Đời sống quanh ta

thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Hoa Máu trên dòng sử

Sau nhiều năm bị khống chế bởi ách cai trị hà khắc của CSVN, ngày 10/6/2018, từ Nam, qua Trung, thẳng ra Bắc, quần chúng Việt Nam lừng lững đứng lên chống chế độ độc tài bán nước, chống luật ba đặc khu, luật an ninh mạng. Con đường nào là con đường Cách Mạng Việt Nam? Cách mạng bạo động hay bất bạo động? Tại sao cứ mỗi lần lịch sử thắng lực phản động, người đời lại ca tụng: Lịch sử đã thăng hoa, hoa lịch sử còn được gọi là hoa máu, là huyết hoa? Phải chăng trong bất kỳ dạng thức cách mạng nào, Đường Cách Mạng vẫn là đường máu, máu của Tiên Rồng rực đỏ?

Cách mạng là thay đổi đời sống, làm cho đời sống trở nên Người hơn, nhân văn hơn, hạnh phúc, tự do và công bằng hơn. Chuẩn mực khách quan nào là chuẩn mực để phân biệt cách mạng và phản cách mạng? Lịch-sử-quan là khoa học có khả năng trả lời nghiêm chỉnh câu hỏi vừa nêu. Duy vật sử quan đã sai lầm từ lý luận triết học cho đến đời sống thực tiễn của loài người. Sử quan khởi đi từ tiền đề triết học Con Người đã minh định: Lịch sử là lịch sử của mọi suy nghĩ và hành động trong nỗ lực bảo vệ và phát triển dòng sống Người. Hướng tiến của lịch sử là hướng xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên. Xã hội đa nguyên là xã hội vận hành trong sự tôn trọng đa tư tưởng trên nền tảng lấy nội dung Quốc Tế Nhân Quyền làm chuẩn mực duy nhất cho công lý dân chủ.

Cuộc biểu tình ngày 10/6/18 cho thấy: nơi này quần chúng bị công an đàn áp tàn tệ, nơi kia quần chúng và công an hỗn chiến, điển hình là Bình Thuận. Biến cố 10/6 là bức tranh bạo động hay bất bạo động ?

Ứng xử giữa con người với con người có ba hình thái:
Image
1) Thường thái: Xã hội thái bình. Mọi bất đồng ý kiến đều được con người thương thảo với nhau bằng ngôn ngữ của lễ độ và chừng mực. Tất cả toan tính bạo động đều không được nghĩ đến.

2) Bệnh thái: Cá nhân hay tập thể sử dụng bạo động để cưỡng bách người khác phải hành động theo ý muốn của mình một cách bất công, trái với luật pháp và/hoặc đạo đức. Bạo động như vừa kể gọi là bạo động bệnh thái. Nhà cầm quyền độc tài các loại bao giờ cũng tồn tại nhờ vào bạo động bệnh thái.

3) Phi thường thái: Đây là loại bạo động cần thiết. Bạo động phi thường thái có tác động chế ngự tức thời bạo động bệnh thái. Nó là đôi tay thép bảo vệ quyền được sống như một con người của mỗi người và mọi người.

Bạo động phi thường thái xuất phát từ người dân nhằm giải trừ nhà cầm quyền độc tài, bán nước. Trong hoàn cảnh này người dân đã hành động theo ý tưởng: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Quyền sống của người dân là tối thượng, kế đến là quyền tồn tại của xã hội, sau cùng mới là chỗ đứng của giới cai trị).

Bạo động phi thường thái là vũ khí sắc bén của phong trào cách mạng. Vì vậy, để có lý do đàn áp quần chúng cách mạng, giới thống trị độc tài bao giờ cũng lớn tiếng đồng hóa bạo động phi thường thái với tội ác khủng bố. Mọi hoạt động chống ngụy quyền đều bị xem là khủng bố. Bạo động phi thường thái so với khủng bố khác nhau như ngày với đêm. Khủng bố là hành động tạo tử khí để gây sợ hãi nhằm buộc mọi người phải tuân theo mệnh lệnh phi nhân của kẻ khủng bố. Khủng bố đích thực là bạo động bệnh thái.

Nhằm tránh đổ máu không cần thiết, giới đấu tranh cho dân chủ nhân quyền thường áp dụng phương pháp đấu tranh bất bạo động. Bất bạo động phổ quát là bất tuân dân sự, là bất hợp tác với nhà cầm quyền phản cách mạng… Thế nhưng, nhà cầm quyền độc tài khắc nghiệt kiểu CSVN bao giờ cũng thẳng tay đàn áp mọi hình thức đấu tranh, kể cả đấu tranh bất bạo động. Từ đó giới đấu tranh cách mạng không thể không phối hợp hai hình thái đấu tranh: trận địa này bất bạo động, trận địa khác bạo động phi thường thái. Chiến thuật đấu tranh phối hợp này được biện giải bởi các luận cứ sau đây:

Cứu nước như cứu lửa. Hơn thế nữa, đất nước hiện đang bị ngụy quyền bán cho giặc ngoại xâm Bắc phương. Trong hoàn cảnh cực kỳ nguy biến này, lịch sử đòi hỏi tổ quốc phải được cứu nguy bằng biện pháp mạnh nhất và khẩn cấp nhất. Biện pháp vừa kể chính là bạo động phi thường thái.

Nghĩ về những giông tố trong dòng đời, thi hào Nguyễn Du đã nêu bật chân lý :

“Có khi biến, có khi thường,

Có quyền nào phải một đường chấp kinh”

“Khi thường” là nhà cầm quyền do-dân-thực-sự-tự-do-bầu-lên. “Chấp kinh” là người dân có nghĩa vụ tuân hành luật pháp pháp-trị, tuân hành mệnh lệnh của giới cầm quyền.

“Khi biến” là nhà cầm quyền vừa là ngụy quyền, vừa là tội đồ bán nước. “Có quyền” là tòng quyền, là quyền biến trong việc người dân dành hành động chống lại nhà cầm quyền theo phương pháp đấu tranh bạo động phi thường thái.

Muốn cuộc cách mạng dân chủ nhân quyền nhanh chóng đạt mức thành công, người dân phải biết bảo vệ lực lượng cách mạng. Bảo vệ là thế thủ. Thế thủ hoàn hảo nhất chính là thế công. Thế công kia chẳng là gì khác hơn là hành động bạo động phi thường thái.

Tiên lễ, hậu binh. Lễ là bất bạo động. Binh là bạo động phi thường thái. Lễ của dân là những năm tháng người dân khốn khổ tìm đến cơ quan công quyền khắp nước để kêu cứu về sự việc ruộng vườn của họ bị bạo quyền cưỡng chiếm phi pháp. Binh của dân là những lần người dân phản kháng nhà nước bằng con đường bạo động phi thường thái.

Những điều trình bày ở trên đã dẫn đến lẽ phải rằng: bất bạo động và bạo động; chấp kinh và tòng quyền; tiên lễ, hậu binh; tĩnh và động giao thoa hằng cửu, vạn vật không thể thuần tĩnh hay thuần động… Đây là qui luật vận hành của toàn vũ trụ. Riêng đối với xã hội loài người, xin đừng quên: Bạo động bệnh thái là hành động phạm pháp của phường thảo khấu, của băng đảng khủng bố, của nhà cầm quyền độc tài các loại. Bạo động phi thường thái là hệ quả tất nhiên của luật tắc “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.

Ngày 5/1/2012, nông dân Đoàn Văn Vươn đã nổ súng chống lại nhà cầm quyền Tiên Lãng, Hải Phòng để bảo vệ đầm nuôi tôm của gia đình. CSVN phạt Đoàn Văn Vươn 5 năm tù giam. Máu ở đây là máu cống hiến cho lịch sử.

Ngày 23/10/2016, nông dân Đặng Văn Hiến đã quyết liệt bắn vào “người nách thước, kẻ tay dao” của công ty Long Sơn, Tuyên Đức, Đắk Nông khi công ty này tràn vào phá hủy vườn điều của người dân. Sau lưng Long Sơn hiển nhiên là nhà cầm quyền CSVN. Đặng văn Hiến nhận án tử hình. Máu ở đây là máu cống hiến cho lịch sử.

Câu chuyện nông dân Đoàn Văn Vươn và nông dân Đặng Văn Hiến đã diễn tả sự thật rằng: mặc dầu bị bóc lột tàn ác và trắng trợn, người dân Việt Nam bao giờ cũng ứng xử với bạo quyền CS theo đúng cung cách tiên lễ hậu binh, bạo động phi thường thái là chọn lựa sau cùng. Trong đấu tranh cách mạng, tĩnh và động là hai cánh tay của một quả tim Việt Nam.

Xin đừng tạo phân cách giữa cách mạng bạo động và cách mạng bất bạo động. Động và tĩnh cùng một gốc. Đôi bên hãy nhìn nhận nhau, thương yêu nhau, bảo vệ lẫn nhau.

Xin đừng mặc cảm tội lỗi khi phải sử dụng bạo lực phi thường thái. Bạo động phi thường thái chính là lưỡi gươm sáng suốt của lịch sử.

Dọc theo con đường cách mạng dân chủ nhân quyền, bạo động và bất bạo động bao giờ cũng hội tụ trong nhiệt huyết Tiên Rồng. Có như vậy lịch sử mới thăng hoa. Đó là chân ý nghĩa của hoa máu trên dòng sử, gọi tắt là Huyết Sử.

Đỗ Thái Nhiên
MatVit
Posts: 1309
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Image
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Nhà báo Bùi Tín và nhạc sĩ Tô Hải qua đời

Image
Nhà báo Bùi Tín khi sống ở Pháp. Nhạc sĩ Tô Hải lúc sinh thời.

Thế là hai nhân vật lớn trong giới bất đồng chính kiến đã cùng nhau từ bỏ chúng ta hôm nay: Nhà báo Bùi Tín ra đi lúc 1h25′ sáng 11/8/2018 ở Paris, tức 6h25′ sáng giờ VN và nhạc sĩ Tô Hải qua đời lúc 19h40 tối 11/8/2018. Cả hai ông hưởng thọ 91 tuổi.

Hai ông sinh cùng năm, nhà báo Bùi Tín sinh ngày 29/12/1927 ở Nam Định, nhạc sĩ Tô Hải sinh ngày 24/9/1927 ở Thái Bình và ra đi cùng ngày, chỉ cách nhau 15 tiếng.

Cũng như ông Bùi Tín, ông Tô Hải ra đi trong cô quạnh, không có người thân xung quanh đưa tiễn, mà chỉ có những người bạn cùng chí hướng. Nhưng ông Tô Hải may mắn hơn ông Bùi Tín, là ông còn có người bạn đời là cô Lâm Thị Ái, tận tụy, chăm sóc cho ông trong nhiều năm qua, nhất là trong mấy tuần gần đây, cô Ái luôn túc trực với ông bên giường bệnh.

Cả hai ông Bùi Tín và Tô Hải đều là những người đã từng phục vụ chế độ CSVN và đã phản tỉnh, lên tiếng phản đối chế độ, trở thành những nhân vật bất đồng chính kiến hàng đầu ở Việt Nam và hải ngoại.

Nhà báo Bùi Tín, bút danh Thành Tín, từng mang quân hàm đại tá. Ông tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam từ năm 1946-1982. Ông cũng đã từng giữ chức Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân từ năm 1982 đến năm 1990. Tháng 9/1990, ông xin tị nạn ở Pháp, sau khi ông lên tiếng phê phán đường lối lãnh đạo của đảng CSVN, phê phán chế độ Cộng sản và chủ nghĩa xã hội, để rồi đảng CSVN gọi ông là “kẻ thù của nhân dân”.

Nhạc sĩ Tô Hải từng tham gia Vệ quốc đoàn sau Cách mạng Tháng Tám. Ông cũng đã từng giữ chức trưởng Đoàn Văn công khu 5, cũng như nhiều chức vụ khác nhau, trước khi từ bỏ đảng và chế độ mà ông phục vụ. Ngoài những bản nhạc mà ông sáng tác, ông còn nổi tiếng với cuốn “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn“, do NXB Tiếng Quê Hương xuất bản ở Mỹ năm 2009 và đã được phổ biến rộng rãi trên các trang mạng.

Ông Tô Hải tự nhận mình là “thằng hèn”, mà mọi người gọi ông bằng cái tên thân thương là “Nhát Sỹ Tô Hải”. Cuốn hồi ký của ông kể lại những chuyển biến trong cuộc đời ông từ năm 1945, lúc ông đi theo đảng với một niềm tin mù quáng, cũng như nỗi đau dày vò sau khi ông biết mình đã đi lạc đường, nhưng không thể dừng lại, cho tới lúc ông từ bỏ đảng, lên tiếng chống lại những cái sai của đảng, của chế độ.

Trong cuốn hồi ký, ông Tô Hải viết về sự gian trá, tàn bạo và lưu manh của chế độ mà ông đã từng phục vụ, cũng như nỗi đau khi ông phải sống cuộc sống làm người nhưng không phải là con người. Nỗi đau đó luôn dày vò tâm can ông, nhất là khi ông gặp gỡ những người “đồng chí”, bạn bè cũ của mình, những người luôn vênh váo và tự hào với cuộc sống của họ, với những thứ vật chất mà họ có được do cướp của dân.

Blogger Phạm Thanh Nghiên, cựu tù nhân lương tâm, viết về ông Bùi Tín và Tô Hải như sau: “Ngày hôm nay có hai trái tim của hai con người yêu nước đã ngừng đập: Cựu đại tá Bùi Tín, cũng từng là Phó tổng biên tập báo Nhân Dân và Nhạc sĩ Tô Hải, tác giả cuốn sách nổi tiếng ‘Hồi ký của một thằng hèn’. Cả hai người đều có quá khứ phục vụ cho chế độ Việt cộng. Và cả hai đều phản tỉnh và trở thành những tiếng nói hàng đầu trong cuộc đấu tranh đòi dân chủ, tự do và nhân quyền cho Việt Nam.

Tôi may mắn từng được chuyện trò với cả hai cụ. Và nợ hai cụ những lời hứa hẹn. Những lời hứa hẹn không bao giờ trả được nữa. Nhưng đâu chỉ có chúng tôi nợ nhau. Núi xương sông máu đấy, ai còn nợ? Tuổi trẻ của hàng vạn con người mang tên Việt Nam đấy, ai còn nợ? Những món nợ mang tên Thời Đại, mang tên Lịch Sử không bao giờ thanh toán được.

Nhưng, có những người đi trả nợ non sông. Họ là những Bùi Tín, Tô Hải, Vũ Cao Quận, Trần Lâm, Lê Hồng Hà, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Tiến, Nguyễn Minh Cần … Họ từng là đảng viên cộng sản, góp phần không nhỏ làm nên chế độ này trước khi trở thành những nhân vật bất đồng chính kiến. Gọi những con người ấy là những người trả nợ quá khứ – có lẽ cũng không sai”.

Rồi cả hai ông Bùi Tín và Tô Hải không hẹn nhau mà ra đi cùng ngày. Họ đã thanh thản ra đi sau khi đã viết, đã nói lên thật nhiều điều họ muốn nói về chế độ này, về những điều mà họ băn khoăn, trăn trở, lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của dân tộc này.

Ngọc Thu 11-8-2018
https://baotiengdan.com/2018/ 08/11/nha-bao-bui-tin-va-nhac- si-to-hai-qua-doi/
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

8 LỜI KHUYÊN VÀNG ĐỂ BẠN CÓ SỨC KHỎE TỐT, CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC
Những thói quen trong chuyện ăn uống, ngủ nghỉ dù rất nhỏ nhưng vẫn góp phần mang tới cho mọi người một sức khỏe thật tốt.

♥️ Ăn 1 quả táo mỗi ngày

Theo một nghiên cứu, ăn một quả táo mỗi ngày khiến nguy cơ chết sớm giảm đến 35%. Những phụ nữ ăn hơn 100g trái cây mỗi ngày – tương đương với một quả táo nhỏ - đều có tuổi thọ dài hơn những người không ăn.

Theo các chuyên gia đến từ Viện Dinh dưỡng Thiên Tân mỗi ngày nên ăn 200 – 400g trái cây để đảm bảo dinh dưỡng.


♥️ Ăn 5 hạt hạnh nhân mỗi ngày

Hạnh nhân chứa gamma-tocopherol, một dạng của vitamin E có tác dụng như một chất chống oxy hóa mạnh mẽ, chống các gốc tự do và oxy hóa liên quan đến ung thư.

Nhiều nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tiêu thụ hạt hạnh nhân và phòng chống ung thư, bao gồm giảm nguy cơ ung thư đại tràng, tuyến tiền liệt và ung thư vú. Đồng thời Magie, chất chống oxy hoá và chất béo không bão hoà trong hạnh nhân giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch.
---------------------
♥️ Uống nước chanh mỗi ngày

Một cốc nước chanh ấm mỗi sáng không chỉ tốt cho hệ tiêu hóa, mà còn thúc đẩy sự trao đổi chất trong cơ thể bạn.
---------------------
♥️ Uống 1 cốc sữa mỗi ngày

Sữa có nhiều canxi hơn các loại thực phẩm khác nên uống nhiều sữa giúp bổ sung lượng canxi trong cơ thể để răng và xương chắc khỏe hơn.
---------------------
♥️ Uống 2-3 lít nước mỗi ngày

Nước hấp thụ vào các tế bào da sẽ nâng cao khả năng đàn hồi và tăng độ ẩm cho da.Vì thế mỗi ngày mọi người nên cố gắng uống khoảng 2 đến 3 lít nước nhé. Chú ý uống đúng giờ để hiệu quả mang lại tốt hơn.
---------------------
♥️ Ngủ 8 tiếng 1 ngày

Ngủ tám tiếng mỗi ngày có nhiều lợi ích tốt cho sức khỏe. Nó sẽ giúp tinh thần sảng khoái và tâm trạng tốt hơn. Bên cạnh đó, việc ngủ đầy đủ còn giảm nguy cơ loạn cương dương, ngăn ngừa bệnh tiểu đường...

Chúc bạn mạnh khỏe!
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Vì sao đêm tân hôn lại gọi là ‘động phòng hoa chúc’?

Image
Hình ảnh “Hoa chúc” trong đêm tân hôn có nguồn gốc từ đâu?
Người ta vẫn thường dùng chữ “động phòng hoa chúc” để nói về đêm đầu tiên của đôi vợ chồng. Động phòng thì ai cũng hiểu nhưng vì sao lại là “hoa chúc” chứ không phải hoa nào đó khác?

Trong văn hóa truyền thống Trung Nguyên, bó đuốc chưa đốt thì được gọi là “tiêu”. Đuốc châm lửa cầm tay gọi là “chúc”. Đuốc lớn đóng cọc xuống đất mà đốt thì gọi là “đình liệu”. Lệ xưa tại Trung Nguyên đời nhà Chu, khi đầu canh năm, vào lúc vua sắp ra thị triều, thì ở trước điện đình thường có cho bày hai hàng nến sáp, hoặc đuốc để thắp sáng đường cho bá quan văn võ vào triều.

Bước sang thời Lục triều và đời nhà Đường, nhà Tống dân gian có tục đốt hoa chúc trong lễ kết hôn. Bởi thế về sau này, để chỉ sự việc ai đó chính thức kết hôn, người ta thường dùng hình ảnh: “Hoa chúc”.

Hoa chúc thời lục triều và đời Đường không biết có phải là người ta dùng bó đuốc có kết hoa ở ngoài cho đẹp không? Riêng về đời Tống thì “Hoa chúc” được dùng vừa là bó đuốc có kết hoa, lại vừa có thể là nến sáp hoa. Trong sách “Mộng lương lục” đời Tống thấy có ghi chép như sau: “Cô dâu xuống xe, mấy con hát cầm đuốc làm bằng cuống hoa sen đi trước đưa đường”.

Sách “Qui điền lục” của u Dương Tu đời Tống cũng có viết rằng: “Ở Đằng Châu có thứ hoa lạp chúc (thứ nến làm bằng sáp hoa) nổi tiếng nhất, ở Kinh đô cũng không chế nổi”.

Sang đến thời cận đại thì người Trung Hoa đều hiểu “chúc” là nến, chứ không hiểu là đuốc như thời cổ, bởi khi đó công nghệ làm nến sáp (đèn cầy) đã rất phát triển rồi. Cũng bởi thế mà về sau này nghĩa của từ đuốc hoa, hoa chúc dần dần có các biến thể khác nữa như: nến hoa, đèn hoa… còn trong thơ xưa thì hình ảnh ‘hoa chúc’ là được dùng khá phổ biến, ví như:

“Động phòng hoa chúc dạ,
Kim bảng quải danh thì”…

“Động phòng hoa chúc” là thành ngữ thường được dùng để chỉ đêm động phòng đầu tiên của tân lang và tân nương. Trong căn phòng hạnh phúc ấy bao giờ cũng có đèn nến dùng để đốt vào đêm tân hôn. Sau này Dũ Tín, một thi hào đời Nam Bắc triều cũng có câu: “Động phòng hoa chúc minh”, nghĩa là: “Phòng kín đuốc hoa sáng”.
Image
Hình ảnh “Hoa chúc” trong đêm tân hôn có nguồn gốc từ đâu?
Đèn nến đã là thứ không thể thiếu trong đêm tân hôn.
Trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, khi diễn tả hành động thô bỉ cục xúc, và sau đó là thái độ ghẻ lạnh của tay chơi Mã Giám Sinh đối với Kiều, sau cuộc truy hoan, đại thi hào có viết:

“Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về!

Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương.

Đêm xuân một giấc mơ màng,
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”.

Mặc dù họ Mã không dám nhận Kiều là vợ vì sợ Tú Bà, nhưng Kiều là thiếu nữ xuân thì, cái đêm định mệnh ấy là đêm đầu tiên để thay đổi con người và cuộc đời của nàng sang một giai đoạn khác, cũng là một đêm đầy tủi nhục mà Thúy Kiều bắt đầu và bắt buộc phải làm cái việc như vợ chồng với Mã Giám Sinh – người đã bỏ tiền ra mua nàng. Có lẽ do đó mà trong đoạn thơ này Nguyễn Du mới dùng đến hình ảnh “đuốc hoa”.

Lại nói sau này khi Kiều đã được đoàn tụ với gia đình sau 15 năm lưu lạc, Kim Trọng xin Kiều cùng chàng kết tóc xe tơ những mong chuyện xưa ‘gương vỡ lại lành’ thì Kiều đã bẽ bàng mà từ chối bằng những đạo lý như sau:

“Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa!”

Và lý do mà nàng đưa ra tiếp sau đó là:

“Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.

Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn!

Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?” …

Hình ảnh “Hoa chúc” trong đêm tân hôn có nguồn gốc từ đâu?
Đuốc hoa đã trở thành hình tượng của đêm động phòng hoa chúc.
Cũng bởi phận số và hoàn cảnh éo le đến nhường ấy cho nên Thúy Kiều mới ngậm ngùi mà tỏ bày với ‘người xưa’:

“Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?”

Cái ý: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”, và “Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?”, mà Kiều muốn nói ở đây là: dù cho chàng Kim còn nặng lòng yêu nàng, nhưng nếu nàng bằng lòng lấy chàng, thì rồi đây đêm động phòng, nhìn đuốc hoa hay hoa đèn (đèn hoa) kia chẳng là hổ thẹn lắm ru!… Cũng bởi thế cho nên Kiều mới quyết chí tỏ lòng mà rằng:

“Từ nay khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng như tu mới là”.

Đường Tân
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Phúc Ấm Con Ban

Du Tử Nguyễn Định

Tôi đến Mỹ rất trễ, đến từ một quốc gia thứ ba, nên ba mươi năm sau ngày mất nước tôi mới đặt chân lên xứ cờ hoa. Văn hóa và hệ thống xã hội nơi đây có những khác biệt so với nơi tôi đã sống, và điều dễ thấy nhất là nếp sống của xã hội Mỹ như vội vàng, cạnh tranh, và tấp nập hơn, so vơi nơi tôi đã sống, êm đềm và lặng lẽ.

Người Việt ở đó ít hơn, nếp sống và sinh hoạt của gia đình còn mang nhiều nét truyền thống của nơi chôn nhau cắt rún. Người ta rất thân tình và chân tình khi bắt gặp nhau nơi công cộng, giáo đường hay chùa chiền. Và nhất là những lúc được thông báo có người Việt từ nước khác tới định cư, là những người già, những người có phương tiện, tình nguyện đưa đón, hướng dẫn các thủ tục nhập cư, những giấy tờ cần thiết cho một đời sống mới.

Có lẽ đất Mỹ, nơi tôi đang sống, có cái khung cảnh xa lạ hơn, vì những núi đồi trùng trùng điệp điệp, đôi lúc cho tôi cái cám giác như đang đi trên đèo Ngoạn Mục, quảng đường từ Phan Rang lên Đà Lạt một thủa nào. Cảm giác êm ái đó làm tôi liên tưởng tới khu đồi mà dòng Donbosco tọa lạc, nơi có hoa Anh đào nở rộ mỗi bận Xuân về, màu hoa rực rỡ giữa núi đồi hùng vĩ đầy thơ mộng của Cao nguyên.

Cũng đã mấy chục năm bỏ lại quê hương, bỏ cả những chiều lộng gió của núi rừng Đà Lạt và Di Linh, không hiểu những nơi chốn ấy bây giờ đã thay đổi ra sao, màu chè xanh của Bảo Lộc còn xanh như màu xanh ngày củ, Khu chợ Hoa Đà Lạt, hay bờ Hồ Xuân Huơng còn dương liễu rũ xuống ven bờ, mà những hồn thơ ngày đó đã ví von như mái tóc thề của mấy cô sơn nữ Cao nguyên. Bao nhiêu đã mất, bao nhiêu còn giữ, bao nhiêu còn nhớ được trong tâm trí của trang lứa chúng tôi.

Cái mất mát hẳn nhiên đã làm chúng tôi đau đớn xót xa, nhưng chưa chắc đã bằng những chua chát, bẽ bàng, mà trang lứa chúng tôi phải gánh chịu trong cuộc sống tuổi già trên đất nước xứ người.

Tôi đến Mỹ như đã nói là rất muộn màng so với nhiều đồng đội, và những người bạn thân tình thủa nào cũng đã tản lạc mỗi đứa một nơi, và ở đây , trong vòng 50 dặm vuông hay vài trăm dặm dài, tôi cô đơn không bè bạn. Mỗi ngày, ngoài việc nhổ cỏ vườn sau, nhặt lá vườn trước, đưa đón bốn cô cháu đi học, tôi chỉ còn biết đi bộ, nhìn đồi núi nối tiếp nhau trên thành phố này để mơ mộng về núi rừng quê tôi, nơi mà hàng chục năm tôi và đồng đội chung sống, có khi gian nan, mà cũng có lúc thật thơ mộng. Và rồi trong một trường hợp ngẩu nhiên, tôi đã gặp được bác Thụy, một người Việt Nam cô độc, cũng lạc lỏng đến nơi này như tôi.

Cũng là một thói quen như nơi tôi đã từng sống, hễ gặp được người nào mà tôi đoán là dân nước tôi, thì tôi không ngại ngùng đến làm quen, và câu hỏi đầu tiên của tôi thường là " Ông nói được tiếng Việt nam không" " Nếu người đó trả lời họ là người Việt thì tôi nhất định rất vui mà hỏi chuyện. Tôi quen bác Thụy cũng trong trường hợp tương tự.

Từ lần gặp đó, tôi hay tìm tới bác vào mỗi cuối tuần hoặc là những khi bác gọi tôi đến , và lúc nào bác cũng mở đầu bằng câu " chúng nó đi cả rồi ",ý của bác là các con đã đi làm hết . Tình thân của chúng tôi từ đó ngày càng thân thiết hơn, bác kể cho tôi 12 năm trong quân đội, phục vụ cho một đơn vị Quân báo, hoạt động trên lảnh thổ Quân Đoàn I, bị thương nhiều lần, nhưng lần nào cũng may mắn qua khỏi. Bác đến Mỹ không thuộc diện HO, vì thời gian bác được thả, Phòng công tác nước ngoài thuộc công an Thành phố Hồ Chí Minh ở 161 Nguyễn Du, Quận I, còn đóng cửa, nên bác vượt biên, bị bắt cho đến khi Chương trình HO được thực hiện, bác vẫn còn ở trong tù, do vậy bác đến Mỹ theo Chương trình Đoàn Tụ, con gái bảo lảnh hai vợ chồng nên không được hưởng một trợ cấp nào của Chính phủ Mỹ như diện HO, tất cả đều do thân nhân bao bọc.

Thời gian ở lại Việt Nam, bác đi dạy học, cũng như trước khi động viên bác là một Giáo sư dạy Vật Lý tên tuổi tại Sài Gòn, lương giáo viên tuy không khá, nhưng cũng đủ cho hai vợ chồng bác sống tạm qua ngày, nhất là bác được các trung tâm chuyên Lý mời cộng tác, nên dạy cả sáng, chiều và tối , Vã lại mỗi năm, các con bác gởi cho một vài trăm đô la vào dịp Tết, hai vợ chồng lại dành dụm mua một chỉ hay 5 phân vàng hầu dùng cho việc ma chay sau này, cho đến năm 2003, con gái bác viết thư báo tin cho biết là đã làm hồ sơ bảo lảnh cho ba má , bác cũng chẳng hy vọng gì, vì thời gian đợi chờ dường như đã quá mòn mỏi, vã chăng tuổi đã cao, đi đâu cũng chỉ kiếm hai bữa cơm mà thôi, nên gần như vợ chồng bác không nghĩ tới chuyện ra đi, cho đến năm 2006, bác được gọi bổ túc hồ sơ, rồi cuối năm đó, bác được phỏng vấn, theo bác kể thì có lẽ vì lợi tức của con gái bác cao, nên họ cho đi nhanh và rồi đầu tháng 4 năm 2007 bác được sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng tính cho đến nay, bác vẫn chưa hội đủ điều kiện thi nhập Quốc tịch Hoa Kỳ .
Thời gian đầu sống với con cái vui vẻ lắm, vì còn mới, tình cảm còn mới, mọi thứ còn mới và còn mới là còn vui vẻ, rồi từ từ bác được một người quen giới thiệu đi làm Asembler cho một hảng điện tử, lương $10/ giờ, hai vợ chồng già thật là hạnh phúc, cứ cuối tuần là hai ông bà rủ nhau đi WaltMart hay Target mua áo quần và đồ chơi cho các cháu, nhưng rồi kinh tế ngày càng suy thoái, sau gần hai năm làm Asembler, bác mất việc làm, không có cách nào xin được việc khác, vã chăng, những người trẻ còn chưa xin ra việc làm thì ông già 63 tuổi như bác dễ gì tìm được việc, nên bác đành xin tiền thất nghiệp, và được hưởng thất nghiệp hai năm, khoảng thời gian này bác cho biết rất là buồn, suốt ngày vợ chồngcứ mong cho hai đứa cháu đi học về để chơi với cháu cho đỡ buồn, rồi thì cứ vườn sau sân trước, vợ chồng thi nhau nhặt cỏ, tưới cây, hay lên đồi lượm những viên đá hình dáng đẹp đem về lót quanh mấy bụi hồng cho hết thời gian.

Bác cũng năng nổ đi tham gia sinh hoạt các hội đoàn, như hội người già, Hội SQ/TBTD, nhưng rồi tiền trợ cấp thất nghiệp hết, và khó khăn đến với bác bây giờ là tiền đổ xăng, bác không biết xin ai hai chục bạc để mua xăng, bác nói, một đôi khi bổng dưng nghe thèm một tô phở, nhưng cũng không cách nào có được, "Ông ạ, có đêm tôi không ngủ được chỉ vì nghĩ tới mùi ngò gai và rau quế bỏ vào tô phở mà chảy nước miếng hoài không ngủ nổi, thèm như là thèm được ăn đường lúc ở trong trại tù ".

Tình cảm con người hình như rất mỏng manh, không phải bền chắc, và rất dễ gãy đổ, từ tình vợ chồng, cha con hay anh em, và nghèo đói là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với tình cảm. Cổ nhân cũng đã từng nói "phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc", cái gì người ta bảo "tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng như thiên kim" có chăng, chỉ là trong đạo đức kinh hay sách vở của Thánh hiền mà thôi. Không có tiền, nguyên lý nào cũng bị bỏ quên, đạo đức nào cũng dư thừa, và tình cảm nào cũng mai một. Đặc biệt là ở một xã hội mà mọi nền tảng đều lấy lợi nhuận làm chuẩn.

Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục và hy sinh. Con cái ở chung với cha mẹ là tự nhiên, nhưng cha mẹ ở chung với con cái lại ưu phiền, vì lúc nào cũng phải nhìn mặt mủi con cái, phải xem chừng nó vui buồn bất chợt ra sao. Muốn mở cái TV cũng phải lựa lúc nó vui vẻ, muốn mở cái CD nghe nhạc cũng tùy thời cơ nó buồn hay giận, lại còn phải coi sóc con cái cho chúng, nhỏ thì cho đi tiêu đi tiểu, rửa đít, cho ăn, tắm giặt. Lớn thì đưa đón tới trường, có khi còn bị chưởi mắng, đành chỉ biết cúi mặt dấu nước mắt đi. Họa hiếm lắm, chúng cho vài ba trăm bạc vào dịp lễ nào đó thì lại coi như phúc ấm chúng ban cho .
Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục, chính là chổ này.

Một buổi sáng bác gọi tôi tới nhà, chỉ cho tôi một tờ giấy con gái bác viết để lại trên bàn cho bác, tôi cầm lên đọc :
"Theo luật bên nầy, chủ nhà có quyền gọi cảnh sát đến bắt buộc người thuê phải ra đi, nếu người chủ đã thông báo cho người thuê hai lần bằng thư. Ba không trả tiền nhà, nhưng con cũng coi ba như người thuê nhà, đây là lần thứ hai con yêu cầu ba dọn ra, ba đừng ép con phải gọi cảnh sát".

Tôi đọc đến đây, bổng nhiên nước mắt tôi trào ra, bác nhìn tôi và nấc lên thành tiếng, bác cũng bật khóc. Tôi ôm hai vai bác và nói "Hãy yên tâm, không có luật như vậy đâu, nếu cô ấy gọi cảnh sát, bác có thể nói cô ấy ngược đãi người già, con bác chỉ hù bác thôi". Và rồi bác bắt đầu kể cho tôi nghe hết tự sự.
Thoạt đầu là gạo, chúng nó than phiền, "nhà người ta một năm chỉ tốn hai bao gạo thôi, sao nhà mình mỗi tháng một bao", Tôi mở casette ngồi ngoài garage nghe nhạc, ngoài garage thì nóng, tôi mở cửa bên hong ra cho bớt nóng, nó đóng lại, và bảo mở cửa chuột chạy vào nhà. Tôi hiểu ý là nó sợ tốn điện, tôi tắt casette vào nhà.
Ông cũng biết, ở bên này, người già chỉ lấy cái TV làm bạn, nhưng nó mắng vào mặt tôi và bảo không biết xài thì đừng xài, TV cứ mở hoài chịu sao nổi, thế nào cũng có ngày TV bị cháy.
Mỗi ngày, chúng nó đi làm về trễ, có khi 7:30 hay 8:00 tối mới về đến nhà , và tôi đều cố gắng ăn trước để không chạm mặt chúng nó trong bữa ăn, ăn trước thì thú thật chỉ ăn sơ sài cho no bụng thôi, thức ăn của chúng tôi không dám đụng vào, vợ tôi thì chờ cho chúng ăn hết đã, cái gì còn lại bà ấy mới ăn, chúng tôi chỉ dám ăn những thức ăn thừa thải mà thôi. Công việc lặt vặt trong nhà như lau dọn, rửa chén bát, đưa đón các cháu, chúng tôi đều làm hết, nhưng nó bảo với tôi là tội nghiệp thằng chồng nó phải còng lưng gánh hai ông bà già. Những ngày nghỉ, hay cuối tuần, vợ chồng con cái chúng đi ăn tiệm, những năm đầu khi cháu út chưa thể gởi đến trường, thì chúng còn gọi vợ tôi đi ăn với chúng, những ngày lễ Tết cũng tặng quà cho vợ tôi, nhưng từ khi cháu út lớn rồi, chúng cũng lơ là với vợ tôi luôn, cho đến sau này, chúng lạnh lùng đến như bỏ mặc, vợ tôi buồn quá đành đi tìm chổ giữ trẻ ở một tiểu bang khác, nên ông tới nhà không thấy vợ tôi là vậy.
Bác lấy dưới gối ra một lá thư khác đưa cho tôi, bác bảo lá thư không có một chút tình người, thú thật tôi không dám đọc hết, nhưng trong trí tôi như vẫn in sâu những dòng này "ba người ta chết thì con cái khóc lóc tiếc thương, nhưng nếu ba chết con sẽ thở ra một cách nhẹ nhỏm. Con thật không muốn bảo lảnh ba sang Mỹ đâu, chỉ vì bắt buộc mà thôi, Ba hãy dọn ra đi để còn một chút gì gọi là tự trọng".

Tôi cũng tự hỏi mình, bác đi đâu bây giờ" Một đồng bạc cũng không có, bà con, bạn bè cũng không luôn, bác dọn đi đâu" trong khi bác lại chưa phải là công dân Hoa Kỳ, làm cách nào để có thể xin trợ cấp, tôi đành an ủi bác, thôi bác cứ yên tâm, điều quan trọng bây giờ là hãy nhịn, nhẫn nhục đó mà, cứ coi như ngày nào bác bị bắt tại mặt trận, Việt cộng hành hạ bác kiểu gì, nhục mạ bác ra sao, bác cũng ngậm bồ hòn, thì nay, với con gái, bác ngậm lại bồ hòn một lần nữa đi rồi từ từ hãy tính.

Một ông già tóc đã bạc hết rồi, nước da đã ngã màu đồi mồi, tay chân đã lọng cọng, dễ gì xin được một việc làm trên một đất nước đầy dẫy nhân lực và cạnh tranh.
Tôi biết có rất nhiều cơ quan, tổ chức thiện nguyện, sẵn lòng tiếp những người khó khăn, nhưng với hoàn cảnh của bác, thật không có tổ chức nào có thể giúp đỡ, vì có tổ chức nào có nhà cửa, cơm áo, để cung cấp cho bác trong lúc này, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái, ngân sách các cơ quan, giáo dục, y tế hay xã hội ... đều bị cắt giảm. Và tôi chỉ còn một con đường để đi, đó là dẫn bác tới Sở Xã hội, để xin cấp thẻ EBT ( Electronic Benifits Transfer), tức là mỗi tháng, Sở Xã Hội bỏ vào trong thẻ EBT $200 USD cho bác mua thực phẩm, gạo rau cá thịt, nước uống, trái cây...

Nhận được thẻ EBT bác liền hỏi nhân viên Xã Hội là có thể mua ngay thức ăn được không" và thực phẩm là những thứ gì" Người người Cán Sự Xã Hội nhìn tôi, tôi dịch lại lời bác và nói thêm rằng, bác không có gì ăn từ hôm qua cho đến nay. Người Broker xin phép đi ra một lúc, rồi quay trở lại đem theo phần ăn trưa của cô để tặng bác. Quả thật tôi cũng xúc động rơm rớm nước mắt khi nói câu đó với người broker. Đúng là một miếng khi đói, bằng một gói khi no, bác cúi đầu cám ơn người Cán Sự Xã Hôi mà như muốn khóc.

Tôi đem bác đi mua thực phẩm để hướng dẫn bác cách dùng thẻ EBT. Lần mua thử nghiệm đầu tiên của bác là 2 ổ bánh mì và 2 hộp cá Sardines rồi bác và tôi ra Parking chui vào xe ngồi ăn bánh mì cá hộp.
Tôi thật không hiểu rõ những tư tưởng nào đã đến với bác, nhưng mà nỗi xúc động của bác thì tôi biết là rất mãnh liệt, vì nước mắt bác đã chảy đến nỗi dùng hết một hộp khăn giấy của tôi để trong xe, tôi ngồi yên để bác khóc và suy nghĩ về mình, không hiểu có một lúc nào đó tôi lại như bác hôm nay. Trên đất nước tạm dung này, những người già đã trở thành gánh nặng cho con cái, những người già đã bị lãng quên hay bị xua đuổi của gia đình, mà xã hội dù có nhân đạo tới đâu cũng khó kham nỗi với số người cao niên ngày càng nhiều.

Một lần tôi đưa bác đi tái khám bệnh phổi, tôi ngồi chờ bác ở phòng đợi thật lâu, và khi bác trở ra cùng với một vị bác sĩ người Việt còn trẻ, vị bác sĩ này lấy ví ra 3 tờ bạc 20 đồng và nói "cháu chỉ còn bao nhiêu tiền mặt, nhưng cháu có một căn phòng trống trong Building này, có Microwave, khi nào bác cần thì gọi cho cháu, bác hãy nhớ là bác còn chúng cháu ở đây. Ông quay sang nhìn tôi và dặn chú làm ơn để ý tới bác này với, người già nào cũng có một nỗi khổ khi sang đây."

Suốt quãng đường về tôi cứ mãi suy nghĩ về người bác sĩ đầy lòng nhân ái ấy. Y thuật và y đạo, điều nào được người ta coi trọng hơn trên đất nước này. Tôi hỏi bác Thụy về vị bác sĩ ấy, được biết ông ta tên là DR. Albert H. Lee, chuyên khoa về phổi, là bác sĩ đang làm việc tại hai bệnh viện lớn ở thành phố này, và rất được bệnh nhân quý trọng cả về chuyên môn lẫn đạo đức.
Bác Thụy cho biết, thường ngày bác dậy rất sớm vì không ngủ được, có đêm bác chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, rồi cứ suy nghĩ lung tung về chuyện đời, chuyện gia đình, về thời gian đi tù cải tạo, thời gian đi dạy dưới chế độ cộng sản.
Bác kể sau khi được thả ra tù, vì tốt nghiệp đại học trước 1975, nên bác không bị đuổi đi Kinh Tế Mới, mà được kêu đi dạy. Là một giáo sư dạy Lý Hóa nhiều năm, kinh nghiệm đặc biệt về phương pháp dạy Luyện thi, nên các Trung Tâm Luyện thi dạy ngoài giờ đều mời bác cộng tác, bác dạy cả sáng, chiều và tối, nhờ đó mà gia đình bác có được cuộc sống tương đối so với những anh em khác đi học tập về, và các con bác cũng từ đó mà học đến nơi đến chốn trước khi ra nước ngoài.

Trước ngày sang Mỹ, bác bán đi căn nhà, thu gom tài sản lại, cũng đựoc vài ba chục ngàn đô la, đều đem cho con hết, bây giờ nếu quay về, không còn nhà để ở, và biết lấy gì làm kế sinh nhai, vì tuổi đã cao rồi, làm sao xin được việc làm, đó là chưa nói tới những phiền toái khác từ xã hội, thật là tiến thoái lưỡng nan, bác tâm sự.

Có một buổi trưa tôi tìm tới bác, chứng kiến bữa cơm trưa gọn gàng của bác mà mủi lòng, một tách uống cà phê đong đầy Oat Meal, đổ vào một tô lớn, rót nước nóng từ bình thủy ra, khuấy đều chừng 2 phút, chờ nguội và ăn, không cần nước mắm hay xì dầu, hoặc một loại gia vị nào khác. Bác bảo từ khi có thẻ EBT, tôi không còn lo thiếu xì dầu nữa, nhưng nhịn được cái gì hay cái đó, với lại bác sĩ bảo ăn mặn cũng không tốt .
- Bác ăn như thế này mỗi ngày sao "
- Vâng, chỉ vậy thôi, tôi đâu có cần gì thêm, chỉ cần một căn phòng nhỏ, đủ đặt một cái giường là được rồi, thế nhưng đời tôi quả là cùng khổ, mà thực ra tôi đâu có cầu sống lâu, sống thọ, sống không có gì vui, thì chết đâu có gì buồn, sỡ dĩ tôi vẫn đi bác sĩ là vì tôi sợ đau đớn, cũng như tôi không đủ can đảm để tự tử, còn chết ư, tôi nghĩ tới rất thanh thản, trên đời tôi không còn gì mê luyến thì chết đi tôi đâu có gì tiếc nuối, chỉ cầu sao cho được chết thật nhanh, không đau đớn, đó là nguyện vọng duy nhất còn lại của tôi.

Thường thường bác hay kể cho tôi về những bữa cơm dã chiến của bác, như bữa ăn của những người lính ngoài mặt trận. Bác mua một cái bếp gas nhỏ bỏ trong túi vải mang theo bên mình mỗi khi đi bộ, một bình thủy nước sôi, một tách cà phê Oat meal, một cái tô và muổng. Buổi trưa ngồi vào một góc nào đó trong Park, nơi người ta cho phép nướng BBQ, bác mở hộp cá ra, hâm nóng bằng bếp gas chừng 2 phút, rồi đổ nước sôi trong bình thủy vào tô và khuấy Oak meal lên ăn, bác chỉ về nhà vào xế chiều, làm thức ăn tối và nấu nước sôi đổ vào bình thủy, chuẩn bị thức ăn cho ngày hôm sau, và những việc này luôn luôn làm xong trước khi con gái bác về nhà, ăn chiều xong, bác lại chui vào căn phòng nhỏ dấu mình trong đó, để không phải gặp mặt con gái nghe nó nói nặng nói nhẹ và đuổi nhà.

Bác tâm sự rằng, đôi lúc muốn ôm mấy đứa cháu một chút, nhưng thật rất khó, vì chúng nó sợ má la, lâu lâu con cháu lớn lén vào phòng ông, đưa ngón tay lên môi làm dấu với ý bảo ông im lặng, ngồi chơi với ông một lúc rồi chạy ra. Có những khi chúng nó vào phòng ông, má nó biết được là la mắng chúng liền. Ông cháu gặp nhau như đi thăm tù cải tao, thật là một hoàn cảnh đặc biệt hiếm hoi.

Nghe bác kể lại, tôi đành tìm cách an ủi bác, kể cho bác nghe về những đứa cháu phá phách của tôi, mọi thứ trong phòng tôi mỗi ngày được xếp theo một kiểu, computer của tôi được load đầy các games "comp của ông ngoại dễ xài hơn, con thích games trong comp của ông ngoại hơn" thế là cái computer của tôi bận dài dài, chỉ trừ khi chúng đi học. Cho nên chơi với cháu chưa hẳn là hạnh phúc đâu bác ạ .
Bác kể cho tôi những bữa cơm chấm xì dầu thật cảm động. Mới đầu bác hỏi tôi :" Ông có bao giờ mút xì dầu chưa "" Tôi trả lời là tôi không hiểu ý bác.
Bác kể lại vào những tháng bác chưa có thẻ EBT, bác ăn cơm với xì dầu hiệu đậu nành, nhưng không dám chan vào chén cơm, chỉ hai miếng cơm mới nhúng đầu đủa vào chén xì dầu một lần và mút lấy đầu đũa, vì nếu chan vào chén cơm hay mút nhiều lần thì sẽ hết mất, không có tiền mua nữa. Những ngày tháng ấy, anh Hồng, ngày xưa ở Biệt Động Quân, và một thời làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Rừng Lá, trước ngày mất nước anh về Phủ Thủ Tướng, mỗi lần ghé thăm, anh thường mua xì dầu, rau muống, Broccoli cho tôi, tôi còn nhớ mãi, bây giờ anh move đi xa rồi, cách đây cũng vài ba tiếng lái xe nên anh không thường tới nữa, mà cũng tội nghiệp, anh ấy cũng chỉ sống với mấy trăm đồng tiền già mà thôi, nhưng khi nào tới cũng đưa tôi đi ăn phở, hay có khi anh mua sẵn 2 tô phở mang đến đây hai anh em cùng ăn. Nghĩ lại, chỉ có những người lính mới thương nhau và đùm bọc nhau trên đất nước tạm dung này.
Ông biết không, vào những ngày tháng đó, có khi tôi rất thèm bánh tráng có vừng đen, hay cơm trắng và xì dầu, mà phải là xì dầu đậu nành, đủ cho tôi ăn không sợ hết. Những đêm nằm không ngủ được, tôi lại ao ước có được một ổ bánh mì của chợ Vons để ăn, tôi thèm mùi thơm của bánh mì chưa kịp nguội, hoặc giã đã nguội đi, tôi lại thèm vị ngọt của bánh khi nhai còn thấm trên đầu lưỡi của mình, thèm đến chảy nước miếng.
Nghe bác kể, tôi thực sự không cầm được lòng mình, lại nghĩ tới thời gian đi tù cải tạo, tôi cũng đã từng thèm được ăn một bữa khoai mì cho thật no, và chỉ mơ ước ngày được thả về, tôi sẽ bảo vợ mua khoai mì cho tôi ăn một bữa cho đã thèm.

Khi thiếu thốn, con người sẽ thèm đủ thứ, cho nên nghe bác kể, tôi thực sự hiểu được cảnh ngộ ấy, và hiểu được sâu xa nỗi lòng của bác, chỉ có một điều mà không ai ngờ được, đó là sống trong một siêu cường bậc nhất, mà người dân chỉ thèm một ổ bánh mì khong cũng không có để ăn, cái ước mơ nhỏ nhoi ấy đã ở dưới mức tầm thường rồi, vì kể cả những người vô gai cư trên thành phố này, cũng không ai có một ước mơ như bác Thụy. Có ai quanh đây đang lâm vào tình cảnh của bác hay không tôi không rõ, cũng có thể có người bị gia đình hắt hủi, con cái bỏ rơi và xua đuổi, nhưng đến một đồng xu dính túi cũng không có thì tôi không tin.

Rồi một ngày bác nhờ tôi chở đi xin việc, bác đọc được một mẫu rao vặt đăng tin cần một người đứng tuổi, có sức khỏe, để săn sóc một ông già 83 tuổi, bị bệnh mất trí, bao ăn ở, tiền lương sẽ thương lượng.
Tôi chở bác tới địa chỉ tìm gặp chủ nhà, cô chủ nhà tiếp chúng tôi và hỏi :
- Chú xin hay chú này xin"
- Tôi, bác nhanh nhẩu trả lời.
Chủ nhà dẫn chúng tôi đến phòng ông cụ, cô cho biết ông cụ đã quên hết mọi thứ, cần giúp ông cụ ăn uống, đi tiêu, đi tiểu, thay quần áo, và tắm cho ông cụ. Mọi sinh hoạt của ông cụ đều cần được giúp đỡ, nhất là về đêm, ông cụ hay thức dậy đi quanh quẩn trong nhà một mình, những lúc như thế cần có người bên cạnh, đề phòng khi ông cụ bị té. Nhiều khi ông cụ đi tiêu, đi tiểu trong quần mà không biết. Và cô hỏi:
- Chú có thể giúp ba tôi được không " Hay chú làm thử vài ngay , vì có người nhận làm nhưng một hay hai ngày sau lại bỏ vì không chịu được tính tình của ông cụ.
- Không đâu, tôi làm được, tôi rất thích người già và trẻ con, cô cứ để tôi làm.
- Vâng, vậy chú có bằng lái xe không cho cháu xem thử"
Bác lấy bằng lái xe đưa cho cô chủ, cô ta xem xong rồi trả lại bác, cô nói, ba cháu nặng 65 ký Không hiểu chú có thể đỡ nổi không, chú làm thử một vài ngày đi, nếu không được, cháu vẫn tính lương cho chú.
Lương tháng là $800, bao ăn ở, mỗi tuần nghỉ một ngày, tốt nhất là thứ 7, cái giường phía trong là của ba cháu, chú nằm giường ngoài. Thức ăn hàng ngày cháu nấu sẵn để trong tủ lạnh hay trên bếp, chú muốn ăn thứ gì cứ ăn tự nhiên.
Mỗi ngày ba cháu uống 12 loại thuốc, ăn cơm trưa, chiều, sáng. Ba cháu uống cà phê, khi chú pha cà phê, nên để nguội rồi mới đưa cho ba cháu, vì ba cháu thích khuấy cà phê bằng ngón tay rồi mút. Thuốc thì cháu sẽ viết tên, liều lượng, giờ uống để trên bàn, chú cho ba cháu uống đúng giờ là được rồi.
Sau khi chủ nhà và bác bàn bạc công việc xong, tôi chở bác ra về, hẹn thứ 2 tuần tới là bắt đầu đi làm. Thoạt đầu bác có vẻ rất vui vì tìm được công việc, nhưng một lúc sau, tôi thấy bác khóc, bác như bị hụt hơi cứ nấc lên từng tiếng, tôi lo sợ nên tìm cách đưa bác vào một shop bên đường, đậu xe lại và hỏi bác :
- Sao bác lại buồn"
- Con người ta thì thuê người săn sóc cho cha, còn tôi thì bị đuổi ra khỏi nhà đi chùi đít cho thiên hạ, ông nghĩ xem có tủi không"
Nói xong câu này bác lại khóc lên thành tiếng. Tôi ngồi im để bác khóc cho hết cơn xúc đông rồi mới bảo bác, mỗi người có một số phận, một đoạn trường, và một nỗi niềm phải gánh, không ai có thể có hạnh phúc hoàn toàn, chỉ có ông cụ 83 tuổi ấy mới thực sự hạnh phúc, vì ông đã quên hết mọi sự, đã không còn biết mọi sự.

Làm cha mẹ, được con cái yêu thương, gia đình hòa thuận dĩ nhiền là điều tốt, nhưng điều tốt hơn là tự vấn lương tâm xem mình đã hết lòng với con cái hay chưa cũng là điều rất quan trọng . Nỗi đau khổ bị con cái bỏ rơi hay xua đuổi chưa hẳn đã lớn hơn nỗi đau đớn khi phải nhìn thấy con mình chịu đau khổ, Không hiểu bác có nghĩ như tôi không"

Bây giờ ở là mùa Hè, rải rác đó đây, trên những đồi hoang quanh nhà tôi đã trổ lên vài chùm hoa dại, màu vàng như hoa Cúc, càng làm tôi nhớ đến quê hương mình, như ngày Thu trên rừng núi cao nguyên, những khóm Quỳ hoang cũng nở vàng như vậy trên những triền đồi, và càng nhớ đến người sĩ quan thám báo bây giờ không phải đang nhật tu trận liệt, hay chăm sóc một đồng đội kém may mắn, mà là đang chăm sóc một cụ già mất trí. Cầu xin cho người sĩ quan ấy như lời vị Tổng Tư Lệnh đã từng nói : "Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đa năng, đa hiệu, và đa dụng."

Du Tử Nguyễn Định
92009 tháng 7, 2011
dailien
Posts: 2458
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Nỗi sợ mang tên Cộng Sản

Image

02/09/2018: Đầy tớ chuẩn bị đón tiếp chủ nhân cả nước xuống đường mừng Nhị Hỷ và vân vân…

“Một dân tộc mà người dân hèn với chính quyền, trong khi chính quyền lại hèn với kẻ thù xâm lược thì dân tộc đó phải bị diệt vong!”
(Aung San Suu Ky).
Bốn triệu thành viên băng đảng cộng sản Việt Nam, theo HY em, đã toa rập thành công trong việc cấy độc trùng sợ hãi mang tên Cộng Sản vào đầu óc của cả một dân tộc gồm 96 triệu con người. Nói 96 triệu con người là vì, đừng tưởng bốn triệu thủ phạm vừa nêu không biết sợ độc trùng cộng sản, mà thực tế đã chứng minh chính người cộng sản càng kiên trung bao nhiêu lại càng sợ độc trùng sợ hãi mang tên Cộng Sản bấy nhiêu – ít nhất và chắc chắn là họ luôn luôn ngay ngáy nỗi sợ đó giữa họ với nhau, kể cả trường hợp mọi thành viên trưởng thành trong một gia đình đều là đảng viên.

Nói cách khác, đảng viên cộng sản không bao giờ thật tâm tin tưởng nhau, vì tất cả đều là “kẻ thù tiềm ẩn”; là đảng viên thì phải tin đảng là lẽ tất nhiên, tuy đã bán linh hồn lẫn thể xác cho đảng, song chính bản thân họ cũng chẳng người nào biết Đảng là Ai ! Còn Đảng là gì thì chắc chắn họ đều phải thuộc nằm lòng rằng: Đảng là tụ điểm của tuyệt đại đa số thành viên ưng khuyển loong toong cúc cung phụng sự thiểu số lãnh đạo cao cấp xây biệt phủ kiểu Pháp / Anh / Ý, chạy xe sang Mỹ / Đức / Nhật; tứ khoái không mất tiền túi (vì tất cả chi phí đều móc ngoặc từ tiền thuế của nhân dân, tức bao gồm cả ông bà, cha mẹ, anh chị em của các đảng viên âm binh ưng khuyển).

Ngày 02/09/2018, từ nước ngoài nhìn về, coi như cả nước đã không đồng tâm xuống đường “Mừng Quốc Khánh, Mừng ngày mất chủ tịch Hồ Chí Minh và vân vân…” như kỳ vọng: Đó có thể là do độc trùng sợ hãi Cộng Sản đã tác động đúng lúc, nhưng cũng có thể là do chiến thuật “tránh voi chẳng xấu mặt nào” trước sự chuẩn bị đón tiếp chi li của toàn bộ bầy đàn âm binh hung hãn được vũ trang tận răng từ tiền thuế của người dân cả nước; hoặc là cuộc xuống đường đã thật sự xảy ra nhưng bởi băng đảng và nhà cầm quyền cs VN đã chặn mọi phương tiện truyền tin ra nước ngoài, cho nên chưa hết tháng 9 chưa chính thức là mùa lá rụng, thì chớ lấc cấc “buồn” trước Thu!

Và sự chuẩn bị đón tiếp cả nước của toàn bộ bầy đàn sai nha hung hãn được vũ trang tận răng hôm 02/09/2018 nói lên cụ thể điều gì? – Họ khiếp sợ cả nước xuống đường “mừng nhị hỷ và vân vân”! Thế thì cách này cách khác, từ rày cả nước đó đây hãy luân phiên “tự diễn biến, tự chuyển hoá” trọn năm thành 365 ngày 02/09, năm này qua năm khác! Với lối “xa luân chiến” này, để xem băng đảng độc tài Việt cộng sẽ trụ được bao lâu! Và “xa luân chiến” này cũng có thể áp dụng cho cả sau 2020, giả sử Mật nghị Thành Đô có hiệu lực.

Đấu tranh chống độc tài, nhất là độc tài “hèn với giặc, ác với dân” như Việt cộng chứ có phải nấu cháo trắng đâu mà hòng nhừ trong một buổi!
Image
Trần Thị Hải Ý
vuongquan
Posts: 275
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Lan man chuyện đôi đũa

Nếu văn hoá là cái gì còn sót lại, khi người ta đã quên hết như một tác giả nào đó đã nói (“La culture est ce qui reste, quand on a tout oublié” ), thì chính đôi đũa là cái còn sót lại.


Từ giã quê hương ra đi, những gì ta mang theo, nếu có, nhất định không phải là đôi đũa. Vậy mà ngày đầu tiên đặt chân đến miền đất mới cũng như sau nầy, trong những bữa ăn, đôi đũa vẫn xuất hiện bên cạnh ta, đi theo ta suốt một đời… nó hiển nhiên đến nỗi không còn ai biết nó từ đâu đến, tại sao có? Trong những bữa cơm nghèo nàn, muối dưa đạm bạc hay những yến tiệc linh đình, mỹ vị cao lương, người Việt ta vẫn phải dùng đến đôi đũa. Không thể dùng tay để bốc thức ăn như con người 5.000 năm trước đây của nửa phần trái đất nầy. Tuy tầm thường, thô sơ, rẻ mạt, không ai để ý, nhưng đôi đũa luôn luôn ở bên cạnh ta. Cả đến khi ta qua đời, đôi đũa cũng được so ngay ngắn để bên chén cơm cúng ta trên bàn thờ.
Image
Lan man chuyện đôi đũa
(Ảnh minh họa qua healthplus.vn)
Đôi đũa là một phát minh của nền văn minh nông nghiệp cách đây hàng ngàn năm của vùng Hoa hạ (bấy giờ là nơi sinh sống của người Việt cổ) và sau đó lan tràn cả vùng Đông Nam Á. Nó vừa là một dụng cụ vừa là một chứng nhân của dòng sinh hoạt văn hóa dân gian, biểu tượng một phần của đời sống văn minh trong sự ăn uống. Riêng người Việt Nam, qua cung cách sử dụng, đôi đũa còn thể hiện nét đẹp của tinh thần gia tộc. Biết kính trên nhường dưới, biết ”ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, biết gắp miếng ngon dâng cho ông bà, cha mẹ, nhưng đồng thời cha mẹ, ông bà cũng chia sẻ, nhường nhịn thức ăn cho con cháu. Tình gia tộc chan hoà ấm áp qua sự sử dụng đôi đũa trong bữa cơm.
Trước khi ăn, có người còn cầm đũa xá 3 xá, để nhớ ơn người nông dân lam lũ, một nắng hai sương, nhọc nhằn vất vả, mới tạo ra được hột cơm. Và khi ăn, phải ăn cho sạch cơm trong chén – để thể hiện cái đạo lý ”Ăn trái nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta. Tập quán tốt đẹp nầy hiện vẫn còn một số gia đình áp dụng. Đôi đũa còn mang lại cho ta cái thú vị trong cách thưởng thức món ăn. Cứ thử ăn món phở mà dùng chiếc nĩa cuộn tròn mấy cọng bánh đưa vào miệng… Hoặc ăn món mắm và rau mà cầm nĩa xăm từng cọng rau, con dao cắt từng miếng thịt – mắm, thịt và rau rời rạc, không còn là món ”mắm-thịt-cá-và-rau” hài hoà tuyệt diệu: ăn một miếng, ngon thấm tận vào da thịt, như âm hưởng một bản đàn đã dứt mà dư âm còn lan man mãi trong tâm hồn. Ăn mắm bằng muỗng nĩa… thì không còn thú vị gì nữa!

Đôi dòng lịch sử về đôi đũa
Theo nhiều sử liệu nghiên cứu về đôi đũa thì người dân vùng Hoa Nam thuộc giống dân Bách Việt là dân tộc đầu tiên phát minh ra đôi đũa dùng để gắp thức ăn. Trong quyển L’histoire culturelle de la Chine, sử gia Đàm Gia Kiện xác nhận người Tàu thời tiên Tần (trước Tần Thủy Hoàng) vẫn còn ăn bốc tức dùng tay như một đứa trẻ đưa thức ăn vào miệng. Riêng dân Trung Hoa miền Hoa Bắc – ăn bốc là một thói quen truyền thống. Vì miền nầy khí hậu lạnh lẽo, dân ở đây chỉ trồng được lúa mạch (orge) và lúa kê (millet) và ăn bánh mì, tất nhiên là ăn bốc, vì phải dùng tay để cầm bánh mì đưa vào miệng ăn. Và bánh mì của họ khác với bánh mì Tây Phương. Chỉ khi họ bành trướng lãnh thổ về phương Nam – vùng đất của dân Bách Việt (100 giống dân Việt) đất ấm áp, nơi có nhiều rừng tre và trồng được lúa nước, người Hán khám phá ra dân nơi nầy dùng một dụng cụ thô sơ bằng tre, dùng để và cơm và gắp thức ăn đưa vào miệng.

Đôi đũa đuợc phát sinh qua hình ảnh cái mỏ con chim ngậm giữ một cách có hiệu quả hột lúa hay một con cá, trước khi đưa vào miệng ăn. Và cũng vì thức ăn có nhiều thứ ẩm nước hay nóng sôi, dùng tay ăn sẽ dơ bẩn hay bị phỏng tay, rất bất tiện… Từ đó, họ dùng 2 cái que, hình ảnh cổ xưa nhứt của đôi đũa. Họ Đàm kết luận, với những khám phá mới gần đây nhứt, đã minh chứng Đôi Đũa là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp của vùng Đông Á. (Đàm Gia Kiện, L’histoire culturelle de la Chine – p.769)
Image
Lan man chuyện đôi đũa
(Ảnh minh họa từ chương trình “Nàng thơ xứ Huế”)
Người Tàu còn sử dụng đôi đũa trong Toán học trước khi phát minh ra được bàn toán (boulier). Đời nhà Hán, người Tàu đã biết sử dụng những chiếc đũa viết những con số để xếp thành những phương trình đại số. Lưu Huy (220-280) dùng những chiếc đũa màu đỏ (chỉ số dương) và những chiếc màu đen (chỉ số âm), để dạy Toán học, để xếp thành những ma trận (matrice), một ngàn năm trước cả GAUSS. Người Tàu cũng sớm biết rút căn số (extraire les racines carrées) từ thời đó. (Theo J. Claude Marzloff, Histoire des Mathématiques chinoises, 1988, p.376)
Qua những nghiên cứu về nguồn gốc đôi đũa, luận chứng của sử gia Đàm Gia Kiện gần đây nhứt, có lẽ là đáng tin cậy hơn cả. Nhà Hán bành trướng lãnh thổ về phương Nam – vùng các tỉnh phía Nam sông Dương Tử gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến – là những vùng khí hậu tương đối ấm, trồng được lúa nước và có nhiều rừng tre. Thực phẩm vùng nầy là cơm nấu từ lúa gạo không phải là bánh mì như vùng Hoa Bắc (ăn bằng cách cầm tay). Ăn cơm thì phải dùng 2 cái que bằng tre để lùa cơm vào miệng và để gắp thức ăn – tiện lợi, sạch sẽ hơn dùng 2 bàn tay.

Trên đường lưu lạc xứ người
Bây giờ lưu lạc xứ người, cộng đồng ta là một thiểu số nhỏ bé. Môi trường khác, văn hoá khác, ngôn ngữ tập quán khác. Văn hóa mới ảnh hưởng ào ạt trực tiếp – tác động có tánh cách thượng phong, áp đảo, nhứt là đối với giới trẻ. Muốn sống còn, dù không muốn, ta vẫn phải hội nhập vào xã hội mới. Giới trẻ được giáo dục theo văn hoá sở tại. Từ nơi ăn chốn ở, cách ăn uống, nếp suy tư – là hệ quả của nền giáo dục mới. Bữa cơm Việt Nam, tất nhiên có đôi đũa, có còn giữ vững địa vị của nó trong nếp sống của nhiều thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên tại hải ngoại không?

Nhiều người ưu tư nghĩ rằng chỉ vài ba thế hệ sau, nền văn hoá ta sẽ chìm mất vào nền văn hóa bản địa. Trẻ con ta dần dần sẽ không nói được tiếng Việt, không học tiếng Việt hoặc có, cũng chỉ là qua loa, thứ yếu. Hậu quả tất nhiên là không đọc sách báo Việt, không thích nhạc Việt. Trẻ con thích Hamburger hơn cơm, thích khoai tây chiên hơn phở. Bữa cơm gia đình sẽ không còn canh chua cá kho, sẽ vắng bóng mắm tôm cà pháo, và đôi đũa, cũng sẽ bị dòng nước lũ văn hoá mới cuốn trôi đi mất…

Mặc dù có rất nhiều tổ chức, hội đoàn, chùa chiền khắp thế giới hoạt động thiện nguyện, nhiệt tình, tích cực cho việc giáo dục tiếng Việt cho con em, nhưng có một sự thật không thể chối cãi là phần lớn con em sinh tại hải ngoại không đọc sách báo Việt ngữ và thích ăn Hamburger, hot dog hơn cơm và phở.
Bảo tồn và duy trì văn hoá cũng còn tùy thuộc nơi sức nỗ lực của chúng ta – những bậc cha ông của các thế hệ sinh tại hải ngoại. Tại sao các cộng đồng Tàu còn giữ được văn hóa của họ. Thăm dò những người Tàu nhiều thế hệ sinh đẻ tại đây – hiện có người từ 60 tới 90 tuổi, họ vẫn đọc được tiếng Tàu, ăn cơm Tàu, sử dụng đôi đũa… Người Tàu đã làm được. Còn ta thì không biết ra sao!

Đôi đũa trong bàn tiệc
Một người Tây Phương, Ô. G. Charles, trong tác phẩm: ”La table du dragon” hết sức ca tụng đôi đũa và thức ăn Á Đông. Ông viết: ”Người ta tự đào huyệt chôn mình bằng chiếc nĩa, nhưng ngườt ta xây dựng sức khoẻ của mình với đôi đũa” (On creuse sa tombe avec la fourchette, mais on construit sa santé avec les baguettes).
Lan man chuyện đôi đũa
Image
Người xưa dùng đũa cũng rất quý phái, nhưng ngày nay văn hóa dùng đũa đã bị mai một. (Ảnh minh họa từ chương trình “Nàng thơ xứ Huế”)
Tác giả một mặt đề cao đôi đũa và thức ăn Á Đông, mặt khác, ông nhận xét cung cách ăn uống của mấy ông con trời: ”Bữa ăn được xem là khoảng thời gian sum họp, vui vẻ, nên người Tàu gây nhiều tiếng động ồn ào trên bàn ăn. Xương xẩu, rác rưởi bỏ bừa bãi bên cạnh chén cơm hoặc vứt đầy xuống mặt đất… và rất ít khi không thấy họ khạc nhổ xuống nền nhà. Chiếc bàn sau bữa ăn giống như một bãi chiến trường ngổn ngang xác chết…” (G. Charles, La table du dragon).

Người Việt ta có lẽ cũng đã từng thấy ngoài đời lẫn trong phim, người ta ăn lẩu… Họ dùng đôi đũa dính cơm, thức ăn đang nhai, gắp thịt cá nhúng vào lẩu rồi đưa vào miệng ăn. Đôi đũa dính đầy đờm dãi, xác rau, thịt cá nhai nát… nhúng vào rồi còn quậy quậy trong nước lẩu… cho thịt mau chín. Chao ơi! Mọi người dùng cái muỗng múc nước trong lẩu húp xì xụp!
Chính người viết bài nầy những ngày gần đây cũng đã từng trải qua nhiều lần ăn lẩu như thế: Cá bóng kèo còn sống nhảy soi sói… được bỏ vào chiếc lẩu để giữa bàn. Rau rác cũng được bỏ vào cùng lúc. Hàng chục đôi đũa chỏ vào nhúng, gắp, quậy quậy… rồi đưa vào miệng nhai, ăn… và tiếp tục dùng đôi đũa dính đầy thức ăn chỏ vào lẩu lập lại cái ”điệp khúc” nầy nhiều lần trong bữa ăn. Nước dùng trong giây lát… ngả màu, nổi màng màng. Kỳ vi, thịt cá, rau rác vụn và chắc chắc có cả nước miếng, đờm dãi trôi lều bều trong nước lẩu… Ly la ve độc nhứt trên bàn chuyền nhau… nốc ừng ực một hơi, khà một tiếng khoái trá! Những người khác trong bàn vỗ tay: ‘Dzô! Dzô! Chăm phần chăm!’ Tiếng vỗ tay rôm rốp. Tới phiên mình cũng đành phải nâng ly và cũng đành chỏ đũa, nhúng, gắp như mọi người, nếu không muốn lãnh cái cán búa. Thiệt tình! Ớn thấu trời xanh!

Thói quen ”truyền thống” nầy đã có lâu đời nên người trong cuộc thấy rất bình thường. Nếu để ý một chút hoặc khi xem người Tàu ăn lẩu… thấy thật muốn nhợn… Ớn quá trời! Người Tây Phương lấy làm lạ trong lòng!
Trong tiệc cưới hỏi hay party hội họp bạn bè… người mình có thói quen dùng đôi đũa đang ăn trong miệng gắp thức ăn bỏ vào chén các vị cao niên, các bà, các cô… để bày tỏ sự kính trọng người lớn tuổi hay sự xã giao lịch lãm của mình. Tuy nhiên, qua sự thổ lộ của nhiều người, họ rất khổ tâm trước vấn đề nầy. Có nhiều điều bất tiện. Dùng đôi đũa đang ăn gắp thức ăn phục vụ cho người khác có khi làm họ không hài lòng. Vì món ăn đó không thích hợp với cái răng vừa mới thay, vì muốn tự mình gắp món nào mình thích, hoặc vì cử món đó, hay vì món đó khi được phục vụ chỉ còn đầu và vỏ (thí dụ như tôm hùm). Đôi đũa mình đang ăn, đã dính nước miếng, cơm và thức ăn nhai trong miệng, mà gắp thức ăn bỏ vào chén phục vụ người khác. Bỏ thì sợ mích lòng bạn mà ăn thì nuốt không vô… Một bà bạn tâm sự: “Tui ngồi chết trân, hổng biết phải làm sao, bèn lén lén để ra dĩa lấy giấy khăn ăn đậy lại, mắt lấm lét vì sợ bị bắt gặp. Trông cho anh bồi đi tới dọn để phi tang cho lẹ lẹ.”
Ta vẫn có thể lịch sự phục vụ người khác bằng cách sử dụng muỗng nĩa do nhà hàng dọn sẵn trong dĩa để lấy thức ăn để vào chén họ. Ta vẫn giữ được thói quen tốt đẹp nầy.
Xoá bỏ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một thành trì. Huống chi đôi đũa trong bữa ăn người Việt còn là một tập quán lâu đời, một nét văn hoá trong đời sống ông cha hàng ngàn năm nay. Bỗng nhiên thay đổi cung cách sử dụng, dù biết đúng đi nữa cũng khó mà chấp nhận.
Dòng văn hóa ngàn đời của ta là gạn lọc và thâu thái. Giáo dục của ta vừa dân tộc, vừa khai phóng… Vừa bảo tồn, vừa biến đổi… Gìn giữ cái hay nhưng đào thải cái dở. Chính chúng ta là những người trực tiếp tham dự, đóng góp vào dòng văn hoá đó. Đôi đũa là một di sản dân tộc, cho đến ngàn sau ta vẫn còn sử dụng nó, nếu ta còn là người Việt. Nhưng biến đổi, cải tiến cung cách sử dụng cho thích nghi với nếp sống văn minh hiện đại là điều cần thiết, là phù hợp với dòng văn hóa ngàn đời của ông cha ta.

Lê Quốc
MatVit
Posts: 1309
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »


Image

SỰ RA ĐỜI CỦA TIẾNG VIỆT QUÁI DỊ SẼ TRIỆT TIÊU NGÔN NGỮ, TRIỆT TIÊU THÔNG TIN,
TRIỆT TIÊU VĂN HÓA, TRIỆT TIÊU LỊCH SỬ VIỆT NAM !!!
TỘI PHẢN QUỐC VÌ ÂM MƯU PHÁ HOẠI VĂN HÓA VIỆT NAM, ÂM MƯU BIẾN 90 TRIỆU NGƯỜI VIỆT ĐANG BIẾT CHỮ THÀNH MÙ CHỮ !

ĐỀ NGHỊ BÁO CHÍ, TRƯỜNG HỌC và HÀNG TRIỆU GIA ĐÌNH VIỆT KHÔNG TIẾP TAY CHO ÂM MƯU PHÁ HOẠI ĐẤT NƯỚC NÀY !

Hôm nay, ngày 4/9/2018 trước thềm năm học 2018,
Tôi, công dân Việt Nam Trần Thị Hoàng Trúc, với tư cách là:

1/ Nhà văn - Hội viên Hội Nhà văn TpHCM
2/ Nhà thơ - Do nhân dân cả nước phong tặng qua hàng loạt bài thơ đạt kỷ lục "ngàn like/ ngàn share" trên Mạng xã hội Facebook.
3/ Nhà ngôn ngữ học truyền thông (Copywriter) với thâm niên hơn 12 năm trong nghề.
4/ Người mẹ của 4 con trong đó có 2 con sẽ vào lớp 1 trong năm tới.

Đề nghị Viện KSND Tối cao truy tố 3 tên: Phùng Xuân Nhạ, Hồ Ngọc Đại, Bùi Hiền tội Phản Quốc , vì :
1/ Âm mưu hủy hoại sự trong sáng lành mạnh của tiếng Việt.
2/ Âm mưu hủy hoại nền văn hóa mấy trăm năm của người Việt kể từ khi quốc ngữ ra đời.
3/ Âm mưu phá hoại Quốc Khố Việt Nam trong lúc nền kinh tế Việt Nam gần như kiệt quệ vì nợ công. Việc tiêu hủy các sách vở, ấn phẩm cũ và in ấn mới sẽ ngốn hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế xương máu của nhân dân.
4/Âm mưu biến 90 triệu người dân Việt đang biết chữ thành mù chữ.
5/ Âm mưu triệt tiêu Thông Tin, triệt tiêu Văn Hóa, triệt tiêu Lịch Sử, triệt tiêu Sự Thật, biến các thế hệ trẻ tương lai thành những người mù thông tin về văn hóa lịch sử Việt Nam khi cần tra thông tin trên mạng internet.
6/ Âm mưu Hán hóa tiếng Việt với thứ ngôn ngữ lai căng, biến dị và tục tĩu (ví dụ: Nếu muốn nói "trục trặc" theo kiểu Bùi Hiền thì phải nói "cục cặk (rất xin lỗi !).
7/ Âm mưu chia rẽ văn hóa, tình cảm gia đình, khiến Cha Mẹ và con cái không thể nhắn tin và gửi thư cho nhau !
8/ Âm mưu làm tốn tiền của và thời gian vàng bạc của nhân dân cả nước vì phải đi học lại tiếng Việt ! Mà đi học thì lấy tiền đâu nộp hàng trăm loại thuế phí, ảnh hưởng ngân sách trầm trọng. Đáng Phạt Nặng !

9/ Âm mưu xúc phạm lãnh tụ Hồ Chí Minh. Vì cứ mỗi lần học sinh đọc câu văn "Chủ tịch ôm chặt và hôn Chu Ân Lai" thì sẽ đều đọc bậy thành "Chủ tịch ôm cặk và hôn Cu Ân Lai" (xin xem hình đính kèm - rất xin lỗi !). Tội xúc phạm nặng nề lãnh tụ là rất nặng, cần xử phạt THÍCH ĐÁNG !

10/ Âm mưu biến Việt Nam thành một bản sao đầy lỗi của Trung Quốc, đi vào vết xe đổ của Trung Quốc ! Nên nhớ, sau khi Trung Quốc cải cách chữ Phồn Thể thành Giản Thể thì văn hóa Trung Quốc suy đồi, đạo đức tha hóa trầm trọng, các thế hệ trẻ không thể tiếp cận nền văn học cổ ngàn năm của Trung Hoa.

Nay có phải những tên PHẢN QUỐC này muốn thế hệ trẻ Việt Nam cũng như vậy, không biết tổ tiên Vua Hùng là ai, không biết Hai Bà Trưng là ai, không biết Trung Quốc là giặc thù ngàn năm của người Việt ?

Cần xem xẻt lại MỤC ĐÍCH cho ra đời cai' thứ- gọi- là tiếng -Việt -công -nghệ mà không hề liên quan đến công nghệ này ! Tại sao lại ép 49 tỉnh thành dạy thí điểm cho học sinh làm tiêu tốn 227 tỷ tiền mua sách vở ?

Nhân dân cả nước KHÔNG TIN chuyện có 49 tỉnh thành tự nguyện muốn dạy học lối ngôn ngữ quái thai này ! Đây CHẮC CHẮN là do tên Phùng Xuân Nhạ, lạm dụng quyền Bộ trưởng Bộ giáo dục ra chỉ thị ép xuống !

Đề nghị xem xẻt lại NHÂN CÁCH của tên Phùng Xuân Nhạ khi cho rằng "Giáo viên nữ đi tiếp khách là bình thường và lẽ ra phải từ chối cấp trên" trong khi hắn quá rõ là các cô giáo thấp cổ bé họng không thể kháng lại lệnh cấp trên được.

Đề nghị xem xét ĐẠO ĐỨC của tên Phùng Xuân Nhạ về hành vi ĐẠO VĂN ! Một Bộ trưởng mà đạo văn thì làm sao làm gương cho cấp dưới, học trò !

Đề nghị xem xét lại BẰNG CẤP của tên Phùng Xuân Nhạ vì nhiều nguồn thông tin khẳng định hắn dùng Bằng giả ! Nên có cơ quan uy tín kiểm tra !

Đề nghị xem xét lại NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO của Phùng Xuân Nhạ khi để cho nền giáo dục nước nhà ngày càng suy đồi đáng báo động. Học sinh chơi các trò chơi kích dục, học sinh bạo hành nhau, giáo viên lạm dụng học sinh ...

Đề nghị xem xét lại NĂNG LỰC NGÔN NGỮ của tên Phùng Xuân Nhạ vì không thể để một người ngọng làm ngành giáo dục được! Như thế, học sinh sẽ nghĩ "Muốn làm bộ trưởng bộ giáo dục thì phải ngọng !". Sẽ ra sao khi tương lai của một đất nước NGỌNG NGHỊU !

Đề nghị xem xét TINH THẦN YÊU NƯỚC của tên Phùng Xuân Nhạ khi để cho bìa sách giáo khoa in hình Vạn Lý Trường Thành của giặc Tàu là có ý gì ? Hay mục đích là Hán hóa ?

Đề nghị dư luận cả nước LÊN TIẾNG YÊU CẦU PHÙNG XUÂN NHẠ TỪ CHỨC LẬP TỨC !

YÊU CẦU CƠ QUAN CHỨC NĂNG KHỞI TỐ HÀNH VI PHẢN QUỐC CỦA 3 TÊN: PHÙNG XUÂN NHẠ, HỒ NGỌC ĐẠI & BÙI HIỀN !!!

Đề nghị Báo Chí nhập cuộc vì sự Tồn Vong của nước Việt. Tiếng Việt còn, nước Việt còn, tiếng Việt mất, nước Việt mất !

Đề nghị hàng triệu gia đình Việt NÓI KHÔNG với tiếng Việt quái thai VONG BẢN !

Đề nghị tất cả trường học trên cả nước treo Băng-rôn "TIẾT KIỆM QUỐC KHỐ - NÓI KHÔNG với TIẾNG VIỆT VONG BẢN"!

Nếu các trường học vẫn dạy thứ tiếng Việt tục tĩu này, tôi thà cho các con tôi NGHỈ HỌC ! Ở nhà tôi dạy !

Mong nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của hàng triệu bà mẹ, hàng triệu giáo viên, giới trí thức, giới doanh nhân và công nhân CÓ LƯƠNG TRI trên cả nước !

Xin chân thành cảm ơn!

Trần Thị Hoàng Trúc
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Đàn bà chỉ mất 3 tháng để quên đi đàn ông,
đàn ông thì cần cả đời để thôi nhớ nhung về 1 người phụ nữ

09/09/2018

Đàn bà cứ nghĩ rằng mình là kẻ nặng tình trước đàn ông cho đến khi nhận ra, thật ra chúng ta vốn chẳng nặng tình như ta vẫn tưởng.

Khi yêu ai mà chẳng nghĩ chúng ta đã hết lòng, hết dạ vì một ai đó. Tất nhiên, tình yêu thì không thể toan tính được đặc biệt là toan tính về chuyện chia tay sau này. Yêu bất cứ ai cũng mong đợi sẽ có kết quả tốt đẹp nhất. Đối với đàn bà, họ mong mỏi một đám cưới, đối với đàn ông, họ mong mỏi có một gia đình trọn vẹn.

Rồi ai cũng hướng tới cái hạnh phúc tưởng như ngay trước mắt đó để rồi đến một ngày chúng ta bỗng phải bỏ đi. Một người quay lưng thì một người không thể nào níu giữ được. Trái tim chúng ta chỉ có thể đau khổ, chấp nhận điều đang đến.

Đàn bà, ai cũng nghĩ rằng mình sẽ mất rất nhiều thời gian để quyên đi một người đàn ông. Thật ra, cũng có rất nhiều người đàn bà như vậy, họ dành biết bao nhiêu thời gian để quên đi một người. Nhưng lý do họ yêu thương người ta, họ còn luyến tiếc thì lại không phải, chỉ vì họ chưa tìm được một người tốt hơn, tử tế hơn để thay thế vết thương mà người cũ đã để lại mà thôi.

Chúng ta chẳng thể nói rằng đàn bà không chung tình, chúng ta chỉ có thể nói rằng đàn bà không phải nhanh quên mà họ sớm tìm được người ở bên cạnh, nâng đỡ, bao bọc thì việc gì họ phải cô đơn thêm nữa.

Thực sự mà nói không có quá nhiều người phụ nữ chọn cô đơn quá lâu sau khi chia tay. Một số ít chọn cô đơn, cô đơn một thời gian sau đó họ dần quen với nó và cái cảm giác không còn cần đến đàn ông xuất hiện.

Đàn bà, vốn dĩ nhanh quên hơn đàn ông tưởng. Họ vốn là những cô gái não cá vàng, tình yêu đẹp đến mấy theo thời gian rồi cũng tàn phai huống hồ chuyện chia tay theo thời gian lại không thay đổi. Đàn bà chóng quên, chỉ 3 tháng thôi đàn bà có thể có tình mới miễn sao người tình mới này đủ tốt, đủ chân thành và vượt hẳn so với người yêu cũ trước đây.

Image
(Ảnh minh họa)
Có thể đàn bà thỉnh thoảng vẫn sẽ nghĩ về những chuyện đã qua, đã cũ nhưng chỉ khi có người mới họ sẽ lại một lần nữa toàn tâm toàn ý dành cho đối phương là một người đàn ông khác. Người cũ có thể nhớ nhưng cũng đã cũ rồi, đàn bà có thể bọc nó lại gói gém chúng cùng những kỉ niệm rồi cất thật sâu trong trai tim mình không còn ý định lôi ra thêm một lần nào nữa.

Đàn ông họ hoàn toàn khác. Một người đàn ông có thể mất cả đời để thôi nhớ về một người phụ nữ đặc biệt là mối tình đầu hoặc mối tình mà họ da diết, day dứt nhất. Đàn bà khi có thứ tốt hơn họ sẽ quên ngay những thứ cũ. Còn đàn ông cho dù có thứ tốt hơn hay không họ vẫn nhớ mãi về thứ đã cũ.

Bởi vì bản tính đàn ông là chinh phục, là muốn có được chỗ đứng của riêng mình. Thế nhưng khi mà không thể có được họ mãi mãi cảm thấy luyến tiếc.

Chẳng phải con người ai cũng vậy sao, khi không có được thứ mình muốn thì họ có thể day dứt cả đời. Đối với đàn ông cũng vậy, một người phụ nữ mà họ đem lòng yêu tha thiết nhưng kết quả lại không thể đi đến cuối con đường ấy. Chắc chắn người phụ nữ đó sẽ có một vị trí vô cùng lớn trong trái tim người đàn ông.

Đàn ông họ có thể yêu người mới, dành tình cảm toàn tâm toàn ý cho người phụ nữ đến sau. Họ học được cách trân trọng người phụ nữ ở bên cạnh mình hơn sau khi người phụ nữ đến trước bỏ đi. Thế nhưng chính người phụ nữ đó đã cho họ nỗi nhớ, khiến họ vương vấn cả đời. Đó là người đàn bà mà họ mong mỏi có được, níu giữ nhưng cuối cùng không giành giật được thuộc về mình. Có lẽ đó chính là lý do lớn nhất khiến đàn ông cần cả đời để có thể thôi nhớ nhung về một người phụ nữ còn đàn bà lại chỉ cần 3 tháng là quên.

Nắng Mai
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Điện thoại thông minh làm xáo trộn cuộc sống
Huy Lâm

Nếu có ai đặt câu hỏi rằng vật thiết thân nhất đối với các cô cậu choai choai (teenager) thời nay là cái gì, thì chắc số đông người sẽ nhận ra ngay đó là chiếc điện thoại thông minh. Hiện có tới 95 phần trăm các cô cậu trong lứa tuổi từ 13 đến 17 ở Mỹ có điện thoại thông minh hoặc là người trong nhà có để cho các cô cậu dùng ké, và gần một nửa nói cho biết các cô cậu dùng nó để truy cập mạng gần như là liên tục suốt ngày.

Tuy nhiên, kết quả thăm dò và phỏng vấn gần đây cho biết, nhiều cô cậu choai choai nhận thấy là phần lớn thời gian dành cho điện thoại không mang lại cho họ sự hài lòng. Điều này có nghĩa là việc sử dụng điện thoại liên tục không hẳn là sẽ mang lại niềm vui như nhiều người nghĩ. Vậy thì tại sao các cô cậu choai choai lại ghiền chiếc điện thoại đến không rời ra được?

Để có chút khái niệm về tương lai của một xã hội, các nhà nghiên cứu thường nhìn vào lớp thiếu niên đang lớn, theo dõi và tìm hiểu hành vi cũng như các thói quen của họ. Cho dù là ở thời đại nào, điều thực tế là tuổi trẻ ở mỗi thế hệ sinh hoạt cũng như thói quen đều rất khác nhau. Một ví dụ, các cô cậu trẻ của thế hệ trước đó thường ôm chặt cái điện thoại bàn để tán dóc với bạn suốt một buổi tối; còn các cô cậu trẻ thời nay thì khác, họ nói chuyện với nhau qua Snapchat, một ứng dụng của điện thoại thông minh cho phép người sử dụng gửi hình ảnh, videos, và sau một thời gian ngắn thì tự động xoá đi. Ngoài ra còn còn những ứng dụng khác như Instagram, Twitter, Facebook, v.v… để bạn bè liên lạc với nhau rất tiện lợi. Thế nên, các cô cậu trẻ thời nay ít đi ra ngoài chơi, chỉ ở trong phòng suốt ngày ôm điện thoại, và muốn liên lạc với ai thì chỉ cần bấm một cái là xong.

Một số nhà nghiên cứu nhận thấy hành vi của các cô cậu trẻ, trong đó có việc sử dụng thời gian trong ngày của họ, có một thay đổi lớn trong năm 2012. Đây cũng là năm trùng hợp với sự kiện số người Mỹ có điện thoại thông minh vượt quá con số 50 phần trăm.

Đi ngược lại một thế hệ cho đến năm 1995, và các nhà nghiên cứu trên đặt tên cho lớp người trẻ sinh từ 1995 đến 2012 là lớp thế hệ iGen – đây là thế hệ được hình thành bởi điện thoại thông minh và đồng thời là sự xuất hiện của mạng truyền thông xã hội. Những người trẻ sinh trong khoảng thời gian này lớn lên cùng chiếc điện thoại thông minh, họ có trương mục Instagram trước khi bước lên trung học, và không có chút khái niệm gì về khoảng thời gian trước khi internet xuất hiện. Những người sinh sớm nhất của thế hệ iGen vừa đủ lớn để làm quen với điện thoại thông minh khi chiếc iPhone đầu tiên ra đời năm 2007, và lên bậc trung học khi chiếc máy tính bảng iPad được trình làng năm 2010. Một cuộc thăm dò năm 2017 cho biết ba trong bốn cô cậu thiếu niên ở Mỹ sở hữu một chiếc iPhone.
Sự xuất hiện của chiếc điện thoại thông minh đã làm thay đổi sâu xa mọi khía cạnh đời sống của các cô cậu thiếu niên, từ những điều căn bản trong giao tiếp xã hội cho đến sức khoẻ tinh thần của họ. Những thay đổi này làm ảnh hưởng tới những người trẻ ở mọi nơi khắp nước Mỹ và trong mọi gia đình. Chiều hướng này xuất hiện ở các cô cậu thiếu niên nghèo cũng như giàu; không phân biệt chủng tộc; ở thành phố, ngoại ô, và luôn cả các thị trấn nhỏ. Nơi đâu có tháp tín hiệu điện thoại di động, nơi đó cuộc sống của các cô cậu thiếu niên bị gắn chặt với chiếc điện thoại thông minh.

Đối với mọi thế hệ, có những thay đổi mang tính tích cực, một số thay đổi khác mang tính tiêu cực. Với những cô cậu trẻ thời nay, họ cảm thấy thoải mái hơn khi một mình ở trong phòng ngủ của họ hơn là cùng bạn bè lái xe khắp phố hay đi tham dự một buổi tiệc tùng nào đó. Nói chung, cuộc sống thể chất của họ an toàn hơn so với tuổi thiếu niên ở những thế hệ trước. Họ ít bị vướng vào những tai nạn xe cộ, ít tiếp cận với bia rượu hơn so với thế hệ trước. Tuy nhiên, về khía cạnh tâm lý, tỉ lệ trầm cảm ở họ cao hơn.

Có nhiều bằng chứng cho thấy, các thiết bị di động đặt vào tay những người trẻ này đã ảnh hưởng sâu sắc lên đời sống của họ – và làm cho cuộc sống của họ mất đi nhiều niềm vui thú khác.

Một cuộc thăm dò toàn quốc mới nhất do Trung tâm Nghiên cứu Pew cho hay là không chỉ có phụ huynh nghĩ rằng tình trạng các cô cậu choai choai không rời được chiếc điện thoại đã đạt tới mức đáng ngại, mà rất nhiều cô cậu trẻ cũng nghĩ như vậy. Có tới 54 phần trăm các cô cậu trong cuộc thăm dò của Pew nói rằng họ đã tốn mất quá nhiều thì giờ trên chiếc điện thoại, và 65 phần trăm phụ huynh cũng nói như thế về con của họ.

Chúng ta đang sống trong một môi trường kỹ thuật hiện đại được thiết kế để làm sao có thể hút thời gian của người sử dụng – người lớn cũng như trẻ em – càng nhiều càng tốt. Ở mỗi thế hệ, hay nói rõ hơn, ở mỗi một lớp tuổi, thói quen và cách sử dụng chiếc điện thoại thông minh cũng khác nhau – một em nhỏ 12 tuổi truy cập và và sử dụng trang mạng xã hội chắc hẳn là khác hơn một người 42 tuổi. Nhưng dù là cách sử dụng các phương tiện truyền thông mới này có khác nhau thế nào giữa các thế hệ thì tất cả mọi người, lớn cũng như bé, đều bị cuốn hút bởi loại thiết bị tân tiến này. Quả thật, có tới 36 phần trăm phụ huynh nhìn nhận rằng chính họ cũng bị dán chặt vào chiếc điện thoại của họ đến khó rời ra được.

Cả phụ huynh lẫn các em đều có cảm nhận chung là chiếc điện thoại thông minh ngày càng lấn sâu vào trong những sinh hoạt thường ngày. Kết quả một cuộc thăm dò cho biết có 72 phần trăm phụ huynh nói rằng các cô cậu thiếu niên con của họ trong những cuộc đối thoại trong gia đình có “đôi khi” hoặc “thường xuyên” bị chia trí, phân tâm bởi do chiếc điện thoại. Một điều thú vị không kém là khoảng một nửa các em cũng có cùng cảm nhận như vậy về cha mẹ của họ – nghĩa là người lớn cũng bị chiếc điện thoại làm cho chia trí. Tác động gây sự mất tập trung do chiếc điện thoại tạo ra đối với cả hai thế hệ trên là điều đáng cho chúng ta quan tâm.

Cha mẹ luôn là mẫu mực để con cái noi theo, nhưng dường như cái mẫu mực theo tiêu chuẩn truyền thống trước kia đang có nhiều thay đổi do kỹ thuật đưa đến. Cách mà các bậc phụ huynh tiếp xúc với kỹ thuật hiện thời sẽ tác động lên cách mà họ tiếp xúc với con cái của họ. Và điều này cũng tác động lên cách mà các em tiếp xúc với kỹ thuật. Do đó các chuyên gia tâm lý nghĩ rằng trách nhiệm là ở phụ huynh phải làm gương thế nào để các con cái có được hành vi tốt: Các em trẻ thường hay để ý đến hành vi của người lớn, và vì vậy phụ huynh nên hết sức cẩn thận trong hành vi của mình, ví dụ, khi ăn tối nên để chiếc điện thoại ở một chỗ khác hoặc khi đi ngủ thì để nó ở bên ngoài phòng ngủ. Được chứng kiến những thói quen như thế có thể giúp các em nhận thức rằng các em cũng có thể thực hành những cách thức trên để từ đó kiểm soát được việc sử dụng những thiết bị kỹ thuật của các em vậy.

Mặc dù vậy, vấn đề là ở chỗ nỗ lực của mỗi cá nhân chỉ có thể có hiệu quả cho chính cá nhân đó khi trực tiếp đối đầu với những loại kỹ thuật hiện đại đó. Tuy nhiên, các công ty kỹ thuật cũng đã nhận thức được những quan ngại từ các khách hàng – và vì thế gần đây các công ty đã đưa ra một số công cụ kỹ thuật mới để khách hàng có thể theo dõi và giới hạn thời gian sử dụng các thiết bị di động. Hai công ty Google và Amazon cung cấp một loại nhu liệu để phụ huynh có thể kiểm soát và cho phép con em tiếp cận với một số ứng dụng nào đó và đặt giới hạn trong việc sử dụng thiết bị. Công ty Apple cũng tiếp tay với một nhu liệu tương tự sẽ được phát hành trong thời gian sắp tới. Và điều này đã đặt các công ty kỹ thuật vào một vị trí có hơi rắc rối và mâu thuẫn – một đàng thì họ muốn chế tạo những sản phẩm làm cho người sử dụng đâm ghiền, nhưng đàng khác thì họ nhìn nhận rằng càng ngày càng có đông khách hàng nghiêng về xu hướng muốn mình ít bị ghiền hơn với những thiết bị di động.

Với những công cụ nhu liệu mới giúp cho phụ huynh có khả năng kiểm soát việc sử dụng điện thoại thông minh của con cái họ là điều hữu ích. Tuy nhiên các chuyên gia tâm lý cho rằng kiểm soát việc sử dụng điện thoại thông minh không chỉ ở các công ty, ở các em trẻ hay ở cha mẹ, mà là ở cả ba cùng phối hợp và hỗ tương cho nhau. Các công ty đã bắt đầu cho thấy họ sẵn sàng nhập cuộc, phụ huynh và các em trẻ, nhờ ý thức được rằng chiếc điện thoại thông minh đang làm thay đổi nề nếp của truyền thống gia đình sâu xa ra sao, cũng đang rất muốn thay đổi thói quen sử dụng loại thiết bị di động này.

Huy Lâm
vuongquan
Posts: 275
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

Khi Nào Thì Một Dân Tộc Xem Như Đã Mất Nước?

Song Chi – RFA

Khi nào thì một dân tộc xem như đã mất nước?

Khi độc lập về chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải bị xâm phạm thường xuyên mà nhà cầm quyền của nước đó chả dám phản ứng gì.
Khi những người lãnh đạo cao nhất quỵ lụy, coi kẻ thù là thầy, là bạn, còn nhân dân lả kẻ thù.

Khi các quan chức từ trên xuống dưới bắt tay hợp tác với giặc, mở toang cửa cho giặc vào thuê đất dài hạn khắp nơi từ Nam ra Bắc, rước giặc vào nhà làm ăn, xả rác, gây ô nhiễm môi trường và gây ra đủ mọi tác hại lâu dài cho đất nước, dân tộc.

Khi các quan chức từ trên xuống dưới chỉ biết chạy theo chức tước và tiền, chỉ biết vơ vét, chụp giựt cho đầy túi tham, bất chấp hậu quả gây ra cho đất nước, nhân dân.

Khi người dân chỉ biết chịu đựng, và chỉ biết lo làm ăn để vun vén cho bản thân và gia đình, chuyện chính trị, chuyện lớn đã có nhà nước lo, chính phủ lo.

Khi những người có tài có tâm thật sự với nước với dân thì không được sử dụng hoặc tệ hơn, bị xách nhiễu, tống giam vào tù với những bản án bất công, man rợ chỉ vì dám lên tiếng nói sự thật, còn những kẻ bất tài, cơ hội, bán nước buôn dân thì lại chiếm lấy những chỗ ngồi cao nhất để tiếp tục vơ vét và phá hoại.

Khi trí thức, nghệ sĩ cũng chỉ lo kèn cựa nhau cái danh hão, cái bổng lộc, hoặc khúm núm xum xoe dùng ngòi bút, tiếng hát, nét vẽ…để phục vụ nhà cầm quyền, còn giới trẻ thì mãi ăn chơi, hưởng thụ, khóc cười với những “thần tượng” showbiz, bóng đá hay chuyện đời tư của giới biểu diễn…

Khi nỗi đau về mọi chuyện bất công, phi lý, trái tai gai mắt xảy ra hàng ngày chỉ còn đủ sức làm cho người ta xúc động trong giây lát rồi quên; khi nỗi nhục đất nước bị tụt hậu, thua kém xa các nước khác, hình ảnh đất nước cho tới người dân trong mắt thế giới chỉ toàn là tiêu cực, xấu xa, nhưng cũng chỉ đủ làm cho người ta phẫn nộ, tủi hổ trong giây lát rồi quên…

Khi đối với tất cả, Tổ Quốc không còn là giang sơn phải gìn giữ nâng niu, quê hương không còn là ngôi nhà chung phải vun đắp cho một tương lai chung. Trái lại, quê hương chỉ là cái quán trọ, là nơi ở tạm, còn tương lai lâu dài lại nằm ở một đất nước khác.

Thì quốc gia ấy xem như đã mất, chỉ còn lại cái “vỏ” bên ngoài. Dân tộc ấy xem như đã lưu vong ngay trên chính quê hương mình.

Và đó chính là thành quả của đảng và nhà nước cộng sản sau 72 năm ngày 2.9 (2.9.1945-2.9.2017), ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
vuongquan
Posts: 275
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image


ƠN ĐỜI CHỨA CHAN
Tràm Cà Mâu


Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết mình còn sống. Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương. Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển, hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người còn lại, tử thần cũng đã đón mời vì bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn dai dẳng sống sót cũng là ân huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!

Ý nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong chăn ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ hàng xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi. Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.

Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành. Ngủ chán thì dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải nằm dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác. Những kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng sướng rân người. Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu đời.Bệnh hoạn chút chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.

Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình sướng như vua rồi, có nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ người thiếu nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có nước sạch, phải uống nước dơ bẩn.” Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy trong hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người. Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban chotrong tuổi già. Ông cứ nhớ mãi thời đi tù Cộng Sản, mỗi ngày chỉ có được một lon nước chừng một lít, để rửa ráy tắm giặt. Chừng đó thôi, mà cũng xong việc. Khi ấy, thấm cái khăn ướt lau khắp người, nghe mát rượi, đã đời, và khi còn lại một phần nước cặn đen ngòm dưới đáy lon, cầm đổ lên đỉnh đầu, sướng đến rên lên được.

Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho, không vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc văng vẳng từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩacủa “thánh hiền”, tư tưởng của Đông Tây. Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn ba tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có người phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị đồng”. Phải gấp gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay phải múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”. Xong việc, may mắnlắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn không thì dùng đất cày, đá cục, nắm cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm việc ở quận lị, chỉ có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua một hầm cầu lộ thiên, nắng xông hơi phân người lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm thành một tấm màn trắng-ngà chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang thưởng thứcngon lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi hoảng hốt đập cánh bay lên kêu quang quác và vung vãi ‘ám khí’ khắp trong không gian, làm ông cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ cảm được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời phòng.

Ông Tư tự đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo gạo tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ họng. Ông lầm thầm:“Ngon, cao lương mỹ vị cũng không bằng”. Ông thường ngâm nga hai câu thơ :

“Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng.
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương”.

Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời hoa gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh mang. Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe: “Tiên trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng”. Ông nhớ đến cái thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”, buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao động tay chân nặng nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa cái bụng đang sôi sồn sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng của trời ban cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một buổi sáng thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?

Nhìn xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên bình, lòng ông dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau trong phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào cũng như đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn còn có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già khác, cứ lục đục gây gỗ nhau, tranh thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh phúc gia đình. Ông thương bà biết an phận thủ thường, không đứng núi ầy trông qua núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn nào đó: “Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng sống được với một người đàn bà không phải dễ.”

Ông Tư ra vườn. một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm thoang thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa sặc sỡ còn đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo thành một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế thể dục chậm, xương sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục nầy đã giúp ông bớt được những cảm mạo thông thường, ông tin vậy.

Ông Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải tốt trên tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách tả tơi, không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng có nhiều tù nhân khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ lớn, đủ ba mảnh, và làm luôn cả cái “cà vạt”, mang vào trông cũng sang trọng như đi ăn đám cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng mình. Còn sống sót, và đến được đất nước tự do này, cũng là một điều mầu nhiệm lạ lùng. Ông Tư đi ra đường, xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm của hai xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, vòng vèo trên không, như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi, tài nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm.

Ông, từ một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị chính quyền cuả xứ ông bạc đãi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do cơ bản. Đến đất nước này, ông được bình đẳng, có công ăn việc làmhợp với khả năng, con cái ông được đến trường, học hành thành tài, có nghề nghiệp vững chắc và sống với mức trung lưu. Ông cảm thấy còn nợ quê hương mới nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất, mà biết không bao giờ trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca hát nho nhỏ.

Một người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông chào lại bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người cảnh sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả bằng thuế của dân chúng, trong đó có ông. Ông Tư thấy trong lòng bình an, ông không làm điều gì phạm pháp, thì không sợ ai cả. Ông đọc trong báo, thấy có những xứ, dù không làm gì sai quấy cả, cũng bị cảnh sát giao thông chận lại đòi tiền, nếu không cho tiền, thì bị quy kết đủ thứ tội mà mình không có.

Nắng chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà lòng rộn rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng nhiệt, mọi người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược đường, ông Tư lớn tiếng:

“Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!” Ông cụ trả lời qua loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.” Ông Tư nói to: “Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời gian để buồn nản?” Ông cụ thở dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À, nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì vui nỗi gì? ” Ông Tư cười lớn: “Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được niềm vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi được, thì hãy vui lên, cho đỡ phí phạm ngày tháng trời cho” Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.

Ông Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây có bóng nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có nhiều người còn kêu ca đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an phận, muốn được nhiều hơn điều đang có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là lỗi tại họ. Ông dong tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy bút ghi lên mặt lá mấy giòng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc đời. Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải rắc trên mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làmmơn trớn thịt da. Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “14 ngàn điều làm nên hạnh phúc”. Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân lên một tấm thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nóidịu dàng yêu thương…

Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt, đơn sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Không cần phải là ôm chặt người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên giường, cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm chủ được một tòa lâu đài sang trọng… Ông nghĩ, chắc sẽ có người cho tác giả tập sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi quan.

Đời nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang ngụp lặn trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường, chỉ khi mất đi, hay đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.

Nắng đã xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buýt ra về. Cái vé xe cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời cám ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy, vì xem như họ đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.

Về nhà, bà Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra ăn. Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh bông bí nấu tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông, còn ngon hơn sơn hào hải vị.

Ăn xong, còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không dám đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: “Ngay giờ khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã, không có một miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và nhiều tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi.” Đã từng đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.

Ông Tư mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người khác, ăn gì cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng, mất vị giác. Một số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được, mà ăn bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe hơi.

Ông Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến động. Đôi khi thấy gía thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm nhiều nhà bình luận lo ngại. Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý, không cần quan ngại chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh, ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú. Bà Tư đùa và hỏi, triệu phú thì khác người không là triệu phú cái gì? Ông bạn lúng túng ấp úng không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Tư chắc chắn rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều người giàu triệu phú khác.

Ông Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được tường thuật ngay. Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau, mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn huyên tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiếtchứa chan. Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được ngay tức thì. Không cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến. Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần gũi trong không gian và cả thời gian.

Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho họ thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm liệt vài ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay cưa chân. Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.

Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười và nói : “Thà tự sướng hơn là tự khổ”

Ông Tư thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh của trời ban, nhiều ân nghĩacủa nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của gia đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen. Ông thấy sung sướng hạnh phúc. Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ đau./.

Tràm Cà Mau
vuongquan
Posts: 275
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

9 thói quen của người phương Tây mà chúng ta rất cần học hỏi .

Người phương Tây có những thói quen và cách hành xử rất khác biệt so với người Á Đông, trong đó có nhiều điều rất đáng để chúng ta học hỏi. Dưới đây là 9 điều như thế:

1. Nụ cười.
Người phương Tây rất thích cười. Thậm chí, đó là điều bạn sẽ trông thấy đầu tiên khi gặp họ, dù họ là người quen hay người lạ. Khi bạn đi bộ và thấy một người lạ nào đi đối diện, họ sẽ nhìn bạn và nở một nụ cười, và thậm chí còn hỏi: “Bạn khỏe không?”.

2. Cảm ơn và xin lỗi.
Đây là 2 câu cửa miệng của người phương Tây mà có lẽ còn xa lạ đối với đại đa số người Việt. Không phải vì chúng ta kém văn minh hơn mà chúng ta có suy nghĩ khác về việc sử dụng 2 từ này.

Nếu bạn vô tình va vào một ai đó, dù là lỗi của bạn, nhưng họ cũng sẽ nói “I’m sorry”. Và khi bạn làm gì đó cho họ, họ sẽ đáp lại với câu “Thank you!”. Nhiều bạn sống lâu năm ở phương Tây khi trở về Việt Nam sinh sống và làm việc cảm thấy rất khó chịu vì môi trường Việt Nam thiếu đi điều này.

3. Tư duy cá nhân.
Trường lớp phương Tây khuyến khích tư duy cá nhân, khác với tư duy tập thể của văn hóa Á Đông. Thậm chí, tư duy cá nhân là nền tảng trong giáo dục của họ. Mỗi cá nhân là một điều gì đó đặc biệt và không thể gom chung được.

4. Văn hóa đọc sách.
Trung bình, một người phương Tây sẽ đọc tầm 4-7 cuốn sách trong một năm. Còn ở Việt Nam thì con số là 0,7. Bạn có thể hỏi: “Rồi sao? Đọc sách thì liên quan gì?”. Sách là kho tàng kiến thức, là nơi một người tìm đến để mở mang tầm nhìn của mình.

Ngành xuất bản ở phương Tây rất phát triển, khác hoàn toàn đối với ở Việt Nam. Một đất nước mà trung bình một người dân chỉ đọc 0,7 cuốn sách thì bạn nghĩ đất nước đó có đủ kiến thức để phát triển không? Mỗi người đều sẽ tự có câu trả lời.

5. Không soi mói đời tư cá nhân.
Người phương Tây chỉ tập trung vào chuyên môn của bạn, họ không quan tâm bạn là ai, từ đâu đến. Điều quan trọng nhất vẫn là năng lực của bạn. Ngược lại, người Việt Nam thường hay soi mói cá nhân và những thứ chẳng liên quan gì.

6. Tư duy chỉ trích những lãnh đạo chính trị.
Người phương Tây coi lãnh đạo của họ là những viên chức nhận lương bình thường như bao người khác, không hơn không kém. Họ đã nhận lương thì họ phải làm tốt công việc của mình.

7. Tầm nhìn dài hạn.
Người phương Tây khi đã lên kế hoạch hay xây dựng cái gì thì họ sẽ có tầm nhìn dài hạn, ít nhất là 20 năm trở lên. Các doanh nghiệp phương Tây không bao giờ làm ăn chụp giật để kiếm lời trong ngắn hạn như người phương Đông. Họ luôn có cái nhìn lâu dài và bền vững.

8. Tôn trọng sự khác biệt của người khác.
Đây cũng là một phần của “chủ nghĩa cá nhân”. Mỗi cá nhân là một món quà đặc biệt của Thượng Đế. Họ không bao giờ ép người khác phải làm theo ý mình, trừ khi người khác tự nguyện.

9. Cuối cùng, văn hóa “Tại sao?” .
Người phương Tây luôn tìm hiểu và không ngừng hỏi tại sao ?. Họ không bao giờ ngừng suy nghĩ, cũng ít khi họ lấy bằng cấp mình đi khoe và thể hiện rằng mình hơn người khác.

Người Việt Nam vốn chịu thương chịu khó, tốt bụng, hiền hòa, nhưng cũng có những điều chúng ta cần phải học hỏi nhiều từ phương Tây. Không phải vì chúng ta thấp hơn hay cao hơn họ, mà vì những thứ trên là những yếu tố giúp họ trở thành những quốc gia phát triển.
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image

Little Saigon : Quận Cam có còn là Thủ Đô của người tỵ nạn?
Quang An

Little Sàigòn, hay còn gọi là Sàigòn Nhỏ, là một Sàigòn thu hẹp trong lòng của hầu hết người Việt bỏ chạy, di tị nạn cộng sản từ năm 1975. Khi bánh xe xích sắt của chiếc xe tăng T54 của quân đội cộng sản Bắc Việt húc sập cánh cửa hông của Dinh Độc Lập ở Sàigòn, cũng là lúc đánh dấu người Việt chạy tha hương. Chạy khỏi Sàigòn, qua đến Guam, rồi đến trại Pendleton ở Oceanside, miền Nam tiểu bang California, rồi sau đó được phân chia đi nhiều tiểu bang khác nhau ở Mỹ, người Việt vẫn mang trong lòng nỗi nhớ Sàigòn khôn nguôi. Lần lần rồi thì một phần do thời tiết ở các tiểu bang khác khá khắc nghiệt, lại thêm công ăn việc làm ở tiểu bang California dễ dàng hơn, dân Việt rủ nhau kéo về California để sinh sống. Vì không cạnh tranh nỗi với người gốc Đại Hàn, người Tàu sinh sống ở Los Angeles, nơi được xem là thành phố thiên thần, người Việt xuôi về phía Nam của Los Angeles khoảng chừng 1 giờ đồng hồ lái xe, và bắt đầu gầy dựng ở đây.

Với vùng đất rộng lớn gồm các thành phố kề sát nhau, người Việt định cư rải đều ra các thành phố Westminster, Garden Grove, Midway City, Santa Ana ở quận hạt Orange, mà dân ta hay gọi là Quận Cam. Cửa hiệu, nhà hàng, cơ sở thương mại mang tên Việt bắt đầu xuất hiện. Ban đầu chỉ là một khúc đường Bolsa, nơi có thương xá nổi tiếng mang tên Phước Lộc Thọ. Rồi dần dần cửa hiệu, nhà hàng, cơ sở thương mại của người Việt Nam mọc lên như nấm, lan ra khắp nơi, trải dài từ Bolsa, qua Westminster, Brookhurst, Euclid, Magnolia, v..v… Từ Garden Grove, đi xuống thành phố Westminster, hay Fountain Valley, Santa Ana, đều thấy bảng hiệu chữ Việt tràn đầy. Thậm chí là Midway City, hay được gọi là Thị Trấn Giữa Đàng, cũng có luôn cửa hiệu của người Việt.
Phải nói rằng với sự cần cù và siêng năng, thế hệ người Việt tỵ nạn cộng sản từ năm 1975 đã tạo nên một khu vực mà ai ai cũng có cảm giác như là một Sài Gòn thu nhỏ. Đến đây, ngoài việc là có thể tiếp xúc, gặp gỡ người Việt xa xứ, người Việt bỏ chạy cộng sản từ hồi năm 1975 còn có dịp tìm lại những hình ảnh, những tác phẩm văn hoá của miền Nam trước kia. Ghé nhà sách Tú Quỳnh, hay ghé các trung tâm sản xuất băng dĩa nhạc, là có thể tìm lại chút gì đó của thoáng hương xưa. Dĩ nhiên, nếu muốn tìm lại mùi vị của những món ăn Việt Nam, người Việt tị nạn sẽ dễ dàng tìm thấy những bát phở, những tô bún bò, những đĩa bánh cuốn, hay thậm chí là cả những chén chè xôi nước, v…v… Cái tên Little Sàigòn là đây. Người Việt yêu kiều đặt địa danh này cho một vùng đất cách xa quê hương hơn nửa quả địa cầu để hồi tưởng, để nhớ nhung về một Sàigòn xưa. Và hơn cả, Little Sàigòn còn là một trung tâm văn hoá nhằm gìn giữ bản sắc của người dân Việt trước đại hoạ cộng sản từ hồi năm 1975. Chính vì vậy, Little Sàigòn luôn luôn được xem là thủ đô của người Việt tỵ nạn cộng sản.

Rồi thời gian trôi qua, thế hệ người Việt tị nạn cộng sản đầu tiên nay đã già. Ráng chịu khó làm ăn vất vả để nuôi gia đình, con cái của thế hệ này nay đã trưởng thành, đã học thành tài để rồi có người là bác sĩ, có người là kỹ sư, v..v… Cuộc sống khá giả hơn, ổn định hơn, cho nên rất nhiều người Việt đã dọn về phía Nam của vùng Little Sàigòn để an cư lập nghiệp. Người thì ở Irvine, người thì ở Mission Viejo, hay thậm chí là xa hơn nữa như San Juan Capistrano, v..v… Hầu hết, thế hệ sau này không muốn tiếp tục con đường làm ăn của thế hệ trước đó, cho nên rất nhiều chủ nhân nhà hàng, cửa hiệu, đến tuổi về hưu, phải tìm cách bán lại những gì mình đã gầy dựng.

Người đi, thì phải có người đến. Trong những năm vừa qua, với những chính sách thu hút người ngoại quốc đem tiền vào Mỹ đầu tư, đã có rất nhiều thành phần giàu có ở Việt Nam mà thường được gọi là “đại gia đỏ” hay “tư bản đỏ” … đổ bộ qua Mỹ. Thành phần này là những tay cựu “quan chức” hay những tay làm ăn buôn bán tham nhũng, những tay có thể có cả chục triệu đô la lận lưng để làm vốn, để có thể mua nhà, mua cơ sở, mua cửa hiệu, v..v… Ban đầu thì còn rải rác ở các tiểu bang khác, nhưng gần đây thì đổ về tiểu bang California rất nhiều.

Thế là cuộc sống ở Little Sàigòn bắt đầu thay đổi. Các cửa hiệu, nhà hàng do những người Việt tỵ nạn làm chủ, từ từ lại thấy thay tên, đổi hiệu. Có những cái tên nhà hàng, chỉ cần nghe cái tên, cũng có thể đoán được gốc gác của người chủ từ đâu đến. Chợ búa cũng thay đổi. Và phong cách người dân ở Little Sàigòn cũng thay đổi. Có những quán cà phê, thanh niên ngồi đánh bài “tiến lên”, hay còn gọi là “chặt hẻo”, một loại bài của mấy chú bộ đội miền Bắc đem vào Nam, suốt cả ngày. Khói thuốc lá bay mù mịt. Có những quán bar mà đêm nào cũng đông thanh niên đến …. “xập xình”, và là nơi giới thiệu các ca sĩ ở Việt Nam bay sang. Thử hỏi, dân bình thường thì lo đi làm ở công sở, đâu có thì giờ mà la cà quán xá như thế cả ngày lẫn đêm. Có chăng thì chỉ vào dịp cuối tuần, nhưng ở Little Sàigòn bây giờ, ngày trong tuần, hay ngày cuối tuần đều … đông như nhau.

Little Sàigòn đã thay đổi nhiều lắm. Văn hoá, văn nghệ thì các sản phẩm từ trong nước nhan nhản đầy trong các cửa hiệu. Quán ăn thì không còn vẻ thanh lịch, và không còn trông sạch sẽ như lúc trước. Bãi đậu xe thì lại càng quá tệ, nhìn rất dơ bẩn. Các đài truyền thanh, truyền hình, thì cứ như là “cơ quan ngôn luận” của Việt Nam vì tin tức đọc nhiều khi dùng chữ “y chang” VN Express của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Quan trọng hơn nữa là tình hình an ninh trật tự không còn như xưa. Nghe thử một quảng cáo phát trên truyền thanh bảo rằng “đến ăn phở ở tiệm của chúng tôi, quý khách có thể an tâm là xe của quý vị không bị … đập kính”. Thế là đủ hiểu chuyện xe bị đập kính, mất đồ là “chuyện như cơm bữa” ở Little Sàigòn rồi.

Việc phong cách sống thay đổi, có thể một phần là do người mới định cư sau này mang những “thói hư tật xấu” đã “nhiễm” sau 40 năm sống với cộng sản sang đây. Những “đại gia đỏ” coi trời bằng vung vì ỷ có tiền đã thể hiện cách sống của mình. Ở trần, mặc xà lỏn, là hình ảnh mà dân Mỹ ở đây không bao giờ gặp ở ngoài đường. Thế nhưng, có những tên đại gia, cầm đầu cả hệ thống xuất nhập cảng hải sản, lại nghênh ngang bước ra đường với mình trần và chiếc … xà lỏn. Thành phần như thế này bây giờ không hiếm ở Little Sàigòn. Cũng chẳng có gì ngạc nhiên, vì ngay giữa đường Brookhurst, đoạn gần với tiệm bánh Vân, những bảng hiệu quảng cáo “bảo lãnh đi Mỹ” bảo đảm … 100%, “bao” … đậu, bất kể là tội phạm hình sự, v..v… đầy nhan nhản.
Thử nhìn xem, với sự nhếch nhác như thế, Little Sàigòn có còn là thủ đô của người tỵ nạn? Nét văn hoá, sự thanh lịch của người Việt tị nạn đang dần dần bị … “xâm lăng”?

Cuộc sống chung quanh ta coi thế mà thay đổi chóng mặt. Nếu không để ý, và không có thái độ tích cực để gìn giữ văn hoá của người Sàigòn xưa, thì Little Sàigòn có thể sẽ mất đi cái tên và ý nghĩa yêu kiều mà người dân tỵ nạn giữ trong lòng bao nhiêu năm nay.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest