Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
Post Reply
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Văn Nghệ Văn Gừng

Post by vuphong »

Dở chứng

Nguyễn Thế Hoàng


Ông Cần đã góa vợ năm năm. Nay thì ông cũng đã thất thập cổ lai hy. Lứa tuổi xế bóng của ông nếu ở Việt Nam đã chống gậy nhìn cuộc đời sắp kết thúc trong chuỗi dài nuối tiếc quá khứ. Nhưng ở xứ này đời sống vật chất có dư thừa nên nom ông còn quắc thước lắm. Dáng ông dong dỏng cao, da dẻ có chút hồng hào, có điều dáng đi của ông mất vẻ khoan thai, đôi lúc bước chân như lún xuống khập khễnh bởi xương cốt trễ biếng mệt mỏi. Ông Cần cố gắng tập thể dục sáng chiều, chịu khó sửa dáng đi cách đứng cố níu kéo lại chút nào như thời son trẻ. Hàm răng thưa thớt chiếc rụng chiếc long ra không được thẩm mỹ cho lắm, khổ sở cho việc nhai thức ăn trệu trạo. Ông Cần đến nha sĩ lắp ráp bộ răng xương đều đặn nõn nà. Nhờ bộ răng ngà ngọc khiến nụ cười tuổi già héo hắt có thêm chút duyên già, ăn uống ngon lành trơn tru. Lởm chởm vài chòm tóc mây lưa thưa mong manh trên da đầu bóng lưỡng , ông Cần thấy chướng mắt, lặn lội tìm thuốc mọc tóc rị mọ xoa xoa nắn nắn đêm ngày không nản chí.

Ông Cần tốn công tìm tòi, thăm dò tìm mua nhiều loại dược thảo ngâm rượu đầy ắp chục hũ xếp hàng trong tủ chè. Sáng chiều ông siêng năng uống, cùng với những viên dược thảo, sâm nhung, tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn, lọc nhung tinh, mật gấu, thuốc sáng mắt, sáng tai, thuốc đen tóc...cho da dẻ hồng hào thêm, ăn ngon ngủ ngon, bồi bổ gân cốt, phục hồi sinh lực, cải lão hoàn đồng...Đâu chừng thời gian ông Cần như đang trên đà hồi xuân. Mà thật, ông Cần cảm thấy mình như hồi xuân thật đãy ! Lúc nào tâm hồn ông cũng phơi phới, gặp ai ông cũng muốn gần gũi trò chuyện râm ran, yêu đời, yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu cảnh vật quanh mình, yêu giấc ngủ nồng nàn đầy mộng đẹp...yêu..và yêu...để cuộc đời đâu còn xế bóng. Ông được mọi người khen tuổi già của ông đang "lột xác". Bạn bè đồng niên đồng tuế nhìn ông thèm muốn như ông. Những bà sồn sồn gặp ông ưa trêu chọc, cười duyên híp mắt, đấu hót vài câu bâng quơ. Cả lũ cháu ngoại của ông cứ xuýt xoa khi thấy ông, đứa nhỏ bá cổ bá vai, đứa lớn thì thầm khen ngoại lúc này đang độ hồi xuân trông đẹp lão lắm.

Từ ngày định cư ở xứ này, vợ ông, người đàn bà đảm đang tháo vát miệt mài cùng ông tạo nên cơ nghiệp. Ông bà tạo được ba ngôi nhà, trong đó hai ngôi đã trả dứt nợ, đang cho thuê. Một tiệm sách báo, băng nhạc, tranh ảnh, dụng cụ âm nhạc khá lớn, lợi tức hằng tháng vào cũng đậm. Hai ông bà sống đầy đủ thoải mái bằng lợi tức tiền cho thuê nhà, tiệm sách báo hằng tháng vẫn còn dư ra gởi vào ngân hàng cho đến nay cũng đã được đôi trăm ngàn.

Hai ông bà Cần sinh hạ ba người con. Hai cô con gái đem từ Việt Nam sang đã lập gia đình, có cơ sở làm ăn vững vàng với một lũ cháu ngoại hiền lành chăm học. Cháu ngoại lớn nhất cũng đã mười tám, nhỏ nhất cũng lên ba. Nay mai rồi ông cũng được lên chức Cố như bao nhiêu bạn bè cùng lứa. Thằng con trai duy nhất của ông nay đã hăm lăm, yên bề gia thất. Sau khi bà vợ qua đời, ông giao vợ chồng thằng con trai coi ngó tiệm sách báo dưới sự kiểm soát của ông hằng ngày. Tiền bạc mua vô bán ra ông Cần quản lý chặt chẽ. Ông trả lương tháng cho con trai con dâu theo qui chế công nhân. Ông lại còn giúp vợ chồng nó có nhà riêng đâu ra đó.

Hằng ngày rảnh rỗi ông lái xe loanh quanh trong thành phố. Đôi lúc tạt qua tiệm sách báo coi trong ngó ngoài, kiểm tra công việc. Năm khi mười họa ông ghé vào hai ngôi nhà đang cho thuê xem xét, hỏi han người chủ thuê đôi câu xã giao lấy lệ. Còn lại thì giờ ông quanh quẩn với mấy bạn già xế bóng vô công rỗi nghề đàn đúm tán dóc ở mấy quán cà phê qua điếu thuốc lá phì phèo, lâng lâng nụ cưòi lão giả an chi, xem đời như giấc kê vàng đã chín. Cuộc vui còn tiếp diễn bên ly rượu đĩa mồi tại nhà hàng tửu quán chiếm gần trọn thì giờ nhàn hạ của ông với nhiều người, già có, trẻ có. Chuyện trên ngàn dưới biển lia thia. Chuyện từ Đông sang Tây không bỏ sót một mảy may nào. Nhưng lý thú và hấp dẫn nhất thường ngày là chuyện đàn ông con trai kể cả những vị tuổi hạc gần đất xa trời, da mồi tóc bạc, tay chân run rẩy, mắt mờ răng sún đã và đang về Việt Nam cưới vợ.

Ông Cần nghe ngóng từ nhiều phía, bàn bạc, góp ý, hỏi han thật hấp dẫn, xôm tụ. Chính là một vấn đề thời sự nóng bỏng, sôi động đã và đang xảy ra bao nhiêu năm nay ở cái cộng động người Việt da vàng mủi tẹt. Nghe nhiều từ mọi nơi, nhập tâm, đã đánh động lòng ham muốn thèm khát của ông Cần. Thử bước thêm bước nữa có chết chóc gì ai, chứ tội gì phải chịu cảnh cô đơn chiếc bóng trong ngôi nhà lạnh lẽo từng đêm. Chả có gì là khó khăn, nhiêu khê, có tiền thì mộng ắt thành. Ông còn đủ sức phiêu lưu mà, chứ không phải như mấy lão già cọm rọm khi nghe ông hạ quyết tâm hành sự lại cười biếm nhẻ ông cho là ông thuộc loại già dịch, già mất nết, già bất lực, già dê...hết xí quách rồi mà còn ham.
Ông Cần oang oang trả đủa bốp chát : - Ai giỏi cùng tôi đọ sức nè. Gừng này càng già càng cay quắn khói. Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm mà lị. Mai mốt tôi mang về một thục nữ yểu điệu đào tơ thì mấy ông đừng có chép miệng thòm thèm đó nhen. Một ông bạn già trong bọn cười ồ, chọc : - Nè, già Cần, mấy mụ già trầu tèm hem đang chờ ông đưa võng lọng về rước...làm đám ma đó ông Cần, chứ gái tơ, sồn sồn thấy ông là thưa bác, thưa ông thì còn làm ăn cái nổi gì. Ông Cần càng hênh hoang không kém :

- Đây này... cái mác Việt kiều ! lá bùa hộ mệnh xanh xanh ! bao nhiêu cũng lọt được hết. Cần này sẽ rước sang đây một em nõn nường tuổi vừa đôi chín xinh xinh như mộng...bảo đảm trăm phần trăm ăn chắc.

Dứt lời, ông cười hì hì khoái chí thao thao thuyết giảng cho đám bạn già đang nghểnh cổ ngóng nghe : - Từ ngày bà má bầy nhỏ mất, nghe được chuyện này, tôi cũng đã nghĩ kỹ rồi. Thà cưới một cô trẻ đẹp nõn nà ở Việt Nam qua, dễ dạy, dễ sai khiến, còn dễ bắt nạt ăn hiếp, dễ làm tình làm tội, nó còn chiều chuộng hầu hạ hết mình, lại gái tơ thơm phức, ngon lành. Còn đàn bà ở đây hả ? thì như mấy cụ cũng biết, quả là ăn hiếp bắt nạt lên mặt hà rầm với chồng ghê gớm. Đâu có dễ gì khơi khơi cưới mấy bả được. Chằn ăn trăng quấn lắm các cụ ơi ! Phải có nhà nè, có xe xịn nè, tiền bạc đầy ắp trong ngân hàng họ mới chịu. Tôi hãi sợ tính kiêu kỳ hách dịch, vòi vĩnh, đua đòi, treo cao giá ngọc lên chín tầng mây của họ đó mấy ông ơi ! Thôi thì cho họ ế suốt đời nằm queo, rong rêu phủ kín là vừa. Ai biểu ?

Một ông bạn già mắt mủi hom hem lên tiếng phản đối : - Già Cần nói tầm bậy. Người ta lấy nhau ào ào ông không thấy sao ? Nồi nào vung nấy. Tại cái vung của ông chụp không vừa, còn than thở cái nỗi gì. Ở đây chưa ai thấy cái nạn trai thiếu gái thừa. Trai thừa thì có. Nên mới xảy ra cái tệ nạn đàn ông con trai kể cả mấy lão tuổi hạc xế bóng hoàng hôn đang sắp hàng rồng rắn võng lọng nghênh ngang tiến mạnh về hướng Việt Nam rước nàng thục nữ về dinh hú hí. Thật là ngon ơ !

Nghe ông bạn già lẩm cẩm nào đó vừa mới nói chắc giọng, ông Cần như thấm ý quá chừng, miệng cười toe toét phô bộ răng xương vừa mới cấy cho bàng dân thiên hạ chiêm ngưỡng : - Này này ông bạn già ơi, điều đó mới là thể hiện tấm lòng bác ái, xả thân cứu giúp. Bao nhiêu trăm ngàn đàn bà con gái Việt Nam mới tuổi mười bốn mười lăm trở lên bị bán đi làm đĩ, đi làm cô dâu nô lệ tình dục ở xứ người để cho bọn đàn ông xứ Đài, xứ Hàn, xứ Ma, Hồng Kông, Căm Bốt...gì đó, dày xéo nhớp nhơ bao tấm thân ngọc ngà trinh tiết...thật uổng thiệt, ông lại không biết. Mình làm ơn làm phước cứu giúp được người nào hay người đó. Tôi cũng đang là một thành viên đây. Có ông bạn già nào nữa làm kẻ đồng hành không ?

Cả bọn ngồi ngóng mặt nghe vỗ tay rôm rốp, tán thưởng cho cái mắc dịch dở chứng của ông già Cần độ tuổi thất thập hiếm hoi. Họ nhao nhao giễu cợt ông là loại già mất nết sắp chui xuống lỗ mà còn ham. Ông Cần không giận còn vui miệng bảo rằng còn sống còn thở là còn yêu, yêu cho đến giây cuối cùng chun vô hòm mới goodbye my love. Có ai cấm mình yêu đâu. Già thì già chân tay, già mặt già mày nhưng quả tim thì vẫn phơi phới xuân tình mấy ông ạ.

Ông Cần nói sao có đó. Ông mất hai đêm bóp trán thảo lá thư dài mùi mẫn, kể rõ sự tình, nỗi cô đơn góa bụa để gởi cho một người bạn già đồng niên tuế thân thiết cùng đơn vị ngày xưa đang ở Việt Nam tìm giùm mối hàng. Thư gởi đi ít ngày, ông ra dịch vụ chuyển tiền một ngàn mỹ kim làm quà ông bạn, và hứa hậu tạ bạn hiền khi công việc kết thúc.
Ông chờ đợi từng ngày kết quả lá thư gởi đi và hơn tháng sau ông mới nhận được tin vui. Thư người bạn báo đã tìm được đóa hoa hàm tiếu nõn nà. Nàng tên Hoa, vừa tròn mười chín xuân xanh phơi phới, nhan sắc óng ả như ánh trăng rằm. Dân miệt vườn miền Tây Nam bộ. Nhà nghèo lắm nên mới chỉ học đến lớp chín, nàng phải ở nhà phụ giúp cha mẹ công việc trong nhà. Ăn không ngồi rồi trong lúc cha mẹ đầu tắt mặt tối kiếm cái ăn cái mặc, nàng nảy sinh muốn lấy chồng xứ Đài cứu gia đình thoát cảnh nghèo đói và được cha mẹ chấp thuận ý định.

Người bạn già viết tiếp. Ông được người quen mách bảo ông tìm đến nhà Hoa, sau khi kể lể ý định cùng gia cảnh của bạn cho họ nghe, Hoa và cha mẹ nàng vui mừng chấp thuận ngay cuộc hôn nhân, miễn sao ông con rễ thương vợ và giúp đở gia đình thoát cảnh nghèo đói là được rồi. Ông già vợ tương lai hối thúc ông con rễ tiến hành việc cưới xin càng sớm càng tốt. Nếu chậm ông ta sẽ gả con gái mình cho Đại Hàn cũng đang có người đến mai mối.

Thư viết tiếp báo cho ông Cần là còn rất nhiều mối ngon hấp dẫn vô cùng tuổi mới tròn trăng hơ hớ dậy thì. Đề nghị ông có ai giới thiệu nhiều nhiều dẫn về Việt Nam cùng chuyến để rước các nàng về bên đãy mà hú hí tuổi già. Chậm chân là tụi Hàn, Đài, Nhật, Hón Kón...chúng nó bợ hết uổng lắm. Ông Cần đọc đi đọc lại lá thư nhiều lần lòng mừng khấp khởi. Thế là bao nhiêu thục nữ Việt Nam đang ngóng chờ lấy chồng ngoại được sung sướng cuộc đời. Lòng ông đang trẻ lại như tuổi xuân được yêu. Tim ông rộn ràng thúc giục phải nhanh tay nhanh chân. Đời còn bao lăm mà chần chờ uổng phí, mau hưởng thụ, không thì chết đi lại tiếc hùi hụi. Ông Cần mơ mơ màng màng hình dung cô vợ trẻ đẹp tương lai của mình. Hoa ơi ! nàng ơi ! nàng kiều nữ xinh đẹp bé nhỏ của ta ơi ! Anh quyết sẽ rước em về ngự trị trong ngôi nhà hạnh phúc của chúng ta tràn ngập màu hồng.

Trong đám bạn già ông biết còn số các cụ cũng thèm của lạ, cũng thấp thỏm mơ về Việt Nam cưới vợ trẻ đẹp cùng giấc mơ như ông. Nếu ông vận động thì khối cụ tháp tùng cùng ông về cùng chuyến. Nhưng, thì giờ quá gấp, rũ rê bàn tính các cụ kéo sẽ dài thời gian lỡ mất cơ hội nghìn vàng. Ông Cần âm thầm đi một mình sau khi thu xếp công việc. Về tới Saigon ông Cần tìm ngay đến người bạn mai mối ở tận ngã 4 Bình Hoà. Lâu ngày hai bạn già gặp nhau, ôm nhau mừng rỡ. Ông thúc bạn ông là ông Hàn ngày mai đi gặp cha mẹ vợ tương lai ngay, xem mặt cô vợ trẻ. Đêm đến, hai lão già gân khề khà tâm đắc bên mâm rượu thịt, chuyện trò râm ran kéo đến quá khuya.

Sáng hôm sau ông Cần thuê xe 7 chỗ ngồi cùng vợ chồng ông Hàn trực chỉ Mỹ Tho đến Chợ Gạo, tiếp tục đi sâu vào vùng quê Thanh Bình. Gần trưa, xe ngừng trước ngôi nhà tôn vách đất. Thấy có khách lạ đi xe hơi đến, vợ chồng chủ nhà bỡ ngỡ, nhưng khi nhìn thấy vợ chồng ông Hàn họ đoán biết ngay sự việc. Mọi người chào nhau vài câu xã giao trong lúc ông Cần đang sửa lại áo quần cho tươm tất. Hôm nay ông lên bộ veston màu than tím, cà vạt thẳng nếp, đi giày bóng, tóc tai cũng đã mọc thêm lún phún vài sợi chải ép ra sau, nét mặt núng nính vui, cúi đầu chào vợ chồng chủ nhà trông ông rất đởm dáng. Chủ khách vào nhà an tọa trên những chiếc ghế mộc tróc sơn, chiếc bàn gỗ trầy vết loang lổ.

Ông Hàn lên tiếng giới thiệu : - Chú thím tư Ngàn, đây là anh Cần, đại thương gia từ Mỹ vừa về hôm qua. Hôm nay đến ra mắt chú thím để bàn chuyện hôn nhân của anh Cần đây xin cưới cháu Hoa con gái chú thím như tôi đã có lời với chú thím tháng trước.

Lời giới thiệu của ông Hàn như rơi vào thinh không nào ai có chú ý vì cả ba người đang lung túng trong suy nghĩ về cách xưng hô. Đối với chú thím tư Ngàn nay chỉ mới trên bốn lăm, còn vị khách trước mặt, chàng rễ tương lai của gia đình xấp xỉ bảy mươi tròn. Loay hoay vài giây, nhìn nhau ngượng nghịu không biết phải xưng hô sao đây. Ông Cần nghĩ có nên xưng con, hay tôi với cha mẹ Hoa.

Cuối cùng bởi con tim mù quáng thúc giục, ông thưa : - Dạ...thưa...thưa...anh chị Tư...đường xá xa xôi vạn dậm, công ăn việc làm, lần về lần khó...cuộc sống bận rộn cu ky một mình. Hôm nay được anh chị Hàn giới thiệu... tôi đến xin cầu hôn với em Hoa...làm vợ. Anh chị Tư chấp nhận và miễn thứ cho những sơ sót cũng như lễ lộc...cần gì, anh chị cứ nói để...tôi lo. Ông Cần cố gắng chỉ nói được chừng ấy. Nói mà ngượng mồm thấy mồ. Mồ hôi rịn hai bên thái dương, trống ngực xập xình, quá ư là ngưọng ngùng, không còn tự nhiên trước mặt cha mẹ vợ chỉ bằng tuổi...con gái mình. Ông Cần đâu phải dân nhút nhát. Ông đã bao lần vào sinh ra tử trước bom đạn kẻ thù. Ông đã từng va chạm bao cú ''sốc'' trong cuộc sống. Ông đã từng là xui gia đàng trai, rồi đàng gái hênh hoang nói đạo lý, lễ nghi với mọi người. Vậy mà hà cớ gì hôm nay lại bấn loạn tinh thần trước mặt mấy người nhà quê chân chất.

Thím tư Ngàn và bà vợ lão Hàn bụm miệng cười khanh khách khi nghe lão chàng rễ tương lai mặt mày đỏ lưỡng, ngượng nghịu tỏ bày. Chú tư Ngàn nét mặt bình thản nghiêm nghị, đáp lời : - Cám ơn ...ông... anh Cần. Tháng trước hai vợ chồng bác Hàn đến đây đánh tiếng trước xin con Hoa nhà tôi về làm vợ anh. Vợ chồng tôi chấp nhận. Mọi việc thì nên giản tiện thôi. Anh lo tổ chức Tiệc Ra Mắt họ hàng, dòng họ, bà con thân quen. Đồng thời dẫn nhau ra Xã làm giấy kết hôn để anh mang về Mỹ lập hồ sơ bảo lãnh con Hoa về bên đó với anh. Vậy thôi.

- Mình làm gọn nhẹ như vậy là tốt phải không chú thím tư và ông bạn già của tôi ?
Ông Hàn tiếp lời - Này anh Cần, dù gì anh cũng là con rễ cưng của chú thím tư rồi đó. Từ lúc này anh phải gọi chú thím tư là ba là má mới phải phép. Còn e lệ gì nữa. Muốn có vợ trẻ thì phải uốn lưỡi...uốn lưỡi cong thêm chút nữa...có được không ? Ông không nghe tôi là...mất vợ đấy. - Được rồi. Tôi nghe ông. Ông Cần vừa trả lời vừa quắc mắt trừng lão già Hàn xí xọn lắm chuyện.

Ông rút trong túi áo xấp đô la năm ngàn dày cộm đặt trên bàn trước mặt cha mẹ vợ, lúng túng thưa : - Thưa...ba,,má..! tôi có chút ít gởi... ba má. Còn Tiệc ra Mắt... tôi sẽ... chi trả. Mọi người lại một phen cười nghiêng ngửa nhìn lão chàng rễ xế bóng ăn nói lập bập thấy mà thương hại. Ông Cần sượng chín người. Một lần trong đời con tim quái ác nó hành hạ ông khắc nghiệt quá. Ông nhìn qua lão Hàn như dọ hỏi là sao không thấy Hoa thì cũng vừa lúc Hoa từ sau nhà bước ra chào mọi người. Giây phút đầu tiên nhìn thấy mặt cô vợ tương lai son trẻ mà ông Cần đang mơ nghĩ đến. Ông sững sờ ngất ngây dáng sắc của Hoa. Ông nghĩ gái miệt vườn sao mà đẹp lồng lộng vậy kìa ! Tuy Hoa không son phấn, quần là áo lượt, chỉ quần vải áo thô sao trông quyến rũ lạ đời. Dáng nàng thon cao, đôi chân dài hấp dẫn ghê, nước da trắng như bông bưởi, cơ thể no tròn nở nang đầy đặn, suối tóc đen xõa dài quá thắt lưng, e ấp mấp mé khuôn mặt trái soan, đôi mắt to đen long lanh, đôi lông mày rậm đậm đà...ố là là ! đẹp ôi là đẹp..! ông Cần lâng lâng cảm giác thèm khát. Đúng là lão Hàn đã nói Hoa là hoa khôi của trường những năm còn học lớp 9 trung học cơ sở MP thành phố Mỹ Tho. Điệu này khi về bên Mỹ mà chưng diện vào, vợ ta sẽ làm cho bao nhiêu lão già dịch ngẩn ngơ nhảy đổng, rồi ùn ùn sắp hàng một về Việt Nam cưới vợ hết không ai cản nổi cho mà xem.

Ông Cần đứng dậy thập thò trước mặt kiều nữ miền sông nước Tiền Giang, chúm chím đôi môi run run : - Chào...em Hoa. Anh là Cần đến để xin ba má cưới em về Mỹ với anh. - Dạ. Chào ông. Hoa cúi đầu lí nhí đáp. Ba má đã nói chuyện này. - Em bằng lòng chứ Hoa ? Cô gái mười chín xuân xanh mơn mỡn thơm như múi mít tố nữ chau mày lộ vẻ chẳng mấy thích thú trước lão già đáng tuổi ông ngoại, ông nội sẽ là chồng của mình trong suốt cuộc đời. Nàng hời hợt đáp : - Chẳng biết nữa. Do ba má quyết định. Ông hỏi ba má. Mọi người tiếp tục trò chuyện trong bầu không khí chẳng mấy tự nhiên. Ông Cần mời mọi người lên xe ra thành phố Mỹ Tho làm một chầu ăn tối giao hửu để cố tạo sự gần gũi thân mật.

Ba ngày sau Tiệc Ra Mắt diễn ra với hơn ba trăm thực khách tại một nhà hàng sang trọng trong thành phố Mỹ Tho. Mọi người chúc tụng lão chàng rễ có duyên vớ được cô vợ quá trẻ quá đẹp, bên cạnh những lời dèm pha biếm nhẻ đôi đủa lệch chiếc vắn chiếc dài. Già mắc dịch, già dê xồm, già bất lực hết xí quách...Chồng già vợ trẻ là duyên. Mai kia ông chết của tiền về tôi... Mặc họ bình phẩm khen chê chẳng làm cho ông nhụt chí khí. Ông chỉ cần biết ông đã vớ được cô vợ trẻ nõn nà, và lâu đài hạnh phúc tràn đầy của ông ở cái tuổi xế bóng hoàng hôn. Có điều ông hết sức bực mình họ đã phung phí quá lố cho cái Tiệc Ra Mắt khiến ông đã phải trả hơn chục ngàn mỹ kim đau ơi là đau !

Làm giấy kết hôn xong, ông Cần xin ba má vợ đưa Hoa đi Saigon mua sắm nữ trang, quần áo, son phấn. Bà mẹ Hoa không muốn để con gái đi một mình, cứ bám sát Hoa làm lão Cần chẳng sơ múi gì được với cô vợ trẻ hơ hớ ngay cả cái nắm tay cũng chưa được, lại còn tốn thêm mớ tiền khá đậm sắm sửa cho bà mẹ vợ kỳ đà cản mủi. Chỉ trong một tuần lễ ông Cần đã lo xong công việc cưới vợ. Ông trở lại Mỹ gấp lập hồ sơ gởi Sở Di Trú Hoa Kỳ bảo lãnh cô vợ trẻ. Ông cũng đã ủy thác lão Hàn lo giấy tờ dịch vụ cho Hoa tại Việt Nam, và hai người sẽ liên lạc khi cần thiết. Cũng phải chi mất một số tiền không nhỏ cho lão Hàn. Chưa chi ông Cần đã mất trọn ba mươi lăm ngàn mỹ kim mang theo. Ông ước tính cũng sẽ mất thêm một khoản tiền kha khá nữa và thời gian chờ đợi độ năm, vợ ông mới đến được với ông trên đất Mỹ.

Ông Cần thức giấc sau giấc ngủ chập chờn mệt mỏi. Khuya hôm qua ông phải thức suốt đón Hoa tại phi trường từ Việt Nam sang. Gặp lại Hoa, sự mệt mỏi và bệnh tật trong người ông tan biến. Ông vui mừng khôn xiết, nói cười huyên thuyên, vì từ đây Hoa đã thực sự ở trong vòng tay của ông. Nhưng khi nhìn dáng vẻ bơ phờ, đôi mắt nai tơ thờ thẫn vì say sóng ói mửa, vì mệt mỏi từng chặng đường, vì đã bị cảm thương hàn trước mấy ngày ra đi, ông lo lắng đưa vợ về nhà ngay, cạo gió, uống thuốc và nằm nghỉ ngơi trong phòng ngủ. Ông nằm bên cạnh trên giường với Hoa, vì bệnh hành ngất ngư, vừa mệt mỏi quá độ, ông lả người thiếp đi trong giấc ngủ.

Bây giờ thức dậy, Hoa vẫn còn ngủ mê trong chăn ấm. Ông Cần ra ngoài làm vệ sinh, đi bách bộ mươi phút, trở lại ngồi tại phòng khách uống ly sữa tươi. Ông suy nghĩ thân phận mình. Gần nửa năm nay sau khi ở Việt Nam về, ông bị bệnh tiểu đường hành hạ đến kiệt sức. Ông còn mắc thêm chứng đau bao tử mà bác sĩ bảo rằng ông uống quá nhiều các loại thuốc ngâm rượu, các loại thuốc viên bồi bổ sinh lực nên bao tử đã bị loát trầm trọng. Hai chứng bệnh mắc dịch này hành hạ ông Cần ngày đêm đau đến nỗi có lúc kêu trời không thấu. Tuổi già sức yếu, tiết trời thường thay đổi, ông hay bị cảm cúm, nhức mỏi rũ liệt cơ thể, đôi lúc ông nằm liệt giường không còn thiết gì nữa. Ông Cần đau khổ không ngờ sức lực ông độ này giảm sút trầm trọng, da dẻ nhăn nheo, chân tay thường khi lập cập run rẩy, giảm sút năng lực ham muốn như năm vừa rồi. Những bất hạnh dồn dập xảy ra trong lúc vợ ông vừa Việt Nam qua, ông cảm thấy buồn buồn tức tối cho mình không còn cảm thấy hứng thú bên cạnh cô vợ tràn trề sinh lực. Lúc gặp nhau ở phi trường Hoa đã ngỡ ngàng hỏi sao lúc này trông anh ốm và già dễ sợ.

Nghĩ vơ nghĩ vẩn rồi tự an ủi dù sao mình cũng có được cô vợ trẻ đẹp bên cạnh trong cuộc sống chấp nối cuối đời. Có điều chuyện về Việt Nam cưới vợ ông Cần giữ kín, con cháu và người ngoài chưa hề hay biết. Bây giờ công việc ông đã làm và sự có mặt của Hoa trong nhà này ông phải nói sao với lũ con cháu. Ông suy đi tính lại rồi gật gù cho cái lý thân già góa bụa, cần một người đàn bà sớm hôm kề cận chăm sóc nhau vui cảnh xế chiều, con cháu chấp nhận hay không rồi cũng đâu vào đó cả. Tuổi tác có chênh lệch là chuyện thường. Tình yêu đâu phân tuổi tác. Hai kẻ yêu nhau có sự đồng cảm bằng lòng là đủ. Luật pháp Hoa Kỳ chẳng bắt bẻ chuyện này. Ông bước thêm bước nữa là quyền của ông, ai có quyền cấm cản. Con cháu thông cảm lại nỡ làm tình làm tội ông sao ?!

Hoa từ phòng ngủ đi ra dáng bơ phờ mệt nhọc ngồi xuống ghế đối diện. Ông Cần hăm hở bước đến vồn vã vuốt mái tóc vợ chảy dài xuống lưng đen mướt : - Em có khỏe được chút nào không ? Anh đưa em đi bác sĩ. Đi đường xa, thay đổi khí hậu, lại đang cảm thương hàn...anh lo lắm. Hoa lắc đầu : - Em đem thuốc uống mỗi ngày đây. Em cần nghỉ ngơi vài ngày em khỏe lại hà. Nói xong, Hoa vít đầu ông Cần hôn phớt trên gò má hóp của ông. Ông ôm ghì Hoa thật chặt vào lòng vuốt ve âu yếm. Cơn đau bao tử râm rang lại hành hạ khiến ông mất hứng thú lần đầu tiên trước cơ thể đầy đặn căng cứng, thơm phức của vợ đang thách thức cảm giác mời gọi. Mùi hương trinh nữ từ cô gái dậy thì thoang thoảng áp vào mặt mủi, khiến ông Cần đê mê chết cứng chịu không nổi. Ông ráng cả sức lực trong người ghì Hoa thật chặt vào lòng vuốt ve, mân mê, nắn bóp bấn loạn cùng khắp cơ thể săn cứng của Hoa để cố tạo sinh lực ham muốn thể xác... Nhưng sức lực của ông chồng già chỉ đến chừng đó.... chừng đó...ngưng lại... rồi giảm dần như quả bóng xì hơi, đến không còn tiếp tục làm ăn được gì khác nữa. Ông xịu mặt tủi thân cho sức khỏe tàn tạ với hai căn bệnh trời ơi của mình đã trên đà bất lực.

Hoa thì đã nhìn thấy rõ nỗi đau khổ chán chường của lão già hết xí quách này. Đáng thương hại cho ông ta ! Mới chỉ một phút bên vợ mà ông đã muốn đứt hơi. Ông trở lại ghế ngồi thở hổn hển. Hoa nheo mắt liếc tình ông, nhõng nhẽo : - Chưa chi anh đã phờ người rồi. Ráng sức không chừng đứt gân máu, em sống với ai đây ? Có muốn gì thì cứ thủng thẳng...khỏe khoắn trong người.

Ông Cần phác tay : - Đâu có sao. Anh ráng chữa dứt bệnh, bồi bổ lại sức khỏe là em sẽ "mệt" với anh dài dài nghe chưa ? Hoa bụm miệng cười sằn sặc : - Được rồi. Em chờ anh. Coi ai mệt với ai cho biết.

Hoa rảo mắt nhìn quang cảnh nhà, buột miệng khen : - Nhà anh đẹp quá, ở Việt Nam làm gì có được nhà như thế này.

Ông Cần phồng mủi : - Nhà này là của em không phải một mà là ba ngôi nhà như vầy đều của em. Tiệm sách báo là của em. Tiền bạc trong ngân hàng là của em...và tất cả là của em. Tính ra cũng hơn triệu rưởi đô la đó cưng. Nghe ông Cần đon hót, Hoa nghĩ thầm mai mốt ông chết của tiền về tôi, là cái chắc, khỏi cần ông phải giới thiệu. Cứ giữ cái giấy hôn thú cho kỹ là chắc ăn.

Hoa nói bâng quơ : - Anh nói thế. Em biết thế. Còn lũ con của anh nữa, phải chia cho chúng chứ ?.

Ông Cần khoát tay ngoài ngoạy : - Không. Không bao giờ. Ở Mỹ không có chuyện để của, chia của cho con cái. Ai làm nấy ăn, đâu như ở Việt Nam. Anh chết, anh viết di chúc giao toàn bộ tài sản này cho em. Anh muốn cho đứa nào tùy ý, không cho cũng được, không đứa nào có quyền tranh giành. Nếu em không nhận, anh giao cho Hội từ thiện.

Có tiếng xe hơi ầm ỉ trước nhà. Ông Cần nhìn ra hướng cửa sổ. Ba chiếc xe của ba gia đình ba đứa con đang đậu dọc trước nhà. Lũ chúng nó đủ mặt đang ào ạt xuống xe tiến vào nhà. Ông Cần sững sờ, mặt biến sắc... chợt nhớ ra...chết rồi..! hôm nay sinh nhật của ông. Tuần trước chúng nó hẹn đưa ông đi biển, đãi ăn nhà hàng, mua quà tặng...mừng sinh nhật thứ 72 của ông. Cứ mãi lo cô vợ trẻ ông quên khuấy đi mất.

Hai tay giựt giựt, đôi môi run run, ông lắp bắp tiếng được tiếng mất với Hoa : - Lũ...lũ...con cháu...nó đến đủ mặt. Hôm nay...sinh nhật của anh...chúng...chúng nó đến...dẫn anh đi mừng sinh nhật... luôn dịp anh...anh giới thiệu em...với tụi nó.

Lũ con cháu ùa vào đứng đầy phòng khách. Chúng thấy Hoa, nhìn trân trối. Hoa đang mặc bộ quần áo ngủ mỏng hở hang, nhầu nát, tóc tai lòa xòa. Chúng thi nhau hỏi cha : - Ai vậy ba ? Ba đem cô này về làm gì vậy ? Bồ à, bồ của ba..? - Cô nào đây hả ba ? Trông giống như...ở ngoài đường... - Ba đem gái ăn sương về nhà đây.

- Hai cô con gái lớn hỏi tới tấp. Lũ cháu ngoại chạy đến bá cổ ôm tay ông ngoại líu lo vòi vĩnh, hỏi han. Riêng Diễm, đứa cháu ngoại gái tuổi đã mười tám nhìn Hoa không chớp mắt, bĩu môi khinh khỉnh có lẽ nó nghĩ Hoa là gái điếm. Thằng con trai tên Mẫn và cô vợ cũng như hai chàng rễ cứ cười tủm tỉm nhìn Hoa rồi nhìn ông Cần với những ý nghĩ không mấy tốt. Ông Cần lấy lại bình tĩnh, líu lưỡi : - Đây là...Hoa...là má...má...của các con. Ba cưới ở Việt Nam vừa sang. Các con mừng cho ba. Cả bọn đồng ồ lên thảng thốt, bĩu môi khinh bĩ : - Má gì...mà trẻ măng ? Miệng còn hơi sữa...vậy ba ? - Má chỉ bằng tuổi con Diễm cháu ngoại ba. - Con không chấp nhận. Con phản đối...con phản đối. - Già rồi ba lại dở chứng, không sợ thiên hạ cười. - Còn cái cô này (Hoa) thèm đi Mỹ, dụ dỗ ông già hả ?

Cứ thế, đứa một câu ào ào như vỡ chợ. Hoa cảm thấy chóng mặt đến khiếp đảm những lời dèm pha chửi mắng và hỗn hào của lũ con cháu ông Cần, đôi mắt nai tơ thất thần nhìn ông Cần cầu cứu. Nàng bật khóc rấm rứt, rồi vụt chạy vào phòng. Mẫn dõi theo chân Hoa có ý để trấn an nhưng nàng đóng mạnh cửa phòng ngủ.

Thấy lũ con cháu phản ứng mạnh, ông Cần nạt : - Tụi bay im đi, không chấp nhận thì thôi. Đi, đi về hết. Lũ con cháu đâu cần nghe, chúng cứ lầy nhầy câu này câu kia với cha già, hăm he đòi đuổi Hoa ra khỏi nhà tức khắc. Không thì chúng xởn tóc, rạch mặt, trùm bao bố thả sông, chặn đường bêu xấu cho biết mặt. Mẫn lần bước sát cửa phòng ngủ, nghe tiếng khóc rấm rứt bên trong.

Mẫn nói vọng vào : - Cô đừng khóc nữa. Chẳng có gì mà sợ. Lũ con cháu ra rả một hồi chán chê, đồng kéo nhau ra xe. Kỷ niệm sinh nhật của ông Cần như hủy bỏ, chẳng ai nhắc đến vì tai ách dở chứng của cha già trái tai gai mắt. Ông bị cú sốc quá đậm, không còn nói được lời nào, ngồi chết trân trong lòng ghế như một pho tượng đá. - Họ về hết rồi. Tiếng Mẫn giục. Mở cửa ra đi cô Hoa. Hoa hé cửa nhìn ra ngoài rồi nhìn sững Mẫn cũng đang nhìn nàng. Hai ánh mắt chạm vào nhau như tia sáng phản hồi thoáng chút bâng khuâng ngỡ ngàng thẹn thùng. Mẫn đang bị cuốn hút trước nhan sắc rực lửa của cô gái xa lạ qua lớp áo mỏng dính sát, hở hang. Vừa lúc vợ Mẫn đến giục chồng đi về. Bi hài kịch trình diễn được ông chồng thủ vai chính làm cho Hoa khốn đốn, mất ăn mất ngủ, khóc rấm rứt suốt ngày.

Ông Cần đau đớn tột cùng thêm hai căn bệnh quái ác hành hạ liên miên, ông nằm liệt giường chẳng buồn ngồi dậy. Ngày tháng đi qua, cứ đôi ba hôm lũ con ông thay phiên gọi điện thoại đến hăm he, nhiếc mắng cô vợ trẻ của ông, còn dọa ông không đuổi Hoa ra khỏi nhà là chúng sẽ từ ông, vì ông đã làm vẩn đục hưong linh người mẹ của chúng.

Ông Cần vẫn ngày ngày chữa bệnh, chăm chỉ bồi dưỡng sức khỏe hy vọng được tái phục hồi để một lúc nào đó đủ sức thỏa mãn nhu cầu với cô vợ trẻ hơ hớ. Cứ vài hôm ông lái xe đến bác sĩ khám, mua thuốc trị bao tử. Bác sĩ yêu cầu ông phải mổ, ông lại sợ không dám. Rồi ông đến đông y cắt thuốc trị tiểu đường. Cơ cực, càng uống thuốc, ông Cần vẫn cứ gầy rạc ra. Bệnh tiểu đường ngày thêm trầm trọng gần như tê liệt. Thời gian đó Mẫn vẫn thường canh chừng ông Cần lái xe ra khỏi nhà là ập vào tán tỉnh, hú hí với Hoa từng giờ.

Ông Cần cưng chiều Hoa rất mực. Ông đưa Hoa dạo phố, mua sắm, ăn uống, dự tiệc tùng, hội hè đoàn thể...Ông vênh vênh hãnh diện đi bên cạnh cô vợ trẻ đẹp duyên dáng. Những bạn già của ông Cần cứ trố mắt nhìn ông và cô vợ trẻ bàn tán, khen chê trước một pha thời sự quá "hot" đang xảy ra rất ư là hấp dẫn. Ngày Hoa thi đậu bằng lái xe, ông Cần mua tặng vợ chiếc BMW láng cón gần năm chục xấp. Có xe Hoa lái một mình vào các chợ, mall, shop, nhà hàng để ăn uống mua sắm chưng diện theo ý thích, đồng thời có cơ hội tiếp xúc làm quen rất nhiều người. Nhờ thế, Hoa đang có được những cố vấn, những thầy đời bảo trợ tinh thần và tiếp nhận những hiểu biết mới trong cuộc sống. Hoa càng siêng năng học tiếng Anh lớp đêm, lớp ngày rút ngắn thời gian, tạo thế đứng tự lập không nhờ vã vào ai. Giờ thì Hoa đâu còn lo ngại lũ con cháu của lão Cần. Chúng mà hung hổn làm bậy là cứ gọi cảnh sát.

Một hôm ông Cần thấy vợ mình có sự khác thường, nhan sắc giảm sút, ói ọe, chê cơm chê cá. Ông sinh nghi vặn hỏi, Hoa trả lời là không biết tại sao nữa. Do kinh nghiệm, ông biết Hoa đang có thai. Ông bấn loạn xây xẩm khi nghĩ rằng từ ngày Hoa về với ông đến nay tròn năm chưa một lần ông "chăn gối" với vợ cũng chỉ vì sức khỏe sa sút, bất lực. Có chăng, ông chỉ ôm ấp, vuốt ve vợ bên ngoài...làm sao vợ mang bầu. Ông Cần đau khổ tức tối. Bụng Hoa ngày un cao rõ nét. Ông Cần càng điên tiết. Ông dấu kín sự thể đâu dám phân trần cùng ai. Ông ôm Hoa vào lòng, đôi tay run run xoa xoa bụng vợ âu yếm than vắn thở dài : - Anh chưa một lần ăn nằm với em mà, sao em lại có thai, nghĩ cũng lạ.

Hoa lắc đầu không biết. Ông nhẫn nại : - Em cứ nói thật cho anh nghe. Dù gì đi nữa, anh không làm tình làm tội em. Anh cưng chiều em hết mình. Anh lại đang lo cung cấp tiền bạc cho ba má ở Việt Nam, gởi tiền cho ổng bả cất nhà. Em là vợ của anh. Em thấy không ? Nói đi em.

Trầm ngâm một lúc, Hoa ứa nước mắt. Lòng cảm thấy tội nghiệp ông chồng già. Nàng không thể dấu được, đành nói : - Thằng ...thằng con trai của anh...đó anh. Nó luôn đến đây tán tỉnh và hãm em nhiều lần em ngất ngư, em sợ muốn chết. Nó làm dữ quá...không như anh đâu.

Ông Cần choáng váng mặt mày gần muốn xỉu. Ông gầm lên : - Trời ơi là trời ! Mẫn ơi là Mẫn ! Mày...mày là thằng trời đánh thánh đâm. Tao sẽ diệt mày. Thứ đồ loạn luân. Mày cả gan lấy vợ tao, cưỡng hiếp mẹ kế của mày....

Ông thả Hoa ra, ngồi ôm đầu bứt tóc,gầm thét tức tối thãm hại. Kiểu này thì đâu còn mặt mủi nào. Thiên hạ họ cười cho thúi đầu. Thôi thì hãy vục mặt xuống vũng bùn nhơ im hơi lặng tiếng chứ biết làm sao. Đổ bể ra thì ôi thôi chịu sao cho nỗi búa rìu dư luận kể cả lũ con cháu quỷ quái kia. Ông đành ngậm hột vịt ăn tiền. Ông hận thằng con khốn kiếp phỏng tay trên. Ông chưa làm gì là nó đã làm rồi. Khốn nạn ! Nhiều lần ông muốn tống cổ nó khỏi tiệm sách báo của ông. Ông căn dặn Hoa chuyện lỡ làng, đừng cho ai biết. Xấu anh thì xấu em. Thôi thì, cứ coi là con của anh.

Đến ngày sanh, ông Cần túc trực bên vợ mãi đến nửa đêm Hoa mới sanh một bé trai. Mặc dù trong người ê ẩm mệt mỏi, Hoa nhìn ông Cần chọc quê : - Thằng nhỏ này là con trai của anh, hoặc cũng là cháu nội của anh đều đúng cả. Anh ráng mà nuôi nó để nối dõi. Ông Cần cúi gầm mặt nhìn thằng bé đỏ hỏn thấy mà ghét, muốn bóp mủi cho nó chết phứt cho rồi. Nghĩ mà ông không dám làm. Thằng bé ba tháng đã lật. Lúc này Hoa đẹp dữ dội, ai nhìn cũng trầm trồ mơ ước, đúng là gái một con trông mòn con mắt, đã thiệt.

Hoa càng ăn mặc chưng diện, xài phí và thường lái xe đi rong nơi này nơi khác. Ông Cần thì chả còn ham muốn gì nữa vì bệnh già cùng hai chứng bệnh quái ác kia, đành chịu lép. Một hôm Hoa tính nhẩm mình đã đến Hoa Kỳ tròn hai mươi sáu tháng rồi. Đến lúc này đã là thời điểm "giã từ quán trọ". Hoa nhờ luật sư - cũng chính là người tình đở đầu của Hoa vừa quen được, đẹp trai, hào hoa, phong độ - đưa đơn ra Tòa án xin ly dị ông chồng già bất lực. Ông Cần nhất quyết không ký đơn. Tòa phán quyết cuộc hôn nhân gượng ép, bất cân xứng, loạn luân, tác hại luân thường đạo lý cần giải tán. Tài sản chia hai. Đứa nhỏ giao Hoa nuôi nấng. Ông Cần trách nhiệm cấp dưỡng đứa bé đến 18 tuổi tròn.

Truy tố Mẫn tội loạn luân, cưỡng dâm mẹ kế. Đơn ly dị kết thúc. Hoa được nhận ngôi nhà ông Cần đang ở và Tiệm Sách Báo cùng với số tiền trong ngân hàng được chia đôi vào khoảng bốn mươi lăm ngàn mỹ kim. Ông Cần vật vã mình mẩy, ngất xỉu chết đi sống lại. Ông dậm chân dậm cẳng, khóc lóc, nghiến răng, than thở, rên rỉ kêu Trời không thấu. Vợ với con, khốn kiếp ! Đang sống thảnh thơi an nhàn trong tuổi già xế bóng, vật chất đầy đủ, con cháu thương yêu...đâu còn thiếu thốn gì nữa...hà cớ gì dở chứng thèm khát để đến nông nỗi này. Ông bậm môi, đấm ngực, nghiến răng trèo trẹo hầm hè : - Cũng tại...cái thằng nhóc ó đâm này..mà ra cả! Thằng nhóc con rững mỡ này, có làm gì được đâu. Đã bảo cứ ngủ yên cho thằng già này nhờ ! Mẹ kiếp ! Đồ mắc dịch..!
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »


Image

Giàn mướp hương cuối mùa

Nguyên Nhung
Ðợt gió thu cuối mùa đã thả vào khu vườn sau thêm chút tiêu điều của một mùa thu rất ngắn. Năm nào cũng vậy, một đêm đang ngủ chợt giựt mình thức giấc, nghe ào ào sau vườn tiếng lá rung, không biết gió ở đâu đổ về khu vườn lá đã chuyển màu, chùm phong linh sau nhà vang lên những hồi chuông leng keng như báo hiệu mùa thu sắp ra đi rồi đó. Mùa thu ở đây ngắn quá để lá chỉ mới chớm vàng chưa kịp rụng, đợt gió lạnh tràn về làm úa đi những chiếc hoa vàng trên giàn mướp hương, những quả mướp non chưa kịp lớn sẽ là món ăn ngon cuối mùa trên mâm cơm gia đình bà nội Tý anh và Tý em.


Giàn mướp đang độ vào hè, với những trái mướp dài lủng lẳng treo trên giàn nhiều đến nỗi ăn không kịp, phải đem biếu cho hàng xóm, gọi con cái ăn hộ giờ này chỉ còn có vài quả cuối mùa co quéo lại nằm trên mặt giàn, không thả được mình xuống khoe mã như dạo đang hè. Bây giờ muốn ăn phải tìm mỏi mắt vì còn dăm quả đèo đẹt, lấp mình trong khoảng giàn xanh xanh, chen lấn trong đó nhiều loại rau khác nhau: mùng tơi, lá mơ, mướp hương. . .


Những loại rau này rất buồn cười, sống hồn nhiên như những đứa bé con nhà nghèo, tự nhiên mọc lên rồi lớn, bám vào được chỗ nào thì cứ thế mà leo, còn nhiều khi bà nội Tý anh cẩn thận gieo hột trong những cái chậu đất tốt, tưới tắm, nâng niu, cây có đâm chồi nảy lộc nhưng chỉ được vài hôm là ủ giột, mặt mày cứ sa sầm xuống như bị cầm hãm tù tội. Cái khoảng khoát khỏe mạnh của cây cỏ là được sống tự nhiên với thiên nhiên, hễ mọc được là sống khỏe, rồi sau đó tự nhiên chen lấn với các loại khác mà sống còn.


Nói đến cái cơ duyên của giàn mướp này bà nội Tý anh lại buồn cười. Thực tình thì bà có trồng đâu, cái giàn là của nhà mùng tơi tím đó chứ, sau có người hàng xóm quảng cáo về cái lá mơ trị kiết lỵ, đầy hơi, trĩ nội trĩ ngoại rồi tặng cho một cây, bà cũng dọn cho nó một chỗ mát mẻ ngay bên vệ rào, gần đám mùng tơi. Sở dĩ đa số dây leo được bò quanh vệ rào, vì chỗ này ít bị nắng gắt mùa hè chiếu cố đến, chỉ vào buổi bình minh mới lên là còn hưởng tý ánh nắng mặt trời, nhưng cứ càng xế trưa thì chỗ ấy mát dần lên, dây lá không ủ rủ héo rũ xuống vì nắng hè khắc nghiệt.


Khi đám mùng tơi phơi phới leo lên, chị lá mơ cũng ì ạch chạy theo kịp thì trên giàn những lá mơ mềm mềm hai mặt xanh và nâu tím, đầy những lông tơ cũng lẫn lộn với chị mùng tơi tím xinh xinh vẻ hiền hậu của cô gái quê không son phấn. Muốn có nồi canh mùng tơi, trước hết bà nội Tý anh đã hái những lá nằm phía dưới của hàng rào, sau chỗ nào cao hơn thì phải dùng cái thang nhỏ mới hái được. Nhà ít người thì một rổ nhỏ cũng có tô canh rồi, hai thằng Tý anh Tý em khi biết ăn cơm là cũng biết ăn canh mùng tơi, chả vì có tý rau trơn trơn dễ nuốt. Nhưng khi nào nhà có khách, ngoài những món thịt thà xào nấu công phu, bao giờ bà nội Tý anh cũng phải nấu thêm tô canh mùng tơi, ăn với món cà muối xổi thơm mùi tỏi ớt lúc nào cũng có sẵn trong tủ lạnh.


Không biết sao chứ nồi canh mùng tơi ăn với cà lại được khách chiếu cố tận tình, chẳng phải dài hơi mời mọc. Hôm nào đi chợ thấy bán cua biển còn tươi, bà nội Tý anh đã chịu khó mua về làm sạch sẽ, rồi nhờ ông xay giùm để dành từng bọc trong tủ đá. Khi muốn ăn, bỏ ra ngoài chờ hết lạnh lọc lại là có món canh cua nấu rau gì cũng ngọt. Nó hợp lạ lùng với rau đay, nhưng có đem nấu với mùng tơi và mướp hương thì cũng chẳng chê vào đâu được.


Hồi xưa đến giờ người ta hay nói đến cái duyên của mùng tơi với quả mướp, hai thứ này đi với nhau như bóng với hình. Người nội trợ khi mua rau mùng tơi nấu canh, bao giờ cũng hay nghĩ đến qủa mướp, thấp thoáng trong nồi canh là những miếng mướp mong mỏng xanh xanh màu ngọc thạch, thì lại phải điểm lên những lá mùng tơi xanh tím làm nền cho tô canh quyến rũ hơn, mùi vị hòa hợp lạ lùng. Thế mà khi không cái duyên quả mướp với mùng tơi lại đến với mảnh vườn của bà nội Tý anh. Nhà hàng xóm mùa thu năm trước dọn dẹp giàn mướp tàn, lẫn lộn những hột mướp giống với cỏ khô, dồn hết vào hông nhà ở vệ rào, năm nay khi mùa Xuân sang tự nhiên mọc lên những dây mướp thật khỏe, rồi vì nhu cầu sống cứ thế vươn lên, tìm đất đứng và tự nhiên bò qua cái hàng rào nhà hàng xóm.


Cuộc xâm lăng này không biết đối với chị mùng tơi và chị rau mơ có dễ chịu không thì chủ nhà không biết, nhưng cứ nhìn những dây mướp to khỏe, thay đổi từng ngày, lá xanh rờn to bằng hai bàn tay xoè ra, "tự nhiên như người Hà Nội" che kín cái giàn còn trống trải, tạo bóng mát cho cái hàng ba nắng mùa hè chênh chếch soi vào thì tiện lợi biết mấy. Nhất là trên cái giàn ấy đã xuất hiện những bông hoa vàng, rủ rê con ong cái bướm ở khắp nơi bay về dập dìu trên giàn mướp hương, đem đến những mảnh tình con con cho hoa lá cũng tưng bừng mở hội.


Ðó là cái tình của cây cỏ, còn cái lợi trước mắt thì nhà có thêm mướp để nấu canh mùng tơi, món canh quê mùa quốc hồn quốc túy mà chan vào bát cơm, rồi cắn thêm quả cà ròn tan trong miệng, chẳng thích lắm sao! Chủ nhân thuộc loại nhàng nhàng đủ ăn, chả có danh gì với núi sông ngoài cái giàn mướp và mùng tơi che kín cái hiên sau nhà, nên gọi cái giang sơn của mình là vườn rau quê hương, để gợi nhớ cái vườn rau quê nhà, và cũng vợi đi chút buồn xa xứ, hễ khách đến nhà thế nào cũng nấu cho được tô canh mướp , mùng tơi để đãi khách.


Bây giờ trời đã cuối thu, chỉ còn thưa thớt vài quả mướp đèo trốn tít ở trên cao, rình mãi bà nội Tý anh mới gom được ba quả mướp đèo để nấu tô canh cuối mùa. Ngó quanh cái giậu mùng tơi lá đã úa vàng, bé tẻo teo bám trên sợi dây màu tím lịm, vặt trụi đi thấy cũng tội nghiệp, chỉ con những chùm hột màu tím khô đong đưa dưới mặt giàn. Rau ăn đúng mùa, trái ăn đúng kỳ mới ngon, thôi thì làm một nồi canh mướp với nhúm tôm tươi bóc vỏ, thêm vào tý thịt nạc, vài tai nấm, một nắm bún tàu rồi nêm vào một chút hành ngò chẳng ngon lắm sao!


Nhà hôm ấy có khách. Khách từ phương Bắc mới đầu đông mà đã giá rét, trốn lạnh đi về phương Nam chơi ít lâu nên khi nhìn thấy cái vườn phương Nam, tuy đã xơ xác tiêu điều nhưng vẫn thấy lòng ấm lại. Chẳng vì mùa đông phương Bắc đến sớm từ cuối tháng chín, chưa gì vườn tược hoa cỏ đã úa màu rơi rụng hết, nay về phương Nam người xa quê như bắt gặp được một khoảnh quê hương xa tít tắp bên kia bờ đại dương. Nhất là bụi mía ven bờ rào bên khung cửa sổ thì ôi chao sao nó nhớ chi là nhớ, một cơn gió thổi qua để tất cả những thứ lá cây trong vườn rung lên xào xạc, bụi mía xào xạc, những lá mướp già vừa chớm khô cũng xào xạc, trời lại hanh hanh nắng mà vẫn hơi se lạnh, tý nữa trên mâm cơm lại có thêm tô canh mướp cuối mùa, còn giữ nguyên cái tình quê trong đó.


Không cần mời chào nài ép nhiều nhặn gì, đến bữa cơm ngoài món thịt kho trứng, đĩa cá chiên ròn chan nước mắm chua ngọt, tô canh mướp cuối mùa múc lên chỉ loáng mà đã hết. Khách vừa ăn vừa khen rối rít:

" Chả nói dấu gì, cao lương mỹ vị chúng tôi không thiếu, có tiền mua tiên cũng được, nhưng không tìm ra được hương vị thanh thanh ngọt ngào như cái tô canh mướp nhà bác. Ngày xưa hồi còn ở quê nhà...."

Thế là bao nhiêu kỷ niệm ở đâu tuôn ra như nước vỡ bờ:

" Bà cụ tôi hồi sinh tiền chỉ thích mỗi món canh mướp nấu lòng gà, ngày giỗ kỵ cũng phải để bộ đồ lòng cho cụ nấu canh mướp. Còn ngày thường thì chỉ nhúm tôm khô cũng xong, nhưng quả thật những thứ này đi với nhau lại hòa hợp một cách lạ lùng. Cái màu xanh xanh biêng biếc của lá mùng tơi, rồi điểm vào đó những lát mướp mong mỏng như ngọc thạch, úi chao, cả một nghệ thuật ẩm thực của tiền nhân trong ấy..."


Khách đúng là xính thơ văn nên khi tả món ăn cũng phải cầu kỳ hoa mỹ, chứ cứ như bà nội Tý anh, cả đời dân giả chỉ biết nồi niêu xoong chảo, cách nấu nướng cũng chỉ đơn giản miễn sao có chút thức ăn đưa cơm cho no bụng:

" Chắc các bác chưa từng được ăn đọt mướp xào tỏi bao giờ nhỉ?"

Khách ngưng húp canh, ngẩn ngơ nghĩ chưa ra là trên đời lại còn món đọt mướp xào tỏi:

" Vâng, món ấy thì chưa được ăn qua, nhưng đào đâu ra cho đủ để xào?"

Bà nội Tý anh hãnh diện khoe:
" Từ ngày sang đây đến nay, tôi cũng chửa thấy chợ nào có bán đọt mướp. Bí rợ, đậu hòa lan thì thiếu gì, nhưng tìm được đọt mướp để xào thì hiếm còn hơn cao lương mỹ vị. Gặp năm giàn xum xuê quá mà quả ăn mãi cũng chán, nhà chỉ hay hái đọt mướp để xào thôi. Ðúng là quý thật, vì mỗi lần hái chỉ được một rổ nhỏ, lấy cả lá non tước đi cái vỏ ngoài cũng chỉ được đúng một đĩa, hôm ấy nhà tôi gọi là có đại tiệc đấy, mỗi người được đúng hai gắp..."

Khách xuýt xoa:
" Tiếc nhỉ, giá đến chơi sớm vào độ hè chắc tôi đã được ăn món ấy. Ðâu chủ nhà diễn tả xem cái đọt mướp xào tỏi nó thi vị ở chỗ nào, có bằng món đọt đậu Hòa Lan trong nhà hàng Tàu không?"

Xem ra khách có vẻ chưa tin vào cái món đọt mướp "cây nhà lá vườn" này lắm, bà nội Tý anh phải vận dụng hết khả năng văn chương để cho khách phương xa thèm thuồng món ăn dân giả này, bởi chưa chắc có tiền đã mua được:
" Ấy, bác vào bất cứ nhà hàng nào ở đây không bao giờ tìm được trong " menu " món này đâu đấy! Còn so sánh với đọt đậu xào thịt bò thì hai cái khác nhau một trời một vực, hương vị mỗi thứ mỗi khác, tuy đã xào nhưng mùi hương của cái nhụy hoa vàng kia nó vẫn phảng phất trong cái miếng rau mình nhai trong miệng, bùi bùi, hơi nhân nhẩn mà không đắng, thơm thơm mà lại thanh thanh, cứ chầm chậm nhai thì mới thấy cái ngon nó thấm vào lục phủ ngũ tạng. Rau bí rợ thì dễ kiếm, nhung khi luộc hay xào, ăn nó nhàn nhạt không bao giờ có được cái vị thơm của lá mướp."

Khách cười xòa lên:
" Ui chao! Nghe tả sơ sơ thôi mà đã thấy thèm ứa nước miếng ra rồi. Xem ra chả có cái gì bỏ phí, vì lá mướp nghe nói cũng là dược thảo chữa cái bệnh gì đó...."

Chủ khách cùng cười, giá cây mướp đang bò trên giàn kia nghe được chắc cũng phổng mũi ra vì sung sướng:
" Nghiên cứu về dược thảo của rau cỏ thì nhiều, nhưng chính lá mướp cũng là một thứ thuốc chữa bịnh ngoài da hay lắm. Nó còn chữa được cả bệnh Giời ăn, mọc thành giề mà hễ nước vỡ ra đến đâu thì lan ra tới đó, cái lạ rằng chỉ nổi một nửa thôi, hễ ở lưng thì mọc một bên không bao giờ qua phía bên kia, nhưng để giáp vòng thì hết thuốc chữa. Vậy mà ngày xưa ở nhà quê người ta cứ lấy lá mướp giã nát ra đắp lên cũng khỏi. Thế tôi đố chị chỉ có người Việt mình mới biết ăn đọt mướp, hay là các dân xứ khác họ cũng biết ăn như mình?"

Khách lắc đầu:
" Ngay tôi là người Việt thế nhưng hồi ở bên nhà, cũng chưa bao giờ biết là đọt mướp ăn được."

Bà nội Tý anh tiếp lời khách:
" Chính tôi thì cũng không nghĩ rằng đọt mướp ăn được, vì khi các cụ mình trồng cho mướp ra hoa nhiều mới có quả, bất cứ giống gì hái đọt ăn lá đều không kết quả được bao nhiêu. Thế nhưng cái hôm bà hàng xóm người Phi Châu sang chơi, thấy cây mướp có nhiều đọt non, bà ấy mới bảo rằng lá mướp non ăn ngon lắm. Tôi không tin như thế, nhưng nghe vậy cũng ăn thử một bữa xem sao, mới biết người ta nói đúng."


Chỉ tiếc rằng giàn mướp vào cuối thu đã tàn, nên không thể hái được nắm đọt mơn mởn để đãi khách như độ đang hè, nhưng câu chuyện kể về quả mướp hương nó lại lan man sang vấn đề khác:

" Mình thì cứ tưởng chỉ có mỗi mình mình mặn nồng nỗi nhớ quê cha đất tổ, hóa ra dân tộc khác cũng vậy. Món ngon không phải ở chỗ đắt tiền, nhưng chính là nó hợp với cái nỗi nhớ trong lòng mình mà bỗng hóa nên ngon, nên hiếm. Ôi cái thuở còn thơ, hễ buồn buồn thì vác con dao ra vườn đốn một cây mía xuân diệu, rồi cứ thế ngồi dưới gốc mía mà gặm, sao nó ngọt nó ngon đến thế. Bây giờ nói xin lỗi bác, khéo không lại đi tuốt hết cái hàm răng..."


Hai người cứ thế rũ ra cười với nhau, hai thằng Tý anh Tý em cùng cười góp vào mà chẳng hiểu gì. Bà nội Tý anh bảo:
" Mùa này cá nục ngon và béo lắm, mai tôi đãi chị món lá mướp cuốn cá nục, nuớng lửa than rồi cuộn với bánh tráng, rau sống tuyệt trần đời. Trải ba lớp lá mướp, để cá lên rồi cuộn chặt vào mà nướng, thịt cá không tanh mà lại còn thơm cái mùi khói đồng nhờ lá mướp bao xung quanh. Muốn tìm ra cái hương quê cũng chẳng khó gì chị ạ."


Cơm nước xong, ấm trà cúc pha vừa phải đủ làm thơm miệng và mát bụng. Hình như chợt nhớ ra, bà nội Tý anh lại nói với khách:
" Xem thế nhưng không phải lúc nào cũng ăn được mướp. Người yếu tỳ yếu vị, bị cảm lạnh thì không nên ăn, mướp thuộc loại hàn ăn vào cũng khó tiêu. Nhưng hề gì, nhà tôi có một giàn lá mơ đấy, bứt vài lá dằn bụng thì ăn gì cũng chả lo!"
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Sự Im Lặng Của Biển
Tôi sinh ra ở miền núi nhưng hai mươi năm qua, số phận lại đẩy về miền biển. Thành phố tôi đang sống là thành phố biển. Ngôi trường tôi học trước đây cũng nhìn ra biển và văn phòng tôi đang làm việc hiện nay được xây trên mặt vịnh Boston, bên kia là Đại Tây Dương bát ngát.
Thời gian dài trôi qua, cuộc sống tạm quen dần nhưng ngày mới về đây thật là khó chịu.

Nhất là những ngày mưa bão, biển đổi thành màu đen sậm, xa xa một chiếc ghe đánh cá đang về trễ, tăng thêm phần ảm đạm. Biển vừa làm cho tôi sợ hãi khi liên tưởng đến những ngày còn lênh đênh hơn hai mươi năm trước, nhưng đồng thời cũng vừa có một sức hút vô hình khiến nhiều khi tôi đã đứng hàng giờ đăm đăm nhìn ra biển.

Các triết gia thường nói trong mỗi phút giây chúng ta đang sống đều có bóng dáng của quá khứ và dấu hiệu của tương lai. Tôi nghĩ họ nói đúng. Đối với một người Việt Nam tỵ nạn, quá khứ và tương lai không chỉ là bóng dáng và dấu hiệu thôi, hơn thế nữa, là hai cuộc đời cùng sống, cùng tồn tại, cùng níu kéo nhau, xô đẩy nhau vô cùng mãnh liệt. Một giọt mưa rơi, một chiếc lá rụng ngoài hiên, một tiếng sóng vỗ vào bờ đá cũng làm chúng ta choàng thức dậy, lắng nghe như tiếng có chân ai đang bước. Từ tâm cảm đó, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng có lần đã viết trong bài Từ Tiếng Hát Tiếp Nối của anh:”Bàn chân đi, lòng vẫn mong về”. Dù sao, các văn nghệ sĩ vẫn là người may mắn vì ít ra họ có cơ hội để làm vơi bớt đi nỗi u uất trong lòng qua thi ca nhạc họa, bao nhiêu đồng bào khác, không có năng khiếu văn chương, âm nhạc, phải âm thầm chịu đựng. Nếu cuộc sống ở hải ngoại không phải quần quật áo cơm, đầu tắt mặt tối, nhiều người Việt có thể đã chết vì khủng hoảng tinh thần.

Những ngày còn ở Việt Nam, khi nghe bài thơ của nhà thơ Du Tử Lê (tôi chỉ nhớ mỗi câu đầu): “Ra biển chiều nay thấy màu máu đỏ”, được đọc trên đài VOA hay BBC gì đó, mô tả cảnh vượt biên thật hãi hùng. Hẳn nhiên tôi không nghĩ vượt biên sẽ nhẹ nhàng như ngồi trên chiếc du thuyền nhưng tôi cũng không cảm nhận được mức độ của kinh hoàng cho đến khi chính mình ngồi trên thành ghe mong manh vừa chết máy và đang bồng bền trên biển tháng 6 năm 1981. Thời gian chầm chậm trôi qua. Một giờ rồi hai giờ. Tiếng cầu kinh đã dừng lại trên những vành môi khô. Lời niệm Phật đã ngưng trong những thân xác mệt mỏi. Đất trời đều im lặng. Không ai nói với nhau một lời nào. Trống vắng. Trống vắng ngay cả trong suy nghĩ của con người. Nhớ thương, hờn giận đều biết mất. Tất cả như đang dọn mình để bước vào một cuộc đời khác. Không ai tuyệt vọng bởi vì chẳng còn ai hy vọng. Và như thế cho đến khi tiếng máy ghe lại nổ, cuộc hải hành tiếp tục.

Biển mang tôi về lại bãi cát trắng và hàng dương liễu, nơi tôi đứng thẩn thờ nhìn chiếc trực thăng bay xa, bay xa, mang theo người thân yêu nhất của tôi. Biển mang tôi về lại phường Cổ Mân, Quận Ba, Đà Nẵng, nơi tôi sống những ngày đầu tiên không gia đình với người anh họ và chị dâu họ khắt khe, khó tính. Không ai biết và sẽ không bao giờ ai biết, trên những đồi cát trắng dọc bờ biển Sơn Chà, từng có một thằng bé mỗi chiều âm thầm đứng nhìn về phía biển để chờ đợi một tin vui. Tin vui đó đã không bao giờ đến với nó. Nếu mai mốt trở về tôi nhất định sẽ đi tìm thằng bé. Tôi nhớ rất rõ thân hình ốm tong teo của nó khi đứng chờ những chuyến xe Mỹ chở hàng để xin quá giang qua Đà Nẵng. Tôi nhớ rất rõ chiếc áo sờn vai thằng bé mặc trong mùa đông, chiếc chiếu rách, chiếc giường tre nơi nó ngủ. Và tôi cũng nhớ nó, một thằng bé can đảm, nửa đêm thức dậy ra đi, dù chưa biết sẽ đi đâu. Trên cồn cát trắng kia, sau ba mươi năm, vẫn còn in dấu chân của nó như đã hằn sâu trong ký ức con người.

Tôi từng được dạy rằng tôi là chủ nhân của chính mình chứ không ai khác và ý chí của tôi quyết định cho hành động của tôi chứ không từ đâu khác. Học và hiểu thường không quá khó khăn nhưng thực tế không phải bao giờ cũng dễ dàng như thế. Tôi đi qua cuộc đời này như một chiếc lá vàng khi chưa đủ tuổi để xanh. Tôi bay trong giông bão và bay qua nhiều biển cả mênh mông, bao nhiêu lần đã tưởng chừng rơi rụng và mục nát trong một góc chân tường nào đó.

Những chiều mưa bên Đại Tây Dương, tôi cũng bàng hoàng nhớ lại Thái Bình Dương, nhớ lại ngày trên biển, nhớ Manila, Palawan, nhớ đến những người không may mắn như tôi. Dọc bờ biển đó, nơi tôi lắng nghe tâm sự của những em bé, câu chuyện về những đồng bào bất hạnh, sự chịu đựng của những người sống sót, để rồi những tháng năm sau, tôi ghi lại trong Em Bé Việt Nam Và Viên Sỏi, Người Lính Già Vừa Chết, Thưa Mẹ Chúng Con Đi, và những bài thơ khác.

Trong những người Việt Nam bất hạnh đó có người anh tôi đã mang ơn, người đã giúp tôi cơ hội vượt biên. Những dòng chữ này như nén hương để tưởng nhớ về anh.

Tôi vẫn nhớ ngày anh đưa chiếc ghe về, tôi hỏi anh sẽ dùng nó làm gì. Anh đáp gọn “vượt biên”. Tôi cười không tin anh nói thật, khi nhìn chiếc ghe quá nhỏ, nhưng cũng chẳng nói gì thêm. Chuyện tàu bè không phải là việc của tôi, biết hay không cũng chẳng ích gì. Anh mướn người sửa lại. Cắt nửa trên của chiếc ghe và đóng thêm một lớp ván bên ngoài. Sửa mũi và lái cao hơn. Anh mua một chiếc máy nhỏ ở đường Bến Chương Dương đem về gắn vào. Tháng sau tôi trở lại sông, chiếc ghe cũ đã thành chiếc tàu có chiều dài mười mét và chiều ngang chỉ một mét rưỡi. Tuy nhỏ nhưng có dáng dấp một chiếc tàu đánh cá hơn là chiếc ghe đi sông trước đây. Anh bảo tôi vì bụng của tàu vốn là một chiếc ghe nên chỉ có thể nối cao đến thế là cùng. Tôi được mấy người thợ đóng ghe đưa đi một vòng quanh sông. Ngồi trên sàn ghe nhìn nước sông Nhà Bè màu vàng đục, một cảm giác bất an chợt dâng lên trong lòng khi nghĩ đến ngày nào đó sẽ ra biển với chiếc ghe vỏn vẹn mười mét này. Anh dặn tôi đừng sợ, sẽ đi biển được. Anh bảo tôi xuống tàu sống với anh tài công và đóng vai thủy thủ. Tôi lại cười vì tôi không rành bơi lội và cũng chưa hề làm nghề buôn bán trên sông, trên biển bao giờ. Anh nghiêm giọng “Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra trên bờ thì chú mày cũng có thể đi thoát được.” Tôi biết anh sắp xếp như thế vì lo cho tôi nhưng một phần khác để tôi khỏi có cơ hội kéo đám bạn bè của tôi theo. Dù đồng ý hay không, tôi cũng không có chọn lựa nào khác. Tiền bạc và công sức đều là của anh. Anh xem tôi như một đứa em nhỏ. Mỗi chiều khi anh ở ngoài sông về, chúng tôi thường hẹn nhau trong một quán rượu. Anh em chúng tôi mướn chỗ để trò chuyện hơn là nhậu nhẹt vì cả hai đều không biết uống rượu. Hoàn cảnh của anh rất giống tôi. Anh cũng lớn lên từ Đà Nẵng chiến tranh và nghèo khó. Anh vào Sài Gòn học và học chung trường đại học với tôi, khác nhau ở chỗ, khi anh lên bậc cao học tôi còn là sinh viên năm thứ nhất.

Chuyến đi khá bất ngờ. Anh chỉ cho tôi đủ thời gian để về chào mẹ tôi. Anh không cho biết chính xác ngày giờ vì ngại tôi sẽ dắt theo bè bạn. Anh biết tính tôi. Tôi hứa hẹn với nhiều người. Một phần tôi chẳng tốn kém gì, phần khác vì tánh tôi hay chìu lòng bạn. Những đứa được tôi hứa dắt theo đều bị bỏ lại. Điều này đã gây ra nhiều giận hờn đáng tiếc giữa chúng tôi cho tới tận ngày nay. Ngày đi tôi đóng vai thủy thủ thật. Anh hẹn mọi người tại một con lạch nhỏ ngoài bìa làng Chu Hải. Tôi theo ghe đến Chu Hải và ngủ đêm lại trong con lạch để chờ khách vượt biên. Trời gần sáng nhưng không thấy ai đến cả. Chúng tôi thức dậy nhìn ra sông. Nước rút hết. Con lạch khô như một con đường làng hẹp. Chiếc ghe vượt biên của chúng tôi nằm chênh vênh bên bờ lạch. Chiếc bánh lái nhỏ như chiếc quạt để bàn đang phơi mình trên cạn. Nhìn bánh lái, tôi thầm tự hỏi, với món đồ chơi trẻ em này làm sao chẻ nổi sóng biển Đông. Mãi đến sáu giờ sáng, nước bắt đầu dâng lên và khách vượt biên không biết từ đâu cũng dần dần xuất hiện. Mọi người lo ngại nhìn chiếc ghe nhỏ nhoi trong lúc mặt trời sắp mọc. Công an và du kích có thể đến bất cứ lúc nào. Nhiều người lo sợ bỏ về. Anh tài công lẽ ra phải lái chiếc ghe cũng bỏ cuộc. Nhưng nhiều người khác, trong đó có tôi, quyết chí ra đi. Một người khách tự động nhận trách nhiệm lái chiếc tàu. Và như thế, chúng tôi đi. Chiếc ghe nhỏ trôi bồng bềnh trên biển Đông hai ngày hai đêm. Mệt mỏi nhiều hơn là đói khát. Cuối cùng sau bốn chục giờ và một lần máy chết, tưởng như sẽ chết, chúng tôi được một tàu hải quân Mỹ vớt.

Tôi nhận thư anh trong thời gian tạm trú ở đảo Palawan. Anh đang lo đóng một chiếc ghe khác, lớn hơn và chắc chắn hơn nhiều so với chiếc ghe bầu sửa lại mà tôi đã đi. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở đảo, nếu không kịp, hứa sẽ tìm nhau dù ở nơi nào. Trong lá thư cuối cùng, anh báo tin đang chuẩn bị ra đi. Anh ra đi thật nhưng không bao giờ đến. Bà con anh ở Đà Nẵng và khách vượt biên gần cả trăm người cùng đi với anh cũng không bao giờ đến. Anh đã chết như hàng trăm ngàn đồng bào khác đã chết trên biển Đông. Tôi mang ơn anh nhiều lắm. Không có sự giúp đỡ của anh, hôm nay có thể tôi còn lang thang một nơi nào đó ở Việt Nam. Tôi đặt tên đứa con gái út của tôi cùng tên với con gái duy nhất của anh để kỷ niệm cho tình anh em tuy ngắn ngủi nhưng đầy biến cố của chúng tôi.

Bao nhiêu người Việt đã chết trên biển khơi như anh. Theo ước lượng của nhiều cơ quan thiện nguyện quốc tế, khoảng nửa triệu người đã chết trong gió bão, trong đói khát, trong bàn tay hải tặc từ sau 1975. Thật ra, con số đó cũng chỉ là con số tượng trưng, cần đó để điền vào khoảng trống của một bảng thống kê. Tôi tin không ai biết và sẽ không bao giờ biết được bao nhiêu người Việt Nam đã chết trên biển Đông từ sau mùa bão lửa 1975.

Thỉnh thoảng chúng ta vẫn đọc những lời kêu gọi, những giải sáng tác văn thơ, tự truyện, khuyến khích đồng hương còn sống sót, viết lại, kể lại cuộc đời tỵ nạn, kinh nghiệm vượt biên như những bài học lưu truyền cho hậu thế. Vâng, đó là những cố gắng tốt nhưng ai sẽ là người cầm bút viết ra đây. Tôi và một số bà con khác đã kể lại vì chuyến đi của chúng tôi tuy hồi hộp nhưng không gây nhiều thiệt thòi, mất mát. Trong lúc những câu chuyện cần được nghe, những bài học cần được kể lại, sẽ không bao giờ được kể. Làm sao tả được cảnh những người phụ nữ Việt Nam nằm trần truồng trên sàn ghe như những con cá vừa được kéo lên, đang chờ mổ bụng, ướp đá? Làm sao tả được tâm trạng của người chồng bị trói chặt, nhìn người vợ mang thai bị hải tặp hiếp dâm trước mắt? Làm sao tả được tiếng kêu của em bé lên sáu, lên năm khi nhìn xác mẹ mình bị ném xuống biển sâu? Làm sao tả được cảnh người thoi thóp phải ăn thịt người vừa chết để kéo dài sự sống trên chiếc ghe chết máy lênh đênh nhiều tháng trời trên biển Đông? Không, những câu chuyện vượt biên bi thảm là những viên đá nghìn cân đè nặng lên số phận của đồng bào bất hạnh và sẽ muôn đời ở lại trong lòng biển.

Bên trong chiếc cửa kính dày của văn phòng làm việc, vào những ngày giông bão, những ngọn sóng lớn đánh vào bờ đá, tung bọt cao đến tận chân tường, gió thổi mạnh đến nỗi xé nát những tấm bảng quảng cáo cắm dọc bến tàu. Những lần như thế, tôi ngồi tưởng tượng đến những điều kỳ lạ có thể đang xảy ra trong vùng nước phía bên kia. Tôi cảm giác như có một xác chết đang trôi, một bàn tay vừa nhô lên mặt nước, một tia máu vừa phọt ra từ miệng cá. Tôi cố lắng tai nghe nhưng không nghe gì cả. Lớp kiếng cách âm dày đã ngăn giữa căn phòng ấm áp nơi tôi làm việc và giông bão phía bên kia như ngăn cách giữa hiện tại no đủ và quá khứ đầy thiếu thốn của tôi.

Nhưng nếu không có lớp kính dày kia liệu tôi có nghe được gì không? Vẫn có thể là không. Cuộc sống xứ người đã cuốn tôi đi xa, xa đến mức nhiều khi không còn biết mình là ai nữa. Tôi vẫn đọc mỗi ngày bao nhiêu tin buồn về đất nước, tôi đã thấy mỗi ngày bao nhiêu cảnh bất công đè nặng lên số phận đồng bào. Nhưng, ngoài trừ những bài thơ, bài văn viết khi nhàn rỗi, tôi vẫn dửng dưng nhìn bàn tay của những em bé Việt Nam năm sáu tuổi đang vẫy mời những khách mua dâm ở Campuchia, và tôi vẫn lạnh lùng nhìn giọt nước mắt của những cô gái Việt Nam đang chảy trên đường phố Đài Loan. Phải chăng con đập áo cơm đã ngăn đôi dòng sông lý tưởng thời tuổi trẻ của tôi? Phải chăng hàng rào danh lợi đã che khuất đi khả năng để biết lắng nghe tiếng kêu gào thống thiết của quê hương và cả tiếng gọi của chính trái tim mình? Có thể cả hai. Biển, vì thế, vẫn lặng yên, câm nín như nỗi đau của đồng bào tôi và đất nước tôi.

Trần Trung Đạo
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

CHUYỆN LẠ . . .

Nguyên Nhung

Trời đã sang hè, mới xế trưa mà nắng đã chói chang trên mảnh vườn sau, sân trước thuộc hướng Đông nên còn tý bóng mát. Khung cửa sổ rộng được che bằng cây hoa bông bụt trắng cao tới mái nhà, bên cạnh là một cây hoa vàng cũng trổ hoa rực rỡ để bà nội Tý anh, Tý em đôi khi tức cảnh sinh tình mà mần thơ ...con cóc.

Trưa chủ nhật nắng chưa gì đã vội vã hắt cái nóng cháy da lên miền "đất nóng tình sôi" này, báo hiệu một mùa hè khủng khiếp vì nóng. Cái nóng ở đây rất giống ở quê nhà, vừa nóng vừa ẩm nên khách từ phương xa đến sẽ tha hồ lau mồ hôi rin rít trên người, vừa chắc lưỡi khâm phục người địa phương sao giỏi chịu đựng cái lò lửa thiên nhiên suốt một mùa hè dằng dặc.

Bà nội Tý anh Tý em dạo này hay ốm vặt nên lười biếng chẳng ngó ngàng gì đến cây cỏ, bỏ mặc mấy cái cây phía sân trước tự vươn lên nhờ mưa nắng ơn Trời, thế mà chúng nó cũng lớn lên sơi sởi mà chẳng hề trách móc chủ nhân đã hững hờ với cỏ cây. Nắng ơi là nắng, đi chợ về vừa bước xuống xe chưa vội vào nhà, bà đứng núp dưới gốc cây hoa dâm bụt đang nở rộ những bông hoa trắng ngà, tàn lá xanh làm dịu hẳn đi cái nóng của mùa hè Texas. Hồi mới mua nhà, vì mê cái sắc hoa màu trắng hơi ngà ngà như màu áo lụa Hà Đông, nên bà đã tống khứ cây trúc đào ra khỏi cái mảnh sân tý xíu ấy. Những tưởng hoa bông bụt chỉ be bé xinh xinh cao bằng cái hàng rào bông bụt ở quê nhà mà thôi, ai ngờ đất lành cây tươi tốt, mưa ở Texas có thể gọi là mưa bốn mùa, mùa nào cũng mưa được, để bù trừ cho những cơn nóng nghiệt ngã gần trăm độ. Cây bông bụt lớn như thổi vươn cao lên tới mái nhà, lòa xòa phủ bóng che cho cái khung cửa sổ , mới đó mà đã 5 mùa bông trổ hoa. . .

Tý anh bây giờ đã đi học, dịp hè nó được nghỉ ở nhà ba tháng tha hồ chơi, thằng Tý em bụ bẫm ngày nào còn đứng trong cũi mơ màng nhìn cây hoa chanh, nay cũng lon ton đi theo bà nội ra đứng dưới bóng cây bông bụt. Bỗng bà nội tưởng mình lóa mắt vì cái nắng ban trưa, khi thấy trên cây hoa bụt màu trắng treo lơ lửng một bông hoa màu đỏ tươi roi rói. Mới đầu bà tưởng có đứa nhỏ hàng xóm nghịch ngợm treo vào đó bông hoa giả, nhưng dí mắt vào tận nơi bà mới phát hiện ra chuyện lạ. Thế là bà kêu ầm lên:

" Giời ơi! sao lại có chuyện lạ lùng như vậy"
Bà thét cháu gọi ông nội đang lúi húi mở cửa "garage":
" Tý, bảo ông nội lấy cái máy chụp hình ra đây. Giời ơi! Phép lạ chứ không phải chuyện đùa, không lẽ nhà mình sắp trúng số..."
Tý em lật đật ra níu ông nội lôi gần rách cả áo, khiến ông bực mình nhăn như cái bị:
" Ơ hay! Bà cháu mày làm gì như bị khủng bố vậy?"

Bà rên lên như trời xập:
" Ông ơi! Cái hoa màu đỏ ..."
" Màu đỏ thì đã sao?"

Bà lôi ông lại gần cây bông bụt cao nghệu, dí đầu ông vào sát cái hoa màu đỏ:

" Ông đeo kính vào nhìn cho kỹ đây nè. Cái hoa màu đỏ nở trên cây hoa bông bụt màu trắng. Thế, thế không phải là phép lạ thì là gì?"

Ông bĩu môi:

" Chuyện ấy là thường, bà đi học chữ trả Thầy nên quên ráo trọi . Môn Vạn Vật năm đệ nhị có bài học cha mẹ là chuột trắng, lấy nhau đẻ ra một đàn chuột 10 con, trong ấy lại lẫn vào 1 con chuột đen xì như cái mõm chó. Chẳng qua vì từ đời cha ông cụ kỵ nhà chúng nó, đã có ông chuột trắng đi tò tý với bà chuột đen nên sau này đến đời cháu chít, nhớ nguồn xưa mà sản xuất ra được một tý nhau màu đen đó mà..."

Bà giương cặp mắt toét ra nhìn ông:

" Hừ ! Ông nói cũng có lý, nhưng giá như tôi với ông ngày xưa là dân da vàng, bỗng nhiên thòi ra bố thằng Tý anh mà lại da trắng mắt xanh thì ông có chịu được không nhỉ?"

Rõ là ăn nói lăng nhăng, hai ông bà lại sắp cãi nhau đây.Tý anh chạy vào nhà đã lấy ra cái "digital camera" mới cáu của bố nó đưa cho ông nội:

"Ông nội chụp hình đi để Tý đem cho cô giáo và các bạn cùng xem nghe ông nội."

Ôi! Cái thời tin học này thì chỉ lát nữa đóa hoa bông bụt màu đỏ nhà bà nội Tý anh sẽ đi khắp toàn cầu, nhưng trước hết thì phải có cuộc tranh luận giữa "hai con khỉ già " cái đã. Ông nội bấm máy xoành xoạch, hết kiểu xa rồi lại kiểu gần, bụi hoa vươn lên cao hơn mái nhà nếu như mùa Đông năm vừa qua ông không cắt trụi đi những cành to và khỏe thì nó còn muốn vươn lên đến trời xanh.

Bà vẫn đứng vạch lá tìm hoa, nhất quyết tìm ra chân lý dù ông đã cắt nghĩa:

" Tôi vẫn thấy nó vô lý làm sao ấy ông ạ. Cả mấy tháng nay người mệt mỏi, tôi có thiết gì hoa với lá, có chăm sóc cho nó đâu mà bảo rằng đã tưới tắm một loại phân gì đó nên hoa mới đổi ra màu đỏ. Nếu cả cây đều màu trắng pha đỏ thì mình còn dễ hiểu đôi chút về cái sự pha giống mà người ta gọi là "Hai, hai" gì đó..."

Ông kiên nhẫn giảng giải:

" Khoa học họ gọi là sự pha trộn Gene của 2 giống hoa vào nhau, tên khoa học gọi là Hydrid, sự pha trộn này giống như ở nhà quê người ta tháp cây này vào cây kia, lấy cành mãng cầu mà tháp vào cây bình bát, cây sẽ khỏe và khi kết trái sẽ cho trái nhiều và lớn hơn ..."

Bà ngắt lời ông:

" Ăn trái cây kiểu lấy no thì thà đừng ăn cho xong, chẳng ngon lành gì vì vẫn còn hương bình bát khai ngấy chua lè. Nhưng tôi muốn nhắc ông quan sát kỹ cái cây hoa này rồi hãy nói chuyện khoa học khoa hiếc dông dài có được không? Đây nè! Cái cành này không phải cành lớn mọc từ dưới đất lên nghe, nó chỉ là một cành nhỏ từ thân cây mẹ, bao nhiêu hoa cùng một cành đều trắng, mà lại chen lẫn bông hoa màu đỏ này, thì ông cắt nghĩa cho tôi nghe xem có êm lỗ tai không nào?"

Ông quả tình bối rối, dễ thường có phép lạ thật, chẳng gì màu đỏ cũng là màu phục lâm, màu của hỷ tín thì chắc nhà ông sắp phát tài đến nơi, nhưng ông mấy khi tin vào những cái nhảm nhí ấy, nên cố lấy một ví dụ khác để mở mang cái đầu mê tín của bà nội Tý anh Tý em:

" Hà hà, thời buổi này khoa học đã chứng minh được nhiều điều mà các cụ xưa cho là chuyện lạ. Chuyện này nếu không do con người làm thì cũng là sự tự tạo bởi thiên nhiên, giống như bây giờ vì giá dầu xăng đắt đỏ, người ta chế chiếc xe có thể vừa dùng Gas, vừa dùng Eletricity, miễn sao xe chạy tốt là được, y như cây cỏ vậy thì sự lai tạo cũng chỉ với mục đích làm dồi dào thực phẩm, tạo thêm màu sắc tươi đẹp cho thiên nhiên ."

Bà gật gù nhưng vẫn không chịu thua:

" Tôi chỉ thắc mắc điều này là cái cây mình trồng đã cho hoa 5 mùa rồi, toàn hoa trắng ngà như áo lụa Hà Đông..."

Ông tủm tỉm cười ngắt ngang:

" Sư tử Hà Đông thì có..."

Bà lườm ông một cái thật dài, mắt đã mù mờ nhưng cái đuôi mắt còn dài lắm:

" Hừ, ông chỉ muốn lạc đề đánh lận con đen. Này, trên cùng một cành cây xuất phát từ thân cây mẹ, không thể nào lại có sự pha trộn lầm lẫn như cách tháp cây của các " home depot" thường làm. Cây nào cũng ghép dưới đất hai ba gốc, đến chừng đem về trồng chẳng đứa nào chịu đứa nào, cuối cùng ngỏm hết có đứa nào sống được đâu. Đằng này cây nở 5 mùa hoa, không pha trộn mà bỗng nhiên lại lòi ra một bông hoa đỏ nguyên si như thế này, không lai một ly ông cụ nào thì bảo sao tôi chẳng nghi ngờ..."

Ông đuối lý gật gù:

" May mà tôi già rồi chứ không thì bỏ mẹ với bà. Nhà mình đẻ ra toàn da vàng mũi tẹt, cái mặt không giống hẳn bố thì cũng phải giống mẹ, giống cụ nội cụ ngoại, chưa thấy đưá nào mắt xanh tóc vàng cả."

Bà cười lườm ông thêm một cái nữa, trông vẫn tình ra phết. Bà lại thêm một cái thí dụ nữa để bảo vệ lập trường của mình cho ăn chắc:

" Tôi lấy thí dụ như có một cặp vợ chồng da trắng, bỗng dưng bà vợ đẻ ra một đứa con đen xì, liệu rằng ông chồng có tin rằng đây là sự hôn phối của tổ tiên nhà bà ấy để cho ra đời một thằng bé màu cà phê không? "

Ông nhẫn nại tìm một hình ảnh cụ thể nữa để chứng minh cho hiện tượng trắng đỏ của hoa, và đen trắng của loài người:

" Bà có nhớ hồi xưa ở Việt Nam gia đình nhà anh Luân cũng ở trong trường hợp này không? Chị ấy đẻ ra một con bé xinh ơi là xinh, cái mặt hệt như bố nhưng nước da trắng bóc, tóc lại vàng óng từng lọn như búp bê. Ai cũng bảo con bé không lai Tây thì cũng lai Mỹ, nhưng thời buổi ấy không còn Tây mà cũng chẳng còn Mỹ, ăn toàn bo bo chứ có phải vì bơ sữa mà được mởn ra đâu. May là con bé giống bố chứ không thì chị ấy cũng khó ở nổi với mấy mụ giặc bên Ngô không bằng cô bên chồng. Sau này con bé lớn dần lên, tóc nó lại từ từ xậm hơn rồi đổi thành màu hung hung đen, lại trở về nguyên si cái gốc Á Đông của nó, thế là thế nào, có phải phép lạ không?"

Bà im lặng ngẫm nghĩ :

" Ừ, nhưng nghe nói chị ấy nhà có dòng họ lai từ thời mấy ông cố Tây đi truyền đạo, trong dòng họ đã có người lấy Tây rồi đẻ ra ông nội chị ấy, mà phải đợi đến cái đời con của chị hiếm hoi lắm mới ảnh hưởng cái giống tóc xanh mũi lõ nhà ông cố ông sơ ở bên Tây. Thế nhưng lai gì thì lai, nó vẫn giống cái mặt anh Luân, chứ đâu lại tuyền một màu đỏ như cái bông bụt này..."

Ông đã ghi xong mấy tấm hình cho bà giữ làm "kỹ nghệ", trời nóng đổ mồ hôi hột mà chỉ vì cái bông hoa bụt đỏ lạ kỳ khiến ông bà quên cả nóng. Ông bảo:

" Bà vào nấu cơm cho tôi với các cháu ăn đi, chả lẽ đứng đây phơi nắng mãi nhỉ?"

Chiều đến, cơm nước xong, bà bắt Tý anh Tý em mỗi đứa ăn một quả chuối to, chỉ cái quả chuối thôi mà trong nhà cũng đã khối chuyện để bàn bạc. Bà luôn luôn lo lắng hai thằng cháu nội mất gốc quên nguồn cội , còn ông thì cho là bà lẩm cẩm đầy tự ty mặc cảm, chỉ lo chuyện con bò trắng răng. Chuối nào chẳng là chuối, chuối xiêm, chuối tây, chuối tiêu, chuối ngự, chuối nào ông cháu cũng xực tuốt, nhưng với bà thì hương vị vẫn khác nhau, và ẩn dấu trong đó là cái cội nguồn của dân tộc. Dù sao thì cũng đất nước người ta, xứ sở người ta, đứng cách nào, cao hay thấp, giàu hay nghèo thì cái vỏ của nó vẫn không thể hòa nhập vào nhau để trở thành một. Đến lúc nào đó trong cuộc đời, các cháu bà lớn lên sẽ tưởng nó hoàn toàn thuộc về xứ sở này mà quên mất nguồn cội của nó, nhưng chắc chắn cuộc đời sẽ có lúc mở mắt cho nó nhìn ra điều khác biệt giữa những cái vỏ chuối. . .

Tối đến, ông nội ngồi xem tin tức trên truyền hình, Tý anh Tý em còn đùa giỡn với cha mẹ trong phòng riêng, bà nội lên ngồi lướt Net. Ôi! Thời buổi văn minh này mà không biết lướt Net thì đời vô cùng "boring" như trăng tàn trên hè phố, dù gì bà cũng có một số bạn phương xa cùng trang lứa để tâm sự vụn. Như cái hình bông hoa bụt đỏ này chắc chắn không thể nằm trong im lặng ở cái sân trước nhà bà được, chỉ nội tối nay nó sẽ bay đến bạn bè muôn phương. Trước tiên bà định hỏi cái ông anh chuyên trồng cây cảnh, nhưng nghĩ thế nào lại chợt nhớ ra cái Net Khoa Học, có sẵn bao nhiêu tài liệu quý hiếm thì thế nào chẳng được một câu trả lời hợp lý, chứ không lấp lửng như "con khỉ già" chỉ hay nửa thực nửa đùa chọc vợ suốt mấy chục năm rồi.

Tức nhiên buổi sáng hôm sau, bà nhận được rất nhiều " feedbacks" với những lời nửa đùa nửa thực rất giống ông nhà bà không sai một ly. Người thì bảo tại bà không chịu thêm đất, bón phân, tưới tắm đầy đủ nên có một bông hoa "đỏ mặt tía tai" lên mà nhắc khéo bà nên tử tế với cây cỏ một chút. Người thì văn chương đầu óc tưởng tượng lênh láng, kết hợp một câu chuyện tình ướt át , để hoa vì mặn tình mà bỗng đổi sang màu đỏ. Người thì cám cảnh thế thái nhân tình, tình đời đổi trắng thay đen nên nhân dịp này trách hoa cũng khéo theo thời mà đổi từ màu trắng sang màu đỏ. Người thì đổ thừa hoa bị nhiễm thể vì một hóa chất nào đó, nhưng theo lý luận của bà thì nếu cây bị nhiễm chất lạ, nó phải đổi màu nguyên cây chứ đâu lại có mỗi một bông hoa.

Còn bao nhiêu lời bàn Mao Tôn Cương rộn rã đem lại niềm vui cho bà suốt mấy ngày mà đề tài xem tầm thường nhưng rất lạ. Nào là màu đỏ là hỷ tín, đi mua vé số mau kẻo hết. Nào là đi Casino lấy hên, kéo máy tiền vô như nước. Nào là biết đâu sau hai thằng Tý anh và Tý em, nhà lại sắp thêm cái "hĩm" để có nếp có tẻ cho vui nhà vui cửa. Có lẽ bà cũng mong như thế thật, vì đời bà đẻ toàn con trai, đến đời cháu lại vẫn toàn đựa rựa, vì thế mà lúc nào Bà cũng được ưu tiên theo lối Mỹ khi người ta xếp thứ tự: " Thứ nhất đàn bà, thứ nhì trẻ con, thứ ba con chó Ki Ki, sau cùng mới đến cái người ... quanh năm đi cày đóng thuế".



Mùa hè, 2007

Nguyên Nhung
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »


Image

Cây Chùm ruột
Ngày nhỏ, tôi luôn đợi mùa hè để được về ngoại chơi, lúc thì ở một, hai tuần, thi thoảng lại được đến cả tháng.
So với cái xô bồ, nhộp nhịp của thành phố thì dường như làng Mạch Nước là một điều kỳ diệu.
Suốt những ngày thơ ấu đến khi trưởng thành, ngoài con đường nhựa thì làng tôi không thay đổi là mấy, cứ như cả làng hờ hững với sự phát triển ồ ạt của đô thị hóa
. Buổi sáng ở làng bắt đầu bằng tiếng rè rè của đài phát thanh đặt cách nhà ngoại tôi ba căn, đều đặn hơn hai mươi năm qua, vào lúc năm giờ rưỡi sáng và tối.
Trong làng có hai nhánh dòng tộc chính: họ Huỳnh và họ Phan.
Các nhà trong một họ ở cùng một khu đất, vì vậy cứ hễ ra đường là thể nào cũng gặp ít nhất một người có cùng máu mủ.
Anh em họ hàng ở gần nhau nên thường nhà này cách nhà nọ không bằng những hàng rào sắt kẽm gai mà chỉ bằng mấy cây hàng rào ra hoa trăng trắng hay rặng bồ ngót xanh um.

Nhà ngoại tôi thì rặng hàng rào lại có đuề huề một cây chùm ruột mọc chắn ngang, nhô cao lên như một cô bảo mẫu giữa một bầy trẻ lúc nhúc.
Hồi ấy, nghe ông ngoại bảo gọi là cây chùm ruột vì trái nó giống ruột của người, tôi nghe mà rùng mình mấy lần, chẳng lẽ cái ruột người ta lại xanh lè, óng ánh vàng dưới trời nắng như vậy, nhưng sau đó cũng dẹp bỏ ý nghĩ trong bụng mình có cái thứ xanh ngọc như thế.
Ngoài cây trâm mốc ở bên hông nhà và cây xoài trước ngõ chỉ ra trái vào đầu hè thì cây chùm ruột là thứ duy nhất sai quả.
Trái chùm ruột mọc thành chùm, trái chín hay sống đều chua, cắn vào là nhăn mặt lè lưỡi, nhưng mứt chùm ruột lại đặc biệt ngon đến kì lạ.
Ấy thế nên tôi rất thích cái giống chua này, mỗi lần về ngoại đều bắt dì Sáu làm, đến ngày về thành phố còn cầm theo một keo màu đỏ sẫm, sền sệt thứ mứt dòn ngọt về ăn dần.
- Ê, ai cho mày leo cây của ông nội tao?
Chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì tôi bị lắc mạnh, may mà leo trèo cũng khá nên bám vội lấy cái nhành cây để giữ thăng bằng.
Dưới gốc cây chùm ruột, bên kia hàng rào là một con nhỏ đen thui, tóc cột thành hai chùm, mặc đồ là một bộ nhưng ngộ là áo này quần kia,
Theo sau nó là một thằng nhỏ đang thút thít, nước mũi chảy xệ xuống tận môi, vận độc mỗi cái áo thun ba lỗ.
- Ai nói là cây của nhà mày?
Đây là cây ông ngoại tao trồng. - Tôi gân cổ lên cãi lại.
- Mày giỏi thì xuống đây.
Tôi cũng leo xuống. Xét về hình thể, chấp hai đứa như nó, tôi cũng thắng chắc, xét về lý thì cây này ông ngoại trồng, tôi ăn đã mấy cái mùa hè rồi mà có nghe ai bảo gì đâu
. Không đợi tôi leo đến được xuống đất, con nhỏ đó lấy tay tét vào mông tôi một cái rõ đau.
Đồ đánh lén, đồ hèn hạ. Tôi vật nó ra đất, con nhỏ té lăn quay, tôi tưởng nó khóc, ai dè nó chỉ cắn môi, ra chiều đau lắm, cố vùng vẫy đạp tôi ra.
Tôi chỉ nghe độc mỗi tiếng khóc phát ra từ thằng nhóc kia - chắc là em nó
. Dì Sáu ở sau hè kiếm cái thúng đựng chùm ruột nãy giờ, nghe tiếng khóc vội chạy lên, thấy tôi với con nhỏ đó mặt mày lấm lem, vật nhau xước cả tay chân, dì lại can ra.
Tôi cũng hơi đau, nhưng vì tính sĩ diện, không khóc. Mãi đến khi dì bảo, sao con gái lại đi đánh nhau thế này thì tôi mới òa khóc, tại nó dám bảo cây chùm ruột của nhà nó chứ bộ.
Chiều hôm đó, đích thân ông ngoại dắt tôi qua nhà bên xin lỗi, nhà ông cố Út.
Giờ tôi mới biết, nó là con ông bà Sáu, hồi nhỏ sống ở chòi, giờ ra sống với ông bà cố. Xét theo vai vế, tôi phải gọi nó bằng dì, còn thằng nhóc kia là cậu.
Hai bữa sau nữa, tôi biết nó tên Mén, thằng kia tên Tửng. Rồi tụi tôi chơi với nhau, hè này sang hè khác.
Năm lớp bảy, tôi nghe tin ba con Mén, tức là ông Sáu tự tử ở cái tuổi ba mươi tư.
Nghe đâu ông Sáu góp vốn làm ăn với người ta nhưng lại bị lừa, tiền mất hết, ông lao vào rượu chè.
Rồi một ngày, ông không say xỉn, thắp ông bà ba nén nhang, vào buồng khóa trái cửa.
Con Mén và thằng Tửng mồ côi cha ...
Tôi và mẹ đi đám tang. Hai đứa nhỏ thay nhau quỳ trả lễ bên quan tài cha nó, còn bà Sáu thì cứ ngất lên ngất xuống, lúc tỉnh thì mắt đỏ hoe.
Hè đó, nó với thằng Tửng theo mẹ về quê ngoại ở.
Cứ ngỡ đời nó tới đó là đỡ khổ, không ngờ nửa năm sau, mẹ nó gặp cơn bạo bệnh, cộng thêm sức khỏe vốn dĩ không được tốt, lại phần cũng vì quá đau buồn, cũng theo cha nó mà đi.
Đêm tôi hay tin, trời mưa to như trút nước...
Con Mén và thằng Tửng mồ côi cả cha lẫn mẹ...
Ngày giỗ đầu của ông Sáu, tôi gặp con Mén ở sau bếp, nó nhìn tôi không nói gì rồi lủi vào trong buồn soạn trái cây tặng khách khi về.
Tôi nhìn nó mà cũng buồn buồn.
Trưa đó, đang ngồi hóng mát ở hành lang thì tôi thấy nó chui qua, băng ngang cây chùm ruột. Con Mực thấy nó, chạy lại vẫy đuôi và liếm liếm cái gót chân chai sạn.
Buổi trưa người lớn nghỉ ngơi cũng là lúc đám con nít tụi tôi được tự do thoải mái.
Tôi, con Mén, thằng Tửng từng cùng nhau leo cây, chơi cút bắt, đi vòng hết khắp làng lùng trái chùm rụm. Trưa nay, chỉ có nó và tôi, không buồn tìm dép để đi chơi nữa.
- Ông nội kêu tao đem trái cây qua cho mẹ mày nè.
- Ừ, tôi ngập ngừng đôi chút.
- Mốt mày không gặp tao nữa đâu.
- Là sao?
- Bà dì của tao xin tao về nuôi, tao phải đi với bả, xa lắm...
Tôi lúc này, nửa muốn ôm nó khóc, nửa muốn xoa đầu nó, nhưng rốt cuộc chỉ thấy hai cái tay cầm chặt bịch trái cây, chỉ bừng tỉnh khi con Mén cười buồn, thôi tao về...
Những mùa hè sau tôi không gặp nó thật, mẹ tôi bảo nó về sống ở Bến Tre, đi canh chòi nuôi tôm, mùa nước lên thì xuôi thuyền đi mót lúa ở tận đâu Tháp Mười.
Tháng ba, tôi về thăm làng Mạch Nước trước khi sang Anh du học.
Về thăm ông bà cố Út, vẫn ông cố đu đưa trên cái võng vải, thắp nén hương cho ông bà Sáu.
Ông cố nói, Tết này con Mén mới về thăm mả ba mẹ nó. Nó có chồng rồi, một đứa con bảy tháng tuổi, giờ sống ở Vĩnh Long.
Thằng Tửng thì nghỉ học từ năm lớp 10, đang đi dân quân.
Chiều ngả vàng hắt xuống thềm gạch Tàu, vàng luôn cả mấy trái chùm ruột non.
Gió thổi, cái cây nghiêng nghiêng khẽ rùng mình một cái. Chiều, vang vọng tiếng hát vọng ra từ trong nhà hàng xóm ...

Mai Phạm
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

EM TÔI


Lời tác giả:
Các bậc cha mẹ trẻ thường ít khi để ý đến tâm lý của những đứa con thơ. Xin hãy đọc bài này để hiểu được tâm trạng của một chú bé bốn tuổi khi mẹ sanh em bé.
Sinh nhật năm lên bốn tuổi, tôi được cha mẹ làm quà cho một đoàn tàu xe lửa thật đẹp có tới sáu toa, và đường rầy dài tới nỗi có thể chạy vòng quanh căn phòng nhỏ. Khỏi phải tả tôi đã sung sướng đến thế nào, tôi được phép rủ mấy đứa bạn hàng xóm sang để cùng chơi chung, chúng tôi nô đùa từ trưa cho tới hết buổi chiều. Khi chúng nó sắp sửa ra về, tôi có vẻ tiếc rẻ vì thời gian qua sao mà nhanh quá, tôi nói với mẹ:

- Con muốn giữ các bạn ở lại thêm một lúc nữa, được không mẹ?

Nhưng mẹ lắc đầu:

- Chúng nó phải về ăn cơm con ạ. Trời sắp tối rồi, các trẻ con đều nên ở trong nhà.

Thấy tôi tiu nghỉu, mẹ ôm tôi vào lòng, bà vuốt tóc tôi mỉm cười dịu dàng:

- Mẹ biết con cần có bạn, thế cu Tí muốn có em để chơi chung không nào?

Tôi tưởng mẹ nói đùa, nhưng không phải, trông mẹ nghiêm trang không có vẻ đùa tí nào, bố cũng nói:

- Cu Tí sắp có em rồi đấy! có thích không con?

Ồ thì ra là chuyện có thật, nhưng là một chuyện rất bất ngờ tôi chưa bao giờ tưởng tới. Từ trước tới nay, trong gia đình tôi, chỉ có mình tôi là trẻ con, trong khi các bạn của tôi, đứa nào cũng có anh, chị hoặc em để chơi chung, riêng tôi chỉ thui thủi một mình. Chơi với mẹ thật chán vì mẹ không biết chơi trò trẻ con, tôi rất thèm được qua bên hàng xóm để cho có bạn, nhưng việc đó không phải dễ dàng và muốn đi lúc nào cũng được. Tôi chỉ được phép chơi trong những giờ giấc có giới hạn, nhiều lần tôi bị gọi về trong khi cuộc vui còn đang nửa chừng. Nay có em tức là có người chơi chung ngay ở trong nhà, thú vị biết mấy, phen này thằng Tom hết mà làm bộ, nó tưởng chỉ mình nó mới có em chắc? Tôi hỏi mẹ:

- Con thích lắm! Nhưng em đang ở đâu? bao giờ thì em mới tới?

- Vào Christmas năm nay con ạ.

A tôi hiểu rồi, vào dịp Christmast, Santa Claus hay cho quà, chắc mẹ xin Santa Claus chứ gì? cũng như tôi xin Santa Claus đồ chơi, thì mẹ xin em bé. Hàng năm cứ vào dịp sau mùa tạ ơn, gần đến Giáng sinh là tôi lại nói với mẹ những điều mơ ước của tôi, để nhờ bà viết thơ gởi cho Santa Claus. Mẹ viết xong, tự tay tôi cầm mảnh giấy bỏ vào trong chiếc vớ treo trước lò sưởi và tôi hồi hộp đợi chờ… Sau đêm Giáng sinh, thể nào tôi cũng có được món quà mình mơ ước. Chắc mẹ cũng làm vậy, trong thâm tâm tôi nghĩ rằng Santa Claus sẽ đem em đến trong một cái giỏ đặt ngay trước lò sưởi, tôi hỏi mẹ có phải thế không? Nhưng mẹ bảo không phải, mẹ trỏ vào cái bụng hơi căng căng như bụng tôi mỗi khi ăn no và bảo:

- Thật ra thì em đã tới rồi, nhưng em còn đang ở trong bụng mẹ đây này!

Tôi ngơ ngác trước một việc lạ lùng, bằng cách nào em đến trong bụng mẹ thì tôi không thể hiểu được, tôi nhìn mẹ tò mò hỏi:

- Em từ đâu tới? Con muốn biết ai đã cho mẹ em bé?

Mẹ ngẫm nghĩ một lúc rồi mới trả lời:

- Trẻ con là một món quà của Thượng Đế ban cho những cặp vợ chồng trẻ để làm đông vui gia đình.

A phải rồi,Thượng Đế tức là ông Trời, một nhân vật bí hiểm, thích làm những chuyện rắc rối không ai hiểu được, chẳng thế sao người ta thường hay nói “ có trời mới giải thích được ”. Tôi sờ bụng mẹ và hỏi:

- Em đâu? sao con không thấy gì cả?

- Bây giờ thì em còn nhỏ xíu, em được nuôi trong bụng mẹ, bao giờ đủ ngày đủ tháng thì mẹ sẽ sanh em ra.

- Mẹ ! em bé được sanh ra như thế nào?

- Khi em lớn dần thì bụng mẹ cũng lớn theo, khi bụng mẹ căng hết cỡ, em sẽ chui ra.

- Như người ta tách một quả hạt dẻ à? Tôi tò mò hỏi.

Mẹ ậm ừ rồi cười:

- Cũng gần giống như vậy.

Thế là tôi yên chí chờ đợi và nghĩ sẵn những trò chơi để cùng em nô rỡn.

Trong nỗi háo hức mong đợi của tôi, bụng mẹ cứ lớn dần và bây giờ thì nó to căng như một quả bóng, tôi có thể sờ thấy em đang cử động ở trong đó.

- Đó là một chú bé trai! Mẹ nói.

Tôi càng phấn khởi, có em trai thích hơn em gái, nó sẽ chơi trò trèo cây, đánh đu, cao bồi bắn súng với tôi, vui biết mấy. Tôi ghét bọn con gái chỉ thích chơi búp bê và nhảy dây là những thứ tôi không ưa chút nào, như vậy có em trai hẳn là sung sướng lắm. Nhưng mọi việc không tốt đẹp như tôi vẫn tưởng, bởi vì em chưa ra đời thì đã xảy chuyện rồi, và chuyện này làm giảm đi khá nhiều cảm tình của tôi đối với em.

Chuyện như thế này, một ngày chủ nhật, cha tôi tỏ ra chiều chuộng tôi hơn thường lệ, ông mua cho tôi một món quà mà tôi vẫn ao ước từ lâu, đó là một cái xe đạp ba bánh có hai chỗ ngồi, tôi có thể chở bạn đi chơi, anh em thằng Tom chắc là thèm nhỏ rãi. Chưa hết, ông còn dắt tôi đi coi movie phim hoạt hoạ “ The Beauty and the Beast ” và ăn ice cream. Mặc dù trong lòng đang sung sướng hết sức, nhưng tôi vẫn có một chút nghi ngại, bởi vì mỗi khi cha tôi chiều tôi một cách quá đáng như vậy, ắt là phải có nguyên do, cha thường có thói quen thưởng trước cho một thái độ ngoan ngoãn vâng lời mà ông muốn tôi phải thi hành. Tôi hồi hộp chờ đợi, quả vậy, sau bữa cơm chiều, cha tôi đột ngột tuyên bố:

- Cu Tí! con lớn rồi, không được bám mẹ suốt ngày, suốt đêm nữa. Bắt đầu từ hôm nay, con sẽ phải ngủ riêng phòng.

Tôi giật mình và hoảng sợ, mặc dù vẫn biết trước là sẽ có chuyện quan trọng, nhưng quả thật việc này tôi chưa bao giờ ngờ tới, tôi còn đang ngỡ ngàng thì cha giải thích:

- Con không thấy là bụng mẹ đã lớn rồi sao? mẹ cần chỗ nằm cho rộng rãi, cái giường này quá chật cho ba người.

Thường ngày, tôi vẫn ngủ chung với bố mẹ, tôi nằm giữa, bố nằm một bên, mẹ nằm một bên. Tôi có cảm giác yên ổn vô cùng mỗi khi thức dậy thấy có mẹ ở bên cạnh, tôi rúc vào nách mẹ và bà âu yếm vuốt ve, dỗ dành cho tôi ngủ lại, tôi thích hơi ấm từ người bà truyền sang và tôi thèm hít ngửi mùi da thịt thơm tho toát ra từ người mẹ. Tôi yêu mẹ hơn yêu cha vì mẹ gần gũi tôi hơn. Cha đi làm suốt ngày, lúc về, ông đọc sách, xem TV và nói chuyện với mẹ, ông ít có thì giờ dành riêng cho tôi. Cha cũng không có tính kiên nhẫn như mẹ, mỗi khi tôi khóc dai dẳng thường làm ông khó chịu, thay vì dỗ dành, ông la hét hoặc bảo mẹ đem tôi đi chỗ khác. Tuy nhiên, những lúc vui vẻ, ông vẫn nô đùa với tôi và thường mua cho tôi nhiều kẹo bánh và đồ chơi, vì thế tuy không yêu ông bằng yêu mẹ, nhưng để cho ông nằm chung cũng không hại gì. Nhưng bây giờ, ông đòi độc quyền chiếm mẹ thì quá lắm, không đời nào tôi chịu nhượng bộ, tôi hỏi:

- Nếu cần rộng chỗ, sao bố không move qua phòng khác? Con muốn nằm với mẹ.

- Không được ! Cu Tí ngủ mơ hay đạp vào bụng mẹ, nguy hiểm. Cu Tí không tội nghiệp mẹ sao ? mẹ mang cái bụng bầu nặng lắm, mẹ cần bố để săn sóc cho mẹ.

Tôi nghĩ bố chỉ bịa chuyện ra thôi, bởi vì đó không phải là sự thật. Sự thật

thì tôi thấy mẹ săn sóc cho bố nhiều hơn là bố săn sóc mẹ, mẹ dọn dẹp nhà cửa, nấu những món ăn bố thích, xếp đặt cho có thứ tự những bừa bộn trong phòng giải trí của bố. Mẹ lo cho bố từ miếng ăn thức uống cho tới quần áo, vật dụng cá nhân, giầy dép của bố. Mẹ làm việc suốt ngày nhưng chẳng bao giờ than mệt, còn bố chỉ việc tới sở, sáng ra khỏi cửa, chiều về đến nhà là mọi việc đã sẵn sàng đâu ra đó, sạch sẽ, ngăn nắp. Mẹ nói với tôi:

- Bố phải làm việc vất vả lắm con ạ, mẹ muốn khi về đến nhà, bố được thong thả, chỉ việc nghỉ ngơi.

Mẹ lúc nào cũng bênh vực và nói tốt cho bố, mẹ chiều theo tất cả mọi ý muốn của bố, rõ ràng là không có một áp lực nào cả, bởi vì chưa bao giờ tôi thấy bố sai bảo hoặc lớn tiếng với mẹ, mẹ làm như vậy hoàn toàn là vì do lòng yêu bố. Tôi thật không hiểu vì sao mẹ lại tìm thấy thích thú ở một người như bố? Dưới mắt tôi, trông bố thật là xấu xí, bố to lớn, cao hơn mẹ cả một cái đầu, người bố xương xẩu, tiếng nói ồm ồm và râu ria thì lởm chởm. Tôi không chịu nổi cảm giác ngứa ngáy mỗi khi được bố hôn, tôi thường phải quay mặt đi để tránh bộ râu cứng như bàn chải của bố, thế mà mẹ lại tỏ ra vô cùng sung sướng và thích thú. Còn bố cũng chiều chuộng mẹ qua những cử chỉ âu yếm và ánh mắt bố nhìn mẹ. Nhưng bố ít có thì giờ săn sóc mẹ, bố chỉ săn sóc mẹ mỗi khi mẹ bị mệt hay đau ốm mà thôi.

Lần này thì mẹ chẳng đau ốm tí nào, mẹ ốm thì tôi phải biết chứ. Nhưng mệt thì có lẽ mẹ mệt thật, mang một khối to như thế ở trước bụng ngày cũng như đêm, mẹ mệt là phải rồi. Bây giờ một mình mẹ cũng chiếm hơn nửa cái giường, ngủ chung ba người quả là hơi chật. Tôi nói:

- Bố bự hơn con, nếu bố ra chỗ khác, giường sẽ trống nhiều chỗ hơn, có đúng không?

- A! thằng nhóc này đã biết cãi lý rồi đó!

Bố nheo mắt nhìn tôi, môi nhếch một nụ cười. Cái cười sao mà đáng ghét, có lẽ chỉ để che dấu bối rối, bởi vì rõ ràng là ông đuối lý rồi. Quả vậy ông có vẻ lúng túng, đưa mắt nhìn mẹ để cầu cứu, bố vẫn thường hay làm thế mỗi khi có vấn đề khó khăn cần phải giải quyết :

- Em hãy cắt nghĩa cho nó hiểu .

Mẹ gật đầu mỉm cười và quay sang tôi :

- Cu Tí nghe lời bố đi, chóng ngoan! Con là big boy chứ đâu phải baby nữa. Kìa đừng khóc nhè như thế chứ?

Tôi oà khóc to hơn, ôm chặt lấy mẹ:

- Con không chịu đâu, con nhớ mẹ…

- Mẹ vẫn ở bên con chứ có đi đâu mà nhớ? Bà vuốt tóc tôi cười rất dịu dàng. Nào con xem nhé, từ phòng con đến phòng bố mẹ đâu có bao xa? chỉ vài bước thôi, ban đêm khi nào cần đến mẹ, con gọi mẹ sẽ sang ngay.

Mẹ nắm tay tôi dắt qua phòng bên, căn phòng nhỏ này mới được tân trang lại, trông có vẻ xinh xắn với rèm cửa màu xanh, bàn ghế và khăn phủ giường cũng màu xanh. Trên giường, con gấu nhồi bông của tôi đã nằm ngoan ngoãn từ lúc nào, dưới gấm giường chất đầy tất cả những đồ chơi của tôi. Thì ra hai người đã sửa soạn cho kế hoạch này từ lâu rồi, tôi nhớ từ mấy tháng trước, họ đã đề cập đến việc này, chỉ bây giờ mới thực hiện. Bố mẹ dã đồng lòng với nhau, chống lại cả một âm mưu đâu phải chuyện dễ? thế là dù muốn, dù không tôi vẫn phải chấp nhận.

Đêm đầu tiên vì lạ chỗ nên khó ngủ, tôi gọi mẹ mấy lần, lần nào bà cũng sang ngay và nằm với tôi một lúc chờ cho tôi ngủ lại mới trở về phòng bà.

Về sau, tôi quen lệ cứ gọi hoài, mẹ biết là tôi chỉ nhõng nhẽo nên thỉnh thoảng mới sang quan sát, thấy không có chuyện gì thì quay ra liền. Mẹ thưa dần rồi ngưng luôn sự qua lại lúc ban đêm. Không sao cả, tôi tự nhủ, nếu mẹ không sang với tôi thì mỗi khi nhớ mẹ, tôi sẽ qua bên phòng bà. Nghĩ thế là tôi thi hành liền, một buổi sáng, tôi thức dậy sớm hơn thường lệ, trời mới tờ mờ sáng và rất lạnh, tự dưng tôi cảm thấy cô đơn lạ lùng, tôi thèm cái ấm áp được nằm trong lòng mẹ. Tôi chỉ muốn cha tôi đi khỏi để tôi đuợc qua với mẹ, nhưng những tiếng ngáy của ông chứng tỏ ông còn đang ngủ say. Sau cùng, không thể chờ đợi lâu hơn nữa, tôi lẻn sang phòng ngủ của hai người. Mẹ nằm phía ngoài, còn bố nằm nghiêng, xây mặt vào tường, để lộ một khoảng trống ở giữa, tôi trèo qua người mẹ để len ngay vào đó. Mẹ giật mình thức giấc, thấy tôi thì hỏi nhỏ:

- Cu Tí đó hả? Sao lại vào đây?

- Con không ngủ được, con muốn sang nói chuyện với mẹ.

- Nói chuyện vào giờ này à? không được đâu! Mẹ thì thầm thật nhỏ, bố còn đang ngủ, đừng làm bố thức dậy.

Tự dưng tôi nổi nóng, bao nhiêu uất ức chất chứa trong lòng từ mấy tháng nay bùng lên, tôi tức giận hét lớn :

- Con muốn bố thức dậy và ra khỏi nhà ngay ! bố dã ngủ với mẹ cả đêm rồi.

Mẹ sợ hãi vội bịt miệng tôi lại, xong không kịp, cha tôi đã trở mình xoay qua phía mẹ, hỏi giọng ngái ngủ:

- Cái gì thế?

- Không có gì cả. Mẹ dịu dàng trả lời và quay sang tôi, con làm bố thức giấc rồi thấy chưa? bây giờ con phải về phòng con ngay!

- Không! nhất định không!

Tôi gào lên khi bị mẹ kéo xuống giường, cha nhăn mặt:

- Cái thằng hư quá, có im ngay không?

Mẹ lôi tôi ra cửa, tôi trì lại và lăn ra đất dãy lên đành đạch, cuối cùng mẹ đành chịu thua. Nhưng cha đã nhỏm dậy và chỉ với một tay, ông xách bổng tôi lên đem qua bỏ vào phòng của tôi, khóa trái cửa lại mặc cho tôi gào thét. Tôi bị nhốt trong đó lâu lắm, cho tới khi nghe tiếng garage mở và tiếng xe rồ máy, tôi biết là ông đã đi khỏi nhà. Lúc đó mẹ mới mở cửa bước vào, bà bế tôi lên, lau mặt cho tôi và dịu dàng nói:

- Cu Tí hôm nay không ngoan chút nào, con có biết rằng con đã làm cho bố giận rồi không?

- Mặc kệ, con không cần, con ghét ông ấy!

- Đừng nói thế nữa, mẹ sẽ đánh đòn con đấy. Con có biết rằng bố yêu thương mẹ con mình đến mức nào không? Bố phải đi làm cực khổ để kiếm tiền nuôi cả gia đình…

- Con chỉ cần mẹ, con không cần tiền, tiền để làm gì?

- Ai cũng cần tiền để sống, không có tiền khổ lắm con ạ. Mẹ nhẫn nại cắt nghĩa, nào con xem nhé, không có tiền thì không thể mua đồ ăn, không có nhà để ở, chúng ta sẽ phải đói khát đi lang thang ngoài đường như những kẻ ăn mày. Con không muốn việc này xảy ra chứ?

- Không, con không muốn.

- Nếu vậy thì con phải hứa với mẹ từ nay sẽ không làm bố giận, không được sang quấy phá lúc bố đang ngủ, bố cần sức khỏe để đi làm. Con hứa không?

- Được rồi, con hứa!

Tôi hứa mà lòng không vui, việc cố gắng giữ lời hứa làm tôi khổ sở ghê lắm. Tuy công nhận cha là người có ích cho gia đình, xong tôi vẫn không thể quên chính ông là người đã gây ra rắc rối. Nhưng nghĩ cho cùng, tôi biết nguyên do chính không phải tại ông, mà là tại việc mẹ mang thai em bé, mọi phiền phức đều do đứa bé ở trong bụng mẹ. Nhiều lúc tôi nghĩ giá đừng có em thì tốt hơn, tôi hỏi mẹ:

- Người ta có thể từ chối một món quà mà mình không muốn không?

- Có chứ!

- Nếu thế thì mẹ từ chối món quà của Thuợng Đế đi?

- Cái gì? Mẹ trợn mắt kinh ngạc, con muốn nói em bé à?

- Phải, con không muốn em nữa, mẹ trả lại nó cho Thượng Đế đi!

Mẹ thở ra, ngẫm nghĩ một lúc rất lâu rồi mới nhỏ nhẹ nói:

- Không được đâu con ạ. Lẽ ra con không nên nói thế, em đã đến nhà mình rồi, sao lại xua đuổi nó? Con cũng là một món quà của Thượng Đế ban cho bố mẹ, nếu bố mẹ từ chối không đón nhận con thì con sẽ nghĩ thế nào? đó có phải là một việc nên làm không?

- Tất nhiên là không rồi.

- Nếu thế thì với em con cũng vậy, từ chối nó là một việc không nên.

Tôi thì nghĩ rằng đó là một việc không thể, bởi vì mọi việc đã lỡ rồi, như một trái cây mới đầu còn nhỏ, còn xanh, sau một thời gian không thể bắt nó đừng lớn dần, đừng chín… Nhưng tôi mong cái ngày em ra đời tới càng chậm càng tốt. Mấy lúc sau này mẹ mệt nhọc nên không đưa tôi đi dạo và tính tình thì nóng nảy, hơi một tí là cau có, gắt gỏng.

Một buổi chiều, mẹ đau bụng, cha gởi tôi cho bà ngoại rồi chở mẹ đi bệnh viện. Sáng hôm sau, tôi được đi thăm em. Nhìn thân hình nhỏ xíu của nó được quấn chặt trong tấm chăn màu vàng trông như cái chả giò, tôi hơi thất vọng, xem cái điệu này, còn lâu nó mới có thể cùng tôi chơi đùa. Cha dặt tên cho nó là cu Bi.

Cu Bi vừa về đến nhà là làm náo động ngay, nó khóc nhiều quá, chẳng ai biết nó muốn gì cả, có lẽ nó chỉ muốn mọi người chú ý đến nó mà thôi. Nó cũng chẳng thèm để ý đến giờ giấc, ban ngày có khi nó ngủ li bì, đêm dến mới lên tiếng khóc xa xả. Cả nhà hốc hác vì nó, nhất là mẹ, không đêm nào mẹ được ngủ yên giấc. Tôi không hiểu vì sao nó không chịu ngủ vào những giờ giấc thích hợp? Tôi nghĩ muốn cho nó không thức lúc ban đêm thì ban ngày không được ngủ nhiều quá, vì thế nên tôi hay lén mẹ đánh thức nó dậy. Nhiều khi nó ngủ say quá, lay mãi không được, tôi phải cấu, nó mới giật mình thức giấc và khóc thét lên. Có lần mẹ tôi rình bắt được quả tang, bà phát vào mông tôi một cái thật mạnh. Tôi tủi thân ra ngoài vườn, ngồi khóc một mình, chợt tôi trông thấy con Tino đi ngang, nó cũng đang lang thang ngoài vuờn và trông có vẻ buồn rầu. Tino là con chó Nhật lông xù cha mua tặng mẹ từ ngày chưa có tôi, mẹ rất quí và chăm sóc nó như chăm sóc một đứa con. Từ ngày cu Bi ra đời, mẹ bận rộn chẳng có thì giờ ngó ngàng đến nó, nó cũng bị thất sủng, bị bỏ rơi như tôi vậy. Tôi vẫy nó lại gần:

- Lại đây Tino! chúng mình tâm sự với nhau. Tao biết mày cũng đang buồn, phải không?

Tino thè lưỡi liếm vào mặt tôi, tôi ôm nó vào lòng:

- Tất cả chỉ tại cái thằng ranh con đó, chúng mình đều là nạn nhân của nó Tino nhỉ?

Tino sủa lên một tiếng ra vẻ đồng ý, tôi gật gù:

- Thế mà trước đây tao cứ tưởng có em là thích, ai dè nó chẳng được tích sự gì cả, chỉ biết ngoác mồm ra khóc. Mẹ hình như quên là còn có tao… Buồn quá Tino ơi! Tao đã quyết định rồi, từ nay bất cứ một đứa bé nào còn tới đây nữa, chắc chắn tao sẽ đi khỏi nhà này.

Tino “ ầu ” lên một tiếng, nó bỗng ngoắc đuôi ra vẻ mừng rỡ. Tôi quay lại và giật mình, cha tôi đang đứng sau lưng tôi từ lúc nào, ông nhìn tôi chăm chú:

- Con vừa nói gì thế, cu Tí?

Tôi chột dạ và hơi sợ, nhưng vẫn cương quyết lập lại câu nói vừa rồi:

- Con nói lần sau nếu mẹ còn đẻ em bé nữa thì con sẽ đi khỏi nhà này.

Thốt xong câu nói liều lĩnh, tôi cúi mặt, ngồi im chờ đợi một cái tát, hoặc ghê gớm hơn nữa, một cơn thịnh nộ, và tôi sẽ bị quì gối, úp mặt vào tường cả tiếng đồng hồ, như mọi lần ông vẫn phạt mỗi khi tôi phạm phải một lỗi lớn. Nhưng không, lần này thì không có gì cả, không cả một lời quát mắng, cha chỉ có vẻ ngạc nhiên, ông nhìn tôi nghĩ ngợi một lúc rồi mới nhẹ nhàng bảo:

- Vào nhà đi con! Đừng ngồi ngoài này nữa, nắng rồi.

Ông kéo tôi đứng dậy, nắm tay dắt vô nhà. Tôi lủi thủi đi theo cha, mặt mày ngơ ngác, buồn thiu. Cha vuốt tóc tôi mỉm cười, nhưng rõ ràng tôi nghe có tiếng ông thở dài. Hôm sau đi làm về, ông dắt tôi ra công viên chơi và mua cho tôi mấy cái kẹo que và một cây súng bắn nước. Từ hôm đó, cha có vẻ chú ý chăm lo cho tôi nhiều hơn trước, như để bù lại những thiệt thòi tôi đã phải chịu do sự lơ là của mẹ.

Dạo này tôi đã bớt ghen với cha, vì tôi biết ông cũng chẳng sung sướng gì. Có nhiều đêm không ngủ được vì cu Bi, sáng ra trông ông phờ phạc thấy tội nghiệp, ông không có cả một phòng riêng như tôi, và mẹ cũng không săn sóc ông như xưa. Buổi sáng, ông lặng lẽ tự mình pha lấy cà phê và chiên cho tôi một quả trứng, hai cha con ngồi ăn sáng với nhau, ông nhai nuốt vội vàng mấy lát bánh mì rồi vội vã đi làm. Không biết cha có buồn không? vì mẹ không tiễn ông ra cửa, không chìa má cho ông hôn như trước kia. Mẹ đang ở trong phòng với cu Bi, bây giờ tất cả thì giờ của mẹ đều dành cho cu Bi… Mẹ là người vất vả vì nó nhiều nhất mà chẳng bao giờ thấy bà than phiền, mẹ hầu như quên hết mọi người chung quanh, để chỉ chú ý đến một mình cu Bi. Mẹ thật quá dại dột, không nhìn thấy cái xấu của người khác, bố là một ví dụ, ông có đẹp đẽ gì cho cam? bây giờ thì cu Bi… Không hiểu mẹ tìm thấy ở nó điểm gì hay ho tới nỗi phải tôn nó lên hàng đầu? Mẹ bắt mọi người không được nói lớn tiếng, phải đi lại rón rén trong lúc nó ngủ. Có khi đang ăn cơm, nghe tiếng nó khóc, mẹ lật đật buông bát đũa, chạy ngay vào, cứ làm như chậm một tị là sợ nó giận không bằng. Chả bù cho tôi, có khi tôi khóc dai dẳng cả nửa giờ, mẹ cũng chẳng thèm dỗ, có khi còn phát vào mông tôi và mắng tôi là một đứa trẻ hư. Mẹ bênh nó chằm chằm, có lần cha cằn nhằn:

- Thằng bé quấy quá, cứ mở mắt là mở mồm.

Mẹ không đồng ý nói:

- Nó còn bé chưa biết nói, nó khóc ắt là phải có nguyên do.

Tôi thì cho rằng chẳng có nguyên do nào cả, bú no, thay tã xong mà vẫn khóc thì chỉ có thể là nó nhõng nhẽo muốn được mẹ bế, muốn được mọi người chú ý đến nó mà thôi. Tôi hiểu thấu đáo nó, bởi vì chính tôi trước đây cũng làm như vậy, nhưng mẹ ngây thơ nên dễ bị lừa.

Một đêm tôi đang ngủ chợt giật mình thức dậy vì có tiếng động, có người vừa nằm xuống bên cạnh tôi. Mới đầu tôi cứ tưởng là mẹ, tôi vui mừng, có thế chứ, lẽ nào mẹ quên là còn có tôi, chứ không phải chỉ một mình cu Bi, chắc mẹ ân hận vì đã bỏ rơi tôi nên muốn qua để an ủi? Nhưng không phải, vì người nằm bên tôi to lớn, thô tháp hơn mẹ nhiều, chỉ có thể là bố. Quả vậy, ở phòng bên kia, cu Bi đang khóc ngằn ngặt và tiếng mẹ dỗ dành:

- Mẹ đây, mẹ đây, đừng sợ! Con ngoan của mẹ nín đi nào! để mẹ ru cho con ngủ.

Và mẹ cất tiếng hát, giọng mẹ vốn ngọt ngào, tôi nhớ đến những năm bé tí được nằm trong lòng mẹ, tiếng ru ời ời của mẹ đã đưa tôi vào giấc ngủ êm đềm, bây giờ thì những tiếng ru ngọt ngào kia là chỉ để dành cho em tôi. Một cảm giác luyến tiếc lẫn ghen hờn dâng lên làm tim tôi nao nao, tôi quay sang cha buồn rầu hỏi:

- Bố cũng không ngủ được à?

Cha quàng tay qua người tôi:

- Ừ, bố bị mất ngủ nên hơi mệt cu Tí ạ!

Ông thở mạnh và tỏ ra rất bực bội. Tội nghiệp bố, ông đã thức gần như suốt mấy đêm qua, sáng mai còn phải đi làm nên không thể dậy trễ. Tự nhiên tôi thương xót cha, ông cũng là một nạn nhân của cu Bi như tôi, như con Tino vậy, tôi đã trải qua cảnh này nên rất thông cảm. Tôi làm một cử chỉ âu yếm giống như ông vẫn làm với tôi khi tôi còn bé, tôi vỗ nhè nhẹ vào lưng ông, dỗ dành:

- That’s OK bố, you’ll be allright!

Cha tôi bật cuời, ông xoay người sang ôm tôi thật chặt:

- Con nghĩ như vậy thật à?

- Thật, bố ạ! Chúng ta không còn cách nào khác hơn là phải đợi cho nó lớn lên. Rồi mọi việc sẽ êm cả thôi, bố có tin vậy không?

- Tin chứ! Cu Tí thật là thông minh, con đã hiểu biết nhiều rồi đó.

- Con lớn rồi mà bố!

- Bố cũng đồng ý thế. Cu Tí này ! từ nay con cho bố “ tị nạn ” ở phòng con mỗi khi cu Bi khóc bố không ngủ được. Con chịu không?

- OK, bố !

Tự dưng tôi thấy mình quan trọng hẳn lên, phải tỏ ra người lớn, đừng ghen với em chứ? Sung sướng với tư tưởng vị tha vừa nẩy sinh trong đầu, tôi cũng quay sang ôm ông thật chặt, hai cha con cười rúc rích với nhau. Một lúc sau cha tôi ngủ thiếp đi, phòng bên kia cũng vừa im tiếng khóc. Trong bóng tối, tôi mỉm cười độ lượng:

- Cu Bi ơi! anh không ghét em đâu, nhưng em hãy lớn nhanh lên nhé?

PHƯƠNG LAN
( trích trong tập truyện Tiếng Đàn Xưa - NXB Tự Lực phát hành năm 2008 )
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Mẹ Tôi

Vũ Ánh



Ngày tôi mang gia đình lên Sở Ngoại Vụ để được phỏng vấn theo chương trình HO cách đây 19 năm, một biến cố thứ hai xảy ra trong đời tôi: khi người Mỹ phỏng vấn chuẩn bị nói “Congratulation” thì mẹ tôi giơ tay có ý kiến. Bà nói với người thông dịch viên: "Ông làm ơn nói với người Mỹ là tôi xin ở lại không đi. Tôi già rồi đi Mỹ chỉ làm thêm quẩn chân con trai tôi. Nó chỉ còn một cơ hội cuối cùng để gầy dựng lại đời nó". Nghe như vậy, tôi như bị tê dại. Tôi nhìn mẹ tôi. Nước mắt bà chan hòa. Bà nói để trấn an tôi: "Thôi yên tâm đi đi, điều mẹ cần là con phải rời khỏi đất nước này. Mày đi là mẹ mừng rồi. Mẹ và anh mày sống ở đây đã quen, không sao đâu".
Qua lời thông dịch viên, người Mỹ phỏng vấn viên khuyên giải mãi, nhưng mẹ tôi nhất quyết như vậy. Sau cùng do thông cảm hoàn cảnh tù đầy đã lâu của tôi, ông không bắt tôi làm lại hồ sơ mà đích thân ông giúp mẹ tôi và tôi điều chỉnh hồ sơ ngay tại chỗ. Những ngày chờ đợi sau đó, tôi vẫn đổ sức lao động để kiếm sống, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy nỗi buồn ngày một lớn hơn và mênh mang hơn, nhưng mẹ tôi thì tỏ ra vui và thanh thản hơn. Tôi quyết định nghỉ làm thường hơn để đưa bà đi chùa. Đến chùa Vĩnh Nghiêm bao giờ bà cũng không quên thăm hũ tro cốt của bố tôi. Bà thường đem theo một cái khăn nhỏ lau hũ cốt rồi dùng tay vỗ vỗ vào thành hũ rồi khấn nhỏ: "Con trai ông sắp đi rồi. Phù hộ cho nó nhé. Tôi ở lại để săn sóc ông đấy".

Rồi ngày ra đi cũng phải tới. Ngày 8 tháng 3 năm 1992, tôi mới nghỉ làm, chạy ra chợ mua con gà về làm bữa cơm cúng bố tôi như một lời tạ từ và cũng để gia đình ăn với nhau bữa cơm chia tay. Thằng con trai lớn của tôi rất nôn nóng về chuyện ra đi những ngày trước đó, nhưng hơn một tuần trước khi phải tạm biệt bà nội lên đường, nó trở nên buồn và trầm tư hơn. Hình ảnh lớn nhất đối với nó là mẹ tôi. Tôi hiểu như vậy. Buổi tối hôm ấy, bà kêu tôi vào phòng và nói: "Sáng mai mẹ và anh mày không tiễn tụi bay đâu. Lát nữa trước khi đi ngủ kiểm lại giấy tờ xem có quên thứ gì không. Mẹ cho hai đứa 10 đô la làm tiền lộ phí, phòng hờ có cần tiêu gì trên đường sang Mỹ. Nhưng đừng quên một điều: ra đi rồi thì dù ở hoàn cảnh có thất cơ lỡ vận gì đi nữa, hoặc mẹ có chết cũng đừng quay về nếu họ (CS) còn cầm quyền”. Tôi ôm lấy mẹ và khóc như đứa con nít.

Năm 1993 anh tôi mất. Chôn anh tôi xong thì 1994 bà qua đời. Dì tôi từ Việt Nam gọi sang báo hung tin. Xong bà nói: "Mẹ mày không muốn phiền tụi bay nên cứ phát tang ở bên ấy đi, bên này dì lo hết rồi."

Mẹ tôi lo toan cho chồng con suốt cả đời. Bà là một nội tướng đúng nghĩa của từ ngữ này. Nhưng đến khi bà nằm xuống, không có người nào trong số anh em chúng tôi về cư tang. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi những người đàn ông trong gia đình hoặc vắng mặt hoặc đã vào tù cộng sản, bà là người vừa phải bảo bọc bố tôi, con dâu, các cháu nội ngoại vừa phải đối phó với sự kỳ thị vì gia đình tôi bị xếp vào loại “ngụy” nặng. Cho đến khi hai trong ba anh em chúng tôi từ trại tù cộng sản trở về, tôi biết mẹ tôi lòng tuy có vui, nhưng mẹ lúc nào cũng canh cánh mối lo chúng tôi bị bắt lại. Bà là người xoay xở rất nhanh những tin "tình báo" liên quan đến” chính sách của nhà nước đối với tù cải tạo còn trong tình trạng quản chế” chỉ với mục đích giúp tôi trốn trước khi công an đến "mời" đi đâu.

Ngày Hà Nội ra lệnh truy quét tất cả cơ sở kinh doanh của Câu Lạc Bộ Kháng Chiến năm 1991, buổi trưa vừa gác chiếc xích lô trước cửa để mang đĩa cơm mua ở cầu Bông về cho bà, mẹ tôi đã chờ tôi ở cửa. Bà nói ngay: "Mẹ chuẩn bị cho mày cái tay nải rồi. Lát đi làm nhớ mang theo. Tối nay ra ngủ ở ngoài chợ với mấy thằng bạn mày. Họ (CS) đang bắt bớ lung tung. Đám Câu Lạc Bộ Kháng Chiến bị bắt hết rồi. Ngủ ngoài đường với bọn thương phế binh bạn mày cho chắc ăn. Chúng mày đi tù lần này nữa là mẹ không sống nổi đâu". Tôi nói với bà: "Con đâu có dính dáng gì đến kháng chiến, kháng chiếc đâu?". Mẹ tôi bực mình: "Cứ nói giọng đó. Năm mươi rồi mà còn ngu. Cần gì phải kháng khiếc mới bị chúng nó bắt. Cứ có chuyện lộn xộn là chúng nó bắt tất rồi hạ hồi phân giải, con không thấy chúng nó đã làm như thế nhiều lần rồi sao".

....

Tôi phác họa lại một vài kỷ niệm với mẹ tôi cũng chỉ là một cái cớ để nhắc nhở những đồng đội và đồng hương với tôi ở đây rằng, ai trong chúng ta cũng có một bà mẹ như thế. Có nhiều điểm khác nhau ở các bà mẹ ấy, nhưng có một điểm giống rất quan trọng giữa những bà mẹ Việt Nam: Tình thương con bao la như biển rộng. Tình thương ấy được biểu lộ theo nhiều cung cách khác nhau. Thời nào cũng có hàng triệu bà mẹ như mẹ tôi. Vậy mà những tác phẩm về mẹ dường như chưa bao la như lòng của mẹ. Nhìn lại số bài viết, những tác phẩm ấn hành ở hải ngoại, người dễ tính vẫn có thể yên tâm về sự đa dạng của văn chương văn học hải ngoại. Người khó tính lại nghĩ khác. Nghĩ khác chẳng qua là vì họ thấy, trong cái núi sách in ở hải ngoại, vẫn thiếu vắng nghiêm trọng những tác phẩm về mẹ trong khi mẹ đời thường bao giờ cũng là đề tài bất tận và biết bao nhiêu mảnh đời mẹ ở đất Little Saigon hay ở bất cứ một cộng đồng nào người Việt Nam nào trên đất Mỹ hay trên một đất nước nào khác cần phải được vinh danh, không phải bằng những bài diễn văn hào nhoáng trong những tiệc tùng linh đình nhân Ngày Của Mẹ, mà phải bằng những lời chân thật và cảm xúc của những câu chuyện điển hình về mẹ.

Tôi cũng đã từng được chứng kiến câu chuyện về mẹ của một bạn tù của tôi thời gian sau khi định cư tại Hoa Kỳ. Bạn tôi, trong suốt thời kỳ chiến tranh, vì đời lính vất vả và bất trắc nên đã tạm "quên" chuyện lập gia đình. Rồi vào tù. Tù xong ra sống ngoài nhà tù lớn cho đến khi đến được định cư ở Savanah, Georgia theo diện HO. Hai năm sau khi đến Mỹ anh lập gia đình với một người vợ kém anh tới 15 tuổi. Khi có đứa con đầu lòng, mẹ anh từ Việt Nam được anh bảo lãnh qua. Lúc đầu cuộc sống chung với con trai và con dâu ổn thỏa. Nhưng mấy năm sau này, do sự khác nhau về cách nhìn đời sống ở Mỹ giữa bà mẹ trẻ (con dâu) và bà mẹ già (mẹ chồng), cuộc sống bắt đầu bất ổn, lục đục luôn xảy ra. Bạn tôi cuối cùng đã phải dàn xếp để bà mẹ đến ở một mobil home 2 phòng ngủ dành cho người già. Thỉnh thoảng anh có gọi cho tôi để tâm sự cho vơi buồn. Năm ngoái, trước giáng sinh, người bạn HO gởi e-mail báo cho tôi biết vợ anh bị ung thư tử cung, nhưng cũng may là mẹ anh đã về sống chung trở lại để tiện săn sóc con dâu. Bạn tôi nói: "Cuối cùng con dâu hay con trai bà đều không bỏ được”. Hoạn nạn của cô con dâu đã trở thành một cơ hội hàn gắn. Lòng thương con bao la của bà mẹ đã hóa giải được câu chuyện không vui lắm cho gia đình bà.

Có khá nhiều chuyện của người mẹ tị nạn, thời hậu 30 tháng 4 và thời chiến tranh cần được ghi nhận và nói tới như chứng nhân cho bản chất thuần hậu và tình thương bao la của người mẹ Việt Nam qua từng giai đoạn và qua từng biến động của thời đại chúng ta. Vào dịp 30 tháng 4 năm nay, khi gặp lại Ngụy Vũ nhân lúc anh cần sự hỗ trợ để thực hiện một dự án đưa người tị nạn trở lại hàng không mẫu hạm USS Midway, anh có ngỏ lời với tôi về dự án khác giống như cuộc thi viết “Chuyện kể Hành Trình Trình Biển Đông” mà anh đã từng thực hiện rất thành công, nhưng lần này với một đề tài cũng mênh mông và bao la như tình thương của mẹ: đó là cuộc thi viết với đề tài “Mẹ tôi” để mọi đồng hương ở Mỹ cũng như ở các châu khác có thể tham gia. Tôi đã từng có dịp làm việc với Ngụy Vũ trong dự án Chuyện Kể Về Hành Trình Biển Đông nên hiểu anh là người có lòng, có nhiệt tình muốn thực hiện những dự án lớn cho cộng đồng, nhưng anh vẫn cần có những hỗ trợ và những cú đạp thắng chân tình của những người thực tâm quí mến anh.

Đạp thắng chỉ là để giúp anh còn đủ dài hơi để chịu đựng những căng thẳng trong tiến trình tổ chức giải, tránh thị phi và làm thế nào để những tuyển tập "Mẹ tôi" trở thành lịch sử của những bà mẹ Việt Nam đời thường, những bà mẹ Việt Nam hết sức can đảm bước đi trong những đoạn đường đầy gió bụi của lịch sử nhưng vẫn giữ vững được giềng mối vững chắc của nền tảng gia đình, xã hội và văn hóa.

Hiển nhiên, một mình Việt Herald và Ngụy Vũ, dự án thi viết “Mẹ tôi” sẽ không thể thành công được. Nó cần sự hỗ trợ của tất cả những đồng hương trong cộng đồng Việt Nam không những ở quận Cam mà còn ở các nơi khác.
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

CON ĐƯỜNG MÙA THU

(Yên Thi)
Anh còn nhớ chăng mùa thu trước? Một mùa thu khi tóc Em dài tha thướt. Em và Anh đã cùng đi trên con đường đó. Con đường của gió và lá, của ánh trăng và những hàng cây. Con đường của những giấc mộng thơ ngây.

Em thả tóc bay lúc đi bên Anh. Em và Anh nói những chuyện không đầu không cuối. Gió cứ thổi và lá cứ bay. Bất chợt tay Anh chạm vào tay Em. Em sững sờ nhìn Anh và bối rối.
Image
Em lại đi cùng Anh trên con đường đó vào một chiều cuối hạ. Đã mấy năm rồi Em ko dám một mình trở lại nơi đây, Em đã bảo Anh quay lại khi đi gần hết con đường vì Em không muốn những bước chân sẽ chạm đến điểm dừng.

Thế gian chỉ có một kiếp này thôi. Tại sao Anh lại không thể chạm vào tay Em một lần nữa? Ngày xưa đã qua đi nhưng chính ngày xưa lại ùa về mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ngày xưa ấy đã phủ nhận hoàn toàn hiện tại của Em. Người ta nói hiện tại mới là món quà ý nghĩa nhất. Nhưng ngày xưa cũng là Anh và hiện tại cũng chính là Anh. Vậy thì tại sao Anh lại không thể chạm vào tay Em một lần nữa? Anh sợ sẽ lại làm cho Em tổn thương và đau khổ như năm xưa Anh đã làm ư? Hay Anh sợ một điều chi nữa?

Em biết rằng Em đang nói dối. Em nói dối Anh và nói dối chính Em. Và bây giờ Em lại nói dối cả mùa thu đang đến. Nhưng Em không thể nói dối những khoảnh khắc khi bắt gặp ánh mắt Anh đang nhìn Em. Em vụng về và bối rối để nói rằng cafe thật là phê và nước lọc thật là hấp dẫn.

Có lẽ nào Em sẽ phải nói dối suốt những tháng ngày còn lại? Có lẽ nào Em sẽ vội vàng gạch tên Anh trên cuốn sách mà Em đang đọc dở? Có lẽ nào cuốn sách không đau?
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Xao xuyến ngắm nhìn sơn nữ Tây Bắc tắm suối

TRẦN VÂN HẠC
Người ta vẫn kháo nhau, lên Tây Bắc mà xem con gái Thái tắm tiên. Con gái Thái da trắng như hoa ban, uyển chuyển với những đường cong tuyệt mỹ. Con gái Thái dịu dàng, hiền thục…
Image
Mới nghe có vẻ như thô và phàm tục, nhưng với những người đã từng ở Tây Bắc, hoặc am hiểu văn hóa Thái thì cảnh con gái Thái tắm tiên là một phần không thể tách rời trong văn hóa Thái và nếu thiếu cảnh trữ tình, nên thơ ấy, suối ngàn Tây Bắc sẽ kém đi vẻ lung linh huyền ảo. Tây Bắc sẽ phần nào kém đi vẻ đẹp dung dị nhưng vô cùng lãng mạn, nên thơ.

Người ta đi ngắm các cô gái hòa mình với thiên nhiên đậm chất hoang sơ và huyền thoại như ngắm ánh bình minh trong sương sớm, ngắm hoa ban khoe sắc mùa xuân, hay thả hồn trong một tiếng chim lảnh lót đầu non… chẳng khác nào được nồng say trong vũ điệu xòe, hay lâng lâng trong men rượu cần ngọt lịm, một điệu khắp trữ tình… để rồi tự lúc nào thấy mình trong sáng hơn, biết trân trọng nâng niu những gì mà tạo hóa đã ban cho con người, giúp con người hướng thiện hơn, có thêm nghị lực, niềm tin, vươn lên trong cuộc sống.

Các cô gái Thái ngay từ lúc còn nhỏ đã được các bà, các mẹ dạy cho cách thắt khăn nơi thắt lưng - “xài yêu” - để có được thân hình tuyệt đẹp theo tiêu chí: “Eo kíu manh po” – nghĩa là thắt đáy lưng con tò vò, giống như thắt đáy lưng ong của các cô gái miền xuôi. Còn mái tóc luôn được chăm chút gội bằng các loại lá thơm như hương nhu, sả, bồ kết… và chải chuốt bằng nước vo gạo nếp. Lại được tắm mình trong không khí trong lành của thiên nhiên hùng vĩ, bởi vậy cô gái Thái nào cũng cao ráo, trắng hồng, mái tóc đen dài mềm mại.

Không những thế, các cô còn rất giỏi trong những công việc nội trợ như làm ruộng, quay xa, thêu thùa, dệt vải, múa xòe… mà những câu dân ca Thái đã miêu tả được phần nào: “Nướng quả ớt thơm mùi đĩa chéo/ Đụng vào khung cửi vải thành hoa/ Tung nắm tấm thành ra đàn gà…”, “Úp bàn tay trái đã thành hoa đào/ Ngửa bàn tay phải đã thành hoa tươi đất Mường Hỏ/ Ngồi xổm thêu được thành hình chim phượng hoàng/ Ngồi nghiêng quay sợi thành chùm hoa so se” (dân ca Thái). Vẻ đẹp chân chất, trong sáng đến mức thánh thiện của các cô gái Thái đã trở thành nguồn đề tài và cảm hứng vô tận cũng như làm nên sức sống cho bao tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa…

Bởi vậy, khi ngắm các cô gái Thái dịu dàng trong trang phục truyền thống: váy đen bó sát người, “xửa cỏm” - áo ngắn lung linh đôi hàng “mák pém” - cúc bạc hình bướm, khăn piêu bồng bềnh trên đầu như áng mây xuân sớm tôn sắc hồng má đào thiếu nữ, một dải khăn xanh là điểm nhấn nơi thắt lưng và dây xà tích bạc buông lơi bên hông, mỗi người đều như thấy ngân rung trong lòng một cảm giác thanh cao trước một vẻ đẹp hoàn mỹ đến mức thật khó đặt tên, cứ dư ba trong lòng người và chợt thổn thức dâng dâng trong ký ức mỗi khi xa nhớ về Tây Bắc…
Image
Sau mỗi buổi lao động về, các cô gái nghỉ chân bên suối, làn nước mát lành làm sạch sẽ bụi bặm, trả lại nước da trắng ngần của mẹ, của cha và tinh hoa của núi ngàn chung đúc hàng ngàn năm mới có được. Bao nỗi mệt nhọc trôi theo dòng nước, con người như được tiếp thêm nguồn năng lượng mới.

Nếu các chàng trai thường chọn nơi vực sâu, nước xiết để vẫy vùng thỏa sức trai thì các cô gái lại tìm nơi dòng chảy nông hơn, kín đáo. Các cô quay mặt vào bờ, ý tứ cởi cúc áo, chiếc váy lúc này được kéo cao che kín khuôn ngực thanh tân, lội xuống nước tới đâu váy được nâng dần lên đến đó. Cho đến khi dòng nước đủ che kín thân mình, các cô gái khéo léo quấn chặt váy trên đầu như một bông hoa, dù bơi lội, đùa nghịch, chiếc váy vẫn không thể rơi được.
Image
Thân hình tuyệt mỹ của các cô gái ẩn hiện dưới dòng nước biếc, thực đấy mà ảo đấy. Các cô hồn nhiên té nước, trong ánh chiều Tây Bắc, từ những bàn tay như bông hoa ban huyền thoại tung lên muôn ánh cầu vồng. Dòng suối như lòng mẹ ôm ấp vuốt ve tấm thân tuyệt mỹ, sỏi đá nơi lòng suối thêm rạng ngời ngần trắng, chim rừng ngưng hót, gió như ngừng thổi, chỉ còn xanh ngắt đến thẫn thờ ngàn con mắt lá của đại ngàn. Tất cả như lặng đi trước kiệt tác của núi ngàn Tây Bắc…

Những dòng suối của khắp vùng Tây Bắc thường có những cái tên vô cùng thơ mộng, chở đầy khát vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc, về tình yêu trắng trong chung thủy: Suối Tiên, Suối Mơ, Suối Xuân…

Không biết có phải từ khi các cô gái Thái khỏa mình trong dòng biếc, những dòng suối già nua trầm mặc chợt nhận ra mình có một trái tim nồng cháy và tâm hồn trẻ trung, rồi cứ mộng mơ, khao khát một cuộc sống bình dị, yên vui – ước mơ cháy bỏng của bao đời? Để rồi những ai được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của suối nguồn Tây Bắc trong một chiều các cô gái Thái tắm tiên, chợt thấy mình trong sáng hơn, thanh cao hơn, như được hòa mình cùng đất và người của Tây Bắc huyền thoại…

http://vn.360plus. yahoo.com/ phamvietdaonv/ article?mid= 5746
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Ngộ Đạo Đất Trời

Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tỉnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông. Bà vợ nghe dặn dò cách thức làm đám tang kỳ dị, thì nói giọng buồn, với đôi mắt cầu khẩn:

- Em nghe nói ngày xưa ở Huế, người đàn bà đầu tiên đi xe đạp, bị cả thành phố phỉ nhổ, xem như là Me Tây, như kẽ phá hoại phong hóa nơi đất thần kinh. Cho đến khi chiếc xe gắn máy hiệu "Velo solex" ra đời, người đàn bà đầu tiên xữ dụng, cũng bị xem như là thứ côn đồ, cao bồi du đảng, chẵng ai dám giao du thân mật. Đến như bà Thu, vốn là một công chúa, dù là con của vị phế đế, là người đàn bà có xe hơi, và lái xe hơi dầu tiên ở Huế, cũng bị thiên hạ nghi ngờ oan ức đến cái đức hạnh của bà, mà suốt đời không kiếm được một tấm chồng. Thế mà bây giờ, anh bảo em làm đám tang khác thiên hạ, không giống ai, thì chịu sao nỗi lời tiếu đàm của bà con, họ hàng!

Ông Tư cười, nhìn vợ và nói :
- Cái gì cũng phải có khởi đầu, có người làm trước, về sau thiên hạ thấy hay mà làm theo. Không ai khởi đầu cả, thì làm sao có tiền lệ để mà bắt chước? Thời trước nếu không có cô, bà nào dám tiên phong leo lên xe đạp, thì bây giờ đàn bà đi bộ cho rã cẳng ra. Ngày nay, còn có ai xì xầm khi thấy các cô, các bà đi xe đạp, xe gắn máy và lái xe hơi đâu?
- Sao anh bắt em phải làm cái việc khác đời, cho tội cho nghiệp em. Em đâu phải là hạng người thừa gan dạ, để có thể phớt lờ dư luận, khen chê của thế gian ?
Ông Tư trả lời với giọng rất bình tỉnh:
- Chỉ là ước mong nhỏ nhoi cuối cuộc đời của anh, mà em cũng không giúp anh được sao? Ai có nói gì, thì em cứ bảo đó là ý nguyện của anh trước khi chết. Mà có lẽ, mọi người đều biết anh muốn như vậy, em khỏi cần giải thích cho ai. Em không làm theo ý nguyện, anh chết không nhắm mắt, làm sao linh hồn siêu thoát? Như thế, em không sợ anh về quấy phá em mãi sao?
Nghe đến đây, thì bà Hoa tái mặt. Bà vốn sợ ma, sợ người chết, sợ bóng tối, sợ sự thiêng liêng. Bây giờ ông chồng còn sống, bà có thể lấn áp, bắt nạt ông được, chứ sau khi ông chết rồi, thì bà phải chịu thua, phải sợ ông. Ông Tư biết tính vợ, nên đem ma quỷ ra mà dọa trước, may ra sau khi ông chết, thì bà chịu theo lời ước nguyện của ông.
Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết? Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn. Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông bình tỉnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn. Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tỉnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận. Ông chọn con đường sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại. Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa. Ban đầu, vợ con, gia đình, ai cũng ái ngại, nên cư xử tế nhị, dè dặt, gượng nhẹ với ông. Về sau, thấy thái độ bình tỉnh của ông, mọi người quên đi chuyện ông sắp xa lìa cõi đời nầy, mà cư xử với ông không khác gì người bình thường. Đôi khi bị vợ gắt gỏng, bị con giận hờn, bị bạn bè to tiếng, ông không buồn giận, mà cảm thấy tức cười, và thấy thương họ hơn.

Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:
- Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn? Đáng ra phải cáo phó bằng câu : "Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó khác, cũng "khóc báo" với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì?
Bà Hoa nhăn mặt nói :
- Anh đừng chi li bắt bẻ từng câu từng chữ . Đó là một lối nói thôi. Vì có ai biết chắc đi về đâu mà dám vui, buồn. Nhưng cứ cho là về thiên đàng, cực lạc, về với Chúa Phật, cho người sống an lòng. Không lẽ báo tin ông nội tôi được quỷ sứ rước đi rồi. Dù sống có gian ác đến đâu, khi chết cũng có quyền hy vọng về nơi lạc phúc, bình an.
Ông Tư lắc đầu nói tiếp :
- Em có thấy ông cụ Trương nằm liệt giường hai năm, không cử động được, như bị hành hình, cả nhà lao đao lận đận chăm sóc. Hai vợ chồng bác Thu con cụ, vì khổ nhọc quá, gây gỗ nhau, gia đình suýt tan vỡ. Khi cụ mất, cả nhà thở phào sung sướng cho cụ, và cho mọi người trong gia đình. Thế mà khi cáo phó, cũng đau đớn báo tin. Bà con bạn bè đăng báo chia buồn, cũng là vô cùng thương tiếc, vô cùng đau đớn. Tang gia mừng, mà bà con lại chia buồn. Bà con muốn cụ nằm đó mãi, để khổ thân cụ, khổ con cháu cụ lâu dài hơn nữa hay sao? Hay là họ không phải khổ cực chăm sóc cụ, không phải đau lòng khi thấy cụ nằm liệt ra đó, nên cụ chết họ buồn đau? Bỡi thế, khi anh chết, anh không muốn cáo phó, không muốn ai phân ưu chia buồn. Chết cũng là một tiến trình của tự nhiên của trời đất, thì có chi mà phân ưu, chia buồn. Có ai sống mãi được?
Bà Hoa không đồng ý, nói lớn:
- Mất mát nào mà không đau buồn? Dù biết chắc rằng, ông cụ Trương chết là thoát được khổ đau đang hành hạ. Nhưng khi cụ mất, cả nhà cũng buồn vì mất cụ, mà vui vì cất đi được gánh nặng, bớt được mối thương tâm khi thấy người thân yêu của mình khổ cực nằm đó.
- Thế thì khi cụ mất, chắc chắn cả nhà vui nhiều hơn buồn, mừng nhiều hơn tiếc. Không ai dám nói mừng khi thấy thân nhân mình chết, vì sợ thiên hạ hiểu lầm, tiếu đàm. Thế thì đừng giả dối, nói là đau đớn, tiếc thương, mất mát. Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tỉnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Bà Hoa hỏi:
- Hay là đời sống dân họ đau khổ lầm than quá, nên chết đi là khỏe chăng? Chết là hết lo cơm áo, khỏi đói khát bệnh tật?
Bà Hoa nghĩ là ông Tư không thương bà đủ nhiều, nên cứ thản nhiên trước cái chết cận kề. Bà không biết làm sao chịu nỗi cảnh cô đơn khi sống thiếu ông trên đời. Ông Tư thường nói với bạn bè rằng, rồi ai cũng phải chết. Không chết sớm thì chết muộn. Không chết lúc ba bốn mươi, thì bảy tám chín chục tuổi cũng phải chết. Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm. Nếu đêm nay đau răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bỡi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm. Còn gia đình, thì thời gian đầu thấy thiếu vắng, mất mát, nhưng rồi sau cũng quen dần, vì phải lo lắng nhiều công việc khác trong một cuộc sống bình thường, không còn có thì giờ mà tiếc thương, mà bi ai. Phần người chết, buông tay là xong tất cả, bình yên vĩnh viễn. Không còn phải lo công việc làm ăn, lo cơm áo gạo tiền, không còn lo làm giàu, lo tích trữ của cải, không còn ghen tuông, giận hờn, không còn phải thức khuya học hành, hoặc viết văn làm thơ mệt nhọc, không còn theo đuổi mộng lớn mộng bé, không ưu tư dằn vặt vì thời thế, vì đất nước, quê hương... Bỏ hết. Tất cả cũng chỉ là tro bụi. Thiên hạ còn ngưỡng mộ, còn khen ngợi những anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, nhưng chính các người nầy có còn biết gì nữa đâu? Cũng là một mớ xương khô mục nát, đâu có nghe, có cảm xúc, hân hoan, vui thú gì. Có ca ngợi, nhắc nhở thì để các thế hệ con cháu về sau noi gương người đi trước mà dìn giữ quê hương, mà sống cho đàng hoàng, cho nên người, đừng làm việc xấu xa đê tiện.

Ông Tư dặn vợ làm một đám tang đơn giản, không mở nắp hòm cho bạn bè thăm viếng nhìn mặt. Hát nhạc vui trong tang lễ, không khóc lóc, mà vui cười tự nhiên. Sau khi thiêu xong thì gởi tro xương về quê nhà, đừng xây mộ, đừng đắp bia. Bà Hoa thì chỉ muốn làm giống như tất cả mọi người. Ai làm sao mình làm vậy trong khả năng tài chánh của gia đình. Bà không muốn làm khác ai, để họ có thể nghị dị, bàn ra nói vào, thêm thắt thêu dệt. Nhưng bà cũng không nỡ từ chối ước nguyện cuối cùng của ông. Hai người con của ông bà, đứa con gái đầu thì tán thành, muốn làm theo ý kiến cũa bố, đứa con trai phản đối, vì sợ thiên hạ chê cười. Ông nói với con : Con nên vì bố, không nên vì thiên hạ. Ông Tư xin nghỉ việc, đi thăm bà con họ hàng, đến đâu ông cũng nói chuyện khôi hài, vui vẻ, nồng nàn với bạn bè bà con, thức đêm, uống rượu, hát hò, ngâm thơ, ăn uống không kiêng cữ. Theo ông, thì kiêng cũng chết, mà không kiêng cũng chết, chết sớm hơn vài tháng, vài tuần, cũng chẵng nghĩa lý gì. Còn chẵng bao lâu nữa, kiêng cử làm chi cho khổ thân, cho đời mất đi một phần ý vị. Ông cho rằng, đã sống đến trên năm mươi tuổi là quá lời, quá đủ, không có gì để nuối tiếc. Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.

Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tỉnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã trãi qua cận tử, thì không cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất. Ông Tư không tin chuyện cận tử, vì ông vốn con người thực tế và lý trí, cái gì chưa kiểm nghiệm được thì chưa tin. Nhưng cho rằng, nếu được như vậy thì càng tốt. Nếu không được vậy, thì cũng thôi.

Cuộc đời ông Tư đã trãi qua nhiều giai đoạn sướng khổ. Chưa xong đại học thì bị kêu đi lính, tham dự những trận chiến kinh hoàng, ngày đêm trấn đóng nơi ma thiêng nước độc, đã từng bị bắt làm tù binh, đã vượt ngục. Khi miền Nam thua trận, phải đi tù nhiều năm. Đã sống trong chế độ hà khắc kìm khớp, bữa đói bữa no. Đã đi qua biển tìm tự do. Và ước nguyện rằng, được sống thêm một ngày trong xứ tự do, thì có chết cũng không có gì ø tiếc nuối. Thế mà ông đã sống thêm được nhiều năm trong một xã hội có tự do, dân chủ. Con người được pháp luật bảo vệ, tôn trọng. Ông biết ơn trời đất đã cho ông cái phần thưởng vô cùng quý giá đó trong nhiều năm qua.
Ông T
ư chỉ là một người bình thường, có đủ cả tốt xấu. Có chút rượu chè, nhưng không ghiền và say sưa. Khi vui bạn vui bè, thì ai đến đâu, ông đến đó. Ông hòa đồng cùng đám đông. Thỉnh thoảng ăn nhậu cùng bạn bè, nói chuyện trời đất, vui chơi. Cờ bạc ông cũng có chút chút, từ xì phé, bài cào, cờ tướng, cờ vua, đi sòng bài. Nhiều khi ông xoa mạt chược cùng bạn bè, một mạch từ sáng thứ bảy cho đến chiều chủ nhật mới thôi, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho ngày đi làm vào thứ hai. Ông không mê, không lậm, biết dừng lại đúng lúc, không phải khi thua cờ bạc thì nóng mặt cố gỡ, và gỡ cho đến bán nhà. Trai gái ông cũng có, nhưng không làm hại đến ai, biết giới hạn của cuộc chơi. Không làm khổ vợ con, không gây khổ đau cho người khác phái. Thuốc lá, cà phê hàng ngày, ông không ghiền, nhưng cũng không bỏ hút thuốc. Ông Tư còn có chút máu nghệ sĩ . Ông thổi kèn hắc tiêu rất đạt, nên lâu lâu theo người bạn Mỹ gốc Phi Châu đến các hộp đêm thổi kèn chơi, không lấy thù lao. Ông có chân trong một ban nhạc tài tử, lâu lâu đi trình diễn ở các nơi công cọng. Ông Tư có sáng tác vài bản nhạc, nhưng không ai hát, và hát không ai nghe, không ai khen, nên ông không sáng tác nữa. Ông Tư cũng thích đọc truyện, đọc thơ. Ông cũng có làm thơ, nhưng bà Hoa là vợ ông, khuyên đừng để cho ai biết những bài thơ đó do ông viết, vì người sợ người ta cười lây cả bà. Ông nghe vợ chê, nãn lòng, không muốn làm thơ nữa. Tuy nhiên, có nhiều khi cao hứng, không cầm được cảm xúc, ông cũng làm thơ chơi, và dấu kín, vì sợ vợ đọc được chê bai .

Một người bạn của ông Tư cũng thích thơ phú, thường cùng ông ngâm vịnh khi nhàn tản, một hôm nghe ông nói về quan niệm cuộc đời, lẽ sống và cái chết. Ông nầy ngồi nghe mà đờ ra, và nói:
- Bác chờ chút, tôi lục tìm bài thơ của một ông bạn tôi, sao mà ý tưởng của bác với ông kia trùng nhau, như cùng học một sách. Kỳ lạ ghê. Lần đầu đọc bài thơ nầy, tôi khoái quá, phải xin ông bạn cho tôi mượn, chạy ra phố, chụp lấy một bản, còn cất giữ đây.
Ông Tư cầm lấy bài thơ dài, vừa đọc vừa gật gù, đọc xong ông vỗ đùi sung sướng, nói:
- Tuyệt. Hoàn toàn giống hệt suy nghĩ của tôi. Bác đem tôi đến giới thiệu tác giả bài thơ nầy đi. Bác xem đấy, đâu phải một mình tôi suy nghĩ khác đời đâu. Có nhiều người cùng một ý nghĩ, nhưng không dám nói ra, không dám thi hành. Đúng như cụ Nguyễn Công Trứ có viết là chỗ ta ngồi hiện tại, người xưa đã ngồi rồi. Tôi dốt chữ Hán, nhớ mang máng hình như là Ngã kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằn tiện ngã tọa chi . Mấy ông Tây cũng từng viết là dưới ánh mặt trời nầy, không có cái gì mới cả. Những suy nghĩ của tôi về cái chết, sự sống, người xưa cũng đã viết nhiều, tàng ẩn bàng bạc trong kinh Thánh, kinh Phật. Ngày xưa khi còn nhỏ, bố mẹ tôi gởi tôi vào học nội trú trường đạo Thiên Chúa, mỗi ngày mỗi đêm đều đọc kinh Thánh. Hồi đó tôi không hiểu hết ý nghĩa của kinh, tôi tưởng lầm đọc kinh là ngày đêm kêu gào sự xót thương của Chúa. Tuổi trẻ ngu muội và ngông cuồng nên tôi không có cảm tình với chuyện kinh kệ, nhưng khi lớn lên, đọc lại kinh Thánh, tôi thấy hay quá ông ạ. Lời kinh an ủi, vỗ về con người trong khổ đau, trong bước đường hoạn nạn, khi gặp cam go chìm nổi, tìm được yên bình để chịu đựng mà hy vọng qua khỏi nghịch cảnh .
Ông bạn cười, nói:
- Tôi thấy nhà bác thờ Phật, mà lại nói chuyện Chúa rành rẽ. Bác có theo đạo Cao Đài hay không?
- Không phải đạo Cao Đài, nhưng Phật Chúa gì cũng hoan nghênh. Bà xã tôi vẫn thường đi chùa. Ngày xưa khi còn trong quân đội, đóng quân giữa núi rừng, mẹ tôi gởi cho mấy bộ kinh Phật, không có sách vở, báo chí, buồn mà đọc chơi. Không có tâm tu hành, nhưng đọc mãi, nó thấm vào trong tư tưởng lúc nào không hay. Bỡi vậy, tôi có quan niệm rất rõ ràng về sự sống, cái chết, và bình tỉnh đón nhận như một lẽ thường của trời đất, tạo hóa.

Hai người đang nói chuyện, thì có bà bạn ghé chơi. Bà nầy yêu cầu ông Tư và bạn ông đóng tiền để mua đất chôn cất và xây mộ cho một người đồng hương Việt Nam nghèo mới chết. Gia đình không đủ tiền để làm ma chay và mua đất chôn ở nghĩa trang. Ông Tư móc ví, đóng ba chục đồng, và nói:
- Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu. Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao? Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém.
Bạn ông Tư hỏi:
- Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói:
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được?
- Nghe đâu các nghĩa trang cũng chỉ bán đất trong vòng một trăm năm thôi- Bà bạn bàn thêm - Sau một trăm năm thì không biết họ có đào lên, đem chôn ở hố tập thể, hoặc đem thiêu đốt đi chăng? Nhưng khi mua đất chôn, thân nhân, không nghe ai nói đến điều nầy. Mà dù cho chủ nghĩa trang có hứa miệng là bán đất vĩnh viễn, thì sau một trăm năm, họ đào bỏ đi, cũng chẵng ai hoài công đi kiện. Lời hứa trăm năm trước con cháu không nghe, không còn chứng cớ, cả người hứa hẹn lẫn người nghe hứa hẹn, đã chết từ lâu. Mà có lẽ con cháu cũng vì lo làm ăn, sinh kế, đi tứ tán, không ai còn đoái hoài chi đến mấy ngôi mộ của tiền nhân trong các nghĩa trang đây đó.
Bạn ông Tư nói:
- Trong phim tài liệu về Tây Tạng, ở đó đạo Phật là quốc giáo, ông Phật sống cai trị dân như vua. Khi có người chết, thì họ quàng dây kéo lê lên núi, sau đó mấy ông chuyên môn chặt xác chết ra nhiều khúc, và ném cho chim kên kên ăn. Trông khiếp lắm. Không biết họ làm như thế, có đau lòng thân nhân ? Rõ như câu nguyền rủa ở xứ mình là chim tha quạ rỉa.
- Chẳng có đau lòng chi cả - Ông Tư bàn thêm - Bên đó toàn đá núi cứng. Muốn đào đá ra làm huyệt mộ cũng quá cực khổ. Thân nhân người chết, dẫu có muốn chôn cất đến mấy cũng không ai làm nỗi việc đó. Cho chim ăn là tiện nhất. Có điều, không biết làm sao chim kên kên không lây bệnh người chết, biết bao nhiêu là bệnh nan y, vi trùng, vi khuẩn. Bỡi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.

Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom. Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẽ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lảnh tụ cọng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mã cũng bị phá bỏ , san bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.

Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền chìm.

Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẵng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm .

Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết . Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa. Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:

Khi Tôi Chết

Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bả
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiển đưa,
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì .
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi .
Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời .
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không .
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai
Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê
Thì cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri .

Khi đọc xong bài thơ, có người thì mĩm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt . Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói:
-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè. Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được . Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

Người con gái đến bên bàn thờ, bật máy , có tiếng ông Tư cười hăng hắc vui vẻ, làm một số người không cầm được, cũng cười theo. Một vài bà yếu bóng vía sợ xanh mặt. Sau tiếng cười chào, thì có tiếng ông Tư dọc bài thơ dán trên tường, giọng đọc rất chậm rãi, rõ ràng, như đang nói chuyện thủ thỉ với bạn bè. Mọi người im lặng lắng nghe, người thì nghiêm trang, người thì mĩm cười. Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ. Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.

Bỗng nhiên, bà chị ông Tư nhào ra, lăn lộn trước bàn thờ mà khóc lóc gào lớn:
- Cậu Tư ơi là cậu Tư. Chúng nó đem cái chết của cậu ra mà bêu rếu họ hàng. Vợ cậu muốn đi lấy chồng sớm nên bày ra cái cảnh chướng tai gai mắt nầy. Con cậu cũng là thứ bất hiếu bất mục, cha chết mà không có một giọt nước mắt, còn cười nói lung tung. Chỉ có tôi là chị câu, thương cậu thật tình thôi, ruột đứt lòng đau, nên khóc than đây.
Ông chồng chạy đến ôm bà kéo ra, và nhỏ nhẹ giãi bày. Bà vùng vằng và càng khóc lớn hơn, xỉ vả bà Tư những câu tục tỉu nặng nề. Bà Tư ôm mặt khóc lóc. Bà chị chồng nói lớn: Mai mốt chúng mày chết, bà đến phóng uế lên hòm chúng mầy. Nhiều người bà con đến phụ ông chồng lôi bà chị ông Tư ra xe chạy đi.

Khách viếng tang lảng ra, và có người lẵng lặng ra về không chào hỏi ai, vì sợ gia quyến ngượng ngùng. Cô con gái ông Tư đứng ra xin lỗi mọi người vì chuyện không may, không vui vừa xẫy ra.
Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.

Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo. Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bỡi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.
Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.

Sau tang lễ, bà Hoa vợ ông Tư thở phào. Bà vui mừng vì đã làm được đúng lời căn dặn của chồng mà không bị tai tiếng. Bà chỉ sợ tai tiếng thôi. May mắn, đa số bà con đều tán thành nghi thức tang lễ, và nếu không tán thành, họ cũng im lặng, chỉ có bà chị ông Tư gây rắc rối thôi.
Nắm tro xương của ông Tư được vợ con gói kỹ bốn năm lớp, bỏ vào hộp bằng chất nhựa dày, để cho khỏi vỡ, rồi gởi bảo đảm về Việt Nam. Chiếc xe chở hàng của hãng vận chuyển bị tai nạn trên đường ra phi trường. Xe rơi từ cầu xa lộ cao ba từng xuống đất, thùng xe vở nát, hàng hóa tung vung vãi, rách nát, cháy xém. Anh tài xế gảy hết tay chân và xương sống, hấp hối. Người ta đồn rằng anh tài xế buồn vì bị vợ cắm sừng, đã uống rượu say xỉn, không điều khiển được tay lái. Cái hộp tro xương của ông Tư bị rách và cháy xém mất một phần địa chỉ, được gởi lầm đi ngao du qua xứ Nambia bên Phi Châu. Cô con gái ông Tư hỏi tin tức bên nhà hàng ngày, qua liên mạng máy vi tính, về cái hộp tro xương, mãi đến hai ba tháng vẫn chưa nhận được. Bà Hoa viết nhiều thơ khiếu nại hãng chuyên chở. Họ trả lời là sẽ bồi thường cho bà hai trăm sáu mươi tám đồng. Bà Tư khóc lóc, thuê luật sư đâm đơn kiện. Sáu tháng sau, nhờ còn có địa chỉ người gởi, nên cái hộp tro xương được hoàn trả cho gia đình, với ghi chú là không có địa chỉ người nhận. Bà Hoa mừng ôm cái hộp mà khóc ròng.
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.

Tràm Cà Mau
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Hồ Dzếnh
Con thiên nga hót trước khi nhắm mắt


Nguyễn Khắc Xuyên
Tôi mê thơ Hồ Dzếnh từ những năm xưa, khi tập thơ Quê Ngoại được xuất bản ở Hà Nội, năm 1943. Tôi cũng đã thích thú đọc Một truyện tình 15 năm về trước, ký tên Lưu Thị Hạnh. Có một tập sách ít người để ý tới, đó là quyển Tác phẩm đầu xuân, cũng do Nguyên Hà xuất bản năm 1944, trong đó ngoài mấy bài thơ văn ký tên Hồ Dzếnh còn có mấy bài mang tên Lưu Thị Hạnh, Lê Minh Thu, Phạm Văn Lựu. Năm 1946 khi Hoa Xuân Đất Việt được phát hành ở Hà Nội, tôi đã mua ngay và thích thú đọc và cho học trò học.

Năm 1983, khi tôi về Hà Nội, tôi được gặp nhà thơ, lần đầu trong đời. Nhưng hai chúng tôi cảm thấy gần gũi như thể đã quen biết từ lâu. Chị Hồ Dzếnh - Hồng Nhật - cũng rất đáng mến. Chúng tôi đã nhiều lần gặp nhau, rủ nhau đi ăn sáng hoặc họp nhau ở nhà anh chị dùng cơm hay thưởng thức những món ăn Hà Nội mà chị rất sành sỏi. Vào những năm này, anh vẫn còn khỏe, người gầy và cao, dáng dấp nhẹ nhàng: người về già có vóc hạc là biểu hiện sống lâu trăm tuổi.

Nhưng mấy năm về sau, anh không được như trước: bệnh hen suyễn vẫn hành hạ. Ở Pháp có nhóm người yêu thơ của anh, trong đó có người em gái kết nghĩa làm bác sĩ, đã giúp gửi thuốc men và bồi dưỡng cho anh, thế nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm. Và anh đã ra đi vào tháng 8 năm 1991.

Năm 1983, khi tôi được biết anh thì đồng thời, tôi cũng được biết Người Em gái, Nàng Thơ của Nhà Thơ, người con gái nói trong Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé, lúc này đang sống ở Pháp với chồng và con. Hai gia đình chúng tôi thân nhau và thường đi lại thăm hỏi nhau.

Một hôm, sau khi đi Hà Nội về, chị khoe với tôi có đem một tác phẩm hồi ký của Nhà thơ, đó là bản thảo quyển Truyện Không Tên, do chính nhà thơ viết. Cuốn Truyện Không Tên được in ở Hà Nội năm 1994 hay 1995.

Nhưng việc độc đáo hơn hết là việc Nàng thơ của Nhà thơ - như đã nói - hiện còn sống ở Pháp - Nguời Em gái của Thi sĩ, đã cho tôi biết một số các bài thơ Hồ Dzếnh viết tặng chị vào những năm rất gần đây, kể từ 1979, khi chị ở Pháp đã bắt liên lạc với anh ở Hà Nội. Chị cũng đã về Hà Nội - Nàng Thơ trong Quê Ngoại, sau trên dưới bốn chục năm xa cách, đã gặp Nhà thơ lúc này đang sống với chị Hồng Nhật. Gia đình thi nhân chấp nhận người em gái một cách tự nhiên và rất thân thương. Thế là khởi đầu một nguồn cảm hứng mới đối với nhà thơ của chúng ta- sau bốn chục năm - như đã nói.

- Tết Kỷ Mùi 1979, thi sĩ viết:

Mái tóc đời ta dù đã bạc
Nhưng lòng thanh thản mãi không thôi
Vì chung nguồn gốc tình yêu mẹ
Sáng mãi thanh xuân với đất trời.

(Tặng HP).

Quả thực năm 1979, nguồn thơ lai láng đã trải đầy trên mấy bài rất trìu mến. Năm 1977 khi viết bài Núi Vọng Phu, Hồ Dzếnh chỉ nói tới:

Bốn nghìn năm ấy bao sương gió
Mà vẫn đinh ninh thiếp đợi chàng.

Cũng như năm 1978, khi viết Sông Lý Quê Em, thi nhân mới ám chỉ xa xa trong những lời:

Chạnh nhớ bao người xa cách sông
Sáng nay xuân tới hẳn nao lòng
Muốn làm một cánh chim về tổ
Sông Lý thương và sông Lý mong.

- Nhưng năm 1979, có những bài như bài Paris' Mùa Nắng, rất rõ rệt nói tới mối tình nối lại sau bốn chục năm:

Xao xuyến vương theo từng ngọn cỏ
Rừng Boulogne nắng bóng chen cây
Musset yêu Georges Sand trước
Âm hưởng thơ còn vọng đến nay.
Giờ khắc hai phương chênh sáng tối
Địa cầu này vẫn địa cầu chung
Em ơi! Khói lửa mai đây tắt
Triệu cánh tay ta kết một vòng.

Cũng trong năm 1979 này, trong bài Anh viết cho em, có lời kết:

Ôi hồn kỷ niệm xôn xao
Thời gian thoắt bỗng tan vào không gian
Tình ta đâu có lỡ làng
Đời ta đâu có muộn màng hỡi em!

Thực ra có lỡ làng rồi chứ, thi nhân không lấy được Nàng thơ nên mới thành Nhà thơ, Nhà thơ lớn, nhưng nếu thành duyên thành phận thì biết đâu không còn thơ. Dẫu sao, như để vớt vát, sau bốn chục năm xa cách, gặp lại nhau thì kể như chưa đến nỗi lỡ làng, Hồ Dzếnh có ý nói thế chăng? Và thi nhân hạ những lời chung kết đau thương và chua xót:

Ôi Người Em Gái anh mơ
Yêu nhau, ta chẳng bao giờ cưới nhau

(30-8-1979)

Cũng năm 1979 này, có Bài thơ tạm biệt, với bốn câu kết thúc:

Có thể nào quên những phút giờ
Bên Em, chuyện thực đẹp như mơ
Phong thư tiếp nối đường liên lạc
Ta lại thương nhau, lại đợi chờ.

Lại đợi chờ, bởi vì hai người hai phương trời cách biệt và mỗi người đều còn gia đình riêng rẽ. Gia đình thi sĩ chấp nhận Nàng thơ như người em gái trong nhà, mỗi lần nàng về thủ đô.

- Năm 1980, Nhà thơ viết tặng Nàng thơ bài Gặp nhau trong đó có câu mở đầu:

Gặp nhau cuống quít, rộn ràng
Lời chưa nói kịp, lá vàng đã bay!

Và câu kết thúc:

Yêu em, dù nói nghìn lời
Cũng không vơi được một phần nhỏ nhoi.

Bài này thi nhân viết tại TP Hồ Chí Minh khi đi tiễn Người Em Gái trở về Pháp.

- Năm 1981, có bài Hoa Sen viết lại kỷ niệm Rủ nhau đi chợ Đồng Xuân, sau bốn chục năm xa cách, sau Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé, thời xa xưa.

Rủ nhau đi chợ Đồng Xuân
Mà như đi giữa bâng khuâng thuở nào
Với lời kết có một chút não nùng, đau xót:
Nhớ em, nhớ đến khôn cùng
Hương sen càng mát, nỗi lòng càng đau...

(Tặng HP)

Cũng năm 1981, trong Cỗ bài tam cúc, gợi lại một kỷ niệm xa xưa, thi nhân buông lời kết nói lên lòng chung thủy của mối tình đầu, không kém phần ai oán:

Dù tóc đời ta điểm bạc
Bể dâu thời thế phôi pha
Em ạ, cỗ bài tam cúc
Vẫn thơm nguyên vẹn tình ta!

- Năm 1986, nhân dịp đến thăm cụ bà thân sinh của Em Gái trở bệnh nặng, cũng là cụ bà phần nào đã không muốn gả Nàng thơ cho mình, cách đây đã gần nửa thế kỷ, ngồi bên giường bệnh, Nhà thơ đã cảm hứng viết tại chỗ Bài thơ chép lại với câu mở đầu thanh thản, không hờn giận, không trách than:

Khi hai đứa mình còn trẻ
Mẹ không cho ta cưới nhau
Mẹ nói: lấy chồng thi sĩ
Sẽ nhiều vất vả, lo âu.

Và câu kết thúc nhẹ nhàng như "mỉm cười trong nước mắt..."

Hôm nay trở về thăm mẹ
Bệnh già gần phút lâm chung
Ta chẳng còn xa nhau nữa
Mỉm cười, mắt mẹ rưng rưng...

(18-12-1986)

Chúng tôi không nhắc tới mấy bài thơ quen thuộc viết vào năm 1988 như bài Nhớ tiếc Thanh Tịnh, bài Cầu Giát, cũng như bài Mối tình đầu, viết năm 1989.

Nhưng cũng năm 1989 này có bài Hoa mẫu đơn, "hay đến rợn người" - lời của chị Hồng Nhật - với câu kết:

Đêm Giáng sinh này em ở đâu
Nghe chuông có nhớ thuở ban đầu?
Ước chi sống lại thời xưa nhỉ
Để trẻ ra và để hẹn nhau!

(Noel 1989)

Nên nhớ năm 1989 này thi nhân đã tròn 73 tuổi thọ và hứng thơ không có tuổi, thi nhân vẫn còn mong ước được "hẹn nhau" nhưng "đừng gặp nhau", trong hoàn cảnh hai người hai phương trời như đã nói.

Trong mấy bài thơ cuối cùng thi nhân viết năm 1990, có bài Cỏ Lau, nhân giỗ đầu người bạn thân, nhà văn Nguyễn Minh Châu và bài Sông Xuân rất ngắn gửi HP. Phải chăng đây là lời trối trăng cuối cùng thi nhân gửi Người Em Gái. Cái trăn trở, cái oan khiên vẫn đeo đuổi nhà thơ, hình ảnh Người Yêu, Nàng Thơ vẫn canh cánh bên lòng, không sao nguôi đi được, cho dầu tuổi đã 74, cho dầu đã tới giây phút gần đất xa trời, hay gần trời xa đất, bởi vì thi nhân mất năm sau, 1991.

Sông sâu hẹn chở hết lòng
Đò xuân đem hết chờ mong tới bờ
Trăm năm thôi lỡ hẹn hò
Bến sông vẫn đó, con đò vẫn đây.

(1990)

Thế là thi nhân như muốn từ biệt Người Yêu và đã ra đi. Lần cuối cùng tôi được gặp là năm 1989.

Sau khi nhà thơ mất, chị Hồng Nhật đã sưu tầm được một số bài và thơ còn bỏ quên trong các giấy tờ, kèm với tất cả những bài báo viết về thi nhân và gửi cho tôi. Đồng thời HP cũng trao cho tôi tất cả những sáng tác thi nhân gửi tặng và còn thêm một số bài rất "xưa" thi nhân làm tặng Cô áo trắng Trường tư thục Thanh Hóa vào những năm 1938 - 1940 mà "Cô" còn nhớ thuộc lòng cho tới ngày "nay", như bài "vô đề":

Anh đợi đến ngày em lấy chồng
Anh về lấy vợ thế là xong
Vợ anh không giống em là mấy
Anh lấy cho anh đỡ lạnh lùng.

Hai bài đã có đăng trong một tờ báo thời đó năm 1942, bài Nhớ Chiều Quân, rất cảm động và có ảnh hưởng tới nhiều đề tài bài thơ sau này của thi nhân, bài viết khi được tin Người Em Gái đi lấy chồng:

Hôm nay Em lấy chồng đây
Gấp tư tờ lịch nhớ ngày Em đi
Bây giờ mới biết mình si
Đời yêu thêm một bài thi "Lấy chồng".

Và sau mấy câu chúc, thành thực và thanh thản, thi nhân viết:

Chiều nào nghe xuống hoàng hôn
Tôi rười rượi nhớ, quay hồn về mơ
Chiêu Quân biệt Hán sang Hồ
Có buồn cũng đến như là... thế thôi!

Thi nhân đã coi Người Em Gái như Người Đẹp nhà Hán đem cống rợ Hồ phương Bắc, "Chiêu Quân cống Hồ!".

Tất cả những bài hai người thân trao cho tôi, chị HN và chị HP, tôi đã có ý định cho ấn hành sau khi nhà thơ mất. Thực ra, tôi phải chờ hai năm sau mới thực hiện được, bởi lẽ những bài thơ tâm tình thì thuộc riêng tâm khảm người nhận, không thể đem ra công chúng được. Không ai phơi bầy lòng mình ra cho người ngoài thấy, người ngoài biết, trái với niềm thận trọng và sự kín đáo của con người. Tôi mất nhiều công phu thuyết phục đại khái như sau. Hồ Dzếnh đã thành nhà thơ của dân tộc, của quần chúng Việt Nam, cho nên tất cả những tác phẩm, những sáng tác của anh cho dù có thuộc quyền sở hữu của người nhận, nhưng thực ra là di sản chung của văn học Việt Nam. Những bài thơ đau đớn đến xé gan xé ruột của Alfred de Musset đã vĩnh cửu hóa người yêu của ông là Georges Sand. Cũng vậy bài thơ Hồ (Le Lac) của thi sĩ Lamartine đã để tới ngàn thu tên người yêu xấu số là Elvire.

Sau cùng, tôi đã thành công. Hôm nay tôi viết bài này để tưởng nhớ nhà thơ, tôi lại nhớ câu nói lúc sinh thời của Hồ Dzếnh: "Có hai tiếng hát thánh thót nhất, đó là tiếng chim sơn ca hót trước bình minh và tiếng con thiên nga hót trước khi nhắm mắt lìa đời". Nhà thơ ám chỉ những bài thơ sau cùng của cuộc đời mình vậỵ
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »


Image

Đọc... chơi vài bài ca dao


Nguyễn Hưng Quốc

Ca dao, ai cũng biết là hay. Tuy nhiên, có nhiều bài ca dao chúng ta đọc đi đọc lại cả trăm lần, mơ hồ cảm nhận là chúng hay, mà chả hiểu chúng hay ở chỗ nào cả. Chỉ đến một lúc nào đó... Ví dụ bài ca dao rất quen thuộc này:

Mình nói dối ta mình hãy còn son,
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi xách nước tắm cho con mình.


Tôi thuộc bài ca dao này từ nhỏ. Nhưng chỉ gần đây, tôi mới bắt đầu loé thấy một ít cái hay của nó. Trước hết, chúng ta biết ngay bài ca dao này được làm theo thể lục bát. Bình thường, trong thơ lục bát, câu sáu chữ nằm trên câu tám chữ, lục rồi mới đến bát. Tuy nhiên, trong bài này có điểm lạ: là thơ lục bát, nhưng thay vì mở đầu bằng một câu lục thì nó lại mở đầu bằng một câu bát phá thể. Hệ quả là gì? Hệ quả là hơi thơ của câu thứ nhất dài hẳn ra. Dài và thiết tha vô hạn: tấm lòng của anh thanh niên mở ra bao la với những nguyên âm 'o' và nguyên âm 'a' rộng rãi và khép lại ở nguyên âm 'i' thầm thì trong chữ 'mình' lặp lại đến hai lần ở câu thứ nhất. Thành ra ở đây, ngay câu thứ nhất, đã có một nghịch lý: ý câu thơ là tố cáo một sự dối trá ('Mình nói dối ta...') mà giọng thơ thì lại rất mực ngọt ngào và ấm áp: anh thanh niên biết mình bị lừa mà lại sẵn sàng chấp nhận bị lừa, sung sướng để chịu bị lừa.

Hay nhất trong bài ca dao trên là chữ 'mình'. 'Mình' là cách xưng hô đầy âu yếm để gọi người mình yêu. Chữ 'mình' ấy lặp lại đến năm lần, mang hai ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: bốn lần đầu, 'mình' là em, chỉ người con gái, ngôi thứ hai số ít: 'con mình' là con của em, là 'your child'. Đến lần thứ năm, cũng là 'mình', nhưng 'mình' ở đây lại là ta, là chúng ta, ngôi thứ nhất số nhiều, bao gồm cả người con trai lẫn người con gái: 'con mình' ở câu cuối là 'our child'. Người thanh niên chấp nhận đứa con riêng của người yêu làm con của mình.(1)

Bài ca dao mở đầu bằng chữ 'mình', kết thúc cũng bằng chữ 'mình'. Từ chữ 'mình' đầu bài đến chữ 'mình' cuối bài, cách nhau chỉ có 28 từ mà thực ra là cả một quá trình chuyển hoá của mối quan hệ giữa người con trai và người con gái, là lịch sử của một mối tình vừa ngang trái lại vừa cảm động. Trước là hai, sau chỉ là một: người thanh niên chấp nhận người tình ngay cả khi bị chị đánh lừa.

Cuối cùng, vì lặp đi lặp lại nhiều lần từ 'mình', chứa đựng nhiều âm 'm' vốn là một phụ âm môi, nhẹ nhàng và ngọt ngào, bài ca dao mang đầy giọng tâm tình. Như một lời thủ thỉ, thầm thì. Hiếm có bài ca dao nào của Việt Nam mà có cái giọng ngọt và ấm đến như vậy.

Hay bài ca dao này, còn nổi tiếng và quen thuộc hơn nữa:

Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc;
Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay...
- Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ;
Chim vào lồng, biết thuở nào ra.


Bài ca dao này đã được khá nhiều người phân tích. Phần lớn đều tập trung ở khía cạnh hình tượng và ngữ nghĩa. Những sự phân tích ấy ít khi khác nhau cho nên tôi không muốn nhắc lại làm gì. Tôi chỉ xin lưu ý đến khía cạnh ngữ âm, một khía cạnh ngờ như có khả năng tiết lộ khá nhiều điều thú vị, đặc biệt là cảm xúc của người con gái.

Bài ca dao được cấu trúc bằng hai ngôn ngữ: ngôn ngữ của người con trai và ngôn ngữ của người con gái. Bài ca dao giống như một vở kịch với hai lời đối thoại. Nhưng lời nói của người con trai không hẳn là một lời nói, có vẻ như là lời kể của ai đó, một nhân vật thứ ba, ở ngoài. Tại sao? Không có gì khó hiểu cả: người con trai đang ở trong một trạng thái bất ổn, phân thân, hồn một nơi mà thân xác một nơi. Nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: không hiểu anh loăng quăng, líu quýu trèo lên, trèo xuống để làm gì vậy? Thật ra, có gì lạ đâu. Nhớ, trong một bài ca dao khác, một người con gái cũng có cái dáng điệu loăng quăng líu quýu như thế: 'Khăn thương nhớ ai / Khăn rơi xuống đất / Khăn thương nhớ ai / Khăn vắt lên vai...' Sự loăng quăng líu quýu ấy chỉ là một cách để làm nguôi ngoai một tâm trạng bời bời, đồng thời cũng là một dấu hiệu cho thấy anh không còn tự chủ được mình nữa, anh bị thất lạc tâm hồn. Anh bàng hoàng. Anh thảng thốt. Anh chấn động trước sự việc người anh yêu thầm đi lấy chồng.

Ngắm nụ hoa tầm xuân xanh biếc, người con trai ngẩn ngơ: 'Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay.' Câu này còn có dị bản là 'Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay'. Ca dao là một thứ văn chương truyền khẩu, từ đời này sang đời khác, do đó, khó mà nói được bản nào là đúng, bản nào là sai. Nhưng tôi vẫn có thích câu 'Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay' hơn. Lý do thứ nhất là vì cách dùng chữ 'đã' trong câu sau khiến cho tôi nghĩ đó là một cách nói khá mới. Lý do thứ hai là vì nhạc điệu: khi chữ 'rồi' thay thế chữ 'đã', câu thơ thêm một thanh bằng, hơi thơ thành ra nhẹ hơn, ngậm ngùi hơn; hơn nữa, khi chữ 'rồi' đi liền theo sau chữ 'chồng', âm 'ông' trong chữ 'chồng' cũng bớt mạnh và vang hơn là lúc nó đứng một mình.

Một câu hỏi quan trọng mà người đọc thơ không thể không đặt ra: có quan hệ gì giữa nụ tầm xuân và việc người con gái lấy chồng, từ đó, dẫn đến niềm tiếc nuối, xót xa kia? Ngỡ như không có. Mà lại có. Ở cái vần 'iếc' trong chữ 'biếc' cuối một câu thơ vốn có thật nhiều nguyên âm mở. Nó như một sự khép lại. Nó mảnh. Nó sắc. Như một sợi khói bay lên, bay lên, xa hút: nó hình tượng hoá một sự mất mát, một cái gì vuột khỏi tầm tay.

Người con gái chắc cũng yêu bạn mình. Chị đã từng chờ đợi. Hoài công vì sự nhút nhát của anh. Chị vừa thông cảm lại vừa giận. Chị đay nghiến: 'ba đồng.. một mớ..'. Sở dĩ đay nghiến là vì còn yêu, còn thương. Nhưng dẫu sao thì cũng đã lỡ: chị đã có chồng. Người con gái ý thức rất rõ điều đó, cho nên, giọng chị cứng lại: Bây giờ em đã có chồng. Như chim vào lồng...

Vần hai câu thơ rơi vào âm 'ông' sang sảng, ngân vang. Mạnh, rất mạnh. Dứt khoát, rất dứt khoát. Nhưng tôi ngờ là chị chỉ cao giọng để lừa dối chính chị. Bởi, nói chưa hết câu ấy, giọng chị đã trầm xuống, thổn thức: .. Như cá cắn câu.Cá cắn câu biết đâu mà gỡ; Chim vào lồng biết thuở nào ra.

'Câu', 'đâu', 'gỡ', 'thuở': những chữ kết thúc bằng nguyên âm 'u' và 'ơ', nửa khép nửa nhẹ, bềnh bồng, rưng rưng, không chừng là một tiếng khóc. Câu ca dao dưới đây khác hẳn:

Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó chạy rông trên bờ.


Từ trước đến nay, bài ca dao này thường chỉ được đọc trong những lúc nói chuyện phiếm, như một bài ca dao trào lộng. Đọc cho vui, đọc để cười chơi, vậy thôi. Trong ý nghĩa ấy, bài ca dao được nhìn nhận như một cái gì khá tục và khá nhảm.

Tuy nhiên, theo tôi, không chừng đó là một bài ca dao hay. Vấn đề là: nó hay ở chỗ nào?

Trước hết là nó bạo và nó mới. Nó không có một chút sáo ngữ nào cả. Dĩ nhiên, nói thế, chúng ta cần thận trọng. Không phải cứ hễ viết tục là thoát sáo. Từ trước đến nay, ở đâu cũng có những người khoái viết tục và viết bạo. Hiện nay, người ta lại càng viết tục và viết bạo. Nhưng chưa chắc đã hay. Dù sao, theo tôi, cái tục của câu ca dao này quả là hay thực. Nó không phải chỉ bạo để bạo, chỉ mới vì mới mà còn là một sự sáng tạo hầu vẽ nên một thế giới gần hiện thực hơn. Chúng ta hãy nhớ lại xã hội Việt Nam ngày xưa. Đâu phải ai cũng như là Thuý Kiều và Kim Trọng, cũng là 'người quốc sắc, kẻ thiên tài', là 'trai anh hùng, gái thuyền quyên' cả. Trong xã hội thời xưa, đặc biệt là ở nông thôn, đại đa số các cặp tình nhân là những anh thợ cày và những chị đầy tớ. Anh đi làm mướn, chị đi ở đợ. Anh giống như Chí Phèo, chị giống như Thị Nở. Đời sống của họ cơ cực, tối tăm. Cho nên, không có gì lạ khi họ tự ví Em như cục cứt... Anh như con chó ...

Cái tục của ngôn ngữ, cáithô củahình tượng ở đây lại là những cái thực và là một sự sáng tạo. Nópháđổ những khuôn sáo cũ kỹvàgiả tạotrong văn chương bác học.Nó vứt bỏnhữngson phấn những mũ mão đai hia để làm hiện hình những con người gần gũi với cuộc đời hằng ngày.

Hơn nữa, điều đáng cảm động ở đây là cặp tình nhân tự biết thân phận của người họ yêu và của chính họ chẳng ra gì. Em không ra gì. Mà anh thì cũng chẳng ra gì. Thế nhưng họ vẫn cứ yêu nhau, thương nhau. Chúng ta nhớ trong truyện 'Chí Phèo', Chí Phèo và Thị Nở cũng từng có lúc yêu nhau như tất cả mọi cặp tình nhân khác trên đời này. Và trên đời này, tất cả những con người bất hạnh khác, khi yêu nhau, thì cũng yêu nhau như tất cả những con người bình thường hay may mắn khác yêu nhau. Cách biểu hiện tình yêu có thể khác nhau nhưng những rung cảm những xao xuyến những quyến luyến những ngây ngất trong lòng thì chắc chắn là không có gì khác nhau cả.

Ở giữa câu lục là hai từ bắt đầu bằng phụ âm [k] ('cục cứt') mạnh, gắt, như một nỗi đau uất. Ở giữa câu bát là hai từ bắt đầu bằng phụ âm [ch] ('chó chạy') mềm mại, ngân vang, như một nỗi buồn tênh. Câu ca dao, như thế, không phải chỉ tả mối tình giữa hai người khốn khó bất hạnh tự ví mình với những gì hèn mọn, thậm chí hèn hạ nhất trên mặt đất. Điều đáng đau xót, toát lên từ câu ca dao này là ở chỗ, mặc dù họ tự biết thân phận của mình, mặc dù họ hoàn toàn an phận, chấp nhận cái số kiếp làm phân, làm chó, họ vẫn không được gần nhau. Em vẫn lênh đênh giữa sông và anh vẫn chạy rông trên bờ. Anh vẫn không bắt được em, vẫn ở từ xa mà nhìn em một cách thèm thuồng. Giữa hai người vẫn có một khoảng cách vời vợi. Không cùng.

Bài ca dao, do đó, mặc dù có một số chữ có vẻ tục, có vẻ sỗ sàng lại chứa đựng một ý nghĩa hết sức thâm trầm, thể hiện được đúng số phận của hàng triệu triệu cặp thanh niên nam nữ nghèo khó, lam lũ và bất hạnh trong cuộc đời, nhất là cuộc đời ngày xưa.

Còn một câu ca dao khác cũng rất đáng bàn. Đó là câu

Vân Tiên ngồi dưới bụi môn
Chờ cho trăng lặn bóp l. Nguyệt Nga


Xin nói ngay: tôi không có ý định khen đây là bài ca dao hay.

Không hay, nhưng nó không hẳn chỉ là một cách nói tục tĩu, nhảm nhí, và chắc chắn không phải là những câu vần vè vô nghĩa như lâu nay chúng ta vẫn thường tưởng.

Chỉ cần đặt câu hỏi: tại sao người ta lại không nói Kim Trọng hay Từ Hải hay Sở Khanh hay Mã Giám Sinh 'ngồi dưới bụi môn'? Trả lời câu hỏi ấy, chúng ta sẽ thấy ngay tác giả của câu ca dao này chính là những độc giả của Nguyễn Đình Chiểu. Thế nhưng, ở đây lại nảy ra một câu hỏi khác: tại sao, trong truyện Lục Vân Tiên, người ta không chọn nhân vật nào khác, như Bùi Kiệm, một nhân vật được Nguyễn Đình Chiểu mô tả bằng những lời lẽ rất nặng nề, rất thích hợp với vai trò của kẻ 'ngồi dưới bụi môn': 'Còn thằng Bùi Kiệm máu dê / Ngồi chề bê mặt như sề thịt trâu'? Tại sao?

Tại sao người ta lại chọn ngay chính Lục Vân Tiên, một nhân vật được xem là nghiêm trang, nghiêm túc, thậm chí nghiêm khắc, có thể xem như một khuôn mẫu về đạo đức, để bắt làm cái chuyện phàm phu tục tử ấy? Tại sao người ta lại chọn cái nhân vật không dám nhìn cả phụ nữ 'Khoan khoan ngồi đó chớ ra / Nàng là phận gái, ta là phận trai', không dám lần khân lâu bên phụ nữ 'Vân Tiên ngó lại rằng: Ừ / Làm thơ cho kịp chừ chừ chớ lâu' lại làm cái việc 'công xúc tu sỉ' ấy?

Tại sao? Chắc chắn là có lý do. Và lý do cũng không có gì khó hiểu: Chúng ta dễ dàng thấy được câu ca dao trên là một cách phản ứng chống lại thái độ đạo đức khắt khe, có phần giả tạo của Lục Vân Tiên, và phần nào cũng là của Nguyễn Đình Chiểu. Chế diễu thái độ đạo đức cứng nhắc ấy, dân chúng đã cho Lục Vân Tiên làm cái việc nhảm nhí là 'ngồi dưới bụi môn, chờ cho trăng lặn...' Trong cách nhìn này, câu ca dao trên có cùng trường nghĩa với một câu ca dao khác, từ lâu vẫn được xem là có 'lập trường tiến bộ' và 'đứng đắn' hơn:

Ban ngày quan lớn như thần,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma
.

Nói cách khác, tôi nghĩ, chúng ta hoàn toàn có lý để xem câu 'Vân Tiên ngồi dưới bụi môn...' như một cách đọc truyện Lục Vân Tiên. Đó là một lời phê bình cuốn Lục Vân Tiên. Trong vô số những lời phê bình truyện Lục Vân Tiên, không chừng cách phê bình này của dân gian là một cách phê bình hay. Hay và sắc sảo. Nó nhắm vào một trong những vấn đề trung tâm của tác phẩm là quan niệm đạo đức cũng như cách thức xây dựng nhân vật của cụ Đồ Chiểu nói chung. Cũng vậy, chúng ta có thể đọc những câu:

Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,
Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,
Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra.
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra...
hay một dị bản của nó:
Vân Tiên cõng mẹ trở ra
Đụng phải Chà Và, cõng mẹ trở vô.
Vân Tiên cõng mẹ trở vô,
Đụng phải ông Tây cồ, cõng mẹ trở ra.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra...


như một sự phê phán quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu: ông một mực đề cao những chuẩn mực đạo đức cổ điển và cổ kính như trung, hiếu, tiết, nghĩa với hy vọng là chúng sẽ giúp duy trì sự ổn định trong xã hội, tuy nhiên, một là, xã hội Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 19, trong sự cọ xát dữ dội với văn minh Tây phương và thế lực thực dân, cứ ngày một rạn nứt, vô phương hàn gắn; hai là, bản thân những chuẩn mực đạo đức tưởng đâu là chân lý vĩnh cửu ấy thật ra rất đáng ngờ, và với sự lung lay của Nho học, càng ngày càng đáng ngờ thêm. Con thuyền 'chở đạo' của Nguyễn Đình Chiểu, do đó, không phải chỉ trôi trên một dòng nước ngược mà còn, hơn nữa, trên thực tế, chỉ loay hoay mãi trong một vũng nước tù, không có lối thoát, hết 'đụng' cái này thì 'đụng' cái kia, cứ quanh quanh quẩn quẩn mãi trong sự tuyệt vọng và bế tắc. Nói cách khác, đó là những lý tưởng ở đường cùng. Biện pháp dựa trên nguyên tắc đạo đức mà Nguyễn Đình Chiểu đề xuất, hay đúng hơn, cổ vũ, đã không giải được bài toán của thời đại.

Theo tôi, chỉ với cách hiểu như thế, chúng ta mới giải thích được tại sao một nhân vật chính diện trong một tác phẩm nặng dụng tâm giáo huấn của một tác giả được xem là tiêu biểu nhất của dòng văn học giáo huấn lại biến thành - không phải một lần mà là nhiều lần, ít nhất là hai lần như vừa nêu - một nhân vật hài trong nền văn học dân gian.

Một ngày nào đó, nếu tôi đủ hứng thú và can đảm làm một tuyển tập phê bình về Nguyễn Đình Chiểu, có khi tôi sẽ chọn in những câu ca dao trên ngay ở trang đầu. Ở đâu đó, bên kia thế giới, đã xa lắm lắm những lời dạy lẩm cẩm kiểu 'trai thời trung hiếu làm đầu / gái thời tiết hạnh làm câu trau mình', đọc những lời phê bình thông minh và hóm hỉnh ấy, không chừng cụ Đồ sẽ cả cười.

Chú thích:

1. Nói chung, chữ 'mình' trong tiếng Việt có khá nhiều nghĩa và đặc biệt, quá trình chuyển nghĩa của nó rất thú vị. Ý nghĩa đầu tiên của chữ 'mình' là bộ phận chính của cơ thể (đầu/mình/tứ chi); từ đó, nảy sinh ra ý nghĩa thứ hai là toàn bộ cơ thể (mình mẩy). Cũng từ đó, 'mình' sẽ nảy ra ý nghĩa thứ ba là bản thân người nói, tương đương với chữ 'I' trong tiếng Anh. Rồi cũng từ đó, 'mình' chuyển sang nghĩa thứ tư là chỉ người mình yêu (tương đương với chữ 'you'). Lý do là, với người Việt, yêu ai là xem người đó là một với chính mình, như trong câu thơ:

Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai.


Gọi người mình yêu là 'mình' tức là xem người đó chính là cơ thể của mình, là chính bản thân mình. Hai người nhập làm một. Từ đó, lại nảy ra ý nghĩa thứ năm của chữ 'mình', đó là ý nghĩa chỉ chúng ta (tương đương với 'we'). Bởi vì 'mình' là mình, mà người yêu cũng là 'mình', thì như vậy, 'mình' đã là số nhiều, là một không gian chung dành cho nhiều người.

Sự chuyển nghĩa của chữ 'mình' cho thấy, với người Việt Nam, tình yêu không phải chỉ là một sự hoà nhập làm một; hai người yêu nhau không những chỉ thuộc về nhau. Đó là những quan niệm bình thường và quen thuộc ở khắp nơi. Với người Việt Nam, yêu nhau là cho cái mình của mình cho nhau, là đem cái chữ 'mình' vốn chỉ cơ thể của bản thân mình để tặng cho người mình yêu, là nhường cả chủ quyền trên cơ thể của mình cho người mình yêu. Nếu chúng ta kết hợp chữ 'mình' này và chữ 'nhà' dùng để chỉ vợ hay chồng lại với nhau, chúng ta sẽ thấy một quan niệm khá hoàn chỉnh về tình yêu và hôn nhân của người Việt Nam: Yêu nhau và lấy nhau là đem chính bản thân mình tặng cho nhau, là biến người mình yêu thành chính mình, hơn nữa, thành nơi cư ngụ của mình. Người này là 'mình' của người kia, là 'nhà' của người kia. Nói cách khác, yêu nhau và lấy nhau là ở trong nhau, là che chở cho nhau, là tự biến thành tổ ấm cho nhau.

Nguyễn Hưng Quốc
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

Y. có yêu anh không ?
“Cặp mắt ướt đa tình, đôi môi đỏ chu son của người con gái trường luật đã đi qua, thoáng hiện ra. Và từ đó, cả tiểu đoàn, kể cả những tên đệ tử trời đánh của chàng, đều tủm tỉm cười mỗi khi nói chuyện với chàng. Đằng sau nụ cười, là một vẻ ranh mãnh, tẩm ngẩm làm như họ biết rõ chàng đang hạnh phúc với một cô gái nào đó có tên gọi H.Y…”

mở …

Tình cờ lên lưới, đọc được Mùa Hè 72, thấy nhân vật chính y như cố nhân xưa, đã 25 năm cách biệt. Lần cuối nghe tin cố nhân và gia đình đã vượt biển đến Mỹ năm 81, sau đó bặt luôn … Nếu đúng là cố nhân đã post bài ấy, xin liên lạc lại đ/c e-mail trên …
Nếu tác giả là người quen của cố nhân, xin chuyển hộ một lời thăm hỏi của H.Y . đến người xưa, với lời mơ một ngày gặp lại, dù chỉ để mời nhau một ngụm nước mát – Bây giờ, còn đâu con đường Duy Tân cây dài bóng mát ngày xưa để pha cho nhau một ly chanh đường, phải không hỡi cố nhân ????!!!!

Chúc lành,
hy72

Y. có yêu anh không ?
From:hy72<hy@rocketmail.com>
Subject: người xưa …
To: tngh@yahoo.com

Cố nhân......

hãy nhìn những dấu chấm mở đầu thư để xem anh có nghe thấy tiếng thở dài của Y. cất giữ trong tâm mấy chục năm, từ khi chia tay nhau nghẹn ngào và tức tưởi . ..
Y. tưởng đã mất hẳn nhau trong cuộc đời này rồi, mà kiếp sau thì chờ lâu quá… Cảm ơn Trời, cuối cùng còn được “thấy ” thấp thoáng bóng nhau, dù chỉ … trên lưới. Đừng hỏi han gì về đời sống hiện tại, vì từ khi đọc được truyện anh đăng, Y. đã trở về cô Y. của quá khứ, cô Y. trước một mùa hè 72 đỏ lửa. Đừng lay Y. dậy nữa nha, anh M.

Đọc lại câu hỏi của anh, Y. lại thở dài và ngậm ngùi. Cũng câu hỏi ấy, dạo đó Y. muốn được hỏi anh một lần, rồi thôi … mà không sao thốt nên lời. Bây giờ Y. có còn cần phải trả lời anh nữa không ? Dù sao, cũng cảm ơn câu hỏi muộn màng của anh, đã thêm chút ấm lòng cho Y. vào những năm tháng cuối cuộc đời này … Chỉ có một điều quá phũ phàng, Y. đã trở về HY của 72, nhưng, chẳng ai đẩy lùi được những quyển lịch, phải không anh ?
Bây giờ là mùa hè 97 rồi đó, nếu không có những chữ nếu, không chừng chúng ta đã kỷ niệm 25 năm sống chung như người phương tây vẫn làm …

Đọc lại thư anh, Y. vẫn còn ngỡ như trong mơ, những giấc mơ thỉnh thoảng vẫn có trong đời sống bên cạnh, đời sống như của ai đó, xa lạ và tách biệt … Đầu óc còn hoang mang nhiều, chắc không viết dài cho anh được đâu, hẹn anh thư sau nha.

hy72
Image
Lệnh Hồ Tiểu Ca Động Ông Đô Quảng Trị
Chiếc trực thăng bỏ lại quốc lộ 1 với những chấm xe cộ đang di chuyển ở phía dưới, vụt tách lên cao hơn về phía tây, và quang cảnh bỗng dưng thay đổi hẳn… Mặc dù tiếng động cơ vẫn ồn ào, chàng tự nhiên cảm nhận sự im lặng mới xuất hiện đầy đe dọa. Tránh ánh nhìn tò mò của người xạ thủ đại liên, chàng đưa mắt lơ đãng ngó những mảng xanh, đỏ liên tiếp trải rộng phía dưới, trước mặt. Trời Quảng Trị nắng gắt và trong xanh. Thỉnh thoảng một cụm khói lan tỏa như nhắc nhở chàng vẫn còn có mặt của sự sống trong nỗi im lặng chàng vừa cảm thấy. Chiếc trực thăng nghiêng mình đổi hướng. Chỉ trong bất chợt, chàng ngẩn người nhìn những thay đổi ở phía dưới. Những hình tròn rải đều như những chiếc nón, hình ảnh dễ thương thỉnh thoảng chàng bắt gặp ở sân một trường nữ… Phải một phút suy nghĩ, chàng mới nhận ra dấu vết của những bom trải thảm cho vùng oanh kích tự do. Và chàng ý thức mình bắt đầu thật sự dự phần vào cuộc chiến, một cuộc chiến mà trước đó chàng chỉ được nghe và biết đến rất ơ thờ qua báo chí cùng phim ảnh. Bỗng chốc, chàng thấy thành phố vừa rời bỏ, thật sự cách biệt. Và ngay cả những người thân yêu của chàng nơi đó cũng trở nên xa vời, như chỉ còn những liên hệ thật mơ hồ… Lòng chàng dấy một chút gì bồi hồi cảm xúc, như thuở chàng nắm lấy tay mẹ, lần đầu tiên bước chân đến trường. Một chút dĩ vãng vút thật nhanh trong tâm trí, và trái tim chàng như hụt hẫng khi nghĩ đến mối tình vừa gẫy đổ…

Trực thăng xuống thấp hơn. Bây giờ chàng đã nhận ra những trảng tranh với những thân cây khô cháy. Chiếc máy bay đang lạng thân tầu với những vòng tròn hẹp dần. Tự nhiên một nỗi hồi hộp chen lẫn xúc động dâng lên. Viên hạ sĩ quan tiền trạm ghé miệng áp sát hét to bên tai chàng những lời không rõ. Tiếng động cơ gầm thét mỗi lúc mỗi to, và gió còn ù ù bên tai, chàng gật đầu lia lịa cho anh vui lòng. Chàng nhớ lại lúc ở bãi chờ “em gái hậu phương”, anh đã ái ngại nhìn dáng dấp thư sinh của chàng, không ngớt lập lại những lời căn dặn – “Ông thầy nhớ hết sức tỉnh táo, pháo tụi nó chào mình liền đó. Chạy, chạy ngay từ lúc vừa nhẩy khỏi con tầu… Chạy thật xa bãi nghe ông thầy” – Mấy tiếng động ào ào, chàng vừa kịp nhìn thấy những kiện hàng lao vút xuống, đã thấy như phản xạ, mình đang nhoài người chồm dậy, phóng chạy về phía những bụi cây, ở đó, lấp ló mấy chiếc nón “bo” nhẹ tênh, so với chiếc nón sắt đang tụt lên tụt xuống trên đầu chàng…

Người đàn anh trên chàng hai lớp, mỉm cười khi chàng đứng nghiêm, theo đúng tục chào trình diện – “Thôi toa bầy vẽ chi, có chút gì tươi Sài gòn mau bỏ ra đãi moa với xấp nhỏ…Chút xíu nữa, moa đưa toa đi giới thiệu với bộ chỉ huy tiểu đoàn”. Quay lại phía sau lố nhố mấy kẻ đứng dòm mặt ông thầy lính mới, anh cao giọng, “Phúc đâu, cất đồ cho ông thầy mày “- Và anh T. đã giới thiệu chàng với một đám đệ tử rất ngầu qua một buổi nhậu dã chiến nhanh, gọn, trước khi rù rì to nhỏ với chàng những chuyện trong nhà ngoài ngõ.

Đêm đó, những người anh em phía bên kia cũng ghi thêm cho chàng kỷ niệm để ghi nhớ ngày đầu hành quân. Nửa đêm, bỗng cối ròn rã phủ ngọn đồi. Mỗi lúc tạm ngưng, chàng nghe rõ những hồi kèn xung trận, xen lẫn những tiếng hô văng vẳng nhỏ to theo gió. Ngụy dù, ngụy dù! Hàng sống! Chống chết! Ngụy dù, hàng sống, chống chết! Chàng yên lặng ngồi hút thuốc trong chiếc hố cá nhân, bên cạnh anh T. đang lẩm bẩm chửi thề, hàng cái con mẹ mày.
Chàng ngẩng đầu lên trên, một khoảng trời đen thấp thỉnh thoảng xỉn lên trong ánh châu. Tiếng một người sĩ quan đang điều động bên trên la hét – “Đ.m mày, ngóc cái đầu lên. Chúi xuống bắn cái củ C. ông cố nội mày à! “- Sau này, chàng mới biết và quen với đại úy G., sĩ quan ban 3 T.Đ, còn gọi là Trư bát Giới, một tay điêu khắc không hề xuất thân từ một trường mỹ thuật nào, nhưng đã sáng tạo nên biết bao đời sống cho những khúc cây, những tảng đá, khiến chúng thường khi sống dai hơn cả kiếp người, vốn dĩ rất mong manh trong thời chiến…

Mùa hè 72, còn được biết đến như là mùa hè đỏ lửa, đã bắt đầu với chàng như thế. Và rất tự nhiên chàng hội nhập với đời sống mới, theo chân Tiểu Đoàn 2 Dù thúc sâu về phía tây Trường Sơn trong chiến dịch giải tỏa Quảng Trị, mở đầu với trận đánh chiếm đồi Trường Phước, cao điểm 150 ghi trên bản đồ quân sự …

tngh …

Khi tên đệ tử mới rụt rè, “ông thầy, trển tiểu đoàn xin ám danh mới của ông thầy”, chàng đã ngẩn người. Thì ra, ngoài tên trên khai sinh, M., ngoài tên thường gọi ở nhà, và ngoài những biệt danh cũng như hỗn danh âu yếm từ bạn bè cùng trường lớp, hay trong giới giang hồ nhí, nay chàng được đẻ thêm một cái tên cho chính mình để có ám danh đàm thoại… Cặp mắt ướt đa tình, đôi môi đỏ chu son của người con gái trường luật đã đi qua, thoáng hiện ra. Và từ đó, cả tiểu đoàn, kể cả những tên đệ tử trời đánh của chàng, đều tủm tỉm cười mỗi khi nói chuyện với chàng. Đằng sau nụ cười, là một vẻ ranh mãnh, tẩm ngẩm làm như họ biết rõ chàng đang hạnh phúc với một cô gái nào đó có tên gọi H.Y. Còn chàng thì cũng vờ vĩnh cười nhe,ï như ngấm ngầm xác nhận những dự đoán của người đối diện. Chỉ đến khi, trong một cơn say ngất trời ngày chàng nhận được thiệp của H.Y. với hàng chữ nhỏ và đều, thế nào anh cũng phải về để mừng cho Y., chàng mới thực sự phá vỡ hết những tưởng tượng của đám đệ tử. Cả bọn vừa tiu nghỉu, vừa có chút hờn giận, làm như chính chúng thất tình cô H.Y. nào đó chứ không phải là chàng. Chúng đâm ra giận ngang … cô H.Y. không quen biết kia, có mắt không ngươi, nỡ phụ bạc ông thầy ngon bạt mạng của chúng!

Đêm đó, các đệ tử chàng đã thi nhau ca sáu câu tình lỡ, mùi tận mạng để an ủi chàng. Và khi men rượu lên cao ngất, có đứa còn hào sảng xin chàng vài ngày phép về thành đô để … thế thiên hành đạo, làm chàng phải gạt phắt đi trong nỗi ngượng nghịu, cảm động rất… cải lương… Và Tư, tên đệ tử có ngón guitare điêu luyện, ngay sáng sớm hôm sau đã lẳng lặng lên ban truyền tin tiểu đoàn, tự động xin đổi ám danh chàng thành tên của chúa những loài chim, như để dè bỉu cái tên của loài chim phụ bạc mà một thời Tư đã nhất định với chàng, cái tên của loài chim dễ thương nhất em mới nghe!

Thật sự, khi nhận được thiệp cưới từ người lính ra tăng cường chuyển, chàng hết sức ngẩn ngơ, dù đã đoán trước cũng như đã chờ đợi chuyện phải đến.
Chàng đoán trước và chờ đợi ngay từ hôm chàng còn nén được lòng mình, kết thúc câu chuyện với người đàn ông, ba của H.Y., khi ông xẵng giọng cùng chàng, “Tôi không cãi lý với cậu, tôi không bằng lòng gả con gái tôi cho cậu, thế thôi. Cậu là người có học, tôi mong cậu đừng theo quấy rầy con gái tôi nữa … ” – “Ông yên tâm, từ nay không bao giờ tôi đặt chân lại căn nhà này ” – Và chàng chỉ kịp chào mẹ H.Y., đứng chờ sẵn nơi cửa ngoài, rồi hấp tấp quay lưng rời bỏ căn nhà… Người đàn bà đẹp phúc hậu, hết sức dễ thương và dịu dàng với chàng từ gặp gỡ lần đầu, đã cố cầm giữ. “H.Y. rất thương cháu… Đợi em về đã… Bác trai chỉ nóng vậy thôi…”. Một chút tủi thân lẫn hờn giận trong lòng… Chàng dạ nhỏ, chân vẫn bước. Những tiếng gọi tên người tình vang vọng trong hồn…. Giáp Tết, căn phòng trực sinh viên vắng tanh, và chàng đã một mình chờ giao thừa trong muôn nỗi cay đắng của dư vị cuộc tình. Hình như đêm ấy, chàng đã ứa chút nước mắt, những giọt nước mắt đầu tiên của người con trai đang yêu.

Chàng biết, chàng thuở ấy rất thương yêu H.Y., nhưng tuổi trẻ cương ngạnh và nhiều tự ái đã làm chàng phụ tình nàng, đã không cho chàng giữ được lời hứa với nàng. “Ba khó quá, anh có đợi cho đến lúc ba đổi ý ?” – “Anh đợi “. “Nhưng Y. đã lớn, đã hai mươi lăm, anh có sợ Y. già không ?” – “Anh đợi. Năm năm, mười năm cũng đợi …Cả đời!”. Chia tay ở sân bệnh viện như thế đó mà là chia tay cả đời. (Ngày ấy, thời chiến. Ngày ấy, người ta chỉ hối hả quen và lấy nhau mà không ai muốn chờ đợi. Nếu phải chờ đợi xin hãy là chinh phụ. Thời chiến, không người tình nào muốn ước hẹn với một tương lai nấm đất xanh mầu cỏ non. …… )

“Thế nào anh cũng phải về để mừng cho Y.”. Nghe như có giọng nũng nịu của nàng đâu đây, như đôi mắt nàng đang liếc liếc, cười cười cùng chàng. Và chàng đã ngẩn ngơ, định lên tiểu đoàn hỏi phương tiện về dự đám cưới người tình cũ đi lấy chồng… Chỉ khi sực tỉnh, với sự nhắc nhở của cả đệ tử ruột lẫn một người bạn thân, chàng mới “hào sảng” ngất ngưởng giữa núi đồi cạnh con sông Nhung, uống thấm hết những cay đắng của men rượu bách nhật dã chiến, gửi mua tận ngoài Phong Điền…
Sau này, thỉnh thoảng nhớ lại, chàng vẫn tự hỏi, giá như có một cơn say trong tiệc cưới H.Y., cơn say nào sẽ ở trong trí chàng lâu hơn, cũng như cơn say nào sẽ ngất trời hơn?

thời chiến…

Chàng hài lòng nhìn vết thương của người lính được di tản về, đang nhe răng cười với chàng. Thật không uổng công dậy dỗ, dù rằng cả thầy lẫn trò đều không có đủ thì giờ để học hỏi lẫn nhau. Chàng nhớ, khi nhận công điện của tiểu đoàn cơ hữu cho biết yêu cầu bổ xung quân số chàng gửi về gần như hàng ngày sẽ được thỏa mãn, cả cái trạm cứu thương còn vỏn vẹn chưa đến chục mống cho một tiểu đoàn trải mỏng, đều hân hoan ra mặt. Hiện tại, mỗi đại đội chỉ có đúng một con cái, và ngay bên mình chàng, không bao giờ quá bốn mạng kể cả … ông thầy. Người đàn anh tiền nhiệm trong mười bẩy tháng rong ruổi từ Hạ Lào về, tây trấn cao nguyên, rồi ruổi ra xứ Quảng, sơ sơ ngốn hết mười mấy đứa con, đơn vị không sao bổ xung kịp. Lính chuyên môn ngoài nghề đánh đấm, còn cần có thời gian đào tạo mới xài được. Sau này chàng hiểu hơn câu nói khẽ của những đệ tử thỉnh thoảng nhắc lại về người đàn anh tiền nhiệm, “số ổng sát quân”. Đêm đầu tiên ngủ ở hậu cứ chờ sáng nhập trại học khóa dù, chàng trằn trọc mãi. Lần đầu về lại thành phố, thành phố dường như đã xa lạ hẳn với chàng. Không có một người con gái nào chờ đợi như trong … tiểu thuyết, chỉ có bố mẹ và mấy đứa em. Phải kể thêm cả mấy thằng bạn trời đánh ngẫu nhiên có mặt đúng lúc. Chính những người bạn này sau một chiều lang thang, buổi tối đã rủ chàng đi nhậu ngoắc cần câu, phải tắm hơi hai ba chỗ mới tỉnh táo. Mà tắm hơi thời chiến chắc chắn phải … mệt hơn thời bình rồi. Nhưng làm sao khác hơn được. Chàng nào có một người con gái mong đợi nơi đây. Thượng sĩ T. hậu cứ Trạm Cứu thương lo chỗ ngủ cho chàng cứ suýt xoa. “Chết, chết … ngày mai tập nhẩy dù mệt lắm. Bác sĨ phải dưỡng sức…”. Cái ghế bố nhà binh dã chiến được kê tươm tất tất trong gian phòng hẹp của kho thuốc, nằm mở mắt nhìn lên là thấy ngay ban thờ, chen chúc hai mươi cái bài vị bằng gỗ đơn sơ, ghi tên tử sĩ của trạm từ ngày thành lập tiểu đoàn. Buổi sáng đánh thức chàng, trong khi pha cà phê cho ông thầy, thượng sĩ nhất T. đã thật thà, “dạ, hết mười hai thằng là đời bác sĩ T đó, thưa bác sĩ. Tụi nó linh lắm, thỉnh thoảng em phải ngủ trực, cứ về chọc phá”. Hèn gì cả đêm chàng không chợp mắt được với những tiếng động mơ hồ, tiếng cười đùa hồn nhiên thanh vắng và thỉnh thoảng, cả tiếng chửi thề thô lỗ nữa. Chàng cứ nghĩ gần bên cạnh là khu gia binh. Té ra, cả bọn đã lễ mễ tìm về khua quấy để ra mắt ông thầy mới. Chết thì chết chứ muôn đời vẫn là thầy trò mà.

Toán tân binh được đón chào nồng nhiệt, còn thơm phức mùi thành phố… Sau khi kiểm tra sơ, chàng chỉ còn biết vò đầu bứt tai, kêu trời. Các đệ tử mới của chàng mỗi người mỗi vẻ, nhưng giống nhau ở một điều, ngoài khóa huấn luyện quân sự, cũng như bằng dù, chẳng tay nào có qua một ngày chuyên môn ngoại trừ thời gian được lăng xăng ở nhà bếp, hay canh gác vòng ngoài bệnh viện chờ đợi bổ xung…

Khi chàng gọi máy phản đối với người đàn anh đầu ngành, chỉ nghe được tiếng cười hì hì và sự vỗ về – “Thôi toa, có người là tốt rồi, đào đâu ra cái quý hiếm toa đòi hỏi… Chỗ toa còn mấy thằng cũ là may đấy, mấy chỗ khác mới toanh cả!” – Thôi thì, cái triết lý chàng học được thuở còn mài đũng nhà trường một lần nữa lại an ủi chàng… Nếu có một trái chanh, đừng ngồi đó mà than chua với đắng. Hãy đi tìm một chút đường, để sẽ có ly chanh đường, để sẽ uống ly chanh đường, uống môi em ngọt… Nhưng … nếu không tìm thấy đường thì sao? Ơ hay, ngay khi đi tìm đường là đã có mơ mộng ly chanh đường rồi, và như thế đã chẳng quá đủ để lãng quên đời, phải không?
Thế là, chàng lại lên máy năn nỉ mấy thằng con đang lội, rán kiên nhẫn thêm một chút xíu nữa thôi rồi sẽ được thay thế kéo về… Một lớp học cấp tốc mười ngày được mở ra cho một đám hỗn tạp, từ kẻ đã rời lớp ba trường tiểu học đến tên khá nhất vừa thi rớt tú tài một. Rớt tú tài anh đi trung sĩ … Tên đệ tử mới, mặt mày sáng láng không chịu đi trung sĩ, chấp nhận đăng lính trơn chỉ vì mê mầu nón đỏ, cuối cùng được đưa sang quân y vì … có trình độ. Lính nào cũng là lính, miễn cho em cái nón đỏ…. Lớp học kết thúc đúng dự liệu, dù chiến trận vẫn tiếp diễn không thèm chờ đợi. Thêm một con nhạn là đà, số người quanh chàng lại bớt đi một cánh chim bay vào vùng.

Và bây giờ, chàng đang hãnh diện với những thành quả đã ươm. Những vết thương thật sạch với những đường băng vừa khéo, vừa đẹp, cũng như những phiếu điều trị đúng qui cách đã làm chàng hết sức hứng khởi để sau này còn đủ niềm tin tiếp tục những lớp khác, ngay cả thời gian cải tạo trở về và bị đầy đi T.N.X.P…. Phương châm của binh chủng, Nhẩy Dù, Cố Gắng mà !

Chàng khám kỹ vết thương một lần nữa, rồi nhìn thẳng vào mắt của người lính, chậm rãi: “Không sao đâu, ở lại đây vài ngày là xong…”. Ánh mắt người lính thoáng khựng lại, cho chàng hiểu để hạ giọng nói thêm – “Mặt trận đang nặng, anh em cần mày. Chữa xong, ra Huế chơi bốn mươi tám tiếng dãn gân cốt rồi vào lại với tụi nó”.
Phải ở nhẩy dù mới thông cảm những người lính dù. Đa số những người gia nhập binh chủng đều sinh sống ở Sài gòn và những vùng phụ cận. Nhẩy dù, ngoài sự quyến rũ của mầu mũ và áo saut trận, còn là những quyến rũ của ánh đèn thành phố mỗi lần kéo quân về. Và mỗi chiến thương mặc nhiên như là những phiếu di tản nghỉ phép đặc biệt. Bởi thế, người lính trước mặt chàng đã theo đúng truyền thống, chia hết thuốc hút, lương khô cho những người còn lại, ba lô trống rỗng, và hồn thì đầy ắp Sài gòn…

Sáng hôm đó, chàng đã giữ lại hai người, có thể vì chàng nhiều nhiệt tình, cũng có thể vì chàng muốn có thêm cơ hội chỉ dẫn cho những đệ tử. Buổi trưa, chàng vui vẻ báo với người tiểu đoàn trưởng, “Có hai thương bệnh binh tôi giữ lại điều trị, xin trung tá chỉ thị cấp cho họ lương thực”. Viên trung tá im lặng. Một ngày trôi qua… Trưa hôm sau, đi vòng quanh tuyến đóng quân, chàng thấy hai người lính đang hòa ca chung cơm nước với đám đệ tử. Vui miệng chàng hỏi thăm, “Sao, tiểu đoàn đã cấp phát gì chưa?” – “Dạ, trung sĩ D. nói tụi em rán chờ chuyến tiếp tế tới…”. Trung sĩ D. là trưởng hỏa thực hành quân. Tự nhiên chàng thấy bực mình khi những kẻ được an vui nhàn nhã luôn luôn làm khó dễ người gian khổ địa đầu. Buổi chiều họp giao ban, chàng hỏi thẳng người tiểu đoàn trưởng. Câu trả lời thản nhiên như chuyện thiên hạ làm chàng ngỡ ngàng. “Lương thực có suất của nó. Những đứa này đã lãnh tiếp tế đầy đủ ở đại đội, bây giờ lấy đâu ra mà phát nữa… “. Bỗng dưng một cơn giận bùng lên. Chàng nhìn thẳng vào mắt người chỉ huy, rõ từng tiếng: “Trung tá, trung tá biết tụi nó đánh trận cho ai hưởng không? Trung tá đối xử sao cho những thằng còn mạnh nhìn thấy để khi hô tiến tụi nó còn dám tiến… “. – “Ơ, cái ông này hay nhỉ… “. Chàng không nghe dứt câu, quày quả trở về hầm mình. Một nỗi phiền muộn vô cớ dậy lên trong lòng chàng. Mới hai tháng hành quân, giữa người y sĩ tăng phái và người chỉ huy đơn vị đã có nhiều điều không thuận, bắt đầu từ hai lần chàng yêu cầu hủy bỏ lương thực tiếp tế vì đồ tươi đã mốc… Hai lần hỏa thực phải xuất quỹ đột xuất mua khẩn đồ ăn để tiếp tế lại. Ban hỏa thực nhìn chàng e dè mỗi khi chàng ra bãi khám đồ ăn. Chàng đã đụng đến những quyền lợi thiết thân của người nhiều quyền lực nhất đơn vị. Từ đó, những chuyện vặt vãnh cứ xẩy ra, và thường thì kẻ yếu thế bị chèn ép. Chàng nhớ lại lời khuyên của người đàn anh những đêm ở Cây số 17, nằm chờ vào vùng. “Có hai đường tùy toa lựa chọn, một là đi hẳn với tiểu đoàn trưởng, toa sẽ có đủ hết, phép, huy chương, thăng thưởng… , nhưng cả tiểu đoàn còn lại sẽ né toa; hai là đứng hẳn về phía mọi người, cả tiểu đoàn sẽ thương toa, ngoại trừ tiểu đoàn trưởng, và toa sẽ rời tiểu đoàn trắng tay… Còn đường thứ ba nữa, nhưng nhìn mặt là biết toa không làm nổi đâu, đó là toa đi được ở giữa, bình bình làm việc… Thôi, cầu cho toa gặp một tay khá là hơn cả. Bên tác chiến có nhiều tay khá lắm…”. Chàng đã chẳng gặp được một tay khá như lời chúc, và chàng đã chọn lựa. Sau này chưa bao giờ chàng cảm thấy hối hận về sự chọn lựa của mình…

Sáng hôm sau, trong lúc chàng đang ngồi khám cho một đợt bệnh binh, có tiếng huyên náo bên ngoài. Chàng bước ra đã nhìn thấy người tiểu đoàn trưởng, áo thun trắng, quần soọt ngụy trang, đầu đội nón bo, tay chống cây can bằng mây bóng nước, đang hầm hầm hò hét, “Đâu, thằng nào mới về nói lếu láo gì để ông H.Y. lên mắng vốn tao ra đây coi…” . Hai người thương binh còn rụt rè, ấp úng, chàng đã nghe tiếp… “Tại sao tao đã phát tụi bay không giữ để ông ấy hiểu lầm tao, hả, hả, hả…”. Cùng với những tiếng gằn giọng, cây can vung lên, đông tây. Hai người lính bị thương vừa khập khiễng lò cò, vừa giơ hai tay ôm đầu nghiêng ngả, chịu đựng… Có thể những đòn chỉ để thị uy, không đau, nhưng chàng bỗng thấy nghẹn họng. Cơn giận bất ngờ vỡ bùng ra. Thoắt một cái, chàng đã thấy tay mình giữ chặt đầu can. “Tôi yêu cầu trung tá dừng ngay hành động vũ phu này lại”. Viên tiểu đoàn trưởng trừng mắt nhìn chàng. Mắt hai người dán chặt vào nhau. Chàng nghe tiếng ông qua kẽ rít của những hàm răng: “Cái ông này hay nhỉ, cứ xía mãi vào chuyện của tôi, bây giờ lại không cho tôi dậy bảo lính tôi nữa sao?” – “Trung tá lầm rồi, lính mạnh khỏe là lính của trung tá. Tụi nó bị thương, tôi đang điều trị, tạm thời đang là lính của tôi”. Hai người nhìn nhau. Những lẩm bẩm không rõ. Chàng buông tay gậy. Người tiểu đoàn trưởng quăng mạnh chiếc can mây về phía hàng rào kẽm gai, hậm hực bỏ đi… Cơn giận trong chàng tiêu tan, nhưng nỗi phiền muộn vẫn thấp thoáng. Buổi trưa, chàng từ chối thông lệ lên dùng cơm chung với bộ chỉ huy T.Đ., gồm trưởng, phó, ban ba và cố vấn Mỹ tăng phái. Buổi chiều, tiếng tiểu đoàn phó nói chuyện qua điện thoại dã chiến, “thôi ông M., lên dùng cơm lại với tụi này”. Chàng từ chối. Tiếng ông N. nài nỉ, “thôi mà, chuyện gì từ từ tính, lên với tụi này đi, hơi đâu mà hờn giận …”.. Có tiếng cười khúc khích của tiểu đoàn trưởng đang nghe paralell. Cơn giận ào ra như nước vỡ bờ. Chàng biết, tất cả sẽ bị cuốn đi hết, kể cả chính mình. Chàng nghe giọng mình rõ từng tiếng, âm sắc như dao chém đá. “Xin lỗi thiếu tá vậy, tính tôi kỳ cục lắm, khinh ai là không thể ngồi chung bàn được.”.. Chàng nghe tiếng đặt máy xuống khô khan, và tiếng thở dài khác của ông N… “Thôi, ông nóng tính quá. Để lúc khác vậy…”. Buông máy, chàng thấy chân tay mình vẫn còn run rẩy cơn giận, không hay rằng mình vừa nói điều quá nặng với người uy quyền nhất của đơn vị. Sự việc xẩy ra ngay sáng sớm hôm sau chút nữa đã lấy đi mạng sống của chàng như để chứng tỏ quyền uy cũng như vuốt ve chút tự ái của kẻ đắc thế…

thất tình đi nhẩy dù …

(Chàng còn nhớ, ngày ra trường, buổi trưa về nhà báo tin cho mẹ đơn vị đã chọn, lòng chàng đã chùøng xuống cảm giác ân hận khi nhìn mặt mẹ như già thêm mấy tuổi. Đôi mắt mẹ ngơ ngác xa vắng, bất động. “Hết thứ để chọn rồi sao đi chi thứ dữ vậy con”. Đêm đó, mẹ đứng thắp hương vái Trời Phật rất lâu. )

Khi trái lựu đạn nổ tung trong hầm, chỉ khoảng hai tháng sau ngày đầu hành quân, chàng đã ra lệnh hậu cứ tuyệt đối giữ im lặng để khỏi mang thêm lo âu cho ba mẹ chàng. Chính lúc ấy, bỗng nhiên chàng nhận được sự nhắn hỏi nhiều lo lắng của H.Y. Tình chàng tưởng đã quên đi, bỗng thức dậy, vì chàng đã nhìn thấy H.Y. cũng đang rõi theo bóng chàng như thuở ấy chàng vẫn dấu kín nỗi mong nhớ nàng. Chàng cảm động đã muốn tìm nối lại sợi dây thất lạc, nhưng hình ảnh người đàn ông hãnh tiến, độc đoán và kiêu ngạo làm chàng ghê sợ.
“Khi khinh ai tôi không thể ngồi chung bàn”, câu nói ấy chút nữa đã giết chàng ngoài hành quân. Cũng câu nói tương tự, “Ông yên tâm, không bao giờ tôi đặt chân lại căn nhà này nữa “, đã kết thúc cuộc tình chàng hơn nửa năm trước, khiến chàng mang mãi nỗi oan khiên, thất tình đi nhẩy dù!

khép…

độc giả đọc chuyện tình hay chê trách mấy tay viết văn ưa tưởng tượng những lâm ly bi đát để câu … độc giả phái nữ. Tác giả không phải là người viết chuyên nghiệp, lại càng nhất định không có ý định câu độc giả … phái nữ, chỉ vì thỉnh thoảng chợt nhớ đến tình xưa như giấc mơ không đến, nên lâu lâu lại đành đoạn vẽ ra một giả tưởng. Lần vẽ vời này không hiểu là lần thứ mấy, nhưng xem ra có vẻ chung cuộc vì đời người có lúc cũng phải chấm dứt, nói chi giấc mơ. Chỉ có điều, loay hoay mãi người viết vẫn không biết phải kết luận ra sao, nên đành cầu đến tưởng tượng của người đọc. Trong tình cảm, người ngoài cuộc bao giờ cũng sáng suốt hơn. Câu nói này hình như lúc nào cũng đúng. Tác giả chịu không biết khép lại thế nào sau đoạn “mở” đã thêm vào.

Lệnh Hồ Tiểu Ca
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »


CHỒNG GÌA VỢ TRẺ

Nguyễn Thị Thanh Dương.
Tôi vừa bước chân vào nhà, chồng tôi đã gọi:

- Em ơi, cạo gío cho anh…

- Lại cảm rồi hả? Gớm, gió đầu Đông cảm, gío cuối Đông cũng cảm. Mà lại cảm ngay vào ngày Valentine, ngày mùa tình yêu, người ta tưng bừng hẹn hò hay đi chơi, còn anh thì ngồi đây ăn vạ.

- Đầu hay cuối gì cũng là gío lạnh cả.

Tôi ngao ngán:

- Anh thì dị ứng với cả bốn mùa, giữa mùa hè trời bỗng dưng đổ cơn mưa anh cũng ngây ngây người khó chịu, mùa Xuân anh không chịu nổi phấn hoa tha hồ sổ mũi hắt hơi, còn mùa Thu gío chuyển mùa hiu hiu, trong khi em muốn được đi theo gío đến tận chân mây cuối trời thì anh đã cảm vì lạnh, phải uống vài viên thuốc Tylenol và nằm nhà đắp chăn để ngủ, mặc cho mùa Thu mơ màng ngoài khung cửa.

- Thì anh khác, em khác. Anh đã 60 tuổi rồi còn gì! mà em thì mới 40, cái tuổi nồng nàn và rực rỡ.

- Em muốn lấy chồng lớn tuổi để nép bóng tùng quân, để mãi mãi là người tình bé bỏng được nuông chiều, hóa ra em lại là người phải chiều anh và hầu anh đủ thứ.

Tôi nhìn anh đang ngồi trong ghế như đã chờ đợi tôi từ nãy giờ, mặc áo len dày, chân đi vớ, đầu còn đội cả mũ len nữa. Càng thêm ngao ngán:

- Trông anh lù đù như ông gìa trong nursing home ấy, trong nhà chứ có phải ngoài sân hay ngoài cánh đồng lộng gío đâu mà anh trang bị quần áo, mũ và vớ kỹ thế?

- Biết thế, nhưng thà thừa hơi ấm còn hơn là một chút lạnh vào người.

Tôi ra lệnh:

- Thôi đủ rồi, anh chuẩn bị cởi đống quần áo len, áo khóac tổng cộng mười mấy pound của anh ra để em cạo gío. Từ ngày lấy anh em bỗng trở thành người đàn bà cạo gío thành thạo, tay nghề cao dần theo năm tháng.

Ông chồng tôi lê dép đứng lên đi lấy chai dầu gío xanh và dụng cụ cạo gío. Kể cũng lạ, mỗi lần cảm lạnh hay nhức mỏi hai vai và lưng, chỉ cần cạo gío cho người nóng ran lên anh thấy đỡ ngay.

Vừa ngửi mùi dầu xanh vừa cạo gío trên tấm lưng gầy của chồng, trong căn phòng này dường như chỉ là tuổi gìa và đau ốm. Trong khi cuộc sống bên ngoài luôn sống động xôn xao, lúc nãy tôi có ghé vào chợ đã thấy cửa hàng bán hoa tấp nập khách mua. Tôi đã dừng chân ngắm nhìn cái điều có lẽ chẳng còn đến với tôi nữa trong ngày Valentine, những bó hoa, những bình hoa đủ loại, đủ màu, bên cạnh những qủa bóng hình trái tim cột dây bay lơ lửng đang chờ được mua và trao tặng.

Ngày tôi 20 tuổi, đời tôi là cả một rừng hoa mênh mông chứ chẳng phải một chợ hoa hạn hẹp. Tâm hồn tôi là cả triệu qủa bóng bay lơ lửng giữa trời xanh, chứ chẳng phải chỉ vài qủa bóng kia. Còn anh, là một người đàn ông từng trải vừa đúng 40, khỏe mạnh, đẹp trai, và tình tứ, anh làm con bé tôi chết mê chết mệt, yêu anh chớp nhoáng và lấy anh vội vàng. Mỗi mùa Valentine anh đều âu yếm mua hoa về tặng vợ, mối tình nồng ấm kéo dài được vài năm thì dấu hiệu tuổi gìa của anh xuất hiện, 45 tuổi tóc anh đã bạc khá nhiều, anh phải nhuộm cho khỏi chênh lệch với cô vợ trẻ, đến nay thì đầu anh đã hói, chỉ còn một nhúm tóc lưa thưa như rừng chưa thay lá. Không biết có phải vì tuổi gìa làm anh mệt mỏi hết hứng thú yêu đời hay vì cuộc sống vợ chồng lâu ngày thành cũ, nên anh “cúp” luôn chuyện mua hoa tặng vợ ngày lễ Tình Yêu, mà tôi cũng chẳng náo nức chờ mong như ngày xưa nữa.

Tôi đang say sưa cạo gío, bỗng anh rướn người lên và kêu thống thiết:

- Trời ơi, em cạo kiểu gì mà đau qúa vậy?

- Hình như…em quên chưa bôi dầu xanh chỗ này…

Anh hỏi tội tôi:

- Em chưa gìa mà lơ đãng và xớn xác thế! Chưa bôi dầu mà cạo thì ai chịu nổi!

Tôi chanh chua:

- Em gìa trước tuổi để bằng anh, tuổi gìa của anh như một loại vi khuẩn lây lan sang cả đời em. Anh biết chưa?

Anh nhăn mặt:

- Sao em lắm lời thế? Ngày xưa em ngây thơ hiền dịu bao nhiêu bây giờ em chanh chua đỏng đảnh bấy nhiêu. Nếu như được làm lại từ đầu thì…

Tôi gắt gỏng:

- Thì anh sẽ làm gì? Anh chê tôi chanh chua, anh sẽ không cưới tôi chứ gì?

- Thì… anh vẫn yêu em và cưới em, xưa yêu em hiền dịu, nay yêu em cả những chanh chua, cả khi đỏng đảnh.

- Thôi đừng có nịnh nọt. Còn anh, chàng hào hoa ngày xưa của em đã thay thế bằng một ông gìa dở hơi rồi đấy.

Không dám than đau nữa, anh hỏi sang chuyện khác:

- Nãy em đi đâu mà lâu thế?

- Đi đủ thứ, nhà băng này, ghé chợ này, và…nhân thể em ghé vào văn phòng bác sĩ thẩm mỹ hỏi thăm để cắt mí mắt, vì mắt em hơi bị sụp mí rồi.

Tấm lưng anh lại rướn lên, lần này để phản kháng:

- Thôi em ạ, vốn dĩ em đã trẻ hơn anh nhiều, mà lại sửa sắc đẹp thì càng trẻ hơn nữa, coi sao được?

- Biết làm sao bây giờ? chuyện em sửa sắc đẹp chẳng vì anh bao nhiêu tuổi cả, mà vì em thích.

Tôi than thở:

- Nếu anh không qúa gìa, hay nói một cách khác nếu anh còn trẻ độ tuổi như em, thì giờ này anh không thể nằm đây bắt em cạo gío, mà đã ra tiệm chọn hoa tặng em và chiều nay sẽ mời em đi nhà hàng để làm ấm lại tình vợ chồng đã nhạt phai vì thời gian, vì bận rộn của cuộc đời. Em có bao nhiêu quần aó, giày dép thời trang để diện, có son phấn để điểm trang mà mấy khi dùng đến?

- Tình yêu là ở trong lòng, cái màn tặng hoa, tặng qùa Valentine chỉ là hình thức phù phiếm, làm lợi cho giới kinh doanh. Năm nay kinh tế khó khăn, thất nghiệp lan tràn, càng giản tiện, tiết kiệm càng tốt, ở California có ông bị thất nghiệp đã giết chết vợ con và tự tử theo.Tình yêu đã cũ, hâm đi hâm lại như nồi nước phở cũng chẳng làm ngon thêm tí nào.

- Còn hơn là không hâm sẽ bị…thiu, sẽ tệ hại hơn nữa.

Anh vừa nói vừa thở vì vẫn còn đau mỗi khi tôi mạnh tay:

- Anh có muốn thế này đâu. Thật dại khờ khi người ta lấy nhau bất kể tuổi tác. Mà tại sao ngày ấy em cứ xông vào đời anh, đòi lấy anh trước khi anh ngỏ lời cưới em?

- Đấy là lãng mạn một cách bốc đồng. Tại cuốn truyện “Tình Nghĩa Vợ Chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch, cô Mai tuổi mới lớn đã yêu chú Sách , người đàn ông hơn cô rất nhiều tuổi và là bạn của cha cô, tình yêu nồng nàn thiết tha và chú Sách thì tử tế bao dung tuyệt vời làm ảnh hưởng đến em. Lại thêm bản nhạc nào đó của ông Y Vân với những câu “Năm anh 20 em mới sinh ra đời, năm anh 40 em mới vừa 20…” thật sống động và lãng mạn. Cả hai thứ cộng lại làm hồi đó em chỉ mơ lấy một anh chồng gìa, đến nỗi mấy thằng cùng trang lứa tán em, em coi chúng như hàng ranh con không hề đếm xỉa đến.

- Còn anh háo thắng một cách bốc đồng! Vì anh không mãi mãi là thằng đàn ông 40 sung sức để yêu em, để mỗi lần em giận dỗi anh làm huề bế xốc em lên và ôm gọn trong vòng tay mình, ngược lại bây giờ một cú vung tay vùng vằng của em cũng làm anh loạng quạng suýt ngã. Thà anh lấy một người vợ ngang vai phải lứa, cả hai cùng gìa, cùng nay ốm mai đau, cuộc sống thoải mái biết bao! Bà ấy cạo gío cho anh, anh cạo gío cho bà ấy, chẳng có gì để phàn nàn cả.

- Nhưng sao anh gìa nhanh thế? người ta 70 còn cưới vợ, mà anh thì mới 60 đã ốm yếu ho hen thế này?

- Thì sức khỏe mỗi người mỗi khác. Mẹ anh kể ngày còn bé anh đau ốm quặt quẹo, vừa chữa bệnh bằng Tây y lẫn Đông y vừa cúng bái chùa chiền tứ phương anh mới lớn nổi.

Tôi lên giọng kể lể:

- Tuy nhỏ tuổi hơn anh mà đôi lúc em như bà chị hai của anh, hay như một người mẹ chăm sóc đứa con thơ ấy.

- Phải nói rõ ra là như một bà chị hắc ám hay người mẹ…ghẻ em nhé, vì em hay gắt gỏng, mắng mỏ và hà hiếp anh lắm đấy.

- Vì anh lẩm cẩm qúa ai mà chịu nổi? Lúc nào cũng than đau mình nhức mẩy và đòi cạo gío. Thôi xong rồi, anh nằm nghỉ đi cho khỏe để em đi nấu cơm.

Tôi kê gối, đắp chăn cho anh nằm êm ấm xong thì có tiếng chuông cửa reo. Người ta đến giao phát một bình hoa tươi làm tôi ngỡ ngàng cứ tưởng có sự lầm lẫn gì chăng? Nhưng đúng địa chỉ nhà này và tên người nhận là… con gái tôi, chứ không phải tôi. Con gái đã 19 tuổi rồi, vậy mà dưới mắt tôi nó vẫn chỉ là một đứa trẻ con. Thì ra đã có anh chàng nào để ý đến nó rồi.

Tôi thận trọng mang bình hoa để lên bàn và ngắm nghía, bình hoa bằng thủy tinh trong suốt, thắt nơ bằng sợi dây màu hồng, trong cắm đầy hoa Hồng, điểm tô bằng những cánh hoa cúc trắng nhỏ lấm tấm với những cành lá dương xỉ xanh tươi.. Lòng tôi bỗng rộn ràng ấm áp, sống lại những phút giây xa xưa .

Chồng tôi cũng tò mò từ trong phòng bước ra:

- Hoa của ai đấy em?

Tôi ra khỏi giấc mơ:

- Còn ai vào đâu nữa, ngoài con gái mình? không lẽ ai đó tặng hoa cho em, một mụ đàn bà 40 có chồng lù lù bên cạnh?

- Nhưng sao mặt em bâng khuâng thế kia?

- Em chạnh lòng nhớ thuở mới yêu anh, nhưng phút giây ngắn ngủi ấy qua rồi. Thực tế, em đang bực mình đây, con gái mình không thể quan hệ tình cảm yêu đương làm ảnh hưởng đến việc học hành của nó trong lúc này.

Chồng tôi bênh con gái:

- Em chỉ hơn nó 1 tuổi mà ngày xưa đã yêu anh thế nào? Lãng mạn đến thế nào? Em đã nói rằng nếu không lấy được anh thì tất cả đàn ông trên cõi đời này đều vô duyên, đều là những tượng đá không linh hồn.

- Thì đã nói ngày ấy em bốc đồng mà, nên phải rút kinh nghiệm cho con mình.

- Trái lại, em không bốc đồng mà còn tỉnh táo và thông minh để chép những bài thơ tình rất hay trên báo tặng cho anh. Em đã từng bỏ học để đi chơi với anh. Còn con mình vẫn đi học nghiêm chỉnh và tử tế hơn em nhiều.

Tôi vùng vằng:

- Anh đánh gía tình yêu của em xuống cấp như thời buổi kinh tế khó khăn mọi thứ đều hạ gía hả?

Con gái chúng tôi về đến, chấm dứt sự cãi cọ thường ngày như cơm bữa của cha mẹ:

- Bình hoa này là quà tặng Valentine của con, một người bạn trai yêu con và con cũng yêu anh ấy. Chiều nay chúng con có hẹn .

Tôi lo xa:

- Chúng con yêu nhau thì được, nhưng chớ có đòi cưới nhau sớm nhé? phải lo học hành thành tài đã.

- Chuyện cưới nhau còn lâu mẹ ạ, phải tìm hiểu tính tình nhau nữa chứ. Ngày xưa bố mẹ có tìm hiểu nhau trước khi cưới không?

- Không! Chồng tôi đáp.

Tôi khẳng định thêm:

- Mẹ cũng không! Trăm lần không, ngàn lần không !

- Hèn gì bố mẹ xung khắc nhau, hay cãi cọ qúa, vậy mà bố mẹ nói lấy nhau vì tình yêu

- Đúng là vì tình yêu con ạ, một tình yêu chớp nhoáng như một tia sấm sét lóe lên ngắn ngủi trong một đêm mưa gío u mê.

Con tôi an ủi:

- Nhưng tình yêu nào chẳng phai nhạt theo thời gian, lâu hay mau mà thôi, có lẽ chúng ta phải biết chấp nhận điều đó. Chuyện tình Romeo và Juliet cũng thế, cả hai đầu chết sớm, nếu lấy nhau thì chắc gì có thiên tình sử cho chúng ta đọc.

Con gái chúng tôi ở lứa tuổi đôi mươi là hình ảnh tôi ngày xưa, nhưng suy luận chín chắn hơn tôi nhiều.

Tôi nói với chồng trước khi lăn vào bếp để nấu nướng:

- Anh nằm yên đừng kêu réo gì em để em yên trí làm món thịt bò steak nhé. Thay vì mình đi nhà hàng như người ta trong ngày lễ Tình Yêu thì ăn tại nhà vậy.

Chồng tôi kêu lên:

- Thôi, thôi, anh mệt lắm, sức đâu mà nuốt món bò steak của em, chắc sẽ dai dẳng như những lần em cãi nhau với anh và không chịu ngừng nghỉ.

- Anh đừng bi quan hóa vấn đề sẽ làm anh nhanh suy sụp và gìa thêm đấy. Em sẽ nấu theo sách vở, sẽ ngon lành…

- Hai mươi năm qua không lẽ em mới giỏi nấu nướng đột xuất?

- Cứ coi như thế đi, cũng phải cho em cơ hội chứ. Hai chúng mình sẽ ăn bữa chiều nay với món bò steak và uống chút rượu cho ấm lòng và ấm tình anh nhé.

Anh vẫn cương quyết chối từ:

- Thú thật anh chỉ thèm…một tô cháo trắng nóng hổi ăn với thịt chà bông, có lẽ sẽ nhẹ nhàng và khỏe người hơn, và cũng dễ nấu cho em hơn là món bò steak.

Tôi thất vọng thở dài:

- Muốn ăn với anh một bữa chiều ấm cúng cũng không được, con gái thì hẹn hò đi ăn ngoài, chỉ còn hai vợ chồng mà hai khung trời khác biệt, chẳng lẽ anh ngồi húp cháo mà em ăn steak thì vui với ai?

- Thì em cùng ăn cháo với anh cho vui, nhân thể diet luôn.

Tôi chán nản dẹp bỏ bịch thịt bò trở vào ngăn tủ lạnh Vừa lúc đó con gái tôi đã trang điểm xong, con tôi thật đẹp với đôi mắt long lanh, nụ cười rạng rỡ và mái tóc mượt mà đong đưa.

- Mẹ ơi, con đi đây …Chúc bố mẹ ở nhà bình thường, đừng cãi nhau nữa nhé..

Ngày lễ Tình yêu, mùa của những tình yêu đã cũ, đã phai nhạt, trong đó có vợ chồng tôi Nhưng vẫn là mùa tình yêu bắt đầu, mới tinh khôi cho bao nhiêu người khác, ở mọi lứa tuổi, đến với nhau bằng nhịp đập của con tim, trong đó có con gái tôi.

Tôi thẫn thờ nhìn con gái đi ra cửa, chợt tôi vội gọi lại, hoảng hốt lo âu:

- Con ơi, con sẽ đi hẹn với người yêu của con, mối tình đầu của con, phải không?

- Vâng, con đã vừa nói với mẹ rồi, chúng con sẽ hòan toàn trong sáng và nghiêm chỉnh.

- Mẹ biết điều ấy rồi, vấn đề mẹ chưa biết và muốn hỏi con bây giờ là người yêu của con bao nhiêu tuổi?? bao nhiêu tuổi? bao nhiêu tuổi??

- Sao mẹ hỏi dồn dập và kinh hòang thế? Anh ấy chỉ hơn con 3 tuổi thôi.

Tôi thở phào nhẹ nhỏm:

- May qúa, mẹ chỉ sợ con cũng lãng mạn như mẹ ngày xưa mà yêu và lấy chồng gìa thì khổ vào thân,. Thôi con đi chơi vui vẻ nhé, còn mẹ đi nấu nồi cháo trắng và ăn với bố con cho hết buổi chiều nay.

Nguyễn thị Thanh Dương.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Hoa Tím Bằng Lăng

Nguyễn Duy-An
Vì chiều cao "rất khiêm nhường" của mình, tôi cứ phải loay hoay điều chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng thâu lại hình ảnh của Tuân đang từ từ bước lên khán đài nhận bằng kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam "vinh quy bái tổ". Tuân là đứa con "rất đặc biệt" của chúng tôi. Vợ chồng tôi mới cưới nhau được 10 năm nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22 tuổi! Gia đình bên vợ và người ngoài cứ nghĩ nó là con riêng của tôi mang theo từ Việt Nam; và chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế, vì mỗi lần gọi điện thoại về Việt Nam nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội. Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.

Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết chắc chắn tôi không thể có con; thay vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con tôi nhiều hơn. Đã mấy tháng nay nàng chạy ngược chạy xuôi lo thu tục giấy tờ để tuần sau chúng tôi về Việt Nam nhận một đứa cháu gái của tôi làm con nuôi. Ngày nhận được kết quả thử nghiệm xác định tôi không thể có con, Oanh đã âu yếm nhìn tôi thỏ thẻ: "Ngay từ đầu em vẫn tin anh. Em không buồn đâu anh ạ! Em chấp nhận số phận, nhất là chúng mình đã có Tuân... Tuy nhiên, em nghĩ chúng mình cũng nên nhận thêm một đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Nếu anh đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để chúng mình nhận một đứa con của chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu vẫn tốt hơn..." Đó là lý do Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường, chúng tôi sẽ về Việt Nam thăm gia đình và nhất là đưa Tuân về thăm lại mộ Trang, người mẹ ruột của Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày nó mới được 3 tháng tuổi, và Tuân trở thành"�con trai" của tôi hơn hai mươi năm về trước tại Bình Giả, Việt Nam.

* * * * *

Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi của Tuân bây giờ. Tôi trở về Bình Giả năm 1979, sau mấy năm gồng mình cầm cự với nghề "gõ đầu trẻ" tại một vùng kinh tế ở Sông Bé. Tôi thương đám học trò nghèo đói nhiều lắm nhưng chính tôi cũng không chịu nổi cảnh đói nghèo vì lương không đủ ăn nên đành phải bỏ trường về quê ăn bám gia đình sống qua ngày. Sau bốn năm trời vừa dạy học, vừa làm rẫy sống lây lất qua ngày, sức tôi đã kiệt quệ! Tôi đã "cắt hộ khẩu" ở trường cũ, nhưng không xin "nhập hộ khẩu" tại Bình Giả vì tôi trở về với ý định tìm đường vượt biên. Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai cũng biết tôi đi dạy học ở vùng kinh tế mới, và thỉnh thoảng vẫn về quê thăm cha mẹ cũng như xin thêm gạo, bắp... nên không ai thắc mắc hay hỏi han giấy tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó, ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho chuyến vượt biên chung với một số bạn bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất là vào rừng kiếm măng tre. Trong một dịp mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp lại anh Thành, một người trốn trại cải tạo, đang lẩn trốn trong rừng để tìm cách liên lạc với người vợ mới cưới được mấy tuần trước ngày anh đi học tập. Hôm đó trời trở cơn giông đột ngột, tôi chạy vội tới một gốc cây bằng lăng để trú mưa vì lúc đi rừng tôi quên không mang theo áo mưa. Lúc tới được gốc "cây cổ thụ", tôi đã "hồn vía lên mây" khi nghe tiếng gọi tên mình vọng xuống từ ngọn cây:

- Toàn. Toàn phải không?

Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai đã gọi mình, nhưng trời đã tối mịt vì cơn mưa trong rừng nên chẳng thấy gì. Tôi sợ quá, đang định chạy trốn thì một sợi giây thòng xuống từ một cành bằng lăng rậm rạp phía trên đầu... Một bóng người trùm kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột xuống vừa lên tiếng:

- Mình đây. Thành đây.

Anh Thành đã xuống đất. Tôi đứng chết sững ngó đăm đăm người "đàn anh" nổi tiếng đẹp trai và hào hùng của mấy năm về trước, bây giờ ốm yếu da bọc xương, đen đủi hốc hác đang run cầm cập vì đói và rét. Tôi ngập ngừng:
- Trời ơi! Đúng là anh Thành đây mà. Sao anh ra nông nỗi này?
- Mình trốn trại cải tạo về đây đã mấy tuần rồi nhưng không dám về nhà, sợ bị bắt lại. Trời xui đất khiến cho dịp gặp được Toàn ở đây. Đúng là số mình chưa chết.
- Anh đừng nói gở. Bây giờ anh tính sao?
- Toàn có gì ăn không? Hơn hai tuần nay mình...

Tôi chỉ định đi kiếm măng vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo gì ngoài con dao cán dài để đào măng. Cũng may trong túi còn gói thuốc lá và mấy miếng kẹo cao-su (chewing gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua về cuộc đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ một cành hoa bằng lăng mầu tím, khắc một dấu hiệu đặc biệt lên đó và nhờ tôi mang về cho Trang, vợ anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng trở về, hẹn hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh vô rừng sớm. Thấy tôi trở về với một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ và em gái tôi ngạc nhiên lắm, nhưng tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi đứa em gái về Trang, vợ của anh Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện anh Thành trở về Bình Giả sau năm 1975 với một cô gái người miền Nam, bổn đạo mới. Gia đình anh Thành không chấp nhận nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép cưới cho hai người mấy tuần trước ngày anh ấy lên đường đi "học tập". Năm đó Trang mới 17 tuổi, nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng còn ai nên đã theo người yêu là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm vui chưa trọn vẹn thì hoàn cảnh ngang trái đã chia cách đôi vợ chồng trẻ hơn bốn năm nay. Trang ở với gia đình cha mẹ chồng như một chiếc bóng cô đơn bên đường, mòn mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại!

Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh Thành. Hai bác tỏ vẻ khó chịu khi tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về sau tôi mới hiểu là ở Bình Giả đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái; hơn nữa, nàng lại là một người con gái đã có chồng! Từ nhà bếp đi lên, nhìn thấy tôi cầm cành hoa bằng lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững sờ nhìn tôi, miệng ấp úng nói không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:
- Có người nhờ tôi trao cành hoa này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên đó.

Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức nở:
- Trời ơi! Anh Thành! Anh đã gặp anh Thành...

Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:
- Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà tôi ở mô rứa? Công an đang truy nã nó mấy tuần nay. Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết! Chết cả nhà bây giờ! Ngày nào cũng có người tới nhà hạch hỏi về nó. Ông đóng cửa lại mau đi. Khổ thân con tôi!

Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết định sẽ chuẩn bị một số thức ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi thì nói là gia đình tôi thuê nàng đi làm cỏ lúa ở Đồng Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng không dám vì sợ hôm sau công an lại tới nhà làm việc.

Suốt một tuần liền, ngày nào Trang cũng "đi làm thuê" cho tôi để vào rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy ngày bàn bạc cùng gia đình, tôi đã quyết định nhường chỗ trên ghe cho anh Thành. Chúng tôi cũng sắp xếp cho anh Thành theo xe bò của một người quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để tránh gặp gỡ những người quen, rồi tôi đón anh ấy ra Long Hương "ở nhờ" nhà một người bạn thân của tôi để chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời, tôi và Trang trở thành những người đi buôn chuyến. Thực ra, tôi chỉ chở Trang ra Long Hương gặp chồng, có khi ở đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố Nai, Gia Kiệm... lo việc riêng. Người trong làng đã bắt đầu đồn đãi về việc tôi và Trang đi buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua đêm nữa! Mẹ tôi buồn lắm! Mặc dầu tin tôi, nhưng "lời ong tiếng ve" đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn về chúng tôi nên bà rất khổ tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ bình tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời đồn đãi đó sẽ làm người ta quên dần chuyện anh Thành trốn trại cải tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người bạn thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một tuổi, còn anh Thành thì xem tôi như một đứa em ruột, "một vị cứu tinh" đã dám liều mình cưu mang và giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.

Anh Thành và một số bạn bè của tôi đã ra đi đột ngột trước ngày dự tính vì công việc "bến bãi" bị đổ bể. Sau một tuần không thấy tin tức gì về chiếc ghe đó, chúng tôi yên chí anh Thành đã ra khơi bằng yên. Tôi lại theo bạn bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ ở Cần Giờ, đút lót xin giấy tờ tạm trú và bắt đầu công việc sửa chữa chuẩn bị một chuyến đi mới. Công việc bề bộn nên gần ba tháng sau tôi mới trở về thăm gia đình. Mẹ tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh của Trang. Nàng đã có thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh Thành coi như mất tích vì không có tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn nàng nhiều lần về đứa bé trong bụng. Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng không biết làm sao để giải thích. Mọi người đổ tiếng xấu cho tôi và nàng. Dần dà cả gia đình nhà chồng cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ, nhất là chờ mãi không thấy tin tức gì của anh Thành nên bắt đầu hạch hỏi và coi khinh nàng. Hai bác đã xuống nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ trách móc và đặt vấn đề tại sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy tháng nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi khóc vì tủi nhục! Em gái tôi cũng nửa tin nửa ngờ nên đã tìm gặp Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải thích của Trang nên càng ngày càng thân với nàng.

Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ anh Thành đôi co và cãi vã với cả gia đình và giòng họ anh ấy để bênh vực cho Trang, nhưng rồi mọi người lại khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều hơn trước. Quá tủi nhục và hổ thẹn, Trang đã liều mình tự tử! Cũng may người nhà phát giác kịp thời và cứu chữa cho nàng và bào thai trong bụng. Mặc dầu được cứu sống nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói, sống vật vờ như một cái xác không hồn giữa sự khinh ghét của giòng họ nhà chồng.

Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho Trang về ở chung cho đỡ buồn và cùng đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu bì cho có chị có em. Chính vì lòng tốt của em gái tôi mà cả làng đều nghĩ đứa con trong bụng Trang là của tôi. Mỗi lần tôi về thăm, Trang khóc nức nở không phải vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người phỉ báng, nhưng nàng khóc vì đã làm hại danh dự của gia đình tôi. Lại một lần nữa, mẹ tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn, và khi nghe chúng tôi thề thốt không hề có tà ý với nhau, mẹ tôi đã "ngồi xổm trên dư luận" để nhận Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ rằng mẹ tôi làm thế để tránh tiếng vì bà biết bào thai trong bụng Trang là cháu nội của bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt cay để an ủi vỗ về Trang, mong cứu vớt một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang lại liều mình tự tử như mấy tháng trước. Ôi! Mẹ đã hy sinh chịu nhục vì con và vì thương một người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con xin cúi đầu bái phục lòng can đảm của mẹ cho đến trọn đời.

Trước ngày ra đi, tôi đã trở về để từ giã gia đình. Ngay khi biết tin tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì bao nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời kỳ mang thai, Trang đã trải qua một đêm dài đau đớn, quằn quại đến kiệt sức nên y tá trong làng đề nghị phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh viện để mổ. Đáng lẽ sáng hôm sau tôi phải trở lại Cần Giờ để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi không đành nên đã lỡ một "chuyến đò". Tôi theo mẹ và Trang ra bệnh viện. Trong lúc làm thủ tục giấy tờ trước khi đưa Trang lên bàn mổ, người ta đòi phải có thân nhân ký tên trong giấy tờ nên tôi đã đứng ra lo liệu... Cũng có thể vì lầm lẫn, và cũng có thể do số phận an bài nên các bác sĩ và y tá đã ghi tên tôi là "chồng" của Trang trong hồ sơ bệnh lý. Đó là lý do tại sao Tuân trở thành con tôi! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha mẹ anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ tôi vì những hiểu lầm trước đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất gì nên mọi người đều vui vẻ.

Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội cho cháu, và chính tờ giấy bệnh viện ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã gây nên sóng gió ồn ào cả xứ đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành Giáo và bà con trong họ anh Thành quyết liệt phản đối. Họ đến nhà hạch hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi trẻ háo thắng nên tôi đã nổi nóng đuổi hết mọi người và quyết định chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân nữa! Tôi chỉ muốn mọi người để cho chúng tôi yên nhưng miệng người không phải dễ "khóa"! Tôi ngang tàng chấp nhận sự dèm pha của mọi người và cứ hiên ngang ngẩng đầu tiếp tục chạy mánh tìm ghe lo chuyện vượt biên lần nữa. Lần này tôi quyết định sẽ đưa mẹ con Trang cùng đi. Tôi có thể "đạp dư luận xuống bùn đen" để sống, nhưng Trang phải âm thầm than khóc từng đêm, nức nở đè nén "nỗi oan Thị Kính" từng giờ từng phút nên đã bị băng huyết cho đến chết, và chết trong tủi nhục vào một đêm tôi vắng nhà! Tôi trở về nhìn xác Trang nằm im bất động mà thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc chắn những phút cuối đời Trang đã phải quằn quại trong đớn đau tủi nhục! Tôi đã thực sự thù ghét mọi người trong xứ khi biết tin "người ta" không muốn cho tôi chôn Trang ở nghĩa địa giáo xứ vì bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự tử! Tôi không hiểu tại sao cả xứ lại lên án và "trừng phạt" thân xác một người đã chết trong khi hằng tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh "Thương Người Có 14 Mối, Thương Xác 7 Mối", trong đó có ghi rõ việc "chôn xác kẻ chết"! Đâu có ai hiểu được nỗi đau đớn và tủi nhục đã gặm nhấm tim gan Trang từng giây từng phút vì bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức, và nhất là sự dằn vặt nàng phải gánh chịu vì đã "gieo họa" cho gia đình tôi! Đâu có ai ở gần kề bên Trang trong những giây phút cuối đời của nàng để "kết án" nàng đã "liều mình tự tử"!!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ giúp đỡ nhưng tôi đã điên lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở xa về đào huyệt chôn Trang trong một góc rẫy của gia đình tôi ở mép rừng. Tôi đã bỏ xưng tội, bỏ lễ cả mấy năm trời vì lòng thù hận vẫn chưa nguôi! Đã nhiều đêm tôi gục đầu dưới tượng chịu nạn van xin lòng nhân từ hay thương xót của Chúa thay đổi trái tim "thù hận" của tôi, và tôi cũng xin Ngài thương tha cho những người đã kết tội "oan" cho chúng tôi! Tôi chỉ thật sự trở về với Chúa như "một con chiên lạc" mấy tuần trước ngày vượt biên...

Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng được bú nhờ sữa của em gái tôi cũng mới sinh được vài tháng nên cháu vẫn lớn lên theo ngày tháng trong tình thương yêu đùm bọc của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi, về về tìm mối làm ghe vượt biển. Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế Tuân ra rẫy, đến ngồi bên mộ Trang khấn nguyện. Công việc làm ghe càng ngày càng khó khăn nên mãi 4 năm sau tôi mới thành công. Trước khi lên đường, tôi đã vô rừng tìm kiếm và đào được một cây bằng lăng nhỏ đem trồng bên mộ Trang để làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân đã chạy nhanh, nói sõi và lúc nào cũng quấn quít bên tôi những ngày tôi về quê. Cuối cùng tôi quyết định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu mẹ tôi can ngăn nhiều lần. Tôi đã đi và tôi đã đến. Chính nhờ sự liều lĩnh của tôi mà Tuân có được ngày hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành đạt của Tuân. Tôi mang ơn Oanh vì nàng đã tận tình yêu thương săn sóc "cha con" tôi từ bao nhiêu năm qua. Nếu không có tình yêu và lòng vị tha thông cảm của Oanh, tôi đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ lạ quê người, và Tuân lại một lần nữa thành trẻ "mồ côi"! Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước lên khán đài, tôi cảm động rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải chôn nàng ở mép rừng thay vì nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không khóc khi từ giã mẹ già và gia đình ra đi, nhưng giờ này tôi khóc vì biết chắc chắn Tuân đã trưởng thành, và mấy ngày nữa sẽ về thăm mộ mẹ đang nằm cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng lăng "cha con" tôi đã trồng trước ngày "biệt xứ".

* * * * *

Oanh đứng nép sát người tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống gục mặt khóc thật to. Tôi dìu Oanh đến cạnh gốc cây bằng lăng đã bị đốn từ mấy năm trước, chỉ còn một số chồi non mới lên được vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra một cành bằng lăng mới chớm vài nụ hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ nhàng đặt cành hoa mầu tím trên ngôi mộ của Trang. Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng tôi khẽ nói:

- Con biết mẹ con đang mỉm cười bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha mẹ quỳ lạy ba má đã nuôi con nên người.

Tuân nhẹ nhàng trao cho tôi tờ giấy thử nghiệm mẫu DNA (deoxyribonucleic acid) xác định nó và tôi không phải "cha con".

Nguyễn Duy-An
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests