Thời Sự, Bình Luân

khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Mưa Xuân Trong Mùa Hạ

VI ANH .
Giữa lúc bầu không khí hè đã nóng nực trở thành nóng cháy thêm do hai bài báo của hai người trung niên chê trách oan sai anh em HO và người tỵ nạn CS, thì phóng sự "Từ ngôi làng nhỏ ở Bạc Liêu đến NASA, câu chuyện thành công của hai vợ chồng người Mỹ gốc Việt" của nữ phóng viên Trà Mi, đài Á châu Tự do, đến như mưa xuân trong mùa hạ. Thành công đó của người tỵ nạn CS đã trả lời HO và người tỵ nạn CS không phải là lớp người như hai bài báo ấy nói. Vặn lại để nghe ba lần, chưa chắc, phải mở lấy bài để đọc vì lời nói có thể bay đi, cây viết mới ở lại. Theo thiển ý phóng sự này thật là xuất sắc. Xuất sắc ở người được phỏng vấn, ở nội dung và ở người phỏng vấn.

Một, đây là người thật, việc thật, lời thật, chữ thật, giọng thật Bạc Liêu. Hai vợ chồng tiến sĩ Trịnh Hữu Phước và Võ Thị Diệp đang làm việc cho Trung tâm Không gian NASA, chi nhánh Marshall ở thành phố Huntsville, tiểu bang Alabama. Cả hai vợ chồng vốn là dân vượt biên, xuất thân từ làng nhỏ ở Bạc Liêu. Cả một giấc mộng dài VN trở thành hiện thực ở Mỹ. Tiến sĩ Diệp là kỹ sư vật liệu cấu trúc, sáng chế và thử nghiệm vật liệu dùng cho động cơ hoả tiễn nhiên liệu đặc của phi thuyền con thoi. Trước đây, TS Diệp vốn là thiếu nữ nhà quê, nhà tới 9 anh chị em, mơ được đi học thay vì lớn lên làm ruộng và có chồng như những người đồng trang lứa. Ở nước nhà khi học tiểu học mơ trở thành một nhà ngoại giao, sau biến cố 75, vượt biên ba lần mới được, qua đảo mơ thành bác sĩ. Đến Mỹ đã 17 tuổi phải đi làm kiếm tiền giúp bên nhà, phải đi học lớp tráng niên để lấy GED để vào đại học. Ở đại học biết Anh ngữ là một trở ngại, khó khăn lớn. Làm bài Anh văn và Sinh vật học ráng lắm cũng được điểm B, nên chọn ngành khoa học, hóa học để tiến thân. Vừa học vừa làm toàn thì. Học đủ thứ vì đến xứ Mỹ, thấy mình " giống như một đứa trẻ mới sinh ra đời nhưng lại mang thân xác một người lớn, cho nên phải học hỏi lại từ đầu". Có khi cũng nản nhưng nỗi thiếu thốn khổ sở của gia đình ở nước nhà và quyết chí tiến thân là lý do cố gắng chịu đựng và vượt qua. Làm đủ nghề chân tay từ bán hàng, dọn lau nhà, có khi buồn ngủ quá, tận tim gan phải tự ngắt mình cho tỉnh.

Còn Tiến sĩ Phước hiện là kỹ sư phi hành không gian, phụ trách phát triển động cơ hoả tiễn cho phi thuyền bay đi từ mặt trăng. Nhỏ học lớp ba trường làng nhưng may mắn đươc ra chợ học. Sau 1975, như mọi gia đình, nhà gặp khó khăn nên vượt biên năm 1979. Như mọi người Việt tị nạn khác, trong thời gian đầu phải ngày học đêm đi làm gác dan, rửa chén cho trường để sống. Hè thi đi làm thịt bò kiếm tiền giúp gia đình. Nhờ học khá nên được học bổng nên đường học vấn hạnh thông. Xong Cử nhân thì được NASA mướn nhưng chưa có quốc tịch không được làm, nhưng NASA hứa sẽ nhận vào làm sau khi nhập tịch, theo qui chế công chức liên bang bó buộc. Có quốc tịch đang học Cao Học, Nasa dành cho sự dễ dàng để học hỏi, chấp nhận cho vừa làm vừa học. Ngày nhận bằng phát minh, một người nhà quê VN khi xưa được ngồi ngang hàng và chung bàn với các khoa học gia thế giới, cảm thấy niềm vui dân Việt.

Hai, nội dung phóng sự xúc tích, đầy đủ tiến trình tiêu biểu của dân VN tỵ nạn CS cố gắng vươn lên nhờ xã hội Mỹ tư do, dân chủ. Những giấc mộng lớn của tuổi trẻ VN trước năm 1975. Những khó khăn sau ngày 30-4-75. Những ngày mất nước là mất tất cả ở nước nhà, tìm cach vươn lên ở ngoại quốc trong cái khổ cực, gian nguy, chết chóc trên đường dùng thuyền nan vượt đại dương. Những quyết chí, kiên tâm, cười gian lao, bất chấp cực nhọc, xây đấp tương lai nơi quê hương mới đầy cơ hội. Những tháng năm đầu "cùng một lứa bên trời lận đận", trở ngại Anh Văn, chọn lựa con đường học vấn như con đường tắt, vừa đi làm vừa học toàn thời gian để giúp gia đình bên nước nhà quá khổ và để cố gắng vươn lên vững chắc. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân. Nước Mỹ là đất của cơ hội, chánh quyền, trường học, cơ chế xã hội tạo điều kiện cho người có chí tiến thân. Để rồi câu chuyện của hai vợ chồng dân Bạc Liêu kết cuộc có hậu, đẹp hơn sức tưởng tượng phong phú của một soạn giả cải lương lạc quan và yêu đời nhứt.

Giọng nói rặc dân miền Nam, miệt dưới với chữ "tui", âm r thành g, không một chút sửa hay pha giọng dù cả hai tốt nghiệp cấp bằng cao nhứt ở Mỹ, làm việc cho cơ quan khoa học kỹ thuật tiền tiến nhứt thế giới. Câu văn lời nói mộc mạc như con người chân chất chuyên chở cái tâm của người trí thức gốc nông dân và vui với nguồn gốc vi tiện xuất thân của mình.

Ba, xuất sắc ở người phỏng vấn trong kỹ thuật bố cục, âm thành trung thực, nội dung liền lạc từ dĩ vãng, hiện tại đến tương lai của nhân vật. Câu hỏi ngắn gọn nhưng xúc tích tạo điều kiện cho người được phỏng vấn nói nhiều. Câu hỏi thiết tha, long trọng như đây là lần đầu trong đời người phóng viên được hạnh ngộ phỏng vấn một nhân vật, đúng đức nghiệp và nghệ thuật truyền thông. Phóng sự trên mạng còn có hình của nhân vật, một tấm hình bằng một nghìn chữ. Phóng sự này nếu đem đăng báo có thể được xem là một tin phân tích có giá trị lâu dài, thích họp cho tuần báo cỡ lớn Times, News Week, Paris Match.

Bốn và sau cùng, những điều có thể rút kinh nghiệm. Động lực giúp một trai và một gái nhà quê, làng nhỏ của tỉnh Bạc Liêu này vượt mọi khó khăn trở ngại xuất phát từ nước nhà VN nghèo khổ và ở Mỹ nhiều cơ hội. Gia đình ở VN khó khăn thiếu thốn cần được giúp đỡ là nghị lực làm hai người dân Bạc Liêu này vượt qua mọi thử thách buổi ban đầu. Cội nguồn quê cha đất tổ không quên. Phân biệt rõ quốc gia dân tộc ở nước nhà với chế độ cai trị. Cho con cái đi VN cho biết cội nguồn. Hy vọng lúc về già về VN mở trường dạy cho những đứa trẻ ở quê vì sanh và lớn lên ở nông thôn nên biết ơ nông thôn VN có "những trẻ em VN nếu có cơ hội thì có nhiều người thành tài như mình". Nhưng việc về làm việc cho chế độ thì không vì điều kiện ở VN chưa có. Suy nghĩ nếu "Việt Nam muốn thu hút được nhiều nhân tài ở nước ngoài về thì có lẽ phải có những sự thay đổi về mặt chính trị hoặc tạo những điều kiện tốt".

Trái lại xã hội Mỹ tạo điều kiện cho người dân Mỹ tiến thân. Có lớp tráng niên cho người quá tuổi trung học lấy bằng trung học. Có tài trợ và học bổng cho sinh viên. Có việc làm cho sinh viên vừa học vừa làm. Tạo điều kiện cho nhơn tài phát triển như NASA hứa mướn khi có quốc tịch và để vừa làm vừa học xong Cao học. Có cơ hội đồng đều cho người có tài ba tìm một chỗ đứng, không phân biệt nguồn gốc sắc tộc.

Và hướng về tương lai, mong mỏi những người đồng cảnh ngộ mới đến Mỹ, là phải đầu tư tương lai vững chắc qua con đường học vấn. Buổi ban đầu đến Mỹ không khỏi khó khăn nhưng phải cố gắng đạt mục đích của đời mình. Đúng như câu của tiền nhân VN dặn dò, "Nếu đường đời bằng phẳng cả, Thì anh hùng hào kiệt có hơn ai."
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Úc Đại Lợi và Chiến tranh Việt Nam
(Bài viết nhân ngày Vietnam Veterans’Day 18-8 để tri ân các chiến sĩ đồng minh Úc đã hy sinh vì lý tưởng tự do trong cuộc chiến Việt Nam)
Lê Quế Lâm
Năm 1965, hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ VNCH, các nước đồng minh như Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tây Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân lần lượt gởi quân đến giúp QLVNCH chiến đấu bảo vệ Miền Nam tự do. Để gây tiếng vang về mặt chính trị, Việt Cộng mở các trận đánh lớn vào lực lượng đồng minh. Sau trận đọ sức với quân Mỹ tại Vạn tường (Quảng Ngãi) tháng 8 1965, Cộng quân quyết định thử sức với quân Úc. Họ huy động lực lượng đông đảo khoảng 1500 đến 2500 quân gồm dân quân du kích địa phương, Tiểu đoàn 445 cơ động tỉnh Bà rịa-Long khánh, Trung đoàn 275 chính quy Bắc Việt và các đơn vị pháo, đặc công thuộc Sư đoàn Công trường 7. Mục tiêu tấn công là căn cứ Núi Đất -bản doanh Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 1 Hoàng gia Úc, cách tỉnh lỵ Bà rịa khoảng 11 cây số.

Đêm 18/8/1966, có hai ca sĩ nổi tiếng Col Joyce và Little Pattie từ Úc đến căn cứ Núi Đất trình diễn văn nghệ và ủy lạo binh sĩ. Lợi dụng cơ hội này Cộng quân mở cuộc tấn công. Đại đội Delta/Tiểu đoàn 6/Chiến đoàn 1 Úc gồm 108 quân nhân được lịnh tuần tra xung quanh căn cứ như thường lệ. Vừa chạng vạng tối, họ bắt đầu xuất quân, mặt mũi bôi đen, đi tuần tiểu cách doanh trại khoảng 5 cây số. Họ không trú đóng tại một vị trí nào đó để phục kích, mà di hành suốt đêm. Đại đội Delta, ngoài súng đại liên, binh sĩ đều được trang bị súng tiểu liên, với cơ số đạn đầy đủ quấn đầy mình, mỗi quân nhân như là một pháo đài nhỏ di động.

Image
Cuộc đụng độ bất ngờ xảy ra khi toán quân Úc phát hiện một số bộ đội Việt Cộng đang tiến về phía họ. Khi binh sĩ Úc nổ súng, Cộng quân tháo chạy vào khu rừng cao su. Quân tuần tiểu bám sát để truy kích và lọt vào trận địa của Cộng quân trong một địa thế bất lợi, chỉ toàn là cây cao su khẳng khiu thẳng tắp. Họ phải nằm tại chỗ, núp vào các gốc cao su chiến đấu và đẩy lùi nhiều đợt xung phong tới tấp của Cộng quân với quân số đông áp đảo. Bị bao vây tứ phía, gần hết đạn, có lúc họ tuyệt vọng, gọi pháo binh bắn ngay vào vị trí mình, nhưng viên sĩ quan pháo binh Tân Tây Lan từ chối lời yêu cầu đó. Rất may, một trận mưa lớn bất ngờ trút xuống như thác đổ, khiến Cộng quân cũng không biết địch đang ở đâu và cuối cùng khi những thiết giáp chở quân tăng viện từ Núi Đất đến đã gây kinh hoàng cho bộ đội VC. Vì không có vũ khí chống xe tăng, Cộng quân phải rút khỏi trận địa khi pháo binh từ căn cứ Núi Đất bắn dồn dập xung quanh khu vực Đại đội Delta đang bị bao vây. Kết quả phía Úc có 18 tử thương, 25 bị thương, còn Cộng quân với 245 xác bỏ lại chiến trường.

Các cựu chiến binh Úc và hầu hết các sử gia đều tin rằng trận Long Tân đã ngăn chận một cuộc tấn công quy mô của địch vào căn cứ Núi Đất. Sau khi đụng độ lực lượng tuần tiểu, ý đồ của Cộng quân là dụ lực lượng tăng viện Úc tiến sâu vào trận địa do họ vạch sẳn để tiêu diệt… Nhưng lực lượng Úc trang bị hùng hậu lại có chiến xa và pháo binh yểm trợ, khiến Cộng quân phải bỏ kế hoạch đã vạch. Trận Long Tân đã làm cho địch quân chùn bước và lo ngại chạm súng với lính Úc. Từ đó đến khi cuộc chiến kết thúc, không có một trận đánh quy mô nào xảy ra giữa Chiến đoàn 1 Hoàng gia Úc và lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam.

Mấy hôm sau, đài phát thanh Hànội loan tin “vào ngày 18/8 chúng ta đã xóa sạch gần hết một tiểu đoàn (gần 800 người) của bọn lính đánh thuê Úc trong một trận phục kích ở xã Long Tân”. Năm 1986, nhân kỷ niệm 20 năm trận đánh Long Tân, báo chí CSVN cho biết trong trận đánh này, “quân giải phóng MN đã loại khỏi vòng chiến 500 lính Úc và phá hủy 21 xe tăng”. Trong nhiều năm, những tin tức đó được phổ biến rộng rãi trong khi giới truyền thông Úc vẫn im hơi lặng tiếng đã khiến những lính chiến sống sót từ Long Tân rất phẫn nộ. Họ bực tức về lời tuyên bố của CSVN cho rằng lính Úc bị phục kích và tổn thất nặng nề. Đó là một tổn thất lớn nhất của Úc trong cuộc chiến VN, nhưng thất bại của Việt Cộng thì quá lớn gấp 15 lần.

Để bảo vệ lý tưởng tự do, vãn hồi hòa bình cho các dân tộc, Úc đã tham dự và chiến thắng cả 4 trận chiến lớn nhất của thế kỷ 20: hai trận Thế chiến I và II, Chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam. Trong cuộc chiến cuối cùng ở VN, họ cũng đã hoàn thanh sứ mạng cao cả, kết thúc chiến tranh bằng một hiệp định hòa bình… Nhưng vì dư luận lúc bấy giờ lên án HK và các đồng minh đã chiến đấu cho mục tiêu phi nghĩa, chống lại khát vọng thống nhất đất nước của người VN nhằm biến miền Nam VN thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Do sự ngộ nhận này mà những người chiến đấu trở về không được chào mừng bằng những vòng hoa chiến thắng, trái lại họ đón nhận những lời đả kích miệt thị của bọn phản chiến. Sự tủi nhục càng chồng chất khi phần đất -mà họ đã đổ nhiều xương máu và công sức để bảo vệ- lọt vào tay CS. Sau khi thôn tính miền Nam, CS Hànội đặt cả nước vào quỹ đạo Liên Xô với danh xưng “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Làn sống vượt biên tìm tự do của hàng triệu người và nguy cơ đe dọa hòa bình ở Đông Nam Á khi quân CSVN xâm lăng CamBốt, đã làm thức động lương tâm những người từng chống đối cuộc chiến đấu cho chính nghĩa hòa bình và tự do.
Image
Cuối cùng sự hy sinh của người lính chiến đã được ghi nhận, danh dự của họ được phục hồi qua cuộc diễn hành “Vinh danh người trở về” được tổ chức trọng thể tại Sydney ngày 3/10/1987. Hơn 25 ngàn cựu chiến binh Úc cùng hàng ngàn chiến hữu đồng minh đã từng sát cánh bảo vệ miền Nam Việt Nam tự do, tham dự cuộc diễn hành được ghi nhận là lớn nhất từ trước đến nay tại đây. “Một quân đội có kỷ luật và được huấn luyện tinh nhuệ để đương đầu với bất cứ cuộc chiến tranh nào- như lời bình luận của ký giả Peter Young –nhưng họ lại không được phép đánh để thắng, sự kiện này đã để lại trong tâm khảm của mọi người một sự lãng quên”. Sau 15 năm bị quên lãng, những đứa con đã làm tròn nghĩa vụ do đất nước giao phó được Thủ tướng Bob Hawe cùng vị Tổng toàn quyền đại diện nữ hoàng Anh, Ngoại giao đoàn, Đội cận vệ Danh dự Quốc gia và 150 ngàn cư dân thành phố Sydney với rừng cờ Úc Việt và khẩu hiệu “Nước Úc hãnh diện vì các bạn” đứng dọc bên đường vỗ tay tung hoa vẫy chào. Kể từ đó, trận đánh Long Tân được ghi vào quân sử Úc như một chiến thắng lẩy lừng. Ngày 18/8 trở thành ngày Vietnam Veteran’Day.

Năm 2006, nhân kỷ niệm 40 năm trận đánh Long Tân, hai cựu chiến binh Bob Buick và Dave Sabben nguyên thuộc Đại Đội Delta 40 năm về trước, trở lại thăm chiến trường xưa. Họ đã gặp gỡ hai ông Nguyễn minh Ninh và Nguyễn đức Thu, nguyên là chỉ huy phó TĐ 445 và nêu ra câu hỏi “Ai đã thắng trong trận Long Tân?” Ông Ninh trả lời: “Các ông đã thắng! Nhưng chúng tôi cũng đã thắng. Các ông thắng về chiến thuật và quân sự, nhưng chúng tôi thắng về chính trị”. Ông thừa nhận Úc đã đánh bại VC trên chiến trường, “trong trận này, các ông đã hành động ngoài sự kiểm soát của chúng tôi. Các ông đã thoát ra khỏi chiếc bẫy của chúng tôi”. Nhưng ông Ninh lại cho rằng Long Tân là một chiến thắng chính trị về phía Việt Nam vì nó góp phần thổi bùng phong trào phản chiến ở Úc -một phong trào mà ông ta nói rằng rốt cuộc đã dẫn đến sự triệt thoái của quân đội Úc khỏi Việt Nam. Nhưng đối với Sabben và Buick, họ chỉ quan tâm đến trận đánh. Họ đều kinh ngạc và khoan khoái khi nghe một chỉ huy cao cấp VC rốt cuộc đã thú nhận rằng Úc đã thắng trận Long Tân. Sabben phát biểu ngay sau buổi gặp gỡ ấy “Đây là lần đầu tiên tôi nghe họ thú nhận đã bị đánh bại trên chiến trường. Cuối cùng chúng ta đã có một vệt sáng của sự thật. Đó là lời phát biểu của một sĩ quan cao cấp CSVN, thú nhận họ đã không thắng trận Long Tân. (1)

Nhân kỷ niệm trận đánh Long Tân khiến người Việt chúng ta hồi tưởng lại cuộc chiến thảm khốc vừa qua. Trong trận Long Tân, Cộng quân đã huy động một lực lượng lớn từ 1500 đến 2500 quân để huy hiếp tấn công căn cứ Núi Đất. Đó là chiến thuật cơ bản của Việt Cộng. Để thực hiện du kích chiến, ngay từ lúc khởi đầu chiến tranh hồi cuối thập niên 1950, VC tập trung lực lượng du kích nhiều xã tấn công từng đồn bót ở các nơi hẻo lánh, nhằm “bức rút” hoặc “bức hàng” các lực lượng Nghĩa quân. Chúng từng bước “nhổ bỏ” nhiều đồn bót ở thôn quê. Quân đội Quốc gia lúc bấy giờ chỉ khoảng 170 ngàn quân, không đủ bảo vệ toàn bộ lãnh thổ rộng lớn. Kiểm soát được nông thôn, Cộng quân có được nguồn cung cấp nhân lực dồi dào. Điển hình tại tỉnh Phước Tuy (nơi sau này quân Úc lãnh phần trách nhiệm bảo vệ), trong cuộc hành quân vào mật khu Hắc Dịch, quân đội chính phủ tịch thu được một chỉ thị của Bộ chỉ huy tỉnh đội bộ CS Bà Rịa-Long Khánh, tiết lộ chỉ tiêu tuyển mộ du kích cho các xã trong năm 1961 là 30 ngàn. Số du kích này sau thời gian hoạt động được đôn lên thành lực lượng địa phương huyện, tỉnh và bổ sung cho quân chủ lực miền (2).

Từ tháng 9/1961 các đơn vị Cộng quân với quân số tập trung đông đảo từ 500 đến 1000 bắt đầu tung ra hoạt động. Chúng đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Thành và gây tổn thất nặng cho quân chính phủ ở tỉnh Đắc lắc. Đầu tháng 10/1961, TT Ngô đình Diệm ra trước Quốc hội trình bày tình trạng khẩn trương của đất nước. Ông tuyên bố “đây là cuộc chiến tranh thật sự được lãnh đạo bởi một kẻ thù muốn đạt đến chiến thắng chiến lược ở Đông Nam Á theo lệnh của Đệ tam Quốc tế” (3) TT Diệm kêu gọi HK giúp thêm viện trợ để tăng quân VNCH từ 170 ngàn lên 270 ngàn, TT Kennedy chấp nhận giúp quân đội VNCH tăng thêm 30 ngàn hồi cuối năm 1961. Đồng thời HK gởi thêm một số cố vấn quân sự và binh sĩ Lực lượng đặc biệt để huấn luyện chiến thuật chống du kích cho quân đội Cộng hòa. Sau HK, từ 1962 Úc là nước đầu tiên đáp ứng lời kêu gọi của TT Diệm gởi cố vấn đến giúp VNCH bảo vệ nền tự do.

Từ 1961 đến 1964, VC đã kiểm soát một vùng nông thôn rộng lớn, chính quyền quốc gia chỉ còn kiểm soát các thị trấn và quận tỉnh lỵ mà thôi. Từ giữa 1964, sau khi làm chủ nông thôn, Cộng quân bắt đầu xây dựng các tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn chủ lực, đồng thời tăng cường xâm nhập các đơn vị chính quy cấp trung đoàn từ Miền Bắc. Trong trận Long Tân, có sự hiện diện của Trung đoàn 275, là một trong ba trung đoàn của Sư đoàn 312 BV xâm nhập. Vào Nam, SĐ 312 đổi tên thành Sư đoàn Công trường 7.

Cuối tháng 12/1964, một bộ phận thuộc SĐ Công trường 9 VC tấn công vào một khu vực được xem là hậu cứ an toàn của quân chính phủ, liên tiếp xa luân chiến nhiều tuần lễ với 7, 8 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến, Biệt động quân và Nhảy dù được thiết giáp và pháo binh yểm trợ. Công trường 9 là sư đoàn chủ lực đầu tiên của quân giải phóng miền Nam. Đến thời điểm này, như lời nhận xét của một ký giả Mỹ “thì chỉ còn một khả năng có thể ngăn chận sự sụp đổ của chế độ Sàigòn, đó là sự can thiệp của các lực lượng quân sự Hoa Kỳ. Một cuộc chiến tranh lớn trên bộ và trên không của Mỹ ở Việt Nam không thể nào tránh được” (4). Theo yêu cầu của Thủ tướng Phan huy Quát, HK và các nước đồng minh trong đó có Úc, lần lượt gởi quân chiến đấu đến giúp VNCH. Sau hai năm đương đầu với QLVNCH và đồng minh của VNCH, ông Hồ chí Minh chấp nhận đàm phán với Mỹ.

Ngày 8/2/1967, TT Johnson chính thức gởi đến Chủ tịch Hồ chí Minh lời đề nghị: HK sẽ ngưng ném bom miền Bắc và ngưng tăng cường quân lực vào miền Nam, nếu BV cũng đình chỉ gởi người và vũ khí vào miền Nam. Sau đó Mỹ và BV sẽ tiến hành những cuộc mật đàm để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam. Trong thư trả lời, ông HCM cho biết nước VNDCCH “không thể thương lượng dưới sự đe dọa của bom đạn Mỹ. Hoa Kỳ phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chống lại nước VNDCCH, khi đó hai bên mới có thể đàm phán và thảo luận những vấn đề mà hai bên quan tâm”. (5)

Để đạt thắng lợi trên chiến trường làm cơ sở cho thắng lợi trên bàn đàm phán, BV quyết dốc toàn lực vào cuộc Tổng công kích+Tổng khởi nghĩa hồi Tết Mậu Thân 1968. Từ bước thứ nhất của chiến tranh nhân dân lấy nông thôn bao vây thành thị, CS chuyển sang bước thứ hai: đưa bộ đội từ vùng rừng núi, nông thôn tiến ra chiếm lĩnh thành phố và các tỉnh quận lỵ miền Nam giành toàn bộ chính quyền. Nhưng ước tính của BV đã sai lầm, từ tết Mậu Thân với ba đợt tổng công kích trong năm 1968, số tổn thất của CS lên đến 289000 tử trận (6). Chính thất bại này, Cộng quân không còn đủ lực lượng trở về giành lại nông thôn vì nơi đây đã bị QLVNCH tái chiếm và tiến hành việc bình định, thực hiện chương trình “người cày có ruộng”. Từ đó cuộc chiến bước vào giai đoạn mới, đàm phán và kết thúc chiến tranh bằng hiệp định Paris 1973.

Tổn thất nặng nề của CS khiến mọi người kinh động khi cựu chiến binh Sabben hồi tưởng lại quá khứ khi nhìn thấy bộ đội VC trong trận Long Tân cứ tiếp tục tràn lên, bị bắn gục xuống và lại đứng dậy tiếp tục tràn lên. Ông cho rằng “cảnh tượng trông cứ như những người chết lại sống dậy. Mấy thằng tội nghiệp đó cứ tiếp tục tràn lên khiến tôi tự hỏi liệu chúng tôi còn sống nổi không” (7). Đó là thực trạng bi đát của cuộc chiến VN. Bộ đội CS tin rằng họ đang chiến đấu vì nghĩa vụ dân tộc, thống nhất đất nước, nên lao vào cuộc chiến như những con thiêu thân. Trong trận Long Tân, 245 bộ đội VC hy sinh để giết 18 lính Úc. Và trong toàn bộ cuộc chiến VN số tổn thất của CS lên đến hơn triệu người, gấp 4, 5 lần số tổn thất của QLVNCH và đồng minh của miền Nam tự do.

Để thôn tính MN, những người CS chỉ có con đường duy nhất là chiến đấu đến cùng, trong khi mục tiêu đấu tranh cho dân chủ tự do của người Quốc gia thì có nhiều con đường để thực hiện. Được sự chi viện của toàn khối Cộng sản, CSVN lại tiến hành du kích chiến trường kỳ, khiến cuộc chiến đấu bảo vệ dân chủ tự do của quân dân miền Nam vô cùng khó khăn. Muốn sống còn, VNCH phải dựa vào đồng minh. Úc và Hoa Kỳ đã tham dự cuộc chiến VN trong thời gian lâu dài nhất trong lịch sử chiến tranh của họ. Bốn năm trong Thế chiến I, năm năm trong Thế chiến II và ba năm trong cuộc chiến Triều Tiên… Nhưng tại VN, họ tham dự ròng rã 11 năm từ 1965 đến đầu 1973. Họ đã giúp VN kết thúc chiến tranh bằng một hiệp định hòa bình đặt cơ sở trên quyền tự quyết dân tộc. Nhân dân miền Nam được hưởng mọi thứ quyền tự do, và sẽ quyết định tương lai chính trị miền Nam qua cuộc tổng tuyển cử dân chủ tự do. Sau đó chính phủ hai miền Nam Bắc sẽ hiệp thương và tổ chức tổng tuyển cử, thống nhất đất nước theo tinh thần hiệp định Genève 1954.

Rất tiếc, với lập trường “bốn không”, TT Nguyễn văn Thiệu muốn chiến đấu với CS đến cùng. Ý định của ông bất thành, vì Quốc hội Mỹ không muốn viện trợ quân sự cho VNCH để tiếp tục chiến tranh. Họ đã giúp người Việt Quốc gia có cơ sở pháp lý để đấu tranh cho dân chủ tự do bằng con đường hòa bình. Trong chiến tranh VN, Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” (8) nhưng HK không thể viện trợ vũ khí để TT Thiệu tiêu diệt đến người CS cuối cùng.

Từ nhiều năm qua, các cựu quân nhân Úc tham chiến tại VN cử hành ngày Vietnam Veterans’ Day tại các tượng đài chiến sĩ Việt Úc do người Việt tự do xây dựng để tri ân các chiến sĩ đồng minh. Sự hiện hiện của những người tị nạn VN gợi cho người Úc nhớ rằng có một thời đất nước họ đã sát cánh chiến đấu với dân tộc này cho lý tưởng dân chủ tự do. HĐ Paris 1973 là chiến thắng chính trị mà các đồng minh của VNCH đã giành được cho nhân dân VN…Nhưng từ hơn 30 năm qua, người dân chưa bao giờ được hưởng hai chữ tự do đúng nghĩa của nó, và đất nước cũng chưa bao giờ có tuyển cử thật sự dân chủ.
Image
Năm 2006, những người CS thừa nhận đã thua về quân sự, song tự hào đã thắng về mặt chính trị… Nhưng thử hỏi cuộc chiến đã chấm dứt hơn ba thập niên rồi, tại sao VN vẫn còn là một trong vài ba chục nước nghèo nhất thế giới? Rồi đây, vì tình trạng đất nước ngày càng tụt hậu, họ sẽ phải thừa nhận “lại thua về chính trị” trước cao trào đấu tranh đòi dân chủ đang bùng phát tại quốc nội trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Mục tiêu nguyên thủy của người Quốc gia và các đồng minh đã từng đeo đuổi là dân chủ tự do vẫn chưa hoàn tất. Úc Đại Lợi và đồng minh vẫn còn đứng bên cạnh chúng ta, ủng hộ mặt trận dân chủ của đồng bào trong nước. Hoa Kỳ đã khước từ viện trợ vũ khí để tiêu diệt đến người CS cuối cùng… Nhưng họ sẳn sàng đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa VN và HK trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, như đã minh định trong HĐ Paris 1973.

Úc Đại Lợi và Hoa Kỳ đã sát cánh chiến đấu cho lý tưởng dân chủ tự do tại VN. Những lãnh tụ Mặt trận Giải phóng Miền Nam trước đây cũng vì mục tiêu này và thống nhất đất nước. Nhân dân VN kỳ vọng ước nguyện của họ sẽ được thành tựu trong cuộc hội kiến giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng John Howard và Tổng thống George W. Bush tại hội nghị thượng đỉnh khối APEC vào tháng Chín tới tại Sydney.

Lê Quế Lâm
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Tổng thống Bush so sánh cuộc chiến tại Iraq với chiến tranh Việt Nam

Bài nói chuyện của Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush ngày hôm qua đã gây nhiều tranh cãi trong giới chính trị gia và sử gia Hoa Kỳ, khi ông đã so sánh cuộc chiến tại Việt Nam và cuộc chiến tại Iraq hiện nay, và nói rằng Iraq sẽ rơi vào một biển máu nếu Hoa Kỳ rút quân ra khỏi quốc gia này quá sớm.

Trong lúc kêu gọi người dân nước Mỹ nên kiên nhẫn với tình hình tại Iraq, Tổng thống Bush cho rằng quân đội Hoa Kỳ hiện đang tìm cách ổn định an ninh tại thủ đô Baghdad để tái lập lại nền dân chủ, như trước đây đã từng giúp cho Nhật Bản và Nam Hàn sau thời Đệ Nhị Thế chiến. Ông đã nêu ra thí dụ điển hình của những vụ giết người tàn nhẫn của phe Khmer Đỏ tại Cam Bốt, và của nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội tại Việt Nam, sau khi quân đội Hoa Kỳ rút ra khỏi Đông Nam Á, và nói đây là những hậu quả mà Iraq sẽ phải chịu nếu Hoa Kỳ bỏ rơi quốc gia đồng minh này.

Tổng thống Bush nhấn mạnh rằng lỗi lầm lớn nhất của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã phải trả bởi hàng triệu người Việt Nam vô tội, từ đó đưa đến những danh từ mới như thuyền nhân, trại cải tạo, hay cánh đồng chết.

Những so sánh nói trên đã làm cho những nhân vật thiên tả giận dữ và cho rằng ông Bush đã so sánh một cách sai lầm đối với lịch sử, vì việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam là việc đúng và cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến mà Hoa Kỳ không thể thắng.

Ông Bush cũng đã lợi dụng bài nói chuyện trước cử tọa là các cựu chiến binh, để bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với Thủ tướng Iraq là ông Nuri Al-Maliki, cho dù trước đó những viên chức của Hoa Kỳ đã lên tiếng bày tỏ sự mất kiên nhẫn đối với nhân vật này vì đã không hòa giải được các phe phái tranh chấp hiện nay tại Iraq. Theo dự trù, các tướng lãnh Hoa Kỳ sẽ đưa ra một bản báo cáo trước Quốc Hội vào ngày 15 tháng 9, cùng với đại sứ Hoa Kỳ tại Iraq là ông Ryan Crocker. Bản báo cáo này sẽ thẩm định lại những tiến bộ kể từ khi Tổng thống Bush quyết định tăng thêm quân số Hoa Kỳ vào hồi đầu năm, nhằm giảm bớt những vụ bạo động giữa các giáo phái và sắc tộc ở Iraq.

(Theo SBTN)
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Hậu quả của cuộc chiến Iraq và chiến tranh Việt Nam?
Nam Nguyên, phóng viên đài RFA,
RFA - Có thể đem cuộc chiến Việt Nam ra so sánh với những gì đang xảy ra ở Iraq hay không? Ðó là câu hỏi đang được nói đến tại Washington, sau lời phát biểu của Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush. Nam Nguyên của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do có bài tương trình chi tiết hơn sau đây.

Thảm cảnh thuyền nhân, trại cải tạo và cánh đồng chết

Xuất hiện trước Ðại Hội Các Cựu Chiến Binh Mỹ Từng Tham Chiến Ở Nước Ngoài, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush nói rằng việc rút lui vội vã khỏi Iraq có thể làm tái diễn một cuộc tắm máu, giống như sự việc đã xảy ra tại Đông Nam Á khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.

Tổng Thống Bush nói rõ thêm là “cái giá của cuộc rút quân Mỹ tại Việt Nam là thảm cảnh của những thuyền nhân, những trại tập trung cải tạo tại Việt Nam cũng như những cánh đồng chết chóc tại Cambodia”.

Tổng thống Bush cũng so sánh cuộc chiến tranh và những nỗ lực xây dựng tại Iraq cũng như những cố gắng của người Mỹ nhằm xây dựng dân chủ cho một nước Nhật Bản thời hậu chiến và quyết định bảo vệ Nam Hàn trước cuộc chiến xâm lược của Bắc Hàn, và các cựu chiến binh Mỹ đã làm tròn trách nhiệm được quốc gia trao phó, cho dù làn sóng chống đối chiến tranh bao giờ cũng nổi lên.

Việc Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush đêm cuộc chiến Iraq ra để so sánh với cuoc chiến từng xảy ra đã tạo nên nhiều cuộc tranh luận. Ðối với dư luận của người Mỹ, phần đông cho rằng ông chủ Nhà Trắng dường như không hiểu vấn đề là người dân Hoa Kỳ không ủng hộ cuộc chiến Iraq, cũng như họ đã từng không ủng hộ việc đưa quân tham chiến ở Việt Nam trước đây.

Hiện đang vận động cho cuộc chạy đua tranh chức Tổng Thống cho nhiệm kỳ tới, Thượng Nghị Sĩ Joe Biden của Ðảng Dân Chủ khi được hỏi nói rằng ông không hiểu Tổng Thống Bush muốn nói gì khi so sánh cuộc chiến Việt Nam cách đây đã hơn 30 năm và cuộc chiến Iraq đang diễn ra ngày một sôi nổi hơn, Thượng Nghị Sĩ Biden cho rằng Tổng Thống Bush không biết gì về chiến tranh Việt Nam cả, và đặt câu hỏi có phải ý ông Bush muốn nói là “đáng lý ra, người Mỹ phải ở lại Việt Nam” hay không?

Ông Stanley Karnow, một nhà sử học chuyên về Việt Nam đưa ra nhận xét cho rằng tâm trạng của người Mỹ đối với cuộc chiến Iraq chẳng khác gì tâm trạng mà họ đã dành cho cuộc chiến Việt Nam trước đây.

Ông Karnow nói thẳng “đại đa số người Mỹ bây giờ cho rằng can dự vào cuộc chiến Iraq là sai lầm, cũng như trước đây và ngay cả bây giờ, đại đa số người Mỹ tin can dự vào chiến tranh Việt Nam cũng là sai lầm, và con số người nghĩ rằng cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến có chính nghĩa thì chẳng có là bao”.

Vẫn còn nhiều khác biệt

Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng, một chuyên gia về quan hệ đối ngoại khi được hỏi cũng nói rằng phân tích việc ông Bush đem Việt Nam ra để so sánh với Iraq là điều không dễ làm.

“Phân tích thì rắc rối lắm, không phải là dễ. Ông Bush nói đúng. Có những người chết trong trại học tập cải tạo, có những người sau khi rời trại cải tạo mới chết, có người chết ngay, có người thật ra sống mà cũng như chết. Nhiều lắm. Cánh đồng chết mà ông Bush nói cũng là có thật.

Bây giờ đến Iraq. Nếu người Mỹ rút ra bây giờ, chắc chắn những người theo tôn giáo khác nhau, phe phái khác nhau họ sẽ giết nhau. Chắc chắn sẽ có người chết.
Nói về hậu quả về người chết thì mình thấy rõ, nhưng về hậu quả chiến lược thì chúng ta thấy rắc rối hơn. Ở Việt Nam, khi người Mỹ rút ra hồi 1973 thì quan trọng chiến lược của Việt Nam đối với Hoa Kỳ không còn nữa. Ngược lại tầm chiến lược của Iraq đối với người Mỹ rất là nhiều. Không chỉ rất nhiều mà nếu người Mỹ bỏ Iraq sẽ gây bất ổn cố ở nhiều nơi trong vùng Trung Ðông. Thành ra hệ quả về chiến lược còn nguy hiểm hơn việc rút khỏi Việt Nam.

Cuộc chiến Iraq đã khó, hậu quả thì trầm trọng như vậy, nhưng tiến thì Hoa Kỳ lại không tiến lên được. Ở Việt Nam, sau Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, quân đội Việt Nam đã chứng minh có khả năng tự chiến đấu với Bắc Việt nếu có sự giúp đỡ của người Mỹ. Ðiều này không xảy ra ở Iraq. Ở Việt Nam thời đó có một quân đội, một đạo quân của người quốc gia, ở Iraq bây giờ không có.

Ở Việt Nam người Mỹ chỉ đánh có một mặt trận là mặt trận Việt Cộng, còn ở đây người Mỹ chui vào giữa một cuộc nội chiến, ba bốn phe phái đánh nhau, thành ra rắc rối hơn Việt Nam nhiều.”

Một số nhà quan sát cho rằng chính việc Tổng Thống George W. Bush đem cuộc chiến Việt Nam và hậu quả khi rút khỏi Việt Nam ra để so sánh với Iraq đã tạo thành những bước mở đầu cho một đề tài lớn hơn nữa.

Trước đây, nhiều người Hoa Kỳ tin rằng Washington sa lầy ở một chiến trường cách xa nước Mỹ tới nửa vòng trái đất, và nếu kết quả những cuộc thăm dò dư luận tiếp tục cho thấy phần lớn người dân Mỹ vẫn tiếp tục đòi Tổng Thống Bush phải rút quân về nước, thì có lẽ chẳng bao lâu nữa, chữ “sa lầy” sẽ được nhắc đến khi người Mỹ nói về cuộc chiến mà sự ủng hộ của họ dành cho nó đang mất dần.

Nam Nguyên tường trình từ Washington.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

MỘT HÌNH THÁI VĂN HÓA VẬN TINH VI.
TRƯƠNG MINH HÒA.
vietnamexodus

Sau năm 1975, những thứ không thể lưu hành và phát triển tại các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại là:cờ đỏ sao vàng, đoàn văn công, đài phát thanh, báo thân Cộng.....dĩ nhiên là thành phần gián điệp nằm vùng, đón gió trở cờ cũng trở thành kẻ thù của những người bỏ nước tìm tự do; những thành phần nầy không bao giờ dám xuất đầu lộ diện, dù những hành vi của họ có khi làm lợi cho Cộng Sản, những miệng vẫn biện minh là người quốc gia, vẫn đứng dưới là quốc kỳ màu vàng.... Tuy nhiên, vải thưa không che mắt thánh, nên trong tập thể tỵ nạn có câu" ăn cơm tự do đội mo Cộng Sản" để dành cho họ. Cây kim dấu trong bọc vải lâu ngày cũng phải lòi ra.



Văn công được coi là mặt mạnh của đảng Cộng Sản trong mặt trận văn hóa vận, công khai xuất đầu lộ diện trong" trận địa chiến" chẳng khác nào các sư đoàn chánh qui Bắc Việt xâm nhập theo đường mòn Hồ Chí Minh, mở trận chiến tại lãnh thổ miền nam trước ngày 30 tháng 4 nam 1975; thì nay Văn Công xâm nhập theo" đường mòn ngoại giao" với các quốc gia có mặt người tỵ nạn, lợi dụng tình trạng bang giao các nước mà mở các trận tấn công vào các cộng đồng hải ngoại, và những người đứng ra tổ chức được coi là" lực lượng Giao Liên" nằm vùng, che dấu qua chiêu bài" thương mại, làm văn nghệ văn hóa phi chánh trị"... Tuy nhiên, nhờ có quá nhiều kinh nghiệm với Cộng Sản nên các đơn vị văn công đủ dạng" chánh qui, chủ lực" của Bắc Bộ Phủ tung ra như Múa Rối, ca nhạc, thời trang....dưới nhiều tên gọi hấp dẫn, nào là" Tình Ca Olympic 2000" đến" duyên dáng Việt Nam", có khi dùng cả những đầu cầu giao liên hải ngoại để lấy cớ tổ chức văn công như vụ Trịnh Hội và Nguyễn Cao kỳ Duyên vừa qua tại Úc Châu. Một điều cần lưu ý, đề cao cảnh giác và ít ai chú ý đế là hiện nay tại các cộng đồng người Việt Tự Do, có mặt của một lực lượng" DU KÍCH" được ghi nhận là" ĐAC CÔNG VĂN HÓA VẬN" rất nguy hiểm, đã và đang âm thầm xâm nhập vào các cộng đồng hải ngoại, chúng ngụy trang rất khéo léo với vỏ bọc quốc gia, tỵ nạn, và công khai hoạt động tinh vi tại vùng đất của người quốc gia, như nhân vật TÁM KHỎE, trong vở tuồng NGƯỜI VEN ĐÔ, do danh ca Út Trà Ôn thủ vai, với câu nói " tôi là Tám Khỏe, xin tuyên bố ly khai với Việt Cộng", nhưng thật ra Tám Khỏe là người một lòng thờ Bác, theo đảng, sẵn sàng làm tai mắt.

Tại hải ngoại, Việt Cộng không thể thực hiện những tờ báo theo khuôn khổ" định hướng theo xã hội chủ nghĩa" như các tờ Nhân Dân, Công An, Tuổi Trẻ, Thanh Niên.... tuy nhiên họ vẫn không từ bỏ mặt trận truyền thông" cực kỳ quan trọng" nầy, mà đảng có nhu cầu chiến lược cần thiết để đánh gục" kẻ thù gần cực kỳ nguy hiểm" ở khắp các quốc gia giàu mạnh nhất trên hành tinh nầy, nên họ luôn tìm cách tạo sự hiện diện qua hình thức truyền thông như sách báo, phát thanh, truyền hình.... Với sách lược cố hữu: bóp chết truyền thông trong nước, đồng thời tung ra tối đa công tác tuyên truyền hải ngoại ( nhằm đánh gục các cộng đồng, triệt hạ các lực lượng chống Cộng để gồm thu vào một mối hầu hốt hết tiền của những người bỏ nước ra đi). Trong nước đảng Cộng Sản sử dụng bức tường lửa để ngăn chận các nguồn thông tin cổ xúy tự do, dân chủ từ thế giới vào; và đồng thời mở rộng tuyên truyền tối đa ra nước ngoài. Dù dân chúng đang khốn khổ, nhưng đảng Cộng Sản dành ngân khoản dồi dào cho công tác nầy: mở các mạng thông tin trên internet, thiết lập hệ thống vệ tinh, truyền hình tốn kém.....Tuyên truyền là vũ khí lợi hại, trấn đảng, nên họ luôn tìm mọi cách phát huy.


Cộng đồng người Việt Tự Do ở nước Úc đã từng đánh bật tên" xung kích đặc công lợi hại" là T.V 4 của đài truyền hình S.B.S, là một thắng lợi lớn. Sau nghị quyết 36, hiện tượng đáng lưu ý, đề cao cảnh giác là sự xuất hiện của các tờ báo có lập trường" nửa nạc nửa mở", họ cũng đăng những bài chống Cộng như nhẹ nhàng, đầy khoang nhượng, mà có người cho đó là" chống Cộng tế nhị". Nhìn sơ, lầm tưởng đó là báo quốc gia, qua các bài báo đăng chuyện tham nhũng của quan chức nhà nước, chuyện cửa quyền, độc tài của đảng ( ai cũng biết chuyện nầy, không cần nói nhiều). Nhưng những bài báo chống Cộng mạnh, hay lột mặt tên quốc tặc Hồ Chí Minh, vạch trần sự tàn độc của đảng Cộng Sản, sự lạc hậu phi nhân của chủ nghĩa Marx Lenin.....thì không được các tờ báo nầy lựa để đăng, dù trên hệ thống internet có rất nhiều bài viết. Bên cạnh những bài báo theo kiểu" lập lờ đánh lận con đen" đa số cổ động" ý đồ" hòa hợp hòa giải" của đảng để ra qua các cái loa" tập hợp dân chủ đa nguyên giả hiệu", cổ động về nước làm ăn với đảng qua sự đánh động tình yêu quê hương" cây đa bến cũ, quê hương là chùm khế ngọt"...hay các bài báo vô thưởng vô phạt, hoặc là những bài báo" trích đăng" từ các báo trong nước do đảng CS chủ trương, hay hình thức" đọc báo trong nước"...cổ động từ thiện, góp tiền xây dựng" dùm" cho đảng những cây cầu, làm lại con lộ đá, xây trường, sửa chùa, trùng tù nhà thờ....... Đây là một mưu đồ vô cùng nguy hiểm, dùng hình thức tuyên truyền tiệm tiến" tầm ăn dâu" đầu độc dần dần đối tượng" bọn phản động nước ngoài" bằng báo chí, hình ảnh.... tạo sự HIỆN DIỆN THƯỜNG TRỰC của đảng ở ngay trong hậu phương của người Việt tỵ nạn, có tác dụng ảnh hưởng đến những thế hệ kế tiếp...giống như văn công hát mà không có ai chống, dần dần dân chúng quen đi, rồi đảng sẽ ra tay bước chiến lược kế tiếp là hát những bài ca đảng, ca Hồ nhẹ nhàng, đánh động tình cảm quê hương....và cuối cùng lập hộ khẩu ở hải ngoại" gom tất cả vào một mối: từ trong nước đến hải ngoại, thì biết bao giờ lấy lại quê hương", dể nhận ra là các thứ quảng cáo cho các thương nghiệp từ trong nước, như quảng cáo cho Vietnam Airline, các loại thức ăn ( mì ăn liền, phở..)....một điều đáng quan tâm là những tờ báo nầy rất ư là" tâm đắc" quảng bá những sự tranh chấp của các hội đoàn, cộng đồng, khai thác những mâu thuẫn cá nhân lãnh đạo như: lợi dụng diễn đàn độc giả để đăng những bài báo của du học sinh, những bài đòi bỏ hai chữ" tự do" trong danh xưng" Cộng đồng"; kích động gây hận thù, chia rẻ, là sách lược văn công tinh vi trong" đấu tranh giai cấp" mà đảng đả áp dụng từ năm 1930 đến nay. Sau nghị quyết 36, một số tờ báo dạng nầy xuất hiện một cách bất thường, họ ra sức cạnh tranh ráo riết trong việc lấy quảng cáo rẻ mạt nhằm triệt hạ tài chánh của các tờ báo chốmg Cộng có từ trước, có khi họ dùng cả thủ đoạn mua chuộc vài thành phần có máu mặt, khoa bảng ( bác sĩ, tiến sĩ, kỷ sư, tu sĩ...hay các giới chức cũ miền Nam) để tạo uy thế, chỗ dựa vững chắc. Nên nhớ là các tờ báo như vậy thường dùng chiêu bài" PHI CHÁNH TRỊ" để đánh lừa những người, thương nghiệp có quan hệ đến nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; họ hay khoác chiếc áo" thương mại" để thu phục quảng cáo, người đọc. Nên nhớ là những tờ báo như thế rất nguy hiểm, khó phân biệt " chân-giả" và họ có tài chánh ( nghi ngờ là do đảng tài trợ?) nên sống vững, dù tiền quảng cáo hạ rẻ mạt. Họ lợi dụng sinh hoạt dân chủ mà trà trộn vào các tổ chức cộng đồng, chính trị với nhản hiệu" nhà báo, ký giả" đại diện cho tờ bào nầy, tuần báo nọ, nguyệt san kia.... để chụp hình các nhân vật chống Cộng, những người tham dự...có thể đây là" những tài liệu vô cùng quí giá của Cục Tình Báo Hải Ngoại" đang cần..do đó các tổ chức cộng đồng nên lưu ý những" loại ký giả" của các tờ báo đáng nghi ngờ nầy, trong tinh thần để cao cảnh giác. Cộng Sản Việt Nam có mặt yếu là không gầy dựng được cơ sở truyền thông hải ngoại, họ nhắm vào đài phát thanh và các tờ báo. Do đó đảng sẵn sàng tung ra số tiền lớn để" đầu tư truyền thông", có thể làm ra các tờ báo mới, hay dùng tiền mua các tờ báo cũ, mua chuộc người làm trong các đài phát thanh, truyền hình....


Đây là vấn đề nguy hiểm cho tập thể người Việt hải ngoại, do đó tất cả mọi người hảy sáng suốt, nhận ra cơ quan truyền thông nào là quốc gia, cơ quan nào là" cánh tay lông lá nối dài của đảng và nhà nước". Đảng Cộng Sản thật gian manh, ngay cả tôn giáo chúng còn xâm nhập dễ dàng, hay trước 1975, cụm tình báo chiến lược A 22 của Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Ngọc Nhạ còn nằm được trong phủ tổng thống. Nên những cơ quan truyền thông có lập trường chưa xác định, hành vi ,mờ ám, thành phần ban biên tập mơ hồ, đang những bài báo cổ động cho đảng và nhà nước một cách khéo léo, cổ động ngầm chiêu bài hòa hợp hòa giải, quảng cáo cho các thương nghiệp trong nước....thì nên cảnh giác; nhất là những người làm thương nghiệp gốc tỵ nạn, từng là nạn nhân của Cộng Sản, hảy nên" chọn báo gởi hàng", bằng không là vô tình tiếp tay cho những kẻ đã từng đánh tư sản nhà mình, bắt người thân vào tù cải tạo. Như vậy, có người tỏ ra bi quan cho là: như vậy Việt Cộng quá hay? Nhưng không phải vậy, Việt Cộng không tài giỏi gì như họ lếu là" chiến thắng thần thánh, đánh cho Mỹ Cút, Ngụy nhào..." và có người đánh giá cao, nếu họ không tàn ác và thủ đoạn gian manh, lật lọng. Có người cho là Việt Cộng không hay sao dụ được các giới có học? Cũng không phải vậy, chẳng những Việt Cộng dụ được những" sĩ, sư" làm tay sai là vì những người đó QUÁ DỠ thôi, chớ người bình dân cũng biết rõ Việt Cộng../.
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Bao giờ Đế quốc Mỹ suy tàn?

Ngô Nhân Dụng

Tổng Thống Bush phải liên tiếp phân trần với dân chúng rằng việc bỏ chạy khỏi Iraq sẽ gây ra những đại họa. Ông John Warner, một nghị sĩ Cộng Hòa có uy tín nhất về các vấn đề quân sự thì lên tiếng yêu cầu tổng thống Mỹ cuối năm nay hãy bắt đầu rút quân. Nhưng có người lại nói rằng Iraq là chuyện nhỏ! Ông David Walker so sánh, mỗi năm chính phủ Mỹ chỉ tiêu pha chừng 100 tỷ Mỹ kim ở Iraq, mà trong năm 2006 ngân sách chính phủ Mỹ thiếu hụt lên tới 434 tỷ, gấp 4 lần chiến phí Iraq. Thiếu hơn 400 tỷ cũng là chuyện nhỏ nữa. Vì ông Walker tính, tới cuối năm 2006 chính phủ Mỹ đang phải lo thiếu nợ 50,000 tỷ Mỹ kim, nợ người ngoài cũng như phải trả cho dân Mỹ! Chia cho đầu người, mỗi người dân Mỹ nợ khoảng 170,000 đô la - đủ tiền mua một căn nhà rồi (nếu không mua ở California)!

Những con số ông Walker nêu ra có sức nặng thuyết phục, vì ông đang là kế toán viên trưởng cho cả nước Mỹ, với chức tổng thanh tra, đứng đầu Cơ Quan Ngân Sách Chính Phủ (GAO), một tổ chức độc lập có nhiệm vụ giữ sổ sách tiền bạc nhà nước. Với nhiệm kỳ 15 năm, trước khi sắp rời khỏi chức vụ tổng thanh tra ông Walker đã góp ý kiến với Quốc Hội Mỹ và các ứng cử viên tổng thống tương lai. Những lời cảnh báo của ông được chú ý, vì ông nêu câu chuyện ngân sách nước Mỹ trong một bối cảnh rộng lớn hơn nhiều. Ông báo động rằng nước Cộng Hòa Bắc Mỹ có thể sẽ lâm vào cảnh suy tàn của Cộng Hòa La Mã, trước đây 2,000 năm. Trong một lần thuyết trình trước công chúng gần đây, David Walker nói, “...Có rất nhiều điểm tương đồng giữa tình trạng nước Mỹ ngày nay và tình trạng một đại cường quốc thời xưa: La Mã. Ðế Quốc La Mã kéo dài 1,000 năm, nhưng chỉ có một nửa thời gian đó sống trong thể chế cộng hòa. Cộng Hòa La Mã sụp đổ do nhiều nguyên nhân, nhưng có ba nguyên nhân đáng nhớ: suy sụp trong các giá trị tinh thần và tinh thần công dân trong chính trị; quá tự tin và bành chướng quá rộng về mặt quân sự ra các lãnh thổ bên ngoài; còn chính quyền trung ương thì vô trách nhiệm về ngân sách.”

Bất cứ quốc gia nào, khi được đem ví với Ðế Quốc La Mã, tất phải tự lấy làm hãnh diện. Dù được đem ví với một đế quốc vào lúc suy tàn chăng nữa. Nước Mỹ quả đang gặp nhiều vấn đề giống như nền Cộng Hòa ở La Mã vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Nước Mỹ đang phải lo giải quyết sớm những vấn đề linh tinh như: hệ thống y tế và sức khỏe; làm sao bớt tùy thuộc vào xăng dầu nhập cảng; bảo vệ môi trường; ngăn bớt di dân nhập cảnh lậu; rồi sau vụ sập cầu ở Minneapolis và sập hầm mỏ ở Utah gần đây, cả nước thức tỉnh về hệ thống đường, cầu, cống rãnh, phi trường đã quá cũ kỹ (năm 2005, Hiệp Hội Kỹ Sư Công Chánh Hoa Kỳ báo động một phần tư các cây cầu ở Mỹ đã tới tuổi phải làm lại. Tính ra con số là 150,000 cây cầu). Nhưng ba vấn đề chính mà Walker nêu lên trên đây là những mối lo lâu dài và căn bản.

Ông Walker cho rằng vấn đề đáng lo nhất là tinh thần. Khuynh hướng vị kỷ càng ngày càng tăng lên, tinh thần cộng đồng giảm. Các nhà chính trị thì tinh thần bè phái cao quá cho nên không thỏa hiệp được để hợp lực giải quyết những vấn đề chứa nhiều xung khắc. Ông nói, “Chúng ta cần lãnh đạo. Một đường lối lãnh đạo để thay đổi sâu và lâu dài phải có tính cách liên đảng và được đại đa số dân chúng ủng hộ.” Theo ông thì không khí chính trị ở Mỹ hiện nay chưa chuẩn bị cho những thay đổi lớn, vì tinh thần vị kỷ và phe đảng. Chế độ Cộng Hòa ở La Mã trước khi cáo chung cũng diễn ra cảnh những tranh chấp chính trị phe đảng làm mọi người quên lợi ích chung của quốc gia. Năm 49 trước Công nguyên, Julius Cesar đang cầm quân chinh phục xứ Gaul thấy cảnh chế độ Cộng Hòa đang tự hủy, quyết định “vượt qua sông Rubicon” trở về nắm lấy quyền hành, bắt đầu giai đoạn “người hùng” để cho các hoàng đế La Mã sau này kế vị. Trong 5 năm cầm quyền Cesar đã tái lập chế độ thượng tôn pháp luật, cải tồ guồng máy cai trị hữu hiệu và phục vụ các công dân La Mã, và mở rộng con số “công dân” có quyền bầu phiếu để thâu nhận nhiều người khắp các tỉnh chung quanh. Sau này Ðế Quốc La Mã đã đem hệ thống pháp luật và hành chánh đó xuất cảng sang các vùng đất chung quanh, để lại dấu vết văn minh cho tới bây giờ. Nước Mỹ hiện nay đang gặp các vấn đề chính trị tương tự như Thượng Viện La Mã hồi trước Cesar, nhưng không ai có thể đóng vai một Cesar để xóa bỏ nền Cộng Hòa nước này.

Vấn đề thứ hai mà David Walker nêu lên là tình trạng phân tản lực lượng quá mỏng khiến không còn nuôi dưỡng được, nhất là sức mạnh quân sự, một hiện tượng đã làm nhiều đế quốc tan rã, từ nhà Tần bên Trung Quốc, đến Ðế Quốc Ottoman Hồi Giáo, và cả Liên Xô gần đây. Hiện nay quân đội Mỹ mạnh nhất thế giới, mà ngân sách quốc phòng Mỹ lớn hơn tổng số các nước lớn khác cộng lại. Nhưng người Mỹ đang tự hỏi quyết định đem quân tấn công Iraq của Tổng Thống George W. Bush có khôn ngoan hay không. Cuộc tranh luận về chuyện rút hay không rút khỏi Iraq chứng tỏ sức mạnh quân sự của nước Mỹ cũng đang bị trải ra quá mỏng.

Nhưng cả hai vấn đề nêu trên không thuộc phạm vi chuyên môn của ông David Walker. Ông là người giữ sổ sách kế toán cho cả nước Mỹ, cho nên những điều ông nói về ngân sách sẽ làm mọi chính trị gia Mỹ phải lắng nghe.

Cuối năm 2004, Walker đã cảnh cáo chính phủ Mỹ về số “nợ” của cả quốc gia. Lúc đó chính phủ liên bang đang mang nợ hơn 7 ngàn tỷ Mỹ kim. Dân chúng nợ 4.3 ngàn tỷ, gồm nợ của các xí nghiệp và của các cá nhân. Tổng số nợ lớn bằng hai phần ba trị giá số sản phẩm và dịch vụ mà cả nước làm ra trong một năm. Ông Walker tính bình quân mỗi người dân Mỹ mang nợ 25,000 đô la. Nhưng các món chi tiêu bắt buộc khác, có áp lực như phải trả nợ, còn lớn hơn nữa. Ðặc biệt là các chi tiêu cho những người về hưu, ngày càng lên cao. Chính phủ Mỹ có thể nhấn mạnh tới những lời hứa của nước Mỹ đối với dân Iraq khi đến đó lật đổ chế độ Hussein vào năm 2003; nhưng các chính phủ Mỹ từ hơn nửa thế kỷ qua đã hứa sẽ trả tiền hưu bổng và lo sức khỏe cho người già. Lời hứa nào quan trọng hơn? Nửa thế kỷ trước, cứ một người về hưu thì có 16 người đang làm việc để nuôi. Năm 2004, chỉ còn 3 người. Mai mốt sẽ chỉ còn hai người làm nuôi một người nghỉ hưu!

Sang năm 2008 lớp người sinh sau Ðại Chiến Thứ Hai bắt đầu về hưu, và họ rất đông. Tính trị giá hiện tại của những món tiền chi về y tế và hưu bổng cho người già đó, cộng với số nợ của cả quốc gia, coi như cả nước Mỹ đang mắc nợ 50 ngàn tỷ Mỹ kim!

Bản báo cáo của ông Walker không gây được tiếng động lớn như các vụ bom nổ ở Baghdad. Nhưng đó là những lời báo động mà dân Mỹ sẽ dân dần thấy thấm thía, sẽ đến lúc các nhà chính trị Mỹ sẽ phải đối diện với những câu hỏi khó khăn.

Nhưng bao giờ thì “Ðế Quốc Mỹ” suy tàn, như Ðế Quốc La Mã?

Chính ông David Walker phải minh xác: “Xin đừng hiểu lầm thông điệp của tôi. Ðúng là nước Mỹ sắp phải quyết định những chọn lựa khó khăn về nhiều vấn đề. Nhưng tôi tin rằng dân tộc Hoa Kỳ sẽ đứng lên đối diện được với các thử thách đó.” Ông Walker không phải là người bi quan.

Một điều khiến chúng ta chia sẻ được niềm lạc quan của ông Walker là xã hội nước Mỹ đủ cởi mở để những tiếng kêu báo động được cất lên và được lắng nghe. Xã hội Cộng Hòa La Mã tuy có diễn đàn trong Thượng Viện để các nghị sĩ cãi nhau, nhưng đại đa số người dân không có quyền bỏ phiếu. La Mã không có một nền báo chí tự do mà cũng không có mạng lưới Internet để mọi người trao đổi thông tin nhanh chóng, như dân Mỹ bây giờ. Ngày xưa La Mã không thể tồn tại được nếu không có các nước thuộc địa cung cấp của cải và nhân lực. Ngày nay nhiều nhà chính trị Mỹ vẫn còn muốn nước Mỹ thu tay, rút chân về, giảm bớt các liên hệ với thế giới bên ngoài. Chắc không chính phủ Mỹ nào sẽ theo chính sách đó; nhưng điều đó cho thấy nước Mỹ không tùy thuộc thế giới bên ngoài như La Mã ngày xưa. Sở dĩ nước Mỹ nợ như Chúa Chổm là vì các nước bán dầu lửa cho Mỹ thấy không đem tiền đầu tư ở đâu lời bằng ở Mỹ. Chính phủ Trung Quốc ép dân tiết kiệm tối đa, nhưng tiền dành dụm được cũng đem cho nước Mỹ vay!

Một khác biệt quan trọng nữa là tuy chính phủ Mỹ lâu lâu hành động như là đế quốc, đa số dân chúng Mỹ, những người quyết định sau cùng, không bao giờ nuôi tham vọng đế quốc. Một cuộc tham khảo ý kiến dư luận của công ty Pew Research cách đây bốn năm cho biết 80% dân Mỹ muốn các nước Âu Châu phải đảm nhiệm vai trò quan trọng hơn trên trường chính trị quốc tế. Trong lúc đó chỉ có 60% dân Âu Châu muốn nước Mỹ đóng vai sen đầm như vậy! Cuộc nghiên cứu đó diễn ra trước khi Tổng Thống Bush ra lệnh tấn công Iraq. Bây giờ, sau kinh nghiệm Iraq, chắc dân Mỹ còn chán cảnh đóng vai đế quốc hơn nữa!
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

ÐÃ ÐẾN LÚC PHẢI CHẤM DỨT “MỤC VỤ XIN TIỀN”
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

Vấn ðề các vị Hồng Y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ trong nýớc ra hải ngoại xin tiền từ nhiều nãm qua, ðã ðến lúc phải ðýợc ðýa ra thảo luận và phân tích một cách công khai. Nhất là gần ðây, nhiều việc ðáng tiếc ðã xảy ra trong các tiệc gây quỹ của một số Giám mục.

Vào thời ðiểm cận ngày Quốc Hận 30 tháng Tý 2007, trýờng hợp Giám mục Nguyễn Vãn Hoà - Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam cùng một vài vị Giám Mục sang viếng thãm Hoa Kỳ, trong một buổi tiệc mừng gây quỹ ðã bị một số giáo dân tại Quận Cam xuống ðýờng biểu tình phản ðối. Cách nay vài ngày, một bức thý ngỏ của Ông Lý Vãn Hợp gởi Ðức Cha Mai Thanh Lýõng và Cha Mai Khải Hoàn ðýợc công bố trên diễn ðàn ðiện tử, kể lại ông tới tham dự bữa tiệc tại nhà hàng Seafood World ở thành phố Westminster Nam California vào ngày 19 tháng 8: “Các giáo dân ðến tham dự với mục ðích nghe nghe Ðức Cha Tri nói chuyện và quyên góp tiền bạc ðể gây quỹ”. Trong thý ngỏ ðó, ông Hợp có than phiền rằng khi ông lên cầm micro xin hỏi vị Giám mục chủ tọa:“Xin Ðức cha cho biết, VN có tự do tôn giáo không?” thì bị một số ngýời la ó, giật micro và:“Ngýời xiết tay, kẻ xốc nách, xô ðẩy và lôi ra khỏi nhà hàng”. Tôi chỉ nêu lên trýờng hợp Ðức Cha Châu Ngọc Tri với sự dè dặt thýờng lệ và trích dẫn một vài câu trong Thý Ngỏ của Ông Lý Vãn Hợp mà không có lời bình luận nào, vì tôi chýa biết hết sự thật và bối cảnh xảy ra câu chuyện. Tuy nhiên, tôi coi ðây là một việc ðáng tiếc.

Nếu hai sự kiện trên chýa ðủ mạnh ðể phải ðặt lại vấn ðề “mục vụ xin tiền”, có lẽ tôi phải nhắc tới bản tin mới ðây từ VietCatholic ðãng tải:“LM Phanxicô Xaviê Nguyễn Ðức Quỳnh dùng giấy giới thiệu giả mạo ðang quyên tiền tại Hoa Kỳ”. Bản tin cho biết ðýõng sự nói là xin tiền ðể “Xây một một trung tâm cho các linh mục tàn tật ở Việt Nam.” Bản thân LM Quỳnh cũng bị tàn tật, ngồi xe lãn ði xin tiền nên càng ðýợc nhiều ngýời thýõng. Cũng may là hành vi bất chính ðó bị phát hiện sớm và LM Quỳnh ðã phải hoàn lại số tiền $ 6,000 mỹ kim ... chờ Bề trên quyết ðịnh.

Giọt Nýớc Làm Tràn Ly

Trong bài viết này, tôi không có ý ði sâu vào chi tiết các sự việc nói trên, nhýng tôi coi những sự việc ðó nhý là một giọt nýớc cuối cùng, làm tràn ly nýớc vốn ðã ðầy trong lòng tôi, trýớc cảnh hỗn loạn của ðạo quân nhiều màu sắc trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ trong nýớc ra quyên tiền ðồng bào Hải ngoại. Thậm chí có ngýời ðã bày trò giả mạo, lýờng gạt ðể kiếm ãn.

Thật vậy, hiện týợng các chức sắc các cấp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ra hải ngoại xin tiền từ lâu nay, ðã trở thành một ðề tài ðàm tiếu cho nhiều ngýời nhiều giới. Dù vậy, phần ðông chỉ than phiền và ðề cập tới những ðiều chýớng tai gai mắt hoặc nói cho qua chuyện rồi lãng quên. Thậm chí nhý việc giáo dân Quận Cam xuống ðýờng biểu tình mang theo biểu ngữ, bắt loa kêu gọi ầm ĩ phản ðối Giám mục Nguyễn Chí Linh thuộc Giáo Phận Thanh Hóa tại bữa tiệc gây quỹ, ðã làm dý luận chú ý một thời gian, rồi mọi việc lại chìm vào quên lãng.

Có thể nói, vấn ðề này nhý một thứ ung nhọt gây ra nhức nhối trong thân thể Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ðã mang ðến không biết bao nhiêu lời bàn ra tán vào. Tuy nhiên, ðể giải quyết vấn ðề, có nhiều ngýời ðã dùng cách xoa dầu cao lên nó, có ngýời ðã dùng thuốc dán ðể chặn không cho nó xì mủ ra. Các cách chữa trị ðó chỉ có tác dụng làm giảm ðau nhýng không thể chặn ðứng ðýợc sự phát triển của khối ung nhọt. Chýa thấy một ngýời nào ðýa vấn ðề này ra phân tách, tìm hiểu một cách công khai và ðýa ra lời kết luận hợp tình hợp lý cho sự việc. Có ngýời nghĩ rằng, vấn ðề này rất tế nhị, nếu nói lên sẽ bị ðụng chạm và bị kết án là chống phá Giáo Hội xét vì mục ðích việc xin tiền rất cao cả, nào là xây sửa nhà thờ, làm quỹ hýu dýỡng cho các cha già, giúp trẻ em mồ côi...Và gần ðây nhất là vị LM tàn tật Phanxicô Xaviê Nguyễn Ðức Quỳnh quyên tiền có mục ðích xây một “Trung tâm cho các linh mục tàn tật ở Việt Nam”. Có ai dám lên tiếng phản ðối việc “mục vụ xin tiền” cho các mục ðích quá sức thánh thiện nhý thế, nếu không khéo bị cho là “kẻ chống phá Giáo Hội”?

Có ngýời cảm thấy việc xin tiền này không ổn, nhýng ngại không dám ðặt vấn ðề vì thấy chiến dịch “mục vụ xin tiền” quá quy mô, có sự góp mặt rất tích cực của Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Tu sĩ, nói chung là “bộ phận ðầu não” của Giáo hội Công Giáo Việt Nam hiện nay ðang tham gia vào chiến dịch này. Ai dám lên tiếng? Ngýời Công giáo Việt Nam thýờng có câu nói: “Chống Cha là chống Chúa”. Nhý vậy, nếu có một ngýời nào dám nói hoặc viết ðiều gì ðụng chạm tới Hồng Y, Giám mục thì sẽ bị mang tội nặng ðến mức nào, chắc chắn bị cho là “kẻ phá ðạo” và ...xuống hỏa ngục ðời ðời!

Bài Học Lịch Sử

Quan niệm ðó ðã làm tê liệt ý chí của ngýời Công giáo, dung dýỡng cho bao nhiêu thứ sai lầm và tội lỗi xảy ra trong Giáo hội. Tôi nghĩ là còn lâu lắm ngýời Công giáo Việt Nam mới học ðýợc bài học về Tổng Giám Mục Stanislaw Wielgus ở Ba Lan. Trong quá khứ, vị Tổng Giám mục này có thành tích làm tay sai cho mật vụ Cộng sản Ba Lan, ðã chỉ ðiểm và báo cáo hãm hại nhiều giáo sĩ chống Cộng sản. Dân chúng biết nhýng không ai dám phản ðối vì sợ bị tội “Chống Cha là chống Chúa”, cho ðến lúc Tổng Giám mục Wielgus ðýợc Giáo Hoàng Bênêðictô XVI nâng lên chức vụ cao trọng nhất của Giáo Hội Ba Lan, là chức vụ Tổng Giám Mục Warsaw. Sự bổ nhiệm này ðã gấy ra làn sóng chống ðối mạnh mẽ trong những ngýời biết chuyện, nhýng Giáo Hoàng vẫn giữ nguyên quyết ðịnh của mình.

Trời bất dung gian! Ngay trong ngày lễ nhậm chức rất long trọng tại nhà thờ Chánh Toà Warsaw vào ngày 7 tháng Giêng, 2007, bên ngoài nhà thờ có số ðông biểu tình phản ðối ầm ĩ. Chỉ một gìờ trýớc khi nhậm chức, ngýời ta ðã trýng ra bằng chứng cụ thể với lá thõ Tổng Giám mục Wielgus ðã ký tên tình nguyện làm ðiềm chỉ viên cho mật vụ Cộng sản Ba Lan, tiếng bình dân gọi vai trò này là “chó sãn”. Do vậy, Wielgus ðã phải cúi ðầu khóc lóc một cách nhục nhã giữa nhà thờ trýớc mặt các chức sắc cao cấp nhất của ðạo và ðời hiện diện trong buổi lễ nhậm chức, kể cả Tổng thống Ba Lan, và dĩ nhiên là trýớc các ống kính truyền hình phát ði trên toàn thế giới. Một phút trýớc ðó, Tổng Giám mục Wielgus ðã chuẩn bị býớc lên ðài vinh quang nhý là vị Thiên Thần ðại diện Thiên Chúa. Nhýng một phút sau ðó, thì con ngýời mang tên Wielgus trong bộ phẩm phục Tổng Giám Mục, býớc xuống trong nhục nhã và hiện nguyên hình là một tên “chó sãn” của mật vụ Cộng sản Ba Lan! Tôi có viết một bài về sự kiện này vào ngày 10 tháng Giêng 2007. Hôm nay, tôi muốn nhắc lại ðể kết luận rằng, dù Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám mục, Linh mục hay Tu sĩ, họ cũng chỉ là những con ngýời, mà ðã là con ngýời thì ai cũng có thể sai lầm ðýợc.

Xác Ðịnh Tên Gọi

Nói nhý thế không có nghĩa bao gồm tất cả mọi chức sắc của Giáo hội Công giáo Việt Nam ðýợc phép ra nýớc ngoài ðều là ði xin tiền, nhýng có một số chỉ vì nhằm mục ðích này. Ngýời ta tìm cách thay thế việc xin tiền bằng lối nói vãn hoa dễ nghe hõn nhý: kêu gọi ðóng góp, vận ðộng tài chánh. Về sau này, tôi rất ngạc nhiên khi thấy việc ra nýớc ngoài xin tiền ðã ðýợc nâng cấp với hai chữ “mục vụ” ði kèm theo, tôi thấy hai chữ mục vụ dùng ở ðây là không ổn.

Dù sao tôi cũng là một linh mục, tôi hiểu ý nghĩa của hai chữ “mục vụ”. Nói một cách dễ hiểu, mục vụ là việc các vị chủ chãn thãm viếng và chãm sóc ðoàn chiên, nhất là những con chiên ốm ðau, bệnh tật và túng nghèo, lo lắng giúp ðỡ cho họ, nhất là về mặt tinh thần. Hồi còn nhỏ tôi làm “mục ðồng” tức là thằng bé chãn trâu, vì gia ðình tôi làm nghề nông. Trong vai trò mục ðồng tôi chãn giữ ðàn trâu 7 con của gia ðình, ban ngày tôi lùa trâu cho ãn nõi có nhiều cỏ, buổi chiều tôi tắm rửa kỳ cọ cho ðàn trâu trýớc khi lùa vào chuồng. Khi lớn lên làm linh mục, thi hành mục vụ trong phạm vi ðýợc giao phó, thãm viếng, an ủi giúp ðỡ giáo dân về mặt tinh thần và cố gắng giúp họ những gì tôi có thể làm ðýợc trong vai trò một linh mục. Trong 37 nãm của ðời Linh mục, tôi cảm thấy ðýợc an ủi rất nhiều trong công tác mục vụ, ý nghĩa nhất là trong thời gian dài tôi làm mục vụ trong nhà tù Cộng sản. Hiểu nhý vậy, nên tôi không yên tâm khi các vị chủ chãn trong nýớc ra hải ngoại xin tiền lại kèm theo hai chữ “mục vụ”. Ðây là trýờng hợp lạm dụng danh từ.

Trong thực tế, Cộng ðồng giáo dân Việt Nam Hải ngoại có cần các vị chủ chãn trong nýớc lặn lội ra hải ngoại ðể “mục vụ” cho họ hay không? Và nếu cần thì cần ðến mức ðộ nào? Và khi ra ngoài này làm mục vụ thì thực sự “công tác mục vụ” ðó là gì? Ðiều tôi thấy không ổn khi nói “mục vụ hải ngoại” là mỗi sau chuyến ði “mục vụ” ngắn hạn, các vị chủ chãn lại về nýớc mang theo một vò...sữa chiên! Và vò sữa chiên này ðầy hay või là tùy thuộc vào ðẳng cấp và chức vụ mà vị chủ chãn làm công tác “mục vụ” hải ngoại ðang nắm giữ trong nýớc.

Có lúc tôi suy nghĩ vẩn võ và tự hỏi không biết các vị “chủ chãn” từ trong nýớc ra “mục vụ’ ðàn chiên Hải ngoại, thực sự có phải vì các ngài thýõng yêu ðàn chiên “bõ võ không ngýời chãn dắt” hay vì các ngài thýõng cái bầu sữa cãng ðầy của ðàn chiên, nhất là ðàn chiên béo tốt sống tại Mỹ ? Nếu tôi có hiểu sai thì xin Chúa tha tội cho tôi, có nhiều bằng chứng cho tôi biết các vị chủ chãn trong nýớc ra “mục vụ” Hải ngoại là nhắm vào “bầu sữa chiên” hõn là chính con chiên.

Thân Phận Ðồng Bào Tị Nạn Cộng Sản

Ðiều này khiến tôi cảm thấy xót xa cho số phận ngýời Việt Nam tị nạn Cộng sản. Sau ngày 30 tháng Tý 1975 họ ðã liều chết trốn chạy chế ðộ Cộng sản bạo tàn, họ phải bỏ nýớc ra ði và không biết bao nhiêu ngýời ðã phải chết trên ðýờng výợt biên. Bao nhiêu ngýời bị bắt lại, ðã chịu tù ðày, ðánh ðập và có nhiều ngýời ðã bỏ mạng trong tù vì výợt biên không thành. Số ngýời may mắn còn sống sót trong ðó có bao nhiêu phụ nữa ðã bị hải tặc hãm hiếp trên býớc ðýờng trốn chạy chế ðộ cộng sản. Khi tìm ðến ðýợc bến bờ tự do, ðồng bào tị nạn vẫn còn nghe vãng vẵng bên tai câu nói của tên Thủ týớng Việt cộng Phạm Vãn Ðồng: ðàn ông là hạng ma cô, ðàn bà là hạng ðĩ ðiếm...bọn ðó phải ra ði cho sạch ðất nýớc...

Nhýng rồi mấy chục nãm sau, khi ngýời Việt tị nạn làm ãn phát ðạt và chế ðộ Việt cộng cần ðô-la thì con cháu của Phạm Vãn Ðồng ðã trở giọng và âu yếm gọi họ là “khúc ruột xa quê hýõng ngàn dặm!”. Mới ðây chế ðộ Việt cộng còn ra Nghị quyết 36 với lời lẽ ðầy yêu thýõng và mời gọi ðối với Cộng ðồng ngýời Việt Hải ngoại. Thực tế, thì chế ðộ bất nhân ðó thýõng ðồng bào Hải ngoại hay thýõng cái túi tiền của họ, tôi chắc là ngýời mù cũng nhìn thấy ðýợc.

Viết tới ðây, tôi thấy thýõng cho thân phận ngýời Công giáo tị nạn Cộng sản. Có lần ðọc tin trên Net tôi giật mình khi thấy trong một bài týờng thuật của một ngýời tên là Sr Minh Nguyên, viết về chuyến ði Nhật Bản của Hồng Y Phạm Minh Mẫn có linh mục Huỳnh Công Minh, Linh mục Trýõng Kim Hýõng tháp tùng, trong ðó có ðoạn nhắc lại Hồng Y Phạm Minh Mẫn gọi những ngýời Công giáo Hải ngoại là “tha phýõng cầu thực”. Thấy câu này chýớng tai quá, tôi ðã email hỏi vị Hồng Y xem thực sự Ngài có nói câu ðó hay không. Hồng Y Phạm Minh Mẫn hồi âm, không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi nhýng bằng một email khá dài và ðầy vãn hoa. Cuối cùng tôi cũng hiểu ðýợc ý của Ngài qua câu “tôi không có thói quen dùng cách nói nhý vậy”. Tôi ðã email lại và nói rằng nếu Ngài không có nói câu ðó thì xin Ngài cải chính vì tôi e rằng câu ðó làm tổn thýõng cho nhiều ngýời và có thể có hậu quả không hay, nhýng vị Hồng Y không trả lời tôi.

Câu chuyện “Tha phýõng cầu thực” ðã qua ði và tôi tin là Hồng Y Phạm Minh Mẫn không nói câu ðó, nhýng tác giả bài týờng thuật ðã ðặt câu nói ðó vào miệng của Ngài, và ðiều ngộ nhận ðó ðã làm buồn lòng một số ngýời Công giáo tị nạn Cộng sản tại hải ngoại. Tôi ðọc ðýợc tâm trạng này và xin vị Hồng Y ðính chánh ðể an ủi những ngýời Công giáo Hải ngoại, là những ngýời ðã ðóng góp rất tích cực khi Ngài ra Hải ngoại xin tiền, vì họ vẫn nghĩ là Ngài ðã dùng câu nói “tha phýõng cầu thực” ðối với họ, nhýng Hồng Y Phạm Minh Mẫn ðã không làm. Ðiều này khiến tôi thấy thýõng cho thân phận “những con bò sữa” hải ngoại.

Nguyên Nhân Thành Hình

Bất cứ một hiện týợng nào cũng ðều có nguyên nhân thành hình của nó. Sự kiện các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo trong nýớc ra hải ngoại xin tiền ðýợc cấu thành bởi 3 yếu tố sau ðây.

1. Tính rộng rãi của ngýời Công giáo Việt Nam hải ngoại. Ðây là một ðặc tính rất ðáng khen của ðồng bào Công giáo, họ rất sẵn sàng ðóng góp vào các việc chung, nhất là các việc cụ thể nhý xây nhà thờ, nhà dýỡng lão, cô nhi viện...Sau thời gian ổn ðịnh cuộc sống tại Hải ngoại, họ ðã cần cù chãm chỉ làm ãn nhiều ngýời ðã trở nên khá giả và rất sẵn sàng ðể bố thí ðóng góp thật rộng rãi vào các việc tôn giáo mỗi khi có lời kêu gọi của các vị chủ chãn, nhất là các chủ chãn có chức vụ cao nhý Hồng Y, Giám mục, họ càng dâng cúng mạnh hõn.

2. Nhu cầu cần tiền của những chủ chãn trong nýớc. Nói về nhu cầu thì vô hạn vì ðồng tiền bao giờ cũng có thế ðứng nhất ðịnh của nó trong ðời sống con ngýời. Chẳng thế mà có câu ví vui tai sau ðây về ðồng tiền : “Ðồng tiền là tiên là Phật – Là sức bật của tuổi trẻ - Là sức khoẻ của tuổi già – Là ðà danh vọng – Là lộng che thân – Là cân công lý - Ðồng tiền “hết ý”.Trong ðời sống tôn giáo cũng không thoát khỏi ðịnh luật này, nhất là trong hoàn cảnh nghèo túng của Giáo hội Công Giáo Việt Nam ðã bị chế ðộ Việt cộng týớt ðoạt tài sản ðến trắng tay thì nhu cầu phải kiếm tiền lại càng khẩn thiết hõn. Chính vì nhu cầu ðó mà bất cứ ai trong tý thế có thể ra hải ngoại xin tiền ðều không bao giờ bỏ lỡ cõ hội. Mỗi vị “chủ chãn” ra hải ngoại xin tiền ðều có một lý do thánh thiện riêng ðể trình bày và lý do nào nghe qua cũng cảm ðộng và ðáng giúp cả.

3. Nhu cầu làm ðẹp mặt cho chế ðộ. Chế ðộ Việt gian Cộng sản chắc chắn phải khuyến khích và tạo ðiều kiện cho phong trào mục vụ xin tiền này vì họ có lợi trýớc mắt. Theo tôi nghĩ, không có cách gì làm ðẹp cho bộ mặt của chế ðộ vô thần Cộng sản hữu hiệu cho bằng hình ảnh các nhà thờ ðýợc mọc lên nhý nấm và càng lúc càng lộng lẫy hõn tại Việt Nam. Hõn nữa việc các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo lũ lýợt ra hải ngoại kiếm tiền mang về “xây dựng giáo hội quê nhà” là cách tốt nhất ðể khóa mồm những ai lên tiếng tố cáo chế ðộ cộng sản Việt Nam là chế ðộ ðàn áp tôn giáo! Ðó là chýa nói tới việc các cán bộ “tốt bụng” cho phép các vị ấy ra nýớc ngoài xin tiền, không thể nào nhắm mắt làm ngõ trýớc số tiền kếch sù mà các vị chủ chãn mang về trong nýớc. Ai cũng có thể hiểu là số tiền ðó phải chia chác cho bọn cán bộ, vì bọn chúng ðã chịu khó “vét từng xu” trong túi của Việt kiều về thãm nhà khi býớc qua ngýỡng cửa phi trýờng, thì không lẽ lại không ðể ý tới cái túi nặng chình chịch của các vị Hồng Y, Giám mục, Linh mục... ðang býớc xuống phi trýờng?

Nói tóm lại, 3 yếu tố nói trên ðýợc ví nhý giấy bổi, dầu xãng và ...cái quạt ðã giúp cho ngọn lửa của cao trào “mục vị xin tiền” bốc lên cao. Thực tế, cao trào này ðã bắt ðầu làm xôn xao dý luận, có thể làm gây rối loạn và phân hoá trong nội bộ các Cộng ðồng Công giáo Hải ngoại mà từ lâu có nhiều ngýời gọi cách vui vui là những...con bò sữa!

Ðôi Dòng Lịch Sử
Khi viết những dòng chữ này này tôi chợt nhớ tới phong trào bòn vàng ở Mỹ trong các thế kỷ trýớc. Khi các tin tức về việc khám phá mỏ vàng ðýợc loan truyền, dân chúng ðổ xô tới làm thành một phong trào bòn vàng rất sôi nổi và có nhiều chuyện ðáng nói. Cõn sốt bòn vàng ðã làm thay ðổi hẳn ðời sống xã hội của dân chúng và hình thái mội sinh của một số vùng ở Mỹ. Nhờ vào ðó, một số ngýời may mắn ðã trở nên giàu có, ngýợc lại một vài vùng ðất màu mở trýớc kia, sau khi bị cõn sốt bòn vàng hoành hành, ðã trở nên hoang phế không còn canh tác ðýợc vì ðã bị “ðào tận gốc, trốc tận rễ” ðể tìm vàng. Phong trào bòn vàng ở Mỹ ngày xýa có những ðiểm týõng ðồng với phong trào “bòn ðô-la” của các chức sắc Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ngày nay, tuy có 2 ðiểm khác biệt.

Ðiều khác biệt trýớc tiên là ngày xýa bên Mỹ tài nguyên vàng ðã nằm sẵn trong lòng ðất, dân bòn vàng cứ kéo tới mà ðào, xới, ðãi, lọc ðể lấy vàng, nhýng ðào mãi có ngày sẽ hết. Ngýợc lại, ngày nay tài nguyên ðô-la nằm trong túi của ðồng bào Công giáo tị nạn Cộng sản Hải ngoại không phải tự nhiên mà có. Ðây là kết quả của sự cần cù làm ãn, tiết kiệm và ðể dành tích lũy mà có. Và tài nguyên này có khả nãng sẽ còn dài dài.

Ðiều khác biệt thứ hai là các tài liệu viết về phong trào bòn vàng bên Mỹ có ghi lại tên tuổi những ngýời có công khám phá ra mỏ vàng, nhýng không thấy tài liệu sách vở nào ghi lại ai là ngýời ðã lập công ðầu trong việc phát hiện ra “mỏ ðô-la” nằm sâu trong túi những ngýời Công giáo Việt Nam tị nạn Cộng sản tại Hải ngoại. Nếu biết ðýợc, tên tuổi ngýời ðó phải ðýợc các sử gia viết xuống ðể ðời sau nhớ õn, nhất là những ai may mắn bòn ðýợc nhiều “ðô-la” nhất. Về vấn ðề này, tôi ðã lục lọi lại trí nhớ và nói chuyện bàn hỏi với nhiều ngýời, cuối cùng có thể tạm kết luận phải dành vinh dự tiên phong ðó cho Giám mục Nguyễn Vãn Sang thuộc Giáo phận Thái Bình. Ðýợc biết cách nay không lâu, Giám mục Nguyễn Vãn Sang là một trong hai vị Giám mục còn sống ðýợc chủ tịch nhà nýớc Việt cộng Nguyễn Minh Triết trao tặng huân chýõng “cao quý”. Tôi không hiểu hết những công sức của Giám mục Nguyễn Vãn Sang ðã và ðang tích cực ðóng góp cho chế ðộ nhý thế nào ðể ðýợc ban thýởng loại huân chýõng gọi là “cao quý” ðó, nhýng tôi nghĩ là trong ðó phải kể tới công ðã khám phá ra mỏ ðô-la nằm trong túi những ngýời Công giáo Việt Nam Hải ngoại.

Những Ðiều Nghe Thấy

Ðã từ lâu rồi, những gì tôi ðýợc nghe và thấy liên quan tới “mục vụ xin tiền” thật là phong phú và ða dạng. Phong phú vì ðýợc nghe từ nhiều ngýời nhiều giới khác nhau. Ða dạng vì ðýợc nghe từ nhiều thành phần ở Hải ngoại cũng nhý trong nýớc. Ở Hải ngoại, từ những linh mục phụ trách các cộng ðồng, những ngýời cho tiền, ngýời trung gian giúp tổ chức ðể quyên tiền, ngýời ðứng ra tổ chức tiệc quyên tiền, những việc xảy ra chung quanh việc tổ chức tiệc quyên tiền, trýờng hợp lừa ðảo ðể quyên tiền...và còn nhiều chuyện khác nữa. Khi ðồng tiền về tới Việt Nam, từ việc quản lý ðồng tiền, về cách thức xử dụng ðồng tiền, việc thi ðua xây cất nhà thờ ở Việt Nam, trýờng hợp mất tiền, về lối sống xa hoa của một số ngýời xin ðýợc tiền, về vị Linh mục có ngôi nhà thờ gắn máy lạnh ðầu tiên tại Việt Nam…và còn nhiều chuyện khác nữa. Tôi không thể kể ra hết những ðiều mắt thấy tai nghe liên quan tới vấn ðề này, tôi tin là có nhiều ngýời cũng ðã nghe và biết nhý tôi. Vả lại, chẳng hay ho và ðẹp ðẽ gì khi kể lại những sự việc nhý vậy nên tôi chỉ ghi lại cảm nghĩ về hai sự việc sau ðây.

Cách ðây vài nãm, tôi có dịp ðồng tế với một Giám mục từ Việt Nam qua, tại một Cộng ðồng khá lớn và giàu có ở Mỹ. Trong thánh lễ, cha quản nhiệm có nhắc giáo dân giúp vị Giám mục. Sau khi tan lễ, vị Giám mục mặc nguyên phẩm phục ra ðứng bên ngoài cửa chính nhà thờ, hai bên có 2 vị chức sắc cầm cái giỏ khá to. Giáo dân lần lýợt býớc ra, ngýời thì ðặt tiền vào giỏ, ngýời thì tới bắt tay nói chuyện với vị Giám mục, ngýời khác cố nhét tiền vào tay, vào áo...và nõi nào có thể nhét ðýợc trên ngýời vị Giám mục. Vì có ðông ngýời muốn bắt tay và cho tiền nên số tiền giấy rõi lả tả dýới ðất và vị Giám mục cúi xuống nhặt lên. Cảnh týợng này làm tôi bị “shock”! Có lẽ vì tôi thuộc thế hệ cũ, sinh ra và lớn lên tại một xứ ðạo nhà quê và chẳng mấy khi ðýợc trông thấy các vị Giám mục. Khi họ ðạo có dịp ðón Giám mục về ban phép Thêm sức thì quả là một biến cố của họ ðạo với nghi thức ðón tiếp Giám mục rất linh ðình với ðầy ðủ cờ quạt. Giờ ðây, nhìn hình ảnh vị Giám mục ðang mặc phẩm phục, cúi khom ngýời nhặt những ðồng tiền giấy nằm dýới chân, trýớc mặt một số ðông giáo dân khiến lòng tôi ðau xót. Ýớc gì tôi ðừng chứng kiến cảnh týợng ðó.

Việc thứ hai tôi muốn viết ra ðây là trong chuyến ghé qua Mỹ vừa rồi, tôi có ghé Nam Cali. ở nhà một ngýời bạn học từ hồi nhỏ. Trong một lần ðề cập tới “chuyện dài quyên tiền”, vợ ngýời bạn kể lại rằng có ngýời ðýa giới thiệu với nhóm cầu nguyện của chị một linh mục từ Việt Nam qua xin tiền. Vị linh mục này trình bày lý do rất thýõng tâm ở Việt Nam và xin mọi ngýời trong nhóm giúp ðỡ. Ðiều ðáng nói là trong lúc vị Linh mục này ðang ca “bài ca con cá” ðể xin tiền thì luôn miệng gọi những ngýời ðang hiện diện và ðồng bào Hải ngoại là “ngụy”. Nhiều ngýời tỏ ra khó chịu, cuối cùng chị vợ ngýời bạn tôi chịu hết nổi ðã lên tiếng: “Cha à! Cha gọi tụi con là “ngụy”, tụi con buồn lắm!” Khi ngồi nghe câu chuyện này tôi cảm thấy khó chịu trong ngýời, nhýng cố dằn xuống vì tôi không muốn những giáo dân nghe những lời tôi ðịnh nói ra!

Kết Luận

Qua những phần nói trên ðọc giả ðã hiểu ðýợc tâm trạng và sự khó khãn của tôi khi phải ðề cập tới vấn ðề này một cách công khai. Một vấn ðề có thể gây ra tranh luận và sẽ bị phản bác từ những cái loa của chế ðộ Việt gian Cộng sản. Ðiều chắc chắn nhất là sẽ bị kết án là nói xấu Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. Tôi ðã chuẩn bị sẵn sàng ðể ðón nhận tất cả phản ứng bởi bài viết này, vì tôi ðã viết ra những gì tôi biết và suy nghĩ. Tôi biết là sau bài viết này, sự kiện “bòn ðô-la” vẫn tiếp tục, vì màu sắc của tờ giấy bạc ðôla lúc nào cũng chiếu sáng và mùi vị của nó lúc nào cũng thõm, nhýng sẽ ðýợc thực hiện cách kín ðáo hõn.

Xin nói rõ ở ðây là mục ðích tôi viết bài này không phải ðể phản ðối việc ngýời Công giáo Việt Nam Hải ngoại ðóng góp tiền bạc ðể sửa sang và xây dựng lại các cõ sở tôn giáo ðã bị ðổ nát tại quê nhà. Bản thân tôi ðã từng làm công việc ðó và tôi sẽ còn làm trong trýờng hợp thật sự có nhu cầu cần thiết. Tôi biết có nhiều ngýời rất thành tâm thiện chí gởi tiền về giúp các nõi thật sự túng nghèo. Ðây là những ngýời ðáng ca ngợi vì họ ðã sống ðúng tinh thần chia sẻ trong Phúc Âm.

Tôi cũng không nói xấu hay ðả kích Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, vì Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam ðáng thýõng hõn là ðáng trách. Ðiều tôi muốn nói là có một số ngýời trong hàng ngũ chức sắc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ðã lạm dụng và khai thác quá mức cái túi tiền của ngýời Công giáo Việt Nam Hải ngoại. Hành vi của những con ngýời này ðã làm ố danh cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Cũng nên ghi nhận là phong trào bòn-ðô la này mới xảy ra lần ðầu tiên trong lịch sử 300 nãm của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, khi mà Giáo Hội sống dýới chế ðộ Cộng sản là chế ðộ vô thần quyết tâm triệt hạ tất cả mọi tôn giáo chân chính, trừ ra các loại Giáo hội do bọn chúng dựng lên hoặc do chúng nắm ðýợc quyền kiểm soát.

Ngày nay, khi nhìn vào bề mặt bên ngoài, nhiều ngýời, nhất là những ngýời ngoại quốc lầm týởng rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ðang ở vào thời kỳ phồn thịnh, phát triển và có tự do. Không có mấy ngýời biết rằng hiện nay Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ðang phải trải qua thời kỳ u tối và ðáng thýõng nhất vì CHẾ ÐỘ VÔ THẦN CỘNG SẢN VIỆT NAM ÐÃ CÝỚP ÐI QUYỀN PHONG CHỨC VÀ BỔ NHIỆM CÁC CHỨC SẮC CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM.

Nói một cách dễ hiểu, hiện nay tại Việt Nam chỉ có những ngýời nào ÐÝỢC CỘNG SẢN CHO PHÉP MỚI ÐÝỢC PHONG CHỨC GIÁM MỤC VÀ LINH MỤC. Ðây là ðiều ðau ðớn nhất mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ðang phải chịu. Phái ðoàn Toà Thánh qua Việt Nam nhiều lần ðể xin lại quyền này nhýng không ðýợc.

Với quyền phong chức và bổ nhiệm nằm trong tay ðảng Cộng sản, không lạ gì chiến dịch “mục vụ xin tiền” càng lúc càng phát triển rầm rộ, vì không ai có nhu cầu phải chuyển ðô la về trong nýớc ðể làm ðẹp bộ mặt của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cho bằng chính ðảng Cộng sản Việt Nam. Nhà thờ càng nhiều và “hoành tráng” bao nhiêu thì giúp cho bộ mặt của chế ðộ càng ðẹp ðẽ bấy nhiêu. Xin mọi ngýời ðừng quên rằng, khi nào cần thì ðảng Cộng sản chỉ việc ra một Quyết Nghị là tất cả nhà thờ và tài sản ðó của Giáo hội sẽ thuộc về nhà nýớc nhý họ ðã làm trong quá khứ. Hiện nay còn rất nhiều giáo xứ, dòng tu, giáo phận... trong ðó có Giáo phận Vĩnh Long của tôi, ðang làm ðõn khiếu nại và “xin lại” tài sản của Giáo hội bị chế ðộ cýớp ði từ nãm 1975, nhýng nào có ðýợc kết quả gì!

Có ai dám bảo ðảm với tôi rằng chế ðộ ãn cýớp ðó sẽ không tái diễn lại màn tịch thu tài sản của Giáo Hội một lần nữa? Có lúc tôi nghĩ, những tay cán bộ Cộng sản quỷ quái ở Việt Nam là những tên phù thủy cao tay ấn, bọn chúng ngồi nhà và sai “âm binh” ði thu gom về những gì chúng muốn.

Nguyện Vọng Thiết Tha

Sự phát triển rầm rộ của chiến dịch mục vụ xin tiền ðã tạo ra xôn xao trong dý luận và bắt ðầu gặp phản ứng công khai rất bất lợi của giáo dân hải ngoại. Xin hàng Giáo phẩm trong nýớc hãy nhớ rằng, cộng ðồng Việt Nam Hải ngoại là những nạn nhân của chế ðộ Cộng sản, phải hiểu rằng họ có cái nhìn và sự hiểu biết về chế ðộ Cộng sản khác hõn cái nhìn của một số chức sắc Công giáo trong nýớc. Do ðó việc các Giám mục chọn thời ðiểm gần ngày Quốc Hận 30 tháng Tý 2007 ðể mở tiệc mừng quyên tiền ngay giữa lòng Thủ Ðô Tị Nạn bị nhiều ngýời coi là hành ðộng vô tâm, mang tính cách thách thức sự ðau ðớn của những nạn nhân Cộng sản.

Ðể kết thúc bài viết này, tôi xin nói, qua dý luận từ nhiều phía và những lời ðàm tiếu về tình trạng các Hồng Y, Giám Mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ từ trong nýớc ra hải ngoại xin tiền từ nhiều nãm qua và nhất là qua các sự việc ðáng tiếc xảy ra trong các tiệc gây quỹ của một vài Giám mục trong thời gian gần ðây, tôi xin thýa với hàng Giáo phẩm và Linh mục Tu sĩ trong nýớc rằng “ÐÃ ÐẾN LÚC PHẢI CHẤM DỨT MỤC VỤ XIN TIỀN”.

Xin ðừng biến Cộng ðồng Công Giáo Việt Nam Hải ngoại vốn là vùng ðất màu mỡ trýớc kia phải trở nên hoang phế không còn canh tác ðýợc vì bị những kẻ bòn ðô-la “ðào tận gốc, trốc tận rễ” nhý hậu quả thảm thýõng gây ra bởi bàn tay của những kẻ bòn vàng trong lịch sử Hoa Kỳ. Ðã có dấu hiệu cho thấy sự bất mãn của Cộng ðồng Công giáo Việt Nam tị nạn Cộng sản tại Hải ngoại dâng cao lên tới mức ðáng phải chú ý.

Tại thành phố Auckland, New Zealand
Ngày 25 tháng 8 nãm 2007

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

NGUYỄN TẤN DŨNG MỘT CON RỐI
TRONG TAY
NHÓM CÔNG AN NGHỆ TĨNH


LÝ ĐẠI NGUYÊN

Cả thiên hạ đều biết trước, thứ Quốc Hội “đảng cử dân bầu” thì thành phần cầm đầu các cơ quan Quốc Hội, Nhà Nước, Chính Phủ, Tòa Án, tiếng là do Quốc Hội biểu quyết chấp thuận, nhưng chỉ là chấp thuận theo chỉ thị của đảng cho phải phép mà thôi. Thế nên không lấy làm lạ những nhân vật được đề cử đều được thông qua một cách suôn sẻ. Điều đáng suy nghĩ là trước đó dư luận cho rằng: Nguyễn Tấn Dũng muốn bỏ chức Phó Thủ Tướng Thường Trực để cho 5 phó thủ tướng phụ trách từng Khối Chuyên Biệt. Được vậy thì Nguyễn Tấn Dũng sẽ là một thủ tướng mạnh có thực quyền. Thế rồi cuối cùng Dũng vẫn phải để Nguyễn Sinh Hùng, ủy viên Bộ Chính Trị, người Nghệ An, miền Trung, cháu của Hồ Chí Minh vào vị trí Phó Thủ Tướng Thường Trực. Phạm Gia Khiêm ủy viên BCT, người miền Bắc làm Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao. Trương Vĩnh Trọng, ủy viên BCT, người miền Nam làm Phó Thủ Tướng đặc trách Chống Tham Nhũng. Như thế là vẫn giữ quân bình quyền thế giữa 3 miền đất nước. Chỉ thêm vào 2 Phó Thủ Tướng mới và trẻ, từng du học tại Âu Mỹ, thông thạo tiếng Anh là 2 ủy viên Trung Ương: Nguyễn Thiện Nhân, người miền Nam, kiêm Bộ Trưởng Giáo Dục và Hoàng Trung Hải, có lẽ sẽ coi về Kinh Tế, nhằm làm duyên để chào hàng với thế giới.

Chưa lúc nào, chế độ “Công An Trị” lại được hợp pháp hóa tại Việtnam một cách lộ liễu như hiện nay. Mà hệ thống Công An Việtcộng từ trung ương xuống tới địa phương, đều đang nằm gọn trong tay nhóm người Nghệ Tĩnh, quê hương Hồ Chí Minh. Cho nên mới nói Nguyễn Tấn Dũng chỉ là con rối trong tay nhóm công an Nghệ Tĩnh. Mặc dù Nguyễn Tấn Dũng cũng thuộc ngành công an và Lê Hồng Anh là bộ trưởng, vì họ cùng là người miền Nam, nên thực lực vẫn nằm trong tay thứ trưởng thường trực Nguyễn Khánh Toàn, người Nghệ An. Chính nhờ vậy mà viên trung tướng thứ trưởng công an, coi ngành cảnh sát là Trương Hòa Bình, người Nghệ An đã được quốc hội bù nhìn bầu vào chức Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Tức là cả Hành Pháp, Tư Pháp đều do công an Nghệ Tĩnh cai trị. Nhất là Lê Doãn Hợp, ủy viên trung ương cũng là một người Nghệ An nữa, đã được bổ nhiệm vào chức Bộ Trưởng Thông Tin Truyền Thông. Hắn đưa ra chủ trương, buộc tất cả Báo Giới Việt Nam phải đi đúng lề đường bên phải, để hắn ta sẽ cố gắng tạo ra lề đường bên phải rộng hơn, thoáng hơn cho báo chí đi. Nghĩa là công an Nghệ Tĩnh vừa làm Cảnh Sát, vừa làm Quan Tòa, vừa làm Nhà Báo.

Thế là từ nay công an tha hồ mạnh tay: Xiết Báo Chí; Che Tham Nhũng; Lừa Dân Oan; Diệt Dân Chủ; Phản Dân Tộc; Gạt Hoa Kỳ, rồi nắm trọn chính quyền đè đầu đảng. Dù trước đó, Nông Đức Mạnh, tổng bí thư, cố hô hào giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chết tiệt, và Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước, tuyên bố, quyết xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ảo tưởng. Nhưng cả 2 đều không có thực lực, bởi vậy, nhóm công an Nghệ Tĩnh được sự đỡ đầu của 2 tên MA già - Đỗ Mười và Lê Đức Anh - , đằng sau còn có bàn tay thâm hiểm của Trung Cộng nhúng vào, khiến cho tình thế chính trị Việt Nam mỗi lúc một thêm tối tăm, tồi tàn, ác liệt. Chính vì vậy, mà nhóm Nghệ Tĩnh cả năm nay, đã tận dụng mọi cơ hội để bắt toàn đảng, toàn quân, toàn dân thường xuyên phải ra sức học tập Tư Tưởng Nô Lệ, Đạo Đức Dâm Loạn, Gương Xấu Gian Tà của Hồ Chí Minh, người đã trao vào tay bọn công an “thanh kiếm vàng” để mặc sức giết hại dân, quân ở thời bình.

Thêm vào đó, Nguyễn Tấn Dũng, vì nuôi tham vọng độc tài, nên vừa khi được đảng trao cho chức thủ tướng, đã xuống tay bịt miệng báo chí. Ngày 29/11/2006, ban hành chỉ thị số 37/CP, quyết ngăn cản không cho Tư Nhân Hóa báo chí. Theo lệnh này: “Bộ Văn Hóa – Thông Tin có trách nhiệm phối hợp với Ban Tư Tưởng – Văn Hóa Trung Ương, Hội Nhà Báo nước Việt Nam và các cơ quan liên hệ, triển khai thực hiện nghiêm túc kết luận của Bộ Chính Trị, hướng dẫn các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan chủ quản báo chí và các cơ quan báo chí thực hiện Thông báo số 162-TB/TƯ ngày 01/12/2004 của Bộ Chính Trị”. Như vậy, có nghĩa là đảng vẫn nắm trọn Truyền Thông Báo Chí trong tay, và mỗi lúc mỗi xiết chặt những người viết báo thêm. Để bao che tham nhũng, gần 2 tháng nay, trước khi đưa vụ tham nhũng quốc tế PMU-18 ra tòa, công an đã kêu lên thẩm vấn nhiều ký gỉa có tiếng của các báo lớn, phát hành nhiều như: Tờ Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động, Tiền Phong, Công An Nhân Dân, An Ninh Thủ Đô, Công An TP HCM, nhằm bịt miệng báo giới của đảng, để cắt bỏ tội Tham Nhũng, chỉ giữ lại 2 tội danh Đánh Bạc và Hối Lộ, giúp cho thủ phạm chính là Bùi Tiến Dũng dễ dàng nhận bản án 13 năm tù, tránh cho nhà nước Việtcộng khỏi bị Ngân Hàng Thế Giới lên án. Rồi được chủ tịch WB, người Mỹ, Robert Zoellick ca tụng là đáng làm gương cho các nước khác. Nhưng một màn hài kịch đã diễn ra tại phiên tòa án Việtcộng. Các luật sư biện hộ cho Bùi Tiến Dũng, quyết phủ nhận tội Hối Lộ của bị cáo, vì bên Công Tố không đưa ra được Kẻ Nhận Hối Lộ. Công Tố cứng họng, vì nếu đưa kẻ nhận hối lộ ra trình tòa là phải lôi tên tuổi các quan lớn ngành Công An và Tòa Án ra trước công luận. Chánh Án bèn giới hạn quyền biện hộ của Luật Sư. Luật Sư giũ áo bước ra khỏi tòa. Đúng là một phiên tòa “bịt miệng luật sư”, gần giống phiên tòa “bịt miệng nghi can” trong vụ xử Lm Nguyễn Văn Lý.

Xem ra Nguyễn Tấn Dũng còn thua xa Nguyễn Văn Linh. Khi Nguyễn Văn Linh trong chức tổng bí thư, mở đầu cuộc “đổi mới”, giữa thời tranh tối tranh sáng, bị phe bảo thủ đánh phá, đã dám cởi trói cho báo giới, dùng báo chí để giương danh lập thế. Lấy bút hiệu là NVL để công bố những khuyết tật của chế độ và nhu cầu phải đổi mới kinh tế. Nay Việtnam đã chính thức trở thành hội viên của WTO, do đòi hỏi của cuộc hội nhập với thế giới, và nhu cầu phát triển của quốc dân, Nguyễn Tấn Dũng đã có cơ hội bằng vàng để cởi trói báo giới truyền thông, tư hữu hóa báo chí, tư doanh hóa kinh tế, tự do hóa xã hội, công nhận quyền tư hữu của mỗi công dân, giải quyết dứt điểm cảnh Dân Oan Khiếu Kiện, dựa vào dư luận đồng thuận của quốc dân, sự trợ giúp của quốc tế để dân chủ hóa chế độ, phát triển quốc gia và chủ quyền dân tộc. Nếu Nguyễn Tấn Dũng cứ ngoan ngoãn trao quyền cho nhóm Công An Nghệ Tĩnh, nhằm xiết Báo Chí, che Tham Nhũng, lừa Dân Oan, diệt Dân Chủ, phản Dân Tộc và gạt Hoa Kỳ thì chắc chắn Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa kỳ sẽ đi đến việc thông qua dự luật Nhân Quyền Việt Nam 2007, HR 3069. để Hành Pháp Mỹ căn cứ vào đó làm áp lực buộc Việt Cộng phải mau chóng Dân Chủ Hóa chế độ, nếu không thì các nhà đầu tư Mỹ và quốc tế sẽ rút khỏi Việt Nam, đó là một đại họa, chẳng ai muốn nó xẩy ra.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

THẢM TRẠNG NGƯỜI CÀY KHÔNG RUỘNG

Dr. Tristan Nguyễn
Tân-Tư-Bản Đại-Địa-Chủ-Đỏ, Big New Red Capitalist Landlords, ở Việt Nam đã đang và sẽ thu gom tích tụ ruộng đất canh tác của người Nông Dân Việt Nam Nghèo. Sự thật quá phũ phàng là sau hai lần được hưởng quyền "Người Cày Có Ruộng", hiện nay người Nông Dân Việt Nam Nghèo lại "Không Có Ruộng Để Cày" !!!!

Không nhà không ruộng
Dân cày còn biết đi đâu?
Người ở làng chết khổ bên nhau
Người lên phố, dãi dầu kiếp thợ!!


Bốn câu thơ nêu trên làm xúc động lòng người, được trích trong bài thơ Đồng Bằng, trong tập thơ Quê Hương Chiến Đấu xuất bản năm 1955. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã tả chân được hoàn cảnh khốn cùng tủi cực của người Nông Dân Việt Nam Nghèo trong thời kỳ Pháp thuộc.


Thực dân và đại địa chủ đã chiếm hữu hết ruộng đất canh tác khiến cho người nông dân không có ruộng để làm ăn sinh sống. Nếu không muốn là tá điền làm ruộng thuê nộp tô cho địa chủ, hay đem thân làm mướn kiếm miếng cơm thừa của địa chủ, thì người nông dân nghèo phải bỏ xóm làng đi lên tỉnh thành kiếm việc làm cực khổ ở những nhà máy xí nghiệp hoặc nơi công trường xây dựng. Nhưng có rất nhiều người nông dân lìa quê không thể có được những việc làm để sống qua ngày, họ phải lâm cảnh tha phương, vô gia cư, và thất nghiệp đói khổ!! Cho tới bây giờ, thảm trạng khốn cùng tủi cực như vậy vẫn còn đang xảy ra, mặc dù dưới một hình thức khác, và cũng còn là một nỗi lo âu uất ức của hàng triệu người Nông Dân Việt Nam Nghèo hiện nay.

Hoàng Trung Thông là một đảng viên CSVN thời kỳ Mùa Thu 1945, Ủy Viên Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam (khóa III); Viện Trưởng Viện Văn Học , tổng biên tập Tạp Chí Văn Học, đã qua đời vào năm 1993 lúc 68 tuổi. Cho tới ngày chết, Hoàng Trung Thông có lẽ không thể tưởng tượng được hoàn cảnh người Nông Dân Việt Nam Nghèo lại thêm một lần nữa không có ruộng đất canh tác để sinh sống. Giải quyết nghiêm túc vấn đề ruộng đất canh tác chính là bảo đảm quyền được sống của người Nông Dân Việt Nam Nghèo. Nhưng Hoàng Trung Thông đã không ngờ được những Tân-Tư-Bản Đại-Địa-Chủ Đỏ ở Việt Nam đã đang và sẽ thu gom tích tụ ruộng đất canh tác của người Nông Dân Việt Nam Nghèo. Qua hai lần được hưởng quyền "Người Cày Có Ruộng", người Nông Dân Việt Nam Nghèo hiện nay lại "Không Có Ruộng Để Cày".
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Ôi Việt Nam - Xứ Sở Mù Loà !

Trần Khải Thanh Thuỷ

Image
Hình: Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy.

Thời gian này, tôi luôn phải sống trong hai trạng thái tình cảm: yêu thương, căm giận, sung sướng và khổ đau, hai làn ranh giới rõ nét. Bước chân ra cửa là gặp công an canh ngõ. Vì vậy cứ mõm chó đi đến đâu là bóng quạ mổ, diều hâu bâu vào đến đấy, người tử tế thì chép miệng: “Cái con bé sao mà dại, viết bài chống đối chế độ để cho công an nó xúi đầu gấu vào nhà phá đám hết làn này lần khác mà còn không tỉnh ra à? Khổ, nói thẳng, nói thật làm gì! Dù lãnh đạo ăn tiệc, bà con Quảng Bình ăn giun ăn dế, ăn nòng nọc đi chăng nữa thì cũng mặc cha chúng nó, bản thân mình ăn rau dưa đạm bạc qua ngày, không ăn thịt dân như lãnh đạo đảng, cũng không phải ăn đủ thứ mọi rợ như người dân ở những nơi đói kém là được rồi... Hơi đâu mà thương vay khóc mướn, mà ôm dân cho... dặm đảng.”

Rồi: “Động đến chính trị, chính em làm gì, chúng nó có chính quyền, có bạo lực trong tay, mình chỉ là đàn bà, con gái, l. vừa bằng cái bát úp, có phải Nữ Oa - bằng ba mẫu ruộng đâu mà đòi đội đá vá trời ?”.

Những kẻ rách chuyện, sáng tai...đảng, điếc tai dân lành thì bảo: “Tội gì chứ tội nói xấu cụ Hồ là cấm kỵ. Cụ Hồ là người có công với dân, với nước này, đặc biệt có công đào tạo ra lớp người kế cận là đảng viên đảng cộng sản hiện tại, tí tuổi đầu nó đâu có biết ngày xưa khổ như thế nào? Đến cơm không có mà ăn, quần áo không có mà mặc, trong nhà không có bóng dáng ti vi, nhưng ngoài đường, ngoài ngõ, "ti vi" chạy đầy đường, phấp phới như những cánh buồm đỏ thắm, nâu sồng, đen, trắng , tím than trên lưng mọi người (!) từ lớn, bé già trẻ đủ loại. Toàn "màn hình" 21 inch, can dài từ vai đến gấu cả lượt. Đói cơm, rét cật, dậm dật giữa giường còn không xong. Bây giờ cơm ăn ba bữa, quần áo mặc cả ngày, no cơm ấm cật, dậm dật mọi đường, nào nhà hàng khách sạn, nào giường đệm sa lông, rồi ti vi màu, xe máy xịn, nó còn muốn gì, đòi hỏi gì nữa? v.v.” Mấy lão cựu... chén binh thì bảo: “Tôi không cần biết đảng này xấu xa tồi tệ đến mức nào, chỉ cần mỗi tháng nó trả cho tôi 3 triệu 8, bằng mức thu nhập của người nông dân trong một năm, là tôi phải biết ơn đảng rồi, giờ nó viết bài đòi lật đổ đảng, liệu đảng khác lên thay thế có trả nổi tôi từng ấy không? Mặc xác mấy thằng cựu... chán binh, nó ít công lao thành tích, kém may mắn, không biết luồn lọt, đội đơn, trình báo, khai láo thành tích thì phải chịu... thân ai người ấy lo, bò ai người ấy cưỡi, kêu gào gì, lật đổ ai ?”

Những ả đàn bà thích họp chợ cùng ...vịt hơn thì lên giọng quác quác quác, quạc quạc quạc: “Sinh năm 1960, nó cũng được ăn kẹo của bác Hồ rồi đấy, thế kẹo ấy không phải bằng đường, bằng sữa thì bằng đất à? Cái con bố láo... Nó được như thế này là nhờ ai, có phải nhờ đảng, nhờ bác, nhờ chồng con chúng tao hy sinh ngoài chiến trường không?” Và như động chạm đến nỗi đau muôn thưở, họ kéo đến tận cửa, ùa và tận nhà tôi gầm lên:

Hở cái con phản động kia? Mày có phải ra trận ngày nào không? Phải cầm súng ngày nào không? Trong nhà mày có ai là liệt sĩ không? Mà mày phủ nhận công lao của chồng, cha, con, anh em chúng tao thế hả? Mày còn dám vu cáo Bác Hồ, nào là có vợ, nào là có con, nào là giết dân, phá nước, không yêu tổ quốc, đồng bào...? Bác Hồ mà thế à? Cả thế giới người ta yêu quý bác Hồ, cả Việt Nam thờ phụng bác...Thờ cả cái của quý của bác. Chỉ có mày...mày... Ôi giời ơi, cái con phản động kia...cái con giời đánh, thánh vật kia... Mày chui từ đâu ra hả, mày không phải con cháu bác Hồ như chúng tao thì mày là con cháu ai hả? Hay mày được mấy thằng lưu vong phản động nó thí cho tí tiền bẩn của đế quốc Mỹ nên mày tối mắt lại ? Mày cố tình viết bài nói xấu đảng, nói xấu bác, rước chúng nó về để chúng nó dội bom lên đầu chúng tao, bắt chúng tao phải chịu cảnh giặc giã đói kém, vì thắt lưng, buộc bụng, dồn sức lực tiền của để đánh lại chúng nó? Đánh đánh! Bà con ơi, đánh chết mẹ nó đi. Công an, chính quyền người ta cho phép đấy, đánh chết mẹ nó đi, tội vạ đâu đã có nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu... Đánh...

Quả là một trận cuồng phong bão tố, một cơn chấn thương trong... tiểu sử cuộc đời 46 năm làm người của tôi. Cơn bão đen giết hàng vạn dân oan tưởng đã thực sự chấm dứt sau những giọt nước mắt cá sấu của ông Hồ rồi, sao 50 năm sau vẫn còn bão rớt, hở trời ?

Đảng cộng sản Việt Nam xem ra vẫn chứng nào, tật ấy, vẫn lưu manh côn đồ, vẫn thích bơm máu đen vào cơ thể dân tộc, và những người dân thấp cổ bé họng, những người cả đời không ra khỏi vòng vây của những ô tem phiếu trong thời đảng trị, hay vòng vây của cuốn sổ chi tiêu trong gia đình chật hẹp, của dung tích dạ dày: 1200 cm3. Cả đời cắm đầu xuống đất, úp mặt vào niêu cơm, ăn trông nồi, ngồi trông bác....hễ nhác nghe ai nói đến đảng, lãnh tụ là sợ xanh xám mặt mày, không mảy may nghĩ xem trên thế giới người ta sống như thế nào... Có ao tù nước đọng như ở Việt Nam không?... Chính sự khiếp sợ cố hữu, bản năng của họ ...đã vô tình tiếp nhận dòng máu đen của đảng một cách vô tư lự nhất nên không biết gì về thời cuộc, không biết đến xung quanh, không những ngu si hưởng...bất bình mà còn tỏ ra tức tối khi có người không chịu ngu si trước những cảnh ngang trái bất công do lãnh đạo đảng và nhà nước gây ra như mình. Trước kia, nghe lời đảng gọi, bắt đấu tố địa chủ, vì địa chủ: bóc lột "nên không đủ cơm ăn, áo mặc, nay nghe lời công an xúi, bắt đấu tố "phản động" vì phản động nhận tiền của nước ngoài, rải thảm đỏ rước Bush vào, gây ra cuộc chiến tranh chống Mỹ lần thứ 2 (!)

Thật là miệng công an có vu có khống, còn đầu dân đen thì vừa tối, vừa ngu. Oan này còn một, kêu cụ Hồ lên xem, nếu cụ có linh, không bị đảng chôn nổi trong cái mả to nhất nước, không bị đảng lôi cả phổi phèo ruột gan ra ngoài ổ bụng để đem chôn nơi khác, chắc chắn cụ sẽ hiện lên, với hai hàng nước mắt đầm đìa lệ tuôn, vì tội đã đưa cả dân tộc Việt Nam tới ngõ cụt, đường cùng, không lối ra của chủ nghĩa xã hội , đến bến bờ của sự diệt vong của thế giới cộng sản, khiến trăm dân điêu đứng, nhà nhà lầm than, đứng đầu thế giới về đủ các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, đỉnh cao trì trệ, đỉnh cao đói nghèo.
Nếu cụ là người có tâm, có thế, có lý, có lẽ, cụ sẽ phải mắng vào mặt lũ cháu gian ngoan mà rằng: “Các người thật là ngu hết chỗ nói, tại sao lại phải tôn sùng, thần thánh hoá ta cơ chứ! Ta khi sống cũng đủ bảy đặc tính như mọi người, nghĩa là ái ố, hỉ nộ, tốt xấu đan cài, sai lầm chồng chất. Thời trẻ ta từng mơ được như Trần Thủ Độ, lật đổ nhà Lý, đưa đất nước vào trang sử hiển hách của đời Trần, nhưng cái tâm ta tối, cái tài ta vơi, nên đã để quan thầy lợi dụng, coi ta như con rối để giật dây, hết đưa đất nước theo Mác xít, Lê nin lại Mao ít xấu xa tồi tệ, biến hàng vạn dân oan thành dê tế thần trên bàn thờ đảng cộng sản Trung Hoa, chưa đủ còn đẩy dân tộc vào vòng thù hận, anh em sát phạt lẫn nhau, gây cảnh nồi da xáo thịt, rễ đậu đun hạt đậu...Đời ta là một chuỗi sai lầm, ta lừa thầy, phản bạn, giết hại cả vợ con, các người không mở mắt ra nhìn lại còn tôn thờ thần thánh hoá một kẻ sai lầm như ta ư? Sao các người không biết rằng: Thần thánh hóa lãnh tụ là căn bệnh của những kẻ ngu đần.

Sở dĩ nước Nhật hơn nước ta vì họ không mắc căn bệnh này, vì khi Nhật Hoàng nhận chức đã đi xuống tận các vùng xa xôi hẻo lánh gặp dân, để cho dân biết Hoàng đế cũng là người trần, mắt thịt, cũng ăn, ngủ, bài tiết, sinh con đẻ cái như người thường chứ không phải con trời, không phải thần phật . Hơn nữa, đà bay của thế hệ sau bao giờ cũng cao và xa hơn đà bay của thế hệ trước, nên khi lãnh đạo của thế hệ trước đã chết đi, thì điều tối kỵ là không được làm theo di chúc của người đã chết, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, kinh tế, cũng như văn hoá, xã hội. Bọn lãnh đạo hiện tại nó tôn thờ ta vì nó cũng cơ hội, lưu manh như ta, chỉ bọn lưu manh mới tôn thờ lãnh tụ lưu manh...các người không biết mà còn cắm đầu cắm cổ nghe theo chúng nó, biến cả triệu triệu dân ngoan Việt Nam khắp 64 tỉnh thành cả nước thành dân oan Việt Nam, đội ngũ điệp điệp trùng trùng. Đời cha khiếu nại, đời con tố cáo, coi lá đơn hơn cả mạng sống? Oan khuất như thế mà các người còn ra tay đàn áp, một bà Nguyễn Thị Năm, một ông Trịnh Văn Bô do ta gây ra chưa đủ hay sao mà lũ lãnh đạo các người còn gieo rắc thêm mầm mống đại hoạ lên đầu ta nữa, vào đám con dân nghèo khổ cơ cực trong đám con dân của ta nữa?

Các người hãy đổi mới đi, hãy giải phóng cho họ đi, để họ được quyền vùng thoát ra khỏi thời đại Hồ Chí Minh chết người của ta, tiến vào thời đại trí thức, thời đại thông tin, văn minh a còng của chính bản thân họ, đưa đất nước ra khỏi vũng lày tăm tối, đêm giữa ban ngày. Nên nhớ cả thế giới này chỉ có một đất nước mặt trời mọc là Nhật và cũng chỉ có một đất nước mặt trời lặn là Việt Nam thôi đấy. Sao các người không tự hỏi xem cùng là nền văn minh cầm đũa mà thu nhập bình quân trên mỗi người nhật Bản hơn Việt Nam cả trăm lần? Sao họ là đất nước mặt trời mọc, còn Việt Nam là đất nước mặt trời lặn? Sao họ tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình, còn Việt Nam thì tù đày, bắt bớ, xiết họng báo chí, bịt miệng thầy tu (trong phiên toà xử 30-3 -2007). Tôn giáo cho con người niềm tin và hy vọng, đồng thời xây dựng cho con người có đạo đức, có tình thương yêu, sao các ngươi đàn áp tôn giáo, phá bỏ tượng thờ, bỏ tù các nhà tu hành ? Các ngươi ngu đần, khốn nạn, bảo thủ và cố chấp như vậy lại dương dương tự đắc sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương vĩ đại của ta ư? Ôi chao! Các người quả là những kẻ thích đùa, ông tổ của Ezit Nêxin...”

Tiếc rằng ông chết không toàn thây, chết ngoài mọi dự tính định liệu trong di chúc dặn dò của ông, nên chẳng được địa táng hay hoả táng mà là nhân táng..., nghĩa là bị lũ ác nhân chôn nổi, nên đến bây giờ ông không những không sửa nổi sai lầm khi sống mà còn oán oán chất chồng, hàng triệu gia đình không xóa đói giảm nghèo nổi vì thân xác ông, tư tưởng ông, mỗi ngày ngốn cả tỉ đồng việt nam để nuôi cả một bộ tư lệnh bảo vệ Lăng, đề phòng bọn nghèo đói qúa khích xông vào cướp xác vứt vào vườn bách thú, nơi nuôi đủ các loại hổ, beo, cá sấu, vì tội Đảng coi rẻ mạng sống hơn mạng chết, coi ông hơn cả vua chúa quan lại thời xưa, đến mức người dân phải tự tìm câu trả lời sau cả vài chục năm chiêm nghiệm:

Vạn niên là vạn niên này
Đảng đem dốt nát đoạ đầy muôn dân
Triều đình độc ác muôn phần
Toàn dân gẫy cổ, mát thân cụ Hồ.

Ấy thế mà một người cầm bút như tôi lại bị đảng cấm đặt bút vào những vấn đề bị coi là " tế nhị", "vùng cấm", "điểm nóng" này, dù xung quanh những vấn đề này đảng treo đủ cá loại băng rôn, khẩu hiệu, nào là: “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân hưởng thụ”, nào “một chính quyền cho dân và vì dân”, nào “tham nhũng là quốc nạn, các chiến sĩ trên mặt trận báo chí phải kiên quyết bài trừ tệ nạn tham nhũng” v.v và v.v. Ấy thế mà hễ tôi hướng ngòi bút của mình vào đó, đảng xúi bầy đảng mafia, đầu gấu cùng đám quần chúng ít học vì bị đảng nhồi sọ theo cả hai hướng: ngu đần và lưu manh hoá để xúm vào la lối, như thể ngòi bút của tôi là dao mổ. Tôi chuẩn bị giơ dao kề cổ đảng, chọc tiết, moi gan, xẻ thịt đảng đến nơi... để lũ tiểu yêu hết lần này lần khác khám nhà tịch thu phương tiện làm việc, vo ve quanh nhà tôi cả 6 tháng trời chưa đủ còn xui đầu gấu vào để giở luật đảng, luật rừng trừng phạt tôi hết lần này lần khác, bắt tôi phải khăn áo gió đưa ra khỏi nhà, xa chồng, lìa con, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi Một xứ sở mà người dân coi Internet như kẻ thù, coi những người cùng bọc (“đồng bào”) với mình ở hải ngoại như phản động, coi đảng gian manh là bạn, bác Hồ xảo quyệt dâm ô là cha, coi mác xít lê nin là kim chỉ nam, coi kẻ lấn chiếm đất đai tổ tiên của mình là hoàng đế, sẵn sàng cúi đầu phục vụ, trù dập những người nói thẳng nói thật như cá nhân tôi - một phụ nữ không tấc sắt trong tay, nặng vẻn vẹn 45 ký, cao 1,52 vì suy dinh dưỡng nặng trong thời đảng trị: "Bắt ăn mì phải ăn mì. Đảng xa hoa cấm tị bì, kêu ca"... Một đất nước như thế có xứng đáng với tên gọi của bài viết: "ôi Việt Nam xứ xở mù loà ?” Xin sửa lại lời thơ Chế Lan Viên để phù hợp với bối cảnh xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc này (chỉ thay chữ đẹp bằng chữ tệ hoặc chữ đểu):

Những ngày tôi sống đây là những ngày đểu nhất. Vì mai sau đời không thể tệ hơn.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Các nhà sử học Mỹ chia rẽ trong cái nhìn về chiến tranh VN

Người Mỹ rút lui khỏi VN được nhớ đến rộng rãi như một kết thúc quá tệ của một chính sách chiến tranh sai lầm, thế nhưng bây giờ TT Bush lại dùng hình ảnh đó để so sánh với cục diện chiến trường Iraq.

Trước các cựu chiến binh Hoa Kỳ, TT Bush nhắc nhỡ nếu người Mỹ sa đà vào “thảm trạng thất bại của rút quân ở Iraq, hậu quả là chết chóc và đau thương chưa từng thấy kể từ khi chiến tranh VN kết thúc.”

Nhưng nhiều chuyên gia lại không đồng ý với cái nhìn của TT Bush khi so sánh hai cuộc chiến như thế.

David Hendrickson, chuyên viên về lịch sử ngoại giao Hoa Kỳ tại đại học Colorado, nói: “Đúng là thất bại của Mỹ ở VN có hệ quả nặng nề cho vùng, đặc biệt là Khmer Đỏ.” Nhưng ông Hendrickson cũng nói thêm là chính chiến cuộc VN đã tàn khiến Khmer Đỏ không có cơ hội tồn tại lâu dài được. Khmer Đỏ là sản phẩm của chiến tranh, giống như hiện nay số lượng của bọn khủng bố ở Iraq nhiều hơn là do Mỹ phát động cuộc chiến này.”

Andrew Bacevich, cựu chiến binh Mỹ ở VN và nay là giáo sư môn quan hệ quốc tế ở Đại Học Boston nói: “Mỹ rút quân ở VN lâu dài, không hề vội vã, bây giờ là phải nghĩ tới chuyện giới hạn mức thiệt hại cho Iraq nếu Mỹ rút quân, nhất là việc mở cửa đón nhận làn sóng người tị nạn Iraq.”

Một số nhà lập pháp và nhiều tổ chức nhân quyền ở Mỹ cũng lên tiếng thúc giục chính phủ Bush không nên giới hạn nhiều quá con số người tị nạn Iraq được nhận vào Hoa Kỳ.

TT Bush cũng so sánh tình hình hiện nay với Đức và Nhật thời Đệ Nhị Thế Chiến, nhưng ai cũng thấy Đức và Nhật là hai cường quốc không hề có nội thù lúc đó, không phải như Iraq hiện nay.

Steven Simon, thuộc Hội Đồng Quan Hệ Quốc Tế nói: “so sánh như thế thì hơi kỳ khôi, bất thường vì Mỹ và Đồng Minh đánh tan tành hai chính phủ Đức và Nhật, rồi lực lượng quân đội Mỹ chiếm đóng sau đó đông gấp 3 lần con số 160,000 quân hiện nay ở Iraq.”

Ngoài ra nhiều viên chức quân dội lão thành của HoaKỳ cũng nói thời Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng Mỹ biết hy sinh và một lòng cho chiến trường, nền kinh tế tan nát Đức và Nhật cũng được tận tình giúp đỡ sau chiến tranh, chuyện này hiện nay không thấy ở Mỹ.

Hai cuộc chiến Triều Tiên và VN trước đây cũng khiến đất nước Hoa Kỳ chịu nhiều hy sinh to lớn, như việc tăng thuế và việc nhập ngũ bắt buộc.

Một sĩ quan cao cấp hiện nay ở chiến trường Iraq còn nói: “Chúng ta chỉ chiến thắng toàn vẹn ở Đệ Nhị Thế Chiến nhờ Kế Hoạch Marshall, hiện nay Hoa Kỳ không hề có kế hoạch nào tương tự như thế cho vùng Trung Đông cả.”

Nguyễn Dương
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Khôn nhà dại chợ!
Nguyễn thanh Ty
Phải công nhận Đảng và Nhà nước ta rất anh hùng. Trong thời gian “xẻ dọc Trường Sơn, miệng ngậm B.40 đi cứu nước” đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng.

Nhiều đến nỗi “ra ngõ là gặp anh hùng”.

Trúc rừng không đủ lá để ghi công đức.

Đến nay, dân số lên tới tám mươi ba triệu lẻ mấy trăm, mà đã có tới tám mươi triệu anh hùng đoạt giải quán quân về khoản “thắt lưng buộc bụng” từ cái lúc tên đồ tể Lê Duẩn hung hăng con bọ xít phán rằng “Dân tộc ta là anh hùng. Đảng ta là đỉnh cao trí tuệ loài người”.

Ba triệu sót lại, không phải là dân thường mà là “đảng viên”. Họ sống khoẻ, béo tốt hồng hào nhờ ăn bám vào cái dù của Đảng ta.

Và một nhúm nhỏ, mấy trăm lẻ, là loại người đặc biệt, vừa không phải là anh hùng, vừa là không phải là dân thường.

Họ là những ông kẹ.

Nhưng họ có tính khiêm nhường của “bậc phụ mẫu chi dân” hay ví mình là “đày tớ của dân” “quên mình vì dân mà phục vụ”.

Những ông kẹ này chẳng ai biết ở mô tê, bỗng dưng tự nhảy lên đầu tám mươi triệu anh hùng để đè đầu, đè cổ rồi tự hô hoán lên rằng:

- Toàn thể nhân dân tuyệt đối tin tưởng và bằng lòng để tụi tui lãnh đạo đất nước!

Thế rối, hết đời cha tới đời con, cứ tiếp tục thay nhau ngồi trên đầu thiên hạ.

Mỗi lần nhường ngôi như thế, Đảng và Nhà nước ta cho diễn vở tuồng “Đảng cử dân bầu” hô hào dân chúng đi xem miễn phí. Mỗi người được phát cho cái vé có in dòng chữ: Đi đông, bầu đúng, cử xứng.

Màn hát kéo kên rồi hạ xuống. Từ Thái thượng hoàng, Đức vua, Tể tướng, đến văn võ bá quan, áo mũ cân đai, vẽ mặt bôi vôi, ra trình làng.

Mấy tay mõ làng, khua chiêng đánh trống rao lên rằng: Toàn thể lãnh đạo đều được dân tín nhiệm 99.99%.

Người dân đứng dưới khán đài xì xồ, xì xào:

- Đi vô, đi ra cũng thằng cha hồi nãy! Tụi tui đâu có bỏ phiếu cho thằng chả, sao chả cũng đắc cử hè?

Đó là chuyện tín nhiệm 99.99%.

Còn chuyện “trị quốc an dân – kinh bang tế thế” thì ra răng?

Tiền đề quả quyết một cách chắc nịch Đảng ta là “Đỉnh cao trí tuệ loài người”. Cho nên, không cần diễn nôm, ai cũng biết là Đảng ta là số 1. Tiếng Tàu gọi là số dzách”. Tiếng Mỹ gọi là “Nâm bờ oanh”.

Bài này chỉ bàn riêng về tài “đối nội và đối ngoại” của Đảng và Nhà nước ta trong chuyện đối phó với “thù trong giặc ngoài”.

Không biết Đảng ta từ lúc biến da con tắc kè màu xanh Đảng Lao Động thành màu đỏ Đảng Cộng Sản có ân oán giang hồ gì với thế giới không, mà lúc nào Đảng ta cũng nơm nớp lo sợ “các thế lực thù địch ngoại bang”.

Đó là bọn giặc ngoài. Mà Hoa Kỳ là kẻ thù chiến lược. Ngoài ra còn nhiều kẻ thù khác nữa. Bọn chúng luôn có âm mưu “diễn tiến hòa bình” hòng xâm lược ta.

Còn thù trong là “bọn phản động trong và ngoài nước”, lúc nào cũng “nói xấu, xuyên tạc, chống phá Nhà nước ta”.

“Bọn ngoài nước” ý Đảng ta ám chỉ mấy triệu “khúc ruột ngàn dặm”, “một bộ phận không thể tách rời”, là “máu là máu của Đảng ta”, đang làm ăn khắm khá khắp nơi trên thế giới, có đô la rủng rỉnh trong túi. Bọn này chỉ được phép đem đô la về nước giúp Đảng ta sống khoẻ thôi chứ không được bép xép cái mồm đòi tự do, dân chủ gì sất.

Trong nước có ai nói tiếng nói khác với Đảng ta thì “đích thị là bọn Việt gian nhận tiền bọn ngoài nước, để tuyên truyền chống phá Nhà nước XHCN”. Đảng ta “kiên quyết” đập nát từ trong trứng nước, nghĩa là từ khi mới “mở miệng” đòi dân chủ. Một loạt các nhà bất đồng chính kiến bị bắt giam và bỏ tù. Như LM Nguyễn văn Lý, luật sư Nguyễn văn Đài, luật sư Lê thi Công Nhân, bác sĩ Lê nguyên Sang, nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy… Nhẹ hơn một chút thì cho công an đến canh cửa ngày đêm. Như kỹ sư Đỗ Nam Hải, ông Hoàng minh Chính, Nguyễn thanh Giang, nhà văn Hoàng Tiến, Hà sĩ Phu…

Để đối phó với “thù trong” là bọn “ngoài nước” Đảng ta đã lập ra một bộ máy an ninh khổng lồ, tinh vi, nhạy bén, hữu hiệu, bao trùm khắp nơi như giăng thiên la địa võng.

Một con mén chui ra cũng khó lọt.

Điển hình thử một vài vụ cho thấy cái tài tình của Đảng ta, thường cao rao với thế giới là “Việt Nam rất ổn định chính trị”, chứ không phải là điều nói bá vơ.

Chẳng hạn như bà Thương Cúc, ông Đỗ công Thành hai Việt kiều Mỹ, trước đó không ai biết hai người này là ai, làm cái gì. Chỉ biết rằng họ theo lời kêu gọi của Đảng ta về quê hương để “ăn khế ngọt”. Thế mà Đảng ta biết rất rõ họ từ chân lông đến kẻ tóc “rằng thì là”- Chúng là bọn “khủng bố” về nước để mưu toan lật đổ Nhà nước ta. Hai người này vừa về đến Việt Nam là Đảng ta bắt giam liền một khi. Chờ ra Toà Án Nhân dân cúi đầu nhận tội.

Thế mới là tài.

Xa hơn chút nữa, như ông Trịnh vĩnh Bình, Việt Kiều Hà Lan, cũng ham “chùm khế ngọt” của Đảng ta móc trên lưỡi câu sấu, ôm hết của cải dành dụm mấy mươi năm về “góp phần xây dựng đất nước”. Ai cũng tưởng thế là tốt.

Nhưng Đảng ta lại biết rõ bên trong, tay Vĩnh Bình này tiếng bề ngoài là vậy nhưng bên trong không phải vậy. Đảng ta chờ cho mấy năm sau, con cá này mập lên, Đảng ta giật cần, xách mép con cá, cũng cho vào Toà án Nhân dân với tội danh “trốn thuế, làm ăn phi pháp” lãnh 12 năm tù.

Hết chối nhé.

Rồi một doanh nhân ở Pháp, cũng vì “chùm khế ngọt” nữa, ông Nguyễn Gia Thiều về làm ăn đàng hoàng, tạo dựng một cơ sở buôn bán điện thoại di động hiệu Nokia và Sam Sung với một người em. Đang làm ăn khắm khá, bỗng dưng công an đến thộp cổ ông Thiều với tội danh cáo buộc là buôn lậu điện thoại. Ông ta bị Toà án Nhân dân (cũng là Tòa án Nhân dân) tuyên án 20 năm tù.

Không được cãi nhé.

Thêm cái anh chàng dở hơi Trần Trường bên CaLi không biết đã ăn “trái khế ngọt” nào của Đảng cho chưa, bỗng hóa điên, đem cờ đỏ và “ảnh lộng kiếng Bác” treo trong tiệm cho thuê băng ca nhạc của mình, xuýt chút nữa thì bị Công đồng Hải ngoại cho lỗ mũi ăn trầu.

Trần Trường nhà ta hãi quá, ôm một mớ đô la chạy về Việt Nam “mách Bu”. Cứ tưởng bở sẽ được Bu xoa đầu an ủi. Ai dè bị Bu đè xuống lột không còn cái quần xà lỏn. Bây giờ thì Trần Trường biến thành Trần Truồng mà không thể há miệng kêu ca gì được bởi Đảng đã ngáng cái dùi cui giữa hai hàm răng rồi.

Trần Truồng lâm vào cảnh lưỡng đầu thọ địch. Không dám vác mặt về lại CaLi, đành phải chịu ở lại cái hóc Bà Tó Năm Căn chờ chết già.

Nhưng chuyện vui và hấp dẫn nhứt gần đây là chuyện ông Nguyễn đình Hoan, Việt kiều Mỹ.

Theo ký giả James Hookway của báo The Wall Street Journal ngày 14/8/07 tường thuật thì nội vụ như sau:

Cách đây một thập niên, ông Hoan về Việt Nam với những dự án để xây dựng một ngôi trường quốc tế. Ông ta nói rằng ông ta rất phấn khởi với niềm hy vọng cho nơi chôn nhau cắt rún của ông.

Nhưng hồi năm ngoái ông đã phải nằm trên một cái chỏng ẩm ướt trong nhà tù B14 tại Hà Nội sau một vụ tranh chấp trong việc làm ăn với các đối tác của Nhà nước Việt Nam.

Năm 1995 ông về Việt Nam với kế hoạch thiết lập một trường quốc tế để phục vụ cho những gia đình ngoại quốc lúc bấy giờ đang ồ ạt đến Việt Nam. Ông lập ra trường Quốc Tế Hà Nội với sự hợp tác của Trung Tâm Giáo dục Nhà nước Việt nam vào năm 1996. Nhà nước cung cấp một hợp đồng 20% thuê mướn trên một mảnh đất mà bây giờ rất có giá gần trung tâm Hà Nội, để lấy về 30% lợi tức trong nghiệp vụ này.

Khi giá trị miếng đất mà ngôi trường đang xây trên đó gia tăng, thì căng thẳng giữa ông Hoan và các đối tác của ông cũng tăng theo.

Tháng 6/2006 công an đã bắt giữ ông để điều tra việc đối tác Nhà nước tố cáo ông đã nhận bảo hiểm y tế một cách bất hợp pháp. (?)

Ông đã nằm tù 14 tháng để chờ điều tra. Hàng ngày ông nghe đài của Nhà nước Việt Nam oang oang mỗi buổi sáng trong sân nhà tù, thúc dục người Việt hải ngoại trở về để bồi đắp vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của đất nước. Mặc dù với nhiều bằng cấp từ hai trường đại học Vanderbilt và George Mason ở Hoa Kỳ, ông vẫn không hiểu nổi vì sao ông đã làm đúng những điều nhà nước mong muốn và cuối cùng thì vào tù.

Vợ ông đã phải trả 85 ngàn Mỹ Kim mà Nhà nước VN bảo là tiền thế chân. Trong khi ông Hoan đang ngồi tù thì Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đã khuyến cáo vợ ông Hoan là không nên đi về Việt Nam để cố tìm cách lấy lại tự do cho chồng, bởi vì họ không thể nào bảo đảm cho sự an toàn của bà.

Sau 14 tháng ngồi tù, công an kết luận trong bản báo cáo sơ khởi là không có bằng chứng rõ rệt nào để đưa ông Hoan ra tòa và thả ông ra. Nhưng tiền thế chân thì chưa hoàn trả.

Và ông Hoan vẫn đang chờ xem các công tố viên Việt Nam có quyết định chính thức để buộc ông vào bất cứ tội danh nào hay không.

Vào tháng 6, sau khi ông Hoan được thả ra, trường hợp của ông được đưa lên bàn làm việc của Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng. Theo báo Công an Nhân dân thì ông Dũng đã chỉ đạo cho các thành viên người Việt trong Ban giám đốc nhà trường phải giải quyết ngay những tranh chấp giữa nhà trường với ông Hoan, nếu không xong thì Nhà nước sẽ ra tay với những quyết định riêng. (?)

Được biết Hồ ngọc Đài, cựu Giám đốc Trung tâm Giáo dục Nhà nước Việt Nam là đối tác của ngôi trường quốc tế này, và là con rể của một cựu Tổng bí thư đảng, đã gọi ông Hoan là “một tên ăn cắp” nhưng từ chối không chịu giải thích lý do tại sao hắn ta chắc chắn ông Hoan là một tội phạm và không muốn nói nhiều thêm về vấn đề này. (Lược trích bản dịch của Khánh Đăng)

Ông Nguyễn đình Hoan tuy là một trí thức nhưng đối với Cộng sản ông vẫn còn quá ngây thơ, dù cho đã trải qua ba mươi năm kinh nghiệm xương máu.

Một điều giản dị mà ai ai cũng thấy được, riêng ông thì không. Đó là vấn đề tiền trên hết chứ không phải là “giáo dục”.

Ai đời, đa số người ta về VN là để móc nối với “cán bộ đảng ta” dựa thế, dựa thần để kinh doanh, để buôn lậu, để mánh mung, rồi chia chác 50/50 hoặc tui tứ anh lục. Riêng ông thì lại hăm hở với chuyện mở trường để “trăm năm trồng người”. Người ta hùn cho ông miếng đất mà ông chỉ chia có 30% lợi nhuận thì “biết đời cha” nào mà làm giàu nhanh được?

Bây giờ miếng đất đang nằm giữa thủ đô đang lên giá vùn vụt, giá mét vuông đất được tính bằng kim cương chớ không tính bằng vàng nữa. Người ta muốn xóa hợp đồng để lấy lại miếng đất, bán lấy tiền bỏ túi cho mau lẹ nên ông đừng thắc mắc là tại sao Nhà nước bắt ông vì hai cái cớ lãng xẹt ruồi bu là “mướn lậu” trợ tá để dạy Anh ngữ và nhận “bảo hiểm y tế bất hợp pháp”.(?)

Gần đây nhất, đám dân oan mười bốn tỉnh miền nam gần cả ngàn người, kéo lên Sài Gòn, căng lều giăng bạt trước Tòa Nhà Quốc Hội để kêu oan vì bị mấy ông bà quan đỏ cướp đất, cướp nhà, suốt gần một tháng trời trong cảnh gió mưa, đói khổ.

Đảng và Nhà nước ta dùng chiến thuật “thủ khẩu như bình” để người dân kêu mãi thì mỏi miệng, la mãi thì khan cổ, đứng mãi thì mõi mệt. Lúc đó không đánh cũng tan. Cuối cùng thì Nhà nước ta cũng thương tình cái đám dân oan, cho xe cây đến chở dân về bản xứ và thân tặng mỗi người mấy cái dùi cui để nhớ đời.

Trên đây chỉ là đơn cử vài vụ điển hình trong rất nhiều vụ liên quan đến “chùm khế ngọt” để thấy Đảng ta đối phó “thù trong” tài tình đến cỡ nào.

Về đối ngoại với bọn “giặc ngoài” thì sao?

Khi Liên xô sụp đổ đầu thập niên 90, thay vì nhanh chóng lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, Việt Nam đã liên kết với Trung quốc để bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa, xem Hoa Kỳ là kẻ thù chiến lược. Cũng kể từ lúc ấy, Việt Nam đã tự đưa đầu mình vào vòng kim cô của Trung quốc, kéo đất nước trì trệ thêm hằng chục năm so với các nước trong vùng.

Người dân Việt chưa có thấy Hoa Kỳ “chống phá” Đảng và Nhà nước ta ở cái khoản nào mà chỉ thấy trước mắt họ đổ tiền của và công sức vào giúp cho Đảng ta, môt con bệnh trầm kha nằm chờ chết, ngày càng thêm khoẻ ra.

Trong lúc Trung quốc “vừa là đồng chí vừa là anh em”, trước mặt thân thiết tặng Việt Nam “mười sáu chữ vàng”, sau lưng thủ sẵn chiếc dao găm đâm người anh em “khờ khạo”những nhát trí mạng.

Trong việc giao thương với Hoa Kỳ, Trung quốc luôn tìm cách ngăn cản. Vụ ngưng ký hiệp ước giao thương với Hoa kỳ, để cho Trung quốc ký trước, năm 2000 là một ví dụ.

Đảng và Nhà nước ta không những không coi Trung quốc là “giặc ngoài” mà còn quyết tâm khấu đầu làm cái bóng của thiên triều. Ngược hẵn lại với lòng dân, luôn coi Trung quốc là kẻ thù truyền kiếp phải cảnh giác đề phòng.

Với sự thần phục khiếp nhược của Đảng ta, Trung quốc ngày càng lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải mà Đảng ta không dám ho he một tiếng dù là phản kháng yếu ớt. Lại đơn cử vài ví dụ điển hình cho thấy rõ ràng Đảng ta “khôn nhà dại chợ”.

Ngoài việc thường xuyên phá hoại nền kinh tế của ta mấy mươi năm nay bằng cách tuồn hàng lậu ồ ạt vào các cửa khẩu biên giới từ cái trứng gà cho đến máy móc trang thiết bị… làm cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam phá sản.

Kinh tế nước nhà ngày càng lụn bại…

Trung quốc còn uy hiếp nước ta bằng vũ lực. Đã nhiều lần Hải quân Trung quốc bắn giết ngư phủ của ta để khiêu khích nhưng Đảng ta đền ơn đáp nghĩa “mười sáu chữ vàng” ông anh đã tặng cho bằng bốn chữ “im lặng là vàng”.

Theo tin BBC, ngày 20/7/07 “tàu Hải quân Trung quốc hôm 09/7 đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, cách TP Sài Gòn 350 Km làm cho một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương”.

Biến cố xảy ra đã 2 tuần lễ mà Việt Nam vẫn hoàn toàn im lặng.

Hai năm trước, ngày 08/01/05, Hải quân TQ xả súng bắn chết 9 ngư dân Việt Nam cư ngụ tại các làng chài lưới vùng Thanh Hóa, bắt đi 8 người khác và tịch thu một thuyền đánh cá.

Phía TQ lại ngang ngược gán tội những ngư dân Thanh Hóa là hải tặc.

Phía Việt Nam vẫn giữ thái độ im lặng.

Cho đến nay, không ai biết vụ việc đã giải quyết ra sao.

Có lẽ Đảng ta lại áp dụng chiêu cũ “thủ khẩu như bình” để phía TQ bắn giết ngư dân Việt mãi cũng phải mỏi tay thì ngưng. Thế là mọi việc lại “ổn định”?

Các ngư dân Việt Nam đánh cá trong vùng biển xãy ra biến cố là trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Thế mà, đại tá VC Lê phúc Nguyên, phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, trả lời phỏng vấn với báo The Straits Times (Tân Gia Ba) được BBC ghi lại ngày 19/7: “Ngư dân rất khó mà biết được đâu là lằn ranh chính xác giữa hai bên. Thế nhưng không nên dùng vũ lực trên biển vì việc này sẽ chỉ dẫn đến các vấn đề nghiệm trọng hơn mà thôi”.

Câu trả lời của ông Nguyên rất “ấm ớ hội tề”, giống như con đà điểu rúc đầu vào cát, chổng đít ra ngoài để tránh nạn.

Hải quân TQ thường xuyên “dùng vũ lực” trên biển đối với ngư dân ta, nhưng đã dẫn đến “vấn đề nghiêm trọng” nào chưa?

Đài Loan cách đây không lâu cũng tập trận bằng đạn thật trên đảo Ba Bình, thuộc Trường Sa, xây rada, làm lại phi trường, công sự chiến đấu trên đảo nhưng Việt Nam làm gì được Đài Loan?

Phía Nam Dương cũng thế, vừa rồi bắn chìm thuyền và gây tử thương nhiều ngư dân Việt Nam, nhưng có việc nào “nghiêm trọng” xãy ra đâu?

Nguồn tin BBC: “Các nguồn tin quân sự nói ngày 9/7 hai tàu chiến cơ động BPS-500 của VN co Nga thiết kế đã vội vã đến hiện trường như phải đứng từ xa vì hỏa lực quá mạnh từ tàu Trung Quốc. Đại tá Nguyễn Phúc Nguyên nói: “Về lâu dài, chúng tôi cần củng cố lực lượng hải quân cũng như nâng cấp các đơn vị tuần tra ven biển”

Rõ ràng hải quân VN quá yếu, chỉ có khả năng đứng xa xa và ngó trước súng của địch. Hải quân VN chỉ có khả năng duy nhất là chạy bắt người vượt biên.

Cũng như những vạt dầu không biết từ đâu, liên tục trong nhiều tháng, từ đầu năm 2007, từ ngoài khơi tràn vào bờ biển miền Trung VN, chạy dài từ Quảng Bình cho đến Phan Thiết, gây ô nhiễm môi sinh và làm thiệt hại kinh tế lớn lao cho người dân sống trong vùng.

Đến tới hôm nay, Nhà nước vẫn chưa biết nguồn gốc các vết dầu loang ấy từ đâu. Mới đây, TT Nguyễn Tấn Dũng nói sẽ nhờ Nhật bản truy tầm dùm.

Chắc chắn các vệ tinh của Nhật sẽ truy ra ngay. Họ đã biết các vạt dầu ấy từ đâu đến, nhưng Nhà nước VN không dám công bố vì khiếp sợ phản ứng của Trung Quốc. Vì tháng 5/1992, TQ ký với Công ty Crestone, Hoa Kỳ để tìm dò một khu vực 25.000 km2 thuộc lãnh hãi VN, nằm về phía tây thuộc đảo Trường Sa. Tháng 8/06 TQ cho khai thác giếng dầu Hóa Quang, thuộc khu vực Hoàng Sa, cách Đà Nẵng 230 km. VN có lên tiếng phản đối lấy lệ nhưng TQ bất chấp.

Như thế chắc chắn các giếng dầu của TQ khai thác đã làm dầu tràn gây ô nhiễm cho bờ biển miền Trung VN.

Trong một bài viết nhan đề: Vấn đề tranh chấp Trường Sa: hậu quả của những sai lầm chiến lược, ông Trương Nhân Tuấn, tác giả, nhận định: “Ở đây ta thấy Nhà nước Việt Nam, dầu đã tỏ ra rất côn đồ trong việc giải quyết các vụ dân oan đảng cộng sản cướp đất trong những ngày trung tuần tháng 7/07 vừa qua, nhưng lại tỏ ra khiếp nhược đến mức hèn hạ trước những nước hùng mạnh khác”.

Ông đề nghị:

“ Việt Nam không thể bó tay, bất lực “từ xa đứng nhìn” như hiện tại.

Lãnh đạo VN hãy tức thời mở mắt, định hướng lại chiến lược quốc gia, nhận rõ đâu là bạn đâu là thù, phải coi quyền lợi dân tộc là tối thượng. Tình trạng này kéo dài là mất tất cả cho Tàu. Trước mắt, Nhà nước VN (phải) lấy bớt ngân sách cho công an, giải tán ít nhất 2/3 đám côn đồ ức hiếp dân lành này, thanh lọc, chỉ chọn những người có ý chí phục vụ cho dân, lấy lại ngân sách dành cho tổng cục 2, dẹp bỏ hệ thống đảng ủy song song với hệ thống nhà nước, dẹp đám đảng viên ăn hại đái nát, ăn bám vào dân, là gánh nặng cho đất nước, thanh lọc lại toàn bộ nhân sự bộ Quốc phòng, tuyển những người trong sạch, có khả năng quân sự, tất cả dồn vào việc hiện đại hóa quân đội, thì rất có thể không bao lâu VN sẽ có thể có khả năng làm cho đối phương nhượng bộ”.

Những điều ông Tuấn đề nghị chỉ là mơ ước hảo huyền. Nếu mấy tay lãnh đạo CS biết nghĩ như ông chừng một phần mười thôi, thì từ năm 75 đến nay, ba mươi năm qua, đất nước VN dù không bằng Nhật Bản cũng không đến nổi kém cạnh Thái Lan hay Xing Ga Po chứ có đâu tụt hậu quá mạng vậy. Còn thua cả Căm Pu Chia mấy phần.

Đảng ta sống hùng, sống mạnh và giữ vững được cái ngai vàng đến ngày hôm nay là nhờ cả vào lực lượng công an mà ông gọi là cái đám côn đồ ăn hại đái nát, ăn bám vào dân rồi hà hiếp dân, ông lại nhè đề nghị giải tán, Đảng có mà chết bất đắc kỳ tử à? Hoài công!

Thà rằng mất nước vào tay Tàu cộng, (cũng đã mất ải Nam quan và thác Bản Giốc từ lâu rồi, có làm sao đâu) cũng là đất nước XHCN cả, đâu còn ranh giới quốc gia nữa, Trung Quốc là ta, ta là Trung quốc, còn hơn là mất Đảng mất ngai.

Chỉ xấu hổ một nỗi là Đảng và Nhà nước ta đối với người dân mình thì giỏi dùng bạo lực dùi cui, súng A.K để đàn áp thẳng tay, còn đối với những thế lực ngoại bang thì chỉ “đứng xa xa mà ngó” với thái độ khiếp nhược.

Dẫu hèn nhát không dám ra tay đánh trả với đám tàu ô TQ như quân lực VNCH năm 1974 đã từng hy sinh mạng sống để chống trả đến cùng, thì cũng ráng hô lên một tiếng nói phản kháng để còn giữ được mặt mũi quốc gia chứ.

Lẽ nào lại chịu nín nhịn ô nhục đến như vậy!

Lại cứ đóng cửa mà hô khẩu hiệu “Việt Nam anh hùng. Ra ngõ gặp anh hùng”.

Nếu thật được như vậy, ta sẽ cho thằng Vi Tiểu Bảo đến trước Bắc bộ phủ mọp đầu hô to ba trăm lần, “Đảng CSVN muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ”, gấp trăm lần thằng Nguyễn văn Trỗi của đại thi nô Tố Hữu phịa ra, trước khi bị xử bắn, hô ba lần “Hồ chí Minh muôn năm”.

Có giỏi thì “khôn ngoan đá đáp người ngoài”. Còn cái kiểu xử sự như bấy lâu nay của mấy “đỉnh cao trí tuệ” thì rõ là khôn nhà dại chợ.

Nguyễn Thanh Ty
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

THƯ GỬI ÔNG NGUYỄN TẤN DŨNG,
THỦ TƯỚNG CHXHCH VIỆT NAM
.

Chu TấtTiến

Lời đầu tiên là một điều minh xác
Thư này được viết với tư cách một công dân
Sinh đẻ tại Việt Nam, lớn lên và lập thân
Rồi đi xa, nhưng vẫn nhớ quê hương ngào nghẹn
Tôi không gửi thư đến ông như một người kiếm chuyện
Làm quen ông, một chức vụ lẫy lừng
Để sau này, có cơ hội tưng bừng
Về đất nước, bon chen, kiếm cháo
Tôi cũng không phải là người táo bạo
Tìm cách gần ông, một triệu phú giầu nhất vùng
Nhất Việt Nam, nhất Đông Á, tài sản nhiều vô cùng
Nếu được ông cho một chút lẻ, cũng tiêu hoài không hết
Những biệt thự Hồ Tây, những công ty hàng may, hàng dệt
Những cổ phần con cháu đứng tên giùm
Vợ lớn, bồ nhí, người yêu, người phục vụ, từng chùm
Một cái chỉ tay, người người cúc cung, tận tụy
Những trương mục rải khắp nơi, Mỹ, Tây, Thụy Sĩ
Tiền cứ vô nhà như thác chẩy vào hồ
Từ hồi 75, khi hành chính còn xô bồ
Đảng đổi tiền, đánh tư sản, cướp tiền dân, bỏ túi
Cả miền Nam, vài chục tỷ đô la, bỗng nhiên, chia dấm dúi
Cho vài chục lãnh đạo, thử hỏi ai chẳng giầu to
Rồi độc quyền thương gia, xí nghiệp, buôn bán vô bờ
Ký một tờ giấy, là tiền vô như nước
Chị Ba nắm vùng này, anh Sáu vùng kia hưởng phước
Có Công An, còng số 8 , súng Aka
Đứa nào ho he, cứ nhốt chúng cho ta!
Còn đồng chí thích biệt thự nào, cứ lấy
Trước là làm Trụ sở, sau thì ký giấy
Hóa giá nhà, cho làm chủ khơi khơi
Và thế là, tài sản đất nước mất toi
Một chốc bốc hơi, nước thì nghèo, Đảng thì giầu bự
Thôi, nhưng mà, nói làm chi chuyện cũ
Ba mươi mấy năm rồi, gợi lại, nước mắt nhòa
Tôi chỉ muốn hỏi ông chuyện hiện tại, không xa
Vài câu hỏi, trước khi ông đến Mỹ...


****

Có bao giờ ông nhớ lại thời chống Mỹ
Những mẹ già nhịn đói, nuôi ông
Những người thôn quê, giúp ông vót hầm chông
Củ sắn, củ khoai chia cho ông một nửa
Ông nịnh họ là Mẹ Cách Mạng, Mẹ Chiến Sĩ, Mẹ... gì nữa?
Giờ đây, ông huy hoàng, họ vẫn cứ long đong
Vách lều năm xưa, vẫn rách nát, từ Xuân đến Đông
Mưa vẫn dột, gió vẫn lùa, lạnh giá
Họ chỉ có chút đất ruộng, chút vườn xưa hương hỏa
Mà Đảng ông lại nỡ trưng thâu
Không một chút gì ơn trả cho nhau
Lại táng tận tịch thu, đuổi cổ
Mẹ Chiến Sĩ năm xưa, giờ này, đang khóc khổ
Đứng ngoài đường, làm một lũ DÂN OAN
Ông ngồi xe láng đi qua, còi hú vang vang
Không nhìn thấy nước mắt mẹ già ướt phố!
Những chiếc áo rách kia, ở nhà ông, chó không thèm rớ!
Đầy tớ ông, toàn vải ngoại, hàng sang
Những chiếc nón lá kia của lũ DÂN OAN
Mong gì thấy trong cầu tiêu ông Tỷ Phú
Ông Thủ Tướng ơi! Đảng ông quá giầu, còn tham chi nữa?
Ông chỉ có hai tay, một cái miệng, một bụng to
Ăn đồ ngon bao nhiêu, cũng chỉ đến lúc no
Sao lại để NHÂN DÂN, NGƯỜI CHỦ ĐẤT NƯỚC chết đói?
Có lẽ các ông chỉ thích xài danh từ le lói
Ủy Ban Nhân Dân, Thư Viện Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân
Trung với Đảng, Hiếu với Dân, Đầy Tớ Nhân Dân...
Mà thực chất, chỉ những Nhân Dân ấy khiếu kiện
Vậy xin ông Đầy Tớ Nhân Dân ấy, làm ơn mở lòng từ thiện
Trả lại cho Nhân Dân ruộng đất cắm cái dùi
Một tấc đất thôi, để mưa nắng khỏi dập vùi
Già sắp chết rồi, mong có chỗ trú mưa cho con cháu...



****

Thưa Ông Thủ Tướng, ông đông bồ nhí, lắm con, nhiều cháu
Có khi nào ông nghĩ chúng đứng đường
Mặc quần lòe, áo hở ngực, kệ phong sương
Chụp giật khách qua đường, bán xác
Những đứa bé mới lớn lên, mặt còn ngơ ngác:
Chú chơi con đi! Con hãy còn trinh!
Miễn sao cho mẹ con, khỏi phải bán máu mình
Có mấy lít máu, bán hoài cũng chết
Em con, đang rửa bao ny lông đựng chuột chết
Đựng bao cao su, máu mủ, băng vệ sinh
Đôi khi đựng cả chân tay người thúi sình
Ruột gan, cơ phận người, bệnh viện vất ra đống rác
Chú ơi! Cả đời con chả biết gì, ngoài rác
Đẻ trên đống rác, và lớn cũng ở đây
Mười mấy năm rồi, con mới bỏ que sắt cầm tay
Đi bán của trời cho, mong bữa cơm thay cháo...
Những em gái khác, con cán bộ, lại là dân chơi bạo
Dư bạc tiền, nên hút, chích, lắc như điên
Thích ngủ lang mà không phải vì tiền
Bố mẹ chúng, Giám Đốc, Bộ Trưởng, quyền uy kinh khiếp
Chúng tha hồ chơi, đứa nào dám ăn hiếp?
Cả họ phải rũ tù, mang chục án làm gương.
Cho nên, cả thành phố, về đêm, đầy gái đứng đường
Ông có thấy nhục không, ông Nguyễn Tấn Dũng?



****

Nếu ông rời đô thành, đến cao nguyên, thung lũng
Đâu đâu cũng có nghề làm gái không biên cương
Phủ Lý, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hải Dương...
Những địa danh thơ mộng giờ thành ổ đĩ
Một khi con người đói quá, thì không cần suy nghĩ
Có chi bán nấy, giật dọc qua ngày.
Chân Cửu Vạn, tay xe thồ, lưng không bao giờ thẳng ngay
Vì khiêng vác, gái trai, ông già, bà lão
Có những làng, cả ba đời vác gạo
Vượt đồn canh, biên giới, suối khe
Những thân người gầy yếu như cây tre
Chỉ xương cốt, gân xanh, gân đỏ
Có những làng chỉ nghe đàn bà thở
Vì đàn ông chết ráo đâu rồi
Đào vàng, đi ăn mày, tìm trầm, chết dưới vực khơi
Nên đêm tối, tiếng thở dài như bão nổi
Những cô gái chỉ mong một đời có lần trao đổi
Tấm băng trinh lấy chút vị yêu đương
Trong thế giới chửi thề, lên chiếu, xuống giường
Sống như trâu chó, lấy chi mà mơ mộng!


*****

Ông Thủ Tướng ơi! Có bao giờ ông thấy lòng bỗng động?
Khi nhìn hình lũ con gái thơ ngây
Đứng trần truồng hàng lũ, dạn dầy
Để lũ vượn ngoại bang sờ sớ, nắn nắn
Thè lưỡi, chu môi, cho chúng mua mua, bán bán
Gái cần đi ngoại quốc, mong có tấm chồng Hàn
Hay Đài Loan, Singapore, các nước lân bang
Một chồng, hay chục chồng, vợ lớn hay vợ lẽ
Nô lệ tình dục ư? Miễn sao no lòng thì mặc kệ
Đứng trong lồng gương, lên Yahoo rao bán, ôi.. mặc thây!
Chính ông Chủ Tịch nước cũng mới vừa đây
Dụ Việt kiều về nước, nói gái quê nhà đẹp lắm!
Không biết ông nghĩ sao, chứ chúng tôi nhục lắm!
Nhục cả ba bốn đời, nhục Quốc Tổ, nhục tông môn
Khi con người chỉ còn nghĩ đến bán trôn
Nuôi cái miệng, còn chi là danh dự?
Bốn ngàn năm văn hiến, ngời ngời lịch sử
Chống Bắc Phương, Thanh, Tống, Nguyên, Mông
Dũng sĩ trời Nam hiển lộng thần thông
Đánh cho chúng tơi bời cây cỏ
Đánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ (1)
Lời Nguyễn Huệ xưa còn lồng lộng không gian
Vậy mà, giờ đây, ông đã dâng Ải Nam Quan
Nộp Thác Bản Giốc cho đàn anh hưởng dụng
Chỉ để cho các ông tung hoàng, dung túng
Lũ công an bắt bớ, dầy vò
Các cựu đảng viên, nhà phản kháng, bác sĩ, nhà văn, nhà thơ
Linh mục, luật sư, Thượng Tọa, Đại Đức
Chỉ vì họ dám hy sinh sức lực
Để nói lên tiếng nói tự lương tâm
Chống đối bất công, chống tham nhũng, bọn vô tâm
Cướp đất, cướp nhà, hành dân hơn trộm cắp...



****

Ông Dũng ơi! Có bao giờ ông trả lời những câu hỏi đầy ắp:
Tại sao đất nước ta, Người bóc lột Người?
Karl Marx ngày xưa chống nô lệ người
Ăng Gen viết: Người công nhân phải làm chủ! (2)
Giờ đây, người lao động sống như trong cũi chó
Không thuốc men, không bảo hiểm, sống liều
Trong Phố Liều, Phường Liều, hay Xóm Liều (3)
Những chỗ đất hoang, nặc nồng hôi thối
Có khác nào phu mỏ than sống đời tăm tối
Bên nước Anh, nước Pháp thời xa xưa
Nơi Karl Marx tiên đoán cách mạng sẽ nổ ra (4)
Để thực tế, nước ta, hiện nay là vậy đó!
Mấy mươi năm trước :Nhà văn An Nam khổ như chó! (5)
Mấy mươi năm sau, mấy chục triệu dân cực hơn trâu
Trừ đi chục triệu dựa vào Đảng, sống trên cổ trên đầu
Dân Việt còn lại, kiếp ngựa trâu, khốn nạn
Các ông đánh bạc, chơi ngông hàng trăm vạn
Tiền đô như tiền lèo, khi lao động chỉ vài xu.
Một em bé cao nguyên, gánh củi có vài chục xu (6)
Em bé thành phố, đánh giầy, một ổ bánh mì chưa đủ
Trinh trắng em tôi, có chục đô một lần ngủ
Thầy cô giáo một tháng được hơn trăm.
Giám Đốc kia , chơi bạc bằng cả làng ăn nhiều năm
Ông nọ cá độ, bằng vài ngàn người sống mút chỉ.
Đốt một phong pháo chơi, bằng tiền mua bao trinh nữ
Nuôi một chú bẹc giê, phải nuôi thêm vệ sĩ cả bầy
Các sân chơi Gôn của ông, thẳng cánh cò bay
Bằng ruộng lúa cả làng tôi, hay cả ho.



****

Ông Thủ Tướng ơi! có bao giờ thấy người rúm ró
Lạy lục van xin trước cửa bệnh viện Nhân Dân
Xin được chữa bệnh, được nạo thai, được một chỗ đặt chân
Một chiếc chiếu đặt thằng con sắp chết
Ông có nghe tiếng quát nạt giữa tiếng rên xiết
Tiếng khóc than ấm ức, tiếng kêu Trời
Tiếng cò bán máu, cò thuốc Tây hay cò chạy quan tài
Muốn được chết cũng không yên thân nằm chỗ
Ông Công An chưa cho phép chết, gia đình còn khổ
Còn nhờ cò đút lót, trao tay
Ở đâu cũng có cò: cò xin việc, cò chạy án, hay đường dây
Đường dây bán máu, đường dây phá thai, đường dây bệnh viện
Muốn chữa bệnh: Tiền! Muốn chết: Tiền! Muốn chôn: Tiền!
Chôn rồi, muốn không bị phá, lại cần thêm tiền nữa!
Ôi! Từ sinh ra đến chết, lúc nào cũng có người đứng giữa
Đó là anh Công An Nhân Dân có quyền hạn tầy đình
Luật ở miệng tao! Anh hãnh diện chỉ vào mình (7)
Kẻ cai trị những con người Việt Nam Mù, Lòa, Câm, Điếc
Không còn thấy chút nào nhiệt huyết
Chỉ thấy Mù lương tâm, Điếc tai, Lòa mắt, Câm mồm!
Trước hiện tượng cả nước đang phát triển nghề Ôm!
Bia ôm, ngủ trưa ôm, võng ôm, hớt tóc ôm
Karaokê ôm, chè đậu xanh ôm, mía ôm...
Học sinh ra trường, không có nghề, thì ôm đại
Cả nước, chỉ 30% học sinh được Tổ đãi (8)
Vào đại học rồi nam sinh cờ bạc, nữ sinh vợ thuê
Còn 70% kia, thì nhào vô nghề giật dọc
Tuy vậy, cũng còn hơn Bí Thư-Cử Nhân mà không biết đọc
Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân không có bằng
HIệu trưởng Trường Đại học cũng lãnh đạo không bằng
Giám Đốc Bệnh Viện mới học lớp ba bổ túc
Bộ Trưởng Kinh Tế, Tài Chánh có học hay không, tùy lúc
Chỉ một điểm chung là tham nhũng, kênh kiệu, khoe khoang
Mua xe hơi trăm ngàn đô la mới sang
Trong khi người nghèo thì bán mạng, làm liều mong sống sót...


****

Ông Thủ Tướng ơi! Đảng ông thích lời nói ngọt:
Lương tâm của Thời Đại, Đất nước Anh Hùng
Nhiều đến nỗi ra ngõ cũng gặp anh hùng (9)
Giờ thì chỉ thấy một văn chương Đéo! (9)
Từ nữ sinh đến ông già, mở miệng là đéo
Đéo sợ thằng nào! Đéo thông cảm! Đéo cần lịch sử!
Đéo cần tử tế! Đéo cần giúp ai! Đéo vào thiên hạ sự!
Ở đời, cứ có tiền là nhào dô, đánh du kích, rồi rút lui.
Cây gỗ quý cứ chặt bừa, thú rừng cứ đốt thui
Chất hóa học đổ tràn, kệ cha chúng mày chết dấp!
Kệ rừng biến thành sa mạc, kệ sông đục rồi vùi lấp
Kệ bờ sông lở bồi, cứ lấy cát bán buôn
Kệ nhà dân tụt xuống sông, kệ rạch biến thành truông
Kệ khói bụi, ho lao, thủng phổi
Kệ thức ăn pha trộn chất diêm muối
Kệ nước tương là chất độc kinh hoàng
Kệ thế hệ này, thế hệ nữa, tan hoang
Miễn tiền đô Mỹ cứ chui vào quỹ



*****

Ông Thủ Tướng ơi! Biết nói chi nữa nhỉ?
Nói nhiều thì lệ tràn, mà cũng vô ích mà thôi
Đảng của ông vẫn chễm trệ ngồi
Trên mấy chục triệu dân ngu, dân khổ
Hàng trăm bài báo, hàng ngàn tờ công tố
Vài vạn buổi truyền thanh, truyền hình quốc tế
Trăm cuộc biểu tình của DÂN OAN như thế
Ông vẫn bình tâm rung đùi, máy lạnh, gái chung quanh
Ông như Lê Ngọa Triều, Lê Chiêu Thống HÔN QUÂN
Đóng cửa, bịt tai tàn tàn hưởng thụ

Những khẩu hiệu khiếu kiện tràn đầy đường phố
Thủ Tướng ơi! Cứu Dân!, Đảng ơi! Cứu dân!
Ông lệnh cho xé bỏ, tống giam mấy thằng kích động nhân dân
Mặc dù chúng chỉ khóc than những lời đau đớn
Báo chí ông chụp mũ, bắt những ai có lòng hảo hớn
Đến chia gói mì, chia ly nước cho DÂN OAN
Chưa có ai dám gọi ông là HÔN QUÂN
Chưa có ai dám gọi ông: Lũ cướp ngày của lịch sử! (10)
Họ chưa sánh ông với Tần Thủy Hoàng, Staline, hoặc ai trong lịch sử
Đã dùng cường quyền trấn áp dân đen
Họ chỉ quỳ xuống, van xin ông, đừng Đến hẹn lại lên (11)
Cứ đến hẹn là nhà bay, đất mất
Bí thư Xã, Chủ Tịch Phường hễ ra hẹn nộp đất
Mà không tuân, thì Xử Lý nghiêm minh
Còn bồi thường? Thì tuy đất một nghìn
Ông Lý Trưởng: Một trăm? Không chịu? Kệ mẹ!! (12)
Ông Trương Tuần: “Chống phá Cách Mạng! Đánh bỏ mẹ!?
Bà Tổng Cai thì: Nhốt chúng cho biết tay!
Những tay phú lít Tây lập tức ra tay
Có khác gì đâu, những ngày mà các ông bị Tây nhốt
Xà lim sẵn sàng cho cặp rằng đi hốt
Hơn nửa thế kỷ sau, những chị Dậu của Tắt đèn
Những Bà Địa Chủ ngỏn ngoẻn ép buộc dân đen
Bán chó, bán con, cho mấy thằng già bú sữa
Những anh Dậu bị gông ra đình, đánh cho ụa mửa
Vẫn dẫy đầy trong xã hội ông trị cai
Chỉ khác là ngày xưa, thông tin ít, nên thế giới không đoái hoài
Giờ thì cả quốc tế đồng thanh lên án
Các ông vẫn mặt trơ, bóng trán
Ngậm miệng ăn tiền, đàn áp lũ dân ngu, khu đen


****

Thủ Tướng ơi! Còn nhớ ngày các ông giương lá cờ lên
Có búa - liềm tượng trưng cho nông dân, lao động?
Các ông hô hào đánh tư sản mại bản, tiếng loa lồng lộng
Vài trăm ngàn người ông cho là Tư sản, địa chủ , giờ nơi đâu?
Họ đã chết trong đấu tố, Lý bá Sơ, hay núi thẳm, rừng sâu
Sau 75, tư sản vào tù hoặc kinh tế mới hết ráo
Chủ trương của các ông được thi hành rốt ráo
Sao bây giờ cả Đảng thành Tư Sản Mại Bản, bán nước cho Tầu?
Hoàng Sa, Nam Quan, Bản Giốc giờ còn đâu?
Đảng nhượng từng phần Vũng Tầu, Đồ Sơn, Nha Trang... mở sòng bạc
Chỗ nào có tiền ngoại ngon lành là các ông kiếm chác
Ký giấy nhượng luôn cho Tư bản vài chục năm
Không còn nhớ từ Triệu, Trưng.. luôn chống giặc ngoại xâm
Các ông chỉ đặt bút ký là đất thiêng biến mất!
Ôi! Có khi nào mà ông nghĩ đến đau thương chất ngất
Hàng triệu triệu người chiến sĩ hy sinh
Đã đổ máu xương ra bảo vệ từng tấm sinh linh
Bảo vệ danh dự dân Việt, bốn ngàn năm lịch sử
Có bao giờ mà mắt các ông nhòa lệ?
Nâng ly ruợu ngoại lên là thấy máu trong tay?
Ăn miếng cơm ngon mà tưởng như ăn thịt dân đây?
Mỗi ngụm ruợu là cả triệu trẻ em đói khát
Một lần các ông vung tay chơi bời, ngàn gia đình tan nát...


****

Ông có nghe thấy không?
Ông có nhìn thấy không?
Hồn oan dân đen đang đứng cạnh chiếc bàn dài
Hồn của họ ngắm bọn ông, ngủ say, dãi nhớt chẩy dài
Sau trận truy hoan với bao nhiêu gái đẹp
Những hồn tử sĩ, vài chục năm mê thiếp
Sẽ có lần viếng từng người, từng THỦ TRƯỞNG năm xưa
Họ sẽ hỏi ông: Thủ Trưởng muốn chết mấy cho vừa?
Lòng Tham, Sân, Si của những người lãnh đạo
Một chế độ độc tôn, độc quyền, tàn bạo
Không kể hạnh phúc dân đen, vận nước long đong
Mới vừa đây, báo cáo vài ngàn tỷ xuống sông
Vì tiêu phí cho mấy ông Thủ Trưởng?
Ôi! Trời ơi! Nước ơi! Không thể tưởng tượng!
Giữa thế kỷ văn minh này mà đất nước tồi tàn
Vẫn long đong giữa thế lực ngoại bang
Một Tầu, hai Mỹ, miễn sao cho các ông hưởng thụ!



****

Thưa Ông Thủ Tướng!
Chúng tôi, không kể là người chế độ cũ
Người miền Bắc, Nghệ An, Quảng Trị, hay Quảng Bình
Cùng viết thư này mong các ông nghĩ tình
Là dân Việt mà lắng nghe lời chân thực
Hãy quỳ xuống, sám hối, khi còn kịp lúc!
Sám hối với nhân dân, sám hối với Tổ Tiên!
Tội nghiệt các ông mang, lẽ ra phải trừng phạt triền miên
Nhiều đời, nhiều kiếp, vạc dầu, tùng xẻo
Nhưng vì tương lai của dân ta, thôi đành hòa dịu
Không muốn chiến tranh, chỉ đòi các ông trả lại dân quyền
Trả Tự Do, Dân Chủ, Nhân quyền
Cho mọi người dân cùng dựng xây trên tan nát
Bỏ điều 4 đi, đừng nghĩ là tự sát!
(Đúng ra, nếu các ông Tự Sát, cũng đúng thôi!)
Hãy từ bỏ đặc quyền, trả lại quyền cho tất cả chúng tôi
Tám mươi triệu người Việt máu đỏ, da vàng yêu dấu
Hãy nhìn thẳng vào những khuôn mặt đau đáu
Hãy lắng nghe tiếng nói của lương tâm
Hãy bàn giao quyền lợi cho giới trẻ, thanh xuân
Những người chủ tương lai của đất nước
Hãy mở cửa nhà tù, tìm những người từ trước
Vẫn kiên gan đòi sống theo trái tim
Như vậy, mới mong đất nước không đắm chìm
Trong nô lệ, cùm gông, không lối thoát
Mau mau lên, rừng vàng biển bạc
Sắp tan thành sa mạc, bể dâu
Thế hệ này không kịp nữa đâu
Chỉ còn thế hệ sau, mới mong vững chãi
Thôi, vài lời dông dài, viết hoài nói mãi
Cũng chỉ là những giọt lệ thương đau
Những giọt máu trong tim đã vỡ vụn, nát nhàu
Của những tâm hồn Việt Nam Chân Thành, Trung Thực.


Chu Tất Tiến. Tháng 9 năm 2007.


(Tha thiết ước mong lá thư này được in ra và đến tay Nguyễn Tấn Dũng và những người cùng trong chuyến Mỹ du.)


Chú Thích.-

(1) Hịch của Đại Đế Quang Trung.
(2) Ăng-gel: Những công nhân phải làm chủ tư liệu sản xuất.
Thực tế, nhà nước Việt Nam là chủ toàn bộ tư liệu sản xuất.
(3) Xóm Liều, Phường Liều...: Những khu vực của dân không hộ khẩu, anh chị, sống liều mạng
(4) Karl Marx: Tiên đoán cách mạng vô sản sẽ nổ ra ở những nước Tư Bản. Thực tế, Cách mạng vô sản xẩy ra ở Nga là
nước có chế độ Nga Hoàng.
(5) Thơ Nguyễn Vỹ.
(6) Một em bé bán củi vụn, măng tre ở Cao Nguyên suốt ngày được 30 xu.
(7) Một anh công an đi bắt những nhà phản kháng, khi được hỏi về Luật nào cho phép bắt người, đã quát lên: “Luật ở miệng tao!”
(8) Mỗi năm, chỉ có 30% học sinh Trung Học được vào Đại Học vì không có trường.
(9) Các câu nói, tiếng nói phổ thông ở ngoài Bắc.
(10) Ca dao: "Con ơi nhớ lấy lời này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan."
(11) Tên một cuốn phim cách mạng
(12) Hệ thống cai trị làng xã bây giờ không khác gì thời Tây Thực Dân đô hộ.Bí thư = Tiên Chỉ, Chủ tịch =Chánh Tổng hay Lý Trưởng, Công An = Trương Tuần hay Phú Lít Tây.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Đảng CSVN muốn tự sát thật rồi !!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 35, ngày 15-09-2007
Trong tư cách là Chủ tịch nước và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, ngày 27-8-2007 vừa qua, nhân kỷ niệm 62 năm “cướp chính quyền” (từ của CSVN), ông Nguyễn Minh Triết đã tới thăm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân và đọc một diễn văn quan trọng nói đến vấn đề an ninh quốc phòng giai đoạn hiện tại. Trong diễn văn này, Nguyễn Minh Triết đã dành một phần quan trọng để vẽ ra hình ảnh chế độ đang lâm nguy trước các thế lực mà ông kết án là “thù địch” và “phản động” trong ngoài. Từ đó ông đưa ra đòi hỏi: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp thì cũng không thể có chuyện đó được! Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát! Cho nên phải củng cố công tác chính trị tư tưởng, củng cố vai trò của đảng…”

Thật ra thì đảng và chế độ CS đã tự sát về phương diện chính trị và nhân tâm ngay từ khi Lénine thực hiện cuộc Cách mạng tháng 10 tại Nga năm 1917 rồi. Đổi đời (“cách mạng”) đâu chả thấy, chỉ thấy hàng ngàn, hàng vạn dân Nga tiêu đời trong những tháng ngày sục sôi máu lửa đó, gấp nhiều lần số kẻ bị Sa hoàng Nicolas II sát hại trong 23 năm ông cai trị (1894-1917). Tiếp đến hơn 10 triệu nông dân Nga bị Staline bỏ đói cho chết vì không chịu vào các nông trang tập thể. Từ đó bóng ma Cộng sản (lối nói của Marx), hay chính xác hơn là ác quỷ CS tiếp tục uống máu người để tồn tại, và gần 100 triệu nạn nhân đã phải hy sinh cho nó.

Dĩ nhiên, qua thời gian, thỉnh thoảng lại có một cây cọc gỗ đóng vào trái tim con ác quỷ này. Trước hết là Thông điệp Divini Redemptoris (Đấng Cứu chuộc thần linh) của Giáo hoàng Piô XI năm 1937, kết án chủ nghĩa Cộng sản “xấu xa, tàn ác và đồi bại tự bản chất”; tiếp đến là việc thanh toán Khối CS Đông Âu và Liên Xô từ 1989 đến 1991 do 3 bàn tay chủ chốt (theo nhận định của các sử gia) là Tổng thống Reagan của Hoa Kỳ, Tổng bí thư Gorbachev của Liên Xô và Giáo hoàng Gioan-Phaolô II của Công giáo; tiếp theo là "Sách đen về chủ nghĩa cộng sản" do sử gia Stéphane Courtois chủ biên năm 1997, tố cáo bao vụ khủng bố đàn áp của các chế độ Cộng sản và khôi phục danh dự cho những người đã bị chúng giết hại; rồi “Chín bài bình luận về đảng cộng sản” của Thời báo Đại Kỷ Nguyên năm 2004 vạch trần 9 khía cạnh khủng khiếp tội lỗi của đảng CS Trung Quốc nói riêng mà cũng là của mọi đảng CS nói chung; sau đó là Nghị quyết 1481 do Nghị viện Hội đồng Âu châu (PACE) biểu quyết ngày 25-01-2006, tuyên bố chủ nghĩa Cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền cách nghiêm trọng. Gần đây nhất là Đài tưởng niệm các nạn nhân của Cộng sản được khánh thành ngày12-06-2007 tại thủ đô Hoa Kỳ để muôn đời nhắc nhở cho toàn thể nhân loại về đại họa CS cũng như nói lên ý chí của toàn thế giới là phải hoàn toàn xóa sổ nó.

Trở lại lời tuyên bố ngang ngược nhưng cũng không kém phần thê thảm của Nguyễn Minh Triết, chúng ta thấy nó có những ý nghĩa nào? Theo giáo sư Âu Dương Thệ, trước hết, Nguyễn Minh Triết và tập đoàn lãnh đạo CSVN đã qua đó bộc lộ ý đồ đòi tiếp tục độc quyền sau 62 năm một mình một chợ cai trị. Đúng như các nhà tâm lý học nói, bản năng quyền lực là bản năng mạnh mẽ và dai dẳng nhất trong con người. Nó càng được gia tăng cường độ bởi cái chế độ độc tài toàn trị chưa từng thấy trong lịch sử là chế độ cộng sản. Điều đó cũng cho thấy tập đoàn lãnh đạo này không tin tưởng mà còn lo sợ nhân dân, lo sợ dân chủ. Bởi lẽ họ đã nắm quyền đâu có phải nhờ nhân dân chọn lựa, bầu lên và tin tưởng (dù họ vẫn không ngượng mồm nói thế). Tiếp đến, lời tuyên bố của Nguyễn Minh Triết cho thấy sau 62 năm độc quyền, tập đoàn lãnh đạo CS vẫn không dựa được vào dân, mà phải tiếp tục dùng bạo lực, quân đội và công an kìm kẹp dân. Điều ấy chứng tỏ chế độ không có lẽ phải (mặc dầu họ luôn lếu láo: đảng là đạo đức, văn minh, là lương tâm thời đại), và lại càng không có uy lực, vì uy lực đích thực nằm ở chỗ thu phục được lòng người. Chính vì không dựa vào nhân dân mà CSVN đã khiếp nhược trước Bắc triều Đại Hán, phải cống nộp cho họ bao phần lãnh thổ và lãnh hải, chẳng dám phản kháng khi quân đội họ giết hại ngư dân của mình. Chính vì không dựa vào nhân dân (nhất là những tiếng nói công tâm dân chủ từ trong xã hội và các giáo hội), cộng thêm với bộ óc lãnh đạo tối cao vừa yếu kém dốt nát, vừa tự mãn trì trệ, mà bao nhiêu chủ trương, chính sách, kế hoạch vạch ra cho toàn thể đất nước hay từng địa phương đều hoặc thành công nửa vời, hoặc hoàn toàn thất bại, chỉ hao tốn sức người, sức của, đẩy đất nước tiếp tục tụt hậu về kinh tế, suy đồi về đạo đức, rối loạn về xã hội, thê thảm về y tế và giáo dục… khiến VN luôn đứng hàng chót trong các bảng xếp hạng thành tích các loại của quốc tế. (“Thành tích” mới nhất theo Báo cáo năm 2006 của Ngân hàng Thế giới thì thanh niên Việt Nam tuổi từ 20-24 chỉ có 10% học lên Đại học, trong khi đó Thái Lan, nhờ không có xã hội chủ nghĩa và độc tài độc đảng nên có 41%, và Nam Hàn, vì chống xã hội chủ nghĩa và độc tài độc đảng nên có 89%). Cuối cùng, việc công khai đòi hỏi độc quyền cai trị lâu dài đã cho thấy tập đoàn lãnh đạo CSVN chủ trương tiếp tục tước các nhân quyền và dân quyền căn bản của nhân dân. Các quyền này đã được CS long trọng ghi vào Hiến pháp (dù với cái đuôi xảo trá “theo quy định của pháp luật”), đã được CS cam kết thừa nhận khi thò tay ký Công ước về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Thế nhưng với những văn bản dưới luật, CS đã tước bỏ dần dần các quyền này (26 quyền cơ bản theo Liên Hiệp Quốc) chỉ còn lại hai quyền duy nhất là quyền vâng lời đảng và quyền xin phép nhà nước. Việc đàn áp nông dân khiếu kiện, công nhân đình công và tôn giáo phản kháng trong những tháng gần đây là bằng chứng rành rành. Thế mà CSVN vẫn nuôi mộng ngồi vào ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Bảo vệ an ninh thế giới gì đây khi cứ gây rối cuộc sống, hăm dọa sinh mạng và tước bỏ tự do của nhân dân nước mình?

Đòi hỏi và đe đọa nói trên của NMT, cũng theo Gs Âu Dương Thệ, còn chứng tỏ một sự lo ngại rất lớn của tập đoàn lãnh đạo CSVN đối với nhiều thành phần trong đảng, trong xã hội và trong dân Việt. Trước hết, câu “Dù ai nói ngả nói nghiêng” của ông ta đã bộc lộ nỗi hoang mang tột cùng của bộ chính trị và các ủy viên trung ương đảng, những kẻ luôn thấy mình như cỡi trên lưng cọp, vì ý thức rằng uy tín của họ chẳng còn gì trong dân chúng, đảng viên, công an và quân đội, do nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng và nạn lộng quyền ngày càng gia tăng. Bằng chứng cụ thể là các vụ Tổng cục 2, T4, PMU 18 trong lòng đảng vẫn bị ém nhẹm hay xử lý kiểu gãi ghẻ, các vụ cướp đất nông dân, cướp nhà thị dân, cướp cơ ngơi tôn giáo vẫn chồng chất mãi mà không giải quyết được… Tiếp đến, NMT đòi hỏi ngang ngược như thế là vì ý thức rằng nhiều giới trong xã hội thấy đã đến lúc phải xét lại vai trò của ĐCS: có nên để cho đảng độc quyền tiếp tục không, nếu muốn việc chống tham nhũng và chống lộng quyền có kết quả? Mấy thập niên nay, kể từ các ông đảng viên Trần Độ, Nguyễn Văn Trấn, Hoàng Minh Chính đến các khuôn mặt trẻ tuổi được đào tạo trong lòng chế độ như Dương Thu Hương, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn, Đỗ Nam Hải… tất cả đều đã lên tiếng báo động: độc quyền độc đảng vừa là nguồn gốc của các tệ trạng xã hội hiện nay ở VN, vừa là bước thụt lùi so với đà tiến của thời đại là dân chủ hóa toàn cầu. Cuối cùng, đòi hỏi như thế là NMT và tập đoàn lãnh đạo CSVN hiểu rằng trong đấu tranh chính trị hiện thời, các tổ chức đối lập với ĐCS đang tìm cách khai thác những sai lầm, những nhược điểm và những tội ác của đảng và chế độ (nhiều hơn bất cứ một chính đảng và một chế độ nào trong lịch sử). Đặc biệt các nhà dân chủ quốc nội lẫn hải ngoại đã, đang và sẽ tìm cách vận động nhân dân trong và ngoài nước cũng như dư luận quốc tế tố cáo những vi phạm nhân quyền của Hà Nội. Điển hình là các cuộc biểu tình rầm rộ nhân các chuyến công du nước ngoài của lãnh đạo CS. Đó là chưa nói tới cuộc biểu tình trên mạng mấy ngày gần đây để báo động cho Chính giới, Báo giới và các Tổ chức Nhân quyền về dự tính thanh toán Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong bạo lực, chỉ vì các lãnh đạo Giáo hội này công khai bênh vực và yểm trợ Dân oan khiếu kiện. Thành thử ông Triết nghĩ rằng đảng cần phải giữ cho được quyền lực bằng mọi giá hầu có thể tiếp tục lừa gạt bên ngoài và bịt miệng bên trong!

Thật ra, theo nhà báo Bùi Tín, “nhận định của ông Triết chỉ đúng, nền dân chủ đa đảng chỉ là tai họa chết người đối với những đảng viên cộng sản vụ lợi, hám quyền, tham nhũng, dùng đảng làm chiếc thang danh vọng, để cướp nhà, cướp đất của dân, cướp đoạt công quỹ, phá hoại uy tín của đảng; chúng tìm mọi cách duy trì chế độ độc đảng cũ kỹ lẻ loi, chỉ là để tiếp tục làm giàu phi pháp, thoả mãn lòng tham không đáy, kéo dài tội ác” của chúng trên dân tộc. Ngược lại, nếu ông Triết và bộ Chính trị biết nghe theo tiếng lương tâm và lẽ phải thì sẽ thấy rằng bỏ điều 4 hiến pháp chính là tự cứu mình, tự cứu đảng và khai sinh lộ cho cả dân tộc. Liên Xô và các nước Đông Âu đã ý thức được điều này cách đây gần hai thập niên, nên giờ đây đảng CS tại các nước ấy không còn nỗi sợ “cưỡi trên lưng cọp” (chỉ trừ những tay chóp bu đã gây bao tội ác), nỗi lo “nhân dân báo thù”; đất nước họ cũng trên đà phát triển kinh tế và nhiều mặt khác với một nền chính trị công bằng lành mạnh. Còn nếu đảng CS cứ bám lấy độc quyền chính trị, đó mới là hành động tự sát. Các đảng viên trục lợi sẽ bám lấy đảng và biến đảng thành một dụng cụ kinh doanh của họ, như mọi người đang thấy! Các đảng viên còn có lương tâm sẽ bỏ đi hết vì thấy đây không phải là đảng của mình nữa! Ðây là một hình thức tự sát thật sự! Nhưng nhìn vào những biến động chính trị và xã hội trong thời gian gần đây thì xem ra đảng CSVN muốn tự sát! Thế thì tốt cho dân tộc!
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Phật Giáo Trong Nước Đang Lâm Nguy
VI ANH .

CS Hà nội đang tập trung nỗ lực, chuẩn bị sắp tấn công lớn đối với Phật Giáo trong nước. Phật Giáo trong nước đang lâm nguy và báo động khẩn! Thực vậy, sau đây là những sự kiện rõ rệt như ban ngày.

Một, về phía CS Hà nội. Thứ Trưởng Công An tố cáo Phật Giáo "khích động” Dân Oan. Chủ tịch Nước VNCS Ô. Nguyễn minh Triết tuyên bố sẽ trừng trị thẳng tay những âm mưu lật đổ chánh quyền, khi ám chỉ Phật Giáo VN Thống Nhứt cứu trợ dân oan. Cả tháng nay CS Hà nội mở hết công suất của bộ máy tuyên truyền, dùng báo chí, truyền thanh, truyền hình của Đảng, mở chiến dịch qui mô "bôi bác" những chức sắc, đặc biệt là HT Quảng Độ.

Hai, về phía người dân Việt. Nhiều tổ chức của người Việt trong ngoài nước, đặc biệt là các tổ chức ủng hộ Dân Oan, không phân biệt tôn giáo, lập trường chánh trị, khẩn thiết kêu gọi người Việt hải ngoại trên Internet. Làm tất cả những gì có thể làm được, không bỏ lỡ cơ hội nào để cứu nguy Phật Giáo trước một cuộc "tắm máu" [chữ dùng trong lời kêu gọi từ trong nước] mà CS Hà nội sắp gây ra cho Phật Giáo VN Thống Nhứt. Ngoài nước, đặc biệt là ở Mỹ, thì kêu gọi hãy khẩn cấp điện thoại, điện thư, đánh fax cho những nhà lãnh đạo hành pháp, lập pháp Mỹ yêu cầu ngăn chận CS Hà nội. Đưa ra những địa chi có sẵn, chỉ cần điền tên, địa chỉ email, vào câu điện tín "CS sắp tấn công Phật Giáo, xin ngăn chận một cuộc "tắm máu" xảy ra ở VN". Và chỉ cần nhấp vào danh sách TT Bush, Phó TT Cheney, NT Rice, Chủ tịch Pelosi, và một số dân biểu nghị sĩ theo sát tình hình VN, trên web, là điện tín khẩn cấp sẽ đến ngay những người có thể nói, lời nói có ảnh hưởng đối với CS Hà nội.

Ba, quan trong nhứt là từ chính giới chức thẩm quyền của Phật Giáo ở hải ngoại. Ngày 15 tháng 9, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, trụ sở Los Angeles, California, Mỹ, phổ biến một Thông Bạch Khẩn của Hòa thượng Thích Hộ Giác, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ.

Ngày 16 tháng 9, Phòng Thông Tin của Phật Giáo VN Thống Nhứt, trụ sở ở Paris, phát hành thông cáo báo chí, phổ biến tổng quát khắp thế giới nội dung của Thông Bạch nói trên. Phần thượng từ của thông bạch nhấn mạnh sự kiện nguy cấp cho Phật Giáo: "Gần một tháng qua, các cơ quan truyền thông, truyền hình, truyền thanh và báo chí trong nước tung chiến dịch nước lũ bằng những lời lẽ nặng nề, thiếu văn hóa đối với hàng giáo phẩm lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN). Đặc biệt đối với Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Sự kiện trầm trọng đến nỗi Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang đã phải lên tiếng về thực trạng nghiêm trọng đang xẩy ra qua Giáo Chỉ thành lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo: "Những cuộc đàn áp liên tục, ngày càng gia tăng của Nhà cầm quyền CHXHCNVN, đặc biệt gần đây đối với các Ban Đại diện GHPGVNTN tại các tỉnh miền Nam và miền Trung. Hơn nữa, ngày 16 âm lịch Đinh Hợi tức 28.8.2007, hầu hết hàng giáo phẩm thuộc Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo, từ Viện trưởng, Phó Viện trưởng đến đa số các Tổng vụ trưởng bị các Ủy ban Nhân dân Phường mời đi làm việc, song song với chiến dịch báo chí, truyền thanh, truyền hình của Nhà nước trên toàn quốc tấn công, bôi nhọ, vu cáo GHPGVNTN và Viện trưởng Viện Hóa Đạo, vì Giáo hội thể hiện đức từ bi của đạo Phật góp phần cứu trợ vật chất cho tập thể Dân oan đi khiếu kiện bị thiếu thốn lương thực... Các cuộc cứu trợ thuần túy từ thiện xã hội của Giáo hội đã được thực hiện công khai ngày 13.7 và 17.7 tại Saigon và ngày 23.8 tại Hà Nội. Thực tại Dân oan đi khiếu kiện là mối bức xúc xã hội trầm trọng, sở dĩ còn tồn tại đến ngày hôm nay, là vì nỗi oan ức của người nông dân bị cướp đất, cướp nhà, bị lăng nhục và xúc phạm nhân phẩm từ hơn 20 năm qua không được nhà cầm quyền giải quyết. Chiến dịch đàn áp, vu cáo và khủng bố tinh thần hiện nay đối với GHPGVNTN báo hiệu một cuộc bắt bớ, đàn áp nước lũ có thể xẩy ra bất cứ lúc nào".

Phần nội dung gồm hai phần chánh. Một, lên tiếng phản đối CS. "Nhân danh Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ, Hòa thượng Thích Hộ Giác: --"Cực lực phản đối hành động thiếu công chính, kém văn hóa và vi phạm pháp quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước CHXHCNVN diễn ra tới tấp suốt gần một tháng qua đối với Hòa thượng Thích Quảng Độ và hàng giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN";-- "Yêu cầu Đảng Cộng sản và nhà nước CHXHCNVN chấm dứt tức khắc các hành động, và ngôn phong thiếu văn hóa trên các cơ quan truyền thông đại chúng". Vì theo Hòa thượng, "cách hành xử này vi phạm điều 71 trên Hiến pháp", "điều 33 trong Bộ luật Dân sự", "điều 121 và điều 122 trong Bộ luật Hình sự", "và vi phạm điều 9 trong Bộ luật Tố tụng hình sự".

Hai, yêu cầu: --"Ông Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, các Chính phủ, Quốc hội và nhân dân yêu chuộng công lý trên thế giới cùng các Tổ chức Nhân quyền Quốc tế và các Tôn giáo bạn lên tiếng can thiệp, yêu cầu nhà nước CHXHCNVN chấm dứt đàn áp GHPGVNTN, chấm dứt vu khống, mạ lỵ Hòa thượng Thích Quảng Độ và hàng giáo phẩm của GHPGVNTN.

Và "thiết tha kêu gọi chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử và Đồng bào các giới trên năm châu:- "Hãy viết thư cho Chính phủ, các vị Đại biểu Quốc hội tại quốc gia mình cư ngụ nói lên thảm trạng GHPGVNTN bị đàn áp và bị lăng nhục để yêu cầu can thiệp, áp lực chấm dứt tình trạng hiểm nguy đang đè nặng GHPGVNTN"; và "để nhanh chóng và tiện lợi, xin quý liệt vị viết trên bưu thiệp gửi các ông Nông Đức Mạnh (1A Hùng Vương - Hà Nội), Nguyễn Minh Triết (1 Bách Thảo - Hà Nội), Nguyễn Tấn Dũng (Hoàng Hoa Thám - Hà Nội) và Nguyễn Phú Trọng (35 Ngô Quyền - Hà Nội), với dòng chữ: "Chúng tôi cực lực phản kháng sự vu khống Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, yêu cầu chấm dứt tức khắc cung cách thiếu văn hóa, phi pháp luật và khủng bố của Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCNVN", rồi ký tên, ghi địa chỉ người viết".

Và yêu cầu "tổ chức các cuộc biểu tình tọa kháng trước Tòa Đại sứ, Tổng lãnh sự quán CHXHCNVN ở quốc gia mình cư ngụ. Xin ngồi im lặng trang nghiêm cầu nguyện dưới các biểu ngữ yêu sách, sau lưng các nhà lãnh đạo tôn giáo". Và đặc biệt, "Tại các chùa viện, tổ chức lễ Cầu an cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ và hàng giáo phẩm thuộc Viện Hóa Đạo và 20 Ban Đại diện GHPGVNTN trên toàn quốc".

Qua những sư kiện rõ rệt như trên, từ phía nhà cầm quyền CS Hà nội đến các tổ chức nhân dân trong ngoài nước, và chính từ phía Giáo Hội PGVNTN, người ta thấy CS Hà nội đã tuyên chiến với Phật Giáo. Phật Giáo trong nước đang bị tấn công bằng tuyên truyền liên tục, có thể sắp bị tấn công bằng bạo lực của nhà cầm quyền CS Hà nội. Tình trạng đang khẩn trương và nguy cơ đang trầm trọng. Giáo Chỉ thành lập, kiện toàn Văn phòng II Viện Hóa Đạo ở Hải ngoại mới đây cho thấy Giáo Hội trong nước đã chuẩn bị tình huống xấu nhứt. Khi hàng giáo phẩm trong nước bị CS bất động hóa, khi hệ thống tổ chức giáo quyền trong nước bị mất liên lạc, thì Văn Phòng II là cơ quan ở hải ngoại tam thời đóng vai trung chuyển liên lạc giữa cắc đơn vị địa phương hay trung ương lúc di tản chiến thuật, tạm thời điều hành giáo sự khi các chức sắc lãnh đạo bị ngăn trở do CS cô lập, bất bớ.

Phật Giáo từ ngàn xưa đã gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc Việt. Qua bao thời đại đã cùng quốc gia dân tộc VN giành độc lập và phát triển xứ sở. CS Hà nội diệt Phật Giáo là diệt nội lực dân tộc. CS diệt được Phật Giáo, tôn giáo lơn nhứt ở VN, thì các tôn giáo khác khó được yên. Chỉ còn các giáo hội của Đảng Nhà nước CS Hà nội dàn dựng, do Đảng Nhà Nước CS Hà nội quản lý, vì Đảng Nhà nước CS mà kiểm soát tôn giáo thôi.

Phần còn lại là suy nghĩ và hành động -- không phải của riêng Tôn đức Tăng Ni, Phật tử -- mà của Đồng bào VN và các tôn giáo bạn trong ngoài nước. Nhứt là những người đang ở ngoại quốc không bị CS bịt miệng, trói tay, trói chân.

VI ANH
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 3 guests