Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoanghoa »

--Vợ Chồng già _ Ai cũng vậy mà thôi !

Con cái trưởng thành ra ở riêng hết chỉ còn ông bà sống trong căn hộ 3 buồng nơi khu tập thế sát bờ sông. Như mọi ngày cơm nước xong, bà dọn dẹp bếp núc, ông lên nhà bật Tivi, pha ấm trà nhân trần thư thả ngồi uống xem mấy chương trình thời sự.

Khi bà từ dưới bếp lên, ông rót cốc trà nóng đưa tận tay bà, chuyển kênh phim cho bà xem, rồi họ lặng lẽ theo dõi phim trên truyền hình cho đến khi bà đấm lưng thùm thụp đứng dậy vào ngủ trước. Ông xem thêm chút rồi tắt Tivi kiểm tra cửa rả rồi đi nằm. Ngang qua phòng bà đã thấy bà ngáy pho pho.

Chả biết từ bao giờ họ gọi nhau là ông, là bà thay cho cách gọi anh, em ngọt ngào theo suốt mấy chục năm. Cũng chẳng nhớ từ bao giờ ông bà ra nằm riêng mỗi người mỗi phòng. Chắc tại bà kêu ông ngáy to nhất là hôm nào vui bạn bè uống vài chén rượu. Ông cũng phàn nàn bà có thói quen cứ dọng chân xuống giường thình thịch mỗi khi mỏi.

Cái gì mãi rồi cũng thành quen. Đôi khi bà muốn gọi ông là anh như ngày nào cho tình cảm mà thấy ngượng ngùng. Lắm lúc người ngây ngấy sốt đắp cả cái chăn dày vẫn lạnh, ông định qua phòng bà nằm cạnh tìm chút hơi ấm lại lo bà mất ngủ, cũng thôi.

Tối nay, khi bà vừa dưới bếp lên ngồi xuống ghế định xem Tivi thì điện vụt mất. Ông loay hoay bật lửa châm chiếc đèn dầu. Ông bà ngồi đối diện nhau mà chẳng nói lời nào. Không gian tĩnh mịch quá. Nghe rõ cả tiếng gió rì rào ngoài cửa sổ. Bỗng bà bật tiếng:

- Nghe đâu như tiếng con ễnh uôm nó kêu.

Ông nhướng mắt hỏi lại:

- Con gì kêu?

- Con uềnh uôm chứ con gì? Bà dấm dẳng.

- Con ễnh ương chứ. Từ cha sinh mẹ đẻ tôi chưa nghe ai nói con uềnh uôm như bà. Ông gằn giọng.

Thế là họ cãi nhau. Kết quả là sáng hôm sau bà không thấy ông ngồi uống trà bên bàn nữa. Bà lẩm bẩm:

"Lại sang thằng cả tá túc chứ gì. Thây kệ".

Trưa bà ngồi ăn cơm một mình thấy chả ngon lành gì. Tối bà ngồi coi Tivi mà chả xem chương trình gì ra đầu ra đũa. Đêm bà nằm nhớ thời có mang thằng lớn. Ông mừng lắm, hỏi bà:

- Em định đặt tên con là gì?

- Anh đặt đi, bà nũng nịu: Tuỳ anh.

Không ngờ khi sinh con trong giấy khai sinh, ông thấy tên con được bà đặt là Tùy Anh, Nguyễn Văn Tuỳ Anh.

Đến đứa con gái thứ hai, bà hỏi ông đặt tên gì? Ông âu yếm nhìn bà bảo: Tuỳ em. Và kết quả tên đứa thứ hai được ông đặt là Tuỳ Em, Nguyễn Thị Tuỳ Em.

Cả tuần vắng bóng ông nhà cửa trống tuềnh trống toàng làm bà nghĩ lại.

Mấy ngày ở với con với cháu cũng thấy vui mà sao lòng ông vẫn như lửa đốt. Cảm giác thiêu thiếu nơi ông, cũng làm ông nghĩ lại. Hôm ông quay về, bà đón ông nơi bậu cửa, ông chưa kịp nói điều mình định nói bà đã đon đả:

- Tôi hỏi người ta rồi ông ạ. Nói như ông mới đúng. Là con ễnh ương. Tôi nói sai.

Ông cười gượng gạo:

- Không bà nói mới đúng. Nó là con uềnh uôm. Tôi sai rồi.

Lời qua tiếng lại thế là lại cãi nhau. Tiện khăn gói ông sang nhà cô gái út. Vợ chồng già lại ly biệt thêm lần nữa.

Kết

Khi còn trẻ, còn sống trong tình yêu người ta nhìn nhau qua cặp kính màu hồng, lúc nào cũng thấy những điều tốt đẹp, để rồi thêm gần gũi. Khi về già, họ nhìn nhau qua cặp kính của bác sĩ, cặp kính của nhà giáo..., nhìn đâu cũng thấy vi trùng, coi chồng như học trò để giảng dạy..., rồi thêm xa cách.

Tình yêu và sức khoẻ như năng lượng trong mỗi con người, cùng với năm tháng nó cũng bị tiêu hao đến mòn kiệt.

Thôi thì đã là vợ chồng, thời son trẻ sống bên nhau là hưởng thụ thì lúc về già hãy sống bên nhau vì chịu đựng vậy. Vạn vật cũng có thời, con người sao tránh được. Vợ chồng già hết tình còn nghĩa. Hãy xem nghĩa làm trọng.

Đấy là tôi tự bảo mình và nhắn nhẹ với bao cặp vợ chồng già khác nữa để khỏi vô cớ chia lìa nhau trước khi trở về với cát bụi.

Hùng Lý
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Tô cháo huyết

Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.

Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon !

Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng nhôm. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết.

Lâu lâu, nhai nhằm một sợi gừng làm nồng lên trong miệng, ngon không chê được !Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với... tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng.

Trong... “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa... bình đẳng nữa ! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và... xả láng ! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”... ngon lành! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời... sướng ở chỗ đó !).

Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết ! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là... “chị xẩm” với tiếng “chị” rất... thời trang từ ngữ ! Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:

- Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.

- Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.

- Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.

- Ủa ! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy?

- Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.

- Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả?

- Đâu có ! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.

- Cha... Xa quá há ! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.

- Rồi cũng quen hà. Ủa? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi?

- Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.

- Rồi mấy đứa con thím đâu? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa...

- Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.

- Sao thím không đi?

- Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ. Đi đâu? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu? Còn thầy? Sao thầy không đi?

- Tôi kẹt !

Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi... trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết? Để tránh... thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngả cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn ( vì đi ngang chợ cá ) mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến ( Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à? ). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn tuốt ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi thẳng. Thật là... thích thú. Tôi phục... tôi quá chừng !

Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi... nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi... bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết !Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đăm đăm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ:

- Thầy Hai ! Thầy Hai à ! Trời ơi sao đâu mất biệt vậy? Vô ăn cháo đi !Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho... lấy có:

- Thím mạnh hả?

Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:

- Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà...

- Tôi không có tiền !

(Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu !).

- Không có sao ! Vô ăn đi ! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà... Thầy Hai !

Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ ! Như... cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.

Tiếng bà xẩm vang lên:

- Thầy Hai đừng ngại mà... Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao !

Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng, bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết ! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:

- Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy?

Nó nói dóc một cách... gọn ơ:

- Tôi mắc về dưới tỉnh.

- Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả?

- Dạ, mạnh.

Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:

- Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo !

Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mặt mày hớn hở. Rồi nó nhắm mắt, hít từng hơi dài mùi thơm mời mọc, coi giống như một thằng ghiền…

Giọng bà xẩm ôn tồn:

- Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.Ngừng một chút rồi tiếp:

- Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà... Phải thông cảm với nhau chớ ! Thầy Hai hiểu tôi không?

Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất ! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ...”, rồi nín thinh.

Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn...

Tôi thấy nó như vậy, và chỉ phải như vậy nó mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết !Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:

- Không ! Không ! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím !

- Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà ! Không tính tiền !

Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà ! Ăn đi !”.

Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt...

Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao...


Tiểu Tử
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

QUÊ NHÀ, QUÊ NGƯỜI, QUÊ MỸ, QUÊ VIỆT

Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi
đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn.

Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên, tôi ở Seattle, hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời,
tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi, bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói, tôi là người Việt Nam, để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.


Đúng, tôi ở Mỹ trên dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi.


Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi
to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm.


Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì
nó vẫn cho cái căn cước da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói tiếng Anh bể (broken English). Về cách phục
sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài, tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc.


Nhưng khi bước vào nhà tôi, từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo
tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người San Jose hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.


Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp
từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.

Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt
khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: chị đâu có phải là người Việt nữa, bây giờ chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu.

Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt, hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những
khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Rằng tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp
trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi… nghĩ lại.

Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người
tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao?

Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp
nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.

Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả, đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ,
tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình.

Chẳng có một lý do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng. Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa
tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình ở Trần Quý Cáp, nhà anh ở trước rạp ciné Eden đứng trú mưa với nhau.

Nước ở hồ Sammamish trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận
những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao, những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình
quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.

Lại có những lần ở Việt Nam, tôi bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng
biết mình từ đâu đến và đang đi lạc. Tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình, hình như đã
có điều gì rất lạ.

Ngôn ngữ Việt thì thay đổi quá nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là “ấn tượng”.
Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.

Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang
quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ!

So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ, hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ
quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn. Ở trong nước có bài hát nổi tiếng “Quê hương mỗi người có một”, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình,
hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?

Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình
không quen.

Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có
sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.

Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con
dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công giáo. Găp tôi, cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và không may, cụ bị Alzheimer. Vậy
là cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn. Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.

Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt, nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở
Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!

Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi
đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay
trong làng mình.

So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn
nhận quốc tịch của một nước khác.

"Khi về đổi họ thay tên.
Núi chùng bóng tủi, sông ghen cạn dòng".


Trần Mộng Tú.
duynga
Posts: 114
Joined: Sat Oct 13, 2012 2:40 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by duynga »

Con Lu Nhà Tôi


Trong ba chú chó mới sinh, bà dì ở Ðà Lạt cho tôi một con và được chọn ưu tiên. Cả ba đều là chó đực nên chỉ cần lựa con nào có bộ lông đẹp nhất là đủ. Khi tôi ngồi sà vào ổ của ba chú chó chưa mở mắt, chợt con có màu lông xám, hai đốm vàng trên lưng ngúc ngoắc đầu đánh hơi bò về phía tôi.

Nó đưa cái mõm mũm mĩm, ươn ướt ủi vào bàn chân của tôi. Cái đuôi cũn cỡn ngoe nguẩy như loài chuột xạ…

Hai tuần lễ sau tôi ghé thăm dì. Bầy chó đã mở mắt đang ngậm vú mẹ. Khi nghe tiếng tôi trốc trốc, chú chó lông xám ấy bỏ vú mẹ bò vào lòng tôi. Dù màu lông không nổi bật như hai con kia nhưng tôi thích cái tính thân thiện của nó ngay từ giờ phút đầu.

Mang chó về nhà, con tôi chê màu lông nhớp nhem rồi tự động đặt tên là Lu. Dù mới một tháng tuổi, nhưng khi rời chó mẹ về nhà tôi, Lu ít khi kêu đêm như những chú chó con khác. Ban đầu cho Lu bú bằng bình sữa, rồi cho ăn sữa đặc đổ vào đĩa. Chỉ ba tháng sau là Lu lớn như thổi.

Lai lịch của dòng họ nhà Lu cũng ly kỳ lắm. Jolie là tên mẹ của Lu, giống chó xù Nhật Bản, nhỏ con, chân thấp, dáng đi lũn cũn. Nó hay qua nhà láng giềng đùa giỡn với anh chàng berger to con, tai vểnh, đôi chân sau vạm vỡ. Một hôm, lũ trẻ đến trước nhà Dì tôi kêu giật giọng rằng là con Jolie bị con chó berger của ông Tư Ðợi tha đi khắp khu vườn. Dượng tôi hốt hoảng chạy sang. Những tưởng con berger đã cắn chết con xù của nhà dượng.. Nào ngờ cảnh tượng lạ lùng rất khó tin đã xảy ra: Con berger lẹo với Jolie nhỏ hơn nó gấp mấy lần. Vì là phần kết thúc sau “cuộc mây mưa” của loài chó, cho nên hắn tha con cái còn mắc cứng phía sau đuôi. Hai chân sau của con Jolie bị treo hỏng trên cao chỉ còn cái mõm và đôi chân trước bị kéo lê trên đất. Nàng kêu toáng lên khiến chàng đâm hoảng na chạy khắp vườn như na cái đuôi của mình trở nên nặng chình chịch. Kết quả cuộc tình giữa hai “chủng tộc”, nàng Jolie đẻ ra ba chú chó lai. Nhờ vậy mà đời con của nàng không còn mang dáng dấp thấp lè tè của loài chó xù nữa.

Con Lu lớn lên bộ lông ngày càng đẹp. Màu xám của mẹ pha màu vàng của bố mướt mượt như nhung. Hai đốm vá màu vàng đậm nằm hai bên hông, thoạt trông như yên ngựa. Dù không to con lớn xác như bố nhưng con Lu cũng vượt trội hơn đám chó nhà. Chân cao, dáng đi oai vệ như loài hổ. Hai vai rộng, u thịt nổi vồng lên khi nó bước đi. Cặp mắt ánh lên màu lửa như có thần lực. Ðàn chó hàng xóm gặp Lu là cụp đuôi chạy dài. Sau này, những lần đi săn giải trí loanh quanh ở những khu đồi còn an ninh, tôi mới nhận biết loài chồn, loài thỏ thấy Lu là hồn xiêu phách lạc, đứng chôn chân tại chỗ. Mỗi lần con tôi đi học về là dành nhau ôm Lu vào lòng. Tình cảm giữa chó và người không hề phân biệt. Ngoài cái khứu giác bẩm sinh độc đáo của loài chó có thể đánh hơi hàng mấy dặm, thính giác con Lu còn phân biệt được tiếng xe quen thuộc của tôi từ xa. Nó nghểnh mõm, ve vẩy đuôi chạy ra trước sân. Nhìn cử chỉ đó là nhà tôi đoán biết tôi sắp về đến nhà. Lu cạ vào chân tôi từ lúc xuống xe đến khi tôi vỗ về âu yếm nó mới chịu đi nơi khác. Lu cũng cảm nhận khá nhạy bén lúc tôi buồn bực hay giận hờn. Những lúc ấy nó nằm khoanh tròn nhìn tôi với ánh mắt buồn xo. Ðến khi tôi vui vẻ trở lại là Lu chạy đến cạ lưng vào người và liếm tay tôi như để hòa đồng niềm hân hoan với chủ.

*

Sau ngày “gẫy gánh 75”, tôi lên đường trình diện ban Quân quản thị xã. Tôi mang theo mười ngày gạo cùng ít đồ dùng, từ biệt vợ con với bao âu lo trong lòng. Khi bước ra khỏi cửa, con Lu cứ luấn quấn cản bước chân, tôi trực nhớ đến nó liền cúi xuống ôm Lu vào lòng. Ánh mắt ươn ướt buồn thiu của nó nhìn tôi chẳng khác gì đôi mắt của vợ tôi rươm rướm lệ. Lu liếm vào mặt tôi như quyến luyến từ biệt chủ phải đi xa lâu ngày. Trong tù, nhớ lại ánh mắt con Lu, tôi hiểu ra rằng loài chó còn có một giác quan đặc biệt, cảm tính rất nhạy bén về thái độ và tâm trạng của người gần gũi nó. Những tưởng mười ngày nửa tháng rồi quay về, nào ngờ cách biệt gia đình với thời gian dài hun hút. Tôi nhớ con Lu cũng tương tự như nhớ các con tôi. Nỗi lo ngại của tôi là lương thực ngày một khó khăn làm sao vợ tôi chạy đủ bữa cho đàn con bốn đứa lại thêm miệng ăn con chó.

Một ngày nọ, nhà tôi lên trại tù thăm, cho biết chú Dương Thái Lân, con của bà cô Út tôi từ Bắc về Nam có ghé thăm gia đình. Chú ấy bảo con Lu có cốt tướng nòi săn, muốn xin nó về đơn vị nuôi để săn mồi cải thiện thịt tươi. Lân là vai em nhưng lớn tuổi hơn tôi nhiều. Ði bộ đội từ trước 1954, sau tập kết ra Bắc được sang Tiệp Khắc học ngành cầu đường. Hiện là thủ trưởng đơn vị Công binh sửa đường ở Cao nguyên. Vợ tôi nhất quyết không cho con chó, lấy lý do phải qua ý kiến của chồng.

Một hôm, quản giáo trại gọi tôi lên văn phòng ban giám đốc. Một anh bộ đội mặc áo quần đại cán ngồi trong phòng tiếp khách tay cầm một tờ tạp chí cuốn tròn. Anh cán bộ thấy tôi vào, liền hỏi:

– Nguyễn Tấn đấy à?

Tôi ngập ngừng:

-Thưa vâng.

-Tôi là Dương Thái Lân.

Tôi à lên một tiếng để tỏ rằng mình biết hắn là ai. Thực ra, qua 21 năm ở Bắc và mấy năm đi bộ đội Vệ Quốc Ðoàn làm sao tôi nhớ nỗi cái khuôn mặt ngày xưa của thằng em con bà cô Út. Ðưa tờ báo cuốn tròn cho tôi, hắn bảo:

– Ngày trước anh cũng viết sách, làm báo dữ dằn đấy nhỉ?

Tôi mở cuộn báo thì ra là tờ Bán nguyệt san Quyết Tiến. Ðó là tạp chí do tôi trách nhiệm biên tập trước 75 do cơ quan USAID của Hoa Kỳ yểm trợ ngân khoảng để in ấn phân phát cho các đơn vị Ðịa phương quân và Nghĩa quân.

Lân bảo:

– Tôi có đọc trong đó truyện dài “Nhật Ký Bích Phương” của anh viết đăng nhiều kỳ về Tết Mậu Thân 68. Viết bạo đấy chứ, theo đúng sách lược tuyên truyền chống cách mạng của Mỹ Ngụy.

Tôi giật mình và cảm thấy bất an.. Hắn đưa tay ra hiệu lấy lại cuốn tạp chí rồi lên tiếng:

– Tôi có ghé nhà thăm chị Tấn. Giai đoạn này mà trong nhà còn nuôi con chó kiểu tiểu tư sản. Anh không sợ cặp mắt của quần chúng hay sao?

Tôi than thở:

– Thời gạo châu củi quế, nhà tôi phải chạy gạo cho bốn miệng ăn, nhưng vì nuôi nó từ lúc mới sinh nên tình cảm gắn bó như thành viên trong gia đình.

Hắn ngắt lời:

– Tôi có đề nghị với chị cho tôi mang con chó đó về đơn vị để đỡ bớt khẩu phần ăn cho gia đình nhưng chị bảo phải qua ý kiến anh. Mới nhìn là tôi biết nó thuộc giống chó săn quý hiếm và có thể chống lại cả thú dữ.

Tôi bực mình trước cái lối điếm lỏi, nhưng cố nén giọng:

– Nếu chú thích con chó thì về hỏi nhà tôi, quyền quyết định ở bà ấy.

Tôi đứng lên chào hắn rồi đi thẳng xuống trại.

*

Ðến kỳ thăm nuôi sau, bà xã tôi báo tin chú Lân đến nhà bắt con Lu đi rồi. Bỗng dưng mắt tôi như nhòa sương, lòng xót thương con Lu vô hạn. Từ ngày vào tù, tôi nghi ngờ tất cả những gì người ta nói. Giờ đây Lân bảo đem Lu về nuôi hay ăn thịt chỉ có trời biết. Thấy mắt tôi rưng rưng ngấn lệ, vợ tôi an ủi:

– Lũ con mình cơm không đủ ăn mà phải nhường cho chó một ít, lòng em cũng xót xa lắm. Nó thiếu ăn nên cả đêm chạy rông kiếm mồi đến sáng mới về nhà. Lông nó ướt nhớp nháp, đầy bùn. Biết đâu có cơm bộ đội dư thừa thân nó sẽ mập ra. Mình có giữ lại một thời gian sau cũng bị người ta đập chết làm thịt thôi. Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?

Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?

Hết giờ thăm nuôi, tôi đứng vào hàng. Nhìn đôi mắt nhòa lệ của vợ khiến lòng tôi xót xa vô cùng. Cả đêm hôm đó hình bóng con Lu cứ chập chờn trong giấc ngủ. Tôi mơ thấy đôi mắt buồn rười rượi của Lu nhìn tôi trong ngày ra đi như báo hiệu rằng nó không còn dịp gặp chủ nữa. Cái cảm giác man mác êm êm của lưỡi nó liếm vào mặt, vào cổ, giờ đây tôi vẫn không quên. Niềm tin gắng gượng nhỏ nhoi vào lời hứa của thằng em con bà cô là xin con Lu để canh chừng thú dữ và săn mồi. Vả lại, cái công khó của Lân đã lặn lội đường xa đến trại cải tạo để gặp tôi nên cũng an ủi phần nào.

Ba tháng sau, vợ tôi với khuôn mặt hớn hở báo với tôi con Lu không còn ở với chú Thái Lân nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn. Nàng kể:- Cách đây một tuần lễ, chú ấy bất thần đột nhập vô nhà mình không giữ kẽ như những lần trước. Chú dáo dác nhìn trước nhà, nhìn sau nhà, cả cái phòng ngủ của vợ chồng mình chú cũng ghé mắt quan sát. Ðột nhiên Lân hỏi:

– Con Lu có chạy về đây không chị?

Em sững sờ hỏi:

– Nó ở với chú mà?

– Tức lắm chị ơi, Lân ngồi vào cái ghế đặt ngoài hiên, nói tiếp: “Trước khi đi công tác Hà Nội, tôi gởi Lu cho chị nuôi lo ăn hàng ngày. Không ngờ các đồng chí trong đơn vị lợi dụng lúc tôi vắng nhà, bắt con Lu làm thịt đánh chén. Chúng bỏ con chó vào bao bố dìm xuống nước. Khi mở bao ra con chó không còn thở nữa. Họ yên chí ngồi chờ nồi nước đang nấu cho thật sôi để cạo lông. Ca nước sôi đầu tiên tưới vào lưng con Lu, bất ngờ nó vùng dậy chạy đi mất dạng. Lập tức các đồng chí ấy cầm súng lùng sục các ven rừng nhưng chẳng thấy nó đâu nữa. Tôi yên chí con Lu sẽ trở lại nhà chị vì nó vừa khôn vừa có sức mạnh khác thường. Tôi đánh giá thành tích săn bắt mồi của con Lu rất cao. Nó thường xuyên bắt được chuột đồng, thỉnh thoảng chồn hoặc thỏ. Mình có chất tươi thêm vào bữa ăn nên tôi quý nó lắm. Kể xong, Lân đi ra xe xách vào một bao cát đựng đầy gạo, bảo:

– Ðây là số gạo tiêu chuẩn tôi đi công tác còn thừa, chị nhận cho các cháu bồi dưỡng và thêm phần cho con Lu. Nếu nó có trở về đây xin chị báo tin cho tôi biết.

Lân ra đi được một ngày.

Hôm sau, lúc chạng vạng tối, cả nhà đang ăn cơm, con Lu không biết từ đâu chạy xồng xộc vào nhà, mình nó ướt đẫm mồ hôi. Trên lưng một vết phỏng to bằng bàn tay lột hết lớp lông và đã bắt đầu làm mủ. Lũ con mình ôm con Lu vào lòng mừng rơi nước mắt. Cả nhà phải nhịn một phần cơm cho nó. Loáng cái là nó vét sạch đĩa cơm độn sắn. Lu ve vẩy đuôi, đưa lưỡi liếm từng người trong gia đình như để điểm lại những người thân. Mấy đứa con mang Lu ra giếng chà xát xà phòng, tắm rửa, bắt sạch ve vắt bám vào da. Em khui bình thuốc Peniciline rắc lên vết phỏng. Chờ đến tối, em mang Lu về gởi cho ông bà ngoại vì biết thế nào chú Lân cũng trở lại tìm chó. Ðêm đó, Lu cứ theo chân em đòi về, thằng Doãn phải ngủ nhà ngoại để giữ con Lu ở lại. Em vuốt ve vỗ về:

– Con phải ở lại đây với ngoại. Lu không được theo mẹ về nhà, người ta sẽ đến bắt con đi, biết hông?”. Lu vểnh tai nghe lời em dặn nên ngoan ngoãn nằm trong lòng của Doãn mà không còn hậm hực đòi về nữa.”

Từ đó, hễ thấy người nào mặc áo quần xanh lá cây vào nhà là Lu chui dưới gầm giường chìa đầu ra, nhe răng gầm gừ. Chỉ cần một cú giậm chân là đủ để nó phóng ra vồ ngay. Sau lần thoát chết, con Lu nghi ngờ hầu hết mọi người, chỉ trừ gia đình tôi và ông bà ngoại. Tính thân thiện của con Lu giờ đây không còn nữa. Loài chó rất trung thành với chủ nhưng khi bị một lần đối xử tàn nhẫn với nó là bỏ nhà đi luôn.

Gia đình ông bố vợ tôi tuy ở thị trấn nhưng vì là vùng đất đai đã tạo mãi từ trước khi trở thành thị tứ nên nhà cửa vườn tược rộng thênh thang. Tiếp giáp với vườn cây ăn trái là cánh đồng mía, nay thuộc hợp tác xã nông nghiệp. Lu không bao giờ ra trước đường phố mà chỉ lùng sục trong vườn cây, ruộng mía sau nhà tha hồ bắt chuột, chim chóc, rắn rít. Nó sống như một tử tù thoát ngục. Nó biết ngoài xã hội loài người đang nhìn nó một cách thèm thuồng. Họ chỉ chờ cơ hội là biến thân xác nó thành miếng nhừ, miếng mận.

Ngày ra tù, tôi vào thăm ông bà nhạc gia. Khi vợ chồng tôi vừa đến cổng nhà, con Lu đánh hơi được từ trong nhà phóng ra chồm lên người tôi. Với sức nặng của nó đã khiến tôi té ngồi xuống đất. Người nhà ngỡ con Lu tấn công kẻ lạ mặt nên vội la lên: “Bố đấy Lu, tránh ra!” Nhưng không. Nó xoải hai chân trước đứng trên đùi tôi rồi đưa lưỡi liếm trên khắp mặt mày, tai cổ của tôi. Qua cơn hốt hoảng vì cú ngã bất ngờ, tôi hiểu ra con Lu đang mừng chủ. Tôi liền ôm chầm lấy nó rồi người và chó lăn lộn trên nền sân xi-măng. Cha mẹ vợ tôi vui mừng thấy con rể được ra tù. Hàng xóm đứng nhìn cảnh người vật ôm nhau, họ không tránh khỏi xúc động trong lòng.

Sáu tháng sau, nhà tôi sắp xếp cho tôi và thằng con trai lớn một chuyến vượt biển. Tôi phải xin hộ khẩu ở nhà bà dì tận làng An Vĩnh gần mũi Ba-Tâng-Gâng. Tôi có tên trong tổ hợp đánh bắt cá bằng lưới mành với ông dượng và mấy người em bà con. Tôi dắt con Lu theo để tránh cặp mắt của láng giềng và tránh luôn chú Lân bất thần đến nhà bắt gặp nó. Trước một ngày tới điểm hẹn, vợ tôi dẫn thằng Doãn, con trai đầu lòng của tôi xuống nhà bà dì để chuẩn bị lên đường. Sáng hôm sau, nhà tôi mang con Lu lên xe lam trở về nhà.

Ðêm 30 tháng hai âm lịch, trời không trăng nhưng rừng sao trên trời đủ soi rõ đường đi trên bãi cát trắng lờ mờ. Hơi nước biển mát lạnh cùng với ngọn gió tây thổi lồng lộng làm cho đám người trốn trong các bờ bụi rét run cầm cập. Họ cố dõi mắt về hướng biển. Mười giờ… mười một giờ… đến mười hai giờ ba mươi khuya, ánh đèn pin từ gành đá chợt nháy sáng báo hiệu ghe con đã đến. Tốp đầu tiên gồm bốn người lần lượt tiến ra gành đá. Tiếp theo là hai cha con tôi cùng hai người ở cánh bắc cũng xuất hiện. Cuộc “ra quân” âm thầm nhưng đúng theo thứ tự ấn định. Còn mười phút nữa mới đến tốp cuối cùng. Bỗng, phía sau làng có tiếng chân người chạy rầm rập rồi tiếng súng nổ loạn xạ. Toán đầu quay trở lại chạy tản mác vào xóm. Hai người cánh bắc cũng thế. Riêng tôi chạy băng qua gành rồi luồn vào lùm cây đước. Thằng Doãn, trước khi đi tôi đã dặn dò kỹ lưỡng. Nếu họ bắt được là cứ khai đi một mình đừng để liên lụy đến Ba. Toán du kích chia nhau chạy lùng trong xóm. Một du kích đuổi theo Doãn, đến gần bìa làng hắn chộp được cổ con tôi. Thằng bé la toáng lên: “Thả tôi ra, thả tôi ra”. Anh du kích xách thằng bé lên cao. Tay chân nó không ngừng giẫy giụa. Chợt, một bóng đen từ trong hàng dừa phóng ra nhảy chồm lên bám vào cổ anh du kích. Con chó! Tôi thầm kêu lên. Nó tấn công khá bất ngờ khiến anh ta đánh rơi cây súng và buông thằng nhỏ để đánh vật với con chó. Anh ôm đầu con chó nhưng răng chó càng lúc càng lún sâu vào cổ như con quỷ Dracula đang hút máu người. Hắn kêu cứu. Một lúc sau mới có đồng đội đến tiếp sức. Con chó cũng vừa nhả ra chạy vào trong xóm. Một loạt súng của người mới đến bắn đuổi theo. Tôi nghe tiếng ăng ẳng của chó từ trong xóm vọng ra. Một nghi ngờ thoáng qua, chẳng lẽ con Lu ? Nhưng tôi yên tâm ngay bởi con Lu đã được vợ tôi dẫn về nhà trong ngày hôm trước. Núp trong đám cây đước tôi quan sát đầy đủ cảnh chó và người vật nhau. Con chó xuất hiện trong bóng đêm chớp nhoáng như loài sói vồ mồi. Hình ảnh con chó ngoạm cổ anh du kích, tôi liên tưởng đến ma cà rồng đội lốt chó để hút máu người. Nhưng dù ma hay chó tôi cũng thầm cảm ơn nó đã giải cứu cho con tôi và giải thoát được bao nhiêu người.

Tôi về đến nhà lúc tờ mờ sáng nhờ chiếc xe Honda thồ đi kiếm khách sớm. Tắm rửa thay áo quần xong, chợt nhớ đến con chó. Tôi hỏi vợ:

– Con Lu đâu?

Bà ấy bảo:

– Khi xe lam vừa đến ngả ba quốc lộ, con Lu vọt xuống xe chạy ngược theo con đường về hướng biển. Em nghĩ nó trở lại với anh và con. Nếu có điều gì không may xảy ra cho nó thì em biết làm sao bây giờ. Tôi nhìn vợ buông tiếng thở dài:

– Thôi rồi!

Tôi nghĩ ngay đến tiếng kêu đau đớn của chó vang lên sau tiếng súng. Con Lu có thể chết vì loạt đạn bắn theo. Tôi cảm thấy đau xót vô cùng.

Chờ trời tối hẳn, dì tôi mướn xe Honda thồ đưa Doãn về với chúng tôi. Vợ tôi ôm con vào lòng, khóc thút thít:

– Giờ con đã thoát được về đây với mẹ cùng các em. Từ nay trở đi, đói no, chết sống mẹ nhất quyết không để gia đình ta chịu cảnh phân ly.

Doãn nhìn tôi hỏi:

– Ba có thấy con Lu không?

Chẳng đợi tôi trả lời, Doãn quả quyết:

– Lúc ông du kích buông con ra, trước khi chạy trốn, con có quay lại nhìn thấy con Lu đang ngoạm cổ ông ấy.

– Như vậy là con Lu đã chết vì loạt đạn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi kết luận. Các con tôi đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Tôi an ủi:

– Dù sao thì mình đã dành tình thương và chăm sóc Lu như con trong gia đình. Nó có chết cũng là cái chết có ý nghĩa, một nghĩa cử vô cùng cao quý của loài chó không khác gì con người.

*

Cả nhà đang say ngủ. Ðột nhiên, tôi nghe tiếng cào sột soạt vào cánh cửa trước. Im ắng một hồi lâu, tiếng cào lại nổi lên lần nữa. Ghé mắt nhìn ra ngoài, tôi chẳng thấy gì cả. Chỉ có bóng đêm bao trùm và sương mù dày đặc phủ đầy trời. Tôi thiếp đi một chốc. Tiếng sột soạt nổi lên lần thứ ba. Lần nầy lâu hơn và ở ngay cánh cửa hông. Tôi vội bật đèn lên, hé cửa nhìn ra. Hốt hoảng, tôi kêu lên:

– Em ơi, con Lu trở về.

Cửa mở toang, Lu đi khập khiễng vào nhà. Tôi ôm Lu vào lòng và nước mắt tôi tuôn trào. Tôi khóc vì vui mừng và khóc vì thương nó quá đỗi. Bầy con tôi xúm vào quấn quýt bên Lu. Máu khô bê bết trên mông và đùi trái của nó. Một viên đạn ghim vào đùi sau, rất may là không đụng xương. Tôi rửa sạch vết thương bằng rượu cồn, xoa thuốc đỏ rồi băng kín vết thương lại.

Từ năm 1986 chính sách đổi mới, thị trấn quê tôi bắt đầu có sinh khí trở lại. Chẳng bao lâu sau, nơi đây buôn bán sầm uất. Cửa hàng tư nhân được mở ra tranh đua cùng với cửa hàng quốc doanh. Ðời sống có phần dễ thở hơn.

Sau trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979, Dương Thái Lân và cả đơn vị công binh được điều động đến vùng thượng du Bắc Việt. Vì thế con Lu sống thoải mái với chúng tôi không còn lo lắng gì nữa.

Ðến tháng 7 năm 1991, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện tỵ nạn HO8. Con Lu cũng vừa tròn 18 tuổi. Nó đã quá già chỉ lẩn quẩn trong nhà. Nhưng khi có khách đến là nó vẫn không quên chạy vào gầm giường.

Ngày gia đình tôi vào Sài Gòn để lên máy bay, tôi cho Lu theo đến ga xe lửa cùng với bà con đưa tiễn. Khi còi tàu hụ từ xa, Lu đứng dậy sủa vang cả khu vực nhà ga. Trước khi lên tàu, mỗi người trong gia đình chúng tôi đều thay nhau ôm Lu vào lòng, rưng rưng, lưu luyến. Khi tiếng còi báo hiệu tàu chuyển bánh, con Lu nhìn đoàn tàu rồi tru lên một tràng dài. Ðây là tiếng tru lần đầu tiên trong cuộc đời 18 năm của nó. Tôi rùng mình. Tiếng tru thật áo não tưởng chừng như lời trối trăng vĩnh biệt của Lu nhắn gởi.

Con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu.

Khi qua Mỹ rồi, chúng tôi được thư nhà cho biết, con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu.

Hay tin Lu chết, con tôi ôm nhau khóc. Nước mắt chảy ròng ròng như khóc thương một người thân đã ra đi vĩnh viễn. Riêng tôi thầm nghĩ: “Cũng may là nó đã quá già yếu, thân chỉ còn da bọc xương nên được chết toàn thây. Dù muốn dù không nhân viên nhà ga cũng phải chôn xác Lu ở một nơi nào đó trong lòng đất. Ðất mãi mãi ấp ủ thân xác nó và ngàn vạn năm sau biết đâu bộ xương của Lu sẽ hóa thạch tồn tại mãi trên mảnh đất Việt Nam.”

Tôi khóc âm thầm trong đêm như khóc cho đứa con của tôi còn để lại quê nhà nay không còn nữa. Suốt mấy đêm liền tôi nghĩ về Lu như nghĩ về một con người quả cảm và thủy chung.

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by nguyenvsau »

NỒI CANH CHUA CỦA MÁ
Đỗ Cường


Ngày xưa nhà tôi nghèo lắm, đến bữa ăn gia đình thường quây quần bên mâm cơm đạm bạc, không có người ăn trước người ăn sau, bởi nếu như vậy thức ăn sẽ không đủ cả cho gia đình mười người con.
Anh em có một thông lệ ngầm là mỗi tháng phải nấu hai lần canh chua, đó là ngày Ba tôi lãnh lương và ngày anh em chúng tôi đề nghị.
Mỗi lần nghe Ba tôi nói với Má: “Bà ơi mai nấu canh chua nghe bà” dường như đêm đó tôi không ngủ được, thử hỏi một thằng con trai còn non và chưa xanh vừa tròn mười lăm tuổi… ngày mai xách giỏ lẽo đẽo đi chợ với Má, thì ôi thôi “còn có danh gì với núi sông“ nữa.
Vào chợ, Má lựa chọn tỉ mỉ, cá phải là cá còn sống, rau phải tươi ngon, trái me không được già hay non quá, khóm mua nguyên trái vừa chín tới, bạc hà mới cắt phải còn mủ, lấy móng tay bấm vào phải xốp…
Việc mua nguyên liệu, Má đã cẩn thận, thì công đoạn nấu nồi canh chua còn công phu hơn nữa, để cạo lớp nhớt trên mình con cá Hú (Ú) phải là nước sôi vừa “reo” sau đó chà xát với muối tránh mùi tanh, cá cắt ra từng khứa bằng nhau để vào rỗ cho ráo nước không được để trên dĩa cá đọng nước sẽ không ngon, trái me cạo sạch và dằm me bên ngoài lấy nước chua tuyệt đối không dằm me trong nồi canh chua, khóm và các rau khác xắt ra đều để thứ tự trong rỗ…
Khi nghe tiếng xe đi làm về của Ba tôi ngoài cửa, Má tôi mới bắt đầu nấu nồi canh chua, Má nói nồi canh chua không được nấu sớm hay trễ quá sẽ mất đi mùi vị của nồi canh chua, giống như trái cây chín tới khi ăn mới cảm nhận được cái ngon của nó.
Tôi không quên được tiếng húp xì sụp, những giọt mồ hôi chảy dài của anh em tôi bên mâm cơm bởi vị ngon của tô canh chua.
”Bà nấu ngon quá“ Ba tôi khen.
Nhìn chồng và các con ăn, tôi thấy gương mặt Má tôi hạnh phúc và mãn nguyện.
Có lần Má tôi hỏi:
“Theo con nguyên liệu nào quan trọng nhất của nồi canh chua?”.
Tôi liền đáp: “Cá, me, bạc hà phải không Má“.
Má từ tốn nói: “Nếu chỉ có cá, me, bạc hà là nguyên liệu chính để quyết định nồi canh chua ngon, theo Má như vậy thì chưa đủ, con thử nghĩ nếu canh chua thiếu chút ớt hay hành, ngò, giá … thì hương vị của canh chua như thế nào?. Tuy những nguyên liệu đó không sánh được với nguyên liệu khác, nhưng nó là yếu tố quan trọng làm kết dính những mùi vị khác để hình thành nồi canh chua ngon.”
Những điều Má tôi nói, giúp tôi hiểu ra được nhiều vấn đề trong đó có việc học của tôi, trong lớp tôi chỉ giỏi toán, lý, hóa, sinh ngữ còn những môn khác tôi không cho là quan trọng.
Từ dạo đó tôi ít đi chơi chăm học hơn những môn kém, đi học về tôi phụ giúp Má nhiều hơn và việc học của tôi tiến bộ.
Tôi nghĩ “Trong cuộc sống có những vật bình thường ở cạnh mình, mình không gìn giữ, trân trọng khi mình cần nó đã thất lạc hay bị mất đi làm mình tiếc nuối khôn nguôi.”
Ba năm sau!
Vào một chiều mưa muộn, Má tôi đã bỏ anh em tôi ra đi mãi mãi!
Tạo hóa rất công bằng và oan nghiệt, tạo hóa ban tặng cho tôi một người Mẹ để tôi sống trong yêu thương, giận hờn, vòi vĩnh và tạo hóa đòi lại người Mẹ của tôi, chưa cho anh em tôi đủ trưởng thành để được báo hiếu.
Từ ngày Má mất, gia đình tôi ít tiếng đùa vui, anh em tự chăm sóc cho nhau, đi học về tôi nấu nướng chính cho gia đình. Riêng ba tôi tóc bạc nhiều, ít nói và trầm mặc.
Có những lần tôi chợt thức giấc nửa đêm thấy Ba ngồi ngoài sân nhìn vào cõi xa xăm, tôi biết Ba tôi đang nhớ Má lắm, Ba thật cô đơn như chết nửa tâm hồn.
Tháng năm dần qua, anh em tôi ra đời làm việc, người thành đạt, người công chức, người giáo viên cuộc sống ổn định.
Riêng tôi, hành trang ra đời là nồi canh chua của Má, cái nồi canh chua dân miền Nam ai cũng nấu được, chỉ khác nhau sự nêm nếm, tùy theo khẩu vị mọi người khi ăn xong chỉ khen ngon hay dở mà thôi.
Nồi canh chua của Má cũng dung dị như bao nồi canh chua khác. Nhưng với tôi nồi canh chua của Má lại có tính triết lý dạy cho tôi biết vận dụng trong cuộc sống và ngộ ra được nhiều điều.
Ở công ty, tôi biết coi trọng chị nấu bếp, anh lái xe, người bảo vệ… Tôi không coi tôi là một khúc cá, me và bạc hà để quyết định nồi canh chua, chính họ - ngò, ớt, hành… là những nguyên liệu quan trọng kết dính để phát triển công ty, và tôi đã thành công.
Với con tôi, tôi là người cha, người bạn, người thầy và cả là người em nữa.
Mọi người tin tôi không? “Bố ơiiiiiii tắm con”
“ Yes Sirrrrrr “ !!!
Được Má chỉ dẫn phương thức nấu nhưng tôi chưa bao giờ nấu được nồi canh chua ngon như Má tôi.
Nhân ngày họp mặt, anh em đề nghị tôi nấu nồi canh chua, tôi tận dụng mọi kỹ năng của mình để hoàn thành nồi canh chua thật to đãi các anh em.
Đang ăn cơm, tôi thấy mọi người ăn trầm ngâm và đăm chiêu, đến khi đứa em út thốt lên một câu “Ăn canh chua làm em nhớ Má!“, từng đôi đũa để chầm chậm xuống bàn, mọi người từ từ đứng dậy không nói với nhau lời nào, tôi biết anh em đang hoài niệm lại ngày Má còn sống bên tuổi ấu thơ của chúng tôi.
Nồi canh chua của tôi nhạt nhẽo!
Nồi canh chua tôi nấu dư thừa của người có tiền, còn Má tôi phải đi từ đầu chợ đến cuối chợ trả giá, mua con cá vừa phải, xin thêm người bán cọng ngò trái ớt … vì túi tiền eo hẹp.
Nồi canh chua, tôi nấu nhanh chóng vì có người giúp việc.
Nồi canh chua của Má tự tay làm có pha mồ hôi và nước mắt vì khói củi cay xè.
Canh chua của tôi vừa ăn có nhạc du dương, còn canh chua của Má chỉ có mồ hôi và tiếng xì xụp, đũa muỗng lanh canh của mười đứa con đang đói.
Canh chua của Má tràn ngập thương yêu có sự đợi chờ chồng và các con về trong hạnh phúc đầy mãn nguyện, còn canh chua của tôi thì mau chóng, no nê và thừa thải.
Má tôi luôn luôn là người ăn sau cùng, có lần nghe thằng Út nói lại với tôi:
“Má mút lại những cái xương cá của anh em mình đó anh!”
Em hỏi Má, Má quay đi chỗ khác và nói
“Tụi con ăn phí quá!”
Đây là bài học có lẽ tôi không bao giờ quên cho đến khi xuôi tay nhắm mắt.
Nếu tôi được một điều ước, tôi sẽ ước Má tôi sống lại để anh em tôi được phụng dưỡng Má, dù tạo hóa có lấy đi bao nhiêu tuổi thọ của tôi cho điều ước đó tôi cũng vui vẻ chấp nhận, mãi được ôm Má vào lòng và gọi hai tiếng . MÁ ƠI!!
TranAnhDung
Posts: 288
Joined: Tue Oct 28, 2008 7:43 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by TranAnhDung »

SỐNG "BỤI"

Hắn ra tù. Tự biết không có ma nào đến đón, đành dứt khoát bước đi. Xe Honda ôm vào giờ này không thiếu, nhưng hắn thích đi bộ. Lững thững đi hoài như người rảnh rang lắm, trời tối mịt mới đến thị xã.

"Khách sạn công viên" trước Cung thiếu nhi, khi xưa là chỗ ngủ tốt nhất của dân bụi đời. Trong một năm hắn ở tù, khu vực này đã sửa sang, trồng trọt đủ thứ hoa kiểng. Lại thêm nhiều đèn chùm đầy màu sắc, đứng xếp hàng nối dài khoe đẹp khoe sáng.

10 giờ đêm. Hắn lại quảy túi đi... Rồi cũng phát hiện ra chỗ ngủ lý tưởng. Cái thềm xi măng sát tường rào bệnh viện, có tàn cây phượng vĩ che khuất ánh đèn, giúp lại khoảng thềm tôi tối cỡ ánh sáng đèn ngủ. Hắn nghĩ: "Chỗ này chắc nhiều muỗi, nhưng ngủ rất êm không bị xe cộ ồn ào". Moi từ cái túi ra tấm vải xanh cũ bèo nhèo, có thể gọi tạm là mền, trải ra, kê túi gối đầu lên, hắn nhắm mắt. Đi bộ mệt mỏi cả ngày nên hắn ngủ rất ngon.

Gần sáng, hắn giật mình tỉnh giấc, lạnh toát với cảm giác nghĩ có con gì đó quấn quanh cổ. Hắn nằm im định thần. Sát ngực hắn là một làn hơi thở nhẹ và một trái tim ai đó đập đều nhịp, cánh tay của người ấy vòng quanh cổ hắn. Hắn lẩm bẩm:

Con mẹ nào đây?

Hắn nhè nhẹ ngồi lên, nheo mắt nhìn. Hoá ra là một thằng nhỏ chừng hơn 10 tuổi. Mặc cái áo rách bươm bày ra bộ ngực lép kẹp, đã giành muốn hết cái mền của hắn. Nó cũng thuộc dạng không nhà như hắn, đang ngáy pho pho ngon lành, chẳng hay biết thằng cha nằm kế bên đã thức giấc, đang nhìn mình chăm chăm.

Hắn dợm người đứng lên, định bỏ đi tìm chỗ khác ngủ. Nhưng nghĩ gì đó, hắn nằm trở xuống, xoay lưng về phía thằng nhỏ, đưa tay kéo lại cái mền. Hắn nhắm mắt cố dỗ giấc nhưng không tài nào ngủ lại được. Hắn ngồi dậy móc thuốc hút, chợt thấy cái mền bỏ không, trong khi thằng bé bị sương xuống lạnh, càng lúc càng co tôm lại. Hắn bất giác chửi thề, rồi kéo mền đắp lên người thằng nhỏ.

Hút hết điếu thuốc, hắn nằm xuống thiếp được một lúc, tới khi thức dậy thằng nhỏ bỏ đi mất tiêu. Hắn hốt hoảng thọc tay vào túi quần kiểm tra, số tiền vẫn còn nguyên. Hắn thở phào, xếp mền bỏ vào túi, quàng lên vai bước đi.

Cả ngày hắn đi tìm việc làm nhưng không ai mướn, đành xài thật dè xẻn từng đồng. Xong, trở lại nơi tối qua nằm ngủ.

Hắn còn hút thuốc thì thằng nhỏ lại về. Nó thò lõ mắt nhìn, trách hắn:

- Sao ông giành chỗ ngủ của tui hoài vậy?

- Chỗ nào của mầy?

- Thì đây chứ đâu?

- Vậy hả? Thôi để tao ngồi chơi một chút rồi đi, trả chỗ cho.

Thằng nhỏ thấy người đàn ông vạm vỡ nhưng có vẻ biết điều, liền tới ngồi cạnh hỏi chuyện. Bỗng nhiên hắn trút hết tâm sự với thằng nhỏ. Từ chuyện bỏ làng ra đi, đến chuyện ở tù hai lần, cả việc từng ăn ở với đàn bà lang thang và bây giờ là không tìm được việc làm

Nghe xong, thằng nhỏ phán một câu xanh rờn:

- Dám chừng tui là con ông lắm à?

- Nói bậy! - Hắn nạt thật sự - Mầy con của ai?

- Má tui làm gái, gặp ông nào đó ở với bả. Bả có bầu thì đẻ ra tui.

Bả bệnh chết rồi. Mấy năm trời tui sống với một bà già mù, dắt đi ăn xin lay lất. Rồi bả cũng chết luôn. Còn mình tui.

- Vậy mà nói là con tao?

- Biết đâu được?

- Mầy làm nghề gì mà lúc nào cũng về muộn?

- Buổi sáng tui đi khiêng cá biển, tiếp bà chủ làm khô. Buổi chiều tui đi bán thêm vé số, tới khuya mới về đây ngủ.

- Sao mầy hổng ngủ ở chỗ làm khô luôn, từ bến cảng đi tới đây xa bộn?

- Ông khờ quá! - Thằng nhỏ đập muỗi cái bộp, rồi nói tỉnh queo - Muốn kiếm được việc làm bộ dễ lắm sao, mình cù bơ cù bất ai muốn? Phải nói dóc: Nhà ở xóm Bánh Tằm, có ba má đàng hoàng, tại nghèo mới đi kiếm việc làm tiếp gia đình, tối về nhà chớ bộ.

- Mầy giỏi hơn tao - Hắn buột miệng khen, hỏi tiếp - Mầy làm đủ sống không?

- Dư! Cho ông biết tui lấy vé số bằng tiền mặt đàng hoàng. Còn tiền gởi cho ông chủ thầu cất giùm một số nữa.

- Quá xạo!

- Hổng tin thì thôi - Thằng nhỏ nằm xuống, ngáp vắn ngáp dài – Ông ngủ đây với tui cũng được, ngủ chung với ông ấm hơn.

Tự dưng hắn cảm thấy mình bị xúc phạm khi phải ngủ nhờ thằng nhỏ, dù rằng thềm xi măng là của bệnh viện. Nhưng rõ ràng thằng nhỏ oai hơn hắn ở chỗ đầy vẻ tự tin và có việc làm đủ sống. Hắn ôm túi đứng lên bỏ đi. Thằng nhỏ vòng tay ra sau ót, nhóng cổ nói:

- Dân bụi đời mà còn bày đặt tự ái.

Hắn đảo một vòng nhỏ, kết cuộc đành trở lại. Thằng nhỏ cười hi hi:

Tui nói rồi. Chỗ này là ngon lành nhất thị xã, ngủ lạng quạng tổ bảo vệ lôi về khu phố phạt tiền là chết – Nó lăn người xích qua, nhường phần cho người đàn ông nằm xuống bên cạnh, thì thào – Tôi chỉ cho ông chỗ ngủ ngon lắnm.

- Ở đâu?

- Trong bệnh viện. Vô ngủ ngoài hành lang người ta tưởng đâu mình đi nuôi bệnh, hổng ai thèm đuổi.

Hắn thở dài trong bóng tối:

- Sao mầy hổng vô đó ngủ, xúi tao?

- Tui ghét mùi thuốc sát trùng.

- Tao cũng vậy.

Sáng ra, thằng nhỏ lại thức sớm đi trước, hắn tiếp tục quẩn quanh với một ngày không có việc làm. Hắn không dám ăn cơm chỉ ăn bánh mì, uống một bọc trà đá, dành tiền cho những ngày sau.

Đêm nay, phố thị buồn mênh mang theo tâm trạng. Hắn bắt đầu chùn ý chí, nghĩ thầm: "Lúc mới ra tù còn ít tiền, giá cứ tìm nơi nào đó gần trại giam ở lại, lầm thuê làm mướn chắc dễ dàng hơn".

Hắn nghe sống mũi cay cay, hình như một vài giọt nước đòi rơi ra từ mắt, hắn không kiềm giữ cứ để nó tuôn trào.

Bàn tay thằng nhỏ sờ vào mắt hắn:

- Ngủ rồi hả? Ý trời, sao ông khóc, chưa kiếm được việc làm phải không?

Hắn gượng cười:

- Tao khóc hồi nào? Tại ngáp chảy nước mắt thôi.

Thằng nhỏ ra vẻ sành sỏi:

- Má tui nói bụi đời mà còn biết khóc là bụi đời lương thiện. Tui khoái ông rùi đó, ngồi dậy "hưởng xái" với tui cái bánh bao nè.

Hắn ngồi lên sượng sùng:

- Mầy sang quá.

- Ờ! Tui ăn sang lắm, hổng ăn sao đủ sức đi làm suốt ngày! – Nó ngừng lời ngoạm một miếng lớn bánh bao, rồi nói nhẹ xều – Ông chịu để tui giúp, chắc sẽ tìm được việc làm.

- Làm gì? - Hắn có vẻ không tin, thờ ơ hỏi.

- Trước tiên, ông chịu làm ba tui nghen?

Hắn lắc đầu nguầy nguậy:

- Thân tao lo chưa xong, làm sao nuôi mầy?

- Ai bắt ông nuôi tui, tui nuôi ông thì có. Tui giới thiệu với bà chủ ông là ba tui. Nếu được nhận vô làm khô cho bả, sức ông mạnh, kiếm tiền nhiều hơn tui là cái chắc.

- Làm gì?

- Khiêng cá, gỡ khô ngoài nắng, vác khô lên xe - Thằng nhỏ ngừng lời đưa tay nắm cổ tay hắn bóp bóp – Ông bụi đời mà sao hổng ốm, lại khoẻ mà còn hiền nữa chứ!

Một năm ở tù, tao lao động tốt mà - Hắn tự hào khoe, nói tiếp – Ai mới ở tù ra mà hổng hiền, có người sau khi được cải tạo thành tốt luôn, có người hiền được vài ba bữa.

- Nè! Ông nhớ việc cần thiết là: Nhà mình ở xóm Bánh Tằm, vợ ông bán bún cá, tui còn hai đứa em gái đang đi học. Mà ông có bộ đồ nào mới hơn bộ này không, ngày đầu đi xin việc phải đẹp trai, ít te tua một chút.

Hắn vỗ vỗ tay vào cái túi du lịch:

- Có, tao còn một bộ hơi mới. Mầy tên gì, sao má mầy ở xóm Bánh Tằm mà bán bún?

- Thì nói mẹ nó vậy. Tui tên Tèo nghe ba?

- Tao chịu cách xin việc của mầy, nhưng tao ghét có con lắm. Ở chỗ làm mầy kêu tao bằng ba, ngoài ra thì xưng hô như bây giờ.

- Ông cà chớn chết mẹ, người ta giúp cho mà còn làm phách - Thằng Tèo nhe răng cười hì hì – Ăn bánh bao vô khát nước quá ta.

- Tao mua cho - Hắn đứng lên đi lại quán mua hai bọc Pepsi.

Thằng Tèo nhăn mặt:

- Chưa có việc làm mà sài sang quá vậy ba?

Hắn nghiêm mặt:

- Mầy còn kêu như vậy, tao không nói chuyện đâu. Đây là tao đãi mầy, cảm ơn công giúp tao có việc làm.

- Biết đâu người ta hổng nhận thì sao?

- Thì kệ, coi như phá huề cái bánh bao với mầy.

Đêm đó hắn khó ngủ, lầm thầm nghiền ngẫm cái hoàn cảnh gia đình và địa chỉ do thằng Tèo đặt ra giúp hắn.

Vóc dáng khoẻ mạnh của hắn làm vừa mắt bà chủ. Hắn có việc làm, lương tháng kha khá, bèn bàn với thằng Tèo hùn nhau kiếm một chỗ trọ, thằng Tèo đồng ý.

Cái chỗ ở nhỏ xíu như cái hộp, ban ngày nắng nóng một ngộp thở, nhưng cũng sướng hơn ngủ ở thềm rào bệnh viện. Hơn nữa, ban ngày "cha con" nó có ở nhà đâu mà sợ nóng. Hắn và thằng Tèo có vẻ thương nhau nhiều hơn, nhưng không ai chịu bày tỏ điều đó. Nếu không phải ở chỗ làm khô mà thằng Tèo lỡ miệng kêu ba, là hắn cau mày khó chịu. Thằng Tèo không ưa cái kiểu bực bội của hắn, nên nói chuyện với hắn trống không, hổng ông hổng ba gì hết.

Hắn những tưởng cuộc sống êm trôi với công việc tanh tưởi cá biển. Nhưng sự đời thật không đơn giản, tới tháng làm thứ năm thì có chuyện xảy ra.

Sáng nay mới vác cần xé cá từ tàu lên bờ, thấy xôn xao trên nhà chủ, hắn vội đi lên.

Thằng Tèo đang bị bà chủ nắm áo. Bà ngoác cái miệng tô môi son đỏ chót gào lên:

- Nó ăn cắp bóp tiền, tui mới để đây xoay lưng đi vô, quay ra đã mất. Có mình nó đứng đây, ai vào lấy chớ?

Thằng Tèo nước mắt ngắn nước mắt dài, mũi dãi lòng thòng quẹt lấy quẹt để:

- Tui không ăn cắp đâu. Tui tốt nào giờ bà chủ biết mà?

- Nghèo mà tốt gì mày? Ba mầy hổng biết dạy con, tao tốt với cha con mầy quá, sao trả ơn vậy hả?

Hắn đứng im không thanh minh, mặc cho bà chủ xỉa xói chửi không ra gì cái thằng cha là hắn.

Hắn đi lại bên thằng Tèo hỏi ngọt ngào:

- Mầy có lấy tiền của bà chủ không?

- Tui thề có trời, tui không lấy.

Một bên bà chủ sang trọng nói mất, một bên là thằng con hờ bảo không lấy. Hắn còn đang lúng túng thì hai anh công an phường tới. Mỗi lần gặp công an hắn lại nhớ tới trại giam. Hắn nghĩ thằng Tèo mới hơn mười tuổi mà phải chịu tiếng tù tội, sẽ ảnh hưởng tới tương lai sau này của thằng nhỏ không ít và hằn sâu trong ký ức nó khó nguôi quên. Như bản thân hắn đây! Có thể nó lỡ dại một lần, nhưng làm sao nỡ để nó bị bắt, khi thực bụng hắn thương nó như con .

Hắn vẹt đám người hiếu kỳ bu xung quanh, đi tới trước mắt hai anh công an thú tội:

- Tui ăn cắp tiền của bà chủ, lỡ tay đánh rơi xuống nước, chắc là trôi ra biển mất rồi.

Hắn im lặng đi theo đà đẩy của người công an, không thèm nhìn thằng Tèo đang há hốc miệng trông theo hắn. Lòng hắn nặng trĩu nhớ tới tiền án có sẵn. Nhưng rồi hắn chuyển sang niềm hy vọng:

"Chắc chắn các anh công an sẽ tìm ra thủ phạm và mình được trả về".

Thằng Tèo thấy niềm thương cảm dâng lên đầy ứ ngực, nó tốc chạy theo, hai tay đưa về phía trước chới với. Giọng nó khàn đục, gào tha thiết:

- Ba ơi, ba bỏ con sao ba?

Bất giác hắn xúc động tột cùng, cảm giác thương yêu chạy dọc sống lưng làm ớn lạnh. Hắn giật phắt người, quay lại hỏi bằng giọng âu yếm:

- Con kêu ba hả Tèo?

Công an đưa hắn lên xe. Thằng Tèo chạy theo, luồn lách trong dòng xe cộ, hụp hử trong khói bụi sau xe. Nó chạy luôn tới trụ sở công an, lảng vảng đứng ngoài chờ mà không biết chờ cái gì.

Không thể làm gì hơn, thằng Tèo chửi cha chửi mẹ kẻ nào ăn cắp bóp tiền của bà chủ và nó tin tưởng các chú công an sẽ bắt được thằng ăn cắp.

Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, thằng Tèo đang ngồi dựa lưng vào tường, nhắm mắt ngủ gà ngủ gật, thì một bàn tay ai đập mạnh vào vai. Nó giật mình dụi mắt. Bà chủ nách kẹp cái bóp, đứng ngó nó cười toe toét:

- Đi vô lãnh ba mầy ra. Cái bóp dì mang theo lúc đi tiểu, bỏ quên trong toa lét mà tưởng mất. Dì đãng trí quá.

Vậy là "ba" thằng Tèo được thả. Nó nhào tới thót lên cổ ba để ba cõng nó tưng tưng trên lưng miệng liến thoắng:

- Ba thấy chưa? Ở hiền gặp lành mà!

Bà chủ đi sát bên, đưa tặng cha con nó chút tiền với thái độ của người có lỗi. Hắn lắc đầu không nhận vì đây chỉ là sự hiểu lầm. Thằng Tèo đột ngột dùng cả hai tay giật phắt nắm tiền, nói gọn hơ:

- Con cảm ơn bà chủ. Tiền này cha con mình xài cả tháng đó ba.

Trước hành động đường đột của thằng Tèo, hắn còn biết làm gì hơn là cảm ơn bà chủ. Rồi quay sang rầy "con""

- Con thiệt mất dạy quá, chắc phải cho đi học thôi.

- Ông nói cái gì? - Thằng Tèo khom người xuống nhìn hắn hỏi gằn.

Hắn lặp lại:

- Ba nói con phải đi học để cô giáo dạy những điều hay lẽ phải mới mong lên người.

Thằng Tèo đang ngồi trên lưng đột ngột tụt xuống. Nó lặng im đi miết lên phía trước. Hắn đuổi theo nó, hỏi:

- Sao vậy? Bộ con hổng muốn đi học hả?

Không quay người lại, thằng Tèo chúm chím cười, trả lời:

- Ba hổng biết gì hết trơn, tui đang khoái chớ bộ.

Gió từ biển thổi lộng vào mát rượi. Hắn mỉm cười nhủ thầm: "Gió nhiều thật dễ thở"...

Không rõ tác giả
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Image

S Ô N G D À I
“ Sông dài cá lội biệt tăm
Chín thu cũng đợi mười năm cũng chờ “

( Ca dao )
- Linh Phương -
Tui ngồi thu lu bên chiếc bàn mà hình dung, ngẫm nghĩ đủ thứ chuyện dìa anh Nghị, dìa vụ mùa năm nay . Lúa chất đầy bồ, nhưng tía má vẫn hông vui vì giá lúa giảm, phân bón lại lên cao. Tui nhớ nao nao những kỷ niệm tuổi thơ của mình và anh Nghị, hông sao quên được. Ngày đó, tui là con nhóc lớp đệ lục, còn anh Nghị lặn lội vào đời.. Nhà anh cách nhà tui con sông nhỏ, nước chảy hai dòng bên đục, bên trong. Tui rất thương anh, coi anh như anh hai trong gia đình, bởi nhà tui hông có anh trai, chỉ toàn là lũ con gái vô tích sự. Anh cũng rất thương tui vì gia đình anh chỉ vỏn vẹn hai má con. Mỗi trưa, tui thường rủ anh chơi trốn tìm giữa những bao lúa to , thơm nồng mùi nắng, mùi dây đay dệt thành bao trong kho lúa gần nhà. Đứng trên những bao lúa cao nghều, nhiều khi chỉ cần vói tay là có thể chộp được những chú chim non nằm trong tổ trên cây xà ngang. Nhưng tui và anh thích nhất là những buổi trưa ngồi bên đám ô rô, cóc kèn nhìn lũ chim ngói nhởn nhơ bên đám rạ khô, thỉnh thoảng chúng “ gù gù “ nghe thật êm tai.

Mùa nước nổi. Bông điên điển nở vàng một góc sông quê dài hút mắt. Má tui thường chống xuồng hái những chùm bông hực vàng làm dưa chua, nấu canh hay trộn gỏi tép đồng hoặc bông điên điển chấm cá kho trong từng bữa cơm. Mùa nước nổi dâng ngập nhà. Sáng sớm bỏ chân xuống giường, nước lạnh thấu xương. Chao ui ! Chung quanh toàn là nước. Mấy chiếc dép trôi lềnh bềnh khắp nơi. Hông biết mần sao hơn, tui đành xắn quần ra sau bếp đánh răng, rửa mặt chuẩn bị cắp sách đến trường.
-H…ú…hờ…nhỏ ơi, thức dậy chưa ?
Tiếng anh gọi ngoài cổng rào, rồi tiếng chân lội bì bõm vô nhà. Tía tui ra đồng sớm, Má đang lui cui dọn dẹp nhà cửa, miệng hỏi
-Thằng Nghị đó hè ?
Anh xuất hiện nhe răng cười với má.
-Con đến đưa Cúc đi học.
Má chắt lưỡi :
-Thật cực cho con quá.
Má vội mở chạn lấy mấy củ khoai gói trong tàu lá chuối non, dúi vào tay tui. Ôm cổ anh, nước xăm xắp dưới đầu gối, tui nói :
-Con đi học nghen má.
Anh gật đầu chào má rồi cõng tui ra đường. Ngồi trên lưng anh, tui ngán ngẫm nhìn trời nước mênh mông.Buồn buồn cất giọng hát : “ Ai bảo chăn trâu là khổ. Chăn trâu sướng lắm chớ . Ngồi mình trâu rồi lại vuốt đuôi trâu…”.
-Chời ! Bộ anh là trâu sao chời ?. Tui tức cười hông nhịn được .
-Thì cứ coi như dị đi, anh tuổi sửu hông là trâu ha.
Anh lầu bầu :
-Thiệt tình , chịu thua luôn.
-Xí !
Anh dò dẫm từng bước chân, bên kia là mương vườn. Anh hái một nhánh cây làm gậy chống đi, vì nước đã xóa tất cả lằn ranh. Chỉ cần sơ suất “ hà bá “ sẽ dìm tui lẫn anh xuống nước hông chừa đầu , cổ, tóc tai. Lúc đó, chắc hẳn áo quần, cặp sách ướt loi ngoi như mắc phải cơn mưa lớn.
-Nhỏ có sợ hông ?
-Em sợ lắm, nếu anh bị ngã.
-Đừng lo, dẫu ở trên Sài Gòn lâu lâu mới dìa quê, anh vẫn thuộc làu từ bờ đê, con đường, con rạch xứ mình.

Hết mùa nước nổi, anh lại lên Sài Gòn. Tui tiễn anh tận bến đò. Nhìn dòng sông nước chảy xiết , mờ nhạt vì sương mai buổi sáng, lòng tui càng buồn hiu, buồn hắt. Anh bảo, anh sẽ dìa quê ở vĩnh viễn khi nào đất nước hòa bình. Tui tin anh, nhưng hông thể nào hông thắt thỏm, lo âu. Biết bao nhiêu người bỏ quê, con gái thì lấy chồng nước ngoài hay đi làm sở Mỹ, con trai lên Sài Gòn ,để có cơ may thoát khỏi cảnh nghèo cực khổ, tay lấm chân bùn, nhưng gồi họ đam mê chốn phồn hoa đô hội. Hay phải dô quân đội đi miết hông dìa nữa.

Cuộc sống Sài Gòn đã cuốn hút họ như con thiêu thân lao vào ánh sáng ngọn đèn. Hoặc đã tử trận trên chiến trường nào đó hông bao giờ trở lại vùng quê nghèo chôn nhau cắt rún, như bầy chim ngói bay biền biệt góc trời xa . Nhưng tui tin anh Nghị sẽ dìa, sẽ dìa quớ cánh đồng, nồng nàn mùi rơm rạ, mùa nước nổi ngày nào tuổi thơ của tui đầy kỷ niệm bên anh. Tui vẫn tin anh sẽ dìa…anh hông bỏ con nhóc của anh mờ …

Mười năm gồi. Quê tui giờ thay đổi sau cuộc bể dâu. Cái kho lúa bên bờ sông nay trở thành ngôi trường. Hôm đập kho lúa để xây dựng, chim sẻ bay táo tác chẳng biết bay về đâu. Tui nhớ anh quá chừng, phải chi anh dìa lúc này để thấy bầy chim hông còn chỗ nương thân kêu ríu rít thật tội nghiệp. Tui đau đáu buốt lòng khi nghe tiếng chim ngói “ gù gù “ mơ hồ vẳng lại. Chim ngói đã dìa với cánh đồng, dị mà anh vẫn xa khuất bóng hình, sau cuộc bể dâu của đất nước.

Anh Nghị ui ! Em vẫn tin rằng anh còn sống ở một nơi nào đó trên quê hương đau khổ của mình . Nếu còn sống ,em tin rằng anh sẽ dìa để thấy con nhóc ngày xưa của anh đã yên bề gia thất . Em tin anh vẫn còn sống và sẽ trở dìa, cũng có đôi lúc trái tim yếu đuối của em tự hỏi “ Sông dài cá lội biệt tăm Chín thu cũng đợi mười năm cũng chờ … “ . Hôm được Tía lên Sài Gòn thăm Chú Ba, chú Ba đưa Tía quớ em coi kịch “ Sông dài “ của Hoàng Thái Thanh, em chảy nước mắt nhớ anh.
Nhưng anh ui ,em đã có lỗi với anh , em đã hông chờ anh được nữa gồi anh Nghị ui ! Tha lỗi cho em nghen anh. Lời thề xưa em đã đánh rớt xuống đôi chơn mình sau năm tháng đợi chờ. Hôm em vu quy ngang nhà anh, thấy Má anh ngồi khóc cùng mâm cơm, giấy tiền vàng bạc cúng giỗ hương hồn anh. Em muốn chạy vào xin Má thắp cho anh ba cây nhang tạ tội cùng anh, nhưng hông thể… hông được nữa gồi anh ui ! Em khóc nè anh Nghị thương yêu của em. Em xin lỗi anh Nghị ui.
Nghe Má kể lại trước hôm vu quy: ” Nó có qua khóc quớ Má, nó nói nếu con còn sống trở dìa, Má nói con xin lỗi anh Nghị, Tía Má con già hết gồi, như trái chuối chín cây chỉ cơn gió mạnh là rơi rụng. Con cũng đã lớn tuổi gồi. con hông thể chờ anh Nghị, cho con xin lỗi anh Nghị nghen Má…”

Cúc ui ! Em xin lỗi anh chi, em tin có kiếp sau thì đừng xin lỗi anh. Định kỳ nhưng bao giờ đúng kỳ quớ người mang số phận phân kỳ như anh. Ở nơi nào đó, anh mong em được hạnh phúc bên chồng con. Như dị là anh mừng lắm gồi. anh thanh thản nếu ngày nào anh xuôi tay nhắm mắt ra đi. Hãy quên anh mờ sống tốt quớ gia đình của em nghen em.
lilac2010
Posts: 76
Joined: Sun Mar 21, 2010 10:45 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by lilac2010 »

KHÓC BẠN " CỦA ẤU OANH ,
CHUYỆN THẬT CẢM ĐỘNG CỦA VỢ NHÀ VĂN KHÔNG QUÂN DƯƠNG HÙNG CƯỜNG, TÙ CẢI TẠO MIỀN NAM SAU 30/4/1975

Tuy đã đọc nhiều lần nhưng tối nay đọc lại tôi vẫn không dằn được nước mắt
thương cảm cho những "Cái Cò" của Miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975.
"Cái cò lặn lội bờ mương, vét cống đào đường cái rét lạnh căm
Chồng em giặc bắt biệt tăm, tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào
Một đêm gió lộng mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên thu
Chồng em chết giữa ngục thù, khổ sai đói rét cộng thù giết anh."


( Xin cho tôi được văng tục , như nhà văn Cộng sản Dương thu Hương
ngày mới vào Sài gòn , hồi tháng 5-1975 :
" TỔ sư nhà chúng nó , tụi gian ác bất nhân sẽ bị, Trời tru , đất triệt
đến ngàn đời ! " )



TRÍCH

"Thật tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh ra trong thời đại chúng tôi.
Vết thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt ruột đẩy đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một chuyến vượt biển với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối cùng Oanh nắm đ̣ược bàn tay nhỏ bé cuả con: chuyến tàu chở cháu Thi đã không bao giờ tới bến. Chỉ trong vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người thương yêu nhất đời mình lên chùa…"

Image

Tiểu sử nhà văn Dương Hùng Cường

Sinh ngày 1-10-1934 tại Hà Nội, gia nhập Không Quân thụ huấn cơ khí viên tại Pháp năm 1953, trở thành hạ sĩ quan cơ khí phục vụ tại nhiều đơn vị. Từ giữa thập niên 1960 phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Không Quân với cấp bậc Chuẩn Úy. Là một cây bút nổi tiếng trong giới văn nghệ, báo chí Sài Gòn, ông có 3 tác phẩm đã xuất bản: Lính Thành Phố, Buồn Vui Phi Trường và Vĩnh Biệt Phượng. Sau năm 1975, bị tù cải tạo tới năm 1979. Năm 1984, bị bắt giam với tội danh gián điệp do viết bài gửi ra nước ngoài và qua đời tại nhà tù T20 Phan Đăng Lưu, Gia Định năm 1987.

Ấu Oanh

“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…”


Từ thuở ấu thơ, anh em chúng tôi đều được mẹ ru bằng bài thơ Khóc Bạn của cụ Tam nguyên Yên Đổ khóc ông cố nội chúng tôi là cụ Nghè Dương Khuê. Bài thơ trở thành bài ca dao nằm trong ký ức tôi từ ngày đó, hơn 40 năm sau lại bật ra như những lời nhớ thương tha thiết của tôi với người bạn thân: Vũ Hoàng Oanh. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê lúc tuổi đời đã xế chiều nên nỗi nhớ chỉ là ngậm ngùi, còn tôi khóc bạn khi tuổi đời chưa tới 50 là cái khóc xót thương vô hạn.

Ngày còn học Trưng Vương thì Oanh học trên tôi một lớp. Chúng tôi chỉ biết nhau nhưng chưa phải là bạn. Mãi đến khi thi vào trường Sư Phạm, vô tình làm sao, hai đứa trùng tên nên có số báo danh kế nhau. Gặp nhau ở trường thi, lại ngồi cạnh nhau thì không quen cũng thành quen huống chi chúng tôi cùng là dân TV lại biết nhau từ trước. Dĩ nhiên hai đứa tôi mau chóng kết hợp với nhau, cóp qua cóp lại bài nhau nên kết quả là hai đứa cùng đậu và còn được xếp chung vào một lớp. Tôi và Oanh trở thành bạn thân từ đấy.

Oanh không đẹp nhưng dễ thương với đôi má bầu bĩnh, đôi mắt hơi đượm buồn, lúc nào cũng như vướng vất một câu hỏi gì chưa được giải đáp.Nhưng điều mà bạn bè nhớ nhất ở Oanh là tính tình đôn hậu, chiều bạn và tử tế với mọi người.

Đời học trò, dẫu rằng lớp học trò này đang chuẩn bị làm người lớn, vẫn có biết bao niềm vui nỗi buồn non trẻ để chia sẻ cùng nhau. Đôi khi thấy bạn bè có người yêu đến đón hoặc ghé thăm, đôi mắt hỏi han cuả Oanh chợt tối lại, vương một chút buồn bã. Tôi gạn hỏi, Oanh chỉ lắc đầu, nhiều lần sau nữa, chẳng đặng đừng, Oanh cười mỉm chi đáp “Nhớ bồ” “Thế bồ đâu rồi” “Bồ thuộc người khác rồi”, rồi nhanh chóng Oanh lảng ngay “Thôi khỉ ạ, đừng hỏi nữa, chuyện xưa rồi”.

Thời gian trôi thật nhanh. Gần đến ngày ra trường, chúng tôi gấp rút học thi và ráo riết chuẩn bị các bài thi thực tập. Một hôm, gặp phải bài thi hóc búa, tôi hỏi mượn Oanh một bài mẫu vì Oanh rất chăm chỉ trong việc sưu tầm các bài dạy mẫu, còn tôi là con cháu họ lười nên rất chểnh mảng. Oanh đang hí hoáy viết nên bảo “Mở cặp ra, ngăn bên trái đó”. Tôi mở cặp lục lọi. Bài mẫu chẳng thấy đâu, tôi vớ ngay được một lá thư. Quên béng ngay bài dạy, tôi len lén kéo nhẹ tờ thư ra khỏi bao và liếc thật nhanh vài giòng. “Ồ, thư tình”, tôi thầm kêu trong đầu. Vừa lúc đó Oanh quay sang, thấy vậy, Oanh vội vã quăng ngay cây bút, soài người giựt lại lá thư, miệng la bài hải “Ố́í, ối, trả đây, trả đây”. Lá thư không dài và cũng không có những lời lẽ yêu đương hoa mỹ nhưng đọc thì biết ngay đó là thư tình, thư tình cuả một nhà văn. Ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ cuả một người viết văn thì có muôn ngàn cách để bày tỏ tình yêu. Tôi mừng thấy bạn bẽn lẽn cất lá thư. Một chút ửng hồng trên đôi má bầu bĩnh… Từ đó tôi thấy Oanh hay cười hơn.

Trong khi chờ đợi kết quả sắp hạng ra trường, chúng tôi phải đi khám sức khoẻ tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Hôm đó Oanh chở tôi bằng chiếc Vélo Solex mượn được. Chỉ còn cách bệnh viện khoảng 100m thì bất ngờ xe đang chạy ngon trớn bỗng đâm xầm vào một đống đá xanh đổ ngay giữa lòng đường. Xe mất thăng bằng đổ ập xuống, quăng hai đứa chúng tôi ra hai nơi. Lúc đó tôi đang có thai cháu đầu lòng khoảng 4 tháng. Hốt hoảng, Oanh bật dậy lao ngay về phía tôi mà không thấy rằng 1 đầu gối quần bị rách để lộ vết thương rướm máu và 1 bàn tay bị đá xanh đâm nát máu thấm đỏ cả. Oanh lính quýnh ôm nâng tôi dậy, mặt tái mét, miệng líu lại “Oanh, Oanh có sao không? Có đau bụng không?” Tôi tuy cũng rất lo sợ cho cái thai nhưng thấy Oanh quá lo lắng cho tôi, tôi thấy lòng cồn cào thương bạn nên vội trấn an “Mình không sao, đừng lo. Thôi mau nhấc xe dậy, vào ngay bệnh viện nhờ họ băng bó cho Oanh”.

Ra trường, tôi về dạy ở Gia Định, còn Oanh xuống Biên Hoà. Như một xui khiến của số mệnh, người yêu của Oanh, nhà văn Dương Hùng Cường, còn có bút hiệu là Dê Húc Càn đồng thời là một quân nhân cũng đang làm việc tại phi trường Biên Hoà. Họ đã được gần nhau, cuộc tình dẫn đến kết cuộc tốt đẹp là cái đám cưới vào năm 1964. Năm sau, 1965, Oanh sinh cháu đầu lòng Dương Mạc Thi rồi tiếp theo Oanh sinh liền 7 cô công chúa trong vòng 10 năm. Khi anh Cường đổi về làm việc tại Sài gòn thì Oanh cũng được thuyên chuyển về dạy học taị trường Hồng Bàng (sau năm 1975 thì dạy tại trường Hùng Vương, cùng thuộc quận 5). Chúng tôi lại có dịp gần gũi nhau.

Vào khoảng năm 74 tôi thấy Oanh ngoài giờ dạy ở trường công còn dạy thêm ở 2 trung tâm tư nữa. Thấy tôi thắc mắc sao Oanh dạy quá nhiều, không còn thời giờ dành cho các con nữa thì Oanh tâm sự: “Ông Cường giành phần chăm mấy đứa nhỏ. Ông ấy bảo, ổng ru con hay hơn mình”, rồi Oanh xuống giọng “Mình phải dạy thêm lấy tiền cho ông Cường in truyện”.

Nói là chăm sóc con chứ thật ra thì lúc đó gia đình nào cũng có người giúp việc, lo cơm nước, giặt giũ, bế bồng trẻ nhỏ rồi. Tôi thông cảm với Oanh vì thời gian đó, lương hai vợ chồng gom lại, dẫu rằng anh Cường còn viết báo thêm cũng chỉ đủ chi tiêu cho một gia đình mười mấy miệng ăn mà thôi. Muốn in sách truyện, Oanh phải cật lực giúp chồng.

Thế là bao nhiêu tiền bạc dành dụm được đều đổ dồn vào việc cho ra đời đứa con tinh thần “Vĩnh biệt Phượng”.

Thương thay, sách vừa xuất xưởng, chưa kịp phân phối ra ngoài thì ngày 30 tháng 4 như một cơn cuồng phong ập đến, xoá tan hết bao ước mơ, bao xây đắp cuả cả một miền Nam thân yêu trong đó có 2 gia đình chúng tôi. Ông xã tôi cũng như anh Dương Hùng Cường đều trở thành tù nhân cuả chế độ mới và 2 gia đình chúng tôi trở thành những nạn nhân như trăm ngàn gia đình quân nhân công chức chế độ cũ, luôn luôn bị soi mói, rình rập, theo rõi, lúc nào cũng sống trong phập phồng, lo lắng, sợ sệt… Với đồng lương chết đói, chúng tôi vẫn phải cố bám vào trường lớp để khỏi phải bị đuổi đi vùng kinh tế mới. Hai đứa tôi cùng chia nhau cái ngậm ngùi cuả số phận. Oanh 7 con và tôi 6, gia tài chỉ là hai bàn tay trắng với cõi lòng đầy ắp âu lo. Chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Hai đứa lăn lưng ra làm đủ mọi việc

Thoạt đầu là bán sách. Lúc bấy giờ chủ trương của chế độ mới là thiêu hủy hết số sách báo của miền Nam được gọi là văn hoá đồi truỵ, tàn dư Mỹ ngụy. Chúng tôi lại thuộc các gia đình văn nghệ sĩ, càng bị để ý, bị lục xoát thường xuyên hơn. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép vào đủ thứ tội tình. Để được yên thân nuôi con và cũng là để che mắt thế gian, chúng tôi gom góp hết số “tàn dư Mỹ ngụy” trong nhà, nhờ người quen dẫn giắt lên chợ sách Nguyễn Huy Thiệp bày bán. Nhìn những cuốn sách mình từng nâng niu yêu quý từ từ đội nón ra đi, lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Cầm cuốn “Chạy trốn Tự do” mà ông xã tôi mới dịch trước đó không lâu, tôi thầm tự hỏi: “Tại sao laị dịch cuốn sách mang cái tên oan nghiệt này?” Cuốn “Vĩnh Biệt Phượng” cuả anh Dương Hùng Cường cũng cùng chung số phận, phơi mặt trên 1 tấm ni lông trải dưới mặt đường con phố NHT. Tôi và Oanh thủ 2 cái nón rộng vành, hễ liếc xa xa thấy người quen kẻ thuộc hay bạn bè gần xa cuả chồng thì lập tức cái nón được kéo sụp xuống. Ôi thời thế có ai học đến chữ ngờ!

Một hôm vào khoảng xế trưa, hai đứa đang ngồi vêu ra thì một cháu gái cuả Oanh đạp xe lên tìm mẹ, báo tin em bé út vừa phải vào nhà thương. Khi đó cháu Dao Tiên mới non 1 tuổi. Oanh hốt hoảng ra về. Hôm sau, rồi hôm sau nữa cũng không thấy Oanh lên tôi đoán chắc Oanh phải ở trong bệnh viện với con. Ba, bốn hôm sau Oanh trở lại, cặp mắt còn sưng, oà khóc, nói “Oanh ơi, cháu Dao Tiên mất rồi. Cháu mất vì thiếu dinh dưỡng, vì đói ăn đó Oanh ạ!”

“Nghề” bán sách cuả chúng tôi do thời cuộc mà tự sinh thì cũng do thời cuộc mà tự diệt. Ch́úng tôi học quấn thuốc lá, vào bao rồi đem vô Chợ Lớn bán nhưng cũng chẳng được bao lâu thì chợ thuốc lá cũng bị càn quét. Tôi nhờ biết may vá từ nhỏ nên quay ra may quần áo con nít đem giao các chợ, còn Oanh thì đi bỏ mối bánh kẹo cho các căn tin trường học. Cứ thế, chúng tôi lần hồi sống qua ngày.

Ngoài lúc đi kiếm cơm, chúng tôi còn rủ nhau đi kiếm chồng tù. Hai năm trời biền biệt không chút tin tức, chúng tôi lo sợ cho số phận các ông chồng. Dò la, thăm hỏi chẳng có kết quả, chúng tôi đánh bạo rủ nhau lên tận ban Quân quản Thành phố để hỏi han. Câu trả lời cũng chỉ như bao nơi khác: “Cứ yên tâm chờ đợi”. Cuối cùng thì cuối năm 1977 cũng có tin về sau hơn 2 năm kể từ ngày các sĩ quan cuả chế độ cũ nghe lời đường mật “Chuẩn bị đồ ăn uống và vật dụng cá nhân trong vòng 10 ngày để đi trình diện”. Ông xã tôi bị nhốt ở trại Hàm Tân, còn anh Cường thì ở Long Khánh. Cứ 3 tháng chúng tôi được phép thăm nuôi tiếp tế thức ăn và thuốc men 1 lần. Hai đứa lại có dịp chỉ bảo nhau làm món gì để được lâu, thuốc nào cần nhất v..v.. để mang lên trại.

Tôi còn nhớ thời gian đó, mỗi chiều tối, sau giờ tan trường, Oanh thường ghé tôi, có khi ở đến tận khuya. Các con Oanh ở nhà đã có cô cháu gái mà Oanh cưu mang từ sau năm 75 chăm nom cơm nước. Chúng tôi ngồi bên nhau chia sẻ mọi điều. Tôi hiểu Oanh nhiều nỗi lo lắng vì nợ nần thúc giục mà không có phương cách giải quyết. Tôi đỡ hơn Oanh một chút là tôi còn có mẹ. Đôi khi hai đứa ngồi bên nhau hàng giờ mà chẳng nói với nhau một tiếng nhưng chúng tôi đều hiểu rằng chúng tôi đang chia nhau nỗi sầu khổ âm thầm.

Một hôm, khoảng sau Tết năm 1978 Oanh ghé tôi theo lệ thường, nhưng hôm đó vẻ mặt Oanh rất bần thần, ngồi hoài không nói. Tôi hỏi:

– Hôm nay Oanh có chuyện gì không mà như mất hồn vậy?

Oanh vẫn ngồi yên không nói. Tôi đứng dậy rót cho bạn 1 ly nước, đến ngồi gần bên ân cần:

– Có việc gì hả Oanh?

Sau một phút ngập ngừng, Oanh nói khẽ thật khẽ như sợ có ai nghe thấy:

– Ta nói cái này, đừng giật mình nhé…Mình có bầu.

Tôi giật thót mình, hai lỗ tai lùng bùng.

– Oanh nói gì? Ai có bầu?

– Mình.

– Hả?

– Mình có bầu thật đấy, vừa đi khám bác sĩ về xong.

Tôi trân trối nhìn Oanh, vẫn không tin ở hai tai mình. Biết vậy, Oanh mới tỉ tê khai:

– Hôm Tết rồi đi thăm ông Cường, trại cho ở lại một đêm…

Tôi thở phào như trút được cho chính mình gánh nặng nghìn cân. Oanh nói tiếp:

– Oanh ơi, dẫn mình đi phá đi, mới được khoảng hai tháng thôi, phá chắc dễ.

Tôi ngỡ ngàng hỏi lại:

– Phá? Sao lại phá?

– Chứ để thì làm sao coi được. Ai đời cô giáo có chồng đi tù mà lại mang bầu. Đâu có ai hiểu…

– Thì nói ra cho mọi người biết.

– Ai tin? Bạn bè, rồi còn học trò nữa chứ. Eo ôi, nghĩ đến là ta rùng mình rồi.

Tôi chợt thấy Oanh có lý. Ừ, ai mà tin nổi, nhất là thời buổi này. Toàn ban giám hiệu đều là người cách mạng, họ sẽ có cớ để bêu riếu, để bôi tro trát trấu lên đầu lên cổ vợ con “ thằng ngụy”. Tôi thở dài:

– Ừ, để mình tính xem.

Nói vậy cho Oanh yên lòng chứ thật ra tôi cũng chẳng biết tính làm sao. Tối đến, trong bữa cơm gia đình, tôi nói chuyện với mẹ tôi về việc Oanh muốn tôi chia sẻ.

Mẹ tôi bảo:

– Ngày mai Oanh có ghé, con gọi mẹ, mẹ hỏi cô ấy một tí.

– Mẹ hỏi gì hả mẹ?

– Có phải Oanh toàn con gái không?

– Vâng, 7 đứa, bỏ 1 còn 6, toàn là gái cả.

– Mẹ muốn tính xem lần này có bầu, Oanh sẽ sinh trai hay gái.

– Trai hay gái thì thay đổi được gì hả mẹ. Cũng bia miệng mà thôi.

– Mình sẽ nghĩ cách giùm cô ấy. Vả lại, vì sợ bia miệng mà phá bỏ đi một đứa con của mình thì sẽ mang tội con ạ.

Mẹ tôi đặc biệt có một cách tính rất tài tình để biết người mẹ sẽ sinh trai hay gái. Cụ có dạy cho tôi một bài toàn chữ Hán, tôi học mãi không thuộc (vì mình có biết tí teo chữ Hán nào đâu). Tôi đã chép vào 1 cuốn sổ để dành nhưng qua hết đợt bố ráp này đến đợt bố ráp khác nó đã không cánh mà bay.

Dẫu rằng cả Oanh và anh Cường đều không mang tư tưởng “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” nhưng cha mẹ nào mà chả mong ước mình có đủ cả trai lẫn gái.

Sau khi gặp mẹ tôi, Oanh mừng lắm, không còn nghĩ đến việc phá thai nữa vì tin tưởng rằng lần này sẽ sinh được một quý tử.

Thông thường, cứ mỗi đầu tháng, các giáo viên chúng tôi đều phải họp toàn trường để kiểm điểm công việc dạy và thực hiện các chỉ thị của Phòng hoặc Sở giáo dục. Tôi xúi Oanh trong phiên họp kỳ này lấy cớ báo cáo 1 công việc gì đó rồi bôi mặt cám ơn nhà nước đã cho chúng tôi được gặp mặt, tiếp tế cho chồng ở trại giam lại còn gia ân cho ở lại trại 1 ngày 1 đêm nhân dịp Tết vừa qua nữa. Việc đó quả nhiên hiệu nghiệm. Oanh tuy bị trêu chọc song đã thoát được cơn hiểm nguy. Cũng may mắn cho Oanh, chỉ vài tháng sau khi cái bụng bầu của Oanh lộ rõ thì anh Cường được về.

Một hôm tôi vừa từ chợ về nhà thì đã thấy anh Cường ngồi đợi. Không kịp để tôi hỏi han câu nào, anh đã vào đề liền:

– Oanh sinh rồi chị, ở Bệnh viện Hùng Vương, con trai.

– Ồ, chúc mừng anh. Chắc là Oanh vui lắm. Kỳ này hai ông bà có quý tử, phải ăn mừng thôi

Không trả lời câu nói đùa của tôi, anh chìa ra mảnh giấy cỏn con nói:

– Oanh gửi chị cái này.

Tôi vội vàng mở mảnh giấy đọc “Oanh ơi, cứu bồ, cho mình mượn 50 đồng để đóng tiền bệnh viện nhé”.

Tôi vừa đi giao hàng về nhưng cũng chỉ có trong tay 30 đồng. Tôi vội vã đạp xe lại ngay nhà chị bạn cùng trường. Tuy chẳng giầu có gì nhưng chị tương đối khá giả hơn chúng tôi vì những tháng ngày xa xưa trước 75, chị là con kiến biết lo xa, ki cóp mua vàng để dành, (trong khi tôi lại là con ve, kêu ra rả hết muà hè, chỉ biết rong chơi ca hát, cho nên khi đông về thì đói rã răng). Chị lại có lòng tốt nên bạn bè khi cơ nhỡ chị đều sẵn sàng san sẻ.

Trao cho anh Cường năm chục bạc xong, tôi biết ngày mai không có tiền chợ cho con song trong lòng vẫn vui vì mừng cho bạn, càng mừng hơn vì thấy cách tính của mẹ tôi thật chính xác, không làm cho Oanh mừng hụt. Nhưng người mừng nhất ắt hẳn là anh Dương Hùng Cường. Anh đặt tên cho cháu là Phụng Hoàng, Dương Phụng Hoàng, con chim quí.

Khoảng 3,4 năm sau khi ra tù, anh Cường liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang cư ngụ tại Pháp xin lên tiếng kêu gọi Văn Bút Quốc Tế can thiệp và giúp đỡ cho một số các gia đình văn nghệ sĩ Miền Nam còn kẹt lại quê nhà, đang gặp rất nhiều khó khăn cả về 2 mặt vật chất lẫn tinh thần. Ít lâu sau đó, mỗi năm gia đình chúng tôi nhận được từ 1 đến 3 thùng thuốc tây gửi từ Pháp về (nhưng có lẽ đó là do chính tiền cuả anh TTTiệp, chứ không phaỉ của VBQT). Song song với thùng quà đôi khi còn có cả 1,2 tờ báo Kháng Chiến nữa. Rồi anh bảo anh em bên nhà viết bài gửi sang. Những thùng quà tuy ít ỏi này cũng đã giúp được gia đình chúng tôi qua những cơn vô cùng bĩ cực. Nhưng oan nghiệt thay, cũng chính những thùng quà này lại đưa chồng tôi, Khuất Duy Trác, anh Dương Hùng Cường và một số các văn nghệ sĩ khác như các nhà văn Dzoãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thuỷ, Hiếu Chân, các nhà thơ Lý Thụy Ý, Trần Ngọc Tự… vào tù lần thứ hai. Bọn Công an thành phố còn viết nguyên một cuốn truyện đầy tính bịa đặt và vu cáo có tên Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, hòng bôi bẩn và hạ giá nhóm văn ngệ sĩ trên, sửa soạn dư luận cho một bản án thật nặng nề. Chúng đem giam một số tại nhà giam Chí Hoà, số còn lại tại trại giam Phan Đăng Lưu, có ông xã tôi và anh Cường. Oanh và tôi lại có cùng một địa chỉ để tới lui. Số phận chúng tôi cứ gắn chặt với nhau trong những hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.

Do từ việc bỏ bánh kẹo cho các căn-tin trường học, Oanh lần hồi biết được cách thức để đấu thầu toàn bộ cả căn-tin cuả mỗi trường. Oanh rủ tôi làm công việc này. Thế là hai chúng tôi cùng khởi sự tại một ngôi trường Tàu trong Chợ Lớn. Sau này rành rẽ rồi thì mỗi đứa làm ở mỗi trường khác nhau.

Cứ vào cuối mỗi năm học, giáo viên các trường đều phải điều chỉnh lại tờ lý lịch đã khai từ những ngày đổi đời 30/4/75. Năm 1980, con gái thứ hai của tôi đi vượt biên, tôi không khai. Đến khi ông xã tôi bị bắt lại lần 2 tôi cũng không khai. Ban giám hiệu nhà trường chắc hẳn không biết nên tôi vẫn được yên thân. Bất ngờ, vào đầu năm 87, hiệu trưởng mời tôi lên nói chuyện. Bà hỏi han tôi về tình hình gia đình, chồng con, công việc v..v.. và cuối cùng bà hỏi tôi có up to date lý lịch đầy đủ cho mỗi năm không. Tôi manh nha thấy điều gì đó không ổn. Tuần lễ sau tôi xin nghỉ bệnh và tuần kế tiếp tôi tống tiếp lá đơn xin thôi việc. Ở thời điểm này, chiến dịch tống khứ gia đình vợ con tù cải tạo đi kinh tế mới đã chấm dứt vì hoàn toàn thất bại. Từ các vùng kinh tế mới, biết bao gia đình đói rách tả tơi, bệnh hoạn, người sống kẻ chết, lũ lượt kéo về thành phố, nằm la liệt tại các công viên, chợ, nhà thờ, chùa…chính quyền không thể xua đuổi vì họ không còn nơi chốn để dung thân nữa. Do đó tôi không còn lo sợ vì phải lên rừng lập nghiệp. Lại nữa tống khứ đi được một con vợ “ngụy”, cũng nhẹ gánh lo cho ban giám hiệu nên họ nhận đơn mà không hỏi han gì cả.

Thời gian này rộ lên rất nhiều tin tức về việc Mỹ sẽ đón các sĩ quan QLVNCH bị tù cải tạo. Tuy rằng chỉ là tin đồn miệng, chẳng có một nguồn xác thực nào nhưng chúng tôi vẫn cứ nuôi hy vọng trong lòng để tiếp tục sống và tiếp tục chịu đựng.

Một ngày đầu tháng 12 năm 1987, lúc đó khoảng 2-3 giờ trưa tôi đang ở nhà thì cô cháu gái cuả Oanh đến, mặt mũi phờ phạc, nói như đứt hơi: “Cô ơi, chú Cường mất rồi, cô con đang xỉu ở nhà, cô xuống mau đi cô”

Khi tôi bước chân vào đến nhà thì thấy Oanh đang vật vã vừa khóc vừa gào: “Tôi không sống một mình đâu, trời ơi là trời. Anh Cường ơi, em không sống một mình đâu!!” Tôi ôm lấy tấm thân gầy guộc của bạn, lòng đau xót từng cơn và nước mắt cứ mặc tình tuôn chảy… Không biết bao lâu sau, khi kêu gào đã quá mệt, tôi đỡ Oanh nằm xuống giường rồi bảo với các con Oanh: “ để yên cho mẹ nghỉ một chút”.

Hàng xóm xung quanh nghe tiếng khóc, vài ba người lấp ló ngoài cửa.

Bình tâm trở lại, tôi hỏi thăm cháu Linh, cháu tỉ tê kể: “Sáng nay cháu ở nhà, công an khu vực tới đòi gặp mẹ. Cháu bảo mẹ đang dạy ở trường, anh ấy nhắn bảo mẹ ra phường gấp có giấy báo cuả bố. Khi cháu ra trường bảo cho mẹ biết thì mẹ vẫn nghĩ là tin mừng. Mẹ bảo chắc bố được thả…ồ, hay là…Mỹ đón. Mẹ bảo cháu về trước, chuẩn bị đồ vest cho Bố. Đến khi hai mẹ con ra đến phường nhận giấy mới vỡ lẽ…Họ bảo sáng ra đến giờ tập họp, không thấy bố ra, đến đập cửa phòng cũng không thấy bố cháu trả lời, họ mở khoá ra thì thấy bố cháu đã mất rồi.”

Oanh được phép đến trại giam Phan Đăng Lưu để nhận diện xác chồng trước khi được phép chôn cất. Đám tang phải làm gấp ngày hôm sau và chỉ cho 2 người mang áo quan vào lấy xác tại khám Chí Hoà mà thôi. Hôm sau tôi đi cùng với Oanh nhưng phải ngồi chờ ngoài gốc cây trước cổng trại cùng với các con nhỏ cuả Oanh. Số bạn bè và họ hàng thân thuộc đến đưa tiễn đều không được tập trung một nơi mà phải phân tán rải rác dọc theo con đường Hoà Hưng, chờ đợi khi xe tang ra đến đầu đường rồi mới được tháp tùng theo. Ôi, quân Cộng sản sao mà độc ác. Người sống chúng không tha đã đành, người chết chúng cũng không cho chôn cất tử tế…Huyệt mộ đã lấp lại rồi nhưng Oanh vẫn đứng trơ trơ như một bức tượng. Nước mắt đâu?

Có lẽ nó đã chảy ngược vào lòng. Tôi chợt nhớ đến bài thơ “Đi nhận xác chồng” của Lê Thị Ý:

Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu

Thật tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh ra trong thời đại chúng tôi.

Vết thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt ruột đẩy đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một chuyến vượt biển với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối cùng Oanh nắm đ̣ược bàn tay nhỏ bé cuả con: chuyến tàu chở cháu Thi đã không bao giờ tới bến. Chỉ trong vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người thương yêu nhất đời mình lên chùa…

Rồi dòng đời lại tất bật trôi đi. Oanh vội vã bịt kín những vết thương, giấu chặt nó vào tận cùng trái tim để ngày ngày phải đối mặt với những cam go của cuộc sống, với tương lai cuả bầy con còn lại. Thời gian sau này chúng tôi ít gặp nhau hơn vì mỗi đứa thầu riêng mỗi trường mà công việc thì quá đa đoan, tất bật, cần đến rất nhiều thời gian, Oanh lại vẫn theo đuổi công việc dạy học.

Mùa hè năm 1989, giữa chúng tôi có vài chuyện không vui, tôi giận Oanh. Biết mình không đúng, xin lỗi tôi không xong, Oanh nhờ một cô bạn khác đến năn nỉ, tôi vẫn gan cùng mình không chịu làm hoà. Gần 2 tháng trời chúng tôi không gặp nhau. Một buổi trời đã chạng vạng tối, một anh bạn tù cuả ông xã tôi, hốt hoảng đến báo tin Oanh bị đụng xe, đã đưa vào bệng viện Trưng Vương, nhưng tình trạng hình như không được ổn. Tôi tức tốc vào thẳng nhà thương trong tâm trạng rối bời và thật hồi hộp.

Oanh nằm đó, bất động, đôi mắt đã khép lại vĩnh viễn…Tôi bật lên khóc nức nở, nắm lấy tay bạn, sờ lên mặt bạn, vuốt trên người bạn, tôi muốn gào lên “Oanh ơi. Oanh ơi, mình đây, mình đang ở bên Oanh đây, mình không còn giận Oanh nữa đâu, tỉnh dậy đi Oanh ơi!!!” Tôi đưa tay bứt mớ tóc trên đầu xem mình có thật sự tỉnh không, có phải đây là sự thật không…Nỗi hối hận trong tôi trào lên, tôi giận tôi, tôi ghét tôi, tôi là con bạn tồi, sao tôi cố chấp thế…Tuy đã cố dằn vì chỗ đông người, cổ họng tôi vẫn bật lên tiếng gọi “Oanh ơi. Oanh ơi. Dậy đi, mình thương Oanh lắm, có nghe mình nói không?”

Tôi ngồi bên Oanh như thế, nước mắt tiếp tục chảy không thôi, biết bao điều muốn vuột ra khỏi trái tim nên lồng ngực đau thắt… Lâu lắm, chợt nghe tiếng bà dì Oanh nói “Cô phụ tôi thay quần áo cho Oanh nhé. Người bây giờ còn mềm, thay dễ”.

Tôi nâng đầu Oanh dậy tay chạm ngay vết thương sau ót, máu còn dính bết vào tóc. Đến lúc thay áo lại phát hiện ra phần dưới cũng bị thương, hình như vỡ xương hông thì phải. Ôi, đau đớn biết bao!

Mãi sau này các cháu con Oanh mới kể rằng, sáng hôm đó, một cậu nhỏ mới quen đến chở Oanh về Thủ Đức để đi hỏi vợ giùm cho cậu ta. Buổi chiều, trên đường về, đã gần đến nhà, đang băng qua con lộ Lý Thường Kiệt để vào ngõ thì bị một xe hơi do người tài xế say rượu đâm phải.

Oanh là thế đấy, hay làm chuyện bao đồng để giúp người.

Oanh mất đi bỏ lại bầy con 5 đứa. Con chim quý, Phụng Hoàng, của vợ chồng Oanh sinh bất phùng thời, mới 10 tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng như một định luật bù trừ, hai con lớn cuả Oanh tiếp tục công việc của mẹ, không những đã duy trì được mức sống đầy đủ cho gia đình mà các cháu còn dìu dắt nhau học hành tới nơi tới chốn nữa. Nếu người ta tin có linh hồn thì chính linh hồn người Mẹ, day dứt lúc ra đi đã quay trở lại thế gian này để phù trợ cho các con vươn lên trong cuộc sống.

Hôm nay ngồi viết những dòng hồi tưởng này về một phần đời không nhỏ của bạn tôi, Vũ Hoàng Oanh, người phụ nữ tâm tính hiền lành, hay giúp đỡ người khác nhưng số phận cay nghiệt đã dành cho cuộc đời bao tang thương, oan trái. Khi sống, tâm tư luôn mòn mỏi vì lo toan cơm áo, còn mang nặng những vết thương không cơ hàn gắn. Đến lúc lià đời, lại ra đi trong một cơn mê khốc liệt với thân thể đớn đau, với cõi lòng đứt đoạn vì bầy con thơ dại.

Oanh ơi, những dòng hồi ức hôm nay cũng còn là những nén hương muộn màng mình thắp lên để nhớ đến Oanh, nhớ đến một quãng đời hai chúng ta cùng chung bước trải dài từ tuổi học trò cho đến khi vĩnh biệt.

Ngủ đi Oanh, hỡi bạn hiền,
Ngủ cho say nhé, triền miên giấc nồng
Chuông chùa vọng giữa thinh không
Đưa hồn an lạc về vùng tịnh yên.


Ấu Oanh
Hai mươi năm, ngày giỗ bạn, 21.6.1989 – 21.6.2009
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by khieulong »

Con đường xưa em đi

Phạm hoài Vũ


Mấy người bảo em kiếm một nghề gì đó mà làm, chẳng hạn, cắt may, làm đầu, mở quán cà-phê, … nói là để … gì đấy, hoàn lương, không làm gái nữa. Em hỏi những ông khách thuộc hạng lắm chữ, hoàn lương là gì, các ông ấy đều nói, hoàn lương là quay trở về cuộc sống lương thiện.

Ô hay. Em có mất lương thiện bao giờ đâu mà bảo em quay về cuộc sống lương thiện. Em không trộm cắp. Em không dối trá. Em không điêu ngoa. Em không lừa đảo. Em không vu oan giá họa cho ai. Em không như con Châu bạn em. Nó nghỉ học từ hồi lớp mười, sau được bố xin thế chân làm văn thư cơ quan đúng ngày ông ấy về hưu. Nhưng để xin được chỗ thế chân, nghe đâu bố nó cũng phải lo lót tới ba bốn cây vàng, từ ông giám đốc, đến ông tổ chức, cả ông gì gì cao hơn nữa.

Nghe đâu cả giám đốc, tổ chức và các ông gì gì đều là con các bạn chiến đấu với ông nội nó. Các cụ cùng bạn đồng ngũ từ thời chiến tranh. Thế mà họ nỡ cầm tiền của bố nó. Tưởng họ đối xử như con cháu trong nhà mới phải. Thế mà ăn bẩn. Cái đám ấy mới đích thực là không lương thiện. Còn bây giờ con Châu cũng đã thành quái. Mọi người đến xin chữ ký, đóng dấu, phải dúi cho nó cái phong bì, người một trăm, kẻ dăm chục, … có người cho đến vài trăm, tùy việc. Nhưng lộc vào đều đều, suốt ngày này qua tháng khác. Kiếm phết. Nó khoe thế. Tởm lợm! Em bảo nó, mày ăn bẩn. Ăn bẩn như con chó. Như nó mới cần hoàn lương. Mấy ông bà sếp phải hoàn lương nhiều hơn. Họ còn ăn khốn nạn hơn vậy.

Em làm gái đi khách, vui vẻ với họ. Họ trả công em. Ơ hay, cũng lao động đấy chứ. Nói theo kiểu thị trường bây giờ thì loại lao động của em là lao động dịch vụ. Dịch vụ tình cảm. Những người đến với em đều có tâm tư tình cảm éo le. Anh bị vợ xét nét, hắt hủi. Anh bị vợ mắng chửi, thời nay gọi là bạo hành gia đình. Anh thì vợ đau ốm liên miên. Có anh vợ mất, không muốn đi bước nữa, sợ phức tạp cảnh vợ nọ con kia. Có anh bị vợ xâu xé khi làm tình, cắn nát cả ngực, cắn tím bắp tay. Gọi là gì nhỉ ? À, các anh ấy gọi là bạo dâm. Chỉ mới nghĩ đến làm tình với vợ là đã hết hồn hết vía. Vì thế các anh ấy tìm đến bọn em để được an ủi. Em hỏi các anh ấy, sao không bỏ ngay cái hạng vợ ấy đi, thì anh nào cũng bảo là không đành lòng, vì thương những đứa con vô tội.

Đằng kia, con Châu, vừa được cơ quan trả lương, vừa ăn dấm ăn dúi những đồng tiền đút lót của mọi người. Ai đến không có đồ dấm đồ dúi thì … À, hãy đợi đấy. Em Châu này còn đủng đỉnh chán. Thế mới là không lương thiện. Nó khoe đã nhận cả phong bì của cái bà Mão hàng xóm. Bà ấy nghèo vét đĩa, chỉ có cái bàn bán trà thuốc ở vỉa hè, kiếm tiền chợ, giật gấu vá vai. Ông con trai nghiện hút, trộm cắp, trấn lột phải đi trại. Đi trại chán rồi về, đâu hoàn đấy, vẫn mỗi ngày vài tép. Không chỉ hút hít, mà còn tiêm chích, sốc thuốc lăn đùng ra chết. Con dâu đêm nào cũng lang thang lê lết với một lão xăm trổ đầy mình. Nghe đâu lão đánh tiếng sắp cưới nó làm vợ. Lão bảo đã muốn giúp nó thoát cái thằng chồng nghiện hút từ lâu, nay mới đến lúc. Chồng chết rồi, con vợ bỏ mặc hai thằng lỏi con, nhếch nhác để bà nội lo liệu. Vậy mà hôm bà ấy ra cơ quan xin giấy cho hai thằng cháu côi cút đi học, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, bà ấy cũng đưa cái phong bì. Đầu tiên nó lí nhí cái gì đấy ra cái điều ngại ngùng, dúi đi dúi lại bà bà cháu cháu. Nhưng sau thấy bà ấy khẩn khoản, nó nghĩ bụng… tội gì. Mở phong bì ra được hai chục ngàn đồng bọ. Nó bĩu môi. Rồi cũng đút vội vào túi quần lòi cả mép phong bì xanh đỏ.

Đằng này em cầm tiền của các anh đàng hoàng, bóc bánh trả tiền. Các anh cũng vui vẻ. Các anh được em chiều chuộng. Thấy các anh cho nhiều, em ngại. Các anh bảo việc gì mà ngại. Thấm gì so với các anh phải cung phụng cho các ông bà quan chức.

Em học xong lớp mười một, chỉ một năm nữa là thành cô tú, nhưng cứ nhìn mấy chị lớp mười hai mà ngẫm phận mình. Ngán ngẩm. Chúng nó thi đỗ đại học, học xong cử nhân, kỹ sư, bác sỹ đủ cả. Nghe tưởng hoành tráng. Đi xin việc rạc cẳng. Lo lót hàng chục ngàn đô cho đủ hạng ông to bà lớn không xong. Bọn con gái thì sau khi thử việc còn được các ông ấy nói là … là … mời đi nhà hàng, kéo vào nhà nghỉ, rồi giở những trò khốn nạn. Ít hôm sau khoác bộ đồ đồng phục công sở vênh váo hẳn lên… Nhưng thỉnh thoảng đượm buồn nghĩ đến cái thân phận chẳng khác gì con đĩ.

Thế thì thôi. Em làm đĩ luôn cho khỏe. Sau chưa đầy một năm em sắm con xe ba ngàn đô. Ăn tiêu, trang điểm, sắm sửa thoải mái, toàn hàng hiệu… những đồ xịn toàn là Adidas với lại Louis Vuitton. Về quê mọi người lác mắt. Gặp ai cũng hỏi em làm gì lắm tiền thế. Với người làng em bảo theo bạn đi buôn lậu tận trên biên giới. Với bạn thân em bảo đi làm gái. Ô hay. Thế mà ối đứa xin theo. Em bảo, chúng mày đang làm cơ quan danh giá, sao lại đâm đầu theo tao làm gái. Có cùng đường như tao mới phải đi làm gái chứ! Đứa nào cũng bảo, chỉ được cái danh hão. Đói bạc mặt, thiếu xèng. “Xèng” nghĩa là “Tiền”, theo cách nói chệch của bọn gái chúng em. Em bảo chúng nó: “Được, chúng mày muốn tao liệu. Dễ thôi. Nhưng khi bị bắt thì đừng có khai là tao dụ dỗ, phỉnh phờ… Gái thời nay tự lao vào cả đấy. Chẳng đứa nào phỉnh phờ dụ dỗ đứa nào.

Em chào hàng các anh. Em nhắn tin có con bạn trẻ, xinh lắm. Anh nào chẳng hám của lạ. Em bảo các anh đưa nó một triệu. Bằng nửa tháng lương của nó. Đứa nào cũng chia cho em một nửa. Nhưng chỉ lần đầu thôi. Từ lần sau chúng nó được ăn cả một triệu. Mỗi chủ nhật chúng nó làm một vụ như thế, kiếm một triệu ngon ơ. Một tháng bốn triệu, gấp đôi lương rồi. Các anh gặp được em mới cũng vui vẻ cho xèng em. Em cũng được nửa triệu nữa. Chẳng phải vòi vĩnh gì. Các anh ấy tự đưa. Giống như dịch vụ môi giới. Y chang các hội làm ăn buôn bán.

Em sống đều đều như vậy, chẳng phải đăng ký cửa hàng cửa hiệu, chẳng phải thuế má, môn bài, cũng chẳng phải lo lót ông nọ bà kia, mà lại được các ông anh cưng chiều, bạn bè ngưỡng mộ.

Nhưng bỗng dưng cái ông anh em gặp ở quán rượu, em sẽ kể sau, bảo xin việc cho em đi làm. Anh bảo em phải lo cuộc sống lâu dài. Anh không nói nghề này nhơ nhuốc, xấu xa như mọi người vẫn nói. Anh bảo, tuổi xuân của ai rồi cũng đến buổi xế chiều. Làm sao em đi khách mãi được.

Em trố mắt nhìn ông anh. Anh nói trúng tim em, nhưng em hỏi anh nói đùa hay nói thật. Em cứ nhìn chằm chằm vào anh. Rồi tự dưng hai hàng nước mắt trào ra. Em ôm siết chặt ông anh như không bao giờ muốn buông ra nữa. Trời ơi. Sao anh không là chồng em. Sao anh không là bố em. Sao anh không là ông ngoại của em. Trời ! Sao anh không là tất cả những gì quý giá nhất của em.

Nhưng rồi em bỗng chững lại. Buông anh khỏi vòng tay. Đẩy tay anh đang ôm phủ sâu phía bụng dưới của em. Nâng chân anh đang đè nặng người em. Em bảo, em chẳng có bằng cấp gì, ai mà nhận em làm việc. Anh ư hứ một tiếng, rồi nhổm lên, hỏi em đã xem phim Giầy thủy tinh của Hàn Quốc chưa? Phim ấy em xem rồi. Em bảo anh, là em rất thích. Đúng là em thích thật.

Anh vẫn như không nghe em nói, ngồi bật dậy cạnh em, nhắc lại rành rẽ cho em nghe. Anh bảo phim ấy kể về một cô nàng trạc tuổi em, học chưa hết trường phổ thông, mà lập nghiệp, thành bà chủ một công ty phần mềm điện thoại di động.

Phim Hàn Quốc khác phim ta. Những cô gái gọi là hoàn lương trong phim ta đều trở thành kỹ sư, bác sỹ. Mấy ông bà làm phim cứ làm như bọn kỹ sư, bác sỹ là những hạng người lương thiện lắm. Lấy đó làm khuôn làm mẫu cho những đứa hoàn lương. Các ông bà làm phim lú lẫn hết rồi. Kỹ sư thì chôm chỉa đồ xí nghiệp mang bán Chợ Trời cho bọn buôn đồ ăn cắp. Bác sỹ thì ăn bẩn của người bệnh, không được ăn thì mặt mày sưng xỉa, mặc cho bệnh nhân chết mỏi chết mòn. Em đọc trên mạng, thấy người ta nói bọn làm phim mắc chứng sính bằng cấp. Với phim Hàn Quốc thì các nhân vật thành đạt đều là những con người bình thường, chẳng có bằng cấp gì, nhưng tuyệt vời, những con người tài ba trong cuộc sống thường ngày của họ. Xem xong phim Hàn Quốc, chúng em đều thấy, dường như ai cũng có thể tự làm được như vậy.

Sau đêm đó, anh gọi điện hẹn mang ô-tô đưa em đến xí nghiệp liên doanh với nước ngoài ở mãi tít tận cái thị trấn nào đấy em chẳng bao giờ nghe tên, gần thành phố Bắc Ninh, để làm cái việc gọi là “phỏng vấn”. Em hỏi bọn bạn, làm phỏng vấn là làm cái gì, thì chẳng đứa nào nói được rành rẽ. Em sực nhớ một lần hồi đi tiếp thị rượu, nghe lỏm các ông anh cười đùa kể chuyện phỏng vấn, Chuyện là một hôm, ông chủ tịch nông trường được lệnh cấp trên, nói tiếp đoàn phóng viên đến phỏng vấn. Ông trố mắt chẳng hiểu “phóng viên” là cái thứ cán bộ kiểu gì ở cấp trên, và họ đến “phỏng vấn” là làm trò gì với cấp dưới. Nhưng ông cũng truyền lệnh cho nông trường viên chuẩn bị sẵn sàng để mấy ông phóng viên cấp trên đến phỏng vấn nông trường viên cấp dưới.

Bọn đàn bà con gái nhao nhao hỏi… phóng viên phỏng vấn là làm cái trò gì với nông trường viên. Họ kéo đến trụ sở nông trường đòi ông chủ tịch hướng dẫn, họ chắc mẩm ông chủ tịch là người biết hết mọi thứ trên đời. Ông chủ tịch vò đầu bứt tai, nói ông cũng cóc biết nó phỏng vấn là làm cái con khỉ gì. Cuối cùng ông cũng phán ra những lời dõng dạc: “Tao cũng chẳng nghe cấp trên nói họ đến phỏng vấn là làm cái cóc khô gì. Thôi tốt nhất, bọn đàn bà con gái chúng mày mau mau đi tắm rửa sạch sẽ để chờ bọn phóng viên… Biết đâu, phóng viên phỏng vấn tức là nó đòi làm cái việc đấy. Còn tao phải tìm con kế toán làm sẵn cho các đồng chí cấp trên mấy cái phong bì”

Em hỏi ông anh của em về phỏng vấn, thì anh ấy bầy cho em cách trả lời các câu hỏi. Anh dặn dò rất kỹ, là người ta chỉ muốn thử cái đầu óc nhanh nhạy và sự khéo tay của em. Anh vẫn bảo là độ khéo tay của em thuộc hạng có đẳng cấp. Thế là em gặp vận may, được tạm tuyển vào bộ phận lắp ráp điện tử.

Em chờ mãi, xem cái ông tuyển dụng có … lôi em đi ăn tối, rồi kéo em vào nhà nghỉ như con bạn em nói không. Nó ra sức chém gió, dứt khoát, ra điều từng trải lắm, rằng đàn ông thằng nào cũng đểu như thế cả. Em bấm bụng, nếu anh ta rủ thì em sẽ tìm cách thoái thác. Em phải từ chối thôi. Những ông cán bộ phỏng vấn chắc chắn không thật lòng như các ông anh ngày ngày em tiếp. Bọn này trở mặt như trở bàn tay, khi cần nó lại vu vạ là mình khêu gợi nó trước, bêu mình là bọn đàn bà đi lên bằng … háng. Bây giờ trong thiên hạ khối kẻ không đi lên bằng đầu gối nữa rồi. Đi lên bằng đầu gối đã xưa như Diễm. Bây giờ chúng nó đi lên bằng háng.

Nhưng em nghĩ nát cả đầu, phải nói lời từ chối ra sao, thế này, thế nọ, để người ta khỏi mất lòng, hoặc phải tìm cách hoãn binh, hoãn binh ngày này qua tháng khác, chẳng hạn, hôm nay em đang gặp ngày đèn đỏ, hoặc em đang bị lên mấy cái mụn nhọt, và nói ra điều tình cảm, hẹn anh hôm khác. Tuy người ta gọi em là đĩ, nhưng em cũng suy nghĩ lắm, nó rủ được mình lên giường một lần, nó vần vò thân xác mình, nhưng rồi quen mui thấy mùi đòi ăn mãi, mình làm sao bắt nó buông tha. Mà nó còn khinh mình như con chó ghẻ. Nhưng tịnh vô không thấy anh ta lộ ra cái gì như muốn gạ gẫm em.

Thì ra trên đời này vẫn còn có những thằng đàn ông tử tế.

Ít ra em cũng thấy được hai thằng tử tế. Một ông phỏng vấn tuyển dụng em ở cái công ty vừa nhận em vào thử việc. Một nữa là cái ông anh đại gia vẫn qua lại với em. Lạ thật đấy. Một lần em hỏi anh, vì sao anh sẵn tiền không kiếm một con bồ non, mà cứ phải đi lại với bọn gái đĩ như em. Anh ta cười… “Này anh nói em nhá, đĩ có cái giá trị của đĩ”. Ối dào, giá trị cái con mịa gì. Anh này khéo vờ vịt. Nhưng rồi anh ta cứ thế tiếp tục, làm em nghệt mặt tin sái cổ: “Em biết không, cặp bồ thì bị ràng buộc. Ràng buộc năm này qua tháng khác. Đĩ thì khác. Thích thì gặp, không thích thì thôi. Đĩ không trách móc. Đĩ không hờn dỗi. Đĩ không ăn vạ. Đĩ không ghen tuông. Đĩ không trói mình trách nhiệm. Tiền tươi thóc thật sau mỗi phi vụ là xong. Đĩ không yêu sách này nọ làm khổ mình. Lỡ có bầu thì đĩ xin anh xèng, tự đi phá thai. Lỡ anh thương, bảo giữ thai đẻ con cho anh, thì đĩ lại bảo, em chưa có điều kiện nuôi con cho anh được. Em phải giữ nhan sắc để còn làm gái kiếm xèng. Còn bồ có bầu thì bắt anh phải có trách nhiệm, đòi mua cho bồ căn hộ cao cấp để nuôi con. Bồ còn đòi, mang bồ về làm vợ nhí. Có ông lúc chết đưa đám ma mới tá hỏa ra, không chỉ có một bà vợ già, một bà vợ trẻ đội mấn, bỗng dưng lại còn … tòi thêm một em “chanh cốm” nữa cũng lù lù, lại thêm một con vợ nhí đội mấn, lại một thằng cu choai choai đội vành rơm chống gậy, thêm nữa một con chíp chíp lăn đường. Cả làng chửi cho cái thằng thất đức, nhưng cũng có người suýt xoa khen anh tốt phúc.

Nghe anh thao thao một hồi, em hỏi, vì sao anh ta nhiều lý lẽ về cái nghề đĩ thế. Anh nói đùa, mà có khi là thật, anh là nhà nghiên cứu cái gì… xã hội học về đĩ. Anh cười, gọi là nhà nghiên cứu “Đĩ học” cũng được. Nghe anh nói, em cũng thấy vui vui trong bụng.

À, thì ra em có giá trị của em. Đĩ có giá trị của … Đĩ.

Thật ra đôi khi em gọi vị đại gia là “anh”, là “thằng đại gia” là hỗn. Nhưng đấy là cách nói của bọn gái chúng em. Em vẫn biết vậy. Vì anh ta ngang lứa với ông ngoại em. Ông ngoại em sáu ba, anh ta sáu mốt. Nhưng anh ta cặp với em. Anh ta là khách ruột của em. Em vẫn gọi là “anh”, đùa giỡn, cợt nhả, quần thảo, vật lộn với anh trên giường quen rồi. Đôi khi nhắn tin, em còn rên rỉ làm nũng .. “Chồng ui”, “Anh iu ui”, “Người tình của em ui”… Đủ kiểu cho anh ta sướng. Khi nào em nhớ thì em gọi điện hoặc nhắn tin cho anh. Nói nhớ là có lúc thôi. Phần lớn các cuộc gọi là vào lúc em kẹt xèng, Nhưng vẫn cứ nói là “nhớ” cho nó tình cảm. Mà anh ta cũng thích được nghe em nói như vậy. Khôn ranh, già đời như anh, biết thừa là em nói nhăng cuội, chẳng nhớ nhung gì.

Được nhận làm thử việc rồi, lòng em vẫn không yên. Đi làm thật sao? Từ nay chấm dứt cuộc đời làm gái. Từ nay được mặc bộ đồng phục với dòng chữ ngời ngời cái tên nghe rất oách của xí nghiệp liên doanh “Suziku Co”. Sau giờ làm trên đường về vẫn còn mặc đồng phục đầy hãnh diện. Có khi mặc cả đồng phục về làng để mẹ cũng được thơm lây. Từ giờ mẹ được ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mắt mọi người, vì con gái mặc trên mình bộ đồ mang dòng chữ trắng “Suziku Co” trên nền xanh của áo, được nhổ toẹt vào mặt những đứa rách việc thầm thì bêu riếu con mình làm gái. Trước đây mẹ chỉ cúi đầu câm lặng.

Hãnh diện thì hãnh diện thật, nhưng mà như bọn bạn bè em nói: Đói bạc mặt. Ư hừ. Đói bạc mặt, nhưng mà xin việc đâu có dễ. Xin được việc là cơ hội vàng thôi thúc em. Thế là em dứt khoát quyết định. Quyết định là quyết định thật. Quyết định dứt bỏ một quãng đời làm gái của em.

Em đã qua một tháng thử việc và được tuyển dụng chính thức.

Em phải làm theo giờ hành chính. Thời gian rất chi là kẹt, xèng thì thiếu mà không có thời gian nào đi gặp các anh để được làm nhẹ bớt những cơn túng thiếu giày vò thân xác. Không biết có ai thấu hiểu sự giày vò của những cơn túng thiếu. Trời ơi. Mua gói xôi cũng phải so đo tính toán, ăn xôi với muối vừng hay là ăn ruốc. Mà ruốc gì đâu cho cam. Rặt bã sắn dây xào ma-gi, thêm tí mì chính. Lắm lúc quẫn quá em đã lóe ý nghĩ ăn cắp của con bạn sống cùng phòng có cái ví tiền luôn để hớ hênh. Nhưng rồi em cố nén cơn túng thiếu không để hai ngón tay đụng vào cái mép ví của nó. Mẹ ơi. Mẹ có hiểu cho con. Nhục ơi là nhục. Ô nhục hơn làm gái. Cái thân làm gái này chưa bao giờ bị giày vò như thế. Cái thân làm gái này chưa bao giờ nghĩ đến đoạn ăn cắp tiền của bạn.

Thế mới biết làm gái xênh xang. Không vật vã thế này.

Ngày nào em cũng giằng co với mình. Em muốn bỏ chỗ này trở về chốn cũ, ngày ngày với đống chăn gối của nhà nghỉ cùng các ông anh. Nhưng rồi em lại nghĩ đến sự hãnh diện của mẹ, đến ánh mắt sáng long lanh của mẹ khi nhìn mọi người trong làng ngoài xóm. Rồi em lại nghĩ đến ông anh đã kéo em về với đời thường. Em đã khóc vì tấm lòng nhân hậu của anh. Em là gì của anh mới được chứ? Em chẳng là gì sất. Em là một con gái gọi. Vậy tại sao anh giang tay cưu mang em? Chỉ nghĩ đến đó là em thấy trấn tĩnh lên. Nó kéo chân em lại. Em không nỡ phản bội tấm lòng của anh… Ôi. Hình như thế nào ấy nhỉ … em thuộc về anh mất rồi. Không. Em chẳng bao giờ còn có tư cách được sống trong cái diễm phúc ấy. Em chỉ là thân phận một con gái gọi.

Em nhớ lần đầu gặp anh trong quán rượu. Dạo ấy em làm tiếp thị cho một hãng rượu tây. Em đến bên bàn các anh, giọng chèo kéo:

- Em chào các anh ạ. Xin mời các anh nếm rượu của hãng chúng em.

- Này, một ông anh cười. À này, cảm ơn em đã mời nếm rượu. Nhưng các em dụi mắt nhìn cho kỹ nhá, các anh đây đều đáng tuổi .. là … là … anh bố của em đấy.

- Ơ hay, em cười tít mắt. Ơ hay nhỉ, anh của bố con cũng mời. Con mời các bác… anh của bố con nếm rượu.

Một anh vỗ vai em:

- Gọi là bác, nhưng mà xưng “em”

- Dạ, em lại đon đả, em mời các bác nếm rượu của hãng em ạ.

Tàn cuộc đêm đó, một anh vẫy vẫy khi em đang mời rượu ở bàn khác. Em đến bàn anh, tưởng anh gọi em phục vụ. Không phải. Thì ra anh hỏi số điện thoại, rồi nháy máy cho em, bảo em nhớ tên anh, là anh Bình. Anh rút ví cho em tờ giấy hai trăm ngàn đồng. Em sướng rên. Em nói cảm ơn anh, và cũng nói anh ghi tên em là Linh. Anh hỏi em nói lại cho rõ. Em nói lại là Linh. Anh hỏi lại, là “Linh” hay là “Ninh”? Em ở quê mới lên hả. Em không “lói” ngọng đấy chứ. Anh cố tình nói ngọng để trêu em là con nhà quê mới lên chốn thị thành, phố xá. Em cười nhắc lại, tên là Linh, Linh “Lờ cao ạ”. Linh là “Linh tinh” ạ. Dạ, em không nói ngọng đâu ạ. Nói là anh, nhưng như em đã nói, đáng ra phải gọi là ông ngoại mới đúng.

Em làm tiếp thị rượu, ra vào các quán rượu đối đáp cợt nhả với khách quen rồi. Một lần, đứa bạn trong hội tiếp thị rủ em về Cẩm Phả chơi. Cẩm Phả là quê nó. Cũng là nơi gắn bó cả cuộc đời ông ngoại của em. Nhà nó trên một con phố nhỏ, em nhớ, gọi tên là phố Lê Lợi. Con phố đổ ra đầu Dốc Trục 2. Ông ngoại vẫn kể lại, chân Dốc Trục 2 ngày xưa là một bãi rộng lầm lầy than bụi. Sáng sáng tấp nập xe tải chở thợ mỏ lên lò Lộ Trí, lên tầng Đèo Nai, cả đi Cọc Sáu nữa. Nay là một vườn hoa rực rỡ. Nhưng ông ngoại vẫn tiếc cái khung cảnh náo nhiệt của bãi xe lầm lội ngày xưa. Ông ngoại bảo, nó lầm lầy than bụi, nhưng thân thương lắm. Nó là cuộc sống một thời của ông ngoại, một thời lam lũ.

Một buổi chiều, chúng em từ trên phố Lê Lợi ở đầu Dốc Trục 2 đi xuống. Mấy anh thanh niên mỏ đi ngược từ chân dốc lên, trêu ghẹo:

- Này, em thổi cơm chưa mà đã đi nhởn đấy?

Anh ta hỏi giọng cứ tự nhiên như thể đứa nào trong đám chúng em là vợ anh ta. Gặp phải con bạn em đáo để không vừa. Nó cười tươi ngọt xớt, nói cái giọng rất chi là lễ phép:

- Dạ, thưa anh, cơm em thổi rồi ạ. Cả cơm, với lại cái đầu cá, em đã trộn sẵn sàng vào cái đĩa của anh vẫn để ở đầu hè ấy ạ. Anh về ăn đi, rồi nằm một chỗ mà trông nhà. Ngoan nhá.

Em phì cười. Nó nói, làm như anh là con chó nhà nó không bằng.

Mấy thanh niên cười ha há, biết gặp con này đanh đá chẳng vừa, đành lên giọng làm lành:

- Hi hi. Em gái giỏi! Thế này thì anh phải về nói bố mẹ mang trầu cau sang thưa chuyện với nhà em gái thui. Anh ta nói “thui” ra cái điều thân thiết với chúng em.

*

Thế là em đã làm việc được gần một năm. Em làm việc theo giờ hành chính, vì vậy anh thường chỉ có thể hẹn em vào chủ nhật. Nhưng anh bận suốt, có khi bẵng đi hai ba chủ nhật em không gặp được anh. Tự nhiên em thấy dội lên một nỗi niềm gì đó, thương anh. Ở tuổi sáu mươi như anh còn đang sung sức. Vợ anh mất đã lâu lắm rồi. Bà ấy bị ung thư dạ con. Cháu nội anh ấy chỉ kém em ba tuổi. Em sinh chín ba. Cháu nội anh ấy sinh chín sáu. Năm nay nó vào đại học. Nó suốt ngày đi chơi với bạn. Bố mẹ nó công việc bận rộn, đi sớm về khuya, có khi làm việc cả ngày nghỉ, bỏ mặc anh ấy một mình. Anh mở công ty tư vấn thiết kế gì gì đấy. Hết công việc ở công ty thì trở về với cuộc sống cô đơn. Em thương anh ấy thực lòng. Và em đã thương anh ấy theo kiểu bọn gái chúng em.

Một lần em gọi điện hẹn anh. Nói anh vào nhà nghỉ lấy phòng, rồi nhắn tin hẹn em đến. Anh lấy phòng, nằm xem ti-vi chờ em. Đúng giờ hẹn cửa phòng kẹt mở. Nhưng không phải em, mà là con bạn em. Anh nhảy tuột khỏi chăn, mặc mỗi cái quần xịt, đứng sững như trời trồng bên cạnh giường, hỏi: “Cô không nhầm phòng đấy chứ”. Con bạn em cười nhanh nhẩu, nói một mạch: “Dạ không ạ. Em là bạn cái Linh. Nó thương anh, bảo em đến với anh, Em tên là Trang ạ. Thôi, anh làm quen với em đi”. Anh ngần ngừ, rồi bảo Trang ngồi xuống ghế cạnh bàn nước. Anh hỏi Trang làm gì. Trang bảo đi học, sinh viên năm thứ hai. Anh tròn xoe mắt, lẩm bẩm “Sinh viên năm thứ hai”… “Sinh viên à”. “Ư hứ. Hội này có cả sinh viên? Công nhân, nông dân, học sinh thi trượt, viên chức, và bây giờ có cả sinh viên”. Nó ngớ ra, không hiểu ông anh lẩm bẩm cái gì.

Rồi nó cười hích hích.

Làm quen đơn giản chỉ có thế. Và từ đấy anh qua lại với Trang. Cái nghề làm gái chúng em không rềnh rang như cưới hỏi, cũng không nhiêu khê kính mời, kính thưa, kính gửi như họp hành ở trường em học hồi trước, mà cũng không cầu kỳ như lễ hội, cũng chẳng điệu nghệ như diễn kịch, đóng phim. Thế là xong. Mà thường khi chung thủy lâu bền. Đơn giản, chung thủy không phải vì cái gì viển vông cao xa, mà một kẻ vì tiền, một người vì tình. Tiền thì thật, nhưng tình đâu có thật.

Anh ấy hỏi Trang, sao em đang đi học mà lại theo các chị làm cái nghề đi khách ngớ ngẩn này. Anh ta ra cái điều lịch sự, gọi là “đi khách” chứ không gọi là “làm đĩ” hay là “làm gái gọi”. Anh ta không gọi là “làm đĩ nhơ nhuốc” mà gọi là “đi khách ngớ ngẩn”. Cái bọn lắm chữ có khác. Họ làm cho mình không đến nỗi xấu mặt. Nhưng chẳng biết thật bụng họ nghĩ thế nào.

Trang tròn mắt, sao lại ngớ ngẩn hả anh? Trang bảo, em cần tiền đi học. Em làm thân với các anh. Được các anh thương, bù đắp cho em tiền đi học. Thế là gặp may hơn lũ bạn bè. Thế là hạnh phúc chứ!

Trang kể, em theo học hệ dân sự của một trường đại học quân đội. Em phải đóng học phí, phải đóng tiền nhà, phải mua sách vở, tài liệu, tiền lo lót lúc thi kiểm tra, còn phải trang trải mọi nhu cầu của cuộc sống, rồi sinh nhật bạn bè, mừng đám cưới, phúng viếng đám ma. Đủ việc.

Bố Trang chết vì một tai nạn đúng hôm mưa to bão lớn, khi cùng dân làng đi cứu đê. Mẹ Trang làm nông nghiệp, Còn một đứa em trai mẹ phải gánh vác. Anh tin là Trang nói thật. Anh hẹn mỗi tuần gặp Trang một lần, cho em một triệu, mỗi tháng em có bốn triệu, một năm bốn mươi tám triệu. Anh nhẩm tính, tiền học mất mười một triệu một năm, tiền nhà mười hai triệu, vừa vặn còn hai lăm triệu cho mười hai tháng. Trừ học phí, tiền nhà, cuộc sống sinh viên thế là tạm ổn, thậm chí là còn phong lưu so với các bạn.

Trường của Trang ở xa Hà Nội. Trang chỉ có thể về gặp anh vào chủ nhật. Một lần Trang khoe được là sinh viên giỏi. Anh lại thưởng cho Trang. Một lần vào chủ nhật Trang nhắn tin xin lỗi không về được. Anh hỏi Trang bận gì? Bận đi chơi với bạn trai à ? Hay là giận anh à? Trang bảo em không giận, em cũng chẳng có bạn trai. Chủ nhật này em bận học lớp cảm tình. Người ta đặt kế hoạch em phải được kết nạp trước khi tốt nghiệp để đạt cái gì đấy, hình như gọi là đạt “chỉ tiêu phát triển ”. Anh hỏi em làm gì ở lớp mà được theo học lớp cảm tình. Lớp trưởng à? Trang bảo, em không phải lớp trưởng, mà là bí thư đoàn.

Anh hỏi Trang, có định làm việc nhà nước không mà phấn đấu. Trang bảo chuẩn bị sẵn để lỡ xin được vào làm việc ở cơ quan nhà nước thì mình đã có cái giấy giới thiệu sinh hoạt. Nếu làm việc ở hãng tư nhân thì thôi không nộp giấy nữa. Thế là được cả đôi đường. Anh thầm khen, em gái thời nay khôn như rận. Em gái cũng phấn đấu. Nhưng chủ nhật này em gái bận đi học cảm tình thì không kiếm được xèng.

Nghĩ đến đây anh lại thương Trang. Anh thương Trang, chủ nhật không gặp anh thì không có tiền, anh nẩy ra ý định gửi vào tài khoản ATM cho em. Anh nhác thấy em có thẻ ATM trong một lần em mở ví nhét tiền vừa nhận của anh. Vì anh gọi điện hỏi tài khoản mà anh biết được tên thật của em không phải là Trang, mà là Hoàng Lan Anh, quê ở thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tài khoản của em ở Ngân hàng Vĩnh Lộc.

Nghe các cụ nói, Chiêm Hóa ngày xưa là căn cứ kháng chiến, là nơi đóng quân của một cơ quan gì đó. Trên biển lưu niệm gắn chữ nổi, gọi là “Nhà nghiên cứu Kỹ thuật Quân giới”. Vùng đất này suốt những năm dài cưu mang kháng chiến, cứ tưởng nay đã đổi đời. Thế hệ cha ông góp tiền, góp thóc, xả thân cho kháng chiến, thế hệ cháu con bán thân mình để có cái nuôi thân.

Thế là em chẳng giấu gì anh cả. Trường của em thì ở một thành phố cách Hà Nội khoảng dăm sáu chục cây số. Chỉ có ngày chủ nhật, Trang mới về Hà Nội gặp anh. Em chẳng giấu anh cái gì sất. Công khai hết nhân thân của gái. Gái bây giờ hay thật. Đánh bài ngửa hết. Sợ gì mà phải nói dối. Cứ nói trắng phớ ra, ai làm gì mình nào!

Các cơ quan bây giờ cũng làm ngơ cho cái bọn làm gái chúng em, làm như không biết có chúng em trên đời này. Báo chí lên án nọ kia, gọi là tệ nạn xã hội. Các cơ quan lờ tịt, để mặc cho các tệ nạn tung hoành và bọn gái nhởn nhơ. Đơn giản là vì có các tệ nạn thì nhà nghỉ mới có khách, mới có xèng để biếu xén đều đều. Thành phố càng nhiều các thứ tệ nạn thì cơ quan thu nhập càng cao.

Con Châu khoe, thỉnh thoảng cũng được theo chân các chú cô cán bộ đi kiểm tra nhà nghỉ, ghi ghi chép chép, cũng kiếm được cái phong bì. Lần đầu tiên đi kiểm tra, nó mở ra giật mình. Được nửa triệu. Mỗi tháng đi kiểm tra nhắc nhở mươi nhà, nhẹ nhàng thôi, riêng cái Châu cũng có thu nhập bằng hai ba tháng lương. Các quan thì chắc phong bì dầy hơn. Không biết bao nhiêu. Chẳng dám hỏi. Đó chẳng phải việc mình. Nhưng một buổi trưa, sau khi gọi là đi “kiểm tra” nhà nghỉ, ông sếp ngẫu hứng mời cả hội đi ăn phở, ra cái điều hào phóng rút phong bì trả tiền, con Châu liếc nhìn. Lại giật mình hơn. Trời ơi. Hẳn sáu tờ. Gấp sáu lần nó. Hèn nào các ông bà đi nhắc nhở đều đều. Một tháng cũng kiếm vài ba chục triệu. Bằng nhà nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời quanh năm suốt tháng. Con Châu được phân công viết báo cáo các hoạt động kiểm tra nhắc nhở. Cơ quan được đánh giá đầu tầu mẫu mực. Thỉnh thoảng con Châu còn được phân công viết cái gì … báo cáo điển hình để lãnh đạo trình bầy trong những hội nghị tổng kết về phòng chống tệ nạn… của thành phố. Oách thật.

Ờ… ờ. Em nhớ, một lần gặp con Châu nghe nó kể chuyện xong, em bảo, thế là chúng mày lừa dối cấp trên. Thế là cả thầy tớ nhà mày không lương thiện, Thế là cả thầy tớ nhà mày phải đi hoàn lương. Nó cười hí hí. Nó bảo chẳng cứ thầy tớ nhà tao, mà thầy tớ mọi nhà đều điêu trác hết. Thế là cả làng này, cả huyện này mất lương thiện. Cả làng cả huyện này phải đi hoàn lương. Thế thì trại hoàn lương không có chỗ chứa. Cũng chẳng đủ cháo loãng cho chúng nó ăn. Thôi, khỏi hoàn lương là ngon lành nhất. Với lại, trên ti-vi có ông quan to nói, cho chúng nó đi hoàn lương hết thì lấy ai làm cái việc đầy tớ của dân? Thiếu đầy tớ hầu hạ thì dân lại phải tự làm hết mọi việc, lấy thời gian đâu để làm lụng kiếm cơm và cung phụng cho bọn đầy tớ.

Chung quy lại, chỉ còn bọn đĩ chúng em là lương thiện. Chắc vì bây giờ nhận ra bọn đĩ lương thiện, nên người ta không nói như các cụ xưa nữa, gọi là làm đĩ, mà gọi là làm gái. Gặp bạn bè khoe “Tao đi làm gái”. Còn tự hào được là “gái gọi”. Có đứa còn nói chữ, dù nó chẳng biết là chữ gì, nhưng cứ nhắn tin cho nhau gọi là “Call girl”. Với vốn liếng ngoại ngữ học đến lớp mười một, em biết chắc đó là tiếng Anh. Bây giờ có cái mốt hơi tí thì lại xổ tiếng Anh. Học tiếng Anh đến lớp mười một, nay quên sạch. Chỉ nhớ các ông anh dạy đánh chữ nhắn tin là như thế. Có đứa còn khoe cả danh sách dài dài các ông anh đủ hạng trong danh bạ điện thoại. Có đứa còn khoe một lô những cái gọi là “vi dit”, ghi đủ thứ chức vụ, cả đại gia, cả các ông … gọi chữ là “trưởng trưởng tá tá” gì đó, như là vụ trưởng, cục trưởng, trưởng ban, trưởng phòng, có cả cái gì… thứ với cục, rồi trung tá, đại tá. Chẳng ngượng ngùng gì. Chẳng thấy tê tê ở lưỡi, sởn sởn ở gáy chút nào.

Một lần đăng trên báo chí vụ vây bắt ở nhà hàng “Lữ Quán”, người ta kê trên báo “ vi dit” của một xâu trưởng tá. Các bố thanh minh thanh nga, rằng đó là nhân viên chơi đểu thủ trưởng, ăn trộm “vi dit” của thủ trưởng để huênh hoang với các em. Ở xứ này hay thật. Chơi gái mà cũng khoe nhãn mác. Họ không hiểu rằng em gái thì chỉ cần xèng. Có xèng thì anh nào cũng hay hết.

Tướng cướp chơi gái cũng được xếp ngang bằng với các vị “trưởng trưởng tá tá” chơi gái. Mà tướng cướp thường khi có giá trị cao hơn các vị kia, vì nó vung xèng thoải mái hơn các vị. Mà các vị đâu có đưa xèng cho các em thân tình như tướng cướp. Nó ra bộ khinh các em. Xèng đã có một ông anh bao cho cả lũ. Bọn gái chúng em ngồi thành hàng dài để các ông anh chỉ trỏ cho các vị trưởng tá lựa chọn. Rồi ông anh xỉa xèng cho từng đứa. Xong thì chúng em đưa các anh trưởng tá vô buồng.

Chúng em gọi tướng cướp là đại gia, gọi tá trưởng là quan chức. Đại gia cung phụng quan chức cả việc đi chơi gái. Có anh đại gia kể chuyện những quan chức vào loại đẳng cấp cao trong số trưởng trưởng tá tá, gọi là … gì đấy … thứ với cục … còn thản nhiên tốc váy các em, tụt xịt các em, rồi làm việc hùng hục, cần cù ngay trong phòng karaokê trước mặt mọi người.

Bọn đốn mạt như vậy đấy.

Ối dào. Thế mà khi ngồi vào bàn quan chức, chúng nó vênh vang phải biết. Mon men xin việc mà nó nắn phong bì thấy mỏng thì đừng hòng thưa gửi.

Vậy là em đã quyết định xong. Em quyết định bỏ cái xí nghiệp ở gần Bắc Ninh để về Hà Nội. Em tìm đến chị chủ nhà cũ của em xin trọ. Chị hỏi “Em không làm xí nghiệp nữa à?” Em cười nói cho qua chuyện “Đói lắm chị ơi”

Thật ra không phải em bỏ xí nghiệp vì đói. Vì em được xếp loại tay nghề tương đối. Lương cũng không đến nỗi nào. Em vẫn gửi đều đều bù cặp cho mẹ em ở quê như khi làm gái.

Bỏ xí nghiệp em buồn lắm. Buồn vì mọi người tốt với em. Buồn vì em đã phản bội anh đại gia của em. Em bỏ xí nghiệp vì lý do khác.

Em bỏ xí nghiệp … để quay về con đường xưa em đi.

Em sẽ kể ngay bây giờ.

Em tính lại rồi. Em sinh năm chín ba, hai mốt tuổi. Em thấy có chị ba ba vẫn đi khách. Như vậy là em còn đi khách được mười hai năm nữa. Mỗi ngày cứ cho là em có một anh khách, thật ra có ngày em đi vài ba khách. Như vậy mỗi tháng ăn tiêu rồi em vẫn còn để ra được ngót nghét cây vàng. Mỗi năm bỏ rẻ em cũng kiếm cả chục cây. Mười hai năm nữa em có khoảng trăm cây. Em sẽ dành dụm, tích góp. Đến ngày hết mã làm gái, em về quê dựng căn nhà, mở cửa hàng bán quần áo hoặc bán giải khát. Mình có xèng, có cửa hàng, tìm chồng dễ như bỡn, khối thằng nộp đơn. Em sẽ chọn một thằng không thượng cẳng chân hạ cẳng tay với em, không rượu chè, không nghiện hút, cần cù, dễ bảo. Chẳng cần bác sỹ, kỹ sư gì hết. Một lũ danh hão, vô tích sự. Tiến sỹ càng nhảm nhí. Dài lưng tốn vải. Lại phải thuê ô-sin hầu hạ chúng nó. Chồng em phải là một anh chàng hiền lành. Em sẽ sai hắn đi chạy hàng cho em. Rồi em sẽ đẻ con với hắn. Xong rồi hắn bỏ em theo con khác cũng được. Mà nếu hắn quậy phá thì chính em là người bỏ hắn. Em sống với con em.

Em tính với chị chủ nhà. Chị khen em chí thú. Chốc chốc chị lại suýt xoa thương em. Chị bảo, thôi, em mới về khó khăn, phải tìm lại khách cũ, ba tháng đầu chị chỉ lấy tám trăm tiền nhà. Từ tháng thứ tư mới thu một triệu như trước.

Em cảm ơn bà chị. Bà chị thật tốt với em. Lúc đầu không phải là ý chị, mà là con bạn cũ của em, cũng bọn gái với nhau cả. Nó đang thuê nhà chị. Nó bảo em, mày bỏ nghề cả năm, bây giờ phải làm lại từ đầu. Mày còn khó khăn, tao đỡ cho ít tháng. Cái phòng này tao thuê chung với một con bạn cũng làm gái. Chị chủ lấy chúng tao hai triệu, mỗi đứa tao góp một triệu. Nó đi lấy chồng rồi. Mày vào thế chỗ nó. Mày mới về tao đỡ cho. Tao góp triệu hai, mày tám trăm. Ba bốn tháng khi có khách đều đều thì mày cũng góp một triệu như tao.

Chị chủ nhà nghe thấy, cười con bạn em phân chia. Chị khen nó tình cảm, khen nó thương bạn, khen nó tốt với bạn. Chị bảo, thôi, chị đỡ cho chúng mày. Con Nga, bạn em, chỉ đưa chị một triệu thôi, con Linh tám trăm.

Em đã định dứt bỏ cuộc đời làm gái, định vứt cái sim ghi địa chỉ các anh, nhưng nghĩ thế nào em giữ lại, thi thoảng nạp dăm chục để không bị hết hạn sử dụng sim. Thế mà may.

Chưa đầy ba tháng em đã nối lại hết liên lạc với tất cả các anh. Điều em lo nhất là các anh đi hoàn lương hết cả, không đi chơi với bọn gái chúng em nữa. Nhưng may là chẳng anh nào hoàn lương hết, mà ngược lại, nói vụng các anh nhá, số các anh cần hoàn lương lại tăng thêm, anh nọ kéo thêm anh kia.

Thì ra nghề này vẫn đắt khách. Em lại được các anh cho xèng đều đều. Em vừa gửi về quê, vừa mua vàng để dành làm vốn.

Bây giờ em kể chuyện em bỏ xí nghiệp.

Nói đúng ra, em bỏ xí nghiệp vẫn là lý do xèng. Làm xí nghiệp thì cái món xèng eo hẹp hơn nhiều so với làm gái. Nhưng em đã quen và chấp nhận. Quyết tâm đi theo con đường mà mọi người gọi là hoàn lương. Nhưng như em đã nói, cái đám con Châu và mấy ông sếp của nó mới đáng phải đi hoàn lương.

Em làm gái còn thấy mình có một cái mà không phải bọn gái nào cũng nói ra được. Đó là em có nhiều dịp để phán xét các ông quan chức… Đời làm gái giúp em ngộ ra, đúng như các cụ nói… “Ngồi bàn quan ngó như thần. Lăn vào với gái quan cũng … tần mần như ma”. Quan cũng làm đủ các trò ranh mãnh chẳng kém gì bọn ma cô.

Em đã nói đấy, làm gái em phải kiếm mỗi tháng cả cây vàng. Suốt một năm làm xí nghiệp em kiếm chỉ đến bẩy triệu một tháng là kịch. So với làm gái thì bẩy triệu là mạt hạng. Nhưng bẩy triệu đã là khoản tiền bạn bè ngưỡng mộ rồi đấy. Vì thế mà em thấy yên thân. Không đòi hỏi gì cao xa hơn thế.

Nhưng rồi… Cuộc đời này cứ bị cái “nhưng rồi” nó bẻ mình đi vào những khúc ngoặt mà mình không thể nào tính trước. Nhưng rồi … gia đình em gặp một tai họa quá bất ngờ. Chuyện này đã được đăng trên các báo và đăng cả trên mạng. Bọn gái chúng em có iPhone đọc hết.

Một thằng cháu gọi mẹ em là bà trẻ lao đầu nghiện hút. Nó ăn cắp hết sạch đồ của bố mẹ để bán kiếm tiền hút hít. Lần này khát thuốc, ở nhà không còn gì để ăn cắp nữa, chạy đến xin tiền mẹ em. Mẹ em nghĩ thương tình, cho nó bốn chục đủ mua một tép. Nó năn nỉ đòi thêm, mẹ em bảo bà chỉ có thế. Nó lại năn nỉ tiếp, mẹ em bảo mày về xin bố mẹ mày. Nó chửi thề, bảo mẹ em, bà trẻ đã ki bo lại còn nhiễu sự. Ông mà xin được tiền của bố mẹ ông, thì ông sang hỏi bà trẻ làm đéo gì. Nó bắt đầu đỏ mặt văng tục. Mẹ em không nói gì. Nó lại chửi thề lên giọng quát tháo đòi bà cho thêm. Mẹ em vẫn không cho, nhưng lại nói nó này nọ theo thói quen răn dạy con cháu của mấy bà già. Nó cáu. Bảo bà đéo cho thì câm mồm đi. Nói lắm đéo chịu được. Nó vứt hai tờ hai chục ngàn xuống nền nhà, lấy chân di di đạp đạp, nhổ toẹt một bãi nước bọt, định bỏ đi. Nhưng nghĩ thế nào nó quay lại, nói ông đéo cần, ông đi trấn lột, ông đéo bà cháu gì sất. Mẹ em uất quá chửi nó là đồ hỗn. Nó quay ngoắt lại, rút dao ra … hét lớn: “Hỗn cái đéo gì ? Hỗn cái mả con mẹ mày à? Con già có câm ngay cái mõm đi không, ông lại xía cho dăm nhát dao này bây giờ”. Mẹ em càng uất ức với thằng cháu, quát: “Xéo ngay, tao không có hạng cháu như mày”. Nó nổi khùng tiến sát mẹ em… A… a… Con đĩ già đã ki bo lại còn lắm điều… Này lắm điều. Tao cho mày ra bã. Tao cho mày đi theo ông trẻ tao … Cho mày chết mẹ mày đi. Thế là thằng cháu xỉa bà liên hồi mấy nhát. Mẹ em ngã gục trên vũng máu.

Em thương hai đứa em. May có bà dì em đến ở với chúng nó đỡ đần. Nhưng em phải lo kiếm tiền, lo đời sống, học hành cho hai đứa em. Bây giờ làm gái là nghĩa vụ trước hương hồn của mẹ. Em phải thay mẹ nuôi các em trưởng thành. Làm ở xí nghiệp thì không thể nào đủ tiền lo liệu. Em tính rồi, em còn mười mấy năm làm gái. Chừng ấy năm đủ thời gian để các em học hành thành đạt. Em còn phải lo dành cả tiền để xin việc cho chúng nó.

Em không muốn nói ra cái sự tình ấy, nhưng đột nhiên trong lúc chị em chuyện trò, chị chủ thấy em đeo giải băng đen trên ngực, hỏi em có chuyện gì ở nhà sao? Em bảo vâng, rồi kể cho chị nghe. Kể với chị xong em nhận ra mắt chị chớp chớp liên hồi … đỏ hoe, đẫm ướt.

Mẹ ơi, hồi còn sống mẹ cứ truy hỏi con làm nghề gì mà mày lắm tiền thế. Với cái nhạy cảm phụ nữ, mẹ có ý nghi ngờ em. Nhưng mẹ không nỡ buộc tội. Bây giờ em khấn mẹ. Mắt em nhòa đi mãi. Mẹ ơi. Con mất mẹ rồi. Con mất mẹ thật rồi. Mẹ ơi, con thương mẹ. Mẹ ơi, con xót mẹ. Bây giờ con không giấu mẹ nữa. Mẹ tha tội cho con. Con làm đĩ. Con làm đĩ đây. Con nguyện làm đĩ để đỡ đần các em thay mẹ.

Đang nửa câu chuyện thì cái iPhone đặt trên bàn réo nhạc tình tang liên hồi. Em nhấc điện thoại, xin lỗi chị chủ nhà:

- Dạ, em nghe đây ạ… Vâng, em đây ạ. …Dạ, em chào anh… Em đang xem ti vi với chị chủ nhà…. Thế ạ… Anh đợi em chút xíu nhá… Phòng bao nhiêu ạ… Vâng

Em tắt điện thoại. Chải vội tóc. Tô lại son trên môi. Sửa lại váy áo ngay ngắn. Tháo dải băng đen trước ngực. Chào mọi người. Đeo núm nghe nhạc cắm vào iPhone. Rồi em bước ra cửa. Xỏ giầy. Vụt chạy khỏi nhà.

Em bước vội. Em chạy miệt mài. Điệu nhạc từ iPhone vẳng bên tai em.

Giai điệu làm em não lòng qua giọng hát ai oán của ca sĩ Khánh Ly.

“Đi về đâu hỡi em?

Khi trong lòng không chút nắng ”…

Giọng hát mượt mà bên tai hòa quyện trong nhịp rảo bước chân em.

“Em về đâu hỡi em?

Có nghe tình yêu lên tiếng…

Nỗi đau hay niềm cay đắng.”

“Đời nhẹ nâng bước chân em…”

“Đi về đâu hỡi em? …Một đời em mãi lang thang…”

…… “Đi về đâu hỡi em.”

Chị Khánh Ly ơi. Em đi về nơi ấy.

Em đi về phía con đường xưa em đi chị ạ.

Phạm Hoài Vũ
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoanghoa »

Những Que Diêm Không Cháy



Quyên – vợ tôi mất mới đó mà đã hơn một năm. Nhanh quá. Mới ngày nào tôi còn ra vô tất tả trong bệnh viện để chăm sóc cho Quyên. Ấy thế mà… Cứ mỗi tối đi làm về ngang qua con đường dẫn vào bệnh viện là tôi lại se lòng. Vẫn là cái ông gác cửa người da đen trong bộ đồng phục cứng đờ và những cái băng ghế mà tôi đã ngồi lê lết chờ Quyên ở mỗi ca phẫu thuật. Tội nghiệp vợ tôi quá. Từ ngày chân ướt chân ráo qua xứ người Quyên đi làm đầu tắt mặt tối để lo cho cả ba cha con đi học. Đến khi tôi ra trường rồi hai đứa con cũng đỗ đạt ra trường thì cái đòn gánh nặng trĩu cong vòng qua bao nhiêu năm tháng không còn chịu đựng nổi nữa. Nó gãy ngang cái rụp. Người gánh lăn ra chết.

Tôi chôn cất Quyên tử tế nhưng nỗi buồn thì chẳng thể nào chôn được. Nó vẫn hiện hữu đó, trơ trơ ra đó, gặm nhấm lấy tôi. Quyên như người trồng cây mà chẳng bao giờ hái được quả. Thật đau lòng. Nghe lời bạn bè tôi đi đó đi đây cho khuây khỏa nhưng làm gì làm, mỗi khi bước chân về nhà thì cái buồn lại dâng trào làm tôi như bị nhận chìm trong cái cảm giác trống vắng và thê lương…

Nhà tôi có hai tầng. Tầng trên có hai phòng ngủ. Trước đây thì một phòng ngủ dành cho hai đứa con, một phòng dành cho hai vợ chồng. Sau này thì hai cháu đi làm xa không còn ở đó nữa. Quyên mất đi rồi thì tôi cũng không muốn lên lầu ngủ một mình trên cái giường rộng thênh thang như sân bóng để làm gì. Tầng trên coi như hoàn toàn bỏ trống. Tôi dọn mọi thứ xuống tầng dưới, ăn cơm xong thì ngã ra trên cái ghế sofa mà ngủ cho rồi. Ngày Quyên mới mất tôi hay chiêm bao thấy nàng lắm. Tôi nghĩ trong vòng bốn mươi chín ngày người chết chưa đi đầu thai nên chắc Quyên vẫn còn quanh quẩn bên tôi. Sau bốn mươi chín ngày thì tôi vẫn chiêm bao thấy Quyên nhưng thưa hơn. Đến sau một trăm ngày thì tôi vẫn thấy. Tôi lấy làm lạ nên đi hỏi han người nọ người kia nhưng ai cũng bảo là do tôi nhớ Quyên quá nên thấy trong mơ chứ không có gì lạ.

Tuy mơ nhiều nhưng những giấc mơ ấy không có gì làm tôi sợ mà trái lại là khác. Trong mơ Quyên không còn mang cái hình hài hốc hác tiều tụy như ở bệnh viện mà luôn xinh đẹp, dễ thương, trẻ trung và nhanh nhẹn như dạo nào. Có lúc tôi thấy Quyên và tôi đi dạo bên bờ sông. Mặt sông xanh biếc lờ lững những dề lục bình. Có một cây gì to lắm, cành de ra trĩu đầy quả. Tôi đưa tay hái cho Quyên. Quyên cười khanh khách. Có lúc tôi lại thấy hai vợ chồng đi xem phim, rồi đi chợ mua rau cải, có lúc thấy Quyên ôm về một cái bao gì to tướng. Tôi hỏi:” Em đem gì về vậy?” Quyên cười tươi hớn hở lấy ra cho tôi xem bao nhiêu quà với cái áo đầm con nít xinh xắn mà bảo:” Anh coi em mua cho con Tí nè. Anh thấy đẹp không?” Tôi gật đầu mỉm cười:” Đẹp lắm.” Quyên cười rạng rỡ, ánh mắt chan hòa yêu thương. Tỉnh dậy đầu tôi vẫn còn gối trên cánh tay tôi. Tôi nhớ Quyên quá. Tôi mặc kệ không còn đi hỏi han ai về những giấc mơ của mình nữa. Tôi thả trôi theo ngày tháng, sống lẫn lộn thực hư. Có lúc tôi mơ thấy Quyên ba đêm liên tiếp mà lúc nào cũng toàn chuyện vui.

Một ngày nọ tôi ra mộ thăm Quyên và nhận ra khoảng đất trống bên cạnh vợ tôi đã có người nằm. Mộ bia không có hình nhưng theo những dòng chữ khắc ở đó thì người mất là một người đàn ông lớn hơn tôi bốn tuổi, mất đã được ba năm. Như vậy là mộ này được cải táng từ nơi khác về. Mộ rất tươm tất, sạch sẽ, xung quanh có rất nhiều bông tươi và bình nhang thì cũng đầy những cái chân nhang. Có vẻ như người này có nhiều thân bằng quyến thuộc. Tiếng chuông của ngôi giáo đường lại văng vẳng vang lên trong buổi hoàng hôn tịch mịch. Tôi lau chùi mộ Quyên cho sạch sẽ xong thắp nhang cắm lên cho Quyên và những người xung quanh. Tới người hàng xóm mới tôi cũng cắm cho anh một cây nhang và lầm thầm van vái cho anh an nghĩ nơi chốn vĩnh hằng.

Trời ập xuống tối thui khi tôi về tới nhà.

Vẫn là tiếng chìa khóa rột rẹt khô khốc vang lên, vẫn là cái công tắc điện kêu cái “cắc” khi tôi bật đèn bước vào và bên trong vẫn là cái bầu không khí im lìm, lạnh lẽo và cô đơn…

Chẳng còn cái gì trong tủ lạnh ngoài một ít canh rau củ từ hôm qua và nửa con cá muối. Tôi hâm các thứ ấy lại và ngồi ăn lặng lẽ. Xong bữa tôi tráng miệng bằng một quả cam. Ngày còn độc thân tôi chẳng bao giờ ăn trái cây. Từ ngày lấy vợ Quyên ép tôi ăn trái cây cho có chất tươi, riết rồi quen, tôi thấy ngon, ngày nào không có trái cây là không chịu nổi. Đồng hồ điểm chín giờ. Tôi leo lên sofa bật Tivi xem rồi ngủ thiếp đi hồi nào không biết. Những âm thanh trong Tivi cứ vang vọng chập chờn trong giấc ngủ của tôi cho tới một lúc tôi giật mình vì nghe có tiếng động lạ phát ra từ trên lầu.

Hình như cái tiếng động ấy phát ra càng lúc càng lớn. Đến bây giờ thì tôi giật mình tỉnh hẳn và ngồi nhổm lên nghe ngóng. Tiếng ấy giống như tiếng của những vật gì va quẹt vào nhau nhưng khó đoán là vật gì. Tôi đứng dưới chân cầu thang bật đèn và nghe ngóng hồi lâu. Tiếng ấy khi có khi không, rất khó hiểu. Kẻ trộm chăng? – tôi tự hỏi. Vơ lấy cái chày giã cua trên quầy bếp tôi rón rén bước lên tầng trên và khe khẽ mở cửa căn phòng của mình. Trong phòng không có ai cả, trống trơn và không có gì bất thường ngoại trừ cánh cửa sổ mở mà từ đó tiếng cành cây va đập vào nhau phát ra những tiếng động vọng xuống dưới nhà. Thì ra là đây. Tôi tới đóng lại cánh cửa sổ mà không khỏi ngạc nhiên. Đã lâu tôi không hề bước chân lên lầu. Cửa sổ không bao giờ mở ra mà nay lại mở. Lạ thật. Tôi đến kiểm tra lại chốt cửa thì không thấy gì lạ, nhìn ra bên ngoài thì những cành cây vẫn còn đang quằn quại dưới cơn gió lớn. Bầu trời đen kịt, vần vũ như sắp có giông.

Thốt nhiên tôi giật bắn người. Tôi sực nhớ là chiều hôm qua tôi vừa dọn hết đồ đạc trong nhà xe ra ngoài vườn để lau dọn sàn nhà cho sạch, đồng thời xem đồ vật nào không xài thì cho từ thiện. Công việc còn dang dở thì tôi bỏ đó đi thăm người cô bị bệnh. Sau đó thì quên khuấy mất. Ngoài vườn còn ngổn ngang va li, quần áo cũ, giày cũ, nệm cũ, máy hút bụi, khung ảnh, đồ vật lưu niệm….Nếu mưa xuống một trận là tiêu tùng. Tôi hốt hoảng chạy bắn xuống thang lầu, mở cửa ra vườn đem tất cả cho vào nhà xe như cũ. Hai mươi phút sau thì trời đổ mưa như trút. Hú hồn. Tôi băn khoăn tự hỏi tại sao cái cửa sổ trên lầu lại mở ra một cách bí ẩn như thể. Để nhắc nhở mình chăng? Ai nhắc? Tôi rùng mình không dám trả lời câu hỏi ấy. Chẳng lẽ là Quyên? Mưa gió ngoài kia vẫn đập ào ào trên mái ngói. Tôi run run thắp cây nhang cắm lên bàn thờ cho Quyên. Hai mắt Quyên trong ảnh nhìn tôi trìu mến. Nước mắt ứa ra tôi khấn thầm:” Có phải em đã mở cái cửa sổ ấy ra không Quyên? Sự tận tụy của em đối với anh đã quá đầy đủ rồi còn gì, sao lại còn đem qua bên kia thế giới làm chi nữa. Em đi đi. Đừng vướng bận gì ở đây nữa. Hãy thanh thản mà đi đi…” Khấn xong tôi trở lại cái sofa trùm chăn ngủ. Trong lúc đang mơ màng tự dưng tôi giật mình vì có cảm giác như có ai đang đứng cạnh mình. Tôi hốt hoảng ngồi bật dậy mắt ráo hoảnh như muốn nhìn xuyên thấu bóng đêm thì không thấy ai cả. Được một lát tôi nằm xuống ngủ tiếp thì lại nghe khe khẽ vang lên bên tai tiếng chân ai bước lên lầu, sột soạt một chút rồi mất hẳn không còn nghe thấy gì nữa.

Sau chuyện ấy một thời gian thì tôi không còn chiêm bao thấy Quyên nữa. Tôi nghĩ có lẽ là Quyên đã đi như tôi vẫn thầm khấn nguyện cho Quyên. Tôi cũng dần quen với đời sống của một chú gà trống đơn độc, không nuôi ai chỉ phải nuôi chính mình. Nước mắt tôi không còn chảy ra nữa mà chảy ngược vào trong khi nhìn ảnh Quyên trên bàn thờ. Bạn bè ai cũng mong tôi làm lại cuộc đời nhưng dường như tôi đã chai đi rồi. Tôi chẳng buồn để ý đến ai nữa. Suốt tuần tôi cặm cụi đi làm, cuối tuần thì ra thăm Quyên.

Sáng hôm ấy tôi cũng chuẩn bị một ít trái cây và hoa quả như thường lệ để ra viếng mộ. Lúc sắp thắp nhang thì tôi sực nhớ là hộp quẹt còn để quên trong xe. Tôi ra xe lục lọi một hồi. Quái. Cái hộp quẹt máy. Tôi nhớ là có đem theo rõ ràng, để ở cái hộc ngay chỗ ngồi. Sao không cánh mà bay thế này. Tôi lục tung hộc nọ hộc kia cuối cùng tìm được một hộp diêm nằm kín đáo trong đám đồ lặt vặt sau thùng xe. Hộp diêm này đã cũ lắm. Trên nắp hộp diêm còn có tên một nhà nghỉ mà trước đây tôi và Quyên từng đến. Tôi nhớ ra rồi. Lâu lắm. Từ hồi hai đứa con tôi còn nhỏ. Cả nhà đi biển chơi và mướn phòng ở nhà nghỉ đó. Trong nhà nghỉ người ta hay để một số đồ linh tinh cho khách xài như hộp khăn giấy, kim chỉ và cả diêm quẹt cho những người hút thuốc. Khi trả phòng thì Quyên đã lấy hộp diêm đó mang về. Sau bao nhiêu năm chẳng hiểu sao nó lọt ra ngoài cái thùng xe này một cách lạ lùng và tìm đến tay tôi trong cái lúc tôi đang rất cần nó. Mừng quýnh, tôi cầm hộp diêm chạy vào nơi mộ Quyên. Tôi rút những que diêm ra đánh lửa thắp nhang nhưng thật bực mình. Tất cả những que diêm đều không cháy. Tôi quẹt tới quẹt lui đến gần rách cả giấy mà chẳng que nào cháy. Chợt một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên bên tai tôi:

– Tôi có hộp quẹt đây. Anh lấy mà dùng.

Ngẩng lên tôi nhìn thấy một người đàn bà xa lạ đang đứng cạnh mình. Chị ấy chìa ra cái hộp quẹt và một lần nữa thúc giục:

– Chắc diêm cũ quá không cháy được. Anh lấy hộp quẹt của tôi nè.

Tôi đỡ lấy cái hộp quẹt máy từ tay người phụ nữ xa lạ ấy và khẽ gật đầu:

– Cám ơn chị.

Đợi tôi thắp nhang xong thì người phụ nữ cầm cái hộp quẹt trở về ngôi mộ bên cạnh. Chị cho những cái hoa đã héo vào bao để chút nữa bỏ thùng rác, đồng thời bày những cái hoa tươi lên mộ. Tôi bảo:

– Tôi ra đây hoài, thấy mộ này mấy tháng nay mà không gặp ai. Nay mới gặp chị.

Người phụ nữ đáp:

– Tôi mới cải táng nhà tôi về đây.

Tôi chỉ qua nấm đất của Quyên bảo:

– Nhà tôi thì nằm ở đây. Vậy mình là hàng xóm… hàng xóm trong nghĩa trang…

Người phụ nữ ngước nhìn tôi cười gượng gạo. Cái cảnh nghĩa trang đìu hiu quá. Tự nhiên tôi cũng mủi lòng trong câu nói của chính mình. Tôi nhớ tới căn nhà của mình mà lát nữa tôi trở về, nghĩ tới những cái tôi sắp phải đối diện trong chốc lát nữa đây. “Không còn ai nữa trong nhà. Ngoài hoàng hôn lạnh lẽo và cô đơn”. Hai câu thơ buồn bã ấy không nhớ ai viết vang lên trong đầu tôi. Người đàn bà mở cái bánh lá ra mời:

”Anh dùng lấy thảo. Bánh này nhà tôi lúc trước hay ăn nên tôi đem ra cúng.”

Tôi hỏi:

“Lúc trước chị ở đâu mà cải táng anh đem về đây?”

Người phụ nữ đáp:

“Dạo trước tôi theo chồng sống bên miền Bắc. Cách nay ba năm thì anh ấy mất. Tôi trở về đây sống cho gần cha mẹ, cải táng chồng tôi về đây luôn cho tiện chăm sóc.”

Những sợi tóc của người phụ nữ lòa xòa một bên mặt, rũ xuống che đôi mắt buồn sau hai hàng mi rậm rạp. Tôi và chị có nói qua nói lại vài ba câu gì nữa rồi chị ấy cáo từ ra về. Tôi nhìn theo tà áo phất phơ của chị trên lối đi trong nghĩa trang giữa những thân cây cao vút đang rì rầm xào xạc. Có một con chim màu đen đang đậu trên bờ tường kêu lên quang quác.

Tôi nhìn xuống những cây nhang mình mới đốt khi nãy nay đã cháy hết còn trơ những cái chân màu đỏ. Trên chân mộ còn vương vãi những cái que diêm không cháy. Tôi cầm lên một trong những cái que diêm ấy mà không khỏi thắc mắc. Quái lạ thiệt. Sao nó không cháy nhỉ? Chắc nó bị hơi ẩm trong bao nhiêu năm? Lẩn thẩn tôi cầm cái que và quẹt một cái trên vỏ bao. Bất thình lình que diêm cháy bùng lên mạnh mẽ. Tôi hốt hoảng nhìn sững ngọn lửa mà không khỏi bàng hoàng. Tại sao khi nãy nó không cháy mà bây giờ lại cháy? Hình như có một bàn tay nào đã sắp xếp cho những que diêm ấy không cháy và sự sắp xếp ấy hẳn nhiên là có một dụng ý nào đó. Thẫn thờ tôi nhặt hết những que diêm còn lại và quẹt vào vỏ bao một cách rất nhẹ nhàng thì que nào cũng cháy cả. Tôi cứ ngồi trơ ra đó hàng giờ, hai tay buông thõng chẳng buồn làm gì, đầu óc miên man suy nghĩ cho đến khi người bảo vệ tới nhắc là sắp tới giờ đóng cửa thì tôi mới đứng dậy ra về…

Sau lần đi viếng mộ ấy thì mãi đến hai tháng sau tôi mới trở lại vì bận rộn cho những chuyến công tác liên miên. Từ đằng xa, qua những hàng cây bụi cỏ và những bia mộ chập chùng tôi đã thấy một dáng người phụ nữ đang lúi húi bày biện bông hoa trên ngôi mộ của Quyên. Tôi chạy vội tới. Không ai khác chính là người phụ nữ hôm trước mà tôi đã gặp. Chị ngước nhìn tôi mỉm cười:

– Chào anh. Sẵn tôi ra thăm mộ nhà tôi, tôi qua thăm chị luôn.

Tôi bảo:

– Ôi, cám ơn chị quá. Chắc nhà tôi cũng vui khi có người qua thăm. Tôi đi công tác mấy tháng nay không ra được…

Người phụ nữ bảo:

– Anh đừng lo. Nếu anh không ra được thì đã có tôi ra thường xuyên. Tôi sẽ giúp anh giữ phần mộ của chị sạch sẽ. Anh yên tâm nhé.

Chị nói xong thì quay lại phần mộ của chồng mình ngồi xuống lấy miếng giẻ ra lau. Qua làn khói hương thong thả bay lên tôi nhìn thấy khuôn mặt người phụ nữ hiện lên hết sức dịu dàng, thân ái. Tôi nhìn chị. Chị cũng nhìn lại tôi. Hình như tôi thấy chị rất quen, quen lắm, quen như tôi từng gặp ở đâu đó. Cũng là đôi mắt ấy, vầng trán ấy, đôi môi ấy và rồi thoắt một cái tôi nhìn thấy Quyên đang đứng trước mặt mình, âu yếm đưa tay chờ đợi. Sau lưng Quyên là một không gian mờ ảo, bảng lảng khói sương, đầy những âm thanh ù ù chứ không còn là hình ảnh nghĩa trang với cây cối và những ngôi mộ nữa. Tôi nhìn Quyên trân trối, tay đưa ra nhưng hai chân như chôn chặt một chỗ, miệng mấp máy nhưng không nói được gì. Thoắt một cái tất cả những ảo ảnh ấy tan biến mất. Hai mắt tôi tối sầm, chân tôi dường như đang sụm xuống rồi tôi chẳng biết gì nữa. Bên tai tôi có tiếng người hốt hoảng cùng với hai bàn tay đỡ lấy thân người tôi:

– Anh. Anh làm sao vậy. Tỉnh lại đi. Anh có sao không?

Tôi lảo đảo gượng dậy nhưng không đứng lên được lại ngồi phịch xuống. Người phụ nữ lấy trong xách tay cái bình giữ nhiệt rót cho tôi ít trà nóng rồi bảo:

– Anh uống đi. Coi chừng có bị gì không. Để tôi đi kêu bảo vệ.

Tôi ngăn lại:

– Chị… chị đừng đi. Tôi hơi chóng mặt. Có vậy thôi chớ không sao.

Chị bảo:

– Chắc anh đang yếu trong người. Thôi anh thu xếp về sớm đi. Ở ngoài này rất dễ trúng gió.

Nói xong cả chị và tôi nhanh chóng gom góp nhang đèn hoa quả rồi ra bãi đậu xe. Đến lúc này thì tới phiên chị mếu máo vì cái xe của chị không cách gì nổ máy. Tôi giúp chị gọi dịch vụ kéo xe rồi hôm sau giúp chị đem cái xe đi sửa. Ngày qua ngày tôi và chị dần dần vượt qua những rào cản e dè và không còn là hai người hàng xóm ngoài nghĩa trang nữa. Những bận rộn và sự quan tâm cho một tình cảm mới mẻ đã làm cho nỗi nhớ về Quyên dần dần lắng xuống. Tâm trí tôi giờ đây không còn bị bủa vây bởi bóng tối hay những ám ảnh của ao tù quá khứ mà nó đã thật sự được khơi thông để ánh sáng ùa vào, đánh thức cái con người bấy lâu nằm sâu dưới đáy vực. Lúc này tôi đã biết chị tên là Trúc, có một đứa con gái đã lấy chồng và ở xa. Chị cũng như tôi, sống đơn độc một mình trong căn nhà thuê ở gần viện dưỡng lão để tiện ra vô chăm sóc cho người mẹ già. Chúng tôi từ từ trở thành hai người bạn rồi hai người yêu. “Hình như tôi thấy mình đã hồi sinh.” – tôi vừa nói vừa nhìn Trúc. Trúc còn chưa đáp thì tôi nói tiếp: “Trúc ơi, nếu chúng ta về ở chung, nếu chúng ta cùng nhau làm lại cuộc đời thì Trúc có đồng ý không?”

Trúc ngước lên nhìn tôi, vẫn bằng ánh mắt đằm thắm mà tôi đã nhìn thấy qua làn khói mong manh lượn lờ từ những cây nhang cắm ngoài mộ. Thế nhưng lần này thì tôi không còn thấy hình ảnh Quyên lồng vào Trúc trong mơ hồ hư ảo nữa. Trúc thật sự là Trúc, là sự xác thực không hề lẫn lộn, là tình yêu cũng như tâm hồn đã chết đi sống lại của tôi đang đâm chồi nẩy lộc. Sau này khi đã thành vợ thành chồng với nhau, Trúc kể:

– Hình như ông Trời sắp xếp cho em gặp anh hay sao ấy. Lẽ ra em đã phải cải táng anh Tâm về khoảng đất rất xa nằm giáp mặt đường bên kia của nghĩa trang. Cách hôm cải táng có bốn ngày thì người ta gọi cho em bảo là có khoảng đất tốt hơn, gần cửa ra vào mà người mua lúc trước đã hủy hợp đồng. Họ hỏi em có muốn lấy chỗ đất ấy không và em đã đồng ý. Thế là mộ của anh Tâm nằm cạnh mộ chị Quyên. Em gặp anh hình như do sự sắp đặt ấy.

Tôi nhìn Trúc mỉm cười. Không biết Trúc có còn nhớ những cái que diêm không cháy khi tôi dùng để đốt nhang cho Quyên ngoài mộ không. Nếu những cái que diêm ấy cháy thì tôi đâu cần mượn hộp quẹt của Trúc, đâu cần có cái sự dạo đầu làm quen ấy thì làm gì có cái ngày hôm nay. Không nói ra nhưng tôi biết tất cả là Quyên. Chính Quyên đã dun rủi cho tôi và Trúc đến với nhau. Chính Quyên đã đem lại màu xanh cho mảnh đất tưởng đã khô cằn trong trái tim tôi, chính Quyên đã dành cho tôi tất cả tình yêu và lòng tận tụy, dù đã ở bên kia thế giới.

“Quyên thương yêu – tôi thì thầm. Hãy cho anh nhìn thấy em trong chiêm bao thêm một lần nữa, một lần sau cuối có được không? Em hãy mặc chiếc áo đầm trắng có thêu hoa thủy tiên vàng, cùng anh và hai con đến nhà nghỉ trên bờ biển năm xưa. Em sẽ chạy nhảy, chơi đùa, cỡi ngựa với bé Tí, bé Tơ, còn anh thì sẽ lẽo đẽo theo sau mà chụp hình. Chiều chiều mình lại thả bộ lững thững xem người ta bán hàng rong bên bờ biển, mua những món quà lưu niệm mà em thích. Em sẽ khoác lên người cái mảnh vải có thêu hoa sặc sỡ của người dân địa phương, mua một cái kem, uống một ly nước cam pha rượu đỏ và nằm dài trên những cái ghế bố dưới hàng dừa tỏa bóng. Buổi tối khi thành phố đã lên đèn thì em lại kỳ kèo đòi ra biển ngắm trăng trong khi anh thì lại thích vào đại sảnh để khiêu vũ với mọi người. Em yêu thích cái tĩnh lặng bao nhiêu thì anh lại chuộng cái ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu phải không Quyên. Hết kỳ nghỉ thì chúng ta sẽ trở về ngôi nhà thân yêu với bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh mà em đã tha về làm cho anh phải phát cáu mà la em. Trời ơi, cái gì cũng rinh về. Ba cái đôi dép lát mỏng dính, tập giấy ghi chép, rồi hộp diêm nữa, nhà chật hết rồi nè em biết không. Em sẽ vừa cười vừa nũng nịu bảo, ờ, thôi kệ mà, có lúc biết đâu sẽ cần đến những thứ đó…

Em nói đúng đấy Quyên ạ. Anh cũng không ngờ là có lúc anh cần đến hộp diêm của em, cái hộp diêm mà anh từng cho là vô tích sự thì nay chính nó đã thắp lên ngọn lửa sưởi ấm lại căn nhà của chúng ta, đem lại cho anh cái hạnh phúc mà anh đã vuột mất. Em thương anh nhiều đến thế hả Quyên, một tình thương quá nhiều đến anh không mường tượng được. Thôi thì, em hãy cho anh nhìn thấy em một lần cuối trong chiêm bao, một lần cuối đi Quyên…”

Thế nhưng không nhớ là bao nhiêu ngày tháng đã kéo nhau đi, dù tôi có van cầu tha thiết như thế nào đi nữa thì Quyên cũng không bao giờ còn xuất hiện trong giấc mơ của tôi. Nàng đã ra đi vĩnh viễn, âm thầm và mãn nguyện…

Nghi Phương
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Image

Cải lương, Ngoại và tuổi thơ tôi

Thanh Hà

1/-
Hồi nhỏ tôi thích nghe cải lương vọng cổ lắm. Tôi nói “nghe” là vì thời ấy vô tuyến truyền hình chưa ra đời, nên chỉ được nghe các nghệ sĩ hát qua radio mà thôi. Tôi chỉ khoảng mười tuổi, vậy mà khi nghe tiếng hát cất lên là tôi đã phân biệt được đó là nghệ sĩ nào. Vào những tối đài phát chương trình cải lương, đêm thanh vắng, nằm trong giường lắng nghe các nghệ sĩ tài danh đóng vai thiện ác, trẻ già, đào thương đào lẳng, kép độc kép chánh, tuồng bi tuồng hài… mà tôi khóc cười, giận ghét, vui buồn theo từng nhân vật.


Này nhé, đào thương thì có sầu nữ Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Diệu Hiền, Phượng Liên, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Bạch Tuyết… Kép chánh có Thành Được, Tấn Tài, Hùng Cường, Minh Phụng, Thanh Sang, Dũng Thanh Lâm… Vai người trung, cao niên có Út Trà Ôn, Hữu Phước, Trường Xuân… Hề có Văn Hường, Văn Chung…

Có những tuồng cải lương tôi nghe nhiều đến thuộc lời ca, thế mà mỗi lần nghe lại vẫn say mê như lần đầu. Rồi những ngày cùng với em gái thứ năm, buổi chiều không phải đi học, hai đứa chui vào góc kẹt bồ lúa lấy khăn tắm choàng vai giả làm hoàng tử, cài hoa dâm bụt lên tóc đóng vai công chúa ư ử hát, nhớ đoạn nào hát đoạn nấy, cũng lâm ly não nùng lắm.

Nhắc về tuồng tích cải lương thì có hai hình ảnh tới giờ tôi vẫn nhớ, một cách kỳ lạ, dù đã bao năm trôi qua.

Hình ảnh thứ nhất là một đoạn thoại vài câu do kép độc Trường Xuân diễn vai Hoàng đế Diệp Chấn Phong trong vở Thuyền Ra Cửa Biển. Tôi không nhớ chính xác từng từ, nhưng đại khái đó là cảnh ông vua Diệp Chấn Phong tỏ tình với công chúa Chiêu Trúc Lệ (do sầu nữ Út Bạch Lan đóng). Vua nói rằng nhiều năm trước ông sang thăm vua láng giềng thì bất chợt thấy hai chị em công chúa nhỏ rong chơi bên hồ nước. Hình ảnh cô em cứ ám ảnh ông mãi. Ông biết mình đã yêu. Vợ mất, ông không tái giá, chờ đợi nàng đến tuổi trưởng thành sẽ xin cưới. Oái oăm là bây giờ nàng và hoàng tử con ruột của ông đã yêu nhau.

Tôi đã quên hết tình tiết vở cải lương ngang trái, nhưng mấy lời thoại ngắn ngủi của nghệ sĩ Trường Xuân tỏ tình thì cứ còn ở lại trong trí tưởng tượng của tôi đến tận bây giờ. Tuy chỉ nghe qua lời ca mà tôi như thấy rõ ràng hình ảnh yểu điệu của nàng công nương dong thuyền trên mặt hồ êm ả theo sự vẽ vời tưởng tượng của mình và khiến lòng tôi mơ tưởng suốt mấy chục năm dài.

Hình ảnh thứ hai là lần duy nhất tôi được xem cải lương trực tiếp tại rạp Châu Văn, Rạch Giá năm 11 tuổi. Má mua vé để bà Ngoại dắt bốn chị em tôi đi xem vở Tiếng Hạc Trong Trăng của đoàn Kim Chưởng. Trong tuồng có cảnh nghệ sĩ Phượng Liên mặc chiếc áo trắng tha thướt kiểu cổ với dải thắt lưng lơi lả, tóc dài đến eo, lược giắt trâm cài. Mỗi lần cô xoay chuyển thì đôi hoa tai lấp lánh đong đưa nhịp nhàng theo. Chúng tôi ngồi cách mấy hàng ghế nên nhìn khá rõ. Một tay cầm thanh gươm, tay kia cô ra điệu bộ lúc uyển chuyển lúc cương quyết theo tình tiết câu chuyện. Rồi cô bỗng nắm nhẹ tà áo và nhún hai chân xuống, cử chỉ vô cùng duyên dáng. Hình ảnh xinh đẹp quí phái của cô Phượng Liên dưới ánh đèn sân khấu lung linh huyền ảo ấy khắc vào trí óc con bé 11 tuổi quá đậm sâu. Tôi đã ước ao mình mau lớn để trở thành thiếu nữ yểu điệu thướt tha như hình ảnh đó.


2/-
Giờ quay lại chuyện bà Ngoại tôi. Y phục hàng ngày của Ngoại rất đơn giản như bao nhiêu người nông dân thuần phác với áo bà ba trắng quần đáy lá nem. Khi ra ruộng thì mặc áo bà ba đen. Tôi nhớ Ngoại không mặc y phục màu nào khác ngoài hai màu đen trắng. Quần đáy lá nem là kiểu quần đặc biệt có phần đáy là mảnh vải rộng ghép vào để cử động được thoải mái, nhất là những người lao động khi đứng ngồi không bị căng và khó rách.

Mỗi khi Ngoại đi dự đám tiệc, đi thăm họ hàng thì Ngoại sẽ mặc áo dài gấm hoặc áo dài the trắng có ẩn hoa văn trang nhã cùng với quần lãnh Mỹ A đen láng bóng. Mang đôi guốc mộc quai trắng giản dị. Buổi đi xem cải lương, Ngoại mặc áo dài gấm trắng, tóc bới cao. Chị em tôi cũng xúng xính quần áo mới, náo nức theo Ngoại đến bến đón xe khách Lambretta tám chỗ ra tỉnh cách đó bảy cây số xem hát.

Ngoại tôi vốn là cô thôn nữ xinh xắn, dáng cao thon gọn, mắt mũi miệng hài hòa duyên dáng. Do tuổi tác và hằng ngày lam lũ phơi nắng dầm mưa nên sắc vóc Ngoại có tàn phai. Nhưng khi khoác vào người y phục tươm tất, trông Ngoại duyên dáng hẳn lên. Ngoại cả đời vất vả, chỉ khi già yếu mới chịu nghỉ ngơi. Mọi người tin tử vi nói rằng Ngoại tuổi con gà nên số vất vả. Tôi biết không phải thế. Chẳng qua vì tấm lòng hy sinh, thương má tôi là con một, nên cưu mang thêm đàn con sáu đứa, phụ ba má tôi. Nếu đừng vì sáu chị em tôi thì Ông Bà Ngoại đã có cuộc sống nhàn hạ. Hồi ấy với vài mẫu ruộng, chỉ cần mỗi năm gieo mạ một mùa là dư dả gạo cho cả gia đình mười miệng ăn, còn có thừa để bán.

Nhưng ông bà ngoại tôi quanh năm không bao giờ chịu ngồi không. Xong mùa gặt lúa, ông Ngoại lại xếp rơm ủ nấm. Đến giờ tôi còn cảm nhận được hương vị của món canh nấm rơm trên đầu lưỡi, chỉ nấu chay không cần thêm thịt cá mà đậm đà thơm ngọt. Ông Ngoại còn dựng giàn tre trồng bầu, bí, dưa, khổ qua… Đến mùa khô thì tát đìa, ao, bắt cá lóc, cá trê, cá sặt… Trong vườn nhà trồng nhiều chuối, cạnh bên là cái ao nhỏ, mùa mưa rau muống, rau ngổ, bông súng tươi non chen nhau mọc đầy mặt nước. Bà Ngoại nuôi một con heo để lấy cơm thừa canh cặn, xắt cây chuối non, lấy rau nấu với cám cho heo.


Ngày làm lụng vất vả, nhưng mỗi đêm về chị em tôi lên giường nằm xếp lớp náo nức chờ Ngoại vào nằm cạnh, vừa quạt vừa kể chuyện đời xưa hoặc hát những bài vè, ca dao ru chúng tôi ngủ:

Lúa ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô
Lúa ngô là cô đậu nành…

Ngoại còn kể chuyện Nàng Út Rẫy Dưa, An Tiêm trồng dưa hấu… Chúng tôi nghe đi nghe lại hàng trăm lần vẫn không biết chán. Giọng Ngoại hát, kể… không hay như giọng nghệ sĩ, nhưng chuyên chở tình yêu thương âu yếm nên thấm sâu vào lòng chúng tôi. Cứ vậy, mà Ngoại đã thay Má nhiều lần ru chị em tôi vào giấc ngủ vô tư, êm ái. Vì khi đó Má còn bận chong đèn thức đêm bên bàn máy may, mong sớm hoàn thành cái áo, cái quần kịp sớm mai giao hàng theo lời yêu cầu của khách.

Rồi chúng tôi lớn lên, đi học xa nhà. Lúc ấy không có điện thoại, chỉ liên lạc nhau bằng thư từ. Nhớ gia đình, mỗi tuần viết hai lá thư về nhà kể đủ chuyện trường lớp, sinh hoạt… và ngược lại má, chị, em gái cũng viết ngần ấy thư kể chuyện nhà. Một hôm trong phong bì chúng tôi nhận được, theo thường lệ là có ba lá thư với nét chữ của ba người thì lần này đặc biệt thêm một tờ thư đính kèm chỉ vài câu, bằng bút chì, nét chữ nguệch ngoạc, xiên xéo. Chừng xem cuối dòng mới biết là thư của bà Ngoại. Trời ơi! Chúng tôi đọc mà nước mắt nhòe nhoẹt. Ngoại nói rất nhớ thương các cháu gái sống xa nhà, hãy giữ gìn sức khỏe, khi nào về, Ngoại sẽ kho cá lòng tong với hành-mỡ-tiêu, cho các cháu ăn.

Thư Ngoại viết chỉ vài hàng mà tôi đọc hoài. Chị Hai kể là Ngoại viết cả buổi mới xong, khiến chúng tôi khóc nhiều hơn, khi hình dung cảnh Ngoại ngồi gò lưng cặm cụi nắn nót đánh vật từng chữ a, b, c để trút tình yêu thương lên giấy cho đàn cháu. Đó là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất Ngoại viết thơ trong đời. Ngoại không được đến trường ngày nào, chỉ khi má được đi học thì về chỉ lại cho ông bà Ngoại để ông bà có thể đọc sách kinh Phật.

Ngoại đã viết và nhắc đến món cá lòng tong kho tiêu, đó là món dân dã rẻ tiền, loại cá nhỏ dài bằng ngón tay út, sống trong sông lạch. Qua tài nấu nướng Ngoại của tôi nó trở nên đặc sắc. Bây giờ nó thành món ăn xa xỉ, kể cả ở nhà hàng sang trọng, nhưng tôi vẫn chưa thấy ai kho ngon bằng Ngoại. Có lẽ vì ngoài hương vị đậm đà nó còn chất chứa cả một vùng trời tuổi thơ tôi?


3/-
Tuổi thơ tôi hạnh phúc êm đềm vì có cải lương và có Ngoại. Xem-nghe cải lương khiến tâm hồn tôi bay bổng, mơ mộng về những chuyện thần tiên. Còn Ngoại của tôi không có quần áo đẹp, không có giọng hát hay, Ngoại chỉ có một tấm lòng quảng đại để yêu thương chăm lo đàn cháu. Nhưng chính những săn sóc đời thường mới là hạnh phúc vô giá mà không phải người nào cũng được ban ân sủng trong đời.
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by caubennoc »

Ngày Tết
Nguyễn Thị Thêm -

Thấy bà ngoại sắp trái cây, chè xôi, bánh và nhiều thứ khác đứa cháu ngoại cũng lăng xăng phụ. Con bé rót nước vào ly nhỏ rồi cẩn thận để lên bàn.

- Còn gì nữa không bà ngoại?

- Ờ! lại bàn thờ ông ngoại cầm hộp nhang xuống đây cho bà.

- Dạ! Yes Sir! Bà ngoại.

Nó cầm hộp nhang xuống đưa cho chị Thim rồi đứng im. Một hồi nó nheo mắt hỏi:

- Sao hôm nay bà ngoại bày cúng chỗ này mà không cúng ở bàn thờ trên nhà?

- Hôm nay bà ngoại cúng đưa ông Táo

-Ông Táo là ai? Ổng ở chỗ nào bà ngoại

Chị Thim chỉ vào bàn thờ nho nhỏ đặt ở sát bếp nói với cháu:

- Táo thần ngồi đây nè.

- Sao chỉ có mấy chữ gì kỳ cục mà không thấy hình ổng.

- Ờ! Tới đây chị Thim cần phải suy nghĩ vì chị mà nói ra có hai ông một bà thì chết với đứa cháu ngoại hay hỏi cắc cớ này lắm. Nó sẽ hỏi tới và sẽ nghĩ ra gia đình này lộn xộn, kỳ cục. Rồi sẽ hỏi họ có đánh nhau không? Ông nào lớn, ông nào nhỏ. Họ có con không? vv và vv...Chị Thim đành nói tránh ra:

- Thì đây là chữ nho, viết tượng trưng, chứ hồi xưa làm gì có chụp hình.

- Mà tại sao phải đưa ổng ngày 23 Tết?

- Theo tục lệ ngày này tất cả Táo Thần về chầu thượng đế, báo cáo việc trần gian, việc nhà của nơi mình ở -như nhà mình đây nè -cho Ngọc Hoàng biết.

- Mà Ngọc Hoàng là ai hả ngoại?

- Ngọc hoàng là vua của các vị thần.

- Ông Ngọc Hoàng ở đâu hả ngoại.

- Ổng ở trên trời, chỗ cao nhất, cai trị hết thảy mọi người, mọi vật trên trái đất .

- Ổng oai quá hén!

Cháu chị Thim nheo nheo con mắt, đưa tay vò vò cái trán vồ rồi nói bâng quơ.

- Mỗi nhà một ông táo, trên thế giới này biết bao nhiêu ông, chỗ đâu cho mấy ổng đứng hết trên thiên đình mà tâu với bẩm. Rồi nó quay qua hỏi chị:

- Ở thiên đình có xài loa không hả ngoại?

- Loa gì?

- Thì cái loa nói lớn ra cho mọi người nghe đó. Ngọc Hoàng nói cho hết quá chừng ông táo nghe thì phải dùng loa chớ. Rồi bỗng như sực nhớ nó hỏi một cách hăng hái:

- Mà ông Táo nói tiếng gì hả ngoại? nhiều ông táo ở nhiều nơi lắm mà.

-Thì ổng nói tiếng ...Mà tiếng gì Ngọc Hoàng cũng hiểu.

-Vậy Ngọc Hoàng giỏi thiệt nha. Hay như cái tự điển đa ngôn ngữ bây giờ. Mà ngoại ơi! nhà mình xài gas, bếp đâu có cần ông Táo.

-Cái con này... Táo là thần mà, ổng quan sát việc nhà mình chứ đâu phải bật hộp quẹt mở lửa cho mình nấu ăn đâu?

Thấy giông dài với nó nhức cái đầu, chị Thim sai nó đi ra ngoài sân sau bưng cái rổ cam ngoại hái sẵn đem vô đây. Con bé dạ một tiếng rõ to rồi chân sáo đi ra cửa, miệng vẫn còn lầm bầm:

- Cúp điện hay cúp gas là ông Táo hết thấy đường dòm ngó nhà mình.

Chị Thim lắc đầu không biết làm sao cắt nghĩa với nó. Ngày xưa đối với mẹ nó, chị Thim kể cho nghe chuyện gia đình nhà táo, về cái chết của họ và chức vụ Ngọc Hoàng ban, mẹ nó tin ngay không hề thắc mắc hay hỏi này kia. Mỗi khi nấu làm đổ thức ăn trên bếp nó còn chắp tay xá xá xin lỗi ông Táo. Mỗi năm cúng đưa hay đón ông Táo, nó tới bàn thờ cầu xin dễ thương lắm. Bây giờ mấy đứa cháu ngoại cái gì cũng hỏi cho ra.

Ngày rằm Trung Thu rước đèn chị Thim bèn kể chuyện Hằng Nga Chú cuội cho các cháu nghe, nghĩ rằng chúng sẽ thích lắm như mình hồi nhỏ. Ai dè cháu chị lên tiếng không kiêng nể gì hết:

- Làm gì có Hằng Nga ở trển. Đá không hà ngoại ơi! Phi thuyền lên trên mặt trăng lấy đá về nghiên cứu đó. Hằng Nga hả? con không tin.

Ôi! Cái thời khoa học tiên tiến, mỗi đứa cháu đều có một cái Iphone hay Ipad , tuổi thơ của nó không còn là hoa bướm, tiên nữ nữa. Nó thực tế đến trần trụi tự nhiên. Già như chị Thim đôi khi bị nó bắt bẻ, dẫn chứng có lý lẽ, khoa học kỹ thuật rõ ràng đành quê độ chịu thua.

Nói chúng không có sự tưởng tượng cũng không đúng. Chúng cũng có những chuyện thần tiên trong tranh hoạt hình của thiếu nhi. Nhưng những chuyện ấy chị Thim mù tịt về tên nhân vật vì quá nhiều. Những nhà làm phim tưởng tượng ra những câu chuyện thần thoại những con vật viết nói, những tranh hoạt hình cho trẻ em. Rồi họ sản xuất ra những áo, khăn, búp bê và vô số đồ chơi theo chuyện phim đó. Báo hại cha mẹ ông bà mua sắm theo sự vòi vĩnh của chúng cũng tốn khá nhiều tiền.

Trí tưởng tượng của trẻ con phong phú lắm. Hôm nay nó sẽ hóa thân làm người này và tên nó sẽ là tên nhân vật đó. Vài hôm sau sẽ là một nhân vật mới, tên mới. Khốn nỗi chị Thim đâu có biết lúc đó nó nhập vai ai nên cứ bị nó bắt bẻ và phụng phịu nghỉ chơi hoài. Những chuyện cổ tích VN bây giờ không còn đi vào tâm hồn bọn trẻ. Chúng bắt ông bà đi theo sự tưởng tượng và nhân vật của chúng trong phim ảnh chứ không theo chuyện kể đời xưa xa lắc xa lơ của VN mình.

Cái thời bà nội, bà ngoại nằm ôm cháu kể chuyện đời xưa bây giờ chắc không còn nữa. Những bà nội (ngoại) tiếng Tây tiếng Mỹ ít ỏi, nói cho nó hiểu thật khó dàng trời. Nó nói tiếng Mỹ nhanh như giông như gió mình không nghe kịp , thì làm sao gieo vào đầu chúng những câu chuyện truyền miệng mà ngày xưa ông bà mình đã kể cho mình nghe.

Nhiều khi nghe nó vặn vẹo mình cũng chột dạ. Có phải mình cũng lẩm cẩm quá không? Có còn tin vào ông Táo hai ông một bà về chầu trời không? Có còn tin trên vầng trăng sáng đẹp lung linh kia có một nàng Hằng Nga ôm gối mộng lẻ loi một mình. Chuyện thần tiên bao giờ cũng là đẹp đi vào trái tim nhỏ bé ngây thơ tuổi nhỏ. Ta nghe và yêu nó như yêu cả tuổi thơ trong trắng tuyệt vời. Lớn lên khi có con ta lại kể cho con nghe và coi như ta trao tuổi thơ cho nó nâng niu khi tuổi thơ mình đã mất.

Tết đã về tới rồi. Lẹ thiệt, dường như thời gian chạy đua với tuổi già của con người. Bên đây xung quanh toàn người Mỹ, ngày Tết VN chẳng ăn nhằm gì với họ. Ngày mồng một vào đầu tuần thì y như rằng Tết năm đó như không là Tết . Vậy thì Tết bắt đầu lúc nào?

Đối với trẻ con ở Mỹ, Tết bắt đầu từ sáng mồng một, khi cha mẹ chúng trao tiền lì xì và chúc mừng năm mới. Ở Việt Nam tuổi nhỏ của chúng ta, Tết bắt đầu sau ngày đưa ông Táo về trời. Từ sau ngày 23 chúng ta dùng chữ Tết hay tháng chạp đi sau ngày tháng. Thí dụ:

- Hôm nay 24 tháng chạp hoặc hôm nay 24 Tết

- Hôm nay 27 Tết rồi đó bà con ơi .

Cho nên khi đã đưa ông Táo về trời thì nhà nhà bắt đầu chuẩn bị ăn Tết. Có phải chăng người xưa đã lấy cái điểm mốc này để chào mừng mùa Xuân. Những cây mai tỉa sạch lá hôm nào đã đơm biết bao là nụ. Những nụ hoa nhỏ bắt đầu to dần để nở đúng Tết. Những bông thọ, bông mồng gà, bông cúc đã khoe sắc rực rỡ sân nhà. Mẹ đã đem nếp mới đi xay , mua đường , mua thịt về chuẩn bị gói bánh. Những lá chuối ngoài vườn mẹ ra ngấm nghé để chuẩn bị cắt về phơi. Những trái bí đao già trắng hếu để dành nằm một đống dưới gầm ván được má lôi ra chuẩn bị làm mứt. Cây chùm ruột chua chi chít những trái được chị hái hết đem vào nhà rửa sạch chà cho ra hết chất chua. Dừa ba đã cắt từ lâu, tách bỏ vỏ ngoài sẽ là những hộp mứt dừa ngọt ngào đủ màu sắc. Mấy trái mãng cầu đã được xên đường thật ngon và gói đủ màu sắc. ....

Tết là cả gia đình gom tụ về để mừng năm mới. Con cháu chung tay chuẩn bị đón Xuân về. Tết là để các cô gái miệt vườn giỏi giang phô trương tài nữ công gia chánh. Tết là dịp các bà mẹ chồng nhận xét, chấm điểm tìm con dâu. Tết là dịp mẹ dạy con gái nấu những món ăn ngon, làm những loại mứt ngọt ngào để bước thêm một tuổi chuẩn bị lấy chồng. Tết trẻ con được mặc đồ mới, được ăn ngon được lì xì tiền và được nghỉ ở nhà đi chơi thỏa thích. Có đứa thấy mình đã lớn, phải có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ.

Ngày Tết ngọt ngào với Mứt gừng, mứt bí, mứt me, mứt chùm ruột, mứt dừa, mứt mãng cầu,mứt khoai lang...Bánh thì có bánh tổ, bánh ít, bánh tét, bánh chưng, bánh dày, bánh bông lan, bánh in, bánh bột lọc... Thịt thì có thịt kho tàu, thịt kho trứng, thịt luộc cuốn bánh tráng với dưa giá rau sống, thịt đông, nem, chả, giò thủ, tré, đầu heo dầm chua, lỗ tai heo ngâm nước mắm hay ngâm dấm. Ngoài ra còn có canh khổ qua dồn thịt, canh miến... Nhất là ngày mồng một ăn chay không thể nào thiếu món kiểm là một món đặc biệt của miền Nam nấu với rất nhiều rau củ nước dừa ngon hết biết.

Ngày tết ở miền Nam, bàn thờ gia tiên được bài trí vô cùng trang trọng.Thức ăn bày cúng được để trên bàn dài trước tủ thờ. Ngoài mâm cơm cúng ông bà phải có mâm cơm cúng đất đai thổ trạch, một mâm cúng rước ông Táo về nhà. Trên bàn thờ ngoài lư hương chân đèn được chùi sáng choang, bông hoa rực rỡ, còn có cặp dưa hấu và mâm ngũ quả Cầu, dừa, đủ, xoài và một trái thơm. Có người còn chưng thêm chùm sung tượng trưng cho sung túc hay mấy quả Phật Thủ để cầu được phước báo trong năm mới. Chuối được chưng thường là chuối sứ trái thật to và ngon, tuyệt đối không ai chưng chuối già.

Ngày nay người ta hay đùa vì ý nghĩa "CẦU VỪA ĐỦ XÀI" của người miền Nam đơn giản, thiệt thà, bình dị không ước mơ nhiều. Họ dùng những cây trái mô tả để đùa như: CẦU XÀI XẢ GA là mãng cầu, xoài ,vài gốc sả và một bình ga nhỏ. Đùa vui chọc phá thì có CẦU BƠM VÚ VỪA ĐỦ XÀI Là mãng cầu, táo, vú sữa, dừa, đu đủ và xoài vv.. Ngày Tết không ai chưng sầu riêng, trái lê, trái lựu vì kiêng cử.

Tết là niềm vui là thay đổi cái cũ để bước qua cái mới tốt đẹp hơn.

Nhà tôi ngày xưa đó cứ vài năm ba tôi lại cho quét vôi lại một lần. Các anh tôi tập trung về phụ ba làm việc. Đồ đạc được di chuyển, dọn dẹp. Bụi bặm được quét sạch sẽ. Đồ dùng có dịp kiểm điểm lại, cái nào quá cũ thì bỏ. Có cái để hoài một góc nào đó rồi quên đi bây giờ mới tìm ra. Căn nhà sau khi quét vôi xong, nền nhà rửa sạch xem như mới. Tất cả đều tinh tươm sạch sẽ. Bộ lư đồng được đem ra chùi sáng trưng. Khỏi cần mua thuốc chùi lư, cứ ra vườn sau hái một mớ khế chua hay chanh chà thật đều, phơi nắng một chút rồi đem vô lau thật kỹ. Chao ơi! bộ lư sáng choang như mới. Cây mai ngoài vườn được cắt vài nhánh chưng trên bàn thờ, đọ sắc với bông thọ vàng rực mà má tôi rất thích. Dọn bàn thờ và trang trí rất quan trọng trong phong tục VN. Bởi vì nhìn lên bàn thờ người ta có thể đoán được gia thế và cách sống của gia chủ.

Người ta nói người Việt Nam mình sống cho người chết cũng không ngoa. Gần Tết đại gia đình tổ chức đi dẫy mả, làm sạch sẽ nơi người chết yên nghỉ. Trước khi dọn dẹp cho khang trang phải có một mâm gà xôi rượu bánh trái cúng ngoài mộ để xin phép rồi mới được làm. Ngày này mỗi gia đình thường cử người đại diện đi tham gia làm công việc hiếu nghĩa biết ơn tổ tông ông bà.

Ngày 30 Tết mọi nhà rộn ràng nấu nướng để rước ông bà. Trong không khí trang nghiêm và linh thiêng, gia chủ cúng lạy để mời ông bà tổ tiên về vui Tết với con cháu. Bắt đầu giờ phút đó phải kiêng những thứ không tốt lành, nói năng vô phép sợ thất lễ ông bà và ảnh hưởng cho năm mới . Ngày Tết đến thăm nhà ai thì đầu tiên phải xin phép gia chủ để được đốt nhang bàn thờ mới là người biết phép tắc.

Đúng 12 giờ đêm mọi nhà đều cúng giao thừa. Giờ phút cúng giao thừa thiêng liêng lắm. Đó là thời khắc giao thoa của đất trời, giờ phút bước qua một năm mới. Cúng giao thừa thường được cúng trước cửa, có nhà để ngoài sân. Mâm cúng giao thừa chủ yếu là hoa quả , bánh, mứt, nước lọc hay nước trà. Có nhà nấu thêm chè xôi để cúng. Sau khi cúng xong gia chủ sẽ châm ngòi cho pháo nổ. Cả xóm, cả làng nhà ai cũng có đốt pháo. Nghèo thì một phong, giàu thì đốt pháo đại và rất nhiều phong pháo. Trẻ em đứng bên ngoài reo hò, vỗ tay, khi pháo nổ hết thì nhào vô lượm pháo rớt ra để đốt . Sáng mồng một sân nhà ai cũng đầy xác pháo đỏ thật đẹp. Sau này do tình hình chiến tranh, an ninh tục lệ đốt pháo ngày Tết bị giới hạn, có năm cấm luôn. Riêng ở miền Nam Cali năm nào city cũng cho phép các nhà buôn bán lớn được phép đốt pháo đầu năm hay ngày khai trương năm mới để lấy hên.

Những ngày cận Tết con gái cực lắm. Ngoài phụ mẹ gói bánh, làm mứt, nấu ăn còn phải dọn dẹp nhà cửa. Tất cả mùng, mền, áo gối đều phải giặt sạch. Gạo phải đầy lu, nước phải đầy bể, đầy khạp, sân phải quét dọn sạch sẽ tinh tươm. Vào chiều ngày 30 trước khi rước ông bà về phải tưới nước cho ướt sân để ông bà về mát mẻ. Tất cả mọi sinh hoạt phải xong trước giờ cúng giao thừa. Bắt đầu sáng mồng một là chỉ có chúc Tết, ăn, chơi. Đàn ông đi chúc tết, ăn nhậu, đánh bài. Con nít mừng tuổi, nhận lì xì, đi chơi và đánh bầu cua cá cọp. Người mẹ nhiệm vụ ở nhà tiếp khách, đốt nhang bàn thờ. Con gái phải phục vụ và dọn dẹp. Các cây lớn ngoài vườn cũng được nhận một miếng giấy đỏ cắt hình thoi hay vuông dán vào gọi là mừng tuổi cho cây.

Việt Nam ta đa số theo đạo thờ ông bà, cho nên lễ nghĩa bắt buộc phải giữ gìn và bảo vệ. Tứ thân phụ mẫu đều phải được kính trọng cho nên "MÙNG MỘT NHÀ CHA, MÙNG HAI NHÀ MẸ, MÙNG BA NHÀ THẦY" Mùng một anh em chúng tôi ở nhà mừng tuổi bác, chú, cô. Mùng hai mấy anh em dẫn nhau về nhà ngoại đốt nhang và chúc Tết cậu, dì, bà con của mẹ. Ngày mùng ba hẹn nhau đi chúc Tết thầy giáo cô giáo rồi về nhà cúng đưa ông bà.

Người Việt sau 30/4/75 rời xa đất nước vẫn canh cánh bên lòng tình quê hương dân tộc. Ngay từ cái Tết đầu tiên dù ở trại tị nạn hay ở xứ người vẫn cố gắng duy trì phong tục và làm sống lại cái Tết Việt Nam. Tết là tình tự dân tộc là cội nguồn từ thời vua Hùng dựng nước. Bánh dầy bánh chưng xuất phát từ Lang Liêu dâng lên vua cha thời Hùng Vương thứ 7 để tỏ lòng tạ ơn trời, đất, tổ tiên. Bánh tét là lương thực dự trữ mang đi cho quân sĩ ăn hành quân thần tốc. Trong vòng 5 ngày Vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Cho nên ngày tết VN không thể không có ba món quốc hồn quốc túy ý nghĩa đó.

Mấy chục năm ở xứ người mỗi năm người Việt ta vẫn ăn Tết rình rang khiến người bản xứ từ lạ lùng đến kính phục, họ cũng vui theo ngày Tết VN mình. Sau ngày 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời là các chợ VN đã trang hoàng và bán đủ loại trái cây, bánh mứt và quà biếu cho ngày Tết. Chợ hoa Phước Lộc Thọ tại miền Nam Cali và các chợ hoa trên khắp các nơi có người Việt cư ngụ làm đẹp thêm thành phố, làm nao nức lòng người. Những tụ điểm ca nhạc mừng Xuân rộn ràng khắp nơi. Cứ nghe "Tết Tết Tết Tết đến rồi" hay "Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi" là ta thấy lòng nôn nao mừng Tết. Các chùa hay các nhà thờ lên kế hoạch Mừng Xuân chúc Tết đón giao thừa. Các chùa tổ chức cho Phật Tử đi hành hương sau Tết.

Năm nay là năm Nhâm Dần tức là năm con cọp. Cọp là chúa tể sơn lâm nên rất hung dữ. Đàn bà con gái tuổi con cọp khó lấy chồng vì kỵ tuổi. "Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung" Đúng lý ra chỉ kỵ các tuổi khỉ, rắn với heo thôi nhưng không hiểu sao người ta vẫn cấm kỵ con trai lấy vợ tuổi dần. Có lẽ họ sợ cô vợ tuổi cọp đến một ngày nào đó sẽ biến thành sư tử Hà Đông ăn hiếp chồng. Đối với con trai can Nhâm rất tốt (Nam Nhâm nữ Quý) nên sinh con trai năm này là quý tử vì được ở can Nhâm và được tuổi Dần tượng trưng cho sức mạnh.

Chúng ta vô Google gõ cửa các nhà tướng số nha:

Năm 2022 Nhâm Dần là năm con Hổ (Hổ qua rừng - Quá Lâm Chi Hổ), ngũ hành Kim. Năm Nhâm Dần được xem là một năm vượng khí tốt, trời đất khai thông, thái dương chiếu sáng, các tuổi sẽ được gặp may mắn, thuận lợi.

Thời gian: Năm Nhâm Dần bắt đầu từ ngày 01/02/2022 – 21/01/2023 dương lịch.

Mệnh: Kim Bạch Kim (Vàng pha bạc)

Hổ (Dần) là con vật đại diện cho sức mạnh, sự uy quyền

Tổng Quan:

Người sinh năm Dần là người có đời sống nội tâm cao, họ có tài trí hơn người và luôn ấp ủ những ý tưởng to lớn. Họ tự quyết và có tính độc lập cao, ưa mạo hiểm, và ít bị khuất phục

Vận hạn cuộc đời:

Tuổi Dần khó lòng thỏa mãn với bản thân, lúc nào cũng cảm thấy không vừa ý nên cuộc sống của họ đôi chút thăng trầm.

Các mối quan hệ

Tuổi Dần nếu kết bạn với một người tuổi Hợi chắc chắn sẽ tốt bởi người tuổi Hợi luôn điềm đạm từ tốn, họ sẽ bổ túc và kiềm chế bớt tính nóng nảy và bình an cho người tuổi Dần. Tuổi Dần sẽ thấy tâm đầu ý hợp với tuổi Tỵ, bởi cả 2 đều rất đa nghi, song người tuổi Tỵ lại rất ôn hòa và thận trọng trong khi người tuổi Dần nóng nảy và liều lĩnh.

Thôi, coi bao nhiêu đó cũng đủ rồi, bây giờ ta bàn chuyện vui vui về con cọp nha các bạn.

Dần là hổ, hùm hay ông ba mươi là những tên người VN hay gọi . Trong chữ nghĩa VN có những chữ dần, cọp hay hổ mà không dính dáng gì tới ông ba mươi.

Thí dụ:

- Hổ ngươi hay xấu hổ không dính dáng gì tới con cọp hết mà cùng có nghĩa là mắc cỡ

- Tuổi hổ cáp không phải con cọp mà là con bò cạp

- Khi các bạn nghe nói đi coi cọp thì không hẳn là mình vô sở thú xem ông ba mươi mà còn có nghĩa là mình coi hát không mua vé

- Khi các bạn nghe một người nói ăn thịt cọp thì đừng tin là họ bắt được cọp và làm thịt ăn. Mà là muối hột giả ra nghe lộp cộp để ăn cơm vì quá nghèo.

- Khi nghe học trò nói hai từ cọp dê thì không phải là con cọp nó dê hoặc con cọp với con dê mà là coi trộm bài làm của người khác rồi chép lại.

-Khi nghe nói bị nhốt chuồng cọp không có nghĩa là bị nhốt vào chuồng có con cọp ở trỏng. Mà có nghĩa là bị biệt giam

-Cọp biển không phải là cọp ở ngoài biển mà là lính thủy quân lục chiến mà bây giờ ở VN gọi là lính thủy đánh bộ

- Dần dần không có nghĩa là hai con cọp mà là từ từ

- Còn một từ nữa về lính có dính tới cọp là Cọp ba đầu rằn. Không phải con cọp trên đầu có ba rằn trên đầu, mà là Tiểu đoàn 42 Biệt động quân

Trong kho tàng văn chương VN để ám chỉ những việc, những con người hay hành động nào đó, người ta hay dùng những con vật mà mọi người đều biết để ví von. Về con cọp có những câu như sau:

Ăn như hùm như cọp. Nam thực như hổ, nữ thực như miêu. Điệu hổ ly sơn. Thả hổ về rừng. Vuốt râu cọp hay vuốt râu hùm. Cáo mượn oai hùm. Không chui vào hang hùm làm sao bắt được hổ con. Dựa hơi hùm. Hổ dữ không ăn thịt con. Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Miệng hùm gan sứa...vv.

Chỉ còn có 3 ngày nữa là con Trâu hết nhiệm kỳ để bàn giao nhiệm vụ cho con cọp. Tôi lại nhớ chuyện cổ tích má tôi hay kể hồi nhỏ có dính líu trực tiếp đến hai con này. Chuyện kể có con cọp đi tìm mồi. Cọp thấy con trâu to lớn mà bị con người rất nhỏ bắt kéo cày, đánh roi vun vút vào mông. Khi họ nghỉ làm con trâu nằm nhai cỏ, cọp đi tới hỏi trâu lý do. Con trâu nói là con người tuy nhỏ nhưng có trí khôn. Cọp lại tìm người nông dân hỏi cái trí khôn để đâu đưa cho cọp coi thử nếu không cọp sẽ ăn thịt. Người nông dân nói trí khôn để ở nhà. Ông ta sẽ về nhà lấy đưa cho cọp với điều kiện cọp phải cho ông ta trói lại, nếu không khi ông ta đi cọp sẽ ăn thịt con trâu của ông. Nghe hợp lý, cọp đồng ý cho anh nông dân kia trói gô vào cây ở nọc rơm. Xong xuôi anh nông dân đánh cho cọp tơi bời và nói trí khôn ông ta ở đây nè. Xong lấy rơm đốt vào đuôi cọp. Cọp bị lửa bắt cháy sợ quá vùng đứt dây và chạy thoát vào rừng. Từ đó lông cọp có vằn, có vện vì bị lửa cháy xém lông.

Đây là câu chuyện đời xưa để giải thích lý do lông cọp vằn vện cũng như đề cao trí khôn của loài người. Câu chuyện chắc chắn là không có thật vì cọp làm sao biết nói tiếng người. Câu chuyện cũng ám chỉ con cọp tuy to con nhưng chỉ mạnh về thể lực không thông minh hay mưu trí như những con vật khác.

Con trâu hiền lành, chăm chỉ là con vật nuôi trong nhà, để cho con người sai khiến. Con trâu khi còn sống làm việc cật lực để đem lợi ích cho con người, khi chết còn bị con người đem ra làm thịt không bỏ một thứ gì, cả bộ da cũng bị lột ra làm mặt trống. Con cọp trái lại rất hung dữ, ăn thịt súc vật và ăn cả thịt người nên loài người rất sợ. Cọp sống trong rừng không gần gũi tiếp xúc với loài người. Rừng càng ngày càng bị khai phá để mở rộng diện tích trồng trọt và xây dựng. Loài cọp cũng dần dần bị đẩy đi xa. Thiếu rừng thì chúa tể sơn lâm cũng không thể dương oai diệu võ, không thể sinh con duy trì nòi giống. Loài cọp dần dần tuyệt chủng, chỉ còn thấy ở sở thú hay những khu rừng nguyên sinh được nhà nước bảo vệ.

Nhâm Dần về rồi, người dân trên khắp thế giới hướng về năm 2022 mong mỏi một sự thay đổi tốt đẹp. Dịch bệnh Coronavirus đã đẩy lùi dân số và sinh hoạt của con người trong hai năm qua. Dân chúng toàn cầu đang mơ ước không phải sự đi lên ngoạn mục mà chỉ là được trở về thời kỳ của 2 năm về trước. Thật là một điều vô lý nhưng đó là sự thật. Sự thật dù đã được chích ngừa 3 lần nhưng ra ngoài vẫn phải mang khẩu trang che kín, vẫn phải đứng cách xa nhau 2 mét, vẫn nơm nớp lo sợ mà bệnh viện vẫn không đủ phòng cho bệnh nhân dính Covid. Thật là yêu quỷ lộng hành, thiên đình chắc phải cử thiên tướng xuống trần dẹp loạn, đem lại bình an cho bá tánh.

Thiên tướng đây có phải là con cọp chúa tể sơn lâm không? Hy vọng ông ba mươi sẽ ra oai hùm rống to cho dịch bệnh tiêu trừ, nhân loại an hòa, giang sơn bình định.

Tân niên lại đến mỗi gia đình
Khai bút làm thơ chúc bạn mình
Tài lộc vào nhà vui khấp khởi
Bình an gỏ cửa nụ cười xinh
Nhà nhà hết sợ con vi rút
Chốn chốn mừng vui cảnh thái bình
Cuộc sống thanh nhàn ta tận hưởng
Nhâm Dần dịch bệnh cũng lui binh

CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Nguyễn thị Thêm
01/31/2022
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

VỢ NGƯỜI , VỢ TA
SI TRANG

Hắn và vợ cùng tuổi, chung lớp chung trường, nói như nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn thì là: Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp, nhưng vợ và hắn không phải ở cuối phố, cũng chẳng có cây bưởi sau nhà tỏa hương ngan ngát, vợ hắn cũng không e ấp, ép cánh hoa bưởi trắng ngần trong chiếc khăn tay rồi ngập ngừng dúi vào tay hắn như những cô bé trong bài thơ .
Nhà vợ hắn ở đầu thôn, nhà hắn cuối thôn. Cuối năm lớp 12, trong một lần đi học về, thấy cô nàng lếch thếch cuốc bộ, hắn lại gần, định ra tay hảo hán nhưng vợ hắn đã nhanh nhảu, ra lệnh :

-Ê .. ông cho tôi đi nhờ về nhà!

Thế là từ đó, hai người thân nhau hơn, rồi hẹn hò, yêu nhau như những cặp đôi khác. Nhưng khổ nỗi, ngay cả nụ hôn đầu tiên thánh thiện của tình yêu, cô ta cũng không để cho hắn chủ động mà cô ta lại kéo hắn hôn trước ngay gốc cây ổi đầu ngõ. Cuối cùng, hắn và cô nàng cũng nên vợ nên chồng. Vợ chồng hắn hợp nhau ở chỗ không có đầu óc dùi mài kinh sử nên sau khi học xong PTTH về với đồng ruộng, cày sâu cuốc bẫm, giữ hồn quê, giữ mùa hoa cải vàng nở rộ bên sông, giữ cánh đồng lúa mơn mởn, ngậm sữa thơm đến tận chân trời cho người thành phố về thăm quê, chụp ảnh, seo- phì đăng phây- bút…

Hàng xóm nhà hắn cũng cùng tuổi, trong khi hắn hai đứa con gái một đứa 15, đứa 13 thì con trai lão hàng xóm mới 6 tuổi, chả là vì ngoài 30 bên ấy mới lấy vợ. Lấy vợ muộn lão ấy lại may mắn hơn. Đẻ ngay được đứa con trai kháu khỉnh, bụ bẫm, nhìn sướng cả mắt . Cô vợ trẻ măng, mượt mà nữa chứ ! Còn vợ hắn cái gì cũng tiếc của chả dám ăn ngon mặc đẹp, nói ra thì “nhảy” vào banh quai hàm hắn :

-Ông khỏe mạnh được mãi à? Lúc đau ốm, con cái học hành…lấy xương sườn ông mà bán hả?Thấy vợ giãy như”đỉa phải vôi” hắn im lặng cho nhẹ tội… Nhìn vợ hàng xóm hắn thèm nhỏ dãi, đã xinh đẹp ,nói năng nhỏ nhẹ lại còn dịu dàng, đến bữa ăn nghe vợ hàng xóm thánh thót :

-Anh ơi, dừng tay vào ăn cơm!

Còn vợ hắn thì gắt như mắm tôm:
-Ông có ăn không thì bảo!
Thế là hắn phải vội vàng vào ngồi với ba con bướm, lặng lẽ ăn cho xong bữa, chả muốn ý kiến ý cò: món này ngon, món kia dở .

Hôm nào vợ gã hàng xóm mua tí mỡ màng và chút cay cay về, gọi hắn qua chén tạc chén thù, ngồi quá giờ cơm tối một tí là vợ hắn la oai oái :

-Ông có về không hay ngủ ở ngoài? Còn vợ hàng xóm tâm lí, khuyến khích chồng :

-Nam vô tửu như kì vô phong !Nên lão hàng xóm cứ nhâm nhi vô tư, còn hắn phải về chứ không mụ vợ cửa đóng then cài có mà đêm nay ngủ khách sạn ngàn sao .

Nhà hắn và nhà hàng xóm cách nhau cái rào râm bụt nở hoa đỏ rực, lá xanh rờn. Anh hàng xóm chăm bón, tỉa tót kĩ càng lắm. Rào hoa ấy, hàng xóm trồng tặng vợ vì cô vợ trẻ thích hoa dâm bụt. Còn vợ hắn thì chả biết thích hoa gì, mà hắn cũng chả dám tặng hoa cho vợ. Bây giờ mà hắn tặng hoa cho cô ta không khéo lại bị nghi ngờ làm cái gì có lỗi. Chả dại gì mà rước họa vào thân. Hắn còn nhớ có lần ấy, vợ hắn đi chợ về muộn, ngóng mãi ra đầu ngõ. Trời tối, nhà ai cũng lên đèn, hắn lo cho vợ nhưng vừa thấy hắn, một tràng đại liên đã bắn ra:

-Ông làm cái gì mà phải canh chừng tôi thế ? Hắn định nói :Anh thấy mình chưa về, lo quá! Nhưng hắn biết thế nào cô ta cũng phang cho hắn:

-Á, lo cho con nào , rồi lấy con này làm bình phong hả ?

Nghĩ lại chuyện cũ hắn tự nhủ: Thôi, thôi! Chả hoa hòe, chả bay bướm, văn vẻ gì cho lành! Cứ mỗi lần nghe nhà bên kể về người vợ trẻ, xinh đẹp, dịu dàng, giỏi giang của lão, lòng hắn như có ai châm kim vào, hắn tê tái thấy mình kiếp trước vụng tu!

Chiều 30 Tết, hắn đang quần đùi lò xo, áo sống tả tơi với nồi bánh chưng, bởi trước khi đi chợ tết , vợ hắn đã dặn dò :

- Ông cấn thận nồi bánh đấy, bánh cháy cả năm hạn đấy! Cô ta mê tín thò lò như thế thì làm sao hắn dám lơ là. Bánh mà cháy, chuyện gì không may xảy ra trong năm … có mà không yên với vợ. Nghĩ thế nên hắn chăm bẵm vào nồi bánh. Chợt nghe bên hàng xóm ồn ào, đồ đạc loảng xoảng… hắn vội vàng nghển cổ qua rào dâm bụt (Hàng xóm mà! tối lửa tắt đèn phải có nhau chứ !) Một đám người xăm trổ đầy mình, dơ cái sổ đỏ ra :

-Cha con mày cút, con vợ mày cắm sổ vay tiền theo trai, quá hạn trả lãi,tụi tao lấy nhà, lấy đất!Có đi hay không để tụi tao còn xin tí huyết của thằng con!

Nhìn bọn người này dữ tợn, xăm trổ đấy mình, thằng con khóc thét lên.Gã hàng xóm run bần bật :

-Các anh thư thư để bố con em ra giêng!Bọn đầu gấu vất mấy bộ quần áo của hai cha con vào cái túi ném ra ngõ:

-Không giêng hai gì cả, con vợ mày lừa tụi tao, bây giờ tụi tao phải lấy nhà, lấy đất …hay mày giấu nó ở đâu ?

Gã líu cả lưỡi:
-Giấu gì? Các anh mà tìm thấy nó , báo…báo… cho em với , em giết nó!
Hắn thò đầu qua , ra hiệu bảo bố con hàng xóm qua nhà hắn.Hai bố con hàng xóm thất thểu lê gót qua nhà hắn:

-Tao hận..hận..con đàn bà đốn mạt !

Hắn tỏ vẻ thông cảm hỏi :
-Sao lại ra nông nỗi này? Thôi,ông cứ ở đây , rồi ta tính !
Thì ra cô hàng xóm xinh tươi ấy,cặp kè, ôm ấp trai trẻ từ lâu rồi mà chồng không biết.Những lần cô ta mua mồi nhắm về chuốc cho chồng say bí tử, nằm bẹt không biết trời trăng mây gió gì là để dẫn trai về nhà… Cô ta cuỗm sạch tiền bạc, cầm cả sổ đỏ theo tình trẻ cả tuần nay,bố con gã hàng xóm có liên lạc được đâu !Hai bố con mì tôm, bún, bánh… cả tuần chả có hạt cơm nào vào bụng !

Vừa lúc đó vợ hắn đi chợ về, không cần kể lể vợ hắn đã hiểu chuyện an ủi:

-Thôi, chuyện gì cũng có pháp luật!Bố con bác cứ ở đây ăn Tết với nhà em cho có bạn có bầu, ra giêng ta nhờ đến cơ qua chức năng giải quyết!

Thì ra chuyện vợ xóm ngoại tình vợ hắn biết từ lâu, chỉ có hắn là vẫn ngưỡng mộ, mơ màng người đàn bà lẳng lơ ấy, còn đem so sánh người vợ Tào khang của mình với vợ hàng xóm nữa chứ!

Chưa bao giờ hắn thấy vợ đáng yêu thế:Trời ơi, gót chân bùn, nứt nẻ nhìn thấy thương vô cùng. Giọng nói cục mịch,gắt gỏng hắn lại thấy ấm áp , gần gũi.Làn da rám nắng,đen sạm hắn lại thấy khỏe mạnh,đáng yêu…Hắn nhìn vợ tủm tỉm cười, vợ hắn quát :

-Ông điên à, bạn như thế mà còn cười được.. đi dọn ngay cho bố con bác ấy cái giường ở gian lồi!Rồi cô ấy gọi con gái :

-Na, múc cho bác và em bát cháo gà, mẹ hầm trong nồi cơm điện ấy!

Chưa bao giờ hắn thấy yêu ba con bướm nhà đến thế !Hắn nghĩ trong ruột :Sau này hai con bướm trẻ bay đi theo lũ bướm đực , hắn sẽ yêu thương và chăm sóc con bướm già này đến đầu bạc răng long

Si Trang -
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu

Taberd75 (FB Victor Đoàn)


LGT: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…. Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….


Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.

Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.

Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.


Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.

Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị

Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….

Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.

Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:

– Ông bà từ đâu tới.

– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.

– Thưa ông bà tôi từ Texas.

Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.

– Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.

– Thưa ông tôi là người Việt Nam.

Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.

– Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.

Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.

Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.

Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.

Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.

Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.

Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.

Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.

Gặp lại nhau tôi lên tiếng:

– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này…

Ông ôn tồn giải thích:

– Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.


Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:

– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?

– Con trai tôi tên là Mikes Wright, tử trận ở Việt nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…

Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.

– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.

– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.


Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.

– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…

– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.

– Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.

Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:

– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mikes Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.

Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.

– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.

– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.


Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.

– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.

– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?

– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.

– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.

Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.

– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!

– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.

– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.

– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.

Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không.


Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.

Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:

– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.

Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.

– Đúng là chị tôi rồi.

Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.

Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.

– Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!

Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

Taberd75 (FB Victor Đoàn)
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image

Tưởng như dòng sông không trở lại
Nguyễn Công Khanh
28 tháng 2, 2022


Tôi rời Hà Nội năm 1954, khi tôi 18 tuổi. Có nhiều bài hát về Hà Nội khá hay, nhưng sau này tôi thường nghêu ngao bài Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng, vì bài hát có nhiều điểm phù hợp với tôi và trong đó có tên cả hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn. Hát lên hai chữ Hà Nội để lãng mạn tưởng tượng là mình có một người yêu thật sự đã bỏ lại ở thành phố cũ. Nhớ đến Sài Gòn, là nhớ cả một thời tuổi trẻ hoa mộng trong một thành phố mới.

“Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…

… Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui

Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…”


Kỷ niệm với Hà Nội là kỷ niệm của thời niên thiếu. Với Sài Gòn là lúc đi vào tuổi trưởng thành và thành phố này đã cho tôi hai kỷ niệm khi đến và khi đi khó quên. Kỷ niệm Sài Gòn đầu tiên của tôi liên quan đến nhà văn Mai Thảo. Những ngày mới di cư vào Nam, gia đình tôi cư ngụ tại con hẻm gần nhà thờ Huyện Sĩ. Hai đầu con hẻm nối với hai đường lớn, là đường Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.

Một anh bạn thân đã chỉ cho tôi một người có bóng dáng rất văn nhân, đó là Mai Thảo. Ông thường xuất hiện trong những buổi sáng ở đầu hẻm trên con đường có nhà in mà tôi được biết là ông đang chăm lo cho ra đời tác phẩm đầu tay của ông. Đó là cuốn Đêm Giã Từ Hà-Nội. Tôi đã phải lấy món tiền để dành nhỏ nhoi ra mua và nghĩ rằng nó sẽ là một kỷ niệm để đời cho mình. Tôi đọc truyện ngắn Đêm Giã Từ Hà-Nội nhiều lần, và đến nay vẫn còn nhớ mang máng câu “Tôi nhìn xuống nước sông Hồng đục ngầu như máu mà Hà nội đang ở dưới đó…”.



Tôi cũng rời Hà Nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn chở những người di cư qua cầu Long Biên trong buổi tối nửa đêm về sáng sang phi trường Gia Lâm để đáp máy bay vào Sài Gòn. Trời tờ mờ sáng, đèn vàng trên cầu mờ nhạt, nhịp xe đều đều dọc theo chiều dài của chiếc cầu, gió sông thổi vào trong xe làm mọi người se lạnh, nhưng lúc đó tôi lại thấy háo hức được ra đi và nghĩ rằng sẽ không quay lại thành phố này nữa. Tôi ngoái nhìn xuống dòng sông, nước phù sa cuồn cuộn đục ngầu và có cùng một ý nghĩ như Mai Thảo.

Kỷ niệm thứ hai là với dòng sông Sài Gòn. Như những câu chuyện tình, các nhà văn thường hay tả cảnh lần đầu hai người gặp nhau, và lần cuối họ chia tay nhau, nếu khung cảnh đó lại là một bến sông thì câu chuyện lãng mạn và lâm ly biết bao. Chuyện của tôi với sông Sài Gòn cũng gần như thế. Tôi đến với Sài Gòn năm 54 và rời Việt Nam năm 75 cũng từ bến sông Sài Gòn.

________

Nhớ lại từ hồi học lớp Nhì trường Lý Thường Kiệt ở phố Sinh Từ, Hà Nội, tôi là một tay bơi có hạng. Trung thu năm 1946, thành phố tổ chức một buổi tập trận trên hồ Hoàn Kiếm, giữa Nhi Đồng Cứu Quốc và Hướng Đạo. Hướng Đạo chiếm lĩnh Tháp Rùa, có những thuyền nhỏ chèo đi phá các cứ điểm của Nhi Đồng quanh hồ. Mỗi nhi đồng được lệnh chuẩn bị từng xâu vỏ bưởi cắt thành từng miếng vuông đeo bên người làm võ khí. Mỗi khi thuyền của Hướng Đạo xông vào là hàng loạt vỏ bưởi được ném ra túi bụi để đẩy lui thuyền ra xa.

Lần đó tôi được tuyển vào Đội Yết Kiêu để bơi ra “tái chiếm” Tháp Rùa. Khoảng cách bơi gần nhất là chỗ Khai Trí Tiến Đức. Sau tiếng hô của đội trưởng, tôi nhoài người ra hồ, tưởng là gần nhưng sao bơi mãi mới tới nơi. Khi đó thì toán đến trước đã đẩy lui được Hướng Đạo, và họ đã rút lui bằng thuyền. Tôi vạch bờ cỏ, lên đảo và đi xung quanh tháp, sau đó vào trong lòng tháp đứng nghỉ. Nhìn quanh không còn ai, đội của tôi xong nhiệm vụ đang bơi vào bờ. Còn một mình, tôi chợt nhớ đến cụ rùa Hoàn Kiếm đã lấy lại gươm thần của vua Lê Lợi mấy trăm năm trước. Phải chi cụ hiện lên trong lúc này, nói với mình một tiếng thì thú vị biết bao!

Hồi chiến tranh Việt-Pháp, gia đình tôi phiêu bạt hơn bốn năm trời trong vùng hậu phương trung du Bắc Việt. Tôi đã bơi qua nhiều con sông đào nhỏ, và có lần cùng bạn bơi qua ngang sông Đáy, gần ngả Vân Đình, để về trại tạm cư vì không muốn lội bộ quá xa để đến bến đò ngang. Sau này về Hà Nội, tôi lại thường bơi từ Petite Đồ Sơn ở Hồ Tây sang chùa Trấn Quốc, sang đình Nghi Tàm. Tại hồ Quảng Bá, tôi đã bơi ngang qua hồ sang đến gốc cây xoài phía bên kia.

Image
Ảnh: Eden Constantino/Unsplash
Sau mùa Hè di cư năm 1954 ngắn ngủi và bận rộn, tôi đổi sang trường Hồ Ngọc Cẩn, học lớp đệ Tam. Năm học mà thường được gọi là năm ăn chơi không phải bận rộn thi cử. Tôi cũng hay về thăm lại trường cũ Chu Văn An được đặt tạm tại khu nội trú của trường Petrus Ký, gặp lại được một số bạn cũ, và nhớ những người bạn đã ở lại. Các bạn tôi lúc đó ai cũng có xe đạp, nên sau giờ học là rủ nhau đạp xe đi khám phá thành phố mới. Cuối tuần chúng tôi đi xa hơn, mỗi người mang theo một ổ bánh mì thịt nguội hay cá hộp sardine, nước thì đựng trong bi-đông nhỏ của nhà binh. Cả bọn đạp xe qua cầu Bình Lợi đi thăm Thủ Đức, Lái Thiêu, suối Lồ Ồ. Có lần đi đến tận Biên Hòa và còng lưng đạp xe leo dốc thăm ngôi chùa trên núi Châu Thới.

Một hôm, đạp xe qua Khánh Hội, rồi vòng vào Kho 5, cả bọn dựng xe và ra bến sông Sài Gòn. Lúc đó thủy triều xuống, lòng sông thu lại, những đám cỏ dại bờ bên kia trông cũng khá xa. Sông Sài Gòn hồi đó còn nhỏ hẹp, không như bây giờ đã được khơi rộng ra nhiều lần. Một anh trong bọn nảy ra ý cùng bơi qua sông. Tôi nhìn xuống dòng sông, nước ngả màu xám, lóng lánh vết dầu loang, có ý hơi ngần ngại, nhưng cũng theo bạn ùa nhau nhảy xuống. Bơi được một quãng, ra đến giữa dòng, không ngờ nước chảy xiết, cả bọn bảo nhau cố bơi ngang và cứ để mặc cho trôi theo dòng. Nước đẩy chúng tôi quá xa, hơn cả hai trăm thước chỗ định đến. Trước khi bơi trở về, chúng tôi phải đi ngược lại gấp hai lần khoảng cách trên. Lên lại được bến Kho 5, thật là hú vía, cả bọn thấy mình thật là liều lĩnh, chắc là từ nay không anh nào còn dám đùa rỡn với con sông này nữa.

Sau này, mỗi kỳ hè về thăm gia đình, tôi lại có dịp bơi qua sông Hương từ chỗ bến đò trước trường Đồng Khánh với những người bạn ở Huế, nơi cha tôi đang làm việc. Nước sông Hương ngày đó trong xanh, hiền hòa lững lờ trôi, khác hẳn những con sông mà tôi đã lội qua.

Dòng sông cuối cùng tôi đã bơi qua là con sông Dương Đông ở đảo Phú Quốc, khi tôi được chuyển ra đó làm việc sau khi ra trường Hành Chánh và xong một khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế, Nha Trang, vào khoảng đầu thập niên 1960. Tôi ở đó gần ba năm, không nghĩ đến chuyện xin đổi đi nơi khác. Nhiều lần, một mình tôi bơi từ Dinh Cậu, nơi dòng sông chảy ra biển, sang bên kia cồn cát, nơi cái xóm nhỏ mới thành lập, mà tôi đã đặt tên là “xóm Bình Định” cho những người dân ngoài đó trốn chiến tranh đến đảo xin lập cư. Có lần tôi bơi ra ngoài xa, đến tận cái cột mốc để hướng dẫn thuyền vào cửa biển, khiến một lão ông lo sợ tôi có thể bị cá mập tấn công.
Image
Ảnh: pexels-anna-tarazevich

Hơn hai mươi năm sống với mưa nắng Sài Gòn, học hành, gầy dựng tương lai, tôi đã có những năm tháng thanh bình cũng như xáo trộn vì tình hình đất nước. Cuối cùng, một quyết định đau lòng là phải bỏ quê hương khi người anh em từ miền Bắc xông vào cưỡng chiếm miền Nam.

Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975, gia đình tôi và ông anh vợ là quân nhân chạy về ngôi nhà đường Trần Quý Cáp của bà chị lớn. Tôi biết lòng anh nóng như lửa vì vợ con đã rời khỏi Việt Nam từ mấy ngày hôm trước. Phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích, bất khiển dụng. Chúng tôi gần như tuyệt vọng nghĩ không tìm được đường nào thoát. Bỗng có điện thoại, anh nhấc lên nghe, rồi buông một câu ngắn gọn: Ra ngay bến Bạch Đằng, đi tàu hải quân! Chúng tôi ùa ra khỏi nhà và cùng nhảy lên xe jeep nhà binh của anh.

Tới nơi, một vòng kẽm gai đã chăng ngang đường tới tận bờ sông. Lính canh ngăn chặn đám đông bên ngoài đang cố tràn vào. Anh cho xe đậu sát bờ sông, bên kia là tượng Đức Trần Hưng Đạo, nơi có lính đứng kiểm soát. Nhìn thấy anh đeo lon trung tá, họ cho vào, nhưng ngăn gia đình chúng tôi lại vì là dân sự. Anh không nỡ bỏ đi, nói khó với mấy người lính rằng tôi là một quân nhân biệt phái, nhưng họ nói không dám vì sợ trái lệnh trên. Không muốn nhùng nhằng làm mất cơ hội cuối cùng đi tìm vợ con của anh, tôi bắt tay anh, hối thúc anh đi may mắn, còn gia đình tôi có thể trở về.

Đám đông ngoài hàng rào cản ngày càng đông, bỗng hàng tràng súng nổ phía sau tượng Trần Hưng Đạo, sau đó hàng tràng đạn bên trong hàng rào đáp lại, mọi người chạy tán loạn. Một toán lính dù đang định tiến vào nhưng bị cản lại, nhưng may là cả hai bên chỉ bắn chỉ thiên. Hai đứa con nhỏ nhất sợ hãi, khóc ầm ĩ. Chúng tôi nghĩ nếu còn ở đây dám bị đạn lạc và quyết định lái xe về. Tôi đề máy. Xe không nổ. Đề lần thứ hai, thứ ba, xe cũng không nổ.



Lính canh sợ hỗn loạn như vụ di tản miền Trung vừa qua, họ vội giăng thêm mấy lần kẽm gai rộng ra ngay đằng sau xe. Không biết tính sao, đi không được mà về cũng không xong. Súng bắn, con khóc như ri, cùng quá, tôi đành bước xuống xe, lại gần nói khó với anh trung sĩ đang giữ rào cản. Anh ta nói: “Ra xe, nổ máy, khi tôi mở rào thì phóng xe thật nhanh vào”. Tôi nghĩ xe đã không nổ máy, làm sao đây. Tuy vậy không còn cách nào hơn là trở lại xe. Vợ tôi đang cầu nguyện Trời Phật ông bà. Tôi yên lặng ngưng thở vài giây, vừa thì thầm khấn theo vừa thử đề máy xe, thì lạ thay, xe nổ máy, thế là gia đình tôi thoát vào được! Tuy vậy cũng còn phải trải qua nhiều gian nan vợ chồng tôi cùng năm đứa trẻ mới leo được lên chiếc chiến hạm cuối cùng đang nằm ụ chờ sửa chữa.
Image
Ảnh: pexels-spencer-lee

Hai giờ sáng, con tàu 502 có tên là Thị Nại rời bến Bason trên chở năm ngàn người. Khi tàu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống dòng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi nghĩ thầm nếu không tìm được Tự Do, chắc mình cũng không thể trở lại được con sông này. Trông lên đường Nguyễn Huệ, con phố không một bóng người, đèn đêm vàng bệch như màu da của người sắp chết.

Sáng 30, tàu đến được Côn Sơn, nơi tập trung của hạm đội. Qua radio, nghe tiếng tướng lãnh đầu hàng như một lời báo tử. Nhìn lại phía sau, Sài Gòn và cả miền Nam khuất dần cuối chân trời, như đang chìm sâu xuống biển. Đi chẳng được bao lâu, tàu chết máy, nằm chơi vơi giữa biển khơi, phải chờ một chiến hạm khác quay lại kéo. Vì là con tàu cuối cùng ì ạch chạy, phải vớt thêm một số ghe còn lại, nên tàu lại càng chật len người. Một trực thăng cố đuổi theo tàu tìm chỗ đậu, sau khi hạ xuống xong, lại phải tìm cách đẩy trực thăng xuống biển.

Ngoài ra còn một máy bay thám thính T28, trên có hai phi công, bay đến lượn sát quanh tàu nhiều vòng, nhưng làm sao đáp xuống được. Cuối cùng phải bay là sát xuống để cố đáp trên mặt biển, nhưng không ngờ máy bay bị lật úp văng một phi công ra ngoài. May nhờ toán người nhái bơi ra cứu được. Còn phi công khác đã chìm theo máy bay đi vào lòng biển… Ngày thứ tư Hạm Đội Mỹ mới đến giúp, tiếp tế thực phẩm và bơm thuốc phòng bệnh. Bảy ngày tàu mới tới được Subic Bay, Phi Luật Tân. Trước khi cặp bến, họ yêu cầu xóa bỏ hết các dấu hiệu của Việt Nam. Tên tàu Thị Nại 502 bị phủ một lớp sơn đen. Lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống. Mọi người trên tàu đứng lên hát Quốc ca, nước mắt nhạt nhòa. Tiếng hát theo gió tan trên biển như một bi hùng ca của những người thất trận.

Rồi chúng tôi được chuyển qua các trại tị nạn và vượt được Thái Bình Dương, đến được lục địa Mỹ Châu, trở thành công dân Mỹ, thành người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi lại đi xuyên qua lục địa Mỹ đến tận chân tượng Nữ Thần Tự Do phía bên kia bờ Đại Tây Dương, trèo vào trong lòng tượng và leo lên tới gần bó đuốc biểu tượng của Tự Do để chắc chắn là mình đã làm trọn lời nguyện khi đi qua tượng Đức Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng năm xưa.
Image
Ảnh: pexels-tuvictor

Chúng tôi trở lại Hà Nội sau 40 năm, vì mấy người em họ gọi về lo việc phần mộ. Rồi lại một lần nữa tái ngộ Sài Gòn khi con gái út muốn về lại quê hương Việt Nam để làm lễ thành hôn. Lớn lên trong xã hội Mỹ, con tôi đã làm chúng tôi ngạc nhiên là cô quyết định về Sài Gòn làm lễ cưới. Trong lòng chúng tôi rất ngần ngại nhưng cũng cảm động nghe con giải thích: Con sinh ra ở Việt Nam thì con cũng muốn bắt đầu cuộc hôn nhân của con ở Việt Nam. Và con cũng muốn giới thiệu với chồng con đất nước, phong tục Việt Nam.

Lễ cưới được cử hành trên một chiếc thuyền rồng, biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Con thuyền đưa khách từ bến Nhà Rồng đến Bình Quới Resort. Hôm đó, trong lời chào mừng quan khách, tôi có dịp nhắc lại chuyện xưa:

“Chúng ta đang đi trên sông Sài Gòn, dòng sông lịch sử này đã nhắc lại cho gia đình tôi những kỷ niệm không thể quên. Nhiều năm trước, trong đêm cuối cùng trước khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi cũng thoát được từ một bến không xa nơi này, trên một chiến hạm hư hỏng cũng trôi trên con sông này. Chúng tôi đã phải rời bỏ quê hương, không biết nơi đến và cũng không biết tương lai ra sao…”. Nhiều bạn ngoại quốc đã lau nước mắt và lên chia sẻ với cô dâu về sự bất ngờ họ được biết về một khúc quanh lịch sử của chiến tranh Việt Nam và lý do tại sao gia đình cô lại sống nơi hải ngoại.

Những ngày ở Sài Gòn, tôi có dịp đưa các con đến chỗ mà phép lạ đã cứu chúng tôi khỏi cơn đại nạn. Nếu không thoát, tôi sẽ bị những người anh em thù nghịch đưa đi cải tạo tù đày điêu đứng. Và là con của “ngụy”, các con tôi sẽ không tránh được cảnh sống khốn cùng. Dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi đã kể lại cho các con nghe chuyện buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975 và tôi cũng nhắc đến sự giúp đỡ của những người chúng tôi không bao giờ quên, như anh Trung sĩ bộ binh đã mở rào cản cho gia đình tôi, rồi Trung úy Hải quân Hùng giúp chở chúng tôi ra tận tàu; Trung úy người nhái Trịnh Công Hiển, người em nuôi đạo đức đã theo giúp săn sóc con cái chúng tôi suốt cuộc hành trình; Trung tá Hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh; Trung tá Hải quân Phan Lạc Tiếp; Thủy thủ đoàn Tân Lập và toán người nhái của chiến hạm Thị Nại 502 đã cùng điều động con tàu hư hỏng đến bến tự do. Và trên hết, anh nhà tôi là Trung tá Đặng Bá Cảnh đã mở đường cho chúng tôi khi tình thế trở nên tuyệt vọng nhất.

Xin Thượng Đế phù hộ cho họ.

Sài Gòn đã đổi mới rất nhanh. Đi xa quá lâu, về lần nào cũng thấy xa lạ, ô nhiễm và bất an. Lần vừa rồi, chúng tôi ở lại Sài Gòn hơn một tháng. Trước ngày trở lại Mỹ, hai vợ chồng tôi đi dọc đường Tự Do, sang đường ra bến Bạch Đằng. Tôi nhớ lại hơn nửa thế kỷ trước, gần tám trăm ngàn đồng bào từ miền Bắc đã cặp bến này đi tìm tự do, nay không còn một dấu tích nào để lại. Cũng tại nơi này bao nhiêu năm trước đây, gia đình tôi đã bỏ lại chiếc xe bên đường và nhờ sự tình cờ như một phép lạ mà đến được miền đất hứa.

Chúng tôi đi ngược lên, đến dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, cố tìm lại chỗ của chiếc xe năm xưa. Ở đây họ đã xây một công viên nhỏ. Lúc quay về chỗ ngã ba để tìm cách sang đường Tự Do thì đúng vào giờ tan sở, xe chạy hai chiều không ngớt. Đường thì rộng, không đèn giao thông, cũng không có lằn sơn dành cho bộ hành, chần chừ mãi không dám qua. Chợt nghe thấy tiếng chuyện trò vui vẻ của mấy cô gái, chúng tôi quay lại thì các cô tươi cười “Hai bác theo chúng cháu” và không đợi trả lời, hai cô đã nắm tay chúng tôi dẫn qua đường. Sang đến nơi chưa kịp nghe lời cám ơn, các cô đã vội rảo bước ríu rít đi. Tôi bỗng nhiên thấy trong cái xa lạ, trong sự bất an, trong cái vô cảm của cuộc sống hối hả, vẫn còn cái thiện căn bản trong sáng của những người trẻ Việt Nam.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 2 guests