Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
Post Reply
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Image

Chuyện "Cái Giọng nói cũa người Sàigòn"-


Sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, trong đầu lúc nào cũng có một ý định là sẽ “thở đều” trên mảnh đất ồn ào này, ý định đó chắc sẽ giữ mãi cho đến lúc một ngày nào đó âm thầm không bứt rứt cắn tay áo mà mỉm cười he he he XXX xuống dưới ấy…

Gọi là yêu Sài Gòn thì có phần hơi quá! Không dám gọi thứ tình cảm dành cho Sài Gòn là tình yêu, nó chưa thể đạt đến mức ấy. Cái tình với Sài Gòn là cái tình của một thằng ăn ở với Sài Gòn hơn 20 năm, cái tình của một thằng mà với nó, Sài Gòn còn quá nhiều điều níu kéo, quá nhiều chuyện để mỗi khi bất chợt nghĩ về Sài Gòn, lại thấy nhơ nhớ, gần gũi...

Hồi còn đi học, vẫn hay chọc mấy đứa bạn bằng 2 câu thơ nhại :

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Gái Sài Gòn cái mỏ cong cong


Chuyện con gái Sài Gòn "mỏ" có cong không thì hổng có biết, chỉ biết con gái Sài Gòn có cái dẩu môi cong cong dễ làm chết người lắm, nhất là khi cánh môi be bé ấy cong lên một chữ "hônggg..." khi đứa con trai rủ rê đi đâu, năn nỉ gì đó. Lúc đó, đem gương hay kiến soi, chắc cái mặt của đứa con trai đó tội lắm.
Mà con gái Sài Gòn có điệu đà, õng ẹo chút thì mới đúng thiệt là con gái Sài Gòn. Ai mà chẳng biết vậy. Gọi đó là cái duyên ngầm của người con gái đất Gia Định cũng chẳng có gì sai. Ai hiểu được, người đó sẽ thấy sao mà yêu mà thương đến vậy...

Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam , có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách trú (người Hoa hay chú ba tàu), những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định…Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…

Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến cái giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”. Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ còn có giọng tha thiết của người con gái xứ Huế trầm tư mới cùng được ví von như thế…

Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào …mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt. Giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, thứ giọng chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và phát triển, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, nó chính là cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.

Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang, sang sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu... Người miền khác có thích hay khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này.

Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dìa nghen!” - Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen!”.

Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!”. “Thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên lên tiếng “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…

Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau, lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen!”.

Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen!”… Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!”

Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen” “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen, như cái “duyên” trong giọng Sài Gòn. Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy.

Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn..

Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó. Nghe một người Sài Gòn phát âm những chữ có phụ âm "v" như "về, vui, vườn, võng" có cảm giác sao sao ấy, không đúng là giọng Sài Gòn chút nào...

Nhìn lại một quãng thời gian hơn 300 năm hình thành và phát triển của Sài Gòn từ Phiên Trấn, Gia Định Trấn, Gia Định Thành, Phiên An, Gia Định Tỉnh…cho đến Sài Gòn, dân Sài Gòn đã là một tập hợp nhiều dân tộc sinh sống như Việt, Hoa, Kh’mer…Các sử sách xưa chép lại, khi người Việt bắt đầu đến Đồng Nai – Gia Định thì người Kh’mer đã sinh sống ở đây khá đông, rồi tiếp đó là khách trú (người Hoa), và một số dân tộc láng giềng như Malaysia, Indonesia (Java) cũng có mặt. Sự hợp tụ này dẫn đến nhiều sự giao thoa về mặt văn hóa như đàn ông không mặc quần mà quấn sà rông, nhà giầu quê bận bộ áo bà ba mầu trắng, làm ăn khi giao tiếp phải có chầu “nhậu”, cũng như những mặt khác của đời sống, trong đó dĩ nhiên phải nói đến ngôn ngữ.

Tiếng nói của người Sài Gòn không chỉ thuần là tiếng Việt, mà còn là sự học hỏi, vay mượn nhiều từ ngữ của dân tộc bạn, đâm ra mang nhiều “hình ảnh” và “màu sắc” hơn. Những từ như “lì xì, thèo lèo, xí mụi, cũ xì,cái ki …” là tiếng mượn của khách trú, những từ như “xà quầng, mình ên…” là tiếng của người Kh’mer. Nói riết đâm quen, dần dần những từ ngữ đó, những tiếng nói đó được người dân Sài Gòn sử dụng một cách tự nhiên như của mình, điều đó chẳng có gì lạ…Thêm vào đó, nó được sửa đổi nhiều cho phù hợp với giọng Sài Gòn, thành ra có những nét đặc trưng riêng.

Vậy nói cho cùng thì người Sài Gòn cũng có những tiếng gọi là “tiếng địa phương” (local dialect !?). Những tiếng này thể hiện rõ nhất khi người Sài Gòn nói chuyện cùng người miền khác. Nghe một người Sài Gòn nói chuyện cùng một người khác vùng, dễ dàng nhận ra những khác biệt trong lời ăn tiếng nói giữa hai người, hai miền. Có một số từ người Sài Gòn nói, người miền khác nghe rồi…cười vì chưa đoán ra được ý. Điển hình như tiếng “địt”, có nghĩa là cái bụng nó sả hơi. Cũng như khi nghe người Huế dùng một số từ lạ lạ như “o, mô, ni, chừ, răng…” trong khi nói chuyện vậy thôi. Khác là mấy tiếng người Sài Gòn nói, vẫn có chút gì đó nó…vui vui tai, là lạ, ngồ ngộ làm sao.

Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ "dạ" khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ "vâng". Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ "vâng". Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói "vâng!" là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt.

Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ "dạ" vào mỗi câu nói. "Mày ăn cơm chưa con ? - Dạ, chưa!"; "Mới dìa/dzề hả nhóc? - Dạ, con mới!"… Cái tiếng "dạ" đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó "thương" lạ...dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng "dạ" là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳng hay...

Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”…người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó xinh ghê!” nghĩa là khen cô bé đó xinh lắm vậy.)

Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.

Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…”Nhỏ đó xinh lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.

Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều, tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, kiểu bắt chước Tây, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn. Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là mua đó nghen.


Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!” “Ngon làm thử coi!” “Cho miếng coi!” “Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà.

Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.

Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”. Mà giọng Sài Gòn đã thế, cách người Sài Gòn xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang “màu sắc” riêng.

Người Sài Gòn có cái kiểu gọi “Mày” xưng “Tao” rất “ngọt”. Một vài lần gặp nhau,nói chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Saigon mày tao liền. Nếu đúng là dân Sài Gòn, hiểu người Sài Gòn, yêu người Sài Gòn sẽ thấy cách xưng hô ấy chẳng những không có gì là thô thiển mà còn rất ư là thân thiện và gần gũi.

Mày-tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bạn bè của người Sài Gòn. Cách xưng-hô này thấy dàn trải từ đủ các mối quan hệ bạn bè; từ bạn học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho đến mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi. Hổng biết cái máu dân Sài Gòn nó chảy mạnh quá hay sao mà thấy mấy cách gọi này nó...tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như "cậu cậu - tớ tớ" của miền Bắc. Nói chuyện bạn bè với nhau, thân thiết mà gọi mấy tiếng mày mày tao tao thì nghe thật sướng, thật thoải mái tự nhiên, và khoai khoái làm sao ấy. Gọi thế thì mới thiệt là dân Sài Gòn.

Đấy là ngang hàng, ngang vai vế mà gọi nhau, chứ còn như đám nho nhỏ mà gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Khi ấy “tụi nhỏ” sẽ gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng “con” ngọt xớt. Có vẻ như người Sài Gòn "ưa" tiếng chú, thím, dì, cô hơn; cũng như đa phần dân miền Nam khác vậy mà. Mà có lẽ cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước lượng tuổi của người đối diện. Gặp một người phụ nữ mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì "Dì ơi dì...cho con hỏi chút...!" - còn lớn hơn thì dĩ nhiên là "Bác ơi bác..." rồi. Khi gọi một cách thân mật có ý khuyên bảo với một em nhỏ, người Sài gòn thường nói “Nầy, chú em…”

Những tiếng mợ, thím, cậu,... cũng tuỳ vào vai vế và người đối diện mà gọi. Có người chẳng bà con thân thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là thím. Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng “con” chứ không phải “cháu cháu” như một số vùng khác. Cái tiếng “con” cất lên nó tạo cho người nghe cảm giác khoảng cách giữa mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng… gần xịt lại. Nghe sao mà quen thuộc, và gần gũi đến lạ lùng. Tự dưng là thấy có cảm tình liền.

Nói tiếp chuyện xưng-hô, người Sài Gòn có kiểu gọi thế này :
Ông đó = ổng
Bà đó = bả
Anh đó = ảnh
Chị đó = chỉ


Không hiểu sao mà dấu hỏi tự nhiên cái trở nên giữ vai trò quan trọng... ngộ nghĩnh vậy nữa. Nhưng mà kêu lên nghe hay hay đúng hông? Gọi vậy mới đúng là chất Nam Bộ - Sài Gòn á nghen.

Người Sài Gòn cũng có thói quen gọi các người trong họ theo... số. Như anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm...Mà nếu anh chị em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba mà hổng biết nói về ai thì dzậy nè, thêm tên người đó vào. Thành ra có cách gọi : chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba Hùng, anh Sáu Lèo ...

Thêm nữa, nếu mà anh chị em cùng nhà thì tiếng "anh-chị-em" đôi khi được...giản lược mất luôn, trở thành "Hai ơi Hai, em nói nghe nè..." và "Gì dzạ Út ?"...Tôi thích cách gọi này, đâm ra ở nhà gọi Dì Út tôi chỉ là một tiếng Út gọn lỏn. Có chuyện nhờ là cứ "Út ơi...con nhờ chút!" hoặc với mấy chị tôi thì "Hai ơi Hai...em nói nghe nè!".

Cách gọi này của người Sài Gòn nhiều khi làm người miền khác nghe hơi...rối. Có lần, kể cho người bạn ở Hà Nội nghe về mấy người anh chị trong gia đình. Ngồi kể lể "anh Hai, chị Hai, dì Hai, Út, cậu Hai, mợ Hai, chú Ba..." một hồi cái bị kêu là hổng hiểu, xưng hô gì rối rắm quá chừng, làm phải ngồi giải thích lại suốt một hồi...lâu.

Cách xưng hô của người Sài Gòn là vậy. Nghe là thấy đặc biệt của cả một mảnh đất miền Nam sông nước. Cứ thế, không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh. Cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương…
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Trần Hoài Thư, 'hiệp sĩ lẻ loi' của văn chương miền Nam

Ðỗ Dzũng/Người Việt

WESTMINSTER - Có lẽ không ai yêu và quý văn học miền Nam Việt Nam bằng Trần Hoài Thư, một người sống ở hải ngoại, không có nhiều phương tiện,
nhưng đã bỏ ra hàng ngàn giờ để nghiên cứu, sao chép, và đóng thành sách những tác phẩm không còn xuất bản nữa.

Image
“Nhà xuất bản” Trần Hoài Thư cắt sách. (Hình: Trần Hoài Thư cung cấp)

Một công trình, chỉ để “tặng bạn hữu khắp nơi.”

“Tôi may mắn sống 'gần' thư viện đại học Cornell University, yêu sách, tự học đóng sách, và cứ thế mà tôi làm ngày này qua tháng nọ,” nhà văn Trần Hoài Thư kể về chuyện ông tự tay đóng hàng trăm cuốn sách, ghi chép lại các tác phẩm văn học của miền Nam Việt Nam trước 1975.

Cho đến nay, Trần Hoài Thư đã “xuất bản” hơn 100 cuốn sách, của các tác giả, như Bùi Nghi Trang, Hạc Thành Hoa, Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Hiền Ân, Cao Thoại Châu, Lữ Kiều, Lê Ký Thương... và một số tuyển tập, như “Thơ miền Nam trong thời chiến,” “Thơ tình miền Nam,” “Văn miền Nam,” “Một thời lục bát miền Nam...”
Image
Nhà văn Trần Hoài Thư. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)



“Ban đầu cũng thất bại, không có tiền xuất bản, chỉ cặm cụi làm, nhờ có kinh nghiệm điện toán, nhưng chỉ để tặng bạn bè. Dần dần có người biết, đặt làm, và coi công việc như niềm vui sau khi về hưu,” ông chia sẻ.

Nói là sống “gần,” nhưng thực ra lái xe từ Plainfield, New Jersey, nơi nhà văn Trần Hoài Thư cư ngụ, đến đại học Cornell University ở Ithaca, New York, cũng phải mất năm giờ đồng hồ lái xe.

Ông Trần Hoài Thư kể: “Ban đầu, một người bạn, nhà thơ Thành Tôn, đề nghị tôi nên lập tài liệu sưu tầm văn học miền Nam Việt Nam. Tôi liền vào Internet tìm kiếm, thấy đại học Cornell University có một kho tàng sách in tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975 rất đồ sộ. Thế là tôi rủ vợ lái xe lên đó, vào thư viện tìm tòi, quả đúng thật như vậy.”
Image
Những cuốn sách do Trần Hoài Thư “xuất bản” bằng tay. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)



“Mỗi lần đi phải thức dậy từ 3 giờ sáng, lái năm tiếng đồng hồ mới đến nơi, chiều lái năm tiếng về nhà, hai vợ chồng thay phiên nhau lái, cứ thế mà đi. Có ngày trời tuyết cũng đi, vì không thể ngồi nhà. Thấy kho sách ở Cornell không thể ngồi yên được,” ông kể tiếp.

Ban đầu, ông photocopy từng trang sách, 25 cent mỗi bản, mang về nhà đóng lại thành sách, riết rồi không chịu nổi, ông phải tìm cách khác.

Nhà thơ Trần Hoài Thư kể: “Cứ tính đi, 25 cent mỗi tờ, tiền nào chịu cho thấu. Thế là tôi mua chiếc máy scan. Mỗi lần đến thư viện, tôi và vợ cùng nhau scan những trang sách, lưu vào máy điện toán mang về. Ban đầu đóng và cắt bằng tay, riết rồi chịu cũng không xuể. Thế là tôi tự chế máy đóng sách dã chiến. Dần dần rồi quen. Còn khâu đóng sách thì vẫn làm bằng tay.”
Image
Nhà văn Trần Hoài Thư nghiên cứu văn học miền Nam Việt Nam trong thư viện đại học Cornell University. (Hình: Trần Hoài Thư cung cấp)



Việc làm của ông Trần Hoài Thư có thể nói không khác một chuyên viên lưu trữ văn khố cho văn học miền Nam.

“Ðối với tôi, những tác giả trong thời chiến là thiệt thòi nhất. Họ đâu có ở Sài Gòn, họ phải ra mặt trận, vừa đánh trận vừa viết, không có cơ hội để xuất bản. Thỉnh thoảng có một bài đăng báo là vui rồi. Rồi họ bị bức tử năm 1975, không ai đếm xỉa đến văn chương của họ. Tôi muốn lấy lại danh dự cho họ. Và công việc này vẫn chưa kết thúc,” nhà văn Trần Hoài Thư tâm sự.

Càng đóng sách, ông... càng mê.

“Có đêm ngủ không được vì sách chưa đóng xong, tôi lò mò xuống garage, đóng tiếp. Khi xong rồi, cầm cuốn sách trên tay, sung sướng làm sao.”

Ông nói tiếp: “Tự đánh máy, tự layout, tự khâu, rồi tự in bằng tay, chẳng dễ dàng gì. Có điều, đó là tấm lòng của mình, nên cố gắng làm. Nếu không thì ai làm đây? Khi làm, tôi cảm thấy mình có hai phần thưởng. Thứ nhất là an ủi tấm lòng và tinh thần của mình. Thứ hai là làm để cho con cháu mình sau này thấy văn chương miền Nam là vậy đó, tình người vậy đó, nhân bản vậy đó và cao cả vậy đó. Nếu mình không làm thì rất uổng.”
Image
“Máy” ép sách tự chế của Trần Hoài Thư. (Hình: Trần Hoài Thư cung cấp)



Ngoài việc “xuất bản” sách cũ, nhà văn Trần Hoài Thư còn chủ trương tập san không định kỳ tên là Thư Quán Bản Thảo cùng với Phạm Văn Nhàn, Trần Bang Thạch, Cao Vỵ Khanh, đã cho ra mắt một số tác phẩm, như “Thơ Vũ Hữu Ðịnh (tặng),” “Văn số 125 tháng 3 năm 1969, chủ đề Ðầu Xuân lộc mới (in lại, tặng),” “Một mình như cánh lá, thơ Hạc Thành Hoa (tặng),” “Quanh quẩn bên đời, tập truyện của Trần Bang Thạch,” “Hương sắc mong manh (thơ Hoài Khanh, tặng)...

Trần Hoài Thư tên thật là Trần Quý Sách, sinh năm 1942 tại Ðà Lạt, từng theo học Quốc Học Huế, Ðại Học Sài Gòn, làm giáo sư toán trường trung học Trần Cao Vân, tỉnh Quảng Tín từ 1964-1966. Ông nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Ðức, rồi sau này làm phóng viên chiến trường.

Năm 1980, ông định cư tại Mỹ, học điện toán tại Pennsylvania, làm cho công ty điện thoại AT&T cho tới khi về hưu.

Ông khởi sự viết văn và làm thơ từ năm 1964. Truyện ngắn đầu tay “Nước mắt tuổi thơ” của ông đăng trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn. Trước 1975, ông cộng tác với Bách Khoa, Văn Học, Ðời, Bộ Binh, Thời Tập, Vấn Ðề, Khởi Hành, Ý Thức. Sau 1975, có truyện đăng trên Nhân Văn, Hồn Việt, Dân Quyền, Diễn Ðàn, Sóng, Văn Học, Quê Mẹ, Ðời Mới.

Từ sau năm 1988 đến nay, ông cho ra mắt “Biển gọi thầm” (tập truyện, 1995), “Ban Mê Thuột ngày đầu ngày cuối” (tập truyện, 1997), “Về hướng mặt trời lặn” (tập truyện, 1998), “Thơ Trần Hoài Thư (1998),” “Mặc niệm chiến tranh” (tùy bút), “Thủ Ðức gọi ta về” (hồi ức).

Và dù cuộc sống có thay đổi, Trần Hoài Thư vẫn đi về giữa Plainfield và Ithaca, scan từng trang sách, đóng lại, và tiếp tục viết những gì ông suy nghĩ về cuộc đời.

Những ai yêu thích sách “xuất bản bằng tay” của Trần Hoài Thư có thể email cho ông tại tranhoaithu@yahoo.com.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

THẰNG KHÙNG
(Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)
(Phùng Quán viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân - không phải là nhà văn có cùng tên - khi cùng ở trong tù)

"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào - sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…



Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…


Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…


Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.


Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

Ghi Chú: (*)

THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »


Image

Chồng già vợ trẻ là tiên

Hưng Yên
Cụ Văn Tùy nhấc chân lên không muốn nổi, một phần vì mười mấy tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay, tù túng quá nên hai cái chân như muốn tê đi, một phần vì cụ đã có tuổi rồi mà lại mới về Việt Nam “kết hôn” xong nên mới thế. Cụ Văn Tùy năm nay tuy đã ngoài 70, cái tuổi mà người xưa bảo là “Thất thập cổ lai hi”, nhưng cụ chẳng “cổ lai hi” tí nào vì trông cụ còn quắc thước, khoẻ mạnh. Cụ lại có tài văn chương, viết lách lý luận đâu ra đó, nên được nhiều người kính nể! Giá đừng có chuyến về Việt Nam vừa rồi thì cũng đâu đến nỗi, chỉ vì...

Chỉ vì sống nơi đất khách quê người nó đã buồn như chấu cắn, bạn bè chẳng có mấy người, chỉ còn hai ông bà già sớm hôm hú hí, thế mà cách đây mấy năm cụ bà tự nhiên lại chán cảnh trần ai bèn cưỡi hạc về nơi tiên cảnh, bỏ cụ lại một mình nên cụ mới buồn quá sức, buồn tưởng chết đi được! May mà ở nơi đất nước văn minh, già đã có Nhà Nước nuôi, mỗi tháng cụ cũng lãnh được cái check mấy trăm nên không phải lo về đường sinh kế, chứ phải như ở với Việt Cộng, già lết không nổi cũng cứ phải chống gậy đi kiếm lấy mà ăn. Răng lợi cái còn cái mất như cụ Văn Tùy mà cứ phải trệu trạo củ khoai củ sắn thì chả mấy chốc mà ngỏm củ tỏi!

Cứ ngồi nhà mà viết lách mãi nó cũng chán, mà viết cái gì đây? Bọn trẻ nó mới có nhiều cái để mà viết: Truyện tình yêu, truyện ăn chơi, truyện trai gái, truyện cờ bạc, truyện nhậu nhẹt v.v... Chứ còn cụ, quanh đi quẩn lại cũng chỉ có chửi Việt Cộng, mà Việt Cộng thì ai lại chẳng biết là nó đã xấu lắm rồi, cụ có chửi nó cả ngày, cả đêm nó cũng không xấu hơn được nữa. Thế là cụ bèn có ý định đi du lịch, nhưng với mấy trăm Ðô một tháng, có tiện tặn lắm chi phí hết rồi may ra cũng chỉ còn dư được mấy chục, thế thì đi được những đâu? Tốt nhất là về thăm quê hương một chuyến, vừa giải toả được nỗi lòng “Xa quê hương nhớ mẹ hiền” lại còn được tiếng là... Nhớ nước đau lòng con quốc quốc!

Cụ Văn Tùy về Sài Gòn, con bà nó, cái tên Sài Gòn của người ta thân thương như thế mà nó lại đem đổi ra là thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái quái gì, bất quá cũng chỉ là một anh bồi tầu láu cá? Nhưng thôi kệ nó – cụ Văn Tùy nghĩ bụng – nó muốn đổi ra là gì kệ nó, đối với cụ, Sài Gòn muôn đời vẫn cứ là Sài Gòn là được. Mấy ngày mới về cụ bảo thằng cháu ngoại lấy cái xe Honda chở cụ đi vòng vòng để cụ thăm dân cho biết sự tình. Cụ bảo nó chở cụ đến mấy cái xóm lao động, rồi ra ngoại ô xem bà con ta độ này sống thế nào. Mấy hôm đầu thằng cháu nó còn chiều cụ, cụ bảo chở đi đâu nó chở đi đó nhưng sau nó bảo cụ:

“Ông ngoại đến mấy cái chỗ đó làm gì, có gì hay đâu mà đến, để con chở ông ngoại đến chỗ này, có khi ở bên Mỹ cũng chưa chắc đã có đâu”!

Tối hôm đó, nó chở cụ đến một cái quán cà phê đèn xanh đèn đỏ, chớp tắt, chớp tắt có tên là cà phê Tình Cảm. Cụ bảo:

“Tưởng mày chở ông đi đâu, chứ cà phê thì ở bên Mỹ ngày nào ông chả uống!”

Thằng cháu nó cười:

“Nhưng cà phê này là cà phê tình cảm ông ạ!”

Cụ cũng cười:

“Ừ thì vào, xem nó tình cảm thế nào nào!”

Gửi xe Honda đâu đấy xong, hai ông cháu dẫn nhau vào quán. Trong quán cũng đèn xanh đèn đỏ, mờ mờ ảo ảo với tiếng nhạc xập xình, xập xình giật gân ra phết. Một con nhỏ xinh như mộng, nhìn chưa rõ người đã thấy mùi nước hoa sực nức ưỡn ẹo bước ra đón khách. Nó cầm tay cụ dẫn vào một cái bàn trống nơi góc quán, bảo:

“Hai anh vừa uống cà phê vừa làm giám khảo chấm thi em bé đẹp nghe!”

Ðợi cho con nhỏ bước vào trong rồi, cụ mới thì thào hỏi thằng cháu:

“Ở đây người ta có tổ chức thi hoa hậu con nít à?”

Thằng cháu cười bí mật:

“Không có con nít đâu ông “goại” ơi!”

Hai ly cà phê sữa được bưng ra, cụ nghĩ bụng: Ừ, cà phê sữa chứ cà phê đen uống vào giờ này có khi cả đêm không ngủ được. Uống hết gần nửa ly cà phê mà cũng chưa thấy “em bé” được đưa ra, có tiếng của một người nào nào đó giục:

“Em bé đâu, sao không đưa ra đi”?

Lại có tiếng từ bên trong trả lời:

“Có ngay! có ngay!”

Sau đó ba cô nàng từ bên trong tấm sáo bước ra. Ố là là, trông cứ như ba con nhộng ấy thôi. Thằng cháu lại ghé tai ông ngoại thì thào:

Thi “em bé đẹp” là thi “cái ấy” đấy!”

Lúc đầu cụ định nổi trận lôi đình lên với thằng cháu. Mẹ nó, thế ra nó tưởng cụ bằng vai phải lứa với nó hay sao mà nó lại dẫn cụ vào đây? Ðạo đức suy đồi đến thế là cùng! Nhưng sau cụ nghĩ lại, mình là dân viết lách, chửi Việt Cộng mà toàn nói những cái gì ở đâu đâu, toàn nói những cái chuyện cổ lỗ sĩ từ đời nảo đời nào mà ai ai cũng đã biết! Ðây mới là thực tế “chiến trường” đây. Hồ Chí Minh huênh hoang “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”, 30 năm Dân Chủ Cộng Hoà với mấy chục năm XHCN nó trồng ra được loại người như thế này đây! Nghĩ vậy nên cụ mới bấm gan ngồi quan sát. Ba nàng tiên nữ không một mảnh vải che thân đứng thành hàng ngang cho giám khảo quan sát chấm điểm. Các nàng ẹo qua, ẹo lại, ưỡn đàng trước, chổng đằng sau, có khi lại hất hất “em bé” vào mặt giám khảo. Ba “em bé” có em mập, có em ốm nhưng em nào cũng râu ria xồm xoàm trông cứ như cái mồm của đồng chí Fidel Castro ấy thôi. Hình như có một vị giám khảo ba trợn nào đó đưa tay nựng một em bé rồi cười lên hô hố:

“Em này sao cái môi lại thưỡi ra, chẩy dài xuống thế này?”

Lại có tiếng người phụ họa:

“Chắc là bị thằng nào nó kéo ra đấy!”

Rồi lại có tiếng cười híc híc:

“Còn em này sao hai cái mép lại loe ra, lòi cả một cái răng nanh nhọn hoắt, đỏ hỏn ra ngoài...”

Cụ Văn Tùy nghĩ bụng: Thật là đạo đức suy đồi quá sức!

Sau chừng 15 phút biểu diễn, các nàng sà vào lòng giám khảo đưa tay đòi tiền “boa”. Cụ Văn Tùy móc bóp “boa” cho mỗi em một tờ 5 Ðô La, cụ nghĩ bụng: Tội nghiệp, có đói người ta mới phải làm như thế! Khi biết cụ là Việt Kiều hồi hương, các nàng cứ xoắn lấy cụ. Một nàng đề nghị:

“Mai anh Việt Kiều lại đến nữa nghe, bọn em sẽ ưu tiên cho, tha hồ mà nựng!”

Dĩ nhiên là cụ Văn Tùy chả bao giờ trở lại chỗ ấy nữa!

Ðêm hôm ấy cụ Văn Tuỳ không ngủ được thật! Không phải vì cà phê làm cụ mất ngủ mà vì cái cảnh ở quán cà phê Tình Cảm nó quấy rầy cụ. Ðã mấy năm nay, kể từ ngày cụ bà mất đi, đêm nay cụ mới thấy lại cái “mặt mốc” ấy. Ngày cụ bà còn sống, thỉnh thoảng cụ cũng thấy nó, nhưng là thấy cái gầy gò, méo mó chứ đâu có được phây phây tươi mát như thế này, thế là tự nhiên cụ lại cảm thấy “lòng xuân phơi phới”, cụ tự bảo: Có khi là mình phải “bước đi bước nữa”, rồi cụ lại cười một mình: Ðàn bà người ta mới “bước đi bước nữa” chứ mình đàn ông mà bước cái gì... Rồi cụ lại chép miệng: Ối dào, đàn nào khi cần mà không “bước” được!

Cụ Văn Tùy ở chơi Việt Nam hai tuần lễ rồi lại trở về Mỹ và mặc dù đã trở về Mỹ đến hơn nửa tháng rồi mà cụ vẫn cứ bị ám ảnh bởi cuộc thi em bé đẹp ở Việt Nam hôm nào. Có lần cụ còn mơ thấy một em tóc tai phủ kín mặt nhưng lại nhe một cái răng thịt đỏ hỏn ra cười hỏi cụ: Anh Việt Kiều chừng nào mới đưa em về nhà thế? Thế là sau giấc mơ cụ quyết định phải kiếm một cụ bà khác thay cho cụ bà cũ đã bỏ cụ mà đi! Ở Việt Nam người ta cứ tưởng đàn bà ở bên Mỹ vừa hiếm vừa có giá lắm nên đàn ông Việt Nam mới đua nhau về nước lấy vợ, nhưng thực ra không phải là thế, ở bên này quý bà “ế độ” cũng nhiều lắm. Cứ lật mấy tờ báo chợ ra mà coi, tờ nào cũng có đến mấy trang “Kết Bạn Thư Tín” hoặc “Tìm Bạn Bốn Phương”. Ðàn ông, đàn bà, già có, trẻ có. Mới 17- 18 hay đã 6-7 chục tuổi còn nhao nhao lên đòi vợ, đòi chồng. Ðã “ế độ” thế mà còn ra giá cao, có bà đã ngoài sáu bó mà còn đòi ông nào muốn đụng đến bà thì phải: Tốt nghiệp đại học, phải xuất thân Võ Bị Ðà Lạt hay sĩ quan Thủ Ðức, Phải có việc làm vững chắc, phải có tinh thần văn nghệ biết làm thơ, viết văn, biết khiêu vũ và thích du lịch v.v... Lậy Chúa tôi, đòi hỏi cao như thế thì kiếm đâu cho ra người. Cứ lấy ngay cụ Văn Tùy ra làm thí dụ: Tốt nghiệp đại học với làm thơ, viết văn thì cụ dư sức, có khi cụ dạy người khác còn được nhưng việc làm vững chắc thì “Thất thập cổ lai hi” rồi ai còn mướn nữa mà vững chắc! Một tháng được mấy trăm tiền già đủ sống là may, làm gì có dư mà đi du lịch. Còn khiêu vũ thì hai cái đầu gối nó đã muốn long ra, sắp ngồi xe lăn đên nơi rồi còn “khiêu với khích” cái gì nữa?!

Cụ Văn Tùy đã giở mấy tờ báo chợ ra để kiếm người. Cái đám lau nhau từ 17-18 đến 4-5 chục thì đừng có rớ vào. Chẳng những đã không đủ tiêu chuẩn mà cụ Văn Tùy cũng chẳng muốn “chết yểu”. Chả cần phải “Ðêm bẩy ngày ba, vô ra không kể”, cứ mỗi đêm nó bắt cụ làm “nghĩa vụ” một lần thôi thì cũng chỉ “ba bẩy hai mươi mốt” đêm là cụ tiêu diêu miền cực lạc, còn không thì nó “cho” thằng khác, nếu cụ có biết cũng chẳng làm gì được, chỉ có tức hộc máu mồm ra mà chết! Nghĩ thế nên cụ Văn Tùy chỉ chọn những bà từ 50 tuổi trở lên, thế nhưng rút cục cụ cũng chẳng chọn được ai. Có bà đặt tiêu chuẩn cao quá, có bà không đặt tiêu chuẩn nhưng lại thấy nó làm sao ấy. Năm mươi, hơn năm mươi tuổi mà còn dzin thì chắc chắn là phải có cái gì trouble chứ, làm gì có của quý mà lại... Rút cục là cụ vẫn cứ “phòng không chiếc bóng” mà thời gian thì vẫn cứ lặng lẽ trôi, cụ vẫn cứ từng bước từng bước thầm đi đến cuối cuộc đời...! Nghĩ là không thể chọn lựa ở bên Mỹ này lâu hơn được nữa, cụ bèn viết thư về Việt Nam:

Các con, các cháu thân mến!

Trước hết bố gửi lời thăm các con, các cháu được mạnh khoẻ. Bố trở lại Mỹ đến nay đã được hơn 2 tháng, sức khoẻ vẫn bình thường chỉ phải cái tội nó buồn quá! Từ ngày mẹ các con mất đi bố sống thui thủi một mình, mặc dầu ở bên này bố không phải lo về miếng cơm manh áo, nhưng bố nghĩ vấn đề tinh thần nó cũng rất là quan trọng, bởi thế bố có ý định là sẽ “chắp nối”. Có điều ở bên này muốn kiếm được một người cho thích hợp với mình không phải là chuyện dễ, bố đã thử tìm kiếm mấy tháng nay nhưng không được. Bởi thế bố viết thư này gửi về, trước là thăm các con các cháu sau là nhờ chúng mày xem có ai ở Việt Nam có thể thích hợp với bố thì giới thiệu cho bố để bố lo liệu. Nhớ là dọ hỏi xem người ta có thích qua Mỹ không? Có muốn chắp nối với một ông già đã 70 tuổi nhưng còn khoẻ mạnh không? Một điều quan trọng nữa là đừng trẻ quá mà cũng đừng già quá, cứ từ trên 50 đến trên 60 là tốt. Bố rất mong tin các con, vì thời gian qua mau như bóng câu qua cửa sổ vậy các con xúc tiến ngay cho bố. Thân ái!

Thư cụ Văn Tùy gửi đi được hơn một tháng thì cụ nhận được hồi âm từ vợ chồng người con gái cụ ở Việt Nam gửi qua:

Bố thương kính!

Chúng con đã nhận được thư bố và xúc tiến ngay việc bố muốn. Các bà các cô ở Việt Nam muốn qua Mỹ thì thiếu gì hả bố. Nếu bố muốn thì con gái mơn mởn ra cũng có, nhưng hạng này không bảo đảm bố ạ, qua được Mỹ rồi họ bỏ bố là cái chắc. Bởi thế chúng con chọn cho bố một bà năm nay được 54 tuổi. Nhà bà ta ở gần nhà chúng con và cũng là chỗ quen biết. Chồng bà ta trước kia là sĩ quan QLVNCH tử trận ở Kontum vào mùa hè đỏ lửa 1972. Bà này tướng người trông còn được lắm và chúng con nghĩ là rất thích hợp với bố. Khi chúng con ngỏ ý là bố muốn chắp nối và đưa thư của bố cho bà ta đọc thì bà ta cười bảo: Ông cụ bẩy chục tuổi mà còn khoẻ mạnh thật không? Tôi sợ sang đấy rồi chẳng bao lâu lại goá bụa nữa thì khổ lắm. Hay là bảo ông cụ gửi cho tôi một tấm hình đi, nếu thấy được thì tôi cũng sẽ cho anh, chị một tấm hình của tôi để gửi sang cho cụ, nếu cụ cũng ưng ý thì rồi sau đó mình sẽ tính tiếp. Vậy nhận được thư này, bố đi chụp ngay một tấm hình mới nhất gửi về cho chúng con, rồi sau đó thế nào chúng con lại sẽ liên lạc với bố. Kính chúc bố được luôn luôn mạnh khoẻ. Các con của bố.

Cụ Văn Tùy đến ngay chợ Wal Mart và vào chụp luôn một lúc 3 kiểu hình ở One hour photo. Cụ bảo người thợ chụp hình:

“Anh chụp cho tôi ba kiểu khác nhau cho thật đẹp vào, mỗi kiểu in 2 tấm”.

Ý cụ là sẽ chọn tấm nào đẹp nhất rồi gửi về VN. Nhưng khi hình chụp xong, cụ thấy kiểu nào cũng đẹp cả thế là cụ quyết đinh gửi về cả 3 kiểu. Cụ lẩm bẩm nói một mình: Tha hồ cho mà ngắm!

Hơn một tháng sau cụ Văn Tùy lại nhận được thư từ Việt Nam gửi qua. Trong thư có kèm tấm hình một người đàn bà tóc uốn xõa ngang vai, dáng người mảnh dẻ. Bà này lúc còn trẻ hẳn là người có nhan sắc nên đến nay tuy đã ngoài năm mươi mà trông còn có nét lắm. Cụ ngắm đi ngắm lại tấm hình rồi cười một mình: Gửi hình sang thế này là chịu đèn rồi đây! Cụ lại ép tấm hình vào ngay chỗ trái tim, lẩm bẩm: Mình cũng rất thích mẫu người như thế này, hy vọng là hai ta sẽ có những ngày hạnh phúc bên nhau! Sau đó cụ vào bàn ngồi viết thư trả lời:

Các con thân mến!

Bố đã nhận được thư và hình các con gửi qua, bố rất thích mẫu người như thế này. Cho bố gửi lời thăm và cám ơn bà ấy đã cho hình. Nói với bà ấy là nếu có thể được xin cho địa chỉ để bố gửi thư, mong lắm. Xin chúc tất cả mạnh khoẻ và bình an, hy vọng sớm được gặp mặt.

Bố của các con.

Mấy tuần sau cụ Văn Tùy lại nhận được thư từ bên nhà gửi sang với cả địa chỉ của người trong mộng: Trần Thị Hoàng Hôn. Số nhà... Ðường... Quận... TP Hồ Chí Minh. Thế là cụ lại ngồi vào bàn, với tấm hình của bà Trần Thị Hoàng Hôn trước mặt, cụ mắn nót viết lá thư mà cụ nghĩ đây có lẽ là lá thư tình cuối cùng trong đời:

Kính gửi bà Trần Thị Hoàng Hôn,

Tôi đã nhận được thư các con tôi gửi qua và tôi thật sung sướng là bà đã cho tôi địa chỉ của bà, như vậy chứng tỏ là bà đã cho phép tôi được viết thư cho bà. Thưa bà: Có lẽ các con tôi đã nói với bà là tôi ở bên này chỉ có một mình, cô đơn buồn lắm vì bà nhà tôi đã mất cách đây mấy năm. Và cũng vì tôi còn khoẻ mạnh nên đôi lúc cũng cảm thấy thiếu thốn... và muốn có sự “chắp nối”. Tôi cứ mong mỏi được gặp một người như hình ảnh mà tôi hằng mong ước, nhưng ở bên này tôi đã không tìm ra. Ðến khi được nhìn tấm hình của bà thì tôi tự nói với mình: Ðây rồi, mẫu người mà mình mong mỏi đây rồi và cũng chẳng hiểu sao – phải chăng là duyên số – tôi đã yêu, vâng xin lỗi, tôi đã yêu tấm hình ấy tha thiết. Vậy hôm nay tôi đường đột viết lá thư này để bầy tỏ tình yêu ấy, nếu có điều gì không phải cũng xin bà bỏ quá cho. Thưa bà Trần Thị Hoàng Hôn – ôi cái tên mới đẹp làm sao! – bà có cho phép tôi đựơc coi bà như là người vợ sắp cưới của mình không? Và nếu để được bà làm vợ thì tôi sẽ phải làm gì? Xin bà cứ nói đi, tôi đang sẵn sàng để được nghe lời bà đây. Tôi cũng thật mong mỏi được nhận những lời vàng ngọc và thật âu yếm của bà. Xin chúc bà được nhiều sức khoẻ.

Ký tên: Văn Tùy.

Cụ Văn Tuỳ đọc đi đọc lại lá thư đến mấy lần rồi mới cẩn thận gấp bỏ vào phong bì. Cụ nắn nót ghi địa chỉ người nhận ở bên ngoài, đến chữ TP Hồ Chí Minh cụ khựng lại. Con bà nó, cứ nhìn thấy cái tên này là gai hai con mắt. Cụ định cứ viết là Sài Gòn nhưng sau nghĩ lại viết thế nhỡ mấy thằng Việt Cộng chết bằm nó vất thư của cụ đi thì sao? Cuối cùng cụ chép miệng viết đại xuống mấy chữ Hồ Chí Minh rồi dán tem. Thư cụ gửi đi chưa được một tuần mà cụ đã ngong ngóng trông thư phúc đáp. Ngày nào cũng vậy, cứ thấy người phát thư đi qua là cụ ra lục thùng thư ngay và khi chưa thấy gì cụ lại lẩm bẩm: Nhanh lắm cũng phải 2-3 tuần nữa mới có!

Hôm nay cụ Văn Tuỳ lại nhận được thư Việt Nam, nhìn thấy cái phong bì có vệt xanh vệt đỏ ở chung quanh là tim cụ đã đập thình thịch, đến khi nhìn thấy tên người gửi Trần Thị Hoàng Hôn thì trong lòng cụ như mở hội. Ðem thư vào trong nhà, cụ cẩn thận dùng kéo cắt một cạnh bao thư chứ không dám dùng tay xé. Cụ sợ xé bằng tay nó nham nhở mất đi vẻ mỹ miều của cái thư. Bên trong phong bì, ngoài lá thư còn có một tấm hình mầu, khổ 8x12 mới chụp rõ và đẹp hơn tấm hình trước. Cụ âu yếm đưa tấm hình lên môi hôn sau đó để xuống bàn rồi mới mở thư ra đọc:

Ông Văn Tùy thương!

Xin ông cho phép em được xưng “em” với ông vì em nghĩ nếu ông và em thực tình thương nhau thì trước sau gì chúng mình cũng trở thành vợ chồng và như thế thì em là “em” của “mình” rồi chứ còn gì nữa?! Ông Văn Tùy à, sao ông viết thư hay thế? Ðọc thư ông em cảm động lắm, sống nơi đất khách quê người mà cô đơn thì nó buồn thật đấy. Ngay như em, sống ở nơi quê nhà, chung quanh có bà con lối xóm mà đôi lúc còn thấy lòng trống trải! Ðể em nói một chút về mình cho ông rõ, em năm nay 54 tuổi, chồng em tử trận vào mùa hè đỏ lửa 1972 ở Kontum! Mấy chục năm nay em sống vò võ một mình, mặc dù củng có vài người ngấm nghé, nhưng em cứ thấy nó làm sao ấy nên không muốn nhận lời. Mới đây được cô Lê Tuyết Mai, con gái ông cho biết là ông có ý định “chắp nối” và hỏi em có chấp thuận chắp nối với ông hay không? Sau đó em lại nhận được hình và thư của ông. Em thật cảm động và tự hỏi mình là liệu em có thể đáp ứng được những nhu cầu của ông ở nơi đất khách quê người hay không và hình như từ nơi sâu thẳm của lòng mình có tiếng trả lời là: Ðược! Phải chăng đây là cái duyên cái số mà Trời đã định nên đến nay em mới gặp được ông? Em chỉ còn áy náy một điều là qua đấy rồi mình sẽ phải làm sao? Với cái nghề thợ may em có giúp ích gì được cho ông không hay lại trở thành một gánh nặng cho ông? Vậy nhận được thư này xin ông trả lời cho em ngay, hay là ông về thăm quê hương một chuyến để mình được gặp mặt mà tính chuyên lâu bền. Em mong lắm!

Thôi giấy ngắn tình dài, em xin dừng bút, kính chúc ông được luôn luôn mạnh khoẻ và vui vẻ.

Ký tên: Trần Thị Hoàng Hôn.

Cụ Văn Tuỳ đọc đi đọc lại lá thư đến cả chục lần, lòng cụ rộn ràng sung sướng, cụ lẩm bẩm một mình: Anh sẽ về ngay, về để đưa em sang đây cho hai đứa mình được suốt đời hạnh phúc bên nhau! Rồi cụ lại cầm tấm hình mới nhận được lên say sưa ngắm nghía: Hình này với thư viết vừa hay vừa tình cảm thế này phải là dân Gia Long hay Trưng Vương chứ chẳng vừa đâu! Có lúc cụ lại ngồi thừ ra suy tính: Có nhanh lắm cũng phải già nửa năm mới đưa được nàng qua đây. Rồi trong đầu cụ lại vang lên hai câu thơ mà cụ đã học thuộc lòng từ ngày còn ở lớp đồng ấu: “Thời gian thấm thoát thoi đưa, nó đi đi mãi chẳng chờ đợi ai!” Thế là cụ quyết định phải về Việt Nam ngay một chuyến nữa.

Ðúng nửa tháng sau cụ Văn Tùy đã lại có mặt ở Sài Gòn. Tính từ lần về trước, lần được thằng cháu ngoại chở bằng xe Honda đến quán cà phê Tình Cảm làm giám khảo chấm thi “Em bé đẹp” đến khi rước được bà Trần Thị Hoàng Hôn qua Mỹ, cụ Văn Tuỳ đã phải đi đi, về về Việt Nam đến 4 lần với bao nhiêu là vất vả. Trông cụ mệt mỏi, hốc hác thấy rõ, may mà trong ví của cụ lúc nào cũng thủ sẵn mấy viên thần dược Viagra nên tuy mệt mỏi nhưng cụ vẫn hùng dũng vào trận với đầy hào khí của một người đàn ông, dù là đàn ông đã 70 tuổi. Có người thấy cụ độ này nói năng không còn lưu loát như xưa mà lại lắp ba lắp bắp, có khi còn líu lưỡi lại. Hỏi cụ sao thế thì cụ bảo là vì mới trồng lại mấy cái răng nên nói năng nó còn ngượng nghịu. Nhưng đúng hay không cũng chỉ có cụ mới biết. Cũng có người không tin là cụ nói lắp chỉ vì mấy cái răng, nhưng lại chép miệng bảo: Ðược như cụ cũng là phúc rồi. “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt năm canh!”

Hưng Yên
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Người Viết Mướn

Tiểu Tử
Ở chợ Plateau thành phố Abidjan ( thủ đô cũ của xứ Côte d'Ivoire, Phi Châu ) ai cũng biết ông già viết mướn đó. Người ta gọi ông là " l'écrivain chinois " (ông Tàu viết mướn )

Xứ Côte d'Ivoire – thuộc vùng Phi Châu Da Đen – ngày xưa là thuộc địa của Pháp. Dân bản xứ đi học bằng tiếng Pháp. Và vì họ gồm nhiều bộ tộc, mỗi bộ tộc nói một thổ ngữ, nên họ phải dùng tiếng Pháp để hiểu nhau. Về sau, khi đã độc lập rồi, trường vẫn dạy bằng tiếng Pháp và ngôn ngữ chánh trong dân gian vẫn là tiếng Pháp. Những người ít học hay thất học thì nói " tiếng bồi ", nghĩa là tiếng Pháp không đúng văn phạm. Mấy bà buôn bán ở chợ Plateau nói trên thuộc vào thành phần này. Nhiều bà có con cái " đi làm ăn " ở Pháp hay ở Bỉ, lâu lâu cần xin gì hay cần nhắn gì, họ phải nhờ người khác viết cho cái thư. Ngoài ra, có nhiều người cần viết đơn từ thưa gởi nhưng không đủ trình độ để viết đúng từ ngữ hành chánh nên nhờ viết dùm. Do đó mới có cái nghề viết mướn.

Ở khu chợ Plateau, trước đây, chỉ có một người đàn ông trung niên người bản xứ làm nghề này. Anh ta hành nghề dưới hàng hiên khu phố nhìn qua chợ, nằm cách chợ một con đường. Chỗ hắn ngồi là một bức tường nhỏ nằm giữa hai cửa hàng bán radio của người libanais. " Dụng cụ " của anh ta là cái máy đánh chữ loại xách tay đặt trên bàn gỗ nhỏ. Anh ta ngồi trên ghế thấp vừa tầm với cái bàn, nhưng vì anh ta lớn con chân dài nên khi đánh máy anh ta phải cho hết hai chân xuống dưới bàn đưa thẳng về phía trước lòi ra một khúc, trông giống như anh ta ôm cái bàn vào lòng ! Còn " khách hàng " thì hoặc đứng hoặc ngồi xổm cạnh hai bàn chân to xù mang dép Nhựt của hắn, tỉ tê kể những gì mà họ muốn để trong thư. Anh ta gõ máy bằng hai ngón tay nhưng gõ khá nhanh, khách kể đến đâu hắn gõ theo đến đấy. Đánh xong thư, khách hàng đưa cho hắn mảnh giấy nhỏ trong đó có ghi rõ địa chỉ của người nhận thư, hắn lấy trong ba lô để dưới chỗ hắn ngồi một phong bì có dán tem sẵn, đánh máy địa chỉ, cho thư vào rồi le lưỡi liếm keo dán lại. Người khách hàng chỉ còn có cho thư vào thùng thư đứng ở góc đường gần đó. Dĩ nhiên, khi hắn tính tiền, hắn tính cả tiền giấy, phong bì, tem…Thư gởi đi Pháp hay đi Bỉ đều cùng một giá. Cho nên đã thành lệ, sau vài câu chào hỏi, khách hàng cứ đặt tiền trước lên bàn rồi đợi hắn sửa bộ kéo bàn vào lòng với cái máy đánh chữ lúc nào cũng " ngậm " sẵn một tờ giấy, là bắt đầu tỉ tê kể lể…Còn đơn từ thì hắn dùng phong bì không có tem, bởi vì khách hàng mang tay đến nộp thẳng cho cơ quan liên hệ. Loại " đơn từ " này, hắn vẫn lấy bằng giá với " thư nhà ", bởi vì, theo hắn giải thích, viết cho hành chánh khó gấp mấy lần viết cho thân nhân. Bớt con tem nhưng thêm nhiều công suy nghĩ !

Một hôm, có ông già á đông – ốm nhom, già khú – đi lang thang với điếu thuốc trên môi, ngang qua đó nghe tiếng đánh máy lọc cọc nên tò mò đứng lại nhìn. Đợi anh đen làm xong công việc, ông già mới chào hỏi làm quen. Anh đen rất ngạc nhiên vì ông ta nói tiếng Pháp rất trôi chảy rành rọt, không giống những người á đông mà anh đã từng gặp hay quen biết. Ông già ghé đít ngồi lên bệ thềm gần đó, hỏi :

- Ông làm nghề gì vậy ?

Anh đen nhăn răng cười :

- Viết thư dùm người ta, người ta trả tiền. Ông không thấy bà hồi nãy cầm phong bì đi sao ?
- Thấy. Nhưng mà hồi nãy hai người nói với nhau bằng thổ ngữ nên tôi không hiểu.

Ngừng một chút, ông già lại hỏi :

- Làm ăn có khá không ?
- Ố ! Cũng tạm được.

Hắn chỉ qua bên chợ :

- Khách hàng của tôi là mấy bà buôn bán ở bên kia. Họ không biết chữ, mà con cái họ thì đi làm công bên Pháp bên Bĩ hết. Thành ra, ngày nào cũng viết dùm vài cái thư, lai rai…Với lại ở xứ này, người ta hay thưa gởi kiện cáo lắm nên có công việc làm hoài !

Rồi hắn nhìn ông già từ đầu đến chân :

- Còn ông ? Ông làm nghề gì ở đây ?
- Già quá đâu có ai mướn. Ở không, đi lang thang.

Anh đen lại nhìn ông già ra vẻ tội nghiệp :

- Rồi lấy gì sống ?
- Sống nhờ con. Con gái ở nhà làm nem. Thằng em nó đạp xe đi bán. Khá chật vật !
- Ông người Tàu hả ?
- Không. Tôi người Việt Nam.

Nói xong, ông già thở dài. Tội nghiệp cho cái xứ Việt Nam của ông ! Nhược tiểu đến mức độ mà người dân khi ra ngoại quốc cứ bị thiên hạ gọi là người Tàu !

Ông già đưa bao thuốc lá mời anh đen :

- Hút một điếu chơi.
- Cám ơn. Tôi không biết hút thuốc.

Ngừng một chút, anh ta hỏi :

- Nhà ông ở đâu ?
- Ở tuốt trên Cocody, gần nhà thờ.
- Xa quá há. Rồi ông đi bằng gì xuống đây ? Xe buýt hả ?
- Đi bằng xe đạp. Đạp xuống thì dễ, đạp về leo dốc mới mệt !

Anh đen lại nhìn ông già một lúc, mới nói :

- Ông nói tiếng Pháp rành quá mà không đi làm việc cũng uổng.
- Già như tôi thì còn làm được gì ?
- Tuổi tác ăn nhập gì, trình độ văn hoá mới cần chớ !

Ông già hít mấy hơi thuốc, suy nghĩ. Một lúc sau ông hắng giọng rồi hỏi :

- Ông thấy tôi làm cái nghề viết mướn được không ?

Anh đen nhăn răng cười hớn hở :

- Được chớ ! Được chớ !

Rồi đề nghị :

- Ông cứ ngồi kế bên đây ! Đừng ngại gì hết ! Cả khu Plateau chỉ có một mình tôi làm nghề này. Có thêm ông càng vui.

Thấy dễ dàng quá, ông già đứng ngẩn ra, chưa kịp nói lời nào thì anh ta nói tiếp :

- Vậy, sáng mai ông đem máy đánh chữ ra, nghen.
- Tôi không có máy đánh chữ. Tôi viết tay được không ?

Giọng anh đen hơi xìu xuống :

- Ồ…cũng không sao. Cứ ra đây đi, rồi tính.

Ông già mừng rở, bắt tay anh đen, nói " Cám ơn ! Cám ơn ! Ông tốt bụng quá !", rồi đi xăng xớm về chỗ để xe đạp trước ngân hàng gần đó, mở khoá lấy xe phóng lên đạp đi mà nghe như vừa được bơm vào người thêm nhiều sinh lực !

Mấy hôm sau, ông già xin được của hội nhà thờ một cái bàn và ba cái ghế bằng nhôm loại xếp được để đi pique-nique. Ông mua một mớ giấy viết thư, phong bì, tem, bút bi rồi đạp xe đạp chở bàn ghế đến ngồi cạnh anh đen, hành nghề viết mướn. Buổi sáng đó, trước khi rời nhà, ông lẩm bẩm :" Bữa nay đúng là một ngày đẹp trời !"…

Ông già ngồi đã ba hôm, chẳng có một ai đến nhờ viết ! " Khách hàng " cứ nhờ anh đen. Thấy vậy, anh ta an ủi :

- Đừng buồn. Từ từ rồi sẽ có khách. Tại ông không có máy đánh chữ nên người ta không biết đó thôi.

Một hôm, có hai bà cùng đến một lúc. Anh đen tiếp một bà rồi nói với bà kia :

- Nếu bà gấp thì bước qua ông đồng nghiệp của tôi đây, ổng giúp cho. Ổng viết tay, nhưng cần gì ! Viết tay hay đánh máy cũng vậy thôi ! Điều cần thiết là viết làm sao cho người đọc hiểu.

Bà khách ngần ngừ một lúc rồi bước qua ngồi lên cái ghế xếp trước mặt ông già. Như thông lệ, bà ta đặt tiền lên bàn rồi bắt đầu kể lể bằng thứ tiếng Pháp không có văn phạm. Ông già ngồi chống càm, lắng tai nghe.

Thấy ông viết mướn không viết gì hết, bà khách ngừng kể, lấy làm lạ nhìn ông :

- Sao ông không viết ?
- Thưa bà, tôi đang nghe bà kể, đây.

Bà ta chỉ anh đen :

- Sao kỳ vậy ? Ông làm không giống anh này ! Với anh ta, khi tôi bắt đầu nói là anh ta bắt đầu gõ. Còn ông thì không nhúc nhích gì hết !

Ông già phì cười, giải nghĩa chầm chậm :

- Xin lỗi. Tôi phải nghe bà kể hết những gì bà muốn nói cho người con của bà, rồi tôi mới sắp xếp câu văn để viết. Bà biết không, viết thư phải viết cho mạch lạc thì người con của bà mới hiểu được hết cái ý của bà, bà hiểu không ?

Bà khách ngần ngừ rồi gật đầu. Ông già đốt điếu thuốc, nói tiếp :" Bây giờ, xin bà kể lại. Từ từ kể lại, tôi nghe ". Bà khách liếc nhìn ông rồi nhìn vội xuống hai bàn chân của bà, thấp giọng kể…Bà khổ lắm, buôn bán ế ẩm, con dâu mang bầu đứa thứ năm gần sanh mà cứ đau rề rề, mấy đứa cháu nội đi mót khoai mót củ nhưng không đủ ăn, bà đã gởi ba cái thư xin tiền thằng con, xin nó thương vợ thương con của nó nheo nhóc, chắc thư đã đi lạc nên không thấy hồi âm, bà khổ lắm, không biết thằng con ở bên Pháp còn sống hay đã bị cái gì rồi…Bà khách ngừng kể, kéo ống tay áo lên lau nước mắt.

Nghe xong, ông già viết mướn, chừng như xúc động, làm thinh hít mấy hơi thuốc dài. Bà khách len lén nhìn ông rồi lại nhìn xuống chân của bà, hai bàn chân cùi đày nằm trong đôi dép cao su rách bươm lấm lem bùn đất. Bà đợi. Suy nghĩ một lúc, ông già mới lấy giấy viết. Lâu lâu, ông ngừng lại nhìn xa xăm qua chợ nằm phía đối diện như để tìm chữ tìm câu. Rồi lại cuối đầu viết tiếp.

Viết xong, ông hỏi :

- Bà cần tôi đọc lại không ?

Bà khách chớp chớp mắt, lắc đầu. Bà đưa cho ông địa chỉ của người con, ông chép lên phong bì đã dán tem, cho thư vào dán lại rồi trao cho bà khách. Bà cầm thư lật qua lật lại nhìn như thiếu tin tưởng, rồi đứng lên làm thinh đi về hướng thùng thư đứng ở góc đường. Ông già nhìn theo, lòng nghe chơi vơi như chính ông đang đi gởi thư cho thằng con…

Ngày nào ông già viết mướn cũng mang đồ ra ngồi cạnh anh đồng nghiệp đen, nhưng không phải ngày nào ông cũng có khách. Lâu lâu, có dư người thì anh đen " đẩy " qua cho ông. Anh ta nói đùa :" Đồng nghiệp mà ! Phải giúp nhau chớ ! " Ông cười chua chát :" Cám ơn ! Cám ơn ! Nhờ lòng tốt của anh mà tôi cũng vớt vát được một hai người ".

Một hôm, anh đen bỗng hỏi :

- Hồi trước ông làm gì ở Việt Nam ?
- Buôn bán.

Ông không muốn nói hồi đó ông là chủ hai nhà thuốc tây, khá giàu.

- Rồi tại sao ông đi qua đây vậy ?
- Tại làm ăn không được. Tại…tại nghèo.

Ông không muốn nói " cách mạng " đã tịch thâu tài sản của ông, gia đình ông sống cầu bơ cấu bất ở vùng kinh tế mới, vợ ông chết ở trên đó, ông và hai đứa con trốn về thành phố sống chui như bầy chó hoang, ăn nhờ ở đậu…

- Bộ ông có quen ai bên nây hả ?

Đến đây thì ông già không giấu giếm gì hết :

- Đâu có. Tôi đâu có quen ai. Tôi nghe nói Nhà Nước Côte D' Ivoire dễ dãi và tốt bụng nên tôi viết đại một lá thư dài gởi thẳng cho ông Tổng Thống, trong đó tôi kể hết hoàn cảnh bi đát của tôi. Tôi viết mà không có hy vọng gì hết.
- Ồ…Tại ông không biết chớ Tổng Thống Houphouet của tụi này rất bình dân và thương người lắm !
- Bây giờ thì tôi biết. Bởi vì sau bức thư của tôi, tôi nhận được visa và luôn vé máy bay cho ba cha con tôi nữa. Chuyện thật khó tin.
- Gì mà khó tin ? Tổng Thống tụi này hay làm những " cú " ngoạn mục như vậy lắm ! Chắc ông viết thư cũng phải hay lắm nên mới làm xúc động " Le Vieux " ( Ông Già ).

Ở Côte d' Ivoire, dân chúng thương Tổng Thống Houphouet nên khi nói chuyện với nhau họ gọi ông là " Ông Già " một cách triều mến.

- Hồi đó tôi viết giống như tôi muốn than thở với một người nào đó để cho vơi nỗi thống khổ của mình, chớ đâu dè. Nhận được giấy tờ, tôi như trên trời rớt xuống !

Đến đây, ông già không nói rằng ông đã bán mấy chiếc nhẫn cất giấu từ sau trận nhà nước đánh tư sản, để chạy lo vô hộ khẩu của người bà con xa, rồi chạy lo chiếu khán xuất cảnh v.v…

Ông chỉ nói :

- Hồi qua đến phi trường Abidjan, cha con tôi không biết đi đâu ở đâu. Tôi phân trần với chánh quyền sở tại, họ điện thoại gọi hội " Anciens d'Indochine ". Nhờ hội này giúp nên tụi tôi mới có căn nhà nhỏ ở Cocody và chút vốn làm nem đi bán dạo, sống lây lất tới bây giờ…
- Tôi nghe nói người ViêtNam tỵ nạn ở Pháp ở Mỹ nhiều lắm. Bộ ông không có bạn bè bà con định cư ở các xứ đó sao ?
- Có chớ.
- Sao ông không viết thư cho họ ? Kẻ đi trước giúp người đi sau là sự thường mà.

Ông thở dài, hít mấy hơi thuốc rồi mới nói :

- Tôi có viết thư chớ. Chỉ viết thăm thôi và báo tin rằng tôi đã đến Côte d'Ivoire. Nhưng không thấy ai trả lời hết.
- Có lẽ không đúng địa chỉ chăng.
- Đúng chớ ! Nếu không đúng nó phải được trả về, bởi vì tôi có ghi rõ địa chỉ người gởi mà. Hồi ở Việt Nam người thân của họ cho tôi địa chỉ và tin tức, nói họ bây giờ ổn định và khá lắm.
- Ờ…sao vậy há ?
- Chắc họ sợ tôi xin tiền…

Ông cười khẩy một tiếng nghe như ông muốn khạc ra một cái gì chận ngang cổ họng, một cái gì vừa cay đắng vừa nhờm tởm. Ông nhớ lại hồi thời " vàng son ", bạn bè bà con của ông tới lui nhà ông ăn nhậu hà rầm, trong số đó có nhiều người đã được ông giúp đỡ cưu mang. Vậy mà bây giờ…Ông hít một hơi thuốc thật sâu rồi nhả khói ra từ từ làm khoảng trống trước mặt bị mờ đi, giống như ông muốn xoá bỏ trong đầu hình ảnh của mấy thằng bạn bè mấy người bà con mà ông vừa nhớ lại…Anh đồng nghiệp da đen suy nghĩ một lúc lâu rồi nghiêng người qua vỗ vai ông vài cái nhè nhẹ, một cử chỉ an ủi tầm thường như vậy mà ông già viết mướn bỗng thấy nó đẹp vô cùng. Ông xoay người qua bắt tay anh đen, không nói gì hết, nhưng ông chắc chắn rằng anh bạn đó hiểu là cái cám ơn của ông già Việt Nam lưu vong…

Một hôm, bà khách hàng đầu tiên của ông già viết mướn mang biếu ông hai trái xoài Caméroun ( loại xoài xứ Caméroun ngon nổi tiếng vùng Phi Châu Da Đen ) vừa cười vừa nói :

- Tôi cám ơn ông. Nhờ cái thư của ông mà thằng con của tôi hồi tâm. Nó gởi tiền về, kèm theo một cái thư dài. Nó nói nó đọc thư của ông nó khóc quá ! Nó lạy lục xin tôi tha tội cho nó. Nó nói là nó có vợ và một con ở bên Pháp nhưng nó thề sẽ gởi tiền về đều đặn để nuôi tụi này…Tôi vui quá ! Vui quá !

Bà ta nói một hơi, nói thứ tiếng Pháp " ba xí ba tú ", nhưng trong giọng nói nghe đầy xúc động. Nói xong, bà kéo ống tay áo lên lau nước mắt. Ông già nhớ lại cách đây hơn mươi bữa, bà cũng kéo áo lên lau như vậy sau khi kể lể sự buồn khổ của bà. Thì ra, cái vui cái buồn vẫn giống nhau ở giọt nước mắt !

Ông già mỉm cười :

- Tôi viết mướn, bà trả tiền, có gì đâu mà bà cám ơn ?
- Không nhờ cái thư của ông, không biết tụi này còn khổ sở đến đâu. Cám ơn ! Cám ơn !

Nói xong, bà đi trở qua chợ. Ông già đưa một trái xoài cho anh đen :

- Anh cầm lấy để chia vui với tôi !

Anh ta cầm trái xoài trên tay nhìn ngắm một lúc rồi nói :

- Làm nghề này đã hơn năm năm, tôi chưa được khách hàng tặng quà bao giờ. Ông mới ra nghề mà được như vầy là ông viết thư phải hay lắm.
- Thì cũng ráng viết vậy thôi.
- Đâu được ! Viết mà làm xúc động người đọc đâu phải dễ. Bây giờ tôi hiểu tại sao "Ông Già" đã gởi tặng ông visa và vé máy bay !

Ông già viết mướn đốt điếu thuốc, thở khói một cách sảng khoái. Ông nhớ lại ngày xưa, thuở thiếu thời, ông lúc nào cũng đứng đầu về luận văn, và về sau ra đời, ông cũng có lai rai vài ba truyện ngắn đăng báo này tạp chí nọ. Viết, đối với ông, là để giải toả tâm tư, một cách giải toả trầm lặng và sâu đậm hơn là nói. Cho nên trong đời ông, ông rất thích viết, nhứt là viết thư cho bạn, những người cũng thích viết như ông hay ít ra cũng biết viết vài dòng hồi âm hay vài chữ để hỏi thăm nhau…

Hai hôm sau, có thêm một bà mang đến mấy trái cam để cám ơn ông đã viết thư cho chồng bà có vợ đầm ở Bỉ. Rồi cứ như vậy, vài hôm là có người đến cám ơn, cho quà, khi thì chai đậu phọng ( Ở đây, sau khi ran, đậu được cho vào chai lít đầy tới miệng rồi đóng nút để giữ cho được dòn lâu. Người nghèo bản xứ hay ăn đậu phọng với bánh mì…) Khi thì mấy trái cà chua, vài bó rau cải…Có gì cho nấy, không nề hà ! Ông già nhận hết, bởi vì ông thấy làm như vậy, người cho rất vui. Cái vui của họ được bộc lộ ra một cách rất thiệt thà : họ quay lưng bước đi, vừa vỗ tay thành nhịp vừa lắc lư nhún nhảy. Lần nào ông cũng nhìn theo, thấy cũng vui lây…

Vậy rồi không biết họ đồn với nhau thế nào mà khách hàng cứ đến nhờ ông viết. Những người cần làm đơn từ cũng đến nhờ ông ! Bên anh đen đồng nghiệp thấy thưa khách. Ông già bèn đề nghị :" Tình trạng này kéo dài coi kỳ quá ! Tôi đề nghị anh bạn như thế này : tôi lãnh viết thư nhà, anh lãnh viết đơn hành chánh. Mình cứ nói đơn hành chánh phải được đánh máy cho sạch sẽ dễ đọc thì các cơ quan mới mau chóng cứu xét. Anh đồng ý không ? " Anh đen nhăn răng cười, bắt tay ông một cái đau điếng !

Từ đó, thấy khách đến, anh đen trịnh trọng nói :" Đơn từ thì ở bàn này. Thư cho thân nhân thì bước sang bàn ông bạn đồng nghiệp của tôi đây ! " Lần hồi, khách hàng cũng quen nên cả hai người viết mướn cùng có việc làm đều đặn. Và càng ngày càng đông khách.

Một hôm, anh đen hỏi :

- Tôi cứ thắc mắc : làm sao viết thư mướn mà ông viết hay được như vậy ?

- Tại anh không biết. Xưa nay tôi say mê viết. Tôi thích viết cho một người nào đó để giải bày, để chia xẻ những cảm nghĩ những suy tư của mình, chọn lời cho đúng, chọn câu cho hay…thú lắm !

Ông già ngừng nói, hít chầm chậm một hơi thuốc rồi chép miệng :

- Bây giờ tôi chẳng còn ai để mà viết. Bạn bè thì anh biết đó. Chúng nó cũng như người vừa đui vừa điếc, viết uổng công. Cho nên làm nghề viết mướn này, tôi có chỗ để viết. Tôi khổ cái khổ của khách hàng, tôi vui cái vui của khách hàng, tôi tâm sự cái tâm sự của khách hàng. Tôi viết với tất cả những xúc cảm chân thật đó,viết mà không nghĩ là mình viết mướn !

Anh đen vỗ tay đôm đốp, khen :

- Hay ! Ông nói hay quá ! Bây giờ tôi mới hiểu tại sao khách hàng mến mộ ông như vậy ! Tổng Thống tụi tôi đem ông qua đây, đúng là " Ông Già " ổng có con mắt !

Rồi hắn cười hắc hắc làm ông già cũng bật cười theo. Cả hai, không người nào nhớ rằng mình da đen hay mình da vàng, họ chỉ biết họ là hai người viết mướn…

Hai năm sau…

Một hôm ông già bỗng thèm viết cho mấy thằng bạn hồi đó. Viết cho mỗi người một cái thư, lời lẽ y chang như nhau. Viết bức thư cuối cùng cho họ. Viết để cho họ thấy rằng ông phủi đít phủi tay, dứt khoát không còn bận bịu gì nữa với quá khứ, với lớp bụi đất đã ăn bám vào ông hồi thuở " vàng son ".

Ông đốt điếu thuốc, suy nghĩ. Đại khái, ông sẽ viết :

" Thưa anh…gì gì ( hay chị … gì gì )

Tôi viết thư này để báo tin cho anh… ( hay chị… ) mừng dùm cho cha con chúng tôi. Tụi này đã định cư luôn ở Côte d'Ivoire. Bây giờ, đời sống tụi này đã ổn định, cuộc sống tương đối khá. Hai con tôi có cửa hàng bán nem ở chợ Cocody, thiên hạ đến mua cũng đông. Còn tôi thì làm nghề viết mướn, khách hàng cũng nhiều. Được như vậy là nhờ ở xứ đen này, con người thấy đen nhưng lòng dạ của họ không đen chút nào hết. Chẳng bằng người Việt mình, nhiều người bề ngoài trắng trẻo lịch sự nhưng lòng của họ chẳng những đen mà còn bạc nữa, anh… ( hay chị…) có thấy như vậy không ?..."

Nghĩ đến đó, ông già bỗng cười khan một mình !

Tiểu Tử
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Ngọn Rau Lá Cỏ

Nguyên Nhung

Ngày còn bé, gia đình tôi sống rất đạm bạc vì cuộc phân ly Nam Bắc làm tiêu tan sự nghiệp của cha mẹ tôi. Khi vào Nam, để an ủi lũ con bằng lòng với nỗi thiếu thốn hằng ngày, mẹ tôi thường bảo: “Đói ăn rau, đau uống thuốc, thịt cá hương hoa, dưa cà căn bản”. Câu nói ấy nhập vào tâm hồn chị em tôi như nét mực tím in trên trang giấy trắng, khi lớn khôn dù cơm gà cá gỏi ngon đến đâu, vẫn thòm thèm hương vị những bữa cơm rau thời thơ bé.

Quanh khu vườn rộng vuông vức ấy không có chỗ nào thừa để phải thiếu rau ăn kể cả khi muà hè nắng khô ran không một giọt mưa. Chiều nào nơi cái giếng trong vắt dưới lòng đá ong, chị em tôi thi nhau kéo nước tưới rau, trẻ con cũng vất vả như người lớn. Nhờ vậy trời oi ả thì đã có tô canh hoa lý ở sân trước làm mát mẻ. Đang đi ở ngoài nắng chang chang, bước vào sân trước có giàn hoa thiên lý tự nhiên thấy cái nóng dịu hẳn đi. Giàn thiên lý lá xanh biêng biếc che kín khoảng sân đất, được tưới tắm đầy đủ nên cho hoa quanh năm để mẹ tôi nấu canh hoa lý với tôm khô.

Hoa thiên lý màu ưng ửng vàng có mùi thơm dìu dịu, không nồng nàn như các loại hoa khác, hoa ra nụ từng chùm từ thân dây, lá thiên lý thuộc loại lá đơn, chi chít như lá hoa bông giấy. Hoa có hình dáng đơn sơ xoè ra năm cánh như ngôi sao muà Sinh nhật, nhưng có duyên lạ lùng, nhìn nó người ta hình dung ra cái đẹp của một cô thôn nữ đoan trang, hiền lành, quanh năm ngày tháng không cần đến phấn son tô điểm.

Những buổi chiều ở nhà quê thật êm ả, chỉ có bụi chuối bên hè xào xạc. Dưới giàn hoa thiên lý là một mảnh sân đất pha cát, nên khi trời mưa, mảnh sân như một tờ giấy thấm hút hết nước, khi cơn mưa tạnh, sân lại khô ran, khi nắng lên soi qua giàn hoa lý những cái bóng nắng nhảy muá trên nền đất rất vui mắt. Ở cái sân đất cát này là nơi chị em tôi ngồi chơi ô quan, nhảy dây với lũ trẻ con hàng xóm, chí choé cãi nhau vui đáo để. Không phải hôm nào mảnh sân cũng ồn ào, ngược lại có những ngày mẹ tôi đi bán hàng xa chưa về, tôi tha thẩn chơi một mình trước nhà chờ mẹ. Trò chơi trẻ con cuả tôi là một cái que tre nhặt được, rồi cứ thế ngồi phệt xuống ngạch cửa và bắt đầu vẽ những cái mặt người méo mó, tuỳ theo óc tưởng tượng của một đứa trẻ con.

Đâu có gì để chơi ngoài một cái que nhọn với khoảng sân đất nhẵn thín, vẽ rồi lại xoá, xoá rồi lại vẽ, trong đầu tôi hình ảnh một bà tiên, một cô dâu khăn áo lượt là, bà hoàng hậu, cô công chúa trong những chuyện cổ tích. Lần lượt những nhân vật thần tiên huyền diệu nằm đầy trên mảnh sân con trước nhà, không có trò chơi ấy chắc tôi phát khóc lên được khi bóng chiều đổ xuống căn nhà nhập nhoà bóng tối mà chờ mãi mẹ tôi vẫn chưa về. Chị tôi lo nấu cơm chiều, đứa trẻ con lên mười ở nhà quê cũng biết lo như người lớn, cũng biết cắp rổ ra vườn hái đọt đậu xào tỏi, thêm vài con cá khô nướng là mâm cơm đã tươm tất rồi. Sau này khi rời xa chốn cũ, trong ký ức của tôi vẫn thoảng lại mùi cá khô nướng bay tản mát trong khu vườn khoai sắn xanh um của những ngày bé dại.

Mảnh vườn ấy có nhiều thứ rau để mẹ con tôi sống qua ngày với mắm muối dưa cà, bây giờ ngồi nhớ lại tôi dám cho là những món sơn hào hải vị cuộc đời dễ tìm để ăn hơn những món rau quanh vườn của mẹ con tôi hồi ấy. Chẳng hạn mẹ tôi trồng đậu đen nhưng không phải để lấy hạt nấu chè, mà cái chính là đọt đậu đen xào tỏi bùi bùi thơm ngon không chê vào đâu được. Giàn mướp trĩu quả ăn không hết mẹ tôi còn mang ra chợ bán, nhưng đọt mướp hương xào tỏi thì dám chắc ít người được thưởng thức, vì cả giàn mướp may ra mới bẻ được một nắm tay, khi xào tóp lại chỉ còn một dĩa, chị em tranh nhau gắp quên cả phần cho mẹ.

Bây giờ ở quê người, rau cỏ tuy không phải cao lương mỹ vị mà vẫn khó tìm, ăn để mà ăn chứ tìm ra mùi “hương đồng cỏ nội” trong những lá rau ngoài chợ không bao giờ có, người xa quê nhấm cọng rau trong miệng tìm lại mùi hương quê lại càng khó tìm hơn nữa.

* * *

Ít lâu sau, chiến tranh lại bò vào cái miền quê nghèo ấy, mọi người sợ tên bay đạn lạc nên lại lần lượt bỏ đi, gia đình tôi chuyển về miền Tây vì nơi ấy đất lành chim đậu. Ngày về miền Tây chị em tôi như lạc vào một khung cảnh khác, con người miền Nam cũng khác, đồng ruộng bao la bát ngát, sông nước mênh mông với bao nhiêu cây cầu lớn nhỏ, những ngôi nhà lợp ngói đã xậm màu với nắng mưa. Nhiều con đường còn lổn nhổn đất và đá, khi trời mưa xình bùn bám chặt vào tà áo dài lốm đốm như hoa.

Năm ấy tôi đã bước vào ngưỡng cửa Trung Học, làm thân được ngay với con nhỏ bạn người Cần Thơ học chung lớp. Nhà nó cũng nghèo, căn nhà của cha mẹ nó là căn nhà lợp ngói âm dương, thấp và tối, buổi chiều thường âm u mùi khói nhang. Tuy nhà cửa ẩm thấp cũ kỹ nhưng sau nhà lại có được một mảnh sân vuông rất mát mẻ, trồng một cây vú sữa tím tàn che rợp khoảng sân sau, xung quanh sân là những chậu sành lớn bé đã sứt vành mẻ miệng với thời gian, trồng đủ loại rau thơm đủ dùng trên mâm cơm hằng ngày.

Chỉ có ba cha con bạn tôi sống ở căn nhà ấy, không thấy bóng dáng bà mẹ. Sau hỏi ra mới biết, ông già cuả bạn làm công nhân chạy xe hủ lô cho ty công chánh, lương không đủ nuôi con ăn học, má của bạn phải ở nhà quê, trông coi mảnh vườn và chăn nuôi thêm để phụ chồng nuôi hai đứa con đi học. Cuối tuần nào ba của bạn tôi cũng về thăm nhà ở trong quê, khi trở ra ông mang theo những thức ăn đủ cho cả tuần, kèm theo rất nhiều rau xanh rất lạ.

Đám con trong nhà thường gọi « tía » mình là « ông già Ba Tri », bởi vì khi không có xị rượu trên mâm cơm, ông ít nói, tính hơi cộc nên lũ nhỏ đứa nào cũng sợ. Thói quen cố hữu của gia đình bạn là khi dọn cơm, dù không cao lương mỹ vị nhưng bao giờ cũng dành riêng một chén cơm trắng với chút thức ăn, một đôi đũa vắt ngang trên miệng chén, và một chung rượu đế đặt bên cạnh. Trước khi ăn cơm, « ông già Ba Tri » chắp tay xá xá ba cái vào khoảng không chắc để mời ông bà hay những người khuất mày khuất mặt về dùng bữa, sau đó ông mới rót rượu cho mình và nhâm nhi cái đầu cá trong tô canh chua.

Cái đặc biệt nữa trên mâm cơm nhà bạn tôi là rổ rau tươi, không bữa nào thiếu, bởi vì nó rất hạp cho món cá kho mà người miền Nam gọi là kho mẳn. Những khúc cá trong cái nồi lõng bõng nước, người ta có thể thả thêm mấy khúc cà tím, hay mấy khoanh bầu cũng được, nổi lềnh bềnh trên nồi cá là những lát ớt xắt khúc trông rất bắt mắt, một nhúm rau răm cũng chẳng sao. Cái rổ rau kia gồm có ít giá mập tròn trắng phếu, rồi thì cần nước, lá sầu đâu, rau dấp cá, rau đắng, lá mơ, lá lụa , rau dừa, rau tiá tô, kinh giới, rau răm, húng lủi, bông súng, cả nhà ăn rau như thỏ ăn cỏ, khi xong bữa cơm thường rổ rau cũng hết...

Tôi gọi “ông già Ba Tri” ba của bạn tôi là bác Ba. Tuy mặt mũi trông khó đăm đăm vậy nhưng bác Ba lại rộng rãi miếng ăn, hễ đến chơi gặp bữa cơm ông điệu nghệ kêu ăn bậy ba hột cho vui. Nhờ vậy tôi còn biết thêm vài món canh chua rất ngon như vỏ trái cóc nấu cá lóc hay với thịt nạc, chua rất thanh như ở miền Bắc có món cá quả nấu quả sấu chua. Lươn vàng nấu canh chua cơm mẻ và hoa chuối, không thể thay thế vào đó quả me chua vì nó không đúng vị. Xoài rụng trong vườn bác Ba gái phơi khô để dành, trời mưa lâm thâm mà nấu với khô đuối, thả rau ngò om và ớt trái, ăn cũng hết xảy ! Bác Ba ăn cơm rất ít, thư thả nhấp rượu, vừa nhâm nhi cái đầu cá, tay ngắt mấy cọng rau mà hôm nào cũng làm láng cái xị rượu rồi đi ngủ. . .

Tuy đến chơi nhà bạn hà rầm, nhưng tôi vẫn ngán « ông già Ba Tri » nhà nó vì tính cộc cằn bất chợt như sấm chớp trong cơn mưa giông mùa hạ. Bác Ba có một tính tốt, bình thường rất nóng nảy và khi nói hay đệm theo một câu chửi thề vô tội vạ, nhưng khi ngồi vào mâm cơm, sau vài chung rượu tuyệt đối không bao giờ bác Ba rầy rà các con, vì ông nói “trời đánh còn tránh bữa ăn” mà...

Không biết một hôm “ma đưa lối quỷ dẫn đường” chi mà tôi lại tự nhiên buột miệng hỏi xin bác Ba thử chơi một chút rượu đế sủi tăm trong cái xị rượu của bác. Tự nhiên bác Ba cười ha hả khiến tôi giựt nảy mình, còn nhỏ bạn thì lấm lét nhìn ông già nó đang ngoác miệng ra cười :

- Thiệt hông mậy ?

Tôi làm gan gật đầu, khiến bác Ba càng thích chí, giống hệt ông Tản Đà quê tôi bảo “rượu ngon phải có bạn hiền”, nhưng tôi đâu phải bạn nhậu của bác Ba, thỉnh thoảng ở nhà mẹ tôi cho uống một ly rượu bách nhật ngọt lịm thơm mùi thuốc Bắc. Đó là thứ rượu nếp than khi làm thành cơm rượu, mẹ tôi cho vào đấy vài thang thuốc Bắc, đổ thêm chục lít rượu trắng rồi chôn cái khạp rượu xuống lòng đất, đúng trăm ngày mới mang lên. Rượu này được gọi là rượu bách nhật, dành cho phụ nữ sau khi sinh nở để ăn cho ngon cơm, lấy sữa cho con bú . Công nhận mẹ tôi là người phụ nữ đảm đang, lập nghiệp ở đâu là bà nghĩ ngay đến việc phải làm gì để kiếm tiền lo cho các con, sau này người miền Nam cũng biết mua cao hổ cốt cuả mẹ tôi để trị phong thấp, mua rượu bách nhật cho phụ nữ uống sau khi sinh nở, thứ rượu này đối với những con sâu rượu như bác Ba, chỉ là thứ chè ngọt cuả đàn bà con gái.

Cha mẹ ơi ! Lỡ đâm lao thì phải theo lao, tôi yên chí cái món rượu trắng “quốc hồn quốc lủi” cuả bác Ba ngon như rượu bách nhật cuả mẹ tôi, nên hùng dũng cầm cái chung rượu cuả bác đưa mà làm một hớp nhớ đời vì nó cay xè tới cuống họng. Thấy tôi nhăn mặt sau khi làm thử hớp rượu đế , bác Ba cười khà khà thích chí, nói huyên thuyên khác với vẻ im lìm hằng ngày, hôm ấy lũ nhỏ cũng nói cười thoải mái.

Bác Ba làm việc cực nhọc, nên khi về nhà thường cau có khó chịu với các con, kể cả mấy đưá bạn đến chơi không đúng lúc. Nhưng từ hôm tôi làm gan xin hớp rượu cuả bác thì hễ mỗi khi gặp, tôi lại được bác ban cho một nụ cười thân thiện. Sau này khi lớn khôn hơn, tôi mới nghĩ ra cái chân lý ở đời, hễ người ta thích gì mà mình cũng làm như cùng một sở thích thì lấy được cảm tình cuả người ta dễ ợt, huống chi uống rượu một mình như bác Ba đang thiếu người “chén chú chén anh” mà lai rai kể chuyện đời nữa.

Năm ấy cận Tết Âm lịch, bác Ba gái tát đià lấy cá bán Tết. Khi thủy triều lên, nước từ sông đổ vào mấy cái mương xung quanh vườn, cá tôm cũng theo nhau bơi vô rồi kẹt lại, sinh sôi nảy nở ra trong cái đìa đầy bông súng. Bác Ba kéo lũ con về phụ việc, và cũng là dịp ăn Tết sớm với bà con lối xóm mà tụi nhỏ ít khi được gặp kể từ ngày ra tỉnh học. Vì thế ngoài số tôm cá chọn lọc đem ra chợ bán lấy tiền sắm sửa ăn Tết, còn lại bao nhiêu phơi khô để dành ăn dần trong năm, bác Ba gái còn làm một nồi mắm kho thật bĩ bàng, cho chồng con ăn thoải mái, đãi luôn những nhà lối xóm đến giúp tát đià hôm đó nữa.

Hôm đó tôi cũng được đi theo bạn về quê cho biết rõ cảnh sống của người dân quê miền Nam.Từ tỉnh đón xe Lam về quê bạn cách thị xã khoảng hai chục cây số, đó là một cái vườn không lớn lắm nằm sâu cách quốc lộ vài công vườn, phải đi theo một con đường đất rất trơn trợt khi trời mưa, vườn này cách vườn nhà kia bằng những cái mương đào và trồng nhiều dừa nước mát rượi, khác với lối trồng tre trúc bao quanh vườn như người miền Đông Nam phần.Trong vườn trồng được mấy chục gốc dừa, lợi tức chính cuả gia đình, chen trong vườn dừa là mãng cầu, ổi, quýt, mận, bưởi nằm dọc theo những bờ mương, những ngày cuối tuần về quê, bác Ba trai cũng không được hở tay chút nào vì vẫn phải múc bùn đắp lên những gốc cây. Cây trái tuy không nhiều nhưng mỗi mùa bác Ba gái đều có trái cây đem bán ngoài chợ mua thức ăn gửi cho chồng con ở ngoài tỉnh.

So với cái khoảnh sân sau trồng chen chúc những loại rau sống ăn kèm trong bữa cơm ở ngoài thị xã, vườn rau ở nhà quê xum xuê đầy đủ hơn nhiều. Tát đià xong, số cá tôm năm đó trúng lớn nên bữa mắm kho hôm ấy thật phủ phê, bao nhiêu cá lóc, tôm càng , lươn vàng béo ngậy. Hôm ấy là đại tiệc của nhà bạn tôi, vì ngoài một số tôm cá nướng lửa than, còn bao nhiêu trút hết vào nồi mắm, bác Ba gái luôn tay xào xả cho thơm để đổ vào nồi mắm nấu tiếp, nước mắm kho đục lờ lờ như nước bùn mà thơm hết biết !

Ăn mắm thì phải có rau, vì vậy mà hôm ấy tôi được dịp đi khắp khu vườn đầy bóng mát cây xanh của nhà bạn, nhân tiện tiếp bạn chuẩn bị các món rau để ăn với nồi mắm kho. Trong bữa ăn, Bác Ba trai khi ấy mới nhẩn nha kể về những công dụng dược thảo trong các thứ rau xanh trong vườn nhà bác cho tôi và mọi người cùng nghe, thì ra trước đây đa số ăn rau vì thói quen, cho thêm ngon miệng chứ ít ai biết được những vị thuốc trong ngọn rau lá cỏ, mà ông bà mình thường cho rằng người mình sống trên đống thuốc mà không biết.

Rổ rau sống hôm đó còn đầy đủ hơn rổ rau cuả cha con bác Ba ăn hằng ngày nữa, rồi khi cầm từng thứ rau trên tay, bác Ba mới bắt đầu e hèm để vào chuyện :

- Ngó đây nè ! Trước tiên là rau dấp cá, thứ này hễ mọc mạnh rồi là cỏ không lên nổi với nó, tên của nó gọi là ngư tinh thảo, ai đau khổ về bịnh trĩ là biết đến công dụng của dấp cá. Đàn bà ăn thường da dẻ mịn màng, con nít đau ban, lên trái lấy nước uống, hay xoa lên mình cũng liền lặn, viêm ruột , kinh nguyệt hổng đều ăn thường xuyên cũng có kết quả.

Mấy người đàn ông lối xóm cười rộ lên :

- Đàn ông ăn được không anh Ba ?

Bác Ba trai hôm nay cũng vui hơn thường ngày, chắc vì “rượu ngon mà lại có bạn hiền”, nên vui vẻ gật gù bứt một cọng tiá tô giơ lên giải thích tiếp:

- Còn lá tiá tô hay gọi là tử tô thì công dụng lại hay hơn nữa, chữa nhức đầu, cảm sốt rất hiệu nghiệm.

Nghe bác Ba nói tới đây tôi liền xen vô :

- Hèn chi ở nhà mỗi khi bị cảm, mẹ cháu cũng hay nấu cháo trắng rồi đập thêm cái trứng gà, thêm một nắm tiá tô với hành lá, ăn xong toát mồ hôi là khỏi bịnh.

Bác Ba gật đầu nhìn tôi rất cảm tình :

- Cái con Bắc Kỳ “con” này cái chi nó cũng biết, cứ “mẹ cháu, mẹ cháu” là biết liền hà, nó còn biết nhậu nữa nghe bà con. Con nhà nghèo đâu có thuốc men chi, hễ bịnh thì cạo gió, giác hơi xong rồi làm tô cháo nóng tiá tô, hành lá là hết bịnh(e hèm).Còn đây là rau má (bác lại cầm cọng rau má bỏ vô miệng nhai chóp chép), bà con mình cũng xem thường loại rau này vì nó cũng mọc tràn lan như cỏ, người Tàu gọi là Tích tuyết thảo hay Liên tiền thảo, chữa nóng sốt, lên sởi, ói ra máu, kiết lỵ, ỉa chảy, táo bón, đái rát, thống kinh, bạch đới. Nghe nói mỗi ngày chỉ cần ăn vài cọng thôi là cũng đỡ được chứng phong thấp, không cần ăn nhiều vì rau má lạnh, ăn nhiều quá bị mất hồng huyết cầu, phàm cái chi cũng vậy, không nên lạm dụng . . .

Có tiếng cười khúc khích trong đám đàn bà con gái, ở nhà quê hễ nghe ai nói cái gì lạ là cười. Bác Ba trai chỉ đám xả lên phơi phới một màu xanh mát mắt trồng bên vệ rào:

- Trồng cây xả ở xung quanh rào là cũng có ý rồi đó, trước là khử không cho mấy con rắn bén mảng vô vườn, sau là khi nấu mắm như bữa nay thì phải có xả mới dậy được mùi mắm. Sách thuốc người ta gọi là Chu Cam Cun, giúp tiêu hoá, ói mửa, đầy bụng. Còn cái đám rau ngót xanh rờn kia người Bắc hảo ăn hơn người Nam, họ nấu canh với giò sống , xem như một món canh ăn thường xuyên, rau này trị ban sởi, mát phổi, bí tiểu tiện, thông huyết nên đàn bà mới sanh cũng ăn được.”

Mọi người cùng ồ lên vì sự thông thái của bác Ba, ngạc nhiên không hiểu người đàn ông quê muà này có vẻ am hiểu về thuốc men mà lại không làm ông thầy thuốc Nam. Bác Ba được dịp khoe tiếp:

- Tui đi ta bà khắp nơi, đói ăn rau, đau uống thuốc nên vì vậy mà biết chút chút để dành khi cần xài, lỡ lúc ngặt nghèo cũng qua cơn khốn khó. Cho nên hễ đến nhà ai thấy có loại rau lạ, xin về làm giống rồi lan tràn ra khắp vườn. Miền Nam hay um lươn với lá cách, rau ngổ, mấy thứ lá này kết hợp với lươn mà thành thứ thức ăn bổ âm, rất tốt. Ông Lâm ngữ Đường viết sách nói phàm cái gì ăn được tự nhiên mà bổ dưỡng cho cơ thể, tốt hơn ba cái thứ thuốc bào chế uống nhiều chỉ hại gan, nát phổi thêm.

A hà, bây giờ khi bác Ba chạy qua ông Lâm ngữ Đường thì bà con cùng ngớ ra nhìn bác như Thánh sống. Ông Lâm ngữ Đường là ai thì họ không biết, nhưng nội cái tên là đủ sức cho họ thán phục rồi. Bác Ba chỉ những vồng cây lá lốt mọc xanh tốt ven bờ rào rồi nói:

- Đó, thuốc nằm khơi khơi ra đó mà ai hễ đau lưng, thấp khớp cũng đi tìm thuốc, nó cho uống ba cái thuốc hạt dưa độc thấy bà ra mà ai cũng khen là thuốc tiên, uống vô một viên bách bịnh tiêu tan, có mà tiêu tán đường ra nghĩa địa luôn đó. Lá lốt nhiều chất vôi, chủ trị thấp khớp, đau xương, đau lưng, tiêu hoá kém, đầy hơi, đau bụng, sưng phù ăn thường là có kết quả, ví nó là thứ qúy trong thuốc Bắc cũng được. Riêng còn một thứ rau mà hễ Bắc Kỳ ăn bún riêu không có nó là không được, đó là cây kinh giới....

Mấy người đang cắm cúi ăn cùng “ồ” lên một lượt. Bác Ba hứng chí tiếp:

- Bà con mình ở trong quê không biết tới thứ rau này, nó cay cay nồng nồng mà hay thượng hạng, cảm sốt nhức đầu, cảm cúm , viêm họng muốn ói chỉ cần bứt một nắm ăn là thấy khoẻ.

Rồi bác xoay qua đùa với tôi:

- Ê, Bắc Kỳ con, có phải “trên trời có đám mây xanh, ở giữa có cây kinh giới, xung quanh có Bắc Kỳ” không nhỏ?

Mọi người lại cười ồ lên, ai cũng ngó tôi như người hành tinh khác, nhưng sao mặt mũi cũng dễ thương y chang mấy đứa con gái Nam Kỳ.

- Rau muống xào tỏi mà ăn với rau kinh giới thì mới đúng điệu con cá gỗ. Nhưng ăn bún riêu mà lại ăn kèmrau muống chẻ với rau kinh giới nữa thì con trai Nam Kỳ đi theo con gái Bắc ráo trọi. Không nói đến công dụng về thuốc, mà nội hương vị của các thứ rau thôi cũng thấy nó ngon rồi...

Ai cũng trố mắt lên nhìn bác Ba một cách thán phục. Đúng lúc đó thì hai con “ky ky” nhà bác Ba dành nhau mẩu xương cá, ủng oẳng dưới gầm bàn, bác Ba trai lại cười chỉ vào cái nhúm lá mơ ở trong rổ. Mọi người lại trố mắt lên chờ đợi, mấy cái miệng đều la lên:

- Trời! Lá thúi địt, hôi muốn chết -- Rồi họ cười ầm ĩ lên như phát hiện điều gì thú vị lắm. Bác Ba lại nheo mắt nhìn tôi:

- Ậy, thứ lá này là mấy con cẩu nhà tao chạy cong đuôi, nhưng nói đến công dụng cuả nó thì đệ nhất hạng trong các thứ rau, vì nếu biết dùng thì rất tốt cho người yếu tỳ yếu vị. Mỗi ngày chịu khó ăn chơi vài lá có thể ngừa được nhiều chứng bịnh thông thường như sình hơi, kiết lỵ, sỏi thận, bí tiểu, thấp khớp, ăn không tiêu, đi cầu ra máu, viêm bao tử, viêm ruột.

Nghe bác Ba nói tới đây thì ai cũng vội tìm một lá giơ lên ngắm nghiá. Màu lá phơn phớt nâu tím, một mặt xanh, lông tơ mịn phủ trên thân lá mềm, ai biết được nó là vị thuốc quý như vậy mà lại hằng hà sa số, không cần trồng cũng mọc. Người Bắc khi đánh chén “nai đồng quê” nhất định không thể thiếu lá mơ, nhà thuyền chài ăn gỏi cá mà không có lá mơ xem như thiếu tất cả, còn như bác Ba kẹt lắm có miếng thịt ba rọi luộc, quấn với lá mơ mà chấm mắm nêm, nhậu với xị rượu không có gì ngon hơn. Riêng bác Ba gái mùa hè khi rảnh rỗi, bứt hằng rổ rồi đem phơi khô, bắt đầu tháng năm khi sắp bước vào mùa mưa, trời nắng hạn con nít nổi rôm, sẩy đầy người, khó ngủ, chỉ cần sao lên rồi nấu nước uống, mình mẩy lành trơn, mát rượi.

Bữa mắm và rau cuối năm ở nhà bác Ba năm ấy chắc là bữa ăn ngon cuối cùng, vì năm sau chiến trận xảy ra ở đây dữ dội lắm, dân chúng chạy tản cư ra chợ, lộn đi lộn về nhiều phen nhưng không ai dám ở vì ban ngày thì có vẻ bình yên, nhưng ban đêm tên bay đạn lạc i` xèo, bác Ba gái đành phải bỏ vườn chạy ra tỉnh ở luôn với chồng con. Lâu lâu khi tình hình tạm yên, bác lại mò về mảnh vườn ở trong quê của mình, để nhìn các thứ rau không còn ai chăm sóc, bò quanh bò quẩn quanh vườn tìm cách tồn tại, vườn tược rậm rịt y như những đứa trẻ côi cút không ai ngó ngàng tới.

Tôi vẫn đến nhà bạn chơi như những năm trước, khi đó hai đứa đã lớn bộn mà còn biết yêu nữa. Bạn tôi yêu một anh bạn hàng xóm, hai nhà cách nhau có cái giậu hoa trang mà cũng viết thư xanh, thư hồng, tôi lâu lâu làm thơ tình giùm cho nó, dĩ nhiên cái sân sau nhà bạn chỉ trồng rau, cho nên thơ của tôi không khỏi có hương vị rau cỏ trong đó. Một bài thơ mà đối với tôi thuở đó rất dễ thương, nhớ hoài đến bây giờ, kể lại chuyện tình cuả bạn tôi năm mười bảy tuổi, đến cũng nhanh mà đi cũng vội, như con bướm bay từ vườn hàng xóm, đậu trên những luống cải hoa vàng mùa Xuân, rồi bay đi đâu không biết.

Tình Đầu

Năm em mười bảy tuổi
Có anh đi vào đời
Bằng ánh mắt nụ cười
Với mùa Xuân lên ngôi

Thương nhau vào mùa Xuân
Rồi tình yêu thắm dần
Sách vở đầy thương nhớ
Tình đẹp như thiên thần

Hai nhà chung một ngõ
Cách một mảnh vườn sau
Vườn nhà anh bướm lượn
Vườn nhà em trồng rau

Yêu nhau không dám nói
Nhìn nhau không dám cười
Thư tình anh đem dấu
Dưới bụi cây ven rào

Những chiều ra hái rau
Mắt ngó trước nhìn sau
Thư tình trong túi áo
Len lén mình thương nhau

Rồi bỗng dưng một dạo
Thư hồng anh thôi trao
Nụ cười thôi đưa đón
Gặp em anh chẳng chào

Buồn lắm anh biết không?
Chiều chiều ra vườn sau
Nắng nghiêng qua hàng giậu
Thư hồng anh để đâu?

Không phiền trách chi nhau
Chỉ buồn cho tình đầu
Mau phai như màu áo
Nghe tim mình đau đau


Đó là bài thơ tuổi học trò khi yêu còn ngây thơ không có tội, nửa muốn mạo hiểm bước vào ngưỡng cửa tình yêu, nửa rụt rè vì sợ cha sợ mẹ. Bạn tôi có một mối tình đầu thầm lặng như thế đó, tôi nghĩ tại bác Ba trai rất nghiêm khắc cho nên anh bạn hàng xóm sợ rồi rút êm, đi tìm một tình yêu khác. Vậy mà bạn tôi nhớ hoài, hễ khi nào chỉ còn hai đứa ngồi nhắc chuyện cũ, bạn vẫn nhắc đến anh bạn hàng xóm năm xưa với nỗi rung động đầu đời rất dễ thương.

Bác Ba gái vì hoàn cảnh phải dời quê ra tỉnh, ngày ngày quanh quẩn ở mảnh sân sau chật chội. Mặc dù sống gần chồng con nhưng hình như bác không quên được cây trái và những loại rau hiền như đất ở mảnh vườn quê của mình, nhiều khi nghe bác nhắc đến mà mắt rưng rưng như muốn khóc. Bao nhiêu cây trái do công lao bác trồng trọt vẫn cố bám vào đất để tìm đường sống, trong khi ấy, chiến tranh đi đến đâu cũng chỉ để lại sự tàn phá tang thương cho những mầm xanh và con người hiền lương luôn thiết tha với ngọn rau, lá cỏ.

Nguyên Nhung
2007
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Trận Cuối....

Tưởng Năng Tiến
"Từ máy thâu thanh cô nàng hát nhanh, trọn kiếp thương anh lính trẻ xa nhà, tôi là người đi lính miền xa, nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu... nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu..." Sáu Mù hát hai lần trước khi kết thúc bản nhạc và lần nào y cũng nhắm mắt lại thiệt chặt. Bẩy Què khoái chí cười sằng sặc, bỏ đờn xuống, bàn:
-Bản này mày ca tới hơn bản Xuân này con không về, mà đều mày đừng có nhắm mắt lại …
-Sao vậy ?
-Mày đui, mắt toàn tròng trắng không hà, mở ra hay nhắm lại thì cũng "có thấy gì đâu". Làm như vậy làm chi cho nó mất công mà tao ngó sao mắc cười quá hà…
-Ờ...
Sáu Mù ờ rất yếu và mặt thoáng trầm ngâm. Y bị tật nguyền đã mười năm mà vết thương, đôi lúc, tưởng chừng như vẫn chưa kéo da non. Một va chạm nhẹ vẫn có thể gây ra cái cảm giác đau đớn khó chịu. Bảy Què đang cười bỗng khựng. Nhìn mặt bạn nó biết liền là mình vừa giễu dở nên vội vàng biện bạch, khỏa lấp :
-Cũng như tao vậy, mày thấy có khi nào tao ca bản "đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm" mà hồi tụi mình học ở Vương Mộng Hồng đâu. Còn có một giò mà cứ làm bộ ắc ê đếm nhịp "một, hai, ba, bốn; một, hai, ba, bốn" hoài coi nó kỳ thấy mẹ !
- Vậy bữa nào rảnh mày dợt cho tao bài Người Nghệ Sĩ Mù đi. Bản đó tao hát nghe mà không rớt nước mắt tao làm con mày.
-Bản đó mới vô làm sao cà? Bảy Què băn khoăn đưa tay lướt nhanh trên phím đàn mò nốt.
-Tự nhiên tao cũng quên mất tiêu. Tao nhớ là hồi đó mình hay nghe ở cái quán cà phê gì ngoài Ðà Nẵng đó. Lúc mới vô đầu in tuồng có tiếng đờn, rồi tiếng tiền cắc thẩy vô lon nghe keng, keng...
-Thôi tao nhớ rồi... Bản này của Hoàng Thi Thơ, Hùng Cường ca chớ đâu. Rồi Bảy Què lấy giọng vô luôn: "Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca. Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa... "
- Nó đó...
- Mà không được đâu...
- Sao vậy ?
- Hát bản này nghe giống như hai thằng mình đi ăn xin vậy. Tụi mình đâu có đi hát dạo kiếm ăn. Mình có trách nhiệm đàng hoàng mà, đúng không ?
- Ờ .
Lần này Sáu Mù " ờ" mạnh hơn và thốt nhiên nghiêng đầu nở một nụ cười rạng rỡ. Y luôn luôn thấy thích thú, vui vui sướng khi nghe Bảy Què nhắc đến chuyện " trách nhiệm " của hai thằng. Sáu Mù không nói ra được những điều mình biết và mình nghĩ trong lòng rành mạch như Bảy Què nhưng y khoái nghe bạn nhắc đi nhắc lại " nhiệm vụ " và " ý nghiã " này nọ.
Có bữa cao hứng Bảy Què còn nói lung tung về tác dụng của chiến tranh tâm lý, tác dụng của nhạc trong tâm hồn quần chúng... Sáu Mù thiết tha được nghe cũng như Bảy Què khát khao được nói. Cả hai không bỏ lỡ cơ hội nào để bồi đắp niềm tin về cái ý nghiã xa xôi, mơ hồ nhưng cao đẹp cho phần đời thân tàn ma dại còn lại của hai thằng.
Thường ngày hai thằng ngồi bên ngoài chợ trời. Bảy Què bầy đồ nghề trên một cái bàn xếp chỉ lớn bằng bề mặt hai cuốn tập và cái bảng nhỏ cạnh bên: "Vô Mực Ruột Viết Bic và Sửa Hộp Quẹt Zippo Giá Rẻ". Sáu Mù thì không làm được chuyện này. Y vừa ngồi thổi sáo vừa bán sáo. Cái nghề này kiếm ăn không khá. Sáu Mù sống lây lất được là nhờ sự đắp đổi của bạn. Ðiều này vẫn thường làm cho y buồn và mang nhiều mặc cảm. Bảy Què cứ phải an ủi hoài hoài :
-Mày kiếm tiền không nhiều được bằng tao nhưng mày có dịp thổi sáo cả ngày. Cái lợi là mình làm cho những người khách qua đường được nghe tới nghe lui bản "Lòng Mẹ"," Con Thuyền Không Bến"...
-Lợi làm sao ? Bảy Què đã nói cả trăm lần như vậy rồi mà lần nào Sáu Mù cũng ráng hỏi lại.
-... Thì đ.m... người ta nghe mấy bản nhạc đó thấy đã tai hơn là nghe mấy bản nhạc chướng tai của tụi nó. Từ đó người ta nhớ thời cũ và càng chán cái thời chó đẻ này. Làm được như vậy là kể như tụi mình đang chiến đấu rồi. Cái này kêu bằng chiến tranh tâm lý mà Sáu!
Thiệt ra cái kêu bằng "chiến tranh tâm lý" này không phải là ý kiến của Bảy Què. Y chỉ lập lại những điều mà anh Hai hay nói cho tụi nó nghe thôi.
Hai thằng quen anh Hai lâu rồi. Bữa đó, chợ trời bị bố ráp, rượt bắt một trận tơi bời. Bảy Què mất hết đồ nghề, mất luôn cây nạng. Sáu Mù cũng quờ quạng sao đó để mất luôn hết lưng vốn của mình, hai chục cái ống sáo. Sáu Mù cõng bạn chạy mà mệt muốn đứt hơi.
May mắn gặp được anh Hai. Anh bỏ hai thằng lên xe chở tuốt về xóm. Từ đó anh Hai trở thành người anh kết nghĩa và ân nhân của hai thằng. Sáng, anh bốc hai thằng bỏ lên xe chở ra chợ. Chiều, anh cho hai thằng về. Lâu lâu còn có bữa anh "vớt" hai thằng về sớm hơn giờ đã định, đưa ra đường Hàm Nghi uống rum Lebon và nhậu củ kiệu với hột vịt bắc thảo. Anh Hai không bị đui, cũng không bị què. Anh chỉ bị chột mắt thôi.
Anh Hai không bao giờ nói cho Bảy Què và Sáu Mù nghe về dĩ vãng của mình. Thường ảnh hay trầm ngâm và buồn. Lâu lâu anh Hai mới nhỏ giọng, nghiêm trang nói chuyện với hai thằng, với giọng nói rất chân tình và thuyết phục. Từ anh Hai mới có chuyện "chiến tranh tâm lý": "Cuộc chiến của mình vẫn đang âm thầm tiếp diễn trên mọi mặt trận. Hai em phải thấy, tụi nó chiếm được thành mà không chiếm được lòng người thì chưa kể được là thắng; hiện tại tụi nó không những đã làm mất lòng người mà còn mất luôn cả lòng sĩ tốt của nó nữa. Chung cuộc tụi nó sẽ thua.Vấn đề của anh em mình bây giờ là phải chiến đấu, đóng góp toàn lực trong khả năng riêng của từng thằng để rút ngắn con đường đưa đến chiến thắng càng sớm càng tốt..."
Ðã nhất là anh Hai làm cho Sáu Mù và Bảy Què thấy rằng tụi nó không phải là kẻ tàn tật đứng bên lề cuộc đời. Tụi nó vẫn có khả năng, không những chỉ để sinh tồn mà còn để chiến đấu chống lại kẻ thù nữa. Từ đó, mỗi buổi chiều trở về xóm nhỏ thay vì chỉ nằm hát nghêu ngao chơi cho đỡ buồn thì Sáu Mù và Bảy Què dượt nhạc ráo riết. Mỗi tuần hai thằng được bà con vỗ tay tán thưởng, chia xẻ với niềm tin chung mãnh liệt của tất cả mọi người: cuộc chiến vẫn cứ đang tiếp diễn.
Lúc anh Hai tới thì Bảy Què và Sáu Mù đang cãi cọ về bản Sài Gòn Vĩnh Biệt. Sáu Mù thích chơi bản đó nhưng bị Bảy Què cự nự:
-Người ta chán nghe hát tới hát lui "Sài Gòn ơi, anh xin hứa, rằng anh trở về" rồi! Nghe láu cá chết mẹ. Có thấy ai về đâu nào?
- Nhưng mà - Sáu Mù nhỏ nhẹ - bà con vẫn cứ mong chớ đâu có chán. Mình ên mày không thích rồi mày nghĩ ai cũng vậy sao?
Anh Hai can thiệp:
- Thôi trễ rồi nha hai đứa. Thì cứ để cho thằng Sáu nó ca; bản nào bà con vỗ tay nhiều thì hát tiếp không thì tuần sau bỏ.
Bốc hai thằng lên xe, đạp ra khỏi con hẻm rồi anh Hai mới hỏi:
- Chiều nay tụi mày tính "hành quân" ở đâu đây?
- Cho tụi em xuống trạm xe buýt ở góc Trương Công Ðịnh và Nguyễn An Ninh đi.
-Hát ở ngay đó tụi công an nó đá cho dập mật à.
-Ðâu có, tụi em đón xe lên Tân Cảng mà. Thì cũng làm y chang như mấy lần trước vậy. Ði xe đường dài, khúc nào khách không chen chúc quá đông thì mình làm vài bản. Lần quần chiều nay mà tụi em chơi chừng hai chục bài là coi như tạm đủ để trả nợ núi sông rồi.
-Ðược - anh Hai tán thành – "kế hoạch hành quân" vậy là tạm ổn. Nhớ đừng chơi "Giã Từ Vũ Khí" nha, mấy cha. Cái gì mà "trả súng đạn này anh sạch nợ sông núi rồi", nghe rầu quá hà.
Sáu Mù bắt liền:
-... anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, trả lại đây...
- Thôi mà Sáu - Bảy Què dấm dẳn - sao mày toàn thích toàn mấy bản nhạc yếu xìu không vậy ?
Cụt hứng, Sáu Mù tắt đài, chống chế bâng quơ :
-Bị nó làm tao nhớ ông thượng sĩ Tâm, ổng già rồi mà hay ca: "rồi anh sẽ qua thăm nhà em, với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu.." nghe thấy đã.
Tới trạm vừa kịp lúc xe đến. Anh Hai đẩy Bảy Què lên trước rồi dắt Sáu Mù lên sau. Trước khi quay đi anh không quên dặn:
-Chừng bảy giờ tao chờ tụi mày ở đây nha.
Ở ngay trạm chính xe chật ních người. Bảy Què đút gọn cái nạng dưới gầm ghế, ôm sát cây đờn ghi ta để đứng trước ngực, ngồi che một khoảng nhỏ vừa đủ cho Sáu Mù dựa lưng vào thành xe và bó chặt hai đầu gối.
Xe ngừng ở trạm Nguyễn Du rồi Pasteur. Người xuống nhiều hơn người lên. Sàn xe bắt đầu có khoảng trống đủ rộng có thể di chuyển dễ dàng. Bảy Què đẩy bạn lết ra giữa đường đi và bắt đầu dạo đờn nhè nhè làm cho mọi người chú ý.
Theo đúng chương trình hai thằng sẽ mở đầu bằng bản "Trên Ðầu Súng":
"Trên đầu súng quê hương, Tổ quốc đã vươn mình. Trên lưỡi lê căm hờn, hờn căm như triều sóng. Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc đã giục giã khắp chốn rộn ràng. Ôi lửa thiêng dậy bập bùng tay lửa tay vung kiếm. Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn. Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải đổ nát... "
Người nghe không những chỉ chú ý mà còn hơi sửng sốt. Hát dạo trên xe buýt không phải là một hiện tượng xa lạ nhưng nói đến "nộ lệ," "cùm gông"... thì quả thực là những chữ lạ tai và đã tai! Nhắm thấy có bộ được, Bảy Què và Sáu Mù tiếp luôn bản "Cờ Bay":
"Cờ bay, cờ bay oai hùng trên Tổ quốc thân yêu thề chiếm lại nay mai bằng máu. Cờ bay, cờ bay tung trời ta về với quê hương dang ngóng đợi quân ta tiến về... Ðón nhau về anh đưa em về Gio Linh, Cam Lộ, Ðông Hà. Sạch bóng thù, đồng ta xanh với nắng mới, vang câu hát tự do."
Bản nhạc chấm dứt nhưng không ai vỗ tay. Bảy Què ngước nhìn lên và bắt gặp một hai người đang lấy tay chùi nước mắt. Y xúc động đến bối rối và cũng muốn khóc theo luôn. Y vừa đờn, vừa nói thầm với chính mình nhiều lần "nhảy dù cố gắng" để ngăn cho nước mắt khỏi chẩy. Sáu Mù thì chưa cảm nhận được kịp phản ứng của thính giả, vẫn tiếp tục say mê ngồi hát. Chương trình tiếp nối bằng một bản nhạc đơn ca "Trên Bốn Vùng Chiến Thuật:
"Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai. Người yêu tôi mới quen mà thôi.."
Năm hai mươi mốt tuổi, Sáu Mù cũng đi vào quân đội. Tiểu Ðoàn Chín Nhảy Dù. Và người con gái y mới quen mà thôi ở quận Thượng Ðức - cách đây đã mười năm - mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng như một chiếc bóng đậm mầu. Lúc đơn vị đang tiến chiếm đồi 1062 thì Sáu Mù bị thương ở mắt. Y được trực thăng đưa thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Giữa cái lúc nằm đau xót, mê man trên máy bay, Sáu Mù vẫn cứ nhớ và tiếc một điều: y đã không có dịp để nói với người ta một câu từ tạ, dù là "tạ từ trong đêm!".
Mắt Sáu Mù được giải phẫu xong đúng bốn ngày thì Sài Gòn thất thủ. Y bị đẩy ra khỏi bệnh viện để dành chỗ cho phe thương binh thắng trận. Sáu Mù vĩnh viễn "giã từ ánh sáng" kể từ lúc đó. Cũng từ đó, không có thêm một người con gái nào lọt được vào đôi mắt trắng giã của y nữa.
Trong cái bóng đêm dài hết một đời này, thỉnh thoảng, vẫn lóe sáng hình ảnh của hai người đàn bà: người mẹ và người con gái tóc thề mà Sáu Mù chưa kịp hỏi tên ở quận Thường Ðức. Những lúc lần dò, lê la ngoài hè phố hay trên xe buýt như thế này, tự thâm tâm Sáu Mù vẫn vừa mong mỏi, vừa lo sợ một điều: bất ngờ gặp lại được mẹ hay cố nhân.
Khi bản nhạc chấm dứt thì Sáu Mù không còn thể nào ngăn được nước mắt đã lăn nhẹ trên đôi gò má gầy đến xương của y. Nhiều hành khách khác cũng khóc. Không khí trên xe trầm lắng đến nặng nề. Mọi người đều im lặng, thẫn thờ như họ đang bị thôi miên. Tài xế và lơ xe vẫn thi hành phận sự một cách bình thường, như không có chuyện gì quan trọng xẩy ra, dù nét mặt của cả hai bỗng nghiêm và buồn … thấy rõ!
Ðứa bé bán chuối chiên cẫn trọng gói một trái chuối bự nhất, nhẹ nhàng mang đến đạt vào tay Sáu Mù. Cái cảm giác nong nóng ở tay khiến y biết ngay là có một người nào đó đã động lòng và dấm dúi cho mình một phần lương thực. Sáu Mù không cảm thấy bị xúc phạm, y chỉ càng tủi thân thêm. Mãi đến lúc đó nhiều người mới nhìn thật kỹ Sáu Mù và Bảy Què.
Họ chợt nhận ra trước mắt mình là hai người thương binh - dù quân phục đã cũ nát, tả tơi và phù hiệu đơn vị đã bạc màu - chứ không phải là những kẻ ăn xin hát dạo như thường thấy. Sáu Mù đã cảm nhận được hết cái không khí thương yêu chia xẻ quanh mình. Y xúc động đến run người. May mắn là sự mù lòa giúp cho y đỡ bối rối hơn là Bảy Què trong lúc này. Bảy Què phải cúi gầm mặt xuống, tránh những ánh mắt chứa chan thiện cảm của những người xung quanh.
Cảm tình của thính giả làm cho Bảy Què luống cuống. Bần thần một hồi y mới lấy lại được bình tỉnh. Y vội vàng chuyển nhịp, chơi bản "Hội Nghị Diên Hồng":
"Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến? Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển... Toàn dân Tiên Long, sơn hà nguy biến ! Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến?"
- Quyết Chiến!.
Tiếng hô đáp bất ngờ của nhiều người trong xe khiến Bảy Què và Sáu Mù tưởng như có một luồng điện chạy qua người. Không riêng gì hai thằng mà có lẽ là tất cả mọi hành khách đều xúc động mãnh liệt. Sau đó có đến hơn chục người cùng cất cao giọng hát chung với hai thằng. Xe ngừng lai ở một vài trạm kế tiếp, không ai xuống ! Lác đác chỉ có người lên.
Mặc kệ cho những người mới bước lên xe ngơ ngác, Bảy Què, Sáu Mù và nhiều hành khách trên xe cứ hát. Sau khi "chiều" theo mọi người hát đi hát lại bản "Hội Nghị Diên Hồng" đến lần thứ ba, Bảy Què mới chuyển nhịp qua được bản "Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Ðây":
"Nhưng mẹ ơi, giờ đây sao mẹ khóc ? Hai vai gầy run rẩy nát tâm can. Lệ hồng pha Bến Hải nước tràn dâng. Áo nâu nghèo mẹ khóc để phơi thân. Một đàn con giờ quên ơn nuôi dưỡng. Súng đạn cầy tan nát luống quê hương... Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than, xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam. Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng than khóc nữa. Vì chúng con của mẹ vẫn còn đây..."
Xe đến Tân Cảng, trạm cuối.
Bản nhạc cuối cùng cũng vừa vặn chấm dứt ở đó. Mọi người lục tục xuống xe. Họ đi qua chỗ hai thằng, không quên nhét vội vào túi tụi nó những đồng tiền lẻ. Có người lục tìm mãi túi mình rồi bối rối nhét đại vào áo Sáu Mù một ít... thuốc rê! Hai thằng ngồi sượng sùng đón nhận những câu nói "cảm ơn" nho nhỏ và những đồng tiền, những món quà rơi như mưa vào người mình. Riêng Bảy Què thì không dưng mà chợt nhớ đến cái lúc mà y ngượng ngập, cúi đầu nhận vòng hoa chiến thắng, từ tay của em nữ sinh Trưng Vương, vào một buổi sáng (nào đó) đã xa lắc, xa lơ... .
Trong đám hành khách, có hai người không móc tiền mà cũng không móc thuốc. Họ rút từ trong người ra khẩu K.54 dí vào ót của hai thằng. Cái cảm giác thép lạnh làm Sáu Mù điếng người. Hắn ú ớ lên tiếng hỏi :
-Làm cái gì vậy ?
-Về đồn rồi biết...
Bảy Què hốt hoảng :
-Tụi tui làm gì mà bắt chớ ?
-Làm việc cho CIA chống phá cách mạng chứ còn làm gì nữa.
Ðám đông hiếu kỳ còn đang kinh ngạc, tần ngần, nghe đến mấy chữ "CIA" liền bước nhanh xuống xe, vội vàng tản mát ra xa. Tay phải cầm súng, tay trái nắm cổ áo của Sáu Mù và Bảy Què, hai người đàn ông lực lưỡng lôi hai thằng xuống xe như lôi hai con chó!
Chuyến xe buýt cuối cùng Tân Cảng - Sài Gòn đã đỗ trạm từ hồi xẩm tối nhưng anh Hai vẫn neo xe chờ Sáu Mù và Bảy Què cho đến tận khuya. Anh biết chắc hai thằng em mình "thua" rồi nhưng vẫn cứ chờ. Làm sao mà bỏ đi liền cho đặng ?
Ngày xưa khi còn là một hoa tiêu trực thăng anh Hai cũng đã đi đón hụt nhiều chuyến như vậy rồi. Cái cảm giác mất mát lúc mang máy bay về không giữa đêm trường bao la sau khi đón hụt những toán biệt cách không làm cho anh thấy khổ sở và bứt rứt khủng khiếp như bây giờ.
Hút đến điếu thuốc cuối cùng rồi anh Hai leo lên xe lầm lũi đạp ra hướng sông, sông Sài Gòn. Bờ sông vắng , nước đen, gió lạnh. "Sông đưa người rồi cũng mỏi mòn trông!" Anh Hai lẩm nhẩm một câu thơ chợt len vào trí nhớ, và chưa bao giờ thấy mình cô đơn như vậy.
Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm :"Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã mười năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt đâu mà …"•

Tưởng Năng Tiến (1984)
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Chuyện Người Tù Chết Chiều 30 Tết

Một bí ẩn của tâm linh
Hình như suốt đêm qua tôi không ngủ, lại lơ mơ nhớ đến một lời hưá với con cuả người tù đã chết chiều 30 Tết năm 1977 tại vùng Sơn La Việt Bắc thâm u những mồ hoang mả lạc. Chuyện thật 100%, không hư cấu, cũng không phải chuyện ma, nhưng cứ như một cơ duyên bí ẩn của tâm linh, tình cờ mà đến, phải chăng vẫn có một thế giới vô hình không hiểu được.

Khoảng đầu năm nay, tôi đang lơ mơ ngồi đọc email cuả mấy người bạn, thì một lá thư cuả người bạn thân từ bên Úc gửi qua, bạn nhờ có quen ai ở Trà Vinh thì tìm giùm thân nhân cuả anh Chung Hữu Hạnh, một giáo sư biệt phái bị đi cải tạo và đẩy ra miền Bắc, anh đã chết trong một xó xỉnh nào đó cuả miền Việt Bắc, may là còn lại tấm bia mộ.

Anh gốc người Trà Vinh, vợ con sau khi mất tin chồng đã tìm đường vượt biển, chẳng biết bây giờ ở đâu. Tôi nhanh nhẩu ngồi liền vào máy viết thư cho nhà thơ Huỳnh tâm Hoài, một nhà thơ gốc Trà Vinh có những bài thơ được phổ nhạc rất hay là Lời Ru Sóng Vỗ, do nhạc sĩ Nguyễn hữu Tân phổ nhạc.

Như một bí ẩn của tâm linh, anh Huỳnh tâm Hoài vưà là bạn tù, vừa là bạn học cùng thời với anh Chung hữu Hạnh. Đọc tin anh buồn vui lẫn lộn, buồn vì nhớ bạn mình đã chết đơn độc vùi thân nơi rừng sâu núi thẳm, vui vì đã tìm được mộ thì hy vọng sẽ có ngày bạn mình được về hưởng hương khói gia đình.

Chỉ trong 5 ngày tin phóng đi, một người đã tìm ra thân nhân cuả anh Chung Hữu Hạnh, và tháng 6 năm nay chị Hạnh cùng các con đã tìm ra miền Bắc bốc mộ chồng đem về an táng tại Trà Vinh. Anh Chung hữu Hạnh là thầy cuả vợ bạn tôi, chắc thầy sống khôn thác thiêng nên tìm tới cô học trò để rồi cái đường dây loanh quanh trong cõi vô hình, cuối cùng thầy cũng tìm được về quê nhà, được sự chăm sóc khói hương cuả vợ hiền và các con.

Bạn tôi gửi cho tôi xem những tấm hình cảnh bốc mộ cuả anh Hạnh, nhìn nắm xương phù du còn lại được bươi lên từ đất cát khô cằn của miền Bắc, tôi cảm thấy ngậm ngùi, tất cả đều là vô thường, một ngày nào đó ai cũng phải tan thành tro bụi. Sẵn trớn tôi viết thư kể cho bạn tôi nghe về người tù chết chiều 30 tết, tôi cũng chả biết anh ta là ai, chỉ nghe chồng tôi kể lại ngay cái tên cũng không nhớ. Câu chuyện từ mùa đông năm 1977 tại trại tù vùng Sơn La, nằm trên con đường đến Nghĩa Lộ.

Chiều cuối năm rét mướt, trong cảnh u ám thê lương cuả trại tù miền Bắc, cùng nỗi đói khát cuả những người tù gầy guộc và bịnh tật. Cả lán đang xôn xao ngoài sân chờ được phân phát thức ăn cuả ngày tết, quanh năm đói khát vất vả vẫn hy vọng có chút thức ăn ngon, khẩu phần là hai cái bánh chưng to hơn bàn tay, và mấy miếng thịt bé bằng ngón tay cái. Trong lán giữa nhà là đống củi lửa cháy bập bùng, sưởi chút ấm áp cho người tù vì trời vô cùng giá rét mà chăn chiếu lại thiếu. Mọi người ai cũng buồn vì nhớ gia đình, cám cảnh “gặm một mối hờn căm trong cũi sắt”. Ở cuối phòng có một chỗ nằm đã giăng mùng xùm xụp, một người bạn không thấy anh bạn tù ra lãnh món bánh chưng mà mấy ngày hôm trước anh ta thường than thở rằng chỉ thèm một miếng bánh chưng, nên đã tốc mùng xem thì thấy anh bạn tù nằm chết tự bao giờ.

Cả lán lại chìm trong nỗi buồn, giữa đêm tận cùng cuả năm mà hình ảnh người bạn tù chung nằm chết trong lán, như một ám ảnh khiến ai cũng nghĩ đến phận mình, một ngày nào sẽ bỏ xác nơi đây, gia đình thân nhân không ai hay biết. Báo cho quản giáo xong, họ xem xét thấy anh đã ngưng thở, nhưng vẫn hỏi ai có thể làm hô hấp nhân tạo cho anh ấy được không?

Mọi người lặng im, lúc ấy không hiểu sao thì chồng tôi lại xung phong làm việc ấy đối với một xác chết, nuôi một chút hy vọng nếu anh ấy thở lại được thì sao? Nhưng hoàn toàn vô vọng, bốn người tương đối trẻ và khoẻ được chọn để khiêng xác anh bỏ ra cái lò rèn, nằm đó chờ đến ngày mùng hai mới đem chôn, vì kiêng ngày mùng một tết(síc). Một vị thượng toạ thấy vậy đã lẻn đam phần ăn ngày tết cuả anh ra nơi quàn xác để âm thầm gọi là tiễn đưa linh hồn người bạn tù được “no nê” ở thế giới bên kia. Thảm thật!

Ngày liệm xác anh vào cái hòm gỗ thô sơ, xác anh được cuốn vào một cái bao cát, thay cho anh một bộ đồ tù mới, chồng tôi thấy tội nghiệp đã lấy chiếc áo thung xanh cuả người chết để anh gối đầu lên cho đỡ thảm, người ta còn cố tuột cho được cái nhẫn cưới trong bàn tay gầy guộc cuả người tù ốm đói. Sau này nghe con anh kể, chiếc nhẫn ấy đã được gửi về trả lại cho gia đình, nhưng mộ phần thì không biết thất lạc nơi đâu vì trại tù đã bị dời đi, trả lại cái nền hoang cho dân chúng địa phương canh tác ruộng bắp. Anh là người tù đầu tiên chết ở miền Bắc muà xuân năm 1977.

Ngày mùng hai, lại bốn người tù được chọn lầm lũi đẩy chiếc xe “ cải tiến” có quan tài cuả người tử sĩ đem đi chôn. Không có một nghĩa địa nên buộc lòng phải vùi anh một nơi nào đó dọc theo sườn núi. Tất cả suy nghĩ rồi quyết định chôn anh trong một lòng huyệt nông vì đá tai mèo cứng quá không đào nổi, bên một dòng suối, thoai thoải là sườn núi chênh vênh với cây rừng, anh nằm đó để linh hồn được thanh thản nghe tiếng suối reo, nghe cây rừng than van với bốn bề hiu quạnh. Trước khi về, họ còn ráng khiêng những tảng đá lớn chất lên mộ để đánh dấu, hy vọng một ngày nào đó thân nhân sẽ tìm được mộ của người thân ….

Đường Tìm Về Với Thân Nhân:

Tôi gõ “meo” kể câu chuyện này cho bạn tôi nghe, rồi đi ngủ, lòng không mảy may vướng bận. Sáng hôm sau, khi xong việc nhà tôi vừa mở email thì đã thấy thư cuả bạn, với chữ Khẩn trong Subject. Tôi đọc thư, vắn tắt bạn viết:

“Đây là chuyện thật, không phải hư cấu để nhà văn viết truyện. Làm ơn hỏi ông xã giùm hồi xưa anh bạn tù chết chiều 30 tên gì, vì con anh đi tìm mộ cha ba năm rồi mà không ai biết, chỉ mơ hồ nên không biết chính xác mộ nằm ở đâu.
Please! Hồi âm cho biết vì rất mong, con anh sắp trở về VN tìm lần nữa vào tháng 7 này.”

Tôi giật mình, lại một chuyện lạ, chẳng lẽ hồn anh Chung hữu Hạnh lại dẫn bạn tù về tìm đúng người để về với gia đình sao? Ớn lạnh, tôi là tác gỉa cuả một loạt truyện Cõi Mù Sương viết về thế giới bên kia, nhưng thật ra tôi toàn mượn chuyện người sống để nói về người chết, hư cấu 100%. Chờ chồng tôi đi làm về, tôi kể chuyện, sau đó liên lạc với con anh người tử sĩ, anh tên là trung úy Huỳnh tự Trọng, sinh quán ở Đà Nẵng hay Quảng Nam gì đó.

Người con cuả anh liền xin số phone để liên lạc, cháu yêu cầu chồng tôi cố nhớ lại vị trí cuả trại tù ngày xưa, và nhất là vị trí cuả nơi chôn cất anh Huỳnh tự Trọng. Hơn 30 năm vật đổi sao dời, dâu hoá biển, biển hoá dâu là chuyện thường, bây giờ chẳng biết cảnh cũ thay đổi ra sao, nhưng may ra còn dãy núi, còn con suối làm chứng cho cái trại tù heo hút ngày xưa. Đấu óc một người đã từng sống trong cảnh tù đầy thiếu ăn thiếu mặc, thêm nhiều năm vất vả với cuộc đời để tìm nguồn sống cho cả gia đình, chắc chắn là không nhớ hết được, thế nhưng như một sức mạnh thiêng liêng, từ linh hồn người tử sĩ, chồng tôi đã vẽ được sơ đồ cho con anh bạn tù bạc mệnh đi tìm lại mộ cha.

So sánh với sơ đồ anh vẽ, và những hình ảnh các cháu đã chụp lại trong chuyến đi kỳ trước, khó mà tìm ra mộ vì tất cả chỉ còn một màu xanh của ruộng bắp, không thấy suối, hòn đá cao chắn ngang lối mòn năm xưa cũng không còn, lấy gì để xác định được ngôi mộ nằm ở chỗ nào.

Hành Trình Đi Tìm Mộ Cha:

Thư qua tin lại với con cuả tử sĩ Huỳnh tự Trọng, nhiều câu hỏi được đặt ra qua những thông tin của cháu, sự tha thiết tìm lại ngôi mộ của người cha bất hạnh vẫn nung nấu trong lòng những đưá con. Có lúc cả hai bên tưởng như tuyệt vọng, dù cháu cố nài nỉ “Chú ơi! Làm ơn nhớ giùm con, lúc ấy chú đi từ trại ra nơi chôn ba cháu ra sao? Chú chấm thử một địa điểm lần chót nữa đi, cháu hy vọng ba cháu sẽ chỉ cho chú…”Cảm động đến rơi nước mắt, chỉ còn hai hôm thôi hai đưá con anh lại lên đường đi tìm mộ cha, lần này nếu không được là thôi, hết hy vọng.

Tối hôm đó ngồi thần thừ trước tấm sơ đồ trại tù miền núi năm xưa, chồng tôi thầm cầu nguyện rồi khoanh tròn màu đỏ lên tấm ảnh mà cháu gửi qua. Anh nghĩ nó nằm ở chỗ này, làm một phép tính nhỏ( anh học ban B, vốn giỏi toán từ hồi đi học), lấy khoảng đứng từ ngoài đường vào trại tù cũ, gần một ngã ba cuả con đường tẽ vào Nghĩa Lộ, rặng núi đánh dấu cho địa điểm chính xác, ngôi mộ sẽ nằm ở khoảng này, khoanh một vòng tròn màu đỏ, anh đi ngủ để mai đi làm mà lòng nặng trĩu…

Theo chuyện kể cuả các cháu, chuyện người tử sĩ Huỳnh tự Trọng ly kỳ như một cuộn phim tâm linh khó giải thích, dọc đường đi anh đã phù hộ cho con anh ra sao, và khi đến nơi, lần trước các cháu đã biết có một ngôi miếu do một người bộ đội đã phục viên kể lại. Chính anh ta vì được một linh hồn khuất bóng lảng vảng nơi này cứu giúp trong cơn hoạn nạn, nên đã tự lập một ngôi miếu để thờ, mà chẳng biết là ai. Anh ta về quê làm rẫy, thường hay thấy một bóng người đi ra đi vào ruộng bắp, nhưng chỗ ấy không có nhà cửa thì lấy làm lạ, có khi cái bóng ấy còn đi vào nhà anh, nên anh tin là có một điều gì lạ lùng trong thế giới vô hình mà không diễn tả được. Trước khi đến đây làm nhà, anh ta nghe dân địa phương nói chỗ sườn núi này có một ngôi mộ nhưng bây giờ không biết nằm đâu rồi. Khi gia đình gặp chuyện không may, anh van vái người khuất mày khuất mặt phù hộ gia đình anh thoát nạn, anh sẽ cất miếu thờ, chính vì vậy mà có miếu thờ tử sĩ Huỳnh Tự Trọng( nhưng vẫn không có tên).

Trước khi các cháu lên đường tìm mộ cha, chồng tôi chỉ bảo một lần chót: “Chú không tin lắm ở trí nhớ cuả mình, nhưng khuyên cháu là khi về nên đến cái miếu thờ ấy van vái ba cháu cho tìm được mộ. Nếu linh hồn ông thiêng thật, nhất định các cháu sẽ tìm ra mộ cha.”

Một tin tưởng để vớt vát niềm hy vọng cho con cuả người bạn tù năm xưa, chúng tôi không tin rằng các cháu có thể tìm được mộ cha dưới gần 3 thước đất, vì sau khi gặp được người địa phương nổ mìn phá núi để lấy đá, ông ta nói ngày xưa nơi đây có cái suối nước nhưng bị lấp mất rồi, còn hòn đá to chặn ngang đường đi đã bị phá huỷ để lấy đá làm đường thì có lẽ trong lúc ấy, đã đẩy ngôi mộ sâu xuống đất nên không còn dấu vết.

Nghe xong những chi tiết này, con anh Huỳnh tự Trọng liền suy nghĩ và tính toán xem mộ cha sẽ nằm ở khoảng nào, đúng với cái vòng tròn màu đỏ và quyết định không bỏ cuộc. Cộng thêm giấc mơ anh Huỳnh tự Trọng báo mộng, xác anh nằm gần một mô đất cao, cháu nhìn thì thấy có một mô đất cao hơn đường đi nên nhất định đào sâu thêm nữa theo hình tam giác cuả sợi dây giăng làm chuẩn. Mấy người đào mộ thấy đào sâu quá bèn hỏi bộ định đào ao nuôi cá sao?

Vậy mà khi nhát xẻng chạm vào một khoảnh đất cứng hơn, mọi người mới bàng hoàng nhận ra những mảnh gỗ mục và hiện ra hình dạng một bộ xương người nằm trong cái bao cát tẩm liệm 33 năm dài trong lòng đất, loại bao này bằng ni lông cuả quân đội VNCH, được cắt ra chia cho tù dài khoảng 2 mét để làm tấm trải ngủ. Khi mở ra, cái đầu lâu khô cuả tử sĩ Huỳnh Tự Trọng còn gối lên chiếc áo thung xanh năm xưa, chỉ bị huỷ hoại khoảng 20%...
Một buổi chiều tháng bảy ở quê người, trong khi tôi đang nói chuyện qua phone với Đỗ Dung, cô bạn văn có ngòi bút trung thực và tính tình điềm đạm nhất cuả tôi thì chồng tôi báo tin, các con anh Trọng đã tìm được xác cha. Tôi cảm thấy lạnh cả sống lưng, và kể chuyện cho bạn tôi nghe. Chao ơi! người chết tìm về, tin hương linh người tử sĩ không quen tìm về với gia đình anh đã làm tôi xúc động, tôi cũng cảm được sự xúc động cuả bạn tôi qua giọng nói từ xa vọng tới…

Đây là câu chuyện về người tù chết chiều 30 tết trong một ngày cuối đông rét mướt đã 33 năm về trước, anh đã tìm về được với gia đình, trở về với mảnh đất quê nhà và hưởng hương khói gia đình. Hôm nay còn lại một vài ngày nữa để bước sang một năm mới, tôi nhớ đến lời hưá với con cuả người tử sĩ, nên viết một mạch cho tâm hồn thanh thản.

Xin mời những nhà thơ nhà văn có tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động như cung đàn muôn điệu cùng với gió với mây, hãy cảm tác mấy vần thơ cho ấm lòng người tử sĩ nha.
Phần tôi, quá mệt cho một đêm không ngủ để nhớ lại từng chi tiết vì câu chuyện không thể nào hư cấu được.

Viết xong buổi sáng cuối năm 2010.
Nguyên Nhung
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Dòng Nhạc đa diện của nhạc sĩ Anh Bằng

Lê Ngọc Châu
(Munich, Đức Quốc)
Thành thật mà nói, tôi ít nghe đến tên tuổi của các nhạc sĩ nổi danh của miền Nam Việt Nam (NVN) nếu ngược dòng thời gian, ôn lại quá khứ.
Vào thập niên 60 tôi mới chỉ là một cậu học trò trung học, lại sinh sống tại một tỉnh lỵ của miền Trung khô cằn sỏi đá nên thiếu cái may mắn của
người Sài Thành để nghe biết nhiều đến các ca nhạc sĩ thời bấy giờ, có chăng chỉ thỉnh thoảng xem thấy trên Ti-Vi hay nghe qua Radio thì được
nghe giới thiệu đến tên tuổi của ca nhạc sĩ. Mãi đến gần cuối thập niên 60 cá nhân tôi mới nghe nói về ca nhạc sĩ nhiều hơn, trong đó phải kể đến
những nhạc sĩ tâm lý chiến của NVN qua những bài hát động viên tinh thần yêu nước, vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) như quý
nhạc sĩ Anh Bằng, Lam Phương, Trúc Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh, Trầm Tử Thiêng, Nguyễn văn Đông, Lê Dinh, Minh Kỳ, Hoài
Linh ..v..v….Hầu hết những nhạc sĩ kê trên lần lượt cho ra đời những sáng tác chống lại các bản nhạc mang tính chất ru ngủ, đánh phá chế độ
VNCH do các tên văn công, văn nô nằm vùng ấn hành mà sau 30-04-1975, khi căn nhà NVN “bị cháy, bị nhuộm đỏ” thì chúng mới bị lòi mặt
chuột ra, những kẻ mà theo tôi nếu chúng ta là người Việt tị nạn chân chính không buồn nhắc đến chứ đừng nói chi chuyện bày đặt tổ chức kỷ
niệm đám “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” này, đó là chưa nói đến chuyện vc và tay sai nhớ ơn chúng (một thành phần tuy sống ở miền Nam
VN nhưng chỉ tìm cách phá nát ngôi nhà chúng núp bóng, đâu đóng góp gì cho chế độ VNCH!) cũng đã đủ rồi thì đâu cần ai khác ở hải ngoại nói
riêng làm thêm chi cho mệt nếu thật sự có tinh thần quốc gia!
Tết Mậu Thân 1968, cách đây đúng 40 năm khi còn ở Việt Nam, tôi tình cờ nghe được qua đài phát thanh, truyền hình một bài hát mà thời đó
được rất nhiều khán thính giả ưa thích, đó là bài “Đêm Nguyện Cầu”, với những lời lẽ phản ảnh thảm cảnh đau thương trên quê hương VN, hay
đúng hơn tại xứ thần kinh Huế:

Thượng Đế hỡi có thấu cho Việt Nam này
Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài.
Từng chiến đấu tiêu diệt quân thù bạo tàn.
Thượng Đế hỡi hãy lắng nghe người dân hiền.
Vì đất nước đang còn ưu phiền.
Còn itếng khóc đi vào đêm trường triền miên …


để rồi khẩn thiết cầu xin đấng tối cao hãy thương xót
quê hương VN:

Có những lúc itếng chuông đêm đêm vọng về rừng sâu
Rưng rưng tôi chấp tay nghe hồn khóc đến rướm máu
Quê hương non nước tôi ai gây hận thù tội tình
Nhà Việt Nam yêu dấu ơi bao giờ thanh bình?


Tác giả bài “Đêm Nguyện Cầu” là Lê Minh Bằng, một
cái tên xa lạ lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường âm
nhạc ở miền Nam Việt Nam . Về sau, khi vào Sài Gòn
ghé nhà sách Khai Trí tìm mua bản nhạc này trước
khi đi xa tôi mới khám phá thêm lời giới thiệu sau đề tựa:
“Kính dâng tổ quốc mến yêu.
Chân thành ghi ơn những người đã và đang chiến đấu cho hòa bình Việt Nam .
Lê Minh Bằng, Quốc khánh 1966”

Tôi đã ghi nhận tên Lê Minh Bằng (LMB) trong trí óc mình và chẳng biết LMB là ai. Sau này mới hiểu LMB là tên của ba nhạc is thành danh ghép
lại, Lê từ Lê Dinh, chữ lót Minh từ Minh Kỳ và Bằng từ tên của nhạc is Anh Bằng.
May mắn được chính phủ VNCH cho xuất dương du học nên từ phương trời xa tôi không còn dịp nghe hay xem truyền hình để biết thêm về giới
ca nhạc is NVN. Tuy nhiên bắt đầu từ vài năm nay, tình cờ vướng vào “nghiệp văn nghệ văn gừng nhưng rất tài tử” nên tôi tìm hiểu, mới khám
phá được thêm cái hay, sự thâm thúy của thơ nhạc nói riêng, nhất là kể từ khi “tự học mò làm Slide Show”, được nhạc is Phạm anh Dũng dịch ra
và đặt tên là “Linh Ảnh Nhạc”.
Dần dà tôi biết về nhạc is Anh Bằng (ns AB) nhiều hơn nữa sau khi hai người bạn thân khác phái của tôi vốn có nghệ is tính đầy mình, một đàn em
ở Mỹ và một ở Bắc Âu viết điện thư đùa là chắc tôi “mắc nợ” từ kiếp trước nên mới thực hiện Slide Show (pps) và còn nghịch nói “anh sẽ còn nợ
dài dài …. chưa hết đâu”. Có lần người bạn ở Bắc Âu hỏi có biết bài “Anh Còn Nợ Em” không, của nhạc is Anh Bằng đó. Tôi đã nghe bài này
trong vài sinh hoạt cộng đồng tại địa phương, nhận thấy hay nhưng nào có biết là của ns AB. Thế rồi tôi lên In-tờ-Nét tìm “Anh Còn Nợ Em” và
làm cho người bạn nữ này một pps (Power Point with Sound), đặc biệt với bản nhạc này và cô at rất thích. Mà không thích sao được khi người
phụ nữ nghe những lời thơ rất trữ tình của thi is Phan Thành Tài, được ns Anh Bằng phổ nhạc thật nhẹ nhàng, lôi cuốn sau đây:

Anh còn nợ em, dòng xưa bến cũ
Dòng xưa bến cũ, con sông êm đềm
Anh còn nợ em, chim về núi nhạn
Trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm
Anh còn nợ em, nụ hôn vội vàng
nụ hôn vội vàng, nắng chói qua song
Anh còn nợ em, con tim bối rối
Con tim bối rối, Anh còn nợ em …


Chắc chắn nhiều cặp tình nhân thích bài hát này! Chàng trai nào lại khờ dại đến độ từ chối nếu mà người yêu thầm thì bên tai: Anh còn nợ em, nụ
hôn vội vàng, nụ hôn vội vàng, nắng chói qua song, Anh còn nợ em, con tim bối rối, Con tim bối rối, Anh còn nợ em”. Nợ kiểu này được lồng
vào với âm điệu yêu thương qua dòng nhạc của Anh Bằng, nhất là khi một mình ngồi nghe nữ danh ca Thiên Kim hát để rồi tưởng tượng ….này kia
thì quá tuyệt!
Gần đây, cũng người bạn ở Bắc Âu, thường thích nghe nhạc hỏi tôi có biết, đã nghe sáng tác mới của Anh Bằng chưa, hình như bản nhạc mang tên
“Anh Còn Yêu Em” khi Anh Bằng đã ngoài 80, hay và tình lắm. Tôi trả lời chưa, rồi đi dạo trên In-tờ-Nét nhưng không tìm ra. Bây giờ mới biết và
phải khâm phục ns Anh Bằng sao mà chứa đựng “tình yêu” trong người nhiều thế:

Anh còn yêu em, Nụ hôn sim tím, áo nhàu qua đêm,
Anh còn yêu em, như rừng lửa cháy,
anh còn yêu em, như ngày xưa ấy,
Anh còn yêu em, Lồng tim rạn vỡ,
anh còn yêu em, bờ vai mười sáu…


Trời ơi, có tuổi mà tình yêu còn mãnh liệt như vị thành niên thì làm sao giới thanh niên thiếu nữ hay nói chung mọi giới tuổi không thích sao được.
Qua lời nhạc, tôi thầm nghĩ chẳng biết mình có được như vậy khi về già?.
Còn nhiều bản nhạc tình khác nhưng xin tạm gác lại, giờ cho tôi đề cập đến “quê hương”.

Tuy tôi chỉ trải qua thời trung học ở Việt Nam nhưng vốn là dân miền Trung, được sinh ra và lớn lên trong thời chiến nên ít nhiều cũng đã chính
mắt nhìn thấy hoàn cảnh của những người lính VNCH thời đó, điển hình qua anh em bà con tôi nên rất có cảm tình với những ca nhạc is sáng tác
hay chuyển đạt những lời hát, dòng nhạc viết tặng, nghĩ đến những chiến is đang ngày đêm nơi ven rừng góc biển lo gìn giữ an ninh cho hậu
phương chúng at được có những ngày sống tương đối thanh bình dù việt cộng và tay sai nằm vùng lúc đó luôn tìm cách gây khủng bố. Vì thế tôi
cũng đã biết đến “Anh Itền Tuyến, Em Hậu Phương hay “Anh Về Thủ Đô, Tôi Nhớ Tên Anh “ …., nói lên những chuyện tình, tinh thần biết ơn
giữa anh em quân nhân đang dầm mưa dãi nắng ở itền tuyến và những người tình, người thân của lính tại hậu phương ...

Và vào lúc cuộc chiến đang lên cao, nhạc is Anh Bằng cũng đã cho ra đời nhiều ca khúc viết về lính nên ns Anh Bằng đã được thính giả NVN thời
đó yêu mến, đón nhận như: ”Nửa Đêm Biên Giới” với thể điệu Bolero:

Mẹ ơi . . . quê hương lầm than
Làm trai . . . hai vai nợ mang
Ngồi đây trong sương khuya trắng trên đầu non
Con . . . biết quê xa mẹ mong chờ
Tin chiến không còn
Thời gian . . . không phai lòng son
Trường Sơn . . . không ngăn tình con
Ngày nao con ra đi nhớ câu mẹ khuyên
Yêu . . . nước như yêu mẹ hãy còn
Giữ trong linh hồn


hoặc “ Căn Nhà Ngoại Ô” rất thơ mộng, đã đưa nữ ca is Kim Loan lên đài danh vọng:

Tôi ở ngoại ô, một căn nhà tranh có hoa thơm trái hiền
Cận kề lối xóm, có cô bạn thân sớm hôm lo sách đèn
Hai đứa chưa ước hẹn lấy một câu, chưa nghĩ đến mai sau
Nhưng đêm thức giấc ngỡ ngàng


Nghe lòng thương nhớ biết rằng mình yêu …
và để rồi, khi biết mình trót lỡ yêu thầm nhớ trộm thì lại phải chia tay nhau vì hoàn cảnh. Bối cảnh này được phác hoạ tuy đơn sơ nhưng rất khéo
léo, sâu sắc, hàm chứa nồng nàn tình yêu cũng như lồng vào bài hát tinh thần yêu nước của người trai thời chiến nên chiếm được sự ái mộ của
thính giả:
Khi hiểu được nhau, thời gian gần gũi đã trôi qua mất rồi
Nào còn những lúc, hái hoa vườn trăng suốt đêm vang itếng cười
Tôi bước theo itếng gọi của người trai, tha thiết với tương lai
Tôi xa anh sáng phố phường, xa người em nhỏ lên đường tòng chinh

DK:
Là chinh nhân tôi bạn với sông hồ
Tình yêu em tôi nguyện mãi tôn thờ
Và yêu không bến bờ …


Sau đó, tôi cũng đã được nghe bản nhạc khác mang tên “Nếu vắng Anh” do ns Anh Bằng sáng tác, phổ nhạc bài thơ “Cần Thiết” của thi is Nguyên
As. Bài hát này được giới trẻ rất yêu thích vì nội dung có những câu thơ rất lãng mạn, phản ảnh rõ nét tuổi mơ mộng thời còn cấp sách đến trường,
đại học hay cảnh đưa người yêu đi dạo như:

Nếu vắng anh ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió,
Nếu vắng anh ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố,
Nếu vắng anh ai đón em khi tan trường về,
kề bóng em ven sông chiều chiều, gọi tên người yêu …


Cũng Tết Mậu Thân 1968, dù lúc bấy giờ tôi đang theo học lớp cuối cùng bậc trung học, dù chưa trưởng thành nhưng đã nhìn thấy thảm cảnh do
Việt cộng gây ra tại tỉnh lỵ tôi ở và kinh hoàng hơn khi biết được những hình ảnh dã man do vc và tay sai tạo ra trong ngày Tết Mậu Thân và sau
đó tại nhiều nơi của miền NVN và nhất là tại cố đô Huế mà trong số nạn nhân có thân nhân tôi. Tôi kinh hoàng để rồi dễ thông cảm hơn qua
“Chuyện Một Đêm” của ns Anh Bằng, do một nhân chứng sống sáng tác trong dịp Tết Mậu Thân:


Chuyện một đêm khuya nghe itếng nổ nổ vang trời
Chuyện một đêm khuya ôi máu đổ đổ lệ rơi
Chuyện một đêm khuya nghe itếng than trong xóm nghèo
Mái tranh lửa cháy bốc lên ngun ngút trời cao
Bà mẹ đau thương như muối đổ đổ trong lòng
Chạy giặc ôm con qua những cảnh cảnh lầm than
Và người con yêu đã chết trên tay lúc nào
Xót xa vạt áo trắng hôm nay hoen máu đào …


Tôi không hiểu những kẻ một thời thiên tả, làm tay sai cho vc và những kẻ bây giờ vẫn mù quáng chạy theo csBV có còn chút tình cảm để xót xa
khi nghe, đọc qua những dòng nhạc sau đây:


Ai, ai giết con tôi?
Ai cướp con tôi giữa cơn mộng đêm thái bình?
Ôi thương lời nói tội tình, hàm bao đớn đau
Giờ mẹ con đành cách nhau …

(Chuyện Một Đêm của ns Anh Bằng)
Nhạc is Anh Bằng, người lính tâm lý chiến VNCH đã sáng tác nhiều bản nhạc diễn tả tâm trạng của những ai từng phục vụ quê hương, đất nước
trong thời chiến chinh như: Gót Chinh Nhân, Nỗi Lòng Người Đi, Lạy Mẹ Con Đi, Nửa Đêm Biên Giới, Sài Gòn Thứ Bảy …
Chưa hết, vì yêu quê hương nên sau khi sang định cư tại Mỹ và có lẽ không cầm lòng được khi nhìn thấy những thảm trạng xảy ra tại quê nhà sau
30-04-1975 nên ns Anh Bằng đã đóng góp với phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ với bản nhạc “Nổi Lửa Đấu Tranh”, rất hùng:

Đốt đuốc lên ! At đốt đuốc lên !
Cho tình anh em Việt Nam đoàn kết
Thắp nến lên ! At thắp nến lên !
Xua ngàn tối tăm ra ngoài trái tim cùng một lời nguyền

Đốt đuốc lên ! At đốt đuốc lên !
Cho cờ vàng lên rực cao Tổ quốc
Thắp nến lên ! At thắp nến lên
Cho màu sáng thơm da vàng Việt Nam


Bàn tay anh, bàn tay em, bàn tay treo nắng trên đường phố
Bàn chân anh, bàn chân em, bàn chân ngăn bão táp phong ba
Cờ trong tay, đèn trong tay, lòng hăng say itến lên ngày mới
Nối dây ân tình, nối lửa đấu tranh, nối lửa đấu tranh...


Như tôi đã đề cập ở trên, có thể nói nhạc is Anh Bằng là một nhạc is tiên phong trên lãnh vực phổ thơ thành nhạc. Sau này ở hải ngoại cũng có
nhiều người đi theo chiều hướng này như nhạc is Phạm Anh Dũng, nữ thi is kiêm nhạc is Miên Du Đà Lạt, Hà Lan Phương … Nhạc is Anh Bằng
đã phổ nhạc rất nhiều bài thơ mà kể từ khi học, biết làm pps và phải vào In-tờ-Nét tìm nhạc tôi mới khám phá ra như: Ai Bảo Em Là Giai Nhân (thơ
Lưu Trọng Lư), Chuyện Giàn Thiên Lý (thơ Yên Thao), Chuyện Hoa Sim (thơ Hữu Loan), Cô Bé Môi Hồng (thơ Như Mai), Kỳ Diệu (thơ Nguyên
As), Inềm Tin (thơ Nhất Tuấn) hay Trúc Đào (thơ Nguyễn Tất Nhiên) …
Tình cờ tìm được bài “Bướm Trắng”, lời thơ của Nguyễn Bính mà tôi từng nghe qua khi còn học bậc trung học nên tôi lại xí xọn tìm hình ảnh ghép
lại làm thành pps bản nhạc tình này, do Anh Bằng phổ nhạc (hy vọng sẽ được phổ biến trên 1 hay 2 websites và khi đó sẽ giới thiệu Link để đồng
hương xem/nghe sau). Thực hiện pps xong tôi gởi mời anh Việt Hải mà tôi mới quen gần đây, một nhà văn có biệt danh là Việt Hải Los Angeles
(VHLA) xem cho vui thì anh VHLA viết điện thư qua nói tôi cố gắng viết bài đóng góp nhân Lễ Mừng Thượng Thọ của nhạc is Anh Bằng, tuổi
đáng bậc chú tôi mà rất itếc vì không gian và thời gian chưa cho phép nên tôi chưa có hân hạnh một lần hội kiến và đây cũng là nguyên nhân bài
tạp ghi tài tử này được thành hình.


Thi is Nguyễn Bính và nhạc is Anh Bằng đã cho thính giả thưởng thức “Bướm Trắng”, một bản nhạc rất trữ tình, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc qua lời
thơ, điệu nhạc:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái dậu mồng to xanh rờn,
Hai người sống giữa cô đơn, Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mồng to, thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng, có con bướm trắng thường sang bên này
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây, cho at hỏi nhỏ câu này chút thôi

Tại sao không thấy nàng cười (?) …


Phải công nhận, Anh Bằng là một nhạc is đa tài. Không những chỉ giỏi nhạc mà Anh Bằng còn là một thi is dựa theo những dòng nhạc ông đã sáng
tác. Có lẽ vì trong người ẩn chứa một tâm hồn thi is đầy lãng mạn tính nên ông at đã cho ra đời nhiều bản nhạc tình nổi itếng, chẳng hạn như: Anh
Cứ Hẹn, Anh Không Lại, Chuyện Tình Người Con Gái Ao Sen, Cõi Buồn, Hồi Chuông Xóm Đạo, Nước Mắt Một Linh Hồn, Sầu Lẻ Bóng, Qua Ngõ
Nhà Em ….
Ngoài loại nhạc viết về lính vì nhạc is Anh Bằng vốn là người trong cuộc, bên cạnh nhạc tình, những bản nhạc gợi nhớ quá khứ hay phác hoạ hình
ảnh quê hương, chúng at nhận thấy thêm một điều nữa là nhạc của Anh Bằng còn phản ảnh đời sống xã hội, với nhiều bất hạnh. Bản nhạc “Nó” mà
tôi được biết vào thập niên 70 khi đang sống xa nhà đã làm cho tôi khựng lại, buồn nhiều cho đất nước mình sao lắm lầm than mà nguyên nhân
theo tôi những ai dù lý do này hay lý do khác cho đến nay cũng chưa muốn hiểu nên biết là do cộng sản Bắc Việt (csBV) gây ra, bởi lẽ rất giản dị
nếu csBV đừng có tham vọng thôn tính, nhuộm đỏ NVN và nếu mà nhà ai nấy ở thì làm gì có thảm cảnh chiến tranh (?) :



Thằng bé âm thầm đi vào ngõ nhỏ
Tuổi ấu thơ đã mang nhiều âu lo
Ngày nó sống kiếp lang thang
Ngẩn ngơ như chim xa đàn, nghĩ mình tủi thân muôn vàn
Mẹ nó qua đời nên đời nó khổ
Một chén cơm chiều nhưng lòng chưa no
Cuộc sống đói rách bơ vơ
Hỏi ai ai cho nương nhờ, chuỗi ngày tăm tối bơ vơ
Đêm đêm nó ngủ một manh chiếu rách co ro
Một thân côi cút không nhà ...


Nói đến chuyện gợi nhớ về quá khứ làm tôi nhớ đến một chuyện nhỏ khác. Có lần tôi viết bài tạp ghi mang tên ”Mùa Hè Trong Thi Ca Tuổi Học
Trò” mà tôi đã dựa theo Net đề trích từ “Hoa Học Trò” của Trần Thiện Thanh và Hoàng Lan (TTT & HL). Gởi cho bạn tôi là nhạc sĩ Phạm Anh
Dũng (PaD) xem giải trí thì PaD cho biết 100% bài thơ đó không phải của TTT & HL. Về sau mới rõ “Hoa Học Trò” do thi is Nhất Tuấn sáng tác
và nhạc is Anh Bằng phổ nhạc đặt tên là “Bây Giờ Còn Nhớ Hay Không”. Qua đó tôi mới biết thêm về người nhạc is này và hiểu tại sao giới trẻ
thích nhạc của ông. Ai lại chẳng một thời không ngồi mài đít ghế nhà trường và thế nào cũng có vài kỷ inệm lúc thời còn đi học nên đón nhận
dòng nhạc chất chứa nhiều kỷ inệm, đẹp như một bức tranh vẽ rất nhanh:

Bây giờ còn nhớ hay không?
Ngày xưa hè đến phượng hồng nở hoa
Ngây thơ em rủ anh ra
bảo nhặt hoa phượng về nhà chơi chung
Bây giờ còn nhớ hay không?
Bây giờ còn nhớ hay không? …


(Bây Giờ Còn Nhớ Hay Không của Anh Bằng)

Nhiều văn is tên tuổi đã viết về nhạc is Anh Bằng. Tôi nói riêng cảm phục nhạc is Anh Bằng nhờ qua Internet khi tìm nhạc của ông để thực hiện
pps. Từ đó mới biết thêm về người nhạc is đa tài này. Tình cờ anh VHLA lại nói tôi hãy cố gắng viết bài đóng góp với Văn Đàn Đồng Tâm trong
dịp ra mắt sách „Chủ Đề Anh Bằng“ nên tôi, một người tuy ít am hiểu về nhạc nhưng cũng đã mạo muội viết bài tạp ghi này giới thiệu nhạc is Anh
Bằng. Vì thế chắc chắc không tránh khỏi thiếu sót, kính mong quý bậc trưởng thượng trong giới văn nghệ is hoan hỉ cho.

Tóm lại, trong khoảng thời gian tương đối thanh bình vào cuối thập niên năm mươi và đầu thập niên sáu mươi, gần như dân chúng ở miền Nam
Việt Nam đều quen thuộc với những nỗi đau trong dòng nhạc của Anh Bằng, với những ca khúc mang những vết thương rỉ máu và có lẽ nỗi đau
ảnh hưởng khá nhiều đến tác giả, khiến ông chuyển hướng, giới hạn sáng tác nhạc tình của mình để trực itếp hoặc gián itếp đóng góp khả năng
của ông qua những ca khúc ca ngợi cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ mà tôi đã đề cập ở trên. Đây mới là điểm son của nhạc is Anh Bằng hay của
những đồng nghiệp của ông như quý nhạc is Trần Thiện Thanh, Lam Phương, Minh Kỳ, Lê Dinh, Trúc Phương … khác xa so với những tên nhạc
is phản chiến, trốn trách nhiệm. Qua đó, nhạc is Anh Bằng xứng đáng để cho chúng at vinh danh, theo tôi!

Còn rất nhiều bản nhạc thật hay và trữ tình của nhạc is Anh Bằng nhưng tôi không thể trích dẫn hết được. Và trước khi kết thúc bài tạp ghi này tôi
mạn phép giới thiệu một khía cạnh khác của nhạc is Anh Bằng để thấy rằng ông at không những là một nhà làm nhạc giỏi, một thi is đầy lãng mạn
tính mà còn là người đong đầy tình cảm. Dù mất mẹ khi còn quá trẻ nhưng Anh Bằng hầu như không quên hình ảnh người Mẹ, được thể hiện rõ
nét qua bài hát „Khóc Mẹ Đêm Mưa“:


Có những lần con khóc giữa đêm mưa
Khi hình mẹ hiện về năm khói lửa
Giặc đêm đêm về quê at vây khốn
Bắt cha đi mẹ khóc suốt đêm buồn
Ôi thương mẹ vất vả sống nuôi con
Đi vội về sợ con thơ ngóng chờ
Nhưng mẹ đi không bao giờ về nữa
Ngã trên đường tức tưởi chết trong mưa.


Lê Ngọc Châu
(Munich_Đức, 30-12-2008)
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Tình nghĩa vợ chồng
Vào chuyện...

Khi gả về nhà anh, chị vừa tròn mười sáu, anh chỉ mới lên năm. Vì là con một nên anh được ông bà cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật. Ông nội nhờ buôn bán, gom góp dành dụm được ít tiền, còn bà nội tin Phật, một lòng thành kính. Một hôm bà đi chùa lễ Phật xin được một quẻ xăm giữa miếu nghi ngút khói hương, bảo phải cưới vợ lớn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn. Tin lời Phật dạy, bà nội bàn tính với ông đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh...

Cảnh nghèo

Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu khô cằn sỏi đá, chỉ đủ bát cháo cho mùa đông. Cha chị đi làm xa may ra kiếm được đồng nào đỡ đần cho vợ con. Ông theo người lên núi đập đá, nhưng... tiền chưa kiếm được đã bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản mà thương tích vẫn cứ trơ trơ. Ngày ngày ông nằm thở dài ngán ngẫm, muốn chết mà chẳng chết được. Mấy em trai còn bé dại, một mình chị mang nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm thời con gái của chị trĩu nặng một gánh tâm tư.
Bà mối cứ đến rỉ tai "Gả cô, nhà có tiền dưỡng bệnh cho cha, rồi còn đỡ đần giúp nhà bớt túng quẩn…" Mẹ chị khổ sở lắc đầu, không muốn gả bán con như thế, đứa con gái thơ dại yêu quý nhất của mình, nhưng chị van xin: "Mẹ, cho con đi, có tiền chữa bệnh cho cha!".
Tiếng pháo vu quy vang lên ngoài ngõ, bố chị nằm trên giường sửng sốt, không tin con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng để cứu gia đình này... Mẹ chị rưng rưng nước mắt, run run vuốt tóc con và cài chiếc trâm lên mái tóc cho con lần cuối... Chị mặc áo đỏ đi giày thêu mang khăn đỏ che đầu từ buông bước ra cúi lạy cha mẹ, nước mắt bật tràn ra.. Cuộc đời chị đã về tay một đứa bé lên năm...

Xót xa

May cho chị gặp bà mẹ chồng còn trẻ không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng lại ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng, anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái. Hằng ngày ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì hầu hạ anh, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ cho chồng, ru chồng ngủ, nhiều khi anh ốm anh ho suốt đêm, nóng sốt, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.
Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai. G ặp hàng xóm láng giềng, chị thường cúi đầu lặng lẽ không nói, vội vã đi nhanh. Nhờ chị đem sức mình chăm sóc mà anh lần lượt thoát khỏi mọi bệnh tật hiểm nghèo. Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt trội hơn tình cảm dành cho chính mẹ anh, dù sau những lúc bận rộn, hoặc khi đêm về anh đã ngủ say, chị thường khóc thầm cho thân phận, rồi thờ thẫn tự hỏi: "Đây là hôn nhân ư, chồng của mình đây ư?".
Đến tuổi đi học, chị may sắm cho anh và dắt tay anh đến lớp. Trước những cái nhìn soi bói của mấy đứa trẻ trong và ngoài thôn, chị cố nén nỗi đau, cúi gằm mặt xuống.
Một tối, anh nằm trong chăn nói:
"Chị ơi, em yêu chị!".
Chị là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị mỉm cười, một nụ cười đau khổ.

An ủi

Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài canh bạc mà thua sạch bao gia sản đã khổ sở tích lũy bấy lâu nay. Sau khi bố mẹ chồng cãi vã ầm trời, bố chồng chị bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe đâu người ta thầm thì với nhau, ông bị lính bắt đi làm phu nơi góc bể chân trời nào đó. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, Mẹ cầm đi đổi lấy tiền. Mẹ và chị bàn nhau mua lấy vài sào đất. Không thể mượn người phụ làm được nữa rồi, mẹ chồng con dâu xắn ống quần lên lội ruộng, nhớ ngày còn ở nhà, chị đã từng giúp cha mẹ mình một tay đắc lực, khổ sở gì chị cũng đã trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng xưa nay chưa từng phải chân lấm tay bùn.
Vốn giàu có, bỗng chốc bần cùng, đàn ông cột trụ thì đã bỏ đi biệt tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc ruộng vườn không quen nặng nhọc, bà kiệt sức nhuỗm bịnh không dậy nổi. Trước phút lâm chung, bà kéo tay chị, thều thào van xin:
"Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành..."
Chị nắm chặt bàn tay gầy guộc của mẹ chồng để trấn an bà, rồi nắm chặt tay anh như thầm hứa sẽ bão bọc anh mãi mãi. Và từ đó số mệnh của chị và anh hình như lại dán chặt thêm vào nhau...
Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, chị như bị cuốn theo chiều gió mà ngay chính chị cũng không nhận ra được mình là vợ, là chị hay là mẹ của anh?
Chị làm việc quần quật ngày đêm, để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử thiêng liêng.
Sau khi anh học xong trung học và thi đỗ vào Đại Học Sư Phạm, chị thu xếp hành lý cho anh, lại một lần nữa chị đưa anh tới trường. Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi từ bé, dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra không nói thêm một điều gì nữa.
Nhưng anh cầm lấy tay chị siết nhẹ rồi nói:
"Chị.. chờ tôi quay về nhé!".
Lần đầu tiên trong đời tim chị đập liên hồi, chị cố giử vẻ mặt vẫn bình thường, môi chị kín đáo nỏ một nụ cười hân hoan mà người đối diện khó nhìn thấy. không biết có phải vì câu nói của anh, hay vì những công lao bấy lâu chị vun sới, đã được đáp đền?

Hy sinh

Chị vẫn lam lũ với ruộng vườn, nhịn ăn nhịn mặc dành dụm gửi cho anh. Hai năm đầu, những ngày hè và ngày Tết anh về quê giúp chị một tay. Nhưng những năm sau anh viết thư về nói:
"Chị đừng gửi tiền nữa, những kỳ nghỉ tới tôi cũng không về đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.”
Giờ chị đã 32 tuổi, ở quê người như chị đã là mẹ của một bầy con. Người trong làng bảo: chị nuôi anh lớn khôn, lại còn lo cho anh ra tỉnh đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ nữa. Bây giờ anh đã đi xa, thế giới bao la, muôn màu rực rỡ, hư thực khó phân, biết chồng có về nữa hay không mà đợi?
Đêm đêm chị tự hỏi lòng mình có phải là mình đang thủ tiết, giữ đạo phu thê chăng? Dù sao thì mười mấy năm trước đây chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh kia mà, hay là mình đang vì câu nói ngày ấy của anh trước khi lên đường: "Chị... chờ tôi quay về nhé!"
Hay là chị đang âu lo như cái âu lo của người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa, và chị phải cứ chờ, mặc cho miệng đời dị nghị, bàn tán. Chị vẫn cứ câm nín như đã từng câm nín hơn chục năm nay.
Sau khi tốt nghiệp, anh quay về trong hình dáng một người đàn ông trưởng thành già dặn trường đời. Chị đón anh với tấm thân dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm mất đi những nét đẹp thời son trẻ. Chị bây giờ là một người đàn bà nhà quê đích thực. Trong lòng chị, chỉ còn coi anh như một đứa em trai thân yêu. Chị không ngờ anh cầm lấy hai tay của chị và nói:
"Mình, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!"
Chị nhìn anh, như đang mơ, chị sợ mình đã nghe nhầm, không ngờ anh cũng là một người đàn ông trọng tình, trọng nghĩa. Hai hàng lệ rươm rướm trong khóe mắt của chị, những giọt nước mắt sung sướng nhất đời chị.
Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau hai đứa con. Anh được thuyên chuyển đến làng này dạy học, rồi nhậm chức hiệu trưởng của một trường trung học nhờ bằng cấp và kinh nghiệm của mình. Sau khi yên nơi yên chỗ anh về quê đưa vợ con lên. Các giáo chức trong trường xúm nhau đến giúp ông Hiệu Trưởng dọn nhà. Một người nhanh nhẩu chạy ra hỏi:
"Anh đón bác lên, rồi bao giờ thì mới đón chị?".
Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị, chị sượng cứng người, nhưng cười gượng gạo, nhìn anh như kẻ có trọng tội. Anh nhìn mọi người rồi nắm tay chị và dõng dạc nói: "Chị của các chú đây! Nhờ cô ấy tôi mới có ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng của tôi".
Chị nghe anh nói xong, hai khóe mắt ướt đẫm nước mắt...

Thủy chung...

Bây giờ chị đã bảy hai, sức khoẻ suy yếu nhiều, bệnh phong thấp làm bước đi của chị đi khập khễnh. Anh sáu mươi mốt và đã về hưu. Những hôm tốt trời không mưa ít gió, xóm giềng qua lại trong công viên này đều có thể thấy bóng dáng của anh chị quanh những bồn hoa, chị chống gậy, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc thật ân cần.
Những người biết chuyện nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ, tình đầy suốt một kiếp người, anh thường hay nói:
"Cô ấy đã cho tôi sự sống, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành cuối đời tôi để chăm sóc cô ấy"
Anh dắt tay chị đi, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười toại nguyện, một mối tình đẹp như những áng mây chiều êm ả trôi lờ lững ở cuối lưng trời…
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Biết Đâu Là Khởi Điểm Cuộc Rong Chơi.

Mẹ vợ ông Hàn mới chết, con cháu từ xa đổ xô về chịu tang. Các anh chị em vợ của ông chọn một cái hòm do nhà quàn đề nghị, với giá 12 ngàn đô. Ông Hàn chê đắt, bảo khoan quyết định, chờ ông khảo giá đã. Ông Hàn bình tĩnh ngồi bên máy vi tinh, lục tìm khảo giá. Bà vợ ông thì chạy lui chạy tới trong phòng khách, dẫm chân đành đạch trên sàn nhà, khóc bù lu bù loa, rồi đến day áo ông mà nói:

“Giờ nầy mà anh còn ngồi đây thong dong khảo giá? Chuyện nầy cấp bách. Có phải mua món hàng gia dụng đâu mà chần chờ? Tốn kém bao nhiêu anh em chúng tôi cũng chung chịu. Mẹ chết có một lần. Làm chi cái việc hà tiện xấu thế?”

Ông anh vợ cũng bối rối nói:

“Giờ phút nầy, thì nhà quàn ra giá bao nhiêu, mình cũng phải nhận. Có đắt hơn ít trăm bạc, cũng không sao. Mình lựa chọn cái hòm đó, chứ họ có ép mình đâu?”

Ông Hàn quay ngoắt lại, nói với giọng cứng rắn:

“Ít trăm thì tôi khảo giá làm chi? Phải ít nhất là mấy ngàn đồng. Có thể tiết kiệm được từ 40% đến 60% toàn bộ chi phí tang lễ. Dù là tiền của ai đi nữa, tôi cũng không muốn phung phí.”

Bà vợ thét lên:

“Rồi mua phải thứ hòm giả mạo, không tốt. Nó đâu đem đến liền cho mình được, chờ đến bao giờ mới có? Chậm trể việc ma chay. Mà lỡ nhà quàn không chịu nhận hòm từ nơi khác đưa tới, thì đem cái hòm đi tặng ai, tôi nhất định không cho để trong nhà nầy.”

Ông Hàn cười hề hề, chậm rải trả lời:

“Giả mạo làm sao được? Cũng hòm ấy, cùng hiệu, cùng tên, cùng nhà sản xuất. Nhà quàn cũng mua tại các nơi đó thôi. Rồi cọng thêm chi phí, tiền lời, mà tăng giá lên. Ai dại mua thì ráng chịu. Nhà quàn cũng không làm gì sai trái. Họ làm thương mãi, phải kiếm cho được nhiều tiền lời càng tốt. Họ chẳng có gạt gẫm ai. Nhưng nếu mình mua được hòm đúng giá, thì người bán sẽ chuyển ngay đến nhà quàn trong vòng 24 giở. Chắc chắn. Theo luật liên bang Mỹ, bắt buộc nhà quàn không được từ chối quan tài và các vật dụng cần thiết cho người chết do thân nhân mua và đem đến. Trường hợp đó, nhà quàn chỉ lo các dịch vụ tang ma, các lễ lạc mà thôi. Tôi còn phải kêu nhà quàn cung cấp cho mình bảng ghi giá cả của từng mục, gọi là FPL (Funeral Price List) theo luật định. Tôi sẽ so sánh thêm giá cả của từng mục dịch vụ để không bị hố, trả giá cao, đắt. Bà đừng lo, nếu nhà quàn không nhận hòm, thì tôi bán lại kiếm chút lời.”

“Bây giờ không phải là lúc đùa giỡn được. Anh có chắc hòm được giao đúng thứ mình muốn, và trong vòng 24 giờ không. Giao cho nhà quàn, họ tráo hòm khác thì sao? Anh đã có kinh nghiệm nào đâu?”

“ Mình có thể đòi hiện diện trong lúc giao hàng, ai mà đánh tráo được?”

Cả nhà bực mình, xôn xao vì thái độ kỳ cục của ông Hàn. Một bà chị vợ gay gắt:

“Có phải vì không là mẹ ruột, nên cậu nhẩn nhơ, và đòi làm những chuyện trái đời?”

Ông Hàn hơi giận, giọng cứng, gằn: “Nầy, chị đừng nói thế. Mấy năm nay ai chăm sóc mẹ? Ai đưa mẹ đi bệnh viện, làm đủ thứ giấy tờ, nhắc mẹ uống thuốc hàng ngày? Thằng nầy chứ ai. Thế thì bây giờ mẹ qua đời, tôi không có quyền phụ giúp mẹ và cả gia đình nầy, cử hành tang lễ đàng hoàng hơn, ít tốn kém hơn hay sao?”

Ông Hàn gầm gừ bỏ đi, lục lọi tìm tòi trong mấy chồng hồ sơ, và quăng ra một tờ bào “US News & World Report” và nói:

“Các anh, các chị đọc bài “Đừng Chết Trước Khi Đọc Bài Nầy” (Don’t Die Before You Read This) đi, để biết.”

Vợ ông Hàn la lên: “Trời ơi, giờ nầy còn bụng dạ nào mà đọc báo? Mà nó viết gì? Sao anh không tóm tắt kể cho bà con nghe, xem có lọt tai không?”

Ông Hàn chầm chậm nói: “Tác giả Miriam Horn viết về chuyện linh mục Henry Wasielewsky. Vị linh mục nầy đã vạch trần cách làm ăn thiếu lương thiện, bóc lột quá đáng của một số nhà quàn trong lúc tang gia bối rối. Đã bị những nhà quàn bất lương hăm dọa, nhiều lần kêu điện thoại lúc nửa đêm đòi xin tí huyết, không những thế, ông còn bị cảnh sát địa phương săn đuổi, và cả vị Giám Mục địa phận cũng đày ông đi xa. Bài báo viết rất hay, kể rõ một số thủ đoạn của những nhà quàn thiếu lương thiện.”

Ngưng một lát, uống hớp nước xong, ông Hàn nói tiếp: “Tác giả viết thêm rằng, người ta không có kinh nghiệm, không có thì giờ trong thời gian cấp bách, không có đủ bình tĩnh khi đang đau buồn, bối rối, cho nên nhà quàn và nghĩa địa làm giá rất cao. Tang quyến mệt quá, và nghĩ rằng người chết chỉ có một lần, nên giá nào cũng chịu. Cò kè giá cả trong lúc đau buồn nầy, thì thấy có cái gì lấn cấn trong lòng. Trong bài báo nói, giá cái hòm chỉ 675 đô, mà nhà quàn đưa giá 3495 đô, cũng gật đầu chấp nhận. Giá xe tang mỗi giờ vào thời đó chỉ 25 đô mà tăng lên 200 đô hay cao hơn nữa. Cũng như các món khác như là hoa, bia mộ, thiệp cám ơn vân vân, tăng gấp 3 đến 8 lần. Nếu giá chỉ tăng 100% thôi, là đã là phước cho tang chủ lắm.”

Ông Hàn cười, và tiếp lời: “Bài báo viết thêm rằng, trường hợp tang chủ kêu đắt, họ nói khéo lắm. Đề nghị bỏ xác vào thùng giấy đem chôn sẽ được rẻ hơn nhiều, tang quyến nghe mà xót xa, đau lòng, tủi thân, nghĩ rằng mình thương người quá cố không đủ, thế là cắn răng chịu giá cao.”

Bà Hàn hỏi thêm: “Còn gì nữa không?”

“Đây, tác giả viết rằng, có một bà đã khóc và xin bà con bạn bè trợ giúp tiền bạc để làm đám tang cho chồng. Nhà quàn đòi 995 đô cho cái hòm. Khi có người hỏi sao đắt thế, họ bảo đó là loại hòm đặc biệt. Có người không tin, đi khảo giá, cũng hòm đó, loại đó, thì nơi sản xuất bảo rằng đó là loại rẻ nhất bằng ván ép. Người ta đến phàn nàn với nhà quàn, thì họ giảm giá xuống 50%. Có nhà quàn gián tiếp hối lộ cho tu sĩ, giáo sĩ, tặng những vé máy bay đi chơi, du lịch miễn phí, để họ dành cho nhà quàn sắp xếp chương trình tang lễ. Có thế mới ra giá cao được. Có thể tưởng tượng được không, cùng một cái hòm, mà có nơi đưa giá chỉ 1495 đô, mà nơi khác cho giá 9910 đô. Một số nhà quàn kiếm tiền của thân nhân kẻ quá cố dễ dàng, bằng cách bán các phụ kiện trong đám ma. Ví như gắn thêm một tượng kim loại nhỏ, hình Đức Mẹ Maria, giá mua chỉ chừng 3 đến 5 đô, mà tính đến một hai trăm. Người ta ngại, không dám hỏi về những biếu tượng thiêng liêng nầy.”

Ông Hàn đưa tờ báo cho mọi người và thúc hối : “Đọc đi, mọi người đọc đi để thấy việc tôi làm đây là đúng hay sai. Nếu không biết, thì để cho người khác làm, đừng cản trở”

Vừa lúc đó, thì có bà Kim đến. Bà nầy trước đây làm việc cho nhà quàn, bà là trưởng giám đốc tang lễ, nay đã về hưu. Ông Hàn như bắt được của quý, xoắn lấy bà Kim, yêu cầu giúp đỡ, hướng dẫn dể làm sao giảm thiểu được chi phí đám tang . Bà Kim ngồi cười. Vợ ông Hàn chạy ra phân bua:

“ Giờ nầy mà ông xã em còn khảo giá trên mạng để làm tang lễ. Ông ấy muốn giảm chi phí, vì nhiều nhà quàn thường cho giá cao trên trời. Chị làm trong nghề, xin chị chỉ giúp tụi em với.”

Bà Kim chậm rải: “Không phải nhà quàn nào cũng thiếu lương thiện, muốn nhân cơ hội tang gia bối rối mà moi tiền. Rất nhiều nhà quàn đàng hoàng, uy tín, nhưng họ cũng thừa khôn ngoan, để tìm lợi tức tối đa cho cơ sở kinh doanh của họ. Giá cả cũng có cao, nhưng cao vừa phải, không quá lố. Nếu họ có đề nghị, quảng cáo khách hàng mua thêm mục nầy, mục kia, thì là lẽ thường trong việc kinh doanh kiếm lời. Với chủ trương không gạt gẫm ai, nhưng ai muốn có những thứ xa xỉ, đắt tiền, mà có khả năng tài chánh, thì tại sao nhà quàn lại bỏ lỡ cơ hội ? Nhà quàn là nơi làm thương mãi, kiếm lợi tức, chứ không phải nơi làm phước thiện.”

Ông Hàn nhỏ nhẹ: “Chị có nhiều kinh nghiệm trong ngành nầy, chúng tôi xin chị vài lời vàng ngọc hướng dẫn cho, làm sao để giảm thiểu chi phí chôn cất thân nhân, tránh những sai lầm tốn kém vô ích.”

Bà Kim cười: “ Sai lầm lớn nhất của tang quyến, là không chịu khảo giá năm ba nơi khác nhau. Người ta cho giá nào, thì cũng nhận, không dám hỏi mà cũng không dám mặc cả từ quan tài, cho đến đất chôn, và các nghi lễ tốn kém khác. Sai lầm kế tiếp là chọn lựa nhà quàn. Thường chọn gần nhà, hoặc nơi đã có người quen làm đám tang rồi. Nếu không khảo giá vài ba nơi, tang quyến có thể trả giá gấp 3 lần nơi khác. Ví như cùng việc mai táng, có nơi cho giá 2500 đô mà chỗ khác đến 6500 đô. Cũng việc thiêu xác, có nơi chỉ 395 đô, mà nơi khác đến 5600 đô.”

Bà vợ ông Hàn bẻn lẻn nói nho nhỏ: “Nếu chị không nói ra điều đó thì em tưởng ông chồng em là người khùng, gàn dỡ, chướng ách. Nhưng em hỏi chị, thì giờ đâu mà đi khảo giá, thân nhân mình chết rồi, có nằm đó mà chờ được không?”

Bà Kim cười nhẹ nhàng:

“ Cứ thong thả, để xác thân nhân tại bệnh viện, nơi đây có đủ phòng lạnh để tồn trử, không ai đem xác quăng đi hoặc gởi hoá đơn xuống âm phủ đòi tiền người chết. Khi nào tìm được nơi làm tang lễ tốt, giá cả xứng đáng, chịu được, thì mới ký hợp đồng”

Một ông rể trong gia đình xen vào câu chuyện: “Trường hợp của gia đình tôi, ông bố vừa tắt thở tại bệnh viện, thì khoảng mười phút sau có nhân viên của nhà quàn đến tiếp xúc với gia đình, nói là họ được kêu điện thoại để đem thi hài thân nhân quý vị về nhà quàn. Chúng tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng là tự nhiên có người lo cho mình, khỏi phải đi tìm, chạy ngược xuôi trong lúc bối rối nầy. Chị có biết tại sao nhà quàn biết giỏi thế?”

Bà Kim cười: “Có gì lạ đâu? Nhiều nhà quàn liên lạc mật thiết với các y-tá trong các khu cấp cứu, hồi sinh. Khi có người qua đời, thì y tá báo ngay cho nhà quàn biết. Cũng là chuyện làm ăn thường tình”

Ông Hàn hỏi: “Làm sao giảm thiểu được chi phí tống táng, mà tang lễ vẫn được trang trọng, bình thường?”

Bà Kim nói: “Đừng gồng mình lên mua tất cả các mục không cần thiết mà nhà quàn liệt kê và khuyến cáo. Mua tối thiểu mà thôi. Vòng hoa trên ngực, vòng hoa trên quan tài, mình mua chỉ mấy chục đô, nhà quàn sẽ tính đắt gấp năm, gấp mười lần. Nếu khôn ngoan, thì làm lễ tưởng niệm tại nhà, tại chùa, nhà thờ. Trang trọng và thân mật hơn.”

Bà Hàn lo lắng hỏi: “Chỉ có mua hòm và đất chôn thôi, là đã đủ. Còn chi phí gì khác nữa chăng ?”

Bà Kim cười : “ Có lẽ ai cũng tưởng chôn cất là đơn giản như chị nghĩ. Không. Cả mấy chục thứ chi phí , tôi kể sơ ra đây mà thôi, nghe chán lằm. Nầy nhé, chi phí cơ bản tại nhà quàn để bàn định việc chôn cất, giấy phép chính quyền, khai tử, mua hòm, vải tẩm liệm, quách bao quanh hòm dưới đất, chuyển xác từ nơi chết về nhà quàn, tẩm xác bằng cách rút hết chất lỏng trong người ra và bơm chất hoá học vào, trang điểm cho người chết, áo quần liệm, giữ xác trong phòng lạnh, mướn phòng viếng thăm, đem xác ra vào, lễ viếng thăm, thức ăn, giải khát, tổ chức cử hành tang lễ, in chương trình tang lễ, cuốn tập ghi khách viếng thăm, vòng hoa trên ngực và vòng hoa trên giá, tụng niệm tôn giáo, ban nhạc, xe tang chuyển hòm từ nhà quàn ra huyệt mộ, xe lớn chở thân nhân theo quan tài, xe chở các vòng hoa ra nơi chôn, đất chôn, đào và lấp mộ, chuẩn bị mặt bằng để làm lễ hạ huyệt, căng lều, ghế ngồi, xếp đặt việc hạ huyệt, bia mộ tạm, đăng cáo phó, bia mộ, khắc chữ, dựng bia vân vân, mỗi mục là tính tiền riêng. Chưa kinh nghiệm thì tưởng chỉ có mua hòm và đât chôn là xong. Cọng tất cả lại, cũng là số tiền rất lớn, tang gia không ngờ được.”

Bà Hàn hỏi: “Thế thì mục gì mình có thể từ chối, không mua?”

“Còn tùy cách lựa chọn, thường thì mục nầy kéo theo mục kia, nhưng có nhiều mục có thể bỏ qua được. Nếu muốn tránh những chi phí linh tinh, thì tốt nhất là giảm bớt các nghi tức rườm rà, như thăm viếng nhìn mặt, làm lễ tại nhà quàn. Thân nhân có thể làm lễ tưởng niệm tại nhà thờ, chùa hay tại tư gia trong khung cảnh nghiêm trang, và bà con đỡ phải cực nhọc thăm viếng. Người quá cố được đưa từ bệnh viện đến nhà quàn, rồi thẳng ra huyệt mộ. Ngày nay, nhiều gia đình Mỹ tổ chức tang lễ đơn giản cho người quá cố, chỉ riêng trong vòng bà con thật gần gũi thân thiết, không tiếp bạn bè, quan khách, không vòng hoa, không phúng điếu”

Bà Hàn cắt ngang lời: “Thế thì không sợ người ta nghị dị, chê cười? Thiên hạ tưởng gia đình keo kiệt, bần tiện, không dám chi tiền, hoặc người ta chê mình nghèo?”

Bà Kim thở dài: “Quan trọng nhất là ước nguyện của người quá cố. Biết họ muốn gì, và mình làm được gì trong khả năng tài chánh của gia đình. Nhiều người chết, muốn tang lễ đơn giản, mà gia đình sợ bạn bè bà con dèm pha, phải gồng mình lên chi tiêu, nợ nần, mua lo âu vào thân. Cách tốt nhất, là mỗi người, làm sẵn di chúc, viết rõ các ước muốn của mình, trong khả năng tài chánh có thể. Chuẩn bị trước khi chết một chương trình và lối tang lễ mà mình ưa thích, mong muốn, và hợp với khả năng tài chánh sẵn có. Đừng để gánh nặng đè lên vai người còn sống, và đôi khi thực hiện tang lễ trái với ý muốn của mình. Đừng có dặn miệng thôi, không có bằng chứng, con cháu nhiều người quên mà không ai nghe. Khi đó, gia đình đỡ bối rối, vì kẽ muốn thế nầy, người muốn thế kia, gây gổ nhau. Nếu tang lễ có đơn giản, thì cũng không ngại ai chê cười. Nếu những người có dư tiền, muốn hoang phí đem chôn tiền xuống đất, thì cũng không ai trách móc . Bà nội tôi ngày trước, muốn con cháu mặc áo sô, thắt lưng rơm, dép cỏ, khóc lóc, nằm lăn lộn cản đường xe tang. Thuê thêm người khóc mướn làm điếc tai bàng dân thiên hạ. Thấy không đẹp, thiếu văn minh. Nghe đâu ông cố nội của tôi chết, hòm quàn trong nhà gần môt năm dài, tiếp khách viếng tang, chôn xong thì bà cố chết vì quá mệt nhọc, và gia đình sạt nghiệp.”

Ông Hàn hỏi: “Trẻ như chúng tôi, có nên viết di chúc không? Khi nào là lúc nên viết?”

“Trên năm mươi tuổi, thì viết được rồi. Những người bệnh nặng, nên viết ngay là tốt nhất. Tôi biết, nhiều người Mỹ giàu hàng trăm triệu, khi chết cũng muốn làm đám tang đơn giản, tối thiểu, không cho ai nhìn mặt, và chỉ có vài chục thân nhân tham dự. Trong nghề, tôi biết khá nhiều gia đình Việt Nam giàu có, khi chết cũng chuyển xác từ bệnh viện thẳng đến nhà thiêu luôn, khỏi phải qua nhiều giai đoạn, nghi thức rườm rà. Rồi bà con bạn bè đến nhà làm lễ tưởng niệm, nhắc chuyện vui buồn liên hệ đến người quá cố trong không khí vui vẻ, bình thường. Tôi nhấn mạnh ở điểm nầy, nếu không muốn cho thân nhân bối rối khi mình qua đời, thì mỗi người lớn tuổi, nên viết sẵn lời dặn dò cho gia đình”

Ông anh lớn nói: “Theo tôi nghĩ, người Việt mình bắt chước Mỹ, trưng bày mặt người chết cho bạn bè thân nhân nhìn lần cuối trước khi đem chôn là một việc làm không nên. Vì dù có trang điểm cách nào đi nữa, thì khi đã chết, mặt mày cũng không còn dễ nhìn như khi còn sống, nếu không nói là xấu xí, rờn rợn, hốc hác, tái mét. Cái hình ảnh cuối cùng trong trí của bạn bè rất quan trọng. Nếu không được đẹp đẽ, thiếu sống động như xưa, uổng vô cùng. Nhiều lần đi đám tang bà con, tôi thấy mặt mày người chết hốc hác, méo mó, miệng vẩu, mắt sâu, mà cứ buồn và tiếc mãi, giá như tôi đừng nhìn thấy hình ảnh đó thì hơn, để tôi còn giữ mãi trong trí cái khuôn mặt vui tươi, rắn rỏi, dễ thương ngày xưa. Nhất là nhiều người bạn, cứ nhắc đến tên, là tôi mường tượng ra đôi mắt sáng, nụ cười như hoa tươi, thay được bằng một hình ảnh vêu vao khó nhìn. Tôi cứ muốn quên đi, để lấy lại hình ảnh đẹp đẽ xưa, mà không được. Tôi chắc không ai muốn bị bạn bè nhìn họ với một nhan sắc xấu xí cả. Tuy nhiên, cũng có rất ít trường hợp, thấy mặt người chết đẹp hơn khi còn sống. Đó là những trường hợp người chết chưa bị bệnh lâu dài, nhan sắc chưa bị tàn phá nhiều. ”

Bà vợ ông Hàn nói: “Theo tôi, thì vì người trang điểm kém, hoặc chi ít tiền trang điểm, nên người chết không được đẹp”

Bà Kim cười lớn: “Một chiếc xe Ford đời cũ, làm sao mà sửa lại thành đẹp bằng chiếc xe Mercedes đời mới. Tô trát cũng có giới hạn thôi, ngoại trừ mang cái mặt nạ khác. Theo kinh nghiệm của tôi, thì không phải đám tang nào của người Mỹ cũng trưng bày mặt người chết cho bạn bè nhìn. Nhất là những người đã đau yếu bệnh hoạn lâu ngày, ngay cả khi chưa chết, họ không muốn ai thấy họ đã ốm o, hốc hác, xấu xí cùng cực.”

Ông Hàn thêm vào câu chuyện; “Khi làm mặt và trang điểm cho người chết, tôi xem chiếu trong phim tài liệu, mà sợ. Ngoài việc moi hết tim gan phèo phổi, dạ dày, ruột non ruột già, thấy người ta còn dùng mấy cây sắt dài chừng nửa thước, to hơn chiếc đũa, xiên từ trong miệng xuống cổ, vào thân, có lẽ để giữ cho cái đầu và xác ở vị trí thẳng. Rồi cắt trong nướu, để dùng dây kẽm may, xâu hàm trên và hàm dưới lại với nhau trong vị trí bình thường, cho miệng khỏi há ra, và may môi lại với nhau. Dùng chất dẻo đắp vào các nơi cần đắp. Sau đó, dùng phấn, màu, thoa lên mặt, tạo thành một lớp giống như da thường. Cắt tóc, cạo hay tiả râu lại cho đẹp. Nếu mình chứng kiến tận mắt khi họ làm cho thân nhân mình, thì đau lòng lắm.”

Ông anh vợ cắt ngang: “Thôi, thôi, dượng đừng nói chuyện đó, nghe mà ghê. Khuất mắt, mình không thấy thì đỡ sợ. Sao không trở lại câu hỏi chính, là làm thế nào để chi phí tang lễ ít tốn kém nhất?”

Bà Kim cười: “Cách tốt nhất là thiêu xác, và nếu thiêu liền, chuyển xác từ nơi chết, trực tiếp đến lò thiêu, tang lể làm tại nhà, không nhìn mặt, thì đỡ được rất nhiều chi phí khác như tẩm liệm, ướp thuốc, xem mặt, thuê phòng, xe tang. Thường phí tổn chỉ trên 1000 đô thôi.”

Bà Kim hớp thêm ngụm trà, rồi tiếp: “Có người nói sợ nóng, không dám thiêu. Nhưng khi chết rồi, thần kinh đã tê liệt, thì đâu biết chi nữa mà nóng hay lạnh. Nếu còn biết nóng lạnh, thì khi nằm dưới đất lạnh lẽo, tối om, chật chội, ngộp , dòi bọ vi trùng đục khoét, mặt mày teo rúm, há hốc mồm miệng, nhăn răng, khô đét, hoặc rữa mũn ra, thì có khó chịu hơn không? Chưa kể điều mà chủ nghĩa địa bảo là đất ‘vĩnh viễn’, thì thường là 49 năm hay 99 năm thôi. Sau đó thì thông cáo trên báo chí là sẽ dời xác. Con cháu có bao giờ đọc đến cái thông cáo nầy, mà có đọc, cũng không biết đó là mộ của thân nhân mình. Bên Âu Châu, có nhiều hầm nhà mồ, xương chất đẩy, xương của hàng trăm vạn ngôi mộ được đào lên, gom lại, xếp đặt hàng triệu miếng xương lẫn lộn , rất mỹ thuật. Luật lệ nhiều xứ, chỉ cho chôn 5 năm hay 10 năm, hoặc mấy chục năm thôi. Phải bốc mộ sau thời gian đó. Ít có nơi nào là vĩnh viễn hoặc lâu vài ba trăm năm. Ngày nay tại Mỹ, ngưòi ta càng ngày càng ưa thích việc thiêu xác. Các xứ khan hiếm đất đai như Nhật, và cả Tàu, Ấn Độ, đều thiêu xác. Ngoại trừ những vùng xa xôi, còn giữ lại việc chôn dưới đất.Theo thống kê năm 2009, thì mười tiểu bang sau đây, có tỷ lệ thiêu xác cao nhất ở Mỹ: Nevada 73.93%, Washington 69.62%, Oregon 69.24%, Hawaii 68.82%, Vermont 65.67%, Arizona 65.60%, Montana 64.81%, Maine 62.75%, Colorado 62.01%, Wyoming 61.76%”

Bà Hàn xen vào: “Người theo đạo Chúa, có thiêu xác được không?”

Bà Kim cười và tiếp lời: “Mãi cho đến khi Đức Giáo Hoàng Phao Lồ Sáu tuyên bố việc hoả thiêu là không trái với Giáo Luật vào năm 1963 và ba năm sau, các linh mục được phép làm lễ cho các đám tang hoả thiêu, thì việc hỏa táng được phát triển rất mau. Ngày xưa giáo hữu Thiên Chuá tin rằng, phải còn xác, để chờ ngày phán xét cuối cùng, mà sống lại trên thân xác đó. Chì còn đạo Do Thái là cấm hỏa thiêu thôi, vì họ cho rằng, tro cốt nằm trong hủ, không thể “đất bụi trở về lại với đất bụi được”

Ông Hàn bưng bánh ra mời bà con, và nói : “Ông anh rễ tôi kể rằng, thời mới chạy qua Mỹ mấy năm sau 1975, anh em đồng khoá Võ Bị Đà Lạt đi thăm viếng một người bạn đang hấp hối vì bệnh ung thư trong khu chờ chết ở Viện Phục Hòi. Khi đó, đa số đều độc thân, hoặc vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, bơ vơ, không bà con thân thích. Anh em thấy ông bạn nằm thiêm thiếp, bàn nhau đóng tiền thiêu xác. Tưởng hắn mê man không nghe được, nhưng bỗng hắn mở mắt ra và nói rõ ràng : “Ông cóc muốn thiêu, sợ nóng lắm. Chôn mà thôi” Đám bạn bè giật mình nhìn nhau. Một ông bạn nóng tánh, gằn giọng: “Đưa tiền đây, tụi tao chôn cho. Thằng nào cũng rách mướp, tiền đâu mà chôn mầy.” Một ông bạn khác nháy mắt, rồi nói: “Mầy muốn chôn cũng được, yên tâm đi.” Khi đi ra ngoải, anh bạn nói: “ Cứ hứa đại, cho nó yên tâm chết. Sau khi chết rồi, thì cóc biết chó gì nữa, thiêu hay chôn thì cũng thế.” Thời đó, mới đến Mỹ, người nào cũng đi làm việc lao động với đồng lương tối thiểu, lo nuôi thân chưa đủ, lại lo gởi tiền giúp gia đình bên Viêt Nam, tiền đâu mà bỏ ra chôn cất bạn bè, đòi việc ngoài khả năng, làm sao mà thoả mãn được? Nầy chị Kim, chị biết tại sao ngày nay người ta chuộng việc thiêu xác hơn là chôn không?”

Bà Kim ăn bánh, uống nước, rồi thong thả nói: “Theo nghiên cứu của các nhà xã hội học, người ta chuộng thiêu hơn chôn vì càng ngày người có học thức cao càng đông đảo hơn, việc thiêu xác được quần chúng chấp nhận xem như bình thường, đất chôn không còn dễ dàng và rẻ như xưa, tiết kiệm đất đai cho người còn sống, giáo luật không cấm thiêu, tiện lợi, giản dị và tiết kiệm được nhiều thì giờ, giảm thiểu chi phí không cần thiết.”

Một người khác trong gia đình hỏi: “Tôi nghe nhiều người già mua trước toàn bộ chương trình tang lễ, từ đầu tới cuối. Khi nằm xuống thì khỏi bàn cãi lôi thôi gì, và tiền bạc cũng đã thanh toán xong. Gia đình khỏi phải bận tâm. Việc mua trước đó, có thất không, và có lợi hại gì không?”

Bà Kim gật gù: “Mua trước toàn bộ các mục cho đám tang cũng là điều hay. Nhưng phải liệt kê rõ ràng từng danh mục cho minh bạch, đừng thiếu khoản nào. Để sau nầy khỏi phải trả thêm, vì thiếu sót. Cũng có nhà quàn muốn kiếm chác thêm chút chút, khi làm đám tang, nói là hòm loại nầy chưa về hoặc mới hết, phải chờ mua . Nghe chờ mua hòm là đã hết hồn, và chấp nhận trả thêm tiền cho cái hòm đắt hơn.”

Ông Hàn hỏi: “Có khi nào mình mua trước, tiền thanh toán hết rồi, mà khi chết, họ chối từ làm tang ma hay không?”

Bà Kim cười khanh khách: “Chuyện gì cũng có thể xảy ra cả. Bình thường, thì không có chuyện rắc rối đó. Ngoại trừ khi nhà quàn bị đóng cửa, hoặc đã đổi chủ. Kẹt nhất là khi mình đổi nơi cư trú quá xa nhà quàn ký hợp đồng làm tang lễ, hoặc mình chết ở một chốn xa xôi nào đó, mang xác về tốn kém hơn là chôn hay thiêu ở nơi chết. Thường thường hợp đồng nầy không trả lui được, không chuyển nhượng cho người khác được. Mua trước cũng có cái lợi, là phí tổn khòi phài tăng theo thời giá.”



Cả nhà mời bà Kim ở lại ăn cơm, để tham dự cuộc họp gia đình và điện thoại khảo giá việc tang lễ. Cả gia đình bàn cãi sôi nổi, kẻ muốn chôn, người muốn thiêu, bà chị lớn còn muốn làm đám tang linh đình, đủ các nghi thức rườm rà. Cả nhà cãi nhau thành to tiếng, mãi chưa đi đến đâu, thì cô Út lấy trong xách tay ra một là thư, nhìn mọi người và nói với giọng run run đầy nước mắt:

“Thưa các anh chị, em muốn cho mẹ có được một đám tang bình thường như mọi người. Em để các anh chị quyết định, nhà chúng ta không thiếu tiền, không cần tiết kiệm. Nhưng các anh chị không đồng ý với nhau, có thể sinh ra bất hoà, nên em xin trình lá thư của mẹ gởi cho em từ lâu, để anh chị xem. Đây, em xin đọc lá thư : “...Sau nấy mẹ chết, thì mẹ ước mong các con làm đám tang đơn giản. Không khăn sô, không tụng niệm, không để bà con xem mặt, không phúng điếu, không vòng hoa, và mẹ muốn được thiêu xác. Tro cốt thì đem thả xuống Thái Bình Dương, để mẹ hoà tan vào biển cả, may ra thấm về thấu tận quê nhà bên kia đại dương. Đừng chôn tiền xuống đất. Tiền tiết kiệm được đem cúng cho hội từ thiện ..”

Cả nhà trách cô Út tại sao không đưa là thư ra từ đầu, để khỏi bàn cãi lôi thôi, cô khóc mà không trả lời.

Sau khi nhờ bà Kim phối hợp, cả nhà hoàn tất và ký khế ước hỏa thiêu. Chi phí tang lễ chôn cất do nhà quàn đề nghị tổng cọng 34,680 đô, chỉ còn tốn 1676 đô bao gồm toàn bộ thủ tục giấy tờ, chuyển xác, hoả thiêu và bình tro tạm.

Toàn anh chị em trong gia đình góp thêm tiền, đem tặng hội từ thiện 35 ngàn đô. Cả nhà đều vui mừng, nhẹ nhỏm. /.

Tràm Cà Mau
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

Món quà con dâng Chúa
(Thân tặng chị Amy - người con gái da đen có tấm lòng vàng)

Image
Chị Amy Mai bên cây thánh giá
– ảnh: Hoàng Thanh/Viễn Đông.

Bước vào tiệm food to go, tôi thoáng thấy một phụ nữ da đen - mà tôi nghĩ ngay là người Mỹ đen hay Phi Châu, đứng trước quầy thức ăn dường như đang lựa chọn. Như thường lệ, tôi đứng đợi tới phiên mình. Bỗng dưng nghe chị này nói rất rõ ràng bằng tiếng Việt: “Bán cho tui một phần cơm chiên nhỏ”, làm tôi ngạc nhiên quay lại nhìn, vì không ngờ chị ta nói tiếng Việt rành thế. Da chị này rất đen, đúng điệu là dân lai Mỹ đen chính hiệu. Khi tôi ra bàn ngồi ăn, chị ấy bước đến rụt rè chỉ vào chiếc ghế bên cạnh tôi và hỏi: “Tui ngồi đây được không?”. Tôi gật đầu.

Trời Cali vào đông lành lạnh, ngồi gắp từng đũa mì Nam Vang nóng mà tôi nghe ấm cả lòng. Đang múc muỗng nước lèo thì chị da đen lên tiếng: “Trời lạnh quá, ăn cái này ngon lắm mà không chắc bụng”. Tôi quay sang nhìn thì bắt gặp chị ấy vừa đưa tay chỉ chỉ vào tô mì tôi đang ăn, vừa nói với ánh mắt có vẻ thèm thuồng. Chị nói với cái giọng chân chất rất nhà quê: “Cơm chiên nó hổng ngon bằng, nhưng nó chắc cái bụng, tui mới khiêng đồ nặng nổi”.

Thấy ái ngại, tôi nói ngay: “Chị ăn không? Tôi kêu tặng chị một tô”. Chị ấy lắc đầu: “Giờ ăn hổng kịp đâu, trễ xe bus là cả tiếng nữa mới có chuyến sau”. Tôi hỏi: “Chị làm gì mà phải khiêng nặng?”. Chị đáp: “Tui lau chùi cầu tiêu, lau sàn nhà, chùi rửa hết tất cả phòng, sắp xếp đồ đạc lại ngay ngắn, khiêng bàn ghế, nhiều bàn ghế nặng lắm, cái gì tui cũng làm hết đó, để mười giờ người ta vô thì mọi thứ phải sạch sẽ đâu vô đó”. Rồi chị tiếp, “Tui ở xa, nên 7 giờ phải dậy rồi, đi xe bus tới đây thì phải đổi xe bus khác mới tới. Nhưng đói quá nên tui phải xuống mua đồ ăn cho no bụng cái đã, rồi mới đón xe bus đi tiếp đến chỗ làm”.

Tôi cứ nghĩ chắc chị này đi làm thêm overtime ngày cuối tuần, nên tôi nói: “Chị làm thêm cuối tuần vậy, họ trả chị khá không?”. Chị nói ngay: “Tui đâu có lãnh lương, làm cho nhà thờ mà, cái này là tui tự nguyện làm, tui làm là cho Chúa, mà tui làm nhiều năm nay rồi...”. Vừa thấy tội nghiệp cho chị, tôi vừa thầm khâm phục chị đã có can đảm mà đứng chờ hai chuyến xe bus từ 7 giờ sáng, ngày Chủ Nhật - là lúc mà ai nấy đều đang ngon giấc với khí trời rất lạnh ở bên ngoài. Chị không những đã làm được điều phi thường đó, không có lương, một cách vui vẻ, mà lại từ nhiều năm qua...

Bỗng dưng tôi muốn làm quen: “Chị tên gì? Mà tại sao chị lại tự nguyện làm công việc này từ bao lâu nay, nhà thờ không có người nào phụ chị sao?”. Thấy có người quan tâm, chị có vẻ xúc động, nỗi xúc động mà tôi linh cảm như của một con người thường bị hất hủi bỏ rơi. Chị nói nhỏ lại: “Tui tên Amy, là tên Mỹ đó, còn tên Việt Nam, tui không thích nó...”. “Chị có tên Việt Nam?”. “Ừa, mà tui ghét nó lắm...”. Tôi ngạc nhiên: “Tại sao chị lại ghét tên mình?”. Chị đen im lặng, và rồi chị kể, bằng cái giọng quê mùa mộc mạc....

* Tuổi thơ đen...
“Khi Má sinh ra tui thì mọi người ai cũng đã ghét tui rồi. Chỉ vì tui ra đời dưới ngôi sao xấu, bởi vì cái màu da đen đúa không sao che giấu được của tui. Tui đâu có quyền được chọn màu da gì để sinh ra, cả Má tui cũng không chọn được cho tui.

Nhà tui nghèo lắm, ở ven bờ một con sông. Gia đình tui gồm có sáu người: Má và 5 chị em, chị Hai, chị Ba, chị Tư , tui, rồi đến em trai Út. Mấy chị và em trai là da vàng, chỉ có tui là đen thui thôi. Nhà tui nghèo mạt rệp, cả căn nhà dột nát, không có cả cái bàn hay cái giường, cái ghế. Một mình Má đi mò ốc cả ngày để bán lấy tiền mua đồ ăn cho 6 miệng ăn.

Mới ba, bốn tuổi là tụi con nít đã ghét tui. Tui tên Tí, họ Mai là họ của Má, vì Ba bỏ Má từ khi Má mới có bầu tui. Tụi con nít cả đám cứ đi theo sau tui hát nhạo là: ‘Cút về Mỹ đi con Tí đen’. Có đứa còn lấy que tre vít cứt chim, cứt gà rồi kêu cả bọn xúm lại đè tôi xuống, trét vô miệng tui, tới khi nào tui lạy, tui khóc thì tụi nó mới tha.

Năm 6 tuổi, Má cho tui với mấy chị đi học trường làng, nhưng tụi học trò khinh ghét tui lắm. Có lần tụi nó hè hội đồng tống một đống cứt gà vô miệng, tui không chống cự được nên nuốt vô cổ họng, nghe thúi ình và chua loét. Tui oẹ ra, tụi nó bốc nhét vô lại. Tui vùng vẫy, la hét. Thấy tui khóc dữ quá, mấy chị và em trai xúm lại binh, thì tụi nó đánh mấy chị, vừa đánh tụi nó vừa chửi: ‘Đồ Mỹ đen không cha cút về nước đen mà sống’. Lần đó tui chạy về khóc với Má sưng cả mắt. Má cứ im lặng và rồi bà cho tui nghỉ học luôn.

Nhiều lúc tui thèm được đi học, thèm được chơi chung, bất cứ trò chơi nào với chúng bạn, vậy mà đứa nào cũng chê là tui đen, tui dơ, tui thúi... hổng ai thèm chơi. Tui tủi thân lắm nên hỏi Má. Má bảo là Ba bỏ Má từ lúc tui chưa sinh ra nữa. Tôi ức lắm, hỏi lại: ‘Thế Ba tên gì? Sao Má không đi tìm?’. Má im lặng, rồi Má khóc. Tui thương Má quá, và tui ghét Ba lắm. Tui thề sẽ có một ngày tui tìm gặp Ba và hỏi Ba cho ra lẽ”. Tôi im lặng. Chị đen tiếp: “Tại Ba mà giờ này tui vẫn chưa biết đọc, biết viết. Người ta nói là tui mù chữ. Mắt tui sáng mà, tui thấy đường, nhìn tờ báo thì tui chỉ thấy hình, chớ không biết đọc.

Một hôm Má tui nói là: ‘Tí đen ơi, đúng là Trời thương Má con mình, mình sắp hết khổ rồi...’. Thì ra là chính phủ nước của Ba tui (chính phủ Mỹ) cho nhà tui đi theo diện con đen (con lai). Má và tui mừng hơn bắt được vàng.

Lúc vô phỏng vấn, tui run quá nên cứ khóc, mà tay chân thì lạnh ngắt. Tui cứ sợ ông Bill - tên ông hỏi chuyện Má tui, mà thấy tui đen, tui xấu, tui hôi, tui dơ... ổng không cho đi thì tui phải ở đây suốt đời tui khổ lắm.

Má tui cũng khóc, năn nỉ cô thông dịch xin ông Bill cho đi Mỹ. Lúc đó tui nghe ai cũng nói ở Mỹ sướng lắm, con nít được đi học, dù mình đen cũng không ai đánh mình, không ai nhét cứt vô miệng mình... Khi đó chị Hai và chị Ba có chồng rồi, còn chị Tư và em trai thì chưa. Má định nếu được đi Mỹ rồi thì Má sẽ nhờ người làm đơn xin chính phủ cho chị Tư và em tui đi sau.

Đêm trước hôm phỏng vấn, Má lo quá không ngủ được, mấy mẹ con cứ ngồi ôm nhau khóc cả đêm. Với gia đình tui, thì nước Mỹ là thiên đàng, chỉ tới Mỹ thì chúng tui mới hết khổ. Khi ông Bill biết rằng chị Tư và em trai còn độc thân, ông nói: ‘Chiến tranh đã làm cho Bà và các con cực khổ, nên nay vì nhân đạo, chúng tôi cho Bà, cô con gái lai và cả hai người con độc thân cùng đi, để qua Mỹ đùm bọc nhau mà sống’. Cả nhà tui khóc, vì mừng quá, đến nỗi quên cả nói lời cám ơn ông Bill...”.

* Bước rẽ ngoặc cuộc đời...
“Đặt chân đến ‘thiên đàng’ Virginia, bốn Má con tui không biết một chữ tiếng Anh, nói không được câu nào, mà đọc cũng rặn không ra, còn viết thì một chữ bẻ đôi cũng không biết. Một người quen cùng làng ngày xưa nhận ra Má, nên giúp tìm dùm cho chúng tôi thuê một căn apartment nhỏ xíu một phòng ngủ để cả nhà ở chung.

Cả nhà tui đi làm đủ thứ nghề nặng nhọc để đắp đổi qua ngày. Tui còn nhớ lần thi vô quốc tịch, tui lo quá chừng, cứ học thuộc lòng những câu hỏi như con vẹt, vì tui có đọc và hiểu được chữ nào đâu. Có một chị người Việt đọc cho tui nghe các câu hỏi rồi biểu tui học cho thuộc, hễ người ta hỏi câu nào thì trả lời y như đã thuộc. Vậy mà may mắn ghê, tui đậu.

Khi họ hỏi tui muốn có tên Mỹ không, hay vẫn muốn giữ cái tên Việt Nam là Tí Mai, thì tui khóc. Không biết nói tiếng, tui nhờ cô thông dịch nói dùm với ổng là ‘Tui ghét lắm cái tên Tí đen, vì nó đen như màu da tui, đen như tuổi thơ nghèo hèn của tui’. Ông Mỹ trắng hỏi tui muốn tên gì. Lúc đó tui chỉ nhớ đến đứa cháu họ xa, đi lính cho quân đội Mỹ. Có một lần về thăm Má con tui ở Virginia, nó nói lý do nó đi lính là vì nó muốn đền ơn chính phủ. Tui nhớ mang máng nó có nói quân đội Mỹ gọi là... ‘AMI’... gì đó thì phải.

Thiệt tình khi đó tui không biết chữ ‘AMI’ viết làm sao nữa, nên tui nói đại với cô thông dịch là ‘Tui muốn cám ơn chính phủ Mỹ, cám ơn ông Bill đã thương mà cho Má con tui đi, nên tui muốn có tên Mỹ là AMI, có nghĩa là quân đội’. Tui còn nhớ khi nghe tui nói vậy thì cô này cười, dễ thương lắm, và cô viết tên tôi lên tờ giấy đưa cho ông Mỹ. Thế là passport của tui có cái tên Amy Mai từ đó. Mãi sau này tui mới biết là cô đã quên chữ e rờ (R), vì quân đội viết là “army”, nhưng sao có người lại nói với tui là cô ta cố tình quên...?

Sau đó vài năm, thì phát giác ra là Má tui bị có nước trong phổi. Bác sĩ sau khi hỏi cặn kẽ đã giải thích rằng, do Má ngâm nước lạnh hằng mấy chục năm liền khi đi mò ốc, nên giờ phổi Má yếu lắm. Mấy chị em sợ quá, đứa nào cũng đi làm quần quật mà không sao đủ tiền mua thuốc cho Má. May mà Trời thương, nên lại có người hàng xóm ngày xưa biết chuyện, bảo chị em tui qua Cali ở đi, thì khí hậu ấm sẽ tốt hơn cho sức khỏe của Má.

Nhưng tiền đâu mà mua vé máy bay? Cô Anh bảo, ‘Khi xưa lúc chồng cô mới chết, cô một mình với con nhỏ, sức khỏe yếu nên không sao ngâm nước nổi, nhờ Má cho cô bữa bịch ốc, khi mấy con tôm mà sống qua ngày’, nên cô muốn đền ơn Má bằng cách mua bốn vé máy bay cho chúng tôi qua Cali, cô cũng đã thuê sẵn một appartment nhỏ (cô Anh đã trả trước một tháng tiền nhà) cho Má con tui. Thế là cả nhà kéo nhau qua Cali.

Cả tháng trời không ai xin được việc làm. Khi chỉ còn vài ngày là hết tháng, tụi tui lo lắm vì tiền đâu để trả cho tháng tới? Gọi phone cho cô Anh thì cô và gia đình đi đâu rồi nên không sao liên lạc được. Một buổi tối trước ngày Giáng Sinh, mấy Má con đứng đón xe bus về nhà. Trời lại lạnh, bụng ai cũng đói, nên không còn sức để mà đi, cứ đứng mà run.

Chúng tôi thấy nhiều người đi vào một nhà thờ nhỏ. Vì lạnh quá, nên chúng tôi cũng đi vô đại, định tìm một chỗ trú cho ấm chút rồi sẽ về. Đó là buổi tối đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời chúng tui. Trên kia, mục sư Bảo đang giảng về tình yêu của Chúa. Ông nói: ‘Chúa luôn luôn dang rộng vòng tay yêu thương cho mọi người’.

Có lẽ lúc ấy, vì quá buồn, mỏi mệt và tủi thân, nên bốn Má con đứng khóc ròng. Một người đàn bà bước lại hỏi thăm (sau này tui mới được biết là vợ Mục Sư Bảo). Má con tui thật lòng kể hết. Vợ chồng Mục Sư cùng một vài cô chú ở nhà thờ thấy tội nghiệp, nên chở giùm mấy Má con về nhà, rồi hôm sau người ta đem đồ đến cho, bàn ghế, quần áo, tiền bạc, thức ăn. Rồi đích thân vợ chồng Mục Sư giúp điền đơn dùm Má con tui để xin tiền bệnh, tiền trợ cấp. Cũng chính nhờ sự khuyến khích, nâng đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần, mà Má con tui mới sống nổi qua ngày...”.

* Con đến với Ngài...
“Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi Chủ Nhật. Cám ơn Chúa. Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui, không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết. Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu ‘Amy, đến phụ cô làm cái này đi!’, ‘Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵng làm chứ cháu...". Và tui biết là ở nơi nào có Chúa, thì tui có tình thương...

Mang ơn vợ chồng Mục Sư Bảo và các cô chú trong nhà thờ, nên mấy chị em tui tình nguyện làm bất cứ việc gì nhà thờ cần. Tiền thì không có, nên chúng tui đóng góp bằng công sức và thời gian. Tui không bao giờ buồn vì công việc mình làm hết. Mà cầu tiêu ở Mỹ sạch sẽ lắm kìa, không có dơ, không có thúi như mấy đống cứt gà mà hồi nhỏ tui phải nuốt đâu. Tui vui lắm, dù công việc có cực nhọc cách mấy, vì tui biết mình làm là đền đáp công ơn Chúa...

Và rồi một ngày, Chúa gọi Má tôi về với Ngài. Bà chết khi trong túi mấy chị em cộng lại hết vẫn chưa được một đồng. Lúc còn sống, Má cứ ước có tiền về Việt Nam thăm chị Hai, chị Ba và các cháu. Vậy mà mơ ước chưa thành, Má đã ra đi. Tui còn nhớ lúc biết mình sẽ không qua khỏi, Má nói với các chị em tui: ‘Ngày xưa Má cứ ước ao cả nhà mình qua đến được thiên đàng, nhưng nếu như Má có mất, thì mấy con ráng lo cho Má về Việt Nam mà chôn cất, dù gì nằm bên bờ sông ngày xưa với mấy con ốc, Má vẫn thấy ấm lòng hơn...’.

Cả nhà ai cũng đều biết ước nguyện cuối cùng của Má là được chôn nơi miền quê cha đất tổ, mà đào đâu ra tiền để chở xác Má về Việt Nam? Tụi tui chỉ biết khóc, vì không mua nổi một quan tài cho Má. Vợ chồng Mục Sư Bảo biết rõ ước nguyện của Má, nên tối nào Mục Sư cũng lên đài kêu gọi mọi người giúp một tay. Đêm nào mấy chị em cũng ngồi trên đài với Mục Sư Bảo và tụi tui cứ khóc, thương Má, mang ơn vợ chồng Mục Sư và tất cả những người hảo tâm.

Nhiều người mang tiền đến tận nhà giúp. Cuối cùng quyên góp được 16 ngàn đồng, một gia tài mà mấy chị em tui không bao giờ dám mơ tới. Phải, 16 ngàn đồng - con số này suốt đời tui không thể nào quên. Đó là công ơn của hằng trăm người, mà nhiều nhất là vợ chồng Mục Sư Bảo và bác sĩ Nguyễn Hùng. Anh Tuấn ở nhà quàn biết hoàn cảnh nhà tui, nên anh bớt cho hai ngàn tiền chi phí chuyên chở xác Má về Việt Nam. Em trai tui được mua vé đi cùng về Việt nam với Má. Rồi số tiền còn lại thì mục sư đưa cho em tui về mua đất và lo chôn cất Má. Thế là cuối cùng, Má cũng được về yên nghĩ vĩnh viễn bên vùng ven biển ngày nào, với những con ốc nhỏ ngày xưa. Tạ ơn Chúa. Tạ ơn những tấm lòng...”.

Chị Amy ngừng kể. Tôi im lặng, vì tôi biết có nói gì cũng sẽ là rất thừa thãi vào giây phút này. Bất chợt chị nói: “Tui không biết tên Ba, phải chi tui được gặp lại ông Bill năm nào phỏng vấn, có thể tui nhờ ổng tìm ra Ba tui...”.

- “Chị mong gặp lại Ba chị à? Chị không giận Ba sao?”.

- “Ngày xưa tui ghét Ba lắm. Nhưng Chúa dạy rằng ‘Mình phải biết tha thứ và yêu thương’. Tui chỉ mong gặp Ba, để nhìn ông và kêu một tiếng ‘Ba’ một lần trong đời”.

Ngừng một chút, chị tiếp: “Và tui sẽ nói rằng ‘Ba đã làm Má khổ và con buồn’. Vậy thôi...”.

* Món quà con dâng Chúa...
Gió ngoài trời lành lạnh, báo hiệu một mùa Giáng Sinh nữa lại sắp đến. Tôi hỏi: “Năm nay Giáng Sinh, chị sẽ làm gì?”. Chị Amy buồn buồn đáp: “Tui đến nhà thờ dọn nhà cầu, khiêng bàn ghế, lau chùi các phòng, dự Thánh lễ rồi về nhà... nhớ Má. Má mới mất năm ngoái thôi, nên tui nhớ bả lắm...”. Chị lại tiếp: “Năm nào tui cũng đâu có tiền mà mua gì dâng tặng nhà thờ, hay tặng vợ chồng mục sư - người mà gia đình tui mang ơn cả đời, nên tui chỉ biết cầu nguyện cho mọi người. Nhiều lúc tui buồn lắm, vì không năm nào có tiền mua món quà gì dâng Chúa...”.

“Những gì chị làm, chắc chắn là Ngài sẽ biết mà. Tôi tin chắc là thời gian, công sức và tấm lòng của chị, sẽ là một trong những món quà mà Ngài ưng ý nhất...”.

Chị Amy chỉ cười, không nói. Tự dưng chị hỏi: “Khi nào có báo, chị cho tui xin ba tờ được không?”.

- “Được chứ”. Tôi đáp ngay.

- “Tui sẽ mang biếu vợ chồng Mục Sư Bảo một tờ, bác sĩ Nguyễn Hùng một tờ, còn một tờ tui sẽ nhờ ai đó đọc cho tui nghe, tại tui không biết chữ, rồi thì tui sẽ giữ nó mãi suốt đời. Phải chi Má còn sống, nghe đọc tờ báo này, chắc Má tui vui lắm...”.

Chị Amy nhờ tôi gửi bài viết này kính tặng vợ chồng Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, Bác Sĩ Nguyễn Hùng cùng tất cả những tấm lòng nơi Thánh đường Sài Gòn. Chị nói, đây là món quà - từ trái tim - chị dâng tặng mọi người nhân mùa lễ Giáng Sinh.

Trước khi chia tay, tôi hứa sẽ mang tặng chị Amy ba tờ báo, và sẽ đọc cho chị nghe. Chị nói: “Cám ơn người đẹp”. Tôi ngượng ngùng: “Chị đừng gọi tôi là người đẹp, kỳ lắm”. Amy đáp: “Đẹp chứ, bởi vì chị trắng hơn tui...”.

Tôi quay đi. Chạnh cả lòng. Nhìn xuống làn da mình, tôi tự hỏi, cuộc đời này có được bao người thật sự “trắng da” hơn chị?

Hoàng Thanh/Viễn Đông.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image


CHỮ TRINH CÒN MỘT CHÚT NÀY

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

Trong quyển Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du, người ta đọc được năm lần, hoặc trực tiếp hay gián tiếp Kiều nhắc đến chữ Trinh, và một lần Kim Trọng biện giải về chữ này.
Lần thứ nhất, giữa đêm khuya sau khi Kiều gảy đàn nơi hiên Lãm Thúy, thì Kim Trọng :

… “Sóng tình dường đã xiêu xiêu,

Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”…

Nàng nghiêm trang cảnh tỉnh người yêu bằng những lời lẽ thanh tao, và trong vài câu mở đầu đã nói đến chữ trinh, như một thứ vũ khí có hiệu quả làm dịu đi được cơn sóng tình đang bộc phát kia :

… “Đã cho vào bậc bố kinh,

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”…

Với mẫu người được mô tả là quân tử như Kim Trọng, thì chữ trinh nêu ra ở đây quả là một gáo nước tưới tắt được lửa lòng đang từng cơn thèm muốn trong chàng. Vì họ mới lén lút yêu nhau mà đã hò hẹn gặp gỡ thề thốt. Rồi cùng nhau uống rượu, ngâm thơ, gảy đàn đã là đi quá lễ giáo gia phong rồi… nếu biết giữ gìn trong sạch cho nhau, thì còn có thể châm chước được. Lại ra tuồng “trên bộc trong dâu” và muốn “ăn xổi ở thì” nữa, thật không xứng đáng là kẻ học sách thánh hiền. Rồi Kiều lại đem chuyện Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh làm dẫn chứng :

… “Gẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

Lứa đôi ai dễ sánh tày Thôi-Trương.

Mây mưa đánh đổ đá vàng,

Quá chiều nên để lỡ làng yến anh.

Trong khi chấp cánh liền cành,

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

Mái Tây để lạnh hương nguyền,

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

Gieo thoi trước phải giữ giàng,

Để sau nên thẹn với chàng vì ai”…

Lần thứ hai, bằng lời lẽ gián tiếp, sau khi về với Mã Giám Sinh nàng thốt :

… “Phẩm tiên rơi đến tay hèn,

Uổng công nắng giữ mưa gìn với ai !

Biết thân đến bước lạc loài,

Nhụy đào thà bẻ cho người tình chung”…

Rõ ràng là cái phẩm của tiên, cái nhụy của hoa đào nay đã về tay kẻ ô trọc. Giá mà nàng biết được tấm băng trinh phải như thế, thì thà là dâng hiến cho chàng Kim trong đêm gảy đàn đó vẫn còn hơn.

Lần thứ ba, lúc ở lầu Ngưng Bích bỏ trốn vì mắc mưu Tú Bà và Sở Khanh nàng bị bắt trở lại, bị đánh đập tàn nhẫn đành cất tiếng lạy van rồi đau lòng trình thưa :

… “Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa !”..

Xin chừa chút lòng trinh bạch ! Thật là tiếng than đứt ruột ! Không muốn làm gái làng chơi để giữ cái trinh bạch của người đàn bà cũng không được, thôi thì quản gì thân lươn phải chịu lấm đầu !

Lần thứ tư, trong buổi tiệc cả nhà đoàn viên, cha và em đều một lòng nối duyên nàng lại với chàng Kim, Kiều nại lý do :

… “Nghĩ rằng : Trong đạo vợ chồng,

Hoa thơm phong nhụy trăng vòng tròn gương.

Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,

Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng sau xưa”…

Ôi ! thân nàng giờ đây “ong qua bướm lại” lắm rồi. Chữ trinh ngàn vàng còn đâu nữa mà dâng hiến cho kẻ tình chung ! Nên nàng nhất mực chối từ, nhưng cuối cùng đành phải cắn răng ưng chịu.

Chàng Kim thì hết lòng bào chữa cho chữ trinh đã bị hoen ố đó :

… “Xưa nay trong đạo đàn bà,

Chữ trinh cũng có đến ba bảy đường.

Có khi biến, có khi thường,

Có quyền nào phải một đường chấp kinh ?

Ví nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay ?”…

Nàng vì hiếu phải bán mình chuộc tội cho cha, thì dù tấm băng trinh có nhơ nhuốc đến ngần nào dưới con mắt của chàng vẫn cho là còn trong trắng.. Ta biết Kim là môn đồ trong cửa Khổng với thuyết lý luôn bó chặt trinh tiết của người phụ nữ, xem đó như món hàng quý giá khi lấy chồng và gần như không có gì đánh đổi được. Nhưng chàng ta lại quan niệm rất rộng rải trong trường hợp này.

Lần thứ năm, trong đêm động phòng hoa chúc để tái hồi duyên nợ với Kim Trọng, chàng muốn vầy duyên ân ái. Nàng cũng nghiêm trang khôn khéo chối từ :

… “Chữ trinh còn một chút này,

Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan !”…

Với lý do như thế, nàng xin Kim hãy coi nàng như bạn tri kỷ. Tiếng là vợ chồng nhưng không chung đụng xác thịt. Chỉ cùng nhau “khi chén rượu lúc cuộc cờ, khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” mà thôi. Kim cũng bằng lòng và họ giữ vậy cho đến mãn đời.

Trong tất cả các sách vở nói đến đoạn này, đều đồng quan điểm như lời giải thích của hai cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim : “chữ Trinh đây là nói cái lòng trinh tiết của Kiều vốn giữ với Kim Trọng tự xưa đến nay. Dẫu có phải ong qua bướm lại cũng là bất đắc dĩ, chứ cái lòng thỉ chung vẫn không đổi. Đấy là nói cái trinh của Kiều đối với Kim Trọng : cái trinh ấy Kiều muốn giữ cho được trọn vẹn, không nở đem cái thân tồi tàn mà đãi người tình chung”.

Tuy nhiên, cũng xin được có một nhãn quan khác, để phiếm bàn về “Chữ Trinh” đó như sau :

Kim Trọng là mối tình đầu khi Kiều vừa mới “cặp kê” tức khoảng 15 – 16 tuổi, và mẫu người thư sinh quân tử, nho nhã phong lưu như chàng Kim hẳn là kẻ trong mộng tưởng của nàng rồi. Nên suốt quảng đường sương gió có rất nhiều lần nàng nghĩ đến người yêu. Nay được tái hồi trong đèn hoa chúc, trong tiệc hợp cẩn giao bôi, thì hà tất gì nàng nỡ để hoa xưa ong cũ chẳng được hưởng cái tình chung ?

Lấy lý do theo giải thích trên, bề ngoài thì đúng. Nhưng chắc còn có ẩn tình ? Bởi nàng cũng biết, chính Kim đã hết lời binh vực cho chữ trinh hoen ố của nàng, rằng không có chi là dơ bẩn. Thế thì việc ăn nằm với chàng đâu có gì là tồi tàn ? Cố chấp quá chăng ? Câu trả lời có lẽ là không.

Xin thử lý luận một vài sự kiện xảy ra trong suốt cuộc đời luân lạc của nàng, để tìm hiểu cho điều này.

Nàng và Kim Trọng đúng là một cặp tài tử giai nhân hiếm có. Họ yêu nhau thật tương xứng ! Yếu tố về kinh nghiệm trường đời đối với họ trong tuổi cặp kê này hầu như không có. Nhất là đối với Kiều, một cô gái chỉ biết có phòng khuê. Giá mà mọi việc đều cứ bình thản trôi qua, thì không có gì để nói.

Nhưng sau đó, Kiều bị ném ra ngoài xã hội, phải lăn mình vào giữa đống bùn nhơ nhớp của cuộc đời. Kinh nghiệm sống mỗi ngày một chồng chất thêm lên. Cho nên mẫu người “mọt sách” như kiểu chàng Kim, bây giờ đã có phần bị xói mòn trong tâm não của Kiều, vì nàng là nạn nhân của loại người này quá nhiều !

Nào là Mã Giám Sinh – tức là người họ Mã học sinh trường Quốc Tử Giám – không biết là thực hay giả, nhưng theo tên gọi thì cũng là hạng sách đèn, nhưng lại chuyên nghề ăn bẩn lầu xanh !

Nào là Sở Khanh với cái vẻ “hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”, ngâm thơ xướng họa đúng là hạng thư sinh thứ thiệt. Thế mà lại là “một cốt một đồng” với mụ Tú Bà chuyên gạt gẫm gái lành !

Rồi đến Thúc sinh viên, Truyện Kiều đã tả :

“Khách du bỗng có một người,

Kỳ Tâm họ Thúc vốn nòi thư hương”…

Nòi thư hương ! Ba tiếng đó đủ xác định con người có ăn học. Chàng lại là rễ của quan lớn đầu triều, cũng có tác phong nho nhã văn vẻ hơn người, nhưng về nhà thì sợ vợ hơn cha !

Kịp đến lúc Hồ Tôn Hiến xuất hiện, Kiều càng thấy chán chường thêm cho kẻ sĩ có quan danh. Hồ là một trọng thần của triều Minh, lại giữ chức Tổng Đốc với kinh luân gồm đủ hẳn là văn võ toàn tài. Nhưng mưu mô lừa đảo thì quá bỉ ổi, lại còn ép vợ của tướng địch phải thị yến dưới màn để chuốc rượu nài hoa. Điều này một tướng lãnh biết trọng danh dự không ai làm. Đó là chưa kể nàng hết sức ghê tởm cho hạng quan lại bất công, chuyên ăn của lót như tên quan đã xử ép cha nàng.

Bên cạnh đó, một Từ Hải sáng rực hào quang trí dũng có thừa. Kiều gặp chàng mới đúng câu :

… “Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cỡi rồng”…

Qua kinh nghiệm bản thân trong suốt gần 10 năm lưu lạc phong trần, nàng nhìn được cái chân giá trị trong chí khí hào kiệt của Từ :

… “Thưa rằng lượng cả bao dong,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen,

Rộng thương nội cỏ hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”…

Họ thật là ý hợp tâm đồng, vì Từ cũng nhận xét về nàng :

… “Khá khen con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già”…

Chỉ có Từ Hải mới đích thực là ý trung nhân đánh giá đúng về nàng. Còn Kim Trọng chỉ là kẻ thấy hương thì luyến, thấy ngọc thì thương chứ không nhìn được tim óc của người đẹp.

Trong lần tái hợp này, thực tình mà nhận xét, thì cán cân tâm hồn của Kiều đã nặng về phía họ Từ mất rồi. Kim Trọng dù hiện diện bằng xương bằng thịt, cũng chỉ là cái bóng mờ của dĩ vãng. Chăn gối với chàng chắc gì có mặn nồng âu yếm, thà tìm cách từ chối còn hơn. Nếu ân ái, biết đâu Kim Trọng tìm hiểu được sự miễn cưỡng này, sẽ đau xót đến ngần nào.

Lại nữa, trong năm năm chung sống với Từ, tuy miệng đời cho là vợ của tướng giặc, nhưng cũng “Triều đình riêng một góc trời. Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà” với đầy đủ thể thức của bậc mẫu nghi thiên hạ. Dân chúng lại rất cảm phục sự nhân nghĩa của nàng. Đó cũng là một kỷ niệm khó quên.

So sánh như thế để thấy ẩn tình của nàng muốn thủ tiết với Từ, vì Từ mới thật là người chồng lý tưởng. Nhờ Từ mà nàng trả được oán ân đủ đầy. Từ chết thảm thương cũng vì nàng. Không thủ tiết mới chính là bội nghĩa. Dù nàng không có cái trinh để dâng hiến Từ, nhưng còn cái tiết phải giữ cho chàng. Cái tiết phụ đó là : lấy chồng phải theo chồng, vinh nhục cùng chồng, chồng chết thủ phận thờ chồng đúng theo đạo lý. Bây giờ hoàn cảnh có khác, tuy nàng không chính thức công bố thủ tiết với Từ, nhưng âm thầm cư xử như vậy bằng chính tâm hồn và thể xác của mình vẫn đỡ ân hận hơn.

Có thể người đời không biết, nhưng linh hồn Từ ắt biết. Chung chăn gối với Kim Trọng là làm đau lòng kẻ đã bỏ xác vì mình ! Biết đâu chẳng là như vậy đối với Từ ! Trong khi sự thủy chung của Kim Trọng đã được đền đáp bằng Thúy Vân kia rồi. Quả thật nàng nợ chàng Kim có ít, mà nợ với Từ thì lại quá nhiều…

Cho nên trước khi nại lý do “Chữ trinh còn một chút này…” để quyết định dứt khoát từ chối sự ăn nằm với Kim, nàng cũng đã thốt : Khéo là dở nhớp bày trò. Còn tình chi nữa là thù đấy thôi !” như muốn nói thẳng ra rằng :

“Nếu chàng nhất định đòi giao tiếp xác thịt thì chỉ là bày trò nhơ nhớp, khiến cái tình cũ mà thiếp đã từng dành cho chàng 15 năm về trước nay biến ra thù hận mà thôi ! Hãy để cánh hoa tàn này được phụng thờ linh hồn Từ Hải. Vì chính Từ đã từng vớt nó khi còn ở lầu xanh, đem nó về đưa lên ngôi tuyệt đỉnh, trân trọng nó, và chết đứng vì nó. Hãy giữ trong lòng cô Kiều ở tuổi cập kê, và để yên cho cái thể xác của Kiều sau 15 năm luân lạc này ! Chính đó là hai hình ảnh của một con người, nhưng xin đừng nhập nhằng lẫn lộn. Đừng phong thánh bằng những mỹ từ “lấy hiếu làm trinh” rồi cho cả hai vào làm một. Bắt cô Kiều sau phải trả nợ gối chăn cho cô Kiều trước bằng cái vỏ đạo đức luân thường, thì cũng bỉ ổi chẳng kém gì Hồ Tôn Hiến đã bắt nàng thị yến dưới màn… trong đêm thắng trận”.

Có người thắc mắc rằng sau khi Từ chết, nàng đã thất thân với hai kẻ khác nữa, đó là Tôn Hiến và Thổ Quan thì tiết hạnh còn đâu mà giữ ?

Ắt hẳn ai cũng biết đó là do ép buộc chứ lòng nàng đâu muốn. Phải đành nhắm mắt đưa chân mà thôi ! Vả có muốn chăng là cố ý tống mắt đưa tình với Hồ Tôn Hiến, để ép tên dâm quan này uống rượu mà bằng lòng cho cảo táng di hình thân thể Từ Hải chôn ở một mảnh đất xấu ven sông. Nếu không thì xác của Từ Hải phải phơi ngoài chiến địa, làm mồi cho quạ diều cùng thú dữ !

Biết đâu nàng cũng coi hai gã này như những bọn đã từng “vào trước ra sau” đối với nàng khi ở lầu xanh, để “Mặc người mưa Sở mây Tần. Riêng mình nào biết có xuân là gì ?”. Chắc Từ cũng hiểu mà thông cảm cho nàng.

Còn bây giờ, tuy cũng trong hoàn cảnh bị cha và gia đình ép buộc động phòng hoa chúc với Kim, nhưng còn chủ động tìm cách biến tình chồng vợ ra nghĩa bạn bè, để khuớc từ chăn gối được, tại sao không làm ?

Theo thiển kiến người viết, Kiều khéo lập luận “Chữ trinh còn một chút này”… để an lòng Kim Trọng, chứ thật sự bề trong nàng muốn thủ tiết với Từ. Nhìn rộng hơn, có lẽ đây cũng là tâm sự của Tiên Điền Tiên Sinh khi mà thể xác mặc triều phục nhà Nguyễn, nhưng trong lòng vẫn hoài vọng vua Lê.
Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Nhật ký về Phùng Quán
Viên Linh
14 tháng 1, 1997 - Bốn mươi năm trước, báo Văn xuất bản tại Hà Nội, số 21 ra ngày 27 tháng 9, 1957, có đăng bài thơ Lời Mẹ Dặn của Phùng Quán.

Bút giấy tôi ai cướp giật đi -
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá
.

Hai câu thơ ấy như một tuyên ngôn của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Người viết tuyên ngôn lúc ấy mới 25 tuổi. Sau đó là tù đày, và ròng rã ba mươi năm sống như ngoi trên mặt nước, chỉ đủ sức để nhô lên để khỏi cái chết ngạt.
Hai năm trước, vào tháng này - 5 giờ chiều Thứ Bảy, 21 tháng 1 năm 1995, Phùng Quán từ trần tại Hà Nội. Trưa Thứ Ba, 24 tháng 1, trên 500 người đưa anh về an táng tại quê vợ ở Ô Cầu Giấy, đi trên hơn 10 chiếc xe vận tải, xe buýt, với 70 vòng hoa. Có mặt khi hạ huyệt là các nhà văn Nguyễn Hữu Ðang, Hoàng Cầm, Phùng Cung, Lê Ðạt, những người bạn từ thời Giai Phẩm. Nguyễn Hữu Hiệu không về được mặc dù từ năm 1978, Hiệu đã kết nghĩa huynh đệ với Phùng Quán, mặc dù năm 1993, anh Phùng Quán đã cùng vợ chồng Hiệu về Ðồng Văn thăm mộ thầy chúng tôi, trước khi Hiệu lo việc tảo mộ.
Ðời Phùng Quán có nhiều số 1. Anh ra đời tại xã Thùy Dương, thành phố Huế, trong tháng 1 năm 1932, đến tháng 1 năm 1946 gia nhập Vệ Quốc Ðoàn, khi mới 13 tuổi. Sau đó chuyển qua làm trinh sát Trung Ðoàn 101. Vào năm 1970 anh gửi truyện ngắn nhan đề “Như Con Cò Vàng Trong Cổ Tích” dự cuộc thi viết truyện ngắn do hãng APN Liên Xô tổ chức và được trao giải nhất. Cũng vào tháng 1, đúng hai năm trước đây, anh lìa đời.
Thuở Nhân Văn, Giai Phẩm, bài Phùng Quán được anh em trong nhóm gọi là bom nguyên tử. Khi phong trào bị trù dập, tác giả bài “Thơ Cái Chổi” chống tham ô lãng phí đi tù. Sau khi ở tù ra, cũng không được chính thức cầm bút trở lại, do đó anh đã phải viết kiếm sống dưới 30 bút hiệu khác nhau. Nhưng đối với anh, thơ vẫn là chốn trú ẩn cuối cùng: “Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi.” Hay “có những lúc ngã lòng, tôi vịn thơ mà đứng dậy.”
Căn nhà nhỏ anh chị Phùng Quán-Vũ Bội Trâm ở vốn trước kia là cái chuồng ngựa, số 10 đường Thụy Khuê, trước Hồ Tây, trong khuôn viên trường Chu Văn An. Anh gọi nhà anh là Chòi Ngắm Sóng. Ðời sống nhà thơ đã được kể lại phần nào trong bài “30 Năm Cá Trộm, Rượu Nợ, Văn Chui,” thơ hơn là trong bài “Ðêm Nghi Tàm Ðọc Ðỗ Phủ Cho Vợ Nghe.” Anh nói về thơ Ðỗ Phủ mà như nói về thơ mình:

Ðỗ Phủ tự Tử Mỹ
Thường xưng già Thiếu Lăng
Sinh ở miền Ðất Củng
Cách ta hơn ngàn năm

Thơ ai như thơ ông
Lặng im mà gầm thét
Trang trang đều xé lòng
Câu câu đều đầm huyết.

Thơ ai như thơ ông
Kể chuyện mái nhà tốc
Vác củi làm chuồng gà
Ðọc lên trào nước mắt!

Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất!
(1969)

Trực tiếp hơn, Phùng Quán nói về mình:

Là nhà văn
Tôi đã viết suốt ba mươi năm
Là chiến sĩ
Tôi là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn
Tôi có thể viết như bắn!
Trên giấy không kẻ dòng
Nhưng tôi vẫn viết trên giấy có dòng
Như cái thuở vỡ lòng tập viết.
Với nhiều người
Giấy không kẻ dòng
Dễ viết đẹp
Nhưng với tôi
Không có gì đẹp hơn
Viết ngay và viết thẳng.


Và đây là tuyên ngôn thời 70, khi Phùng Quán làm bài “Dịch Thơ Essenhin.” (Theo chú thích của tác giả, Essenhin thắt cổ tự tử năm 30 tuổi, vào năm 1925; trước khi chết cắt máu ngón tay viết hai câu tuyệt mệnh: “Ở cuộc đời này chết chẳng có gì mới. Nhưng sống cũng chẳng có gì mới hơn!” Cũng vẫn theo Phùng Quán, nhà thơ Mai-a (Vladimir Mayakovsky) tin rằng Essenhin chết vì tuyệt vọng - song sau đó chính Mai-a cũng tự sát chết năm 37 tuổi. Phùng Quán làm bài “Dịch Thơ Essenhin” như sau, và theo tôi, bài này là một tuyên ngôn nữa của Phùng Quán:

Cả triệu người, nửa thế kỷ qua
Trong đó có cả Mai-a
Ðều tin Essenhin tự sát vì tuyệt vọng
Nhưng tôi không tin, tôi biết
Vì sao Essenhin tự giết

Khi anh thấy thơ không đủ sức mạnh
Ðể tiêu diệt cái cũ
Anh phải lấy máu anh, hồn anh, thân xác thiên tài của anh
Ðúc chiếc chuông-thơ-cảnh-tỉnh
Sống là phải mới không ngừng
Nếu không
Thì cả thơ và đất nước đứng trên bờ vực chết!
(Dịch thơ Essenhin, 1970)


Năm 1950, rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn, ga Ðồng Văn lên Hà Nội trọ học, không phải tôi chỉ rời bỏ quê làng, mà không biết rằng từ lúc đó con đã bỏ lại mộ thầy. Ðã 47 năm qua, (tới 1997) chưa một lần bái mộ, cho nên khi nhìn thấy tấm hình anh Phùng Quán ngồi nhổ cỏ dại trước mộ phụ thân mình, tôi đã kìm dòng lệ, không cho các em tôi biết. Chưa kịp viết thư cảm ơn anh, anh đã qua đời. Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, hai câu thơ ấy cũng là châm ngôn. Bài thơ “Lời Mẹ Dặn” của anh nói theo cách nói của Lê Quí Ðôn - đáng gọi là Bài Châm Bên Mình. Anh viết châm cho người, thật ra cũng là viết châm cho mình:

Là nhà văn và xạ thủ
Tôi biết
Khó vô cùng bắn trăm phát trúng cả trăm
Nhưng càng khó hơn
Viết trọn một đời văn
Dòng đầu thẳng ngay như dòng cuối.
(Tôi Thích Viết Trên Giấy Có Kẻ Dòng, 1984)


(Ðể nói rõ hơn vì sao có việc gặp gỡ giữa nhà thơ Phùng Quán và dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, nguyên trưởng ban Tu thư Viện Ðại Học Vạn Hạnh, người viết bài này xin trích vài đoạn thư Phùng Quán gửi Nguyễn Hữu Hiệu)
Hà Nội, sáng 25 tháng 2 (1978) - Hiệu biết không, vào tháng 8 năm 1975, mình đã nằm ngủ ở cái giường mà Hiệu đã ngủ rồi đó. Hồi đó mình vào Vạn Hạnh thăm Thượng Tọa (Minh Châu), gặp Chân Nguyên, Chân Hạnh Nhiều buổi trưa, đêm, mình nằm ngủ trên cái giường thoảng mùi ẩm mốc đó, tò mò đọc những giấy tờ rơi vãi Hiệu để lại. Và trong những ngày đó, mình đọc những lời bạt của Hiệu viết về Ðốt. (Dostoievsky), bản dịch Vĩnh Biệt Tình Em (Dr. Jivago của Boris Pasternak), những trang thơ Jivago Hiệu dịch. Chơn Nguyên còn cho mình một bản Bác Sĩ Jivago, có nhiều chỗ sửa chữa của Hiệu, chuẩn bị cho một bản dịch mới. Bản sách này mất mấy chục trang cuối, hiện nay mình còn giữ
Mình quê ở Huế, năm nay đã 46 tuổi.

Chòi Ngắm Sóng 2 giờ sáng ngày 31 tháng 9, 1990 - Hai hôm nay Hà Nội mưa tầm tã, mình ngồi trên Chòi Ngắm Sóng nhìn Hồ Tây phủ mưa, nghĩ đến Hiệu 15 năm trôi qua - cuốn sách (Jivago) mình vẫn còn giữ trong tủ sách của mình. Cách đấy hai năm Jivago được Hà Nội in. Cuộc sống của mấy anh em chúng mình ở đây (Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm) không còn cam go như cái hồi 56, 57... Nhưng những ngày đó chính là những ngày sống đẹp nhất, trọn vẹn nhất của mấy anh em.

Hồ Tây sáng sớm, đầy gió 24 tháng 11, 1993
Hai em Dung Hiệu và cháu Siêu Việt
Anh gửi kèm theo đây tờ báo Pháp Luật đăng bài phản ứng về việc phá bỏ núi Giả Sơn - Cảnh tượng rất hoang tàn - Hai em nhìn thấy chắc phải khóc.
Anh đã gặp T.T. cho biết đã về Ðồng Văn gửi tiền cho ông chú xây mộ cho cu ỳ- Trong tuần sắp đến T. sẽ về tận nơi xem xét và sẽ chụp ảnh gửi sang cho hai em yên tâm.”
Bài thơ sau đây là một trong những di cảo của Phùng Quán để lại:

Mời bạn

Tôi muốn mời bạn đến thăm nhà tôi
Bạn thích đến lúc nào tùy bạn
Cửa nhà tôi bốn mùa mở rộng
Chim trời
Thánh hiền
Du đãng
Bước qua ngưỡng cửa nhà tôi đều là thượng khách [à]

Vĩ nhân
Anh hùng
Người đẹp
Những người từng khuynh đảo thế gian
Ðều trở thành tro bụi
Chỉ có thiên nhiên
Rượu
Thơ
Tình bạn
Là bất tử.

Phùng Quán, Hồ Tây sáng sương mù.

(Viên Linh, Hồi Ký Văn Học, chưa hoàn tất)
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Sao 'Mamma Mia' nhận sao trên Đại lộ Danh vọng
Tên của tài tử người Anh Colin Firth sẽ được in trên ngôi sao thứ 2.429 ở Đại lộ Danh vọng Hollywood (Walk of Fame) nhân sự kiện bộ phim mới nhất do anh thủ vai chính - 'The King's Speech' được 7 đề cử Quả cầu vàng.

Ngày 13/1, Colin Firth sẽ xuất hiện tại Walk of Fame phía bên ngoài quán rượu The Pig & Whistle để nhận viên gạch ngôi sao mang tên mình. Hoạt động điện ảnh từ năm 1984 nhưng phải trải qua gần ba thập kỷ cống hiến, nam diễn viên 50 tuổi người Anh mới nhận được vinh dự này của Hollywood.
Image
Tài tử Colin Firth. Ảnh: WEN.
Colin Firth đã có một năm thành công rực rỡ trong sự nghiệp. Đầu năm, anh nhận được đề cử Oscar đầu tiên cho Nam diễn viên chính xuất sắc với vai diễn đồng tính trong bộ phim A Single Man của đạo diễn Tom Ford. Vai diễn này cũng đem lại cho anh 10 giải thưởng điện ảnh uy tín trong năm qua.

Tháng 12, Colin tiếp tục chinh phục người xem khi hóa thân thành Vua George VI trong tác phẩm tâm lý, lịch sử The King's Speech. Bộ phim này hiện là ứng cử viên nặng ký cho danh hiệu Phim hay nhất tại Quả cầu vàng năm nay, đồng thời cũng đem về cho anh đề cử giải Nam diễn viên chính xuất sắc ở thể loại tâm lý.
Image
Colin Firth và ngôi sao trẻ Amanda Seyfried trong phim ca nhạc 'Mamma Mia'. Ảnh: Universal.
Nói về vai diễn Vua George VI trong The King's Speech, Colin Firth thừa nhận anh đã phải có một trận chiến về thể chất để chuẩn bị vai diễn này. "Tôi cố gắng thể hiện nhân vật một cách sinh động nhất. Vua George VI bị nói lắp và để diễn tả được điều đó qua hành động, cử chỉ quả thật không dễ dàng gì. Tôi luôn bị nhức đầu và đau toàn bộ cơ thể sau mỗi cảnh quay".

Colin Firth là một trong những diễn viên người Anh thành danh tại Hollywood. Khán giả Việt Nam từng biết đến và yêu thích anh qua rất nhiều bộ phim nổi tiếng như Bridget Jones's Diary, Love Actually, Shakespeare in Love, The English Patient hay gần đây là Mamma Mia vào năm 2008.

N.M
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 9 guests