Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Khánh Trường, ám ảnh bất toàn trong văn chương và đời sống

Du Tử Lê

Image
Nếu phải chọn một nhà văn tiêu biểu cho trường hợp hay, hiện tượng phức tạp, mâu thuẫn, trong sinh hoạt văn học nghệ thuật của người Việt hải ngoại hơn một phần tư thế kỷ qua, tôi sẽ chọn Khánh Trường. Nguyễn Khánh Trường.

Tôi chọn Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường không phải vì ông là họa sĩ, cùng lúc nhà văn, cùng lúc nhà thơ và cùng lúc nhà báo.

Nơi quảng trường sinh hoạt văn nghệ của chúng ta trong nước, cũng như hải ngoại, không chỉ có một Khánh Trường vừa vẽ, vừa làm thơ, viết văn, lại còn làm báo nữa. Chúng ta có khá nhiều nghệ sĩ, ở trường hợp này. Ðó là những lãnh vực tự nó có những mối tương quan liền lạc hữu cơ.

Tôi chọn Khánh Trường có dễ bởi Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường tiêu biểu cho ý niệm khá buồn thảm: Người là con vật bị ngộ nhận.

Ý niệm ấy không mới mẻ gì!

Không phải đợi tới lúc chúng ta có một Albert Camus với những tác phẩm đào xới chủ đề “con người là một con vật bị ngộ nhận,” một cách trầm thống, lúc đó vấn nạn ngộ nhận mới được đặt ra trong sinh hoạt tri thức của con người.

Ðọc lại những tác phẩm cổ điển; nhớ lại những bi kịch trong thần thoại cổ Hy Lạp, trong văn chương Shakespeare, luôn cả những tác phẩm gần gũi chúng ta hơn như Ðoạn Trường Tân Thanh, như Cung Oán Ngâm Khúc... dù với ít, nhiều cường điệu, hầu hết các nhân vật trong những tác phẩm này cũng chỉ như những con vật rẫy rụa tuyệt vọng trong lưới nhện của định mệnh.

Họ bị thảm kịch đánh bẫy và trở thành con tin hớn hở (hay tội nghiệp?) trong bầu khí thảm kịch đó.

Với tôi, Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường không chỉ tiêu biểu cho trường hợp con người là con vật bị ngộ nhận, bị đánh bẫy, mà Khánh Trường tự thân còn là nạn nhân hay con vật của chiếc lưới tuyệt vọng do chính ông giăng lấy cho mình.

Với tôi, sự rẫy rụa của Khánh Trường từ hình tượng, mầu sắc, tới chữ, nghĩa là hệ quả đương nhiên của chủ tâm đánh tháo khỏi vòng tay định mệnh. Ðơn giản, ta có thể coi đó như nỗ lực tuyệt vọng trong kiếm tìm hoàn hảo họ Nguyễn.

Khánh Trường chủ biên tạp chí Hợp Lưu sau 12 năm tồn tại liên lụy, như một phép lạ, và cùng lúc cũng là thảm kịch dài đẵng; cuộc chơi trập trùng ngộ nhận, tôi nghĩ, nó tựa khuôn mặt khác của mâu thuẫn hay một trong những cách thế kiếm tìm hoàn hảo của ông?

Tám năm trước, khi trả lời một cuộc phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, phát biểu về Hợp Lưu, tại sao? Người chủ biên dài lâu nhất một tạp chí chí ít cũng đến ngày hôm nay, cho biết:

“Ngày nay, sau mười mấy năm chiến tranh đã kết thúc, quốc gia đã độc lập, vấn nạn bức thiết nhất là làm thế nào đưa đất nước ra khỏi cảnh u tối, lạc hậu, nghèo đói, độc tài, chuyên chế. Muốn giải quyết vấn nạn này, trước tiên phải đưa dân tộc trở về với ‘đại khối.’ Tùy tâm cơ, hoàn cảnh, sở thích, mỗi người mỗi cách. Tôi yêu văn nghệ, vì vậy tôi chọn văn nghệ như phương tiện để góp phần thực hiện ước mơ kia. Ước mơ xóa bỏ những vĩ tuyến 17 trong lòng mỗi người Việt Nam. Ước mơ hợp lưu mọi tinh hoa của giống nòi, không phân biệt vị trí quá khứ. Nói theo ngôn ngữ Tạ Duy Anh: ‘Phải bước qua lời nguyền.’ Cái lời nguyền hình thành trong não trạng mỗi chúng ta khởi từ thảm kịch qua phân Nam Bắc. Nói gọn lại, phải ý thức rằng chúng ta không chừa ai, đều là nạn nhân của một giai đoạn lịch sử. Nếu chưa đủ tỉnh táo và can đảm vượt thoát khỏi thân phận nạn nhân thì mãi mãi chúng ta sẽ còn trầm luân trong vũng lầy thù hận. Vô lý, vô nghĩa và bất nhân. Bất nhân với chính bản thân đã đành, còn bất nhân với lịch sử nữa.”

Có dễ, cũng vì tấm lòng chân thật (tới ngây thơ,) thiết tha (tới ngông cuồng) qua bút hiệu Kim Thi trong mục “Ngày Tháng,” con người làm báo trong Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường, đã không ngớt gióng giả những hồi chuông lai tỉnh chân diện mục: Nhân ái. Nguyễn đã gặt hái được một cách dư thừa những “vụ mùa trái độc.”

Những tưởng những vụ mùa bất ưng, những ngày gió chướng sẽ quật Khánh Trường ngã xuống, tênh hênh trên những trang chữ nồng nàn của ông; và sự ra đi hay rút lui của những đồng hành từ điểm khởi, là những dự báo bất thường thời tiết; có khả năng nhắc nhở, khuyến cáo ông. Vậy mà Khánh Trường vẫn bước tới. Như sự bước tới (một cách ương ngạnh) thách đố định mệnh.

Ngộ nhận, nếu đó là cây bài thủ mệnh của người đàn ông mang tên Khánh Trường thì nó không chỉ chi phối phần đời làm báo của Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường. Nó còn giẫm đôi chân tàn khốc lên những khối mầu, những hình thể của một Khánh Trường, họa sĩ nữa.

Phát biểu suy nghĩ của mình về hội họa cũng trong cuộc phỏng vấn vừa kể, Khánh Trường nói:

“Một bất hạnh (cũng có thể may mắn?) - tôi không xuất thân từ bất cứ trường ốc nào. Thuở nhỏ mê vẽ, chưa kịp học vẽ, đã phải khoác lên người bộ quân phục. Giải ngũ không bao lâu thì biến cố 1975 ập tới, cơm áo lao đao, thê nhi lận đận, tuổi lại chẳng còn trẻ trung chi mấy, muốn học, cũng đã muộn màng. Trong một buổi nói chuyện với vài anh em trong ban chủ trương tờ Thiện Chí bên Ðức, tôi có tâm sự: Tôi biết vẽ từ khi biết cầm... các cái: Than củi, mảnh gạch, ngói vỡ (trên các bức tường quết vôi trắng,) rồi bút chì, bút rông, bút lá tre (trên tập vở học trò...). Rồi mầu nước, bột màu, sơn dầu (trên giấy, vải, bố...). Từ ấy đến nay, hơn một phần ba thế kỷ tìm tòi, đọc, tập luyện, thể nghiệm hết sức cam go. Con đường từ A qua B, nếu có người hướng dẫn, chỉ mất nửa giờ đến đích. Tôi đi một mình, lại không có bản đồ, có khi lòng vòng mất cả ngày. Tuy nhiên, trong cái khó ló cái khôn. Nhờ khổ công tìm kiếm, tôi khá vững về hình họa (nhiều họa sĩ Việt Nam dù xuất thân trường ốc đàng hoàng, muốn vẽ một bàn tay, một khuôn mặt, một đồ vật ‘đâu ra đó,’ vẽ không xong. Những vị này lúc còn học trong trường thường ‘khinh bỉ’ hình họa. Họ muốn đi tắt, đi nhanh nên chỉ thích bôi màu xanh đỏ tím vàng đầy khung bố, đợi ráo mặt, đổ xăng đổ dầu lên cho co cụm nhăn nhúm lại để tạo ‘chất.’ Xong lật ngang lật dọc, thêm, bớt chút đỉnh cốt hơi hơi giống cái gì đó, rồi đặt một cái nhan đề thật ‘nổ,’ thật ‘bí hiểm,’ và gọi đó là tranh siêu thực.”

Những người theo dõi khít khao bước đường tạo hình của Nguyễn, sẽ không khỏi ngạc nhiên, khi thấy những tương phản, đối chọi gay gắt. Từ những bức sơn dầu khỏa thân mà hai mầu chính được dùng ở thể gần như nguyên trạng là đỏ và xanh, Khánh Trường bước qua mầu tối là sự trộn lẫn giữa hai mầu nguyên thủy đen và trắng thể hiện hình ảnh những người đàn ông lẻ loi, cuối đường. Những thiếu nữ và trăng xám. Những mẹ, con và biển tối...

Lại có thời gian người xem chỉ thấy trên canvas của Khánh Trường những hình khối, chơ vơ, lạc lõng. Như sự vỡ bùng của tâm thức bị quá tải số lượng thuốc nổ hư vô...

Con người lạc lõng (hay hư vô lạc lõng?) Tất cả cũng chỉ là một mặt nào đó của nỗ lực đi tìm hoàn hảo để suốt cuộc trường chinh tìm kiếm (hoặc trốn chạy) kia, Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường chỉ có thể có được cho mình sự bất toàn. Tựa bất toàn, diện mạo song sinh với ngộ nhận tự thân.

Nếu ở mặt báo chí, mặt hội họa, ám ảnh bất-toàn-chia-nửa-phần-đời-hoàn-hảo còn có lúc được giảm khinh, che mờ bởi những đám mây mang nặng những cơn mưa bập bềnh cảm hứng, hay sự nới tay, độ lượng bất ngờ của vô thức, thì trong cõi văn xuôi Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường mối ám ảnh bất toàn, đứa con song sinh của ngộ nhận, lại thường trực hiện diện như kẻ dẫn đường (chết giẫm,) trong sự cần mẫn quá độ của chính hắn.

Ngay từ truyện ngắn (tùy bút ký sự?) đầu tay của Khánh Trường, đăng trên tuần báo Khởi Hành những năm đầu thập niên 70, kể chuyện hai anh em ruột ở chung một đại đội, tham gia chiến dịch Lam Sơn, 719, khi người anh tử thương, người em dùng con dao đi rừng vừa khóc vừa chặt đầu anh bỏ vào bao mặt nạ chống hơi độc, mang về cho mẹ... Thì, theo tôi, ngộ nhận đã sớm rôm rả cất tiếng.

Dù là chuyện thật mà Khánh Trường chứng kiến từ đầu, trở thành ám ảnh chai, chết trong tâm trí ông; nhưng khi câu chuyện được phổ biến, ngộ nhận đã cùng lúc đến với tác giả. Như chiếc bóng đeo quẩn gót chân.

Tôi không có khả năng lý giải về một tương quan định mệnh nào đó, giữa dòng chữ đầu tiên và những dòng chữ kế tiếp trải trên mặt phẳng thời gian đằng đẵng, một đời nhà văn. Nhưng điều tôi nhận ra, điều tôi tìm thấy: Tuồng trong khá nhiều truyện ngắn (hoặc dài) của Khánh Trường, nếu nhân vật không bất toàn thể chất thì cũng bất toàn tâm lý. Sự bất toàn thân, tâm đó như phản diện (hay phản biện) của nỗ lực đi tìm toàn hảo, hành trình soi sáng ngộ nhận.

Một trong những truyện ngắn mới của Khánh Trường, truyện “Những Vòng Tròn Không Ðồng Tâm” in trong tập “Chung Cuộc,” tôi tình cờ chạm mặt nhân vật nam tên Huân với đôi chân tật nguyền, được nhân vật nữ tên Quỳnh Thư, chọn trao gửi tình yêu thời con gái. Nhưng sự bất toàn của Huân lại là nhát dao chém xuống khuôn mặt tình yêu của Quỳnh Thư. Tựa bất hạnh vốn chiếm giữ nửa phần chân dung hạnh phúc. Tựa bất toàn vừa là chính diện tình yêu Quỳnh Thư, vừa là phản diện của ngộ nhận: Ðịnh mệnh bất phân ly. Quà tặng tai ương cho mỗi sinh vật, mang tên con người.

Tôi không biết Quỳnh Thư hay Khánh Trường, ai đã chia nửa phần hạnh phúc của nhân vật, tác giả khi viết:

“Tôi vẫn là tôi của những năm mười tám, hai mươi, vẫn muốn đi tìm sự hoàn hảo ở một người đàn ông. Hoàn hảo ở cả thể xác lẫn tâm hồn. Tôi biết, sẽ chẳng bao tôi tìm ra mẫu người lý tưởng đó.” (Những Vòng Tròn Không Ðồng Tâm, trang 131.)

Người đàn ông được nhân vật Quỳnh Thư kiếm tìm đó, tôi nghĩ có dễ cũng là người đàn ông hay một con người nói chung, mà Khánh Trường hằng săn đuổi. Một con người không thật. Một con người không hiện diện. Hoặc giả nếu có, theo tôi, con người ấy, cũng chỉ có thể sinh thành từ bào thai ngộ nhận.

Tôi muốn gọi ngộ nhận trong văn chương Khánh Trường/Nguyễn Khánh Trường là ngộ nhận khép.

Tôi muốn chỉ danh nó là mâu thuẫn nội tại. Và Nguyễn Khánh Trường là hiện thân của mâu thuẫn bình phương.

Những tảng mầu, khối chưa một lần thỏa mãn nhu cầu kiếm tìm hoàn hảo, nơi ông. Những dòng thơ sốc nổi hay sâu lắng chưa một lần mang lại cho Khánh Trường nụ cười. Những trang giấy được lấp đầy bởi những con chữ nóng rẫy, rát bỏng lương hảo của một gã giang hồ, phiêu bạt (thứ thiệt) của Khánh Trường chưa một lần, hắt trả lại cho ông niềm vui dù khiêm tốn, liu điu.

Thì thôi, hãy để ông “tự do phơi phới” như thơ Mai Thảo, với những vết chàm, mà định mệnh đã đánh dấu trên thân, tâm chàng.

Du Tử Lê
Tháng 9, 2001
Ghi chú:
* Bài viết được hiệu đính năm 2010
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »


Image

Hà Nội, Và Hoàng Anh Tuấn, Và…

Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội
Sáng nay San Jose mưa. Mưa nhỏ thôi. Những ngày đầu tháng Mười, mùa Thu miền Bắc Cali không lạnh. Một người bạn quen từ Quận Cam vừa gửi tặng tôi một CD trong đó có ca khúc Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội. Đây là một bài hát khi mới ra đời, ban hợp ca Thăng Long đã mang đến cho người nghe nhiều ấn tượng. Bài hát đã lâu tôi không nghe. Nhưng lời của ca khúc tôi vẫn nhớ là do Hoàng Anh Tuấn viết cho nhạc của Phạm Đình Chương. Chúng tôi vẫn gọi anh là thi sĩ của Hà Nội. Hà Nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc/ Mấy chục năm, xa đến mấy nghìn năm. Đó là hai câu thơ đã ở lại rất lâu trong tôi.

Tôi nhớ lần cuối gặp anh năm 2006 trong nhà dưỡng lão Mission De La Casa ở San Jose. Hôm đó, anh ngồi xe lăn, cười hỏi tôi. “Đi đâu?” “Thì đi thăm anh, chứ đi đâu!” “Này cậu, thế mà đã hai mươi năm rồi đấy!” Hoàng AnhTuấn không nhớ những lần gặp nhau gần đây, trước ngày anh vào Viện Dưỡng Lão, mà chỉ nhớ chuyện của 20 năm trước, những ngày Đà Lạt , Sài Gòn... Đúng, năm 1986 tôi gặp anh ở Virginia khi vừa đặt chân xuống vùng đất tự do. Hôm đó, uống chưa hết ly rượu, tôi đọc lại hai câu thơ trên và trêu anh:

“Trời ơi, tại sao yêu mà yêu muốn khóc là thế nào?” Hồi đó anh chỉ cười, không trả lời. Bây giờ chính anh nhắc lại, và nói, “Nghe đây, yêu mà không lấy được thì khóc chứ sao? Cậu vớ vẩn bỏ mẹ!” Và chúng tôi đã cười với nhau.

Tôi vớ vẩn thật, đi thăm một người nằm trong nhà dưỡng lão mà trêu chọc, y như ngày ngồi bên anh trong một quán ăn ở Virginia giữa những chai bia. Cái chất gì của Hà Nội khiến anh yêu mê thành phố ấy đến thế? Tôi không biết. Nhưng tôi biết một điều: nhắc đến Hoàng Anh Tuấn là nhắc đến Hà Nội và nhắc đến Hà Nội cũng là nhắc đến Hoàng Anh Tuấn.

Mặc dù, năm 1949, mới 17 tuổi, Hoàng Anh Tuấn đã rời Hà Nội đi Pháp du học. Paris, Sài Gòn, Dalat, rồi lại Paris, Virginia, San Jose … và bao thành phố khác. Chưa một lần trở lại Hà Nội, thế nhưng, Hà Nội lúc nào cũng nguyên vẹn trong anh. Hà Nội tràn ngập trong những trang chữ của anh. Như thể sau năm 1949, ngày anh bỏ Hà Nội ra đi cho đến năm mươi năm sau, Hà Nội vẫn còn đập nhịp trong trái tim anh.

Tôi kiếm hồn tôi xưa Hà Nội
Thuở còn trong vắt gió vào Thu
Thoảng nghe ngọt tiếng cô hàng cốm
Chênh vênh đâu cuối phố Sinh Từ


Xa Hà Nội, Hoàng Anh Tuấn mang theo Ga Hàng Cỏ những sáng sớm ngái ngủ, Hồ Tây những buổi chiều tà, mang theo Hàng Đường, Hàng Gai, mang theo năm cửa ô… Anh không bứt được Hà Nội ra khỏi ký ức mình, không thể quên được những “hoa sấu lẳng lơ” (mà hoa sấu sao lại lẳng lơ nhỉ?) … Trong văn học Việt Nam, có lẽ không một thi sĩ nào dành cho thơ nhiều Hà Nội như Hoàng Anh Tuấn.

Khi Mai Thảo viết Đêm Giã Từ Hà Nội, anh đã chia tay Hà Nội thật sự. Rồi Tháng Giêng Cỏ Non, Để Tưởng Nhớ Mùi Hương, Mười Đêm Ngà Ngọc… và sau cùng với Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, Hà Nội có vẻ như đã ra khỏi anh.

Khi Thanh Tâm Tuyền viết Bếp Lửa sau ngày vào Nam, rồi Tôi Không Còn Cô Độc, Một Chủ Nhật Khác, có lẽ Hà Nội vẫn còn trong Thanh Tâm Tuyền, nhưng những trang chữ của anh không còn tắm đẫm mùi hương Hà Nội nữa.

Còn ai Hà Nội hơn Nguyên Sa, vậy mà thơ anh tràn ngập Paris, tràn ngập chất sống phương Tây, tắm đẫm hơi thở thời hiện đại hơn là quá khứ. Chỉ có Hoàng Anh Tuấn vẫn chung thủy với thành phố của anh.

Em Hà Nội, Hàng Đường trong giọng nói
Để Hàng Bông êm ái lót cơn mơ
Thương những buổi chiều Bác Cổ ngày xưa
Anh nắn nót một trường thi lãng mạn
…..

Hàng Vôi đó nồng nàn trong ngây ngất
Ý Hàng Đào chín mộng trái môi chia
Xin Hàng Than rực cháy lửa đam mê
Khi quấn quít trong ái ân Hà Nội
(Bài thơ Hà Nội)

Hoặc

Hà Nội yêu xin cầm tay lần nữa
Một lần thôi cho vừa đủ hai lần
Thêm ngày xưa hạnh phúc rất thiên thần
Anh chết lặng trong tình yêu công chúa


Cho đến tận khi sắp xa lìa ‘cõi tạm’, Hà Nội vẫn là nỗi day dứt không nguôi trong anh. Xin được trích một đoản thi buồn của anh trong những ngày cuối đời:

Hà Nội anh giờ là giấc chiêm bao
Cùng thơ ấu đã già đi trăm tuổi
Buổi sáng nay tâm hồn nghe thơ dại
Một thoáng vui chợt tới chợt bay đi
Rồi nỗi buồn như lũ mọt ngu si
Gậm nhấm nốt nửa linh hồn rữa mục
.

Bây giờ ngồi đây, trong căn phòng nhỏ của mình, giữa mùa thu San Jose, nghe lại Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội cũng chỉ là nghe lại một kỷ niệm:

Mưa hoàng hôn
Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
Thoảng hương tóc em ngày qua
Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà…


Vũ Ngọc Phan, trong “Hồi Ký Những Năm Tháng Ấy” viết:

“Những người đã ở Hà Nội đến ba, bốn, năm đời, khi đi xa Hà Nội mà nhớ Hà Nội là thường tình, nhưng có người chỉ mới ở Hà Nội được một vài năm, có khi chỉ được mấy tháng, mà khi ra đi vẫn cứ nhớ cảnh, nhớ người, có thể là nhớ người hơn cả, thì đủ thấy Hà Nội có sức quyến rũ thật.”

Có lẽ ông nói đúng, khi nghe ca khúc Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội của Trần Quang Lộc người ta đâu biết nhạc sĩ là người Quảng Trị. Nếu những người con của Hà Nội như Trọng Đài mô tả một Hà Nội Đêm Trở Gió với Cành me thì thầm gục đầu vào dĩ vãng, với Cô đơn sấu rụng ngoài ngõ vắng thì nhạc sĩ Trịnh, người con của cố đô Huế cũng dâng tặng Hà nội một ca khúc đầy hình ảnh và xúc cảm:

Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ,
nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu .
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội,
mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió,
mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ,
cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua .

Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi .
Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời.
(Nhớ Mùa Thu Hà Nội. Trịnh Công Sơn)


Hà Nội giờ đây có còn nguyên vẹn như những gì Hoàng Anh Tuấn, Mai Thảo, Trịnh Công Sơn … đã nhìn thấy không? Hà Nội ngày xưa đó có sẽ chỉ còn là một hoài niệm trong lòng những người nhớ thương nó không? Tôi nhớ những câu thơ của Phan Vũ mà tôi đọc cách đây không lâu

Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em năm cửa ô
Năm cửa gió
Cơn bão thường niên qua đó
Ba mươi sáu phố,
Bao nhiêu mảnh vỡ?

Ta còn em một màu xanh thời gian.
Một màu xám hư vô,
Chợt nhòe,
Chợt hiện.
Chợt lung linh ngọn nến,
Chợt mong manh
Một dáng,
Một hình,
Nhợt nhạt vàng son,
Đậm đầy cay đắng…


Sao chỉ sống một thời với Hà Nội thôi mà ông viết nên một Hà Nội phố thật đến thế, sâu đến thế, và buồn đến thế? Điều gì đã đưa chân ông trong những chiều lang thang trên các con phố xưa, tìm lại cái hồn sâu lắng còn quanh quất đâu đây của Hà Nội, miên man nghĩ, miên man nhớ đến độ: “bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi con đường”.

Thơ, nhạc về Hà Nội dường như thời nào cũng đầy cảm xúc, nhưng sao vẫn thấy chất chứa nhiều nỗi nhớ quá, nhiều day dứt quá, nhiều hoài niệm quá… Và tôi tự hỏi giờ đây nếu Hoàng Anh Tuấn có một lần trở lại Hà Nội, liệu những bài thơ của anh về Hà Nội có còn mang vẻ đẹp như anh vẫn say mê làm cho đến tận ngày giã từ cuộc sống không? Hay kỷ niệm nào về những ngày xưa cũng đẹp, hay kỷ niệm thật ra chỉ đẹp khi đã là chuyện ngày xưa?

Nhớ Hoàng Anh Tuấn, mà tôi đã tản mạn đủ chuyện trên trời dưới đất. Cũng chỉ vì một thành phố trong thơ ông: Hà Nội. [NXH]
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

CHUYỆN MỘT NGƯỜI BẠN HỌC

Phạm Tín An Ninh


Trước khi vào đệ tam Võ Tánh, hai thằng cùng học một lớp bên trường Văn Hóa. Năm đệ ngũ, niên học khai giảng hơn hai tuần thì cô Hương, giám thị, dẫn một người vào lớp. Mới đầu, từ cô Tùng Linh, giáo sư hướng dẫn, đến học trò, không ai nghĩ là anh ta sẽ là học sinh vào lớp đệ ngũ này. Người cao lớn, vạm vỡ, đẹp trai, mái tóc bồng bềnh, mặc một cái áo sơ mi sọc đậm, ngắn tay, xăn cao, quần sans-pli bó ống với cái nịt to bản và đôi giày da bóng đi kêu lộp cộp. Lại còn cái kính đen dắt trên dây nịt nữa chứ. Một cuốn tập cuốn tròn trong túi sau.

Cả lớp tròn mắt ngạc nhiên khi nghe cô Hương, giới thiệu anh ta là học trò mới, từ xa đến.
Cái tên nghe cũng lạ: Lâm Ni.
(Sau này mới biết anh ta gốc Tàu Chợ Lớn, cha Tàu mẹ Việt. Gia đình giàu có. Cha anh làm chủ một công ty xuất nhập cảng. Vì không kiểm soát được anh, nên gởi anh ra Nha Trang ở với ông cậu, là chỉ huy phó quân trường Đồng Đế. Ba má anh tin tưởng ông cậu nhà binh này sẽ đưa thằng con cưng của mình đi vào nề nếp. Cùng với không khí mát mẻ, hiền hòa của thành phố biển này sẽ làm nó hiền lành ngoan ngoãn hơn).

Cô Tùng Linh chỉ cho Lâm Ni vào ngồi chung bàn với tôi ở phía sau. Anh chào tôi bằng cái rờ đầu rất kẻ cả. Tuần đầu anh im lặng, ít nói chuyện với ai. Mà có lẽ cũng chẳng có ai muốn làm quen với anh ta, ngoại trừ Trần Bá Hòa, người vui tính mà nghịch ngợm nhất lớp. Nhưng chỉ một tuần lễ sau là không khí cả lớp thay đổi hẳn. Mấy nàng nữ sinh ngồi phía trước liên tục bị bắn giây thun từ phía sau lưng, thi nhau quay ra phía bàn tôi chửi rủa. Có lần cô Linh đang viết trên bảng đen bị lạc đạn, cả lớp phải nín thở. Một lần khi thầy Nguyễn Đức Nhơn đang gọi điểm danh, thình lình cả lớp như chợ vỡ, khi mấy người đẹp phát hiện một đám chuột con đỏ hỏn nằm dưới hộc bàn. Ai cũng biết tôi là thằng gốc nhà quê, hiền lành. Nhưng vì ngồi chung bàn với Lâm Ni nên "có chửi cùng chia, có cười cùng hưởng". Nói vậy chứ chưa có bà chị nào quay xuống bàn tôi để nở nửa nụ cười, mà chỉ toàn là những cái liếc sắc như dao, và tiếng rủa lùng bùng trong miệng chưa kịp phát ra thành tiếng. Tôi bực mình anh ta nhưng không dám phản ứng.

Có lần tôi nhìn anh ta tỏ ra bực dọc, tôi liền bị một cái cú đầu. Dưới mắt anh, lúc nào tôi cũng là thằng nhóc con. Nghĩ thân phận nhược tiểu nên tôi đành im lặng chịu đựng bên cạnh một đại cường. Nhưng tới một ngày, chiến tranh cũng phải bùng nổ, khi anh ta mượn rồi làm mất luôn cuốn vở "kiểu mẫu" (mà sau khi ở trường về tôi phải ngồi hằng giờ cặm cụii viết lại, uốn nắn từng chữ bằng nhiều thứ màu mực), tôi đã ném vào người anh tất cả mấy cuốn sách mà tôi có trong tay, giữa đám học trò trong lớp. Kỳ lạ, lần này anh lại cười hiền khô, ôm tôi và bảo "xin lỗi toa nghe! " Đã thế ngày hôm sau anh còn mang cho tôi một bịch mấy trái thanh long. Từ hôm đó hai thằng xích lại gần nhau hơn một chút.

Cả trường biết anh, và có lẽ chẳng có ai ưa anh - tôi đoán thế - vì anh chạy một chiếc xe gắn máy hiệu Gobel màu đen mới toanh, trên bình xăng có vẽ hình con ó xòe đôi cánh, cái ghi-đông thật dài, ống pô được tháo bỏ phần hãm thanh nên nổ inh ỏi. Nghe nói tối nào anh cũng đi học võ ở võ đường của thầy Trọng Đãi. Có lần chính anh kể với đám tụi tôi, anh vào Judo Club để học lấy đai đen thì lại gặp thầy Trần Thanh Lý, dạy toán, cũng đang học trong đó, anh bèn rút lui. Khi ấy thầy Lý còn trẻ, nhưng anh nể thầy lắm. Mặc dù thầy Lý chưa hề phạt anh, bởi trong tất cả các môn học, môn toán và anh văn là anh giỏi nhất. Có lần thầy Lý còn gọi đùa anh là Lâm Bưu. Lúc ấy nhiều thằng trong đám tụi tôi chưa biết Lâm Bưu là gã trời đất nào, cũng cười theo. Nghe Lâm Ni kể là ông già của anh ta có cái mũi rất thính trong thương trường. Ông tin chắc là Mỹ thế nào cũng đổ quân vào Việt nam, nên mướn thầy dạy kèm anh văn cho con mình từ năm Lâm Ni mới vào đệ thất. Còn toán là nhờ cái thông minh và lanh lợi mà trời đã ban cho anh ta để bù vào mấy cái tật khác.

Lâu lâu, bọn tôi nghe Trần Bá Hòa thông báo là Lâm Ni hẹn đấu "pạc-co" với băng Lò Heo, băng thằng Điền, hay băng thằng Liên nào đó ở Xóm Mới. Mấy lần đám tụi tôi cũng tò mò theo Trần Bá Hòa đi xem, mới biết Lâm Ni võ nghệ cao cường mà còn có tinh thần võ sĩ đạo kiểu Nhật Bản nữa. Lúc nào cũng nhường cho đối thủ tấn công trước, và khi đối thủ ngã xuống, anh không thèm tấn công, mà còn đỡ đứng dậy. Trong khi những tay này đã từng chơi xấu anh sát ván bao lần trước.

Anh ở nhà ông cậu ruột, một biệt thự trên đường Yersin, nhưng bạn bè thường thấy anh chở đào chạy vòng vòng ngoài đường Duy Tân, bờ biển. Có khi còn thấy chiếc xe Gobel của anh dựng cả ngày trước Bar Thu Thủy ở đường HoàngTử Cảnh.

Sang năm đệ tứ, không hiểu là vì mọi người đã quá quen cảnh cũ người xưa, hay là chính anh ta thay đổi, tự dưng "lòng chợt từ bi bất ngờ ", không thèm phá phách nữa, nên một số bắt đầu làm thân với anh. Mấy bà chằng lúc trươc bây giờ cũng có nàng đã cười nửa miệng với anh ta. Tôi bây giờ lại là thằng thân nhất với Lâm Ni. Những ngày nghỉ cuối tuần hay ngày lễ, anh đến nhà trọ chở tôi lên Phú Vinh, thăm khu vườn nuôi gà của anh Khanh, trưởng lớp. Khi ấy anh Khanh đã có vợ hai con. Có lần anh ta còn dám lấy xe jeep của ông cậu tới chở bọn tôi đi lên Thành thăm cô bạn Tuyết Phượng ở bên kia cầu Phú Lộc, nhưng mới đến Mã Vòng bị quân cảnh chặn lại hỏi giấy. Cả đám phải vào ngồi trong đồn để chờ ông cậu của Lâm Ni cho người đến nhận xe và nhận người luôn.

Có lẽ tôi có duyên nợ gì với Lâm Ni. Ngày thi trung học đệ nhất cấp, vì tên cùng vần N, nên tôi lại bị xếp ngồi bên cạnh anh ta. Tí nữa thì tôi khốn khổ. Môn toán và anh văn, không cấn nháp nhiết, anh ta làm một cái vèo, nộp bài ra trước nhất. Nhưng mấy môn khác, tôi làm chưa xong, thì anh thò tay qua chộp. Chút nữa là ông giám thị bắt được, tôi hú vía. Kỳ thi ấy cả hai thằng đều đậu.

Từ hôm ấy, anh ta càng thân với tôi hơn. Cứ vài ngày là chạy xe lại nhà tôi, chở tôi đi xuống quán số 1 duới bờ biển ăn bò bảy món, đi Cầu Đá ăn phở gà trước khi tôi về quê nghỉ hè.

Quê tôi ở ngoài Vạn Giã, vào Nha Trang tôi ở trọ nhà ông chú, một hiệu buôn, trước ở đường Độc Lâp, bên rạp ci-né Moderne của ông Bác Ái, sau chuyển về đầu đường QL 1 trước Ty Thông Tin. Chú thím tôi hơi nghiêm khắc, nên không muốn bạn bè tôi lui tới nhiều. Hơn nữa ông bà chỉ có một đứa con gái rượu, xinh gái, gọi tôi bằng anh nhưng lớn hơn tôi hai tuổi và học trên tôi một lớp, bên trường Lê Quí Đôn, nên ông bà cũng muốn "kín cổng cao tường" một chút. Lần đầu tiên Lâm Ni tới tìm tôi, ông bà nhìn anh ta từ trên xuống dưới, rồi bảo là tôi không có ở nhà. Thực ra lúc ấy tôi đang ngồi phía trong phòng khách. Thấy Lâm Ni tới tôi định chạy ra, nhưng nghe ông bà bảo vậy tôi im luôn. Sau này tôi dặn Lâm Ni cứ dựng cái xe gắn máy phía trước ngồi chờ, thấy chiếc xe là tôi chạy ra.

Về quê nghỉ hè chưa tròn một tháng, thì chú tôi nhắn ba tôi đưa tôi vào Nha Trang gặp ông có chuyện gấp. Vào đến nơi, vừa bước vào nhà tôi mới tá hỏa. Ông chú hò hét chửi tôi một trận xối xả, rồi bảo ba tôi tìm một chỗ khác cho tôi ở sau mùa hè.

Không biết tài tán gái thế nào mà chưa đầy một tháng Lâm Ni đã cua được cô con gái cưng của ông chú tôi, mà tôi chẳng hề hay biết. Tôi bực anh ta nhưng cũng phục anh ta sát đất. Mà cũng xui cho anh - phải nói xui cho chính tôi mới đúng- Ông chú tôi là dân Nha Trang chính hiệu nhưng chưa hề biết nước biển Nha Trang ngọt mặn ra sao. Tôi nghĩ có lẽ cái lý do chính là ông không muốn cho bất cứ ai nhìn thấy cái bụng phệ hơi quá khổ của ông. Vậy mà hôm đó, có mấy ngưới bạn từ Sài-Gòn ra bàn chuyện làm ăn. Nể tình, ông mới chiều khách đưa họ đi biển tắm. Bất ngờ khi bước vào Quán số 3 bên bờ biển thì ông thấymột cặp tình nhân đang ôm nhau say đắm. Ông giận đến không biết mình đang ăn món gì trong miệng khi khám phá đôi tình nhân kia là cô con gái cưng của ông và thằng bạn trời đánh của tôi, cháu ông.

Tôi mất mẹ từ nhỏ, nên Ba tôi cưng lắm, chưa hề la tôi một tiếng. Vậy mà hôm đó ông la tôi một trận. Câu cách ngôn "gần mực thì đen gần đèn thì sáng" hồi xửa hồi xưa, cũ như trái đất, được ông đem ra giảng tới giảng lui mấy lần, măc dù tôi cố gắng hết sức để bào chữa cho Lâm Ni; nào anh ta là con nhà giàu và tử tế, bên ngoài như thế chứ học hành giỏi, nào là hiền lành và tốt bụng lắm. Nhưng tôi đành đứng chịu trận khi ông chú tôi lỡ nóng dại mồm dám xác nhận ngay trước mặt bà thím là chính ông ta gặp Lâm Ni mấy lần trong Bar Thu Thủy, và dưới Grand Hôtel. Tôi nghĩ tối hôm đó chắc ông cũng mệt với bà. Nói thì nói vậy, chứ gì thì ông chú cũng nể ông già tôi, và cũng cần tôi để làm cho ông mấy bài toán cộng trừ, tính lời lỗ mỗi ngày, nên sau khi ông hết giận, rồi đâu cũng vào đó.

Bị chửi quá nên tôi cũng giận Lâm Ni, định bụng sau hè vào phải dũa cho chàng ta một trận và nhất định nghỉ chơi với anh ta để vào Võ Tánh yên ổn mà lo học hành.

Ngày nhập học, khi đang ngơ ngác tìm lớp, thì có người vỗ vai. Quay lại, thì đúng là Lâm Ni. Anh ta vào Tam B còn tôi vào Tam C. Gặp lại trong giờ ra chơi, tôi kéo Lâm Ni ra ngoài, thụi vào bụng mấy cái, kể lại chuyện tôi bị ông chú đuổi. Anh ta không thèm an ủi tôi một tiếng mà còn bảo tôi lên nhà ông cậu ở với anh ta. Thực ra chàng ta cũng là một thằng tốt bụng, nhưng tôi nghĩ thầm nếu tiếp tục quen với Lâm Ni sẽ còn gặp phiền phức nữa, nên kể từ hôm ấy tôi lánh mặt anh ta.

Vào Võ Tánh, dường như Lâm Ni cũng thay đổi nhiều. Mặc đồng phục và cắt tóc tai đàng hoàng. Nhưng bây giờ đi học bằng chiếc Vespa mới toanh. Chắc là phần thưởng thi đậu của ông già. Lâu lâu tôi thấy anh đứng ngoài cửa sổ lớp Tam C của tôi trêu ghẹo mấy người đẹp ngồi trong lớp.

Cái lớp Tam C của tôi sao hiền lành quá. Chắc là thiên hạ chuẩn bị để làm người lớn, hay là các bà chị trong lớp vừa đẹp vừa hiền như ma soeur, nên không còn tên nào muốn làm ma quỷ nữa. Ba năm ở Võ Tánh trôi qua rất êm đềm, như mặt nước hồ thu, không còn lại trong tôi điều đặc biệt nào đáng nhớ.

Ngày nhập học lớp Đệ Nhất, tôi có ý tìm nhưng không thấy bóng dáng của Lâm Ni. Tôi nghĩ chắc chàng ta rớt tú tài 1, nên sang trường khác học lại. Sau đó, tôi nghe mấy người học cùng lớp với Lâm Ni bảo là anh ta đậu tú tài 1 kỳ hai, nhưng đã theo ông cậu thuyên chuyển đi nơi khác. Tôi thoáng một chút bùi ngùi, khi nghĩ là chẳng bao giờ còn gặp lại anh ta.

Ba năm sau tôi vào quân trường Thủ Đức. Ra trường được chuyển ra một đơn vị tác chiến lưu động ở Ban Mê Thuột, (mà lính tụi tôi thường gọi là xứ Buồn Muôn Thuở, hay là Bụi Mù Trời) làm trung đội trưởng.

Trong một cuộc hành quân phối hợp, tiếp viện cho một chi đoàn thiết quân vận bị phục kích tại Quãng Nhiêu, sau khi giải tỏa tình hình, tiểu đoàn tôi rút về, trung đội tôi được lệnh ở lại tăng phái cho một đại đội Biệt Động Quân. Thấy tôi có vẻ lo âu khi trung đội phải ở lại một mình giữa chiến trường khói lửa chưa tan, ông tiểu đoàn trưởng bảo:
- Chú mày yên chí, Đại đội BĐQ này khá lắm, thằng đại đội trưởng này đánh đấm có tiếng trong binh chủng mũ nâu đó.

Khi dắt trung đội hơn hai chục thằng lính, nửa kinh nửa thượng, đến trình diện đại đội BĐQ, tôi sửng sốt khi nhận ra ông đại đội trưởng chính là Lâm Ni. Tôi đứng nghiêm đưa tay chào:
- Tôi đem trung đội tới trình diện trung úy.

Lâm Ni nhận ra tôi ngay. Anh ta hét lên:
- Có phải mày là thằng Ninh không.? Đ.m. trung úy cái con c.., tao là Lâm Ni đây, mày không nhận ra sao? Rồi anh ta ôm tôi quay mấy vòng.

Giải tỏa tình hình xong, trung đội của tôi tiếp tục được đặt dưới quyền của Lâm Ni, nhận lệnh ở lại tìm kiếm một số chiến binh thất lạc và giữ an ninh cho quân cụ lên kéo mấy chiếc M113 bị bắn cháy và hư hại về Ban Mê Thuột. Tối hôm ấy Lâm Ni giữ trung đội tôi đóng quân chung với ban chỉ huy đại đội của anh. Một điều chưa từng xảy ra cho một đơn vị tăng phái. Hai đứa uống hết bi đông rượu đế, nhắc lại bao nhiêu kỷ niệm vui buồn thời còn đi học. Anh nhớ từng tên thầy cô giáo và bạn bè lúc trước. Anh ân hận đã phá phách nghịch ngợm làm buồn lòng thầy, bạn. Anh bảo tôi, ngay sau khi rời Võ Tánh là anh đi lính ngay. Anh thích đời quân ngũ và hy vọng nó sẽ làm thay đổi cuộc sống của một thằng nhà giàu vô tích sự như anh. Khi biết anh chọn BĐQ, cha mẹ anh giận và buồn lắm, nhờ ông cậu, bây giờ làm lớn trong Bộ TTM, rút anh về, nhưng anh nhất quyết chối từ. Trước khi đi ngủ, anh ta còn hỏi tôi:
- Con nhỏ em mày, con gái ông chú của mày ở Nha Trang đó, bây giờ theo thằng cốt đột nào rồi? rồi cười ha hả.

Hai hôm sau chúng tôi có lệnh di chuyển vị trí, và phải bung rộng ra phòng thủ. Lâm Ni cho trung đội tôi xuống đóng trong một cái đồn bên chân cây cầu sắt (của một đơn vị địa phương quân bỏ lại) để giữ cây cầu khỏi bị phá hoại trước khi quân cụ lên kéo hết mấy chiếc thiết giáp bị hư. Cây cầu cách ngọn đồi, nơi đặt ban chỉ huy của Lâm Ni khoảng hai cây số.

Gần hai giờ sáng, trung đội tôi bất ngờ bị tấn công. Địch áp dụng chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung. Sau mấy loạt 82 ly, chúng ào ạt tấn công. Trung đội tôi có vài người bị thương sau đợt pháo kích đầu tiên, nhưng tất cả đều chống trả mãnh liệt. Tôi chỉ kịp cầm ống liên hợp máy PRC 25 báo cáo với Lâm Ni là đơn vị tôi bị tấn công mạnh, cần ngay pháo binh và một lực lượng tiếp ứng, đánh từ phía sau lưng địch. Lâm Ni bảo tôi cứ bình tĩnh yên tâm chiến đấu, anh ta sẽ gọi pháo binh và gởi ngay một bộ phận tiếp ứng. Không ngờ lực lượng địch khá đông. Chúng tôi bắn ngã tên này thì tên khác lại xông lên. Chúng đã dùng bêta phá mấy lớp rào bên ngoài rồi hô xung phong. Pháo binh ta cũng bắt đầu rót xuống bên ngoài. Lúc này tôi chiến đấu hoàn toàn như một khinh binh. Quả lựu đạn cuối cùng tôi vừa mới ném ra, cũng là lúc một vài tên địch đã xâm nhập vào phía bên trong hàng rào phòng thủ. Khi đạn đã cạn, chúng tôi chuẩn bị đánh cận chiến, thì nghe được tiếng súng bạn khắp nơi bên ngoài và tiếng hò hét: Biệt Động sát ! Địch vội vàng tháo chạy, hai tên đặc công vào bên trong bị chúng tôi bắt sống. Tạm thời kiểm tra đơn vị: 3 chết, 7 bị thương. Chưa kịp gọi máy báo cáo, thì toán biệt động quân đầu tiên vào bên trong, võng theo một thương binh. Nghe một sĩ quan BĐQ gọi máy xin trực thăng tản thương khẩn cấp vì "đại bàng bị thương nặng", tôi giật mình chạy đến chiếc võng: Lâm Ni mặt đầy máu và thở rất nhẹ. Tôi lay anh ta:
- Lâm Ni ơi, có làm sao không ? Ninh đây.

Dưới ánh đèn pin yếu ớt, gương mặt anh ta xanh xao, mở hé mắt nhìn tôi. Đôi môi rung động như muốn nói với tôi điều gì. Tôi đưa tay sờ lên môi anh, như là tôi đã hiểu những gì anh muốn nói.

Vị thiếu úy BĐQ vỗ vai tôi:
- Đúng ra đâu có phải nhiệm vụ của trung úy, tôi bảo ông nên ở lại, vì chúng tôi chỉ đi có một trung đội và toán thám báo, nhưng ông đã lệnh cho ông đại đội phó ở lại và ông trực tiếp dẫn đầu toán thám báo chạy bay tới đây, xông ngay vào sau lưng địch mà đánh. Tội nghiệp chỉ có ông bị thương.

Trực thăng tản thương tới, tôi bế Lâm Ni lên, nắm chặt tay anh trước khi máy bay cất cánh. Tôi bùi ngùi lo lắng khi biết là anh đã vì tôi mà bị thương, cầu nguyện cho anh qua khỏi hiểm nghèo.

Lần ấy anh còn sống, nhưng phải nằm điều trị ở QYV hết 4 tháng, còn để lại mấy vết sẹo trên cổ, và vì bị thương ở thanh quản, nên giọng nói của anh bị khàn đi. Sau đó đơn vị của anh có lệnh chuyển lên Pleime, Pleiku. Tôi có liên lạc thăm anh vài lần trên hệ thống vô tuyến.

Bẵng đi một thời gian, đầu mùa hè 72, đơn vị tôi đang hành quân ở mật khu Lê hồng Phong, Phan Thiết, thì có lệnh về phi trường Sông Mao để được không vận toàn bộ lên Kontum. Chiến trường đang tới hồi quyết liệt. Trong một lần chuyển quân hoán đổi vị trí phía bắc Kontum tôi bất ngờ gặp lại Lâm Ni. Lúc này anh đã mang lon Thiếu tá và nắm một tiểu đoàn BĐQ. Hai thằng chỉ kịp ôm nhau chửi thề vài câu. Chưa kịp nói lời chia tay, thì mỗi thằng đã mỗi ngả.

Cuối năm 1972, khi hiệp định Paris vừa ký xong, địch quân chưa trở cờ. Hai bên tạm thời hưu chiến kiểu da beo. Các đơn vị tham chiến được chuyển về các vị trí dưỡng quân. Tiểu Đoàn của Lâm Ni được về Hàm Rồng. Đơn vị tôi thì về Đồi Đức Mẹ, Pleiku.

Đêm tiểu đoàn Lâm Ni làm lễ tái xuất quân tại Hàm Rồng được tổ chức rất hùng tráng. Lâm Ni có mời tôi đến dự. Buổi tiệc ra quân kết thúc bằng một chương trình văn nghệ khá đặc sắc, do biệt đoàn văn nghệ trung ương từ Sài Gòn ra, phối hợp với các toán văn nghệ tâm lý chiến QĐ II đảm trách. Tôi ngồi hàng ghế đầu với Lâm Ni. Khi có một nữ ca sĩ từ Pleiku lên hát bài Chiều Trên Phá Tam Giang, Lâm Ni rất cảm động. Cô tên Giáng Vân, có khuôn mặt khá xinh, phảng phất buồn, và giọng hát trầm ấm thiết tha. Bài hát vừa chấm dứt, Lâm Ni bước lên nắm tay cô cám ơn và bất ngờ cởi tặng cô chiếc đồng hồ Longine mới toanh mà anh vừa mới mua từ Sài Gòn, khi được bảy ngày phép về thăm cha mẹ anh.

Đêm đó tôi ở lại với Lâm Ni. Anh kể là cha mẹ anh cứ năn nỉ anh đổi về Sài Gòn. Ông bà sẽ lo cho anh về BTL Cảnh Sát hoặc bất cứ nơi nào ở Sài Gòn, anh muốn. Ông bà cũng đưa anh đến thăm gia đình một người Tàu, có cô con gái làm chủ một nhà hàng, mà ông bà định hỏi cưới cho Anh. Ông bà nôn nóng có đứa cháu đích tôn nối dõi. Nhưng anh chỉ im lặng. Rồi khi bị hỏi quá, anh hứa cho Anh ba năm nữa. Anh bảo tôi, đời lính sống nay chết mai, vợ con làm gì cho vướng chân vướng cẳng.

Đầu năm 73, trong trận tái chiếm căn cứ Charlie, tôi bị thương nặng, phải nằm điều trị hơn hai tháng ở QYV Pleiku. May mà chưa bị cưa mất chân phải. Lâm Ni có ghé lại thăm tôi một lần vội vã, khi có dịp về Pleiku họp hành quân. Khi chia tay, anh rút từ túi quần sau ra một xấp tiền đưa cho tôi:
- Tiền ba tháng lương của tao, mày cầm lấy mà gởi cho vợ con mày. Mày đông con. Tao độc thân, suốt cả năm sống ở trong rừng, lỡ có chết, tiền không ai xài uổng lắm.
- Tôi từ chối, nhưng Anh nhét xấp tiền vào dưới chiếc gối tôi nằm.

Sau đó tôi được theo học một khóa tham mưu tại Long Bình. Mãn khóa, được điều về Phòng hành Quân QĐ II. Lâm Ni thì vẫn nay đây mai đó, nhưng chúng tôi vẫn thường liên lạc hỏi thăm tin tức nhau trên hệ thống vô tuyến. Một lần khi bay bao vùng, biết anh vừa lên trung tá, tôi đáp xuống thăm, và mang mừng anh ta chai Hennessy, loại rượu anh thích nhất. Anh bảo, BCH/BĐQ dự định đưa anh ra nắm một Liên Đoàn ngoài vùng 1 thay cho anh Liên Đoàn trưởng vừa tử trận, nhưng tình hình ở đây đang nguy ngập, nên anh chưa rời đơn vị được.

Tháng 3/75, ngay sau khi Ban Mê Thuột mất, tôi may mắn đuợc theo BTL Tiền Phương. Nói là Tiền Phương nhưng lại đóng ở Nha Trang và một đôi khi ở Khánh Dương.

Có lệnh bỏ Kontum và Pleiku. Tiểu Đoàn BĐQ của Lâm Ni là một trong những đơn vị được chỉ định đi đầu, mở đường cho đoàn quân di tản từ Pleiku xuống Tuy Hòa theo tỉnh Lộ 7. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, kéo theo sự sụp đổ cả miền Nam.

Tôi được chỉ định làm trưởng toán, dùng một hợp đoàn trực thăng bay đi liên lạc và hướng dẫn những toán quân thất lạc trong rừng. Ngày N+3, trong lúc chiến trường ác liệt và tồi tệ nhất, tôi may mắn liên lạc được Lâm Ni trên tần số không lục. Tôi tìm mấy bãi đáp tương đối an toàn, giục Lâm Ni đến đó để tôi bốc. Nhưng anh ta từ chối, bảo là mặc dù tiểu đoàn của anh bị tan tác, quân số chỉ còn gần một trung đội, nhưng anh không thể bỏ anh em vào lúc này.

Không ngờ đó cũng là lần cuối cùng tôi nghe giọng nói của Lâm Ni. Năm 1977, trong một trại cải tù ở Sơn La, tôi gặp lại một sĩ quan của Lâm Ni lúc trước. Anh ta là sĩ quan duy nhất trong đơn vị còn sống sót. Anh cho biết là khi bị địch vây và kêu buông súng đầu hàng, Lâm Ni đã bắn tới viên đạn cuối cùng. Anh tự sát bằng một quả lựu đạn loại tấn công, và đã chết chung với một đám địch quân định vây bắt anh.

Mùa hè năm ngoái, tôi có cô con gái út lấy chồng bên London. Cả nhà tôi sang đó dự tiệc cưới do nhà trai khoản đãi. Sau đám cưới, vợ chồng cô con gái đi Thái Lan hưởng tuần trăng mật. Chúng tôi muốn ở lại London ít hôm để xem vài thắng cảnh và đến thăm gia đình một người bạn học cũ của bà xã tôi ở thành phố Birmingham, cách London chừng ba giờ lái xe. Cậu rể nhờ một người bạn chí thân, một bác sĩ trẻ khá bảnh trai, và cũng là phụ rể trong đám cưới, làm tài xế và hướng dẫn viên cho chúng tôi. Hơn nữa nhà cậu ta cũng ở Birmingham.

Ngày cuối cùng, trước khi rời khỏi Birmingham, cậu ta mời chúng tôi ghé lại nhà để dùng một bữa cơm với gia đình. Nói là gia đình, nhưng thực ra chỉ có hai mẹ con thôi. Cậu bảo thế.

Trới nóng như lửa đốt, lại biết chúng tôi đang đói, cậu ta gọi cell- phone về nhà bảo bà mẹ chuẩn bị thức ăn sẵn. Về đến nhà, cậu ta vội vã đi lấy khăn, hường dẫn chúng tôi vào phòng tắm rửa mặt, rồi chạy vào bếp phụ mẹ. Vào phòng ăn, khi chúng tôi kéo ghế ra chưa kịp ngồi thì bà mẹ bưng thức ăn ra vui vẻ chào, và xin lỗi vì bận tay nên không ra cổng đón được. Thấy người đàn bà này có nét giống một người nào đó mà tôi đã gặp, tôi cố gắng lục lọi ký ức, nhưng vẫn không nhớ ra.

Khi cơm nuớc xong, bà mời chúng tôi lên phòng khách uống nước và ăn tráng miệng. Nhìn một tấm ảnh phóng lớn treo trên vách. Lại là một người lính. Tôi tò mò bước lại xem và sững sờ khi người trong ảnh chính là Lâm Ni.

Sau một lúc hàn huyên, tôi mới nhận ra người đàn bà này chính là cô ca sĩ tâm lý chiến có tên Giáng Vân, trong đêm làm lễ tái xuất quân của đơn vị Lâm-Ni trên Hàm Rồng lúc trước. Một cô ca sĩ tâm lý chiến, mà ngày xưa nhiều kẻ đánh giá chẳng ra gì, chết chồng từ thuở mới 20, có nhan sắc, trải qua bao nhiêu khốn khổ, vậy mà không hề bước thêm một bước nào, ở vậy nuôi con học hành thành đạt, đức hạnh nên người. Điều bất ngờ hơn, cậu thanh niên dễ thương, tốt bụng, đón đưa chúng tôi mấy ngày hôm nay, cũng là người bạn chí thân của thằng rể chúng tôi, lại là giọt máu duy nhất của Lâm Ni còn lại trên thế gian này.

Tôi có hỏi về ông bà nội cháu, Giáng Vân cho biết là sau khi chạy từ Pleiku về, cô phải nằm bệnh viện cho đến mấy tháng sau ngày miền Nam thất thủ, nên đã phải sinh non, may mà mẹ tròn con vuông. Khi sanh cháu xong, chị có đi hỏi thăm cha mẹ Lâm Ni, nhưng đuợc mấy người láng giềng cho biết là ông bà đã đi về Trung quốc.

Tôi bùi ngùi nghĩ tới Lâm Ni, người bạn học có nhiều duyên nợ với tôi, đã gây cho tôi một vài phiền muộn, nhưng cũng đã để lại trong tôi biết bao điều xúc động. Không hiểu, ở một nơi xa xăm nào đó, anh có biết là tôi đã bất ngờ gặp lại vợ con anh. Cũng có thể chính anh đã linh thiêng đưa tôi đến đây. Một nơi xa lạ, ngàn trùng cách biệt với quê hương, với Nha Trang. Nơi mà một thời, anh đã có biết bao kỷ niệm với thầy với bạn và nhất là với tôi, thằng bạn nhóc tì của anh ngày trước. Ông bà già của Lâm Ni chắc không ngờ là mình đang có một đứa cháu đích tôn trên thế gian này, mà trước đây ông bà đã từng mơ ước

Trước khi từ biệt vợ con Lâm Ni, tôi đứng lặng lẽ một mình trước tấm ảnh của anh, ôn lại bao nhiêu chuyện cũ rồi buộc miệng thì thầm hai câu thơ quen thuộc:

Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ ?

Từ trong tấm ảnh, dường như Lâm Ni đang nhìn tôi mỉm cười.

phạmtínanninh
(1C Võ Tánh 62)

Ghi chú của người viết: Bài viết này xin được gởi đến chị Lâm Ni và cháu Lâm Bình như một món quà muộn màng. Bạn bè Võ Tánh, nếu có ai quen biết và còn nhớ đến Lâm Ni, muốn hỏi thăm vợ con anh, xin liên lạc với người viết. Cám ơn.
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Post by caubennoc »


Image

Ngoại tình


Cứ mỗi chiều thứ Sáu hàng tuần, người ta thấy một thiếu phụ ăn mặc lộng lẫy, rụt rè đi vào khu cư xá TÐ.
Thường, nàng mặc những chiếc áo đầm vừa kín đáo vừa mang dáng nét Tây phương được may rất hợp thời trang theo mẫu trong sách ca-ta-lô mới nhất từ ngoại quốc gởi về. Ðôi khi là bộ váy kiểu nữ tiếp viên hàng không bó sát đùi để lộ đôi chân trắng nõn nà. Thỉnh thoảng nàng mặc loại áo dài màu đen không cổ, rộng hở cả hai vai pha kiểu áo đầm. Tuy lạ mắt nhưng được cái lợi thế là khoe chiếc cổ và đôi vai đầy đặn mịn màng. Duy chiếc mũ rộng vành kiểu nữ hoàng Anh quốc màu tím than là nàng không hề thay đổi. Chiếc nón có dải lụa cùng màu viền quanh, thắt thành chiếc nơ bên sau mũ. Hai đuôi nơ buông lơi như cánh bướm phất phơ theo từng nhịp bước đi. Khuôn mặt trái soan, làn da trắng mịn làm nổi bật đôi môi dày mọng đỏ gợi tình. Sống mũi thẳng và cao, mang nét kiêu sa của mẫu người thượng lưu.
Chiếc mũ rộng vành nàng đội hơi lệch về phía trước, cố ý che khuất một phần đôi mắt nhung. Ðôi mắt nhìn xuống để hàng lông mi dài tựa cánh rèm dấu bớt sự ngượng ngùng trước những cặp mắt tò mò của cư dân trong dãy chung cư. Nàng bước từ tốn trên từng bậc thang lên lầu tiến thẳng đến căn phòng mang số 222, rồi điềm nhiên mở khóa cửa bước vào.


Chiếc xe jeep bô tròn màu trắng vừa dừng lại trước sân khu cư xá, Phạm Xuân Sơn vội vã xuống xe. Tay cầm một túi nhựa đựng thức ăn, tay kia xách chiếc cặp samsonite, chàng hối hả lên thang lầu đến mở cửa phòng số 222. Thiếu phụ núp sau cánh cửa chơi trò ú tim, bất ngờ hù chàng. Dù biết có người tình bên trong nhưng chàng vẫn không tránh khỏi giật mình. Cánh cửa vừa khép lại là nàng ôm chầm lấy Sơn, gắn chặt nụ hôn vào đôi môi còn ngọt mùi nhựa thuốc lá Capstan. Chiếc khăn tắm quàng trên người nàng bung ra rơi xuống sàn nhà, để lộ thân hình đẫy đà tươi mát. Bộ ngực căng đầy, tràn trề nữ tính đã kích thích chàng đặt nụ hôn lên đôi gò bồng đảo ấy. Nhột nhạt, khiến nàng cười khúc khích, âu yếm đẩy đầu người yêu ra, thì thầm :

- Ham hố thế, giầy chưa cởi kìa.

Vừa nói , nàng vừa cúi xuống mở dây giầy cho chàng. Bộ sơ-mi quần trút ra khỏi người là chàng bế xốc nàng đặt lên chiếc giường nệm phủ drap màu hồng. Họ quấn chặt lấy nhau như loài rắn trong mùa động tình. Suốt một tuần lễ nhớ mong, giờ họ dành cho nhau trọn vẹn, quên cả đất trời... Lần nào chàng cũng ở thế thượng phong dồi dào sinh lực.
Ðôi tay buông thõng, rã rời, nàng chìm dần vào giấc ngủ. Sơn nhẹ nhàng đắp lên người nàng tấm chăn mỏng rồi vào phòng tắm.
Theo thói quen của đời sống độc thân, Sơn đun nước sôi chế cà-phê và chuẩn bị cho bữa ăn tối. Ðịnh đánh thức người tình dậy nhưng chàng khựng lại trước khuôn mặt sáng rực tình yêu đang trong giấc ngủ êm đềm. Sơn đắm đuối nhìn nàng như ngắm pho tượng nữ thần Venus đầy mỹ thuật. Chợt, mở mắt thấy Sơn đang ngắm mình, nàng nở nụ cười tình tứ rồi đưa tay âu yếm kéo chàng vào lòng, hôn vào chiếc cổ nở nang đượm nồng hương thơm da thịt đàn ông. Ðôi môi phù thủy laiï đưa họ vào những cơn rung động ngất ngây tột đỉnh.
Rồi hai người thức dậy dùng bữa tối có rượu champagne, bánh mì, thịt quay. Trong bữa cơm tình tứ, nàng chỉ choàng lên người chiếc áo khoác bằng vải voan thật mỏng để lộ những đường nét tuyệt mỹ của thân thể được chăm sóc hàng ngày.
Ðồng hồ đánh thức lúc 2 giờ sáng. Thiếu phụ vội vàng trang điểm sơ sài rồi hôn từ biệt người yêu và hẹn gặp nhau vào thứ Sáu tuần tới.

* * *
Chiếc xe van của công ty hàng hải đậu trước sân biệt thự Hoàng Hoa. Trương Thúy Liễu, vợ của Thuyền trưởng Mạc Chấn chạy ra đón chồng. Hai thủy thủ lần lượt khuân những thùng quà của ông thuyền trưởng mua từ ngoại quốc về cho vợ và con. Mạc Chấn hôn vợ rồi vội vã vào nhà ôm hai đứa con gái vào lòng. Sáu tháng xa nhà, chàng nhớ con đến quay quắt. Những ngày tháng bồng bềnh trên biển cả hình ảnh của hai đứa con gái mũm mĩm choáng ngợp trong giấc ngủ của chàng. Vợ chồng lấy nhau đã được sáu năm từ khi Thúy Liễu còn là sinh viên Văn khoa. Giờ hai người có với nhau hai mặt con, đứa lớn lên năm, đứa nhỏ hai tuổi. Vợ chàng cùng với hai đứa con, chị vú nuôi và người giúp việc sống trong căn biệt thự rộng thênh thang được xây cất theo kiểu kiến trúc của Pháp thời cận đại.
Mạc Chấn tốt nghiệp trường Hàng Hải Nha Trang, du học ở Mỹ hai năm rồi được một công ty hàng hải Tân-Gia-Ba ký hợp đồng mướn chàng làm việc từ ngày ra trường đến nay. Hiện giờ chàng là thuyền trưởng một chiếc tàu chở hàng hóa của một công ty vận chuyển Singapore. Chuyến đi nào cũng dài ngày, thời gian không dưới nửa năm. Mỗi năm nghỉ phép hai tuần lễ được gần vợ gần con, Mạc Chấn cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Cuộc sống thủy thủ trong những chuyến hải hành là chuỗi ngày dài cô đơn lại còn phải chống chọi với những cơn cuồng phong sóng dữ.
Hết phép, Mạc Chấn quyến luyến từ biệt vợ con lên đường chuẩn bị cho một chuyến ra khơi vượt Thái Bình Dương sắp tới.
Những ngày tháng rảnh rỗi, Thúy Liễu ghi tên học lớp Anh văn tại trường Việt Mỹ. Tại đây, nàng quen với Sơn, thầy dạy Anh ngữ. Sau buổi học, hai người thường đưa nhau đến tiệm kem giải khát trước khi về nhà. Thỉnh thoảng họ rủ nhau đi nghe nhạc, nhảy đầm tại các hộp đêm. Dần dà, từ chỗ tình bạn đến tình yêu . Một mối tình bất chính, cả hai đều biết nhưng hình như họ quá say mê nhau nên liều lĩnh. Thúy Liễu biết nàng không xứng đáng với tình yêu của Mạc Chấn dành cho nàng. Nhiều lúc nàng cảm thấy xấu hổ trước cử chỉ âu yếm, nuông chiều của chồng. Có lắm khi nàng tự mắng nhiếc mình trắc nết, hư thân, bỏ bê con cái, phó mặc cho chị vú nuôi. Sau những đêm đi chơi về khuya, nàng đã ôm con vào lòng để rơi những giọt nước mắt ăn năn rồi tự hứa với mình là sẽ đoạn tuyệt mối tình tội lỗi đó. Cũng vậy, Sơn đã khuyên nàng không nên tiếp tục đi chơi với nhau nữa. Hành động cụ thể của chàng là bỏ dạy trường Việt Mỹ để xa lánh mối tình. Phần Thúy Liễu vẫn tiếp tục đến trường, nhưng thiếu vắng bóng Sơn khiến nàng chán nản rồi bỏ học luôn. Nàng ở nhà với con được một thời gian. Nhiều đêm Thúy Liễu trằn trọc nhớ người yêu ray rứt khiến nàng không sao chịu nổi. Nàng trút những cơn bực bội lên hai người giúp việc. Những cơn giận vô cớ khiến hai đứa con nàng sợ hãi. Cuối cùng Thúy Liễu đành phải tìm đến nhà Sơn và hai người thỏa thuận gặp nhau vào chiều thứ Sáu hàng tuần.
Thúy Liễu trong vòng tay chồng mà sao nghe lòng trống rỗng lạnh băng. Những rung động thuở ban đầu của nàng đối với Mạc Chấn giờ đây không còn nữa. Chỉ còn là lòng kính trọng và biết ơn. Tình mẫu tử dành riêng cho hai con cũng không vượt qua được tình yêu của nàng trao cho Sơn. Chàng đã cho nàng những cảm xúc rất mới mẻ từ thể xác đến tâm hồn. Nàng yêu say đắm như thuở mười bảy, mười tám, mặc dầu tuổi đời của nàng đã ngoài ba mươi. Bảy ngày đợi chờ là bảy ngày con tim nàng héo hắt. Cơn khát tình luôn thúc giục nàng phải tìm đến với người yêu.

Hôm nay là ngày thứ Tư, một ngày làm việc nhiều nhất trong tuần lễ nên Sơn về nhà trễ hơn mọi lúc. Mở cửa vào phòng, chàng ngạc nhiên thấy Thúy Liễu nằm trên giường quay mặt vào vách. Sự hiện diện đột ngột ngoài định kỳ khiến chàng hơi bối rối. Tưởng người yêu đang say ngủ nên Sơn thay quần áo rồi đi thẳng vào phòng tắm, chợt nàng lên tiếng hỏi :

- Ê, có con khốn nào giữ anh lại mà về trễ đến thế kia ?

- Chẳng có ai ngoài cô bé hay ghen bóng ghen gió này đây. Chàng vừa nói vừa đến bên nàng hôn lên đôi môi mím chặt mới giải hòa được cơn giận hờn vì chờ đợi. Thúy Liễu nghiêm trang cầm tay Sơn đặt lên bụng nàng, âu yếm:

- Chúng mình sắp có với nhau một đứa con.

- Thế chồng em nghĩ sao? Sơn giật mình hỏi :

- Anh ấy mong muốn em sinh thêm một bé trai nữa .

- Nhưng mà ... chàng chưa nói hết câu, Thúy liễu kéo Sơn lên giường ôm chặt người yêu thì thầm :

- Trước sau mươi ngày, nửa tháng làm sao anh ấy biết được... Còn nếu chuyện này vỡ lở thì em sẵn sàng chia tay. Chúng ta được sống với nhau hợp pháp.
* * *

Chiến sự bỗng dưng nổ lớn tại Tây nguyên Trung phần. Thị xã Buôn Mê Thuột bị quân Cộng sản Bắc Việt tấn công, quân đồn trú tạm thời rút lui chiến thuật. Tiếp theo là lệnh của Tổng Thống cho di tản Bộ tư lệnh Quân đoàn 2, bỏ ngỏ cả Vùng Cao nguyên. Tình hình bắt đầu rối loạn. Ðồng bào các nơi ồ ạt chạy về Nha Trang , Phan Rang . Ðồng bào ở Quảng Trị di tản vào Huế, rồi chạy tiếp vào Ðà Nẵng. Các lực lựơng bảo vệ lãnh thổ Quảng Ngãi, Quảng Tín được lệnh rút về Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 2 ở Chu Lai đã khiến cho đồng bào và gia đình binh sĩ cũng ùn ùn chạy theo. Ðịch quân còn mãi tận đâu đâu mà quân ta đã bỏ thành.

Kết hợp mọi tin tức, biết chắc chắn Mỹ sẽ bỏ rơi Miền Nam, Mạc Chấn vô cùng lo lắng cho vợ con. Vì vậy, trên đường về Tân-Gia-Ba chàng đã bất chấp hải trình, ngoặt mũi tàu hướng về hải phận Việt Nam thả neo tại Vũng Tàu. Lực lượng tuần duyên của Việt Nam Cộng Hòa giờ này không còn đủ tinh thần làm việc. Tâm trạng chung của mọi người là bối rối, hụt hẫng, như đang lơ lửng không còn điểm tựa. Mạc Chấn vội vã về Sài Gòn đưa cả gia đình lên tàu đi Tân-Gia-Ba. Ban đầu Thúy Liễu dùng dằng không muốn đi, nại cớ nàng có bầu sắp sinh. Nhưng thực ra nàng còn quyến luyến đến người tình, ra đi biết bao giờ gặp lại. Không thể trù trừ lâu hơn nữa, không thể chiều theo ý vợ để sinh mạng của cả gia đình rơi vào tay tử thần, Mạc Chấn đẩy vợ lên xe, rời ngay cái thành phố đang trong cơn sốt biến loạn.

Ngày 30 tháng 4 năm 75, gia đình Mạc Chấn đang ăn cơm tối tại đảo Guam nghe bản tin của đài BBC loan báo Dương Văn Minh ra lệnh cho quân lực miền Nam buông súng, chính quyền Miền Nam tuyên bố đầu hàng, Thúy Liễu đứng dậy bỏ bữa ăn. Nàng chạy ra ngoài ôm mặt khóc. Giờ phút ấy cũng có khá nhiều người tỵ nạn để rơi những giọt nước mắt vì hoàn toàn mất hết hy vọng trở về nơi chôn nhau cắt rún của mình. Riêng Thúy Liễu, nàng lo sợ cho mạng sống của Sơn, mối tình của hai người hoàn toàn bị chia cách. Cơn xúc động đã ảnh hưởng đến thai nhi nên vào nửa đêm hôm đó Thúy Liễu đã hạ sinh một bé trai trước hạn kỳ. Mạc Chấn vô cùng mừng rỡ bởi thằng bé ra đời đúng theo mong ước của chàng. Muốn đặt tên cho con trai là Mạc Chấn Phong, nhưng vì tính nể nang, chàng lại dành phần ưu tiên cho vợ, vì thế Thúy Liễu quyết định ghi tên con mình vào khai sinh là Mạc Chấn Sơn.

Những người Việt tỵ nạn được phân bổ đi khắp các tiểu bang trên đất Mỹ. Riêng gia đình Mạc Chấn và một số đồng hương khác chọn định cư tại thành phố San Diego, tiểu bang California.

Mạc Chấn vừa thông thạo tiếng Anh, vừa có tài xã giao, nên chỉ vài năm sau gia đình chàng đã hoàn toàn hội nhập với xã hội Mỹ và có cuộc sống ổn định. Thời gian bốn năm trên đất tỵ nạn mà chàng đã mua được một căn nhà và mở một xưởng may quần áo với hàng chục công nhân. Vợ chàng ở nhà lo nội trợ và chăm sóc ba đứa con còn nhỏ dại.

Một hôm, Thúy Liễu đến xưởng may, chợt một nữ công nhân nhận ra nàng là người mà trước năm 1975 chị hay gặp ra vào cư xá TÐ. Chị ta tự giới thiệu tên là Thoa vợ của Ðại úy Huỳnh Ðức Tường bạn học với Phạm Xuân Sơn. Chị cho biết hiện giờ hai người đang học tập cải tạo cùng trại tù ngoài Bắc Việt. Chồng chị bị bắt tại Biên Hòa trên đường về Sài Gòn. Còn Sơn bị ghép tội tình báo CIA. Trước tin tức bất ngờ, trái tim Thúy Liễu đập rộn ràng và mắt nàng nhòa lệ. Nàng quay mặt đi, kín đáo lau những giọt nước mắt vui mừng. Tuy vậy, nàng vẫn cố giữ vẻ bình thản, dè dặt hỏi:

- Thế chị có thường xuyên gởi quà về cho chồng không ?

- Tôi đã gởi về cho anh ấy từ hai năm nay. Thỉnh thoảng có thơ của chồng tôi nữa. Nhà tôi có viết trong thư là anh Phạm Xuân Sơn gởi lời thăm tôi và bạn bè nào mà anh ấy quen biết. Nhờ vậy mà tôi biết chắc chắn anh Sơn còn sống .

Lòng cứ bồi hồi, băn khoăn, khiến cả đêm Thúy Liễu trằn trọc mãi. Nàng muốn viết thư bắt liên lạc với Sơn nhưng biết làm sao đây. Người nữ công nhân ấy biết có giữ bí mật về những liên hệ giữa nàng và Sơn không. Bóng ma hạnh phúc gia đình cứ ám ảnh khiến nàng trù trừ. Hình ảnh đói khát và lao động khổ sai của các tù nhân sống trong các trại tập trung tại quê nhà khiến nàng lại xót xa cho thân phận người tình. Nàng định hỏi thăm nữ công nhân kia về địa chỉ trại tù của Sơn và cách thức gởi quà qua bưu điện nhưng sợ chị ấy nghi ngờ.

Dưới chế độ Cộng sản, việc liên lạc thư từ với tù nhân đang trong vòng lao lý đã là khó huống hồ những bức thư và quà cáp từ một đất nước cựu thù như Hoa Kỳ gởi về thì làm sao tránh khỏi sự nguy hiểm cho người nhận. Vì vậy, phương thức gởi hàng qua bưu điện đến thẳng trại tù không thể thực hiện được. Cuối cùng, Thúy Liễu quyết định một cách liều lĩnh là đưa tiền cho Thoa chuyển về Việt Nam nhờ gia đình chị ấy mua sắm những gì người tù cần, mang đến trại thăm nuôi Sơn. Cứ sáu tháng một lần , gia đình Thoa thực hiện một chuyến ra Bắc thăm hai người tù, Tường và Sơn. Phương tiện di chuyển từ Sài Gòn ra Hà Nội chẳng dễ dàng gì, nhưng nhờ Thúy Liễu chi tiền rộng rãi nên việc thăm nuôi cũng xuôi chèo mát mái. Thỉnh thoảng có thư của Sơn nhờ chuyển qua Mỹ với mục đích thông báo đã nhận được quà và tỏ lời cảm ơn Thúy Liễu vẫn còn nhớ đến chàng. Lời thơ đơn giản, khô khan đã làm cho Thúy Liễu thất vọng không ít. Chẳng lẽ tình yêu đã chết trong lòng Sơn ? Chữ viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy xi-măng thô nhám đã khiến cho Thúy Liễu liên tưởng đến sự thiếu thốn, đói khát và khổ nhục của tù càng làm cho nàng thêm thương cảm.


Giữa năm 1981, hai người bạn Tường và Sơn cùng được ra tù. Thoa mừng rỡ báo tin nầy cho Thúy Liễu nhưng nàng yên lặng, giữ thái độ dửng dưng. Ngay ngày hôm sau, Thúy Liễu viết thư cho Sơn gởi về địa chỉ của gia đình Thoa nhờ Tường chuyển hộ. Trong thư, nàng yêu cầu Sơn gởi gấp địa chỉ nơi cư trú hiện giờ. Phần tái bút nàng viết : “Anh yêu, lúc nào em cũng nghĩ đến anh và dành cho anh tất cả. Nếu trời có bắt em chết để cứu sống anh, em cũng sẵn lòng. Hôn anh”.

Khi đã có địa chỉ riêng của Sơn rồi, Thúy Liễu liên lạc trực tiếp với chàng. Từ đo,ù nàng gởi liên tiếp những thùng quà đắt tiền, có cả vàng lá và tiền đô dấu trong lưng quần jean để cho Sơn có điều kiện tổ chức vượt biên.

Một năm sau, Sơn và mấy chục thuyền nhân đến được trại tỵ nạn Thái Lan trên một chiếc ghe nhỏ trải qua mấy ngày đêm trong cơn mưa gió bão bùng. Ðược tin, Thúy Liễu mừng vô kể, ngược lại Thoa vợ của Huỳnh Ðức Tường vừa buồn vừa tức. Nàng buồn Sơn ra đi không rủ chồng nàng đi theo và giận Thúy Liễu đã giấu giếm nàng trong kế hoạch tiếp tế cho Sơn vượt biển. Sự hiềm khích bắt đầu từ đó và tình cảm giữa hai người trở nên lạnh nhạt.
Nhân dịp nghỉ Hè, gia đình Mạc Chấn tổ chức chuyến đi du lịch ở Hạ- Uy- Di mười ngày và năm ngày thăm viếng bà con vùng Hoa Thịnh Ðốn. Khi trở về nhà, Thúy Liễu mắc bệnh cúm cả hai tuần lễ nằm vùi trên giường. Mạc Chấn vừa lo điều hành xưởng may, vừa lo chu tất việc nhà.
Trong đống thư từ hàng ngày, có một lá thư ngoài bì đề tên người nhận Mạc Chấn, không có tên người gởi. Bóc thư ra đọc, khuôn mặt chàng bỗng dưng tái dần rồi quỵ xuống trên chiếc sô-pha bên cạnh. Mạc Chấn ôm đầu suy nghĩ, và bất ngờ chàng đứng bật dậy tông cửa vào phòng vợ đang nằm dưỡng bệnh. Mạc Chấn ném bức thơ trước mặt Thúy Liễu bảo :

- Ðọc đi.

Tay run run, Thúy Liễu cầm lá thư, nàng đoán biết chuyện gì đã xảy ra :

“ Paulo Bidong, ngày...

Thúy Liễu yêu thương, Anh đã được Cao Ủy Tỵ Nạn chấp thuậân ghi tên vào danh sách tỵ nạn và hiện giờ đang ở trại Paulo Bidong chờ người bảo lãnh qua Mỹ. Anh đã gởi cho em liên tiếp hai lá thư theo địa chỉ hộp thư riêng của em nhưng chẳng thấy em trả lời. Nghi ngờ thơ bị thất lạc cho nên thơ này anh nhờ chị... vợ bạn anh chuyển trực tiếp đến em cho chắc chắn. Nếu nhận được thư hãy trả lời gấp em đã nhờ được người đứng ra bảo lãnh anh qua Mỹ chưa. Cảm ơn em đã giúp đỡ anh rất nhiều qua cơn khốn đốn. Bé Sơn của chúng mình đã đến trường rồi phải không? Hy vọng một ngày không xa anh sẽ gặp được mặt con. Hôn em.
Phạm X. S..

Mệt mỏi, Thúy Liễu buông lá thơ trên giường, nhắm mắt.
Chờ đợi một hồi lâu, Mạc Chấn đay nghiến :
Không ngờ bà phản bội tôi. Từ mười mấy năm nay tôi đã xuẩn ngốc tin vào lòng chung thủy nơi bà. Bà đã chà đạp lên danh dự của chồng, đánh mất tư cách của người vợ, lén lút ngoại tình. Hôm nay, tôi yêu cầu bà phải làm sáng tỏ việc bé Sơn mang dòng máu của ai ? Trả lời đi ! trả lời đi ? Mạc Chấn hét vào mặt Thúy Liễu. Nàng quay mặt vào vách, nhắm mắt âm thầm chịu đựng. Mạc Chấn dựng nàng ngồi dậy gầm gừ:
- Tại sao không trả lời, bà á khẩu rồi sao ? Ðược, tôi có cách bắt bà phải khai sự thật. Mạc Chấn đưa hai bàn tay gân guốc bóp cổ nàng, tra vấn :
- Có chịu khai không? Bé Sơn con của ai ? Nói đi, không, tôi sẽ siết cổ cho đến chết. Khuôn mặt Thúy Liễu đỏ rần rật, máu đã tụ vào đôi mắt trợn trừng, hơi thở bắt đầu khò khè. Mạc Chấn đẩy nàng ngã chúi nhủi xuống giường, lượm bức thư bỏ vào túi. Chàng đóng sầm cửa lại, hầm hầm bỏ đi.

Qua cơn nghẹt thở, Thúy Liễu hồi tỉnh . Dù trong người còn rất yếu, nhưng nàng vẫn cố gắng lái xe đến hộp thư riêng mà nàng đã bí mật mở ra từ khi liên lạc được với Sơn. Ðã hơn một tháng trời không lấy thư vì vậy mới xảy ra nông nỗi này. Hai bức thư trước của Sơn còn nằm trong thùng thư, bức thứ ba do một người chuyển tiếp, nàng biết người đó là ai rồi nhưng chẳng còn gì nữa để mà trách móc, hận thù. Chấp nhận tất cả, đã đến lúc nàng phải đối diện với thực tại.
Mạc Chấn ra đi ba ngày không về, chàng đã mướn người trông coi con, lo ăn uống và chăm sóc chúng.

Cuộc sống vợ chồng của Thúy Liễu hoàn toàn đổ vỡ. Nàng đã ký vào đơn ly dị do luật sư của Mạc Chấn đem đến tận nhà. Nàng chỉ lo sợ một điều là mất bé Sơn.

Thời gian sau đó, nàng đã từ chối trát tòa gọi đến dự phiên tòa hòa giải. Và tất nhiên, phiên tòa cuối cùng, chánh án tuyên bố kết quả cuộc ly hôn này có hiệu lực. Ba đứa con đều đồng lòng theo cha, dù nàng khẩn khoản xin quan tòa nuôi giữ bé Sơn, thay vì nàng được ở lại căn nhà. Nhưng thằng bé đã mạnh dạn khước từ sống chung với mẹ. Xưởng may, Mạc Chấn đã sang nhượng lại cho người khác. Chàng đã quyết định rời khỏi San Diego sang sinh sống tại tiểu bang Florida.

Buổi chia tay với đàn con, Thúy Liễu đau khổ đến tê dại cả tâm hồn. Rồi suốt cả mấy tháng trời nỗi nhớ con quay quắt, dày vò nàng như người mất trí . Hình ảnh các con nàng quay mặt ra đi không bịn rịn, không tiếc nhớ cứ quay cuồng trong giấc ngủ. Mối tình đam mê mù quáng vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp và đạo lý đã mang hậu quả cực kỳ đau đớn dành cho một người mẹ ngọaị tình. Ðó là sự mất mát tình mẫu tử. Tuổi thơ cảm nhận tình thương của người lớn đối với chúng rất nhạy bén. Ðàn con từ chối mẹ là nỗi đau thấm thía như mũi dao khoét sâu trong lòng Thúy Liễu. Mạc Chấn đã dồn hết tình thương cho con và đặt cả niềm tin vào vợ. Nhưng sự phản bội phũ phàng đã làm cho trái tim chàng tan nát.
Cảnh nhà vắng vẻ, im lìm tưởng như có thể giúp cho nàng tịnh dưỡng, lấy lại được sự bình thản cho tâm hồn. Nhưng không. Thúy Liễu sợ hãi trước chiếc giường nệm trải khăn trắng rộng thênh thang. Nhìn hai chiếc gối có thêu hai chú mèo con, cặp mắt chúng như ánh mắt của Mạc Chấn hiện ra vừa căm hận vừa khổ đau khi đưa tay siết cổ nàng. Căn phòng hạnh phúc của vợ chồng nàng giờ đây trông lạnh lẽo như căn hầm mộ. Ðêm đêm nàng bật đèn trong nhà sáng trưng chỉ trừ căn phòng ma quái đó. Chiếc sô-pha trở thành giường ngủ. Nàng nằm co quắp với giấc ngủ chập chờn, mộng mị. Mỗi khi vào phòng các con, nhìn những đồ chơi còn để lại, nghe hương thơm của chúng từ trong tủ áo quần là nỗi nhớ bùng lên trong nàng đến cồn cào xót xa. Ngày ngày vào ra một thân chiếc bóng trong khu nhà rộng mênh mông, nàng như kẻ mộng du.
Rồi một hôm, Thúy Liễu chợt nhớ đến Phạm Xuân Sơn ở trại tỵ nạn đang trông chờ người bảo lãnh qua Mỹ. Hình ảnh của người tình chợt bùng lên như ngọn lửa sưởi ấm trái tim buốt giá của nàng. Tâm trạng yếu đuối, sầu não bỗng nhiên biến mất. Thay vào đó là một năng lực diệu kỳ bột phát bất ngờ làm phấn chấn tâm hồn nàng như con mèo đói nằm uể oải bỗng phát hiện con mồi đang đi tới. Nàng bật dậy như chiếc lò xo đầy xung lực. Thúy Liễu vươn vai, tựa loài thiên nga rùng mình là rũ sạch những giọt nước bám quanh mình. Tội lỗi ám ảnh nàng từ mấy tháng nay chợt bay đi như bụi nước. Không chần chờ, Thúy Liễu biên thư báo tin ngay cho Phạm Xuân Sơn biết cuộc sống của nàng giờ đây không còn ràng buộc hôn nhân với Mạc Chấn nữa và nàng sẽ qua trại tỵ nạn làm hôn thú vớí chàng.

* * *

Chuyến bay Singapore Ailine sẽ cất cánh tại phi trường Los Angeles lúc 11 giờ sáng. Thúy Liễu dậy từ lúc 5 giờ khi ngoài trời còn mù sương. Hai chiếc va-li lớn đựng áo quần và vật dụng cần thiết cho nàng và Sơn đã sắp sẵn đâu vào đó. Suốt mấy tháng qua, tinh thần luôn luôn căng thẳng cho nên sức khỏe của nàng xuống thấy rõ. Dù cố gắng trang điểm cho mấy cũng không che lấp được những vết nhăn đã bắt đầu xuất hiện trên hai đuôi mắt của nàng. Da mặt mịn màng, tươi trẻ đã đổi thành màu da xám xịt u tối, còn đôi mắt thì thâm quầng trũng sâu vì mất ngủ. Thúy Liễu gượng gạo ăn miếng bánh mỳ với ly sữa nóng rồi ra xe lên đường. Nàng cố gắng đi sớm để tránh nạn kẹt xe . Phải mất trên hai giờ lái xe từ San Diego đến phi trường Los Angeles. Ngồi sau tay lái, Thúy Liễu nghĩ đến giờ gặp mặt người tình khiến trái tim nàng đập rộn ràng. Nàng tự hỏi chẳng biết thân thể chàng có còn vặm vỡ như ngày xưa hay lao tù đã hút hết sinh lực của chàng. Nụ hôn đằm thắm trao nhau ngày nào trong những lần hò hẹn vẫn còn đầy ắp trong ký ức nàng và hình ảnh những lần gối chăn đắm đuối khiến lòng nàng nôn nao.
Vượt qua khỏi đoạn đường kẹt xe, Thúy Liễu nhấn ga chiếc Lexus chạy bon bon trên đường Freeway 5. Nàng lại nghĩ đến ba đứa con, thương nhất là bé Sơn, đứa con mang dòng máu của chàng, kỷ niệm của mối tình vụng trộm nhưng đầy hấp lực. Bất chợt, một chiếc xe chết máy nằm lù lù trước mặt, chặn ngang lane xe nàng đang chạy. Không còn kịp nữa, mất bình tĩnh, nàng kéo tay lái về bên phải, xe vượt qua rào cản đâm đầu vào chân đồi lật mấy vòng rơi xuống đường mương.

Xe cấp cứu chở nạn nhân đến bệnh viện. Ba ngày sau Thúy Liễu mới hồi tĩnh nhưng trong tình trạng bại liệt cả hai chân.


Ðược tin, Mạc Chấn khẩn cấp đưa con về California thăm mẹ chúng. Hồ sơ bệnh lý cho thấy Thúy Liễu bị gãy xương sống, chân trái và tay trái bị dập nát. Nhờ túi hơi bảo vệ nên đầu nàng không bị chấn thương, nạn nhân còn tỉnh táo .

Dù biết tai nạn xảy ra trên đường đi đến phi trường để kịp chuyến bay sang thăm người tình cũ hiện đang ở trại tỵ nạn Paulo Bidong, Mạc Chấn vẫn điềm nhiên chăm sóc, an ủi và sắm sửa những vật dụng cần thiết cho Thúy Liễu bằng một tấm lòng hào hiệp và bao dung.
Với thân thể tàn phế, Thúy Liễu biết trước sẽ gặp vô vàn khó khăn trong cuộc sống đơn độc của mình. Vì thế, nàng yêu cầu Mạc Chấn bán căn nhà chia tiền cho ba đứa con theo phán quyết của tòa án. Số còn lại, gởi vào ngân hàng với chương mục tên của nàng để chuẩn bị cho những ngày sắp tới nàng phải sống trong nursing-home.
Trước ngày trở lại tiểu bang Florida, Mạc Chấn dẫn con đến thăm mẹ lần cuối cùng. Ðứng bên chàng là ba người con. Ðứa gái lớn nhất 14 tuổi, bé gái kế 11 và con trai út lên 8. Chúng lần lượt đến hôn từ biệt Mẹ. Trong giờ phút cô đơn nhất, nhìn ba mái đầu xanh của con và mái tóc người chồng đã lâm râm sợi bạc sống trong cảnh gà trống nuôi con khiến cho lòng quặn thắt, Thúy Liễu không cầm được xúc động, nước mắt tuôn tràn. Bất chơt, nàng kêu lên :

“ Sao tôi khốn nạn thế nầy hở trời ! Mạc Chấn ơi, xin hãy tha thứ cho em. Giờ đây em có hối hận cũng đã muộn rồi. Em không xứng đáng làm vợ anh, một người chồng cao thượng và đầy lòng nhân ái. Các con ơi, lỗi lầm của mẹ không thể nào xóa nhòa trong tâm tưởng các con đâu. Mẹ biết. Một người vợ không đoan chính, một bà mẹ vô trách nhiệm. Gương xấu đó, mẹ chỉ mong sau nầy các con đừng vấp phải là đủ cho mẹ mãn nguyện rồi...”

Nói đến đây, Thúy Liễu như hụt hơi. Hai mắt nàng mở trừng trừng hướng về các con. Toàn thân nàng co rúm rồi giâït lên liên hồi khiến Mạc Chấn hốt hoảng gọi y sĩ trực. Ðầu nàng vẹo qua một bên, máu trong mũi và miệng trào ra. Bác sĩ và y tá hết lòng cấp cứu nhưng đành bó tay. Theo lời bác sĩ điều trị, bệnh nhân bị xuất huyết trong phổi và vì sức nàng quá yếu nên không chịu đựng nỗi những thương tích trầm trọng.

Mạc Chấn phải lưu lại thêm mấy ngày nữa. Chàng lo chôn cất Thúy Liễu nơi nghĩa trang, mướn người xây mộ, đến chùa làm lễ cầu siêu cho linh hồn nàng được siêu thoát và gởi linh vị của nàng cho chùa lo hương khói. Khi công việc hòan tất chàng mới lấy vé máy bay về lại Florida.

Trước ngày từ biệt, Mạc Chấn đưa con đến thăm mộ mẹ của chúng. Chàng đặt vòng hoa trên mộ Thúy Liễu. Mỗi đứa con đều có hoa cắm trên mồ mẹ và thắp hương khấn lễ. Nhìn ba mái đầu chít khăn tang cúi trước bia mộ như đàn chim non mất mẹ, Mạc Chấn cảm thấy nỗi xót thương tràn ngập lòng chàng. Ánh mắt đầy hối hận và van lơn của Thúy Liễu nhìn chàng trong giây phút cuối cùng chợt xuất hiện trước mắt chàng. Ðột nhiên, Mạc Chấn ôm mặt khóc nấc lên. Các con vội chạy đến ôm lấy chàng, cùng kêu lên: “Ba ơi !”.

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Mùa Thu Ở Trại Sikew

Trần Trung Đạo


Boston hôm nay trời mưa. Mùa thu đang qua trên thành phố. Lá rơi đầy trên con đường nhỏ và nhiều nhất là trên bãi đậu xe bên hông nhà. Nhìn ra vườn tôi chợt nghĩ đến một cuối tuần bận rộn đang chờ đợi và những việc phải làm để tiễn đưa đám lá vàng khô đi theo luật tuần hoàn của vũ trụ.

Tôi đã đến với nhiều mùa thu trên nước Mỹ nhưng mùa thu New England với tôi vẫn là mùa thu đẹp nhất. Mỗi năm hàng trăm ngàn người đổ về các tiểu bang miền Đông Bắc chỉ để xem lá vàng. Hầu hết khách sạn thường được giữ chỗ từ nhiều tháng trước. Dân chúng trong các khu vực quanh hồ Winnipesaukee hay vùng ven núi White Mountain ở New Hampshire và Washington Mountain ở Vermont lại có dịp sửa soạn nhà cửa để cho du khách mướn. Thật vậy. Khi đứng trên đỉnh Loon Mountain nhìn xuống mặt hồ thu phản chiếu những cánh rừng phong đỏ rực, dù một người có tâm hồn khô khan, chai đá bao nhiêu cũng không khỏi nghe lòng dâng lên một niềm xúc cảm đầy thi vị. Đó là phút hồi sinh của mối tình đầu để nghe lòng khe khẻ hát “người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây”.

Mùa thu là mùa của thi ca, là nguồn cảm hứng cho bao nhiêu bài thơ tình tuyệt vời của nhiều thi sĩ. Hai câu thơ “Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp trên lá vàng khô” có thể là tưởng tượng của nhà thơ Lưu Trọng Lư nhưng ở Vermont là chuyện rất thường xảy ra vào mỗi đầu tháng Mười. Có khi xe phải dừng lại một đoạn khá dài để chờ cho cặp tình nhân nai chầm chậm dẫm lên trên xác lá băng qua đường. Phải chăng vì những gì đẹp nhất thường dễ tàn phai nên mùa thu thường được đưa vào văn chương gắn liền với những hạnh phúc vội vàng và chia ly tan nát.

Mười tám năm trước tôi có viết một bài thơ về mùa thu:

Một chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ
Thu đã về rồi đó phải không em?

Thoạt nghe như mang âm hưởng của Đinh Hùng trong “Trời cuối thu rồi em ở đâu/Nằm trong đất lạnh chắc em sầu“. Nhưng không phải. Tôi không viết cho một người tình mà viết về một cô gái không quen, 26 tuổi, đã sống, chịu đựng và chết trong một hoàn cảnh vô cùng thương tâm ở trại Sikew Thái Lan.

Tôi nhắc đến mùa thu chỉ vì đó thời điểm tôi viết bài thơ và cũng vì tên em là Thu Cúc, Hoàng Thị Thu Cúc. Ba của em là một cựu công chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bị tù và chết trong tù. Em dắt bốn người em và một người cháu vượt biên sang Thái Lan. Cuối năm 1992, gia đình em bị từ chối quyền tỵ nạn chính trị. Phẫn uất trước quyết định quá phũ phàng của Cao Ủy, em treo cổ tự tử. Tấm hình em nằm bên cạnh cuộn dây đã được nhiều báo Pháp đăng và câu chuyện cũng đã được các hãng tin quốc tế gởi đi từ Bangkok.

Các trại chính tại Thái Lan gồm có Banthad, Learn Sing, Phanat Nikhom, Sikew, Phanat Nikhom, Songkhla. Trong lúc trại tại các quốc gia khác, đồng bào tỵ nạn là những thuyền nhân đúng với định nghĩa, đồng bào tỵ nạn tại Thái Lan bao gồm một số không ít đã vượt biên bằng đường bộ qua ngã Campuchia. Tôi không biết Thu Cúc và các em đến Thái bằng ngã nào. Nói đến Thái Lan là nói đến thảm cảnh hải tặc đã và đang ám ảnh trong tâm trí của nhiều đồng bào bất hạnh. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi ghe tỵ nạn trong hải lộ từ Việt Nam vào vịnh Thái Lan đã bị hải tặc tấn công trung bình 3.2 lần. Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ghi nhận 881 vụ hảm hiếp. Tuy nhiên con số đó như chúng ta biết chỉ là con số rất nhỏ so với thực tế bi thảm mà đồng bào ta đã gánh chịu.

Những năm đầu của thập niên 90, tôi và bạn bè sinh hoạt trong phong trào Chống Cưỡng Bách Hồi Hương ở Mỹ để yểm trợ đồng bào đang chống cưỡng bách hồi hương ở các trại tỵ nạn. Chúng tôi không phải là hội đoàn hay tổ chức gì mà chỉ là một nhóm nhỏ từ VietNet và các tổng hội sinh viên. Công việc chính của chúng tôi là quyên tiền cho các trại qua hình thức các buổi đi bộ phần lớn do LAVAS tổ chức, cho các cơ quan đang giúp đồng bào làm hồ sơ tỵ nạn và gởi thư đến chính giới của nhiều nước kêu gọi họ tiếp tục nhận người tỵ nạn Việt Nam. Chúng tôi thường đặt bàn ở các chợ để phân phối tài liệu về các thảm cảnh đang diễn ra cho số phận hàng trăm ngàn đồng bào đang chờ thanh lọc ở các trại Đông Nam Á.

Những cố gắng của chúng tôi chỉ là những hạt nước nhỏ, không thay đổi được gì. Rất nhiều đồng bào ở các trại Sikew, Galang, Pulau Bidong, Whitehead phẫn uất và đã chọn cách phản đối trong tuyệt vọng. Một Hoàng Thị Thu Cúc ở Sikew, 26 tuổi, treo cổ, một Lâm Hoàng Mạnh ở Pulau Bidong, 22 tuổi, nhảy xuống vực sâu, và cũng có trường hợp đáng thương hơn như em Lưu Thị Hồng Hạnh chỉ mới 16 tuổi trong diện không thân nhân đã tự thiêu.

Nhân loại có nhiều cách sống nhưng có lẽ trên thế giới này không có một dân tộc nào lại có nhiều cách chết hơn dân tộc Việt Nam.

Tôi hay nghĩ đến đến những chịu đựng, những cách chết thương tâm của đồng bào mình trong một giai đoạn lịch sử đầy biến cố. Đất nước chúng ta có một thời như thế. Một thời, hàng triệu người Việt Nam đã phải bỏ lại sau lưng những gì mình trân quý nhất để ra đi tìm tự do. Một thời, những bài ca không còn được phép hát lên thay cho lời tỏ tình của những kẻ mới yêu nhau. Một thời, những bài thơ không còn được khắc lên hàng phượng đỏ trong sân trường làm chứng tích cho mối tình học trò đầy kỷ niệm. Một thời những căn nhà thân yêu đã bị thay đổi chủ và những trường học, những con đường thân quen đã bị đổi thay tên.

Trên website của tôi, bên cạnh bài thơ Vĩnh Biệt Em, Thu Cúc, là bức hình bốn người em ruột và một người cháu đang ngồi chung quanh thi hài đắp vải trắng của Thu Cúc. Chiếc dây đã được tháo khỏi cổ ra nhưng vẫn còn đặt bên cạnh em. Cả gia đình ngồi chung quanh em trong căn phòng đầy bóng tối. Không một ai nói lời nào. Bến bờ tự do còn quá xa xôi nhưng cánh chim đầu đàn vừa trúng đạn. Vách đá vô tri. Lời than vô nghĩa. Ngôn ngữ dù phong phú bao nhiêu cũng không thể nào tả được nỗi đau thương của các em lúc đó.

Mười tám năm sau.

Cách đây không lâu, một độc giả viết vào mục ý kiến bằng tiếng Anh phía dưới bài thơ. Tôi xin dịch ra tiếng Việt: “Tôi đánh tên của chị tôi trong Google và tìm được bài thơ này, và cũng thấy hình của 3 người anh, tôi, và cháu trai. Tôi cảm thấy thật buồn. Đó là ngày buồn nhất trong đời. Tôi sẽ không bao giờ quên ngày đó. Cám ơn ông Trần Trung Đạo, người đã viết bài thơ để san sẻ với hương hồn của chị tôi và san sẻ với chúng tôi về cái ngày khủng khiếp trong cuộc đời của chúng tôi. Tôi sẽ thương, sẽ nghĩ về và sẽ không bao giờ quên chị cho đến cuối đời mình. Tất cả gia đình tôi hiện đang sống ở Mỹ (tiểu bang Maryland). Tôi là người ngồi thứ hai từ phía trái và bà con trong trại ngày đó gọi tôi là CuBi”.

Tôi rất mừng khi đọc được ý kiến của CuBi. Hoàng Thị Thu Cúc đã chết trên đất Thái xa xôi để lại bốn người em trong đó có CuBi, ngày đó còn rất nhỏ. Chết là thách thức, võ khí và hy vọng cuối cùng của một con người trước hoàn cảnh. Em chọn cái chết, có thể một phần, vì nghĩ rằng chỉ với cách đó Cao Ủy mới chấp thuận cho các em của em được định cư. Thu Cúc nghĩ đúng, gia đình còn lại sau đó đã được công nhận quy chế tỵ nạn như CuBi đã viết dù đã trả bằng một giá quá đắt.

Đúng, sai, nên, không nên đều chỉ là những phán xét của hôm nay và vô nghĩa đối với những người ngày đó đang quằn quại trong vực thẳm.

Cám ơn Hoàng Thị Thu Cúc. Thân xác em như chiếc lá thu ngoài sân trại tỵ nạn Sikew ngày nào, đang hòa tan vào trong lòng đất nhưng cũng từ nơi đó những bụi Cúc vàng xinh đẹp và đầy hy vọng cho tương lai sẽ vươn lên.

Trần Trung Đạo
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Giàn đậu tím leo

Trần Khánh Liễm.

Anh tôi thích chơi cây từ nhiều năm nay.Trong vườn của anh có đủ mọi thứ cây.Chị tôi thường hay cằn nhằn:vườn nhà anh trông giống như cái rừng, chỗ nào trống là cấy bất cứ thứ cây nào vào đó.

Chúng tôi thường tới thăm anh chị một hai lần trong năm, nhưng anh chị thừơng hẹn những dịp thuận tiện khisau tết, lúc cây cối trong vườn trổ bông hoặc vào những ngày muàthu, khi cây cối của anh chị tôi vừa hồi tỉnh lại sau những tháng nóng bỏng của Houston mà anh chị thường gọi là cái đất ‘khỉ ho cò gáy’.

Ðể chứng minh anh thường nói: những người từ Cali thường hay mời anh chị sang chơi, vì cảnh đẹp, nhưng cảnh có đẹp thực với những quyến rũ của chúng, còn nơi đây ít ai tới.Mỗi lần nói tới là ai phía bên đó cũng sợ cái nắng nóng bỏng.

Có lần nghe anh kể: khi mới tới định cư tại xứ này, vào mùa hè thì ôi thôi, khí nóng bừng bực bốc lên từ những ống cống, không khác gì khi ở Sàigòn, buổi trưa hè đi qua ống cống xông lên mùi oi bức không thể chịu được.

Hình như những gì hay, những gì đẹp thì nó ở đâu ấy(!), không thấy ở xứ sở này.Cộng đồng người mình cũng thế: đông nhất ở Cali, những người đẹp, nhạc sỹ, thi sỹ, văn sỹ. Cũng vì người mình thích qui tụ với nhau ở một nơi, cái gì qui tụ vẫn tô đậm những vẻ tinh hoa của nơi đó, cái văn hoá của một lớp người di dân như chúng ta cũng thế.

Ðó cũng là nhận xét của đa số quần chúng. Anh kể: anh cũng đã ở Cali ba năm, cũng đi làm, cũng đi ngao du đây đó, nhưng tính anh thích chạy ngược chạy xuôi, tới một lúc hết chạy nổi, anh dừng chân ở đây và chọn nơi này làm quê hương.

Ba mươi mốt năm dừng chân tại đây, sau khi công ăn việc làn ổn định, con cái đi học đều hoà lại thì đời anh cũng phải trải ra trên một môi trường mà tạo nên cảnh sống cho chính mình và cho những người liên hệ, cho thân nhân, cho bạn bè.

Anh kể lại,ngày rời Cali về Texas, cô em gái khóc ròng như cha chết, vợ chồng ông bạn ngồi một đống không biết nói sao lời từ biệt.Anh ngậm ngùi ra đi.

Một tuần lễ trước khi đi xa,người em gái vừa tạo được căn nhà xinh xắn, Anh mua đủ mọi loaị cây từ kè, tới bông giấy, tới lựu, những cây xanh che bóng bên thềm.Sau khi hàng cây vừa cấy xuống, khung cảnh trở nên mượt mà quyến rũ. Anh an ủi người em: khi nào nhìn cây là đủ để nhớ đến anh, như thế là đủ. Có người bảo anh tôi: đi đâu anh cũng cấy cây nọ cây kia, mà thực như thế ai mà quên anh được.
Thập niên sau trở về Cali thăm anh em bà con, Anh ngỡ ngàng thấy mọi cảnh vật thay đổi nhiều quá: thành phố khang trang, cây kiểng khác nào đi vào những nơi thắng cảnh của xứ phù tang.Buổi chiều khi trở lại thăm vườn cũ của cô em, Anh thấy thú vị: cây bông giấy lúc này trông đẹp quá.Thân to bằng bắp vế, những cành đen nâu xậm mọc chằng chịt quanh tường, luồn vào những khúc gỗ dưới mái.Những cành hoa giấy mầu tím ôm chặt vào căn nhà diễm lệ.Cánh bông rơi đầy trên lối đi, trên thềm.Anh bước nhẹ trên những cánh bông đó, rón rén vì sợ mình quá tàn nhẫn đạp lện trên bức thảm đầy hoa yếu ớt ấy. Cô em nói nhỏ: Anh có nghĩ rằng, những cành hoa xậm mầu nâu này mọc chằng chịt, có lúc em tưởng chừng cánh tay anh đang ôm lấy hai vợ chồng em cả những lúc cuộc đời đầy sóng gió. Cứ nghĩ tới đó là em lại lên tinh thần, sống can đảm hơn, sống vững chãi hơn!..

Khi rời Cali,anh tôi bỏ lại người bạn đã học lâu năm ở Văn Khoa với nhau.Bạn của anh tôi có cử nhân Hán Học. Khi di tản, anh mang theo đầy đủ những sách cần cho việc tìm kiếm và xây dựng lại một nền văn hóa Việt nam.Việc làm và mộng ước của anh cũng giống như bất cứ những bậc thức giả nào rời quê hương sống nơi hải ngọai.Bạn của anh tôi cũng như những nhà văn, những bậc thức giả khác, ai mà chả có cái tâm với nền văn học nứơc nhà. Anh ở trên một khu chung cư tại Los Angeles. Khu chung cư được xây cất có nhiều cấp bậc cao thấp khác nhau.

Một hôm anh tôi tới thăm bạn, khi nói về việc làm văn hoá tại đây.Anh tôi rất tán thành với ý định đó. Thế nhưng anh tôi nói: bạn là con thày thuốc bắc, cả dòng họ làm nghề này từ Bắc vào Nam, rồi bây giờ sang đây nữa, nghĩ thật thuận chiều. Anh tôi thấy trên cao nhất cuả khu chung cư có ba đơn vị gia cư. Anh nói với bạn: “này bạn, tôi có ý nghĩ như thế này: chúng ta thuê cả ba căn trên nơi cao nhất này, căn giữa để tượng Phật, căn bên cạnh phò một thày đến lo phật sự, bên kia hai chúng ta mở phòng mạch bốc thuốc cho thiện nam tín nữ, cho chúng sinh”. Người bạn của anh tôi nhìn trừng trừng trả lời: “ ông bạn không nghĩ tôi đã đi học thuốc tây rồi bỏ cuộc, bây giờ trở về làm nghề thuốc bắc, người ta cười vào mặt cho chứ ”.

Anh tôi nói cho bạn: cứ nghĩ thế thì chúng ta không làm được gì hết, kìa ông bạn của chúng ta trước ở nhà làm trưởng ty quan thuế, nay đi bốc thuốc bắc, thì đã sao. Anh tôi quả quyết : “bảo đảm bạn hơn anh chàng kia nhiều đấy”.

Cái lý luận của những bậc thức giả như bạn của anh tôi không thể thành công ở xứ sở này.Anh tôi lại kể chuyện lập am, thỉnh thày về làm việc Phật sự với một số bạn lúc đó học cùng lớp ở California. Cả thập niên sau, một vị trong lớp của anh tôi đã nghe anh tôi kể chuyện, anh này đã làm dự án lập am, thỉnh thaỳ về, thế là anh bạn này đã thành công. Anh ta có tới hai ngôi chùa được tổ chức y hệt như dự án anh tôi đã nói với người bạn thức giả kia.

Bạn của anh tôi đãhọc mấy khóa làm nhà in, bây giờ nghề nghiệp đã vững,ông bắt tay vào việc. Ông nói:“ mọi chuyện điều hành là ở cậu đó”.Anh tôi ư hự,trao cho bạn năm trăm dollars làm vốn. Anh tôi bỏ California vào cuối tháng tám, muà bão tố ở đây.Năm 1979, anh tôi đã học được bài di tản mau lẹ.Bão lụt hoan hỉ đón gia đình anh tôi.Anh cắn răng chịu,“chẳng cái dại nào bằng cái dại nào”!

Ít tháng sau vào cuối năm 1979, anh tôi nhận được hai mươi cuốn báo Văn Hiến số một ( tập san văn hóa xã hội ) của người bạn gửi từ Cali sang. Khổ báo trông gọn gàng bằng khuôn khổ bình thường 5.5 x 73/4 như tất cả sách khác, bìa hình mầu tím có tranh của Tú Duyên vẽ cảnh chị em Kiều đi du xuân với:chủ đề Tửơng Niệm Ðại Thi HàoNguyễn Du. Bài vở đầy đủ về Nguyễn Du tiên sinh.Vị đại diện có tên trên trang 2:cụ Ðào Ðăng Vỹ,người phụ trách điều hành Phạm Biển Thứơc,bạn anh tôi.

Ban biên tập gồm nhiều bậc thức giả như cụ Bùi Kỷ, tựa đề truyện Kiều (Chu Mạnh Trinh ), thân thế sự nghiệp và tâm tình của Nguyễn Du do cụ Lê Xuân Giáo, người hàng xóm của bạn anh tôi, lâu lâu các anh lui tới thăm viếng. Cũng nên kể thêm tên cụ Ðào Ðăng Vỹ, GS Trần Ngọc Ninh, Nghiêm Xuân Hồng,, Nguyễn Ngọc Huy, Bùi hữu Sủng v. v.. đủ mọi khuôn mặt đáng giá trong nền văn học Việt Nam đã di tản sang đây.Anh tôi nghĩ nếu có ai viết về chuyện Kiều, không thể nào hơn được những điều các cụ viết trong tập Văn Hiến này.

Sau đây là bài mừng Ðặc san Văn Hiến do cụ Hồng Liên Lê Xuân giáo, cũng là để tưởng nhớ đến một vị lão thành yêu văn hoá:

Ðặc san Văn Hiến mới ra đời
Mừng báo nay xin có mấy lời
Hào khí bay tràn muôn dặm tuyết
Hùng tâm rung động mấy ngàn khơi
Việt Nam muôn thuở thêm bền vững
Văn Hiến ngàn năm vẫn sáng ngời
Chúc báo ngày ngày thêm lớn mạnh
Tiếng vang dội khắp bốn phương trời.

Chiều ý bạn,anh tôi đưa tới chợ khá nổi tiếng ở Houston, sau này biết được ông chủ không bao giờ hoàn lại những khoản tiền cho những người trao hàng cho ông, cả cộng đồng đêù biết việc này.Anh tôi thương bạn đã cố gắng nhiều để gom góp bài vở của những bậc thức giả, khởi đầu công việc xây dựng lại nền văn hoá Việt Nam nơi hải ngoại.

Ít lâu sau, nghe nói bạn anh tôi mời một người khác cộng tác,thay thế cho anh tôi đã được dự đoán trong đầu của bạn anh tôi.Toà soạn có nhà in đàng hoàng, nhưng không thấy số báo thứ hai.Sau này nghe tin người bạn đó đã đưa nhà in lên miền bắc.Bạn anh tôi buồn vì anh tôi đã đi xa. Tờ báo chết yểu ! tài sản bị tiêu tan : tin bạn ‘mất vốn’.

Như đã nói, khi tới lập nghiệp ở đây,gia đình anh tôi phải đương đầu vơí giông tố, bão lụt. Nổi đình đám hơn hết là bão Alicia.Khi radio của thành phố báo động,ngừơi dân tại đây đổ xô ra đường.Lúc đó mưa như đổ trút nước xuống. Ðường ba lanes biến thành năm,cộng thêm hai feeder hai lanes thành ba. Thế mà xe chỉ đi được từ năm tới mười dặm một giờ.Ra đường từ bảy giờ tối, mãi năm giờ sáng gia đình anh tôi mới tới được Hantsville, cách Houston trên một trăm dặm.Ðoàn người được hồng thập tự dẫn vào khu trường học gần đó.Chăn chiếu đã có sẵn, càfé, bánh ngọt đầy đủ.Anh em quen thuộc trong lối xóm qui tụ lại một phòng của lớp học. Nhân cơ hội này, anh tôi lại bắt đầu có những liên hệ mới,quen cả một gia tộc của người đàn anh cùng trường thuở xa xưa, cùng cư ngụ trong lối xóm.Thế là sau đó các gia đình lại thân thiện, nối tình đồng hương trong mọi sinh hoạt vào cuối tuần hay trong những dịp lễ lớn.
Cách đây trên thập niên, một người bạn tới thăm anh tôi, nhìn những cây kiểng mượt mà, bạn tôi lắc đầu : “ tôi biết anh đang hướng về một lối sống khác, anh đã dừng chân lại”.

Dừng chân lại có thể là tránh những hoạt động ồn ào để đi vào im lặng,để có thì giờ ngồi thiền nhiều giờ, để có thì giờ nhìn từng cánh hoa, từng búp măng đang nẩy mầm trong vườn.

Cái tật đi đâu cũng thế thôi,anh tôi tìm tới những chỗ ít ồn ào, dăm bangười ngồi nói chuyện với nhau bên chén trà đầy hương thơm.Ở nơi đất xa lạ này, anh tôi cũng có những ngừơi bạn.Khi xưa anh tôi nên người vì anh chơi với những ngừơi lớn tuổi để học khôn, nay lớn tuổi anh chơi với những người bạn trẻ để lấy lại sức sống.

Qua nhiều thập niên, thành phố này cũng đón nhận nhiều bậc thức giả.Thế là những chuyện văn học, báo chí.Tất cả những vẻ đẹp lại bắt đầu thăng hoa.Anh tôi lại có dịp chơi với những người bạn ưa làm văn hoá.


*


Một buổi chiều thu, anh tôi mang theo một chậu hoa đậu tím cho vợ chồng bạn văn. Do bàn tay khéo léo của ngừơi chồng, giàn hoa đã trở nên tươi tốt leo trên những khung gỗ, luồn lọt vào những chiếc xà trên mái nhà. Người vợ cảm thấy những rung cảm cho hồn thơ mỗi khi ngồi một mình bên phiá hiên nhà.Những khi rảnh rỗi vợ chồng cảm thấy thoải mái ngồi nói chuyện bên hàng hiên.Dàn đậu nở hoa sau những cơn lạnh nghiệt ngã làm chết đa số cây trong vườn.

Cuối tuần qua,anh tôi tới thăm một cặp vợ chồng bạn văn với anh. Ngồi dưới giàn hoa đậu tím, cành cây chen nhau mọc lả lướt với những chùm hoa quyến rũ, anh tôi cảm thấy tâm hồn thỏai mái, tâm tình anh với bạn bè thân thiết như thế. Chén trà thơm khói bay như quện vào tâm tình cặp bạn trẻ. Anh đang tìm lại những liên hệ tạo nên sức sống của con ngừơi.

Trần Khánh Liễm.
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Ăn rau không chú ơi?
Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

- Ăn hộ tôi mớ rau...!

Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa mới buổi sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh. "Mình thương người thì ai thương mình" - cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.

- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơi! Tiếng bà cụ yếu ớt.
- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!

Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.

Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:

- Rau này bà bán bao nhiêu?
- Hai nghìn một mớ - Bà cụ mừng rỡ.

Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.

- Sao chú mua nhiều thế?
- Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!

Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.

Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ...

-Nghỉ thế đủ rồi đấy!

Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.

Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ.

Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế.
Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện.

Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:

- Bà bán rau chết rồi.
- Bà cụ hay đi qua đây hả chị? - chị bán nước khẽ hỏi.
- Tội nghiệp bà cụ! một giọng người đàn bà khác.
- Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán (vì nghe đâu bà ta bán cho người khác rồi và người mua nhờ giữ hộ để họ sẽ đến lấy), rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh.

Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi.
Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo kia. Gã không ngờ...!

(Nhận được từ trên Internet/không rõ xuất xứ)
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image


Giọt mưa trên tóc
Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục:

- Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt.

Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận:

- Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?

Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:

- Mình đi chung mà Kim.

Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”... Một “cái gì”... Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm: “Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng...”. Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng...” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.

Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường... đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.

Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau...

Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:

- Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng...

- Sao Nghĩa biết?

Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.

Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:

- Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.

- Họ đi thoát không?

- Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.

Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:

- Không biết họ đi có thoát không?

Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:

- Gia đình Kim có định... có định... đi không Kim?

Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:

- Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?

Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết...

Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng...

Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, đèo nhau trên xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!

Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:

- Còn Nghĩa? Có tính đi không?

Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:

- Kim trả thù hả?

Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi.

Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.

Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.

Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!

Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.

- Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?

Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:

- Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó... Nó...

Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.

Nghĩa tiếp:

- Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!

- Cái gì uổng?

Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:

- Thì...

Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:

- Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.

Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.

Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.

Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:

- Thôi, “bye” nghe Kim.

Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.


***

Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:

- Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.

Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:

- Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?

Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”. Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng: “Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”. Vậy mà bây giờ... bây giờ... Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song... Vậy mà bây giờ... bây giờ... Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ... những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày... bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?... Kim?... Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!

Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:

- Con đem trả sách cho thằng Tuân.

Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:

- Trả cho nó học.

Ba gật đầu:

- Ờ... Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?

Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:

- Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.

Nghĩa "dạ" rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.

Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?... Ra sao?...”. Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh...

Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Dạ thưa cháu.

Nghĩa trả lời.

- Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?

Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:

- Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao...

Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách! Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng gie ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.

Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút... như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ... Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi... Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ...

Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:

- Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?

Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.

Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ... cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn... Vĩnh viễn...”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu... tình yêu... tình yêu...

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên...

Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh: "Nghĩa đi hả?"

Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa? Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt....

Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt... mai mốt... Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng...

Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:

- Chừng nào?

Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:

- Khuya!

Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa... Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như... siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!

Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.

Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất... Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.


***

Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn...

Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ...

Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….

Nghĩa đốt điếu thuốc. Hít một hơi dài bỗng nghe khói thuốc thật đắng và làm cay chảy nước mắt!

Tiểu Tử
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

CÁI SỐ!

Hưng Yên
Câu nói “Ðôi giầy, đôi dép còn có số nữa huống chi là con người” tuy chỉ là câu nói đùa thôi, nhưng mà nó đúng đấy các cụ ạ, con người ta ai cũng có một cái số cả. Cứ từ từ rồi chúng tôi sẽ trình bầy để các cụ rõ rồi tin hay không thì tùy các cụ, nhưng mà cụ nào không tin thì có khi là con người “Yếu nhân đức tin” đấy.

Cũng cùng được sinh ra cùng phút, cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm nhưng người này được sinh ra là con nhà giầu, người kia sinh ra là con nhà nghèo, người sinh ra ở Mỹ, người sinh ra ở Việt Nam, người da trắng, người da đen, người da vàng, người thông minh, người cà đẫn, người sướng, người khổ không ai giống ai. Ngay cả trong cùng một nhà, anh chị em cùng cha cùng mẹ mà số phận mỗi người cũng mỗi khác, thế thì không phải là mỗi người đều có một “Cái số” thì là gì? Thế nào chả có cụ bảo: “Ối dào, nhà bác chỉ tin nhảm, số cái con mẹ gì, cũng chỉ là hên xui thôi”. Vâng, giá là đi đánh bạc thì có lúc “hên” lúc “xui” thật, chứ còn giầu nghèo, sướng khổ thì không thể gọi là hên xui được. Thế còn người này thì lấy được vợ đẹp, người khác lại lấy phải vợ xấu, hay là có người đàn bà trông tướng người cũng bình thường thôi thì lại lấy được chồng danh giá, chánh thất đàng hoàng, trong khi có người trông cứ đẹp như tiên ấy, nõn nường thơm phức thì lại là người của giới “Chị em ta” hoặc là làm bé làm mọn. Thúy Kiều “Làn thu thủy nét xuân sơn, hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” thì 15 năm lưu lạc, đến nỗi thi hào Nguyễn Du đã phải kêu lên: “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”! Thế không phải là “cải số” hay sao?

Các cụ chắc còn nhớ vũ nữ Cẩm Nhung chứ nhỉ? Giá ngày đó “Mình” mà vớ được nàng thì cứ gọi là sướng như... Vua, thế mà chỉ cần một bát át xít của bà vợ ông trung tá Thức thôi, vũ nữ Cẩm Nhung đã trở nên như thế nào thì các cụ cũng biết rồi đấy! Vũ nữ Cẩm Nhung thì thế, còn ca sĩ Minh Hiếu - đã chắc gì đẹp bằng vũ nữ Cẩm Nhung - thì lại “chớp” được anh cả Trường Sơn “3 sao” Vĩnh Lộc, danh giá một đời. Chả lẽ những điều chúng tôi vừa trình bầy ở trên đều là hên, xui cả sao? Không có đâu, “Cái số” cả đấy các cụ ạ.

Cũng bởi con người ta ai cũng có một “cái số” và ai cũng muốn biết cái số của mình nó ra làm sao, sướng khổ thế nào nên mới nẩy sinh ra một cái nghề gọi là nghề coi “Tướng số”. Mới có cái gọi là “cải số ”, có nghĩa là làm cho cái số nó khác đi, xấu thành tốt, xui thành hên. Mới có câu nói là “Ðức năng thắng số”, có nghĩa là tuy gặp phải số xấu nhưng nếu ăn ở có đức thì cũng có thể biến xui thành hên, xấu thành tốt được.

Muốn biết cái “số” của mình nó ra làm sao dĩ nhiên là phải đi gặp thày “Tướng Số” rồi, nhưng khổ nỗi có phải thày nào cũng là thày giỏi đâu! Mười vị thì hết đến chín vị là dỏm nhưng lại “nổ” còn hơn pháo tết. Cũng là thày bói cả nhưng có vị xưng là Tiên tri, có vị xưng là Bốc sư, có vị xưng là Giáo sư, có vị xưng là Mét tờ rờ, có vị lại chỉ xưng một tiếng “Thày”. Trước 1975 Việt Nam ta có 2 vị “bốc sư” nổi tiếng nhất là Mét Tờ Rờ Khánh Sơn và Tiên Tri Gia Cát Hồng. Mét tờ rờ Khánh Sơn khoe đã từng coi cho Cựu Hoàng Bảo Ðại và Toàn Quyền Pasquier, nhưng “số” của thày thì thày lại cóc biết, vì nếu biết thì thày đã cải số để khỏi đi ở tù rồi. Còn Tiên Tri Gia Cát Hồng thì chắc là dòng dõi của Gia Cát Khổng Minh bằn Tàu đây. Thày tiên đoán cả 3 phi hành gia của phi thuyền Apollo 11 đều có đi mà không có về, thế nhưng 3 ông đi rồi 3 ông lại về, chả ông nào rụng mất một sợi lông chân, bói thế mà cũng đòi làm thày bói!

Ðến đây chắc các cụ hết còn nghi ngờ gì về mỗi con người đều có một cái số cả, thảng hoặc có cụ nào vì Yếu nhân đức tin mà chưa đủ lòng tin cho lắm thì chúng tôi lại xin được chứng minh thêm để củng cố thêm lòng tin cho các vị ấy.

Như chúng tôi đã trình bầy ở phần trên, có anh tướng tá chẳng ra gì mà lại vớ được bà vợ đẹp hết xẩy, hoặc có chị đẹp như tiên mà lại lấy phải thằng chồng chẳng ra gì, người ta bảo như thế là vì “Phải duyên phải số”. Cùng đơn vị với chúng tôi thuở ấy có một ông Chuẩn Oái (chuẩn úy), tuổi đă xồn xồn nhưng ông kén vợ khiếp lắm, anh em giới thiệu cho ông người đẹp nào ông cũng chê. Người ông chê thấp, người ông chê cao, người ông chê gầy, người ông chê mập. Hoặc là đẹp mà không có duyên, hoặc là thế này, hoặc là thế nọ..., rốt cuộc những người ông chê đều lần lượt đi lấy chồng hết cả, còn riêng ông thì vẫn cứ trơ thân cụ. Vì giới thiệu ai ông cũng chê nên riết rồi anh em cũng chán, chẳng ai thèm giới thiệu nữa, để ông tự đi tìm lấy một mình. Dĩ nhiên cuối cùng thì ông cũng tìm được vợ. Anh em chúng tôi ai nhìn thấy vợ ông cũng đều thở dài, đúng là: “Chê tôm ăn cá lù đù, chê thằng ỏng bụng lấy thằng gù lưng”. Bà vợ ông cao ngỏng cao ngòng mà lại gầy đét như con cá hố!

Bây giờ thì các cụ đã đủ lòng tin là mỗi người đều có một cái số cả chưa, hay là vẫn còn có cụ bảo: “Toàn là nói những chuyện ở đâu đâu, thế còn nhà bác thì sao? Có số hay không có số”? Dĩ nhiên là “Nhà cháu” cũng phải có số chứ.

Ngay từ hồi còn nhỏ, mới đang học lớp ba hay lớp nhì gì đó là thày bu tôi đã nhắm vợ cho tôi rồi. Nàng là người làng bên, là em họ của một trong số ba ông anh rể của tôi và cũng học cùng trường, cùng lớp với tôi. Nàng lớn hơn tôi 1 tuổi, người nhỏ nhắn, mảnh mai, mặt trái soan, da trắng như trứng gà bóc trông xinh lắm. Trong khi tôi thì kheo khẳng kheo khừ, đen như củ súng và nghịch như quỷ. Cả hai bên gia đình đều đồng ý đợi cho hai trẻ lớn lên là cho chúng tác hợp để được trọn đời hạnh phúc bên nhau. Dĩ nhiên điều này cả tôi lẫn nàng đều biết và không đứa nào có ý kiến gì; riêng tôi thì cũng thấy vui vui trong bụng (còn nhỏ thế mà đã biết rồi đấy các cụ ạ). Sau 1954 di cư vào Nam, gia đình tôi ở Nha Trang, gia đình nàng ở Sài Gòn, hai đứa vẫn tiếp tục đi học và ý định trong một tương lai gần chúng tôi sẽ trở thành vợ chồng cũng vẫn không có gì thay đổi, cho tới một buổi chiều...

Error! Filename not specified.Cho tới hôm nay tôi vẫn vòn nhớ như in trong bụng - đúng là một buổi chiều định mệnh - hôm đó là một buổi chiều Chúa Nhật. Tôi định đi coi xi nê nhưng xe đạp bị xẹp lốp, thay vì đem xe đi vá thì tôi lại dựng xe vào một góc nhà rồi đi bộ đến nhà thờ. Không phải tôi siêng năng đạo đức gì đâu, khô như ngói ấy. Ðến nhà thờ chỉ với mục đích kiếm mấy thằng bạn để nói dóc, nhưng chúng nó đều đi đâu mất cả. Gặp đúng giờ lễ, tôi vào quỳ gối trong nhà thờ. Liếc mắt sang phía mấy “O” xem có gì lạ không? Nhìn là nhìn thế thôi chứ tôi biết tỏng đi toàn khu này không có O nào bằng được nàng của tôi ở Sài Gòn. Có mỗi một O coi hơi đường được một tí thì thằng bạn thân nhất của tôi nó “xí phần” rồi. Nhưng mà lạ chưa, một con nhỏ tôi chưa từng gặp bao giờ và đẹp hơn tất cả đang quỳ ở dẫy ghế bên kia. Xong lễ, ra khỏi nhà thờ tôi lại gặp “Nhỏ” một lần nữa. Chính lần gặp này “Nhỏ” đã cho tôi đo ván không trỗi dậy được. Tôi fell in love các cụ ạ, fell in love! Mấy tháng sau thày bu tôi phải viết thư vào Sài Gòn xin lỗi gia đình người bạn học ngày còn nhỏ của tôi vì có thằng con trai cứng đầu cứng cổ không bảo được. Bây giờ nó đòi lấy người khác chứ nhất đinh không chịu lấy người mà cha mẹ đã định sẵn cho nữa. “Nhỏ” đã hạ tôi knock down chính là bà xã tôi bây giờ đấy các cụ ạ, nàng nhỏ hơn tôi 4 tuổi và gia đình nàng mới “mu” từ nơi khác đến ở cùng xóm với tôi mà tôi không biết.

Trước ngày sang Mỹ theo diện HO, tôi đã có dịp về Sài Gòn dự đám cưới thằng cháu kêu tôi bằng cậu. Nó là con trai của người chị gái thứ ba của tôi và cũng trong dịp này tôi đã gặp lại nàng, người bạn học thuở nhỏ mà suýt nữa đã trở thành vợ của tôi. Hai chúng tôi ngồi ôn lại những kỷ niệm của buổi thiếu thời. Nhạn nhắc đến những người bạn học của những ngày còn nhỏ nay ai còn ai mất, nàng đã nhìn tôi cười bảo:

- Ngày đó nghe bố mẹ bảo lớn lên sẽ lấy anh thì em cũng bằng lòng, sau lại nghe bên nhà anh sắp sửa xin làm đám hỏi, rồi đùng một cái lại nghe là anh đã lấy vợ. Anh lấy vợ rồi thì ít lâu sau em cũng lấy chồng thôi.

Tôi cũng ngập ngừng bảo nàng:

- Chị không lấy tôi là may lắm, chứ lấy chồng lính có sướng gì. Tôi mười mấy năm trong quân đội, sau đó lại phải tù phải tội, bà nhà tôi suốt đời long đong lật đật.

Nghe tôi nói vậy, nàng thở dài chép miệng :

- Âu cũng là cái số!!!

Âu cũng là cái số thật! Tôi lấy vợ thì nàng lấy chồng. Chồng nàng là một vị giáo sư trung học, tuy có hơi lớn tuổi một chút nhưng lại khỏi phải đi lính nên đã không phải đi tù cải tạo. Xét về mặt nào đó thì nàng sướng hơn vợ tôi nhiều, phải chăng số nàng là số sướng còn số vợ tôi là số khổ? Phần tôi, tôi lại thấy số tôi là số sướng vì tôi đã lấy được người tôi yêu.

Hưng Yên
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Người Bolsa và khách lỡ đường

Ngọc Lan/Người Việt
WESTMINSTER (NV) - Cổng thương xá Phước Lộc Thọ sớm Thứ Bảy cuối tuần này vẫn đông đúc như bao Thứ Bảy khác.

Nhiều người đàn ông ngồi quanh các băng ghế trước cổng Phước Lộc Thọ rôm rả câu chuyện bốn biển năm châu bên ly cà phê, bên tờ nhật báo.

Nhiều người dân địa phương, nhiều khách thập phương qua lại, ra vào thương xá mua sắm, chụp hình.
Image


Lẫn trong những hình ảnh và âm thanh đời thường đó, là một người đàn ông trên dưới 40 ngồi lặng lẽ trên thanh gỗ phía trước cổng thương xá, cạnh bên là vài chiếc va ly hành lý cũ kỹ. Nét mặt người đàn ông pha trộn sự bồn chồn, mệt mỏi, lẫn âu lo. Trông như ông đang chờ đợi một điều gì.

Một người phụ nữ ngoài 60, mang dáng vẻ của người phụ nữ Nam bộ mộc mạc, chân chất, cắm cúi đi hướng vào bên trong khu thương xá nổi tiếng của người Việt. Bước ngang qua mặt người đàn ông, người phụ nữ nhẹ nhàng nhắc, “Ngó chừng đồ đạc cẩn thận, chú ơi!”

Người đàn ông gật đầu cám ơn.

* * *
Người phụ nữ tiếp tục đi.

Lát sau, người phụ nữ từ trong chợ đi ra, tay cầm túi đựng những hộp đồ ăn food-to-go.

Người đàn ông đang ngồi cùng đống hành lý trông thấy người phụ nữ đã “nhắc nhở” mình lúc nãy, ngập ngừng hỏi, “Dì ơi, làm ơn cho con hỏi, ở đây có chỗ nào bán thẻ điện thoại gọi về Việt Nam không? Con ở xa mới tới đây nên không biết chỗ.”

Hỏi chuyện qua lại, người đàn ông nói cho người phụ nữ biết anh từ Việt Nam mới sang được 3 tháng, ở Boston. Anh đến Little Saigon tìm việc làm chăm sóc cho một người bị liệt, mỗi tháng được trả $1,200 và bao ăn ở.

Tuy nhiên, mới làm được 8 ngày thì sáng nay anh bị chủ nhà đuổi vì “nói anh không biết làm.” Giờ anh ra đây ngồi và tìm cách gọi điện cho người quen, “nghe nói ở gần đây,” để họ đến đưa anh về ở đỡ rồi “từ từ tính tiếp.”

Nghe chuyện, người phụ nữ lấy điện thoại của bà đưa cho người đàn ông, “Nè, chú lấy điện thoại của tui gọi đi.”

Người đàn ông mừng rỡ, lấy quyển sổ tay có ghi số điện thoại, vừa bấm số, vừa nói, “Con cám ơn dì nhiều lắm. Dì tên gì vậy?”

“Tui tên Phúc. Chú gọi nói cho họ biết là chú đang ở Phước Lộc Thọ để họ biết chỗ đón.” Bà Phúc trả lời. “À, chú tên gì vậy?”

“Dạ, con tên Hưng,” người đàn ông 40 nói trong lúc chờ phía bên kia bắt máy.

Một người đàn ông khác, đội nón, đeo kính râm, đang ngồi uống cà phê gần đó bước đến. Qua giới thiệu thì đó là cháu của bà Phúc.

Bà Phúc kể nhanh chuyện anh Hưng cho người cháu nghe, xong lại hướng về anh Hưng, “Chú hỏi địa chỉ đi rồi nhờ anh này chở về cho.” Người cháu bà Phúc cũng gật đầu tỏ vẻ đồng ý.

Sau một vài lần bấm số, anh Hưng cũng nói chuyện được với người quen. Anh Hưng chuyển điện thoại sang cho người cháu bà Phúc, “Anh làm ơn nghe để người cô tôi chỉ đường giùm.”

Cháu bà Phúc sốt sắng trả lời phone, “OK, cho địa chỉ và chỉ đường đi, tôi chở anh này về giùm cho.”

Phía bên kia đọc địa chỉ, và chỉ đường đi. Nghe một hồi, người đàn ông đội nón kêu lên, “Ô, xa lắm, từ đây lên đó tới 5, 6 tiếng lận!”

Người quen của anh Hưng nhắc đi nhắc lại “ở đây xa lắm, đi 5, 6 tiếng lận,” rồi tắt máy. Cháu bà Phúc thử bấm số gọi lại nhưng phía bên kia không có người trả lời nữa.

Gương mặt người đàn ông tên Hưng lộ vẻ hoang mang.

Bà Phúc và người cháu dường như cũng áy náy cho tình cảnh của anh.

Tìm hiểu tiếp thì biết anh Hưng qua đây theo diện du lịch. Sẵn được sang Mỹ, anh Hưng muốn ở lại tìm công việc làm kiếm thêm ít tiền, “làm gì cũng được, đâu có nề hà gì đâu.” Công việc của anh Hưng là chăm sóc cho con trai của một bà cụ ngoài 80 tuổi. Người con trai này “bị liệt.” Tuy nhiên, “bà cụ khó quá, làm gì bà cũng không vừa ý.” Sau 8 ngày làm việc, sáng nay là ngày thứ 9, bà cụ đuổi việc anh và trả cho anh tiền công trong những ngày làm vừa qua là $40.

“Sao con làm 8 ngày mà bác trả con có $40 vậy?” Anh Hưng hỏi, và nhận được câu trả lời là “vì cậu làm không được việc.”

Không người thân thích, lạ nước lạ cái, anh Hưng chỉ còn biết kéo hết hành lý ra ngồi ở Phước Lộc Thọ và chờ gọi cho người bà con mong họ đến đón về cho tá túc đỡ trong khi tìm công việc khác.

Như một nét văn hóa của người Việt, thấy có chuyện lao xao, nhiều người bước tới nghe.

Người im lặng lắng nghe. Người bực bội lên tiếng, “Sao kỳ cục vậy! Không mướn nữa cũng phải trả đủ tiền cho người ta chứ!” Người lại đề nghị xem có cách nào giúp đỡ người đồng hương đang gặp khó khăn không.

Bà Phúc không biết đi từ lúc nào giờ trở lại với ổ bánh mì và ly cà phê sữa trên tay.

Bà đưa thức ăn cho anh Hưng, dặn dò, “Chú ăn bánh mì và uống cà phê đi. Ngồi đây đi, coi chừng đồ đạc cẩn thận. Rồi xem coi có ai có cách gì giúp không, chứ nhà bà con chú xa quá tụi tui không chạy tới được.”

Dường như đói, anh Hưng cắn ổ bánh mì không ăn một cách ngon lành.

Một người đàn ông đứng gần, nghe chuyện, lên tiếng, “Ði hỏi xem có tiệm ăn nào quanh đây cần người không, lương ít ít cũng được, nhưng người ta cho ăn, rồi kiếm đỡ chỗ nào nghỉ tạm cũng được.”

Bằng giọng người quê mộc mạc, bà Phúc nói, “Thiệt tình nghe tội nghiệp quá tui cũng muốn cho chú về nhà tui ở đỡ. Nhưng tui cũng chỉ shared phòng của người ta, giờ đưa thêm người về sợ họ không đồng ý.”

Câu chuyện râm ran.

Một người phụ nữ khác, tên H.N., đi ngang nghe chuyện, nói, “Thôi thì nhà tôi cho ‘shared’. Tôi cho anh về ở đỡ không lấy tiền, cho anh ăn cơm nước. Chờ khi nào anh tìm được việc rồi tính.”

Anh Hưng nhìn những người không thân thuộc bằng đôi mắt biết ơn.

Một người đàn ông gầy gầy, ngoài 60, từ chỗ những người uống cà phê đi nhanh tới, dúi vào tay anh Hưng tờ $10, nói nhỏ, “Cầm lấy.” Rồi ông quày quả bỏ đi, không cần nghe một lời “cám ơn.”

Thêm vài người nữa, cũng móc vội ít tiền cho “người lỡ đường.”

* * *

Cổng Phước Lộc Thọ vẫn tấp nập người qua lại, ra vô trong buổi sáng cuối tuần nắng chói chang.

Câu chuyện người đồng hương Việt Nam chân ướt chân ráo đến Mỹ gặp cảnh trớ trêu sẽ như bao câu chuyện khác nhanh chóng rơi vào quên lãng.

Còn lại chăng, có lẽ là những tình cảm giản dị, chân thật, không màu mè của người bình dân quanh Litte Saigon này đối với người gặp lúc khó khăn, đã trở thành một điều gì đó rất riêng, và rất đẹp.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Cơm Nguội -

Tiểu Tử
Ông già đó lái xe đưa hai thằng cháu nội sáu bảy tuổi đi ăn MacDonal's.

Bữa nay chúa nhựt, vợ chồng thằng con ông không có đi làm, nhưng vì phải đi dự đám cưới của một người bạn vào buổi trưa nên thằng con ông nhờ ông đến nhà vừa giữ nhà vừa trông chừng hai đứa nhỏ.

Nó đã điện thoại cho ông hôm tuần trước để…"xí chỗ" bởi vì nó biết hai đứa em của nó lâu lâu cũng nhờ ông làm như vậy.

Nhà ông chỉ cách nhà của các con ông có ba bốn chục phút xe hơi – nếu xa lộ không bị kẹt – nên việc đi lại không gây nhiều phiền phức.
Ông sống một mình, thành ra khi đứa con nào cần, gọi ông là ông " ừ " !
Trừ phi ông đã hẹn lỡ với mấy ông bạn già đi đánh bài ở nhà ông nào đó, hay đi ăn phở ở khu 13 chợ tàu Paris…

Giữ hai đứa cháu đến bốn giờ chiều vẫn chưa thấy cha mẹ chúng nó về.
Giờ này phải cho chúng nó ăn cái gì – quen giữ mấy đứa cháu nên ông rành thông lệ đó.
Ông đề nghị đưa chúng nó đi ăn MacDo's, hai đứa vỗ tay nhảy cẫng reo mừng.
Vậy là ông chở chúng nó đi, sau khi viết ít chữ để lại trên bàn ăn cho vợ chồng thằng con ông biết.

Nhà hàng nằm ngoài đồng nên có sân chơi rộng lớn với nhiều đu và cầu tuột.
Giờ này thật đông khách, nhứt là trẻ con. Nhờ có bãi đậu xe mênh mông nên ông già không phải khó khăn tìm chỗ.
Vừa xuống xe, hai thằng nhóc chạy thẳng ra sân chơi.

Ông già nói vói theo bằng tiếng Việt :
- Hai đứa muốn ăn cái gì để ông nội lấy.
Hai đứa không quay đầu lại nhưng nói to bằng tiếng Pháp :
- Hamburger và coca.
Ông lại hỏi :
- Không lấy happy meal hả ?

Hỏi như vậy, vì thông thường trẻ con hay lấy món đó để có đồ chơi.
Tụi nhỏ vừa trèo lên cầu tuột vừa nói lớn bằng tiếng Pháp :
- Không ! Cái đó của con nít !
Ông bật cười, vừa chửi thầm "cha tụi bây" vừa bước vào trong.
Nối đuôi một lúc rồi ông mang mâm đồ ăn ra ngồi ở một cái bàn ngoài sân dưới nắng, cho ấm.

Hai thằng cháu nội của ông đang chơi cầu tuột, la hét bằng tiếng Pháp, om sòm.
Trong đám trẻ tóc vàng, chúng nó tóc đen mắt hí nên dễ thấy. Ông nhìn theo tụi nó trèo lên tuột xuống, chen chúc với bầy tây con mà ông thấy thương.
Hai thằng cháu nội của ông chỉ hiểu chớ không nói được tiếng Việt.
Tiếng Việt, tụi nó nói được có hai tiếng " ông nội".( Đó là bây giờ, sau khi được ông sửa nhiều lần.

Chớ hồi còn bốn năm tuổi, tụi nó gọi ông bằng " ông nại", nghe thấy cười lắm !)
Thành ra, trong đối thoại giữa ông cháu, tụi nó nói tiếng Pháp, còn ông thì dùng tiếng Việt.
Ông nghĩ :" Cứ bắt tụi nó phải nghe tiếng Việt, kẻo không chúng nó sẽ quên.
Rồi mình sẽ đốc thúc ba tụi nó đưa tụi nó đi học nói và học viết nữa".
Một lúc sau, thấy hai đứa nhỏ chơi đủ lâu, ông đứng lên vẫy tay gọi :
- Tí ! Tú ! Lại ăn nè !
Tụi nhỏ còn ráng tuột thêm hai lần nữa rồi mới chạy vào, mặt mày đỏ ửng, mồ hôi mồ kê.
Ông nói :
- Vô toa-lét rửa tay rửa mặt rồi ra ăn.
Hai đứa gật đầu nhưng vẫn cầm ống hút chọc lủng nắp ly giấy, hút vài ngụm coca trước khi hí hửng đi vào bên trong.

Ông mỉm cười nhìn theo mà nghe tình thương dào dạt trong lòng
…Ông nhớ lại ở bên nhà hồi xưa, hồi thời mà cha chúng nó bằng tuổi chúng nó bây giờ, ông cũng hay dẫn đi " ăn cái gì " lúc bốn năm giờ chiều chúa nhựt.

Mà ở Việt Nam đâu cần phải lái xe đi cả chục cây số như ở xứ Pháp này.
Cứ thả bộ ra đầu ngõ là có đủ thứ để " bỏ bụng " : cháo lòng, mì, phở
…Hồi đó, khi được dẫn đi ăn, cha chúng nó cũng có bộ mặt hí hửng giống như tụi nó bây giờ.

Vậy mà cũng đã gần bốn chục năm…
Hai đứa nhỏ trở ra ngồi vào bàn ăn hamburger.

Thằng lớn, tên Tí, để ý thấy ông nội không có hộp MacDo's nào hết, bèn hỏi :
- Ông nội không ăn gì à ?
- Không, ông không có đói.
Ông cầm cái ly giấy đựng cà phê đưa lên :
- Ông uống một cái cà-phê là đủ rồi.
Thằng nhỏ, tên Tú, chen vào, miệng còn ngồm ngoàm hamburger :
- Mấy người già kỳ cục lắm !
Ăn uống không giống ai hết !
Thằng anh rầy :
- Nói bậy !
Mày nói như vậy là không có lễ độ !
Rồi nó lên giọng người lớn để dạy em, nói chậm rãi :
- Người ta nói : mấy người lớn tuổi không biết cách ăn uống. Mầy hiểu chưa ?
Ông bật cười, chửi đổng " Cha mầy " !
Thằng Tí không hiểu tiếng chửi đó nên hỏi :
Ông nội nói cái gì vậy ? " Cha mầy " là nghĩa gì ?

Ông đưa tay gãi cổ, tìm cách giải nghĩa :

- Ờ…ông muốn nói…Nghĩa là…Nghĩa là…

Thấy ông nội nó có vẻ gặp khó khăn trong tiếng Việt, thằng Tí đề nghị :

- Ông cứ giải nghĩa bằng tiếng Pháp đi, có lẽ dễ hơn đó !

Ông gật đầu, nói bằng tiếng Pháp :

- Ông muốn nói rằng…muốn nói rằng là … con dễ thương !
Thằ- Merci ! Merci !

Thấy thương quá, ông chồm qua mặt bàn hôn lên má phinh phính của nó. Thấy vậy thằng em đòi :

- Còn con ! Còn con !
Ông bèn đưa tay ôm hai cái đầu cụng lại rồi hôn chúng nó trơ trất. Hai đứa rụt cổ cười lên hắc hắc.
Trong khoảnh khắc đó, ông già cảm thấy không còn sự sung sướng nào bằng…
Ăn xong, thằng Tí xin phép ông nội cho tụi nó tiếp tục chơi một lúc nữa.
Ông vén tay áo nhìn đồng hồ rồi gật đầu. Hai đứa nhỏ vừa chạy đi vừa nói nửa tiếng tây nửa tiếng ta :
" Merci ông nội !".
Ông mỉm cười nhìn theo một lúc rồi mới đi vào bên trong lấy thêm một ly cà phê.
Ngồi vào bàn, ông vừa nhăm nhi vừa nhớ lại thời ông còn nhỏ. Hồi đó, ông ở dưới quê với bà ngoại.

Chiều nào đi học về, cũng bước vào bếp bốc một cục cơm nguội to bằng nắm tay rồi ra ngồi ngoài hiên ăn với miếng đường mía màu nâu sặm đen nhỏ bằng ngón chân cái.

Vậy mà sao ngon vô cùng !
Và ngày nào cũng vậy.
Hể nghe đói – ngoài hai bữa cơm chánh – là cứ vô bếp lục cơm nguội.
Lúc nào nấu cơm, bà ngoại cũng nấu nhiều.

Bà nấu trong cái nồi đất và không biết nấu cách nào mà khi nguội cơm dính vào nhau chớ không bời rời.
Cho nên chỉ cần cầm chiếc đũa bếp xắn xuống một cái là có ngay một cục cơm gọn bân !
Nồi cơm nguội luôn luôn nằm trên đầu ông táo. "
Để kiến đừng bò vô, vì kiến sợ tro bếp". Hồi đó nấu bếp bằng củi nên bếp đầy tro.
Lâu lâu, bà ngoại có hốt tro đổ bớt, nhưng vẫn chừa lại một lớp dầy để giữ than cho âm ỉ dùng " ghế" nồi cơm.
Bà giải nghĩa :
" Sôi vừa cạn nước là dập tắt lửa ngọn rồi cời than với tro ra khỏi chưn ông táo, bắc nồi cơm xuống đặt lên đó cho gạo nở. Như vậy kêu là ghế nồi cơm.

Nấu cơm ngon hay không ăn thua ở cái chỗ biết ghế hay không biết ghế. Chỉ có vậy thôi !".

Bà coi chuyện nấu cơm trong nồi đất và bằng lửa củi là chuyện dễ ợt.
Điều quan trọng đối với bà ngoại là phải nấu dư dư ra một chút.
"Cho thằng nhỏ nó có cơm nguội nó ăn".

Nói như vậy chớ thỉnh thoảng bà cũng cho "thằng nhỏ" một khúc khoai mì hay một củ khoai lang

…Những thứ không phải hiếm – nhứt là ở vùng quê – nhưng vì nhà nghèo nên những thứ như vậy cũng trở thành hiếm hoi cho lúc đói lòng của " thằng nhỏ"

…Nghĩ đến đó, ông già buông tiếng thở dài. Sao mà có thể nghèo như vậy được ?
Bà ngoại chỉ có mấy nọc trầu, vài hàng cau, đôi ba cây ổi cây mít…
Ngần đó thứ chỉ đủ cho hai bà cháu có hai bữa cơm rau khô mắm hằng ngày.
Vậy mà bà ngoại cũng ráng nuôi cho ông đi học. " Cái thứ mồ côi, Trời bù cho cái khác.

Thằng nhỏ sáng dạ học giỏi, bắt nó ở nhà chăn trâu sao đành".

Vậy là ông phải cắp sách đến trường như mọi đứa trẻ khác và chiều về nếu không có củ khoai thì vẫn còn có nồi cơm nguội...

Thành ra, cơm nguội đối với thằng nhỏ nghèo là ông hồi đó, lúc nào cũng có giá trị như hamburger của hai thằng cháu nội của ông bây giờ.

Còn hơn thế nữa là nhờ có cơm nguội mà ông đã đi hết bậc tiểu học một cách trơn tru rồi sau đó thi đậu học bổng vào trường lớn ở Sàigòn, cũng dễ dàng như bà ngoại nấu cơm trong nồi đất !
Ông già vén tay áo xem đồng hồ rồi đứng lên gọi :

- Tí ! Tú ! Về, tụi con !

Hai đứa chạy lại mang mâm hộp không ly không dẹp vào trong rồi theo ông nội chúng nó ra xe.

Về đến nhà thì ba mẹ của hai thằng nhỏ cũng đã về rồi. Ba chúng nó hỏi bằng tiếng Việt :

- Tụi con đi chơi có vui không ?

Hai đứa gật đầu. Thằng Tí giành nói :
- Ông nội cho tụi này chơi cầu tuột, chơi đu, lâu thật lâu. Đã luôn !
Ba chúng nó quay sang ông già :

- Tụi nó có ngoan không, ba ?
- Ngoan chớ. Dễ dạy lắm.
Mẹ chúng nó vừa đưa cho mỗi đứa một cái bánh sô-cô-la vừa nói bằng tiếng Pháp:
- Mẹ tưởng tụi con không có đi ra ngoài nên mẹ mua bánh cho tụi con đây.
Hai đứa vừa ôm mẹ hôn vừa nói
" Cám ơn ! Cám ơn !" tía lia. Thằng Tú bẻ cái bánh của nó ra làm hai rồi đưa phân nửa cho anh nó :
- Ăn với Tú nè !
Để dành cái bánh của Tí lát nữa ăn !

Thằng anh vui vẻ cầm lấy phần bánh nói " merci" rồi vừa hôn lên má em vừa nói bằng tiếng Việt :
Cha mầy !
Mẹ nó giật mình, trừng mắt, la lên bằng tiếng Pháp :

- Tí ! Sao con chửi nó ?

- Con đâu có chửi. Con nói nó dễ thương mà !

- " Cha mầy " là tiếng chửi đó !

- Hồi nãy, ông nội nói " cha mầy là dễ thương " !

Ông già bật cười trong lúc mọi người đều ngạc nhiên nhìn ông không hiểu. Ông nói :

- Ờ ! Hồi nãy ba có giải nghĩa như vậy khi thằng Tí nói một câu dễ thương.
Thật ra, hai tiếng đó tùy trường hợp và tùy cách nói mà thành tiếng chửi hay tiếng mắng yêu, tụi con hiểu không ?
Mẹ chúng nó quay sang hai con, nói bằng tiếng Pháp :

- Tiếng đó chỉ có người lớn mới có quyền dùng thôi. Tụi con không được nói, nghe chưa ?

Thằng Tí gật đầu, rồi vừa kéo thằng em đi vào trong vừa càu nhàu :
- Ồ…tiếng Việt Nam rắc rối quá !
Mấy người lớn nhìn nhau mỉm cười. Ông già nói, giọng nghiêm trang :
- Ba nghĩ tụi con nên sắp xếp thì giờ để chở tụi nhỏ đi học nói và học viết tiếng Việt. Ở Paris thiếu gì chỗ dạy.

Ngoài ra, ba cũng muốn nhắc tụi con thường xuyên nói tiếng Việt với chúng nó thay vì dùng tiếng Pháp.
Để cho chúng nó đừng quên. Mình đi lưu vong, bỏ hết mất hết.
Chỉ còn có tiếng nói mang theo mà cũng để cho mất luôn…thì mình sẽ thành ra cái giống gì, hả các con ?

Giọng ông già bỗng như nghẹn lại.
Ba mẹ tụi nhỏ chừng như xúc động , làm thinh. Yên lặng một lúc, mẹ thằng Tí vừa đi vào bếp vừa nói :
- Để con đi làm cơm. Ba ở lại ăn với tụi con nghen.
- Không, con. Chơi một chút rồi ba về.
Ba tụi nhỏ rót trà vào tách đưa cho ông già :

- Biết ba thích uống trà nên con có pha sẵn bình Ô long cho ba đây.

- Ờ…Cám ơn con !

Ông già hớp một hớp, đặt tách xuống, gật gù :

- Ùm…Ngon !
Rồi ông tiếp :
- Hồi nãy, ở ngoài Mac Do's, tự nhiên sao ba nhớ lại ba hồi nhỏ. Hồi đó, vì nghèo nên ba đâu có quà bánh gì để ăn.

Ba chỉ biết có cơm nguội ăn với đường mía, loại đường cục đậm đen nhìn không thấy thèm mà khi cắn vô mùi mật mía thơm phức làm tươm nước miếng.

Ông già ngừng nói đưa tách lên môi hớp một hớp trà, làm như ông vừa bắt gặp lại vị ngọt đậm đà của cục đường đen và ông cần một hớp trà để đẩy đưa cho hậu vị…

Người con ông ngồi đối diện, uống trà trong im lặng. Anh biết cha anh đang sống lại với dĩ vãng nên không dám làm xáo trộn giòng suy tư của cha.

Ông già nói tiếp :
- Hồi thời đó bà ngoại của ba nấu cơm trong nồi đất, nhúm lửa bằng giăm bào, chụm bằng củi.
Muốn cho lửa bắt phải hít hơi đầy phổi rồi dùng ống trúc mà thổi nhiều lần.
Ống trúc đó gọi là " ống thổi". Khi sử dụng, phải để ý. Bởi vì ống thổi có một đầu sạch và một đầu dơ.
Đầu sạch là đầu mà mình chúm môi kê vào để thổi, còn đầu dơ là đầu mà mình thọc vào chỗ có lửa.

Đầu đó luôn luôn bị cháy nám đen và dính tro bụi.
Người không biết, thổi ở đầu dơ, một lúc sau mồm mép dính lọ đen thui mà không hay !
Ông già khịt mũi cười rồi mới tiếp :
- Rồi phải đợi cơm sôi để hạ lửa, sớm một chút là cơm nhão, trễ một chút là cơm khê.
Nấu cơm cực lắm chớ không phải như bây giờ nấu bằng nồi điện, chỉ cần nhận có cái nút !
Ông ngừng nói, cầm tách lên hớp mấy hớp trà. Ba thằng Tí cũng đẩy đưa :
- Như vậy mới là tiến bộ, chớ ba.
- Dĩ nhiên. Đó là điều cần thiết cho cuộc sống. Bây giờ mà bắt mấy bà mấy cô nấu cơm bằng nồi đất, bằng lửa củi…chắc họ nổi loạn !

Ba muốn nhắc lại chuyện nấu cơm hồi trước là để cho con thấy trong hột cơm hồi đó có chút công sức
của người nấu, có chút tình người làm cho hột cơm có giá trị hơn hột cơm " nhận nút " của thời bây giờ.

Chỉ có vậy thôi.
Ông già ngừng nói, nhìn thằng con một chút rồi tiếp :
- Nhưng chuyện mà ba muốn nói ở đây là chuyện " cơm nguội" . Cơm nguội là một thứ chẳng có gì hấp dẫn !
Cho dù nó có nằm trong nồi đất hay trong nồi điện gì, nó cũng không gợi thèm như tô phở hay tô mì.

Nó không có chỗ đứng trong hàng quà bánh. Chẳng ai để ý tới nó hết !
Vậy mà khi mình đói và chẳng có gì ăn thì cục cơm nguội lại trở thành " có giá" !
Nó như loại bánh xe xơ-cua của xe hơi : bình thường chẳng ai nhìn đến, nhưng khi bị xẹp bánh mới thấy cái bánh xơ-cua, dù đã mòn lẵn, thật hữu ích vô cùng.

Ông già lại ngừng nói, tự tay rót trà vào tách, chậm rãi như để cho thằng con có thời giờ " thấm " những gì ông muốn nói. Sau một hớp trà, ông tiếp :
- Con thấy không ?
Cục cơm nguội cũng có cái giá trị của nó đó chớ ! Ngoài ra, khi ăn cục cơm nguội, đối với những ai chỉ biết nồi cơm điện chớ chưa từng biết cái nồi đất như tụi con chẳng hạn, thì cục cơm nguội chẳng gợi lên hình ảnh gì khác.

Nhiều lắm là chỉ gợi lên hình ảnh cái bánh xơ-cua thôi !
Còn như đối với những người như ba, nhai cục cơm nguội là nhớ công ơn người thổi lửa nấu cơm nuôi mình. Nhai cục cơm nguội là nhớ cái gốc nghèo của mình.

Cái gốc mà từ đó ba đã cố gắng vươn lên để về sau, ở Sàigòn, tụi con mới có đủ thứ quà bánh bỏ vào bụng khi cần, và để bây giờ, ở đây, tụi thằng Tí thằng Tú mới có hamburger . Con thấy không ? Cơm nguội đâu phải chỉ là cơm nguội !
Dứt lời, ông già đứng lên cầm tách trà uống một hơi. Ông đặt tách xuống rồi nhìn ra ngoài :
- Thôi, ba về kẻo tối. Già rồi, mắt mũi dở lắm, con à.
Rồi ông hướng vào trong, nói lớn :
- Ông nội về nghe tụi con !
Tụi nhỏ ló đầu ra cửa buồng nói nửa tiếng Pháp nửa tiếng Việt " Au revoir Ông Nội".

Có tiếng mẹ chúng nó từ trong bếp vọng ra
:" Dạ ! Ba về. Lái xe cẩn thận nghen ba !"

Ra đến cửa, ông già đưa tay bắt tay thằng con. Anh ta cầm tay cha, vừa siết mạnh vừa nói :
Cám ơn ba ! Cám ơn !
Trong cái siết tay đó, hình như người con muốn nói lên một điều gì…
Anh ta đưa ông già ra xe, đứng nhìn theo chiếc xe đi lần ra ngõ trong ánh hoàng hôn chập choạng.

Xe đã đi khuất mà anh ta vẫn còn nhìn theo hướng đó, ân hận sao hồi nãy mình không nói được một lời gì để cho cha hiểu rằng mình thương cha vô cùng…thương vô cùng…

Trên đường về nhà, ông già lái xe chậm rãi. Hình ảnh cục cơm nguội vẫn còn vươn vấn đâu đó ở trong lòng.
Bỗng ông thở dài, lẩm bẩm

:" Mình, bây giờ, cũng chỉ là một thứ cơm nguội đối với các con.
Tụi nó chỉ phone tới, khi nào tụi nó cần…"
Con đường trước mặt ông sao thấy như dài thăm thẳm…

Tiểu Tử
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Bố Tôi

Hướng Dương
"Không vừa ý thì đi tìm gái mười tám cho nó hầu hạ, để cho tôi yên thân!"

Ngày bố tôi sắp về hưu, lúc ấy ông gần sáu mươi lăm tuổi, tôi thấy ông có thái độ lạ lùng, không là con người ông vẫn là lúc trước. Ông đã thay đổi không những về tính nết mà cả về cách cư xử và hành động. Nói cách khác, ông đã trở thành một con người khác lạ trong gia đình. Ông càng ngày càng ít nói và cuối cùng gần như không còn nói một câu nào suốt ngày, chỉ trả lời vắn tắt “có” hay “ không” khi chúng tôi hỏi, và nhiều khi im lặng không trả lời khi câu hỏi bắt ông phải nói ra một câu dài. Đối với mẹ tôi, ông càng không nói, chỉ lầm lầm lì lì.



Ông vốn là một người nóng tính, hay cau có gắt gỏng, hơi một tí là la hét um sùm. Bây giờ ông chỉ suốt ngày yên lặng, không để ý tới ai, như thể ông chỉ còn sống cho mình ông. Có lẽ vì ông không còn giao tiếp với mẹ tôi nhiều nữa nên ít còn cọ sát, ít đụng chạm. Những vụ to tiếng thường xuyên đối với mẹ tôi đã mất hẳn, vì ông không còn nói gì với bà nữa, ông chỉ còn là một sự hiện diện trong nhà, có cũng như không.

Ông cũng đã cả đời tỏ ra là một người khó tính, luôn luôn đòi hỏi sự tuyệt mỹ, đòi hỏi cái tối đa, cái nhất, không hẳn là chỉ đối với mẹ tôi và chúng tôi mà ngay cả đối với chính ông nữa. Ông ít khi bằng lòng liền với những công việc chúng tôi làm, ông thường hay phê bình chỉ trích, đôi khi bắt chúng tôi sửa hay làm lại. Chúng tôi thấy ở nơi ông một con người khó hợp với, khó sống cùng vì thế!

Nhưng ông lại là một con ngưòi nhiều tình cảm, ông sống cả đời vì chúng tôi, ông thương chúng tôi hơn cả chính ông, ông làm cái gì cũng vì người khác, kể cả những người không ruột thịt máu mủ. Ông lo lắng từng tí cho chúng tôi, ngay cả khi chúng tôi đã trường thành và đã có gia đình riêng. Ngày ông có các cháu nội, ông dành bao nhiêu thì giờ rảnh chơi với chúng, đùa nghịch với chúng như một đứa bé con, ông cũng giỡn, cũng cười, cũng chơi như chúng, coi chúng như những đứa bạn nhỏ của mình. Ấy thế mà bỗng nhiên ông đã thay đổi hoàn toàn, ông không còn thân thiết với ai trong nhà nữa. Dường như ông chỉ còn sống cho bản thân ông, ông chỉ còn nghĩ đến ông, không còn ai xung quanh ông là quan trọng nữa. Ngay cả các cháu nội, ông cũng không còn bồng bế, nô đùa với chúng, ông đã quên chúng, ông không xa lánh nhưng không còn gần gũi như xưa.



Nhưng cái khác lạ rõ ràng nhất là sự đối xử của ông đối với mẹ tôi. Ngày xưa ông thương yêu mẹ tôi biết là chừng nào. Ông sống vì bà, ông cố gắng, hy sinh vì bà. Ông đã từng chăm sóc cho bà như chăm sóc cho một người tình, lúc nào cũng muốn có bà bên cạnh. Nhưng mối tình nóng hổi ấy đã phai nhạt với năm tháng, một phần bởi vì mẹ tôi không hiểu rằng có ông là một cái gì quí mà trời cho, bà luôn luôn coi việc có ông như là một sự đương nhiên, bà không gây dựng hay tìm cách nuôi dưỡng cho mối tình tiếp tục nẩy nở hay ít ra là không suy tàn. Vì thế mà dần dần giữa hai người không còn sự thắm thiết của thuở xưa nữa, không còn sự cảm thông, sự hiểu biết nhau, không còn mối tương quan thắm thiết giữa hai người bạn đời, trái lại chỉ còn sự cay đắng, sự chống đối, sự bất đồng, và có thể nói gần như là sự hận thù. Vì vậy mà mẹ tôi coi sự thể ông đã thôi không giao tiếp với bà nữa như là một điều may mắn, bà khỏi bận tâm, khỏi suy nghĩ, và nhất là khỏi phải đối phó với những khó khăn mà, bà nói do ông gây ra.

Sau ngày ông về hưu, ông lại còn lạ lụng hơn nữa. Ông cứ suốt ngày ngồi trong phòng đọc sách, viết văn, hay suy tư. Ông hay ngồi hàng giờ với một ly rượu và bao thuốc nghĩ ngợi, tôi không hiểu ông nghĩ gì, cái gì làm cho ông bận tâm khi mà ông đã về hưởng tuổi già, khi đáng lý ra ông phải được hưởng sự thanh thản của tâm hồn? Tôi không dám hỏi ông, mặc dầu những lần tôi về thăm nhà cùng đứa con ba tuổi, tôi không thấy ông vui, ông chỉ ra ôm đứa cháu, hôn nó một cái rồi lại đi vào trong phòng riêng của ông. Tôi có cảm tưởng ông sống trong một thế giới cô lập của riêng ông, ông không còn màng tới những gì xẩy ra bên ngoài căn phòng đó, ông đã bị lôi cuốn vào một thế giới của ảo tưởng, của tiềm năng, ông sống với những mơ ước mà ông đã không thực hiện được trong cuộc đời mình.



Thế rồi một hôm, khi không ai để ý đến ông, ông đã ra đi, ông đã biến mất để cho đến khi đứa cháu nội vào gọi ông ra ăn cơm chiều thì cả nhà mới hay ông không còn ở đó nữa, ông đã đi rồi. Tôi vào trong phòng ông lục lọi xem ông có mang thứ gì theo hay không, thì thấy ông chỉ đi người không, ông đã mặc bộ đồ khi ông còn đi làm. Trên bàn có tờ giấy nhỏ xíu, trên đó ông viết: "Tôi đi rồi tôi sẽ về, không có gì phải lo lắng cả. Đừng đi tìm tôi vô ích."

Và đúng như lời ông dặn dò, chúng tôi không đi tìm ông. Mẹ tôi chẳng tỏ vẻ lo lắng gì cả. Bà nói:

-Để cho bố chúng mày đi chơi cho sướng cái thân. Ở với tao ông thấy khổ, tao cho ông ấy đi ở với gái trẻ, đi chán ông ấy sẽ về!

Cái sai lầm ở mẹ tôi là ở chỗ ấy. Bà nói cứ để cho bố tôi đi, nhưng rồi ở nhà ai lo công việc trong nhà? Mặc dù bố tôi có vẻ bất thường nhưng ông vẫn là người quyết định mọi việc, ông vẫn lo giải quyết những vấn đề khó khăn như vấn đề tiền bạc, vấn đề sửa sang nhà cửa, và nhất là khi phải đối phó với người ngoài. Nay ông đi rồi thì mẹ tôi đâu có biết phải làm những công việc ấy? Tôi sẽ phải đứng ra thế ông, nhưng nay tôi đã có gia đình riêng, tôi lo thân tôi chưa xong, nhiều khi còn phải hỏi ý kiến bố tôi thì làm sao bây giờ?

Vả lại có ông ở nhà thì mẹ tôi còn lo dọn dẹp nhà cửa, đi chợ đi búa về làm cơn cho ông ăn. Nay ông đi vắng mẹ tôi, vốn dĩ lười, cứ để nhà bừa bộn, không lau chùi nên nhà bếp nhà tắm bẩn như hủi. Trong phòng ngủ quần áo mặc rổi mẹ tôi chất đống, chẳng buốn treo lên mà cũng chẳng đem đi giặt. Phòng khách phòng ăn ôi đủ thứ la liệt, sách báo, kẹo bánh, đồ dùng xài xong vẫn vứt đó, chén trà, cốc nước uống xong không buồn dọn, có khi để đó vài ba ngày, một tuần. Đồ đi mua về vứt ngay cửa ra vào có khi cả mấy tuần không đem cất. Mỗi khi về nhà thăm mẹ tôi, hai vợ chồng tôi phải dọn dẹp cho bớt ghê mắt, riêng tôi chỉ sợ bố tôi về bất tử thì lại có chuyện.

Mẹ tôi hay cãi lại ông làm ông nổi giận đập phá đùng đùng. Bà có tật hay dựng đứng câu chuyện lên rồi đổ lên đầu bố tôi, làm cho bố tôi phát điên lên thì mới thôi. Hơn nữa, mẹ tôi là dân Hà Đông, bà có cách nói xéo, làm người nghe rất khó chịu. Bố tôi ghét cái tính xấu đó của bà nhưng chẳng làm được gì. Bố tôi nói càng về già mẹ tôi càng có nhiều hành động làm cho bố tôi bực bội. Tối đến bà thức có khi đến hai giờ sáng chỉ để ngồi xem báo hay xem truyền hình. Bố tôi dục đi ngủ bà cứ lờ đi. Sáng ra bà không dậy nổi, bố tôi chuẩn bị bữa ăn sáng xong, bà cũng chưa chịu dậy, đến khi bố tôi ăn xong bà mới ra ngồi ăn. Cơm tối cũng vậy, mẹ tôi đi làm tan sở không về liền, bố tôi chờ không được dành dọn cơm lên ngồi ăn, ăn nửa chừng thì bà về. Bố tôi ăn xong đi nơi khác, mẹ tôi ngồi ăn, cả tiếng đồng hồ sau vẫn chưa xong, bà cứ ngồi một mình chậm rãi ăn, lúc nào muốn thôi thì thôi.

Nay bố tôi đi rồi thì mẹ tôi chẳng còn đối tượng để mà chống đối nữa, bà dành toàn thì giờ đọc báo hay coi truyền hình. Bà có thể ngồi đọc báo hoặc coi truyền hình hai ba tiếng đồng hồ, quên ăn quên ngủ. Tin tức gì bà cũng thuộc nằm lòng. Bà cứ kể đi kể lại những gì bà học được, nhiều khi người nghe phải nhắc là bà đã nói hai ba lần rồi thì bà mới thôi kể. Bà cũng có thể ôm điện thoại nói chuyện với bạn bè hết giờ này sang giờ khác. Còn nói đến việc đi mua bán thì có khi mẹ tôi đi không còn biết giờ về. Bà đi đến đâu cũng xem hết thứ này đến thứ kia nhưng không mua, bà chỉ thích xem để mà xem, để mà biết. Cái gì bán ở đâu bà đều biết, nói đến cái gì bà cũng hay.

Có một điều là mẹ tôi hay nói nhưng không bao giờ làm. Bà muốn cái gì thì cứ nói lên cho bố tôi nghe, rồi nếu ông không làm thì bà than, bà trách. Bà nói bảo làm không làm để bây giờ như thế này, như thế kia. Mà khi bà không bằng lòng một chuyện gì thì bà cứ nói tới nói lui, có khi cả hai ba năm sau bà vẫn còn lôi chuyện cũ ra mà nói. Bố tôi đến khổ vì bà, nhưng ông cho đó là vì bà già, bà thay đổi tính nết, bà khó chịu cũng như tất cả những người đàn bà khác khi về già. Khi bố tôi góp ý với bà thì bà nói với bố tôi:
-Không vừa ý thì đi tìm gái mười tám cho nó hầu hạ, để cho tôi yên thân.

Tôi không hiểu trong đầu bà nghĩ gì mà lại nói thế, nhưng tôi biết bà cũng không sung sướng gì. Câu nói đó thể hiện một sự bất mản cùng cực. Có một điều tôi thấy lạ là thay vì đạp đổ, tại sao bà không chịu có một thái độ xây dựng? Tâm lý người đàn bà vào cái tuổi trên năm mươi hẳn là rất phức tạp, tôi không hiểu được những biến chuyển sinh tâm lý xẩy ra nơi họ. Tôi nghe nói là chính những người đàn bà đó cũng không hay biết rằng họ đã thay đổi, họ đã khác xưa, và vì thế họ khăng cho rằng họ vẫn thế, lỗi là do những người khác chứ không phải tại họ.

Tôi nghĩ bố tôi đã chán cái cảnh cơm không ngọt canh không bùi, ông đã không chịu nổi cái uơng ngạnh của mẹ tôi, ông muốn sống những ngày còn lại trong yên bình, và vì thế ông đã rút lui vào cái thế giới của riêng ông, vào giữa bốn bức tường của căn phòng làm việc mà xưa kia ông không thích vào. Nhưng như thế cũng không mang lại cho ông niềm sung sướng, vì ai sướng khi chỉ sống trong môi trường chết, môi trường im lìm, không tiếng nói, tiếng cười? Ai có thể ngày đêm chìm đắm trong sự u mê, sự day dứt của nội tâm? Tôi biết ông đang bị giằng co giữa bổn phận và hạnh phúc cá nhân. Ông đã không chịu ly dị vì còn con cái, còn các cháu của ông mà ông thương yêu vô ngần. Mẹ tôi đã bao lần nói thẳng vào mặt ông:
-Sao ông không ly dị tôi cái quách đi cho rồi? Để mà còn đi tìm gái tơ mà hưởng đời chứ? Ông còn tiếc cái gì nữa?

Tôi không biết bà có thực sự muốn thế không, nhưng tôi thấy bố tôi chỉ cắn răng lại để khỏi nói câu gì, vì tôi biết nếu đổ thêm dầu vào lửa tất nó sẽ bùng lên và không còn cứu chữa được nữa.

Ngày bố tôi ra đi, chúng tôi tưởng ông đi đâu chơi một hai ngày. Nhưng cả tháng trôi qua chúng tôi không thấy về, tôi cũng hơi lo lắng. Tôi gọi điện thoại đến các bác, các chú, bạn bè của ông thì không ai biết ông đi đâu, ông không hề thổ lộ kế hoạch của ông cho ai hết. Họ cũng ngạc nhiên về hành động này và không ngờ bố tôi lại có thể làm cái chuyện bất thường như thế. Nhưng tôi thì không ngạc nhiên chút nào. Ngày ông còn trẻ ông đã làm nhiều chuyện ngông cuồng. Đang đi làm yên bình ở sở này, ông vì bất bình một chuyện gì, ông xin nghỉ và sang làm một sở khác. Trong cuộc đời ông, ông đã thay đổi việc làm như chong chóng, ông đã không làm một công việc gì quá năm năm. Ông tuyên bố làm lâu một nơi chán, ông thấy cần thiết phải thay đổi. May mà ông là người có chí, ông luôn luôn trau dồi kiến thức, và ông có khả năng trí tuệ phi thường, không có một công việc gì mà ông không làm cho bằng được. Cuộc đời ông đã có những lúc khổ cùng cực, ông đã phải làm những công việc nặng nhọc hay thật tầm thường để tạm sống. Ông có tinh thần đấu tranh phi thường, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào ông cũng cố vươn lên để thoát khỏi sự cơ cực. Ông rất tự hào về những thành quả ông gặt hái được trong cuộc đời. Tất nhiên tôi rất hãnh diện về con người phấn đấu của ông, tôi rất muốn giống ông và ông đã là gương sáng dẫn đường cho tôi đi. Chính vì tôi nhìn vào ông, noi gương ông, mà cũng đã thành công nhanh chóng và tiến lên trong sự nghiệp của mình.

Và như thế bố tôi đi đâu, không ai biết, cho đến một hôm chúng tôi nhận được một tấm thiệp ông gởi về đề tên Bé Mai, đứa con gái đầu lòng của em tôi, sanh ra khi ông không có nhà. Tấm thiệp mang những giòng chữ nắn nót của ông như sau:

Cháu Mai thương yêu của Ông Nội,
Ông rất tiếc khi cháu ra đời ông không có mặt để bồng cháu ngay từ khi mới lọt lòng mẹ. Vì hoàn cảnh đặc biệt ông không thể về ngay thăm cháu, nhưng khi nào ông về thì ông hứa sẽ không quên có quà cho Bé Mai của ông.
Ông hôn cháu và yêu cháu vô cùng.

Nhìn con dấu bưu điện chúng tôi ngạc nhiên thấy rằng ông đã gởi nó từ một tiểu bang xa xôi cách chúng tôi cả mấy ngàn dặm. Thì ra ông đã quyết định ra đi thật xa, đi như thể đi trốn cái nơi đã làm cho ông buồn khổ, đi để mà quên lãng, đi để không còn gì gắn bó với một dĩ vãng đau thương.

Thành phố ông đang ở cũng là một thành phố lớn, nơi đó cũng có nhiều ngưới Việt sinh sống. Tôi chưa bao giờ đặt chân đến nơi đấy nhưng tôi nghe nói nơi đó sinh hoạt của cộng đồng cũng cao, cũng có nhiều người làm ăn buôn bán nhộn nhịp, và nhiều khu cũng sầm uất không khác gì nơi tôi đang ở.


Trong khi chúng tôi rất xúc động khi nhận thiệp ông gởi về thì mẹ tôi vẫn dửng dưng như không. Bà cũng chẳng buồn cầm đến lá thơ mà cũng chẳng hỏi xem bố tôi đã viết những gì trong ấy. Tôi lấy làm lạ sao mà mẹ tôi lại có thể dứt tình với bố tôi như vậy. Tôi muốn tìm hiểu xem bố tôi đi xa như thế để sống với ai, không phải vì tôi tò mò hay muốn tìm cách kết tội ông, mà là vì tôi thương ông. Tôi thương bố tôi vì tôi biết chẳng đặng đừng bố tôi mới phải ra đi như thế, tôi biết rằng xa các con cháu ông nhớ lắm và cũng khổ sở không ít. Và tôi định tâm một ngày nào gần đây tôi sẽ xin nghỉ một tuần lễ để đi tìm ông.

Tôi chưa kịp đi thì bố tôi về. Ông về vào lúc đêm tối khi mẹ tôi đã đi ngủ, ông lẳng lặng mở cửa vào nhà, rồi vào phòng ông nghỉ. Sáng hôm sau khi mà mẹ tôi còn ngủ thì ông đã thức dậy pha trà uống và ngồi đọc báo ở ngoài phòng khách. Nghe tiếng động mẹ tôi tỉnh dậy và thấy ông, bà rất ngạc nhiên. Ông đi như vậy là gần ba tháng trời, ra đi ông không nói cho ai hay mà về cũng chẳng báo trước. Mẹ tôi nói:
-Tôi tưởng ông đi luôn rồi chứ! Sao lại còn về? Tôi tưởng ông đi cho sướng cái thân thì còn về nhà làm gì cho khổ thêm cả tôi nữa?

Bố tôi cứ im lặng chẳng nói câu gì. Mẹ tôi nói thêm:
-Nó bòn hết của rồi nó đuổi ông đi chứ gì. Bây giờ lại về lấy thêm tiền mang đi nuôi nó chứ gì?

Cáu quá bố tôi nói lại:
-Bà xem tôi có lấy đồng xu nào mang đi không nào? Bà đừng có ăn nói hồ đồ. Đừng có làm cho tôi điên tiết lên. Khôn hồn thì để cho tôi yên!

Mẹ tôi vừa đi xuống bếp vừa nói:
-Ông không có tiền thì nó ăn bả gì mà nó nuôi ông?

Thế là bố tôi đập bàn một cái rầm, rồi nói:
-Đã bảo câm cha nó cái miệng lại mà không chịu câm.

Bố tôi đi vào phòng của ông đóng xầm cửa lại. Thế là ông lại trở về với cái thế giới của ông, trong cái thế giới đó không có người vợ oái oăm, khó chịu mà ông nay ghét thậm tệ.

Chiếu thứ bẩy nghe tin bố tôi về, hai anh em tôi mừng rỡ, định tổ chức đi ăn cơm chiều cho cả gia đình. Em tôi bế bé Mai về ra mắt ông nội, ông mừng hết sức, ông ẵm bé, ông hôn, ông không chịu rời đứa cháu cưng của ông. Ông về ông đã mua cho cháu ông một tấm lắc đeo tay bằng vàng tây, ông lấy ra đeo cho cháu rồi bắt chụp cho ông cả chục tấm ảnh ông bồng bé Mai của ông. Thấy ông vui sướng, chúng tôi mừng quá chừng, mẹ tôi tức tối nói:
-Sao ông không đẻ một bé Mai của ông mà ôm mà thương yêu? Lấy một con vợ mười tám tuổi thì nó đẻ cho chứ có khó gì?

Thế là bố tôi giận, không đi ăn cơm chiều nữa, ông nói ông “không đi ăn với con mẹ khó chịu đó”. Ông bảo mẹ tôi là việt cộng, chuyên môn phá hoại, cứ đến lúc cả gia đình vui vẻ thì bà phải làm một cái gì để phá, để chọc giận bố tôi, làm cả nhà hết vui vẻ. Mẹ tôi chẳng cần có bố tôi đi, bà nói tỉnh bơ:
-Bố mày dỗi, để cho ông ấy ở nhà. Mình đi mình cứ đi!

Chúng tôi đành đi mua đồ ăn về nhà, bố tôi không còn hứng, ông ăn hai ba miếng rồi bồng bé Mai vào trong phòng ngồi ôm cháu. Mẹ tôi ngồi ăn vui vẻ như không có chuyện gì, trong khi chúng tôi thì rầu thối ruột.

Những ngày ông ở nhà, chiều nào ông cũng đến thăm các cháu nội, nhất là cháu bé gái bé bỏng của ông. Nhưng vì ở nhà không được vui, hai tuần sau ông lại ra đi, ông đi mà không nói trước với ai, tự dưng ông biến mất, không để lại một vết tích gì.

Thế rồi mỗi tháng ông biên thơ về cho các cháu, ông hỏi thăm, nói chuyện này nọ, và thơ nào ông cũng nói ông nhớ chúng nó, nhất là bé Mai của ông. Ông muốn chúng tôi gởi hình các cháu cho ông và ông cho một hộp thơ để chúng tôi gởi tới đó.

Sáu tháng trôi qua, không thấy ông về thăm nhà, chúng tôi sốt ruột, tôi bèn xin nghỉ một tuần đi tìm ông. Tôi nghĩ tôi biết thành phố nơi ông ở, tôi chỉ cần đi hỏi thăm thì sẽ tìm được ra ông, nhưng tôi đã lầm. Năm ngày trời tôi đi khắp các khu phố có người Việt làm ăn buôn bán hỏi thăm, không ai biết và không ai nhận ra người trong tấm hình của bố tôi mà tôi đưa cho xem. Ban ngày tôi đi mỏi cả chân, chiều tối về khách sạn, tôi điện thoại cho những người quen biết ông hiện đang ở vùng này để xem bố tôi có liên lạc với ai không, thì cũng không ai biết tin gì vì ông không hề tiếp xúc với họ. Thật là một chuyện lạ lùng, như thể ông muốn giấu hết tất cả mọi người về sự hiện diện của ông ở nơi đây.

Đến tối hôm thứ sáu, khi tôi đã thất vọng tưởng phải bay về tay không, thì bố tôi gọi điện thoại đến khách sạn hỏi tôi. Ông nói ông được biết tôi đi tìm ông nên ông muốn gặp tôi nói chuyện. Ông hẹn sáng thứ bẩy hai bố con đi ăn sáng gặp nhau, vì chiều tôi đã lên máy bay trở về. Ông cho nơi hẹn và giờ hẹn rồi thôi không nói gì hơn nữa.

Đêm hôm ấy tôi trằn trọc không ngủ được. Tôi không hiểu tại sao ông biết tôi đến đây đi tìm ông mà ông gọi? Tại sao ông lại chọn nơi này mà đến ở? Ông sống với ai nơi đây? Thật là những điều bí hiểm.

Sáng hôm sau tôi đến nơi hẹn sớm cả nửa tiếng đồng hồ vì tôi muốn xem ông tới bằng cách nào và với ai. Đúng giờ hẹn tôi thấy một chiếc xe hơi loại sang đậu lại cách nơi đây vài trăm thước và tôi thấy ông bước xuống. Ông mặc một bộ đồ mà tôi chưa thấy bao giờ, trông rất lịch sự, ông bước rất khoan thai, vẻ mặt tươi tỉnh, không ủ rũ như khi ở nhà. Cái gì làm ông thay đổi như vậy, tôi tự hỏi. Tôi thấy ông đẩy cánh cửa tiệm ăn, nhìn một vòng, thấy tôi, ông cười và tiến tới. Ông nói:
-Làm gì mà con phải đi tìm bố vậy? Thư thả rồi bố về chứ gì?
-Con muốn sang đây thăm bố và xem bố sống làm sao. Ở nhà chúng con hơi lo…
-Sao phải lo? Bố sống ở đâu chẳng được? Thôi con đã đến đây thì để bố kể hết chuyện cho con nghe. Con lớn rồi chẳng có gì mà phải giấu con nữa.

Người hầu bàn đến, chúng tôi gọi phở và cà phê đen. Bố tôi hỏi chuyện ở nhà ra sao, tôi nói mọi chuyện vẫn bình thường, các cháu nhớ ông lắm, chúng cứ hỏi ông đâu. Nghe nói vậy vẻ mặt bố tôi hơi thay đổi, phảng phất một nỗi buồn, tôi biết ông cũng nhớ các cháu ông lắm.

Phở mang ra, chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Tôi hỏi:
-Bố ở đây với ai? Ăn uống làm sao?
Ông ngừng ăn, tay vẫn còn cấm hai chiếc đũa, nhìn tôi như muốn xem tôi có ẩn ý gì không. Ông ăn thêm vài ba gắp rồi đẩy bát phở sang một bên, cho đường vào cà phê uống. Ông nói:
-Bố ở với một người bạn quen từ lâu lắm rồi, con không biết bà ấy. Bố quen từ trước khi lấy mẹ con.
-Bố tìm bà ấy hả bố?
-Không, tình cờ bố gặp lại. Đã gần bốn mươi năm trôi qua. Bố không nhận ra bà ta nhưng bà nhận ra bố. Thật là một chuyện lạ lùng!
-Bố gặp hồi nào?
-Cách đây năm năm, ở Paris, tại nhà một người bạn chung của hai người.
-Sau đó bố vẫn tiếp tục liên lạc?
-Thỉnh thoảng, bố nói chuyện điện thoại thôi. Lúc sau này bố buồn thì tâm sự nhiều hơn. Bà ấy góa chồng đã hơn mười năm nay rồi, có một đứa con gái nay cũng bằng tuổi con. Bà làm ăn buốn bán nên khá gỉa, nhà cửa rộng mà không có ai ở, chỉ có hai mẹ con nên mời bố sang chơi.
-Thế rồi bố ở luôn ?
-Không bố đâu có tính ở luôn? Ở nhà lúc nào tinh thần cũng căng thẳng, làm sao bố chịu mãi cho được. Bố bị suy nhược thần kinh vì thế. Ở đây thoải mái, bố thấy dễ thở, bố bớt u sầu, không còn buồn bực. Bố ở tạm một thời gian cho khỏe lại…
-Con thấy bố có khá hơn ở nhà, bố bình thường hơn trước, con mừng lắm. Nhưng ở như thế mãi sao tiện?
-Người ta mời bố, chứ bố có xin đâu? Nhà cửa rộng thênh thang để không, không ai chăm nom, bố làm quản gia, người ta còn mừng. Nói thế chứ bà ta thương bố, thấy bố buồn khổ, muốn giúp. Bố không thấy có gì phiền hà…
-Cơm nước thì sao hả bố?
-Ở chung nhà thì ăn chung chứ có gì đâu? Bố ăn đâu có bao nhiêu?
-Bố có góp tiền hàng tháng không?
-Bà ấy đâu chịu lấy? Bà nói, bố đến ở là vui cửa vui nhà, bố không phải lo lắng gì cả. Tiền mà làm gì hả con?
-Thế còn tiền máy bay đi về?
-Con Thủy nó mua cho bố. Quần áo bố mặc cũng vậy, nó thương bố lắm! Mỗi lần bố về nhà, cả hai mẹ con cứ thấp thỏm, chỉ sợ bố không qua nữa!
-Vì vậy mà lâu quá bố không về nhà?
-Có lẽ vậy. Không có vé máy bay thì làm sao về? Mà về đến nhà là lại có chuyện, bố không muốn về nữa! Mẹ con đâu còn thương bố nữa?
-Bà ấy thương bố nhiều lắm phải không?
-Không biết, nhưng ở đây không bao giờ có một vấn đề gì để buốn phiền!
-Bố thích ở đây hơn?
-Không hẳn là thế! Hoàn cảnh bó buộc. Bố đâu còn cách lưạ chọn nào khác? Xa con và các cháu, bố nhớ lắm chứ!
-Con biết! Thôi con nghĩ thế này cũng được. Bố cần có cuộc sống riêng của bố, con không dám nói gì.
-Con về cứ coi như không tìm ra bố. Chớ có nói gì với ai. Cái này là bí mật giữa hai bố con mình.
-Thưa bố vâng!

Chưa bao giờ bố tôi lại tâm sự với tôi như thế! Tôi nghĩ ông cảm thấy thoải mái hơn sau khi cho tôi biết những gì ẩn náu trong lòng ông từ nhiều năm nay. Sau khi ông đã chia sẻ nỗi lòng của ông với tôi, ông không còn phải chịu cái gánh nặng ấy một mình. Tôi thấy hình như ông thở ra khoan khoái, và ông ra về vui vẻ. Ông ôm vai tôi, chúng tôi ra cửa, ông leo lên chiếc xe vẫn chờ từ nãy giờ nơi đó, tôi về khách sạn để chuẩn bị ra phi trường.

Những lần sau ông về, ông ở nhà hai vợ chồng tôi, ông vui chơi với các cháu nội, nhưng về được một tuần, ông lại sốt ruột đòi ra đi. Tôi hiểu ông nên không dám nói gì. Chỉ có các cháu nhỏ, chúng cứ nhao nhao “Ông nội đừng đi! Ông nội đừng đi!” làm ông chảy nước mắt mỗi khi ra đi.

Tôi cũng một năm hai lần lấy cớ đi họp, sang thăm ông vài ba ngày. Chúng tôi chỉ gặp nhau ở nơi công cộng, ông không bao giờ cho tôi biết nơi ông ở, càng không cho tôi biết ngươì đàn bà bí mật mà ông ở nhờ.

Cứ như thế được mười năm trời. Rồi một hôm ông về, ông ốm nặng đòi tôi đưa vào nhà thương. Mới vào hôm trước hôm sau thì ông qua đời. Những lần tôi vào với ông vào những giờ chót ông sắp ra đi, tôi thấy hai người đàn bà, một người lớn tuổi như mẹ tôi, ăn mặc sang trọng, ngồi nơi chiếc cửa sổ cách phòng bố tôi nằm chừng mươi thước. Trông họ nghiêm trang và có vẻ buồn rầu lắm. Tôi biết ngay đó là Thủy và mẹ chị, người đã nuôi dưỡng chăm sóc bố tôi hơn mười năm qua.

Những ngày xác bố tôi quàn ở chùa, tôi thấy suốt ngày bóng dáng hai người đàn bà ấy lảng vảng ở sân chùa, người mẹ cầm chiếc khăn tay lau mắt. Tôi lấy làm xót xa cho bà, vì bố tôi chết, mẹ tôi không buồn, không khóc mà bà thì đau đớn sụt sùi. Và bà lại không được khóc công khai! Thật là một sự bất công, nhưng làm sao được? Định mệnh đã an bài như thế! Ngày xưa bố tôi đã bỏ người con gái ấy để lấy mẹ tôi. Thế mà một đời, người ấy vẫn thương vẫn muốn làm sao cho bố tôi bớt khổ. Công lao ấy tôi ghi trong lòng mãi mãi.

Hướng Dương
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

TT Vân Sơn phát hành DVD 'Huyền Thoại' - Vân Sơn in Minnesota



Trung Tâm Vân Sơn vừa phát hành DVD Vân Sơn 45 in Minnesota “Huyền Thoại” được thu hình từ đại nhạc hội tổ chức tại hí viện Northrop Theater, nằm trong khuôn viên của Ðại Học Minnesota, thuộc thành phố Minneapolis, tháng 8 vừa qua, trước sự hiện diện của khoảng 3,000 khán giả, được coi là một số khán giả kỷ lục.
Image
Don Ho và nữ ca sĩ trẻ Hoàng Thục Linh, trong nhạc cảnh thật tình tứ, lãng mạn “Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng,” trong DVD Vân Sơn 45 “Huyền Thoại.”
(Hình: T.T Vân Sơn cung cấp)
Ðây là một DVD có chủ đề hay, lạ, thu hình trên một sân khấu lớn, với phông là những slide show nhiều mầu sắc, thật sáng, đẹp, của Trung Tâm Vân Sơn, mà lúc đầu đã được đặt cho là “Những Câu Chuyện Thần Thoại,” với các bài hát có liên quan đến các huyền thoại, như “Ðưa Em Tìm Ðộng Hoa Vàng” (Phạm Thiên Thư, Phạm Duy), “Chuyện Tình Ngưu Lang Chức Nữ” (Mạc Phong Linh), “Hàn Mạc Tử” (Trần Thiện Thanh), “Hòn Vọng Phu 2” (Lê Thương), “Huyền Thoại Người Con Gái” (Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Can), “Ðêm Bơ Vơ” (Duy Khánh)... với các hài kịch như “Tiên Việt Nam” (với Vân Sơn-Bảo Chung), “Lương Sơn Bá-Chúc Anh Ðài” (Lê Huỳnh-Kiều Oanh-Vân Sơn-Bảo Chung), trích đoạn cải lương “Người Ðẹp Trong Tranh” (Lê Huỳnh-Kiều Oanh-Linh Tâm-Hữu Nghĩa), “Ai Là Triệu Phú” (Quang Minh-Hồng Ðào)...

Trong DVD này có sự góp tiếng của các ca sĩ như Hoàng Thục Linh, Don Ho, Chế Linh, Ngọc Hạ, Tina Tình, Giang Tử, Triệu Minh, Linda Chou, Cát Tiên, Thanh Tuyền, Trường Vũ, Lê Nhật Minh, Lê Nguyên... Với sự góp mặt đặc biệt của nhạc sĩ Tòng Sơn, 81 tuổi, qua cây kèn harmonica (khẩu cầm) bất hủ của ông, trong đó ông vừa thổi kèn vừa ăn chuối, uống bia...

Nhạc sĩ Tòng Sơn, từng thổi kèn từ hơn nửa thế kỷ qua, trên các sân khấu của Sài Gòn, nay sang thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần cuối cùng, để gặp lại các bạn nghệ sĩ cũ, và sau 3 tháng vui chơi, đã tỏ ra hài lòng, trước khi trở lại Việt Nam.

Cũng như trong các DVD của Trung Tâm Vân Sơn phát hành trước đây, luôn được kèm với phóng sự về địa phương và cộng đồng người Việt đến xem đại nhạc hội của T.T Vân Sơn tổ chức tại đó, trong DVD Vân Sơn in Minnesota này, nghệ sĩ Vân Sơn và MC Việt Thảo cũng đã thực hiện ký sự tài liệu của Xứ Vạn Hồ Minnesota này, tuy rằng MC Việt Thảo lại dịch theo đúng tiếng thổ dân là Minne là nước, còn Sota là Bầu Trời, Mây, nên đã gọi luôn tiểu bang Minnesota này, là Mây In Bóng Nước.

Tại Minnesota, không có bao nhiêu người Việt Nam. Ngoài các tiệm phở Việt Nam, được đông đảo người Mỹ đến ăn chung với người Việt Nam, trong phóng sự về Minnesota này, không thấy ngành kinh doanh quan trọng nào khác của người Việt Nam được giới thiệu, trong khi người Hmong có cả một chợ nông phẩm tươi, do chính họ trồng trọt như khi còn ở quê hương Lào của họ, được mở vào mỗi cuối tuần, mà người Mỹ, cũng như cộng đồng Việt, ngoài các người Lào, người Hmong, đều đến mua đông đảo, vì vừa rẻ, vừa tươi hơn các nông phẩm tương tự, bán ở các siêu thị.

Trong phóng sự về Minnesota này, MC Việt Thảo, Vân Sơn đã đưa các khán giả đến thăm các thắng cảnh, các khu di tích lịch sử, cũng như các cánh đồng mênh mông trồng bắp, cũng như các khu kỹ nghệ nổi tiếng của tiểu bang, và đặc biệt là khu thương mại Mall of America, cũng là mall lớn nhất của Hoa Kỳ, có diện tích rộng bằng 7 sân football, bên trong có cả rạp hát, ngân hàng, khách sạn, đầy đủ các cửa hàng, chi nhánh của các thương hiệu của Hoa Kỳ, cộng với các khu giải trí tiêu biểu của Disneyland, Magic Mountain, Knott's Berry Farm... và có cả một aquarium vĩ đại, với đầy đủ các loại cá nước ngọt và nước mặn, thật lạ mắt, trong các đại dương của thế giới.

Phóng sự cũng nói đến cây cầu gần Ðại Học Minnesota, có ma, từ những người đã nhẩy từ cây cầu cao này xuống sông để tự tử, và MC Việt Thảo và Vân Sơn buổi tối đến, cũng liều ra cây cầu để gọi ma về... sau khi họ đã đi thăm các hồ đầy cá tại đây và có tham dự các cuộc đi câu cá thật thích thú...

Phóng sự chi tiết, kéo dài cả tiếng đồng hồ này, được kết thúc bằng cuộc viếng thăm bệnh viện Mayo Clinic, do ba cha con, đều là các bác sĩ lập nên từ trên trăm năm nay , rộng bằng cả một thành phố nhỏ, với đầy đủ các chuyên khoa, như chữa bệnh lao, bệnh ung thư...

Từ bệnh viện Mayo Clinic gốc này, giờ đây nó đã trở thành cả một hệ thống bệnh viện Mayo Clinic nổi tiếng, có chi nhánh trên toàn Hoa Kỳ. (L.T)
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Những kỷ niệm êm đềm với mẹ tôi

Ðoàn Thanh Liêm

Tôi thật là người may mắn, vì được sinh trưởng trong một gia đình có cha mẹ là người hiền lành đạo hạnh.
Tôi đã có dịp viết vài bài ngắn về cha mẹ của mình, nhân dịp ngày lễ của Cha và ngày lễ của Mẹ trong mấy năm gần đây.

Image
Mẹ và con. (Tranh Nguyễn Thị Hợp)


Nay tôi lại muốn ghi lại thêm chi tiết về một số kỷ niệm êm đềm với người mẹ yêu quý của mình, để cho các con tôi và các cháu con của mấy anh chị em của tôi có dịp hiểu biết thêm về người bà nội, bà ngoại của các cháu.

Lúc mẹ tôi mất vào năm 1952, thì tôi đã được 18 tuổi, đủ trưởng thành để ghi nhớ đầy đủ về những lời mẹ tâm sự, chỉ bảo dẫn dắt cho mình trong suốt thời kỳ niên thiếu của tôi tại quê nhà ở làng Cát Xuyên thuộc tỉnh Nam Ðịnh.


Lối cư xử thuận hòa của mẹ đối với họ hàng nội ngoại


Mẹ tôi là trưởng nữ của ông bà ngoại, mà chịu thiệt thòi vì khi lớn lên, thì phải phụ giúp cha mẹ để chăm sóc các em. Do vậy mà không được đi học ở đâu cả. Bà có nói với tôi: “Bà ngoại tính cho mẹ đi học chung với con gái của cụ Thượng Hoánh ở quê Lục Thủy, nhưng ông ngoại lại không muốn cho con gái phải đi xa gia đình. Vì thế mà mẹ đã không được đi học chung với các bạn ở quê ngoại...” Nếu mẹ tôi được đi học, thì sẽ học cùng với mấy bà cô của Bác Sĩ Vũ Ngọc Hoàn.

Bà cụ còn kể: “Hồi mẹ mười mấy tuổi, thì hay dẫn em là các cậu và dì đi chơi trong làng. Và bố của tụi con chú ý, tìm cách giúp đỡ việc này chuyện nọ. Do đó mà bố con gây được cảm tình đối với mẹ, và từ đó mà nên duyên vợ chồng...”

Mẹ còn nói là bà cảm phục cái tính tháo vát và cả quyết của bố tôi. Bà có lần dặn tôi như sau: “Là người con trai, con phải tập được cái tính quyết đáp của bố con ấy. Bố con biết cân nhắc tính toán công việc đâu ra đấy. Và đến khi đã quyết định về chuyện gì, thì nhất quyết làm cho bằng được...”

Ông nội của tôi là thầy đồ dạy chữ nho, nên gia đình thanh bạch, chứ không được phong lưu sung túc, so với bên ngoại. Mẹ tôi có lần kể lại: “Bà nội con rất khéo dạy mấy cô chú. Mỗi khi nhà có khách đến ăn cơm, thì bà cụ không cần phải lên tiếng, mà chỉ cần nháy mắt ra hiệu là mấy cô chú biết ý ngay, để ăn nhín lại và nhường phần cơm cho khách...”

Bố tôi lại là trưởng nam, nên có trách nhiệm lớn đối với cả dòng họ, và như vậy mẹ tôi là con dâu trưởng thì cũng phải lo quán xuyến công việc của cả đại gia đình. Bà luôn giữ vững cái đạo làm con như lời bà ru hát cho lũ em của tôi, cụ thể như câu: “Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.” Bà cô Lý Rụ hay nói với tôi: “Mẹ anh rất cẩn thận, mỗi lần có việc phải về bên ngoại, thì bà đều nhắc nhở cô coi giùm việc này chuyện nọ trong nhà, dù lúc đó cô vẫn còn nhỏ tuổi. Và mẹ anh bao giờ cũng chỉ đi vắng một chốc lát thôi, để còn trở về lo lắng công việc nhà. Cô luôn nhớ cái đức tính đàng hoàng của mẹ anh lắm vậy đó...” Tôi thấy các cô em của bố tôi đều tỏ ra quý mến mẹ tôi, chứ không hề có chuyện gì căng thẳng gay cấn như dân gian thường nói về mối liên hệ khó khăn giữa ”người chị dâu với các em gái của chồng.” Chứng cớ là hồi phải chạy loạn Việt minh cộng sản năm 1951-52, thì mẹ tôi đã đến ở tại nhà bà cô Phó Tích tại thôn Phú Yên-Ngọc Cục cho đến ngày mẹ qua đời ở tại đó luôn vào cuối năm 1952.

Ðối với bên ngoại cũng vậy, tôi thấy các cậu là em của mẹ, thì ai nấy đều quý mến mẹ tôi. Ông ngoại làm đến chức Chánh Tổng, gia thế cơ ngơi có phần tên tuổi uy tín trong vùng. Nhưng mẹ tôi không bao giờ tỏ ra kiêu kỳ hách dịch đối với bất kỳ một ai. Người hay lui tới chuyện trò với mẹ là cậu Lý Ðạc là em kế liền với mẹ, tôi thấy hai chị em thường luôn rất tâm đắc với nhau. Hai cậu khác là cậu Tú và cậu Dung, thì cũng đều thuận thảo ăn ý với mẹ tôi. Là người chị cả, mẹ luôn biểu lộ sự yêu thương tận tình đối với các người em của mình.

Còn bà dì Tổng Huỳnh, thì dì mất khi tôi còn quá nhỏ, nên tôi không nhớ được chuyện nào của dì. Nhưng chú Tổng Huỳnh thì thường đến cư ngụ ở nhà tôi vào lúc thu hoạch vụ lúa mỗi năm hai kỳ, do các thửa ruộng của ông bà ngoại chia cho chú dì ấy.


Lòng đạo hạnh sâu sắc của mẹ


Mẹ tôi quả thật là người sống một cuộc đời rất đạo hạnh, khoan hòa nhân ái. Bà nêu một tấm gương tốt cho tất cả anh chị em chúng tôi là phải biết “mến Chúa và yêu người,” phải “giữ phép công bằng,” phải “có lòng bác ái.” Bà rất siêng năng đọc kinh vào các buổi sáng, trưa, chiều tối. Gần như lúc nào rảnh rỗi, mẹ đều thầm thĩ nguyện kinh. Sáng sớm, trước khi đến nhà thờ dự lễ, thì tại nhà mẹ cũng bảo tôi đọc mấy kinh, xét mình ăn năn tội. Và sau khi dự Thánh lễ, mẹ thường ở lại đọc kinh tiếp ở nhà thờ, thật lâu sau rồi mới về nhà. Bà thuộc đủ mọi thứ kinh, nhờ có trí nhớ đặc biệt hơn người. Còn nhỏ tuổi, tôi cũng làm biếng chuyện cầu kinh y hệt như mấy người trẻ tuổi khác, nhưng vì yêu thương mẹ, nên bao giờ mẹ nhắc thì tôi đều đọc kinh theo với bà.

Lòng đạo hạnh vững vàng của mẹ như thế, thì được truyền lại cho các anh chị lớn tuổi, để rồi lan đến lớp em nhỏ chúng tôi. Tôi vẫn nhớ lời mẹ nhắc nhủ là: “Các anh chị lớn có bổn phận phải làm được cái tấm gương tốt lành để cho các em còn nhỏ noi theo. Phải biết thực hành cái chuyện ‘lá lành đùm bọc lá rách’... Ở nhà có hai người yếu đuối bệnh tật, đó là chị Chắt và cô Thanh, thì các anh chị em đều thay phiên nhau chăm sóc chu đáo tận tình. Tôi rất cảm động với sự yêu thương đằm thắm của các chị Chỉnh, chị Cao và chị Bá đối với tôi, khi các chị còn sanh tiền. Các chị đã qua đời, nhưng cái tình đùm bọc âu yếm đó đối với các em, thì không bao giờ tôi lại quên được.

Nhiều buổi tối, tôi kéo võng cho mẹ, thì bà cụ tỉ tê chuyện trò với tôi về đủ mọi sự việc trong làng nước. Mấy lần bà cụ nhắc là: “Con xem gia đình đó ở trong làng mình, con cháu họ không sao mà khá được, bởi lý do là xưa kia người cha của họ làm ăn thất đức, chuyên cái nghề ‘xui nguyên giục bị trong các vụ kiện cáo,’ chuyên ‘đâm bị thóc, chọc bị gạo’ để ăn tiền cả hai phía. Vì thế mà bây giờ con cháu họ bị mắc ‘cái nạn quả báo,’ làm ăn thất bại không ngóc đầu lên được, mà còn bị mang tiếng xấu với làng với nước nữa...”

Bà cụ hay dùng những câu văn câu thơ có vần điệu mà dạy dỗ chúng tôi. Ðiển hình như câu: “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta. Ðói cơm rách áo, hóa ra ăn mày.” Hay các câu: “Cờ bạc là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết, mang thân vào tù,” “Ðói cho sạch, rách cho thơm,” “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau” v.v...


Những đau khổ vào tuổi cuối đời của mẹ


Mẹ tôi vốn người thể tạng yếu đuối, nhưng cuối đời bà chịu nhiều điều buồn phiền sầu khổ. Vào giữa năm 1947, thì cậu Dung là em út của mẹ bị Việt Minh sát hại và quăng xác xuống sông Trì Chính Phát Diệm, nên mẹ tôi khóc lóc than vãn thảm thiết trong nhiều bữa về cái chết tức tưởi này của cậu. Sau đó không bao lâu, thì vào cuối năm 1947 lại đến lượt cậu Lý Ðạc là em kế của mẹ cũng bị bệnh mà qua đời. Rồi vào mùa Xuân năm 1948 sau đó, bố tôi lại bị Việt Minh bắt đi và chẳng bao lâu sau thì không được tin tức gì nữa, vì chiến tranh mỗi ngày lan rộng tại vùng đồng bằng sông Hồng. Từ đó, ngày đêm mẹ thường ưu tư, lo lắng, ban đêm ngủ rất ít. Bà cụ hay phát phiền và thở dài trước những nghịch cảnh đớn đau xảy ra dồn dập đối với gia đình như thế.

Tôi thương mẹ vô cùng, nhưng nào biết làm gì khác hơn là ngửa mặt lên trời mà cầu xin Chúa thương xót đến mẹ và cả gia đình giữa cơn hoạn nạn tai ương đó. Các anh chị tôi cũng đều xúm lại an ủi mẹ lúc đó. Chị Cao mẹ của anh Ðại, Lương vì nhà ở gần, nên hay lui tới thăm nom mẹ. Các chị khác như chị Chỉnh, Bá, Mưu cũng như anh Tâm đều chăm sóc cho mẹ rất chu đáo, hiếu nghĩa. Vì thế mẹ đã có được sự thanh thản an tâm trước lúc ra đi, vì mẹ tin tưởng rằng các anh chị lớn tiếp tục thay mẹ để lo lắng cho các em còn nhỏ dại, nhất là cô Thanh, cô Liên và chú út Tế vào năm 1952 thì vẫn còn quá nhỏ tuổi.

Lại nữa, mẹ cũng được khuây khỏa vì thấy các con mình hòa thuận bảo bọc yêu thương, gắn bó đằm thắm với nhau. Vì thế mà trong nội bộ gia đình có sự yên ấm hạnh phúc, dù bên ngoài xã hội thời đó cuộc chiến tranh khói lửa vẫn đang đến hồi gay cấn, đẫm máu tàn bạo, hận thù chồng chất giữa đồng bào ruột thịt với nhau.


Những điều quý báu tôi học được từ nơi mẹ


Mẹ tôi tuy không được đi học, không biết đọc, biết viết, nhưng bà có một trí nhớ tuyệt vời. Mẹ làm tính nhẩm rất nhanh và chính xác. Mẹ cũng sắp xếp, quản lý cắt đặt công việc làm ăn trong nhà đâu ra đấy. Bà cũng khôn ngoan trong cách đối xử giao tế với họ hàng thân tộc, cũng như đối với làng nước. Nhờ vậy, mà tôi cũng như các anh chị em đều được thừa hưởng cái phần trí tuệ tinh anh của mẹ. Và riêng tôi, thì do có điều kiện học hành nhiều năm, nên tôi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp trong học tập nơi trường ốc, cũng như trong công việc sau này ngoài xã hội.

Nhưng điều quan trọng hơn cả là mẹ đã truyền lại cho anh chị em chúng tôi một cái lòng đạo hạnh vững vàng, một tinh thần lương hảo sâu sắc và tấm lòng nhân ái vị tha cao quý. Từ trên 50 năm nay, tôi đã dấn thân vào các loại công tác xã hội để giúp đỡ bà con kém may mắn như những nạn nhân chiến cuộc, những người bị đàn áp bóc lột, bị dày xéo nhân phẩm... Ðó là tôi noi theo tấm gương trong sáng của cha mẹ đã để lại cho tôi. Tôi áp dụng đúng theo lời khuyên nhủ của mẹ, cụ thể là: “Mến Chúa thì phải yêu người, phải chia sẻ cái ăn cái mặc với những ai đang thiếu thốn.” Và việc tôi làm, thì đều được các anh chị em trong nhà khuyến khích và hỗ trợ nâng đỡ cho tôi suốt bao lâu nay.

Nói vắn tắt lại, tôi thật biết ơn mẹ vì đã chỉ bảo hướng dẫn tôi biết đi theo “đường ngay nẻo chính” của sự thuận hòa yêu thương đối với tất cả mọi người, từ trong gia tộc ra đến ngoài xã hội. Mẹ đã qua đời trên 58 năm rồi, nhưng các đức tính nhân ái đạo hạnh của mẹ vẫn còn hiển lộ qua cuộc sống của mỗi người con của mẹ là các anh chị em yêu quý của tôi.

Và tôi luôn tự nhủ mình phải luôn cố gắng để xứng đáng với công lao trời biển của mẹ đã hết lòng hy sinh chăm sóc cho mình cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhớ đến mẹ, tôi luôn cảm động rưng rưng nước mắt, mà trong lòng thì tràn ngập niềm yêu thương mến phục đối với một nhân cách cao quý rất mực như thế trên cõi đời nhiều chông gai nghịch cảnh này.

Với niềm tin vào cuộc sống mai sau, tôi phấn khởi, tràn trề hy vọng sẽ được gặp lại bà mẹ muôn vàn yêu quý của mình, sau ngày tôi lìa xa cõi thế gian tạm bợ này nữa vậy.
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Image

Em Tôi

Phan Nhật Nam
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết.

Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẩm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngôì ăn cơm bên ngọn đèn dầu , tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.

Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.

Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đỗ được bằng tiểu học năm đó.

Vào lớp đệ thất trường Trần quốc Tuấn, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ bé thua tôi vài tuổi .

Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi.

Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở...

Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ , nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.

Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà nẳng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm đuợc, tôi phụ mẹ một ít nuôi em.

Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.

Lật đật trở vào Đà nẳng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khoé mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt .

Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và oà lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tỉnh mach ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa ...

Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc ... nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai giòng nước mắt chảy nhạt nhoà trên má.

Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ gỉa từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẩm cả vạt áo me bạc màu . Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi ...


Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nữa. Nhưng em thì phải trở lại trường.

Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi , cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều . Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời .

Tôi vào trường Võ bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao gi dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.

Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ qúa sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khoá của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người .

Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhở có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ....

Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng . Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già.

Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lể nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích" của bạn tôi, của Mễ, của Lô ....

Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm . Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lể ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng , trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn long lanh ...

Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo .

Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em súng sính trong bộ đồ cưới , tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em.

Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết quả là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.

Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng , những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc ... đã làm vinh danh binh chủng cũ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa hè đỏ lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy.

Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rãnh rỗi tôi lại ra Phan Rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lãnh dòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao uớc mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này.


Biến cố tháng 4/75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã qúa già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em ...

Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu , đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông qúa ...

Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em.Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhoà. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.

Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được , bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn nguời đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.

Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi bố trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hưá sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy.

Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mủi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.

Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi .

Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy truởng trại tiết lộ về điạ vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ .

Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan Rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng , bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dững dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình.

Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây gi tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.

Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.

Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờđã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khoẻ yếu lắm, em sợ nhở có mệnh hệ nào ...

Tôi thẩn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi , khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nữa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ?

Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Nguời chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung uý Trần nguyên Tuấn .

Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng nguời nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hoá đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhoà, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi ....

Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...

Phan Nhật Nam
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest