở Montréal (Hội đoàn của những người đã cầm súng bảo vệ quê hương), đã đầu hàng CSVN để được về Việt Nam ăn chơi, du hý. Chỉ mới cách đây vài năm, mọi người trong Cộng Đồng còn tin tưởng 2 vị Cựu CT này thuộc nhóm của những người thề không đội trời chung với Cộng Sản. Nay mọi sự đã đổi thay, lời thề năm nào đã thành chuyện của quá khứ, nên chôn vùi đi là hơn. Cơn nguy biến đã qua, người ta không mấy khi nhớ những gì đã hứa (Le péril passé, on ne se sousvient guerre de ce qu’on a promis ) như người xưa đã nói. Một số tên tuổi trong các Cộng Đồng người Việt tị nạn như Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu… đã về Việt Nam, đầu hàng những kẻ thù cũ. Họ đã muối mặt phủ nhận cái quá khứ chiến đấu chống Công để đánh đĩ tâm hồn, thốt lên những lời ca tụng những kẻ đang phá hoại quê hương.

- Thời gian là yếu tố bất lợi cho những người chống Cộng. Sau hơn 30 năm tại Hải ngoại, số người chống Cộng nhiệt tình nhứt càng ngày càng bớt đi vì tuổi tác, bệnh tật. Tinh thần Quốc gia chống Cộng sẽ không còn ở thế hệ thứ hai, thứ ba. Các thế hệ đó được sanh ra, lớn lên và trưởng thành tại các xứ tự do. Họ không có kinh nghiệm sống với Cộng Sản, không có một quá khứ chống Cộng như cha ông của họ. Trái lại tại quê nhà, các con cháu của những tai to mặt lớn Cộng Sản được huấn luyện để kế nghiệp cha ông, tiếp tục cầm quyền ở Việt Nam . Vì mệt mỏi và tuổi tác nên một số Hội đoàn bị khủng hoảng lãnh đạo, tìm không ra người gánh vác công việc chung. Cộng Sản đã lợi dụng khủng hoảng này để từ từ đưa người của chúng hay đưa người có cảm tình với chúng vào các vị trí lãnh đạo. Khủng hoảng lãnh đạo đã khiến một Hội đoàn có quá trình hoạt động và lập trường chống Cộng khá vững chắc tại Montréal đã lần lượt chịu đựng 2 Chủ tịch rất kém tài đức, không có phong thái của người lãnh đạo, chưa nói đến khả năng. Một ông Chủ tịch một Hội đoàn khác đã vì quyền lợi cỏn con của gia đình mà hi sinh danh dự cuả cả cộng đồng người Việt chúng ta tại đây, trước chính quyền và người dân điạ phương, nhưng ông vẫn được bầu ra vì không có người nào ra ứng cử, ngoại trừ ông.

- Kế hoạch xâm nhập các Cộng Đồng tị nạn tinh vi của Cộng Sản
Kế hoạch xâm nhập các CĐ của CS rất tinh vi. Một thí dụ theo nghị quyết 36 của chúng:Tích cực đầu tư cho các chương trình dậy tiếng Việt cho người Việt ở nước ngoài. Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhứt là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn…Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài như đài phát thanh, truyền hình và internet…Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở nước ngoài. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài .

Tác dụng của nghị quyết 36 đã được cảm thấy tại Montréal. Ngay tại Montréal, một số các hội đoàn (như Gia đình Giáo chức, Hội Phụ nữ…) công khai tuyên bố không làm chánh trị tức là không chống Cộng Sản. Họ từ chối tham dự mọi sanh hoạt có tánh cách biểu dương lập trường quốc gia của người Việt tị nạn. Mới đây, một Hội đoàn quốc gia rất có uy tín tại Montréal đã bầu một vị Chủ tịch mới để thay thế Chủ tịch tiền nhiệm vừa đột ngột từ trần. Chủ tịch đắc cử qua cuộc bầu cử độc diễn này là người đã và đang buôn bán công khai với Cộng Sản Việt Nam từ hàng chục năm qua. Trong quá khứ, người ta chưa bao giờ thấy vị CT này có mặt trong các hoạt động chánh trị của Cộng Đồng. Các thắc mắc về các hoạt động buôn bán với Cộng Sản của vị Tân Chủ tịch đều bị cố tình lờ đi, bảo rằng: Hội ta không làm chánh trị. Các ténors của hội đã không ngớt lời ca tụng vị CT mới này, khẳng định tính cách phi chánh trị của Hội. Phải chăng phi chánh trị có nghĩa là nếu Cộng Sản thiệt lên làm CT cũng không sao ?

Cuốn sách giới thiệu các hoạt động của một Trung tâm văn hóa (?) tại Montréal đầy các từ ngữ Cộng Sản. Thí dụ Ban Giám Đốc được họ gọi là Ban Giám Hiệu, y hệt ngôn ngữ của Cộng Sản tại Việt Nam . Chủ tịch của Trung tâm đã đi đi về về Việt Nam như đi chợ, Chủ tịch tuyên bố về Việt Nam để tìm tài liệu cho cơ sở (?). Cờ quốc gia mầu vàng ba sọc đỏ ít được họ nghiêm chào trong các buổi sanh hoạt. Chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên, một ngày nào đó họ sẽ cho trưng bầy lá cờ máu của Cộng Sản để chào.

Ban Điều hành của một tờ báo có số phát hành khá cao tại Montréal đã không bao giờ cho đăng tải các bài viết có ý tưởng chống Cộng. Lý do: Báo của chúng tôi không làm chánh trị. Nhưng họ đã cố ý tổ chức Đại nhạc hội đúng vào ngày sanh nhựt của Hồ Chí Minh: 19 tháng 5. Vô tình hay cố ý đây? Phải chăng CS đã âm thầm theo đúng nghị quyết 36 để mua đứt tờ báo? Hay Ban Chủ trương của tờ báo đã bán linh hồn cho quỉ dữ CS?

Những hội đoàn và những cá nhân từng tuyên bố “không làm chính trị” hay thậm chí làm ăn, giúp đỡ, che chở, kinh tài cho CS hãy nhớ kỹ tấm gương của người dân vô tội Huế, gương cuả bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) trong cải cách ruộng đất (che chở cho “bác” và các đồng chí cuả “bác” để rồi cũng bị xử tử), hay gương cuả một ông duợc sĩ nọ ở Saigon trước 75, đã mua thuốc trị bệnh cho “bác” để rồi khi CS chiếm miền Nam cũng bị đánh tư sản như thường. Cái gương đau đớn nhất cuả các ông bà trí thức trong Mặt Trận giải phóng miền Nam hãy còn ngờ ngờ đó. Quí vị đừng mơ tưởng khi CS đã chiếm đoạt được sự lãnh đạo người Việt hải ngoại nhờ thái độ “khôn ngoan” (hay hèn nhát?) “không làm chính trị” của quí vị là họ sẽ tiếp tục để quí vị vẫn lãnh đạo các Hội đoàn của quí vị và tiếp tục hợp tác hay sử dụng quí vi nữa.


Trong cuộc đấu tranh chống CS, người Việt quốc gia tại Hải ngoại khó đạt được thắng lợi, nếu không nói là sẽ thất bại, vì chính chúng ta không muốn thắng lợi :
- chúng ta vẫn cung cấp, bằng cách này hay cách khác, tiền bạc cho kẻ thù.
- chúng ta tiếp tục đầu hàng kẻ thù, về VN để làm ăn, buôn bán, tìm thú vui
- chúng ta không dấn thân hoạt động để kẻ thù càng ngày càng thành công len lỏi trong hàng ngũ của chúng ta
- trong tập thể của chúng ta vẫn có người kêu gọi PHI CHÁNH TRỊ tức là từ chối tham dự mọi hoạt động có tính cách chống Cộng trong tập thể người Việt tha hương vì họa Cộng Sản tại quê nhà.
- thời gian là yếu tố bất lợi (le temps joue contre nous) cho chúng ta. Bệnh tật, tuổi tác, sức khỏe hao mòn với thời gian sẽ làm hàng ngũ của chúng ta càng ngày càng thưa vắng. Đã hơn 30 năm rồi mà kẻ thù vẫn nhởn nhơ trên quê hương.
Chúng ta đã đánh mất một nửa quê hương năm 1954, chúng ta đã mất cả quê hương năm 1975 vì chúng ta không có quyền lấy quyết định điều khiển cuộc kháng Cộng, vì chúng ta bị địch cấy độc tố không làm chánh trị. Nay chúng ta đang đứng trước viễn tượng có thể sẽ thua cuộc một lần nữa, nhưng thua cuộc lần này là do lỗi của chính chúng ta:

Chúng ta đã và đang trợ giúp kẻ thù bằng cách này hay cách khác.

Montreal 06/07/2007
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »


Image

Đi Xem Mắt Vincent Van Gogh

LM. TRẦN CAO TƯỜNG
Cách đây mấy năm, tôi được một người bạn xếp đặt để đi thăm bức tranh mắc tiền nhất thế giới, trị giá 53 triệu tiền Mỹ, đã được nhà tỷ phú Paul Getty mua về để tại trung tâm Paul Getty (Paul Getty Center) ở Los Angeles, California. Đó là bức Irises (Hoa Cầu Vồng) của họa sĩ Vincent van Gogh gốc người Hòa Lan.

Điều buồn cười là người bạn này ở không xa trung tâm Paul Getty bao nhiêu, thế mà chẳng hề nghe nói tới, cho đến khi người mãi ở xa đến hỏi thì mới bắt đầu đi dò tìm. Mà đi thăm bức tranh này cũng thật công phu vất vả. Phải gọi điện thoại giữ chỗ trước. Rồi phải đậu xe ở xa thật xa để lên xe của trung tâm chở tới trạm xe điện dưới chân đồi ở phía tây Los Angeles. Từ đây, xe điện mới chuyển du khách lên đỉnh đồi, trườn mình chạy quanh co tạo cảm giác đi vào một thế giới khác như tâm tình của Từ Thức ngày xưa được dẫn vào động Thiên Thai.

Bước chân vào trung tâm Paul Getty, chúng tôi hỏi ngay "bức tranh Irises hiện đang ở đâu?" Đi vòng vòng mãi mới thấy đây rồi, bức tranh treo giữa phòng triển lãm hội họa của những họa sĩ nổi tiếng như Monet, Renoir, Degas... Cảm tưởng đầu tiên cũng giống như ba nhà đạo sĩ trong câu truyện đi tìm Chúa Hài Nhi là chỉ thấy một đứa bé mới sinh bọc trong khăn vải thô để trong máng chuồng chiên: Vậy mà đứa bé này là Đấng Cứu Thế sao? Vậy mà bức tranh này trị giá 53 triệu à?

Người ta tấp nập ngó tới ngó lui, ngồi xuống đứng lên, nét mặt ra chiều đăm chiêu thưởng ngoạn, nhưng trong bụng thì vẫn chưa nắm bắt được bao nhiêu! Mình đã từng xem những bức tranh nổi tiếng của Vincent van Gogh, như bức Đêm Sao (Starry Night) trong Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật Tân Thời (MOMA) ở phố New York, như bức bác sĩ Gachet, Hoa Hướng Dương tại Bảo Tàng Viện Orsay ở Paris. Mình cũng đi tìm vết chân của nhà hội họa kỳ lạ này từ "Ga Lyon đèn vàng" lấy xe lửa TGV tốc hành đi Arles rồi St Rémy miền nam nước Pháp, nơi Vincent van Gogh đã vẽ những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới vào năm 1888-1889. Rồi lộn lại Paris tìm lên Auvers-sur-Oise phía bắc nơi ông ta sống những ngày cuối đời bên cạnh cánh đồng lúa vàng. Đây, ngôi mộ của họa sĩ Vincent van Gogh với biết bao bó hướng dương do du khách vẫn tới thăm mang theo để tỏ lòng ái mộ nhà nghệ sĩ tài danh nhưng mệnh yểu. Ông sống nghèo nàn, cả đời chỉ bán được một bức tranh mấy chục Mỹ kim, nên phải cậy dựa vào người em giúp đỡ. Vậy mà bây giờ, sau hơn một trăm năm, người ta đưa những bức tranh của ông ra bán, bức nào cũng cả mấy chục triệu Mỹ Kim. Điều gì lạ vậy?!

DẤU CHỈ TỪ NHỮNG NGƯỜI ĂN KHOAI

Paul Getty cũng như người mua bức tranh Hoa Hướng Dương 42 triệu Mỹ kim không khoe của phách lối đâu. Cả đời bon chen bòn tiền làm tỷ phú rồi cuối cùng Paul Getty cũng nhận ra rằng một bông hoa trong vườn nhà mình cũng đáng giá 53 triệu. Đó là cái nhìn và cái thấy của Vincent van Gogh. Thế ra xem tranh lại chẳng phải là xem tranh mà là đi xem mắt. Bức tranh Irises giá trị vì biểu hiện được hướng nhìn đó, làm cho mọi vật hiện lên nét đẹp tự thân, thành một bài ca vũ trụ như của thánh Phan Sinh với anh mặt trời, em mặt trăng.

Ông ta theo hướng nhìn của một họa sĩ khác cũng người Hòa Lan là Rembrandt. Đang khi thời đó người ta chỉ biết đề cao những nét giầu sang nơi hàng quan quyền, chỉ vẽ hình những vị hoàng đế, hoàng hậu hay công chúa, thì Rembrandt vẽ một bức tranh gây trào lưu cách mạng: một tảng thịt bò treo lủng lẳng. Tại sao chỉ có nhà vua mới đáng quí trọng? Một đứa bé nhà quê, một đùi thịt cũng đẹp cũng quí vậy. Cái gì được tạo dựng cũng cao đẹp, cũng quí báu. Ông vẽ những bức chân dung với một lối chơi ánh sáng mới: ánh sáng từ bên trong tâm hồn, từ nét đẹp nội tâm hơn cái ánh sáng bên ngòai. Vì thế những ai học về nghệ thuật chụp hình ngày nay đều phải qua một bài về vẽ bằng ánh sáng, gọi là ánh sáng Rembrandt.

Vincent van Gogh lớn lên với ý định làm thầy giảng đạo. Ông đã được phái đi thực tập làm tuyên úy cho đám phu hầm mỏ nghèo khổ thấp cổ bé miệng tại vùng Borinage bên Bỉ. Ở đây ông chứng kiến những cảnh cùng khổ nên bắt đầu vẽ những bức đầu tiên về những người lao động vất vả đen đủi chân tay nhưng đẹp đẽ tâm hồn. Ông đề cao những gì mà người đương thời hay ngay cả tôn giáo của ông vẫn coi thường. Tin Vui ông loan báo là tin vui đích thực cho người nghèo khổ, nhưng dễ gây xáo trộn đẳng cấp, chính vì thế mà ông bị sa thải không được phép giảng đạo nữa.

Thế là Vincent van Gogh đi tìm phương cách khác: diễn đạt cái nhìn và cái thấy bằng nét vẽ. Ông học vẽ và bắt đầu vẽ với một cái nhìn quá khác nên tranh của ông chẳng ai thèm ngó và mua. Có một câu truyện vui là một hôm ông bị lên cơn bệnh bất thường phải vào nhà thương ở Arles vào tháng12 năm 1888 và được bác sĩ Félix Rey tận tâm chữa trị. Sau khi xuất viện, ông đã vẽ bức tranh chân dung bác sĩ Rey để cảm ơn ông. Bác sĩ Rey thấy bức tranh có vẻ buồn cười thì không biết treo đâu, bèn đưa về chắn chuồng gà cho mẹ. Vậy mà bây giờ bức tranh chắn chuồng gà này cũng được moi ra bán với giá kỷ lục.

Bức tranh Những Người Ăn Khoai đã ghi mốc cho việc chuyển đạt Tin Vui của Đạo bằng hội họa. Ông vẽ một gia đình nông dân nghèo nàn mộc mạc đang ngồi ăn bữa tối quanh cái bàn ọp ẹp với ngọn đèn leo lét. Khuôn mặt của những người này có vẻ thô kệch với những bàn tay xương xẩu sứt sẹo. Nhưng ông diễn được nét đẹp lật ngược: họ vẫn đẹp, với cái đẹp thực. Củ khoai do chính tay họ trồng và đào lên với mồ hôi, với da cằn lại. Nhưng đẹp thực, đẹp quá. Cái đẹp không giả tạo ước định như nhiều cái đẹp đương thời.

TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ VÍT TRONG HẦM

Không được làm thầy giảng đạo bằng môi miệng, Vincent van Gogh vẫn tiếp tục bằng nét vẽ. Ông đã chuyển đạt Tin Vui của Đạo cho những người làm hầm mỏ thấp cổ bé miệng, cho những người lao động lam lũ, cho những người bị vít nhãn quan trong hầm tối, để thấy được vẻ đẹp và hạnh phúc giản đơn chân thực. Chính vì thế mà tranh của ông bây giờ được mua với giá thật cao. Đúng là dấu chỉ của thời đại, khi người ta bắt đầu tìm về những gì quí trọng mà Chúa Trời Đất đã trao ban sẵn sàng: một nụ cười, một bông hoa, một cử chỉ yêu thương, bác ái... tất cả đều quí hơn bất cứ chiếc nhẫn kim cương nào, đâu có phải bon chen chèn cựa vất vả biến xã hội thành phức tạp một cách ghệ rợn như hiện tại.

Henri Nouwen, một nhà tu đức nổi tiếng gốc người Hòa Lan dạy đề tài “Việc truyền đạo của van Gogh” tại đại học Yale, đã chứng nghiệm được sức cảm hóa lòng người của những bức tranh van Gogh. Henri Nouwen đã nói rõ trong lời đề tựa cho cuốn “van Gogh and God” của Cliff Edwards (Loyola University Press):
“Tôi chắc chắn rằng những lớp dạy về van Gogh này đã ảnh hưởng sâu đậm trên các sinh viên hơn bất cứ khóa nào tôi đã dạy. Tôi đã dùng nhiều sách tu đức hiện đại như của Thomas Merton, nhưng tôi chưa từng thấy những sinh viên bị hút hồn về cả đầu óc và con tim, như trong khóa này khi nhìn kỹ những bức tranh của van Gogh. Tôi còn nhớ, chúng tôi đã để cả mấy giờ cùng với nhau trong thinh lặng, chỉ để nhìn ngắm những bức dương bản của tác phẩm Van Gogh. Tôi không phải cố gắng giải nghĩa hay phân tích gì cả. Tôi chỉ muốn các sinh viên hãy cảm nghiệm trực tiếp những hút hồn và những quằn quại của họa sĩ này đang cố đi tìm ý nghĩa cuộc sống... Thiên Chúa của Van Gogh rất thật, rất trực diện, sờ thấy được nơi thiên nhiên và con người, rất từ bi thương cảm, vì đã từng rất yếu đuối bị thương tích tư bề. Chính vị Chúa này mà tất cả chúng ta muốn đến gần.”

PHÚT TỊNH TÂM

Đúng thế. Chính vị Chúa này đã cho phép mỗi người chúng ta được gọi ngài là Bố, là Ba. Tiếng gọi "bố ơi" nghe đậm tình làm sao! Nhận ra Bố mình giầu có đầy quyền năng luôn có mặt yêu thương săn sóc bên cạnh mình, là một khám phá mới nhất, vẫn gọi là khám phá của con mắt niềm tin, bật sáng từ hầm tối tù mù. Chính vì thế mà mở đầu cho mọi lời cầu nguyện, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến Kinh Lạy Cha, là bày tỏ được thái độ căn bản tình nghĩa Cha-Con, tin tưởng tuyệt đối vào tình Chúa: "Cứ xin thì các con sẽ được; cứ tìm thì các con sẽ thấy; cứ gõ cửa thì sẽ mở cho các con vào. Vì bất luận ai xin, cũng sẽ được; ai tìm cũng sẽ thấy; ai gõ thì cửa sẽ mở cho mà vào. Trong các con, có người cha nào nỡ cho con mình hòn đá khi con xin bánh? Hay đưa cho nó con rắn khi nó xin con cá? HƠoặc đưa cho nó con bọ cạp khi nó xin quả trứng? Nếu các ngươi, những kẻ bất thiện là thế, mà còn biết cấp cho con cái mình những quà tốt, phương chi Cha trên Trời lại sẽ không ban Thánh Linh cho những ai kêu cầu ngài hay sao?" (Luca 11:9-13)

Mọi sự đã được Chúa Trời Đất là Bố mình trao ban, bỗng trở thành quí báu, từ cái bút đang cầm, căn phòng đang ở, cái ghế đang ngồi, hơi thở đang lãnh nhận mỗi phút giây... và niềm sung mãn của người được làm con của Chúa, được sinh ra trên trái đất này. "Chính trong Ngài mà chúng ta được sống, cử động và tồn hữu." (TĐCV 17:28).
Chính cái nhìn và cái thấy như vậy đã khiến cho những bức tranh của họa sĩ Vincent Van Gogh mắc tiền làphải. Và mỗi người bỗng dưng nhận ra mình thật giầu có, thành triệu phú, tỷ phú, thành hoàng tử hay công chúa của vua hoàn vũ.
Với nhãn quan này, con bắt đầu thực tập bằng lời cảm ơn cho mỗi hơi thở được trao ban để con được sống.

Lm. Trần Cao Tường
(từ tác phẩm Nhịp Múa Sông Thanh, Thời Điểm xuất bản - mời thăm www.dunglac.net, Mạng Lưới Dũng Lạc, góp tư liệu xây nhà Văn Hóa & Niềm Tin.)
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Thùng Thuốc Súng Trung Đông

SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIẾT KHÁNH .
Sau khi hé mở một cánh cửa cho Iran vào Iraq để tìm cách chấm dứt nạn bạo động chém giết hệ phái, Mỹ đã làm gì? Ngoại trưởng Condoleezza Rice và Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tuần này đã đến Ai Cập để họp với các nước Á rập. Hai bộ trưởng cao cấp nhất trong chính phủ Bush cùng đi một lượt cho thấy đây là một cuộc vận động rất quan trọng. Mục tiêu chính là thúc đẩy các nước đồng minh Á Rập phải làm nhiều hơn nữa để ổn định Iraq. Mỹ đã nhiều lần yêu cầu các nước có ảnh hưởng đến Iraq gia tăng nỗ lực về mặt này, nhưng cho đến nay các Á rập Trung Đông chỉ tìm cách thoái thác hay làm rất ít.

Trước khi rời khỏi Mỹ bà Rice đã loan báo viện trợ quân sự cho Ai cập 10 tỷ đô-la liên tục trong 10 năm tới, cũng bằng với mức độ TT Bush đã cấp trong 6 năm qua. Ngoài ra các giới chức Quốc phòng cho biết Mỹ sẽ bán ít nhất 20 tỷ đô-la vũ khí cho Á rập Sê-út (Saudi Arabia) và các nước trong vùng Vịnh, đồng thời sẽ có thêm các viện trợ khác trong vòng 10 năm tới. Mục đích chính là ổn định Iraq và chống lại tư thế đang lên của Iran. Cán cân thật huyền diệu. Vì sau khi hé mở cửa cho Iran với gốc dân Ba tư thuộc hệ Shi-a có cái đầu cầu ở Iraq để tiến vào vùng của người Á rập theo hệ Sun-ni, nay chính phủ Bush lại đề nghị viện trợ cho các đồng minh Á rập được có cả một kho vũ khí để chống lại thế đi lên của Iran.

Thế nhưng khi các nước Á rập được tăng cường quân sự mạnh như vậy, Israel của người Do thái sẽ nghĩ sao? Ở đây lại có có một cán cân huyền diệu khác. Cùng lúc tiếp tục giúp các nước Á rập, Mỹ đề nghị gia tăng thêm 25% viện trợ quân sự cho người Do thái lên đến 30 tỷ đô-la trong 10 năm tới. Như vậy là "huề cả làng". Chỉ có khổ là khi hai ông Á rập và Do thái đều được có những thùng thuốc súng riêng như vậy, họ đem ra dùng để choảng nhau thì sao? Mỹ đã tính đến viễn tượng đáng sợ này rồi. Trong cuộc họp tuần này ở Sharm el-Sheikh, cảng nghỉ mát của Ai Cập, Mỹ đã cùng Ai Cập, Jordan và 6 nước vùng Vịnh ký một tuyên ngôn chung ủng hộ sáng kiến của các nước Á rập năm 2002, coi như nền tảng của thế hòa Á rập-Do thái. Theo sáng kiến này, Israel được mở quan hệ bình thường với tất cả các nước Á Rập, đổi lấy việc Israel phải rút quân ra khỏi các vùng chiếm đóng ở Palestine trong cuộc chiến tranh năm 1967.

Căn bản của thế hòa này là ở Palestine sẽ có hai nước độc lập chung sống hòa bình bên nhau. Cố nhiên là người Á rập phải nhìn nhận Do thái có quyền sống như một quốc gia và Do thái phải trả lại đất cho người Á rập Palestine. Vậy tại sao cho đến nay hòa bình vẫn không thành? Đó là vì các nhóm đấu tranh cực đoan như Hamas và Hezbollah của người Á Rập, kể cả Syria tiếp giáp với Israel ở Cao nguyên Golan vẫn chống lại việc nhìn nhận Israel. Vì thế Israel vẫn không chịu rút quân. Nhưng mới đây tình thế đã có chuyển biến tốt. Hồi tháng 6, sau khi Hamas nổi loạn chiếm dải Gaza, Tổng Thống Palestine Mahmoud Abbas thuộc đảng Fatah đã lập chính phủ mới và loại trừ Hamas. Bây giờ các nước Á rập - trừ Syria - đã thừa nhận chính phủ Abbas. Israel, dưới quyền Thủ tướng Olmert, cũng đã thừa nhận Abass để tiếp tục cuộc thương thảo hòa bình giữa hai bên. Trước đây Israel không chịu nói đến rút quân, nhưng nay đã ngỏ ý chấp nhận việc rút quân có thể dùng làm căn bản thương thuyết với chính phủ Abbas.

Để làm yên lòng các Á rập về sức mạnh quân sự của Israel, bản tuyên ngôn chung Mỹ-Á Rập tuần này đã nhấn mạnh Hiệp ước chống sự làn tràn của vũ khí nguyên tử cần phải được phổ biến cho tất cả các nước trên thế giới. Điều này có lợi cho các nước Á rập vì đây là lời kêu gọi gián tiếp Israel cũng phải từ bỏ vũ khí nguyên tử. Nó cũng có lợi cho Mỹ, vì Mỹ đang làm áp lực với Iran để buộc nước này phải chấm dứt mọi toan tính chế tạo bom nguyên tử. Hai sức mạnh quân sự là Israel ở phía Tây và Iran ở phía Đông như hai gọng kìm kẹp Trung Đông vào giữa, nếu bị vô hiệu hóa về vũ khí nguyên tử, dân Á rập làm sao không vỗ tay hoan hô? Vấn đề Do thái là nguyên nhân chính tạo ra các cuộc xung đột và biến động dai dẳng ở Trung Đông từ sau Thế chiến II, và từ lâu cũng là cái cớ để al-Qaida và các phe Hồi giáo cực đoan khác nêu ra để kêu gọi Thánh chiến. Bởi vậy chân lý chiến lược là muốn có ổn định và chấm dứt nạn chém giết hệ phái ở Iraq, trước hết phải giải quyết cuộc xung đột Do thái-Á rập ở Palestine.
Dù vậy về chiến tranh Iraq, không thấy mấy ông láng giềng Á rập đưa ra một lời cam kết rõ rệt nào. Họ chỉ nhắc lại lời hứa có tính tổng quát là tìm cách ổn định tình hình Iraq và hứa sẽ giúp Iraq nhẹ bớt gánh nặng nợ nần quốc tế, có thêm ngoại viện để xây dựng lại nước khi có hòa bình. Còn về những đề nghị viện trợ vũ khí của Mỹ giống như tạo một thùng thuốc súng khổng lồ, không thấy nói nước nào đã chấp nhận. Sự thật nếu có nhận cũng phải qua một đợt thương lượng ngầm giữa Mỹ và nước nhận vũ khí, đây là bí mật quân sự. Thùng thuốc súng giống như một cái bánh vẽ, nó còn đó, nhưng nó không ở trên trời mà thấp lè tè ở ngay trên bàn. Khi ông nào muốn ăn thì cầm dao cắt một miếng, lúc đó bánh vẽ trở thành hiện thực.

Đề nghị của Mỹ làm nổi bật những mục tiêu chiến lược ở Trung Đông. Trước hết liên kết đồng minh với đồng minh, rồi chia rẽ kẻ thù với đồng minh, và sau hết chia rẽ kẻ thù với kẻ thù. Á rập và Do thái đều là đồng minh của Mỹ bao lâu nay chống nhau, nay có thể ngồi lại với nhau. Các nước Á rập đã nhìn thấy kẻ thù của họ là các bọn khủng bố như al-Qaida, Hamas, và Hezbollah chớ không phải Mỹ. Và ngay trước mắt, kẻ thù của Á rập là Iran. Vì thấm đòn nên Iran đã sớm ré lên: Tố cáo Mỹ đang tìm cách làm mất thế ổn định trong vùng. Còn al-Qaida có thể sẽ phản ứng bằng hành động. Vậy thùng thuốc súng sẽ đem lại hòa bình hay chiến tranh? Chưa thể biết kết quả. Nhưng ngay bây giờ có điều chắc chắn là thùng thuốc súng khi thành hiện thực sẽ có lợi cho các ông lái súng.

SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIẾT KHÁNH
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Tâm thư của một người trong nước
kính gởi đồng bào thân thương ở hải ngoại

Hoàng Trung Việt
Kính gởi đồng bào Việt Nam hải ngoại

Trong hoàn cảnh đầy khó khăn và gian nguy mà các phong trào đấu tranh trong nước đang phải gánh chịu. Thời gian qua với sự trợ giúp của đồng bào VN hải ngoại khiến cho chúng tôi những người đang dấn thân đối mặt với bạo quyền vô cùng cảm kích, sự trợ giúp này có đôi lúc khiến cho chính quyền CSVN phải lo sợ và càng lộ nguyên hình sự điêu ngoa giả dối của chúng trước công luận quốc tế.

Tuy nhiên, con đường đi đến thành công của chúng ta vẫn còn nhiều chông gai, đòi hỏi chúng ta phải có đầy đủ nghị lực kiên trì để vượt qua bằng tất cả khả năng sẵn có của mình. Chúng tôi muốn nói với quý vị rằng: cộng đồng VN hải ngoại là động lực chính không thể thiếu cho các phong trào đấu tranh trong nước. Với truyền thống hào hùng của dân tộc, chúng ta bắt buộc ĐCSVN phải trả lại sự công bằng, trả lại sự bình an và tự do mà bọn chúng đã dùng đường lối của CNCS độc tài, độc đoán áp đặt lên trên nhân dân VN, từ hơn 60 năm qua ở miền Bắc và hơn 30 năm ở miền Nam thân yêu của chúng ta.

"Nhiễu điều giữ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng"

Thật vậy, 2 câu ca dao trên vẫn còn văng vẳng bên tai của những ai mang trên mình giòng máu Việt. Thắm thoát mà đã hơn 30 năm kể từ ngày cộng sản chiếm được miền Nam. Cái ngày mà khi trực diện với thực tế, nhà văn Dương Thu Hương trong đoàn quân Bắc Việt vào tiếp quản thủ đô Sàigòn đã phải thốt lên bằng nước mắt rằng : cái ác đã thắng cái thiện giữa tiếng reo cười của đồng đội, cái ngày mà nhân dân miền Nam VN bước qua khúc quanh đen tối của lịch sử để tiếp nối con đường của nhân dân miền Bắc thân yêu đã chịu đựng 30 năm dài (1945-1975) dưới chế độ bạo tàn CS. Cái ngày mà hàng trăm ngàn quân nhân từ sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ cùng viên chức chính quyền VNCH phải bị đầy ải trong những nhà tù khắc nghiệt, trong đó số người bị hành hạ đến chết trong lao tù cho đến hôm nay cũng chưa thống kê hết. Cái ngày mà nơi yên nghỉ nghìn thu của các chiến sĩ VNCH trên khắp miền đất nước đã bị chính quyền CS san bằng để làm nhà ở, văn phòng, cơ quan, xí nghiệp. Cái ngày mà ĐCSVN kiểm kê và tịch thu tài sản của những người giàu có, khá giả dưới chiêu bài đánh tư sản mại bản, tịch thu đất đai của nông dân, thành lập hợp tác xã và vùng kinh tế mới, đẩy nhân dân vào con đường gian nan cùng cực. Cái ngày mà tiếp theo hàng thập niên sau hơn 2 triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do nơi đất lạ, trong đó không biết bao nhiêu người phải bỏ mình nơi biển cả bao la bởi hải tặc và giông bão ...
Ngược dòng thời gian trở về quá khứ để chúng ta ôn lại những hành động vô luân tàn bạo mà ĐCSVN đã gây ra trên khắp miền đất nước. Hàng trăm ngàn người phải chịu chết oan uổng trong cuộc cải cách ruộng đất (1954-1956) cùng với sự nổi dậy của nhân dân Thái Bình năm 1997, cuộc tàn sát với những mồ chôn tập thể vào Tết Mậu Thân 1968 của nhân dân cố đô Huế thân yêu, và những tội ác tầy trời mà nhân dân miền Nam phải chịu đựng trong suốt thời gian dài sau ngày 30/04/1975. Đây là những mất mát đau thương mà chúng ta không thể nào quên được.

Hôm nay, tất cả những người VN định cư ở các nước văn minh tiên tiến trên thế giới đang hưởng cái không khí trong lành tự do dân chủ, đang thành công trong sự nghiệp, đang có uy tín trên trường quốc tế. Kính xin quý vị với truyền thống hào hùng của dân tộc xin hãy bỏ qua mọi bất đồng để cùng nhau xiết chặc bàn tay hướng về quê nhà nơi có hơn 80 triệu đồng bào thân yêu trong đó có thân nhân bạn bè của mình đang ngày đêm phải chịu mọi bất công của chính quyền cộng sản.
Ngày ra đi của quý vị là ngày mà chính quyền CSVN cho quý vị là phản quốc, tài sản của quý vị để lại bị tịch thu, thân nhân con cái của quý vị được phân loại như những thành phần mà bọn chúng cho là ngụy quân ngụy quyền. Bây giờ khi quý vị đã thành công, có tiền gởi về giúp thân nhân và cứu trợ đồng bào thân yêu những khi bị thiên tai và nghèo đói, nhận thấy cuộc sống khá giả của đồng bào hải ngoại là một thực tế rõ ràng có thể giúp cho chính quyền CSVN tồn tại mãi mãi, do đó bọn chúng bắt đầu ve vuốt cho đồng bào VN hải ngoại là "Việt kiều yêu nước", là "khúc ruột ngàn dặm" để rồi kêu gọi xóa bỏ hận thù (nhưng riêng đảng thì vẫn độc quyền lãnh đạo), kêu gọi đầu tư xây dựng đất nước nhưng thực chất là để moi tiền Việt kiều củng cố chế độ.

Hàng ngày CS vẫn tuyên truyền trong nhân dân rằng: yêu tổ quốc là yêu đảng, đồng hóa đảng với đất nước là một, xây dựng đảng tức là xây dựng đất nước, cán bộ chính quyền, quân đội, công an mang danh nghĩa là của nhân dân, lãnh lương bằng tiền đóng thuế của nhân dân, nhưng thực chất là phục vụ riêng cho đảng. Do đó, trong thời gian qua mọi cuộc đàn áp tàn bạo và trắng trợn của ĐCSVN đối với các thành phần bất đồng chính kiến và tập thể dân oan là cũng vì bảo vệ đảng, vi phạm nghiêm trọng vào luật pháp quốc về những quyền tự do căn bản của con người, vi phạm luôn cả các điều khoản mà chính hiến pháp của đảng quy định….

Sự ve vuốt và dùng những chiêu bài xảo trá cùng những lời nói ngon ngọt để moi tiền Việt kiều, cho phát triển kinh tế thị trường nhưng phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một xã hội không còn phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, nếu hiện tại đồng bào hải ngoại nghèo không có tiền thì thử hỏi ĐCSVN có cho là "Việt kiều yêu nước" hay "khúc ruột ngàn dặm" nữa không? "Đừng tin những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm" câu nói này của cố TT Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn đúng để cho chúng ta suy gẫm. Chúng ta hãy nói cho con cháu của mình biết sự thật về chủ nghĩa cộng sản để cho thế hệ trẻ con cháu của chúng ta khỏi bị bọn gián điệp CS mê hoặc.

Chính quyền CSVN đã và đang lừa dối quốc tế bằng những lời hứa thực thi tự do dân chủ, nhân quyền, cam kết tham gia tất cả các công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, nhưng trên thực tế thì hoàn toàn trái ngược lại những gì đã hứa. Đường lối của CSVN hiện nay là vừa ra tay đàn áp thô bạo, bắt bớ, hăm dọa và dùng công an đóng vai xã hội đen hành hung các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước, vừa láo khoét viện dẫn nhiều lý do để khỏa lắp những việc làm sai trái của mình để đo lường phản ứng của quốc tế. Nếu quốc tế can thiệp mạnh thì bọn chúng hơi nương tay một chút xíu, để chờ thời gian đàn áp quy mô tàn bạo hơn khi quốc tế lắng yên ngừng chỉ trích. Bản chất của CSVN là như thế. Tôi nghĩ rằng tất cả những người VN hải ngoại, ngoài Nguyễn Cao Kỳ, nhạc sỹ Phạm Duy và một số rất ít nhỏ nhoi đã quay lưng lại với quê hương tổ quốc, phản bội lại lý tưởng mà đã một thời làm rạng danh họ, chớ còn đại đa số sẽ không bao giờ khuất phục trước bạo quyền.

Hiện tại ĐCSVN đã bắt gần hết những thành phần nồng cốt của các phong trào đấu tranh trong nước, những người chưa bị bắt thì bị quản chế và công an ngày đêm theo dõi gắt gao, ngoài ra con số mà tù nhân chính trị cô đơn không được quốc tế biết để bênh vực đang bị giam cầm khắp nơi trong nước có thể lên đến hàng trăm hoặc hàng ngàn. Tin tức trên các trang web hiện nay cho biết là khắp nơi trên thế giới đã chính thức phản đối hành động phản tự do nhân quyền của ĐCSVN, trong đó có phái đoàn quốc hội ngoại giao nước Thụy Điển đã đích thân đến VN và đã gặp mẹ của nữ luật sư Lê Thị Công Nhân, vợ luật sư Nguyễn Văn Đài, phái đoàn ngoại giao Hoa kỳ cũng đến Thanh Minh Thiền Viện để thăm hỏi hội kiến với Hoà Thượng Thích Quảng Độ, các nghị quyết của Quốc Hội Âu châu và những văn bản phản đối của các cơ quan bảo vệ nhân quyền như: Hội Văn bút Quốc tế, tổ chức Quan sát Nhân quyền (Human Rights Watch) ..v.v..

Nhờ sự tiếp sức đấu tranh của đồng bào ở hải ngoại mà các dân biểu, nghị sĩ quốc hội Hoa Kỳ đã họp báo công khai đòi hỏi Tổng thống Bush, Ngoại trưởng Rice phải có hành động ngay tức khắc đối với nhà nước VN nói chung và cá nhân ông Nguyễn Minh Triết nói riêng trong chuyến công du đến Mỹ của ông ta. Hình ảnh bịt miệng LM Nguyễn Văn Lý trong phiên tòa ngày 30/03/2007 được các cơ quan truyền thông quốc tế và đồng bào hải ngoại lan truyền khắp nơi trên thế giới đã làm nức lòng các nhà đấu tranh trong nước và toàn dân. Cuộc biểu tình đòi công lý của trên 1500 dân oan của 19 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và 9 quận Sài gòn kéo dài 26 ngày đêm vừa qua tại Quốc Hội 2 của CSVN là một sự kiện lịch sử. Việc Hoà Thượng Thích Quảng Độ bức phá vòng dây canh gác của công an để đến thăm và tặng quà dân oan cũng là một sự kiện chưa từng thấy. Hoà Thượng đã chứng tỏ cho các nhà lãnh đạo CSVN thấy rằng: với tinh thần Bi, Trí, Dũng của đạo Phật, Hoà Thượng sẽ không bao giờ khuất phục trước bạo quyền. Hành động này của Hoà Thượng cũng là một thách thức cho các tu sĩ lãnh đạo tôn giáo quốc doanh đã vì quyền lợi riêng tư mà làm ngơ trước sự đau khổ của đồng bào.

ĐCSVN cho dù có trăm phương ngàn kế cũng không bao giờ che dấu được sự thật. Như cuộc viếng thăm đầy nhục nhã của ông Nguyễn Minh Triết vừa qua tại Hoa Kỳ, ông ta phải đi ngã sau để được vào yết kiến TT Bush, bị cộng đồng người Việt bao vây biểu tình đả đảo, thế mà khi về nước thì báo chí lại thổi phồng là chuyến đi lịch sử của ông Triết thành công mỹ mãn và được cộng đồng Việt kiều đón tiếp nồng hậu.
Hành động bất nhân bịt miệng LM Lý trước tòa thì báo chí lại đăng câu trả lời của ông Triết với phóng viên CNN là "Giáo hội Công giáo Việt Nam và Tòa thánh Vatican đồng tình về việc bắt và xử cha Lý", khiến cho TGM Nguyễn văn Hòa (chủ tịch HĐGMVN) phải lên tiếng bác bỏ trên mạng Internet (tuy không dám phản đối một cách chính thức để yêu cầu các báo đài trong nước đính chính việc đăng tin sai sự thật để cho nhân dân trong nước biết). Dùng lực lượng công an, quân đội với đầy đủ vũ khí, xe cứu thương, vòi phun nước, lựu đạn cay… để giải tán dân oan trước QH2 trong đêm 18/07/2007 sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Độ đến thăm thì báo chí quốc doanh lại nói rằng dân oan tự động giải tán về quê! Hiện tại khắp nơi chính quyền CSVN đang tìm cách bắt những người dân oan có trình độ mà họ cho là lãnh đạo, xúi giục biểu tình. Họ tuyên truyền trong nhân dân là dân oan được sự khích động của "bọn phản quốc" trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Chính quyền CSVN không dám cho người dân tự do nói lên chính kiến của mình, không dám thực hiện bầu cử và ứng cử tự do, không cho đảng đối lập và báo chí tư nhân hoạt động, không dám trưng cầu dân ý để biết rõ nguyện vọng của toàn dân ..., nhưng trái lại bề ngoài lại tuyên truyền là nhân dân đồng tình với đường lối của đảng, một lòng một dạ theo đảng... Thật là một sự khôi hài quá mức, thử hỏi có ai mà lại đồng tình với một đảng đã từng giết oan uổng hàng triệu đồng bào ruột thịt của mình (đợt cải cách ruộng đất, phong trào nổi dậy của nhân dân tỉnh Thái Bình, tàn sát tập thể nhân dân cố đô Huế vào Tết Mậu Thân 1968, đầy đọa đến chết những quân nhân cán chính của chế độ VNCH trong các trại cải tạo). Có ai lại chấp nhận một chế độ độc tài, độc đoán đang bị loài người đào thải.

Khi mới chiếm được miền Nam, nhìn thấy sự văn minh và sung túc của người dân miền Nam hơn hẳn sự đói nghèo và lạc hậu của miền Bắc cùng hàng lãnh đạo cộng sản, cho nên họ đã vơ vét tài sản của miền Nam để phục vụ cho quyền lợi của đảng. Mười sáu (16) tấn vàng của kho bạc miền Nam được đảng tự do chia nhau xài nhưng lại tuyên truyền đổ thừa là do Tổng thống Thiệu mang đi. Đảng còn tìm cách cướp tài sản của nhân dân miền Nam bằng đường lối đánh tư sản mại bản.

Bây giờ qua bao nhiêu năm tháng cướp giựt, tham nhũng và đục khoét tiền viện trợ vay mượn của nước ngoài, lợi dụng lấy tiền của đồng bào Việt kiều gởi về quê nhà để trở thành giàu có rồi thì trở mặt, đưa ra chính sách đổi mới kinh tế thị trường theo kiểu tư bản hầu giữ vững sự giàu có của mình nhưng vẫn cố giữ vai trò lãnh đạo độc nhất vô nhị để cai trị đất nước suốt đời, bắt buộc nhân dân phải học thuộc lòng câu: ĐCSVN quang vinh muôn năm.
Đây là một sự thật quá rõ ràng trong muôn vàn các sự thật khác đang xảy ra trên quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta.

Kính thưa quý đồng bào hải ngoại, với những lời tuyên bố của TT Bush trước khi cho Việt Nam vào WTO là: Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền, Việt Nam phải chấp nhận sân chơi của WTO. Bà Rice (Bộ trưởng ngoại giao Mỹ) cũng thường nói: Hoa Kỳ sẵn sàng đứng bên cạnh những người dám đứng lên đấu tranh cho lẽ phải, cho tự do và dân chủ, chẳng lẽ những lời nói này là ngầm cho CSVN được quyền tự do đàn áp vô nhân đạo các nhà bất đồng chính kiến, tự do xâm phạm quyền tín ngưỡng của người dân? (điển hình thời gian qua CSVN đã cho đập phá tượng Đức Mẹ sầu bi tại Ninh Bình, tự do khám xét nhà thờ và bắt cha Lý ra tòa xử rồi bịt miệng cha Lý trước sự chứng kiến của các phóng viên quốc tế, tự do hành hung và đuổi tăng ni thuộc GHPGVNTN ra khỏi chùa như Thượng tọa Chơn Tâm chùa Tây Huê (An Giang), sư cô Đàm Thoa, vu khống và bắt giam các nhà sư cùng phật tử rồi tự do đánh đập để bức cung trong đó có thày Thích Đức Chính chịu không nổi phải chết trong tù (năm 2006 tại Bắc giang), huy động hàng trăm công an đập phá tịnh thất của Thượng tọa Thích Thiện Minh tại Bạc liêu ngày 15/3/2007 vừa qua, bắt Thượng tọa cùng người em làm việc liên tục và hiện nay công an CSVN đang mở rộng sự đàn áp GHPGVNTN một cách quy mô trên cả nước).

Kể từ ngày Việt Nam được vào WTO, chính quyền CS đã gia tăng đàn áp thô bạo hơn cả thời gian lúc chưa vào, cho đến hôm nay thì việc đàn áp này đang trên đà cao điểm nhất. Trong khi cả thế giới đang lên án sự đàn áp thô bạo của chính quyền CSVN đối với LM Lý, Ls. Đài và Ls. Công Nhân cùng những người đấu tranh dân chủ khác, thì tập thể dân oan cũng phải chịu chung hoàn cảnh này. Rõ ràng là chính quyền CSVN đang lợi dụng quốc tế, đang xem thường quốc tế và bất chấp lẽ phải.


Dĩ nhiên trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi không thể nêu ra hết những cảnh tượng đau lòng mà toàn dân trong nước đang gánh chịu. Giờ đây để giúp sức và yểm trợ cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa của toàn dân, theo thiển ý của tôi kính xin quý đồng bào hải ngoại nên vận động tối đa uy tín và khả năng sẵn có như sau:

1/- Tẩy chay không sử dụng một cách dứt khoát các hàng hóa nhập từ VN.

2/- Không sử dụng phi cơ của VN, không buôn bán kinh doanh ở VN, tiếp tục biểu tình và cô lập các tòa đại sứ CSVN tại các nước mình sinh sống.

3/- Dùng uy tín của các vị có chức quyền để vận động các chính phủ trên thế giới áp lực với CSVN tôn trọng tự do, nhân quyền, thả tất cả những nhà đấu tranh dân chủ đã bị bắt trong thời gian qua và chấp nhận thể chế đa nguyên từ kinh tế lẫn chính trị, vì đây là con đường duy nhất đưa VN vào nền văn minh của thế giới, là phương cách tốt nhất để thực hiện nền tự do dân chủ.

4/- Giải thích cho con cháu của chúng ta hiểu rõ những gian manh của CS để cho con cháu của chúng ta khỏi rơi vào cạm bẫy mà các mật vụ của CS đang tuyên truyền mê hoặc.

5/- Vận động con cháu của chúng ta trong trường học để lôi kéo sự tiếp tay của những du học sinh là con cháu của các tầng lớp lãnh đạo CS đang du học, như trường hợp sinh viên Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Hoàng Lan và Tập hợp Thanh niên Dân chủ đang làm là một điển hình.

Những việc làm trên rất cần thiết và cấp bách, đồng bào hải ngoại nên liên tục đấu tranh không ngừng nghỉ để yểm trợ các phong trào đấu tranh trong nước cho đến bao giờ CSVN chấp nhận sự công bằng và từ bỏ con đường độc tài, độc đoán thực hiện thể chế đa nguyên dân chủ thì mới thôi. Khi đó chúng ta mới có đủ điều kiện để cùng nhau xây dựng và kiến tạo quê hương đất nước, cùng nhau hòa mình với nền văn minh của nhân loại và khỏi hổ thẹn với tiền nhân.
Xin trân trọng gởi đến đồng bào hải ngoại lời chúc lành thân thương nhất, chúng ta sẽ thành công và đất nước Việt Nam sẽ hòa bình vĩnh cửu trong một ngày không xa.


Hoàng Trung Việt
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Tôi nên viết gì về hai chữ
«công giáo” trong tim tôi?


Lê Hùng Bruxelles
Lời nói đầu

Sau thời gọi là cách mạng quân đội 11/1963 tại Saigon đến nay, hai chữ ”công giáo” đối với tôi có một sự thu hút lạ lùng. Đi đâu, ở đâu, tôi cũng tham gia sinh hoạt với các đoàn thể mang danh công giáo. Đến thời internet mở rộng, ngày nào tôi cũng dành nhiều thì giờ để trao đổi với anh em bạn bè công giáo người Việt và người ngoại quốc trên thế giới. Có thể nói viết lách trao đổi tin tức với người công giáo qua internet đối với tôi hôm nay như người nghiện xì ke ma tuý.

Thế mà từ đầu năm Tết con Heo đến nay, tôi có một ấn tượng khác thường, vì tôi là người công giáo mà sao rất nhác đọc (không thích đọc thì đúng hơn) báo chí và diễn đàn công giáo Việt Nam. Đến nỗi chủ nhật ngày lễ, tôi cũng ít viếng nhà thờ của vài ông linh mục người Việt thường rỉ tai điệp khúc ”không làm chính trị”, dù biết rằng nơi đây sau Thánh lễ tôi còn có dịp gặp lại bạn bè thân thích. Nghe được tiếng nói và giọng cười người cùng xứ sở, khi mình sống xa quê, là điều thích thú nhất. Vì đó là một kinh nghiệm trong cuộc đời tôi đã kinh qua.

Thật lòng mà nói là đã lâu tôi không dám mở điện thư diễn đàn công giáo Việt Nam gửi tới, mặc dù trong hộp thư điện tử của tôi, chưa có ngày nào vắng những bài viết đăng tải trên các diễn đàn công giáo, hoặc bạn bè chuyển tin các bài trích từ diễn đàn công giáo. Lần này, nhân kỳ họp bạn với anh chị em sinh viên người Bỉ tại vùng biên giới Pháp, trong đêm khuya giữa rừng núi tịch mịch, tình cờ tôi mở điện thư dưới đề mục ”Trân trọng kính gửi bài viết của đức HY.GB”. Đọc xong mới biết đây là bài viết của Đức Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn gửi cho linh mục Phaolô Nguyễn thái Hợp, CLB.NVB (Câu lạc bộ Nguyễn văn Bình?). Trong bài này Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã dựa vào bài viết ”Xin chỉ cho” của luật sư Bích, Ngài nêu lên 7 điểm để ”nhờ CLB.NVB. nghiên cứu và đề xuất bài học chỉnh xác và toàn vẹn”.

Qua tối hôm sau, tôi lại nhận thêm 2 bài cũng do diễn đàn CGVN gửi đến. Nhưng 2 bài này, tác giả là luật sư Nguyễn ngọc Bích với tựa đề là ”Xin chỉ cho” và ”Lời trần tình”. Tôi có trả lời Ban Biên Tập qua câu hỏi: ”Toàn chuyện buồn và bực!. Vì sao? Có phải diễn đàn Công giáo Việt Nam là hiện thân của tờ Công giáo và Đất nước?”. Tiếp theo, một người bạn từ Hoa kỳ trong Liên đoàn công giáo Việt Nam còn gửi cho tôi bài ”Truyền thông cần nêu sự thật” của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, nên tôi có ý dành thì giờ sau kỳ dự trại về sẽ viết những điều tôi đã nghĩ.

Thử phiêu lưu vào một cuộc mạo hiểm

Suy tư sau khi đọc một tác phẩm, hay viết về một nhân vật (hay một tác giả) trong tác phẩm đó là hình thức đi vào một cuộc phiêu lưu, mạo hiểm. Bởi lẽ, trong thế giới loài nguời không có ai tài giỏi nói lên đầy đủ những chuyện gì đã xảy ra trong đêm qua ”trên chiếc giường của đôi nam nữ” (dù cho chiếc giường gàn kề). Nói rằng ”tôi biết hết” là dại, nếu không nói là… ngu!. Từ ngày có mặt ông Freud, chúng ta biết rằng chữ ”tôi” của đứa con nít là hình thức hàn gắn những vết thương mà xã hội loài người phủ lên đầu nó. Há lẽ hôm nay một số người trí thức và lãnh đạo (kể cả đời lẫn đạo) cũng không gì hơn đứa con nít kia đã nghĩ và nói hay sao?.

Người ta dùng chữ ”tôi” để xoá tan mọi lầm lỗi hay, trên phương diện chính trị, để ”chiếm đất dành dân”. Người ta đã nhân danh một tập đoàn ”chằng chịt” đưa ra những quyết định bắt cặp tình nhân kia phải xa nhau. Người ta tạo ra những ”tập đoàn mẹ và tập đoàn con” với mục đích ”địch vận” những con người dám mạo hiểm rời bỏ một tập đoàn đang đi ”chệch hướng”. Đôi khi tôi nghĩ hành động và mưu lược cuả những tập đoàn này chẳng khác gì hành động của cặp trai gái có thói thích tìm sự khoái lạc bằng thủ đoạn tự hành hạ mình (sadomasochisme). Trong sự khoái lạc ác thú đó người ta quên mất cả con người họ đang làm tình trước mặt. Từ đây suy ra, ngay kể cả nhũng lời thề thốt giữa ông A và ông B, theo tôi, chưa phải là điều tin tưởng được.

Căn cứ vào nội dung cả 4 bài viết, tôi đắn đo và tự hỏi mình có thể đóng góp được gì? Tôi nên viết gì và nên viết thế nào về Công giáo Việt Nam? Trước hết, tôi xác minh rằng tôi không thể viết góp ý trên cùng một tiêu đề để đáp lời luật sư Nguyễn ngọc Bích, cùng thưa chuyện với Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Bởi lẽ dễ hiểu ”vị thế” giữa hai tác giả, trước mắt tôi, rất khác nhau từ đời lẫn đạo. Thứ nữa, nội dung những bài viết, nếu chỉ đọc thoáng qua thì có liên quan với nhau, nhưng đi vào chiều sâu thì hai tác giả có ẩn ý không giống nhau. Có thể nói hai ”đối tác” đã biết diễn đạt thông thoáng con ”bài tẩy của mình” cho mọi độc giả rõ. Bài viết của luật sư Nguyễn ngọc Bích rất đúng với chủ trương ”Công giáo và Đất nước”. Nghĩa là ”Công giáo chỉ là một bộ phận của Dân tộc”. Hàm ý ”Công giáo là một tổ chức chính trị ở ngoài đời, có lãnh đạo có đảng viên, và có khi còn nguy hiểm cho đảng cộng sản”. Bài viết đề ra sự cổ xuý cần tiếp tục duy trì thể theo nhu cầu của nền chính trị hiện tại.

Trái lại, bài viết của Đức Giám mục Phạm Minh Mẫn muốn nói riêng vớí lớp người đứng trong hàng ngũ ”công giáo Việt Nam” mà thôi. Hôm nay Ngài muốn ”làm chính trị” bằng cách ”dựa hơi” vào bài viết của luật sư Nguyễn ngọc Bích để thổ lộ chủ trương ngàn đời của Giáo hội Việt Nam không thể là cộng sản, hầu đánh tan dư luận khó hiểu của giáo dân với Hội đồng Giám mục Việt Nam trong suốt thời gian gần đây. Bức thư của Ngài có mục đích tháo gỡ một chướng ngại vật, nhất là ngại vật gây ra từ sau ngày Việt cộng, lôi trì, bịt miệng, xét xử linh mục Nguyễn văn Lý. Âu cũng là cách ”làm chính trị” theo tư duy của một nhà lãnh đạo trong Giáo hội Việt Nam.

Nhưng theo tôi cả hai lối chủ trương trên phương diện chính trị đối với cục diện Việt Nam hiện tại chưa phải là hoàn toàn gột hết hoài nghi của chế độ đương quyền và lòng người tín hữu. Bởi lẽ, cả hai bên không tìm ra (hay không muốn có) một ”giải pháp xây dựng” (solutions constructives) mà vô hình chung vẫn mang ẩn ý ”xung đột tiềm tàng” (conflits cachés).

Tôi nói rõ ra vậy, vì tôi đã từng ”mạo hiểm” nói trên diễn đàn báo chí về cái nhìn ”đời và đạo” đối với một tôn giáo tôi đang phụng thờ, cũng như tôi đã từng phê bình cái tốt và cái xấu của Vietcatholic, cơ quan ”MẸ” những Tiếng nói Giáo hội Việt Nam, đã cho đăng tải một số bài của vài linh mục với lời lẽ không đáng dùng của người tu sĩ công giáo. Vì viết, theo tôi, là dịp nói lên quan điểm cá nhân mình trước một thực thể có liên quan mật thiết đến cuộc sống của tập thể, nhất là tập thể những người-không-cộng-sản, trong cộng đồng: ”Xấu thì Chê và Tốt thì nên Khen”. Vấn đề khó khăn là phải lựa lời viết thế nào cho có người xích gần lại với nhau. Hẳn hơn ai hết, Ban Biên Tập và độc giả của Vietcatholic đến nay đã rõ.

Tình hình chính trị và tôn giáo của đất nước hiện tại, theo tôi, phải là một ”nghệ thuật khả thể” (un art du possible). Việc đó tạm được. Chúng ta chấp nhận được. Nghĩa là chúng ta đã hiểu rằng mọi thỏa hiệp đều tồn đọng ở phần kết cấu. Trong nền dân chủ hôm nay, khi lấy ảnh hưởng của cá nhân mình, hay sức mạnh của đảng phái tổ chức mình để áp đảo kẻ yếu thì thế nào xã hội cũng chao động, nếu trong sự áp đặt không có sự thoả hiệp (un compromis).

Thoả hiệp với ai không phải là chịu thua kẻ đó. Nhà lãnh đạo đã thoả hiệp không có nghĩa là nhà lãnh đạo đi làm ”địch vận” hay cố ”nhắm mắt đưa chân” để sướng thân. Nghệ thuật thoả hiệp không bao giờ có phần kết thúc trong thời gian, chỉ trừ trường hợp với những kẻ mang một ý thức hệ đặc thù chuyên nghề ”đánh lận con đen”. Nếu vậy, thì đâu phải là dân chủ mà là độc tài quân phiệt rồi! Những cuộc biểu tình, đình công trong nước, những bài viết trên báo chí và diễn đàn điện tử giữa người công giáo Việt Nam đủ chứng thực đìều tôi muốn nói.

Cuộc đối thoại giữa chúng ta, dù cho là những lời ngắn gọn, đều nhịp theo tiếng đập con tim cá nhân, nhưng đôi khi trở thành câu văn bất hủ trong văn chương hay trong lịch sử. Ngay lúc chúng ta đang phát biểu điều gì, đã chắc gì chúng ta hiểu cặn kẽ lời nói đó? Và đã chắc gì mấy lời nói đó đã dạy cho chúng ta những bài học đi đúng dụng ý đích thực của nó? Vì vậy lời phát biểu của các nhà lãnh đạo tôn giáo, xã hội, chính trị, nếu đi đúng trong sách lược theo thời gian thì dễ thành công. Ngược lại, thường vấp phải cảnh ”trống đánh xuôi kèn thổi ngược” và dẫn đến thất bại. Điều này rất dễ thấy qua cung cách những vị lãnh đạo trong nước, (cả đời lẫn đạo), đã gây ra nhiều mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền và nhân dân, giữa Giáo hội và tín hữu.

Trong xã hội hôm nay, không kém gì người đã thề thốt tuân thủ theo sự trung thành của mình rằng ”trung với đảng, hiếu với dân cho đến giọt máu cuối cùng”. Hoặc là như lời nói của luật sư Nguyễn ngọc Bích trong bài ”Lời Trần tình” đã quyết một quyết hai rằng ”tôi (luật sư Bích) bênh vực các Đức giám mục, Hội đồng Giám mục Việt Nam vì lương tâm tôi (luật sư Bích) thúc đẩy, trên căn bản có nói có, không nói không”. Người viết cứ cho lời luật sư Bích là lời ”tâm tình chân thật” của một giáo dân đối với Giáo hội. Nhưng kinh nghiệm gần thế kỷ đã cho tôi (và mọi người) thấy những bầy tôi giết chủ, những tướng tá đâm chết đồng đội anh em, những đảng viên phản nghịch và những lãnh tụ kiêu căng! Cho nên, một xác quyết quá chủ quan, dù là lời thề chắc nịch, đôi khi làm cho người đọc nghĩ lại nghịch ý của mình.

Một mái nhà tranh, một chiếc giường ngủ và một câu ”anh thương em lắm” đủ đề nói lên giá trị hai chữ tình yêu. Dù cho câu nói có thay đổi ”anh thương em” hay ”anh sẽ thương em suốt đòi” hoặc ”anh chỉ thương một mình em mà thôi”. Sự thực, trải qua hơn 30 năm trong cộng đồng người Việt, những cảnh thay chồng đổi vợ, những cuộc sống như chó với mèo giữa bầu bạn thân thích, đủ minh chứng lời thề chung thủy không bao giờ vĩnh cửu.

Thật vậy, mới ngày nào anh đến đây với bàn tay loang lỗ vì ruộng đất cằn cỗi của xã hội chủ nghĩa. Ngày đó có khi chưa xa vài tháng hay vài năm, anh đã thề thốt được sống bên em cho đến ngày tóc bạc… rụng răng. Anh đã áp dụng loại văn hóa của một xã hội đặc thù, vẽ ra một khung trời xanh biếc rất đẹp phủ ấm tương lai gia đình con cái. Em cứ mơ và nghĩ rằng không còn cái đẹp nào bằng!… Nhưng rồi tình yêu vĩnh cửu giữa em và anh không tránh khỏi sự kháng cự vô hình phát sinh từ ”đỉnh cao trí tuệ”, thăng tiến từ ”xã hội nhân dân”, đã làm biến chất lời thề. Con? Anh vứt lại. Vợ? Anh lờ đi. Và anh trao mấy chữ ”anh yêu em lắm” cho kẻ giai nhân…lạ hoắc!.

Vậy đâu là tình yêu vĩnh cửu? Vậy đâu là gía trị lời thề? Từ đây người ta có quyền nghi ngờ về lời tuyên bố của luật sư Nguyễn ngọc Bích, một giáo dân, cương quyết ”bênh vực các Đức Giám mục, Hội đồng Giám mục Việt Nam…”. Đúng như nhà hiền triết Héraclite đã nói ”Mặt trời đổi mới từng ngày” (Le soleil est nouveau chaque jour). Vâng, tất cả đều nằm trong định luật thay đổi đó, kể cả mọi vật quý báu bao quanh, từ hình hài thân thể cho đến con tim của chúng ta. Đến đây, tôi nghĩ rằng Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn và Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hiểu tôi muốn nói gì.

Đôi điều với luật sư Nguyễn ngọc Bích

Trong bài nhan đề ”Xin chỉ cho”, tôi rất gần gũi luật sư Nguyễn ngọc Bích qua hai chữ ”công giáo”, vì tôi và tác giả đều là con cái thuộc gia đình Giáo hội. Ngoại dĩ, qua nội dung cất dấu trong cả hai bài viết của tác giả, tôi khá ”buồn và bực”. Nói thế , chưa hẳn tôi là địch thủ đối đầu ăn thua quyết liệt, xin mọi người (kể cả luật sư Bích) hiểu cho.

Trước hết là lời tác giả tự giới thiệu về thân thế. Tôi (và độc giả) biết tay nghề của anh Nguyễn ngọc Bích là ”luật sư tại thành phố HCM chuyên về thương mại”. Nôm na mà nói anh Nguyễn ngọc Bích là một vị ”trí thức chuyên nghề buôn bán dưới chế độ Việt cộng”. Lời giới thiệu tự nó mang ẩn ý khoe mình là dân trí thức, là lớp người biết nhiều, hiểu nhiều và nói cũng rất là… nhiều. Theo tôi, đó là một tư duy không còn hợp với trào lưu hiện hữu nữa!. Vì sự hiểu biết hạn chế và sai chậy như vậy, nên trong bài ”xin chỉ cho” luật sư Nguyễn ngọc Bích còn ghi thêm bằng cấp Master of Laws của anh lấy từ trường Đại học Harvard ”tiếng tăm nhứt” bên Mỹ. Nếu quả thật một bài viết của một giáo dân muốn ”tâm tình” thật sự với những người công giáo khác, hấu tìm cách xây dựng Giáo hội, thì hà tất phải kê khai ”to lớn” như vậy. Nghề ngỗng luật sư và bằng cấp cử nhân tiến sĩ, với cộng đồng hải ngoại hôm nay, chưa hẳn là điều kiện tiên quyết cần và đủ để mọi người tín hữu cho rằng luật sư Nguyễn ngọc Bích đang muốn xây dựng Giáo hội Việt Nam hay Đất Nước. Cái lối suy tư căn bản của anh Nguyễn ngọc Bích nói lên một đại nhầm lẫn ngay trong bước đầu. Chính anh đã làm cho tôi và nhiều người tránh xa, mất rất nhiều thiện cảm đối với vị luật sư ”tài ba”, cũng là người cùng tín ngưỡng, qua cung cách giới thiệu đó. Điều tối kỵ trong tôn giáo là nhà trí thức hôm nay bám vào thánh hiền Khổng Mạnh hoặc lấy bằng cấp bên Mỹ bên Tây làm khuôn vàng thước ngọc để DẠY kẻ khác không còn đủ sức thuyết phục mọi người được.

Người Việt Nam hải ngoại nói chung, chưa có ai quá khờ khạo đi tôn trọng con người qua bằng cấp và nghề nghiệp. Nhưng biết đâu tại thành phố Bác, anh Nguyễn ngọc Bích đã được nhiều ”tiến sĩ, thạc sĩ như lá muà thu ngoài đường”, và những cấp lãnh đạo ”đã mòn chân mỏi gối dọc núi Trường sơn”, đề cao luật sư Bích là một con buôn đại tài. Đã là con buôn đại tài thì con bán cũng rất thiện nghệ. Đó là định đề. Vì thế, tôi không muốn đáp lại mấy câu hỏi trong bài ”Xin chỉ cho” cuả luật sư Nguyễn ngọc Bích. Nhất là, tôi xin nhìn nhận, thua anh rất xa trong ngành nghề buôn và bán. Tôi tiếc cho anh Nguyễn ngọc Bích với sức học ”cao siêu” như vậy mà chưa đủ sức nhận thức rằng ông luật sư cũng chỉ là một con người đã cố đi tìm một việc làm nhẹ nhàng về ngành luật chuyên môn cho cả cuộc đời. Anh làm ít, anh hưởng nhiều. Anh đâu cần phải dùng mưu trí để ”nói xuôi cũng được, nói ngược cũng hay” trong một xã hội chủ nghĩa đầy dẫy tư duy ý thức hệ!

Cũng trong lời tự giới thiệu, người đọc hẳn biết luật sư Nguyễn ngọc Bích sau 1975 đã ở lại, ”bị đi học tập cải tạo từ tháng 4/1976 đến 4/1988. Từ năm 1992 anh đã sang Mỹ vài lần, có lần ở trên nửa năm ở TP. New York”. Dù anh không nói ra, nhưng người đọc có thể đoán biết anh kê khai thêm trong bản lý lịch một thành tích ”không đội trời chung với cộng sản” như bao vị quân cán chính VNCH đã đi học tập cải tạo. Lời trình bày cuả anh chẳng có gì là ”chói tai” tôi và bạn đọc ngoài này. Anh nói rất nhẹ nhàng, và qua loa như cách tả cảnh trời mưa mà ”không nói số lượng nước mưa”. Tôi phục tấm lòng ”yêu quê hương như yêu vợ” của luật sư Nguyễn ngọc Bích. Anh ở lại trong nước đâu phải vì thiết tha với đảng cộng sản. Tình cảm của anh đối với tập đoàn cộng sản chẳng khác gì như tình cảm anh đối với bố mẹ vợ mà thôi! Không chút bợn hô hào địch vận! Suy nghĩ kỹ, việc anh ”không cần gì” phải quan tâm với đảng, thì mọi người có thể chấp nhận dễ dàng, nhưng việc anh nói chẳng có ”thiết tha gì” với cha mẹ vợ là điều rất sai trái của người trí thức đối với văn hoá đạo lý của người Việt Nam! Nếu có ai vịn cớ anh chẳng thiết tha với bố mẹ vợ, xem như bố mẹ vợ không có, thì luật sư Bích ”lấy loại gì” để làm tình sinh con đẻ cái nối nghiệp tổ tông?

Hôm nay nhờ sự làm ăn buôn bán dưới chế độ Việt cộng mà anh đã giàu có. Anh đã thừa tiền bạc để ”sang Mỹ nhiều lần và mỗi lần ở lại thành phố Nữu Ước hơn nửa năm”. Điều này hàm ý chê trách những người trí thức ”bạc bẽo” trong nước không đủ thực tài buôn bán và chuyên nghề như anh. Thật vậy, cũng tại thành phố Saigon, những bạn bè tôi, khá đông là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, luật sư, lại không đủ phương tiện và nhất là không rõ ”quy luật phép tắc” của chế độ, để xin sang Mỹ trau dồi thêm kiến thức. Vấn đề này tôi rất cần luật sư Nguyễn ngọc Bích ”Xin chỉ cho” những người dân nói chung và các bạn bè tôi nói riêng, không được may mắn như anh.

Có người nghĩ rằng anh Nguyễn ngọc Bích cố nêu lên những cuộc chu du đây đó khắp nơi để gián tiếp so sánh, nếu không bảo là khinh mạn, giữa anh và một số trí thức Việt Nam bỏ nước ra đi sau ngày cộng sản chiếm đóng Saigon: ”Chẳng có ai theo kịp anh”! Nhưng nếu có người ”vô cớ” gặn hỏi tại mỗi nơi anh đến, anh đã làm gì? gặp ai? tại đâu? và tiền bạc đâu anh có nhiều vậy? Thiết nghĩ luật sư Nguyễn cũng khó mà trả lời cho thật ”đồng nhất” được.

Là anh em tín đồ công giáo, tôi không nghĩ như vậy, bằng cớ là tiện đây tôi có ý mách riêng với luật sư Nguyễn ngọc Bích, hãy lợi dụng tài buôn bán của mình, nghĩ ngay đến kế hoạch Việt cộng đang dự định cho xây cất một loạt dinh thự nguy nga cố ý ”che lấp cả khuôn mặt” ngôi Nhà thờ Đức Bà Saigon. Thời gian chắc cũng không xa lắm, vì đó, theo Bộ Chính trị, là nhu cầu kinh tế trong thị trường WTO. Tôi chỉ cầu nguyện kế hoạch ”dinh thự” đó dành lại một không gian thông thoáng, hầu ngày về của những người công giáo (trong đó có tôi), còn được nhìn thấy lầu chuông cho khỏi ”lạc đường”.

Những ai là kẻ đã bị ”thuần hoá” và đang muốn ”thuần hoá” bởi Việt cộng thì mọi người đã rõ. Tôi tin rằng, anh chị em công giáo ở ngoài này không ai ”thích gán ép anh chị em giáo hữu trong nước với ý đồ khinh miệt” như anh Bích đã nhầm nghĩ. Viết bài này, tôi chỉ cầu mong rằng những người công giáo trong và ngoài nước hãy cùng nhau tìm một vị trí giữa lòng thuyền Giáo hội đang chao đảo trên biển cả ngày bớt lung lay.

Lê Hùng Bruxelles
(Kỷ niệm những đêm trong rừng biên giới Pháp-Bỉ 7/2007)
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Báo CS & Báo Việt Weekly:
Mở Lại Hồ Sơ Cũ


Ðại Nghĩa & Thanh Quang
Vào đầu tháng 6 năm 2007, tại Quận Cam ở Nam California, nổ ra vấn đề phản đối tờ Việt Weekly khi có Bản Lên Tiếng với trên 160 vị đại diện hội đoàn, đoàn thể đấu tranh, nhân sĩ, trí thức, ký giả, văn nghệ sĩ... và, được phổ biến rộng rãi qua cuộc họp báo vào chiều thứ Bảy, 16 tháng 6. Với những lý do chính đáng được nêu ra trong buổi họp báo nầy, giới truyền thông Việt ngữ tại Nam California tiếp tay hỗ trợ cho công cuộc chống tờ VW tuyên truyền cho Cộng Sản và tán trợ hành động khủng bố 9-11 năm 2001 tại Hoa Kỳ. Và cùng trong thời điểm Bản Lên Tiếng nầy, chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Nguyễn Minh Triết. Chủ tịch nước trong hai ngày 22 và 23 tháng 6-2007 tại Dana Point, Nam California, dấy lên phong trào đấu tranh chống Cộng.

Buổi thỉnh cầu ý kiến vào chiều Chủ Nhật, 15 tháng 7 vừa qua tại phòng hội ở Civic Center Westminster với sự tham dự khoảng 800 người, gồm đại diện các hội đoàn, đoàn thể và đồng hương... tạo được khí thế sôi nổi để Liên Ủy Ban (Ủy Ban Ðặc Nhiệm Chống CS, Ủy Ban Bảo Vệ & Phát Huy Chính Nghĩa Quốc Gia, Nhóm Lên Tiếng Chống VW Thân Cộng) đi đến hành động biểu tình liên tục trước tòa soạn VW ở thành phố Garden Grove vào chiều thứ Bảy hàng tuần từ 3 giờ đến 5 giờ chiều mỗi tuần cho đến khi nào tờ báo tay sai của CS nầy không còn tồn tại.

Năm 1999, Trần Trường mở tiệm cho thuê video Hi Tek trong khu chợ ABC trên đường Bolsa, thành phố Westminster. Trần Trường chơi ngông khi treo hình Hồ Chí Minh trong cửa tiệm nên xảy ra cuộc biểu tình liên tục 53 ngày đêm cho đến khi chính quyền địa phương khám xét đương sự gian lận trong việc sang băng lậu để dẹp tiệm. Khác với cuộc biểu tình chống Trần Trường trước đây, Liên Ủy Ban đã xin phép thành phố Garden Grove chấp thuận trong 3 tháng để tổ chức cuộc biểu tình chống tờ VW ngay tại tòa soạn, góc đường Main và Acacia, có thời biểu và tổ chức chu đáo, quy củ, hợp pháp... vì đường đầu với thành phần ương ngạnh, bất hảo, bướng bỉnh, xuyên tạc méo mó trong tờ báo VW nầy nên thận trọng, đoàn kết, giữ vững lập trường, tỉnh táo và kiên trì đấu tranh. Thời điểm vụ Trần Trường, hệ thống internet chưa được phổ biến nên chỉ quảng bá ở địa phương nầy còn thời điểm hiện nay được phổ biến rộng rãi vì vậy có phần xôn xao trong dư luận ở hải ngoại và trong nước.


Bài Học Ðầu Ðời

Kể từ năm 1945, biết bao nhân sĩ, trí thức... vì lý tưởng, yêu dân tộc, đất nước đã dấn thân trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, khi Cộng Sản nắm được quyền thống trị, họ phát hiện cá nhân nào chưa trung thành tuyệt đối, còn có ý kiến lệch lạc với đường lối của Ðảng, họ truy tìm lý lịch, gốc gác gia đình, tôn giáo rồi tìm cách triệt hạ. Sau năm 1954, hình ảnh nhiều nhân vật trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị triệt hạ và nhiều cán bộ tình báo CS nằm vùng bị nghi ngờ “gián điệp nhị trùng” nên có người bị thủ tiêu, có người được vinh danh rồi cô lập. Cho đến bây giờ, với CS, lý lịch là yếu tố quan trọng vì vậy những kẻ đón gió trở cờ chỉ là “nhân vật bung xung”, sử dụng tạm thời trong giao đoạn, và khi có “vấn đề” thì loại bỏ ngay.

Trở lại trường hợp tờ Việt Weekly, từ khi được móc nối qua các “sứ thần” ở Tổng Lãnh Sự, các tay nằm vùng để có nhịp cầu liên lạc, bộ ba Lê Vũ, Tưởng Mimi, Etcetera Nguyễn Quang Trường có dịp phỏng vấn vài giới chức ngoại giao của CS, cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết... tưởng rằng ta đây với “lý lịch trong sạch, chưa gây hận thù” nên bắt mối để làm ăn trục lợi.

Hy vọng chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, VW được phỏng vấn, được tiếp kiến, sẽ là cơ hội thuận lợi để ra mặt tuyên truyền dài dài trong tương lai. Phỏng vấn cựu Thủ tướng, Chủ tịch nhà nước CSVN thì bất kể nhân vật lãnh đạo nào của CSVN cũng sẽ được xuất hiện trên tờ VW.

Thế nhưng, “trời bất dung gian” trong lúc VW đang “hớn hở, hồ hởi” thì hình ảnh tháng ngày đấu tranh chống Trần Trường được khơi lại. Tổng thư ký VW Etcetera Nguyễn Quang Trường (chống của Chủ bút Tưởng Mimi) được đề cập với vài chục bức hí họa miệt thị Hồ Chí Minh vô cùng thậm tệ.

Xin trích lại trong bài viết Nhắn Gởi Việt Weekly: Làm Báo & Làm Người khi phái đoàn của Nguyễn Minh Triết vừa về lại Việt Nam: “Trong quá khứ, Etcetera với nhiều bức hí họa đã in thành sách Họa Etcetera, lên án chế độ Cộng Sản độc tài, dã man... nhất là hình ảnh Hồ Chí Minh qua nét vẽ trở thành tên hề, quái vật, bợm trợn, độc tài, láu cá, gian ác, đầy thủ đoạn... lên án những kẻ tay sai cho Sộng Sản.

... Nầy nhé, phải “nói có sách, mách có chứng”, trong quyển Họa Etcetera dày 436 trang, ấn hành năm 2000, ngay trang đầu (trang 19) hình Hồ Chí Minh trông thật gian manh với câu nói “...cái Tự Do Ngôn luận đâu có trong đầu tao”. Ðơn cử vài trang với chân dung HCM: 20, 21, 28, 35, 37... mặt chuột, mặt dơi trông dị hợm, trang 31 hình HCM với câu “một thằng già trong công viên (Ba Ðình)”... trang 240, 242, 243... trang 239 với hình ảnh HCM như ác quỷ với chữ “Sinh nhật Ác Hồ”, trang 235 thì HCM trông thật dâm đãng ôm hai bà với dòng chủ “Minh Khai và A Vàng”... trang 244 hình HCM đầu trâu với 2 cái sừng cong, mặt có vòi, trông như con quái vật! Về tự do ngôn luận, trang 27 trông rất thú vị với dòng chủ “Tống ngay nó về CS đặng đòi tự do ngôn luận”...”.

Bằng phương tiện internet hiện nay, phổ biến bài viết trên nhiều trang web và trang báo khắp nơi, phát pháo sơ khởi đó là cho giới lãnh đạo CS chưng hửng, té ta “thằng nhóc” là kẻ sớm đánh tối đầu, phản động đến thế!

Với CS, trong thời chiến, trong chiến trận khi đương đầu với kẻ thù và khi tàn cuộc chiến có thể dùng chiêu bài để giao du, “hòa hợp hòa giải” với nhau nhưng trong giai đoạn hiện tại, không có giới chức lãnh đạo CS nào lại muối mặt để giao du với kẻ đã “dày công” bôi nhọ lãnh tụ đang tôn thờ của họ.

Sau chuyến đi của Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, VW không còn phỏng vấn nhân vật lãnh đạo nào của CSVN để có cơ hội “nhai tới nhai lui” như bài viết về Võ Văn Kiệt.


“Lại” Bài Học Cho “Ðồng Chí Công An”

Qua 3 cuộc biểu tình vào chiều thứ Bảy, ngày 21, 28 tháng 7 và 4 tháng 8, chống tờ Việt Weekly đã được tường trình trên các cơ quan truyền thông Việt ngữ ở Nam Cali và hải ngoại. Sự hỗ trợ của tất cả cơ quan truyền thông Việt ngữ ở hải ngoại cùng giới dân cử gốc Việt ở Nam Cali đã tạo được niềm tin và thế đứng của Liên Ủy Ban cùng các hội đoàn, đoàn thể đấu tranh và đồng hương vững tin để duy trì công cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa, chống gian tà. Trong khi giới lãnh đạo CSVN im lặng thì có 3 tờ báo ở trong nước đả kích cuộc biểu tình nầy giống như luận điệu của tờ VW.

Ngày 24 tháng 7, 2007, bài viết của Trần Kiên Mỹ với tựa đề “Báo Việt Weekly bị chơi xấu ở Nam California (Mỹ)” đăng tải trên tờ Thanh Niên.

“Liên tiếp trong 2 ngày 21 và 22.7.2007 ở Little Sài Gòn, Nam California đã diễn ra hai cuộc biểu tình: Ngày thứ bảy 21.7 là “bao vây” tòa soạn tuần báo Việt Weekly ở đường Main, Garden Grove và ngày 22.7 thì “lên án” các doanh nghiệp đăng quảng cáo trên tờ tuần báo này.

Những người tổ chức biểu tình tuyên bố sẽ liên tục chống đối cho đến khi “loại hẳn tờ Việt Weekly” ra khỏi cộng đồng người Việt ở Nam California với lý do là tờ tuần báo này có lập trường thân cộng...”

Bìa vết cho rằng “Cạnh tranh không lành mạnh” vì “Cái mà tờ báo “sinh sau đẻ muộn” Việt Weekly đã làm được và dám làm thì các tờ báo “đàn anh đàn chị” không dám làm và không làm được. Ðó là việc Việt Weekly đưa phóng viên về Việt Nam phỏng vấn cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Bài phỏng vấn đó đăng lên làm các báo khác nóng mặt... Ðiểm cấp tiến ở chỗ, Việt Weekly đăng tải lại nguyên văn của những người mà mình phỏng vấn, tức nói lên sự thật, và rồi nếu có bài phản bác lại của người trong nước hay hải ngoại cũng được báo này cho đăng tải, không “dìm” ai cả.

Rồi kế đến là việc phóng viên báo này đàng hoàng có mặt tại Hội nghị APEC ở Hà Nội để tường trình “trực tiếp” cho bạn đọc của mình, trong khi các báo khác phải dịch lại báo Mỹ hay “xào” lại bài của báo Việt Nam. Việt Weekly cũng đã cử phóng viên đi lên cao nguyên Trung phần Việt Nam để tìm hiểu đời sống của đồng bào thiểu số mà tin tức ở Mỹ xuyên tạc là bị đàn áp... Khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến thăm Nam California, báo này đã đề nghị và được Chủ tịch trả lời phỏng vấn. Toàn những việc làm táo bạo và tiên phong trong làng báo chí Việt ngữ hải ngoại. Những việc làm này bị các báo “đàn anh đàn chị” xem là “hỗn”, dám qua mặt họ.

... Thay vì cạnh tranh lành mạnh bằng nghiệp vụ báo chí, tất cả những “kẻ thù” của Việt Weekly đã gây áp lực nhằm hăm dọa các doanh nghiệp không quảng cáo trên Việt Weekly, các đại lý không phân phối báo Việt Weekly... Họ tìm mọi cách cô lập tờ tuần báo này, nhất là trước tin tức Việt Weekly sẽ ra báo ngày. Họ hè nhau “giết chết” tờ báo Việt Weekly chỉ vì một cái tội duy nhất là dám nói sự thật...”.

Bài viết của Trần Kiên Mỹ nằm trong mục Kiều Bào qua luận điệu y hệt như những bài viết trong tờ VW, có lẽ nhờ đất “phe ta” để cùng nhau “đánh trống thổi kèn”.

Ngày 1 tháng 8, tờ Tiền Phong đăng bài “Báo Viet Weekly đăng các bài viết có tiếng nói từ Việt Nam: Thế hệ người Mỹ gốc Việt trẻ muốn thiết lập lại quan hệ”.

“Hôm 28.7 vừa qua, tại Garden Grove lại diễn ra cuộc biểu tình của những người Mỹ gốc Việt chống tờ Viet Weekly, buộc tội tờ báo này chủ trương “thân cộng sản”. Những người tổ chức đe dọa tiếp tục biểu tình vào các cuối tuần tiếp theo. Tuy nhiên, cuộc biểu tình lần thứ hai không đông như lần biểu tình trước đó một tuần.

Ông Lê Vũ, chủ nhiệm tờ Viet Weekly, nói rằng mục đích chính của ông khi đăng những bài có tiếng nói từ Việt Nam là muốn tạo ra một diễn đàn để đối thoại, mở cánh cửa cho tranh luận đã bị khép lại nhiều thập kỷ trước. “Tất cả những gì chúng tôi cố gắng làm là nói lên câu chuyện của cả hai phía”.

... Một số thân chủ quảng cáo của Việt Weekly cho biết, họ đã bị áp lực từ phía các tác giả của “Bản Lên Tiếng” đe dọa họ phải ngưng đăng quảng cáo trên Việt Weekly...”

Cũng trong ngày nầy, báo An Ninh Thế Giới, số 676, đăng tải bài viết khá dài ký tên P.V với tựa đề “Vì sao một số người ở Mỹ chống báo Vietweekly (Tuần báo Việt)?”.

Mở đầu bài viết “Liên tiếp trong hai ngày 21 và 22-7-2007, rồi sau đó là ngày 28, tại thành phố Westminster, quận Cam, miền Nam bang California - Mỹ, đã nổ ra biểu tình của một nhóm người cực đoan trong cộng đồng người Việt hải ngoại, mà mục đích là “đánh cho sập” tờ Vietweekly (Tuần báo Việt) với lý do: Ðây là báo của... Cộng sản”.

Bai viết nêu ra 2 tiểu mục, với “Vài nét về báo chí người Việt trên đất Mỹ” nhưng chỉ nói dăm ba điều vớ vẩn khi nêu ra vài tờ báo ở Nam Cali và nêu ra danh tánh những nhân vật chống Cộng, những nhà dân cử ủng hộ lập trường chống Cộng... Bước sang tiểu mục “Vì sao một số người chống báo Vietweekly?”. Mở đầu tiết mục nầy, PV viết: “ Giữa năm 2003, Lê Vũ cùng Nguyễn Quang Trường cùng một nhóm bạn trẻ, đứng ra thành lập tờ Vietweekly (Tuần báo Việt). Là một họa sĩ, trước đó - năm 1999 - Trường (bút danh là Etcetera) chuyên về biếm họa cho báo Người Việt và một số tờ báo Việt ngữ khác...”. Tội nghiệp cho phóng viên của báo Công An, nhắc đến “tài hoa biếm họa” của Etcetera vào năm 1999 mà không biết “tài hoa” hiếm họa miệt thị Hồ Chí Minh nên mới có chỗ đứng trong làng báo Việt ngữ ở Nam Cali thì thiếu trung thực rồi đó “đồng chí”. Sau đó thì bài viết lấy những bài trong VW để xào nấu lại nên có sự vá víu những luận điệu đả kích rồi kết luận “Nhưng Vietweekly vẫn đứng vũng và vẫn tiếp tục xuất bản phục vụ cộng đồng người Việt ở Mỹ”.

Bài báo nầy được tuần báo Việt Tide ở Nam Cali trích đăng vài điểm chính trong số ra ngày 3 tháng 8.

Thời gian nầy, họa sĩ Gúc (Phạm Ðức Tiến) thay Etcetera vẽ biếm họa trên tờ VW, trở thành “đồng hội đồng thuyền” của bộ tứ nầy. Chiều ngày 4 tháng 8 vừa qua, trong cuộc biểu tình chống VW, nhận được tờ báo KBC Hải Ngoại cũ trong năm 2002 và tờ Việt Tide với lời nhắn “xem qua cho biết sự tình”. Và, không ngờ bài viết nầy được phổ biến trên trang web Cánh Thép vào ngày thứ Tư, 8 tháng 8 nầy của Không Quân Việt Nam (canhthep.com).

http://www.canhthep.com/modules.php?op= ... 1186571869.

Và trên mục Diễn Ðàn của trang web Take2tango.
http://www.take2tango.com/News.aspx?NewsID=5682

Sau khi phối kiểm cùng Ban Chủ Biên tờ KBC Hải Ngoại và mấy người bạn cùng Khóa 3 CTCT, minh xác tác giả Lâm Viên là họa sĩ Gúc tức Phạm Ðức Tiến. Trước đây, ông là người chống Cộng tận cùng, ông cũng đóng góp bài vở cho trang web Cánh Thép và ông có trang web về VNAF dù không liên quan gì đến binh chủng nầy. Bài viết của ông về cái chết của SVSQ và kẻ gây ra để lập công trạng đã gây xôn xao trong Tổng Hội của quân trường của ông là Trường Ðại Học CTCT Ðà Lạt qua bài viết trên tờ KBC Hải Ngoại, số ra tháng 11 nam 2002 với tựa đề “Mởu Hồ Sơ Cũ: Từ cái chết của SVSQ Sử Xuân Vĩnh Lộc đến mặt trận điệp báo CSVN”, tác giả Lâm Viên. Trong Lời Tòa Soạn đã ghi “Bài viết nầy do một cựu SVSQ/ÐH.CTCT và bạn bè đồng khóa của anh SXVL, gởi đến KBC Hải Ngoại như một chứng cớ “lật tẩy con bài” đã nằm ẩn trong Trường ÐH.CTCT, và theo tâm sự của tác giả “im lặng là đồng lõa với tội ác”- KBC Hải Ngoại”.

Khởi đầu bài viết, tác gỉa mô tả lại hình ảnh Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị tọa lạc trên ngọn đồi 4648, rất chi tiết với chương trình giảng dạy từng bộ môn và sinh hoạt của quân trường. Bài viết khá dài, có cả sơ đồ để minh xác, nên chỉ trích dẫn những phần chính.

Tác giả viết “Khóa 3 Nguyễn Trãi sau năm đầu đã có 1 SVSQ ra trường sớm với cấp bậc Trung Sĩ, sang năm thứ 2, bốn SVSQ khác ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy. Tất cả đều vì điểm xấu kỷ luật. Xét như thế, khi tốt nghiệp, các SVSQ/CTCT sẽ trởu thành những Sĩ Quan văn võ song toàn đúng nghĩa của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hơn thế nữa, ÐH/CTCT còn gián tiếp trao truyền các SVSQ một tâm tình dân tộc, với tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường như một trang Tráng Sĩ thời xưa đi làm lịch sửu. Mỗi khi tan hàng, SVSQ chỉ huy phaủi hô khẩu hiệu và đoàn quân sẽ đồng thanh trảu lời: - Một đoàn thể: Quân Ðội! - Một lý tưởng: Quốc Gia! - Một ý chí: Chống Cộng! - Tan hàng: Cố gắng! Và trên quân kỳ của Trường, phất phới tung bay hàng chữ tâm niệm Trí, Nhân, Dũng,Thành (motto của ÐH/CTCT)”.

Tác giả đề cập đến phần qua trọng về “I.- Cái Chết Bí Ẩn Của SVSQ Sử Xuân Vĩnh Lộc”.

“...Hôm đó là ngày 29 tháng 3 năm 1973, còn chừng hơn 20 ngày nữa là khóa 3 Nguyễn Trãi của ÐH/CTCT sẽ làm lễ mãn khóa tốt nghiệp. SVSQ Sửu Xuân Vĩnh Lộc sẽ trởu thành một Thiếu Úy hiện dịch cuủa quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Lúc ấy vào khoảng hơn 10 giờ tối, giờ này là giờ tự do của các SVSQ. Những SVSQ có nhiệm vụ canh gác ngoài vòng đai quân trường đã ra hết các vọng gác chỉ định. Số SVSQ còn lại hoặc ởu thư viện hay câu lạc bộ SVSQ; một số đi ngủ sớm hay ởu trong phòng học bài, viết thư v.v..., vì thế doanh trại cuủa Liên Ðoàn SVSQ rất vắng. Ðột nhiên một tiếng nổ dữ dội vang lên từ phía doanh trại Liên Ðoàn. Khi các SVSQ chạy đến nơi phát ra tiếng nổ, họ chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng: SVSQ Sửu Xuân Vĩnh Lộc nằm chết trên vũng máu, nửa phần dưới thân thể anh banh nát vì sức công phá của lựu đạn, ba SVSQ khác bị thương nằm quằn quại rên la...

... Mấy ngày sau, trung đội 8, đơn vị tuần sự của đại đội D, trong quân phục đại lễ tiễn đưa linh cữu của SVSQ/SXVL từ chùa Linh Sơn lên quân xa, chở anh về nguyên quán... Sau đó ai nấy đều bận rộn tập lễ mãn khóa, chuẩn bị hành trang và tâm tư rời quân trường mẹ; không còn bận tâm về cái chết của anh...”

Phần II với “Mặt Trận Ðiệp Báo Của CSVN”, tác giả viết: “Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 chiếm trọn được miền Nam, vì tin rằng mục đích tối hậu đã đạt được, Cộng Sản Việt Nam không ngần ngại để những con trùng gián điệp lợi hại nhất đã cài trong mọi cơ cấu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được xuất đầu lộ diện. Một phần là để tưởng thưởng và tuyên dương công trạng các tên này. Mặt khác, chính những con trùng gián điệp này khi được dịp cởi bỏ những chiếc mặt nạ chúng phải mang ròng rã trong nhiều thập niên, đã hiu hiu tự đắc như khoe khoang, thỏa mãn cho cái tâm lý dồn ép bí mật mà chúng phải chịu đựng trong nhiều năm qua. Thực chất, bọn này chỉ là những là những tên bội phản, ởu thời đại nào, quốc gia nào cũng đều bị phỉ nhổ, vì không có luật lệ nào công nhận chúng như địch quân đối kháng trên chiến trường. Ðó chỉ là những tên phá hoại, khủng bố (terrorist). Nổi tiếng vì đã xâm nhập được các guồng máy cao cấp như Phủ Tổng Thống có Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, hoặc các cơ quan truyền thông quốc tế như Phạm Xuân Ẩn, trong giới Văn Nghệ có những tên như Vũ Hạnh, “Kiều Nữ” Kim Cương, Trịnh Công Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường v.v...

Thành phần “cán bộ ba mươi”, trở cờ vào giờ thứ 25, có tên phi công Nguyễn Thành Trung (tên thật là Ðinh Khắc Trung) ai cũng biết. Còn biết bao nhiêu tên bội phản khác nữa ở nhiều đẳng cấp khác nhau mà chúng ta không biết đến, chỉ những kẻ trong cuộc có dịp đối đầu chúng mới biết. ÐH/CTCT cũng không nằm ngoài tai ương này, tình báo Cộng Sản đã gài tay sai của chúng theo học khóa 3 Nguyễn Trãi. Ðó là hai tên Phan Xuân Lâm và Lê Hùng Anh. Những điều ghi nhận sau đây là những sự kiện (facts) mắt thấy, tai nghe, được đối chiếu, hay khi có dịp đối chất do các cựu SVSQ/CTCT khóa 3 thu thập. Ðây không còn là vấn đề nghi ngờ, nghi oan, vu khống hay chụp mũ. Những ai vì tình “đồng đội”, muốn bênh vực, giải hóa cho hai tên gián điệp Cộng Sản này có quyền viết bài trần tình, phản bác, chúng tôi tin rằng bổn báo sẽ hoan hỷ đăng tải.

Phan Xuân Lâm (PXL) sinh ngày 9 tháng 3 năm 1949 tại Ninh Thuận, trước năm 1975 cư ngụ tại số 9 đường Phó Ðức Chính Saigon. Là một người Việt gốc Hoa, nên hắn theo học trường Trung Học Bác Ái (một trường Trung Học dùng toàn Hoa ngữ trong chương trình giảng dạy, dành cho con cháu các Hoa kiều Chợ Lớn). Trong thời gian theo học tại trường này, hắn được móc nối, hoạt động cho một tổ tình báo Trung Cộng, dưới quyền điều động của một nữ tổ trưởng cũng là một nữ sinh Trung Học Bác Ái. Y thị sau này kết hôn với PXL, và là người phối ngẫu của hắn cho đến ngày nay. Trong thời gian này, y thị đã bị cơ quan An Ninh của Việt Nam Cộng Hòa nghi ngờ, điều tra bắt giữ ít nhất hai lần, nhưng sau đó được thả ra. Vì là một tổ tình báo học sinh, nên hoạt động của nhóm này chỉ giới hạn trong công tác thu lượm tin tức, liên lạc, móc nối, kết nạp, vận động cảm tình viên, và trải truyền đơn chống chính phủ.

Năm 1970, PXL ghi tên thi tuyển, gia nhập ÐH/CTCT. Thời gian trong trường, PXL tham gia trong hệ thống Tự Chỉ Huy Liên Ðoàn SVSQ với chức vụ SVSQ Tiếp Vận Liên Ðoàn. Vì biết nói tiếng Quảng Ðông, hắn giúp Liên Ðoàn SVSQ mua chịu hàng hóa, bánh trái của các cửa hàng người Hoa tại thị xã Ðà Lạt. Nhờ thế phòng Văn Khang (một hình thức Câu Lạc Bộ tự quản của LÐ/SVSQ) từ tình trạng nợ nần (bankruptcy) do khóa NT 2 bàn giao, đã có thể hoạt động lại, thanh toán nợ nần các bạn hàng ngoài thị xã và thu nhập lợi tức cho LÐ/SVSQ. Với khẩu năng sửu dụng Hoa ngữ lưu loát, PXL thường đóng vai trò thông dịch viên, hướng dẫn các phái đoàn quân sự Trung Hoa Quốc Gia, khi các phái đoàn này viếng thăm doanh trại và hệ thống Tự Chỉ Huy LÐ/SVSQ. Vì thế PXL chiếm được cảm tình của hầu hết Sĩ Quan Cán Bộ, và được dành nhiều ưu đãi. Tuy nhiên đối với các SVSQ khác, PXL được nhìn như một trong những thành phần “nâng bi”. Ðể tránh vấn đề tai tiếng thiên vị, một số Sĩ Quan Cán Bộ sau đó tránh giao thiệp thân mật với hắn, và bớt sửu dụng hắn trong nhiều công tác. Ðây là khoảng thời gian cuối năm thứ hai, PXL cay đắng vì bị thất sủng.

Sau ngày ra trường, PXL về tiểu khu Phong Dinh và được cửu đi làm Phân Chi Khu Trưởng (Phân Chi Khu là một tổ chức quân sự nhỏ điều hành song song với tổ chức dân sự Ủy Ban Hành Chánh Xã). Vì Phân Chi Khu thường nằm ởu những vị trí thôn xóm hẻo lánh, hoạt động tình báo của PXL trong giai đoạn này bị bế tắc vì mất môi trường thu lượm những tin tức có giá trị. Nên sau đó hắn tìm mọi cách để chạy chọt về lại Tiểu Khu.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, PXL không phaủi đi “học tập cải tạo” một ngày nào. Ở Sài Gòn hắn làm ký dẫu cho nhật báo Sài Gòn Giải Phóng (ấn bản Hoa Ngữ). Ðây là thời gian hắn bị thử thách, trắc nghiệm lại. Sau đó làm việc cho tình báo công an với cấp bậc Thiếu Tá.

Sau ngày hiệp định Thương Mại Việt Mỹ được ký kết, ngành tình báo công an Cộng Sản được “dân sự hóa” qua hình thức hoạt động kinh doanh. Ðây cũng là một bức bình phong nhất cử lưỡng tiện, vừa ngụy trang cho những hoạt động tình báo, vừa là một bộ máy hợp kinh tài hợp pháp, tạo nguồn tài trợ vô tận qua những hợp đồng buôn bán hoặc tham nhũng.

Hiện nay PXL mang quân hàm Ðại Tá tình báo công an. Về mặt nổi, hắn là giám đốc một công ty xuất nhập khẩu giày dép với hai ngàn nhân viên. Ði đâu cũng có tài xế đưa đón và ba cận vệ thân tín túc trực (chiêu dụ làm việc cho hắn từ các bạn đồng khóa cũ còn ởu lại VN). Với điện thoại cầm tay di động tiện lợi, ngày nay hắn có thể huy động thuộc cấp, và liên lạc phối hợp với tên Lê Hùng Anh cho mọi công tác tình báo một cách hiệu quảu và nhịp nhàng.

... Lê Hùng Anh, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1951 tại xã Bình Liên, quận Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, trước năm 1975, hắn cư ngụ tại 29A Tân Hòa Ðông Chợ Lớn. Thân phụ hắn là môt cán bộ tập kết ra Bắc. Nhờ đã được cha hắn gửi gấm Bác và Ðảng nuôi dưỡng ăn học đến nơi đến chốn, nên đến năm 19 tuổi, hắn thi đậu Tú Tài toàn phần, mặc dù trong giai đoạn này, hắn như kẻ mồ côi, vô gia đình, không họ hàng thân thích. Trong thời gian theo học khóa Nguyễn Trãi 3, LHA tham gia trong hệ thống Tự Chỉ Huy với chức vụ Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội A, Tiểu Ðoàn 1 SVSQ. Tuy LHA có bộ vó chỉ huy oai phong “ngon lành”, hô hoán dõng dạc, ăn to nói lớn, nhưng bản chất hắn chỉ là đứa hữu dõng vô mưu, lại thích khoa trương, nên không đạt được thành tích gì xuất sắc trong suốt 2 năm tại quân trường. Sau khi ra trường, LHA về Tiểu Khu Gò Công làm phòng Chính Huấn.

Sau khi miền Nam thất thủ, LHA không phải đi “học tập” một ngày nào. Ngược lại, trong giai đoạn này, hắn đi đến từng nhà cựu SVSQ /CTCT đồng khóa ở Saigon, vờ hỏi thăm nhưng thực ra để kiểm soát xem có ai trốn “học tập cải tạo” hay không! Sau đó hắn làm cán bộ “cung tiêu” (chuyên viên cung cấp vật liệu và tiêu thụ hàng sản xuất) cho một công ty xây cất. Với tư cách một cán bộ nhà nước, biết đường đi nước bước lách lòn, hắn thành lập một tổ hợp sản xuất ván sàn xuất khẩu. Trong suốt giai đoạn này, với những ai tỏ ý khuất phục, hắn làm bộ ân cần giúp đỡ. Nhưng với những người tỏ ý coi thường, laủng tránh, hắn buông lời thách đố đe dọa”...

Phần III với “Mở Lại Hồ Sơ Cũ” tác giả viết:

“Trở lại cái chết của SVSQ/SXVL, với hình tích thật sự của hai tên phản trắc kể trên, đây chính là những mắc xích thất lạc gần 30 năm có thể giải thích cho nghi vấn thứ ba mà chúng ta đã phân tích ở phần đầu. Và lời kết luận hợp lý, giờ đây dành cho chính bạn! Có lẽ sẽ không ai bới lại đống tro tàn, nếu hành động phản trắc của tên Phan Xuân Lâm và Lê Hùng Anh chỉ dừng lại sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, bàn tay nhuốm máu của chúng bắt đầu thò ra hải ngoại. Nhân đây, cũng nên nhấn mạnh và xác định lại: Ðối với những ai từng chọn võ nghiệp, họ sẽ hiểu rằng với hành động phản bội như trên, dù cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn tồn tại, hai tên phản tặc kia đương nhiên sẽ bị tước hết cấp bậc, tước hiệu, truyền thống, và huy hiệu mà QL/VNCH và ÐH/CTCT đã ban cho chúng. Và dĩ nhiên danh từ “đồng đội” không còn áp dụng đối với hai tên này, vì từ khởi thủy, chúng đã không bao giờ đứng cùng chiến tuyến với chúng ta.

Nhận thấy khối người Việt hải ngoại là một nguồn tài chánh ngoại tệ có giá trị vô tận, và cũng là một môi trường tình báo lợi hại để chúng có thể cấy người hoạt động lâu dài, gần đây bọn Bắc Bộ Phủ Hà Nội đã chính thức thành lập Bộ Kiều Vận với những kế hoạch và chiến thuật lớp lang, nhằm lũng đoạn và xâm nhập cộng đồng người Việt trên toàn thế giới, Với chỉ thị mới, tên Phan Xuân Lâm cũng đã bắt đầu rục rịch cho công tác thiết lập một một đầu cầu tình báo cuủa hắn tại hải ngoại.

Trước hết, đối với những anh em cũ còn kẹt ở quê nhà, PXL liên lạc và kết hợp thành một mạng lưới thân hữu, thông tin chặt chẽ. Dùng “tình xưa nghĩa cũ”, tỏ lòng trắc ẩn, mua chuộc những người thất thế và đói rách làm việc, phục dịch cho hắn như kẻ sai vặt, quản gia, tài xế, hay vệ sĩ (body guard).

Ðối với những người ở hải ngoại, hắn tìm cách móc nối liên lạc ban phát đặc ân. Nếu về thăm Việt Nam sẽ được hắn niềm nởu đón tiếp, quàng vai ba cổ, dẫn đi ăn nhậu thân thương như thuở nào. Khách không được phép trảu tiền cho bất cứ chi phí nào, và sẽ được bảo đảm an toàn trong suốt thời gian lưu tại VN. Nếu khách trở về vĩnh viễn để được nằm trong lòng đất mẹ, hắn sẽ xăn tay áo, kề vai vào khiêng quan tài từ tận phi trường. Nếu tang chủ lỡ đóng tiền hối lộ cho hải quan, hắn sẽ ra lệnh bọn này phải trả tiền lại (quyền hạn rất lớn!), và cho công an hộ tống quan tài người quá cố về đến quê nhà. Trên lộ trình, mỗi khi đi qua những nơi có bạn bè cũ, sẽ có người đại diện ra đón tiếp, đặt vòng hoa tưởng niệm. Khi đến nơi, quan tài sẽ được rước đi một vòng phố cũ, để người quá cố nhìn lại chốn xưa lần cuối cùng (Trần Ðộ khi chết cũng không được như vậy). Chỉ thiếu mỗi lá cờ đỏ sao vàng phủ trên quan tài là người quá cố đã nghiễm nhiên trởu thành... liệt sĩ”...

“...Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cộng Sản Việt Nam đã đoạt được tất cả mọi thứ, từ lãnh thổ, chính quyền, dân số, tài sản quốc gia v.v... Nhưng có một cái bọn chúng đã không thể nào đoạt được, vì chúng ta đã nắm giữ: Ðó là lòng người, là tâm tình Dân Tộc.

Ðó chính là yếu tố tối hậu để đưa cuộc đấu tranh giành Tự Do, Dân Chủ, Phú Cường cho dân tộc Việt Nam đi đến thành công. Và theo luật tiến hóa tự nhiên cuủa trời đất, chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, một chế độ phi nhân, lỗi thời và lạc hậu, chắc chắn sẽ bị đào thải”...

Dĩ nhiên ông Phan Xuân Lâm đã biết rõ xuất xứ của bài viết nầy, là người trong cuộc, có những vấn đề “lấn cấn” phải không? Tờ An Ninh Thế Giới cũng ở trong ngành của ông, biết nói gì đây?


Kết Luận

Trong những năm qua, người Việt tỵ nạn rất ngại tình báo CS hoạt động mạnh ở hải ngoại nhưng suy cho cùng, còn yếu kém lắm. Những kẻ “ăn cơm QG thờ ma CS” thì bố láo bố lếu để khi đi về tán phét cho có điểm, những “sứ thần ngoại giao” nếu có hoạt động tình báo thì gốc gác mấy đời ở miền Bắc, sang hải ngoại như “cán ngố lạc thiên thai”, thu lượm tin tức ở những kẻ “ăn hại đái nát” nên khi phát hiện thì hỡi ôi! “be cái lầm”.

Cái mửng mình phỏng vấn mình, ném đá dấu tay như báo Việt Weekly học đòi ở trong nước cũng xưa rồi. Ðọc bài của P.V trên tờ An Ninh Thế Giới có đoạn “Ma giáo hơn, Phạm Phú Thiện Giao - một phóng viên của Người Việt, trong bài viết chống Vietweekly, đã lập lờ ký tên Mai Phương, rồi chạy tít là “Bài từ Việt Nam gởi qua. Hôm sau, nó được tờ Việt Tide, Take Tango đăng lại nguyên văn, được “nhà báo” Trần Phong Vũ tiêm mắm thêm muối trong mục “tản mạn”. Nếu đọc đoạn nầy cũng suy đoán tác giả P.V là (Phong, Phạm, Vũ) của tờ VW (?)vì cay cú hai bài viết của Vũ Xảo Trường Gian (Lê Vũ xảo quyệt, Nguyễn Quang Trường gian manh) vì VXTG lật tẩy tờ VW chôm chỉa bài viết trên hầu hết các trang web mà không lương thiện ghi nguồn gốc. Chỉ nêu ra một số báo, có vài bài chửi bới lèm bèm còn ba phần tư bài vở cũ mềm chôm chỉa trên trang web đẻ ịn vào theo lối “đột phá” hiện đại của giới trẻ làm báo hải ngoại! Bài viết ký tên Mai Phương viết rất nhẹ nhàng và lương thiện với cái nhìn của người trẻ, nó không hồ đồ, chụp mũ, bới móc, dựng đứng thì chuyện gì phải làm cái trò ném đá dấu tay. Có lẽ vì suy bụng ta ra bụng người quen rồi nên thấy ai cũng như nhóm VW cả.

Với VW, nếu mở lại “hồ sơ cũ” thì những bài viết, hình ảnh, phim, video... các “nhà truyền thông” của VW chống Cộng tới bến. Mới ngày nào đây mà “sớm đánh tối đội” nhanh thế. Nếu giới lãnh đạo CS sử dụng chiêu bài “đánh kẻ chạy đi, tung hô kẻ chạy lại” thì lại “bé cái lầm”. Nếu có những nhân vật, bài viết của những người chỉ trích đường lối độc tài, tham nhũng, thối nát, cửa quyền, thiếu tự do dân chủ... của CS rất đường hoàng “bài bản”, luận chừng rõ ràng... và, khi thấy có đường lối đổi mới, cải cách của chính quyền CS thực sự, nhận chân được giá trị của nó để “tiếp tay” thì mới có ý nghĩa. Còn những kẽ đá cá lăn dưa, chỉ cần “chi” một chút vội vàng chạy theo thì cũng “sớm đầu tối đạp” vì bản chất “sớm đánh tối đội” đã quen rồi. Cái mửng đựng đứng để bôi bẩn, miệt thị, xuyên tạc, kết án khi chống Cộng mà khi chạy lại thì “tung hô” thì hố rồi đó “đồng chí” chưa chui vào chăn của VW để thấy rận cấu xé ra sao.

Ðại Nghĩa & Thanh Quang
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Dân Là Cha Mẹ
Trần Lý
Tôi viết những dòng này có hơi muộn màng đối với một sự cố vừa xảy ra trên quê hương tôi. Nhưng tôi vẫn phải viết, không thể ngưng được.

Những dòng này tôi muốn gửi đến hai triệu người tự nhận là những người có công lao, hoặc chính thống thừa kế công lao của cha ông, trong việc thống nhất đất nước, đem lại “độc lập, tự do, hạnh phúc” cho hơn tám mươi triệu người khác trên quê hương tôi.
Rất nhiều người khác trong số hơn tám mươi triệu người trong nước cũng như hai triệu người sống ở nước ngoài đã xem quý vị là kẻ thù, thậm chí là thứ gì không còn nhân tính. Riêng tôi, không thể như vậy. Bởi vì tôi vẫn còn niềm tin rằng lẽ phải cuối cùng cũng thắng, và thiện tính ở trong quý vị chẳng khác gì thiện tính ở trong tôi; chẳng qua trong nhất thời, có những thứ quyền lợi vật chất, hoặc một loại giá trị tinh thần nào đó—như là lòng trung thành đối với tổ chức hay lý tưởng một thời được cho là cao đẹp—đã che phủ tâm tư và cuộc sống của bạn, khiến cho thiện tính ấy trở nên xa lạ, không thể áp dụng được trong đời thường, vốn đòi hỏi nhiều năng động và mau mắn trong cơ trí, manh tâm, thủ đoạn, luồn lách, tráo trở, tranh giành, thủ lợi… và nhất là sự thức thời. Mặt khác, trong cương vị một người phật-tử, tôi cũng học được rằng ngay chính những người làm khổ mình, ngăn cản mình làm việc thiện, lôi kéo mình vào con đường ác, cũng đều là thiện tri thức (nếu không muốn nói là những bồ-tát) thực hành nghịch hạnh: đẩy mình vào hoàn cảnh khó khăn từ thể xác đến tinh thần để thử thách, trui luyện tâm bồ-đề của mình. Từ bài học, kinh nghiệm thực tế của bản thân và ý niệm đó, tôi vẫn xem quý vị là những người bạn để có thể tiếp tục nói và lắng nghe những điều cần nói cần nghe, thay vì tảng lờ xem như quý vị không còn hiện hữu trong tâm tư và cuộc sống của tôi.

Thưa các bạn, nơi đây, để chia sẻ với nhau, chúng ta không cần phải sử dụng đến phương thức lý luận của các loại học thuyết, chủ nghĩa, triết lý trừu tượng hoặc thực tiễn, ý thức cũ hay mới… mà chỉ trao đổi với nhau trên nền tảng của thiện tính, và nếu cần, trên cơ sở của một nền dân chủ, hay nhân quyền, dù là dân chủ nhân quyền chuyên biệt của Á châu hay phổ quát toàn cầu.

Thiện tính, theo tôi và những người phật-tử khác, là bản tính trong lành, tốt đẹp sẵn có nơi mỗi người mà khi biểu hiện trên ý nghĩ, lời nói và hành động, sẽ mang lại lợi lạc và hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác, trong hiện tại và trong tương lai. Ý niệm về thiện tính như vậy, tôi tin rằng không có gì mâu thuẫn đối với suy nghĩ và niềm tin cơ bản của bạn. Và nếu bạn đồng ý với tôi như thế, chúng ta hãy cùng nhìn thật kỹ một vài vấn đề cần trao đổi như sau:

- Vấn đề trung thành: Cả bạn và tôi, tùy theo hoàn cảnh và thời đại mình sinh ra, đều bị thúc đẩy hoặc tự nguyện dấn thân, sống, sinh hoạt trong một thể chế, tổ chức tôn giáo hay đảng phái chính trị khác nhau. Bạn thề trung thành với đảng phái của bạn; tôi nguyện sống trọn vẹn với lý tưởng và con đường giải thoát của tôi. Không biết khi bạn không còn trung thành với đảng phái của bạn thì hậu quả sẽ như thế nào. Riêng tôi và những người phật-tử khác, không bị bó buộc phải “tận trung” với tổ chức tôn giáo mình đang theo. Chúng tôi được tự do lựa chọn con đường của Phật và vì thế cũng được tự do từ bỏ con đường của Phật. Đức Phật không trừng phạt chúng tôi, Phật giáo (với quý vị tăng ni và các tổ chức giáo hội) cũng không trừng phạt, và thực ra là không có quyền hạn gì để trừng phạt chúng tôi. Chỉ có điều đáng tiếc và thiệt thòi cho chúng tôi nếu vì lý do gì mà chúng tôi phải rời bỏ con đường mà qua kinh nghiệm tư duy, thực hành, biết rằng nó mang lại lợi ích và an lạc cho mình, cho người.

Đặt vấn đề lòng trung của bạn và của tôi ở đây, trong bối cảnh của một đất nước đang trên đà “tiến bộ nhảy vọt” (lời của các bạn), gia nhập WTO, từ sông cạn bước ra biển rộng (lời của các bạn), độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, nhân quyền (đều là các tiêu đề phấn khởi của các bạn), tôi muốn nói rằng, sự trung thành tuyệt đối (tận trung) không thay đổi, không cần suy xét lại, không cần đắn đo, không cần tìm hiểu, đối với một ông vua, bà hoàng, nhà lãnh tụ (đảng phái hay tôn giáo), các đồng chí lãnh đạo, v.v… là một thứ lòng trung rất ư là phản dân chủ, đi ngược lại với trào lưu văn minh tiến bộ của thời đại. Nếu muốn đi thuận với thời đại, muốn có một đổi thay, tiến bộ cho mình và cho những người chung quanh, điều tiên quyết là phải có đủ can đảm để xét lại lại lòng trung thành của mình. Lòng trung thành ấy đặt vào đối tượng (tổ chức, hội đoàn, đảng phái chính trị, tôn giáo…) nào đó có chính đáng và có nên bảo vệ gìn giữ hay không, có thực sự mang lại lợi ích cho mình và cho tha nhân hay không.
Hãy đặt trường hợp một phật-tử đối với đường hướng và mục tiêu của một tổ chức giáo hội nào đó có lý tưởng phục vụ đạo pháp và dân tộc, xa hơn nữa, là phục vụ nhân loại, chúng sinh. Người này tự nguyện đặt mình vào giáo hội ấy như là một thành viên trung kiên. Nhưng khi trong nội bộ giáo hội ấy có một thiểu số thành viên vô tình hoặc cố ý đẩy cả tổ chức đi chệch hướng đi ban đầu, mà bản thân người phật-tử ấy không thể làm gì khác hơn để xây dựng hay sửa đổi, nên rời bỏ không còn sinh hoạt trực tiếp với giáo hội kia nữa. Rời bỏ, người này đứng ngoài quan sát: khi việc hay và đúng cần làm, vẫn tiếp tay ủng hộ; việc dở và sai thì phản đối hoặc góp ý xây dựng, điều chỉnh. Nếu một mai, giáo hội ấy phát triển mạnh mẽ và đóng góp cho đạo và đời hữu hiệu hơn, người ấy vui mừng, gián tiếp hỗ trợ; nhưng nếu vì lý do nào mà giáo hội kia không còn tồn tại, người ấy cũng không buồn và lòng cũng không áy náy. Bởi vì giáo hội kia, với lý tưởng cao đẹp và những thành viên tiêu biểu một thời nêu gương sáng ngời, đã đóng trọn vai trò của nó trong một giai đoạn lịch sử nào đó. Tiếp tục bước tới hoặc khép lại một trang sử chẳng qua cũng chỉ là vận hành tự nhiên của những cơn sóng trên mặt biển rộng. Lòng trung của người phật-tử không đặt hết vào cho một cơ cấu tổ chức. Người phật-tử chỉ trung thành với lý tưởng cao đẹp của đạo Phật là truyền bá chánh pháp và làm lợi ích cho nhân loại. Một cơ cấu tổ chức có thể thăng-trầm, còn-mất; nhưng một lý tưởng cao đẹp thì sẽ theo họ suốt đời. Người phật-tử có tự do của họ: chọn lựa dấn thân hoặc từ bỏ.

Còn lý tưởng và lòng trung của bạn thế nào? - Tất nhiên tôi là kẻ đứng ngoài, sẽ không có sự hiểu biết, cảm nhận, niềm tin, hy vọng, tình cảm, kỷ niệm… đối với đảng phái mà bạn giốc cả một đời (hoặc một thời) vào đó. Nhưng nhìn chung, tôi biết không ai trên đời này lại tự nguyện đi chọn một lý tưởng hay một cơ cấu tổ chức mà họ nghĩ là không tốt đẹp. Lý tưởng của bạn đã một thời là ngọn đuốc soi đường cho bạn và những đồng chí trong ước vọng xây dựng một thế giới đại đồng, và trước mắt là công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành lại độc lập, tự chủ cho quê hương, mang lại ấm no, phú cường, hạnh phúc cho dân tộc. Trên mặt lý thuyết, một lý tưởng như thế ai cũng tán thưởng, hoặc tích cực ủng hộ, dấn thân. Thế rồi, khi thành tựu một vài mốc điểm nào đó trên tiến trình thực hiện lý tưởng ấy, thực tế đã cho thấy gì? Sau khi thống nhất hai miền bằng võ lực và áp dụng các chính sách kiểm soát với sự phân biệt đối xử bất công, ưu đãi đảng viên và cán bộ, trả thù mọi thành phần thuộc chế độ cũ miền nam… suốt hơn ba mươi năm, hết sai lầm này đến sai lầm khác, đẩy cả dân tộc vào hố thẳm hun hút của khổ đau, thống hận. Trong khi hai triệu người các bạn phủ phê với những đống tiền bòn rút từ máu và tủy của nhân dân, từ những cấp viện nhân đạo của nước ngoài (trong đó có cả bộ phận Việt kiều lưu vong), từ ngân quỹ của những công trình và dự án xây dựng đất nước, sống xa hoa và trụy lạc trong những cao ốc, dinh thự và những cơ sở làm ăn to tát qui mô, thì hàng mấy chục triệu người dân khác ngoài xã hội phải bươn chải ngoi lên để sống còn trong một xã hội tràn lan các tệ nạn: ma túy, buôn người (xuất khẩu lao động, làm đầy tớ hay đĩ điếm ở nước ngoài), trộm cắp, lường gạt... Không những thế, tệ nạn tham nhũng, quan liêu từ đẳng cấp của các bạn còn tạo ra vô số thảm cảnh bất công, uất ức từ phía người dân chất phác vô tội: ở thành thị là công nhân, ở thôn quê là nông dân—là những thành phần mà tnước đây các bạn nâng cao, ca tụng như là thành phần chủ lực tiên phong của đảng để xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc không có mà làm, lương không đủ sống; nhà và đất bị lấn chiếm, bồi thường không thỏa đáng, hoặc bị tước đoạt trắng trợn. Đối với dân thì hùng hổ, dữ dằn, dọa nạt, trấn áp; đối với giặc ngoài công khai lấn đất, giành biển, bắn chết ngư phủ của nước mình thì hèn nhục, cúi mặt làm ngơ. Bao nhiêu là thảm trạng đớn đau xảy ra hàng ngày trên đất nước, tôi ngồi đây, từ nơi phương ngoại, viết những dòng này mà lệ rơi theo, không lẽ bạn không hề biết đến? Nếu biết mà thụ động không làm, không nói gì cả có nghĩa là toa rập, tán đồng một tập đoàn hại nước hại dân; hoặc là chính bản thân bạn cũng nhắm mắt bịt tai lăn vào cái bã vinh hoa, dục lạc, quyền và lợi, để hưởng thụ, chia nhau hưởng thụ. Như thế thì còn đâu lý tưởng cao đẹp năm xưa! Còn như cho rằng thời nay không cần phải nói chuyện lý tưởng nữa, chỉ cần tuân phục lãnh đạo, trung thành với đảng, để hưởng lợi lộc vinh hoa thì coi như bạn tự tuyên bố một đời sống không lý tưởng, một đời sống không ra gì. Một đời sống như thế, những người chung quanh kết luận bạn không có nhân tính không phải là oan ức. Bạn có thể sống hạnh phúc thực sự giữa một biển người vốn là nạn nhân thống khổ do bạn gây nên hay chăng? Nếu bạn vẫn thoải mái sống được mà lòng không chút vướng bận, chúng ta không còn gì để nói; còn nếu một điểm lương tri, một chút thiện tính của bạn còn le lói không cho phép bạn an lòng ngồi nhìn nhân dân thống hận, xin bạn hãy can đảm xét lại lòng trung và lý tưởng của bạn.

Nếu lý tưởng ấy xa vời, không thực tiễn, lỗi thời, không thể áp dụng, không thể mang lại hạnh phúc cho quê hương và dân tộc, bạn hãy dứt khoát từ bỏ nó đi; nếu tổ chức ấy—tổ chức mà bạn nỗ lực tranh đấu bằng tâm huyết, thời gian, thậm chí tính mạng để được gia nhập—đã chứng tỏ rõ ràng trên mặt thực tế đời sống bảy mươi năm của đất nước cuối cùng chỉ là một tập đoàn phản bội nguyện vọng của dân tộc, đẩy nhân dân vào khốn cùng, khổ sở và tạo nên một xã hội đầy bất công, thối nát, thì bạn không cần phải trung thành với nó nữa.

Đối với tôi, và tôi nghĩ là bạn cũng sẽ chia sẻ với tôi quan điểm này: một con người tự do xứng đáng đứng giữa trời đất và bước kịp bước tiến của văn minh nhân loại, là con người có thể tự chọn lựa lối đi đúng đắn của nó, không để tình cảm hay lòng trung thành của mình hướng dẫn về một ngõ cụt chỉ tạo nên những đổ vỡ, tan nát, khổ đau cho cá nhân và đồng loại. Một thể chế có tự do và nhân quyền cũng thế, là một thể chế tôn trọng và tạo điều kiện cho con người có được những quyền tự do để chọn lựa phương cách làm lợi ích cho cá nhân và cộng đồng của hắn. Đó là thứ nhân quyền căn bản, không phải của riêng đất nước nào, lục địa nào. Con người văn minh là con người tự do, không bị bó buộc phải “tận trung” với bất cứ tổ chức hay đảng phái nào. Nó chỉ cần trung thành, sống và chết cho lẽ phải, cho thiện tính sẵn có của nó.

- Vấn đề báo hiếu: Chúng ta sẽ không trích dẫn các bài học luân lý đạo đức từ các tôn giáo để đưa vào đây, mặc dù thời gian này là thời gian của Mùa Vu Lan Báo Hiếu theo truyền thống Phật giáo mà tôi qui ngưỡng. Chúng ta chỉ chia sẻ một cách rất “gia đình” về tư cách của cha mẹ và con cái. Tư cách này, thường thì cha mẹ giáo dục cho con cái. Chúng ta không có thẩm quyền dạy cho nhau, chỉ là trao đổi với nhau mà thôi.
Hãy đặt trường hợp cha mẹ chúng ta là những quan lớn, có quyền uy trong một làng xã, hay một đất nước. Nói theo ngôn ngữ xa xưa—mà bạn thường lên án là của các chế độ phong kiến ảnh hưởng học thuyết Khổng-Mạnh—là “dân chi phụ mẫu,” có nghĩa rằng vua, quan là những bậc cha mẹ của dân; lên án nhưng quyền hạn và bổng lộc của vua quan thời nay còn cao hơn xưa rất nhiều. Nếu cha mẹ ruột của mình làm vua, quan (lớn hay nhỏ) mà tham nhũng, hối lộ, bóc lột dân chúng để hưởng thụ và cho phép con cái thừa hưởng những quyền lợi từ sự sai trái đó, con cái sẽ làm gì, nói gì?
Đối với người phật-tử, họ sẽ hết sức khuyên can và quyết tâm ngăn cản không cho cha mẹ làm việc thất đức. Bởi vì theo tinh thần nhà Phật, ngoài bổn phận phụng dưỡng cha mẹ về vật chất, con cái còn có trách nhiệm khuyến khích, hướng dẫn, tạo điều kiện cho cha mẹ thực hiện điều lành, tránh xa những việc ác, vì cái nhân của ác sẽ dẫn đến các hậu quả ác trong tương lai, gần hoặc xa. Cha mẹ không phải lúc nào cũng toàn hảo. Tình cảm và sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái là thiêng liêng, không thể chối cãi, nhưng không có nghĩa rằng cha mẹ cũng đối xử với những người khác cao đẹp như vậy. Chúng ta ai cũng đồng ý rằng dù là kẻ cướp giết người vẫn là cha mẹ tốt của con cái họ. Thế thì, khi biết cha mẹ tham nhũng, hối mại quyền thế, bức hiếp, cướp đoạt tài sản của nhân dân, bạn sẽ làm gì?

Về mặt gia đình, bậc cha mẹ như thế không xứng đáng làm gương tốt cho con cái; về mặt xã hội, bậc cha mẹ như thế không thể nào là cha mẹ tốt của dân được. Đứa con có hiếu, trong trường hợp này, phải là đứa con đủ can đảm khuyên can, phản đối việc làm sai trái của cha mẹ, để cha mẹ luôn giữ được tính chất thiêng liêng cao quý trong lòng mình.

Bây giờ hãy nói thẳng với những bậc “dân chi phụ mẫu,” tức những bậc quan lớn làm cha mẹ của dân. Có phải quý ngài tự nhận mình là cha mẹ của dân, thương dân và chăm sóc dân như con cái của mình chăng? Hay chỉ là cha mẹ theo ý nghĩa là những bậc ngồi trên để con cái cúc cung phụng dưỡng? Lý do gì mà quý ngài được hưởng cái quyền tối thượng như vậy đối với dân? Nếu cho rằng do công lao thống nhất đất nước, vậy nhân dân không có công lao sao? Còn nếu là do dân bầu lên, không lẽ không có bổn phận chăm lo cho dân? Làm cha mẹ mà không thương và chăm sóc con cái thì có phải là cha mẹ chăng? Vậy quý ngài đã làm gì mà để dân tình khốn khổ lại không biết đến. Hàng chục ngàn trẻ em bị lén lút bán ra nước ngoài làm nô lệ tình dục; hàng chục cho đến hàng trăm ngàn thiếu nữ và phụ nữ lâm vào cảnh buôn hương bán phấn, hoặc làm tì thiếp cho người nước ngoài; hàng triệu người thất nghiệp hoặc có việc làm với đồng lương thấp không đủ nuôi con... bao nhiêu là cảnh gian khó, bần cùng, khổ nạn, đói rách, không sao kể hết, quý ngài có biết và có tìm cách giải quyết hay không? Có lẽ những việc như thế, chẳng qua chỉ hiện diện trước mắt quý ngài trên những thống kê của một số báo chí “không chính thống” ngoài đảng và nhà nước. Vậy hãy nói về một sự cố gần đây nhất là việc dân oan khiếu kiện tại trụ sở văn phòng II Quốc Hội tại Sài-gòn (194 đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận) là một sự kiện mà quý ngài không thể không biết. Nhân dân thuộc 19 tỉnh thành phía nam và 6 quận lỵ ngoại thành Sài-gòn đã căng lều bạt để sống ngoài trời, và trưng biểu ngữ để nói lên nguyện vọng được chính quyền trung ương giải quyết thỏa đáng những trường hợp bị lấy đất, cướp nhà tại địa phương mà họ gánh chịu. Gần một ngàn dân, tuổi từ 85 cho đến những đứa trẻ sơ sinh, đã tập trung gần một tháng (từ ngày 22 tháng 6, 2007) quanh tòa nhà quốc hội, quyết tâm chờ đợi sự lắng nghe và giải quyết của trung ương. Cuối cùng, vào đêm 18-7-2007, lúc 11 giờ, một lực lượng công an hùng hậu (theo báo chí và các nguồn tin không phải của nhà nước ghi lại: trên dưới một ngàn, tức là tương đương số dân oan khiếu kiện), với áo giáp, khiên, dùi cui, lựu đạn cay, súng, với các xe vòi rồng, xe cứu thương và hàng mấy chục xe chở người, đã bao vây khu vực tòa nhà quốc hội, cúp điện toàn khu phố rồi chiếu đèn pha vào đám dân oan; đội ngũ công an và cảnh sát đặc nhiệm lạnh lùng xiết chặt vòng vây, tiến vào, khiêng, bắt, đánh đập, quẳng từng người dân lên xe; số bị nghi là lãnh đạo thì bị đưa về các trại giam ở Phú Nhuận, số khác thì được phân loại, bắt lên xe theo từng tỉnh để đưa về nguyên quán. Một vài dân oan bị đánh bằng dùi cui bể đầu, phải đưa đi bệnh viện cấp cứu. Tiếng la khóc, kêu than, và không khí hoảng loạn, khiếp hãi làm động cả một góc trời Sài-gòn hoa lệ.
Đối với các cuộc biểu tình của thanh niên sinh viên các nước, như ở Thiên An Môn và Jarkarta những năm trước, dù họ thất bại và cũng bị đánh đập, thậm chí bị giết chết, tôi vẫn cảm thấy bừng lên một không khí bi tráng, hào hùng. Vì ở đó là cuộc chạm trán giữa lực lượng sinh viên biểu tình lên đến hàng trăm ngàn người với lực lượng quân đội vũ trang hùng mạnh, hai bên đã đối mặt nhau dưới ánh sáng mặt trời. Còn ở trường hợp dân oan khiếu kiện biểu tình ôn hòa bất bạo động ở đây, quý ngài lại vũ trang cặn kẽ bằng khí giới tối tân, lén lút bao vây trong bóng đêm, cúp điện, thình lình bật đèn pha làm chóa mắt những người dân lành, rồi tấn công. Đây thực là một cuộc tấn công thấp hèn và thật nhục nhã cho người chiến thắng. Mà thực ra, quý ngài không thắng gì cả. Hãy nhìn lại xem: đa phần dân oan biểu tình là những cụ già, phụ nữ và em bé từ nông thôn kéo lên tỉnh thành, chân ướt chân ráo, nằm la liệt nhiều ngày dưới những tấm lều nhỏ không đủ che nắng mưa, ngày ngày thiếu nước uống và tắm rửa, ăn uống qua loa bằng mì gói và sự tiếp tế lén lút của dân chúng chung quanh; những người nhà quê kém học, viết biểu ngữ sai chính tả, tay không tấc sắt như thế mà quý ngài phải huy động cả một lực lượng công an vũ trang xung kích để đàn áp, dẹp tan! Tôi thật là bất nhẫn, không khỏi đau xé trong lòng khi mường tượng ra một cảnh tượng như thế. Dù trong nước có thể có những sự đàn áp, bức hiếp dân lành to lớn nặng nề hơn mà tôi chưa được biết, nhưng chỉ sự cố dân oan tại tòa nhà quốc hội này thôi, tôi đã cảm thấy tính cách bạo tàn, bất nhân và bất xứng của quý ngài đã đạt đến điểm cao nhất, không ai có thể bạo tàn, bất nhân và bất xứng hơn được nữa.

Thế rồi quý ngài đại biểu nhân dân, vào ngày kế tiếp, đã có thể điềm nhiên đĩnh đạc bước vào chính tòa nhà ấy để tiếp tục chia nhau những chiếc ghế và thảo luận các chính sách cho dân, vì dân, với những diễn văn dài ngoằn ca tụng trí tuệ ưu việt của những người ở đỉnh cao danh vọng và quyền bính, tách rời nỗi khổ đau cùng khốn của nhân dân thấp cổ bé họng. Tôi lại tự hỏi, còn những bậc anh hùng quân đội, những chiến sĩ nhân dân đã từng “xẻ dọc trường sơn,” và những cán bộ đảng viên tự hào yêu nước thương nòi, “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,” bây giờ ở đâu mà để dân tình uất ức khổn nạn như thế? Ngoài trách nhiệm của quân đội là bảo vệ giang san gấm vóc, không phải quý ngài cũng gánh trọng nhiệm bảo vệ quyền lợi của nhân dân hay sao?

Đó là nói về những bậc cha mẹ của dân. Bây giờ trở lại với bạn. Bạn là cha mẹ dân hay là nô bộc của dân? Hay là những đứa con cưng chuẩn bị tiếp nối sản nghiệp và ngôi vị của cha mẹ? Thừa kế sản nghiệp bất chính của cha mẹ thì cũng bất chính như cha mẹ, mà làm cha mẹ theo cung cách các “phụ mẫu quan” (quan cha mẹ dân) nói trên thì không xứng đáng rồi. Còn nô bộc ư? Cũng không dám đâu. Người dân tôi, suốt nhiều trăm năm qua, chưa bao giờ được lên ngôi chủ nhân để sai khiến những người cầm quyền. Chúng tôi luôn làm nô bộc—nếu không muốn nói là nô lệ—cho những bậc cha mẹ quyền thế quý ngài thì có. Điều đáng tiếc nhất là hai chữ “cha mẹ” cao quý của tất cả những người con trên cuộc đời, đã bị quý ngài lạm dụng, làm cho nhòa nhạt và giảm đi tính cách thiêng liêng. Để phục hồi giá trị của hai chữ ấy, tôi nghĩ chỉ còn một cách là thay vì chễm chệ ngồi cái ghế làm cha mẹ dân, hãy thu về để làm những đứa con chí hiếu của cha mẹ, của dân, như cách bạn từng nói: “hiếu với dân”—tức là xem dân như cha mẹ.

Thương dân như thương cha mẹ, chẳng khó khăn gì lắm đâu. Nếu bạn không thể thương dân được, hãy tập gia thêm một chút tưởng tượng.
Tưởng tượng rằng những người dân oan kia là cha mẹ mình, đất và nhà bị cường hào ác bá địa phương cướp trắng, sống lây lất nghèo cùng, dành dụm tiền đón xe lên Sài-gòn để khiếu kiện, nhiều ngày lăn lóc đói khát, ngủ vỉa hè, rồi bị công an tấn công, đánh đập, đuổi về lại địa phương… để cậy nhờ chính những người cướp nhà đất của mình giải quyết?

Bạn nên làm gì để báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ riêng trường hợp ấy, mà trong mọi trường hợp. Đất nước sẽ an vui, hạnh phúc thực sự nếu những người con như bạn biết sám hối trở về, chăm sóc và bảo vệ người dân như chính cha mẹ của mình.

TRẦN LÝ
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Tưởng niệm GS Nguyễn N. Huy Hội Ngộ LM Dân Chủ Việt Nam

TUYẾT MAI .
Lễ tưởng niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đã được trang trọng tổ chức vào lúc 10:30 sáng ngày 4 Tháng 8, 2007 tại Mason District Government Center, Annandale , VA.
Có trên một trăm người tham dự, trong đó có đại diện các đoàn thể chính trị và nhân sĩ trong vùng HTĐ như Ông Lý Văn Phước, Chủ Tịch CĐVN vùng HTĐ, MD&VA, Ông Trần Tử Thanh Bí Thư Thành Đảng Bộ VN Quốc Dân Đảng vùng HTĐ, Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, UB Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản …và rất nhiều đoàn viên Liên Minh Dân Chủ VN (LMDCVN) từ nhiều nơi ở Hoa Kỳ và thế giới về tham dự.

Trong phòng hội có bàn thờ với di ảnh Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy. Ông Bùi Thanh Tiên đọc qua tiểu sử của Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, sau đó lần lượt các cấp lãnh đạo Trung Ương Liên Minh Dân Chủ VN và Trưởng Ban Tổ Chức niệm hương truớc bàn thờ kế đến đoàn viên của từng phái đoàn .
Được biết Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy sinh ngày 2 Tháng 11, 1924 tại Chợ Lớn, nhưng quê quán chánh thuộc làng Mỹ Lộc, Quận Tân Uyên, Biên Hòa. Năm 1963 G/S Huy đậu bằng Tiến sĩ Kinh Tế và Chánh trị học, Đại Học Luật Khoa và Khoa học Kinh tế, Viện Đại Học Sorbone ở Paris, Pháp Quốc.
Năm 1965-1975 ông là Giảng Sư của nhiều đại học ở VN như Chánh Trị Học và Luật Hiến Pháp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Saigon; Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội, Viện Đại Học Cần Thơ; Đại học Luật khoa, Đại Học Sư Phạm, Đại Học Đà Lạt, Vạn hạnh..Ông cũng là giảng sư của Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, Trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị.

Về hoạt động chính trị GS Huy đã từng là đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng, ông cùng một số thành viên Đại Việt thành lập Đảng Tân Đại Việt và là thủ lãnh đảng này trong thời gian lưu vong ở Hoa Kỳ cho đến khi qua đời ở Pháp năm 1990. Ông cũng là Tổng Thư Ký của Phong trào Quốc Gia Cấp Tiến, Đồng chủ Tịch Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ.

Năm 1981 Ông là Chủ Tịch UB Chấp Hành Trung Ương Liên Minh Dân Chủ VN để chống lại chế độ Cộng Sản VN. Từ năm 1986 ông là Hội Viên Danh Dự của UB Quốc Tế Yểm Trợ VN Tự Do.
Ước mơ cuối đời của Cố GS Huy là được sống đời ẩn sĩ, viết sách, phân tích tại sao dân tộc VN quả cảm, thông minh nhưng lại chịu quá nhiều bất hạnh, để giúp cho các thế hệ thanh niên tránh được những sai lầm tai hại trong quá khứ, ngõ hầu xây dựng một nền văn hóa lành mạnh, vững chắc và đặc thù dân tộc. Tiếc thay, một đời tận tụy hy sinh cho dân tộc, nhưng Giáo Sư Huy chưa thực hiện được tâm nguyện đơn sơ, bình dị đó thì ông đã tạ thế ngày 28 Tháng 7, 1990 tại Paris, Pháp Quốc.

Ông Lý Hiền Tài, Phó Chủ Tịch UBCHTU/LMDCVN sau lời chào mừng quan khách, ông cho biết mặc dầu G/S Huy đã qua đời nhưng các đoàn viên của LMDCVN không ngưng học tập, phát huy tinh thần yêu nước , kết hợp với các đoàn thể bạn để đối đầu với những thử thách do CSVN gây ra.

Trong phần quan khách phát biểu cảm tưởng, Ông Trần Tử Thanh Bí Thư Thành Đảng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng vùng HTĐ và phụ cận nói, sau khi Miền Nam bị CS thôn tính, trong khi mọi người trong nước cũng như hải ngoại còn đang bàng hoàng, các đảng phái QG, đoàn thể chính trị chưa đề ra được một sách lược đấu tranh cụ thể nào để chống lại chế độ CS độc tài thì G/s Huy đã kêu gọi sự hỗ trợ của các Cộng đồng Quốc tế đối với công cuộc đấu tranh của khối người Việt QG tại hải ngoại.
Ông Thanh nói, mặc dầu cuộc đấu tranh chưa thành công nhưng G/s Huy đã “THÀNH NHÂN" như liệt sĩ VN Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học. Di sản chính trị của ông vẫn sáng ngời . Tên tuổi và sự nghiệp đấu tranh của ông đã đi vào lịch sử cận đại. Tư tưởng , sách lược đấu tranh của ông như ngọn hải đăng, không những chỉ soi đường cho những người đồng chí hướng, cho môn đệ trong LMDCVN mà còn soi rọi cho cả những chiến sĩ quốc gia còn đang kiên trì đấu tranh nhằm giải thể chế độ CS.

Giáo Sư Huy đã ra đi quá sớm khi đại cuộc còn dang dở, đồng bào còn bị CS xiềng xích, đồng chí và chiến hữu còn bơ vơ. Tổ Quốc VN đã mất đi một nhà ái quốc chân chính, cộng đồng ngưòi Việt Quốc Gia hải ngoại thiếu vắng một chiến sĩ nhiệt tình với lý tưởng Tự Do. Các đồng chí và môn đệ của GS Huy mất đi một lãnh tụ, một người thầy uyên bác, đức độ.
Trong khói hương nghi ngút, những người hiện diện cùng thành tâm cầu nguyện hương linh Cố Giáo Sư Huy về chứng giám, hộ trì cho đồng bào, cho những chiến sĩ QG, cho tất cả đồng chí và môn sinh của GS còn nặng lòng với Tổ Quốc VN sớm hoàn thành sứ mạng thiêng liêng cao cả. Đó là xây dựng một nước VN Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường.

Đêm Hội Ngộ là truyền thống hằng năm của các đoàn viên trong Liên Minh Dân Chủ, được tưng bừng tổ chức với khoảng gần năm trăm quan khách, vào lúc 7 giờ chiều ngày 5 Tháng 8, 2007 tại Nhà hàng Thần Tài, Falls Church, VA.
Trong phần chào mừng quan khách Ông Lý Hiền Tài, Phó Chủ Tịch UBCHTULMDCVN, nhắc lại sau khi CS được vào WTO, họ đã gia tăng đàn áp những nhà đấu tranh trong nước, có hơn 200 nhà hoạt động cho dân chủ đang bị cầm tù, ngoài ra còn có rất đông người bị giam gữ mà chúng ta không có danh sách. Điển hình là vụ đàn áp dân oan biểu tình trong đêm 18/7 vừa qua.

Ngoài những người trong nhà tù bé nhỏ và khắc nghiệt, một số khác như Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ cùng rất nhiều vị như Linh Mục Phan Văn Lợi, Chân Tín, Cụ Lê Quan Liêm, các chức sắc Phật Giáo Hòa Hảo, Mục sư Tin Lành Nguyễn Hồng Quang…đang bị cầm tù tại gia, bị theo dõi từng bước rất chặt chẽ.
Người dân thì bị kiểm soát nghiêm ngặt trên các lãnh vực tư tưởng cũng như hành động. Đặc biệt là có nhiều dân oan bị cướp nhà cướp đất, còn bị làm khó dễ đủ điều để dập tắt tiếng kêu than, ôn hòa đòi hỏi chính quyền trả lại quyền lợi chính đáng của họ.
Ông Lý Hiền Tài nói, nêu những vấn đề này ra đây không phải để gây phẫn nộ, nguyền rủa CS rồi bỏ qua. Vấn đề là chúng ta phải tìm một giải pháp thật hữu hiệu cho cuộc đấu tranh chung để mang lại một đời sống an lành cho người Dân trong nước.
Theo Ông Tài giải pháp tối ưu là các tổ chức đấu tranh cần có một tiếng nói chung và thống nhất hành động. Kinh nghiệm cho thấy với sự vận động tích cực của các tổ chức đấu tranh, Quốc Hội Âu Châu đã ra nghị quyết 12/7 lên án CS và đặt nguyên tắc phải xét đến Nhân quyền trước những giao dịch thương mãi. Mới đây UB Ngoại Giao Hạ Viện cũng thông qua dự luật H.R. 3069 ngưng tăng viện trợ không nhân đạo và dành 4 triệu cho những nhà đấu tranh cải thiện nhân quyền ở VN… căn cứ vào những sự kiện tốt đẹp trên, chúng ta cần tiếng nói chung và thống nhất hành động. Muốn được như vậy các tổ chức đấu tranh từng địa phương cần ngồi lại với nhau thảo luận và soạn ra một kế hoạch hoạt động chung và khi đã đồng thuận một quyết định nào đó thì mọi người nên đóng góp với tinh thần trách nhiệm.

Trước khi chấm dứt Ông Lý Hiền Tài nhắc lại đề nghị là các tổ chức đấu tranh vùng HTĐ, MD và VA hãy đi tiên phong trong việc “TẠO TIẾNG NÓI CHUNG VÀ THỐNG NHẤT HÀNH ĐỘNG” này.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Nam, Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương của LMDCVN phát biểu, LMDCVN đã đi tiên phong trong chiến dịch nối kết giữa quốc nội và hải ngoại. Trong thập niên 1990 Ông Nguyễn Tấn Trí đã về VN hoạt động và cuộc hội thảo dự định đã không thành công, để lại một bài học rất là đắc giá.

Chúng ta phải rút tĩa kinh nghiệm từ bài học đắc giá đó và nhất quyết chỉ có một kẻ thù trước mắt là CSVN và tập đoàn lãnh đạo tại Hà Nội. Quyết tâm không chống đốí những tổ chức quốc gia của chúng ta , có khi những tổ chức đó có những công tác, những chiến lược đi trước anh em trong cuộc đấu tranh mới mẻ này.

Bác sĩ Nguyễn Quốc Nam kêu gọi, nếu chúng ta không giúp đỡ được, không yểm trợ được anh em đã làm một số công việc trong nước thì xin chúng ta đừng đánh phá những tổ chức , những đoàn thể đó, bởi vì có thể họ có một sách lược đấu tranh mà hôm nay chúng ta mới thấy, như sự liên lạc, nối kết giữa hải ngoại và quốc nội . Đó là bước đầu của giai đoạn đấu tranh trực diện với CS và chúng ta sẽ đạt được thắng lợi cuối cùng vì người dân đã đứng lên.

Đồng bào của chúng ta đã trở lại Thủ đô Saigon và đang tiếp tục đạt được mục tiêu. Ngày nay chỉ có người dân khiếu kiện, nhưng ngày mai sẽ có người dân bị bạc đãi , và ngày mốt sẽ có những sinh viên , học sinh không được đi học vì không trả nỗi học phí, và có biết bao bất công trong nước những ngừơi bất mãn đó sẽ đứng lên và ngày đó sẽ là ngày tranh đấu cuối cùng.

Ông Nguyễn Quốc Nam hy vọng đồng bào hải ngoại sẽ giúp thổi vào ngọn gió đấu tranh hôm nay để cho mục tiêu đấu tranh của chúng ta sớm đạt đến.

Trả lời một cuộc phỏng vấn ngắn, Ông Nguyễn Tấn Trí cho biết ông đã về VN năm 1993, mục đích là để tổ chức một Hội Nghị Quốc Tế về phát triển và cải tổ dân chủ ở VN. Sự thật Hội nghị này được tổ chức là để củng cố một đảng chính trị có tên là “Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ” .
Phái đoàn có thông báo cho nhà cầm quyền CSVN , họ đã ngăn cản không cho phép, nhưng phái đoàn vẫn tổ chức cuộc hội thảo nên CS bắt toàn thể ban lãnh đạo phong trào và giam giữ suốt hai năm . Sau một thời gian dài, CS đem những người bị bắt ra xử và kêu án nhiều năm. Dưới sự can thiệp mạnh mẽ của chánh giới Hoa Kỳ cũng như Âu Châu, CS trả tự do cho các đoàn viên LMDCVN sau hơn hai năm giam giữ.
Ông Trí cho biết, hiện nay Liên Minh Dân Chủ vẫn còn hoạt động ở VN dưới hai hình thức: LMDC ở Quốc Nội và Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc, Xây Dựng Dân Chủ. Hầu hềt ban lãnh đạo phong trào này đã bị bắt và sau đó được trả tự do, một số đã bị chết. Cán bộ của LMDCVN vẫn còn sống rãi rác khắp nơi và tiếp tục hoạt động ở VN. Trong Đêm hội Ngộ LMDCVN này người hùng Lý Tống cũng được mời lên để được vinh danh và phát biểu đôi lời.

Trở lại đêm hội ngộ, chương trình văn nghệ đựơc tiếp nối với với Tuyết Mai trong nhạc phẩm “Rồi Sẽ Có Ngày…” của Việt Dzũng, Bạch Mai ngâm thơ, Huyền Linh trong nhạc phẩm “Đường Về Quê Hương”…và chấm dứt vào lúc 11 giờ đêm cùng ngày.

TUYẾT MAI
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Chu Tất Tiến Đối Thoại với Trịnh Hội
Trịnh Hội quý mến,

Trước khi bắt đầu điểm chính của bài đối thoại này, anh muốn minh xác về nhân xưng đại danh từ “anh” và “em” dùng trong bài viết này. Thực sự, anh chưa hề có cơ hội làm quen với em, chỉ biết em qua các công việc em làm, biết em là một luật sư đầy dũng khí, hiên ngang sang Phi Luật Tân để làm công việc cứu người, không phải một mà là nhiều người, nhiều gia đình, để họ được sống trong xứ sở Tự Do như họ đã liều thân mong muốn. Anh cũng biết em qua nhiều cuốn băng của Asia, dù cho em nói năng không lôi cuốn lắm, nhiều khi còn ngọng ngịu và muốn “bí” khi đối đáp bất ngờ, đôi lần có những câu “diễu dở,” nhưng với quá khứ hoạt động của em và tướng tá cao lớn, thông minh của em, anh cũng như mọi người “cho thông qua,” không phê phán. Anh cũng lại có cảm tình và thông cảm với em rất nhiều khi em bị chống đối ở bên Úc, làm cho chương trình của em bị hỏng, nhưng em vẫn bình tĩnh không nói gì, không viết gì, chỉ để vợ em viết giùm một bài tả oán cảm động.

Theo như các cụ xưa đã nói: “yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông ti họ hàng,” anh cũng như nhiều người khác trong giới truyền thông ở đây, đã “yêu” em rồi, đều nghĩ rằng em không nói, không viết chỉ vì em quân tử, nhưng không ai nghĩ rằng em không viết bởi vì em viết dở quá, dở không chịu được như bài “Cộng Đồng & Việt Weekly” mà em mới viết trên tờ Người Việt này. Vừa đi làm về đến nhà, mới lấy tờ báo Người Việt ra đọc, anh hụt hẫng, không hiểu sao một người đã học Luật rồi, đã từng tranh tụng cho nhiều vụ rồi, mà viết một bài văn ngắn có quá nhiều điểm tầm bậy tầm bạ như thế.

Anh không hiểu làm sao mà em có thể “pass” được lớp Luận Anh Văn căn bản (English Composition 100+), có lẽ mấy ông thầy vừa chấm bài vừa ngủ gật. Anh không có cơ hội học Luật nên không biết ở Trường Luật có dậy viết văn không? Em không theo một nguyên tắc nào cả, nguyên tắc A.M.A thì em hoàn toàn mù tịt. Câu chủ đề thiếu. Tham chiếu bằng sách vở (reference) thì hoàn toàn không. Việc tập trung ý tưởng trong từng đoạn chẳng thấy, chỉ viết lan man, linh tinh. Ý tưởng bổ sung cho câu chủ đề (supporting ideas) biến mất. Nếu bài này mà gửi đến cuộc thi “Bé viết văn Việt” nhất định bị rớt. Bởi vậy, anh phải bỏ luôn giây phút nghỉ ngơi thường nhật mà ngồi xuống viết ngay cho em những dòng chữ này. Tuy anh lớn hơn em nhiều, nhưng anh đoán chừng còn thua tuổi bố em, nên mới đầu, anh định xưng bằng “chú,” rồi lại bỏ đi, mà dùng chữ “anh, em” cho lời văn có vẻ nhẹ nhàng, thoải mái hơn, chứ cứ “chú chú, cháu cháu”, nghe nó nặng nề và xa cách lắm.

Vậy nhé, anh vào đề đây:

1. Em đặt tiền đề sai (False premise): Sau khi em kể về sự bất nhẫn của em khi thấy Việt Weekly “bị đánh bề hội đồng từ mọi phía,” em viết rằng họ (những người bề hội đồng) có “những luận điệu chụp mũ một cách vô tội vạ, sự kết tội không cần bằng chứng của những người tổ chức biểu tình.” Đọc câu này, anh thấy tức cười quá! Em cho rằng những người tổ chức biểu tình “chụp mũ” cho tờ báo kia rồi “bề hội đồng” những người làm tờ báo ấy, trong khi chính em lại đang “chụp mũ” cho những người tổ chức biểu tình! Em còn viết là “các báo, các đài radio cho đăng những lời tuyên cáo (mà thực chất là những lời buộc tội) những bài viết ủng hộ cuộc biểu tình, mà không một lời giải thích, hoặc trình bầy một ý kiến ngược lại.”

Trịnh Hội ơi! Em sai lầm lắm! Họ nói có sách, mách có chứng chứ! Họ đâu có “chụp mũ vô tội vạ” đâu! Họ kết tội có bằng chứng hẳn hoi. Những người kêu gọi tập hợp lại để nói chuyện về tờ Việt Weekly phải đưa bằng chứng là chính tờ báo có luận điệu thân Cộng, xỉ nhục lá cờ Quốc Gia, ca tụng Hồ Chí Minh là thần thánh, là Vua Nghiêu, Vua Thuấn, đồng thời đổ trách nhiệm vụ 911 cho chính đất nước Hoa Kỳ này, là đất nước đã dung dưỡng những người như em được nổi danh trong một nền Tự Do thoải mái. Việt Weekly đã chê bai, khinh thị cả tập thể những người H.O là “bất tài, vô dụng, gần như phế thải, vô tài.” Phải có bằng chứng mà bằng chứng có tính chất chính xác cao mới gây xúc động cho cộng đồng đến thế! Những người kêu gọi biểu tình đó, không thể và không bao giờ có thể tự dưng hô hoán lên rằng: “Ê! Bà con ơi! Tờ báo này là Việt Cộng! Xúm lại bề hội đồng nó đi!” Không! Không bao giờ có chuyện đó! Cộng đồng Việt Nam không có ngu xuẩn đến nỗi thế! Báo chí, đài phát thanh không dốt nát đến nỗi thế, em ạ! Em khinh thường trình độ kiến thức của cộng đồng, của các hệ thống thông tin quá lắm rồi! Nếu nhóm người kêu gọi biểu tình kia mà thật sự “chụp mũ”, thì rất nhiều người sẽ lật mặt nạ họ. Chính anh, xin được xung phong đi đầu làm công việc ấy. Anh không thể chịu đựng được những cái xấu, cái ác tung hoành trong cộng đồng mình. Em bảo: “không cho trình bầy một ý kiến ngược lại!” Bài viết này của em chẳng phải cơ hội cho em nói ngược lại sao?

2. Em chỉ nói nửa sự thật (Half-Truth): Việc tất cả các tờ báo, các phương tiện truyền thông, và hằng trăm, ngàn điện thư, từ khắp nơi trên thế giới tụ về Khu Little Saigon này để yêu cầu Việt Weekly xác định lại thái độ, nếu thấy mình có lỗi với dân tộc, thì hãy tạ lổi với dân tộc, và trở về đường ngay nẻo chính thì có. Đông lắm, không thể đếm được! Lấy số lượng khổng lồ như thế mà đối chọi với một tờ báo thì có, nhưng “bề hội đồng” thì không. Việc mà em gọi là “bề hội đồng,” một loại chữ mà trong cách hành văn gọi là “tiếu lâm và giễu cợt“ (humor and ridicule) để chế nhạo một hành động mà sau này em phân tích rõ hơn là “phải đánh cho nó chết!” Em có tìm thấy chữ nào, câu nào nói rằng “chúng ta phải xúm lại, đánh cho nó chết” như em nhắc đến vài lần trong bài không? Thực tế, những lời kêu gọi của người tổ chức chỉ mang những thông điệp đại khái như “chúng ta phải hành động!” “chúng ta phải lên tiếng, phải kêu gọi Việt Weekly trở về với cộng đồng..” Không có câu “chúng ta phải bề hội đồng nó cho đến chết.”

3. Em kết luận một cách vội vã (Hasty judgment): Theo lý luận của một luật sư chuyên đứng về phía những kẻ bị oan sai, em viết: “Ngay cả đối với những người bị khép vào tội giết người và hiếp dâm, họ vẫn luôn được cho cơ hội tự bào chữa và trình bầy ý kiến đối ngược lại với cơ quan buộc tội.” Em cũng viết “Những người sách động biểu tình trong cộng đồng của chúng ta hiện nay thì sao? Họ vừa là công tố viên, luật sư, bồi thẩm đoàn, chánh án, và kiêm luôn cả người thi hành bản án.” Và, “chỉ cần biết báo Việt Weekly dám cho đăng bài có ý kiến khác với ý kiến và sự hiểu biết của mình là mình phải đánh cho nó chết.” Đọc qua những câu này, anh mới thực sự nhận ra rằng cái mảnh bằng Tiến Sĩ, Luật Sư của em cần phải xem lại. Một người có học vị đụng đến “trần nhà” (ceiling) của sự học như em mà hàm hồ đến thế thì xấu hổ lắm. Một đứa học trò Trung Học cũng không dám nói bậy như thế. Loại lý luân hàm hồ (fallacy) này, tiếng La Tinh gọi là “post hoc, ergo propter hoc.” Cứ đặt đại ra một mệnh đề, rồi tương thêm các mệnh đề nữa, và bảo rằng mệnh đề sau là kết luận của mệnh đề trước, mặc dù chả có câu nào ăn nhập với câu nào. Câu trên mà em đưa ra thì đúng. Nhưng sau đó, những câu kế tiếp chứng tỏ em có vẻ lú lẫn rồi. Ai là người sách động biểu tình? Ai là công tố viên? Ai là luật sư? Bồi thẩm đoàn? Chánh án? Người nào thi hành bản án? Đã có ai giơ một ngón tay lên dí vào trán những người làm báo Việt Weekly chưa? Em không nắm vững tình hình, không đọc kỹ các bản tin, không nghe kỹ những lời tuyên cáo, không tìm hiểu sự thật mà đã vội bênh tờ báo này một cách dữ dằn như thế, thì anh lo cho em quá. Lỡ ra có nạn nhân nào nhờ đến em biện hộ giùm ở ngoài Tòa Án, thì với cái tính nóng nẩy, thiếu thận trọng của em, người đó chỉ có “từ chết đến bị thương” mà thôi! Công tố viên chỉ đề nghị 5, 10 năm, sau khi em biện hộ, chắc ông Tòa sẽ nổi giận mà tăng hình phạt. Nhất là với câu kết luận sôi nổi này, thì nhất định kết quả sẽ tang thương: “Nhưng không vì thế mà tôi đồng ý và im lặng để cho một thiểu số to miệng, cực đoan, lợi dụng sự nhẫn nhịn của người Việt Nam ngang nhiên tự cho mình là đại diện cộng đồng, đại diện cho chính tôi và gia đình tôi, trù dập và bức hại những người mà suy cho cùng, chỉ vì họ không có cùng một chính kiến.”

Trịnh Hội ơi! Có lẽ người to miệng nhất phải là Luật Sư Trịnh Hội vì em dám một mình nói to hơn cả những người nói to, cực đoan hơn cả những người cực đoan, ngang nhiên hơn cả những người ngang nhiên. Em cho rằng có người đại diện cho em và gia đình em ư? Đại diện cho kẻ về hùa với những kẻ chống lại lịch sử, mạ lị cộng đồng, quên nguồn quên cội ư? Không ai dám ngu như thế đâu! Người ta, ai cũng ăn cơm cả!

Các người có học viết văn, gọi loại văn chương này là “Ad hominem,” thay vì nói về ý kiến của người ta, lại lôi cá nhân người ta ra mà tấn công. Loại văn chương này, nói theo kiểu bình dân học vụ, thì gọi là “văn chương to mồm,” ồn ào nhưng rỗng tuếch.

4. Chuyển hướng sai lạc (Red herring hay Diversion): Về vụ 911, em viết “Đã có một số người nổi tiếng như Giáo Sư Noam Choamsky của trường Đại học lẫy lừng MIT cho việc Mỹ bị tấn công là do ...Mỹ.” và “Những ý kiến liên quan đến Cộng Sản, Karl Marx, Hồ Chí Minh hay bất kỳ một nhân vật nổi tiếng nào trên thế giới, đối với những ai đã học qua môn Khoa Học ChínhTrị (Political Science) hoặc trường Luật, chắc chắn họ đã học, thi, và phân tách để biết thêm về những vấn đề này.” rồi em diễu cợt: “phải tổ chức biểu tình ngay để đóng cửa những trường đại học nào dám cho phổ biến những bài viết quá ư là phản động”

Để làm cho người đọc rối trí, em đã dẫn chứng bằng ý kiến một ông giáo sư nào đó mà không dẫn chứng thêm vài người nữa, mặc dầu em viết là “có một số người.” Ai cũng biết ở xứ sở Tự do này, muốn phát ngôn gì thì cũng được bảo vệ, tuy nhiên, phải có lý có lẽ. Phát ngôn tầm bậy thì sẽ “hai năm mươi” ngay. Nhất là những vị có chức cao, trọng vọng. Em chỉ nói xuông như thế, mà không đưa ra lý luận của ông kia, thì chỉ bịp được người nào suốt đời không đọc báo mà thôi. Ông kia có thể dẫn chứng hàng chục chứng minh cho lý lẽ của mình. Còn đây, tay viết Hà Văn Thùy này, không chứng minh điều gì hết, chỉ nói xuông như một thằng du thử du thực, đứng chửi đổng chơi, ai nghe thì nghe. Tiếc là em với Hà văn Thùy có bộ óc cùng một tần số, nghĩa là ngẫu hứng nói càn, thiếu đầu thiếu đuôi, nói để làm chia trí người đọc. Ngoài ra, khi em nói về Karl Marx, Cộng Sản, Hồ Chí Minh đã được học tại môn này môn kia, em cũng chỉ muốn lòe người ta mà thôi. Trong số độc giả đọc bài của em, chắc chắn có cả chục ngàn người học qua môn này và họ biết học về cái gì. Riêng em, không biết em còn nhớ chút nào không? Nếu muốn ca tụng Karl Max và Hồ Chí Minh là thánh nhân, là Vua Nghiêu Vua Thuấn, thì hãy gặp Viện Trưởng Triết Học Hoàng Minh Chính, Đại Tá Quân Đội Nhân Dân Bùi Tín, Trung Tướng Trần Độ, chiến sĩ xẻ dọc Trường Sơn Dương Thu Hương, các đảng viên lão thành Nguyễn Hộ, Nguyễn Trấn, Trung Tá Trần Anh Kim, chiến binh Trần Dũng Tiến... So sánh với kiến thức về Karl Max như mặt trời của họ, sự hiểu biết của em và Hà văn Thùy chỉ là con đom đóm sắp chết mà thôi. Nên nếu em muốn đối thoại, nên đem theo chứng minh nhé, đừng nói xuông như gã Thùy kia, một kẻ mà ít nhất có tới bẩy chục triệu người muốn nhổ vào mặt. (Được nhổ là còn may, gặp mấy bà bán cá, họ sẽ chụp cái gì đen đen lên đầu ấy!) Nói câu này, có sách có chứng, em ạ. Không tin em cứ mời bất cứ một người dân nước Việt nào, không phải đảng viên, không có chức tước, vào phòng riêng của em ở một chỗ nào không có cặp mắt của Công An, và hỏi họ: “Ông, bà nghĩ thế nào về câu Hồ Chí Minh là Vua Nghiêu, Vua Thuấn?” để thử xem họ nói thế nào. Hồ chí Minh mà chỉ có một tí, một tẹo yêu dân, yêu nước thiệt sự, thì không có Cải tạo ruộng đất giết vài trăm ngàn người, không có cuộc chiến Việt Nam có gần 3 triệu người chết, không có cả triệu người bỏ thây trên biển cả, trong rừng sâu, núi thẳm, không có trên 2 triệu người chạy vắt giò lên cổ ra nước ngoài, và không có... một Luật sư Trịnh Hội ăn nói tầm bậy tầm bạ, nhục nhã gia phong.

Thôi, nói đến đây thì cũng tạm đủ. Hơn nữa, với trình độ của em, anh không muốn dài giòng thêm, sợ em “tẫu hỏa nhập ma.” Dầu gì, em cũng có 15 năm phục vụ cộng đồng tị nạn Cộng Sản. Anh không muốn em nghĩ rằng anh lấy số tuổi lớn “bề hội đồng” em. Chỉ có điều anh muốn nhắn em một điều: người có dũng khí như em, khi một mình đứng ra chống lại cộng đồng, để bênh vực cho tờ Việt Weekly, nên xử dụng cái “Dũng” đi kèm với “Trí”, không nên dùng cái “Dũng của kẻ thất phu” mà uổng bao nhiêu năm phục vụ. Sức mạnh của em còn dồi dào, tương lai của em còn tươi đẹp, đừng để bị cái “Dũng của kẻ thất phu” lôi kéo đi lầm đường. Nhất là đừng để ai lợi dụng sự ngây thơ của em mà rồi hối hận cũng không kịp.

Vài hàng chân thành, vẫn quý mến em, mong em suy nghĩ.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Hồ Văn Xuân Nhi, Ông là Ai ?_
Nguyễn Hữu Của


Trong những ngày qua tôi được đọc một số bài viết trên báo chí cũng như được nghe các cuộc phỏng vấn trên Radio, truyền hình bày tỏ sự phẫn nộ trước những ý nghĩ đầy tính chất miệt thị và hồ đồ của ông Hồ Văn Xuân Nhi đối với những người được xem là thiệt thòi nhất sau ngày đất nước bị bức tử, quê hương thay chủ đổi ngôi, dưới ách thống trị đầy ấp hận thù, thiển cận của những kẻ tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ”.

Qua những bài viết củng như qua cuộc phỏng vấn của nhà văn quân đội Phan Nhật Nam dành cho nhà văn Chu Tất Tiến, tôi được biết Ông Hồ Văn Xuân Nhi hiện nay là một vị Khoa Bảng tại Hoa Kỳ. Từ trước đến nay tôi cũng có đọc một số bài viết của oÂng Xuân Nhi. Nhưng sau khi đọc bài viết cùng với những lời kết luận đầy tính chất hồ đồ đối với những Cựu Tù Nhân Cải Tạo được ra đi định cư tại Hoa Kỳ qua chính sách đầy tính nhân đạo của Chính Phủ Hoa Kỳ mang tên H.O tôi thật hết sức ngạc nhiên.
Tôi không hiểu vì đâu mà ông Hồ Văn Xuân Nhi đã có những ý nghĩ cũng như kết luận:
" Qua đến Mỹ, họ ( Lời người viết: những người H.O) trở thành vô dụng , gần như bị phế thải, bất lực trước đời sống mới , vô tài vì ngôn ngữ mới.”
Quả thật là những ý nghĩ hồ đồ, bừa bãi, thiếu suy nghĩ dầy tính chất xuyên tạc.
Qua bài viết ,ông Hồ Văn Xuân Nhi đã chứng tỏ được rằng Ông tuy có Thành Công trên con đường công danh sự nghiệp, khoa bảng nhưng ông chưa Thành Nhân vì những ý tưởng vô cùng sai lệch. Vô tình, hay cố y,ù ông đã giẫm chân lên những nỗi thống khổ cùng cực, đầy tủi nhục của những người kém may mắn, vì tinh thần trách nhiệm đối với sự sống còn của Tổ Quốc phải ở lại để cùng chịu chung số phận tủi nhục, đầy nghiệt ngã khi quê hương bị bức tử.
Chúng tôi, Người H.O, những quân, dân, cán, chính, những người khoát chiến y chấp nhận dấn thân để hoàn thành nghĩa vụ người trai thời chinh chiến, chấp nhận hi sinh cho tổ quốc , ....“được quyền hi sinh nhưng không được quyền chiến thắng”.. Cuối cùng gánh chịu những năm tháng đọa đày đầy nghiệt ngã trong các trại Tù “Cải Tạo”của Cộng Sản. Làm thân phận “người tù không bản án”.Chịu đựng biết bao nghiệt nga,õ tủi nhục đói không đủ ăn, lạnh không đủ ấm, bệnh không đủ thuốc, lao động khổ sai đến kiệt lực. Tự kiếm sống do bản năng sinh tồn bằng những thức ăn tồi tệ nhứt mà người thường nghe qua cũng phải rùng mình như trùng, dế, ếch, nhái, ểnh ương,bù tọt, ốc, sên ,thậm chí đến những con chuột mình mẩy đầy ghẻ lở sống chui rúc trong hang tối cũng không được an thân .
Bệnh không thuốc men, chết không hòm, chôn vội vả, không mộ bia, không một nén nhang, không một giọt nước mắt đưa tiễn. Xác thân bị vùi vập nơi một cánh rừng hoang vắng nào đó trong manh chiếu rách nát, mặc tình cho trâu bò dày xéo, thậm chí đến cha mẹ vợ con cũng không hay biết để có dịp đốt nén hương sưởi ấm linh hồn người đã khuất.
Chương trình H.O chính là một đặc ân đầy tính nhân đaọ của Chính Phủ và nhân dân Hoa Kỳ, đã cưu mang chúng tôi, dìu những bước chân tập tễnh ban đầu trên vùng đất hoàn toàn xa lạ từ phong tục tập quán đến ngôn ngử. Chính Phủ, người dân Hoa Kỳ chưa hề có thái độ thù ghét. Trái lại, họ vẩn luôn nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt đầy thương hại, không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để giúp đở, tạo điều kiện cho Người H.O sớm thăng tiến trong cuộc sống mới. Điều nầy đã được Tổng Thống Reagan bày tỏ trong buổi gặp gỡ bà Khúc Minh Thơ chủ tịch Hội Gia Đình Cựu Tù Nhân Cải Tạo đến chào từ biệt trước khi Tổng Thống Reagan mãn nhiệm kỳ thứ hai: " Chúng tôi và nhân dân Hoa Kỳ không bao giờ quên ơn những chiến sĩ anh hùng Việt Nam Cộng Hóa....”
Người H.O chúng tôi vẩn luôn mang một tinh thần tự trọng. Dù biết rằng “Trâu Chậm Uống Nước Đục”, đến Hoa Kỳ với một thể xác còm cõi, sức lực hao mòn sau bao nhiêu năm tháng đọa đày, tù tội khổ sai, khảo tra ,kềm kẹp đối diện với biết bao khó khăn hội nhập vào cuộc sống mới, chúng tôi và con cháu chúng tôi vẩn luôn cầu tiến, nhanh chóng vượt qua những khó khăn trở ngại ban đầu để cuộc sống luôn thăng tiến. Lẽ ra ông Hồ Văn Xuân Nhi nên nhìn những người nhiều bất hạnh nầy với cặp mắt của Tình Người, của lòng Nhân Đạo, trái lại ông đã thiếu vắng hẳn hai Đức Tính cao quý nầy.
Ông Hồ Văn Xuân Nhi có thống kê được bao nhiêu người ...”phế thải, bất lực trước đời sống mới, vô tài vì ngôn ngữ mới........” trong số hàng trăm ngàn Người H.O được định cư tại Hoa Kỳ từ đầu năm 1990 ? Quả thật ông quá hồ đồ, ích kỷ và bất công đối với những người đã chịu đựng nhiều tủi nhục gian khổ để cho ông được sống an lành trong chăn êm nệm ấm, được an vui đến trường để trở thành người khoa bảng.
Những bằng cấp cao của ông đã giúp gì được cho Cộng Đồng? cho đồng bào đang ngày đêm rên xiết dưới chính sách cai trị bạo tàn, tham nhũng thối nát đầy dẩy bất công của những người Cộng Sản? Phải chăng sở học của ông, những mảnh giấy được gọi là bằng cấp của ông đã bị cộng đồng khai trừ, không tìm được một chỗ đứng khả dĩ có thể lo cho miếng cơm manh áo cho gia đình rồi quay lại hùng hổ trút nổi giận dữ lên những Người H.O để thỏa mãn bản chất ích kỷ của ông.
Nếu quả thật như vậy thì ông quá sai lầm rồi ông Xuân Nhi ơi!
Ông Hồ Văn Xuân Nhi có biết được bao nhiêu người H.O và con cháu họ đã thành công rạng rỡ, xứng đáng hãnh diện trên quê hương thứ hai, đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng, phát triển cho đất nước Hoa Kỳ?
Trên thực tế, chúng tôi, những người H.O không cần đến “Tình Người” của ông, vì ông thành công nhưng ông chưa “Thành Nhân”. Chúng tôi cũng không cần đến lòng thương xót của ông đối với Người H.O. Chúng tôi chỉ mong ông sống và cư xử đúng đắn với lương tri của con người. Biết tôn trọng sự thật, tôn trọng lẻ phải, phân biệt chính, tà, ông là người khoa bảng chắc ông phải nhận thức được điều nầy.
Những Người H.O chúng tôi đã tự mình đứng thẳng. Ngẩng cao đầu hãnh diện tự mình bảo vệ lấy bản chất củng cố và phát huy lòng tự trọng để vươn lên trong xã hội Hoa Kỳ. Đặc biệt Người H.O không bao giờ ngủ quên trên những xa hoa vật chất ,hưởng thụ. Quên lãng 80 triệu đồng bào ruột thịt còn đang rên xiết dưới chế độ bạo tàn của Cộng Sản. Vì hơn ai hết, Người H.O đã có nhiều kinh nghiệm trực diện với Cộng Sản trong những điều kiện hoàn toàn bất lợi với thân phận nghiệt ngã của Người Tù Khổ Sai. Ông Hồ Văn Xuân Nhi chắc thừa biết điều nầy ?
Thực tế hiện hữu là không thể phủ nhận được, dù ông Hồ Văn Xuân Nhi có cố tình bóp méo vo tròn, ác ý xuyên tạc bằng những ngôn ngữ hồ đồ chắc chắn cũng chẳng có ai tin. Người H.O chúng tôi cùng với thế hệ con cháu đã vươn lên, đã nhanh chóng đạt được nhiều thành công đáng kể trên con đường học vấn cũng như trên con đường sự nghiệp. Từng bước đi vào dòng chính của sinh hoạt xã hội tại Hoa Kỳ. Góp mặt trên mọi lãnh vực từ văn hóa, xã hội, y tế, chính trị, giáo dục, kỹ thuật.....Người H.O vẩn luôn hãnh diện là viên gạch lót đường cho các thế hệ nối tiếp thẳng hướng về tương lai.

Ông Hồ Văn Xuân Nhi không biết? Hay cố tình không muốn biết?
Ông đã cố tình chối bỏ một thực tế hiện hữu của Người H.O, hầu gây hỏa mù trong dư luận tạo những ác cảm bất lợi đoiá với những người vốn chịu nhiều thiệt thòi kể từ khi đất nước bị thay chủ đổi ngôi, quê hương bị bức tử bởi một tập đoàn thống trị vô cùng tàn ác, đầy ấp hận thù giai cấp. Chuyên sử dụng luật “rừng” đối với những kẻ sa cơ thất thế mà họ gán ép là “Ngụy “.
Nếu ông Hồ Văn Xuân Nhi quả thật không biết thì chúng tôi không còn gì để nói. Điều nầy chứng tỏ ông là người vô tâm, đã xa rời những người cùng quê hương. Quay mặt với những nổi thống khổ mà Người H.O gánh chịu sau ngày đất nước bị bức tử trong các trại “ Tù Khổ Sai “ được mệnh danh là Trại Tập Trung Cải Tạo. Xa rời những thành quả sáng chói trên mọi lãnh vực mà Người H.O và con cái của họ tạo được chỉ trong thời gian ngắn ngủi hơn 17 năm kể từ khi người H.O đầu tiên sang định cư tại Hoa Kỳ vào đầu năm 1990, sau khi trải qua một quá trình nhiều gian nan thử thách được trả giá bằng tủi nhục đau thương nghiệt ngã,bệnh tật đói khát đôi khi bằng chính sinh mệnh của mình.

Còn nếu ông cố tình không muốn biết để rồi có những thậm từ xuyên tạc sự thật đối với “Người H.O” thì quả thật ông đắc tội.

Ông đã tàn nhẫn, ác độc giẫm bước chân lên nổi thống khổ của người H.O sau bao nhiêu năm chịu đựng tủi nhục đầy nghiệt ngã dưới sự cai trị khắc nghiệt của tập đoàn Cộng Sản mà lòng hận thù giai cấp cao ngất trời.
Ông nhẫn tâm quay mặt trước những người đã từng nằm sương đội nắng, chịu đựng gian khổ,sống trong những hoàn cảnh đầy nghiệt ngả, bất trắc mà lằn ranh sinh tử chỉ là trong gang tấc. Ngày đêm bảo vệ từng tấc đất trên quê hương để cho ông và gia đình ông có được cuộc sống an lành nơi hậu phương.
Ông đã phản bội những người vợ trẻ hi sinh cả tuổi thanh xuân cho chồng cho con để cuối cùng đổi lấy vành khăn tang trắng, hoặc gánh chịu những chuỗi ngày cơ cực đầy tủi nhục sau ngày đất nước bị bức tử.


Ông đã phản bội cả những đứa trẻ sơ sinh, đầy bất hạnh bị quấn vội lên đầu mảnh khăn tang khi chưa một lần được nhìn thấy mặt cha.
Ông đã phản bội lại những đứa trẻ chịu nhiều thiệt thòi cả tinh thần lẩn vật chất vì là con của những người lính chiến ngày đêm xông pha nơi chiến trận, hi sinh gia đình, hi sinh hạnh phúc riêng tư để giữ tròn nghĩa vụ đối với tổ quốc.
Ông cũng đã phản bội lại những giọt nước mắt tiếc thương chảy dài trên đôi gò má nhăn nheo của những bà mẹ già luôn sống trong nỗi lo âu phập phòng. Chấp nhận hi sinh dâng con mình cho Tổ Quốc để rồi cuối cùng chịu cảnh tre già khóc măng.
Còn nhiều và nhiều nghiệt ngã lắm ông Hồ Văn Xuân Nhi!
Thế sao ông lại dành những ý nghỉ cùng những lời nói quá hồ đồ gán ép cho những người đáng thương bất hạnh sau bao nhiêu năm chịu đựng thiệt thòi đau thương đầy tủi nhục.
Trong khi ông đang hưởng sự an lành cùng với thân nhân gia đình, trong nệm ấm chăn êm để có điều kiện đến trường tạo cho mình chỗ đứng trong giới khoa bảng thì chúng tôi, những Người H.O có thể trong số đó có thân nhân, bạn bè gần xa của ông đang dãi nắng dầm sương, từ vùng đồng bằng đến cao nguyên đèo heo hút gió. Căng mắt trắng đêm chờ địch trong hoàn cảnh khắc nghiệt mà ranh giới tử sinh chỉ là trong gang tấc.
Có bao giờ ông nhìn thấy những những người lính chiến tả tơi, mặt mày hốc hác, bê bết máu cùng mồ hôi, bùn đất sống sót trở về sau chiến trận khốc liệt còn khét lẹt mùi thuốc súng?
Có bao giờ ông nhìn thấy những vành khăn tang trắng quấn vội lên đầu những thiếu phụ nửa chừng Xuân, những đứa trẻ sơ sinh chưa một lần được nhìn thấy mặt cha, hay những đứa trẻ ngây thơ vô tôi ngày đêm mong nhớ hình ảnh người cha thân yêu đang miệt mài trong trận địa?
Và gần dây nhất có bao giờ ông nhìn thấy những người Tù Khổ Sai, những “ Người Tù Không Bản Aùn” được mệnh danh bằng một danh từ hoa mỹ là “Cải Tạo” trong cảnh gông cùm xiềng xích, đánh đập khảo tra thật tàn nhẫn trong các phòng kiên giam, trong các thùng Container Conex với cái nóng cháy da giữa buổi trưa hè hay trong những ngày lạnh giá của thời tiết khắc nghiệt cao nguyên miền Bắc Việt Nam.
Có bao giờ ông nhìn thấy Người H.O chịu cảnh đói khát, bệnh tật triền miên, nằm thiêm thiếp chờ chết trong manh chiếu rách nát không thuốc men, không thức ăn trong điều kiện sinh hoạt thật tồi tệ, khắc nghiệt của trại “Tù Cải Tạo”?
Có bao giờ ông được nhìn thấy “Người Tù Cải Tạo” gục nga, xác thân nằm vắt trên vòng rào kẽm gai hay trước cọc tử hình với lồng ngực nát bét, máu me tung tóe trước lằn đạn ác nghiệt của bọn người cuồng tín.
Có bao giờ ông nghe được những lời nói hiên ngang của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tỉnh trưởng Chương Thiện trước giờ bị xử bắn tại sân vận động của tỉnh ” ...Yêu cầu đừng bịt mắt để tôi được nhìn đồng bào tôi lần cuối..?
Có bao giờ ông biết được những buổi tự sát tập thể chết tức tưởi không toàn thây bằng lựu đạn của các chiến sĩ trẻ kiên cường bất khuất biệt kích, nhảy dù, biệt động quân, khi nghe lệnh buông súng đầu hàng của TT Dương Văn Minh vào giờ thứ 25 của cuộc chiến?
Và cuối cùng có bao giờ ông biết được những con người bất khuất luôn can đảm đối diện với kẻ thù dù trong tay không một tấc sắt, không một hậu thuẫn, chấp nhận kiên giam kềm kẹp, khảo tra, đói khát bị bức tử như giáo sư điêu khắc Nguyễn Khắc Điệp trại tù Z 30 A , Luật Sư Trần Danh San,.....và nhiều người khác nửa.

Định cư tại Hoa Kỳ, một số ít Người H.O thể chất suy giảm vì tuổi tác cao, vì ảnh hưởng của bệnh tật, vì mòn mỏi chịu đựng trong điều kiện thiếu thốn nghiệt ngã trong các trại Tù “Cài Tạo”. Tuy nhiên một số đông vẩn giữ được thể lực dồi dào, một tâm hồn minh mẫn cùng với một ý chí vững mạnh quyết tâm xây dựng lại từ đầu. Lẽ ra ông nên nhìn những kẻ yếu đuối bệnh hoạn, những đau thương tủi nhục do những tháng năm đọa đày bằng cặp mắt cảm thông trái lại ông nhìn Người H.O với cặp mắt đầy thù hận, lệch lạc, hồ đồ và đầy bất công.
Điều chúng tôi không chối bỏ là Người H.O khi đến định cư tại Hoa Kỳ chỉ còn hai bàn tay trắng, muốn có được bộ đồ lành lặn tạm nhìn được củng phải di vay mượn. Tất cả của cải tiền bạc do mồ hôi và nước mắt của những “Vợ Người Tù Cải Tạo”dành dụm hao mòn vào các giỏ quà thức ăn trong những kỳ thăm nuôi Người Tù Cải Tạo.

“ Người H.O” chưa hề một lần oán trách cho thân phận nhiều bất hạnh đầy tủi nhục của mình, sau bao nhiêu năm tháng đọa đày mang thân phận của kẻ tội đồ trên quê hương.
“Người H.O” cũng không hề nhìn kẻ đi trước bằng cặp mắt ganh tị hay cầu khẩn. Thế sao ông Hồ Văn Xuân Nhi lại có những lời nói cùng ý nghĩ thật tàn nhẫn, hồ đồ đầy ác ý. Cố tình xuyên tạc sự thực, mà lẽ ra với một trí thức Khoa Bảng như ông không nên có.
Nếu ông Hồ Văn Xuân Nhi cần biết những thành công của Người H.O và gia đình. Cần biết những thành quả phấn đấu vươn lên sau bao nhiêu nghiệt ngã khổ đau trên quê hương, và cuối cùng nếu ông cần biết lòng tự trọng của người H.O cùng với ý chí phấn đấu, với những thành công đáng kể góp phần xây dựng và phát triển cho quê hương thứ hai, chúng tôi mong ông dành nhiều thời giờ tìm hiểu, gạt bỏ mọi thành kiến cùng với lòng ích kỷ, dùng chút lương tâm chân chính còn sót lại của ông để nhìn vào thực tế của Người H.O, và cuối cùng ông nên soi rọi lại bản thân ông cùng với những lệch lạc mà ông cố tình gán ép cho những “Người H.O”. Hoặc nếu cần ông nên học hỏi thêm nơi Người H.O, tôi tin chắc người H.O không đến nỗi hẹp hòi mà không chỉ dẫn lại cho ông.

Với thành phần được xem là Trí Thức Khoa Bảng, theo lời nhà văn Chu Tất Tiến trả lời phỏng vấn với nhà văn Phan Nhật Nam trên đài SBTN ngày 8 tháng 8 2007, chúng tôi thiết nghỉ ông nên bình tâm can đảm nhận lấy những sai sót, lỡ lời có thể do một giây phút bốc đồng, thiếu suy nghĩ hay do một áp lực nào đó.
Mong ông hãy tỏ ra là người biết phục thiện, can đảm nhận diện những sai trái để “Người H.O” không còn phải bận tâm về những điều mà lẽ ra không đáng để quan tâm.

NGUYỄN HỮU CỦA]( H.O 1 )
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Người Mỹ Xấu Xí: ‘Ugly American’

TRẦN CAO TƯỜNG .
Đây là "huy chương bội tinh" nhiều nước đồng loạt gắn cho người Mỹ sau vụ anh chàng Russell Weston lên cơn nhào vô tòa nhà Quốc Hội Capitol bắn chết hai cảnh sát và làm máu me tung tóe vấy bẩn cả bộ mặt nước Mỹ cách đây mấy năm, trong lúc đầy du khách vào mùa hè đến từ khắp thế giới. Tổng thống Mỹ cũng bảo rằng đây là một việc mọi rợ ở ngay trước cửa nhà văn minh Mỹ.

KHI NGƯỜI MỸ BỊ CHÊ

Xin đừng chỉ nghĩ tới Russell Weston. Hay lại bảo anh ta vì bị bệnh tâm trí. Tờ báo Sun có nhiều độc giả nhất bên Anh nói ngay:
"Đó chỉ là một chuyện điển hình của Mỹ về tình trạng xã hội tồi tệ và điên súng."
Các tờ báo lớn bên Ý như La Stampa, La Republica cũng đều đăng trang đầu với hàng chữ lớn như vậy. Người Tàu ở Bắc Kinh thì mỉa mai: "Thấy chưa, cứ chửi chúng tôi là vi phạm nhân quyền. Để xem ai phạm hơn ai. Mỹ cứ phô trương là tự do dân chủ...quá đà đến nỗi như vậy đấy!"

Tờ Guardian của Anh nhận xét: "Vụ Russell Weston cũng như vụ nổ bom ở Oklahoma City và nhiều nơi khác không phải là những vụ riêng rẽ, mà là nét chung của Mỹ. Vậy mà hiện vẫn chưa có một đạo luật nào về việc dùng súng có hy vọng thông qua ở quốc hội."

Một ông chủ tiệm gốc Pháp thì phát ngôn: "Chẳng phải ở đâu xa cả. Ngay trong tiệm ăn của tôi dưới phố, tiền khách trả để trên bàn ăn mà không để ý là có một bọn oắt con lẻn vào vồ chạy hồi nào không biết. Thiếu hẳn giáo dục. Hỗn quá. Chả lẽ đang tiến gần tới mọi rợ!"

Người Mễ thì có dịp nói lên những bực bội nhiều năm qua khi phải ở sát nách anh chàng Mỹ nhà giầu mà tư cách tồi quá. Giáo sư Jose Hinojona ở đại học Texas lên tiếng: Người Mỹ không biết rằng sang Mễ là phải nhập gia tùy tục, phải kính trọng phong tục luật lệ nơi mình tới, chứ đừng nghĩ muốn làm gì thì làm; nhất là một số bọn choai choai đi nghỉ hè bên đó, thì ôi thôi, thật là vô kỷ luật và làm những chuyện vô luân khơi khơi, chẳng còn một chút liêm sỉ tối thiểu! Ấy thế mà cái nền văn hóa này lại đang được "toàn cầu hóa" bơm đẩy lên cơn theo đà kinh tế toàn cầu!

Thực vậy, người Mễ với truyền thống Công giáo 500 năm sang từ nam Âu thì lại có cả một nếp sống khác Mỹ do dân "hồng mao" Anglo-saxon gốc bắc Âu chủ động. Máu hồng mao thiên về buôn bán và thực tiễn vật chất, nên họ có tiền, tự cho mình là nước hạng nhất so với Mễ là nước thuộc thế giới hạng ba. Mễ lại có biên giới dài hai ngàn rưởi dặm cạnh Mỹ mà lại xa lạ, xem ra gần Argentina hơn là San Diego. Lối nhìn và nếp sống khác nhau như vậy mà người Mỹ đâu chịu tự giáo dục để biết học hỏi cái hay của người. Họ cứ dùng đồng tiền để lấn lướt khinh thường người khác. Người Mỹ thật xấu xí: "Ugly American"!

TIN VUI GỬI NGƯỜI MỸ XẤU XÍ

Xấu xí tới cỡ nào thì chưa biết nhưng cứ nhìn mấy đứa choai choai ăn mặc thì phải nhận là chẳng thẩm mĩ chút nào: cái quần Zinco thùng thình với đũng tới đầu gối như kiểu quần mấy bà cấy lúa xưa, lưng quần thì trễ xuống vừa đi vừa phải xách lên; còn áo thì là loại áo thung rộng bao la bát ngát, vẽ vạch lung tung với những chữ thô tục. Đó là điển hình của bừa bãi. Mà hình như càng bừa bãi thì càng tỏ ra hợp thời trang hơn!

Như vậy thì có tiền nhiều đâu có nghĩa là giầu! Xấu xí bề ngoài đã vậy, mà xấu xí nghèo nàn tư cách mới thực đáng buồn. Ai lại gặp nhau mà đi hỏi lương tháng bao nhiêu. Thẩm định giá trị một nước thì cứ phải đưa tiêu chuẩn lợi tức đầu người mỗi năm bao nhiêu. Vậy ra giá trị một người hay một nước tùy ở đồng tiền to hay bé sao?
Thì ra vụ chàng Weston bắn ở nhà Quốc Hội Capitol đã trở thành mốc ghi và thước đo tình trạng tướng xấu hay dễ coi của cả một nền văn minh Mỹ, đúng như lời ông tổn thống nói: "Đây là một việc mọi rợ ở ngay trước cửa nhà văn minh Mỹ". Vì tòa nhà quốc hội là biểu tượng cho người dân Mỹ, nơi tạo nền và dựng nếp văn minh này.
Tờ La Republica bên Ý thì đăng tin này song song với tin khác về ông tổng thống một nước mà bị trát đòi hầu tòa về tội lạng quạng với nữ nhân viên, rồi chú giải thêm rằng đã đến lúc bộ mặt tồi thật của đời sống Mỹ hiện hình; chuyện chàng Russell Weston chỉ như một việc tất nhiên sẽ đến không che giấu nổi nữa dù có vẽ son trét phấn.
Bởi vì xã hội này cổ võ phá đổ mọi tiêu chuẩn luân lý, phúc tội. Ai nghĩ gì cũng được; cho là đúng là cứ việc thả cửa kéo bè rủ cánh mà làm khỏi cần thước đo đúng sai nào cả. Lên cơn muốn bắn là bắn không cần nhiều lý do, muốn lạng quạng thì cứ việc lạng quạng mà mặt vẫn tỉnh táo chả chút ngượng nghịu. Rối từ trên rối xuống. Rối từ trong ra ngoài, chả cần phải có tư cách tác phong gì cả, miễn là biết làm ra nhiều tiền là có quyền vung vít.

COI CHỪNG TÀU ĐẮM!

Người Mỹ còn bị coi là nhớ ít và đãng trí. Nhớ ít vì vụ tàu Titanic cũng như Nhà Tháp Đôi (Twin Tower) chưa xa bao nhiêu mà toan tính quên đi, may mà ông Cameron nhất định diễn lại lay động mọi người. Đãng trí vì nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết, cứ sống mãi phây phây mà mải miết lo đi chôm chỉa gom góp, hết sang Phi rồi lại sang Tàu, cứ như là tàu đời mình chẳng bao giờ đắm được.

Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã cảnh cáo:
"Coi chừng, kẻo mắc tật tham lam dưới mọi dạng thức, vì của cải mặc dù thừa thãi, không đủ sức bảo đảm đời sống của người ta".

Kế đó Người kể một tỉ dụ: Xưa có một nhà giầu, gặp năm được mùa, người ấy tự nghĩ: "Tính toán làm sao đây? Mình không đủ chỗ chứa hoa mầu. À phải rồi, ta sẽ phá các kho lẫm của ta đi mà xây thêm những kho lẫm lớn hơn, rồi bao nhiêu thóc lúa của cải sẽ chất vào đó. Sau đó ta sẽ bảo hồn ta rằng: Hồn tôi ơi, Người có tài lộc dự trữ cho nhiều năm. Đừng lo nữa, hãy ăn uống, chơi sài cho đã". Nhưng Thiên Chúa bảo hắn: "Đồ ngu! Chính đêm nay ta sẽ đòi hồn mi, tài sản chồng chất của mi sẽ về tay ai đây? Đó là số phận của người dự trữ của cải cho mình, mà không biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa." (Luca 12:15-21).

Chuyện hy hữu xẩy ra thực là vào năm 1923, một cuộc họp quan trọng về buôn bán được tổ chức tại khách sạn Edgewater ở Chicago, gồm những tay chủ tịch các hãng sở sừng sỏ nhất thời đó: hãng thép lớn nhất, hãng đồ dùng lớn nhất, hãng ga lớn nhất, thị trường chứng khoán New York, và hối đoái Wall Street, ngân hàng quốc tế, hãng buôn lúa mì lớn nhất, và một nhân viên trong nội các tổng thống Harding.

Và chuyện gì đã xẩy ra 25 năm sau? Chủ tịch hãng thép lớn nhất là Charles Schwab chết vỡ nợ, chủ tịch hãng đồ dùng lớn nhất là Samuel Insull chết không còn một xu, chủ tịch hãng ga lớn nhất là Howard Hobson bị điên, chủ tịch thị trường hối đoái New York là Richard Whitney vừa được thả khỏi nhà tù, chủ tịch ngân hàng hối đoái là Leon Fraser tự tử, tay buôn lúa mì là Arthur Cutten chết cháy túi, tay hối đoái Wall Street là Jesse Livermore tự tử, nhân viên trong chỉnh phủ của tổng thống Harding là Albert Fall vừa được ân xá khỏi nhà tù để về chết ở nhà.

PHÚT TỊNH TÂM

Mà cũng chẳng phải chuyện của mấy người giầu hay dân Mỹ nào tồi bị đắm tàu. Thấy thiên hạ chửi Mỹ quá, cứ tưởng họ chửi ông tổng thống tồi tệ hay chàng Weston hư đốn chứ, đâu ngờ mình cũng là Mỹ vàng rồi! Xu hào bạc xanh có thể rủng rỉnh hơn, nhưng đang có thể càng ngày càng nghèo đi: nghèo nết, nghèo lòng.

Xin thánh vịnh 14 chỉ dạy cho con đi theo đường ngay thẳng.

Kẻ ngu si tự nhủ:
“Làm chi có Chúa Trời!”
Chúng đã ra hư đốn, làm những điều ghê tởm,
Từ trời cao, Chúa nhìn xuống loài người,
Xem ai là kẻ có lương tri,
Biết kiếm tìm Thiên Chúa.
Này chúng phải kinh hoàng sợ hãi,
Vì Thiên Chúa bênh dòng dõi chính nhân.
Các ngươi chế diễu dự tính của người nghèo,
Nhưng Chúa là nơi họ ẩn náu.

(từ tác phẩm Nhịp Múa Sông Thanh, Thời Điểm xuất bản - mời thăm www.dunglac.net , Mạng Lưới Dũng Lạc, góp tư liệu xây nhà Văn Hóa & Niềm Tin.)
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Thư gởi ông Hồ Văn Xuân Nhi
Ðại Nghĩa
Trước đây, vài lần tình cờ ngồi chung bàn với ông, nhận thấy ông lịch sự, ăn nói nhỏ nhẹ và con của vị mục sư, ảnh hưởng sự giáo dục trong gia đình rất quan trọng, vì vậy tôi có thiên cảm với ông.

Ðã một thời, ông cùng với những người bạn trẻ dấn thân trong dòng chính (main steam) trong lãnh vực chính trị ở Hoa Kỳ, ông “đã làm việc hơn 2 năm cho dân biểu chống cộng Robert Dornan”, “đi cùng phái đoàn quốc hội Mỹ về Việt Nam đầu năm 1988 để vận động cho các hồ sơ này, vận động cho chương trình HO để đưa các cựu tù cải tạo sang Mỹ”, ông hiểu được phần nào về tâm tư, nguyện vọng và hoài bão của đồng hương khi tỵ nạn Cộng Sản. Ông cho biết “Năm 1989 đến khoảng năm 1993, đã có thời gian làm giám đốc điều hành cơ quan CROP (Orange County Community Resource Opportunity Project, Inc.), cơ quan thiện nguyện của cộng đồng để giúp đỡ những người tỵ nạn và di dân từ Ðông Nam Á định cư ở Mỹ, với sự tài trợ của chính phủ Hoa Kỳ” (HVXN). Với công việc troong quá khứ, ông hiểu và cảm nhận được nỗi đau, bất hạnh và thảm cảnh trong chốn lao tù CS của những người đã dấn thân trong cuộc chiến chống CS như thân phụ ông nhưng chẳng may bị kẹt lại sau khi CS thống trị đất nước.

Trong công việc, vai trò điều hành của chi nhánh Western Union hiện nay tại Nam California đã có “địa vị” trong xã hội, có lẽ ông tiếp tục viết lách cũng là thú vui như bước khởi đầu về ca nhạc vào giữa thập niên 80. Từ những bài viết thuần túy về ca nhạc, dần đà chuyển sang lãnh vực chính trị. Chọn cho mình cơ quan truyền thông để bày tỏ ý kiến là điều đang khích lệ nhưng câu danh ngôn “Anh cho tôi biết, anh chơi với ai, tôi sẽ nói anh là người thế nào” có lẽ đánh giá được tư tưởng, nhân cách của ông sau nầy khi có sự chọn lựa với cơ quan truyền thông mà ông hợp tác.

Tháng 12 năm 1994, Western Union sang Việt Nam để bàn thảo về công việc dịch vụ chuyển tiền. Ðây là công ty có tầm cỡ quốc tế, thuần túy về business như các công ty đa quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, công việc được tiến hành khi Tổng thống Clinton ban hành Tu Chánh Án Jackson-Vanik cho phép giao thương và bãi bỏ cấm vận với CSVN. Cho đến nay, dịch vụ chuyển tiền của Western Union đã có mặt trên tất cả tỉnh thành ở Việt Nam.

Công ty Western Union cũng như những cơ sở chuyển tiền của người Việt ở Hoa Kỳ, không có ai đả kích, phản đối vì nó đơn thuần trong “dịch vụ” thương mại. Ðược biết, Western Union không hỗ trợ bất cứ tổ chức nào ở hải ngoại về lãnh vực chính trị. Với VN thì công ty hỗ trợ chương trình từ thiện phẫu thuật mắt cho trẻ em kết hợp với Hiệp Hội Bảo Trợ Trẻ Em Nghèo.

Thân chủ của Western Union trong cộng đồng người Việt, trong đó có thân nhân của gia đình H.O, là giám đốc chi nhánh, ông đã đi ngược lại với chủ trương của công ty khi ông viết những lời khinh miệt, bêu xấu cựu tù nhân H.O và đồng hương của anh khi chống tờ báo có lập trường thân Cộng và tán trợ hành động khủng bố trên đất nước Hoa Kỳ. Tôi không đề cập đến vấn đề nầy vì đã có nhiều bài viết feedback của các cây bút tên tuổi đã được phổ biến trên nhiều cơ quan truyền thông. Ðiều quan trọng của các cựu Tù Nhân Chính Trị là thoát khỏi ách thống trị của bạo quyền CS, được định cư tại Hoa Kỳ, phần đông, con cái họ được học hành đến nơi đến chốn, thành đạt và có đại vị trong xã hội.

Trong công việc làm ăn, điều quan trọng nhất là kín đáo và tôn trọng vấn đề “riêng tư” của người khác nhưng qua bài viết của ông khi bất đồng quan điểm của ông Ngô Kỷ, ông thuộc loại “cá mè một lứa” với đám cầm bút của Việt Weekly. Ông viết: “Tôi không có ân nghĩa tình cảm nào với Ngô Kỷ. Tôi cũng chẳng xem ông ta là bạn của tôi. Ông ta không xứng đáng là bạn của tôi. Ngô Kỷ mắc nợ ân nghĩa với tôi nhiều, thì đúng hơn. Chính ông ta cũng nhìn nhận như thế trong bài viết, Ngô Kỷ vẫn còn nợ tôi một món nợ từ 20 năm trước. Không nhiều lắm, cũng không phải là nhỏ. Vẫn còn đủ cho tôi mua được 1 vé máy bay về Việt Nam. Tôi đã không bao giờ đòi trong suốt 20 năm qua, bởi vì thấy Ngô Kỷ lúc nào cũng nghèo, cũng thất nghiệp, tôi đã tội nghiệp Ngô Kỷ nên không nhắc”. (HVXN trả lời Ngô Kỷ - VW, 2 tháng 8-2007).

Lá thư của ông Ngô Kỷ trả lời Hồ Văn Xuân Nhi được phổ biến trên trang web vietvungvinh vào ngày 3 tháng 8 và cũng được in ra để phổ biến ở khu vực Little Saigon:

“Bạn Hồ Văn Xuân Nhi thân mến,

Lâu lắm rồi, có lẽ cũng 3 năm rồi, lần cuối cùng chúng ta gồm bạn, Trần Thái Văn, và tôi vui vẻ ăn với nhau những tô mì của tiệm mì Á Ðông sát nách Phúc Lộc Thọ trên đường Bolsa, và bạn đã “điệu nghệ” đứng lên trả tiền, cám ơn bạn. Cho đến giờ này tôi vẫn không quên những kỷ niệm đẹp đẽ và thân tình đó, dù rằng trong suốt mấy năm trời trước đó, mỗi lần bạn viết những bài “bình luận” chính trị đăng trên tờ báo Việt Weekly, thì hầu như ít bài nào mà bạn sót “đá giò lái” tôi vài câu cho “bỏ ghét”.

... Kỷ niệm đầu tiên là việc tôi giới thiệu bạn làm quen với Trần Thái Văn để Trần Thái Văn tiến cử bạn vào thế cái ghế phụ tá Dân biểu Robert K. Dornan để Trần Thái Văn có thể trở lại Ðại Học full time vào khoảng năm 86, 87 gì đó. Và suốt bao nhiêu năm sau đó, chúng ta cộng tác nhau trong một số sinh hoạt cộng đồng và chính trị, đặc biệt trong các mùa vận động tranh cử của đảng Cộng Hòa. Tôi cám ơn bạn đã tận tình và ưu ái giúp đỡ tôi rất nhiều trong công việc chung, cũng như trong công việc riêng tư. Tình nghĩa đó tôi luôn ghi tạc và mong có ngày đền đáp....

... Tôi không bao giờ chụp mũ bạn là Cộng Sản hay Việt Cộng đâu, vì với tư cách và trình độ của bạn làm sao xứng đáng làm tên Cộng Sản được dù có cho là bạn đang cố gắng hết sức. Nếu tôi được phép đặt tên cho bạn, thì tôi sẽ gọi bạn là tên Việt gian, tên đón gió trở cờ, tên tay sai bưng bô Cộng Sản, hay có thể gọi bạn là tên phản trắc, ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản, hay nặng hơn chút nữa thì gọi bạn là tên vô lại, vô liêm sỉ táng tận lương tâm...”.

Ông Ngô Kỷ “chửi” Hồ Văn Xuân Nhi nhưng vẫn gọi bạn và nhớ ân tình ngày trước trong tình bạn bè nhưng HVXN nếu có “chửi” Ngô Kỷ thì cứ nhận tình bạn ngày trước, nay không còn nữa, không xem là bạn rồi đem vài trăm bạc cho mượn đã 20 năm không đòi vì “Ngô Kỷ lúc nào cũng nghèo, cũng thất nghiệp, tội nghiệp Ngô Kỷ nên không nhắc” rồi lại nêu ra thì xoàng quá.

Với con người có bản tính như vậy mà đảm nhận dịch vụ chuyển tiền của công ty Western Union, nếu có thân chủ nào trong cộng đồng người Việt tỵ nạn chuyển tiền cho thân nhân ở quê nhà, với vài nghìn phải ghi rõ địa chỉ, số anh sinh xã hội... mà chống tờ Việt Weekly, chống tay sai CS sẽ cảm thấy bất an. Biết đâu, một ngày nào đó, ông HVXN đem danh sách những người gởi tiền trong chi nhánh ông làm việc về cho thân nhân ở VN mà chống đối CS, chống bọn tay sai CS ra dọa dẫm nêu trên báo thì sao?. Trước đây, Việt Weekly tham dự cuộc tiếp tân do Tòa Lãnh sự CS tổ chức, cho biết có hình ảnh, danh sách những người trong cộng đồng tham dự ra hù như sự dằn mặt... cho thấy “bọn sứ thần CS” quá ngu, không biết giữ sự kín đáo với “khách mời” của mình thì sau nầy họ dại gì chường mặt ra nếu có sự hiện diện của “ông thần VW” sẽ tạo sự bất ổn cho bản thân.

Ông Hồ Văn Xuân Nhi nên học cách ứng xử của ông Nguyễn Trí Hiếu, khi tham dự buổi tiệc trong phái đoàn của Nguyễn Minh Triết, không biết nội tình trong Ðệ Nhất Ngân Hàng Việt Mỹ (First Vietnamese American Bank) thế nào nhưng khi thấy có sự phản đối của cộng đồng người Việt, ông tân Chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị của ngân hàng nầy tuyên bố ông Nguyễn Trí Hiếu không còn giữ chức vụ nào cả trước ngày đó. Về phần ông Nguyễn Trí Hiếu, qua vài cơ quan truyền thông, bày tỏ lý do tham dự “Tôi có mặt trong buổi tiệc để được nhìn thấy tận mắt những gì xảy ra trong buổi tiệc. Đồng thời tôi cũng muốn đưa ra một thông điệp cho phái đoàn Việt Nam là muốn có đối thoại với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, trước hết, phải hiểu những nguyện vọng của người Việt tại hải ngoại...

Như mọi người cũng biết, trong công việc và đời sống hằng ngày, tôi rất gắn bó với cộng đồng người Việt tại quận Cam...

... Chính vì gắn bó với cộng đồng như thế làm tôi không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào để tìm hiểu những gì xảy ra trong cộng đồng. Buổi tiệc với ông Nguyễn Minh Triết cũng là một biến cố xảy ra ngay trong lòng cộng đồng của chúng ta và tôi đã tham dự để biết những gì xảy ra trong đó”.

Tuy “bị” mất chức vụ Chủ tịch HÐQT nhưng ông vẫn bảo vệ chức năng của ngân hàng nầy với đồng hương để khỏi bị ảnh hương xấu “Đệ Nhất Ngân Hàng Việt Mỹ được thành lập với mục đích phục vụ cộng đồng người Việt tại quận Cam và chúng tôi rất vui mừng đón nhận sự ủng hộ nhiệt tình của đồng hương trong hai năm qua. Chúng tôi cũng rất hãnh diện về những thành quả đạt được trong thời gian qua và ngân hàng ngày càng phát triển trong nhiệm vụ này”. Ông Nguyễn Trí Hiếu không lên án, chống đối và hồ đồ như HVXN khi bị nêu tên trong thành phần tham dự với phái đoàn của Nguyễn Minh Triết.

Nếu có tiếng nói với Hội Ðồng Quản Trị của công ty Western Union về nhân vật trong chi nhánh của công ty nầy đã viết và dùng tờ báo đánh phá cộng đồng để gây sự phẫn nộ bấy lâu nay thì hậu quả với bản thân ông ra sao?

Khi đọc Thư Gởi Quý Vị Cựu Tù Nhân H.O của ông HVXN vừa được phổ biến vào thượng tuần tháng 8 nầy, tôi chợt nghĩ, nếu ông không còn viết bài lèm bèm khác thì hay hơn.

Là tín hữu Tin Lành, ông nên chiêm nghiệm những lời khuyên của Mục sư A. W. Tozer: “Khi bị khiển trách, đừng chú ý đến người khiển trách. Ðừng hỏi liệu người khiển trách là bạn hay kẻ thù của bạn. Một kẻ thù thường có tác dụng lớn hơn trong việc khiển trách hay phê bình so với một người bạn vì họ không bị ảnh hưởng bởi sự thông cảm hay đồng cảm” (Ðiều 3). Dù ít hay nhiều, ông cũng có vài người bạn ngoài đám VW, nên trao đổi để chọn hướng đi đường hoàng, tử tế hơn.

Viết báo cũng như múa kiếm, trong làng báo cũng như chốn võ lâm. Có người thích vào đám lục lâm cầm kiếm múa vung vít cho được nổi tiếng nhưng càng múa càng thấy vụng về, có người chỉ vung một đường gươm cũng thể hiện một kiếm khách nào đó.

Trên đời nầy, không ai dám vỗ ngực cho mình không bị lầm lẫn, sai trái, tội lỗi... và, có lẽ ông cũng nghe rất nhiều lần lời kết trong Bài Giảng: “Bạn thân mến, con người chúng ta ai cũng phạm tội nhưng điều quan trọng là chúng ta có thật lòng ăn năn và từ bỏ tội lỗi chúng ta hay không”.

Hình ảnh Hồ Văn Xuân Nhi ngày trước và bây giờ khác xa, nếu một ngày nào đó, những gì “đang có và chạy theo” mất hết, cũng là bài học đáng giá.

Ðại Nghĩa
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Tính mau quên của
người Việt tỵ nạn cộng sản

Lê Minh Úc
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Ðang chăm chú nhìn mặt nước thì cái cần câu bên tay phải của tôi bỗng lay động và bị kéo cong xuống. Chắc chắn là cá lớn đây, tôi nhủ thầm và nhanh tay nhấc cần câu lên rồi quay đều theo từng nhịp để giữ cho dây câu không bị chùng. Quay được một đỗi thì con cá lên tới mặt nước và tôi nhận ra đó là một con cá nhám nhỏ.

Thấy con cá không đủ lớn, không đáng để giữ lại nên tôi thả nó trở lại mặt nước. Nhưng loay hoay mãi mà chưa thể gỡ con cá ra khỏi lưỡi câu, tôi đành phải cắt bỏ cả dây lẫn lưỡi câu vẫn còn móc vào khoé miệng của con cá.

Thay dây và móc mồi khác vào lưỡi câu, tôi lại quăng dây xuống biển ngay. Chưa đầy một phút, có lẽ là lưỡi câu chỉ vừa mới chạm đáy, tôi lại thấy cái cần câu oằn xuống nữa, và cá lại cắn câu. Vẫn thao tác như cũ, tôi từ từ đưa con cá lên đến mặt nước và khi nó vừa xuất hiện thì đó chính là con cá nhám tôi vừa thả khi nãy với cái lưỡi và dây câu tôi vừa cắt lúc nãy vẫn còn dính nơi miệng con cá.

Ðây là lần thứ nhì tôi gặp phải trường hợp này. Bộ não của loài cá vốn không lưu giữ những dữ kiện được lâu. Do đó, mặc dù đã phải trải qua những “giây phút kinh hoàng” bán sống bán chết khi phải vật lộn với cái cần câu và chiếc lưỡi câu, và nhưng khi có cơ hội được trở về vẫy vùng tự do trong biển cả sông nước thì chỉ trong khoảng hơn 30 giây sau là nó quên mất những gì đã xảy ra trước đó.

Sở dĩ phải dông dài như vậy là vì tôi muốn đem so sánh cái tính “mau quên” của loài cá với con người, một động vật cao cấp nhất trên hành tinh này, có bộ óc, có cái nhìn, có tiếng nói và có suy nghĩ. Trong phạm vi giới hạn ở đây, kẻ viết bài này chỉ muốn đem so sánh cái tính “mau quên” của loài cá với tính “mau quên” của một thiểu số người Việt tỵ nạn, đã từng bán sống bán chết trốn chạy cộng sản.

Đã hơn 30 năm trôi qua, nói chính xác hơn là 32 năm sau khi CSVN nhuộm đỏ phần còn lại của Việt Nam, và hơn 60 năm cho miền Bắc, chúng đã thực thi nhiều chính sách cực kỳ xuẩn động, gian ác mà lịch sử đã ghi lại như Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, vụ án xét lại,....Rồi kế tiếp trên cả 2 miền Nam Bắc thì có chính sách cướp đoạt tài sản qua 2 lần đổi tiền, rồi 2 lần đánh tư sản mại bản, ngăn sông cấm chợ,.... Ngoài ra, để thực thi chính sách “hòa hợp hòa giải”, sau tháng 4/75, chúng đã lùa hàng trăm ngàn quân dân cán chính miền Nam vào các trại tập trung khổ sai với cái tên lừa bịp là “trại cải tạo”, hoặc đẩy hàng triệu người lên vùng rừng sâu nước độc được mệnh danh là “vùng kinh tế mới”. Tất cả những chính sách xuẩn động của VC đã khiến hàng triệu người từ miền Bắc bỏ chạy vô Nam sau khi Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954, và hơn 20 năm sau thì lại có hàng triệu người liều chết vượt biển Ðông, hoặc đi bằng đường bộ băng qua các “cánh đồng chết” (The Killing Fields) đến biên giới Campuchia-Thái Lan để bỏ nước ra đi tìm tự do. Hệ quả tất yếu là hàng trăm ngàn người đã bỏ mình trên biển cả, hoặc trên đường trốn chạy.

Người Việt tỵ nạn cộng sản, với đức tính cần cù để lại của tổ tiên ông bà, chỉ sau vài năm ở xứ người đã xây dựng lại cuộc đời mới, đóng góp tích cực vào quê hương thứ hai.

Nhưng hình như sau những gầy dựng, những thành công thì có một thiểu số người tỵ nạn bắt đầu có biểu hiện “mau quên”, hay cố tình quên đi những đau thương, mất mát mà thân nhân mình hoặc đôi khi ngay chính bản thân mình đã từng trải qua trước đây. Khách quan mà nói, không ít kẻ trong số này đã bắt đầu có những “bước chân âm thầm” trong vài năm vừa qua. Khi có dịp những người này vẫn tuyên bố kiểu đại loại như: “Việt Nam bây giờ đã đổi thay rồi”, hoặc là “VC bây giờ không còn là VC ngày xưa nữa” vv và vv … Âu, đó cũng là một cách nói để cố biện minh cho việc làm của mình.

Tôi có một người bạn, vợ anh ta là người xứ Quảng. Tôi được biết là vào tháng 3/1975, sau khi chiếm được tỉnh Quảng Ngãi thì cộng quân đã bắt tập trung lại tất cả những quân nhân công chức của miền Nam không đi di tản kịp ở chung quanh khu vực gia đình cô ta đang sinh sống. Cha của cô ta nguyên là một nhân viên cảnh sát chuyên trách về việc cấp phát thẻ căn cước, cũng bị bắt và tập trung lại. Ngay sau đó, bọn VC nằm vùng địa phương lùa những người này ra pháp trường. Đó là một bãi đất trống gần nhà cô này. Từng người một, tay bị trói quặt ra đằng sau, rồi bị chúng khai tử bằng báng súng, một viên đạn vào đầu hay bằng một nhát cuốc. Riêng cha của cô được “ân huệ” hơn những người khác, đã nhận lấy một viên đạn vào đầu. Xác của các nạn nhân được chôn vội vàng xuống hố được đào sơ sài dưới vài ba tấc đất mà ai ai cũng có thể dễ dàng nhận ra những nấm mồ cạn này. Thế nhưng bọn chúng không cho bất cứ ai kể cả thân nhân của người chết đến nhận xác của các nạn nhân. Phải đợi đến hơn 3 tháng sau khi chiếm được hoàn toàn miền Nam, chúng mới cho phép thân nhân đến cải táng đem xác về chôn cất.

Riêng mẹ của cô ta, sau khi nghe lời thuật lại của những người bị bắt đi đào hố chôn, đã gần như điên loạn hàng tháng trời sau đó. Một người mẹ trẻ mới hơn 30 tuổi, với đàn con nheo nhóc, đứa lớn nhất mới 10 tuổi, đứa bé nhất là cô ta chỉ mới hơn 1 tuổi, đã bị quẳng ra khỏi khu gia binh, và vài tháng sau đó đã được nhà nước cách mạng “ưu ái” đưa đi vùng kinh tế mới, một nơi mà chỉ có rừng sâu nước độc, rắn rết và bệnh tật.

Mấy năm sau, trong một dịp may, người mẹ này đã gởi được cô con gái út và hai đứa con trai theo người em ruột của mình đi vượt biên. Đây là chuyến vượt biên định mệnh đã cướp đi tính mạng của người cậu ruột và một người anh của cô gái này, và đó cũng là cái giá phải trả cho tự do của cô con gái út này và người con trai còn lại. Và cũng từ đây mà hai anh em đã bảo lãnh được bà mẹ và các anh em còn lại đến Úc vào đầu thập niên 90s.

Tuần rồi, trong một bữa giỗ người cha của cô ta, đã bị VC giết như đã thuật ở trên, tôi được mời đến dự và đã bắt gặp đôi mắt của người mẹ rơi lệ khi bà thắp nén hương tưởng nhớ chồng. Cũng trong bữa cơm này, khi mà nhiều người trong dòng họ ôn lại câu chuyện của những người quá cố bị VC thảm sát hơn 30 năm về trước tại Quảng Ngãi, thì cô con gái đã thốt lên một câu mà tôi cho là nghe không lọt tai khi cô ấy nói rằng “VC bây giờ văn minh lắm rồi, khác với khi xưa nhiều!”. Quay sang người mẹ cô ấy, tôi chợt thấy bà quay mặt đi chỗ khác, nhưng tôi cũng kịp thấy bà lại bật khóc một lần nữa. Vâng, bà đã khóc, có lẽ khóc vì đứa con gái mình đã nói một cách vô cùng ngây ngô thiếu suy nghĩ.

Khi nói “VC bây giờ văn minh lắm rồi, khác với khi xưa nhiều”, có lẽ cô ta cho rằng VC của thế kỷ 21 không còn giết người man rợ kiểu cán cuốc đập đầu, hay một viên đạn vào ót nữa chăng? Hay là bọn chúng giờ đây văn minh nhiều rồi, biết dụ khị “Việt kiều” bằng nghị quyết 36? Nói đến đây tôi lại liên tưởng đến câu chuyện câu cá, người ta thường phải làm mồi nhử cá, sử dụng nhiều cách khác nhau để lôi kéo đàn cá tập trung vào một chỗ để có thể dễ dàng bắt chúng. Con cá không phân biệt được khoảng cách thời gian và không phân biệt được đâu là thật đâu là giả vì có bộ óc bé tí, nên mới có chuyện chúng “mau quên” trong vòng 30 giây và trở lại cắn mồi tiếp tục. Nhưng lẽ nào con người, một động vật cao cấp nhất cũng “mau quên” đến độ vội vã “hồ hởi, phấn khởi” trước những “đổi mới” có tính toán của CSVN? Hay là việc thay đổi nhóm chữ đầy tính nhục mạ phỉ báng ngày xưa “bọn đĩ điếm rác rưởi trôi dạt về bên kia bờ đại dương” bằng mỹ từ “khúc ruột ngàn dặm” hôm nay đã làm các “khúc ruột” này mềm lòng mà quên đi những vết thương lòng vẫn còn đang rỉ máu?. Có chăng đó chỉ là những miếng mồi trước những lời lẽ chiêu dụ ngọt ngào để kêu gọi “Việt kiều yêu nước” tuôn tiền gởi bạc về giúp củng cố chế độ độc tài toàn trị của CSVN.

Có lẽ nghị quyết 36 cũng là một miếng mồi khá hấp dẫn những con ... người “mau quên” đến độ quá hăng hái lăng xăng rồi quên béng đi những đau thương thể xác lẫn tinh thần mà thậm chí chính bản thân mình cũng đã từng gánh chịu. Vết đau của cá nhân thì chỉ một, nhưng vết đau của cả dân tộc thì gấp hàng triệu triệu lần.

“Mau quên” vì đãng trí hay kém trí nhớ thì không phải là cái tội, nhưng “mau quên” chỉ vì đặc quyền đặc lợi cá nhân thì rất đáng bị phỉ nhổ. Nếu Trời Phật có mắt thì có lẽ những kẻ này rất xứng đáng cho đầu thai làm loài cá trong kiếp sau.

Lê Minh Úc (Sydney - 18/08/2007)
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 9 guests