Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Người Nữ Tu trong Cô Nhi Viện Pleiku -

Phạm Tín An Ninh

Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi nhận lệnh kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số.

Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi nhận lệnh kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ, nên bọn tôi thèm những cơn say.

Rất may, tôi có một anh bạn – phải nói ông anh mới đúng – là Liên Đoàn Trưởng của một liên đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Hennessy. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.

Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng. anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái.
Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ.

Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp túi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:
– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?
Tôi khựng lại, ngạc nhiên:
– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!
– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy?
Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò:
– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà.
Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:
– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải
không?

Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hải hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.
Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết…Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.

Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghi anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:
– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.
Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo này là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Một cô gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ và có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt cô có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có bóng dáng cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm màu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận. Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc ở khu ngoại ô tương đối an toàn, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức. Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.
Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng Carbine M2 chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số.

Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh. Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:
– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?
Vị linh mục buồn bã:
– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.
Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.
Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thầy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.
- Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?
Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại:
– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.
Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.
– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?

Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.
Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô Trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé. Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặc.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng.

Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi chợt nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sững sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:
– Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau.

Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng” nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng gió mưa lầy lội, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị cũ, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.

Phạm Tín An Ninh
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image

CÁI DÁNG RẤT BUỒN

Anh bước vào giai đoạn lú lẫn (Alzheimer) ở cuối đời. Mấy năm nay anh đã thay đổi rất nhiều. Bắt đầu anh quên quên nhớ nhớ, tiếp đến là anh dễ xúc động, anh hay khóc. Mấy năm trước, nghe cô bạn đọc Thơ của anh, anh cười, anh nhớ lại, đọc tiếp theo, chỉ độ một năm sau đó, anh không đọc theo nữa, anh chỉ nghiêng đầu lắng nghe, rồi bật khóc.

Hình như anh biết được người kia vừa nói ra những câu gì rất thân yêu, rất thân thuộc với mình, và điều đó làm anh xúc động, anh khóc rưng rức.
Chị lại nhỏ nhẹ dỗ anh:
- Nín đi, nín đi, Thơ của anh, cô ấy nhớ đấy mà, phải vui chứ.
Anh nghe chị, ngoan như em bé, lau nước mắt, bằng mấy ngón tay, rồi cười, một nụ cười rất thơ trẻ.

Những năm kế tiếp, anh bắt đầu quên mặt họ hàng, quên mặt những người bạn thân, anh chỉ nhớ có chị thôi. Anh 85 tuổi, chị 80 tuổi. Hai vợ chồng già sống với nhau, con trai, con gái đều có gia đình. Đứa ở xa, đứa ở gần cũng vậy thôi. Một năm tụ họp gia đình đôi ba lần vào dịp Lễ, Tết.
Khi anh mới bắt đầu lãng quên, sức khỏe anh vẫn còn tốt, sáng sáng chị chở anh tới Gym. Chị bơi lội, anh ngồi ngoài nắng hóng mặt trời. Chị đi chợ, đi tới nhà bạn họp mặt luôn luôn có anh đi theo. Mỗi ngày anh một chậm hơn và quên nhiều hơn nhưng anh vẫn tự lo được vệ sinh cho mình, chị chỉ cần nhắc.

Rồi bỗng một ngày anh không làm gì một mình được nữa, chị phải phụ anh. Cơ thể chị nhỏ quá so với anh, chị không thể khênh vác, tắm gội cho anh được.
Anh bắt đầu ngu ngơ như một đứa trẻ còn mặc tã, mà anh đang mặc tã thật, chị không thể nào khênh, đỡ anh làm những việc vệ sinh cá nhân cho anh. Chị gọi con, con trai chị từ Tiểu bang xa về tìm Home Care để gửi Bố vào.

Tìm mãi mới được một nơi gần nhà, Mẹ chỉ lái xe có 8 phút là thăm được Bố. Số tiền hơi cao, nhưng để con lo.
Con ở lại thêm vài ngày nữa yên tâm có chỗ tốt cho Bố mà Mẹ không phải đi xa, muốn thăm Bố lúc nào cũng được.
Chị ngậm ngùi:
- Ừ thôi con về nhà với vợ, con đi.

Mấy hôm có con, chị yên tâm. Con đi rồi, chị một mình trống trải, thấy căn nhà của mình sao nó rộng mênh mông thế này, căn nhà không có anh bỗng tự nhiên thành xa lạ, giống như chính chị cũng vừa dọn vào một ngôi nhà mới, chị buồn trống cả hồn. Buổi tối đi ngủ chị nghĩ tới anh ở nhà mới với những người xa lạ chắc anh còn buồn hơn chị bây giờ. Thương anh quá, chị mong sao cho đến sáng để vào thăm anh.

Anh đã ở nhà mới được hai tuần, mỗi ngày chị tới thăm, người ta không cho chị vào hẳn phòng anh, ngay cả phòng khách cũng chưa được vào (vì đang thời Đại Dịch), họ đưa anh ra ngoài hàng hiên, nơi đó có sẵn mấy cái ghế cho anh chị ngồi gặp nhau. Chị thấy anh sạch sẽ, tươm tất chị cũng mừng, nhưng mỗi lần thấy anh hiền lành như một đứa trẻ ngoan, chị lại mủi lòng.

Sao anh thay đổi nhanh thế! Gặp chị anh không vui, chị đứng lên về anh không buồn, trên nét mặt anh chị không thấy một cảm xúc nào, anh nhìn chị như nhìn cái cây hay bức tường trước mặt, ánh mắt anh không vui, không buồn.

Con chim sẻ sà xuống sân cỏ trước mặt hai người, chị cầm tay anh lay lay, chỉ anh, anh nhìn mà như không nhìn, ánh mắt anh không biểu lộ một cảm xúc nào.

Khi tới thăm anh, chị cứ đinh ninh là khi anh bước ra, thấy chị, ánh mắt anh sẽ sáng lên, miệng anh sẽ mỉm cười và khi chị bịn rịn chia tay về, ánh mắt anh sẽ buồn buồn, tay anh sẽ nắm chặt tay chị. Nhưng không, anh thản nhiên đứng lên đi vào, không hề quay đầu lại.

Chị không thấy anh khổ, không thấy anh buồn hay vui. Hình như anh không còn cảm giác buồn vui nữa. Sao anh thay đổi nhanh thế!
Chị nghĩ tới ba tháng mùa Đông sắp tới, người ta đã cho chị biết là sẽ không có thăm viếng vì trời lạnh người già yếu không thể ra ngoài hiên được và thân nhân vẫn chưa được quyền vào bên trong, nếu đại dịch vẫn còn.
Chị nghĩ tới nét mặt vô cảm xúc của anh, nghĩ tới hình ảnh anh đi vào không hề quay đầu lại và chị đứng ứa nước mắt nhìn theo dáng cái lưng im lặng của anh khuất sau cánh cửa.
Trời ơi trong 3 tháng mùa Đông, ngay cả cái lưng im lặng, cái dáng rất buồn đó, chị cũng không được nhìn thấy, mặc dù nó vẫn hiện hữu.
Bất giác chị ôm mặt mình nấc lên./.

Trần Mộng Tú
Tháng 9-18-2020
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Tóc Thề
(t/g Nguyễn Khôi)
Bố mẹ tôi lấy nhau từ lúc hai người còn rất trẻ.
Mẹ kể: ngày trước, trong đám sinh viên trường Mỹ Thuật mẹ chỉ để ý đến
bố vì bố có mái tóc rất đẹp.
Mối tình của hai người cũng lắm trắc trở.
Bà tôi bảo:
"Con yêu gì thằng đó, chân yếu tay mềm, rồi cũng khổ thân mày".
Mẹ cười nói với bà:
"Con yêu vì anh ấy có mái tóc đẹp. Cái tóc là gốc con người mà mẹ!"
Cả họ ngoại tôi đều bảo mẹ gàn. Riêng bạn bè của mẹ thì khuyên ngăn:
"Chẳng lẽ mày yêu hắn chỉ vì mái tóc?"
Mẹ triết lý:
"Nhưng ít ra cũng còn có cái để yêu".
Lúc chỉ còn có hai người với nhau, mẹ cũng nói thật lòng với bố thế.
Cứ tưởng rằng bố sẽ buồn, nhưng không, Bố còn đùa tếu:
"Mái tóc muôn năm".
Sau ngày cưới, mẹ đi chợ sắm cho tổ ấm của mình. Trong những thứ linh
tinh mà mẹ khuân về có một cái kéo, một con dao cạo sắc lem.
Mẹ tuyên bố:
"Kể từ ngày hôm nay em sẽ hớt tóc cho anh. Cấm anh ra tiệm!".
Hôm đầu tiên "ra nghề", mẹ phải cày cục gần một buổi mới hớt xong mái
tóc của bố.
Không biết "tác phẩm nghệ thuật" của mẹ đạt đến trình độ nào mà sáng
hôm sau bố phải đội sùm sụp cái mũ trên đâu để đến cơ quan.
Qua mấy chục năm, tay nghề của mẹ đến nay đã hết sức "vững vàng". Mặc
dù là hiệu trưởng của một trường cao đẳng sư phạm, phải giảng dạy, họp
hành suốt ngày nhưng chưa bao giờ mẹ quên việc chăm sóc mái tóc của
bố.
Món quà mà mẹ tặng bố sau những chuyến công tác về thường là những
chai thuốc gội đầu, những lọ dầu xịt tóc. Và công việc trước tiên là
kiểm tra xem cái râu, cái tóc của bố có "vấn đề" gì không.
Còn bố, từ một chú học trò chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời thì bây giờ
đã "nghiện" nặng. Đố ai hớt tóc được cho bố. Có những lần đi công tác
ở nước ngoài gần năm tháng trời nhưng bố vẫn không chịu hớt tóc viện
lý do là để vậy cho ấm.
Bố thường bảo:
Không có hạnh phúc nào bằng sau những chuyến đi mệt nhoài được ngả
người trên ghế để cho mẹ hớt tóc và gội đầu.
Những lúc hai người giận nhau thì bao giờ bố cũng làm lành trước.
"Chiêu thức" thường dùng của bố là soạn "đồ nghề" ra nhờ mẹ hớt tóc.
Và mẹ chỉ chờ có thế để chính thức tuyên bố "hòa bình" .
Mẹ tôi ngã bệnh đã gần nửa năm nay. Căn bệnh nan y đã rút cạn sức lực của mẹ.
Suốt thời gian đó, bố túc trực bên giường bệnh, tự tay lo lắng tất cả,
ngay đến việc đút cháo cho mẹ bố cũng giành làm vì sợ chúng tôi vụng
về.
Một hôm mẹ nắm tay bố cười buồn nói:
"Thôi! em cho anh ra tiệm hớt tóc đó. Gớm ! tóc tai gì mà phát khiếp !".
Bố nghẹn ngào lắc đầu, chẳng nói được lời nào . Ít lâu sau thì mẹ mất.
Chôn cất mẹ xọng, bố tôi già xọm hẳn đi.
Lúc đêm vợ tôi nói:
"Mai anh đưa tiền cho cụ đi hớt tóc . Trông cụ mà não cả lòng".
Sáng ra bố bảo:
Thằng cả cắt tóc cho Bố
Nói xong bố đến bên bàn thờ của mẹ, run run lần mở bọc vải lấy ra
những thứ "đồ nghề" mà mẹ để lại và đưa cho tôi.
Khi nhát kéo đầu tiên vừa lướt qua thì những dòng nước mắt nóng hổi
của bố cũng lặng lẽ rơi xuống.
Tôi ôm lấy bố nức nở. Phía trên kia mẹ vẫn cười tinh nghịch.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image

VĨNH BIỆT ANH HOÀNG HẢI THỦY
Hồng Thủy

Nếu không lưu lạc qua xứ người, chắc chẳng bao giờ tôi có cơ hội trở thành cô em gái thân thiết của anh chị Hoàng Hải Thủy, để được biết một chuyện không thể nào ngờ. Một nhà văn nổi tiếng, đẹp trai, hào hoa phong nhã như anh Hoàng Hải Thủy lại là một người chồng ngoan và ‘cực kỳ’ yêu vợ. Ở tuổi ngoài 80, nỗi lo sợ lớn nhất của anh Hoàng Hải Thủy là chị bỏ đi trước anh và anh phải sống một mình. Có lẽ tại anh chị có một tình yêu đẹp quá. Tôi dám nói như vậy vì anh có tặng tôi một tập thơ của anh xuất bản năm 1995. Trong tập thơ đó tôi cảm nhận được tình yêu nồng thắm của anh chị.
Mở đầu tập thơ là hình ảnh chị Hoàng Hải Thủy với nụ cười Mona Lisa. Hình này chị chụp có lẽ cũng vào lúc tóc đã điểm sương, nhưng trông vẫn còn đẹp lắm. Trên tấm ảnh là giòng chữ Tặng Alice (tên chị) Washington DC cuối thu 94. Dưới ký tên Hoàng Hải Thủy rất bay bướm.
Trang tiếp theo là 4 câu thơ Alice 54

Mùa thu mây trắng xây thành
Tình em mầu ấy có xanh da trời
Hoa lòng em có về tươi
Môi em có thắm nửa đời vì anh?
Bài thơ thứ nhì là bài Yêu Hoài Ngàn Năm anh làm ngày 15 tháng 10 năm 1977 trong phòng biệt giam Nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu

Yêu Hoài Ngàn Năm

Yêu nhau ngày tháng qua nhanh
Ba mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau
Từ xanh đến bạc mái đầu
Tình Ta nước biển một mầu như xưa

Yêu bao giờ, đến bao giờ
Thời gian nào rộng cho vừa tình ta?
Lòng em hoa vẫn tươi hoa
Môi em thắm đến em già chưa phai

Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai
Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe em
Mặt trời có lặn về đêm
Sáng mai em dậy bên thềm lại soi

Cuộc đời có khóc, có cười
Có cay đắng, có ngọt bùi mới hay
Thu về trời lại xanh mây
Ðầy trời anh thấy những ngày ta yêu

Càng yêu, yêu lại càng nhiều
Nhớ em, anh nhắn một điều: yêu em.

Đọc xong bài này, tôi chắc ai cũng cảm nhận được tình anh Hoàng Hải Thủy trao cho chị Alice tràn đầy và chung thủy đến thế nào.
Những ngày ở tù tuy buồn khổ, cơ cực, tình yêu cũng vẫn tạo cho anh cảm hứng làm những vần thơ cho chị. Những câu thơ đọc lên nghe nát cả lòng

Nằm trong khám tối âm u
Buồn nghe đêm lạnh sương mù sa mưa
Bồi hồi tưởng mái nhà xưa
Ngày đi đã nát, bây giờ ra sao?

Thương em nhạt phấn, phai đào
Ðêm đêm trở giấc chiêm bao một mình
Ngủ đi em, mộng bình minh
Mưa bao nhiêu giọt là tình bấy nhiêu
*
Nằm trong khám tối nghe mưa
Ðêm nào cũng thấy đêm thừa trống canh
Thương nhau nên ngủ không đành
Nhớ nhau nhưng mộng không thành em ơi

Anh nghe từng tiếng lệ rơi
Biết em đang khóc nên trời đổ mưa…

Về văn nghiệp, mới 10 tuổi cậu bé Dương Trọng Hải (tên thật của anh Hoàng Hải Thủy) đã nuôi mộng trở thành văn sĩ. Ngay năm 10 tuổi anh đã mê đọc cuốn tiểu thuyết Giông Tố của Vũ Trọng Phụng và Trường Đời của Lê Văn Trương. Anh rất phục các ông văn sĩ, anh thấy các ông như những ông Trời con vì các ông có quyền tạo ra các nhân vật trong truyện, tạo ra cuộc sống đa dạng cũng như định mệnh của các nhân vật đó. Anh bắt đầu viết văn năm 18 tuổi. Một năm sau, 1952 anh tham dự cuộc thi truyện ngắn do Nhật báo Tiếng Dội tổ chức. Chưa cần biết có được trúng giải hay không, chỉ cần truyện được chọn đăng là đã được trả 200$. Số tiền khá hấp dẫn với chàng trai 19 tuổi. Không ngờ truyện ngắn dự thi ‘Người Con Gái Áo Xanh’ của anh lại được giải nhất. Tiền thưởng là 3.000$. Ông Trần Tấn Quốc chủ nhiệm nhật báo Tiếng Dội đãi 3 người trúng giải Nhất, Nhì, Ba đi ăn tiệc cao lâu rồi đưa mỗi người một ngân phiếu. Đi lãnh tấm ngân phiếu thứ nhất quá lớn trong đời ở Ngân hàng về, anh biếu ngay bố mẹ 500$, chia cho các em một phần. Tiền còn lại anh đi may cho mình bộ complet đầu tiên với giá 700$.

Từ đó sự nghiệp văn chương của anh bắt đầu khởi sắc. Những truyện dài đăng trên các báo của anh rất hấp dẫn người đọc. Lần lượt các truyện dài đăng báo của anh như: Như truyện Thần Tiên, Tìm em nơi thiên đường, Định mệnh đã an bài, v.v. .. được các nhà xuất bản mua bản quyền xuất bản nhiều lần.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của anh là cuốn tiểu thuyết phóng tác Kiều Giang. Anh đã lấy tên cô con gái cưng, bé Kiều Giang lúc đó mới được 6 tháng để đặt tên cho tác phẩm này.
Nói tới nhà văn Hoàng Hải Thủy là ai cũng nghĩ ngay tới tác phẩm Kiều Giang. Điều này đã cho anh cảm hứng sáng tác bài thơ làm trong Sà lim Khu B, trại giam Phan Đăng Lưu năm 1978. Có những câu đọc muốn ứa nước mắt.

Người bạn tù hỏi qua song cửa
Phải anh là Hoàng Hải Thủy
Anh viết truyện Kiều Giang?
Kiều Giang …!
Ôi tên con, tên ngọc, tên vàng
Làm bố vỡ tim và hồn nức nở
Khi đặt tên con đâu ngờ có thuở
Nghe tên con giữa chốn lao tù
Những đêm dài ngục tối âm u
Bố thấy mắt con sáng bừng rực rỡ
Bố yêu con trong từng hơi thở
Trong trái tim hồng, trong giòng máu đỏ
Kiều Giang ơi, tiếng kêu thương nhớ
Con có run da thịt đêm nay?
Bố cho con trọn máu xương này.

Anh chị có 3 người con, 2 trai 1 gái. Hoài Nguyên và Kiều Giang ở Texas và Ohio. Hải Triều còn ở Việt Nam. Tôi hỏi tại sao anh chị lại chọn Virginia để định cư. Anh cho biết anh rất thân với anh Anh Ngọc (ca sĩ rất nổi tiếng của VN ngày xưa). Hồi anh còn ở VN, anh Anh Ngọc có gửi về cho anh một tấm ảnh anh chị Anh Ngọc ngồi trên một thảm cỏ xanh mướt, đằng sau là cả một rừng lá vàng. Anh Hoàng Hải Thủy mê ngay phong cảnh quá đẹp đó, nên khi có giấy tờ được sang Mỹ, anh chị quyết định chọn nơi có thảm cỏ xanh và rừng lá vàng tuyệt đẹp để định cư. Đó là tiểu bang Virginia, một tiểu bang có cái tên thật tình tứ “Virginia is for lovers”.

Thêm nữa, anh chị chọn Virginia vì ở Virginia có mấy người bạn thân và có bà Khúc Minh Thơ người hết lòng giúp đỡ cho những cựu tù nhân chính trị ở VN qua Hoa Kỳ tị nạn. Thời gian đầu anh chị hay tham dự những buổi họp văn nghệ. Từ 10 năm nay, vì tuổi tác anh chị không tham dự những hội hè đình đám nữa. Những ngày gần đây sức khoẻ chị suy yếu, chị bị ngã mấy lần, anh luôn luôn lo lắng chị sẽ bỏ anh đi trước. Anh tâm sự anh không thể sống thiếu chị. Tôi trêu anh, tại chị nấu ăn ngon và cưng anh quá. Chị Hoàng Hải Thủy làm chả giò rất ngon. Nhắc đến chả giò tôi lại nhớ đến một kỷ niệm rất cảm động với anh chị. Một hôm tình cờ gặp anh chị ở chợ Việt Nam bên Virginia. Chị em tôi mừng rỡ ôm chầm lấy nhau vì lâu quá hai chị em mới có dịp gặp gỡ. Chúng tôi ở cách xa nhau. Tôi ở Maryland, anh chị ở Virginia. Đang nói chuyện với tôi bỗng chị quay qua anh nói: “ Anh chịu khó lái xe về nhà lấy gói chả giò em để trên ngăn đá mang ra đây biếu cô Thủy. Em ở đây nói chuyện với cô ấy. Lâu quá chị em mới gặp nhau.”

Tôi cản thế nào cũng không được, anh đi thật nhanh ra xe để về nhà lấy chả giò cho tôi. Anh chị thương tôi như vậy đó và tôi cũng rất quí mến anh chị. Chị rất dễ thương nên được lòng nhiều bà hàng xóm

Một hôm tôi tới thăm anh chị nhằm lúc anh đi đón chị ở nhà thương vừa về tới. Tôi thấy một bình hoa hồng thật đẹp của bà ở gần đã để sẵn ở cửa để mừng đón chị về. Vào trong nhà lại thấy bao nhiêu là bánh trái. Anh nói của các bà hàng xóm thấy chị đau nên mang tặng. Có mấy ai được mọi người quí mến như anh chị đâu.

Tôi rất mừng thấy anh còn khoẻ mạnh dù tuổi đã cao. Ngoài 80 mà anh vẫn còn phong độ, sáng suốt. Vẫn lái xe đưa chị đi chợ và viết bài cho các báo. Điều hạnh phúc nhất là tình yêu của anh chị sau 62 năm vẫn còn thắm thiết như những ngày đầu.

Ngày đó gia đình chị đi Vũng Tầu nghĩ mát, thuê nguyên cả một cái Villa thật rộng. Anh họ của chị là bạn thân của anh, rủ anh cùng ra Vũng Tầu chơi.
Biển xanh, nắng vàng và những đêm trăng thơ mộng của Vũng Tàu đã cho cặp trai tài gái sắc có cơ hội gần gũi và nẩy sinh tình cảm chan chứa với nhau.

Kết quả anh tỏ tình và xin cưới chị. Anh kể: “Tối hôm trước vừa tỏ tình với chị thì ngay sáng hôm sau khi ra phố uống café, mua tờ báo đọc, thấy họ in trên trang nhất giòng chữ thật to Hiệp Định Genève vừa ký ngày hôm qua. Hết chiến tranh và chia đôi đất nước.Ngày anh chị quyết định kết hợp lại là ngày đất nước chia đôi thành hai miền Nam Bắc. Ngày đó không chỉ là ngày đặc biệt khiến anh chị nhớ mãi, mà cũng là ngày mà mọi người dân Việt không thể nào quên.”

Nếu bài viết kết thúc ở đây thì tuyệt quá, nhưng… ở đời có lúc chữ NHƯNG đến thật bất ngờ, mang tất cả niềm đau không ai chờ đợi. Cuộc sống của anh chị đang thật êm đềm, hạnh phúc,bỗng đứt đoạn chia lìa… Những lần tôi đến thăm, trong căn phòng khách nhỏ bé ấm cúng, anh chị ngồi tiếp tôi. Gương mặt anh lúc nào cũng rạng rỡ, ánh mắt reo vui nhìn chị nói chuyện thao thao bất tuyệt, thỉnh thoảng chị lại cười thật to, hai anh em tôi cũng cười góp vì chị nói chuyện rất có duyên. Chị kể đủ thứ chuyện, những ngày ở với cộng sản, anh đi tù, tụi cán bộ đến làm khó dễ chị, chị đã không sợ lại còn trả lời chúng những câu thật chua cay. Qua những mẩu chuyện chị kể, tôi rất phục chị, chị quả thật là người đàn bà can đảm, giỏi giang. Chị lo cho anh từng li từng tí, hèn gì anh cứ tâm sự với tôi anh không thể sống thiếu chị và cứ lo sợ chị sẽ ra đi trước anh. Nỗi lo sợ đó đã thành sự thật, chị đã bỏ anh đi thật rồi.Chị mất ngày 27 tháng 12 năm 2018.

Chị ra đi quá bất ngờ. Ngày Lễ Noel Kiều Giang về thăm bố mẹ, chị theo Kiều Giang đi mua sắm, đi chơi, chị rất khỏe và còn đòi đi uốn tóc, sửa soạn cho đẹp để ăn Tết. Đi cả ngày Kiều Giang sợ mẹ mệt, nói mẹ đi nằm nghỉ. Chị vào phòng nằm một lát rồi lại ra phòng khách ngồi nói chuyện. Đang nói chuyện chị than mệt, ngồi ngả đầu ra phía sau, nhịp tim hơi yếu. Đưa chị vào nhà thương, BS nói nhịp tim quá yếu, BS cố gắng cứu chữa nhưng không được. Chị đã trốn anh ra đi thật nhanh chóng, nhẹ nhàng.

Hôm đến viếng chị ở nhà quàn, nhìn anh ngồi trên xe lăn, khuôn mặt thất thần tôi không cầm được nước mắt. Tôi nắm tay anh chia buồn, hai anh em cùng khóc. Tôi biết anh đau buồn lắm, tôi rất lo, từ nay không có chị , không biết anh sẽ ra sao.
Nhớ Tết năm ngoái đến thăm anh chị, trên đường lái xe về, tôi cứ nhớ mãi hình ảnh thật hạnh phúc. Căn phòng khách nhỏ ấm cúng với những bông cúc đại đóa vàng tươi, chiếc bánh chưng dán chữ mầu đỏ thắm phía ngoài, chờ đợi được bóc cho bữa cơm ngày Tết. Hộp mứt sen Bảo Hiên Rồng vàng trông thật hấp dẫn. Hai mái đầu bạc kề cận ngồi nhâm nhi mứt sen bên tách trà thơm bốc khói. Tết năm nay anh một mình một bóng, ai pha trà ngồi đối ẩm với anh đây?

Anh Hoàng Hải Thủy ơi, em nói vậy thôi chứ anh đừng nghĩ mình cô đơn và buồn nhé. Em biết lúc nào hồn chị cũng quanh quẩn bên anh. Chị chỉ tạm biệt anh đi trước thôi mà, chị sẽ chờ ngày tái ngộ với anh vì làm sao chị quên được lời anh dặn dò: “Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai. Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe em.”

Từ ngày chị ra đi,anh sống âm thầm như một cái bóng.Lần nào tôi đến thăm, anh cũng chỉ nói một câu “anh chỉ muốn chết’.Tôi không ngờ tinh thần anh lại yếu như vậy. Hình như chị đã mang tất cả sức sống của anh đi theo chị rồi. Nhớ ngày nào, hình ảnh một anh Hoàng Hải Thuỷ tươi cười, mắt sáng long lanh, ngồi ngắm chị nói chuyện thao thao bất tuyệt với tôi một cách sung sướng, thỉnh thoảng anh mới chen vào một câu để phụ hoạ cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn của chị, hoặc chọc phá chị, để anh em tôi có cớ cười vui thoải mái.Bây giờ, trông anh buồn như một tầu lá úa.

Nhớ lần tôi đến thăm anh chị năm 2017, mang giấy mời Ra mắt Tác phẩm HOA TƯƠNG TƯ của tôi, anh cầm tờ thiệp mời trong tay nhìn tôi nói "lâu rồi anh chị không đi tiệc tùng, họp mặt gì nữa.Chân chị yếu lắm không ngồi lâu được, mà anh không muốn đi một mình. Cô thông cảm nhé “ Tôi đang định trả lời:Dạ, em hiểu, thì chị đã cao giọng ra lệnh: Anh phải đi chứ, không đi cô Thuỷ buồn .Rồi chị quay sang tôi: “ lâu lắm rồi anh không đi đâu nữa hết, anh chị ở ẩn rồi cô ơi, nhưng ra mắt sách của cô thì chắc chắn anh sẽ đi, cô yên tâm nhé”. Anh ngồi im re, hình như chị là "phát ngôn viên"của anh.Thấy anh không nói gì, tôi cũng không hy vọng là anh sẽ có mặt trong buổi RMS của tôi, vì thường các ông không cãi lại lời của các bà vợ, vì nể hay vì biết cãi cũng thua. Các ông mặc kệ vợ nói gì tha hồ, nhưng rồi đường ta ta cứ đi, giống như ông chồng của tôi vậy. Nhưng anh Hoàng Hải Thuỷ thì khác, “ Vợ muốn là Trời muốn”.Ngày RMS của tôi, anh xuất hiện cùng anh Đào Trường Phúc, trông anh vẫn chải chuốt, hào hoa phong nhã như thuở nào. Không những chỉ anh đến tham dự, mà chị còn làm cho tôi bao nhiêu là chả giò thật ngon và một hũ đồ chua to tổ bố để đãi khách.

Tình cảm anh chị dành cho tôi tràn đầy, ấm áp… như chiếc áo len tôi đang mặc do chính tay chị đan cho tôi. Chị rất khéo tay, cơm nước, may vá thêu thùa đều giỏi, lại là người rất tình cảm, chu đáo và yêu anh vô cùng. Chị đúng là người vợ toàn hảo, hỏi sao anh không thể nào nguôi nỗi nhớ, niềm đau?

Tin anh ra đi thật bất ngờ với mọi người, riêng tôi đã linh cảm từ những ngày đầu có dịch "cô vít".
Anh sống rất khép kín, ít chịu giao tiếp với thế giới bên ngoài .Con cái ở xa hết.Người thân mà anh chấp nhận liên lạc đếm trên đầu ngón tay. Cuộc sống anh từ ngày chị ra đi đã rất cô đơn. Bây giờ với nạn dịch bệnh, còn ai thăm viếng ? anh lại càng cô đơn và buồn hơn nữa. Ý nghĩ “chỉ muốn chết” vẫn nằm trong tâm khảm anh từ lâu, chắc lại còn mãnh liệt hơn nhiều.
Anh ra đi, để lại đau buồn cho những người thân ở lại, nhưng với riêng anh, tôi biết là một ước muốn khôn nguôi. Anh đã đến được nơi anh hằng mong đợi, xum họp với nàng ALICE, người yêu muôn thuở của anh.

Hồng Thủy
WDC.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Dĩ vãng khôn nguôi
Khánh Lan

Sài Gòn, Việt Nam
... Ra khỏi phi trường Tân sơn nhất, Thủy đón xe chạy thẳng về khách sạn Thăng Long ở đường Lê Thánh Tôn. Sau khi tắm rửa và nghỉ mệt, Thủy tản bộ dọc theo đường Lê Thánh Tôn đến trung tâm Sài Gòn. Sài gòn bây giờ thay đổi nhiều quá! Nhiều tòa nhà cao mọc lên. Xe cộ và người nhộn nhịp hơn xưa. Sài Gòn bây giờ hình như không còn hiền hòa, thanh lịch như trước. Thủy có cảm tưởng như mình đang trở về căn nhà xưa, nhưng nay đầy những đồ vật ngổn ngang. Cảnh cũ nhưng người xưa đâu? Trong một thoáng, Thủy chợt thấy cô đơn và lạc lõng ngay giữa lòng Sài Gòn, nơi mà trước đây Thủy đã cùng sánh vai người yêu dạo phố hoặc cùng bè bạn đi mua sắm.

Sáng hôm sau, Thủy thuê xe đến nghĩa trang để thắp nhang cho song thân và sau đó đến thăm ngôi trường Trưng Vương thân yêu, nơi đã ghi bao nhiêu kỷ niệm đẹp thuở học học trò. Hai hàng cây phượng bên đường vẫn rợp bóng. Những cánh phượng vờn trong gió sớm như vẫy tay chào mừng người xưa trở về. Thủy đứng trước cổng trường nhìn vào bên trong sân, bồi hồi nhớ lại thời áo trắng. Hình ảnh các bạn học vui đùa dưới hàng me xanh như hiện ra trước mắt. Thủy chợt thấy lòng mình chùng xuống và không gian như lắng đọng...

Ngày tiếp theo, Thủy khởi đầu chuyến du lịch "Nam-Trung-Bắc", một ước mơ đã nung nấu và thôi thúc Thủy trong suốt bao năm xa xứ. Cuộc sống tại Mỹ tuy đầy đủ nhưng trong tim Thủy vẫn luôn luôn cảm thấy nhớ nhung và mất mát một điều gì đó...

Khi xe vừa tiến vào con đường chính Nha Trang, Thủy say mê ngắm nhìn những cấu trúc lạ mắt của Hòn Chồng, với những tảng đá xếp chồng lên nhau tạo nên nhiều hình dạng ngộ nghĩnh, sừng sững trước sóng biển. Con đường dẫn đến bãi trước thật đẹp! Hình ảnh những chiếc thuyền đánh cá đang ra khơi phản chiếu dưới ánh nắng ban mai tựa như một đàn chim ngũ sắc. Thủy đi bộ dọc theo bờ biển, dưới hàng dừa nước để tận hưởng những cơn gió biển dịu mát. Nàng vùi hai chân dưới những hạt cát trắng như thủy tinh nổi bật dưới mầu xanh tươi mát của biển.

Hôm sau, mọi người lên đường đi Huế, một nơi cổ kính, tôn nghiêm mà Thủy chỉ được biết qua sách vở hiện ra trước mắt. Nào là Chùa Tràng Tiền, Chùa Thiên Mụ đến các lăng tẩm của các vị Vua Chúa ngày xưa với những kiến trúc tuyệt mỹ. Tất cả làm cho Thủy say mê và tưởng như mình đang sống ở một thế giới xa xăm huyền bí. Ngắm cảnh xong, bác tài chở mọi người đi chợ Đông Ba để thưởng thức món hai món đặc sản của Huế là cơm hến và kẹo mè xửng. Buổi tối, Thủy thuê xích lô đạp đi ngắm các dẫy Phố Cổ về đêm. Phố Cổ Hội An, thành phố thầm lặng và cổ kính như cái tên của nó. Anh xích lô đạp vốn là một giáo sư sử địa trước năm 1975 nên anh đã kể cho Thủy nghe về những di tích lịch sử, mỗi khi đi qua một địa danh nổi tiếng của Huế. Thủy thả bộ đi thăm ngôi nhà cổ đã xây trước dây cả trăm năm, sau đó đi dạo phố và thưởng thức món mì Quảng đặc biệt của Hội An. Ghé Hội An mà không đi thuyền trên sông Hoài thì quả là đáng tiếc! Những chiếc thuyền ở đây đều chèo bằng tay, lướt nhẹ trên dòng nước lặng lẽ, sầu muộn như một cô gái Huế đa tình và lãng mạng. Bên trong thuyền được thắp sáng bằng những chiếc đèn lồng nhiều màu sắc. Trên cao, bầu trời trong suốt với những vì sao đêm bên ánh trăng tròn lẳn, chiếu lung linh trên mặt nước tạo nên một bức tranh thủy mạc tuyệt vời. Có lẽ đây là một trong những hình ảnh khó quên nhất trong chuyến du lịch.

Đường từ Quảng Nam ra Bắc vừa nhỏ hẹp lại thêm đá lởm chởm khiến xe bị chao đảo không ngừng. Bác tài xế bảo Thủy "Ngoài này không được an ninh như trong Nam nên chúng ta phải cẩn thận, nhất là những con đường đèo như thế này thường hay bị cướp chặn đường nên khi trời chập choạng tối, chúng ta phải mướn "Phòng Khách" để tạm trú, cô Thảo ạ". Thời gian ấy, từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc chưa có khách sạn. Phòng khách gồm những dẫy nhà dài, gồm nhiều khu riêng biệt do nhà nước quản trị. Mỗi khu là một phòng rộng và có nhiều giường nhỏ. Ngoài cửa của mỗi dẫy nhà được canh gác. Hình ảnh anh cán bộ đầu đội nón cối, đi qua lại dưới ánh đèn dầu mờ mờ khiến Thủy cảm thấy rờn rợn.

Sáng hôm sau, mọi người đều phải thức sớm để lên đường. Đến chiều, khi đến Cầu Hiền Lương, bác tài cho xe dừng lại để mọi người xuống xe chụp hình. Thảo bước xuống xe và đi ra giữa lòng cầu. Từng cơn gió thổi mạnh đem theo hơi lạnh từ dòng sông khiến Thủy rùng mình. Thủy ngậm ngùi nhìn xuống dòng sông lịch sử, nơi đã âm thầm ghi dấu sự phân chia lãnh thổ Bắc-Nam và đưa đến một chiến tranh tàn khốc hơn hai mươi năm.

Con đường về Bắc thật thật an bình. Bác tài cho xe chạy chậm lại nên Thủy có thể ngắm những cánh đồng lúa phì nhiêu bên đường. Từng nhóm nông dân đang làm việc, người gieo lúa kẻ trồng mạ. Xa xa, vài con trâu đang ì ạch kéo bừa gỗ và bác nông phu hướng lưỡi cầy xới mảnh ruộng. Giữa cánh đồng, vài con đường mòn dẫn đến những mái nhà tranh vách đất. Dưới bụi tre già, hai con trâu đen được cột vào gốc tre đang nằm thiu thiu ngủ bên cạnh mấy chú nghé đang đùa giỡn. Thấp thoáng thật xa, những dẫy núi trùng điệp. Thủy bỗng nghe lòng dấy lên một nỗi buồn và xót xa vì đời sống của người dân miền Bắc vẫn không thay đổi sau mấy chục năm miền Nam được "giải phóng".

Khi xe đến Ninh Bình, Thủy thuê một chiếc thuyền nhỏ đến Tam Cốc Bích Động. Con thuyê`n lướt nhịp nhàng trên dòng nước xanh biếc mầu ve chai giữa hai cánh đồng lúa vàng óng dẫn đến Tam Cốc Động, hùng vĩ, đứng sừng sững giữa dòng sông. Bao quanh là những ngọn núi cao chót vót và dài như bất tận. Phong cảnh đẹp như tranh vẽ! Những câu hò tiếng hát trên sông của các thôn nữ và anh nông dân hòa lẫn những tiếng cười, tiếng vỗ tay của khách thưởng ngoạn tạo thành một bản nhạc dân ca thật vui tai.

Hà Nội là quê ngoại của Thủy. 36 phố phường không xa hoa hào nhoáng như Thủy nghĩ nhưng chả cá Lãng Vọng quả ngon như lời đồn. Sáng sớm, Thủy thả bộ vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. Giữa hồ một cái miếu nhỏ ẩn khuất sau những cành liễu rũ đong đưa theo gió giữa những làn sương mỏng mờ ảo như một bức tranh tuyệt đẹp phản chiếu trên mặt hồ.
Từ Hà Nội đến Chùa Hương rất xa nên Thủy phải ngủ đêm ở nhà khách để sáng hôm sau lên đường vào Chùa. Con đường vào Chùa mất khoảng nửa tiếng đường bộ và thêm nửa tiếng bằng đường thủy. Trên con đường bộ, Thủy có dịp nhìn ngắm những cánh đồng lúa xanh bát ngát phì nhiêu và đàn cò trắng đang bay lượn, nổi bật trên nền trời xanh. "Đến bến tầu rồi, cô bác ơi!" Tiếng bác tài xế vọng lại kéo Thủy về hiện tại, mọi người chuẩn bị lên thuyền.

Những con thuyền ở đây chèo bằng tay để giữ yên tĩnh chung quanh. Đoạn đường đi vào Chùa thật thơ mộng! Tiếng lá rừng chạm vào nhau, tiếng gió rít nhẹ qua khe đá, hòa với tiếng hót thánh thót của nhiều loại chim tạo thành một điệu nhạc mê hồn. Chiếc thuyền lướt nhẹ nhàng giữa hai dòng nước xanh mầu ngọc thạch. Anh lái đò là một thanh niên trẻ và vui tính. Hai tay anh kéo thoăn thoắt hai mái chèo, miệng hát nho nhỏ bài Đi Chùa Hương với giọng trầm ấm và khá hay "Hôm nay em đi Chùa Hương, hoa cỏ mờ hơi sương...".

Hai bên bờ sông là những hàng cây chen giữa những tảng đá khổng lồ và những ngọn núi cao vút. Thỉnh thoảng có một vài ngôi đền nhỏ dọc theo dòng sông, lẩn sau cụm mây trắng mờ mờ ảo ảo trong làn sương khiến cho phong cảnh thật thanh thoát.

Thuyền cập bến. Hai bác tài lên trước và đi mua gậy để chống vì nó rất cần thiết để leo lên 2.000 bậc thang đá chồng lên nhau để đi lên Chùa. Bên phải của bực thang đá là núi với những túp lều tranh dựng rải rác dọc theo bậc thang để khách dừng chân, uống trà và nghỉ mệt. Bên trái là vực đá sâu thăm thẳm nên rất nguy hiểm. Khi gần đến cửa chùa Hương, mùi nhang khói bay lên mù mịt che mờ cả lối đi phía trước. Những quầy bán nhang, đèn, hoa bầy hai bên cửa chùa che cả lối đi. Thủy chen qua đoàn người vào phía bên trong. Nàng thắp một nén nhang, rồi đứng trước bàn thờ Phật khấn nguyện.
*
Sau chuyến tour Nam-Trung-Bắc, Thủy trở lại thành phố sương mù Đà Lạt, nơi của những tháng năm đong đầy kỷ niệm cuộc tình giữa Thủy và Đức... Thủy đi bộ qua con đường dốc quen thuộc từ Café Thủy Tạ Hồ Xuân Hương, băng qua thảm cỏ xanh Đồi Cù rồi dừng lại dưới hàng thông. Vài cơn gió nhè nhẹ mát rượi thổi ngang qua mang theo mùi thơm của lá thông khiến Thủy cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Vừa đến cửa quán Café Thủy Tạ, Thủy vội nhìn vào bên trong, dáo dác tìm chiếc bàn cạnh cửa sổ mà ngày xưa nàng và người yêu vẫn ngồi bên nhau. May quá, bàn chưa có người ngồi. Thủy bước vội đến bàn, ngồi xuống và nhìn qua cửa sổ. Trong thoáng chốc, dĩ vãng chợt ùa về trong trí óc.
...Ngày ấy, Thủy ra đi trong vội vã, bỏ lại mẹ cha, rời xa bạn bè, con đường ngập lá me bay và hàng cây phượng vĩ nở rộ những cánh hoa mầu đỏ thẫm trước cổng trường. Năm 1972, khi Thủy vừa tốt nghiệp trung học, cha mẹ Thủy cho Thủy lên Đà Lạt thăm và nhân tiện ở dó chăm sóc ông bà ngoại một thời gian. Trong thời gian này, Thủy đã quen với Đức, đang học năm thứ Nhất tại Chính trị Kinh doanh Đà Lạt. Café Thủy Tạ là nơi hai người thường đến và ngồi tại một bàn kê cạnh cửa sổ, nhìn xuống những rặng cây thông ẩn hiện trong làn sương mù trên sườn đồi thoai thoải. Thời gian Thủy ở Đà Lạt thật ngắn nhưng đủ để ghi lại những kỷ niệm khó quên của mối tình đầu.

Sau khi trở về Sài Gòn, mỗi tháng, Thủy viện cớ đi thăm ông bà ngoại để gặp Đức. Đôi khi, Đức bất ngờ về Sài Gòn để làm Thủy bất ngờ.

Đầu năm 1974, tình hình chiến tranh càng ngày càng căng thẳng. Những trận chiến ác liệt diễn ra hàng ngày khắp nơi. Thủy không thể quên được một buổi chiều mưa tầm tã, Đức về Sài Gòn và báo cho nàng biết sẽ bỏ học để gia nhập quân đội. Đức cho biết anh không thể yên tâm ngồi học trong khi bạn bè anh đang chiến đấu gian khổ nơi chiến tuyến. Thủy đã nức nở khóc vì buồn và lo cho Đức. Mỗi khi, nhận được thư tràn đầy yêu thương và nhung nhớ của Đức, Thủy đã đọc đi đọc lại trong nước mắt dàn dụa.

Ngày 15 tháng 4-1975, Bố của Thủy về nhà bất ngờ, gọi Thủy và Mẹ nàng ra phòng khách để nói chuyện với vẻ nghiêm trọng. Ông cho biết Thủy và mẹ nàng phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 2 ngày. Riêng ông, ông phải ở lại vì với cương vị của một sĩ quan cao cấp, ông không thể bỏ rơi đồng đội trong khi mọi người đang cần ông. Mẹ nàng cương quyết ở lại với ông và bắt Thủy phải đi trước. Để trấn an, ba Thủy nói sẽ cố gắng thu xếp và đi sau với mẹ nàng. Ngày hôm sau, ba Thủy cho tài xế vế nhà chở Thủy đế phi trường Tân Sơn Nhất để rời khỏi Việt Nam...
- Thưa cô dùng chi? Tiếng người hầu bàn làm Thủy giật mình trở về thực tại.
- Xin lỗi đã làm cô giật mình. Hình như cô có vẻ thích khung cảnh bên ngoài lắm?
- Xin lỗi ông. Vâng, thật là một khung cảnh thơ mộng.
Giọng nói người hầu bàn chợt như xa vắng và trầm xuống:
- Đây là khung cửa mù sương, một chỗ ngồi tuyệt vời nhất trong quán.
Tim Thủy như thót lại! "Khung cửa mù sương" là một biệt danh mà chì có nàng và Đức biết. Nàng vội ngửng lên nhìn thẳng vào mặt người hầu bàn và trong một thoáng, nàng nhận ngay ra Đức. Nàng đứng bật dậy và run run nói:
- Anh Đức! Thủy đây. Phải anh Đức không?
Người hầu bàn sững lại nhìn Thủy. Không gian như tối lại và lung linh trước mặt là khuôn mặt hồn nhiên ngày nào của Thủy hiện ra. Anh bàng hoàng định giơ tay tay nắm lấy tay Thủy nhưng rồi rụt lại.
- Đức đây. Không ngờ còn được gặp lại Thủy.
Đức ngồi xuống chiếc nghế đối diện Thủy. Hình như có một cái gì đó vô hình chắn ngang hai người khiến hai người ngồi yên lặng thật lâu.

Ngày hôm sau, Thủy và Đức hẹn gặp lại nhau tại một sườn đồi bên cạnh Café Thủy Tạ. Đức cho biết, sau ngày miền Nam thất thủ, anh bị đi tù cải tạo 5 năm. Khi ra tù, anh có đến nhà Thủy nhưng căn nhà đã có người khác ở và họ không biết gì về gia đình Thủy. Anh đoán có lẽ cả gia đình Thủy đã di tản sang Mỹ. Tuy nhiên, anh vẫn nuôi hy vọng nên đã nấn ná sống ở Sài Gòn và làm đủ nghề để sinh sống. Vài năm sau đó, Đức cảm thấy không còn hy vọng nữa nên trở về Đà Lạt sống với người chị. Đức chọn làm việc tại quán Café Thủy Tạ được nhìn khung cửa kỷ niệm và hy vọng một ngày nào đó sẽ gặp lại Thủy nơi đây.

Nghe Đức kể, Thủy vô cùng xúc động và không cầm được nước mắt. Nàng kể lại cho Đức biết là sau ngày 30/4/1975, bố của Thủy bị tù cải tạo. Ông đã chết vì bị hành hạ và vì ăn uống thiếu thốn trong 3 năm tù đày. Mẹ nàng vì đau buồn nên cũng qua đời một năm sau đó. Thủy đã tìm đủ mọi cách để tìm Đức trong suốt 10 năm nhưng vô vọng. Nàng đã lập gia đình năm 1986 và có 1 đứa con gái.

Trời đã bắt đầu chiều và sương mù đang từ từ bao phủ những ngọn thông. 20 năm trước, Đức và Thủy đã từng ngồi tại chỗ này dệt biết bao mộng đẹp; nhưng hôm nay, tất cả chỉ còn như những chuyện cổ tích. Đức ngập ngừng nắm tay Thủy và nói "Suốt 20 năm qua, anh vẫn thầm mơ ước một ngày nào đó sẽ được gặp lại Thủy. Bây giờ, anh đã mãn nguyện vì biết Thủy vẫn bình an. Có lẽ còn lâu lắm chúng ta sẽ gặp lại nhau. Những kỷ niệm xưa anh sẽ giữ mãi trong tim và anh luôn cầu chúc cho Thủy được hạnh phúc." Thủy xúc động nhìn Đức. Hơi ấm quen thuộc khiến cho tình yêu thủa ban đầu như đang bừng sống lại. Trong làn sương mờ ảo, khuôn mặt thư sinh ngày nào của Đức như đang mỉm cười với Thủy.

Khánh Lan
California September 2020
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image
Đừng yêu người làm thơ



Đợi cho Quang ra khỏi nhà là mẹ tôi nói ngay:
- Anh Quang này trông đứng đắn đàng hoàng đấy, vậy con liệu mà bảo nó tính đến chuyện hỏi cưới đi.
Tôi đáp với lòng hãnh diện:
- Sớm muộn gì anh ấy cũng phải lên tiếng thôi, con việc gì phải bảo người ta cho nó mất giá trị !
- Mẹ thấy mấy đám trước cũng tử tế như thế này, cứ kéo dài hò hẹn, tìm hiểu mãi rồi ai cũng rút lui, chẳng hiểu họ chê con vì điểm gì? nên lần này con phải chủ động giục cưới cho chắc ăn, kẻo lại thêm một mối tình lỡ.
- Mẹ yên tâm, đây sẽ là mối tình cuối cùng của đời con.
Mẹ tôi cũng không quá lo xa đâu, có nhiều mối tình đến với tôi, nồng nàn tha thiết bao nhiêu nhưng vẫn không đi đến kết quả tốt đẹp. Mẹ tôi bảo tại tôi lãng mạn quá, trái tim dễ rung động quá, nên yêu nhiều mà chẳng được bao nhiêu, yêu chưa đúng người.

Tôi đã biết yêu từ năm 12 tuổi, hồi đó ở Việt Nam vẫn còn là tuổi của ngây thơ khờ dại. Tôi rất thích ăn mì của cái tiệm ở đầu đường nhà tôi do một người Hoa làm chủ, đứng nấu mì là một anh ba Tàu trẻ, thường thì mẹ dẫn tôi đi hay có khi tôi thèm thì xin tiền mẹ chạy đến tiệm ăn một mình. Dù đi với mẹ hay không, tôi đều thích đứng cạnh xe mì để nhìn ngắm anh Tàu trổ tài nấu mì, anh để một vắt mì vào thùng nước sôi và nhanh chóng vớt lên bằng một cái vợt lưới, bàn tay anh thao tác nhuần nhuyễn, hất tung vắt mì lên vài lần cho ráo nước và sau cùng hất vào tô, bao giờ cũng chính xác, không rớt ra ngoài. Xong anh bày lên những miếng thịt heo nạc thái mỏng còn viền màu đỏ vì đã được ướp xá xíu, một thìa tóp mỡ thái hột lựu, và một thìa củ cải mặn cũng thái hột lựu, rồi mới đến những cọng hẹ cắt khúc ngắn. Anh mở nắp vung thùng nước lèo, cả một mùi thơm bát ngát theo hơi khói bay ra, thuở đó trong mắt tôi thùng nước lèo to, sâu thẳm ấy là một công trình vĩ đại và kỳ bí như trò ảo thuật, vì chẳng biết anh Tàu nấu bằng xương thịt gì, bí quyết gì mà nước lèo thơm ngon thế ? Có bao giờ tôi ăn tô mì mà chẳng húp hết nước sạch sẽ đâu!

Khi thì anh Tàu bê tô mì ra bàn cho tôi, khi anh bận thì tôi tự làm lấy vui vẻ. Tôi thích ăn mì và yêu cả anh Tàu nấu mì, không biết vì anh trẻ đẹp trai vui tính hay vì anh là người đã nấu cho tôi những tô mì ngon ?
Tôi đến tiệm mì thường xuyên đến nỗi anh Tàu nhớ mặt tôi, có lần anh vừa vung vẩy biểu diễn hất vắt mì vào tô vừa cười cười với tôi : “ Hày, con nhỏ này là khách quen của bổn tiệm mà, để tao cho mày thêm vài miếng thịt”.
Hôm ấy tôi ăn tô mì đặc biệt nhiều thịt, vừa sung sướng vì anh nhớ đến tôi, vừa buồn buồn vì anh gọi tôi bằng “mày” và xưng “tao”. Anh Tàu chẳng biết rằng con bé ranh này đang yêu anh, hôm nào không có tiền ăn mì, đi học về qua tiệm tôi đi chậm lại một chút để nhìn thấy anh rồi mới chịu đi nhanh về nhà, tương tư anh nên tôi đã nói với mẹ: “Lớn lên con sẽ lấy anh Tàu bán mì“.

Mối tình đơn phương đầu đời có liên quan đến vấn đề ăn uống ấy chỉ tồn tại được một hai năm, không phải vì có vài lần tôi thấy vợ anh đứng nấu mì thay cho anh, là một chị mập ú, luôn luôn mặc áo sát nách để hở hai cánh tay béo mỡ, vừa nấu mì vừa xổ một tràng tiếng Tàu với hai đứa con nhỏ đang luẩn quẩn bên cạnh, mà vì càng lớn tôi càng có nhiều sở thích khác ngoài ăn mì. Tôi thích đọc sách báo, thơ truyện, tôi biết tưởng tượng đến một người yêu thanh tao gấp mấy chục lần anh Tàu của tôi thuở tôi 12 tuổi.

Năm tôi học lớp 11, đã có vài bài thơ đăng báo nên cả lớp “nể mặt” và đồng loạt bầu tôi làm Trưởng ban báo chí của lớp, sau khi tôi đi họp để bầu Trưởng ban báo chí của toàn trường, tôi phải đứng trước lớp báo cáo lại kết quả buổi họp đó. Tôi đâu có tài ăn nói trước đám đông, trong khi bao nhiêu con mắt đang đổ dồn vào tôi, làm tôi bối rối thì ít mà thằng lớp trưởng đứng bên cạnh làm tôi bối rối thì nhiều, vì tôi yêu và nể nó, tính tình nó hiền lành, ăn nói lưu loát và có tài lãnh đạo. Tôi lí nhí kể lại buổi họp cho thằng lớp trưởng, khi một người ngồi dưới hỏi chị trưởng ban báo chí lớp ơi ! đã bầu xong trưởng ban báo chí toàn trường chưa? Thì thằng trưởng lớp dõng dạc trả lời giùm tôi “Chị cho biết là chưa có bầu”. Cả lớp cười ồ lên còn tôi thì đỏ mặt. Lớp trưởng vội vàng sửa lại, nói đầy đủ hơn: “Chị cho biết là chưa có… bầu trưởng ban báo chí toàn trường”.

Tình yêu là một trò chơi quanh quẩn, trong khi tôi yêu thầm thằng lớp trưởng, nó chẳng thèm để ý đến tôi, (bụt nhà không thiêng?) thì một thằng bên lớp 12 lại trồng cây si tôi mê mệt, luôn luôn tôi thấy có cặp mắt nào đó đang nhìn mình, những lúc tôi đang ăn chè đá đậu hay chấm mút trái cóc chua ngọt với muối ớt trước cổng trường đều bị nó bám sát không rời, làm tôi phải nhịn thèm các món đó luôn vì mắc cở, cho đến cuối năm đó nó rời khỏi trường tôi mới được tự do ăn uống trở lại. Lá thư tỏ tình nó gởi tôi do một đứa bạn cùng lớp đưa lại chẳng bao giờ tôi trả lời vì tôi không yêu nó. Sau 1975 nó đi vượt biên với vợ con và mất tích ngoài biển khơi.

Tôi nghĩ đời tôi có hai cái may, nếu mối tình với anh ba Tàu mà thành sự thật thì bây giờ tôi đã là chị ba Tàu, chắc cũng mặc áo sát nách đứng nấu mì thay cho chồng và quát tháo lũ con om sòm bằng tiếng Tàu rồi ! hoặc nếu tôi lấy anh chàng lớp 12 si tình kia thì giờ này tôi cũng mất tiêu trên biển với nó rồi !

Cho đến năm tôi 20 tuổi, trước khi đi định cư ở Mỹ thì trong tâm hồn tôi đã có một đống những người tình lý tưởng lấy ra từ trong tiểu thuyết và phim ảnh, Rhett Butler của “Gone With The Wind”, Zhivago của “Dr. Zhivago”, hay ông linh mục Ralph của “The Thorn Birds” hay “chú” Sách tử tế và bao dung yêu vợ trong “Tình nghĩa vợ chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch v.v… Tôi từng bị tiếng sét ái tình với người trong phim truyện, thì với người đời bằng xương bằng thịt là lẽ đương nhiên, nhưng dù sét đánh dữ dội thế nào tôi cũng không bao giờ chết, yêu nhanh và quên cũng nhanh. Mẹ tôi bảo tính tôi lãng mạn, mê làm thơ, mê đọc thơ nhiều quá rồi nó vận vào người, toàn là những mộng mơ ảo tưởng ! Đã hơn 30 tuổi rồi mà vẫn chưa “tỉnh” người ra để kiếm một tấm chồng, để sinh con đẻ cái như người ta. Tôi chống chế, thời buổi này người ta lập gia đình trễ sau khi đã có công danh sự nghiệp. Mẹ tôi lẩm bẩm, nhưng con không bận học hành, không làm ăn buôn bán, chỉ đi làm hãng xưởng thì sự nghiệp gì mà chờ đợi cho nó già cả người hở con?

Ba mươi mấy tuổi ! chưa già, nhưng cũng không còn trẻ ! Tôi không “nhìn lên trời” để tìm Rhett Butler hay Dr. Zhivago nữa, mà đã hạ tiêu chuẩn, tìm nhũng người thường xung quanh tôi, lần này tôi sẽ không để mất Quang vì tôi yêu anh và anh cũng yêu tôi như thế.

Đã mấy tuần trôi qua, chẳng hiểu sao Quang không liên lạc với tôi, cell phone và email đều im lặng. Lạ quá ! những tín hiệu tôi gởi đi nhưng anh vẫn không hồi đáp.

Một người bạn thân của tôi báo cho tôi một tin không thể tin nổi là Quang đang quen với một người con gái khác, tôi cười khỉnh vào mặt bạn tôi rằng, đó là tin đồn thất thiệt, mày phải nhớ là Quang yêu tao như thế nào! chiều chuộng từng sở thích của tao như thế nào ! và nhất là Quang yêu thơ của tao nữa ! Anh tìm đâu ra một người yêu vừa lãng mạn vừa biết làm thơ ? người nào mà lấy tao thì cuộc đời sẽ đẹp như thơ.

Tôi bỗng nhận được lá thư của Quang gởi từ bưu điện. Chẳng hiểu sao E-mail tiện lợi, anh không dùng, hay anh muốn cứu giúp ngành bưu điện đang ế ẩm, để các mailman có việc làm ?
Thái độ im lặng thật lâu đã lạ, cách liên lạc của anh càng lạ hơn làm tôi hồi hộp khi bóc thư ra, nhưng tôi vẫn tin rằng đó là một lá thư dài tràn đầy lời thương nhớ và tới tấp xin lỗi em yêu ! Tôi trải tờ thư phẳng phiu ra và khoan khoái đọc:
Thương gởi em ! (biết ngay mà, tôi nghĩ )

Suốt mấy tuần qua, anh đã suy nghĩ rất nhiều trước khi viết lá thư này. Anh phải viết bằng thư tay để em đọc xong và suy ngẫm, chứ gởi qua e-mail coi chừng em delete mất !
Em ơi, chúng mình đã yêu nhau hơn một năm trời, đã bao lần hò hẹn, gặp gỡ tìm hiểu nhau, đủ để đi đến một quyết định… (đọc đến đây tôi nhắm mắt lại, thở phào một cái sung sướng trước khi đọc tiếp lời cầu hôn năn nỉ của anh ta)…
Anh nhận thấy một điều rất rõ ràng là : Anh không thể lấy em ! Có nghĩa là chúng mình sẽ chia tay từ đây ! Vì em lãng mạn quá, em như sống ở trên mây, anh đã cố gắng chiều chuộng em, nhưng thà chiều chuộng một đứa trẻ, khi nó lớn lên một chút là thôi, còn chiều chuộng những đứa làm thơ như em thì phải cả đời.
Em đâu có biết, anh đã mệt mỏi căng thẳng biết bao để chiều lòng em ! Nửa đêm anh đang ngủ ngon để mai đi làm sớm thì em gọi cell phone đánh thức anh dậy để… khoe một câu thơ vừa hiện ra trong đầu, em đọc cho anh nghe, anh mắt nhắm mắt mở chỉ thèm ngủ chứ đâu có thèm nghe thơ, dù hay cỡ nào cũng không thành vấn đề đối với anh trong lúc này. Vậy mà anh phải khen hay, nhưng em không tin, còn bắt anh phân tích hay ở chỗ nào? Anh đành làm nhà phê bình văn học thơ em cho tới sáng, cho tới giờ đi làm. Anh không lạng quạng lái xe đụng người ta trên highway đầy nghẹt xe là may phước cho nhà anh rồi.

Những lúc hai đứa mình đi chơi, anh đang lái xe đến một địa điểm nào đó đã định trước, thì em chỉ huy anh phải quẹo hết con đường này đến con đường khác, mặc dù em không biết nó về nơi đâu ! Nhưng đó là những con đường có hàng cây đẹp làm em mơ mộng, nổi máu muốn làm thơ.

Cái hôm mình đi ăn đám cưới một người bạn, em còn nhớ không? Chỉ vì anh đi theo những con đường thơ mộng đó theo bất chợt cảm hứng của em, mà đến trễ 3 tiếng đồng hồ, vượt hẳn kỷ lục đi trễ của người Việt Nam mình khá xa !
Yêu em nên anh ráng hy sinh, nhưng chuyện chiều chuộng em cuối cùng vừa rồi thì anh chịu hết nổi, và em có còn nhớ không? Đó là một buổi chiều Chủ Nhật, ngày vui của Weekend đã tàn, ai cũng cần nghỉ ngơi để thứ Hai đi làm, trời lại đang gió mưa, thật ấm cúng khi được ngồi ở nhà ăn bữa cơm chiều, hay xem tivi, đọc báo… thì em phone cho anh, đến gặp em gấp. Anh vội vàng thay đồ đến nhà em, tưởng em đang gặp chuyện gì khó khăn, cần có anh giúp một tay. Thì ra em rủ anh đi dạo phố chiều mưa với em cho …. vui, cho romantic. Em ơi, lúc đó mẹ anh mà bị bệnh, kêu anh ra chợ mua cho bà hộp thuốc, chưa chắc gì anh muốn đi, nhưng vì yêu em, thấy em phấn khởi , thích thú quá, anh đành chiều.
Trời mưa rả rích, gió lạnh từng cơn, trên con đường lá rụng ướt đẫm nước mưa, anh cầm dù che cho em là chính, còn anh hứng toàn bộ cơn mưa, ngày xưa còn bé, anh khoái tắm mưa, còn hôm đó anh tắm mưa bất đắc dĩ, mưa ướt anh từ đầu đến chân, người anh run lên vì lạnh, nhưng anh không dám kêu ca, để tôn trọng tâm hồn thi sĩ của em, để cho em hoàn tất được ý thơ cho bài “Hai đứa đi trong chiều mưa gió”.

Khi bài thơ ấy được đăng báo, may ra có một vài người cảm động vì thơ em, nhưng anh phải đánh đổi với cái giá rất đắt, suýt nữa bằng cả một sinh mạng ! Anh về nhà, tối hôm đó bị cảm lạnh, lên cơn sốt cao hừng hực, mẹ anh biết chuyện vừa xót xa thương con vừa tức giận, mắng anh là thằng ngu ! Nó đã dở hơi mà mày cũng dở hơi theo nó đi trong mưa như thế à ? Tao nói cho mày biết nhé, dù con dở hơi ấy có giàu, có đẹp đến đâu cũng không bao giờ tao muốn nó về làm dâu nhà này (Anh xin thề đây là nguyên văn lời của mẹ anh, chứ anh không nỡ gọi em là “con dở hơi”, cho dù anh thấy điều ấy cũng… không sai).

Hôm sau anh phải nghỉ làm, đi Bác sĩ và nằm nhà suốt tuần.
Em, một người làm thơ, có tâm hồn nhạy cảm vô song, một chút nắng đổi màu, một cơn gió xao xác chuyển mùa, hoa lá kia đang nở hay héo tàn… em biết ngay, em sản suất ra thơ ngay. Nhưng anh nằm ốm bệnh lu bù ở nhà thì em không biết, em chẳng đoán ra, chỉ gởi những lời nhắn khơi khơi trên email hay cell phone là “Gọi lại cho em gấp ! Đến nhà em gấp !”
Em không hề thắc mắc là vì sao anh vắng mặt, vì sao anh im lặng, mà chỉ ra lệnh cho anh đến với em.

Sau trận ốm suýt chết oan đó, đọc thấy lời nhắn của em, anh sợ quá, sợ em lại rủ anh đi trong một cơn mưa gió cho một bài thơ khác sắp hiện ra trong đầu em, hay bắt anh chở đi lòng vòng khắp các nẻo phố phường có hàng cây lá đẹp, đến chóng cả mặt, và tốn cả xăng, thời buổi kinh tế khó khăn, giá dầu thô lên 82 đồng một thùng, em biết chưa ?

Nhờ trận ốm đó, anh đã tìm ra một chân lý là “Đừng yêu người làm thơ”, những đứa làm thơ như em, chỉ làm thiệt hại đến người khác, chỉ nương tựa vào người khác. Anh đến nhà em, lần nào cũng thấy mẹ em đang nấu cơm, chưa bao giờ anh thấy em đứng trong bếp, dù chỉ để cắt một cọng hành ! Anh dám chắc là trong đời em chưa bao giờ biết luộc rau muống, chứ đừng nói tới các món cầu kỳ khác ! Thế mà đã mấy lần em mời anh đến nhà ăn cơm chiều, em tự hào khoe, mẹ em kho cá, mẹ em nướng thịt ngon lắm, hay bất cứ món gì khác, mẹ em đều nấu ngon hết.

Em ơi, nếu anh lấy em, ai sẽ nấu cơm cho anh ăn? Nên anh đã tưởng tượng ra thảm cảnh tương lai, anh sẽ phải làm bếp và nếu có con anh sẽ kiêm luôn phần trông con, giặt giũ, quét dọn nhà cửa, để cho em rảnh tay làm thơ. Vì thế, anh quyết định chia tay em để quen với người khác, một con người thực tế 100 % , không biết làm thơ gì cả ! Chẳng sao, anh mở báo, mở net ra, có cả đống nhà thơ cho anh đọc, cần gì phải cưới một nhà thơ về để phải chiều nó cho mệt cuộc đời? Còn người vợ thực tế của anh sẽ biết đi chợ, sẽ biết lo cho anh miếng ăn, giấc ngủ.

Anh may mắn thoát khỏi tay em, nhưng anh chưa yên tâm đâu, sau này anh sẽ để di chúc truyền đời cho các con, các cháu anh để cho chúng biết mà tránh xa “Đừng yêu người làm thơ”.
Hôn em lần cuối.

Tái bút : Dù sao anh cũng luôn cầu mong em sớm kiếm được một người khác để thay anh dìu em đi trong mưa cho những bài thơ sắp tới của em. (anh tin rằng cuộc đời này lúc nào cũng có sẵn những thằng ngu như anh).

Đọc xong lá thư tôi vừa tức vừa đau khổ, yêu tôi được lãng mạn thế, anh không happy thì thôi, mà còn kết tội tôi và chấm dứt mối tình đang tha thiết. Tôi vùi đầu trong chăn, trong gối, để mặc cho nước mắt tuôn rơi và cõi lòng tan nát.

Nhưng tôi chợt vùng dậy, chạy ra lấy giấy bút ghi vội một đề tài, một câu thơ vừa xuất hiện trong đầu, vì trong đau khổ hồn thơ bỗng lai láng, nên dù buồn đứt ruột vẫn có xen lẫn một chút vui thú vì câu thơ vừa ý. Nay mai tôi sẽ có bài thơ đăng báo là “Hai đứa chia tay trong chiều mưa gió” Và nếu đúng như lời Quang đã nói trong thư, tôi lại chờ đợi một anh chàng ngu ngơ, lù khù nào đó sẽ đi vào đời tôi, để tha hồ mộng mơ tiếp, và hi vọng lần này sẽ… kiếm được một tấm chồng đồng điệu, biết yêu người làm thơ.

Nguyễn thị Thanh Dương
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

BÍ ẨN MỘT CHUYỆN TÌNH
(Chuyện dễ thương gì đâu...)

Tôi có thằng bạn nối khố. Nối khố đúng nghĩa, thân nhau từ nhỏ đến lớn. Cho đến bây giờ đầu hai thứ tóc mà vẫn mầy tao. Dĩ nhiên tôi phải gọi vợ hắn bằng chị một cách lễ phép. Chúng tôi sinh ra, lớn lên ở thành phố Hội An. Ðó là một thành phố cổ mà ai cũng biết. Cả mấy trăm năm mà hầu như ít có người sửa lại ngôi nhà của mình. Họ bảo thủ cũng có nhưng sửa để làm gì? Con cái lớn lên, đứa nào cũng tìm cách bay nhảy ra khỏi thành phố, vả lại nhà có hư, dột gì đâu? Nhà xưa, tường xây mấy lớp gạch dày, ngói lợp âm dương, sườn nhà bằng gỗ tốt, mấy cây cột nhà to tướng bằng gỗ lim, gõ...mối, mọt gặm gãy răng không ra. Có điều bất tiện là nhà nhiều cột quá. Tôi nhớ lúc nhỏ, khuya dậy đi tiểu, mắt nhắm mắt mở, hai tay quờ quạng phía trước, vậy mà cứ đập trán vô cột nhà hoài. Còn đường phố ở Hội An, ngay cả đường phố chính cũng chỉ rộng hơn đường hẻm ở Sài Gòn chút đỉnh, nghĩa là vừa cho chiếc xe hơi chạy một chiều. Có lẽ ngày xưa, cách đây khoảng bốn, năm trăm năm, người ta làm đường đủ cho hai chiếc xe ngựa tránh nhau mà thôi. Sau nầy, các con đường được mở tối đa, lấn đến sát thềm nhà, đến độ, bước ra khỏi cửa là đặt chân xuống lòng đường, khiến cho Hội An trông rất đặc biệt, như không có đường phố lớn và mọi nhà đều xây mặt ra hẻm. Hội An giống một cái túi, ra vào chỉ một con đường đi Vĩnh Ðiện, nối với Quốc lộ 1, cho nên con người ở đó loay hoay với nhau như trong tổ mối. Họ thân thiết nhau đến độ biết rõ gia phảø mấy đời trước của nhau.
Tôi xin dài dòng, linh tinh một chút về bạn tôi. Bạn tôi tên Công, trong lớp, ngồi gần tôi vì cùng vần C. Nhớ năm đó có cô Lê thị Tường Loan, giáo sư Anh văn, mới ra trường. Cô Tường Loan trẻ và đẹp lắm. Mỗi khi cô vào lớp là bọn đệ tử chúng tôi ngồi ngắm cô sa đà, quên cả trời trăng. Cô đã đẹp còn diện hết sẩy, mỗi ngày một áo dài khác nhau. Bọn con gái còn đếm được cô có mấy chục áo dài tất cả, mà cô thì cứ may áo mới hoài. Mùa đông, hơi lạnh một tí là cô diện áo ấm vào, trông như nữ minh tinh Hồng Kông. Cô mới ra trường, chỉ hơn bọn đệ tử năm, bảy tuổi nên chúng tôi xem như cùng trang lứa, tuy kính nể nhưng cũng thích chọc ghẹo cô. Thế nên, hễ nghe cô gọi đến tên Công lên trả bài, làm gì cả lớp cũng nhao nhao “Công ngủ rồi, cô!” Cô ngạc nghiên hỏi hắn “Sao trong lớp anh lại ngủ?” Hắn ú ớ “Dạ, mấy bạn chọc em đó cô” Ðúng là cô giáo mới ra trường, ngây thơ chi lạ! Nhưng sau cô cũng hiểu. Lần sau, cô gọi hắn, đứa nào nói “Công ngủ rồi ạ!” là cô làm nghiêm, mặt đỏ lên, và cô hành cái thằng dại miệng đó chết xác luôn. Nhưng khổ nổi, hễ cô mà gọi đến tên Công là bao nhiêu cái miệng ngứa ngáy. Sau mới nghĩ cách khác, chúng mách cô “Công còn thức, cô!” Lần nầy các cậu cũng vẫn bị phạt mà cứ ngơ ngác không hiểu vì sao?! Kể ra, để thấy rằng, Công, bạn tôi chẳng có giá trị gì cả.
Chuyện tôi và hắn thời tiểu học thì cho qua đi, lên trung học, khoảng đệ tứ, đệ tam tâm hồn mới có vấn đề, nghĩa là tập tểnh đi tìm người đẹp để dâng quả tim. Thời đó, khoảng thập niên sáu mươi, tôi nhớ, Hội An có nhiều người đẹp. Cô Hà thị Tuyết ở gần chợ đẹp ngây thơ, hiền hậu, cô “Liên chuột bạch” đường Nguyễn thái Học rất dễ thương. Cô Lý tuyết Ánh đã đẹp mà hát bài “Mai Quế” nhạc tàu, hay lắm. Cô Tuyết Trinh nhà ở tiệm ảnh Huỳnh Sỏ hát bài “Tôi vẫn yêu hoa màu tím” còn hay hơn ca sĩ Lệ Thanh. Còn một cô nữa, rất đẹp mà hát cũng hay, không thể nói tên ở đây vì là nhân vật chính trong chuyện tôi sắp kể. Tôi xin tạm gọi là cô An. Bạn tôi “si” cô nầy như là một thứ bịnh tâm thần. Càng yêu, hắn như càng mất tinh thần trước cô. Mới thấy người đẹp đằng xa là chân tay cứ run lên, thở không ra hơi. Bạn tôi xấu trai. Dân thành thị mà đen thùi, mặt hắn chành bành như mặt ông địa múa lân, chân tay cục mịch, khi đi cứ bước thình thịch xuống mặt đường như trâu dậm. Ngữ hắn thì hy vọng gì trước cô An, đẹp như tiên, học giỏi, hát hay. Hắn thua sút các bạn cùng tuổi, chỉ có tâm hồn thì hơi lãng mạn. Hắn làm thơ. Làm thơ ca tụng em An. Thơ hắn thường thấy xuất hiện trên báo, báo ở Sài Gòn đàng hoàng. Hắn xứng đáng được gọi là “nhà thơ”, nhưng chút danh vọng đó cũng chẳng giúp hắn được cô An tỏ cử chỉ gì ưu ái hơn các bạn khác.
Vì yêu em hắn đã làm một chuyện lạ đời. Xưa nay chỉ có hắn là đến nhà thờ cầu Chúa rồi đến chùa lạy Phật cầu xin cho em yêu hắn. Hắn chỉ khấn có một câu“Lạy Phật (hoặc) lạy Chúa cho em An yêu con!”. Chỉ riêng tôi hắn mới nói sự bí mật đó. Hắn bảo rằng với lòng thành của hắn, Phật, Chúa ắt động tâm vì các đấng đã chẳng dạy chúng sinh phải yêu thương nhau là gì? Tôi không nói ra nhưng nghĩ rằng, các đấng ấy hơi đâu lo chuyện tào lao. Giúp đỡ, an ủi lũ chúng sinh bất hạnh mà thế gian vẫn chưa hết đau khổ, thì giờ đâu mà lo cho hắn?! Ấy vậy mà phép lạ xảy ra mới kỳ. Hắn được người đẹp nắm tay dẫn đi rồi còn nhảy tót vào ngồi trong vòng tay hắn và ôm hắn nữa. Nguyên nhân như thế nầy. Hè năm đó trường Trần Quí Cáp tổ chức đi chơi Ngũ Hành Sơn, đi, về trong ngày. Ngũ Hành Sơn, còn gọi là Non Nước, cách Hội An độ vài mươi cây số, ở ngoại ô thành phố Ðà Nẵng, gồm năm ngọn núi đá nhỏ, có một số hang động, có chùa chiền, có đường lên trời, đường xuống biển. Lúc bấy giờ có một hang động mới vừa tìm thấy, nên ai cũng tò mò muốn xem. Sáng hôm đó, xe đỗ học sinh trước động mới. Các thầy cô sắp xếp học sinh đi vào động. Con gái đi riêng, con trai đi riêng. Khi vào, đèn đuốc được thắp sáng lên, tất cả lần lượt đi rất trật tự. Nhưng vào bên trong thì vì chỗ nào cũng có những hình tượng kỳ lạ, nên lũ học trò trầm trồ, đi linh tinh, gọi nhau ơi ới, chẳng còn hàng lối gì cả. Bạn tôi nhân lúc lộn xộn, lẻn chen vào toán con gái, hắn đi theo người đẹp. Trong động thiếu ánh sáng, đèn đuốc chập chờn. Ai cũng lo ngắm nghía mấy cái thạch nhủ. Ða số các cô mắt cứ nghiêng ngó chung quanh, tay thì nắm tay bạn cho khỏi lạc. Một lần, cô An, người đẹp của hắn, mắt nhìn lên nóc động, tay quờ quạng phía sau để nắm tay bạn, gái, dĩ nhiên. Hắn đứng sau, lẳng lặng đưa tay ra, thế là người đẹp vô tình cứ nắm lấy tay hắn lôi đi. Chỉ mình tôi theo dõi chuyện đó. Tôi thấy lúc nắm tay hắn, cô hơi khựng lại. Hú vía! cô không quay nhìn hắn. Hắn để cho cô dẫn đi cả buổi mới rút tay lại và quay về toán con trai. Tôi hỏi hắn sao không tiếp tục, hắn bảo sợ người đẹp phát giác, vả lại có cô thầy đứng gần đó. Ðàn ông con trai, già trẻ gì cũng giống nhau, yêu ai, nhất là yêu thầm, coi người đó như thần tượng, rất tôn quí, rất cao xa. Như bạn tôi yêu cô An, bỗng dưng được người đẹp nắm tay, thử hỏi có thứ hạnh phúc nào sánh bằng? Hắn mừng lắm, khoe với tôi rằng tay em dịu dàng, mát rượi. Rồi hắn cứ hôn mãi bàn tay (của hắn) đã được em nắm dẫn đi. Khi ra khỏi động, mọi người ngồi rải rác để thở vì ngộp và nóng. Thấy cô An ngồi hơi xa các bạn trên một tảng đá, hắn làm như vô tình đến ngồi bên cạnh.
Thực ra học sinh, trai gái ngồi cạnh nhau là bình thường, nhưng với hắn, được ngồi bên em là một biến cố lớn. Hắn muốn gợi chuyện nhưng cứ đực ra, không dám mở miệng. Bỗng hắn thấy một con sâu róm đang bò đến gần tay người đẹp, hắn bảo.

-Có con sâu...

Cô An quay lại hỏi hắn.

-Công nói gì?

Vừa lúc con sâu bắt đầu bò lên ngón tay của cô, hắn chỉ con sâu và bảo.

-Con sâu kìa!.

Cô nhìn thấy và hét lên một tiếng khủng khiếp, mặt xanh lè, nhào ngay vào lòng hắn, một tay ôm hắn, tay kia cứ đưa ra ngoài, vẫy lia lịa. Ðúng là tiếng kêu “vang dội núi rừng”, khiến mọi người giật mình quay nhìn. Hắn ngớ người ra, chưa kịp “enjoy” cái hạnh phúc bất ngờ thì người đẹp đã bỏ chạy đến với các bạn gái. Thế là hắn hoàn toàn mất hồn, miệng cứ lẩm bẩm với tôi.

Chắc tao chết mất! Ðội ơn Phật, đội ơn Chúa!Từ đó hắn rất siêng đi ngang qua nhà người đẹp, đôi khi cũng có gặp nhau, em cũng chào hỏi, chuyện trò vớ vẫn với hắn như một người bạn bình thường. Ấy vậy mà hắn lại thơ mộng hóa những lần gặp gỡ đó trong những vần thơ của hắn, tưởng như người đẹp cũng có yêu hắn một cách thầm kín. Thi tú tài hai xong, bọn tôi rủ nhau thi vào trường Hành Chánh. Sau bốn năm đèn sách, thi tốt nghiệp, hai đứa tôi học dỡ quá, ít điểm, nên khi chọn nhiệm sở, mấy chỗ ngon lành, bọn học giỏi chiếm cả, chỉ còn mấy tỉnh khói lửa mịt mù như Phước Long, Quảng Trị, Pleiku, Kontum...Hắn rủ tôi về Quảng Trị, có lẽ để dễ về Hội An thăm người đẹp.
Về Quảng Trị, mỗi đứa lãnh một chức phó quận ở miền quê, nhưng chiều nào cũng về nhà trọ ở thành phố Quảng Trị. Cơm hàng cháo chợ xong, hai đứa về nằm nói chuyện khào. Ðề tài hắn nói hoài không chán là chuyện em An, nhất là mỗi khi về thăm em, hắn kể say sưa em đẹp ra sao, chuyện trò những gì với hắn. Tôi khuyến khích hắn tỏ tình, hắn bảo.

-Tao khớp quá! Chỉ sợ em nói “Anh hiểu lầm sự tử tế của An rồi” là tao hết hy vọng. Vả lại...

Hắn không nói tiếp nhưng tôi biết hắn mặc cảm xấu trai, nên giải thích.

Thời chiến tranh, hành chánh dù sao cũng đỡ hơn nhà binh, mầy không tiến tới, em lấy chồng, mầy chổng mỏ la trời.

Hắn nghe trúng ý nên hăng hái.

- Tuần sau, tao về nói đại, xem sao?

Tuần sau, hắn về Hội An, khi trở ra, tôi hỏi hắn.

- Kết quả ra sao?

Hắn làm thinh. Hỏi mãi, hắn mới bảo.

- Tao về, nghe người ta đồn rằng có một tên bác sĩ đang nhờ người mai mối.

- Em chịu không?

- Tao không biết, nhưng so với hắn, tao lép vế rõ ràng! Thế nên tao không ghé vào thăm em nữa.

Khuya đó, tôi thức giấc, thấy hắn ngồi đốt thơ. Ðúng là hình ảnh “chàng thi sĩ thất tình đốt thơ” Trầm tư, lặng lẽ, đau khổ âm thầm...trong ánh lửa bập bùng, khi tỏ, khi mờ của những bài thơ đang đi vào khói mây của dĩ vãng! Từ đó hắn biếng ăn, nhác uống, thân thể ốm o, mặt hắn đang tròn lại dài ra, hai má tóp lại, trông càng quái dị. Nhưng rồi một lần, tôi về Hội An thăm gia đình, khi ra Quảng Trị, tôi báo cho hắn một tin đáng cho hắn tiếp tục nuôi hy vọng. Em từ chối lời cầu hôn của anh chàng bác sĩ nọ. Hắn lý luận.

Có lẽ em yêu một tên nào rồi, chứ không phải tao.Tôi khuyến khích hắn. Dân hành chánh có cái phong thái riêng, vừa có vẻ ngạo mạn, tự tin lại vừa thanh cao, lãng mạn như một thư sinh.Hắn coi bộ lên tinh thần, nhưng còn mặc cảm xấu trai. Tao chẳng thấy tao khác ở chỗ nào, e còn tệ hơn.Tôi lại phải tái khẳng định.- Mấy bài thơ trên báo đủ làm tim em rung động và yêu mầy. Mầy phải tự tin mà nhào vô kẻo trễ.Lần nầy thì hắn cương quyết.Ðược, tao sẽ làm như mầy nói, nhưng để thong thả, tao phải lạy Phật, cầu Chúa... để lấy can đảm.Sau cái tin vui đó, hắn ăn uống bình thường trở lại. Mặt hắn lại tròn, giống mặt cô Thúy Vân, em gái Thúy Kiều, trông không đến nỗi, và hắn lại tiếp tục chương trình ngày rằm, mồng một đi chùa, chủ nhật đi nhà thơ,ø trên cổ, hắn đeo sợi dây chuyền có tượng Phật và tượng Chúa Giê Su. Có lẽ cứ bị làm rộn hoài và cũng vì tội nghiệp hắn nên các Ngài (Chúa và Phật) định đem hồ sơ của hắn ra cứu xét thì vừa lúc Miền Nam sập tiệm. Quan lớn, quan nhỏ đi tù cả nút, dĩ nhiên tôi và hắn, cũng vô tù. Sau khi ra tù, tôi ở lì tại Sài Gòn, hắn thì về Hội An có lẽ để được gần người đẹp. Một lần về Hội An thăm nhà, tôi gặp hắn hành nghề chạy xe thồ, nghĩa là cứ ra bến xe Hội An đón khách với chiếc xe đạp, ai đi đâu thì hắn chở phía yên sau, kiếm tí tiền còm. Chẳng thấy hắn mặc cảm gì cả, gặp ai cũng cười hề hề. Lâu quá mới gặp, chúng tôi mừng rỡ kéo nhau vào quán nước trò chuyện. Tôi hỏi.
- Mầy còn siêng đi nhà thờ, đi chùa không?

Ý tôi muốn hỏi còn yêu cô An không? Hắn trả lời.

- Vẫn đi đều đều!

- Em bây giờ ra sao, ở đâu?

- Em vẫn ở đây. Bây giờ khá lắm. Ông bố với thằng em vượt biên, ở Mỹ, gởi hàng về, sống phây phả.

Kể ra có một người đẹp để tôn thờ cũng là một thú vui thanh tao, đâu cần được đáp lại, miễn người đẹp biết nhưng không tỏ vẻ khó chịu là tốt rồi. Trước kia hắn lép vế vì xấu trai, nay hắn tụt xuống hạng cùng đinh, thì dù hắn có lạy đến sói trán trước đức Phật hay quì mòn đầu gối trong nhà thờ cũng chẳng hy vọng gì. Theo chuyện cổ tích, sau khi gặp Mỵ Nương, Trương Chi tiếp tục hát đến khan cổ mà người đẹp không thèm nghe, nay hắn cũng vậy, những bài thơ tình trên báo của hắn trước đây cũng tương tự tiếng hát vô vọng của anh Trương Chi, chẳng có tác dụng gì. Ôi, thơ với thẩn! Thực tế vẫn tàn nhẫn, vẫn phủ phàng. Hai cậu (hắn và Trương Chi) chăûng có nghề ngỗng gì ra hồn, làm không đủ bỏ mồm, lấy gì nuôi vợ con nên hai nàng làm lơ cũng đúng thôi. Thế mà, lúc còn ở Sài Gòn, bỗng nhiên tôi được tin hắn cưới cô An làm vợ?! Tôi nêu giả thuyết, cô bị xe tung sứt tay, gãy gọng, bị hỏa hoạn cháy nám mặt mày hoặc cô linh tinh với ai lỡ mang bầu cần hắn đứng ra “nôm” thì tôi nghĩ hắn vẫn lời chán. Hắn có gì để trao đổi với cô An đâu?! Tôi nhớ rõ, chuyện hắn cưới cô An xảy ra trước tin đồn bọn tù cải tạo sẽ được đi Mỹ nên lý do cô thích đi Mỹ mà ưng hắn cũng không đúng.

Hôm đến sở di trú làm giấy tờ, phỏng vấn, vợ chồng tôi gặp vợ chồng hắn. Thấy cái lối săn sóc chồng đến độ âu yếm của vợ hắn, tôi nghĩ, cô An si mê hắn nhiều hơn là hắn si mê cô ta. Hắn có hai đứa con nhưng tôi vẫn hỏi.

- Ðứa nào là con của mầy?

Ý muốn biết cô An có con riêng không?

- Hai đứa nầy đây.

Cha con hắn giống nhau như khuôn đúc, cô An cũng vẫn đẹp như trước đây.

Ðến Mỹ, chúng tôi tuy ở khác tiểu bang, nhưng vẫn thường gọi nhau thăm hỏi. Rồi hắn bảo tôi qua tiểu bang hắn chơi ít hôm, tôi đồng ý. Thăm hắn cũng có nhưng mục đích chính là hỏi cho ra cái lý do hắn được cô An lấy làm chồng. Vợ chồng hắn ra đón chúng tôi tại phi trường. Về nhà đã có sẵn một bàn đồ nhậu. Khi đã ngà ngà say, tôi hỏi.

-Hai ông bà kể cho tụi nầy nghe cái nguyên nhân đưa đẩy hai người đi đến “sống chung hòa bình” Chị An nói cho tụi nầy biết. Thằng bạn tôi đây, ở tù về, chẳng ai dám giao thiệp, vậy mà chị lại chọn hắn ta, là cớ làm sao?

Vợ hắn mới kể.

- Bà cụ (tức mẹ của cô An, vợ hắn) bị bịnh ung thư. Khi phát giác ra thì đã quá trễ. Bịnh ung thư của đàn bà, đến thời kỳ trầm trọng thì có mùi hôi khó chịu, chẳng nhờ được ai phụ giúp cả. Gia đình chỉ có mình tôi, mà bà cụ thì cứ rên la suốt ngày đêm, chỉ vài tháng là tôi đã kiệt sức, e chết trước bà cụ mất! Cũng may, gặp ổng. Ổng xung phong đến thức đêm canh chừng bà cụ, tôi mới ngủ được chút đỉnh. Bà cụ thấy ổng tận tâm, không hề tỏ vẻ khó chịu nên bà cụ cảm động, trước khi mất, bắt hai đứa tôi làm lễ thành hôn, coi như cưới chạy tang. Nói là đám cưới chứ thực ra chỉ có lễ vật sơ sài, nhang đèn rồi lạy cáo tổ tiên, ông bà trước sự chứng giám của bà cụ mà thôi.

Vợ tôi nửa đùa nửa thật.

- Dám anh chị tò tí nhau, bà cụ bắt gặp, coi như ván đã đóng thuyền, thì cho “Thuyền ra cửa biển” luôn, phải không?

Bạn tôi đính chính.

- Lúc đó tôi coi bả như thiên thần, chéo áo cũng không dám động đến, mỗi ngày được gặp mặt người đẹp, lại được chuyện trò, tôi đã sướng mê rồi, còn ao ước gì hơn. Ngay sau buổi lễ gọi là đám cưới, tôi cứ nghĩ, bà cụ bắt buộc thì “nàng” phải vâng lời cho bà cụ vui lòng nhắm mắt, sau đó sẽ có màn cám ơn rồi đường ai nấy đi.

Vợ hắn thêm vào.

- Bấy giờ tôi chỉ còn bộ xương, đi không nổi, bà cụ thì rên la ngày đêm, tâm trí đâu nghĩ đến ba cái chuyện kỳ cục!

Tôi hỏi.

- Nguyên nhân nào đưa đến chuyện ông đến được với bà?

Vợ hắn nói.

- Bữa đó tôi lên Vĩnh Ðiện bổ mấy thang thuốc nam cho bà cụ, đến bến xe Hội An thì được ổng thồ về, đến nhà, vừa bước vô cửa, tôi xỉu vì mệt quá, ổng đỡ vô nhà. Thấy tình cảnh tôi, ổng xung phong đến săn sóc bà cụ về ban đêm để tôi có thể ngủ được chút ít. Bà cụ cảm động vì ngay cả đến người mình trả tiền công hậu hỉ mà cũng rút lui thì phải biết ổng chịu đựng giỏi đến bực nào!

Ðồng ý là bà cụ cảm động, chị An cũng nhớ ơn đã chịu khó thức đêm, nhưng tôi thấy không phải là lý do để chị yêu thằng bạn tôi. Nhất là cái lối hai anh chị quấn quít nhau như tụi tôi thấy thì phải có tình yêu thắm thiết. Thằng bạn tôi trồng cây si chị từ lâu thì chẳng nói làm gì, còn chị, sao lại có thể như thế được?!Cả hai vợ chồng chỉ cười chứ không trả lời. Hôm sau, buổi sáng, nhân hai người đàn bà rủ nhau đi chợ, chỉ còn mình tôi với thằng bạn, tôi hỏi bí quyết nào khiến hắn chịu đựng mùi hôi giỏi như vậy? Hắn nói.
- Tao nói nhưng tuyệt đối giữ bí mật, bà xã tao mà biết được thì việc tao chăm sóc bà cụ mất hết cả ý nghĩa. Nó đơn giản như thế nầy. Trong lúc ở tù, tao bị bịnh viêm xoang mũi nặng. Ra tù tao cũng chẳng có thuốc chữa. Tao nghe người ta mách đến một ông thầyï chữa thuốc nam bên Cẩm Phô. Tao đến, ổng dùng thứ thuốc bột màu trắng bỏ vô tờ giấy nhỏ, cuốn lại, thọc vô lỗ mũi tao rồi ổng thổi một cái. Thuốc chạy lên tới óc! Tao tóa hỏa tam tinh, xây mòng mòng như con gà dịch. Cả giờ sau mới tỉnh. Vậy mà thuốc hiệu nghiệm mới lạ! Cứ vài ngày tao đến cho ông thầy thổi thuốc một lần. Ít lâu sau bịnh hết hẳn nhưng từ đấy tao không ngửi được mùi gì ráo. Mũi tao điếc đặc nên dù có đứng bên cạnh cái xác trương sình tao cũng không biết thơm hôi gì. Tao chẳng ngu gì mà nói ra điều đó với bà xã tao, lại làm ra vẻ anh hùng “Em chịu đựng được thì anh cũng vì tình yêu mà chịu đựng được vậy!” Nhưng tao vẫn có một thắc mắc như vợ chồng mầy là dù vì cảm động tấm lòng của tao, vì vâng lời mà cụ chấp nhận tao thì bả cũng không thể có cái tình âu yếm, yêu thương tao một cách chân thành, nồng nàn như tụi mầy thấy. Tao đã nhiều lần hỏi bả như thế mà bả chỉ cười không trả lời. Vợ chồng mầy tìm cách hỏi thử xem điều bí mật đó giùm tao.

Hôm vợ chồng hắn tiễn chúng tôi ra phi trường, tôi kéo vợ hắn ra xa, hỏi riêng.

- Tôi hỏi chị một chuyện, chị phải nói thực. Coi bộ chị thương yêu bạn tôi nhiều hơn cả những người vợ bình thường?

- Thì tôi đã kể rồi, ổng như thế ai mà không cảm động.

- Tôi thấy cách yêu thương của chị không phải do lý trí mà từ quả tim chân thành.

Vợ hắn cười.

- Con mắt mấy ông tài thực! Ðược rồi, chỉ riêng anh tôi kể, nhưng đừng cho ai biết. Anh còn nhớ thời tụi mình đi học, có lần đi thăm Ngũ Hành Sơn, Non Nước không? Vụ con sâu bò trên tay tôi đó!.

- Nhớ rồi! Rồi sao nữa?

Cô đỏ mặt lên.

- Tôi thương ổng từ bữa đó.

- Bạn tôi suy luận đúng ngay chóc! Hắn bảo sao chị không bỏ chạy mà lại nhảy vào lòng hắn, còn ôm hắn nữa. Tôi thì cho rằng chỉ là tai nạn, chị hoảng quá, chứ ai mà cố ý.

Cô có vẻ mắc cỡ.

- Thực ra tôi không cố ý làm điều đó. Nhưng khi đang hoảng sợ mà có một người mình có cảm tình ngồi bên cạnh, tự nhiên phải chạy đến cầu cứu người đó.

- À, tôi biết rồi, bạn tôi làm thơ yêu chị, chị cảm động, có cảm tình?

- Chỉ đúng một phần.

- Vậy chứ cái phần kia là chuyện gì?

Cô ngập ngừng.

- Anh cũng biết, con gái mới lớn mà cầm tay con trai cả buổi, tự nhiên phải rung động, và...nhớ suốt đời!

Tôi chưng hửng.

- Vậy là chị cố ý cầm tay bạn tôi! Lúc ở trong Ðộng Mới tôi theo dõi, thấy hết. Hắn đưa tay cho chị nắm, tôi thấy chị hơi khựng lại, tôi nghĩ rằng chị không biết đó là bàn tay của hắn.

Cô cười.

- Lúc mới cầm đến tay ổng, tôi cảm thấy bàn tay cứng đơ, không dịu dàng như tay bọn con gái chúng tôi. Tôi liếc qua biết là tay ổng, tôi cầm luôn. Bàn tay ổng như có điện, chạy khắp người tôi. Ði loanh quanh trong động một lúc, tôi kéo ổng vô chỗ bóng tối, chờ hoài mà ổng không chịu ôm hôn tôi. Bây giờ vẫn còn tức!

Tôi cười nham nhở.

- Cưới nhau về, ôm bao nhiêu không được mà còn tức?!

Cô nguýt tôi.

- Bọn đàn ông các ông phàm phu tục tử, chẳng biết tình yêu là gì! Người ta nói lúc còn trẻ kia. Làm sao quên được.

Ðọc đến đây, bạn sẽ nghĩ rằng. Chuyện hợp lý, cô An yêu bạn tôi vì những bài thơ ca tụng cô, cảm động vì hắn tận tâm săn sóc bà cụ. Nhưng tại sao lại có những chuyện tình cờ ăn khớp với nhau một cách lạ lùng như vậy được? Con sâu ở đâu ra? Sao cứ nhè tay cô An mà bò lên? Vì sao mũi bạn tôi lại điếc đặc khi bà cụ bịnh? Tại sao cô An lăn ra bất tỉnh ngay khi bạn tôi đưa về đến nhà?

Nếu bạn là người vô thần thì tôi chịu thua. Ngược lại bạn tin có Chúa, có Phật thì tôi xin kể một sự thật. Hai đấng từ bi (Phật và Chúa) đã hội ý nhau giúp hắn. Ðúng ra các Ngài không bao giờ buộc người nầy phải yêu người kia như cha mẹ ép duyên con cái được, vì Tình Yêu là thứ Tự Do quí giá nhất các Ngài đã tặng cho loài người. Nhưng chả lẽ bạn tôi van xin, cầu khẩn bao nhiêu năm mà các Ngài nỡ làm ngơ?! Thế nên các Ngài đành bỏ chút thì giờ mà ra tay vậy.

Lúc bấy giờ, hai vị đó, trên chín tầng mây, nhìn xuống thế gian, theo dõi, xem bạn tôi đang làm gì? Khi thấy hắn ngồi bên cô An, Ðức Phật bèn bắt một con sâu bỏ cạnh tay cô. Ngài cũng hiểu tâm lý đàn bà lắm chứ. Gì chứ sâu, bọ, chuột, rắn...các cô sợ thất thần, nên cô An có nhảy tót vào lòng bạn tôi cũng là chuyện đương nhiên. Rồi trong thời gian bà cụ bịnh, lúc hắn chở cô An từ bến xe về nhà, đến lượt Chúa Giê Su, Ngài cúi xuống, thổi nhẹ, vậy là cô An xỉu ngay, và bạn tôi bồng vào nhà. Không gì sướng bằng được bồng trên tay người mình yêu thầm! Cho đến khi hai đứa cưới nhau, ôm nhau, các Ngài mới nhìn nhau, xoa tay mỉm cười.

Xin đừng tưởng hai đấng từ bi đó phải mất mấy năm theo dõi để thực hiện việc kết tóc xe tơ cho hai đứa. Không có đâu! Vỏn vẹn mười lăm phút thôi. Vì dưới thế gian một trăm năm thì trên thượng giới chỉ là một ngày. Sự thật là như vậy. Ðúng như vậy, các bạn ạ!

Phạm Thành Châu
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by caubennoc »

Image

Ký ức tháng Tư

LÊ BẢO LIÊN

Ba tôi lái xe jeep đưa cả gia đình rời Đà Lạt tham gia vào chuyến đi di tản.

Đến Phan Rang, một quãng vắng, có hai tên đàn ông cầm súng đứng giữa đường chặn xe chúng tôi lại. Ba gằn giọng:

– Tụi cướp! Nằm xuống !

Mẹ quàng tay ôm chúng tôi ấn sát xuống ghế. Ba tôi nhấn ga vọt qua.

Đúng như dự đoán, chúng bắn theo xe chúng tôi- trong khi vẫn thấy rõ trên xe có một bầy trẻ con như vậy. Đạn găm vào chiếc xe honda treo phía sau xe jeep, thay vì ghim vào lưng tài xế. Ba tôi mạng lớn, biết bao nhiêu lần trong cuộc đời chinh chiến, tù tội, và 11 lần vượt biển sau này, thần chết luôn tránh xuống tay với ông.

Thoát chết, nhưng thật ngao ngán cho sự ác tâm của con người.

Chập tối, chúng tôi đến Phan Thiết – cả thị xã náo loạn sôi sục như chảo lửa. Tiếng súng đì đoàng không ngớt. Người ta cướp giật trắng trợn, người ta chạy đi chạy lại khiêng vác, hôi của ở các cửa hàng ngoài phố. Tôi ngạc nhiên nhìn. Những thùng hàng, những cây vải sặc sỡ, những bàn ghế salon sang trọng ấy ….để làm gì??? Gia đình tôi đã bỏ hết, bỏ hết, vượt qua đường trường chết chóc, chỉ mong được sống cùng nhau thôi. Hàng trăm ngàn người đã bỏ xác dọc đường, phơi thây giữa trời không một mảnh chiếu đắp, xác thân thối rữa không ai chôn cất, mùi tử khí ngùn ngụt đất trời…Thế mà ở đây người ta nô nức đi hôi của mang về nhà…Thật mai mỉa cho lòng tham lam của người đời !

Hai người đàn ông lăm lăm súng trên tay, chở nhau trên xe honda, tấp vào sát xe chúng tôi. Người ngồi sau chìa cặp kính mát vào mặt mẹ tôi, nói nhẹ nhàng:

– Chị cho tôi cầm đỡ cặp kính lấy tiền đi đường!

Mẹ tôi móc bóp vét hết tiền đưa chúng. Hắn giật lấy xấp tiền, cười nhạt, bỏ trở lại cặp kính vào túi áo, phóng xe đi. Cũng may cho chúng tôi, tên cướp rất …đàng hoàng lịch sự. Hú hồn.

Nhưng vài phút sau, tôi chứng kiến một scène cướp của ghê rợn. Giữa phố, một người đàn ông mặc thường phục cầm khẩu súng ngắn bắn thẳng vào người ngồi trên xe máy. Người kia ngã xuống đường, máu loang nhanh trên áo đỏ thẫm. Tên cướp điềm nhiên leo lên xe rồ ga chạy đi. Đám đông xung quanh giương mắt nhìn, xe chúng tôi cũng chạy ngang qua không dừng lại. Ai sẽ cứu giúp nạn nhân ấy? Tôi nghiệm ra rằng, trong xã hội loạn lạc, con người sẽ bộc lộ hết phần “con” tàn bạo độc ác, nhẫn tâm, ích kỷ và hèn nhát của mình !

Đêm Phan Thiết. Ba tôi lái xe vào trụ sở của Ủy Hội kiểm soát đình chiến ICSC, cả tòa nhà vắng lặng rợn người. Tất cả cửa kính xung quanh tòa nhà đều vỡ nát, mảnh chai lạo xạo dưới chân. Không dám bật lửa, chúng tôi lần mò trong bóng tối vào nhà tá túc một đêm. Ba dùng tờ báo quét dọn mảnh chai lấy một chỗ nằm cho cả nhà. Hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy trước khi chìm vào giấc ngủ mệt nhọc hoảng loạn là bầu trời Phan Thiết đen kịt, dệt tấm lưới đỏ lừ những đường đạn đan chéo chi chít. Thỉnh thoảng, ánh hỏa châu rực sáng giữa trời, rồi rơi xuống lừ lừ như đe dọa…

Ra khỏi Phan Thiết, sau khi chứng kiến cuộc tàn sát ở Láng Gòn (Địa danh ở gần ngã ba Bình Tuy ?) chúng tôi đi tiếp trong yên lặng nặng nề rời rã tâm can.

Gia đình tôi đã thoát chết trong gang tấc, nhưng sự may mắn của chúng tôi có vẻ quá tàn nhẫn đối với vong linh của những nạn nhân xấu số ấy.

Đến cửa ngõ Bình Tuy. Đó là chiếc cầu sắt nhỏ, giữa cầu giăng kẽm gai, bên kia cầu, lính dàn quân chiến đấu – Tỉnh trưởng Bình Tuy không cho phép đoàn người di tản vào tỉnh lỵ, trong khi hầu hết các tỉnh thành chúng tôi đi qua đều bỏ trống vô chính phủ.

Bên này cầu, tàn quân từ Tây Nguyên kéo về cũng dàn trận quyết đấu với sự sôi sục oán hờn tủi hận. Họ đã phải vượt qua làn tên mũi đạn, đi qua đoạn đường dài sinh tử tử sinh, giờ lại bị đồng đội chặn đường để bảo vệ sự bình yên cho 1 tỉnh lỵ thì bất nhẫn quá.

Đoàn người dân di tản quay đầu xe chạy tán loạn trước nguy cơ bom rơi đạn lạc. Ba tôi cũng quay đầu xe chạy vào một xóm nhỏ ở xa. Chúng tôi tá túc ngoài hiên một căn nhà nhỏ trong vườn cây ăn trái. Bốn chị em quanh quẩn trong vườn lượm củi cho mẹ nhóm lửa nấu cơm, nướng cá khô. Chủ nhà mang ra biếu mấy chị em rổ trái cây ngọt lịm, họ cười nói thăm hỏi thân tình, ẵm bồng đứa em út của tôi âu yếm. Quang cảnh thanh bình một cách kỳ lạ, cứ như lạc vào thiên thai giữa chốn địa ngục vừa trải qua. Kỷ niệm ấy là giọt nước mát rượi tưới tắm tâm hồn tôi khô cằn cay cực

Một đêm bình yên. Sáng sớm chúng tôi lên đường. Cửa ngõ Bình Tuy đã thông xe. Bên nay cầu, súng ống chất cao như núi. Thì ra tỉnh trưởng Bình Tuy đã dàn xếp mọi việc ổn thỏa: đoàn quân di tản chỉ được vào tỉnh lỵ sau khi hạ vũ khí. Một quyết định sáng suốt, vừa tránh được cảnh huynh đệ tương tàn vừa giữ được an ninh cho Bình Tuy. Không biết ai là Tỉnh trưởng Bình Tuy lúc ấy, đó quả là một người đáng kính trọng.

Xe vừa đến được nhà người bạn của ba mẹ ở Bình Tuy thì tắt máy. Không còn một giọt xăng nào. Ba tôi phải đẩy xe vào nhà. Chỉ cần hết xăng sớm hơn vài tiếng đồng hồ thì… Đã nói ba tôi mạng lớn sống lâu mà, nên gia đình hưởng phúc lây. Chỉ có thể giải thích là do Trời Phật độ trì cho chúng tôi mà thôi.

Hôm sau cả nhà đi ghe ra Long Hải để về Sài Gòn. Đến Long Hải khi đêm xuống, chúng tôi đành ngủ lại trên bãi biển, giữa mùi xú uế bốc nồng nặc. Ba nói, mùi phân người đối với ba là ….sạch sẽ lắm. Khi còn chiến đấu ở Quảng Trị, Ngày đêm ba phải ở trong những căn hầm đầy tử khí. Nếu xác định đúng vị trí, chỉ cần dùng xẻng xúc vào vách hầm vài tấc đất là đụng ngay phải xác người chôn vội chưa phân rã, của quân bên này lẫn bên kia…

Về đến Sài Gòn, gia đình tôi được đón tiếp như những người từ cõi chết trở về. Nước mắt mừng vui đoàn tụ chưa ráo, thì nước mắt phân ly lại trào.

Dì hai tôi là nhân viên xếp lịch bay cho phi cơ quân sự ở phi trường Tân Sơn Nhất, đã sắp xếp cho cả gia đình ra đi trên một trong những chuyến bay cuối cùng, nhưng bất ngờ, ông bà ngoại quyết định ở lại. Cả đại gia đình ngập trong nước mắt, tất cả người lớn đều khóc. Dì hai quỳ sụp dưới đất, năn nỉ ông bà ngoại đi cùng, Dì hai nói:

– Con là người thuộc quân lực Mỹ, con xếp lịch bay cho các chuyến bay quân sự, con mà ở lại, Việt Cộng vào sẽ cắt cổ con, con khấu đầu xin ba má hãy đi với con.

Cuối cùng, sau những vật vã dằn xé đau lòng, dì hai quỳ lạy ông bà ngoại tôi lần cuối để ra đi, xem như là tử biệt, không ai nghĩ rằng sẽ còn gặp lại nhau trên cõi đời này.

Ba tôi nhất quyết không đi vì còn cả gia đình bên nội ở Huế chưa có tin tức.

Tử biệt sinh ly tưởng là chuyện đời thường, nhưng ai có trải qua thời khắc ấy mới hiểu thế nào là đớn đau.

Chiến tranh loạn lạc tưởng đã quen thuộc với người dân Việt, nhưng đi vào lửa đạn mới thấy hết sự khốc liệt tàn bạo vô luân của nó.

Tôi thầm thương mình đã trải qua biến cố lịch sử ấy khi tuổi còn quá nhỏ – nó khiến cho tôi rời xa thật xa tuổi ấu thơ của mình. Quãng thời gian dài hơn 40 năm mãi không thể xóa nhòa niềm đau của tuổi lên mười năm ấy.
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoanghoa »

Nỗi niềm giữa đêm


Ngày nọ, anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen
Chị nói ra vẻ bực bội:
- Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây?
Anh cúi đầu, trả lời lí nhí, hổ thẹn:
-- Ừ... thì bán rồi! Vì cũng không cần nó lắm!
Chị sầm mặt xuống:
- Ông lúc nào cũng vậy! Suốt đời, không ngóc đầu lên được! Hẹn tôi ra đây, có chuyện gì vậy?
Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ chị. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể từ chối anh:
- Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành! Nếu đưa con bé về, e sẽ chẳng còn được bình yên nữa!
Anh năn nỉ và nói:
-- Con bé đã đến tuổi dậy thì. Anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ nó chu đáo được. Anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, giúp anh nửa năm hay vài ba tháng cũng được. Là phụ nữ, em gần nó, hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống thiếu nữ. Sau đó, anh lại đón nó về.
Chị thở dài:
- Ông lúc nào cũng mang xui xẻo đến cho tôi! Thôi, được rồi, ông về đi, để tôi bàn lại với chồng tôi đã. Có gì, tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.
Anh nhìn chị với ánh mắt biết ơn, rồi đứng dậy, cúi đầu xuống như có lỗi, tiễn chị ra xe, thở dài, lủi thủi bước vào nhà ga để trở về Hamburg.


Trước kia, anh và chị là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động ở Đông Đức. Chị học Đại học Sư phạm Hà Nội. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang Tây Đức. Chị tốt nghiệp đại học và về làm giáo viên cấp 3 ở huyện Thái Thụy, Thái Bình.

Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.
Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về cưới chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức.
Vừa sang Đức, thấy bạn bè của anh đều thành đạt, đa số có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh vẫn còn phụ bếp thuê cho người ta.
Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu rằng, để có đủ tiền lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả và tiết kiệm mấy năm trời, mà không dám bỏ tiền ra làm ăn.
''Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”, đó là câu nói luôn miệng mà chị dành cho anh sau khi anh và chị có bé Hương.

Bé Hương sinh thiếu tháng, phải được nuôi bằng lồng kính đến hơn nửa năm mới về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh chị biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh, giông tố bắt đầu thực sự nổi lên. Chị trách anh: ''Một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ.''

Anh ngậm đắng, nuốt cay, nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.
Bé Hương được ba tuổi mà chưa biết nói. Cũng rất thương con, nhưng chị bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc đứa bé hầu hết là do anh. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.
Biết vậy nên chị rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.

Ly dị được gần một năm thì chị tái giá. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.
Bremen là thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố.
Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh thông cảm chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.

Không phải là người vô tâm, thỉnh thoảng, chị gởi tiền cho anh nuôi dưỡng con. Trong những dịp năm mới hay Noël, chị cũng có quà riêng cho con bé. Nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến tặng trực tiếp quà cho con bé trước ngày Lễ Giáng Sinh.
Giờ đây, con bé đã sắp trở thành thiếu nữ. Chị biết con bé lớn lên trong tật nguyền, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng nó rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy, nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.

Chồng chị đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống vài tháng với điều kiện: trong thời gian ấy, anh không được ghé thăm nó. Chị cũng muốn thế vì cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc vẻ mặt đần đần, dài dại của anh.
Vợ chồng chị đã mua nhà rộng nên con bé được ở riêng một phòng. Chị xin cho con bé theo học tạm thời ở trường khuyết tật gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được. Ở nhà, nó cứ thui thủi trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ với nó, mẹ nó và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.
Em trai nó học thêm piano nên nhà mẹ nó có cái đàn piano rất đẹp để ở phòng khách. Có lần, nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó và nói không được phá đàn của em. Nên, từ đó, nó không dám đụng đến đàn nữa. Có hôm, anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm: ''Đàn... đàn…klavia…. con muốn…'' Anh bèn thở dài và hát cho nó nghe.

Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần. Cho đến ngày nọ, anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần, không nghe anh gọi điện thoại, con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà, không đi học. Chị chẳng biết gì, cứ mắng nó dở chứng.

Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh, vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm, kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra là có lần anh nói với chị rằng con bé học đàn piano ở trường khuyết tật, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó, tưởng anh kể chuyện để lấy lòng chị nên chị không quan tâm.
Chị đến gần sau lưng nó và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống, lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì. Chị sởn cả da gà khi nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió.....ôi cha già đi cha biết không…”

Chị choàng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên, chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn, đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát. Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra, nhìn nó và hỏi: ''Con biết bố con bị ung thư lâu chưa?'' Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ.
Chị hỏi: ''Bốn tháng rồi hả?'' Nó gật đầu.
Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy và, từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi, thở dài. Con bé hốt hoảng, đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ rồi, vừa ấp úng, vừa ra hiệu cho mẹ. Đại ý là nó diễn đạt rằng: Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg. Ngày mai, con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu! Con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra đi được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con.”
Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói: ''Con gái ngoan của mẹ, ngày mai, nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg….''

Lời kết:

Tôi nghe người ta kể lại câu chuyện đó khi dự cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị. Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài “Người Cha Yêu Dấu” bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Đức. Quá kinh ngạc, nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng, họ kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy.

Câu chuyện đơn giản, không nhiều tình tiết, đã lấy đi nước mắt của nhiều người đọc. Tôi hình dung cảnh người cha Việt Nam gầy ốm, bệnh hoạn và đứa con gái tật nguyền tội nghiệp của anh trên đất khách quê người.
Tôi thấy được hình ảnh đứa con gái tưởng nhớ người cha - mà em biết đã mất rồi – qua tiếng đàn piano. Tiếng đàn ấy đau đớn biết bao. Tôi nghe được cả lời ca nghẹn ngào của em ...

''Nhớ những năm xa xưa, ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió.. ôi cha già đi cha biết không…''

Nguyễn Đại Hoàng
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by vuongquan »


CON ĐƯỜNG QUANH CO

Mẹ tôi rất can trường. Trong cuộc di cư 1954 chỉ có mẹ tôi theo bên nội vào Nam trong khi bên ngoại đã bán vội nhà cửa, ruộng vườn thì lại bị ngăn chận phải ở lại miền Bắc. Mẹ thúc giục chị em chúng tôi đọc kinh sớm, tối cầu nguyện cho ông bà ngoại, các cậu, các dì, và hay cùng bố tôi kể chuyện ngoài Bắc, nhưng tôi không thấy mẹ tôi khóc ngay cả khi nhận được những tấm thiệp ông ngoại hay các cậu viết gởi từ Bắc vào Nam cho tới lần nhận được tấm thiệp báo ông ngoại tôi mất. Lần ấy mẹ tôi khóc như đập nước vỡ oà sau những tháng năm chất chứa trong lòng. Mẹ vừa khóc vừa kể lể những tình tiết về chuyện bên ngoại tôi bị ngăn chận vì tư thù nên phải ở lại. Mẹ tôi chỉ kể lại lần duy nhất ấy, và tôi cũng không bao giờ hỏi lại, vì chuyện ấy liên can tới người bà con xa. Vả lại bố mẹ tôi sống trong niềm tin vào Chúa quan phòng, có chuyện gì vui buồn thì chỉ tạ ơn và cầu nguyện.

Chuyện xảy ra gần 70 năm, bố mẹ tôi đều đã qua đời, mà còn gây xúc động trong tôi, vẫn như mới đây. Rồi đến chuyện ra đi của gia đình nhỏ chúng tôi sau 1975, đã 45 năm, cũng là những vết thương chưa lành, mỗi lần đụng tới là muốn bật máu. Dân tộc Việt chúng ta có một lịch sử dài mang quá nhiều đau thương. Chuyện quang phục quê hương là ước mơ của hết thế hệ này đến thế hệ khác. Cứ mỗi lần nghe những tên tuổi trong cộng đồng, hay người quen biết nằm xuống, lòng tôi lại xốn xang như vừa có một chuyến tàu vụt qua, như một khối thời gian tan biến mà không có dấu tích gì để lại, mặc dù biết mình có là gì đâu!

Trong tâm trạng ấy, tôi nghĩ mình hơi thông cảm được với người Do Thái trong sự chờ mong Đấng Cứu Thế, trông đợi dân tộc được giải phóng như các ngôn sứ đã loan báo trong lịch sử bốn ngàn năm của họ. Lịch sử của họ cũng chứa đầy thương đau vì bị ngoại bang đô hộ, bị lưu đày ở lân bang, mang gông cùm nô lệ của thời cổ không khác gì kiếp trâu ngựa. Cho nên khi Ông Gioan xuất hiện từ trong hoang địa trong bộ áo da lạc đà kêu gọi dân chúng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” thì người ta xôn xao nghĩ tới Ngôn Sứ Isaia đã loan báo trước đó rằng: “Đây, Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt người để dọn đường.” (Is 40: 1–5, 9–11)

Thế là đám đông đến vây quanh. Người thì lắng nghe, kẻ thì tò mò, kẻ khác lại vặn hỏi: Có phải ông là đấng toàn dân trông đợi không? Ông Gioan trả lời: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần” (Mc 1:8).

Dân Do Thái dù tôn thờ Thiên Chúa, có một lịch sử gắn liền với chương trình tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, nhưng không phải có nhiều người nghĩ dân tộc họ sẽ được giải phóng bằng con đường thuần tôn giáo là sám hối, sửa mình, ăn chay, và cầu nguyện... Họ có các nhóm vũ trang, hành động bạo lực một cách có tổ chức. Cũng như các phong trào nổi dậy của mọi thời, tổ chức của họ thường có tuyên truyền và thanh trừng. Tuyên truyền để giành chính nghĩa, thanh trừng để diệt thù trong, ngăn thù ngoài. Và cũng như mọi thời, khi tình hình chính trị chín mùi, khối quần chúng rất khó đứng bất động. Họ hoặc là phải lựa chọn, hoặc bị lôi kéo. Cũng là tranh đấu cho chính nghĩa dân tộc đấy nhưng tổ chức khác nhau, đường lối khác nhau, cương lĩnh khác nhau... khác tới mức bị thanh trừng hay tiêu diệt là chuyện thường ngày trong khi viễn ảnh dân tộc độc lập, tự do, hạnh phúc thì xa vời vợi!

Tới chỗ này, ta có thể đặt câu hỏi. Thời đó không biết đã có những đầu óc hay lý thuyết chính trị khét tiếng như thời nay không? Khét tiếng như cộng sản, như quân phiệt chẳng hạn? Theo tôi thì có thể có dù hình thức khác nhưng chiều sâu hoặc độ “khét” cũng có hạng lắm bởi vì Đế Quốc Roma khoảng 500 năm trước Công Nguyên đã có Nghị Viện rồi, mà chắc có nhiều bạn đã biết về hai bài diễn văn xoay chuyển cả nghị viện 180 độ, từ phải sang trái của Brutus và Antonius. Nước Do Thái chỉ là thuộc địa của Roma nhưng lại có lịch sử và tôn giáo thay đổi được đế quốc Roma thống trị mình, và từ đó làm nên nền văn minh của hơn một nửa thế giới. Thế cho nên các tổ chức chính trị của người Do Thái thời đó cũng có thể có những đặc tính của những tổ chức chính trị thời nay, chẳng hạn như giành độc lập bằng mọi giá – miễn sao đạt mục đích, mọi phương tiện đều tốt, nghĩa là dùng cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Thời nay, “cứu cánh biện minh cho phương tiện” được chế độ cộng sản và một số tổ chức dùng làm phương châm hành động. Hệ quả của nó là sự tàn bạo – “giết lầm hơn bỏ sót”. Cộng sản tiêu diệt tôn giáo vì tôn giáo đặt niềm tin vào Đấng toàn năng, tối thượng, và nhân ái. Cộng sản huỷ diệt lịch sử để viết lại theo đúng đường lối của đảng cộng sản, để quần chúng chỉ được nghĩ một chiều. Sau nửa thế kỷ nhuộm đỏ một phần thế giới, giết nhiều chục triệu dân, khối cộng sản đã sụp đổ trừ Trung Cộng và vài nước chư hầu. Nhưng như con quái vật giẫy chết, nó đang vùng vẫy trong ba chục năm qua, và tỏ ra hung hãn khủng khiếp. Sự khủng khiếp được phô bày không cần che đậy trong cuộc bầu cử tổng thống của một nền dân chủ kiểu mẫu cho toàn thế giới là Mỹ Quốc.

Khủng khiếp vì một thế lực ngầm điều khiển chính phủ Mỹ theo một đường lối toàn cầu. Khủng khiếp vì đường lối ấy lập một trật tự mới, phá bỏ mọi biên giới quốc gia, chống Thiên Chúa, thờ Satan. Khủng khiếp vì nhóm người được gọi là tinh hoa ấy sẽ nắm quyền sinh sát toàn cầu bằng thuốc chủng, bằng dịch bệnh. Khủng khiếp vì họ nắm trọn quyền truyền thông trong tay để nuốn nói gì thì nói, muốn ai hoặc điều gì đúng hay sai thì tuỳ ý họ. Khi tất cả các mạng lưới thông tin toàn cầu đều nói gian là ngay thì người ta mất hẳn ý niệm về xấu, tốt. Khủng khiếp vì họ sử dụng kỹ thuật vi tính cao độ để thay đổi ý chí của một đất nước, và rồi sẽ đến cả toàn cầu, muốn cho ai có đủ phiếu thắng cử thì người đó thắng... Nếu bạn không cho việc ấy khủng khiếp biến con người thành con vật hay những con robot thì không biết có gì trên đời có thể khiến bạn rùng mình.

Những cuộc di tản, di cư, trốn thoát trong quá khứ dù đau thương nhưng còn có một tương lai. Trong cuộc chiến toàn cầu này, nếu người lương thiện thua, họ biết chạy đi đâu? Phải chăng đã có những linh mục, giám mục, và hồng y lên tiếng cảnh báo rằng, chúng ta đang “nhìn xuống vực thẳm”! Vâng không những chỉ nhìn mà còn đang đứng mấp mé bên bờ vực.

Không ai muốn bị rơi xuống vực. Cũng không ai muốn đi hoặc sống bên bờ vực, chỉ trừ có nhóm hoạt đầu là muốn xô nhóm quần chúng không nghe theo chúng rơi xuống vực thẳm. Vì không muốn nên ai cũng tìm chỗ bám víu. Quần chúng tìm chỗ bám víu khác nhau tuỳ theo họ được nghe, và được tuyên truyền như thế nào. Họ bỗng đứng vào hàng ngũ có chính kiến đối nghịch nhau, mà ai cũng cho mình là đúng. Người có sức thì quần thảo nhau bụi mù để giành chính nghĩa. Trong đám mù bụi ấy có người không thể phân biệt sáng, tối, ngày, đêm. Người khôn ngoan ngước nhìn trời và biết hướng đi của cuộc chiến.

Sự loan báo của Gioan Tiền Hô nói lên hướng nhìn khác biệt của thánh nhân với những tuyên truyền trong đám bụi mù chính trị đương thời: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần”. Bởi vì Ngôn Sứ Isaia đã loan báo: “Đây Thiên Chúa đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị.” Đám mây mù của tự do, dân chủ, công bằng, miễn học phí, không phải trả tiền nhà thương, tiền thuốc... làm tối mắt nhiều người, và người ta “tranh đấu bằng mọi giá, tranh đấu đến cùng”, bằng mọi phương tiện miễn sao đạt được cứu cánh. Trong đám mù ấy người ta sẽ không nhìn được gì hết nếu không ngước lên để thấy được sự khác biệt: Thiên Chúa và Satan. Thiên Chúa của Chân Thiện Mỹ ngự trị, và Satan quyền năng của gian trá, bạo lực, tội ác và huỷ diệt thống trị.

Cầu cho lương tri của chúng ta sáng đủ để chọn bước ra khỏi con đường quanh co tránh xa vực thẳm.***

December 5, 2020
Nguyễn Văn Thông
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by dailien »

Huy Phương, nhẹ gánh nợ đời
Apr 4, 2021

KQ Võ Ý

Những năm trước đại dịch COVID-19, nhà văn Huy Phương thường gọi thăm tôi,
có khi mời dùng trưa với vài người bạn khác tại những nhà hàng chuyên nấu những món mà anh ưa thích như cá kho tộ, canh chua cá bông lau, thịt bò lúc lắc…


Image
Nhà văn Huy Phương trong ngày ra mắt hai tạp ghi mới năm 2017. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Năm rồi, anh lâm bệnh và yếu đi. Sau khi từ bệnh viện về nhà, Huy Phương không thể lái xe, anh nhờ tôi đến Anaheim đón anh về Little Saigon thăm gặp bạn bè, nhân thể ghé hàng quán để thưởng thức một tô phở Bắc hoặc một tô bún bò Huế.

Đại dịch COVID-19 bùng phát, ai ai cũng ở yên trong nhà. Khi tình hình dịch bệnh tương đối giảm nhờ chích vaccine (vào khoảng cuối Tháng Hai, 2021), Huy Phương gọi thăm sức khỏe tôi và nhà văn nhảy dù Phan Nhật Nam. Hạ tuần Tháng Ba, Phan Nhật Nam đón tôi thăm Huy Phương. Dịp đó cũng có hai người bạn học của anh ghé thăm. Anh gầy hẳn, chống gậy bước chậm ra mở cửa đón chúng tôi.

Huy Phương cho biết, anh bị ung thư trực tràng, hiện được điều trị tại nhà. Anh không ngờ bệnh tình diễn biến nhanh quá!

Trên đường về tôi miên man nghĩ đến “một món nợ vô hình…”

Tôi biết Huy Phương trước 1975 khi anh phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến. Những dịp từ Pleiku về Sài Gòn công tác, tôi thường ghé cơ quan này để thăm hai nhà văn nhà báo Nguyễn Đạt Thịnh và Phạm Huấn, cũng là niên trưởng của tôi. Tại đây tôi biết Huy Phương và cố thi sĩ Du Tử Lê.

Tôi qua Mỹ theo diện HO sau Huy Phương hai năm. Anh may mắn định cư tại California nắng ấm trong khi tôi lưu lạc tận miền Trung Tây xứ Missouri từ 1992 cho đến 2005 mới chuyển về California và gặp hai cựu chiến hữu ngày xưa. Tôi quen họ trong dịp này.

Một trong những kỷ niệm đáng nhớ với Huy Phương là, qua chương trình Huynh Đệ Chi Binh do anh phụ trách, Phi Đoàn 118 Pleiku chúng tôi may mắn tìm được thân nhân của một hoa tiêu bị lâm nạn vào năm 1972 tại đỉnh núi Mẹ Bồng Con, Dục Mỹ, Ninh Hòa. Vào năm 2014, sau 42 năm lặn lội đi “tìm xác rơi,” đại diện thân nhân của phi hành đoàn sáu người trên chuyến phi cơ U17 lâm nạn đều tham dự thành công vào cuộc cải táng gian nan đầy xúc động này. Đi Tìm Xác Rơi: Tấm Thẻ Bài và Hành Trình Đi Tìm Xác Rơi (ditimxacroi.blogspot.com)

Thế mới biết truyền hình Huynh Đệ Chi Binh lợi hại và hiệu quả đến dường nào!

Tâm huyết của người lính già Huy Phương với đồng đội biểu hiện qua chương trình này cũng như sự đóng góp công sức của anh qua các kỳ Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh hằng năm, thời chị Hạnh Nhơn còn sinh tiền.

Tâm huyết đó còn phảng phất trong 11 cuốn tạp ghi, hai tuyển tập, và một chúc thư. Kể ra, anh viết rất khỏe, rất dễ dàng, lời văn bình dị nhưng sâu sắc trước mỗi góc cạnh của cuộc sống tại quê người.

Tôi lại được tin cậy, chở anh đi bưu điện để gửi Tuyển Tập Huy Phương 2020 (*) cho thân hữu khắp nơi cũng như trao tay “tác phẩm cuối đời” (theo anh) cho bạn bè vùng Litlle Saigon.

Nhìn bóng dáng một ông già chống gậy, chậm rãi thong dong, trao cho đời tâm huyết của mình, tôi chạnh lòng và nghĩ đến lời thơ của Ngô Tịnh Yên trong ca khúc “Nếu Có Yêu Tôi” do Trần Duy Đức phổ nhạc, được người Việt khắp nơi yêu thích. Người nhạc sĩ tài hoa này cũng là bạn văn nghệ của Huy Phương:

-“Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ; Đừng đợi ngày mai…”

Khúc ca như một bài học công dân hay luân lý, xa hơn, một lời kinh cầu…

Từ Tuyển Tập Huy Phương (*) và lời kinh cầu, tôi muốn tâm tình với người lính viết văn Huy Phương về “món nợ” mà anh trăn trở đến tận cuối đời:


Nợ người phế binh lê la kiếm sống
Nợ lũ cháu ta liếm lá đầu đường
Nợ những người em thất thân làm đĩ
Nợ nỗi nhục nhằn dày xéo quê hương.

(Món Nợ Lương Tâm – Huy Phương)

Ý nghĩa chương trình Huynh Đệ Chi Binh, hiệu quả các Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh, giây phút bồi hồi qua các Đại Hội Chân Dung HO (*) mà anh đóng góp cùng những tạp ghi, tuyển tập, và chúc thư đều là cách đền ơn đáp nghĩa những đồng đội đã nằm xuống hay còn lây lất quê nhà. Huy Phương và chúng ta, Những Người Muôn Năm Cũ (*) đã thọ ơn họ để được yên bình hay Ấm Lạnh Quê Người (*) ngày nay.

Những tác phẩm cũng là tặng phẩm từ tim óc anh trao gởi cộng đồng người Việt tị nạn, Những Người Thua Trận (*) trên toàn thế giới nói chung và cách riêng, tại Nước Mỹ Lạnh Lùng (*). Ẩn hiện trong tác phẩm là đạo làm người với Tứ Ân (Cha Mẹ, Chúng Sanh, Quốc Gia Xã Hội, Tam Bảo), nỗi Ngậm Ngùi Tháng Tư (*) mà đồng bào đồng đội và bà con quyến thuộc của anh, của chúng ta, cam chịu trong uất hận.

Có cường điệu lắm không khi tôi nghĩ rằng, chữ nghĩa của Huy Phương ngoài tính văn học nghệ thuật còn là sử liệu lưu lại đời sau, một giai đoạn thảm khốc của cả dân tộc sau 30 Tháng Tư, 1975? Chữ nghĩa đó cũng là loại vũ khí mềm khả dĩ góp lửa vào công cuộc chống lại chủ nghĩa cộng sản khát máu tại Quê Hương Khuất Bóng (*).

Huy Phương nhỏ nhẹ với tôi, không còn bao lâu nữa, buồn lắm ông à! Tôi thật sự không biết phải an ủi anh như thế nào cho hợp với tình huống này. Trong nhà anh, nơi phòng khách được trình bày rất nhiều kiểu tượng Phật, tôi nghĩ đến lẽ vô thường, nhưng không dám đá động đến sinh lão bệnh tử đối với sự bén nhạy và kinh nghiệm sống chất chồng của anh. Đắn đo lắm tôi mới nói:

-Anh đã chuẩn bị trước cả rồi, lo buồn làm gì. Ga Cuối Đường Tàu (*), Tuyển Tập Huy Phương (*), nhất là Bản Chúc Thư Của Người Lính Chết Già (*), không phải là những chuẩn bị đó sao?

Anh im lặng. Tôi không nghĩ lời an ủi thô thiển đủ thần lực làm nhẹ lòng Huy Phương, từng dùng chữ nghĩa thay súng đạn nhắm vào chủ nghĩa vô thần. Có thể anh còn trăn trở với Món Nợ Lương Tâm (*). Tôi đồng cảm với những món nợ với người chết sông chết biển, nợ người ở lại để ta ra đi, nợ những nấm mồ thất lạc, nợ máu xương rải rác giữa đồng hoang, nợ những mẹ già suốt đời bất hạnh…(chữ của Huy Phương).

Từ đồng cảm, tôi trân trọng lòng tự trọng và trách nhiệm Bảo Quốc An Dân của người chiến sĩ quốc gia viết văn đầy tính nhân bản của Huy Phương.

Thưa anh Huy Phương, đóng góp của anh cho Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, Lý Tưởng Tự Do Dân Chủ, cho Gia Đình và Đồng Đội, như vậy là vẹn toàn. Đã 80 ngoài, mắt mờ tóc bạc da mồi, tay chân lọng cọng, nghỉ ngơi là điều tất yếu. Mỗi ngày thong dong buông xả, hứng thì ngâm nga vài vần thơ cũ do mình sáng tác, niệm một câu kinh Tịnh Độ để giữ vững niềm tin, ngắm một đóa hoa để “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy…,” có phải như thế sẽ giúp cho thân tâm được nhẹ nhàng an lạc không, thưa anh!

Phương chi, những tác phẩm của anh, đương nhiên sẽ lưu lại cho con cháu đời sau, thì Món Nợ Lương Tâm âu cũng sẽ vơi đi. Tôi thích thú với những câu thơ nhiệt huyết, đầy cảm khái và hùng khí trong “Lời Phi Khanh:”


Còn chút lửa, cha tiếp con tay đuốc
Hãy đốt lên, cùng triệu triệu con người.
Cha đã nhiều lần rủa nguyền bóng tối
Thì phần con – Hãy thắp sáng cho đời!

Để hy vọng, còn có ngày trở lại
Thấy quê hương, dù phút cuối một lần.
Với quá khứ cha đã đành cúi mặt
Thì đời con – Đừng thẹn với tiền nhân.

Hãy chuyển lửa về quê nhà mong đợi
Thắp yêu thương cho hàng triệu con người.
Để những người đã hy sinh nằm xuống
Dù bên kia thế giới cũng ngậm cười.

(Lời Phi Khanh – Huy Phương)


Tôi “liều mạng” nhắc anh “Tạ ơn em (Chị Huy Phương) đã cho đời anh bóng mát.” Quả vậy, là chinh phụ và tù phụ, chị đã một đời sắt son dũng cảm trong thời chiến, trong tù đày sau 1975 và nhất là trong giai đoạn anh lão bệnh nơi xứ người. Qua hình ảnh chị, tôi theo gương Huy Phương, xin tạ ơn tất cả những người vợ lính đã sắt son dũng cảm, nuôi con chờ chồng trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Huy Phương cũng từng khuyến khích những thế hệ tiếp nối, chuyển lửa về thắp yêu thương hàng triệu con người, thì dù hôm nay hay ngày mai, anh đã tròn trách nhiệm của một công dân, “nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo,” mong anh nở một nụ cười thanh thản…

Và tôi không ngần ngại bày tỏ suy nghĩ của mình là, tôi quý trọng tính thủy chung, lòng tự trọng và nhân cách của nhà giáo, công dân Lê Nghiêm Kính (**). Tôi cũng quý trọng văn tài của đồng đội, người lính viết văn tài hoa Huy Phương.

Phiên khúc đang văng vẳng trong tôi: Có nhớ thương tôi thì đến với tôi bây giờ. Đừng đợi ngày mai… [đ.d.]

Ghi chú:

(*) Tên những tác phẩm của Huy Phương
(**) Tên khai sinh của Huy Phương
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoanghoa »

Hạt Bụi Nào Trong Mắt

Chiều thứ hai, đi làm về, Bill nhận được lá thư của gia đình từ Việt Nam. Vừa bóc thư, Bill vừa lầm bầm:
– Không biết kỳ này ông già lại ca bản gì nữa đây.
Những hàng chữ viết nắn nót trên tờ giấy mỏng như đập vào mắt Bill:

Bân con,
Bố suy nghĩ mãi rồi mới viết lá thư này trong lúc buồn buồn nhớ tới các con. Bố đặt tên con là ‘Bân’, chữ ‘Bân’ (斌) có nghĩa là ‘lịch thiệp’ và có chữ ‘Văn’ đứng cạnh vì bố hằng mong mai sau lớn lên, con sẽ theo con đường văn chương, làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu, một giấc mơ mà bố ôm ấp, nhưng biết đời mình không thể đạt thành.
Như con biết, 17 tuổi bố bỏ học, dở thầy, dở thợ, vất vả với đời sống, rồi, cuối cùng, trở thành anh công chức quèn, lấy vợ, nuôi con, và mong cho con nối được giấc mộng không thành của đời mình.
Khi con bước chân vào đại học, bố đã vui mừng, tưởng rằng con sẽ thành người như bố ước mơ. Tiếc thay vận nước điêu linh, con cũng như bao nhiêu thanh niên đều phải thi hành nghĩa vụ, và rồi trôi nổi tới phương trời xa! Bố mẹ ngày ngày chờ con về, và ngày con trở về thăm nhà lần đâu tiên, bố đã để rơi giọt nước mắt mừng vui trên đôi má nhăn nheo. Nhưng rồi, bố nghe con nói về nếp sống mới, và bố ngỡ ngàng. Không, bố không còn kỳ vọng có con làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu như bố từng mơ ước trước đây, nhưng có gì như hụt hẫng mỗi lần cha con chuyện trò.
Ngày xưa, có lần bố đạp xe đi làm, bị một chiếc xe chở đầy lính Mỹ vượt qua mặt, những người lính cười nói ồn ào, vứt xuống lòng đường thanh kẹo cao su như bố thí, bố đã tức tủi nghẹn ngào. Ngày con về, nói cười hả hê với những danh từ xa lạ, bày ngổn ngang những món quà đắt giá cũng làm bố ngỡ ngàng. Nhưng bố chỉ thật sự chua xót khi giơ tay vuốt tóc đứa con trai của con. Tên nó là gì nhỉ, Tim hay Tím gì đó. Nó lắc đầu tránh bàn tay của bố và lầu bầu cái gì đó mà bố không hiểu. Bố biết là có lẽ từ đây giòng họ Nguyễn Hữu sẽ không còn trên thế gian!
Con à, có lẽ bố già quá rồi nên không còn thích nghi với những thay đổi của cuộc sống. Bố nhìn con, nhìn cháu và lòng bố xót xa. Con bây giờ là Bill chứ không phải là Bân. Tóc con cột đuôi gà, chứ không còn hớt cao như xưa. Thế nhưng tóc của vợ con lại ngắn ngủn, nửa nâu, nửa vàng, ôm sát khuôn mặt kiêu kỳ. Thằng Tim ‘Hey man’ chứ không “Thưa bố’ như con thủa nào. Cuối đời mà bố vẫn bơ vơ. Bố nói thế, con hiểu không, Bân?
Tuy nhiên bố cũng cám ơn các con rất nhiều. Tiền các con gửi về giúp bố mẹ hàng tháng đủ cho bố mẹ sống thoải mái lúc tuổi già. Căn nhà nhỏ gần rạch Thị-Nghè khang trang hơn cũng là nhờ các con. Chiều chiều, đứng nhìn dòng nước, bố thấy lòng mình cũng dịu dàng như con nước trôi.
Bây giờ đã gần ngày Noël. Bên phương trời đó, có lẽ các con đang bận rộn mua sắm, hội hè. Bố bây giờ ít ra khỏi nhà. Ngay cả những ngày Tết, bố cũng chỉ thắp hương khấn ông bà, xin các người tha thứ và, dù sao đi nữa, cũng xin phù hộ cho các con ở phương xa.
Bố chỉ cầu mong sao cho gia đình con luôn luôn đưọc hạnh phúc, thuận vợ, thuận chồng. Và nếu bố được khuyên con đôi lời thì bố mong rằng con hãy nghĩ tới cội nguồn. Dù sao đi nữa, con vẫn là người Việt da vàng, cố giữ lấy phần nào nếp sống của tổ tiên.
Lần tới, có về thăm nhà, con cố đưa bố ra ngoài Bắc. Bố muốn về thăm lại núi Ba Vì và quê Bất Bạt một lần trước khi nhắm mắt xuôi tay. “Bên này đất nước nhớ thương nhau.” Chúng mình cùng quê với Quang Dũng đó con.
Chúc các con những ngày vui.
Bố của con,

Nguyễn Hữu Cầu.

Gấp lá thư đút vào túi Bill thở dài:
– Ông già càng ngày càng lẩn thẩn. Không biết là sống thêm được bao năm nữa.
Bỗng nhiên, Bill chợt bùi ngùi, nghĩ thầm:
– Ngày xưa ông chỉ mong mình đậu Cử Nhân văn chương, đi dạy học, sống đời thanh bạch; thế nhưng, lưu lạc sang xứ này, mình lại kiếm ra khối tiền, nhưng chỉ có mỗi cái bằng Master … Card nên ông ấy vẫn buồn. Thôi, sang năm mình về một mình, không mang theo vợ con, nhất là cái thằng Tim cà chớn, rồi đưa ông ra Bắc thăm quê hương như ông ấy muốn!
Bill ngồi xuống bàn, cầm bút, định viết vài hàng trả lời bố, nhưng một ý tưởng chợt lóe ra trong đầu, Bill vỗ bàn:
– Tại sao mình không mời ông già sang chơi với mình ít lâu. Biết đâu chừng những gì ông già thấy tận mắt sẽ giúp ông hiểu thêm về đời sống ở Mỹ, sẽ thông cảm và thương yêu con cháu hơn.
o0o
Cụ Cầu leo lên chiếc xe Van, thắc mắc:
– Sao anh lại phải đi cái ‘xe tải’ như thế này? Không đủ tiền mua xe nhỏ hả con?
Bill mỉm cười:
– Ở đây ai có ‘xe tải’ là khá đó bố, còn xe nhỏ thì ai mà chả có! Cả nhà đều muốn ra phi trường đón bố nên con phải lái chiếc xe lớn này.
– Thế hả? Bố cứ tưởng…
Cụ Cầu nhướng mắt nhìn ra ngoài. Sao chẳng có ai đi bộ nhỉ? Mà toàn xe hơi không à, lâu lâu mới có chiếc xe gắn máy, mà sao xe gắn máy lại chạy nhanh hơn cả xe hơi? Ăn mặc thì cứ như thằng điên, đầu còn đội cả nón sắt!
Xa lộ 101 kẹt cứng, chầm chậm, nhưng rồi Bill cũng về đến nhà ở San Jose. Bill thở phào đỡ bố ra khỏi xe:
Nhà mình đây. Bố nghỉ cho đỡ mệt, rồi sẽ tính sau.
Cụ Cầu ngơ ngắc nhìn căn nhà to lớn trên sườn đồi. Thế này thì ở sao cho hết. Nhà chúng nó có bốn người. Con thì một đứa đi học xa, chỉ còn một đứa ở nhà. Cụ nhìn con:
Này anh Bân, thế cái nhà này bao nhiêu tiền?
Bân thở ra:
– Vài trăm ngàn bố ạ.
– Vài trăm ngàn? Thế tiền đâu mà lắm thế.
– Tiền nhà băng cho muợn. Ở đây ai cũng nợ cả, bố ạ. Mình trả góp hàng tháng mà!
– Thế anh làm bao nhiêu tiền một tháng cho đủ để trả tiền lời?
– Vài ngàn thôi. Nhưng con dặn bố thế này nhé. Bố hỏi con làm bao nhiêu một tháng thì được, chứ đừng hỏi người quen. Ở đây, họ kỵ những câu hỏi như vậy, không như ở VN mình.
– Thế à. Lạ nhỉ…
Phải mất đến cả tháng, cụ Cầu mới quen dần, mới không còn lúng túng với vòi nước nóng lạnh trong phòng tắm, mới biết làm thế nào để hệ thống báo động không kêu ầm ĩ khi mở cửa ra vào, mới hết giật mình vì tiếng điện thọai reo, và mới dám nhấc máy nghe xem có phải Bân gọi từ sở về. Những náo nức ban đầu khi Bân đưa cụ đi thăm Little Sài Gòn, thử thời vận ở Las Vegas, đã nhạt nhòa. Cụ bắt đầu cảm thấy hiu quạnh. Hàng ngày, hai vợ chồng Bân đi làm, và Tim đi học, chỉ còn mình cụ quanh quẩn trong nhà, xem mấy cuốn băng nhạc cũ, hoặc thơ thẩn ngoài sân nhìn hoa cỏ. Hàng xóm chẳng quen ai. Lâu lâu, có ông Ấn Độ già đi ngang nhà nhe hàm răng móm mém cười, nhưng hai người ngôn ngữ bất đồng, chẳng nói với nhau được một câu.
Buổi chiều, Tim đi học về là nó trốn biệt trong phòng, có hỏi nó câu nào thì cũng như không. Thằng bé ú ớ khoa chân, múa tay, hoặc chỉ toét miệng ra cười!
Bân thương bố nên dắt cụ đi bộ ra đường lớn, chỉ cách cho cụ đi xe buýt tới khu chợ VN để cụ đi dạo, và nhặt báo chợ về đọc cho đỡ buồn. Bân ghi số điện thoại nhà, điện thoại sở, đưa cho cụ và dặn dò:
– Bố cứ leo lên xe buýt, xuống phố chơi cho vui. Có lạc thì gọi điện thoại cho con, hoặc cứ ngồi trên xe buýt, cuối cùng xe cũng về đến chỗ cũ! Đừng sợ bố ạ.
Thấy Bân dặn dò mình như con nít, cụ Cầu vừa buồn cười, vừa tức:
– Có sợ cái ‘đếch’. Núi rừng Bắc-Việt tôi còn biết đường đi. Phố xá ở đây rộng rãi, đường trải nhựa, đi dễ như bỡn. Anh cứ để mặc tôi!
Cụ Cầu nói thế, nhưng rồi hai lần Bân phải lái xe tới đón cụ về. Lần thứ nhất, cụ nhởn nhơ đi bộ từ nhà ra đường lớn, rồi lang thang sao đó đi luôn lên xa lộ 680! Cụ bị cảnh sát giao thông chặn lại, và mặc người cảnh sát nói gì cụ cứ lắc đầu, đưa cái ID card ra như thể là bị hỏi giấy tờ ở VN. Họ đành ‘bắt’ cụ về station, tìm thông dịch viên Việt Nam, lúc đó cụ mới đưa số điện thoại ra để cho họ gọi Bân đến đón cụ về.
Lần thứ hai, cụ ngồi trên xe buýt, nhưng quên chỗ xuống xe. Xe chạy tuốt lên đến tận Menlo Park, rồi ngừng lại, không chạy nữa vì cuối đường, và tài xế hết phiên! Cụ xuống xe, tìm điện thoại công cộng gọi cho Bân, nhưng không hiểu operator muốn nói gì nên đành chịu đứng đó, cứ thấy người da vàng nào là lên tiếng gọi “Ông ơi cho hỏi thăm” hoặc “Bà ơi cho hỏi thăm”. Mấy tiếng đồng hồ sau mới có một cô bé Việt Nam đi qua, giải thích cho cụ là cụ đã sang area code 650 rồi, chứ không còn ở vùng 408 nữa nên opeartor nhắc cụ bỏ thêm tiền mới gọi được. Cô gái giúp cụ gọi Bân và, về đến nhà, cụ cứ tấm tắc:
– Không biết con cái nhà ai mà tử tế thế. Lại không nhận cả tiền gọi điện thoại mình đưa trả.
Bân hỏi:
– Thế bố có hỏi tên và số điện thoại của cô ấy không để con gọi cám ơn.
Cụ Cầu cười:
– Sợ vãi đái nên chẳng nhớ gì!
Sau hai tai nạn đó, cụ Cầu hết muốn đi ‘giang hồ’ một mình. Bân sợ bố buồn nên xin nghỉ phép, đưa bố lên Seatle thăm người bạn già nhiều năm không gặp. Bác Bảo nằm liệt giường trong nhà già, bật khóc nức nở khi thấy bạn vào thăm. Cụ Cầu cũng rớt nước mắt nắm tay bạn:
– Cũng đến hơn chục năm rồi mới gặp lại bác. Nghe tin bác bị bệnh mà không ngờ đến nông nỗi này.
Bác Bảo cố cầm nước mắt:
– Khổ lắm bác ạ. Chỉ muốn chết cho nhẹ nợ.
– Giời bắt sao thì đành chịu vậy thôi. Thế các anh các chị ấy có vào thăm thường không?
– Có bác ạ. Cuối tuần nào chúng nó cũng thay nhau vào thăm. Ngày thường đứa nào cũng bận đi làm, đi học, chẳng có ai ra vô, chỉ có mấy bà y tá Mỹ đen lâu lâu vào lật mình như lật con nít ấy.
Bân và Phú, người con trai bác Bảo, bỏ ra ngoài để cho hai người bạn già nói chuyện tâm tình. Phú thở dài:
– Thế nào cụ cũng cho mình là bất hiếu. Nhưng không làm được gì hơn anh ạ. Tôi đã nghĩ đến chuyện đưa ba tôi về VN, nhờ một người họ hàng xa chăm sóc để cụ có người chuyện trò hàng ngày, thế nhưng vẫn không đành lòng vì xa xôi quá, chúng tôi làm sao mà thăm viếng thường xuyên. Đằng nào cũng khổ. Ông cụ nhà anh còn khoẻ quá, thân hình thẳng băng, và bước chân còn vững trãi.
Bân gật đầu:
Vâng. Bố tôi còn khoẻ, nhưng tuổi cũng đã cao. Chỉ là vấn đề thời gian. Trước sau gì rồi chúng ta cũng sẽ có cùng một vấn đề.
Cụ Cầu mắt đỏ hoe, câm nín trên đường về. Lâu lâu, cụ thở dài. Xe chạy qua một rừng thông cụ nói với con giọng buồn buồn:
Cảnh ở đây đẹp quá. Cứ như Đà Lạt ở Việt Nam mình. Thế nhưng cô đơn trong nhà già thì thật là đáng sợ. Cảnh đẹp mà làm gì, và cuộc đời đến lúc này còn có gì để tiếc thương.
Bân cũng không biết nói gì hơn, nghĩ thầm, không biết mai sau chuyện gì sẽ xảy ra cho bố mình và cho cả chính mình!
o0o
Cụ Cầu nhất định đòi về VN ngay, chứ không ở hết sáu tháng như dự trù. Cụ bảo vợ chồng Bân:
– Bố nóng ruột quá. Vẫn biết mẹ các con rất khỏe mạnh, nhưng đi lâu, bố chẳng yên tâm. Các con lấy chỗ máy bay cho bố về. Bố cũng đã thấy nước Mỹ. Ngày xưa, có bao giờ nghĩ rằng có ngày mình được đến chơi đất nước này. Bà nội con suốt đời không ra khỏi cổng làng. Bố như thế cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Bân nài nỉ mãi, nhưng cụ Cầu không thay đổi ý muốn, nên anh ta đành lòng đưa bố ra phi trường. Nhìn bố vẫy tay giã từ, Bân muốn khóc vì chẳng biết bao giờ mới gặp lại. Bân hứa với bố là sẽ về thăm nhà thường hơn, nhưng không biết là có giữ được lời vì cuộc sống quay cuồng trên đất nước người. Thằng Tim sống gần ông nội ba tháng nên cũng đã quen thân, chứ không còn xa lạ như lúc ban đầu. Khi cụ Cầu vuốt tóc nó giã từ, nó không còn né tránh, trái lại Tim vòng tay ôm cụ như nó thường hun bố mẹ mỗi lần đi đâu về.
– Good bye, Grand-Pa.
Tim đưa tay vẫy ông nội và, khi bóng cụ Cầu đã khuất sau cánh cửa phi trường, Tim hỏi Bân:
– Are we going to see Grand-Pa again?
Bân vuốt tóc con:
– Yes, son. We’ll see him again. Grand-Ma too.
Một tuần sau khi cụ Cầu ra về, Bân lại nhận được thư bố. Từ ngày cụ Cầu ra về, Bân cứ ngơ ngẩn buồn. Những ngày qua cha con gần gũi, Bân cảm thấy mình hiểu và yêu quí cha hơn. Hình như ông cụ đã đổi tính ít nhiều, không còn khó khăn như xưa, và có cái gì mơ hồ trong tình cảm của cụ mà Bân chưa nhìn ra.
Bân chậm trãi bóc lá thư. Bao giờ cũng vẫn vậy, thư trên giấy mỏng, nét chữ nắn nót như thể người viết để cả tâm hồn vào những dòng chữ.

Các con của bố,
Bố đã về tới Sài Gòn, nhưng hơi mệt vì đường xa nên hôm nay mới viết cho các con. Mẹ con đón bố ở phi trường, không ôm hôn như Mỹ, không cả cầm tay, nhưng nước mắt lưng tròng, đầy ắp ân tình. Bố mới đi có ba tháng, mà thấy như là đã xa mẹ con một đoạn đời.
Mẹ con cám ơn những món quà các con gửi. Vải vóc và bánh trái mẹ con đem biếu hàng xóm láng giềng, chỉ giữ lại mấy lọ dầu gió và hộp sâm, phòng khi trái gió, trở trời. Hàng xóm ở VN mình dù sao cũng thân thiết chứ không như người xa lạ ở chỗ các con.
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Sống gần các con có vài tháng ở bên đó, nhưng bố đã hiểu các con nhiều hơn. Ngày xưa, có lẽ bố đã quá khe khắt với các con mà không biết là mình đã lỗi thời, ôm mãi những giá trị cổ điển của những ngày tháng cũ. Danh vọng làm khổ con người. Bố làm khổ bố, và cả con nữa, Bân, vì những ước mơ hão huyền cho giòng họ Nguyễn Hữu. Nghĩ lại, bố mới thấy những võng lọng vua ban cho tổ tiên cất dấu trong nhà từ đường ở quê nhà Sơn Tây không phải là những gì đáng hãnh diện trong khi đa số họ hàng nghèo đói, quanh quẩn trong mảnh đất khô cằn.
Các con tha phương, và cũng chẳng có danh vọng gì, nhưng dù sao, các con cũng có đời sống vật chất đầy đủ, và yên vui. Lẽ dĩ nhiên các con cũng có những băn khoăn, lo lắng về đời sống, nhưng đó không phải là những dằn vặt làm héo hon con người. Bố mừng cho các con, và cám ơn các con đã lo lắng cho bố mẹ vào lúc tuổi già.
Thấy tình cảnh bác Bảo, bố cũng cảm thương, nhưng thôi, cứ cho đó là số phận. Bố mẹ chọn nơi này để sống hết cuộc đời thay vì sang ở với các con như các con đã yêu cầu. Đất nước này dù sao cũng là quê nhà, có anh có em, có hàng xóm láng giềng, và dù cho có chân yếu, tay mềm thì cũng vẫn còn có người cho mình nương tựa lẫn nhau. Các con cứ yên tâm, đừng lo nghĩ cho bố mẹ lúc này.
À, còn điều này nữa. Thằng Tim không phải là đứa trẻ hư hỏng như bố nghĩ trước đây. Qua bên đó, bố mới biết là nó được nuôi dạy và lớn lên trong môi trường tự do nên hành động và cư xử phóng khoáng thế thôi, chứ thực ra, nó vẫn đầy tình cảm gia đình. Bố nghĩ lại những gì được dạy bảo như vòng tay thưa gửi, cúi đầu dạ thưa, chưa chắc đã là đường lối tốt. Bố không chắc, nhưng biết đâu lối giáo dục đó đã chẳng đưa đẩy con người vào vòng quỵ luỵ, dễ trở thành tay sai cho ngoại bang!
Bân con, bố chưa bao giờ khen con, cũng như ông nội không bao giờ khen bố, nhưng con cần biết là con không làm gì cho bố phải thất vọng hay buồn tủi đâu. Bố nói thế chắc là con cũng đã hiểu lòng bố lúc này.
Lúc nào rảnh, vợ chồng con về chơi với bố mẹ. Nhớ mang cả thằng Tim về, nghe con.
Bố của con,

Nguyễn Hữu Cầu.

Bân gấp lá thư, mắt mờ như muốn khóc.
– Bố ơi, có bao giờ con oán trách bố đâu, nếu con làm gì được cho bố vui lòng thì con cũng làm hết sức mình.
Thằng Tim ở trên lầu chạy xuống, hỏi:
Daddy, are you crying?
Bân lắc đầu, nói bằng tiếng Việt:
Không, có hạt bụi nào bay vào mắt bố đó thôi.

Trần Quang Thiệu‏
duynga
Posts: 115
Joined: Sat Oct 13, 2012 2:40 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by duynga »

Image

Uống Cà Phê Tháng Tư

Trần Mộng Tú

Ta ngồi một mình
ly cà phê cạn
lòng như tháng tư
đứt ra từng đoạn



Tháng tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks trên đường 20th của thành phố tôi cư trú. Tôi cúi xuống nhìn mầu cà phê đen đặc, sóng sánh sót lại một ngụm trong chiếc ly giấy. Tôi cầm chiếc ly chao nhẹ đi một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống nốt ngụm cuối cùng. Ngụm cà phê trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt đã có một lúc nào đó, ta ngửa cổ uống được cả ngụm hay sao!

Tháng tư, tháng tư, tháng tư năm đó! Đứt ra từng đoạn: đoạn cha, đoạn mẹ, đoạn vợ, đoạn chồng, đoạn con, đoạn anh, chị, em, đoạn bạn hữu. Mỗi đoạn đứt một chỗ, rơi một nơi, đoạn mất đi ngút ngàn biệt tích, không để lại dấu vết, đoạn còn sót lại ngơ ngẩn, mù lòa.

Tháng tư của bốn mươi sáu năm sau, ngụm nước mắt không bao giờ cạn được

Tôi ngồi trong quán một mình. Ngó những khuôn mặt lạ, họ không phải bạn bè, nhưng vẫn thấy thân thuộc, vì đó là những khuôn mặt của dân bản xứ tôi gặp thường ngày. Cách ăn mặc và lối cư xử của họ na ná giống nhau. Mình nhìn mấy chục năm, mình quen với cách kéo ghế, cách chụm đầu vào nhau nói khe khẽ, cách nghiêng mình xin lỗi của họ khi phải đi qua mặt ai, nên bỗng trở thành gần gũi.

Tự ngậm ngùi tưởng tượng, nếu bây giờ mình ngồi ở trong một quán cà phê ở Việt Nam, ngắm những người ngồi chung quanh, chắc chắn mình sẽ thấy lạc lõng lắm, vì cách ăn mặc và cư xử rất khác mình. Họ cũng sẽ chẳng để mắt nhìn đến mình, một kẻ thường thường trên mọi phương diện. Mình lạc lõng ngay chính trên quê mình.

Ngồi một mình với ly cà phê Starbucks trong một ngày của tháng tư, quê người; tôi chỉ nhìn ra mình là người lạ với chính mình. Cúi nhìn mấy ngón tay đang cầm ly, những ngón tay gầy đã bắt đầu xanh xao gân lá, biết mình ở đây lâu lắm rồi. Đôi vai bỗng trĩu nặng như có bàn tay ai vô hình ấn xuống ghế. Thôi, đã đến đây rồi, thì ngồi xuống đây, còn đi đâu được nữa. Ngồi đây mà hồn như thác đổ, tiếng nước ầm ầm vọng tới từ một ký ức xa xôi, rồi bỗng òa ra khi chạm vào tảng đá cuối cùng, tảng đá tháng tư.

Tháng tư ở đây là mùa xuân, chim chóc rủ nhau bay vào thành phố, hoa đào nở hồng trên mỗi con đường, nắng mới lách mình vào những khung cửa mở, trong vườn nhà ai hoa táo, hoa lê trắng xóa. Những người Việt di tản như tôi, tháng tư không ít thì nhiều quay đầu nhìn lại quá khứ, nhớ lại những giọt nắng quê nhà năm đó hòa vào máu và nước mắt. Hoa nắng quê người chỉ làm gợi thêm nỗi xót xa.

Anh ạ tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương


Chung quanh tôi, một vài bàn nhỏ có người ngồi trước tách cà phê và cái laptop. Họ im lặng làm việc, học hay sáng tác. Có người với một tờ báo mở trước mặt, hay hai người bạn thì thào nho nhỏ. Quán tĩnh mịch, nghe được cả tiếng gõ khe khẻ của những ngón tay chạm trên bàn phím, thậm chí cả tiếng thở cùa người ngòi ở bàn gần mình.

Tôi ngồi với ly cà phê cạn. Tôi biết trang mạng của người Việt khắp nơi trên thế giới, vào mỗi tháng tư họ cũng trao đổi cho nhau trên khung hình nhỏ: những tấm hình đang bốc lửa, những khẩu súng đang nhả đạn.Tiếng người đang khóc, đang la vang, đang chạy hoảng loạn, đang giẫm lên nhau. Tiếng súng nổ, tiếng kêu thất thanh… Tất cả hiện ra trên khung hình nhỏ.

Trong một tiệm cà phê ở Mỹ. Tôi ngồi đó, ngửa mặt uống ngụm cà phê đen cuối cùng. Bỗng dưng má tôi ươn ướt. Nước mắt ứa ra từ hai con mắt, bờ mi đã bắt đầu sụp xuống như hai chiếc lá cuốn khô. Nước mắt của một người di tản vì chiến tranh lâu quá rồi, xót xa cho phận mình, phận người, phận quê hương đất nước.

Bốn mươi sáu năm rồi, mà thỉnh thoảng vẫn đọc được ở trên mạng, lẫn vào những bài vở giải trí, kiến thức hay nghệ thuật, những lời nhắn với nội dung thật buồn:

Một hài cốt với tên họ, ngày sinh và số quân đầy đủ của một quân nhân VNCH, ai đó vừa tìm được bên đường. Mong có thân nhân đến nhận. Nào ai biết thân nhân của bộ xương đó còn sống hay đã chết? Tin đó đến từ Việt Nam và đã chuyển đi nhiều lần.

Tin những người ở Mỹ về bốc mộ, một hố chôn tập thể của binh sĩ VNCH trong một sân trường hay bên cạnh một con mương.
Tin cả trăm bộ xương tìm thấy ở ven biển miền Trung không biết của bên này hay bên kia.
Rồi còn cả những tin như sĩ quan H.O qua đời ở Mỹ không có thân nhân, được những người trong cộng đồng phụ nhau mai táng.

Lời nhắn về một vị tá Hải Quân, có con ở Cali. Xác nằm trong bệnh viện Texas hai tuần rồi. Cha qua đời, con ở đâu chưa đến nhận.

Những dòng chữ như thế, thực sự là một “Tin Buồn” với ý nghĩa đúng nhất của nó.

Tháng Tư là tháng tôi sợ đọc, sợ xem hình trên mạng. Sợ nhìn lại những hình ảnh và đọc lại những bài viết kinh hoàng của những nạn nhân vượt biển; hình ảnh nghĩa trang quân đội bị đập phá trong tủi nhục; những câu chuyện thương tâm của tù nhân và nhà tù cải tạo; Sợ phải xem lại những hình ảnh của một thành phố mình đã sống và lớn lên bị tàn phá bởi chiến tranh; sợ những bức hình và tên tuổi, binh nghiệp của các tướng lãnh tự sát vào ngày cuối cùng, tôi sợ mỗi khi đọc thêm một danh sách tự vận của các cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan. Họ tự sát riêng lẻ hay có khi cùng với vợ con. Những bức hình im lìm đó là những tiếng gào thét phẫn nộ của những anh hùng VNCH. Tôi không nhớ là mình đã đọc được câu này ở đâu: “Thật đáng thương cho một đất nước nào có quá nhiều anh hùng” vì anh hùng đồng nghĩa với hy sinh và cái chết.

Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần...

Bốn mươi sáu năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh, người dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên mạng, người Việt trong và ngoài nước vẫn có những dòng chữ gửi đến cho nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt Nam tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái Việt xếp hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có Tự Do cho Việt Nam. Ngư dân Việt bị tầu Trung Quốc bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm mất dần từng mảnh cho Trung Quốc…

Tháng tư, cà phê đắng, đắng thêm khi pha vào những giọt nước mắt vì nước mắt bao giờ cũng có muối ở trong. Nỗi đau tháng tư với một số đông người Việt ở thế hệ bạn hữu tôi, là một vết thương không thành sẹo được, nó lên da non, rồi ngưng lại ở đó. Nhìn xuống vẫn thấy màu hồng, vẫn thấy như còn rơm rớm máu.


Tôi cúi xuống nhìn chiếc ly không, tự lấy tay áo lau thầm những giọt nước mắt mình. Đứng dậy, trở về một nơi tôi gọi là nhà, tiếp tục sống với trái tim di tản. Vạt nắng tháng tư chỉ bay xiên vào trong quán này một năm một lần, nhưng khi tôi đến đây, dù bất cứ tháng nào trong năm, hồn tôi, tháng tư có thể đến bất chợt ghé xuống và rơi cùng những giọt cà phê.

Anh ạ! Tháng Tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt
mờ khuất trong em mọi nẻo về.
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by vuongquan »

Một người đàn bà “Mẫu” cho tất cả đàn bà

Tràm Cà Mau

Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn.

Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả.

Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.

Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác. Ngoài tình cảm thắm thiết chia xẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.

* * *

Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là ” tam thập nhi lập.” Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để bề nói ép uổng.

Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng chuyên chính của bà vợ nhà.

Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rỉ nói với tôi: ”Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mầy, một ngày thôi cũng đủ.” Nghe thế thì không sợ sao được?

Trong sở tôi, có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xẩy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt! Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỹ sư giả bên Pháp về.

Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.

Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra.

Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, ít át, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai, từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá, chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?

Không nỡ để thấy mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp. Mẹ tôi đến thăm xã giao nhà Lam hai lần dể dò xét gia thế , và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói: “ Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?”.

Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu.

Tôi cố bào chửa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói: “Mẹ thương con, mẹ không muốn sau nầy con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu”.

Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi.

Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.

Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tối thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt.

Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ xỉ vả tôi: “Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả.

Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.”

Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ. Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu.

Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau nầy. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.

Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc dục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói: “ Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm”.

Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép. Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo: “Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui”.

Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói : “Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh . Em nào cũng vậy cả.” Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời: “Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.”

Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng . Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia dình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu, và bảo: ”Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.”

Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành dộng theo lối đó.

Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại.

* * *

Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi. Tôi thấy mình tan loang vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo.

Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ: “Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế nầy, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.” Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tách thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc.

Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát nước bể Ðông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẵng làm nên được việc gì cả.”

Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc nầy, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, vì ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có một phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định.

Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn. Tôi nghĩ, nếu những lúc nầy mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tội tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lổi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lổi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mĩa, nói những lời tàn nhẩn.

Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo: ”Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn”.

Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác. Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, dắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai thở than hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói: “Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.”

Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.

Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nỗi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế cho gia đình.

Mỗi ngày, Mai thường đọc báo, và khoanh cho tôi các bài hay, các tin tức cần thiết. Nàng ghi danh cho tôi học ở Ðại Học Luật Khoa Sài Gòn, mua bài gởi về tỉnh. Nàng đọc và làm tóm tắt từng bài học, ghi các ý chính của từng đoạn vào bên lề giấy. Nhiều đêm trước khi đi ngủ, Mai đọc bài cho tôi nghe, và nói lại đại cương của vấn đề. Ban đầu, tôi chìu vợ mà nghe những bài học khô khan đó. Nghe lơ là, không quan tâm lắm.

Nhưng về sau, tôi thấy cũng hiểu được nhiều điều hay của luật pháp, kinh tế, các vấn đề xã hội khác. Tôi thành chăm chỉ. Nhờ vậy mà ngày tháng ở tỉnh lẻ thành bận rộn trong êm đềm. Sau bốn năm, hai vợ chồng đều tốt nghiệp cử nhân Luật khoa và tôi xin chuyển ngành. Tôi thường nói đùa với bạn bè rằng, vợ tôi là giáo sư duy nhất mà tôi theo học trong chương trình cử nhân luật khoa. Tôi thật sự khâm phục vợ, vừa đi dạy trẻ kiếm thêm tiền, vừa chăm sóc con cái, nấu nướng, và học bài, ôn bài cho tôi mà khi nào cũng vui vẻ, dịu dàng, không than phiền, kêu ca.

Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi.

Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tình mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẵng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia xẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy?

Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè. Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng không tài sản.

Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối bán tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền.

Bằng tiền bạc, Mai mua chuộc được tên cán bộ cai tù, cho nó một cái đồng hồ, hứa hẹn cho thêm cái đài (radio) và hứa thêm khi tôi được thả về, sẽ cho một chiếc xe đạp. Ðó là ba niềm ước mơ cao sang của nhân dân anh hùng miền Bắc dạo đó: “Ðạp, đồng, đài”, ai có ba thứ nầy thì được xem như tột đỉnh giàu có. Thanh niên có đủ “đạp đồng đài” thì có thể cưới bất cứ cô gái nào trong xứ.

Tên cai tù đã tiếp tế cho tôi thuốc men, mì gói và các thức cần thiết,và phục vụ tôi như một tên đầy tớ trung thành. Nhờ thuốc từ gia đình,tôi thoát chết qua hai lần bệnh nặng không hy vọng sống sót. Sau nầy, gã cai tù tội nghiệp đã trở thành kẻ chịu sự sai khiến của tôi trong trại cải tạo. Tôi đã sai nó mua cho anh em nhiều thứ cần thiết, bí mật đưa tin tức về cho gia đình.

Trong thời gian tôi đi tù, một người bạn cũ của ông anh Mai, trước kia có theo đuổi nàng, sau vào bưng biền theo Cộng Sản, hắn đã đến viếng thăm và nói xa gần, rằng muốn giúp đỡ nếu Mai chịu hắn. Hắn sẽ xin việc làm cho Mai và sẽ tìm cách bảo lãnh cho tôi. Mai đã khéo léo nói cho nó bỏ đi và về sau tránh tiếp xúc.

Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc dục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân.

Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi : ”Mình hãy xem cuộc đời nầy như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xẩy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian nầy. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.”

Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ mới. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa bao cấp (kinh tế chỉ huy, kinh tế tập trung-TC)

Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên. Ngày chia tay, Mai rất bình tỉnh, mà tôi thì trong lòng nhũn ra vì yếu mềm, cố cầm dòng nước mắt cho khỏi tuôn trào. Mai dặn dò: “ Anh phải giữ gìn sức khỏe. Em đủ sức lo cho các con và bản thân.

Ðừng bao giờ quên cả dân tộc đang khổ đau, đợi chờ! Thôi anh đi“. Tôi ôm vợ vào lòng, nước mắt chảy tràn đầy gò má. Tôi cố cầm tiếng nấc cho Mai đừng biết tối đang khóc.

Lời dặn dò của vợ làm tôi cứ ngỡ mình đang ôm cả khối hào quang sáng rực, ôm cả mặt trời chói lọi trong vòng tay. Tôi tự hứa sẽ không phụ lòng kỳ vọng của vợ trong phút chia ly. Tôi tự hứa, ra đi không phải chỉ để tìm tự do riêng cho bản thân mình thôi.

Chuyến đi không thành, phải dời lại một tháng sau. Nhiều người bỏ cuộc nên thuyền trống. Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.

Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.

Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái. Ðể cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tránh xa những nơi có tranh dành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng.

Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn cực khổ trong trại tị nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt.

Những thiếu thốn, khó khăn trong trại tị nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ Cộng Sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tị nạn.

Chúng tôi đến Mỹ vào mùa đông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày.

Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần, hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về nuôi những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới.

Trong vòng ba tháng, chúng tôi đi xin việc cả trăm nơi khác nhau, đâu cũng gõ cửa, đâu cũng xin việc. Hai vợ chồng lội bộ dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà. Thơ của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã.

Khi bỏ nước ra đi, hầu như ai cũng mang trong lòng một hứa hẹn, một trách nhiệm âm thầm, không nói ra nhưng vô cùng tha thiết. Nhiều đêm Mai thì thầm: “Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không, hay chỉ mãi mê lo cho đời sống riêng tư?”

Mai thường an ủi tôi: “Thôi, mình ráng làm ăn, rồi làm được những gì nhỏ nhất có lợi cho quê hương thì làm. Em tin tưởng sẽ có một ngày nào đó, chúng ta sẽ có cơ hội đóng góp cho quê hương nhiều hơn.”

Chúng tôi đi làm việc toàn thời gian, và làm thêm những việc sửa chữa lặt vặt cho các gia đình trong nhà thờ họ đạo. Các bà cụ dành việc làm cho tôi với tinh thần giúp đỡ, trả cho tôi những thù lao nhiều hơn trị giá thực sự. Chúng tôi chỉ để dành một số tiền nhỏ phòng khi bất trắc và ăn tiêu hết sức tiện tặn. Hàng tháng, Mai gởi tiền giúp đỡ các gia đình bà con, bạn bè đang đói khó, gia đình những người đau khổ trong tù đày, các bạn đang quay quắt ở các vùng kinh tế mới. Giúp nhiều nhất cho những người tù không có thân nhân bới xách, thiếu thốn thuốc men, thiếu thốn chất bổ dưỡng. Vợ tôi thường bảo, dù cho những giúp đỡ nầy như muối bỏ biển trong một quê hương đầy đói rách, nhưng có còn hơn không. Mai vui sướng trong việc xẻ chia chút dư thừa vật chất cho những người cùng khổ.

Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà. Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, dành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang. Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm.

Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị thương tổn. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẳn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm.

Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền. Tôi đem nhận xét nầy nói với Mai, nàng cho rằng những người đàn bà đó, chỉ đáng thương, vì không ai dạy cho họ điều khôn ngoan phải đạo mà có lợi cho họ hơn là có hại.

Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng: ”Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu.

Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.” Thế là tôi tìm dược nguồn vui và yên tỉnh tâm hồn.

Khi tôi bị thất nghiệp, Mai càng an ủi vỗ về tôi nhiều hơn, để tôi không có cái mặc cảm mình vô tích sự, sống nhờ vào người khác. Nàng nói, cứ từ từ tìm rồi việc khác, đừng nóng lòng, không gấp chi, vì một người đi làm, nếu ăn tiêu tiện tặn lại, thì cũng không thiếu thốn. Vả lại công việc, thì cửa nầy đóng, sẽ có cửa khác mở. Mai khuyên tôi ở nhà nghỉ ngơi một thời gian cho khỏe. Bởi vậy nên tôi không hốt hoảng lo âu như vài người bạn khác. Một anh nói chuyện trong lúc trà dư tửu hậu, đùa rằng: “ Phải đi tìm việc gấp chứ, không thì ăn được của vợ một miếng cơm, thì phải mửa ra ba miếng máu”. Tôi không tin và không vui khi nghe câu đùa cợt đó.

Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai: “Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?”.

Nàng nói: “Ngày xưa đọc sách, em không nhớ tác giả nào đã viết rằng, con chó suốt đời không làm gì cả mà được mọi người thương yêu, vì cách xử sự của nó. Nó không giận hờn, không đòi hỏi, không trách móc. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.”

Tôi thành thực mà nói rằng đã học rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.

Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại nầy cũng là bài học tốt về sau.

Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.

Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.

Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.

Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói: “Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học.

Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng, có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trờ chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền. Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc. Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy một bữa cơm.

Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn. Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu, mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm.

Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ tôi cũng thấy việc làm của tôi là có lý. Anh bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, thì phải mất một con bò khác.

Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nó nghe gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bửa cơm.

Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe.”

Mai kết luận rằng; ” Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương.”

Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan, dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền nhân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: ”Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi”.

Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.

Tràm Cà Mau
phidao
Posts: 134
Joined: Sun Sep 30, 2012 7:29 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by phidao »

Chị Sui tương lai


Thằng con tôi quen với bạn gái được khoảng 7 năm. Tôi và Má con nhỏ tự kêu nhau là chị Sui tương lai và thường xuyên gọi phone tán chuyện của hai con thật vui và tương đắc. Hai bà sui chẳng màu mè xạo sự khen con mà toàn kể ra tật xấu làm biếng của con mình khiến hai đứa nhỏ sợ lắm. Lâu lâu tụi nó âm mưu lấy phone của mẹ mình xóa đi số phone của mẹ đối phương để hai bà hết đường liên lạc nhưng tụi nó đâu biết là Má tụi nó đâu có dỏm, cũng biết lục trong trang web của hãng điện thoại trên mạng mà tìm lại số phone của người ta. Cứ thế mà tình thông gia vẫn thông qua đường dây điện thoại rất đậm đà thân thiết đến nổi chị Sui tương lai của tôi cứ căn dặn:

- Chị ơi! Nói dại lỡ mà sau này hai đứa nó không lấy nhau thì chị em mình cũng nhớ liên lạc nói chuyện nhé chị.

- Ờ, không tình thông gia thì là tình bạn. Đừng lo!

Không hiểu chị Sui tương lai ăn mắm ăn muối thế nào mà nói lại đúng, hai đứa nhỏ giận nhau và chia tay. Hai bà sui tương lai quính cả lên, phone qua phone lại tìm hiểu tình hình để giúp hai đứa nhỏ hòa với nhau nhưng cũng công cóc. Chị Sui tương lai giờ biến thành chị Sui hụt than thở:

- Em nhìn hủ tương ớt trong tủ mà nhớ thằng nhỏ quá. Mỗi lần nấu phở chỉ có mình nó ăn tương ớt, em để dành đây chứ không dẹp may đâu nó trở lại.

Nhưng thằng nhỏ chẳng bao giờ trở lại để ăn hủ tương ớt của chị Sui hụt nữa. Hai đứa nhỏ chia tay thật sự! Thằng nhỏ xóa tên và xóa hết hình ảnh của con nhỏ trong facebook. Rồi nó cắt tóc kiểu Mohawk có cái bờm như con sâu giữa đầu và hai bên cạo trọc để tang cho mối tình đầu. Nhìn thằng nhỏ giờ trông du đãng và ngầu hết sức. Ai chê nó cũng tỉnh bơ nhất định không đổi kiểu. Ai khuyên nối lại cuộc tình nó cũng trơ như đá. Tình tang!

Rồi nửa năm sau tôi thấy trên face book thằng con đưa lên hình một cô gái có tên họ Việt Nam thật dễ thương và công bố nghe ngon lắm:

- Đây là vợ tương lai của tôi!

Với người yêu cũ đâu bao giờ nghe nó giới thiệu như vậy và cũng chẳng nghe nó nói đến chuyện cưới xin. Bây giờ chưa chi đã giới thiệu như vậy chắc hợp nhãn lắm hay sao nên tôi hỏi:

- Ủa, con quen cô bé này hồi nào mà giới thiệu nghe ngon lành quá vậy? Trông hình thấy đẹp quá há.

Thằng con tỉnh bơ:
- Con mới quen mấy ngày nay thôi. Đang cua!

Rồi nó nói tiếp:
- Hai tuần sau thằng Lộc diễn văn nghệ hở Má? Má giữ cho hai đứa con hai vé nhen.
- Ừ, sẵn Má xem mắt con nhỏ luôn. Trông hình thấy dễ thương ghê.

Tôi thật là kỳ cục!!! Dù thường quan niệm “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, không trọng bề ngoài nhưng thấy người xinh đẹp thì tôi lại có cảm tình trước tiên. Suy ra đâu phải chỉ có đàn ông mới là phường háo sắc!!!

Mới hỏi thăm thì một tuần sau thằng con đem người đẹp về giới thiệu. Con nhỏ bên ngoài cũng dễ thương như hình trong facebook bẽn lẽn chào tôi bằng tiếng Việt hơi ngọng chút xíu mà thôi. Tôi thầm khen thằng con mình có khiếu cua gái và giỏi nữa là biết kiếm người Việt Nam mà yêu thì còn gì bằng. Nói gì thì nói, nếu được làm sui với người Việt mình thì tình sui gia mới thắm thiết chứ với người ngoại quốc biết gì mà nói. Ngôn ngữ bất đồng, phong tục tập quán khác nhau nếu gặp nhau chỉ biết trơ mắt ngó mà thôi, chán lắm.

Hỏi han con nhỏ mới biết nó đang sống với Mẹ và người anh trai. Tôi mời luôn Mẹ cô bé đến xem buổi diễn văn nghệ để có dịp gặp mặt biết đâu là chị Sui tương lai sau này.

Hai mẹ con giống nhau y đúc! Chị ấy trông rất trẻ trung, xinh đẹp, vui tính. Sau này hai đứa nhỏ thân nhau hơn thì tôi và chị Sui tương lai thứ hai cũng thân nhau như chị em. Phone qua phone lại còn hơn với chị Sui hụt ngày xưa. Tôi còn mời chị ấy đến nhà chơi và ngủ đêm lại nhà nữa.

Chị Sui tương lai 2 hoàn cảnh tội nghiệp lắm. Ngày xưa lấy được ông chồng tu xuất vừa đẹp trai vừa giỏi. Hai vợ chồng mở tiệm bán đồ điện tử làm ăn khấm khá mua được nhà lớn trong khu nhà giàu. Nhưng xui sao ông chồng bị người khác cua ẵm hết tiền bạc trốn đi mất để lại chị ấy cùng hai con còn nhỏ dại mới lên 4 và lên 3. Tiệm bị niêm phong, nhà cũng bị ngân hàng kéo. 3 mẹ con phải bỏ xứ qua Minnesota sống với bà con. Chị ấy phải đi làm cu li vất vả nuôi hai con khôn lớn. Ông chồng tàn nhẫn ra đi không liên lạc thăm hỏi hai chục năm nay. Mỗi lần nói động đến ông ta là chị ấy khóc òa tội hết sức. Chị ấy bảo:

- Ông ta bỏ em cũng được đi. Còn hai đứa con mà cũng nhẫn tâm bỏ luôn không đoái hoài gì cả.

Tôi hỏi:
- Rồi từ ấy đến nay Hương có quen ai không? Hương đẹp như vậy ắt phải có người theo đuổi?

- Sau này em có quen một người nhưng mẹ của anh ta không cho tiến tới với em vì em đã có hai con. Anh ta về Việt Nam cưới vợ nên em chia tay. Đàn ông họ sợ trách nhiệm lắm, thấy mình có hai con ai dám rớ. Giờ nghĩ lại chuyện không bước thêm bước nữa lại càng tốt. Đọc báo thấy cha dượng hay sàm sỡ với con riêng của vợ mà giật mình. Con gái mình cũng xinh đẹp, lỡ có chuyện gì thì đau khổ lắm.

- Mình nghe Trâm bảo mới đây Ba nó có liên lạc hỏi thăm hở?

- Hai năm trước hai mẹ con em về Việt Nam chơi có ghé thăm gia đình em của Bố nó ở Huế. Chắc họ cho Bố nó số phone của em để liên lạc. Ông ta gọi bảo là ngày đêm đều nhớ đến hai đứa nhỏ nhưng em không tin. Nếu nhớ sao lại bỏ rơi không quan tâm gì cả.

Nói đến đây chị ấy lại khóc òa rồi ráng nín lại ngay, thổn thức nói tiếp:
- Ổng đòi tham dự đám cưới của con Trâm sau này nhưng nó không chịu. Nó bảo là nó lớn lên không có bố thì coi như không có luôn cho khỏi rắc rối. Nó không chịu nói chuyện với ông ấy.

- Thì ông ta bỏ con từ hồi mới lên ba nó đâu còn ấn tượng gì về Bố là phải. Lúc còn bé Trâm có hỏi gì về Bố không?

- Có một lần nó đi học lớp 1 về hỏi sao bạn con có Bố mà con không có. Em buồn quá khóc òa nên từ đó nó không bao giờ hỏi về Bố nữa. Có lẽ nó cũng hiểu hoàn cảnh của mình nên biết lo lắm. Em thì nhát và dở nên nó phải lo đủ thứ chuyện trong nhà ngoài ngõ.

Tôi gật đầu đồng ý:
- Mình cũng thấy Trâm đảm đang và khôn khéo lắm. Nó sinh trưởng và lớn lên bên Mỹ mà biết nói tiếng Việt cũng giỏi luôn.

Vợ chồng tôi chịu cô bé này lắm. Tự nhiên chứ không màu mè gì cả. Mỗi lần mời ăn là ăn thật tình. Gặp món khoái khẩu và ngon là ăn 2 tô hay 2 dĩa. Đi ăn buffet cô bé là đối thủ của chồng tôi cùng là người cuối cùng ngưng ăn. Chồng tôi khen ăn nhiều như vậy là người có sức khỏe rất tốt. Thằng con tôi bây giờ nghe lời bồ một phép, bớt làm biếng mà phụ ba nó cắt cỏ hoặc xúc tuyết, và nhất là bỏ đi kiểu tóc Mohawk để lại kiểu bình thường. Con bé còn sửa cách ăn mặc của thằng nhỏ không cho mặc theo kiểu lụng thụng Mỹ đen nữa trông thay đổi đẹp trai hẳn lên. Cậu con Út của tôi cũng chịu chị dâu tương lai này lắm vì cô bé biết chơi bóng rổ và biết săn sóc lo lắng cho nó.

Hai đứa nhỏ quen nhau được một năm thì đính hôn. Thằng con của tôi khăn gói tới nhà vợ tương lai ở rể trước. Vậy là hơn 50 phần trăm chắc ăn làm sui với nhau rồi. Đi chơi đâu tôi cũng rủ chị Sui tương lai đi cùng.

Tội nghiệp, chị Sui lâu nay một thân một mình lo đi làm nuôi con nên chẳng bao giờ đi chơi đâu cả ở cái xứ Vạn hồ cảnh thiên nhiên đầy dẫy này. Chị ấy lại rất thích chụp hình nên ông xã tôi tha hồ chụp cho nàng và cả cho vợ. Tôi lâu nay được chụp nhiều rồi nên nhường cho ông xã chụp hình cho chỉ nhiều hơn. Chị Sui tương lai thích lắm, chỉ một cảnh nghiêng qua, ngó lại, đứng lên, ngồi xuống chụp đến mấy tấm. Chàng của tôi thì giỏi chiều nên tha hồ mà nháy! Có lần thấy chàng lom khom chụp hình cho nàng trông ngồ ngộ nên tôi lấy máy khác nháy cho hai người một tấm và đem bỏ lên face book chú thích thêm 2 câu thơ chọc ghẹo:

- Ngắm hoài con mắt muốn đui,

Tình-hình ngó bộ tình sui đang hừng!

Ông xã của tôi không vừa đáp lại:
- Đã hừng nhưng vẫn lừng khừng,

Tình-hình này chắc ngập ngừng chẳng lâu.

À há! Địch thủ này khá đây. Tôi ghẹo tiếp:
- Trời sinh một cặp biết đâu,

Tình-hình này chắc qua cầu váy bay.

Chàng đáp ứng ngay:
- Qua cầu váy chỉ lung lay,

Tình-hình này chắc thò tay vén dùm…..

Cứ thế mà chơi chữ Tình-Hình, vợ chồng tôi làm thơ vui ghẹo nhau đắc ý lắm. Bạn bè cũng chen vào làm thơ chọc vui ơi là vui. Tôi còn hứng chí đọc thơ cho chị Sui nghe và chị ấy cũng tập làm thơ luôn nhưng vì không biết sử dụng computer nên chỉ vừa “rặn” thơ vừa đọc cho vợ chồng tôi nghe thấy thương hết sức. Ông xã nghe tôi bảo thương chị Sui ghê, ảnh cũng nói:
- Em thương chỉ một, anh thương chỉ mười!

Người ta thường bảo “Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”, tôi sao không ghen, kỳ ghê ta. Tôi cũng chẳng hiểu mình nữa. Nhiều khi tôi nghĩ nếu có vài nàng hiền, vui, nấu ăn ngon, biết dọn dẹp, tâm đầu ý hợp với nhau thì rủ về ở chung cùng lo cho gia đình và cho chàng thì vui biết mấy. Nhớ hôm bữa reunion bạn học cũ ở nhà tôi, mấy nàng cùng nhau lo bếp núc ăn uống và dọn dẹp vừa nhanh vừa khỏe. Phân công nhau làm việc rồi dư thì giờ hát hò, đùa giỡn thật quá tiện lợi.

Một lần có văn nghệ Việt Nam được tổ chức ở Casino cách nhà hơn một tiếng lái xe, tôi nhờ bạn bè mua vé dùm và mời chị Sui đi xem vì nghe chỉ nói chưa bao giờ được đi xem văn nghệ ở Casino. Bạn bè tôi khi nghe tôi giới thiệu chị Sui đều trầm trồ thăm hỏi. Một chị bạn cứ chạy theo chồng tôi thì thầm:
- Trời ơi! Chị Sui của Hoàng đẹp và trẻ quá!

Còn ông chồng của chỉ hồi giờ nổi tiếng sợ vợ bỗng dưng lúc đó quên cả đất trời, đổi chỗ đến ngồi cạnh chúng tôi và hỏi thăm:
- Nghe giọng chị sui có phải người Bắc không? Chị ở vùng nào vậy?

- Dạ, em nghe mẹ em nói quê ở Thái Bình.

Anh chàng nhận ngay đồng hương:
- Tôi cũng người Thái Bình. Ở làng nào chị biết không?
- Dạ em không biết. Để em về hỏi bà cụ.

Chị Sui là sui của chúng tôi, mắc mớ gì mà ông bạn này cũng kêu là chị Sui, tức cười quá. Về nhà thế nào cũng bị vợ bắt quì vì cái tội mê gái dám xé lẻ bỏ bà ngồi một mình.

Lại có ông bạn cùng hãng, hôm sau khi nghe tôi khoe hình con dâu đã bảo:
- Tôi thấy mặt con dâu của chị rồi mà.

Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, gặp con dâu của tui hồi nào vậy?

Ông bạn tỉnh bơ:
- Thì tối hôm qua xem văn nghệ ngồi cạnh chị rồi chị giới thiệu cho tôi đó.

- Trời, cái ông này. Chị Sui của tui chớ con dâu hồi nào. Tui cũng giới thiệu cho ông là chị Sui ông quên rồi hở?

Ông ta ngạc nhiên:
- Ủa, chị Sui hở? Sao trẻ quá ta! Chị Sui bao nhiêu tuổi rồi vậy?

- Hơn tui một tuổi, nhỏ hơn ông vài tuổi thôi.

Vậy mới thấy là chị Sui của tôi trẻ và đẹp hết xảy con cào cào. Trẻ đến nổi hôm tiệc đính hôn của hai trẻ, tôi nghe cậu em của tôi hỏi một câu xanh rờn:
- Em là bên nhà gái hay nhà trai vậy?

Tôi ngạc nhiên nghe nó hỏi như vậy? Thằng khỉ hỏi ai vậy ta? Đến khi thấy chị Sui ngồi khuất sau lưng nó và nó đang hỏi chị ấy làm tôi phá lên cười muốn đứt ruột:
- Trời, bộ em không biết đó là chị Sui của chị hở?

Thằng em tẽn tò:
- Ủa, chị Sui hở? Em tới trễ không nghe giới thiệu nên không biết. Chị Sui sao nhỏ xíu vậy? (Ý nó nói chị Sui sao trẻ quá vậy)

Chị Sui của tôi nghe thế cũng cười và vui lắm. Được người ta khen trẻ ai mà chẳng thích. Thấy chị ấy vui tôi cũng mừng cho chỉ, mong sao chị Sui sẽ luôn có được niềm vui để bù đắp những gì mà ông chồng đã gây ra cho mình. Không biết nếu bây giờ được gặp lại vợ con, ông ta có tiếc không nhỉ!

Bữa tiệc đính hôn thật đơn giản và vui. Hai bên gia đình sui gia chẳng cần mở lời giới thiệu nhau làm như quen tự kiếp nào. Chị Sui tương lai được mời uống bia hai má ửng hồng thật là xinh. Chỉ bảo:
- Em mà uống hết chai bia là xỉn có gì cũng nói hết á.

Tôi chọc:
- Lỡ có người hát “Em có thương thầm anh không….” thì có nói thật không?

Chị Sui cười và hát:
- Nếu có thương tôi, thì hãy thương tôi bây giờ…..

Ông Sui tương lai của chỉ nghe mà ngất ngây. Hình như ông này cũng thuộc loại rượu vào lời ra nên ổng ngâm nga:
Hỏi bà con tới chung vui,
Làm chung một lễ bốn người được không?
Trời mưa bong bóng phập phồng,
Con đi lấy chồng mẹ lấy sui gia.

Hình như tôi bắt đầu hơi lo lo nên đã nghĩ bụng kiếm ông bạn nào còn độc thân vui tính làm mai cho chị Sui tương lai. Hai con của chỉ đã lớn không còn là gánh nặng nữa và chỉ bây giờ cũng là độc thân vui tính. Có ai muốn thì ghi danh nhé!

Thanh Mai
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 4 guests