Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

MẤT ĐẤT
Hồ Đình Nghiêm
1.

Nhân ở ngoại ô chốn kinh kỳ, gia cảnh tầm thường nằm dưới bậc trung. Cha theo binh nghiệp, tháng miệt ngày mài cùng khói lửa chiến trường. Mẹ ở hậu phương buôn bán lặt vặt nuôi đàn con ba đứa, nhan sắc mòn hao, trái tim luôn thắt thỏm ái ngại đón chờ hung tin từ chốn xa gửi về. Nhân là con đầu, lưng dài vai rộng nhưng chẳng biết phụ đỡ chuyện gì. Việc học chưa thành, mà dẫu có đỗ đạc trấn nhậm ra lo việc nước thì với lương lậu kia e chỉ đủ nuôi miệng mình, không chừng còn vác mặt về réo mẹ ngửa tay xin là đằng khác. Ai sao ta vậy, chớ cả thẹn, giấy rách phải giữ lấy lề.

Có căn nhà gạch hai tầng án đầu đường, mỗi bận qua về Nhân đều thoáng gặp một bóng hình thon thẻo ẩn hiện, vô ra dịu dàng. Để ý và cất công cố nhìn cho rõ mặt, dần dà lòng những đâm chồi đắm say. Tóc dài mịn đổ sau lưng một vệt đen, da trắng môi hồng, váng vất một dung nhan chừng như chỉ nằm trong tranh cổ hoang đường của Tàu của Nhật, của thuỷ mặc, của sương khói chực phôi pha. Người con gái tên Hậu ấy chẳng hề hay biết, vô tình chính mình đã làm chấn thương trái tim một đứa con trai trong xóm. Không nhìn ra bước chân thất thần của kẻ đang mộng du, quàng xiên qua lại trên lối đi chưa từng hiện mọc một bóng cây si.

Nhân bắt đầu chí thú chuyện văn chương, chong đèn suốt đêm viết nằm viết ngồi dàn chữ trải đặc trong cuốn vở học trò dày 50 trang, cà phê thuốc lá là đồng minh giúp Nhân vật lộn với cơn đồng nhập nọ, sáng suốt trong mê muội để hoàn tất những ước vọng thầm kín. Suy cho cùng, viết văn, trước tiên nó chứng minh được một điều, đấy là hành động của kẻ bất lực. Nếu đạt được những ước muốn, anh đã không tự hành hạ mình một cách kỳ lạ như vậy. Vô bổ!

Thấy con hư hao, đèn khuya thắp cháy tận bình minh, người mẹ tưởng chừng việc học hành thi cử của con đang tới hồi gay cấn. Bà quên, không nhớ ra, tuổi trẻ mình cũng đã từng dẫm chân vào “cầu tre lắc lẻo” ấy. Mất thăng bằng, hồn xiêu phách lạc rồi rơi xuống nằm yên trong vòng tay của ai đó. Vòng tay dịu dàng, dắt cô thiếu nữ bước sang lằn mức đàn bà chỉ trong khoảnh khắc. Lạc thú mọc đầy trên da thịt và nước mắt đổ ra cho hối tiếc, chảy xuống với trạng thái gần như hân hoan, một chia tay khó bề tìm lời giải thích. Vượt quá hạng tuổi bốn mươi, mẹ Nhân đêm nằm cũng có đôi lần khát khô một nỗi thèm muốn. Trong canh khuya tiếng thạch sùng chắc lưỡi đuổi bắt nhau, thê thiết giọng mèo gào khản, gió xào xạc ngoài vườn trăng ướt đẫm màu lá; tất cả chúng như biết tạo thành một hình khối từ tốn nằm đè xuống cơ thể người đàn bà, trắng mắt. Tỉnh thức mà như mộng ảo, nhập nhằng những thứ chẳng tượng hình, không rõ đích thực mình đang ước ao điều gì? Nhìn lịch, bấm đốt tay, não lòng hay ra xuân thì đã quá. Thằng con đầu đang độ tuổi cường dương thì thân này ví như cánh hoa sắp tàn úa. Nước chảy qua cầu, tối ngày ham việc mua bán, chẳng ngờ một sớm một chiều lửa tắt đèn lụn bàng hoàng ngó lại, lòng không khỏi dấy lên chút cảm hoài. Từ đấy con xanh xao thay hình đổi dạng là việc riêng con chịu, phần mẹ nên chải tém gọn gàng mái tóc rối, khi ra chợ nên bôi chút phấn son lên mặt hòng che bớt những nếp nhăn dãi dầu.

Nhân không ngó ra cái khác lạ ở mẹ. Thời giờ eo hẹp chẳng cho phép cậu quan sát một ai. Tan tường, về nhà ăn vội chén cơm, xong lại hối hả tìm tới quán cà phê, thu mình góc tối để chiêm nghiệm nỗi sầu khổ của đứa bị tình yêu dằn vặt. Quán cà phê kia chẳng lạ gì cậu học trò mặt vừa nổi mụn đó. Trong hộc tủ nằm ở quầy có nhốt cuốn vở xộc xệch giấy nhăn, tên Nhân ghi ở trang 5, phía dưới gạch xoá rồi bồi đắp số nợ mà cậu mãi mắc chịu. Những con số to, màu mực khi xanh khi đỏ, rõ như hai cọng hai muôn năm là bốn. Trước đó, người ta đã thu giữ thẻ căn cước bọc nhựa để làm vật thế chân; nhưng sau, thấy bất nhẫn, họ hoàn trả, tin vô lời hứa của Nhân.

- Anh không trả được thì bọn tôi chẳng biết phải dùng biện pháp gì? Cô gái ngồi sau quầy thường nhắc nhở Nhân với nụ cười chừng như vẫn còn mang đủ sự thân thiện. Hắn vòng tay tựa vào mặt gỗ sơn màu vàng nhạt:

- Không trả được bằng tiền thì tôi nguyện sẽ trả bằng sức.

- Ví dụ?

- Như lau chùi dọn dẹp, rửa tách rửa ly, chặt nước đá pha cà phê, linh tinh thượng vàng hạ cám.

- Những thứ ấy đã có người đảm trách cả rồi.

- Thế thì tôi xin được đóng vai chạy xe thồ đưa rước Trúc đi chợ. Giặt giũ phơi phóng áo quần cho Trúc tựa một đứa liên tử.

- Liên tử là gì?

- Liên là sen, tử là con. Nôm na là kẻ hầu người hạ.

Người con gái mang tên Trúc che miệng cười. Hoa hồng cắm trong ly chưng trên quầy không ngớt rung động. Nhân đọc câu cổ thi: Trúc xinh trúc mọc đầu đình, em xinh em đứng một mình cũng xinh.

- Thơ với thẩn! Tướng mạo thư sinh trói gà không chặc như anh chẳng biết có kham nổi bao việc nặng nhọc ấy chăng?

- Nếu được nên cho tôi thử một lần rồi sau đó hãy định lượng tới sức lực. Người ta sẽ xả thân lo việc mà chẳng hề mệt nếu họ ý thức đó là niềm hạnh phúc. Trúc có hiểu về chữ tình yêu không?

- Là cái gì?

- Là địa ngục mà trong đó giam chật những thiên thần.

- Hoang tưởng. Vậy thì đất sống của ác quỷ nằm ở nơi nao?

- Nằm đằng sau những lời từ chối.

Trúc có chút nhan sắc. Cô ngồi ở quầy tính tiền và cái rạng rỡ nơi gương mặt cô đã bao lần thu hút bọn đàn ông tới quán. Cô thích đón nghe những lời bóng gió, sưu tập chúng để rồi lượng định ra được tâm cảm của từng đứa một. Nó chẳng khác một tấm gương soi, qua đó Trúc biết trời sinh mình làm đứa con gái đẹp, đầu mình tứ chi nẩy nở đúng hạn kỳ. Mất dạy thì gọi là múp, kiểu cách thì kêu ngồn ngộn, văn chương lại gọi vun đầy một toà thiên nhiên. Đứa sính ngoại ngữ ưa liếm môi: Du xếch-xi, du hot cách gì đâu!

Một ngày kia, những tên già đầu cho tới những đứa đáng tuổi em, thế nào cũng có thằng được lọt vào mắt xanh, chừng đó Trúc mới gợn lòng đắn đo chuyện thật giả nằm ở lời đường mật. Hiện tại Trúc đón nghe chỉ cốt tìm chút vui thú, cậu học trò tên Nhân này mọi thứ đều trên trung bình duy chỉ phạm một lỗi lầm: Nghèo rớt mồng tơi! Nghèo là một cái tội, là một bản án. Nó tựa một con chim không biết bay, con gà trống không biết gáy, một thằng người chẳng bao giờ đơm ước mơ. Nếu có mơ ước thì cái đầu óc chứa lắm phẫn hận ấy chỉ mong cầu xoá bỏ được giai cấp, mọi người đều bình đẳng. Và như vậy, chiến tranh bộc phát. Và như thế, ác quỷ nằm ngay cả trong những khao khát, những hành động.

- Có nhiều khi tôi thấy anh viết rồi xoá bôi. Thực sự thì cuốn vở nhét sau túi quần kia chứa đựng những gì bên trong?

- Nó giam giữ đầu óc và trái tim tôi. Nó chứa đựng bóng hình những người con gái.

- Lại tình yêu?

- Phải. Bầu khí quyển cần thiết cho mọi sinh vật biết thở.

- Nó cần được chia sẻ không?

- Sao Trúc lại hỏi thế? Cà phê luôn cần đường, sữa. Và trước hết, cái nó cần là nước nóng. Nóng thật nóng. Rót xuống, thẩm thấu và gạn lọc rốt ráo những giọt đắng ứa ra.

- Bao lâu thì tôi được đọc chúng? Thử uống xem món cà phê anh pha chế có hợp khẩu vị mình không.

- Tôi nghĩ là Trúc sẽ nhăn mặt khi nếm thử.

- Ghê gớm vậy sao? Một sự từ chối?

- Không ai có thể từ chối được lời yêu cầu của Trúc. Cho tôi thêm một khoảng thời gian.

- Phải đợi đến chừng nào?

- Khoảng năm lần uống cà phê mắc chịu nữa.

- Sao nhiều toan tính mặc cả thế?

- Khi yêu ai, Trúc đều nhắm mắt buông xuôi chẳng hề phân vân?

- Đa sự quá, lý sự quá! Vậy thì thứ bảy tuần sau nhé.

- Tôi sẽ chép lại vào một cuốn vở khác, sửa đổi sạch sẽ tinh tươm cho Trúc mát mắt dễ cảm nhận. Tuần sau, thứ bảy, chín giờ tối.

Nhân đưa ngón trỏ ra, cong như một lưỡi câu để móc ngoặc với ngón tay Trúc.

- Nếu đây là một lời hứa hôn thì mọi thứ ở cuộc đời này sẽ đơn giản dễ chịu biết mấy!

- Nghèo mà ham!

Trúc rút tay về, cảm nhận chút xao động vừa truyền vào người. Như khi nhấn tay vào nút Play ở giàn máy Akai đặt bên quầy, âm nhạc phát tiếng, dịu dàng mang mình vào một cảnh quang đầy hư ảo, thổn thức, lặng người.


Thứ bảy đó Nhân không tới quán. Hắn là một kẻ bội tín? Trúc rủa thầm. Có thể hắn chạy làng, quỵt nợ. Hàm oan! Trúc chẳng mường tượng ra được hình ảnh một con đường nhỏ bưng bít chật chội bóng tối. Hai bóng ma chợt hiện đón đầu Nhân. Một đứa đốt cháy que diêm, ngọn lửa bé bỏng không run rẩy vì đêm đứng yên tuyệt chẳng vờn chút gió heo may. Đốm sáng dí gần, nhận diện.

- Mầy là Nhân, có phải không?

Một câu hỏi dư thừa.

- Mầy cần phải học hỏi nhiều điều mà bài học hôm nay thì nên thuộc nằm lòng: Từ rày trở về sau chớ có lai vãng tới quán cà phê đó nữa. Nghe rõ không? Vắn tắc chỉ một câu: Trúc là một bông hoa đã có chủ.

Que diêm tắt ngúm. Ngọn lửa chỉ soi sáng vừa đủ chiều dài lời tuyên bố, sau đó là nắm đấm, là chân đá. Cả quyền lẫn cước đều thi triển với tất cả sức mạnh mà chúng có được. Nhân ngã quỵ xuống mặt nhựa còn ấm nóng của thứ hắc ín vẫn lưu giữ nhiệt lượng mặt trời. Cơn đau bùng vỡ, thảng thốt, tê buốt. Mờ mắt, ù tai.

- Bọn này hành sự như quân tử, khi đánh người nên nêu rõ lý do cho nạn nhân khỏi ấm ức về nguồn cội. Thiết nghĩ vậy cũng tạm đủ, còn tái phạm thì khi ấy mang đao kiếm ra hỏi tội cũng chưa muộn.

Chúng biến rất nhanh. Xẻ rách vũng tối đằng kia để vọng về tiếng một đứa chu miệng huýt gió bài “La Vie en Rose”, âm thanh ca ngợi đời mang sắc hồng cứ thế mà xa dần, ngưng bặt, đóng khép.

Dĩ nhiên không khi nào Trúc có thể nghĩ ra được thứ hình ảnh quái gỡ trên. Cô đóng quán, cô tắm rửa, thay đổi áo quần và lơ mơ nghĩ tới Nhân. Hắn thật đáng ghét, chỉ giỏi ba hoa nơi lỗ miệng. Trúc lên giường, giấc ngủ chẳng tới ngay, trăn trở. Phải mà nắm cuốn vở của hắn trong tay giờ này… Có lẽ sự dối gạt là cái đáng lên án nhất trong những lỗi lầm mà con người luôn tạo ra.

Thời khắc đó, Nhân cũng nằm trên giường với những xây xát bầm tím ăn vào cơ thể. Nhân cắn răng chẳng hé môi với một ai. Đấy là cả một sự sĩ nhục, nó có khả năng làm cho đầu óc Nhân căng thẳng. Nỗi thù hận dồn tới réo gọi đòi được trả cũng như sự bất lực của kẻ cô thế luôn song hành đến với cơn đau mỗi một trở mình. Bóng tối không giúp Nhân xoa dịu, chận đứng bớt những ý tưởng rối loạn. Chiếc mùng nhỏ buông xuống, bưng bít, đóng khung như thứ mộ huyệt chật chội treo lơ lững giữa khoảng không. Đêm hâm hấp nóng. Đêm lùi sâu bằng tiếng chó sủa vu vơ tận đâu xa. Đêm sẽ qua trong bình yên nếu nó đừng khơi động lên những tiếng thở vội vọng dội từ căn phòng kề cận. Khi đau khổ người ta sẽ rên la, ngược lại khi đón nhận khoái cảm họ sẽ tái lập cách thế biểu tỏ ấy. Nhân ngóc đầu lên khỏi gối và cậu đủ thông minh để hiểu chuyện gì đang xẩy tới bên phòng mẹ. Chui ra khỏi mùng, Nhân ngồi ôm đầu thấy lòng đang rạn vỡ. Chuỗi tiếng động cố nén kia phút đầu làm nứt vách và rồi mọi thứ sụp đổ, tan hoang. Nhân mở đèn, vớ tay tìm, thắp đỏ một điếu thuốc. Khi gầy dựng cuộc ái ân, bao lâu thì người ta bỏ cuộc? Có dài bằng đường đi lụn tàn của điếu thuốc thơm? Nhân sợ hãi nếu phải nhìn thấy mẹ mình trần truồng nằm dưới thân thể một đứa mà bà đang dùng tay bấu víu. Nhân có thể chờ đợi, không một thì hai, cũng có thể đốt liên tục những điếu còn trốn trong bao Capstan. Con Anh Phai Sắc Tại Ai Nhỉ. Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng… Chỉ một nhãn hiệu thuốc lá, bọn rách việc đã thêu dệt ra lắm chuyện bao đồng, vô can vô cớ.

Mẹ Nhân không ngỡ cái bóng đen đứng thù lù bên cánh cửa là thằng con mình. Nó chẳng đi ngủ hoang ở nhà bạn, nó chẳng bị mộng đè tới vùi giấc điệp ở phòng bên. Nó hiện ra êm re tựa một hồn oan, lẽ nào nó đã hay biết những diễn tiến từ mây cho tới mưa? Nó có là một chứng nhân chướng tai gai mắt? Bà gài vội những hạt nút áo, hai tà vướng víu khó khăn một che đậy lên bầu ngực trần. Vú này ngày xưa con từng ham hố bú lấy, sữa mẹ hiền thì hẳn là tâm con lành, chớ hung dữ làm lớn chuyện. Cha mẹ sanh con trời sanh tánh là cớ sự của ai kìa, chứ mẹ biết tánh con xưa nay vẫn lành như hòn đất. Con nhớ cho, mẹ cũng là một vạt đất bấy chầy hạn hán. Nói không ngoa, vừa qua chỉ là cơn mưa lần đầu mẹ đón nhận. Cá không có nước, cá chết. Đất khô cằn, con ơi, đất nức nẻ buồn thúi ruột gan. Hãy thứ tha cho mẹ lần úng thuỷ này, hãy tin mẹ nhé, mẹ quyết không dầm thân trong lụt lội triều cường cuốn hút.

- Mẹ khó nói, phải không? Con cũng khó xử trí, đã câm lặng cho gã đó ra về trong yên hàng vô sự.

- Bây giờ có nói gì cũng bằng thừa, con sẽ quy chụp rằng đó chỉ là lời nguỵ biện thanh minh thanh nga. Chỉ có điều duy nhất mẹ muốn con đón nghe…

- Con đang bình tĩnh, mẹ nói đi.

- Người đó hứa với mẹ…

- Mẹ tin vào lời hứa của một tên cha căng chú kiết nào đó?

- Chừng này tuổi mẹ không còn là đứa nhẹ dạ, thêm nữa điều ông ta hứa chả có gì ghê gớm cả, dễ thực hiện trong khả năng ông ta có.

- Bao nhiêu tiền? Một nửa tháng lương?

- Việc học của con ra sao rồi? Nếu thi hỏng… Người ấy bảo sẽ lo được cho con tờ giấy hoãn dịch vì lý do gia cảnh. Con sẽ chẳng bị động viên, con tránh dẫm vào vết chân của cha con.

- Hoài công! Con sẽ nhập ngũ, con đi lính. Đôi khi có những sự việc mà muốn giải quyết ổn thoả, người ta phải vin nhờ vào súng đạn. Đó là lý lẽ của kẻ mạnh. Con đi tìm ba, mẹ ở nhà tìm tới những thứ thực tiễn khác mà đánh đổi.

Cánh cửa phòng đóng lại mạnh bạo sau câu nói. Nhân thức suốt đêm, viết lá thư từ biệt đường đột gửi cho người con gái tên Hậu nhà nằm đầu đường, bỏ chung phong bì với cuốn vở học trò mà suốt 50 trang Nhân vẽ đầy mộng mị của thứ tình yêu câm lặng, những suy tưởng của cậu về trái cấm nằm ngoài tầm tay.



2.

Sáu giờ sáng, những ngọn đèn trong quán trông dữ dội, xỉa xói như mặt trời ban trưa ở vùng nhiệt đới. Xô cửa vào, đôi mắt cay cọng với sự choáng váng vụt hiện. Hương mùi cà phê thực sự không mang lại sự tỉnh táo, lúc đó. Nó trộn lẫn với bao tiếng động, góp phần thông báo về phút chuyển dịch ban đầu của một guồng máy chính thức kích hoạt. Mọi con trâu sẽ ra đồng, chẳng sớm thì muộn, chu toàn thứ bổn phận mà tự tiềm thức sâu lắng chẳng kỳ vọng tới một mùa gặt tốt lành. Khuôn mặt thằng đàn ông đứng sau loạt máy pha chế cà phê lộ rõ cái trì trệ của giấc ngủ chưa đi tới cuối đường, đôi chân nó vừa nhúng xuống bùn lầy, bất mãn với gió chướng quần tụ trên cánh đồng úng nước. Giọng nói chừng cũng mắc nghẹn, chưa thông đàm:

- Chào ông Neil.

- Chào đầu ngày. Tôi lấy một ly cà phê.

- Loại gì? Lớn, trung bình, nhỏ?

Đó là thứ vấn đáp gần như bắt buộc phải xẩy tới. Như ta vẫn mỏi mệt trả lời, không thật lòng: Ờ, tôi khoẻ, cảm ơn. Bạn thì sao? Chúc một ngày tươi đẹp.

- Ông vẫn còn làm chỗ đó chứ?

- Không, chán ngán, tôi đã giã từ. Tôi thích cái job này hơn, người bạn luôn tẩm đầy cái thơm thảo do cà phê trên toàn thế giới tụ bầy vây bọc, ủ hương.

- Đùa hoài, đang giỡn chơi phải không? 3 đô 75. Xin vui lòng.

Sáu giờ mà quán đông chật. Địa phương nầy từng có thằng phóng viên đi thơ thẩn mần ra cuộc trưng cầu dân ý, kết quả ghi nhận: Ai cũng điểm tâm cà phê, gần như tuyệt đối, trong đó có tới 45% quả quyết là có thể nhịn ăn sáng, chẳng đoái hoài tới trứng chiên, bacon, xúc xích, mì nướng nhưng có thể xơi tới ba tô cà phê. Cà phê như xăng dầu vậy, thiếu nó làm sao động cơ có thể phát sinh ra tiếng nổ?

Hai phần ba ngồi đó thảy đều chúi đầu vào các trang nhật báo mở rộng. Journal de Montréal, La Presse, Gazette, National… Họ chăm chú đọc những gì in thành bao cột chữ? Sột soạt giở lật từng trang giấy. Bệnh tật. Chiến tranh. Không tặc. Biểu tình. Khủng bố. Cái chết. Ngày nào cũng ngần ấy tin loan bằng vào các con chữ quen mặt. Mỗi ngày đều đặn trôi qua và chúng để lại cho con người vô vàn những cáo phó. Niềm đau đi qua cánh cửa chịu đựng, thoát về phía chai lì một biểu cảm. Con người sinh ra, mãi theo học một bài vỡ lòng luôn đeo bám: Sự chịu đựng. Có đứa gào thét, có kẻ câm như thóc. Lại hiện ra một tên ưa lý sự: Hút thuốc làm đời sống bạn bị tước đoạt bằng con số 20 năm. Bạn cứ uống rượu giải sầu thì bạn giảm thọ 30 năm. Và khi bạn bị tình phụ, bạn sẽ chết từng ngày.

Neil không xem báo, nó tượng trưng về một thứ gần như khô khan. Neil nheo mắt phóng ra ngoài ô cửa kính, nhìn nhận phút bàn giao giữa bóng tối nhọ mặt người đang dần chuyển đổi bằng vào cái vươn vai thức dậy của ánh dương quang. Bình minh luôn hiện thắp cho hy vọng về một khởi đầu, ngay cả đám bồ câu cũng tìm tới chỗ sáng để gật gù kiếm ăn trên vỉa hè lót gạch nâu. Thủng thẳng, chậm rãi như những thai phụ cẩn trọng với bụng bầu. Không hiểu sao bồ câu được chọn làm biểu tượng cho hoà bình? Với Neil, hình ảnh người đàn bà bụng mang dạ chửa sẽ đáng yêu hơn. Họ hiền từ, họ e dè, họ quan ngại tới những thứ tiểu tiết để động lòng, để cảm thương. Họ sống thở phút này mà mơ tưởng tới thì tương lai, rằng mình sắp tạo ra một mầm sống, hãy cho tôi đi qua bao thử thách để làm tròn giây phút nhiệm mầu ấy.

Như loài bồ câu, Neil bưng ly cà phê bước ra khỏi quán, đủng đỉnh băng qua hai đoạn đường có gắn cột đèn xanh đỏ báo hiệu lưu thông, nghe rõ dòng điện trở cựa mình mỗi một hoán đổi màu sắc. Gió luông tuồng chạy vội bên trên chùm lá cây mãi xao động, chốn ấy không hề là là chỗ cho bồ câu an tâm trú ngụ. Đứng ở ngã tư ngước mặt nhìn lên một cao ốc, Neil có thể thấy chữ Yellow máng trên đó luôn thập thò những con bồ câu ẩn mình bên trong, chúng ỉa cho bạc màu cái chữ Yellow to tướng ấy. Yellow là thương hiệu của một cửa hàng chuyên xuất nhập cảng đồ gia dụng bằng nhựa và là nơi có Neil từng làm việc bán thời gian. Mỗi khi ngửa cổ trông lên, Neil đều mang cái ý nghĩ, liên tưởng tới số phận của bọn di dân. Lần hồi chúng bị biến dạng đi, không hình thức này thì hình thức khác. Chữ Yellow bạc thếch vì cứt chim và mỗi ngày Neil nói ngoại ngữ nhiều hơn tiếng mẹ đẻ.

Tới công viên, Neil dừng chân, ngó quanh rồi ngồi xuống chỗ đã được định vị từ hôm qua. Quây lưng với bầy sư tử bằng đá luôn có nước chảy ra từ miệng để đổ xuống cái bồn chứa hình bầu dục. Tiếng róc rách không gián đoạn của nước luân hồi tuồng thế điệu ru dành cho một ông già râu tóc bờm xờm nằm ngáy giấc say trên băng ghế gỗ. Một kẻ vô gia cư, thực sự thì kẻ đó chẳng cần phô bày bằng hình thức ngủ bờ ngủ bụi, ngủ lăn ngủ lóc như vậy. Ăn mặc chỉnh tề, áo xống lành lặn, tóc tai ngắn gọn, tỉnh táo ôm ly cà phê trông thiên ngó địa hít thở không khí trong lành, cũng chẳng chứng minh được đấy là hình ảnh của một đứa có nhà cửa tử tế gia đạo an vui.

Cuối cùng thì cái bóng dáng luôn nằm trong tiềm thức bỗng hiện hữu thực sự, băng qua đường sau khi đóng cánh cửa xe bằng một tiếng động nhỏ. Xe sơn trắng, nhìn hoa mắt bởi thứ màu tượng trưng cho sự tinh khiết, vô nhiễm.

- Đợi đã lâu chưa?

Người đàn bà ngồi xuống bệ xi-măng bao quanh bồn nước, chút e dè có trong điệu bộ.

- Có những trở ngại ngoài ý muốn.

- Anh hiểu. Hoàn cảnh, đúng không? Trong chúng ta nào có ai muốn làm phiền lòng kẻ khác.

- Bao giờ thì anh bỏ được những thứ bóng gió mát mẻ kiểu đó?

- Anh không bỏ được, như có người biểu anh phải đoạn lìa thuốc lá. Anh vừa đốt cháy ba điếu. Cuộc đời quá ngắn, Hậu có thấy vậy không?

- Muốn thấy nó ngắn cỡ nào, trước tiên người ta phải tập sống cho thật lâu. Sau này, có khi anh sẽ bắt gặp niềm hối hận.

- Anh đã từng hối hận lắm thứ, nào còn gì để đâm hối tiếc. Hậu đang hối hận về điều gì?

- Đưa ly cà phê cho Hậu.

- Nó nguội lạnh mất rồi.

- Không sao. Hậu uống hết để thế một lời xin lỗi.

Người đàn bà mở nắp nhựa, khởi sự uống, mặt không gợn nhăn.

- Cái nhân vật Trúc ngày xưa bán cà phê, bây giờ ra sao?

- Không biết. Anh đã vắng mặt quá lâu với cuộc đời này.

Người đàn bà ngó tới dáng nằm co quắp của người đàn ông dơ bẩn:

- Chúng ta cũng đang thiếp đi với những cơn mộng dữ, thức dậy với bao cực lòng, đúng không?

- Anh chẳng rõ Hậu à. Anh đi lính, anh ngồi tù, anh chạy được sang đảo lạ, anh chờ thanh lọc. Anh xin định cư, tới bất cứ phương nào. Chừng như anh là đứa không có được thứ mà người ta gọi là tuổi trẻ.

- Neil. Cái tên mới lạ đó nói lên điều gì?

- Không là gì cả. Anh từng ghét một thằng người mang tên Nhân, chỉ vậy thôi, thằng Nhân kia trông có vẻ vô tích sự quá.

- Ít ra thì cũng có khi Nhân đã làm Hậu cảm động khi đọc qua những câu văn chân thật.

Người đàn bà ngó xuống cổ tay, chiếc đồng hồ như chưa bao giờ biết nghỉ dưỡng sức, hai cây kim vẫn hăm hở băng mình chuyển dịch.

- Lại phải chia tay. Hậu có cái hẹn ở Clinique vào 10 AM. Nếu bị ung thư ngực, cắt bỏ một bên, vận sự đó có gây nỗi bàng hoàng cho một ai?

- Nếu đó là sự thật, hơn ai hết Hậu cần có một người luôn kề cận mình. Hãy cho anh ngồi chung xe để cùng Hậu tới chốn ấy.

- Đừng, không nên. Nơi nọ tập trung toàn cả những con mẹ có vấn đề. Một quang cảnh ảm đạm, não nề, xám xịt.

Người đàn bà đứng lên, mở rộng miệng cái túi xách đeo một bên vai. Đưa tay vào để lôi ra bao nhựa trong, thấu suốt vật chứa đựng là cuốn vở học trò đã vàng úa, đã hư hao, xưa cũ hơn một cổ vật. Năm mươi trang như kịch bản vở thần thoại hoang đường bỗng chốc đội mồ trình diễn sống động. Nó nhốt mùi ẩm của thời gian và trùng khơi. Nét chữ nhoè mực xô đẩy nhau chạy giạt trên đường kẽ xanh, là sợi chỉ níu thân cánh diều bay hoảng hốt đã mấy mươi năm biền biệt trên bầu trời rộng không chung chịu nắng, mưa.

- Thích không? Châu về hiệp phố. Hậu như nhân viên làm việc ở viện bảo tàng nay xin được về hưu. Tạm biệt nhé anh Nhân.

Chữ tạm biệt thốt lên cùng lúc với món cổ vật rớt vào đôi tay Neil, gây ra một trọng lực dễ làm kẻ đón nhận phải xiêu thân. Người đàn bà bước đi, chẳng hề quay mặt lại, vất thằng người đứng như phổng đá bên những con sư tử hoá thạch, câm nín.

- Này ông bạn, vui lòng cho tôi một điếu thuốc.

Neil châm lửa cho cả hai, một homeless một không có quê hương. Người ta rít lấy cái độc hại để tự nhận là đang ấm lòng. Thân thể người đàn ông nồng nàn một thứ mùi khó phân tích, ông ngồi gần Neil, chỗ mà Hậu vừa rời bỏ.

- Bạn có sẵn hai đồng trong túi không? Chúa sẽ ngó xuống lòng tốt của bạn.

Cả hai đều dõi theo bóng người đàn bà vừa mở cửa xe. Chẳng mấy lâu, một mũi tên trắng vụt bay giữa con lộ thênh thang vừa chao bóng nắng.

- Bạn đến tự phương nào, bạn biết Marcel Proust chăng? Ông ta viết giản dị như này: “The true paradises are the paradises that we have lost”.

Neil trao hai đồng vào tay người xấu số đánh mất thiên đường. Neil ôm cuốn vở bước ra khỏi công viên. Thành phố này vẫn có những buổi sáng lặng ngắt như trong nghĩa địa. Vẫn thường khi mặt đất thôi còn sức hút. Một chú bồ câu vừa sà cánh xuống bên bồn phun nước. Neil ra tới lề đường, ngóng đợi một chuyến buýt sật sừ dừng lại.

Hồ Đình Nghiêm

Tạp chí Văn Học số 208 & 209. Tháng 8 & 9, năm 2003.
Đọc lại, chỉnh sửa vào đầu năm 2019
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Giấc Mộng Về Hưu

Bà lìa đời đúng vào ngày ông chính thức nghỉ việc để về hưu, chắc bà muốn hưởng nhàn một mình một cõi nơi bên kia thế giới, để lại giấc mộng nghỉ hưu mà ông đã lên kế hoạch từ lâu, nay chỉ còn một mình ông với nỗi buồn ngơ ngẩn.

Đứa con trai duy nhất của hai ông bà từ tiểu bang khác dẫn vợ con về lo tang lễ của mẹ xong, đã đề nghị ông về ở với chúng , để cha con , ông cháu đoàn tụ , để ông nương tựa lúc tuổi già. Lời đề nghị rất hợp lý hợp tình, nhưng điều này ông chưa hề nghĩ tới, cả một đời vất vả làm việc, ông chờ đợi cái ngày được nghỉ hưu này để rong ruỗi đó đây, hay để nằm nhà hưởng nhàn, đọc sách báo, coi ti vi, và lên internet là cả một cái thư viện khổng lồ để mở mang kiến thức.

Ông từng mơ hai vợ chồng sẽ đến New York vào mùa đông, sau những bữa dinner với. rượu vang chếnh choáng, ông bà trở về phòng trọ ấm cúng, ngoài kia tuyết rơi, gió lạnh, điều ấy không ảnh hưởng gì đến ông cả, vì ông có phải thức dạy đi làm nữa đâu, ông cứ việc ngủ chán chê, muốn dậy lúc nào thì dậy, rồi ông sẽ vén màn cửa sổ nhìn xuống đường, trong mùa Đông rét mướt kia có bao nhiêu kiếp người đang lao vào cuộc sống, đang tính toán từng giờ từng phút để nghỉ ngơi, để làm việc.

Ông buồn thật, nhớ bà, nhớ những bữa cơm, giấc ngủ, những lúc bà hiền dịu, và cả những lúc bà đanh đá mắng mỏ ông. Sự mất mát, đau thương còn mới quá, ông chả biết làm gì cho hết một ngày, thì về với gia đình thằng con trai vậy..

Nhà có hai vợ chồng với hai đứa con, thêm ông nữa là năm người, ra vào gặp nhau cũng thấy vui. Nhưng chỉ mấy ngày đầu thôi, dần dần ông biến thành baby sit cho nhà nó, trông hai đứa cháu nội, đưa đón chúng đi học, chúng muốn ăn cơm, uống sữa cũng gọi ông, chúng vô bathroom cũng gọi ông…Ăn uống thì con dâu ông quyết định, ông thèm ăn cơm với thịt kho mắm, thì nó bảo món ấy hôi nhà, mời bố ăn món khác. Con dâu còn gợi ý khi thấy ông tha thẩn một mình: nếu bố rảnh rang, buồn chân buồn tay không biết làm gì, thì bố cứ việc hút bụi nhà hay ra vườn cắt cỏ, vừa giết thời gian vừa được việc bố ạ

Trời ơi, con trai và con dâu coi như đời ông đang tàn, ở đây làm việc vặt cho nó rồi chờ chết hay sao? Thời gian nghỉ hưu của ông là vô giá, không tiền bạc nào mua nổi, ông cần dùng nó để vui hưởng, đâu có dư thừa mà phải tìm cách giết nó như con dâu ông đã tuyên bố.

Một tuần sau ông giã từ gia đình thằng con để trở về ngôi nhà của chính ông.

Ông bắt đầu lại cuộc sống độc thân khi tuổi đời đã 66, là một người khoẻ mạnh và nhiều tình cảm, ông muốn về thăm lại Việt Nam sau 25 năm xa cách., 25 năm qua hai vợ chồng ông cùng làm việc chăm chỉ, chẳng những đã giúp cho con trai một món tiền mua nhà khi nó cưới vợ, ông bà cũng có một căn nhà, một ít vốn, và lương hưu này nọ của ông, cộng với 401k…mỗi tháng gần 2000, tha hồ cho ông hưởng một cuộc đời phong lưu.

Về Việt Nam , ông ở chơi dưới quê với bà con họ hàng vài tuần rồi lên thành phố Sài Gòn thuê khách sạn, nơi đây là chốn cũ , những con đường, những khu phố, đầy ắp kỷ niệm. Ông như thấy mình trở lại thời trai trẻ, quán cà phê nào ông đã từng hẹn hò, cơn mưa nào còn đọng lại trong hồn ông những vũng nước, những vết bùn của bước chân vội vàng chiều cuối phố ?

Những ngày xưa đâu? Những mối tình ngắn dài đâu? Ông bâng khuâng bước vào một quán nước mong tìm lại chút hương vị ngày xưa. Nhưng nay đổi khác quá, các cô gái phục vụ trong quán vây quanh ông, chẳng hiểu sao họ biết ông là Việt Kiều nên rối rít hỏi thăm đủ chuyện, lòng ông tràn trề niềm vui và hãnh diện, ông đâu có ngờ ở tuổi này còn được các cô săn đón chiều chuộng như thế! Họ gọi ông bằng anh và xưng em ngọt xớt. Có một cô xinh nhất đám tiếp chuyện ông lâu nhất, đôi mắt cô liếc, đôi môi cô cười, dù ông luôn khẳng định cô chỉ ở hàng con cháu, mà sao cô vẫn là những ngọn sóng làm ông phải chòng chành chao nghiêng.

Ngày nào ông cũng đến quán để gặp cô gái xinh đẹp đó, cô thì thầm tâm sự với ông, cô tên Bưởi, một cô gái quê con nhà nghèo, phải tha hương lên Sài Gòn bán quán để kiếm tiền nuôi cha mẹ già, em nhỏ. Cô tha thiết mong được làm vợ ông, sang Mỹ sinh sống để hầu hạ ông.

Vốn hiền lành, thật thà, tin người như tin mình, ông nghe cảm động quá, lấy cô, vừa cứu được một kiếp người vừa có một cô vợ trẻ đẹp. Từ ngày vợ mất đôi khi ông cũng thấy lòng trống vắng, cô đơn, cũng mong muốn có bàn tay người đàn bà ấp ủ.Thế là ông theo cô Bưởi về quê ra mắt cha mẹ vợ tương lai và làm đám cưới.
Mối tình không biên giới kể cả về tuổi tác và khoảng cách địa lý, chỉ sau 9 tháng đã thành sự thật, cô Bưởi được sang Mỹ đoàn tụ với chồng.

Được vui duyên mới ông đã chịu nhục nghe thằng con trai gọi phone sang đay nghiến, ông già rồi mà còn mê gái, vợ con gì cái thứ gái bia ôm đó! và câu kết luận của con trai là từ bố luôn.

Thôi đành, ông thương con thương cháu, nhưng ông cũng phải thương chính cái thân ông chứ.

Từ nay ngôi nhà ông lại ấm cúng vì đũa đã có đôi, dù là đôi đũa lệch, ông phải tân trang lại ngoại hình, nhuộm tóc đen, làm răng giả, mặc quần jean áo thun và cả cách ăn nói cho trẻ trung để thích hợp với cô Bưởi. Ông chợt khám phá ra một báu vật vô giá ông đánh mất từ lâu mà không biết, đó là hai chữ “tự do”, vợ ông từ giã cõi đời cũng đồng nghĩa là mang trả lại cho ông sự tự do mà bà đã nắm trong tay suốt bao nhiêu năm qua.

Ông tung tăng dẫn cô Bưởi đi phố, đi chợ, đi chợ Mỹ thì không sao, vì chẳng ai để ý đến vợ chồng ông cả, nhưng vào chợ Việt Nam , sao người Việt Nam mình tinh đời thế, ông bắt gặp những cái nhìn tò mò, châm biếm như muốn nói ông già mà còn ham lấy vợ trẻ. Ông đưa cô đi shopping ở Walmart mà cô đã hoa mắt lên, khen quần áo tiệm này sang trọng quá, cô Bưởi vui sướng bao nhiêu lòng ông hạnh phúc bấy nhiêu.

Một năm trôi qua, ông vẫn thấy hạnh phúc còn mới mẻ, nhưng cô Bưởi thì không, cô đã biết chê đồ Walmart rổm, chê nhà hàng nọ không ngon, cô đã biết đánh giá cũng là cái xe hơi 4 bánh nhưng loại nào sang hơn, đẹp hơn. Ông chiều cô vợ trẻ , sắm cho cô một xe hơi đời mới đắt tiền, rồi cô đòi đi làm, ở nhà hoài chán quá, cô cần có tiền để mua sắm thêm và giúp đỡ cha mẹ ở Việt Nam .

Ông yêu cô, không muốn dời cô chút nào, lương hưu ông dư sức nuôi cô ở nhà với ông suốt đời. Nếu để cô đi làm hãng xưởng ông sợ có ngày mất vợ vì mấy thằng Mễ khoẻ mạnh đẹp trai, may quá cô đòi học làm nail, nghề nail có mấy thợ là đàn ông! Còn khách hàng thì toàn là phụ nữ.

Mộng cô đã thành, cô Bưởi đi làm nail, bản tính dạn dĩ xông xáo, chỉ trong vòng một năm mà cô bay nhảy hết tiệm này sang tiệm khác đến mấy lần, cô đi làm từ sáng đến tối, để ông ở nhà thui thủi và mong ngóng cô như trẻ mong mẹ đi xa về, ông chẳng thể nào kiểm soát được giờ giấc của cô, hôm thì cô nói khách đông, hôm thì cô bận đi shopping với bạn bè…đó là những lý do cô thường xuyên về trễ.

Để níu chân cô vợ trẻ, ông muốn có 1 đứa con cho vui nhà vui cửa, đàn bà khi có con thì sẽ chín chắn hơn. Cô Bưởi ngày càng ăn diện, quần áo đồ hiệu lộng lẫy, còn những quần áo cô sắm ở Walmart trước kia bây giờ thành rẻ lau hay đem cho Goodwill rồi, cô bĩu môi chê ông nhà quê không hợp thời, cô ít sánh đôi với ông, ông chỉ còn mỗi một ưu điểm mang ra khoe là anh yêu em vô bờ bến, cả đời anh dành cho em đây.

Khi cô Bưởi báo tin đã có thai, ông mừng quýnh quáng hơn cả ngày xưa vợ ông đã mang thai thằng con trai cưng duy nhất của ông, rồi cô sinh một thằng cu tí mà cô nói rằng nó giống ông như đúc.

Từ ngày có baby nhà cửa vui thật, ông bận rộn tưng bừng, hết pha sữa lại thay tã, bế con, ông đứng ngồi không yên mỗi khi nó gào khóc, còn mẹ nó lại đi làm nail đến tối mịt mùng mới về nhà như cũ.

Nhưng một ngày cô Bưởi không về nữa, ông đợi cô trắng đêm, sáng hôm sau ông lục lọi mọi ký ức để đoán xem cô đang làm nail ở tiệm nào, vì những chủ tiệm nail đều là người Việt Nam nên ông ngại chẳng ra mặt bao giờ và vì cô Bưởi không cho phép. May quá, ông đã đến đúng chỗ, một cô thợ nail nói Betty chơi thân với cháu, Betty tâm sự vì cha mẹ ngăn cản nên Betty phải trốn đi cùng người yêu để xây tổ ấm rồi.Thế hai bác không biết Betty đang yêu Tư Chuột à?

Ông ngẩn người, chết đứng ra, vợ ông Nguyễn thị Bưởi đi làm nail với tên Mỹ là Betty đã đi theo thằng Tư Chuột , ông đau đớn vì mất vợ mà cô này tưởng ông đau đớn vì mất con càng làm ông bối rối, ông hỏi một câu vụng về:

- Tư Chuột là thằng phải gió nào thế? cái tên Tư Chuột thấy mà ghê thì bà nào dám đến làm nail?

Cô gái cười giải thích tên Mỹ nó là Peter, tên Việt Nam là Tư, mặt nhọn hoắc như mặt chuột nên tụi cháu gọi thế .

Ông về nhà đành làm thân gà trống nuôi con, giận vợ nhưng con ông có tội tình gì, ông càng thương con hơn... Thằng bé 8 tháng tuổi, mập mạp khoẻ mạnh, bú vèo một cái hết bình sữa, chắc nó biết thân phận không có mẹ chăm sóc nên chẳng nỡ làm khó dễ cha già, nhưng mỗi lần ông thay diaper cho nó thì nó chẳng biết điều tí nào, hai chân nó vung vẫy lung tung làm ông lọng cọng dán mãi mới xong miếng băng keo…

Ông lo lắm, nếu cô Bưởi đi luôn không bao giờ trở lại thì sao? Ông tưởng tượng một ngày nào ông ngã bệnh, yếu đuối, phải vào Nursing home, thằng cu tí phải vào một nhà trẻ từ thiện nào đó, hai cha con sẽ là hai phương trời cách biệt. Ông thương cu tí quá, đành phải nhịn nhục mà kêu gọi cô Bưởi về thôi, ông liền đăng lên báo mục nhắn tin tìm vợ ‘Bưởi em, ở đâu về gấp, anh sẽ bỏ qua mọi chuyện để chúng mình cùng lo cho con”.

Ông hi vọng và chờ đợi cô Bưởi hồi tâm trở về, có một cú phone gọi cho ông, nhưng không phải cô Bưởi mà là bạn cô Bưởi, cái người ông đã gặp ở tiệm nail trước kia, cô hỏi địa chỉ đến nhà thăm ông, lần này cô tỏ ra hiểu chuyện:

- Cháu xin lỗi bác, lần trước cháu tưởng bác là bố của Betty, nay có người nói với cháu bác là chồng nó, đọc lời nhắn tin tìm vợ của bác trên báo thấy tội cho bác quá, nên cháu đến đây để cho bác biết cái thằng con mà bác đang nuôi đó không phải là con của bác đâu.

Ông lắp bắp:
- Tại sao cô biết nó không phải là con tôi?

Cô ta khẳng định:
- Betty nói với cháu mà, bác xem, mặt thằng nhỏ giống Tư Chuột y khuôn, hai mắt lồi đen, cái mặt nhọn hoắc.

Ông mở to mắt nhìn thằng bé, nó đang nằm cười toe toét, đâu biết mình đang là cục nợ trong ngôi nhà này. Trời ơi! Đúng quá, cô Bưởi cứ nói nó giống ông, nhưng mắt ông đâu có lồi, mặt ông đâu có nhọn thế kia, ông mê mẩn, mù quáng quá, ngày nào cũng ở bên nó mà không nhận thấy sự khác biệt này.

Khi cô làm nail về, ông gục đầu xuống bàn , tức giận và đớn đau !

Hôm sau tỉnh trí , ông lại bỏ vài chục đồng để đăng lời nhắn tin khác trên báo:

“Hai cháu Bưởi và Tư Chuột ( tức Betty và Peter) ở đâu về gấp để đoàn tụ với con của hai cháu là thằng Cu Tí .Chúc hai cháu trăm năm hạnh phúc”.

Lần này thì cô Bưởi lên tiếng, ông nhận được lá thư của cô vài dòng ngắn gọn:

“Đúng thằng cu Tí là con của cháu và anh Tư Chuột, nhưng Tư Chuột đã bỏ cháu, cháu cần rảnh tay để làm lại cuộc đời đầy hoa mộng phía trước, bác đã mang cháu qua Mỹ, mong bác hãy làm ơn cho trót, nuôi thằng cu Tí, để hủ hỉ cùng bác lúc tuổi già xế bóng. Cám ơn bác”.

Thanh Dương
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Post by hoangphong »

Image

Thầy Trân

Đến giờ Sử Địa cả lớp học hồi hộp ngồi chờ. Hôm nay ông hiệu trưởng sẽ đưa giáo sư mới đến dạy, thay thế thầy Tuyên vừa về hưu. Con Chín, ngồi cạnh tôi, đoán già đoán non:

- Tao chắc lại một ông giáo sư già lụm khụm. Môn này không mấy hấp dẫn nên không có nhiều thầy trẻ như bên Việt Văn, Toán hay Sinh Ngữ.

Tự nhiên tôi lạc quan một cách vô cớ:

- Biết đâu kỳ này lớp ta sẽ may mắn rước được một thầy Sử Địa trẻ, đẹp trai lại độc thân cho mà xem.

Con Chín nheo mắt nhìn tôi cười:

- Được như mày nói tao sẽ chớp ngay, không để ông độc thân lâu đâu.

Tôi cười cười nhạo nó:

- Giáo sư độc thân trường mình thiếu gì. Nè thầy Vui bên Anh Văn,thầy Ngô bên Toán, sao mày không chớp đi để hai ông độc thân hoài vậy?

Con Chín nhún vai:

- Không hạp nhãn tao. Độc thân thì độc thân nhưng cũng phải bắt mắt một tí. Tao chấm thầy Thi bên Pháp Văn nhưng tiếc thầy có chủ mất rồi!

Trong lớp đệ tứ, lớp cuối cùng của trường nữ trung học duy nhất ở tỉnh lỵ nhỏ bé này, Chín và tôi là hai nữ sinh lớn tuổi nhất. Chín trễ học đến ba năm, còn tôi hai năm. Nó bị sốt rét, tôi thì thương hàn. Tiếp đến là tản cư rồi hồi cư, sau đó lại theo gia đình rời quận lên tỉnh. Cho nên khi học tới lớp chót của trường thì Chín đã 19 tuổi, còn tôi thì sắp 18. Hai đứa tôi thuộc loại học khá nhưng không phải là giỏi nhất lớp. Chín được chọn làm trưởng lớp vì nó vừa lớn tuổi vừa ăn nói dạn dĩ. Nhìn về nhan sắc, hoa khôi trong lớp là con Vy, 16 tuổi. Tôi được xếp hạng nhì. Tôi không rõ tôi được xếp hạng nhì vì tôi lớn tuổi hơn con Vy hay con Vy đẹp hơn tôi thật. Nhưng tôi rất bằng lòng nhận xét của con Chín:

- Con Vy đẹp thật nhưng là một cái đẹp lạnh, đẹp kiêu còn mi đẹp duyên, đẹp mặn. Mi sẽ làm đàn ông con trai mê mệt hơn nó cho mà xem.

Khi ông hiệu trưởng đưa tân giáo sư Sử Địa vào lớp giới thiệu, con Chín hích cùi chõ hông tôi nói nhỏ:

- Mi đoán đúng, thầy Trân sẽ là “hoa khôi” trong ban giảng huấn trường mình đó.

Tôi cũng phải công nhận thầy Trân trẻ và khôi ngô. Thầy lại có giọng giảng bài ấm, lối giảng của thầy gọn và lôi cuốn. Con Chín phê bình thầy Trân ngay sau giờ dạy đầu tiên:

- Thầy Trân giảng bài hay nhưng không phải mẫu người của tao. Tao không thích đàn ông nho nhã quá. Tao chịu mấy anh chàng sĩ quan tác chiến hơn. Đàn ông là phải hùng.


Bỗng nó quay sang nheo mắt nhìn tôi:

- Mi thích thơ văn chắc mẫu người của thầy Trân hợp với mi hơn. Mà này, mi tên Huyền, thầy tên Trân, trường lại là trường Huyền Trân, không chừng là duyên tiền định đó nghe mi!

Nói xong nó cười khanh khách, xách cặp chạy để tránh cái vói tay của tôi để véo nó. Nhưng câu nói đùa của Chín làm tôi suy nghĩ. Mà lạ thật, sao lại có sự tình cờ như thế được. Trò tên Huyền, thầy tên Trân, chung dưới một mái trường tên Huyền Trân.


Sự tình cờ đó khiến tôi để ý thầy Trân hơn các thầy khác. Và một lần trong lớp, khi gọi tên các nữ sinh để điểm danh, nghe đến tên Huyền tôi ngay ngắn đứng lên nhìn thầy Trân, nở một nụ cười dễ thương nhất mà tôi có thể tạo ra được để trình diện thầy. Tôi thấy thầy Trân có vẻ như khựng lại mấy giây trước nụ cười của tôi; thầy nhìn tôi mỉm cười rồi tiếp tục gọi tên nữ sinh kế tiếp.


Từ đó trong tuần tôi mong cho đến giờ dạy của thầy Trân. Tôi đâm mê môn học này khi nghe thầy Trân kể về tiểu sử của những nhân vật, những biến cố, những trận đánh lịch sử. Tôi bỗng nhiên trở nên một nữ sinh xuất sắc về môn Sử. Một hôm học về nhà Trần, thầy nói đến công ơn của các vua nhà Trần trong việc mở mang bờ cõi khi đem công chúa Huyền Trân gả cho vua Chiêm Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và châu Rí. Con Chín bỗng đưa tay lên xin hỏi:

- Thưa thầy, vua Trần có công mở mang bờ cõi thật nhưng em nghĩ đem con gả cho vua một tiểu quốc thì không những bất xứng mà còn nhẫn tâm nữa. Vì thế cho nên mới có hai câu ca dao lưu truyền trong dân gian để vừa mai mỉa vua Trần vừa thương hại công chúa Huyền Trân :

“Tiếc thay cây quế giữa rừng

“Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”


Thầy Trân ôn tồn trả lời con Chín:

- Nếu tôi là một nhà đạo đức thì tôi cũng đồng ý với phát biểu của trò Chín. Nhưng vì tôi là một giáo sư dạy Sử nên tôi chỉ trình bày những hành xử có tính cách quốc gia của tiền nhân. Chắc tất cả đều biết Châu Ô và Châu Rí ngày xưa chính là hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, trong đó có cố đô Huế, của ngày nay. Nhưng tôi nghĩ sự hy sinh cho quyền lợi quốc gia của công chúa Huyền Trân đã được tổ quốc ghi ơn, bằng chứng là chúng ta đang ngồi ôn lịch sử dưới một mái trường mang tên Huyền Trân.


Cả lớp vỗ tay râm ran sau khi thầy Trân dứt lời. Đến lượt tôi đưa tay xin hỏi trước sự ngạc nhiên của cả lớp vì ai cũng biết bản tính rụt rè của tôi.

- Thưa thầy, lịch sử có nói đến một tướng nhà Trần tên là Trần Khắc Chung. Xin hỏi thầy có tài liệu lịch sử nào xác nhận tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân không?

Thầy Trân nhìn tôi cười mỉm rồi nói:

- Tôi chưa đọc được sử liệu nào nói tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân. Chỉ biết vua Trần, khi hay tin vua Chế Mân đột ngột băng hà, để cứu công chúa Huyền Trân khỏi bị thiêu sống theo chồng theo tục lệ người Chàm, đã sai tướng Trần Khắc Chung đem quân qua Chiêm giải cứu và đưa công chúa Huyền Trân về lại Việt Nam. Lịch sử không ghi về lại Việt Nam công chúa Huyền Trân có tái giá với ai không. Nhưng sự tích Huyền Trân sang Chiêm đã là đề tài sáng tác cho giới văn nghệ sĩ về sau. Đặc biệt có một bài vọng cổ rất hay nói về mối tình Huyền Trân-Trần Khắc Chung. Có trò nào nghe chưa?


Cả lớp vang lên tiếng chưa. Con Chín bạo dạn gạ thầy:

- Chắc thầy ca hay lắm! Xin thầy ca cho tụi em nghe!

Thầy Trân cười thoái thác :

- Tôi cũng không thuộc, chỉ nhớ có một câu. Mà không hiểu sao tôi chỉ nhớ có câu đó.

Cả lớp nhao nhao:

- Một câu cũng được, xin thầy cho nghe!

Lớp học bỗng trở nên vui nhộn. Thầy Trân đứng trên bục, hai tay nắm sống lưng cuốn Sử được dựng đứng, nhìn lên trần lớp học, mắt mơ màng. Sau cái tằng hắng, thầy cất cao giọng trầm ấm, xuống câu vọng cổ :

“Huyền cô ơi! Huyền cô ra đi khiến cho địa thảm, thiên ơơơ ơ…sầu… ”

Thầy Trân ngân dài tiếng “sầu”, mắt rời trần lớp học hướng về chỗ tôi ngồi. Cả lớp vỗ tay khen giọng ca “mùi” của thầy. Thầy Trân kín đáo, qua câu vọng cổ, thổ lộ cảm tình của thầy với tôi chăng? Tôi nghe hai má mình nóng bừng. Suốt đêm hôm ấy tôi trằn trọc không ngủ với thắc mắc không biết thầy Trân đã có ai chưa? Tôi cho thầy Trân nhiều lắm cũng chỉ 25, 26 tuổi thôi. Nghe nói thầy tốt nghiệp sư phạm năm rồi và trường Huyền Trân là nhiệm sở đầu tiên của thầy. Tôi đi vào giấc ngủ muộn với ước mơ thầy Trân còn độc thân.


Nhưng oái ăm thay, nữ sinh đầu tiên trong lớp bị thầy Trân phạt lại chính là tôi. Cũng tại cái con khỉ Chín nó đem khoe cây bút Parker của thằng Thiếu Úy Biệt Động Quân, bồ nó, mới tặng nhân sinh nhật nó. Nhìn cây Parker bạc óng ánh tôi buột miệng khen: “Ồ! cây bút đẹp quá!” Lời khen của tôi tuy không lớn nhưng cũng đủ làm cả lớp, lúc đó đang im lặng nghe thầy Trân giảng, quay đầu về phía chỗ ngồi của con Chín và tôi. Con Chín giấu vội cây bút Parker, làm mặt nghiêm nhìn thẳng lên bảng đen. Thầy Trân nhíu mày nhìn tôi, không nói gì, tiếp tục giảng bài. Hết giờ thầy Trân gọi tôi đến bàn ông. Giọng ông vẫn ôn tồn nhưng sắc mặt lộ vẻ giận. Ông đưa tôi mảnh giấy và nói:

- Trò chép lại câu này 60 lần, sau đó đưa cho phụ huynh trò ký rồi đem nộp cho giám thị trường.

Tôi cầm mảnh giấy liếc nhìn mấy chữ “Tôi sẽ không lo ra trong lớp”. Nước mắt lưng tròng, tôi nhìn thầy Trân, miệng lí nhí:

-Em xin lỗi thầy, em không cố ý làm ồn trong lớp!


*


Thầy Trân mở cửa, thấy tôi, thầy đứng sững, ngạc nhiên. Hai tay cầm cuốn tập để trước vạt áo, mặt nóng ran, tôi nói trong hơi thở :

- Em đến xin thầy ký vào tập bài phạt để em nộp cho thầy giám thị. Em không dám đưa cho ba em ký, ông sẽ… đánh em chết! Xin thầy thương mà thông cảm vì em chưa bao giờ phạm kỷ luật trường cả.

Thầy Trân nhìn tôi, đứng nhích sang một bên rồi nói:

- Em vào đây, ta sẽ nói chuyện.

Phòng trọ của thầy Trân rất đơn sơ, chỉ vỏn vẹn một cài bàn viết với hai ghế ngồi, một tủ nhỏ và một chiếc giường ngủ. Tôi khép nép ngồi xuống ghế đối diện với ghế thầy ngồi và đưa tập bài phạt sang phía thầy. Thầy Trân không mở ra xem, chỉ đẩy tập vở sang một bên và nói:

- Thôi, thầy giữ tập viết này khỏi cần đưa cho thầy giám thị. Coi như thầy không phạt em. Thầy tin là em ngoan nhưng thầy thấy em và Chín là hai em lớn tuổi nhất lớp nên thầy muốn hai em là gương mẫu cho cả lớp.

Tôi sung sướng dạ nhỏ một tiếng rồi bỗng dưng bạo dạn hỏi thầy:

- Chị Chín, trưởng lớp, muốn tìm biết sinh nhật của thầy, để đến ngày đó cả lớp chúc mừng thầy như vẫn làm với các thầy khác. Thầy có thể cho em biết để em nói lại với chị Chín?

Thầy Trân cười vui vẻ:

- À, thầy sinh ngày 2 tháng 5. Thế còn sinh nhật của em?


Tôi ngạc nhiên sao thầy hỏi ngày sinh nhật mình. Một thoáng nghĩ làm tim tôi đập mạnh: Chắc thầy cũng để ý mình.

- Dạ, em sinh ngày 20 tháng 12.

- Như thế em sẽ được quà sinh nhật trước quà Giáng Sinh. Thích quá nhỉ!

Tôi nở một nụ cười buồn:

- Dạ em chưa bao giờ được quà sinh nhật lẫn Giáng Sinh.

- Sao lạ vậy?

- Dạ, vì nhà em rất… đơn sơ và không công giáo.

Thầy Trân nhìn tôi, tôi đọc trong đôi mắt thầy một sự trìu mến lạ thường. Giọng thầy trở nên thân thuộc:

- Hy vọng năm nay em sẽ được cả hai.

Nói xong thầy đứng dậy. Tôi cũng đứng dậy theo. Nắng bên ngoài gay gắt chiếu xuống thềm cửa. Tôi dang tay che nắng, nói lời từ giã:

- Em xin cám ơn và xin chào thầy.

Thầy Trân đứng yên đưa tay chào trả tôi và nói:

- Khi nào em có việc cần gặp thầy thì cứ đến, thầy không bị phiền đâu.

Tôi ra về, lòng nở hoa.


*


Hết giờ Toán thầy Ngô gọi tôi đến bàn và nói:

- Bài toán vừa rồi em giải sai phần sau. Nếu em muốn, mỗi tuần em ghé chỗ tôi trọ tôi chỉ thêm cho. Thầy biết em giỏi các môn khác, nếu toán cũng giỏi nữa thì em không những đẹp mà còn giỏi nhất lớp.

Tôi bối rối tìm cách trì hoãn:

- Dạ, em xin cám ơn thầy. Em phải về xin phép ba má.

Thầy Ngô bỗng đổi ý:

- Thôi em khỏi phải cần xin phép ba má. Khi nào em cần hỏi gì về toán thì sau giờ học trên đường về ghé thầy chừng 15 phút là đủ.


Tôi dạ và lặng lẽ cúi đầu chào thầy Ngô. Tôi ái ngại sự ân cần của thầy vì tôi nhớ có lần con Chín nói với tôi:

- Tao thấy thầy Ngô có vẻ chấm mi.

Tôi cũng thấy vậy. Thầy Ngô có bộ mặt nghiêm khắc nên tôi chỉ kính mà không cảm. Thầy Ngô không làm tôi mơ mộng như thầy Trân. Tôi làm bộ ngây thơ trả lời con Chín:

- Tao thấy thầy Ngô đối xử với ai hồi nào cũng như hồi nào.

Con Chín tỏ vẻ sành sõi:

- Mi đừng nhìn cái bề ngoài của mấy thầy. Núi lửa bên trong cả đó mi. Mi chờ xem, có ngày núi lửa của thầy Ngô sẽ phun ra cho mà coi. Mô phạm gì cũng có lúc tức nước vỡ bờ. Chuyện con tim mà, thánh mới kìm nổi nó.

Thấy con Chín nói quá đúng tôi làm thinh. Cũng may nó không tra khảo tôi gì về con tim của tôi đối với thầy Trân. Tôi cũng mong cho nó nghĩ tôi chỉ biết lo học chứ chưa thao thức gì về đàn ông.

Một tuần trước lễ Giáng Sinh, lúc tan lớp, đi ngang qua bàn thầy Trân, thầy ra hiệu cho tôi lại gần và nói vừa đủ cho tôi nghe:

- Huyền ghé nhà thầy: có quà tặng cho Huyền.


Lòng tôi rộn ràng khi sực nhớ lời thầy Trân nói với tôi trước đây: sinh nhật tôi và Giáng Sinh năm nay tôi sẽ có quà. Tôi chờ cho đám bạn về hết mới đạp xe đến nhà thầy. Dựng xe trước nhà trọ của thầy Trân, lòng tôi hồi hộp, bồn chồn. Tôi nhìn quanh xem có ai trước khi gõ cửa.

Thầy Trân đưa tay mời tôi ngồi ở chiếc ghế tôi ngồi lần trước. Thầy mở tủ lầy ra hai gói quà bọc giấy hoa, để trước mặt tôi và dịu dàng nói:

- Lần trước nghe Huyền nói chưa bao giờ có quà sinh nhật và Giáng Sinh thầy rất bùi ngùi. Thầy có hai món quà nhỏ tặng Huyền, một cho Giáng Sinh, một cho sinh nhật. Mừng Huyền 18 tuổi, tuổi truởng thành.

Tôi cảm động nhìn thầy Trân, miệng ấp úng:

-Em… em cám ơn thầy!

- Huyền mở quà ra đi. Thầy mong Huyền sẽ ưng ý.

Tôi lóng cóng bóc từng mảnh giấy hoa. Quà là một cây bút Parker và một cuốn album.

Tôi nhìn thầy Trân cười sung sướng:

- Cám ơn thầy, quà của thầy là những thứ em mơ ước từ lâu!

Khi đưa tôi ra cửa, thầy Trân thân mật khoác vai tôi, đặt một nụ hôn lên mái tóc tôi. Tôi đứng im, người nóng ran, vừa ngây dại vừa lo lắng cử chỉ kế tiếp của thầy. Nhưng thầy Trân ngừng lại ở đó:

- Cám ơn thầy lần nữa, em về.

- Huyền về, chúc Huyền một sinh nhật và một Giáng Sinh vui tươi, hạnh phúc.


*


Tôi đập con heo đất, lấy hết tiền để dành cho vào bóp rồi đạp xe ra phố. Phố của tỉnh lỵ nhỏ bé này đi bộ chừng 15 phút là hết. Tôi vừa lấy một quyết định táo bạo là đi mua một chiếc cà vạt tặng thầy Trân nhân dịp lễ Giáng Sinh. Tôi đi nhanh vào tiệm bán đồ đàn ông, chọn chiếc cà vạt màu xanh đậm, mua không cần trả giá, rồi trở ra xe thật lẹ. Tôi sợ có người quen bắt gặp, sợ người ta đọc được tâm tư mình rồi đàm tiếu. Tiền mua chiếc cà vạt chiếm hết hai phần ba số tiền tôi bỏ ống. Nhưng tôi không một chút xót xa.


Thầy Trân ra mở cửa, ngạc nhiên khi thấy tôi đến thăm thầy vào lúc sắp tối. Thấy tôi nháo nhác nhìn quanh, thầy nói nhanh:

- Huyền vào nhà nói chuyện.

Ngồi xuống ghế đối diện với tôi, thầy Trân nhìn tôi như chờ đợi một lời giải thích. Tôi lấy hộp đựng cà vạt trong cái giỏ mây ra để lên bàn rồi rụt rè nói:

- Em… em có món quà Giáng Sinh tặng thầy.

Thầy Trân ồ lên một tiếng, đưa hai tay nhận gói quà, tháo giấy, mở hộp, lấy chiếc cà vạt đưa lên ngắm nghía:

- Thầy cám ơn Huyền, thầy có một chiếc cà vạt màu xanh đã cũ, chiếc này đến thay thế rất là đúng lúc.

Thầy Trân bỗng đưa hai bàn tay sang úp lên hai bàn tay tôi. Tôi để yên, cúi mặt ngồi im, lòng rộn ràng. Cả phút dài trôi qua. Tôi nghe giọng thầy ngập ngừng:

- Ngoài cho quà, Huyền có… cảm nghĩ… gì khác không?

Tôi vẫn cúi mặt, thu hết can đảm trả lời thầy :

- Ngoài ra em… em muốn đến… thăm thầy!


Tay thầy Trân rời tay tôi. Tôi nghe thầy rời ghế bước sang phía tôi. Tôi nghe thầy đặt tay lên hai vai tôi, kéo tôi đứng lên, xoay người tôi lại. Bóng chiều phủ mờ căn phòng chưa lên đèn. Tôi ngước mắt lên. Trong đáy mắt tôi là cái nhìn đắm đuối của thầy. Rồi môi thầy chạm môi tôi. Thầy ôm sát tôi vào người. Toàn thân tôi mềm nhũn mà hừng hực lửa. Tay thầy, như vừa bứt phá mọi trói buộc, xoa nắn ngực tôi. Tôi co rúm người khi tay thầy lần xuống phía dưới. Ở giờ phút nầy tôi biết tôi không cưỡng lại bất cứ ý muốn nào của thầy vì tôi là một kẻ đồng lõa nhiệt tình. Nhưng tay thầy bỗng khựng lại ở thắt lưng tôi, như có một lực cản nào bắt thầy dừng lại. Tay thầy đi ngược trở lên, nhẹ nhàng trên ngực, trên môi, trên mắt, trên tóc tôi.


- Thôi, Huyền về kẻo sắp tối.

Trên đường về tôi nghe thân thể mình khác lạ, có thứ gì vừa mất đi, nhưng cũng có một thứ gì vừa chợt đến. Nhưng tôi không thấy hụt hẫng vì thứ mất đi mà tròn đầy thứ vừa ngập đến. Chưa bao giờ tôi thấy đời đáng yêu và đáng sống như bây giờ. Tôi sắp bước vào tương lai nào thì tôi không rõ, tôi chỉ biết tôi vừa từ giã tuổi thơ không chút luyến tiếc.

Hai tuần trước khi trường đóng cửa nghỉ Tết thì ông hiệu trưởng vào thông báo cho lớp học nghỉ giờ Sử Địa vì giáo sư bệnh. Tôi lo lắng không biết thầy Trân bệnh gì và nôn nóng muốn đến thăm thầy. Bất ngờ trong giờ ra chơi gặp thầy Ngô trong hành lang. Thầy nhìn tôi rồi nói:

- Giáo sư Trân bị cảm. Có hôn thê của ông xuống săn sóc.

Nói xong ông cười nhạt rồi bỏ đi. Tôi tái mặt vì nghi thầy Ngô biết chuyện tình cảm giữa tôi và thầy Trân. Nhưng điều làm tôi rụng rời, đau điếng là thầy Trân đã có hôn thê. Bây giờ thì tôi hiểu cái khựng lại của bàn tay thầy trên thân thể tôi. Bàn tay ngừng lại vì nó đã có chủ. Lương tri đã cản được đam mê của thầy. Tôi thấy đất như quay cuồng, trời như đang sụp đổ.


Giờ Sử tuần sau thầy Trân đi dạy lại. Mặt thầy hơi xanh nhưng giọng nói vẫn ấm áp truyền cảm. Có lúc hướng về phía tôi ngồi thầy nhìn tôi lâu hơn thường lệ. Tan lớp, tôi nấn ná để làm người cuối cùng rời lớp. Thấy tôi đi ngang qua bàn, thầy Trân nói khẽ:

-Huyền ra quán cà phê Mimosa chờ thầy. Thầy có chuyện muốn nói với Huyền.

Tôi dạ rồi lầm lũi đi. Tôi cảm thấy mình thương hại mình quá đỗi! Tôi đoán biết gặp tôi thầy Trân sẽ nói gì.

Thầy Trân có mặt ở quán trước tôi. Quán có hai bàn khách nhưng may mắn toàn là khách lạ. Tôi ngồi xuống ghế thì thấy có ly chanh đường để sẵn trên bàn. Thầy Trân khuấy khuấy ly cà phê đen nhưng không uống. Thầy cất tiếng trước, giọng buồn buồn:

-Thầy hiện đang có khách ở nhà trọ, Huyền không nên ghé thầy lúc này.

- Em biết, hôn thê của thầy xuống săn sóc thầy.

Thầy Trân ngạc nhiên:

- Sao Huyền biết?

- Thầy Ngô nói với em.

- Lại cái thầy Ngô! Cũng chính thầy Ngô báo cho Thu biết!

- Thu là hôn thê của thầy?

Thầy Trân im lặng gật đầu. Giây lâu thầy mới nói:

- Thầy xin lỗi Huyền về cử chỉ hôm trước Giáng Sinh vì đã không kìm hãm được xao xuyến của lòng mình.


Con tim có lúc đã vượt qua lí trí. Thầy không có quyền hành động như thế. Nhưng ít ra thầy cũng đã không để tình cảm đi quá đà. Thầy mong Huyền tha lỗi cho thầy.

Tôi rũ người, rung rung đôi vai, cố nuốt những dòng lệ. Thu hết can đảm tôi thốt ra được mấy lời cảm khái:

- Thầy không có lỗi gì hết. Em vẫn kính trọng thầy và… thương thầy!


Nói xong tôi với tay lấy ly chanh đường đưa lên môi hớp mấy ngụm nhỏ rồi đứng lên đưa tay vẫy chào thầy. Qua màn mắt nhập nhòa tôi thấy khuôn mặt trái xoan của thầy Trân vẫn đáng yêu như hôm thầy hôn tôi lần đầu.


Đó là lần cuối cùng tôi gặp mặt thầy Trân. Sau một tuần nghỉ Tết, đi học lại, cả lớp mới hay thầy Trân đã xin đổi trường. Tôi bàng hoàng khóc lẻ loi một mình suốt cả mấy tuần. Con Chín không hay biết gì chuyện sóng gió vừa xảy cho đời tôi cũng như lý do thầy Trân xin đột ngột đổi trường. Người thứ hai tôi nghĩ hay biết chuyện là thầy Ngô. Điều làm tôi hơi ngạc nhiên là vắng bóng thầy Trân, tôi vẫn không thấy thầy Ngô tỏ vẻ gì săn đón tôi hơn; trái lại mỗi lần chạm mặt tôi thầy có vẻ ngượng nghịu. Tôi có cảm tưởng thầy ân hận vì có phần trách nhiệm trong việc đổi trường của thầy Trân.


Thi đậu xong bằng trung học đệ nhất cấp, gia đình gởi tôi lên Sàigòn học tiếp. Và tôi chỉ biết học và học. Tôi không để ý đến đàn ông nữa. Tôi chỉ có một người đàn ông nhưng tôi đã mất ông rồi! Tôi đậu tú tài phần 1 rồi phần 2 dễ dàng. Vào đại học tôi cũng chọn ngành sư phạm, môn Anh Văn; tôi cũng sẽ là một giáo sư như thầy Trân.


Không ngờ năm học cuối cùng của tôi lại là năm mất Miền Nam. Tị nạn sang Hoa Kỳ, một lần nữa tôi lại muộn màng cắp sách đến trường. Nhờ vốn liếng Anh ngữ sẵn có tôi học lại dễ dàng. Tôi chọn ngành Luật. Tôi lập gia đình lúc đang tập sự hành nghề luật sư. Chồng tôi là một chuyên gia kinh tế người Việt. Chúng tôi sống êm đềm bên nhau đã 15 năm và có hai con. Mỗi khi chọn tên cho con tự nhiên tôi nhớ đến hai người của ngôi trường cũ. Đứa con gái đầu, 14 tuổi, tôi đặt tên Chi để nhớ con Chín, con bạn học ngồi cạnh tôi. Thằng con trai, 12 tuổi, tôi đặt tên Trung để nhớ đến thầy Trân. Chồng tôi không một chút thắc mắc khi tôi chọn tên Việt cho con; anh chỉ lo kiếm tên tương đương bằng tiếng Mỹ, Carolyn cho Chi và Tom cho Trung.


Tôi xa quê hương như vậy cũng đã gần hai mươi năm. Một hôm tôi ngỏ ý với chồng, tôi muốn đưa hai đứa nhỏ về thăm Việt Nam một chuyến cho chúng biết đất nước thật của chúng. Chồng tôi không hồ hởi cũng không chống đối. Anh chỉ nói:

- Nếu em quyết định về cùng hai con thì cứ đi. Riêng anh, tình hình chính trị bên đó chưa thuận tiện cho anh về.


Tôi biết chồng tôi nói khéo chứ tôi rõ lập trường của anh rất dứt khoát: anh chỉ trở về Việt Nam khi chế độ Cộng Sản sụp đổ.

Về lại Việt Nam chuyện đầu tiên tôi làm là về thăm ngôi trường cũ. Tôi thất vọng não nề khi thấy trường biến thành trụ sở nhân dân tỉnh với lá cờ đỏ sao vàng ngất ngưởng ở đỉnh cột cờ. Tôi không có cảm tình với lá cờ này vì thấy nó không “hiền” như lá cờ vàng ba sọc đỏ của miền Nam trước đây. Về thăm đất nước, sau gần hai mươi năm xa cách, tôi thấy mình chỉ là một du khách. Hiện tại không đưa tôi tìm lại được quá khứ. Dù những cái tên không thay đổi. Vẫn Đà Lạt, Nha Trang, vẫn Huế, Hà Nội, vẫn Hạ Long, Vũng Tàu. Nhưng cái xã hội vô hồn hiện nay khiến cho lòng người về cũng trở nên vô cảm trước cảnh vật. Tuy nhiên tôi cũng cố gắng giảng giải sự tích của những nơi thăm viếng để hai đứa con tôi biết đôi chút lịch sử mấy ngàn năm của nước nhà.


Ba tuần trôi qua mau. Tuần thứ tư tôi đóng đô ở Sài Gòn. Sài Gòn xưa của tôi đã mất! Y lời của một bài hát tôi từng nghe: Tôi mất Sài Gòn như Sài Gòn đã mất tên! Đường phố đầy những kẻ tật nguyền ăn xin, đặc biệt là ở các tiệm ăn. Nhìn những kẻ cụt tay, cụt chân, tôi chạnh nghĩ trong số những người này không hiếm kẻ là thương phế binh của quân đội miền Nam trước đây. Tôi chợt nhớ đến con Chín và người tình đầu của nó, anh chàng Thiếu Úy Biệt Động Quân, người đã tặng nó cây bút Parker, không biết bây giờ ra sao. Còn sống hay đã chết? Còn ở với nhau hay đã chia tay? Nhớ tới cây bút Parker tôi lại nhớ chuyện bị thầy Trân bắt chép phạt, nhớ cây bút Parker, quà của thầy tặng tôi sau đó. Mặc cho bác xích lô đạp loanh quanh khắp nẻo Sàigòn, mặc cho hai đứa nhỏ ngồi phía trước líu lo chỉ chỏ cảnh trí bên ngoài, tôi ngả người vào nệm lưng chiếc xe, lim dim mắt, thả hồn về dĩ vãng.


- Mẹ, mẹ, họ bán gì kia?

Tôi giật mình, nhô đầu ra khỏi mui chiếc xich lô, nhìn sang vệ đường:

- À, họ bán vé số.

- Sao có nhiều người bán vậy?

- Chắc vì có nhiều người mua.


Vừa nói tôi vừa đảo mắt nhìn những quầy bán vé số. Ngồi đàng sau quầy là những bộ mặt buồn hiu, đàn ông có, đàn bà có. Tuy nói với hai con tôi nhiều quầy hàng vì có nhiều người mua nhưng tôi chẳng thấy người mua nào. Và tôi thắc mắc với ngần ấy quầy hàng, mỗi ngày một người bán được bao nhiêu vé để đủ sống? Tôi bỗng chú ý đến một người đàn ông ngồi sau quầy hàng cuối cùng. Trông ông ta quen quen. Tóc ông đã muối tiêu, má hóp, da mặt sạm đen. Nhìn mang tai trái của ông tôi giật mình:

- Thầy Trân!


Thầy Trân có cái nút ruồi nơi mang tai trái. Tôi sững sờ đi một lúc. Sao thầy Trân giờ lại ra nông nỗi này? Một ông giáo sư đi bán vé số! Tôi vẫn lạc quan tin nghề giáo, dưới bất cứ chế độ nào, vẫn hữu dụng. Tôi nghe lòng tê tái. Tôi bảo bác xích lô tấp xe vào bờ đường. Tôi mở ví, tìm cuốn sổ tay, xé một trang nhỏ, lấy bút ghi vội dòng chữ: “Ông có phải là thầy Trân dạy Sử trước đây ở trường Huyền Trân không?” Tôi đưa mảnh giấy cho Chi, con gái lớn của tôi, và nói với nó bằng tiếng Mỹ cho nó dễ hiểu và cũng để bác xích lô không biết chuyện:

- Con xuống xe, đi lại chỗ ông bán vé số quầy cuối cùng, đưa cho ông tờ giấy này. Ông đó là thầy dạy học của mẹ trước đây.

Con gái tôi mở tròn hai mắt:

- Thầy dạy học mà đi bán vé số! My God!

- Chắc tại ông mất việc.

Tôi đưa tiếp cho Chi hai tờ 100 mỹ kim và dặn thêm:

- Nếu ông nhận ông là giáo sư Trân thì con đưa cho ông số tiền này và nói của một học trò cũ của ông tặng. Mẹ dặn thêm, nếu ông có hỏi tên mẹ thì con trả lời: “Mẹ con dặn đừng nói”.


Thấy con bé ngỡ ngàng không hiểu vì sao tôi lại dặn nó dấu tên tôi, tôi giục nó:

- Con đi ngay và nhớ lời mẹ dặn.

Tôi ngồi thu mình trong xe theo dõi. Tôi thấy người đàn ông cầm tờ giấy tôi viết đọc. Tôi thấy ông nhìn sững con bé, rồi đưa hai tay ôm vai nó, đầu gật gật. Con bé đưa tiếp cho ông số tiền tôi đưa. Tôi thấy ông cầm tiền, đứng ngây người ra, rồi mắt nhớn nhác nhìn tứ phía như tìm kiếm ai. Tôi thấy ông cúi xuống như muốn gặng hỏi gì con bé. Con bé lắc đầu hai ba cái. Nó đưa tay ra bắt tay ông rồi vừa đi vừa chạy về hướng chiếc xích lô tôi ngồi. Tôi thấy ông cuộn tròn hai tấm giấy bạc, nắm chặt trong lòng bàn tay, mắt đăm đăm nhìn theo hướng con bé chạy. Tôi mở ví lấy cặp kính đen đeo vội để giấu đôi mắt đẫm ướt của mình.

Trang Châu
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Chiều văn học nghệ thuật ra mắt sách Trần Quang Hải-
50 Năm Nghiên Cứu Nhạc Dân Tộc Việt


Image
GS Quyên Di thay mặt bà khoa trưởng trao tặng bằng vinh danh GS. TS Trần Quang Hải. (Băng Huyền/ Viễn Đông)

Bài BĂNG HUYỀN
Trưa Chủ Nhật, ngày 10 tháng 2, 2019 tại phòng hội của Đại Học Cal State Long Beach (CSULB) thuộc Phân Khoa Nghiên Cứu Về Người Á Châu Và Người Mỹ Gốc Á Châu (Asian & Asian American Studies) đã diễn ra buổi "Chiều Văn Học Nghệ Thuật" năm thứ III do nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian tổ chức.

Chương trình này rất đặc biệt, là buổi ra mắt sách “Trần Quang Hải- 50 Năm Nghiên Cứu Nhạc Dân Tộc Việt” do nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian kết hợp cùng Nhóm Văn Thơ Lạc Việt tại San Jose thực hiện, và vinh danh Giáo Sư Tiến Sĩ (GSTS) Trần Quang Hải. Ông là con trai đầu của cố Giáo sư Tiến Sĩ Trần Văn Khê và cháu của “quái kiệt” Trần Văn Trạch.


Ông là một thuyết trình viên, nhạc sĩ sáng tác và là người thầy nổi tiếng về sư phạm âm nhạc. Ông đã có hàng nghìn cuộc nói chuyện, giới thiệu âm nhạc Việt Nam khắp nơi trên thế giới. Ông không chỉ chuyên về nhạc dân tộc Việt, mà còn là chuyên gia về nhạc cụ và âm nhạc của các nước châu Á. Ông sống tại Paris, Pháp, đã thực hiện rất nhiều công trình vĩ đại với nhiều sáng tạo đầy màu sắc nghệ thuật độc đáo.

Giáo sư Quyên Di là giảng viên Phân Khoa Nghiên Cứu Về Người Á Châu Và Người Mỹ Gốc Á Châu của Đại Học Cal State Long Beach và là thành viên của nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian. Giáo sư Quyền Di cho biết, “Đây là chương trình thường niên lần thứ ba Chiều Văn Học Nghệ Thuật của nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian tổ chức, dưới sự bảo trợ của Khoa Nghiên Cứu về Người Mỹ gốc Á Châu của Đại Học Cal State Long Beach. Tôi sẽ đại diện cho phân khoa và bà khoa trưởng, Giáo Sư Tiến Sĩ Teri Yamada, hiện đang công tác tại Ấn Độ, nên không thể có mặt trong chương trình lần này, để trao giải thưởng cho Giáo sư Tiến Sĩ Trần Quang Hải và tôi cũng đại diện chương trình tiếng Việt của trường, trao cho ông giải thưởng. Giải thưởng ghi nhận sự đóng góp không biết mệt mỏi của Giáo sư Tiến Sĩ Trần Quang Hải vào gia tài âm nhạc Việt Nam.


“Giáo sư Trần Quang Hải có nhiều công trình lắm, ngoài những công trình về sáng tác âm nhạc, công trình về thu thanh thu hình âm nhạc và trình diễn. Ông còn là một người nghiên cứu rất sâu về âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Cuốn sách Trần Quang Hải 50 năm Nghiên Cứu Nhạc Dân Tộc Việt, tập hợp rất nhiều bài nghiên cứu của ông. Trong quyển sách này đặc sắc nhất và tôi được học hỏi nhiều là bài Nguồn Gốc Âm Nhạc Việt Nam.”

Ông Trần Mạnh Chi, trưởng Ban Tổ Chức và là đại diện cho Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian, bày tỏ, “Chúng tôi hân hạnh đón tiếp mọi người đến dự ra mắt sách của Giáo sư Trần Quang Hải từ Pháp qua. Nhạc sư đã bỏ công 50 năm nghiên cứu về âm nhạc nghệ thuật Việt Nam. Đây là niềm hãnh diện cho người Việt Nam khắp nơi trên thế giới. Tất cả những chương trình mà nhóm đã tổ chức trong quá khứ và sắp tới, chúng tôi mong mỏi vinh danh những nhà văn học, nhà văn hóa nghệ thuật, những ai đóng góp công sức cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Hôm nay đặc biệt còn có một buổi triển lãm tranh mini của các họa sĩ Hoàng Vinh, họa sĩ Hồ Thành Đức, họa sĩ Beky, họa sĩ Lưu Anh Tuấn… bên ngoài phòng hội trước khi diễn ra chương trình chính.”

Giáo sư Tiến sĩ Trần Quang Hải có mặt từ rất sớm để ký tặng sách cho mọi người, cùng xem tranh của các họa sĩ triển lãm bên ngoài phòng hội và chụp hình lưu niệm với bạn hữu, thân hữu, những khán giả yêu mến tài năng của ông. Nói về cảm xúc của mình, Giáo sư Trần Quang Hải chia sẻ, “Đây là chương trình rất đặc biệt và vinh dự cho tôi, là một người từ phương xa đến. Sự tiếp đãi rất nồng hậu, tất cả những cảm tình, sự tiếp đón của anh em trong cộng đồng đem lại cho tôi niềm vui, để tôi thấy rằng người Việt Nam vẫn còn yêu thương nhau. Đây là buổi giới thiệu quyển sách, là công trình nghiên cứu của tôi về nhạc dân tộc Việt trong 50 năm qua, như lĩnh vực hát đồng song thanh, không những phổ biến giọng hát, phổ biến dùng giọng hát để chữa bệnh, giúp những người câm có thể nói chuyện được mà không phải mổ, đó là những đóng góp rất nhỏ không chỉ trong âm nhạc mà nó liên hệ đến nhiều lĩnh vực khác nhau, và được gặp gỡ người đồng hương tại vùng Nam Cali sau 13 năm tôi mới trở lại gặp những người Việt sống tại đây.

“Tôi rất lấy làm vui mừng và hân hạnh được tiếp đón ở trường Đại Học Cal State Long Beach, là niềm vui cho tôi và tôi cũng chia sẻ niềm vui đó với cộng đồng người Việt tại California nói riêng và cho tất cả những người Việt của cộng đồng Việt Nam tại đất Mỹ này nói chung. Sự vinh danh này chỉ là cá nhân thôi, nhưng điều tôi thấy trường Đại Học Mỹ bắt đầu chú trọng về văn hóa Việt, đó là điểm son do sự đóng góp của rất nhiều những vị giáo sư mà chúng tôi được hân hạnh gặp và một số vị đã đóng góp một cách trực tiếp hay gián tiếp trong công trình xây dựng văn hóa Việt Nam ở hải ngoại.”
Các thành viên trình diễn tiết mục thời trang. (Băng Huyền/ Viễn Đông)
Sau khi thức khai mạc trang trọng với sự điều hợp của MC Thụy Vy, Ban Hợp Ca nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian đã gợi nhắc bao nỗi bồi hồi trong tim khán giả qua ca khúc Nắng Đẹp Miền Nam (Lam Phương) và bồi hồi nhiều suy nghiệm về cuộc đời về tình thương giữa người với nhau qua ca khúc Phút Chan Hòa (Thơ Trần Việt Hải, nhạc Hồng Tước).

Phần nghi thức vinh danh GS. TS Trần Quang Hải với GS Quyên Di của trường Cal State Long Beach, Bà Nguyễn Thế Thủy đại diện của Học Khu Westminster trao bằng tưởng lục đến GSTS Trần Quang Hải. GS Dương Ngọc Sum là cố vấn Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian cùng các cựu học sinh của trường Petrus Ký tặng quà lưu niệm cho GS Trần Quang Hải, là một cựu học sinh của Petrus Ký. Vài thành viên Nhóm Văn Thơ Lạc Việt tại San Jose đã tặng GS. TS Trần Quang Hải hai cuốn sách “Trần Quang Hải- 50 Năm Nghiên Cứu Nhạc Dân Tộc Việt” tiếng Việt và tiếng Anh do nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian kết hợp cùng Nhóm Văn Thơ Lạc Việt tại San Jose thực hiện,

Những tiết mục phụ diễn văn nghệ đặc sắc
Những người mẫu không chuyên của nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian đã trình diễn tiết mục Thời Trang Áo Dài Việt Nam Theo Dòng Thời Gian, dưới sự dẫn dắt dí dỏm của Giáo sư Quyên Di và cô Thủy Vân đã giới thiệu tên gọi, thời gian ra đời của từng bộ áo dài Ngũ Thân, áo dài Lemur/Cát Tường, áo dài Tứ thân/ Lê Phổ, áo dài Raglan/ Trần Kim, áo dài Trần Lệ Xuân...

Chương trình càng thêm đậm đà phong vị dân tộc với giọng hát của dược sĩ Thanh Mai qua ca khúc Rất Huế của Võ Tá Hân sáng tác, do chính nhạc sĩ Võ Tá Hân đệm guitar cho giọng hát của Thanh Mai. Giọng ca ngọt ngào của Ngọc Quỳnh hát “Dạ Cổ Hoài Lang” và nét duyên dáng, luyến láy, nhấn nhá từng câu chữ của ca sĩ Thúy Anh (Là - xướng ngôn viên, biên tập viên của chương trình radio Chiều Thứ Bảy) hát bài Mình Ơi Em Chẳng Cho Về của nhạc sĩ Anh Bằng, với tiếng đàn guitar của anh Nguyên Vũ.
Giáo sư Tiến Sĩ Hiroki Tahara, phó giám đốc Trung Tâm Giáo Dục Ngôn Ngữ Học tại đại học APU Nhật, không những nói, viết tiếng Việt rất lưu loát mà anh còn am hiểu văn hoá Việt rất sâu. Trong bộ áo dài cách điệu, anh cùng với MC Thụy Vy và ông Hậu Nguyễn là thành viên trong Ban Tổ Chức đã hát rất tình bài hát Qua Cầu Gió Bay.

Anh Hiroki Tahara đã tiết lộ với người viết, cách nay hơn 20 năm, hồi còn là sinh viên năm thứ nhất Cử nhân ngoại ngữ học tiếng Việt tại trường Đại Học Ngoại Ngữ Tokyo, anh đã từng tập hát bài Qua Cầu Gió Bay, hát chung với các sinh viên khoa tiếng Việt. Lần này tham dự trong chương trình, ban tổ chức đề nghị anh hát bài này, anh đã tập lại trong một tuần để hát. Anh rất thích bài hát này nên dù hai mươi mấy năm rồi vẫn chưa quên. Lúc còn sinh viên, anh hát nhưng hoàn toàn không hiểu ý nghĩa bài hát. Dù vậy bài hát để lại ấn tượng đẹp để anh nhớ hoài, anh rất thích câu hát “Tình tình tình gió bay… tình tình tình gió bay, vì âm điệu nên thơ.

Những giọng ca tài tử của các ca sĩ khách mời góp vui cho chương trình, bằng tài năng và sự duyên dáng của mình, họ đã giúp người nghe có mặt trong buổi diễn càng yêu cái chất thơ tinh tế vô cùng của dân ca, ca khúc mang âm hưởng dân ca của các nhạc sĩ, càng nghe lại càng thấm cái ý nhị đẹp đẽ trong nội dung câu hát, cái thanh lịch nhẹ nhàng, cái tình rất nồng đượm mà không vồn vã của người Việt Nam.

Diễn thuyết và trình diễn

Có lẽ tiết mục đặc biệt và nhận được những tràng pháo tay cùng những lời ngợi khen, hâm mộ từ những người tham dự nhiều nhất, chính là tiết mục diễn thuyết kết hợp trình diễn của Gíao sư Trần Quang Hải trong khoảng 20 phút.

Với lối nói chuyện hài hước và phong thái giản dị, mộc mạc, GS. TS Trần Quang Hải đã chia sẻ súc tích những nghiên cứu của ông về Nhạc Dân tộc xoay quanh hai công trình: Hát đồng song thanh, và đàn môi. Trong hai công trình ấy, Hát đồng song thanh là công trình mà ông dày công nghiên cứu nhiều nhất. Hát đồng song thanh, còn được biết đến trên thế giới với cái tên Tuvan Throat Singing, Khoomei (Khơ mây), Hooliin Chor.
Là một biến thể đặc biệt của hòa âm giọng hát, được hình th
ành và phát triển từ Mông Cổ, Nội Mông, Tuva và Siberia. Nó được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể năm 2009 dưới cái tên Nghệ thuật hát Mông Cổ, Khơ mây. Trong kĩ thuật hát này, người trình diễn sẽ tạo ra một cao độ cơ bản và đồng thời tạo ra thêm một cao độ khác cao hơn cùng lúc.

Công trình nghiên cứu Hát đồng song thanh của GS.TS Trần Quang Hải là một quá trình nghiên cứu, từ vị trí phát âm và các kỹ thuật hát của mỗi dân tộc trên thế giới, cho đến các lối hát đồng song thanh của các nước Tây Á và kiểu thức cầu kinh của các vị Lạt Ma- Tây Tạng. Từ cơ sở đó, ông phát triển và sáng tạo lối hát Đồng song thanh theo kiểu của riêng ông, mà hiện nay không những để biểu diễn âm nhạc mà còn ứng dụng vào lĩnh vực Y khoa.
Đây còn là cách điệu trị học cho các căng bệnh đứt dây thanh quản và khuyết tật về phát âm. Song song với diễn thuyết ông còn thể hiện tài nghệ độc đáo của mình minh họa các giọng hát bằng giọng ngực, minh họa bằng hát một đoạn ngắn opera. Giọng mũi, minh họa bằng hát bài nhạc cổ truyền Nhật Bản. Giọng óc, minh họa hát đoạn kinh kịch.

Giáo sư Tiến Sĩ Trần Quang Hải giới thiệu cây đàn Môi của người Mông là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Ông cho biết ông đã giới thiệu cây đàn Môi của người Mông cách nay 45 năm khắp nơi trên thế giới. Ông đã ngậm chiếc kèn nhỏ bé, bàn tay thoăn thoắt gảy kèn, đôi môi run run theo cảm xúc tạo nên những âm thanh trầm bỗng vang lên, rền rền thánh thót, tạo nên những âm thanh thật thú vị, mới mẻ về giai điệu, tiết tấu khiến mọi người hải trầm trồ thích thú.

Lúc đầu ông đánh đàn môi đơn giản trình diễn bài Happy Birthday To You, sau đó ông đàn lại bài này nhưng thêm tiết tấu vô, khiến bài hát nghe đặc sắc hơn. Ông còn dùng đàn môi để nói chuyện, ông nhép miệng nói không phát ra tiếng, nhưng thông qua đàn môi tiếng nhép miệng câu nói đó phát ra tròn câu rõ ràng, làm cho không khí cả khán phòng sôi động hẳn lên và không ngớt vang lên những tràng pháo tay thán phục. Kết thúc phần trình diễn của mình, ông nhận lời đề nghị của MC Thụy Vy, đã nhái lại giọng của người chú là nghệ sĩ Trần Văn Trạch, hát lại bài Sổ Xố Kiến Thiết Quốc Gia trong tiếng vỗ tay giòn giã của khán giả.

Có mặt trong chương trình, GS Lê Văn Khoa đã chia sẻ với nhật báo Viễn Đông, “Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian là nhóm tập hợp một số anh em yêu thích nghệ thuật và văn chương, không phải là những nhà văn lớn, những nghệ sĩ lớn, nhưng họ yêu thích và đã làm được. Đây là điều rất quý. Anh Việt Hải là người sáng lập ra nhóm, rất có lòng, đã thúc đẩy anh em làm nhiều sách. Họ đang có danh sách dài để ra mắt sách suốt năm tới, chứ không chỉ trong năm nay thôi đâu. Đây là điều mừng.

“Người Việt ra nước ngoài cũng có ước vọng làm sao để văn hóa, nghệ thuật của mình vươn lên, thành ra họ tiếp tục sinh hoạt. Mình ở ngoài nước, vẫn làm được. Thì như vậy, theo tôi, văn hóa và nghệ thuật Việt Nam sẽ càng rộng lớn hơn, và nó không nằm dưới một chiêu bài, sự chỉ huy của người nào cả. Vì đó là dân tộc, chứ không phải là cá nhân. Đây là ý của tôi. Còn anh Trần Quang Hải thì tôi có biết anh lâu rồi, thỉnh thoảng gặp nhau mỗi lần anh bên Pháp qua, thỉnh thoảng chúng tôi có gặp nhau.

“Thân phụ của ông Trần Quang Hải là Trần Văn Khê, là người tôi rất kính quý, là người có tâm hồn về nhạc chính thống Việt Nam và họ muốn phát huy. Nhưng cái mình làm rộng rãi hơn hết, đem nhạc Việt đi phổ biến trong những buổi diễn thuyết khắp thế giới, thì tôi nghĩ người Việt không có ai làm được tương xứng như anh Trần Quang Hải đâu.

“Chúng ta rất hãnh diện có những nhân tài đó trong cộng đồng Việt Nam chúng ta và tôi hy vọng mọi người sẽ tiếp trợ, làm sao để thế hệ sau này còn vươn xa nữa, để đưa nhạc Việt chúng ta đi rộng ra trên thế giới.”
Giáo sư Tiến Sĩ Hiroki Tahara thì bày tỏ, “Tahara rất vui vì được ngồi chung với những bạn Việt Nam của cộng đồng người Việt hải ngoại tại Nam Cali. Bản thân tôi rất thích hát bài Qua Cầu Gió Bay, và được hát trước mặt Giáo sư Tiến sĩ Trần Quang Hải là một vinh dự đối với tôi.”

Anh cũng nêu lên suy nghĩ và mong ước của mình, “Điều hơi buồn là sao chương trình này toàn người già, tôi năm nay 47 tuổi, không phải người trẻ. Đáng lẽ chương trình như thế này phải có thanh niên ngoài 20, dự thật đông. Lẽ ra phải có thanh niên tham gia vào ban tổ chức để rút kinh nghiệm cách tổ chức, cách tiếp khách, cách biểu diễn. Vì không có người trẻ sẽ không có người kế thừa, vì người già đến tuổi phải về hưu, nghỉ ngơi, không có người trẻ kế thừa thì tiếc lắm.”

Kết thúc buổi diễn, các thành viên trong ban Hợp Ca, Ban Tổ Chức, GS. TS Trần Quang Hải, GS Dương Ngọc Sum… và các khán giả đã cùng hát vang ca khúc "Và ConTim Đã Vui Trở Lại" (Đức Huy) như một sự cổ vũ về sự lạc quan, phấn khởi và luôn trong tư thế chủ động hướng đến sống tích cực, là thông điệp ca khúc của nhạc sĩ Đức Huy gửi đến người nghe và cũng là điều mà Ban Tổ Chức mong muốn GS. TS Trần Quang Hải và một vài thành viên trong nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian đang bị bệnh nan y. Mong các vị ấy sẽ sớm chữa trị thành công, hồi phục và vui khỏe để tiếp tục những công trình văn hóa nghệ thuật đang thực hiện, góp vào vườn hoa Việt Nam những bông hoa tươi thắm.
---------------------------------------------------------------------------
Chiều văn học nghệ thuật ra mắt sách Trần Quang Hải- 50 Năm Nghiên Cứu Nhạc Dân Tộc Việt..
Links:
Đại Học Calstate Long Beach, CA vinh danh GS Trần Quang Hải:
https://vietbao.com/…/dai-hoc-calstate- ... -ca-vinh-d
Chiều văn học nghệ thuật ra mắt sách Trần Quang Hải- 50 Năm Nghiên Cứu Nhạc Dân Tộc Việt:
http://viendongdaily.com/chieu-van-hoc- ... -ra-mat-sa
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

HÀ GIANG.....NGƯỜI ĐÀN BÀ HIẾM CÓ TRONG ''TRẠI TÙ'' LAO CẢI......
1-
Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic.. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.

Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành phố cảng, sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ xe. Chúng tôi chọn nơi này, vì bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dãy núi Victoria, nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.
Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả cho con bé cháu nội. Trước đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết được tiếng Việt. Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút. (Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment, mỗi phòng trọ, ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và bếp với đầy đủ dụng cụ nấu ăn). Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có nhiều dịp được ra biển tắm, nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào, mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi đến chiều, khi trời sắp tắt nắng mới chịu trở về. Đã vậy khi về đến khách sạn, cô bé còn xin được tiếp tục bơi lội trong hồ tắm của khách sạn đến tối mịt mới chịu vào phòng. Trong khi bà xã làm thức ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng con bé.

Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người Bắc Âu và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á châu nào, ngoại trừ gia đình người Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một người nào đó. Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm và đùa giỡn với con bé. Thấy tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương dễ quen nhau.

Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều làm tôi chú ý chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một địa danh vẫn còn đậm trong ký ức, cho dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết bao nhiêu cái tên để nhớ.

Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối trong nhà hàng buffet của một người chủ gốc Tàu, thì bất ngờ thấy Lam Khê đi vào cùng với một người đàn bà Việt Nam và một người đàn ông ngoại quốc. Có lẽ Lam Khê đã kể về chúng tôi, nên cả hai người đến chào và bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ đến giật mình khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình, thì bà nở nụ cười giới thiệu người đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:
-Đây là ông xã em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố Hamburg.
Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi bà:
-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?
-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nhìn chúng tôi ngạc nhiên.
-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời cả ba người- Hóa ra chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin được mời ông bà và cháu Lam Khê.
Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn còn nguyên trên mặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:
- Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay khi gặp và biết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghĩ ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê, tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn tình cảm và lòng tốt của bà đã dành cho chúng tôi trong những ngày sa cơ khốn khó.
Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày vui buồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều gì đó.

Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa, tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo” chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng một lâm trường, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả thịt da.
Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm”!

Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ bên bìa rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”. Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.

Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn. Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân tình. Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy cô thường ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương vô vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt. Thấy một anh đeo trên cổ tấm ảnh của vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung tình”.

Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về Lâm Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản phát động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào Cai, hướng dẫn những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng. Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa phương, thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua biên giới. Rất may mắn, lúc ấy cô đang về học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành lập lâm trường mới. Đó chính là lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra đây chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là 60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!

Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô. Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã tâm sự. Người đàn ông ấy là một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được đảng bộ sắp xếp để lâp gia đình với cô, làm gương cho kế hoạch “trí thức cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn khởi trước sự ưu ái của đảng, đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với đảng. Đây cũng là “phần thưởng” để cô được bổ nhậm về lâm trường mới này với chức danh giám đốc!

Chúng tôi ngạc nhiên, vì gã công nhân tiên tiến này trông lớn hơn cô nhiều tuổi, rổ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp với cô con gái có học và dễ thương này. Cô còn bảo là trong trái tim cô, không hề có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, vì vậy cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang trong thời kỳ “nín thở qua sông”!

Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề cao cảnh giác” không dám nói điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng tôi biết, Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện “mỹ nhân kế” không phải bây giờ mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi người một củ khoai lang luôc, rồi buột miệng hỏi:
-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm phải không?
- Bọn tôi là những người thua trận, thì chuyện bị tù đày, hành hạ cũng là lẽ thường tình - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.
Cô trầm ngâm giây lác rồi lên tiếng:
- Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và miền Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội, luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng là mình đại thắng, để cầm tù và hành hạ lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ đời: một lũ ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo” những người trí thức, mà đòi hỏi người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật!

Bọn tôi chỉ im lặng.. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay thoát ra, phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia đình. Điều làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần phải đạt một chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm mang theo, Cô nhận mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực phẩm khác.
Lâm trường mới khởi công vừa được hơn ba tuần thì trại tù có lệnh biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những ngày lao động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần bảy năm tù.

2-
Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn, tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi.
Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà vừa cạn, bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi:
- Anh còn nhớ anh Đôn không ?
Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:
- Trần Chánh Đôn!
Tôi hỏi lại:
- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm trường?
Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà:
- Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đã cung cấp cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la bàn, em lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ cho anh cách thức trốn khỏi lâm trường cùng với ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ, cái la bàn và sự hướng dẫn tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới. Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang khấp khởi mừng thầm thì được tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số cán bộ công an trại giam.

Họ cho biết là tất cả bốn anh đều bị công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại, bởi các anh đã chống cự để tìm cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh, dù có tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo sợ bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả khôn lường, nên em đã khẩn trương chạy về Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em được trở lại Đông Đức hai tuần, đệ trình cho trường đại học cũ một số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông ta gật đầu, và liên lạc can thiệp bên tòa đại sứ Đức cấp visa sớm. Chỉ hơn mười ngày là em rời khỏi nước. Tất nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức, em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đã hết lòng lo lắng và chở che em.

Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đình, em còn mang theo hình ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết, đẹp trai với nụ cười độ lượng, em còn nhìn thấy bên trong của anh Đôn là sự thủy chung và lòng tự trong, có cả một chút nghệ sĩ lãng mạn nữa.Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam Khê ấy, em đã học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh hát những bản tình ca, đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời. Trái tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.

Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nước mắt chảy dài trên gò má. Tôi rót thêm trà mời cô.
Bà xã tôi hỏi:
- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?
- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về địa chỉ ấy đều bị trả lại, với lý do: người nhận không còn ở tại địa chỉ này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi vùng kinh tế mới hay không?
Tôi đưa tay ngăn lời cô:
- Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cũng đều là người gốc Nha Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng muốn biếu cha mẹ anh ít tiền, vì Đôn cũng là bạn tù của tôi.
Hà Giang chau mày:
- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở nhà. Em xin địa chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em tìm lại được. Em thiết tha muốn gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người còn sống.

Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ.. Bao nhiêu năm trong cảnh khốn cùng, đã không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và tư cách của Đôn. Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người bạn tù khác trốn trại, khi tôi đã bị chuyển đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi người mỗi cách.

Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận được e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.
Tôi viết thư nhờ người bạn thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia đình Đôn đã dọn đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết đâu có thể tìm ra manh mối.

Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một đoạn trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:
“Đúng như mày viết, gia đình người này đã dọn đi khá lâu rồi. Nhưng có người láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời hơn hai mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, hình như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao dò tìm khắp nơi theo lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến nay vẫn chưa gặp được...“
Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất“, rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn: Mày cố gắng mọi cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải tên là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện gọi điện thoại cho tao biết.

Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của người bạn từ Việt Nam:
“Tao đã tìm được anh ta.. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm dưới triền núi, phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương, cách Đà Lạt gần bốn mươi cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm trụ trì. Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù một con mắt và què cả hai chân, nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông không bao giờ rời khỏi chùa, vì từ dưới chân núi đi lên, tao đếm hơn năm mươi bậc tam cấp.“
Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo mãi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần cô lau nước mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghĩ là cô sẽ đau lòng lắm khi nhận được tin này.

Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:
“Anh Chị ơi.
Em đã khóc hết nước mắt khi nhận được tin anh Đôn. Suốt cả đêm hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây giờ lòng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn còn sống. Em vừa mừng nhưng cũng vừa đau lòng lắm, khi biết anh đã bị mù một mắt và tàn phế cả đôi chân.
Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, vì anh cũng là bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú.
- Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở Mallorca, chính là giọt máu của anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng, em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải qua bao nhiêu giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để đoàn viên. Nhưng rồi ông trời đã hại em, vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết. Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ người. Bây giờ biết được anh Đôn còn sống, nhưng đã trở thành một vị đại đức, em vừa hối hận vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để em biết mình sẽ phải làm gì. Bây giờ chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào, nhưng còn Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt máu của anh. Làm thế nào để cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết. Thỉnh thoảng cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hãnh diện về ba cháu lắm.“

3-
Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhưng cũng không tìm ra một lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng núi Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.

Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi về Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt Nam. Số chuyến bay và giờ đến phi trường, cô sẽ cho biết sớm.

Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng:
...Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt. Thầy đem cả triết lý đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất trắc. Thầy nói thật hay và cảm động.

Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định không khai người nào đã giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm bản đồ và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.
Sau khi mọi người tìm lại được sự bình tĩnh, Hà Giang xin cúng dường cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa từ chối, bảo là nhà chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin được đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù lòa, thầy cũng chối từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất mát ấy, hơn nữa bây giờ thầy đã tu hành, năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy các em học sinh nghèo hiếu học trong vùng, nhưng phòng học là gian nhà trống vách ngay phía sau chùa..

Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở lại một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới, thay những bậc tam cấp bằng con đường lát đá, đặc biệt phía sau chùa, từ gian phòng Thầy dạy học nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít hoa dã quỳ, cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ, trồng thêm hoa, làm suối nước, và xin đặt tên là Lam Khê Viên, vì chữ Lam nghe cũng hợp với khung cảnh chùa chiền...

Khi ngồi viết những dòng này, tôi không biết là những điều mong ước của Hà Giang có được thầy Thích Thiện Hòa chấp nhận hay không, và cuộc tình đẹp và bi tráng này có còn sống mãi trong lòng mỗi người cho đến thiên thu.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Nhạc Xuân miền Nam trước năm 1975
Nguyên Huy


Có một điều mà người miền Nam trước năm 1975 sửa soạn đón Xuân và Tết thường không mấy lưu tâm. Ðó là nhạc Xuân. Mặc dù khi đi sắm Tết đã có không ít người mua thêm một băng nhạc Xuân của các trung tâm băng nhạc do các nhạc sĩ Nhật Trường, Phạm Mạnh Cương hay Anh Ngọc sản xuất.

Hồi tưởng lại, từ thời đệ I Cộng Hòa, qua suốt hơn 10 năm sau cho đến khi miền nam bị mất vào tay cộng sản, không có Xuân nào mà nhạc Xuân lại thiếu vắng. Không có một quy định nào, nhưng cứ sau những dịp Giáng Sinh, Tết “Tây” là các đài phát thanh truyền hình của chính quyền, của quân đội lại dồn dập phát đi những khúc Xuân ca, đủ mọi thể loại, đủ mọi tâm tình của người nghệ sĩ và đương nhiên cũng là của mọi người dân.

Thế thì nhạc Xuân có từ bao giờ?

Thời tiền chiến khoảng những năm trước và sau 1945, đã có những nhạc sĩ sáng tác nhạc Xuân rồi. Văn Cao với “Bến Xuân” cho người nghe cả một trời Xuân thanh bình mà phảng phất ánh Xuân của non bồng nước nhược chốn Thiên Thai. Rồi sau đó là Thẩm Oánh, là Dương Thiệu Tước, là Ngọc Bích, là Phạm Duy… mỗi người ít ra là cũng có một vài lần xúc động Xuân tình mà viết lên những dòng nhạc quyện chặt lấy lời ca đem cả mùa Xuân tươi đến cho mọi người, nhắc nhở mọi người và những khúc nhạc Xuân này đã trở thành những “tín hiệu” báo tin Xuân lại về.

Ðến thời đệ I Cộng Hòa, sau khi đất nước bị chia đôi, miền Nam được sống trong chế độ tự do, giới nghệ sĩ được thỏa tình sáng tạo. Bên cạnh những nhung nhớ, xót xa, thương hận miền Bắc, người nghệ sĩ miền Nam được chính quyền hỗ trợ nên đã tự do sáng tạo. Từ văn chương, nghệ thuật ca nhạc, sân khấu đều bùng nở trong mọi đề tài và dĩ nhiên đề tài Xuân là đề tài phong phú nhất, gợi cảm nhất. Vào giai đoạn này, nhạc Xuân như bắt đầu nhuốm mùi “tục lụy” nghĩa là đi sát với cuộc sống của mọi người, không còn lãng đãng như xa như gần, ảo huyền liêu trai như thời gian trước. Dòng nhạc đi vào tả thực với “Gió Mùa Xuân Tới”, với “Anh Cho Em Mùa Xuân”, với “Ca Khúc Mừng Xuân” v.v…

Nhạc Xuân được dân dã hóa dần dần nên đã phổ biến khá rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng. Cũng chính thời gian này phương tiện truyền thông phát triển với hệ thống truyền thanh quốc gia. Ðài phát thanh quốc gia với những đài địa phương Cần Thơ, Huế, Nha Trang, Quảng Ngãi… qua những chương trình nhạc chiếm gần nửa thời lượng 24/24 đã mang tiếng nhạc Xuân đến khắp đồng quê thị thành. Cũng phải nói thêm, khoảng thời gian đầu thập niên 60 loại đài bán dẫn (Radio Transitor) nhỏ gọn tràn ngập Saigon và các tỉnh miền Nam với giá vừa túi tiền cho giới bình dân lao động nên dòng nhạc Xuân lại càng có phương tiện đi xa, đi rộng hơn nữa. Chưa kể loại đài “Radio Ấp Chiến Lược” trong cuối thập niên 60 cũng góp phần to lớn trong việc truyền bá nhạc Xuân đến các vùng quê xa xôi. Vào cuối thập niên 60 một phương tiện truyền thông mới bắt đầu xâm nhập đến thị dân miền Nam. Khởi đầu là truyền hình đen trắng và chỉ sau vài năm truyền hình mầu đã vào gần khắp gia đình thị dân và một số không nhỏ ở nông thôn.

Ðó là thời đệ II Cộng Hòa. Ở thời gian này, nhạc Xuân hình như được phát triển cao độ khi cả một thời chiến chinh đã là môi trường cho sự sáng tạo. Ðề tài nhạc Xuân bỗng được mở rộng trong mọi ngóc ngách tình cảm của con người. Chỉ một ánh Xuân trên những cánh mai rừng nơi tiền đồn heo hút đã nhắc cho người lính xa nhà chợt nhớ ra là Xuân lại về. Chỉ một hình ảnh đó đủ nói lên cái đau thương của cả một thế hệ, đủ nói lên sự hy sinh cao quí của người lính chiến, đủ nói lên tâm tình chia sớt của người hậu phương. Nên những “Phiên Gác Ðêm Xuân”, “Anh Chưa Có Mùa Xuân, “Xuân Này Con Không Về”, “Tôi Ði Tìm Lại Một Mùa Xuân”, “Ðón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa” đã dàn trải biết bao tâm trạng, mà tâm trạng nào người nghe cũng thoáng thấy mình trong đó. Mỗi bài nhạc là mỗi tâm trạng, mỗi khao khát và cả mỗi thống trách chiến tranh. Người nhạc sĩ cũng là người lính chiến hay cho dù không phải là người lính chiến cũng không thể quay mặt làm ngơ trước nỗi đau chung của một thế hệ nếu như còn chút ý thức. Cho nên nhạc Xuân đã thấm vào tận từng hơi thở, từng suy nghĩ, từng ngắm nhìn trong cảnh đời lại một lần nữa khởi đi. Cho nên nhạc Xuân thời chiến chinh cho đến tận bây giờ sau hơn 30 năm vẫn còn là nỗi day dứt không rời và trở thành chứng tích cho các thế hệ sau nhìn lại.

Vượt thoát lên nhạc Xuân thời chinh chiến lại có những bài ca Xuân trở nên bất tử. Cứ nghe thấy tiếng hát, lời ca của bài Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Ðình Chương là thấy Mùa Xuân hay nỗi xôn xao Xuân về đâu đó. Bài ca Xuân bất tử này đã tượng trưng cho hoan lạc Xuân về, không còn là của riêng ai, cho một thời đại nào.

Sau khi cộng sản lấn chiếm được miền Nam tháng 4 năm 1975, nhiều năm sau Xuân về đã không có nhạc Xuân rộn rã nữa. Người ta xót xa nghe vụng trộm những ca khúc mừng Xuân thời trước để âm thầm thương nhớ những mùa Xuân đã qua.

Nhưng, chỉ vài năm sau thôi, nhạc Xuân miền Nam lại “hùng dũng” trở về, không chỉ trở về trong lòng người dân miền Nam, mà trở về chinh phục hầu hết người dân miền Bắc trong đó cả những từng lớp cán bộ cũng tìm mua công khai những băng nhạc Xuân (Cassette) từ hải ngoại đưa lậu về. “Ly Rượu Mừng” lại vang vang trong từng ngõ hẻm chen trong tiếng pháo. “Xuân Này Con Không Về”, “Ðồn Vắng Chiều Xuân” lại được những binh sĩ trong quân đội CS hát lên thương nhớ đến người mẹ già héo hắt nơi quê nghèo ngoài Bắc, than thân mình bao năm chinh chiến mà chưa có được Mùa Xuân. “Ðón Xuân” lại được ca vang trong những buổi “liên hoan” của giai cấp cán bộ…

Từ một cái nhìn không biết có chủ quan không, thì nhạc Xuân nói riêng và “nhạc vàng” nói chung của miền Nam đã “đại thắng” trong mặt trận văn hóa đối với chế độ cộng sản. Sau 30.4.75 cả một chiến dịch lớn nhà nước cộng sản phát động để tiêu hủy văn hóa phẩm miền Nam trong đó có nhạc xuân. Bao nhiêu đống băng nhạc chồng chất bị đốt cháy trên các đường phố Saigon và các tỉnh thị miền Nam. Nhưng đã không dập tắt được nhạc Xuân, nhạc vàng, để sau đó chẳng bao lâu nó đã vùng dậy và chinh phục mọi tâm hồn khô héo trong các con người cộng sản. Thực ra không có một phép lạ nào mà chỉ là nó đã khơi dậy được tiếng lòng con người mà chế độ cộng sản muốn hủy diệt để con người chỉ còn là những cái máy dưới sự chỉ huy của Ðảng.

Nào có ai đâu chủ trương và chỉ huy cái mặt trận ấy. Có chăng là giới văn nghệ sĩ đã ra được hải ngoại góp công phục hồi được một phần văn hóa phẩm đã bị cộng sản hủy diệt ở trong nước. Họ đã in sang lại một số văn hóa phẩm trong đó có những băng nhạc cũ may mắn mang theo được để bán trong cộng đồng người Việt đang tứ tán khắp nơi ở hải ngoại.

Nhưng có một giới mà chúng ta nên ghi nhận trong mặt trận văn hóa này. Ðó là giới làm băng nhạc lậu ở hải ngoại để đưa về trong nước, đặc biệt là ở Thái Lan. Họ đã in và sang lại những băng nhạc hải ngoại và chuyển lậu vào trong nước khi thấy phong trào ca hát nhạc vàng ở trong nước có chiều phát triển. Cả một thời gian kéo dài đến 5,7 năm các khu chợ máy Huỳnh Thúc Kháng, Hùng Vương ở Saigon bán công khai băng nhạc “hải ngoại” và bán đắt như tôm tươi nhiều khi đã trở thành khan hiếm. Thậm chí ở Saigon lúc này còn có nhiều tiệm bán băng nhạc dám nhận sang lại những cuốn băng “nhạc vàng” hải ngoại nữa.

Một điều khá tức cười là nơi phòng khách của các cán bộ trung cấp trở lên, thường là có bộ máy nghe nhạc âm thanh nổi để suốt ngày có tiếng nhạc vàng và Xuân về Tết đến lại vang lên những khúc nhạc Xuân trước năm 1975. Có năm, đâu như vào năm 1989, ở một phường quận 8 trong Chợ Lớn trong ngày “giao quân” lại có cả tiếng nhạc của bài “Anh đi quân dịch là thương nòi giống”…
Ðó là thời gian những năm giữa đến cuối thập niên 80.

Ðể đối phó với tình trạng nhạc vàng, nhạc Xuân tràn lan khắp mọi tâm hồn người trong nước mà các cơ quan an ninh, văn hóa cộng sản không làm sao ngăn chặn được, đảng CSVN đành phải “mở hé” cho các nhạc sĩ “nhà nước” sáng tác những bản nhạc tình cảm. Nhưng kèm vào đó vẫn phải theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, nghĩa là những bài nhạc tình cảm này không được “ướt át” quá và phải có mầu hồng. Chẳng hạn có một bản nhạc (không nhớ tên) tả về cuộc hẹn hò của đôi trai gái trong công viên đã tả thêm về ánh sáng điện trong công viên mà đôi trai gái đang được hưởng là do công lao của các công nhân lao động, giai cấp tiên phong của Ðảng đã đưa về thành phố. Hoặc một bản nhạc khác tả sự chia ly trong cuộc tình thì sự chia ly ấy lại nói đến chia ly của đôi trai gái mà người trai vui vẻ lên đường đi “nghĩa vụ” sang Cao Mên v.v…

Do đó nhạc tình trong XHCN nó ngây ngô gượng ép chẳng làm lưu luyến được người nghe. Nhưng một số nghệ sĩ sáng tác đã lợi dụng cơ hội “mở cửa” này và đã tìm được cách thể hiện những tình cảm thực của con người trong các sáng tác của mình. Nhạc tình dần ướt át hơn, dám tả đến yêu đương, đến hẹn hò, đến chia xa một cách trung thực mà không còn vướng đến xã nghĩa nữa. Ðể làm vỏ bọc cho những bản nhạc tình ướt át, nhạc sĩ trong nước đã chép lại gần như nguyên văn một số bản nhạc ăn khách của Hồng Kông, lúc này đã trả về cho Trung Cộng và một số bản nhạc của Nam Hàn. Nên mới có lúc nhạc trong nước đầy ảnh hưởng giai điệu của nhạc Trung Quốc. Chẳng hạn như bài “Tết!
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Chôn mà không chết
Mấy năm trước, một nhóm nhạc sĩ Hà Nội dự định làm một cuộc cách mệnh lật đổ một thể loại âm nhạc đại chúng của Sài Gòn: BOLERO. Khởi đầu bằng những phát biểu có tính mỉa mai và không xem đó là âm nhạc, hầu hết những nhạc sĩ ấy đều là người tôi có quen biết, từng cụng ly uống rượu và thậm chí tôi từng tham gia xuyên việt với tư cách Mc. Tôi biết rõ “đại ca lãnh đạo“ là ai. Thế nên, trong bài viết này sẽ trên tinh thần đối thoại thẳng thắn nhưng không khiêu kích, bôi bác cá nhân ai, nó sẽ hiếu hòa nhưng không nhượng bộ điều gì không thể nhượng bộ.

Chôn không chết.

Sau 1975 ,toàn bộ nền âm nhạc miền nam nói chung Sài Gòn nói riêng được liệt kê vào loại phản động cấm phổ biến, trong đó bolero cách gọi chung một thể loại nhạc đại chúng uỷ mị không có giá trị, nấm mồ được đào và bolero cũng được chôn xuống chờ xanh cỏ…

Nhưng người miền nam trong thời chiến, trước 1975 không có thông tin để biết rằng tại Hà Nội miền bắc thập niên 1970 có một vụ án bi thương: vụ án “Toán xồm – Lộc vàng“ (xin tra google), hai chàng trai trẻ tuổi mê nhạc tiền chiến, nước ngoài, ”nhạc vàng“ của Sài Gòn dù đi hát chui cũng bị dong ra vành móng ngựa tội tuyên truyền phổ biến nhạc đồi truỵ - phản động. Toán xồm 15 năm tù. Lộc vàng 10 năm tù. Nhờ án tù cao nên hai người tù không phải đi lính, bộ đội, không phải đi qua chiến tranh. Năm 1982, mãn án tù trở về khi tới ga Hàng Cỏ, từ những chiếc cassette chiến lợi phẩm mang từ miền nam về ầm ĩ toàn những thứ “nhạc vàng uỷ mị“ thứ âm nhạc lấy đi mỗi người trên dưới 10 năm trong lao tù. Toán xồm vài năm sau đó chết trước cửa ngôi nhà cũ bị chiếm dụng của mình đúng ngày 30 tháng tư, Lộc vàng còn sống đến hôm nay, mở một quán cà phê ven Hồ Tây đêm đêm vẫn hát…nhạc vàng.

Thứ âm nhạc đã bị chôn mà không chết, mãi mồ không xanh cỏ.

Thêm 40 năm nữa , một ngày kia bỗng thấy trên truyền hình quốc gia VTV tràn ngập loại âm nhạc “uỷ mị bolero“.những cuộc thi đủ màu sắc tưng bừng diễn ra.những gương mặt ca sĩ trước đây chỉ thấy ở những chương trình hải ngoại nay nghiễm nhiên xuất hiện trên hàng ghế quyền lực lệch trời với thí sinh: BAN GIÁM KHẢO! Thứ âm nhạc “uỷ mị - bình dân –sến súa !“ ấy chiếm lĩnh sóng truyền hình hơn mọi game chơi nào khác.
Một cách tự nhiên cuộc “phục thù ngọt ngào“ không đổ máu, không có tiếng súng đạn – chỉ thí sinh – ban giám khảo và bolero: sứ mệnh hoàn tất.

những ca khúc đỏ một thời bỗng lui vào viện bảo tàng, chỉ đưa ra trong vài ngày “ giỗ chạp“.
Đấy! chết mà chưa chôn, chưa kể âm nhạc “ hường hường “ của các anh.

Trịnh Công Sơn
Hôm nay, dù yêu hay ghét Trịnh thì một sự thật không thể phủ nhận đây là nhạc sĩ có khối lượng người hâm mộ trong và ngoài nước khổng lồ. Người được công chúng quan tâm hàng đầu trong nền âm nhạc đương đại việt nam.
Con người có vẻ ngoài gầy gò , gương mặt phảng phất vẻ trầm mặc của một “thiền sư“, có một cuộc đời tưởng như êm ả với quá nhiều thành công lại không phải vậy, trong niềm tin ngây thơ của một người thiên tả, ông phạm một vết hằn khó phai trong lời kêu gọi trên đài phát thanh trưa ngày 30 tháng 4 – 1975. Nhưng buồn thay cũng chính ông sau đó chịu nhiều đối xử, phân biệt hệt như những văn nghệ sĩ khác của Sài Gòn thời đó cho đến khi được một “nhà bảo trợ lớn“ Võ Văn Kiệt đỡ đầu. Trịnh Công Sơn qua một trang sử khác bắt đầu dễ thở hơn dù nhiều ca khúc danh tiếng của ông trước 1975 vẫn bị cấm phổ biến. Loạt “ ca khúc da vàng” là một ví dụ, thập niên 80 - 90 mỗi khi viết một ca khúc mới Trịnh Công Sơn vẫn phải đến hát trước cho một vài anh chị em báo Tuổi Trẻ nghe, trong ấy có tôi để tìm sự khen ngợi, ủng hộ cho ca khúc mới của mình. Báo Tuổi Trẻ luôn đăng những ca khúc ấy của ông “Chiều trên quê hương tôi – Bốn mùa thay lá …” trừ “Em còn nhớ hay em đã quên“ vẫn bị kiểm duyệt buộc gỡ xuống trong đêm chuẩn bị in báo từ một nhận định kiểu tuyên giáo “em ra đi nơi này phải đổi mới, phải khác chớ sao vẫn thế? cách mạng đã về rồi Sài Gòn phải khác…”

Cuối đời, khi mọi khó khăn đã qua, nhìn lại mình trong nỗi cô đơn Trịnh Công Sơn viết ca khúc u uẩn như dành riêng cho mình “ Tiến thoái lưỡng nan - tiến thoái lưỡng nan đi về lận đận…ngày xưa lận đận không biết về đâu…về đâu cuối phố về đâu góc trời…xa xăm tôi ngồi tôi tìm lại tôi …”
2001 Trịnh Công Sơn mất, một đám tang vô tiền khoáng hậu với số lượng người Sài Gòn đưa tiễn! hơn 15 năm sau, ông được đặt tên đường.
Trịnh Công Sơn, kẻ bị nghi kỵ, phân biệt đối xử bỗng một hôm có không chỉ một mà đến hai con đường mang tên mình.một ở Hà Nội, một ở Huế. Cái mà bao nhiêu nhạc sĩ cách mạng cả đời thèm muốn, đến chết vẫn thèm thì Trịnh thong dong từ cõi vĩnh hằng hoàn tất cuộc “phục thù ngọt ngào“: Trịnh Công Sơn có tên đường như Văn Cao, Đỗ Nhuận, Nguyễn Đình Thi...

Cũng thập niên 90, một nhạc sĩ xuất thân phong trào sinh viên đô thị kênh kiệu tuyên bố “Nhóm những người bạn [Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Thanh Tùng , Nguyễn Ngọc Thiện, Vũ Hoàng, Nguyễn Văn Hiên, Từ Huy] đã đẩy lùi “âm nhạc hải ngoại“.
Tuyên giáo nghe sướng nhưng người nghe nhạc thì cười mỉm . “ thật không? “
....

Khoảng sân nhỏ nhà tôi một buổi tối cúp điện, những năm ấy, điện cúp một tuần 2 ngày 3 đêm. Tôi tiếp anh trong khoảng sân nửa sáng nửa tối của ngọn đèn dầu hắt ra, anh đến chào tạm biệt về lại Bắc Ninh. Giọng anh buồn rầu “tôi phải về chốn cũ thôi, ở đây họ không chấp nhận nhạc của tôi …” tôi nói “anh cứ về đi tôi tin rằng chỉ 5 năm sau khi anh quay lại Sài Gòn, sẽ là câu chuyện khác, họ sẽ phải nghe ca khúc của anh …”
Anh là người có kiến thức rộng nhiều lãnh vực, có tài năng tôi tin như thế.
Tôi không rõ khi anh quay lại Sài Gòn có đúng 5 năm không, nhưng ca khúc của anh đang rất nổi tiếng “ cho em một ngày , hoạ mi hót trong mưa , nghe mưa..vv ” tên anh đã được nhắc tới.

...Giờ thì anh đã có tên tuổi dù âm nhạc của anh ít dần trong công chúng. Anh bắt đầu có những nhận định khác. Khi anh và nhóm của mình coi thường một thể loại âm nhạc được các anh xem là “sến “ của công chúng Sài Gòn nghĩa là cùng lúc các anh giới thiệu một lỗ hổng lớn, một cái nhìn cục bộ hẹp hòi mà âm nhạc, nghệ thuật không nên có. Các anh có người sang tận Hoa Kỳ học hành trở về với nhiều tự hào vẫn quên một điều căn bản, nền giáo dục nghệ thuật nước Mỹ cho mọi người ngay từ lớp học phổ thông hiểu biết về mọi thể loại, hình thái âm nhạc : rock , funk , jazz, country vv… và ai chọn lựa hình thái âm nhạc nào là quyền yêu thích riêng của họ, không có chuyện Mozart , Beethoven …sang hơn anh mù Ray Charles hay John Denver của country music là sến.
Các anh phạm vào điều cao ngạo, trịch thượng trong nghệ thuật .

Những cuộc “ phục thù ngọt ngào “ đang và đã diễn ra. Khán giả chọn lựa nó, thứ âm nhạc chôn mà không chết.
Muốn nó chết, dễ thôi! Các anh hãy làm nhạc hay hơn nó, có tài năng hơn nó để vĩnh cửu như nó …
Dèm pha, mai mỉa, xúc phạm nó vô nghĩa ! Nó càng bất tử !
Chỉ vậy thôi !

Đỗ Trung Quân
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

‘Câu Chuyện Văn Chương’
Viên Linh

Image
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Trong tủ sách của tôi có cuốn “Câu Chuyện Văn Chương” đóng bìa da màu đen, mạ chữ vàng sắc nét và tuyệt đẹp, vì tôi áng chừng đó là da thật và vàng thật, nhìn thoáng qua cũng nhận thấy, chắc chắn do một người bạn quý của tạp chí Khởi Hành gửi tặng.

Cuốn này dường như là một trong khoảng hai ba trăm cuốn do người quý sách và quý Khởi Hành là anh Nguyễn Công Thuần đã tự động vì yêu quý tờ tạp chí văn học do tôi chủ trương mà gửi tặng, trong thùng sách gửi qua bưu điện cho tôi nhiều năm về trước.

Lý do thứ hai không phải là sách tôi mua vì “Câu Chuyện Văn Chương” là tác phẩm in lại 16 bài diễn thuyết tại Trung Tâm Bút Việt, tức Văn Bút Việt Nam, mà tôi không phải hội viên hội đó và chưa bao giờ tới dự một cuộc sinh hoạt hay diễn thuyết nào của Hội Bút Việt, ngoại trừ một lần có hai bạn tôi cùng được giải thưởng, nghĩa là cũng là diễn giả sẽ lên sân khấu, là Tuệ Mai và Dương Nghiễm Mậu. Tôi thân Tuệ Mai vì quý chị, và tôi thân với anh Trần Việt Hoài anh ruột của chị (chị và anh Hoài đều là con của nhà thơ cách mạng Trần Tuấn Khải).

Nhưng đó là chuyện ngoài lề, chủ yếu của bài này là nhằm viết về 16 bài diễn văn kia, trong 16 cuộc diễn thuyết trong quá khứ, thật là những tài liệu quý giúp tôi nhìn lại quá khứ sinh hoạt của văn học miền Nam Việt Nam nay đã mất tăm không còn thấy ở đâu nhắc nhở, nếu không nói là đã hay còn bị tìm cách chôn vùi, loại khỏi sự hiểu biết tìm tòi sao lục của những người vẫn yêu quý tôn trọng Việt Nam và bản tồn phong hóa văn minh văn học miền Nam?

Ngay ở trang 2 cuốn sách chín dòng chữ in kiểu chữ hoa như sau: “Câu Chuyện Văn Chương tập 1 gồm 16 bài diễn thuyết của 16 tác giả trong Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, bìa của Nghiêu Đề do Phổ Đức trình bày, Khai Trí xuất bản lần thứ nhất. Ngoài những bản thường còn in 100 bản đặc biệt trên giấy trắng 100 bản dành Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, 100 bản dành nhà xuất bản. Ấn quán Chinh Nguyên, 384/12T Lý Thái Tổ thực hiện xong ngày 12-12-1969 tại Sài Gòn.”

Trang 3 có in “Khai Trí -1969,” Trang 5 in: 16 bài diễn thuyết của 16 tác giả: #Vi huyền Đắc #Vũ hoàng Chương #Bàng bá Lân #Nhật Tiến #Nguyễn thị Vinh #Nguiễn ngu Í #Đông Hồ #Phạm việt Tuyền #Doãn quốc Sỹ #Hoàng xuân Việt #Trần đồng Vọng #Nguyễn duy Diễn #Châm Vũ #Hoàng hương Trang #Tuệ Mai #Thanh Lãng#

Ngay trang 5 là bài thứ nhất, “Vở kịch hay nhất” của Vi huyền Đắc. Cứ thế cho đến trang cuối cùng, in dòng chữ sau cùng của bài Thanh Lãng, trang 512.

Nửa thế kỷ sau, tức là thời điểm khi tôi viết bài này, Tháng Ba, 2019, so với ngày cuốn “Câu Chuyện Văn Chương” được giấy phép xuất bản, 3 Tháng Mười Hai, 1969, vừa đúng 50 năm, vừa nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ khởi sự viết về 16 bài diễn thuyết này, cũng là một kỳ hạn đáng kể. Do đó người viết sẽ phải trân trọng hơn, tìm hiểu sâu xa hơn về cuốn sách.

Trước khi bắt đầu, không gì hay hơn là xin chép lại dưới đây bài thơ thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã ngâm tại diễn đàn Bút Việt khi ông diễn thuyết về người bạn mệnh yểu Đinh Hùng.
Tiếng đó người đâu?

“Tiếng nói thi ca miền Tự Do”
Mười hai năm trước, giữa thành đô
Cất lên cao vút, nghe đồng vọng
Cả khối băng kia, đáy ngọc hồ.

Chắc cũng nao nao dòng Bến Hải
Cùng ba mươi sáu phố phường xưa
Đêm nay vẫn tiếng ai sang sảng
Trời hỡi ma sao nghẹn gió mưa?

Vĩ tuyến nào đây nghe đứt phựt
Lâu rồi căng thẳng với dây thơ
“Đây Tao Đàn”… sóng truyền thanh nổi
Ai có nghe chăng lọt đáy mồ?

Ai có thấy chăng hồn nước réo?
Cửa Hàn sương quyện khói sông Lô?
Người mê hơi đất nay về đất
Hiểu nghĩa vầng trăng huyết dụ chưa?

Hai mươi tám giọt sao mờ
Tàn canh lửa quỷ bất ngờ hài tiên.
Ở đây mới thực người quen
Khói thơ là ảo, hoa đèn là thân…

Vũ Hoàng Chương
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

CHIM TU HÚ
Hồ Đình Nghiêm
1.

Người con gái ấy tuy thấp bé hơn tôi, tuy cao không bằng tôi, tuy trông ngác ngơ vụng dại hơn, tôi vẫn gọi Mộc bằng chị, đơn giản vì tôi biết chị Mộc lớn hơn tôi hai tuổi. Sách vở nhà trường vẫn dạy tôi món công dân giáo dục, về bài vỡ lòng là khi người ta lớn tuổi hơn mình, nên tôn ti trật tự khiêm cung nhún nhường gọi người ấy bằng chị, cho dù thân phận chị có thấp hèn đến mức nào đi chăng nữa.

Tôi lớn lên ở thành phố, chưa một lần đi xe đò ngược ra hướng bắc, chưa từng qua sông bằng con đò nhỏ luôn có nước đọng vũng giữa lòng, chòng chành mất nửa ngày mới về thấu làng bên nội. Ngôi làng mà ba tôi từ bỏ để đi xa lập nghiệp, tự hồi nào tới giờ vẫn là vùng xôi đậu, tuyệt không biết tới chữ an ninh, đêm ngày vẫn cắc bụp tiếng súng. Ở đó, gia đình chị Mộc đã tìm cách tỉa mỏng người, cố rời xa vùng khói lửa bằng đủ cách và như vậy chị Mộc từ ngoài làng đã vào trú thân trong nhà tôi với chức phận “người giúp việc”. Hợp đồng được thoả thuận ngầm: Bao ăn bao ở, một năm may cho hai bộ áo quần cọng thêm mấy ngàn bạc, đôi bông tai sợi giây chuyền cái nhẫn hai chỉ; ngược lại chị Mộc sẽ phải thức khuya dậy sớm chu toàn việc giặt giũ quét nhà gánh nước đi chợ nấu ăn rửa chén. Thời gian không định trước, hoặc thấy quá mỏi mệt “hồi nào ngoài làng ngó yên yên thì liệu về mà lo vun quén kiếm một ông chồng cho yên bề gia thất”.

Yên yên là chữ quá trừu tượng, ngay cả ở thành phố thỉnh thoảng cũng bị “ăn” đôi ba quả hoả tiễn rót về vô tội vạ gây hoang mang huống chi ngoài chỗ đồng không mông quạnh mãi gồng mình hứng chịu sự oanh kích tự do. Chẳng yên yên nên chị Mộc đành ở lại lâu lâu. Lâu tới độ tôi không biết rõ đã mấy năm, chỉ biết là thời gian khiến chị giờ này có da có thịt hơn hồi đó. Mẹ tôi dắt chị đi chợ, đích thân lựa mua cho chị một cái nịt vú. Tôi tưởng tượng ra lời mẹ tôi: Mi là thiếu nữ rồi đó, tối ngủ đừng dang tay dạng chân, giữ ý giữ tứ, khi nào tình hình yên yên tao bày gương lược phấn son ra chỉ cách săm soi làm tốt mặt mày chải tóc chải tai. Con gái không nói làm chi, chớ thành thiếu nữ rồi thì nên biết chút điệu đàng làm vốn. Nhưng mà cái chi cũng rứa cả, vừa phải thôi chứ không được làm tới, vượt rào cản cho phép. Phải biết thân biết phận, liệu cơm mà gắp mắm.

Tuy “nàng là phận gái ta là phận trai” nhưng do tuổi tác chẳng mấy chênh lệch, chị Mộc gần gũi thân cận với tôi, ngay cả khi lần đầu được mặc xú-chiên chị cũng nói chùng nói vụng rằng nó làm sao ấy, chưa quen, thấy không thoải mái lắm. Chị tả cảnh ngoài làng cho tôi nghe, chút nhớ thương ẩn nấp trong cách thuật chuyện và tôi hình dung được một cảnh quang đẹp vừa hiện tới dù người thuyết trình chẳng có khiếu ăn nói. Tôi đâm có tình cảm với chị, nghĩ là công việc phải cáng đáng giờ này của chị quá sức nhọc mệt, chứ nếu ngoài đó yên yên hẳn chị đã cắp sách đến trường giống như tôi và theo số tuổi sẽ học hơn tôi đến hai lớp.

Mùa thi, tôi thức khuya học bài, không thấy buồn ngủ vì chị Mộc vẫn còn loay hoay việc vàng gì đó dưới bếp. Hoá ra mẹ tôi biểu chị chịu khó nấu cho “hắn” tô cháo ăn cho có sức, có đêm đổi món từ mặn qua ngọt. Mặt chi Mộc đỏ, củi lửa làm lọn tóc mai bện lại với mồ hôi, chị bưng chén chè hạt sen nấu với đường phèn lên: Ăn thử có vừa miệng không? Đang gạo bài à? Sách vở có giải thích rõ ràng vì sao lại gái hơn hai trai hơn một? Thấy tôi ngồi đực mặt, chị Mộc quay lưng: Khuya rồi, tui đi tắm cái đã.

Sau bếp có vuông xi-măng dựng ngăn đơn sơ một tấm tôn dùng che đậy, bảo vệ cho người vào làm vệ sinh rửa ráy tắm táp. Tiếng nước dội xuống từ cái ca nhựa phát ra giai điệu nghe lâm ly hơn mưa rơi ngoài trời. Mùa hè thường vắng mưa, chỉ nghe âm thanh từng gáo nước đổ xuôi theo mình mẩy đứng khuất dưới kia cũng thấy mát mẻ phần nào. Mát mẻ đi kèm với tò mò. Tò mò xúi giục mạo hiểm. Mạo hiểm đánh động trí khôn. Trí khôn bày đường cho đôi chân lăng ba vi bộ cách sao cho thật êm thắm. Nói tội trời, nếu có thi môn đạo đức học e rằng tôi sẽ bị đánh rớt, tôi sẽ trượt vỏ chuối. Nhưng tình ngay tôi cũng trúng được lô an ủi, rằng chính sự lơ đãng của chị Mộc đã giúp tôi “sáng mắt”.

Theo như hàng chữ in trong sách từng cất công biên soạn: “Cơ thể con người chia làm ba phần: Đầu, mình và tứ chi”. Thiệt là thiếu sót quá lắm, bởi mình chị Mộc quả khác xa mình tôi bội phần. Ngực khác, bụng khác, khác tới tận cùng chỗ chia hai đôi chân (nhị chi). Tụng bài vở thì hai con mắt chực ríu lại đòi thiếp ngủ, nhưng chùng lén ngó chị Mộc đứng tắm… Tôi nói sáng mắt là vì vậy, ngủ ngáy chi được giờ này, còn sớm mà, cứ thoải mái kỳ cọ cho lâu lâu nghe chị Mộc. Coi kìa, bọt xà phòng cô Ba còn bám nơi nhúm tóc, nơi đầu vú. Vú đẹp thế kia cớ sao lại đi chèn ép nó, gò bó trong cái vật cà chớn kêu bằng xú-chiên, hấp, xào, luộc chín… quá sức bậy bạ.

Nhờ thức khuya học bài, tôi biết được giờ giấc sinh hoạt cuối ngày của chị Mộc. Khi thì ngồi bày kim chỉ để may vá chiếc quần bị sút chỉ, khi thì nắn nót chậm rãi viết thư về làng kể lại những ngày tha hương sau khi xin tôi giấy bút và nhờ tôi dò lại, sửa lỗi chính tả. Chị viết thật thà như đang tẳn mẳn trò chuyện, như đang nói. Và thỉnh thoảng lập lại câu: “Con không biết ngoài mình đã yên chưa. Cầu trời…”.

Trời ở xa, trời không nghe. “Ngoài mình” mang tiếng súng đi dần vào thành phố. Mọi người hốt hoảng bỏ chạy, mọi người tập bay để mong gặp đất lành chim đậu. Quýnh quáng sao đó, từ xe đò vô thấu Sài-gòn nhìn lui ngó lại thấy thiếu mặt chị Mộc. Tôi nhớ lại sáng đó, thấy chị nhét cái nịt vú trong túi vải: Đang búi xờm xờm, mặc thứ ni vô thêm tức ngực khó thở. Không biết bây chừ ba mạ tui ra răng? Ngực chị rung động sồi trụt sau làn vải mỏng. Và tôi đã lập lại lời chị: Không biết bây chừ Mộc của tui ra răng?


2.

Tôi dành dụm được một số tiền sau nhiều năm cày bừa trên cánh đồng mới. Ba mẹ tôi mất đã tám năm, mất trong đói kém và chẳng còn ai thân thuộc bên mình. Thiên tai bão lụt cũng như đề án thu hoạch đất đai bên đó làm tôi lo ngại đến sự an nguy của mộ phần song thân. Tôi có lý do chính đáng để đi Việt Nam, nơi mà khi leo lên ghe trốn chui ra biển lớn tôi đã quay đầu thốt lên hai chữ vĩnh biệt. Đâu còn gì mà mong ngày trở lại hở em?

Tôi đứng trước căn nhà cũ, nhìn không ra vì giờ này họ đập phá, nới rộng, nâng cấp để biến thành một cơ quan gì đấy treo đầy băng-rôn biểu ngữ cờ quạt toàn sắc đỏ. Có một cậu thanh niên bảo vệ từ trong chòi canh ra xua đuổi tôi đi, làm như tôi là thành viên trong tổ chức có mưu toan cài bom, khủng bố. Tôi bắt xe ôm đi dọ hỏi mất ngày trời mới tìm ra hai nấm mộ xiêu vẹo quá đỗi tang thương. Với tám trăm đô la, người ta hứa sẽ chỉnh trang, đắp xi-măng dựng bia trông sao cho “hoành tráng”. Tôi rất chán ngán, làm ơn đừng nói hoành tráng, có được không? Chuyện nhỏ. Người ấy nhún vai. Lạ, Việt kiều mà lại chẳng ưa hoành tráng! Trao một nửa cho chúng tôi mua vật liệu, khoảng tuần sau thì hoàn thành mọi công đoạn, chỉnh chu đâu ra đó. An tâm đi nhớ, sẽ có người lo sắm sửa nhang đèn vàng bạc các thứ linh tinh, bảy ngày sau, đúng hẹn, khi ấy bác hẳn trao nửa số tiền còn lại.

Cái ông đen đúa đứng ra lo việc lớn tuổi cỡ chú tôi, vậy mà luôn mồm kêu tôi bằng bác, xã giao kiểu gì ngó gay cấn thật. Bác thích sắm gì cho người khuất mặt nào? Xe hơi BMW đời mới hay đốt xuống hai cái di động iPhone 10? Người ở cõi âm giờ nầy rất chảnh. (Bác) giả bộ la to: Đã bảo đừng hoành tráng cơ mà, thiết thực hơn cả là nhờ quý vị liệu làm giúp cho một mâm cơm. (Cháu) hô: Chuyện nhỏ, ở đây bác là thượng đế, muốn sai bảo gì thì cứ mạnh miệng để mai sau khỏi hối tiếc.

Không biết cách tiêu hoang thời gian. Bảy ngày thì quá dài, phố thị giờ này lại quá xô bồ hỗn tạp, ngồi uống cà phê ngay góc đường lắm bụi nhấm nháp bột Trung Nguyên pha tạp nồng mùi, tôi quyết định thử tìm về thăm làng nội một lần cho biết rường cột cội nguồn. May mà họ chưa thay tên làng, hỏi thăm liền có người bày đường chỉ lối. Bị chặt chém hay không, tôi chẳng lấy đó làm điều vì qua sông thì phải luỵ đò, mấy thuở một lần, nên xí xoá. Dễ thông cảm, khác với trường hợp là người ta bị chém mà mình lại chảy máu, con tim mình già cỗi dần vì hết còn xúc động, chẳng thấy ra cảnh đáng yêu, thoi thóp cho đến khi gặp phải lãnh cảm.

Làng quê vốn chôn trong dự tưởng của tôi là một thứ gì thật êm ả, lắm sắc xanh, nhiều bóng mát. Đình làng, cây đa, bờ đê, dáng trâu bò, đồng ruộng tuyệt không hiện diện ở đây. Nó là một thị trấn dựng đặt thật nhiều hình khối bê tông cốt tre kích thước chẳng mấy rộng, chỉ vậy thôi. Người ta muốn làm cách mạng tất thảy, thích cái vẻ hào nhoáng diêm dúa bên ngoài, ưa hiện đại hoá mặc dầu người ta chưa thể chế tạo ra một cây đinh sắt. Vậy thì bọn đinh tặc mua đinh từ đâu mà rải xuống đường lắm thế? Đinh Trung quốc hay đinh Thái Lan hay đinh xứ Hàn? Nghề vá lốp xe cuối đường so ra cũng chịu khó tốn kém nhỉ? Ông hành nghề xe ôm mặc sức thoá mạ trên lộ trình ngắn, ông vất tôi xuống trước một nhà nghỉ rồi gọi tôi bằng cậu: Xứ cậu ở có nuôi sống một bọn người chuyên đi làm thủng ruột xe của bà con không? Tôi nói không, làng quê bên ấy êm đềm lắm cơ, thơ mộng lắm kìa. Máy xe vẫn nổ, tiền trao cháo múc đã lâu, vậy mà ổng vưỡn mặn việc láng cháng, dùng dằng quyến luyến chẳng nỡ chia tay: Cậu thích vui vẻ thì nhớ nói, trời tối tôi thồ tới cho cậu một con bò lạc, ngon cơm nhưng giá bèo. Tôi nhăn răng cười, lắc đầu quầy quậy, nuốt xuống bụng câu nói: Cậu đây chưa thấy hứng thú, xéo đi cha nội.

Nhà nghỉ mang tên Hoa Mộc Lan, cách bài trí vẫn chưa thoát ra khỏi luỹ tre làng, hoa hoè hoa sói đậm chất phèn chua nước lợ. Tôi vào, dựa người vào quầy tiếp tân làm thủ tục nhận phòng, chỉ một đêm thôi. Anh thanh niên ngước mắt lên khỏi màn ảnh chiếc máy vi tính: Mấy người ạ? Một. Nom bác như người ở phương xa về, bác có cần hướng dẫn viên dắt đi tham quan những khu vực nổi tiếng ở địa phương không ạ? Họ vừa tu sửa và khánh thành căn hầm nơi từng diễn ra trận giao tranh ác liệt, cấp số ta chỉ một tiểu đội nhưng đã đánh thắng cả tiểu đoàn giặc Mỹ xâm lược… Môn bài nhà nghỉ là Hoa Mộc Lan, vậy gần đây có cánh rừng trồng nhiều kỳ hoa dị thảo không? Ai là người sẽ dắt tôi vào vạch lá tìm sâu? Bác lại khéo đùa.

Tôi lên phòng, nằm ở lầu một. Dường như đã lâu chẳng có ai nhỡ lạc đường vào ngã cái lưng hòng tìm lại sức, mùi gì lưu trú ở mọi góc kẹt dồn tới khi cửa phòng được mở. Mùi cá kho bị khét, mùi mực nướng, hay mùi nước mắm? Không biết, choáng váng nồng, kiểu đặc thù bản sắc dân tộc. Tiếng là làng quê nhưng nó đã vĩnh biệt mùi lúa mạ reo trong gió, mùi đất nồng vừa cày xới. Tôi hơi bị tưởng tượng, cứ ngầy ngật với bao ảo tưởng. Tôi mở toang cánh cửa sổ, đứng nhìn chân mây màu tím đang chìm trôi trong bóng hoàng hôn rút về mảng đen của Trường Sơn chụp vội. Vất ba-lô xuống giường, tìm một bộ áo quần sạch và tôi cần đứng tỉnh người dưới vòi nước lạnh, càng lạnh càng tốt.

Nước chảy yếu, lấy lệ, kiểu vòi kia chưa hỏng hóc có chảy nước. Tôi trì chí đứng tắm, lảm nhảm câu: Đi một ngày đàng học ba sàng dại. Bước ra, lau mình lau mẩy lại lầm bầm: Ai nên khôn mà chả dại một đôi lần. Tự gẫm, tại sao lại “dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”? Tôi loay hoay trong phạm vi chật hẹp chưa định được bước đi sắp tới thì nghe có tiếng gõ cửa. Tiếng động lớn, có thể lôi đầu ai đó thoát khỏi giấc ngủ say. Tôi đang thức nên tôi giật mình, từ khi về lại cố hương tôi mãi bị giật mình, hình như chốn này không dành cho ai mang bệnh yếu tim? Chẳng biết việc đăng ký tạm trú có gì trở ngại, tôi nhẹ nhàng mở cửa ra. Ngoài hành lang dựng đứng một người đàn bà cao ngang vai tôi, mặt mày khó nhìn đoán tuổi tác vì bà trang điểm có hơi mạnh tay, nửa thành thị nửa ruộng đồng. Ngó một đỗi thì hoài nghi in tuồng mình có gặp qua đâu đó, chí ít cũng một lần trong đời.

Chú không nhìn ra chị à? Còn nhớ Mộc không?

Tôi chôn chân. Nếu đúng là chị Mộc thì quá sức hoang đường, ngay cả giọng nói giờ đây cũng đổi thay, nghe khác trước. Ngày đó chị Mộc không thích mặc áo nịt ngực, tôi nhớ lại để vô tình mắt tôi đọng vào vòng một của vị nữ nhân kia. Ôi bể dâu! Ngực chị Mộc hơi bị “hoành tráng”. Xài xú hàng Trung quốc chứ gì nữa, nhô ra, cứng cáp hơn cả nón bảo vệ.

Tuy có hơi ngờ ngợ nhưng linh tính chị thì quả đoán một hai là chú. Thú thiệt là nhà nghỉ có lén bắt ca-mê-ra trong phòng vệ sinh, chị thấy chú đứng tắm cả nửa giờ và chị nóng lòng lên gõ cửa để xác minh là chị chả nhìn lầm người. Quả không sai trật. Ôi, tuy đã là ông Việt kiều mà sao hình tướng trông vẫn thế. Chú có tin vào duyên số không?

Chị Mộc đi vào phòng, tự tay chốt lại cửa. Ôi thôi, cuộc đời nầy thật nghĩ không ra, về cách đi giáp vòng của nó, thứ mà chị Mộc kêu bằng duyên số. Tôi từng vụng dại rình xem chị Mộc khoả thân kỳ cọ da dẻ trơn láng, vuột trôi qua bao sóng gió, giờ đây chị ấy lại vụng trộm nhìn lén thằng Trần Văn Trụi đứng tắm. Ai cho phép nhà nghỉ lắp đặt caméra ở chỗ kín đáo? Với chức phận gì chị Mộc có quyền theo dõi những thước phim “đồi trụy”? Đồng chí này công tác ở bộ Công An chăng?

Chị Mộc ngồi xuống giường, trông lên tôi bằng ánh mắt của người quen nhìn bọn tội phạm. Không, tả vậy thì hơi bị hàm oan cho chị ấy. Chỉ là đọng chút lượng định, chút tò mò, chút đắm đuối chẳng thể biểu tỏ bằng ngôn ngữ. Nghía cho no con mắt mới tâm sự đôi điều:

Gia đình chị có công với cách mạng, trước đây họ đề bạt chị giữ chức chủ tịch hội phụ nữ. Được hai năm chị xin từ chức vì nghĩ chả ăn được cái giải gì lại thêm vở kịch đạo đức gương mẫu làm gương cho chị em ta thì quá khó nhập vai. Vào lòn ra cúi một hồi rốt cuộc con người chị biến đổi như ngày hôm nay.

Chữ biến đổi chị dùng quá chính xác. Làng quê đã hăm he hiện đại hoá. Một người giúp việc lam lũ đã trở thành bà chủ nhà nghỉ. Một đứa học trò bị bứng ra khỏi quê nhà để mang phận làm đứa Việt kiều. Việt kiều chả làm nên công trạng gì ghê gớm cả và Việt kiều hồi hộp này đã bị đánh cướp mất chữ yêu nước. Chị Mộc hối tôi thay áo quần: Mình kiếm cái quán ăn ngồi trao đổi cho cạn tâm tư. Chỗ này bức bối quá, nó chỉ thích hợp cho việc ngủ ngáy. Chú lặn lội về đây để tìm chị, có phải không?

Chị Mộc dắt tôi vào quán KFC chuyên trị gà. Lạ, thịt con gà nội địa ngon dường ấy lại bày đặt chê bai, ưa vọng ngoại, thích xơi gà Tây gà Mỹ ớn tận cổ. Vác mặt lên, xem ta là dân sành điệu. Thằng Tây thằng Mỹ thì ta buộc chúng phải cút về nước, nhưng con gà của chúng thì lại khác, nhớ? Cớ sao chúng không nhập thịt chó vào nước ta nhỉ? Khoái khẩu phải biết. Về quê cũ, chú đừng lo ngại việc gì cả, đã có chị đây. Chị Mộc nói. Tuy không ăn học đến nơi đến chốn nhưng chị là người còn biết tới đạo nghĩa. Có đâu như con Hồng, cũng bỏ làng quê lên thành phố giúp việc cho gia đình người bà con, sau giải phóng nó mặc đồ bộ đội tìm đến gia đình nọ lớn tiếng chửi rủa bọn bóc lột, lời lẽ thô nhám hiểm hóc khiến bà con dòng họ kia phải điêu đứng bỏ chạy lên vùng kinh tế mới. Chị Mộc ngừng nói, nhai cái cánh gà rau ráu. Tôi ngồi rụt cổ, không dám nhìn chị. Tôi đang là con gà nuốt dây thun, nếu muốn, chị Mộc có thể “nhai” tôi bằng trăm ngàn cách. Chị cho hay, lắp caméra trong buồng rất lợi hại, chị thu được lợi nhuận nhờ vào những thước phim đồi trụy. Mình gửi thư đen vào di động, liệu thần hồn mày không trả tiền thì bà tải nó lên mạng cho bà con thưởng lãm khúc lâm ly.

Năm giờ sáng tôi lặng lẽ bắt xe ôm ra bến xe. Hãy để làng nội của tôi nằm yên trong nếp suy nghĩ đầy trừu tượng mà tôi từng cất giữ. Tôi đã vào quốc tịch một đất nước khác. Tôi nên trở về đất nước ấy, dù trong dù đục chốn đó vẫn hơn. Bảy ngày sau, tôi cúi đầu thắp nhang trước mộ phần song thân còn “thơm” mùi xi-măng nơi hai tấm bia dựng đặt không được “hoành tráng”. Tôi chảy nước mắt, những hành lệ lưu lạc mấy mươi năm mới có dịp tuôn đổ xuống vùng đất khô. Thôi con đi, lời vĩnh quyết. Nghe gì đành đoạn tới huyết thống mình.

Hồ Đình Nghiêm
Tháng Tư năm 2019
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

Ánh Hỏa châu -
Nguyễn Trọng Hoàn
Chủ Nhật, 28 Tháng Tư 2019
Con không tin có thiên đường.
Nhưng tin có lắm đoạn trường, Chúa ơi!


LỜI KỂ CỦA DIỄM.

Nghe mẹ tôi kể lại, bố tôi là người thích đi hát cô đầu. . .Tôi là con lớn nhất trong nhà, lại sinh ra đời đúng vào cái đêm quân đội Quốc gia của cụ Diệm tổng tấn công nhóm Bình Xuyên. Lúc mẹ trở bụng, bố tôi phải chở mẹ tôi bằng chiếc xe mobylette. Giữa đường, mẹ tôi quằn quại, may nhờ có một xe tuần cảnh kéo mẹ tôi lên xe chạy thẳng vào nhà hộ sinh tư Đức Chính ở đường Cao Thắng. Bố tôi chạy sau, không mang giấy tờ, bị bắt. Ngày hôm sau, bố được thả, bố tôi vỗ nhè nhẹ vào tôi cười:

- Con bé này lớn lên xinh lắm đây, nhưng lại sinh ra trong một đêm dông bão như đêm qua thế này. . .

Mẹ tôi cười:

- Anh đặt tên cho con đi! Đừng lấy tên đám cô đầu con hát đấy! Vận vào nó tội nghiệp! Bố tôi cười bí mật, đặt tên tôi là Diễm, diễm là diễm lệ, là cao sang.

Khi tôi một tuổi, bố tôi gặp lại một người bạn cựu giao, rủ ông vào ngành cảnh sát, vì trước khi vào Nam, có thời bố tôi làm trong ngành hiến binh. Sở dĩ tôi kể chi tiết ấy, vì nó có liên quan đến cuộc đời của tôi sau này.

Đúng như bố tôi nói đùa, tôi càng lớn càng xinh đẹp. Hãy nghe một con nhỏ bạn nói về tôi: - Đôi mắt của con Diễm trong veo, ngơ ngác, dưới hàng mi cong chơm chớm. Đến thánh cũng phải mềm lòng !

Bà ngoại tôi, mỗi khi có ai khen tôi trước mặt bà, bà ngậm ngùi: “ Hồng nhan đa truân! Mẹ tôi gắt: “ Bà cứ nói vậy, nó vận vào người cháu.” Bà bảo: “ Vẽ, nói ra hết xui!”

Trái với sắc đẹp bề ngoài, việc học hành của tôi thật là tồi tệ. . Có tháng tôi gần đội sổ! Mẹ tôi, do bác Thận giới thiệu, đã nhờ Hinh đến kèm cho tôi học.

Hinh gọi mẹ tôi bằng mợ, “ Mợ bắn cà nông không tới ấy mà!" Mẹ tôi vẫn nói đùa như vậy, nhưng khi mẹ nói đến lần thứ hai, thứ ba thì tôi mới vỡ lẽ ra rằng, câu nói răn đe ấy, chỉ nhắc tôi tập quán cổ xưa “ Nam nữ thụ thụ bất thân” mà thôi. Dù có lời cảnh giác bóng gió đó nhưng mẹ tôi hình như vẫn chưa yên tâm, bà cho Kim Anh, đứa em kế tôi và thằng Tuấn, thằng em út, học chung. Mẹ tôi giáo đầu với Hinh:

- Cốt yếu là cháu dạy con Diễm cho mợ, còn mấy đứa kia, cho nó ngồi vào đấy để chúng khỏi chạy nhông mà thôi.

Hinh không đẹp trai, lại cao và đen. Cặp mắt lúc nào cũng mở to như đang đắm chìm trong một cõi xa xăm nào đó. . . Hinh không bao giờ cười trong suốt thời gian từ khi bước vào cửa nhà cho đến khi anh ra về.

Căn nhà tôi có hai tầng. Cả từng lầu dưới, mẹ tôi mở tiệm may phụ nữ, " Tiệm May Áo Dài Diễm". Lầu trên chia làm hai phòng, có một ô cửa sổ nhỏ, không có cánh cửa, thông với hai phòng, để lâu lâu bố tôi ở phòng bển thò đầu ra, quan sát xem gian bên này chúng tôi làm trò trống gì, hoặc để nói chuyện với Hinh về một tin thời sự nào đó. Trái với mẹ tôi, bố tôi gọi Hinh bằng cậu, mỗi khi chấm dứt câu chuyện, bố tôi cười chỉ thằng Tuấn:

- Thằng ông mãnh kia, cậu giáo cứ đánh khỏe, cho bật chữ ra mới được!

Như tôi đã nói ở trên, tôi rất chậm hiểu, nhưng Hinh luôn luôn kiên nhẫn giảng giải rất cặn kẽ cho tôi học, thậm chí giúp tôi làm bài vở ở trường. Tôi không muốn Hinh chê, nên càng cố gắng. Tôi đã trở thành học sinh giỏi trong lớp, nhưng tôi chỉ thích những môn thuộc khoa học nhân văn, lại chúa ghét môn toán. Cho nên phần lớn thời gian, Hinh chỉ toán cho tôi.

Thời gian ấy, Hinh đang học năm thứ hai y khoa. Có lần tôi đang đứng thử chiếc áo dài, thì tôi nghe thấy thằng Tuấn từ ngoài đường chạy vào, vừa chạy lên cầu thang vừa la lớn:

- Thần sấm sét đã đến, nhanh lên! Nhanh lên!

Mẹ tôi cười:

- Phải vậy mới được.

Tôi khoanh tay:

- Chào cậu ạ.

Mẹ tôi cười, bà nói to cho các cô thợ may nghe:

- Thấy không, nó cao gần bằng cậu giáo rồi đấy, con gái mà chẳng có ý tứ chút nào!

Hinh chào mẹ tôi, anh cúi đầu chào các cô thợ may, rồi đi thẳng lên lầu. Mẹ tôi lại nói to:

- Thấy con nhà người ta mà phát thèm, ngần ấy tuổi mà sắp ra bác sĩ rồi đó!

Có lúc Hinh đỏ mặt cải chính:

- Còn lâu mợ ạ, vả lại thời buổi này, học được ngày nào biết ngày ấy.

Riêng tôi, tôi biết, nếu trông thấy được ước mơ. tôi biết mẹ tôi mơ ước có một ông con rể làm bác sĩ.

Rồi một hôm, Hinh đến sớm hơn thường lệ. Anh ngồi nói chuyện với bố mẹ tôi rất lâu trên căn gác bên. Sau cùng anh đi qua chỗ chúng tôi. Anh nói, hai tay xoắn lại với nhau. Cái cử chỉ bối rối ấy, tôi chưa từng thấy ở Hinh. Anh không nhìn tôi nhưng nhìn chằm chằm vào thằng Tuấn:

- Hôm nay, cậu dạy các cháu là hôm cuối cùng. Sáng thứ hai tuần sau. Cậu nhập ngũ rồi.

Thằng Tuấn cười hô hố, xòe tay ra :

- Chúc cậu giáo thượng lộ bình an!

Tôi tê cứng cả người Tôi cắn chặt môi để cố nén một cảm giác quặn thắt bất chợt. Nước mắt tôi tràn ra, tôi vội lấy cả hai bàn tay úp vào mặt. Con Kim Anh cũng bật khóc.

Suốt thời gian còn lại, tôi không nghe Hinh giảng bài gì cả. Những vòng tròn hình học to nhỏ, Hinh vẽ trên bảng cứ như đang thắt cả lòng tôi lại. . . Tôi ngồi bất động như thế cho đến khi tôi nghe tiếng Hinh:

- Cậu về các cháu nhé. Cậu đi nghe Diễm !

Cả đêm hôm ấy tôi không ngủ . Tôi trằn trọc, rồi bật dậy, mở toang cửa sổ. Ở phía Tây của bầu trời, có một ông trăng mờ nhạt, méo mó đang cùng với những trái hỏa châu lập lòe, mong manh, xa lắc như đang lắng nghe những tiếng đạn đại bác rì rầm vọng từ dưới đất. Rồi hắt vào tận trái tim non nớt của tôi, mách báo tôi rằng, tôi đã yêu anh từ lâu lắm rồi mà bây giờ tôi mới biết. . .

Sáng hôm sau, tôi chào mẹ để đến trường. Mẹ tôi nhìn ngay vào đôi mắt xưng đỏ của tôi:

- Chiều nay, mẹ cho các con đi xem ciné với cậu giáo một bữa. Khí khái hão! Anh hùng rơm! Thiếu gì người đánh giặc kia chứ!

Do Hinh giới thiệu, Quân, một bạn cùng học y khoa với anh nhưng sắp ra trường đến kèm cho chúng tôi. Khác với Hinh, Quân hoạt bát, cười nói luôn mồm. Anh nhanh chóng chinh phục được cảm tình của mẹ tôi và thằng Tuấn. Riêng Kim Anh càu nhàu:

- Đàn ông, con trai cái gì mà miệng mồm cứ như bà già trầu!

Còn tôi, sau một thời gian dài từ ngày Hinh đi, tôi như người mất hồn, lúc nào đầu óc tôi cũng nghĩ quanh nghĩ quẩn, nghĩ đủ thứ chuyện, mà chuyện nào cũng có thấp thoáng bóng hình Hinh ở trong đó. Tôi không cười, không nói trong suốt thời gian Quân đến dạy học.

Tôi vốn là đứa con gái thiếu tự tin, và thật quái lạ: Mỗi câu nói, tiếng cười của Quân, kể cả lúc anh đùa cợt, tôi có cảm tưởng như những ngọn gió thổi từ một tai ương hung hiểm, mà cứ mỗi lần chờm qua tôi lại làm cho tôi sờn gai ốc. . .

Có lần Kim Anh đứng phắt dạy:

- Cậu luôn luôn nói, cậu Hinh giảng như thế này là sai, thế kia là lòng vòng. Cháu không thích cậu nói như vậy nữa!

Ba tôi thò đầu qua, quát to:

- Con Kim Anh, không được hỗn.

Do sự xúc động khi kể câu chuyện về cuộc đời của tôi, cũng vì tôi muốn so sánh Hinh và Quân mà tôi quên kể một chi tiết, trước ngày Hinh lên Đà Lạt nhập ngũ. Chi tiết này, nó có liên quan đến tôi, đến những khúc quanh trong cuộc đời tôi sau này.

Hinh đến xin bố mẹ tôi để dẫn ba chị em tôi đi ciné. Phim chiếu thường trực nên khi chúng tôi vào rạp thì bên trong tối hù. Hinh cầm tay Kim Anh và Tuấn. Tôi đi theo, người soát vé lia ánh đèn pin về phía những ghế trống, thì thằng Tuấn len vào ngồi giữa tôi và Hinh. Cái miệng nó bô bô:

- Mẹ dặn em phải ngồi giữa cậu giáo với chị Diễm!

Cho đến khi ngồi viết lại những dòng này, tôi không còn nhớ hôm đó chiếu phim gì, tôi chỉ còn nhớ như in, tôi và Hinh sóng vai trên con đường Lê Thánh Tôn. Chiều cuối năm chớm lạnh. Nắng phai vàng bên cạnh tiếng xao xác của lá me gọi gió . . . Mới ba, bốn giờ chiều mà trời như có hơi sương lễnh loãng. Tà áo dài trắng của tôi bay bay trong gió, có lúc quấn cả vào người Hinh. Tôi bồi hồi, muốn ôm cả chiều chớm đông của Sài Gòn hôm ấy vào lòng: Trước mặt tôi, từ cây cỏ đến con người, cái gì cũng đẹp, những vệt nắng quái như còn đang chần chờ trên những tàn lá thấp. Tiếng ríu rít của đàn chim sẻ như một tấu khúc cho tình yêu đầu đời của tôi thăng hoa. Tôi muốn nói điều gì với Hinh để anh hiểu nỗi lòng của tôi lúc bấy giờ, nhưng tôi mắc cỡ không thốt ra lời. . . Bỗng một ý nghĩ lóe ra trong đầu: Tôi thèm được nép sát đầu tôi trong vòng tay của anh, thèm nhìn sâu vào đôi mắt anh, mà ở đó, tôi biết, tôi đã đánh rơi tâm hồn tôi cho mãi mãi về sau. . .

Còn Hinh thì vẫn lầm lì đi bên cạnh. Chỉ có một lần, anh dừng lại nhìn vào mắt tôi, tiếng anh thảng thốt trong gió:

- Diễm này.

Tôi nhìn Hinh chờ đợi, tôi có linh cảm âm hưởng của hai tiếng ấy đang len lén đi vào tận trái tim tôi.

- Gì cơ anh?

Lần đầu tiên tôi gọi Hinh bằng anh. Trong đôi mắt sâu thẳm quen thuộc long lanh kia, có tia nhìn là lạ! Tôi đã biết Hinh muốn nói điều gì rồi! Nhưng con tim con gái của tôi đang chờ một câu câu tỏ tình mà tôi đã từng khao khát. . . Bỗng, có tiếng của thằng Tuấn từ phía sau:

- Cậu giáo dẫn tụi cháu đi ăn kem đi!

Đêm hôm ấy, lại một đêm nữa, tôi thao thức mãi không ngủ được. Trăng khuya vằng vặc chiếu lọt qua cửa sổ như mơn man cánh tay trần của tôi, như một giòng nước đang tan chảy trên da thịt tôi. Có lúc tôi mê đi. . . Có lúc, tôi thấy tôi và Hinh đang ngồi trong một căn nhà nơi đồng không mông quạnh, có gió lạnh rít ngoài liếp cửa, có bếp chấu đỏ hồng cho tôi vùi vào đấy mối tình thơ nồng ấm. . . Có lúc, tôi thấy một giòng sông lấp lánh mặt trời, có những tia sáng ấm nóng đang cuồn cuộn cuốn Hinh và tôi vào một miền sông nước bạt ngàn, đất trời toàn một mầu xanh kỳ ảo.

Sau ngày Kim Anh to tiếng với Quân, anh bớt dè bỉu về Hinh, nhưng có một hôm, trong lúc nghỉ giải lao giữa giờ. Thằng Tuấn đột nhiên nói:

- Sao cậu Hinh lại phải đi lính? Cậu ấy có quyền xin hoãn dịch mà!

Câu nói vô tình của Tuấn như lưỡi dao sắc cứa vào lòng tôi đau buốt.

Kim Anh nói:

- Làm trai , khi quốc biến thì phải ra trận, chứ cứ ru rú ở thành phố thì đâu có phải là con trai!

Lần đầu tiên tôi thấy Quân nổi nóng:

- Nào có phải ai cũng học được đâu! Đi lính cũng là một lối thoát. . .

Tôi thì vẫn lặng thinh. Hình như mọi chuyện, mọi vấn đề, nhất là khi nhắc đến Hinh, Quân chỉ nhằm xem phản ứng của tôi. Tôi biết Quân yêu tôi.

Tháng Sáu năm ấy, Quân nghỉ dạy vì anh phải lên Đà Lạt học quân sự trước khi mãn khóa. Mẹ tôi cũng cho chúng tôi đi ciné với cậu giáo bữa chót (Nhưng lần này, bà không dặn Tuấn ngồi xen vào giữa tôi và Quân, như lần trước với Hinh nữa). Kim Anh lấy lý do nhức đầu không chịu đi. Tôi biết, thế nào hôm nay, tôi cũng phải trả lời Quân một câu hỏi. Một câu hỏi rất dễ cho tôi trả lời.

Kim Anh tuy nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng nó khôn hơn tôi nhiều lắm, tính tình nó lại cứng rắn. Nó tuy là em, nhưng ngay cho đến bây giờ, nó vẫn như một chiếc dù, che mưa nắng, che cả những dông bão trong cuộc đời cho tôi. . .

- Nếu anh chàng có hỏi, mà thế nào cũng hỏi, chị cứ nói thẳng với hắn yêu làm sao được cái bản mặt ấy!

Hơi lạnh trong rạp làm tôi ơn ớn, Có những lúc tôi thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ, y như có một làn hơi thở nóng hổi của Quân đang chờn vờn trên gáy, trên má tôi.

Tôi rút ngay tay lại khi Quân cầm tay tôi:

- Anh yêu Diễm.

Tôi lạnh toát cả người, bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của Quân làm tôi nghĩ đến con lươn, con vật mà mỗi khi, chỉ trông thấy lớp da nhờn nhờn, đôi mắt ti hí của nó là tôi đã ù té chạy.

Lần đầu tiên trong đời con gái, tôi nghe một người con trai nói với tôi như thế. Tôi bàng hoàng, len ra phía thằng Tuấn, đang ngồi ở tận đầu dãy.

- Tuấn đổi chỗ cho chị.

Khi về nhà, tôi đi nhanh đến bồn rửa mặt, tôi nhớ đến hơi thở của Quân, nhớ đến bàn tay của Quân, nhớ tới anh Hinh. . . Nước mắt tôi trào ra. Kim Anh đến bên:

- Kỳ cho sạch đi, cái thứ. . . Cà chớn ấy đi chị Diễm ạ!


LỜI KỂ CỦA PHẬN.

Tôi tên là Phận, Hạ sĩ Phận, người ta đặt cho tôi nhiều cái tên nghe ngồ ngộ, nào là: “ Thằng Ô Đô”, “chú Tà Loọc”, “ anh Cao Bồi” Ôi thôi! Nhiều tên lắm, mà cái tên nào cũng ám chỉ công việc thường ngày của tôi là giúp đỡ việc riêng cho ông Tiểu đoàn trưởng . . .

Ông sếp mới của tôi là Thiếu tá Hinh, còn rất trẻ, hơi đen nhưng có hàm răng đẹp, năm thì mười họa tôi thấy ông cười. Mặt luôn luôn buồn rười rượi. Tôi luôn mang một cảm giác rằng, người chỉ huy tốt bụng của mình hình như nặng chĩu một tâm sự khắc khoải gì đó! Chắc lại chuyện yêu đương gì đó mà thôi! Chứ tôi biết rất rõ, ông ấy chỉ có một bà mẹ già đang bị bệnh tê thấp. Hàng tháng, chiếc phong bì mầu vàng của ban quân lương đưa cho ông thế nào, thì ông đưa nguyên như thế cho tôi, nhờ tôi về trao cho bà cụ ở Ngã ba ông Tạ, với chỉ một lời dặn duy nhất:

- Chú nhớ đấy, mẹ tôi có hỏi, chú nói độ này Tiểu đoàn đang huấn luyện nên không phải đi hành quân. Nhớ đấy!

Cho đến một hôm tôi nhớ rất rõ, y như chuyện này mới xẩy ra hôm qua. Sau gần ba tháng hành quân ở biên giới Việt Miên. Tiểu đoàn tôi về dưỡng quân tại Chà Rầy, một căn cứ cũ của Mỹ ở ngay sát phía Nam của mật khu Bời Lời, thuộc địa phận của quận Trảng Bàng.

Khoảng hai giờ chiều ngày hôm ấy, một người con gái, đi chiếc xe honda, dừng lại trạm gác cổng, chiếc áo dài màu trắng đỏ quạch bụi đường. . .

Người con gái dựng xe, bước xuống đến gần ông Thượng sĩ già lễ phép.

- Bác cho cháu hỏi, đây có phải Tiểu đoàn 3 không ạ ?

- Cô muốn gặp ai?

- Cháu muốn gặp anh Hinh.

Ông Thượng sĩ già cao giọng gắt:

- Hinh nào mới được chứ. Đại đội nào chả có Hinh. Có biết cấp bậc gì không?

- Thưa Hinh, Thiếu tá.

Ông già giật nẩy mình, những ông sếp trước, bà lớn bà nhỏ, nhân tình nhân ngãi ra vào tấp nập, chưa kéo kịp con ngựa gỗ chặn cổng lên là đã bị la rầy. Đằng này. . . Sao dịu dàng quá!

- Thưa bà, bà là. . .

Người con gái đỏ mặt bình tĩnh trở lại.

- Không! Không, tôi chỉ là em của ông ấy. . . Cho tôi vào nhé!

Chiếc xe đậu trên thềm bộ chỉ huy.

- Sao Diễm biết anh về mà lên?

Người con gái phụng phịu:

- Kim Anh chỉ cho em, eo ơi! Con đường vào đây thấy mà ghê! Lại gặp ông già ở cổng lục vấn muốn đứng tim luôn! Nào anh! Cho em vào trong đi, lính của anh đông quá! Họ đang nhìn em kìa! Mắc cở muốn chết!

Hai người ngồi nói chuyện trong phòng khách. Tôi tò mò lắng nghe, nhưng không biết họ nói chuyện gì. Tôi lại ngạc nhiên, trước kia chẳng có cô gái nào lên thăm sếp cũ mà lại ngồi ở phòng khách cả. Họ thường nói chuyện dăm ba câu rồi vào thẳng phòng ngủ đóng cửa lại, rồi những tiếng rì rầm, tiếng kót két của chiếc giường đóng bằng gỗ thông pháo binh, những tiếng thở dồn dập, rồi sau cùng là những tiếng nước xối ào ào ở phòng tắm kế cận.

Đằng này, cả giờ đồng hồ rồi mà hai mái đầu vẫn chụm vào nhau, hai người vẫn cứ xoay xoay mãi hai ly chanh đá. Tôi đứng ở phía hông nên chỉ thấy đầu của Thiếu tá cúi gầm xuống, còn đôi vai của người con gái rung lên từng chặp. . . Những lúc tôi đến gần, họ ngưng bặt. . .

Con mắt của người con gái hơi đỏ và ướt.

Tôi bỗng thấy Đại úy Trưởng ban 3, từ phòng hành quân cầm tấm bản đồ chạy ra. Ông khựng lại:

- Thưa Thiếu tá. . . Chào bà. . .

Hai người đứng lên :

- Xin giới thiệu, đây là Diễm em tôi, còn đây là Đại úy Hiếu.

Tôi thấy Đại úy Hiếu có vẻ bối rối:

- Thật rất may mắn cho chị, đường từ ngoài ngã ba Trảng Bàng vào căn cứ, có một chiếc xe lam vừa bị giật mìn.

Người con gái không ngạc nhiên, không tỏ vẻ sợ hãi. Cô như một tiên cô vừa hạ giáng xuống trần. Cô xa lạ với người và cảnh ở đây và hình như cô xem việc cô ngồi bên cạnh Hinh là đã yên ổn lắm rồi, như cô đang mang một nỗi khổ tâm, mà dù có chết chóc, đau khổ thế nào cũng không sánh bằng. . .

Cô thờ ơ hỏi:

- Có sao không anh?

Thiếu tá Hinh cười:

- Còn sao nữa, em đã vào được đến đây rồi! Có điều, không chắc chiều nay em có thể về được đâu!

Thiếu tá quay lại nói với Đại úy Hiếu:

- Cậu thử điều động thằng 1 ra đó xem sao?

Không biết vì sao tôi cứ thấy vui vui khi con đường bị tắc. Và, người con gái phải ở lại thật! Bố Hiếu này cố tình lề mề đây ! Ông biết, cấp chỉ huy của ông mới đi hành quân xa lâu ngày mới về. . .

Họ lại ngồi nói chuyện rất lâu trong phòng ngủ mở toang cửa. Tôi đưa lên hai tô cháo gà. Người con gái lúc này đã thay chiếc áo dài bằng bộ đồ màu đen, loại của cán bộ xây dựng nông thôn mà ông Hinh thường mặc ngủ. Bộ đồ vừa rộng thùng thình, vừa tăng thêm một vẻ đẹp đài các.

Người con gái thật thà:

- Tôi lên đây làm phiền chú quá nhỉ?

Bỗng người con gái chỉ về phía cửa sổ:

- Ánh sáng gì mà chập chờn như ánh lửa vậy anh?

- Ánh hỏa châu đấy!

- Thích quá, hàng đêm nó là bạn với em đấy! . . Vào những đêm không ngủ, em thường ngồi nhìn những ánh hỏa châu ấy. Kim Anh nó gọi là ánh thiên chương!

- Sao lại là thiên chương?

- Nó bảo thiên là trời, chương là sáng. Trời soi sáng cho những bước quân hành!

- Lát nữa, anh đưa Diễm ra ngoài, tha hồ mà ngắm!

Ông Hinh cầm một gói đi ra, chỉ một lát sau, ông bước vào:

- Chú cho tôi xin hai cái móc áo. . . Treo ở đây, chỉ sáng mai là khô chứ gì!

Tôi chạy đi lấy móc áo, trở lại thấy ông đang rũ rũ chiếc áo dài trắng. Tôi giật mình:

- Sao Thiếu tá không để cho em giặt?

Ông Hinh cười:

- Cậu tưởng ai cũng có cái diễm phúc giặt áo cho người yêu hay sao?

Tự nhiên tôi cảm thấy vui vui. Từ ngày ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung ra, nhờ mau mắn, kín miệng tôi đã được về giúp việc cho nhiều ông Tiểu đoàn trưởng. Tôi đã phải khổ sở, nhục nhã với biết bao nhiêu tính đỏng đảnh tai quái của những bà vợ lớn vợ bé của những ông sếp ấy.

Người con gái thấy tôi thẫn thờ, cô dịu dàng.

- Thôi chú đi nghỉ đi để đấy tôi lo cho.

Sao họ đẹp đôi quá, sao họ phúc hậu quá, ước gì họ lấy được nhau!

Tôi vẫn không ngủ được Tôi chỉ chờ cái cửa phòng kia đóng lại, nhưng tôi đã thất vọng! Cánh cửa cũng đóng, nhưng chỉ có cô gái ngủ ở bên trong, còn Thiếu tá Hinh tội nghiệp của tôi thì nằm ngủ trên một chiếc ghế bố nhà binh ở ngoài.

. . Cũng có những tiếng cót két nhưng đó là tiếng trở mình liên tục của cả hai người, mà tôi biết chắc họ còn đầy ắp những điều không thể nói ra được. . .

Sáng hôm sau, người con gái chuẩn bị ra về. Cô gọi tôi đến, hai tay đưa cho tôi một phong bì:

- Tôi nghe anh Hinh nói chú sắp đi phép, có chút quà gửi cho thím và các cháu!

Tôi đã cảm động muốn khóc... Thiếu tá đưa cô ra Trảng Bàng. Tôi ngẩn ngơ nhìn cánh áo đen cô đơn ở đầu giường. . .

Đó là lần đầu tiên và là lần cuối cùng tôi gặp cô Diễm.


LỜI KỂ CỦA KIM ANH.

Thưở còn bé, nhất là thời gian còn đi học, ai cũng bảo tôi giống chị Diễm. Tôi vẫn thường đỏ mặt vì sung sướng khi có ai nói với tôi điều ấy.Nhưng chị là người mềm yếu. Việc hôn nhân của chị, vào người khác, chắc không đến nỗi tồi tệ như thế đâu!

Trong gia đình tôi, chỉ trừ có mẹ tôi, còn ai cũng phản đối việc chị Diễm tôi lấy Quân. Thấy yếu thế, mẹ tôi dọa sẽ tự tử. Tôi nói với chị:

- Bà già chỉ dọa thôi, đừng mủi lòng đổi ý.

Nhưng mẹ tôi đã làm thật. Lúc xe cứu thương đến để đưa mẹ tôi đi rửa ruột. Chị tôi ôm lấy khuôn mặt nhợt nhạt của mẹ khóc nức nở:

- Mẹ tỉnh lại đi mẹ ơi! Mẹ cứ khỏe lại rồi mẹ bảo như thế nào con sẽ chiều ý mẹ!

Thế là chị tôi đi lấy chồng. Tôi thấm thía với câu thơ Nguyễn Bính:

Người ta pháo đỏ rượu hồng.

Nhưng trên đầu chị một vòng hoa tang.

Trước khi lên xe hoa, mà chị tôi chua chát gọi là xe tang, tôi xúi chị nên đi thăm anh Hinh. Chị do dự mãi nhưng cuối cùng cũng đi. Không may, tối hôm ấy, chị không về được. Không may hơn nữa, Quân tới nhà. Thằng Tuấn không biết ất giáp gì bô bô cái miệng:

- Chị Diễm em đi thăm anh Hinh rồi!

Quân hầm hầm ra ngoài xe, ngồi chờ suốt đêm, mẹ tôi gọi thế nào, Quân cũng không vào nhà. Ngồi cho đến sáng, Quân mới bỏ đi.

Chị Diễm về. Mẹ tôi lồng lộn như một con thú bị thương. Trái với tính tình thường ngày là cả nể và thiếu tự tin. Chị nói thẳng với mẹ tôi:

- Con đi thăm anh Hinh thật, con có ngủ lại đêm thật đấy, nhưng con không có làm gì bại hoại gia phong như mẹ vừa nói đâu!

Mẹ tôi vẫn chì chiết.

- Ăn nói với người ta như thế nào bây giờ? Hở trời! Thay quần áo, mẹ dẫn đi xin lỗi nó!

Tôi bật lên :

- Không phải xin lỗi ai hết. Việc gì mà phải xin lỗi cơ chứ?

Mẹ tôi lấy cái thước đo quần áo, run run chỉ vào mặt tôi:

- Mày, muôn sự cũng tại mày mà ra cả!

Rồi mẹ tôi chụp cái kéo, xoay ngược mũi nhọn vào ngực:

- Con không đi, mẹ chết cho con xem!

Chị Diễm tôi nói:

- Thôi được, mẹ để Kim Anh nó đi với con được rồi!

Tôi ngồi dưới xe chờ chị. Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau chị bước xuống. Chị phải vịm tay vào lan can mới lê được những bước chân nặng nhọc. Mặt chị xanh mét. Tôi chạy tới đỡ chị. Bỗng, tôi tái mặt khi nhìn thấy vạt áo phía sau có mấy vệt máu đỏ. Tôi nghiến răng gầm lên:

- Khốn nạn hết sức! Để em lên xem nó là con thú hay là bác sĩ đây?

Chị khóc, giữ tay tôi lại:

- Thôi mà Kim Anh! Ảnh muốn chị chứng minh xem đêm qua. . .

Chiến cuộc càng ngày càng khốc liệt giữa một bên là những chiến sĩ can trường của QLVNCH, đang càng ngày càng bị đồng minh và những cuộc biểu tình phản chiến có mang màu sắc tôn giáo làm lung lay, cô lập. . Những cuộc phản kháng của những nhà văn nhà báo, lẽ dĩ nhiên, có sự giật dây của Cộng sản. Họ đòi cho bằng được những thứ mà chiến tranh muốn khất lại họ. Nhưng Tổ quốc thì đang cần những thứ khác kia kìa! Những thứ mà lòng vị kỷ, tham vọng cá nhân và đảng phái không có. . . Với một bên là những người Cộng sản, mang khát vọng dùng giáo điều máu để thôn tính miền Nam bằng bất cứ giá nào!

Đám cưới chị tôi buồn như một đám cưới chạy tang.

Ngay buổi sáng ngày hôm ấy, tôi đang đứng trên lan can thì có một cái xe jeep trờ tới. Tôi thấy một chú lính quen quen đang ngơ ngác tìm số nhà. Tôi chạy vội xuống.

- Chú kiếm chị Diễm tôi phải không. Có chuyện gì không chú?

- Tôi là Phận, Trung tá bị thương nặng lắm, tôi đến báo cho cô Diễm. Đây là số phòng của ổng.

Tôi lặng người, rồi vội cầm vội tờ giấy, rồi chạy nhanh lên lầu. Chị Diễm đang ngồi thẩn thờ trên chiếc ghế nhìn ra ngoài cửa sổ ( Vẫn vị trí mà từ ngày anh Hinh ra trận, chị vẫn ngồi đấy để dõi theo những bóng hòa châu chập chờn, leo loét, lắc lư trên vòm trời tối đen của vùng Hố Bò, Bời lời. Có những trái thả lạc, rất gần, hắt vào phòng những tia sáng chập chờn, đầm đìa trên gối...)

Tôi đứng lặng thinh nhìn chị một lúc rồi vội vã thay đồ, chạy xuống nhà Mẹ tôi nói, hỏi gì tôi cũng không nghe thấy nữa! Tôi phóng xe thẳng tới Bệnh viện Cộng Hòa.

Tôi vừa đi vừa chạy trên những hành lang đầy thương binh. Mùi máu, mùi ê-te, cùng những tiếng rên xiết cứ như muốn níu chân tôi lại. Chiến tranh! Lần đầu tiên tôi mới thấy tận mắt chiến tranh khốc liệt là chừng nào! Lần đầu tiên tôi mới thấy sự hi sinh và lòng dũng cảm của người lính trận thật là vô bờ vô bến.

Chị Diễm ơi! Chị đã không lầm khi trao trái tim của chị cho một người người anh hùng. . .

Hinh thiêm thiếp trong phòng hồi sức. Vầng trán cao cao của anh còn vương lại những giòng máu đen sậm. Cả phần dưới cặp lông mày chữ mác của anh được băng kín. Chân phải anh cũng bị thương, máu đỏ còn thấm đậm trên những dải băng. Tôi đang đứng lau những vết máu, vết đất trên thân thể anh thì Phận dẫn một cụ già bước vào. . .

Bà cụ đứng trân trân nhìn Hinh. Hai hàng nước mắt chảy trên hai gò má nhăn nheo. Tôi bước vội ra ngoài hành lang. Một thiếu phụ, từ phòng giải phẫu chạy vụt ra, tay ôm con, vừa chạy vừa gào khóc, vừa gọi tên thảm thiết một người. Tiếng gào khản đặc làm lòng tôi quăn đau. Tôi bước nhanh đến chiếc ghế đá dưới gốc cây trứng cá, ngửa mặt nhìn bầu trời cao vời vợi, có những giải mây trắng vắt ngang. Tôi nhắm mắt lại như muốn được chắp cánh cùng mây lên cao, lên cao mãi. . . Tôi đã nhìn thấy các anh rồi! Các anh rực rỡ như muôn ngàn ánh hào quang! Các anh đẹp hơn cả thiên thần, hào hùng hơn cả những tráng sĩ trong chuyện cổ tích!

Lại có tiếng gào thét của một bà già kêu tên một người con nào đó Tôi mím môi, tôi lại thấy buốt nhói trong lồng ngực. Tôi nuốt những giọt nước mắt mằn mặn. . .

Bây giờ thì tôi mới vỡ lẽ ra rằng: Cuộc chiến khốc liệt này đã gây ra biết bao nhiêu nỗi thương đau, mà không có ai có thể chia xẻ cho ai được cả!

Những hình ảnh và âm thanh ấy cứ chập chờn, bám riết lấy tôi, theo tôi về tận đến đầu đường Nguyễn Thiện Thuật. Cả một góc phố đang bị kẹt xe, đang ngập tràn khói pháo! Nhà trai đã đến rước dâu rồi! Tôi nghĩ ngay đến khuôn mặt hí hửng của Quân. Rồi lại nghĩ đến cái đầu băng kín của anh Hinh. Cái đầu có quấn băng trắng ấy, y như một dải khăn tang. Anh đang để tang cho một cuộc tình dang dở. . .

Đêm hôm ấy, trong lúc cô dâu chú rể đang đi chào bàn. . Bỗng có một người đàn bà, dắt theo một đứa bé trai. Người đàn bà đi thẳng đến chỗ chị Diễm, còn đứa bé, trông giống Quân như đúc, chạy tung tăng đuổi bắt những trái bong bóng đang bay lơ lửng giữa tiếng cười, tiếng nói, tiếng bật của nút chai rượu . . .

Mẹ tôi là người ân hận nhất. Bà lao tới, bao nhiêu tức giận của bà đồn vào một ly nước đầy, hắt mạnh vào mặt Quân. Bà lôi xềnh xệch chị Diễm tôi ra khỏi cửa.

Đêm ấy, mẹ tôi uống thuốc độc quyên sinh. . .

Bố tôi trước sau vẫn bậm chặt đôi môi, không nói một lời. Hôm đưa ma mẹ tôi. Bố tôi chỉ nói vỏn vẹn :

- Bà đi bình an. Gia đình và con Diễm đã tha thứ cho bà.


LỜI KỂ CỦA TUẤN.

Cả tiểu đoàn râm ran khi nghe tin Trung tá Nhung, Tiểu đoàn trưởng sắp bị thay thế. Tin ấy, có lẽ bắt nguồn từ sau ngày đoàn thanh tra của Sư đoàn (không báo trước) đã đến Tiểu đoàn để thanh tra về quân số. . . Rồi lại xẩy ra chuyện bắn lộn tại bến phà Neak-Luông giữa toán biệt kích của Tiểu đoàn với một toán quân của chính quyền Lon-Nol.

Nhưng chuyện Thiếu tá Hinh, một sĩ quan rất trẻ đến thế “ Ông già” Nhung, làm tất cả bàng hoàng, nhất là cánh sĩ quan. Riêng tôi phấn chấn hơn. Tôi dù về ngay Sài Gòn để khoe với chị Diễm. Chị Kim Anh xía vào:

- Chị Diễm nói thế là không đúng. Vui cái gì cho thằng Tuấn kia chứ! Chỉ làm cho anh ấy khó xử mà thôi! Tôi chúa ghét cái thứ con ông cháu cha!

Tôi xin nói thêm: Tôi có hai người chị. Chị Diễm tôi tính tình dịu dàng, nhân hậu nhưng đa sầu đa cảm, còn chị Kim Anh đã đẹp sắc sảo , lại có rất nhiều nam tính. . . Hàng đêm, hai chị ngủ chung một chiếc giường đôi sát cạnh cửa sổ. Bên ngoài là tàn lá của cây vú sữa thật to của nhà ông Tích. Trong khi chị Kim Anh ngủ khò, thì từ ngày anh Hinh đi lính, chị Diễm tôi thường tựa hai tay vào thành cửa sổ. . . Cùng với bầu trời mùa hè chan hòa ánh trăng, bầu trời mùa đông xám xịt, để mùa này đến mùa khác, mòn mỏi nhìn về khoảng trời có những bóng hỏa châu chao qua nghiêng lại, cùng với tiếng đại bác từ vùng “ anh ấy chắc đang đụng địch” vọng về. Chị say nhìn những chiếc C47 lập lòe trong đêm tối, vừa thả hỏa châu, vừa ném vào vòm trời đêm vô vàn tia đạn , vô vàn hạt sáng, giống như những dải sao ở trên trời! Những âm thanh từ mặt trận vọng về ấy, có lẫn với tiếng rơi khô khốc, não lòng của những chiếc lá vú sữa khua ròn trên mái tôn. . .

Cũng may trong Tiểu đoàn không ai biết việc tôi và “ Cậu giáo” có dính dáng với nhau, chứ nếu họ biết thì còn quê cho tôi biết là chừng nào Vì từ ngày về cả tháng trời đến giờ, mà cái ông tướng nhà trời này không thèm hỏi thăm tôi đến một tiếng!

Phải nói cho ngay, tức thì tức thật. Nhưng từ khi có ông sếp mới, không khí trong Tiểu đoàn tôi có nhiều lột xác: Lính tráng được luân phiên đi phép. Quân số đào ngũ giảm đi rất nhiều. Khu gia binh của Tiểu đoàn được anh cho mấy thợ mộc về tu sửa. Chỉ có những anh chàng ở hậu cứ là bắt đầu từ nay, không còn được lè phè nữa rồi. . .

Tháng Năm năm ấy, thời gian khi anh Hinh về Tiểu đoàn được hơn hai tháng. Tiểu đoàn tôi trở lại chiến trường Kampuchia lần thứ hai. Lần này, không phải lén lút như lần trước nữa, Chiến đoàn 333 của chúng tôi đã công khai giao chiến với những đám tàn quân của Việt Cộng còn đang lẩn quất, dưỡng quân, tái trang bị võ khí. . .

Biết được bên phía Quốc gia sót từng tính mạng người lính một , lại rất sợ phi pháo và không yểm, Việt Cộng đã đổi chiến thuật, chúng đào hầm, chờ những toán tiền sát của quân ta tới sát gần mới nổ súng. Thế là kẹt rồi! Gần quá làm sao đánh bom, làm sao dùng pháo tầm xa đây?

Tôi nằng nặc xin với Đại úy Khương, Đại đội trưởng:

- Tôi không thể đứng nhìn mấy “ thằng nhỏ” của tôi nằm chết như thế được! Đại úy cho trung đội tôi xung phong, lấy xác ra bằng được!

- Không được, Thiếu úy Tuấn giải quyết như vậy là không ổn rồi. Phải rút ra xa, cho pháo dập mới tiến vào được. Chúng ta không có quyền phung phí nhân mạng được đâu!

Chúng tôi quay nhìn lại: Tiểu đoàn trưởng Hinh tay cầm bản đồ, địa bàn đứng ngay sau lưng chúng tôi lúc nào không biết! Tôi vốn là đứa ít tự chủ, vội vàng đứng nghiêm, hai chân rập vào nhau:

- Chào Cậu giáo!

Thế là từ bữa đó, cả Tiểu đoàn biết được sự quan hệ giữa tôi và Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng.

Cũng tại mặt trận ấy, tôi bị thương, vết thương này làm tôi phải vĩnh biệt trận mạc Trong lúc chờ trực thăng tản thương. Anh Hinh đến ngồi sát bên tôi, lần đầu tiên, tôi mới thấy anh cười đùa, anh vỗ vỗ vào vai tôi:

- Nhà có một cậu con trai, xuất ngũ làm thừa tự là phải lắm rồi!

Tôi còn gặp anh Hinh hai lần nữa, một lần hôm đưa ma mẹ tôi. Một lần nữa, anh Hinh về gặp ba tôi để xin hỏi cưới chị Diễm, nhưng bị chị tôi cự tuyệt.

Cho đến cái ngày cả miền Nam tan vỡ. . .


LỜI KỂ CỦA CÔ Ý TÁ PHÒNG MẠCH BÁC SĨ QUÂN.

Ngay sau khi chiếm trọn miền Nam, tôi được bố đem tôi vào Sài Gòn. Sau này tôi mới biết, sở dĩ mẹ tôi cho tôi đi theo bố tôi vào đây, vì nghe nói, thời chia cắt đất nước, lúc chưa lấy mẹ tôi, bố tôi có chia tay với một mối tình lớn, mà người ấy bây giờ đang ở trong Nam! Hèn gì, ngay khi đặt chân vào “ Vùng vừa giải phóng”. Người ta từ cán bộ đến thường dân, chạy đôn chạy đáo mua gom những thứ mà, mới vài tháng trước đây thôi, họ nghĩ, chỉ có thiên đường mới có. Còn bố tôi thì cứ cầm một mảnh giấy, đi hết đường này đến phố khác để kiếm tìm cái gì mà tôi không thể biết được!

Bố tôi làm trong Ủy ban An ninh Nội chính, nên ông đã không ngần ngại cho tôi thâm nhập vào ngành y ( Vì tôi đang học y khoa ở Hà Nội) để theo dõi các y, bác sĩ của chính quyền Sài gòn đang phục vụ cho "cách mạng ".

. . Đó là những thời điểm mà dân chúng miền Nam, với không ít là những người dân thân Cộng, những người đã từng, mặt này hay mặt khác, đã giúp đỡ cho Cộng sản tiến chiếm miền Nam, thì bây giờ đã hoàn toàn vỡ mộng. Nhưng vẫn còn vô số những người mà trong muôn vàn thống khổ của người dân, họ đã ăn nên làm ra. Trong đó có bác sĩ Quân. . .

Thế là tôi được vào làm việc tại đây. Tôi có một chút nhan sắc, lại được biết bà vợ của ông bác sĩ có nhiều máu ghen. Đối với ông bác sĩ, đó là một nỗi khổ, nhưng đối với tôi. Nó là cái khiên che chắn cho tôi khỏi bị sự tấn công liên tiếp của ông chủ háo sắc.

Tôi cũng nói thêm, như rất nhiều trí thức bỏ ý niệm Quốc gia chạy theo Cộng sản, ông Quân đã làm tới Phó giám đốc của một bệnh viện lớn Ông đã được kết nạp vào đảng, và đã được mời chữa bệnh cho các đảng viên cao cấp. . .

Một buổi chiều cuối năm 1978, có một người phụ nữ hình dung tiều tụy nhưng rất đẹp, trong một bộ đồ bà ba đen sờn vai.

- Có lẽ chị khám bệnh lần đầu. Cho tôi xin chứng minh nhân dân để tôi làm hồ sơ bệnh án!

Người phụ nữ:

- Tôi chỉ muốn gặp Bác sĩ có chút việc riêng, xin chị cứ nói. . . Tôi là Diễm. . .

Bác sĩ Quân chạy ra, như một con hổ đói lâu ngày thiếu mồi, như không hề biết việc có mặt của tôi, bác sĩ Quân kéo tay người phụ nữ vào phòng. Vừa đi vừa thở hỗn hển.

- Anh đã nhắn em! Vào đây, vào đây anh giúp cho!

Người phụ nữ vừa khóc vừa phân bua:

- Xin anh hiểu cho: Không còn cách nào khác, tôi mới đến đây tìm anh!

Một tấm ván ép nhỏ ngăn cách phòng khám bệnh và căn phòng nhận bệnh, nơi tôi ngồi. Đủ để cho tôi, lần đầu tiên thấy người ta làm chuyện giới tính. Bác sĩ Quân bế thốc người phụ nữ đặt lên cạnh bàn. . . Tôi tròn mắt nhìn, đứng tim, mặt nóng bừng. Tôi run rẩy như đang có một ngọn lửa thiêu đốt ở trong người. Cho đến khi, người phụ nữ ấy vừa gạt nước mắt, vừa nhét một nắm tiền vào cạp quần, ống thấp ống cao, đi như chạy ra khỏi cửa. . .


LỜI KỂ THÊM CỦA TUẤN.

Sau ngày đội quân tinh nhuệ bị bức tử . Hai ông Trung tá, một trong ngành Cảnh sát, một Trung đoàn phó, thuộc Sư đoàn 5 BB. . . Là hai người thân nhất của gia đình tôi bị đưa đi cải tạo bằng chuyến tầu Sông Hương đầu tiên để ra Bắc. Gia đình tôi cũng như bao nhiêu gia đình khác, tan nát, khốn khổ vô cùng tận. . .

Cứ vài tháng một lần chị Diễm phải tìm người đến để bán những đồ đạc trong nhà, để lấy tiền ra Bắc thăm nuôi bố tôi và anh Hinh. Cách đây khoảng nửa tháng, gia đình lại nhận được tin ba tôi bệnh nặng, rồi lại được tin anh Hinh trốn trại, bị bắt lại, bị đánh đập, bị đem đi bệnh viện. Cái gì bán được thì gia đình đã bán rồi! Sau cùng, tôi phải đến mượn tiền anh Quân. Anh ấy không thèm nhìn tôi, lạnh lùng nói:

- Cậu bảo cô Diễm đến đây gặp tôi!

Đồng tiền lúc này đã vượt lên trên cả lòng tự trọng, trên mọi giá trị đạo đức và nhân cách. Lẽ dĩ nhiên chị ấy phải tới. . . Rồi một hôm, vợ ông ấy, đem hai cô em gái đến tận nhà tôi. . . Chị Diễm đã phải quỳ xuống khóc lóc van xin. Tôi ở trên lầu chạy xuống, nhào tới. Ba người đàn bà không dám làm dữ nữa, đứng trước cửa nhà tôi tru tréo cả tiếng. . .

Vào những lúc ấy. . Càng thương bố tôi, thương anh Hinh, thương chị Diễm, tôi lại càng thấm thía, càng hiểu vì sao bao nhiêu chiến sĩ quốc gia, bao nhiêu chàng trai dũng cảm như anh Hinh đã phải nằm xương gối đất, xông pha trước làn tên mũi đạn để bảo vệ cho miền Nam không lọt vào tay Cộng sản. Để hàng triệu người vô tội không phải sống lầm than như bây giờ.

Đang lúc gia đình tôi đi vào ngõ tắt không lối ra, thì nhận được tin của chị Kim Anh từ một trại tỵ nạn. Ngay tháng sau, chị đã mượn tiền người quen để gửi về cho gia đình. Chị Diễm thoát ngay cơn bĩ cực. Thỉnh thoảng, trên đôi mắt bồ câu lúc nào cũng như muốn khóc ấy. Đã có le lói những tia sinh khí. Chị đem tiền lên biếu mẹ anh Hinh, nhưng cụ bà không nhận. Khi chị kể chuyện chị Kim Anh đã đi thoát và gửi tiền về. Cụ quẹt nước mắt:

- Rồi ra, những người làm phải cũng sẽ được trời đất phù hộ độ trì. . .

Chị em tôi đang định chào cụ xin về, thì bằng một cữ chỉ như muốn ngăn lại. Cụ đi vào trong nhà. Một lúc sau đi ra, cụ vẫy chị Diễm đến gần:

- Con ơi! Đến đây mẹ bảo!

Cụ lấy ra một sợi dây chuyền, có tượng Phật màu xanh lá mạ, đeo vào cổ chị tôi:

- Thằng Hinh cứ tù biền biệt , mẹ biết sức mẹ không còn chờ nó được nữa rồi. Từ nay, con là con của mẹ. . .

Cụ lau nước mắt. Hai chị em tôi đều khóc.


LỜI KỂ CỦA NGƯỜI . . . KỂ CHUYỆN.

Tôi bị bạn bè cũng như độc giả, nhất là nữ độc giả thường chì chiết tôi về những câu chuyện không đầu không đuôi, lại không có hậu tôi thường viết đăng trên báo, có người còn nghi ngờ những tình tiết tôi dẫn chuyện. . . Và chính tôi cũng chẳng dựng nên truyện này, khi buổi sáng ngày hôm ấy : . . Tôi bị tù chung với Hinh ở Yên Bái, nằm ngay bên cạnh. Tôi và Hinh thân nhau có lẽ vì nỗi bất hạnh của chúng tôi na ná như nhau. . . Anh rất kín tiếng, nhưng khi đã thân rồi, anh đã kể cho tôi nghe về người cha đã chết trận, về một bà mẹ già đang bị thấp khớp, về một cô người yêu đang chịu những đắng cay ngoài đời. Tôi chỉ biết có thế. Cho đến một hôm. Tôi và Hinh cùng được gọi ra thăm nuôi một lúc. Tôi ngạc nhiên vì tôi vốn là một “ đứa mồ côi” Mồ côi có nghĩa là trong thời gian ở tù không được thư từ, thăm nuôi gì cả.

. . Có hai cánh áo bà ba đen vẫy chúng tôi từ đằng xa. . . Hinh ghé tai tôi nói nhỏ : "Có đứa em của Diễm đi theo, cậu nhớ nhận nó là thân nhân như đã ghi trong giấy thăm nuôi.”

Diễm được chỉ định ngồi trước mặt Hinh. Tôi và người em ngồi ngượng nghịu nhìn nhau. Người quản giáo ra lệnh :

- Các anh các chị bắt đầu quan hệ đi.

“ Người em” dúi cho tên quản giáo bao thuốc. Nó cầm ngay lấy, rồi đi đến cuối phòng, nơi có một khung cửa sổ trông ra vườn rau xanh, như một dấu hiệu cho phép chúng tôi tự do.

- Em là Kim Anh, em của chị Diễm.

Tôi đỏ mặt lúng búng. . . Cho đến bây giờ, khi vợ hỏi tôi:

- Sao bữa hổm, lần đầu gặp mặt, mặt anh cứ đỏ nhừ, ấp a ấp úng như thày vụng mất kim vậy?

- Em đừng có cười, tính từ ngày anh bắt đầu vào tù, cho đến ngày gặp em hôm ấy, gần ba năm trời. Anh mới được nói chuyện với người khác phái !

- Thế chị Thư. . .

Bỗng vợ tôi ngừng bặt, nàng biết ngay rằng, nàng đang chạm vào nỗi đau tận cùng của tôi. . Đó là lần duy nhất, vợ tôi nhắc đến tên một người đã bỏ tôi đi. . .

Vợ tôi hỏi tiếp:

- Thế lần đầu tiên gặp em, anh thấy em thế nào?

Tôi trâng tráo:

- Thì như anh đã nói, lúc ấy, ai cũng là tiên nữ cả thôi!

Sau này, tôi đã kể cho vợ tôi nghe về Thư, Thư đã rẽ sang đường khác, ngay sau khi tôi bước chân vào trại cải tạo, để bỏ lại mình tôi bơ vơ trong nỗi nhục nhằn của một người ngã ngựa. . Mẹ tôi đã già, các anh em tôi thì kiến giả nhất phận. Những ngày trại có cho thăm nuôi, là niềm vui to lớn của những người có thân nhân đến thăm, nhưng cũng là nỗi tủi thân khôn cùng của những người mồ côi. Thường thường vào những ngày đó, tôi cùng những anh em trong cảnh ngộ ấy, lủi thủi mang bàn cờ tướng ra những tảng đá vắng, tiéng là đánh cờ, chứ thực ra để chạy trốn những tiếng lao xao, những tiếng cười ròn rã, những mùi thơm ngào ngạt của đồ ăn, của mùi khói thuốc đê mê. . .

( Các bà, Xin tha lỗi! Trước kia, tôi cứ nghĩ chỉ có phụ nữ mới có thói hợm mình, khoe của, khoe hạnh phúc, nhưng đàn ông chúng tôi, đã ở chung với nhau trong hoàn cảnh như thế này, tôi mới thấy, những ý nghĩ trên là có chút khắt khe.)

Họ cũng đem đồ ăn chia cho chúng tôi, đem bánh kẹo ép chúng tôi ăn, nhưng trong cái nhìn xót xa đó, cũng có lấp ló những niềm tự hào, là mình có được bà vợ tần tảo, chính chuyên...

Những trường hợp ấy, dù cho cái bao tử xúi bẩy, tôi khéo léo từ chối, chỉ xin mấy điếu thuốc lào, cầm về chỗ ngủ rít vài hơi cho trời đất quay cuồng rồi ngã lăn ra ngủ.

Cho đến khi Kim Anh ra thăm tôi lần thứ hai, lần này, nàng cho biết, là lần cuối cùng trước khi nàng vượt biên.

(.Nếu các bạn còn được đọc những dòng chữ trên, ấy là do tính tham lam của người viết. Tôi đã tính bỏ chúng đi nhiều lần, viết quá nhiều chi tiết về một nhân vật phụ như thế là người viết đã vô tình lộ ra cái vụng về của mình rồi ) Vì thế, tôi xin trở về với những nhân vật chính:

Khi Kim Anh xem xong bản thảo, nàng băn khoăn:

- Chi tiết nào của anh cũng đều xác thực cả, chỉ có phần kể của cô ý tá, hình như không đúng! Anh đào ở đâu mà ra vậy?

- May quá, em đã giúp cho anh hoàn thành truyện ngắn này mà không sợ bị xúc phạm đến chị ấy!

Tôi cười giả lả với vợ tôi:

- Viết toàn chuyện thật, thì khác nào như viết nhật ký, câu chuyện sẽ nhạt lắm! Đoạn của cô y tá cũng là chuyện thật, lẽ ra anh phải để ở trên mới phải! Thể hiện một sự thật, cho gần giống như hư cấu thì chỉ nhà văn bậc thày mới làm nổi! Anh thì vốn không có cái tài phân cảnh như thế. . . ( Cho nên những đoạn sau, lẽ ra phải để trong: “ Lời kể thêm của cô y tá phòng mạch bác sĩ Quân”):

. “ . . Sau khi người thiếu nữ ấy bỏ đi, tôi như người bị lên cơn sốt. Tai tôi chỉ nghe thấy những tiếng ú ù như gió thổi, hai má tôi nóng bừng như đang ngồi bên bếp lửa. Toàn thân tôi căng cứng, tất cả tế bào trong như muốn bật văng ra khỏi cái cơ thể đầm đìa mồ hôi.

Bác sĩ Quân bước ra, trên gương mặt ông lộ ra vẻ thỏa mãn Ông nhìn tôi như nhìn một con mồi đã bị mắc bẩy. Ông lấy xe, phóng nhanh ra cửa.

Gần tối ông ta mới về, mặt đỏ bừng, toàn thân bốc ra mùi rượu.

Tôi nói:

- Tưởng bác sĩ không về. Tôi đã không nhận bệnh nữa!

Quân nheo mắt nhìn tôi, có lẽ hắn đã đọc được nỗi khao khát đang bừng bừng trong tôi!

Quân quàng tay qua vai tôi, kéo tôi vào phòng trong. . Lần này, tôi không chống cự nữa. Đến giờ này, tôi không còn nhớ được cái cảm giác đầu đời ấy ra sao nữa, nhưng tôi nhớ. . . Tôi đã khóc khi nghe Quân nói:

- Ủa, hóa ra em vẫn còn trinh cơ à?

Tôi nghe tiếng xe của Quân bỏ đi. . Tôi nhìn xuống dưới gầm bàn. . . Có một lá thư của một cải tạo viên từ miền Bắc gửi cho một người tên Diễm, chắc là tên người con gái buổi chiều đánh rơi. . .

Đêm hôm đó, toàn thân tôi đau nhừ, phần vì lần đầu tiên chung đụng xác thịt, phần nữa là vì một nỗi tủi nhục cứ như những đợt sóng ma, đập liên hồi vào thể xác và tâm hồn tôi. Tôi không ngủ được, rồi đem lá thư tôi lượm được ra đọc.

Tôi bật khóc khi xem xong lá thư ấy, rồi lại đọc lần nữa. Lời lẽ của một người tù gởi cho cô Diễm y như một dòng suối chảy trên những ghềnh thác, có những hạt cuội là những nỗi khổ đau triền miên của cả người viết lẫn người nhận! Họ còn chính khí lắm! Một đạo quân, gồm những sĩ quan như người tù này, làm sao lại thua trận được nhỉ? Một người tình hi sinh cho người mình yêu như cô Diễm, tôi đã thấy rất nhiều như thế ( từ ngày tôi đặt chân đến miền đất mà trước khi lên đường, tôi chỉ nghe những lời tuyên truyền xấu về ho. Sao lại bảo đó là một xã hội đồi trụy được nhỉ? )

Bác sĩ Quân bị mất chức Phó giám đốc bệnh viện. Trước đó, bà vợ ông đã bỏ ông ta, đem hai con đi vượt biên. Tôi nghiễm nhiên trở thành bà bác sĩ hờ.

Sau đó một năm, thấy không thể sống chung với chế độ mới được nữa Quân dẫn tôi vượt biên. Trước khi đi, tôi đã lần theo địa chỉ của bức thư để tìm đến nhà cô Diễm, lúc ấy, cô Diễm đã ra ngoài Bắc thăm nuôi. Tôi gửi lại anh Tuấn cuốn nhật ký của tôi. Tôi là đàn bà, tôi biết, những ý nghĩ và nỗi nhục nhằn tôi ghi lại những ngày đầu khi thất thân với người mình không yêu, của cả tôi và của cô Diễm chắc phải giống nhau. Tôi nghĩ, khi đọc lại những dòng tâm sự ấy, cô Diễm sẽ nhẹ đi sự dằn vặt, khổ đau”


LỜI KỂ CỦA BÀ MẸ.

Cậu là người Công giáo, chắc cậu không tin vào thuyết nhân quả đâu nhỉ? Tựu chung, cả một lý thuyết cao siêu vời vợi như thế, chỉ tom gọm vào có một câu cửa miệng của dân gian: Gieo nhân , gặt quả!

Ngay từ khi nó còn đi học, già đã cấm thằng Hinh chơi với cái thằng Quân ấy rồi . Thế nhưng, thằng Hinh cứ như bị bỏ bùa! Mợ Thận vẫn áy náy, về việc giới thiệu cho Hinh đến dậy kèm tại nhà ông Đức Thịnh, để dẫn tới việc thằng Quân lọt vào cái nhà ấy, nó làm cho gia đình nhà người ta tan nát. Nhưng, trời cũng có mắt cậu ạ, rồi người ác cũng bị đoản hậu mà thôi! Nghe nói sau này, vợ bỏ, mang cô y tá Bắc kỳ bẩy-mươi-lăm vượt biên, mất cả tăm cả tích. . .

. . Mãi cho đến năm 1986, thì thằng Hinh được tha, cái hôm cậu lên báo cho già, già cứ tưởng nằm mơ kia đấy! Nhưng thật tội nghiệp, sau khi ở tù ra. Đó lại là cả một thời kỳ xáo trộn về tâm lý. Cả ngày, cứ lầm lì như chó ăn vụng bột. Con Diễm ở bên thì không sao, nhưng nó mới về Nguyễn Thiện Thuật là cu cậu đã bồn chồn, đã cáu gắt rồi! Ngày xưa nó đâu có như thế?

Một hôm, già bảo nó:

- Phải tính làm sao đi chớ! Con người ta hi sinh cả một đời cho mình. . .

Hinh nó bứt đầu bứt tai:

- Mẹ bảo, con phải làm sao bây giờ? Cổ không chịu. . . Cô ấy bảo, không còn xứng đáng với con nữa! Chiều nay, cô ấy lên, mẹ nói giúp con một tiếng. Cổ rất thương mẹ.

Buổi chiều hôm ấy, già đã dự tính những câu để nói với con Diễm, thì thằng Tuấn chạy xe lên báo tin con Diễm bị xe tông, đang nằm nhà thương. Thằng Hinh đến nơi, chỉ để nghe Diễm nói được có mấy tiếng:

- Em bằng lòng lấy anh rồi. . . Nhưng,. . .

Rồi con Diễm mê đi, rồi cả hơn tuần sau mới được chuyển qua phòng hồi sức. . .

( Ghi chú của người viết: Hinh đi HO 30, trước đó một tháng, bà cụ qua đời)


KẾT.

Ngày nào cũng vậy. Đúng vào lúc chuông nhà thờ Tin lành ở góc đường Texas và Louisiana đổ, thì có một người đàn ông, tóc hoa dâm đẩy một chiếc xe lăn, trên xe là một thiếu phụ rất đẹp về hướng công viên Balboa. . . Thỉnh thoảng, người chồng dừng xe lại, cúi xuống âu yếm sửa cho vợ cái khăn quàng cổ, đó là một chiếc vải dù màu trắng của loại đạn 80 ly chiếu sáng.

Khi đến công viên, người đàn ông lấy ra một chiếc ghế xếp bằng vải, rồi hai người chụm đầu vào nhau nói chuyện, rúc rích như một cặp nhân tình.

Công viên có những hàng cây cao, nhìn về phía tây, những hôm trời lãng đãng sương chiều, chiếc cầu Coloredo ngoằn ngoèo, cao tít , có những đốm đèn xe màu đỏ, nối đuôi nhau, như một con rồng lửa. . Diễm thường chỉ cho chồng:

- Anh xem kìa, giống như những tia đạn lửa. . . đuổi nhau trên vòm trời đêm ngày xưa. . .

Hinh cũng thường âu yếm chỉ cho Diễm:

- Em có thấy, những ánh đèn lù mù chập chờn trong sương kia, y như những bóng hỏa châu, ủa quên! Như bóng thiên chương tỏa sáng qua những tháng năm chiến tranh, những thân phận lận đận ngày nào. . .

Hinh thường xoay cái xe cho đối mặt với anh, rồi anh dùng hai bàn tay xoa bóp đôi chân cho Diễm... Diễm xúc động nhìn chồng:

- Tội cho anh quá, biết bao giờ em mới khỏi được đây. . .

- Bác sĩ châm cứu bảo rằng, cứ cái đà này, thế nào em cũng đi lại được, nhưng mình đừng giận. . Ngày xưa, anh chỉ có một ước ao, khi nào chinh chiến tàn, sẽ bắt chước anh chàng Trương Vô Kỵ gác kiếm quy ẩn, cùng Triệu Minh lãng du quan ngoại, chăn ngựa, nuôi cừu, vẽ lông mày cho người yêu!

- Thương thay cho Triệu cô nương bây giờ đã bị phế bỏ võ công rồi. Còn anh chàng Trương thì phải cả ngày phải quần quật đi cầy, tối về còn phải hầu vợ. . .

- Với võ công như thế này, thế nào chàng ta chẳng tìm được thuốc giải cho vợ cơ chứ! Yên tâm đi muội muội!

Hai người cùng cười vang.

Bóng thiên chương của một thời xa vắng, từ vùng sương lạnh, lóe ra những hạt nhỏ li ti như những chiếc đèn cù bé tí, đang như muốn kéo cả những cơn dông gió cùng với hai người về nơi chân trời cũ của những ngày trận mạc, có tiếng súng nổ tứ phía, có tiếng hô xung trận, có tiếng phành phạch của trực thăng tản thương. . Về căn nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi đã lưu giữ của họ tất cả những ước mơ cùng nỗi niềm bất hạnh, căn nhà có khung cửa sổ nhỏ, có ánh trăng như những bóng hỏa châu huyền hoặc, vật vờ khắc khoải. . .

Nguyễn Trọng Hoàn
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

“Hòa bình rồi sao Ngoại chết chi dzậy!”
Hoàng Chính

“Chúng nó đến rồi! Chúng nó đến nơi rồi!” Bà hàng xóm – nhà ở tận cuối ngõ – vừa chạy từ đầu ngõ vào, vừa hớt hải gào không ra hơi.

“Đến đâu rồi?” Bà cụ nhà bên ngóng cổ ra khỏi cửa, hỏi.

Một tràng súng liên thanh lốp đốp nổ. Tiếng đạn chiu chíu bay, nghe như tiếng ai dùng móng tay tuốt sợi dây cước.

Bà hàng xóm đứng sựng lại, trợn tròn con mắt, hai tay ôm chặt lấy ngực, miệng há hốc ra thở, “Gần lắm rồi! Gần lắm rồi!”

Con bé em vừa chạy ra tới cửa, thụt ngay lại nhưng cũng cố ngóc cổ ra, “Gần lắm là ở đâu vậy bác?”

Người đàn bà lắc đầu quầy quậy, “Hết rồi! Hết cả rồi!”

Mẹ ở tận dưới bếp, gọi với ra, “Có vào phụ mẹ một tay hay không, con bé kia?”

Bố đi ra đi vào. Cái radio cầm chắc trong tay như sợ nó sẽ biến đi bất cứ lúc nào. Dưới bếp tiếng nồi niêu bát đũa chạm vào nhau lanh canh. Mấy đứa em luống cuống không biết làm gì. Tôi cũng đi ra đi vào. Rồi tôi đứng. Tôi cũng không biết làm gì. Tôi nhìn mẹ, nhìn qua bố, rồi nhìn lũ em. Qua cánh cửa mở toang. Tôi thấy những con ruồi bay vòng vòng. Vẫn những con ruồi của mọi ngày. Nắng vẫn lên cao trên khóm tre trước nhà. Con mèo vàng lại vừa bắt được một con gián từ rãnh nước trước nhà, nó tha con gián vào bậc thềm, thả cho đi, rồi vồ bắt lại. Bà hàng xóm vẫn đứng trước sân, cúi gập thân người xuống để thở. Miệng lẩm bẩm. “Hết thật rồi!”

Bà cụ nhà kế bên vẫn lom khom chờ câu trả lời của bà hàng xóm cuối ngõ. Con bé em cũng nóng ruột, đầu vẫn thò qua khung cửa, “Chúng nó đến đâu rồi bác?”

“Đến ngã tư chợ rồi! Chúng nó bắt…”

“Bắt ai hở bác?” Con bé em xớn xác.

Một tiếng nổ vang làm rung rinh những cành tre đang đu đưa trong nắng, phá vỡ cái lao xao buổi sáng. Người đàn bà ngồi thụp xuống sân. Hai tay kéo cái nón, che vội lấy đầu.

Con bé em chạy ra kéo người đàn bà, “Vào đây đi bác ơi.”

Người đàn bà đổ xuống trong cánh tay yếu ớt của con bé. Tôi chạy ra phụ với nó kéo người đàn bà vào nhà. Tôi nhìn lướt thật nhanh thân thể bà ta. Chỉ thấy lớp da nhăn nheo. Và mớ áo quần nhăn nhúm. Không chỗ nào loang đỏ. Không lạc đạn. Vậy là mừng. Nhưng thân hình gầy guộc của người đàn bà bỗng dưng nặng như cối đá. Chúng tôi ì ạch kéo bà vào nhà.

Cửa đóng sập lại. Bóng tối ập lấy căn nhà. Bố đứng ở góc nhà, loay hoay rà đài trên cái máy thâu thanh. Bố bảo cái đài bố đang nghe tự nhiên bị cắt mất. Tôi với con bé em đỡ người đàn bà ngồi xuống chiếc ghế đẩu.

“Chúng nó bắt ai hở bác?” Mẹ ngẩng đầu lên khỏi chỗ cơm đang vắt thành nắm, hỏi.

Người đàn bà vẫn ôm chặt lấy ngực, “Thanh niên. Chúng nó bắt thanh niên đi trước…”

“Để làm gì hở bác?” Con bé em tròn mắt.

“Để làm bia đỡ đạn chứ còn làm gì nữa!” Người đàn bà trừng mắt nhìn con bé.

Tôi chờ cái câu kế tiếp. Nhưng bà hàng xóm không nói thêm cái câu cửa miệng bà vẫn dùng để mắng thiên hạ. “Sao mà ngu thế!” Giờ phút này ngu hay không thì cũng cùng chung số phận. Tôi nghĩ.

Mẹ bỏ vội nắm cơm xuống đĩa, “Bắt thanh niên à bác?”

“Bắt thanh niên đi trước, chúng nó đi sau để lính mình không dám bắn…”

Ngực tôi thắt lại. Tôi nhìn bố. Bố nhìn tôi. Tôi đọc trong mắt nhìn của bố niềm tuyệt vọng của con bệnh trong phút lâm chung không nói lên được một lời trăn trối. Tôi nhìn mẹ, bắt gặp trong ánh mắt mẹ chao chao nỗi sợ hãi.

“Anh phải trốn đi thôi,” con bé em nói.

Mẹ lẩm bẩm, “Biết trốn đi đâu bây giờ?”

“Vào nhà thờ. Hồi Mậu Thân mình cũng vào nhà thờ đấy, có Chúa, có Đức Mẹ…” Con bé em nhanh nhảu. Dù hồi chạy loạn Tết Mậu Thân, mẹ còn bế đứa bé gầy như que củi là nó trên tay.

“Chúng nó mới pháo kích sập tháp chuông nhà thờ dưới ngã tư đấy!” Bà hàng xóm cảnh báo, tay vẫn chèn cái lồng ngực lép kẹp.

Tiếng rột roạt tĩnh điện phát ra từ chiếc máy thâu thanh của bố. Và giọng xướng ngôn viên xớn xác, ngột ngạt như người ngạt mũi. Rồi giọng ai đó đều đều như tiếng đứa con hoang đàng vừa mới trở về, đang lẩm nhẩm những lời tạ tội với mẹ cha.

Bố ép sát tai vào cái máy sắp hết bin.

Rồi bố bỏ cái máy thâu thanh quý giá của bố xuống bàn. “Bà ấy nói đúng. Hết rồi! Đầu hàng rồi!”

Và bố thở dài.

Mẹ nhìn tôi. “Phải đi thôi con à.”

Hồi nãy, trên đường chạy về nhà, tôi thấy người ta đổ xô ra đường. Chạy tới chạy lui, chạy xuôi, chạy ngược. Toàn người là người. Kẻ chạy hướng bắc, người chạy phía nam. Đông tây nam bắc chả còn đâu là phương hướng. Người ta réo gọi nhau trong tiếng súng lẻ tẻ vung vãi, trong tiếng đạn pháo kích bất kể nơi nào, trong tiếng động cơ gào rú của những chiếc xe nhà binh mà trên ấy chất đầy những người không mang áo lính; giữa khói đen mịt mù, trong mùi khét của nhà cửa bị cháy thiêu, của thịt người bị đốt.

Tôi cắn môi, “Biết đi đâu bây giờ?”

Biết đi đâu bây giờ! Câu hỏi chạy vòng quanh trong đầu.

Nhưng rồi chúng tôi cũng tìm được câu trả lời.

Mẹ chèn nắm cơm trong cái hộp nhựa. Gói giấy nhỏ đựng muối mè nhét một bên. Một cuốn sách giáo khoa, The Merck Manual; sách gối đầu giường của sinh viên trường Y. Và mẹ làm dấu Thánh Giá lúc tôi đẩy chiếc xe gắn máy ra khỏi cửa. Tôi vừa đạp máy, sắp sửa sang số thì mẹ gọi giật lại, “Còn quên cái này!”

Con bé em chạy ra quàng cái ống nghe lên vai tôi. Nó vẫn thích hình ảnh anh mình mặc áo blouse trắng, ống thính chẩn vắt ngang vai. “Cẩn thận nhé anh!” Con bé dặn. Tôi thoáng thấy tia nhìn đục ngầu lo âu trong mắt nó. Tôi gật đầu, gỡ cái ống nghe xuống, nhét vội vào cái túi vải. Và tôi lao mình vào cái hỗn loạn chưa từng thấy.

Sài Gòn của tôi đang hấp hối. Việt Nam của tôi đang đổ xiêu vào phút sinh thì.

Người và người. Trước mặt đầy người. Sau lưng cũng chật cứng những người. Tôi luồn lách trên đường phố chật cứng những người và xe cộ. Những chiếc xe hung hãn leo cả lên lề đường, cán nát những khóm hoa. Những chiếc xe cuồng nộ lủi vào những chiếc xe gắn máy chạy chậm phía trước. Người ngã gục. Những vòi máu phun tung tóe mặt đường tráng nhựa. Máu tuôn vào những ổ gà trên phố. Máu kéo thành những vệt dài đến những khung cửa đóng chặt. Những chiếc xe phóng như bay trên phố, với bọn rừng rú đeo băng vải màu đỏ ở cánh tay này, và súng AR-15 hay AK-47 ở tay kia. Những tràng đạn bắn lên trời. Tiếng súng lẫn vào tiếng hò hét của những con thú sổng chuồng.

Tôi vào bệnh viện. Bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu chết ở giờ phút cuối cùng của chiến tranh. May ra tôi có thể cứu được một vài người. Những con người vô tội. Tôi vội vã khóa cổ, khóa chân chống chiếc Honda Dame bố mẹ mua cho ngày thi đậu vào trường Y trong bãi đậu khu sinh viên thực tập, và tất tả băng qua sân bệnh viện. Một tràng đạn nổ dòn. Tôi cúi đầu tuông chạy. Tiếng đạn xé gió trên cao. Lũ lâu la nhặt được súng, chuyền tay nhau bóp cò. Tôi len lỏi, luồn lách giữa đám người xớn xác trong hành lang bệnh viện, chạy vào phòng cấp cứu. Tôi trượt chân trên vũng máu loang cửa phòng cấp cứu, loạng choạng vung tay đập vào thành cửa đau nhói.

Một dãy xác người nằm nghiêng ngả trên nền nhà loang lổ. Tôi trợn tròn mắt nhìn. Những thân người nhúc nhích. Không phải là xác chết. Không có ai chết. Hay đúng hơn là chưa có ai chết. Những hình người đứng, ngồi nhấp nhổm trên những thân xác co quắp hay duỗi dài trên nền gạch hoa lấm lem. Tiếng rên rỉ, tiếng la hét, tiếng réo gọi, tiếng khóc trộn lẫn nhau thành một khối kinh hoàng.

Một người đàn ông khoác áo choàng trắng đang loay hoay trên một xác người. Những dây truyền nước biển đan vào nhau rối mắt. Người đàn ông khoác áo choàng trắng ngước lên. Chúng tôi nhìn nhau. “Vào tìm thêm nước biển, mau lên!” Người đàn ông nói như gào.

Tôi cuống cuồng luồn lách giữa những thân người.

Kéo vội cái ống nghe, quăng đại cái tủi vải vào góc phòng, tôi cuống cuồng khoác chiếc áo blouse lên người.

Một cô gái khoác áo blouse trắng loang máu đỏ hình dạng bàn tay với những ngón dài vạch trên lưng áo. Cô đang xớn xác mở tung những ngăn tủ đựng thuốc và dụng cụ y khoa. Tôi chạy đến bên cạnh. “Còn nước biển không?”

“Hết sạch rồi!” Cô gái quay lại nhìn tôi, cánh tay buông thõng hai bên thân người. Tôi nhìn vào từng ngăn tủ trống trơn. Bao nhiêu là chai đựng nước biển, bao nhiêu là bọc plastic chứa dịch truyền, tất cả đều đã hết sạch.

Tôi chạy ra chỗ người đàn ông, cố tránh để không dẵm lên những thân người vặn vẹo, “Hết sạch rồi!”

Người đàn ông vẫn loay hoay làm hô hấp nhân tạo cho một bà cụ. Tiếng khóc tiếng la xớn xác từ hành lang đổ vào cửa phòng cấp cứu. Hết thuốc, hết nước biển, hết tất cả mọi thứ mà bệnh nhân càng lúc càng đông.

Tôi ngồi xuống bên cạnh người đàn ông áo trắng. Tôi đọc vội cái tên thêu bằng chỉ đỏ trên túi áo anh. Bác Sĩ Phước. Bà cụ mà anh làm hô hấp nhân tạo vẫn trợn trừng hai con mắt, và thân thể cứng đờ.

“Em đi tìm thật nhiều vỏ viết BIC nhé. Mình làm tracheotomy!” Bác sĩ Phước nói.

Tôi đứng bật dậy. Cô gái khoác áo blouse trắng chạy tới bên chúng tôi, “Hết sạch rồi!”

Hết rồi; hết sạch rồi! Điệp khúc ấy vang vọng suốt phần đời còn lại của tôi.

Tôi nhìn ngôi sao thêu bằng chỉ đỏ trên ngực áo cô gái. Cô sinh viên năm thứ nhất. Tôi nhìn qua anh bác sĩ đang vuốt mắt cho bà cụ. Giờ này người ta chạy ra bến tàu, chạy vào Tòa Đại Sứ Mỹ. Anh với cô sao lại ở đây? Và tôi nữa, cậu sinh viên y khoa với ba ngôi sao trên túi áo, sao lại chạy vào đây?

Chúng tôi lục lọi tất cả hộc tủ, chúng tôi chạy lên các trại bệnh. Nhân viên y tế đi đâu hết cả thế này! Chúng tôi mở banh những hộc tủ và lục soát hung hăng như hai đứa cướp cạn. Gom tất cả những cây bút nguyên tử, chúng tôi tháo ruột bút bỏ lại, chỉ lấy cái vỏ ngoài. Bao nhiêu là bệnh nhân bị thương tích ở mặt, ở cổ, ở ngực… đường hô hấp bị tắc nghẽn. Để vậy nạn nhân sẽ chết ngạt. Chúng tôi dùng dao mổ khoét một lỗ ở cuống họng, chúng tôi nhét cái vỏ bút BIC vào khí quản. Bệnh nhân (hay nạn nhân) thở khì khọt qua cái vỏ bút BIC. Biết đâu rồi họ sẽ sống sót, qua cái thời khắc ngặt nghèo.

Chúng tôi chạy tới chạy lui, chạy lên chạy xuống. Chúng tôi quên thời gian, chúng tôi không biết đói, chúng tôi không còn thấy mệt. Áo blouse của chúng tôi đỏ lòe đỏ loẹt. Chúng tôi nói bằng giọng khao khao không còn hơi hướm. Chúng tôi không còn thuốc men, không còn nước biển. Nạn nhân mất máu chúng tôi khâu vết thương cho máu thôi chảy; hết chỉ để khâu, chúng tôi dán mép vết thương bằng băng keo; hết băng keo, chúng tôi xé áo, xé quần họ làm băng; nhưng không có nước biển chúng tôi đành truyền cho nạn nhân và thân nhân họ niềm hy vọng.

Một trái đạn pháo kích nổ đâu đó thật gần. Đất cát và mảnh đạn ném rào rào vào kính cửa sổ phòng cấp cứu. Tai tôi điếc đặc không biết bao lâu. Tiếng khóc bên ngoài nghe mịt mù xa xăm như vọng lại từ cõi khác. Lại những thân người được kéo lê trên nền nhà nhơm nhớp máu.

Tôi nhìn khu vườn kinh dị của những vỏ cây bút BIC mọc tua tủa lên từ những cổ họng con người. Khi cơn điếc đặc đã loãng đi, tôi thấy tôi chìm vào vùng âm thanh khọt khẹt tiếng thở đọng đầy đàm nhớt và máu từ những lồng ngực rạn nứt, qua những khúc cây nhựa màu trắng mọc lên từ những cổ họng khẳng khiu chen chúc giữa những bàn tay co quắp, cạnh những thân người tay xuôi tuyệt vọng.

Tiếng khóc rộn rã. Tiếng khóc của một cô gái nhỏ ùa vào phòng cấp cứu. Một người đàn ông và một người đàn bà kéo lê một thân người đã rũ xuống như hình nộm nhồi bông mà bông gòn bên trong ai đó đã moi ra hết. Cô gái – đầu tóc rối bù – lếch thếch bám theo cái hình nhân ấy.

Tôi nhìn quanh. Anh bác sĩ đang lúi húi cạnh một thân người. Cô sinh viên năm thứ nhất đang kiểm soát rừng cây bút BIC mọc trên cổ những thân người. Tôi nhìn cái hình người mà thân nhân vừa đẩy hai thân người nằm trên nền nhà sang hai bên lấy chỗ đặt xuống nền gạch bông loang máu. Tôi vạch mắt ông cụ. Con mắt trắng đục. Đồng tử dãn hết rồi. Tôi đặt ống nghe lên những chiếc xương sườn. Không có tiếng động nào ngoài tiếng đạn réo từng chặp bên ngoài, tiếng khò khè từ rừng cây bút BIC và tiếng khóc sụt sùi của cô gái. Tôi tìm động mạch cổ, tôi tìm mạch cổ tay. Tất cả lạnh băng và tĩnh mịch. Cái im lặng đáng sợ của Tử Thần.

Tôi ngước lên nhìn người nhà của ông cụ. Tôi không biết nói gì với họ. Rồi tôi lại nhìn xuống cái thân người khô khốc. Rồi tôi lại đặt tay lên cái lồng ngực trần trụi. Băng giá xoáy vào bàn tay tôi, len vào từng lỗ chân lông, buốt lạnh. Muộn rồi. Hết rồi!

Và tôi chống tay đứng dậy, hai mắt hoa đi trong giây lát. Cô gái lại khóc òa. Tôi nhìn cái bóng nhòe nhoẹt của cô. Khuôn mặt mếu xệch thảm thương. Chợt hai bàn tay mỏng mảnh vồ lấy hai mép cổ áo blouse tôi, giằng giật như người đi đòi nợ. “Bác sĩ cứu giùm Ông Ngoại em! Bác sĩ phải cứu Ông Ngoại em!”

Rồi hai bàn tay mỏng mảnh ấy buông cổ áo tôi ra, cái dáng nhỏ ấy ngồi thụp xuống bên xác ông cụ, “Ngoại ơi, hòa bình rồi mà Ngoại chết chi dzậy! Hòa bình rồi mà!” Và tiếng khóc nức nở ấy loang ra, bồng bềnh như con sóng, tràn ngập không gian phòng cấp cứu.

Tôi đứng đó. Tôi biến thành tượng đá. Tôi muốn hỏi cái hình người đang nằm trên nền nhà phòng cấp cứu, kế bên chỗ tôi đang đứng, và bao nhiêu người đang ngổn ngang trên nền gạch bông loang máu rằng hòa bình rồi, sao lại bỏ đi như thế!

Bất chợt cô gái đứng dậy, và lại vồ lấy hai mép cổ áo blouse tôi, giằng giật và nhìn thẳng vào mắt tôi, con mắt đen tròn tung tóe những tia lửa hận, “Bác sĩ tàn nhẫn lắm! Bác sĩ hổng cứu Ngoại tui! Ngoại tui chết là tui bắt thường bác sĩ cho coi!”

Tôi không cưỡng lại đôi cánh tay con gái. Tôi nín thở. Tôi lắc lư như gã bù nhìn quăng quật trong gió chướng. Người đàn ông có hai con mắt sâu hoắm tần ngần nhìn những thân người xếp lớp dưới chân. Những nếp nhăn chợt mọc đầy vầng trán. Người đàn bà để mặc nước mắt lăn dài trên má. Khi cơn gió thôi quăng quật, gã bù nhìn tôi lặng lẽ đứng nhìn. Cô gái buông tôi ra, quay qua người đàn bà, “Đưa Ngoại về cho rồi! Ở đây làm chi nữa!”

Ba người lại nhùng nhằng với cái thân thể gầy guộc của ông cụ. Họ len lỏi giữa những thân người la liệt trên nền gạch bông trơn trượt. Hai bàn chân đen đúa của ông ngoại cô gái kéo lê trên nền gạch, để lại một vạch màu nâu nhợt.

“Hòa bình rồi Ngoại ơi, hòa bình rồi, mắc mớ chi Ngoại chết Ngoại ơi!” Giọng con gái loãng ra và chìm dần vào vũng âm thanh hỗn độn cuối ngày.

Vài ống bút BIC bị nghẹt vì máu đọng, cô sinh viên tất tả đem vào nhà vệ sinh để thông cho hết nghẹt. Tôi nhìn những thân người sắp lớp cạnh nhau rồi quay qua anh bác sĩ, thì thầm, “Những người chết, mình phải làm sao đây?”

Anh bác sĩ khẽ lắc đầu. Và tôi biết mình hỏi cho có hỏi, thế thôi. Đừng để người đang chiến đấu với Tử Thần phải nằm cạnh những người đã chết. Tinh thần của họ bị ảnh hưởng và họ sẽ suy sụp nhanh chóng. Ai mà chẳng biết điều đó. Nhưng biết làm sao bây giờ. Ngày Sài Gòn hấp hối. Chúng tôi đếm không hết những người đã chết ngoài hành lang, trong phòng cấp cứu bệnh viện. Và phố xá ngoài kia. Và ở khắp nơi trên miền Nam nước Việt. Ngoài những tiếng cầu kinh rời rạc của thân nhân, không Linh Mục nào có mặt để xức dầu thánh cho họ, không Thượng Tọa, Đại Đức nào hiện diện để đọc cho họ một câu niệm Phật cuối đời, không bác sĩ nào có mặt để ký cho họ mảnh giấy khai tử. Chúng tôi ở đó. Một bác sĩ, một sinh viên y khoa năm thứ ba, một sinh viên y khoa năm thứ nhất. Chúng tôi sắp kiệt sức, sắp ngã gục vì kiệt sức, cũng có thể chúng tôi sẽ chết banh xác vì một trái hỏa tiễn 122 ly người ta bắn vào thành phố để dằn mặt những ai kháng cự.

Chập tối, tôi ra trước sân, tò mò nhìn những chiếc T-54 rầm rộ cày nát đường phố. Toàn thân nhức mỏi, tôi đi vào bãi đậu xe, bởi tôi không biết phải đi đâu. Hai gã thanh niên đang lẩn quẩn bên chiếc Honda Dame. Chúng làm gì với xe tôi thế này. Một đứa đỡ nghiêng chiếc xe qua một bên, đứa kia chĩa mũi súng M-16 vào ổ khóa. Rồi chúng dắt xe của tôi đi. Tôi thản nhiên đứng nhìn. Và tôi lủi thủi lẫn vào đám đông đang lũ lượt đi lên, đi xuống, đi qua, đi lại.

Phòng cấp cứu tanh nồng. Tiếng rên đan lẫn vào nhau, như tiếng côn trùng, tiếng giun dế sau cơn mưa. Cái ống nghe ban nãy để trên bàn làm việc, bây giờ mất đâu rồi. Một người đàn ông lảo đảo bước vào, dẵm lên cả những thân người xếp lớp trên nền nhà. Anh ta mặc độc một chiếc quần lính trận, bàn chân trần trụi lấm lem bùn đất. Cái thân người ấy áp chặt bàn tay lên một bên má đã lõm sâu, máu ứa qua những kẽ ngón tay. Máu đỏ loè trên ngực. Tôi đỡ vội lấy thân người ấy.

Tôi không biết tên người thanh niên ấy. Tôi không kịp hỏi anh ta câu nào hết. Vậy mà anh ta cũng cố lết được vào tới phòng cấp cứu. Chắc anh ta nghĩ bệnh viện là chỗ an toàn. Như hồi sáng mẹ tôi nghĩ vậy.

Tôi về nhà để bố mẹ và bầy em yên lòng. Xe tăng đã vào thành phố nghĩa là bọn họ không cần ai làm bia đỡ đạn nữa. Hơn nữa ở lại bệnh viện tôi cũng chẳng còn sức để làm bất cứ thứ gì. Tôi đón xe lam về nhà. Không dám nói cho bố mẹ biết là đã mất xe và mất cả ống nghe. Nhưng chuyện mất xe thì không giấu được. Tôi nhớ mãi những tiếng thở dài của bố mẹ. Bố mẹ chắc cũng nghĩ như tôi rằng những mất mát của mình có thấm vào đâu so với cái mất mát của của bao nhiêu con người trên nửa quê hương này.

Và tôi cũng không dám kể lại rằng có người nhà bệnh nhân níu áo tôi, bắt đền.

Buổi sáng hôm sau tôi cọc cạch xe đạp trở lại bệnh viện. Tôi vào chỗ giữ xe cho sinh viên thực tập. Một cô gái chặn tôi lại. Giọng nói hằn học, “Đi đâu vậy?”

Tôi nhanh nhảu, “Tôi đi thực tập. Tôi là sinh viên Y Khoa.”

“Đem xe đi chỗ khác.”

“Chị là ai vậy? Cái anh mọi khi vẫn giữ xe ở đây đâu rồi?”

“Tôi là sinh viên chi đoàn Văn Khoa.” Cô ta nói và giơ tay lên cho tôi thấy băng vải đỏ viền quanh cánh tay. Chi đoàn Văn Khoa. Tôi lạc hậu quá rồi. Cái tên chưa bao giờ bắt gặp.

Tôi nhì nhằng, “Lúc trước tôi vẫn gửi xe ở đây.”

“Bây giờ khác rồi!”

Tôi lầm lũi bỏ về. Tôi nhớ mãi câu nói ấy. Tôi nhớ mãi cái giọng gầm gừ của một sinh vật vừa mới gỡ bỏ cái vỏ duyên dáng của nữ sinh viên Văn Khoa Sài Gòn. Bây giờ khác rồi!

Mấy mươi năm qua, tôi vẫn không quên chốn ấy. Cái bệnh viện mà tên mới Trung Tâm Thực Tập Y Khoa luôn phải kèm theo tên cũ Nguyễn Văn Học khi chỉ đường cho ai đó. Tôi cũng nhớ hoài anh bác sĩ với cái tên vỏn vẹn một chữ Phước và cô sinh viên Y Khoa năm thứ nhất – mà hôm ấy – tôi không có thời gian và không còn tâm trí để đọc tên.

Ơi, những con người có tấm lòng nhân ái ấy! Mong họ được bình yên.

Và tôi vẫn tự hỏi sẽ nói gì với cô gái níu cổ áo tôi năm xưa, nếu như tình cờ gặp lại? Còn cái cô sinh viên Văn Khoa đeo băng đỏ ở chỗ gửi xe bệnh viện ngày cuối tháng Tư năm ấy, giờ này cô ấy ở đâu? Và dây băng đỏ đeo trên cánh tay có còn cất kỹ trong một ngăn ký ức?


Thứ Bảy 20 tháng Tư, 2019.
Hoàng Chính
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Hình Tượng Người Mẹ Việt Nam
Lòng Mẹ! Hai tiếng hết sức ngọt ngào và thiêng liêng làm sao! Tình mẫu tử này được gắn kết bằng sợi dây huyết thống, sự sống của con gắn liền với sự sống của mẹ; tình cảm ấy mang đầy lòng yêu thương, chan chứa vô bờ, chỉ ban phát mà không mong cầu đáp trả. Các bà mẹ nói riêng, là những người mang lấy nhiều nỗi thiệt thòi và bất hạnh. Nhưng lại là những người gánh vác vai trò làm mẹ hết sức cao cả.

Con trưởng thành trong vòng tay cưu mang và che chở của mẹ, trong những lời ru dạy bảo ân tình của mẹ cho con lúc còn thơ ấu, dẫn dắt con từng bước vào đời. Con là một phần thân thể và linh hồn của mẹ, con khổ là mẹ khổ, con khóc lòng mẹ sầu mà con nào có biết đâu!
Cả nước cũng có hàng triệu bà mẹ đã lặng lẽ giấu đi những giọt nước mắt để nhìn những đứa con thân yêu của mình ra trận, chiến đấu vì, tự do dân chủ của đất nước.

Đối với những bà mẹ phải tiễn con ra trận, sự hy sinh đó không chỉ dừng lại ở nỗi mất mát những đứa con, mà còn gắn liền với việc phải hy sinh luôn cảm xúc người mẹ muốn che chở cho con mình được an toàn của họ.
Những bà mẹ vẫn khắc khoải, những vết thương tâm đã hằn sâu trong lòng mẹ, nỗi đau đớn không bao giờ vơi; bao nước mắt của mẹ đã rơi để khóc tiễn đưa những đứa con yêu của mẹ đã ngã xuống ngoài chiến trường, nỗi đau của "đầu bạc đã phải khóc tiễn đầu xanh".

Ở hậu phương, có bóng hình người mẹ, người vợ vẫn ngày ngày đợi chờ các con, để rồi lại giấu nỗi đau vào tim khi được tin các con mãi không trở về. Nước mắt mẹ không còn, vì khóc những đứa con, lần lượt ra đi, đi mãi mãi. Mẹ là kho tàng yêu thương hạnh phúc, là tàng cây bóng mát che chở cho con nương náu trong những lúc vấp ngã hay cô đơn thất vọng, con lại tìm về suối nguồn yêu thương ấy để được nghe những lời an ủi, khuyên răn vỗ về sưởi ấm lòng con.

Các con bị thương sau khi rời quân y viện lại về trong vòng tay mẹ chăm sóc cho đến ngày trở về đơn vị. Mẹ trở thành điểm tựa ở mọi ngã đường của những người chiến sĩ.

Đất nước Việt Nam trải qua bao cuộc trường chinh khói lửa, mẹ đã gánh cả giang sơn trên đôi vai gầy, đi suốt chiều dài lịch sử. Từ những bà Trưng, bà Triệu cưỡi voi ra trận, đến nữ tướng Bùi Thị Xuân làm khiếp đảm quân xâm lăng.

Những nữ tướng đã mở đầu cho trang truyền thuyết về người mẹ Việt Nam anh hùng. Truyền thuyết ấy cứ dài thêm bất tận bởi những con người sống mãi và đẹp mãi với thời gian. Vẫn biết chiến tranh là mất mát, hy sinh, những nỗi đau trải dài trên thân thể đất nước và đi vào ngóc ngách của cuộc sống.

Ngoài sự mất mát về vật chất, nỗi đau lớn nhứt vẫn là nỗi đau tinh thần đã dằn xé và đeo bám mẹ cho đến ngày hôm nay và mãi mãi. Ta không thể nào cảm nhận được nó. Vợ mất chồng, mẹ mất con. Một mình mẹ đã gánh cả giang sơn to lớn trên đôi vai gầy mà không hề quỵ xuống.

Đối với dân tộc ta, Mẹ Việt Nam từ ngàn đời luôn là biểu tượng cao quý của sự dịu dàng, tấm lòng nhân hậu, bao dung, đức tính kiên trung. Hình ảnh người mẹ đã đi vào trang sách em thơ, đi vào lời ru câu hát, những vần thơ thắm đượm tình người.

Trong khi chúng ta đang say vùi trong giấc ngủ ngon lành của tuổi thơ, ngay cả khi chúng ta đang ngồi chiểm chệ trên chiếc ghế chủ tọa,… có biết chăng các người mẹ của chúng ta đang vật lộn với cuộc sống, tần tảo kiếm từng đồng tiền bát gạo nuôi ta ăn học, rạng rỡ công danh với đời.
Mẹ đã đùm bọc cho những đứa con đang ngày đêm đối diện với giặc xâm lăng. Phía sau lưng, nơi quê nhà yêu dấu, người mẹ là hậu phương vững chắc nâng bước chân cho người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao. Nỗi nhớ về hình ảnh người mẹ mang trên vai mình bao nỗi đắng cay đã chuyển thành niềm tin và sự lạc quan cho những người con tiến lên phía trước.

Tình Mẹ! Một thứ tình cảm luôn che chở, cưu mang, bao dung, độ lượng,…; luôn hy sinh, cam chịu trong mọi hoàn cảnh.

Ôi, tình mẹ quê hương đất nước quả thật cao vời! Mẹ đã hoá mình vào đất nước, quê hương. Mẹ của chúng ta cũng chính là bà mẹ Việt Nam. Trong thời chiến, cha phải mang trên vai chí nam nhi nơi chiến truòng lửa đạn. Mẹ một mình gồng gánh nuôi con, vượt qua mọi hiểm nguy, ômcon chạy giặc.

Trong cảnh mạng sống bị đe doạ, ta lại nhìn thấy hình ảnh mẹ cao cả, bao la,… sự che chở an toàn cho con trong phút giây hiểm nguy nhứt. Thật cảm động, hình ảnh của nhiều người mẹ đã ngã gục bên đường, lấy thân mình che đạn cho con.

Dẫu có bao nhiêu nhọc nhằn gian lao, mẹ sẵn sàng đón nhận miễn sao cho con mình được khôn lớn trong sự bình yên hạnh phúc. Mẹ mong saocon mình thành nhân, phải sống cho có nghĩa, cho dù phải đánh đổi cái giá quá đắc cho đời mình.

Cứ chiều chiều, mẹ lại nhìn ra đầu ngõ, trông chồng đợi con, đôi mắt sâu thẳm của mẹ u buồn trong nỗi niềm khắc khoải nhớ thương, hoài vọng những đứa con trở về.

Trong khi chiến tranh mẹ trở thành điểm tựa tinh thần ở mọi ngã đường của người chiến sĩ, trong những lúc gian nguy nhứt, đau đớn nhứt lại tìm được điểm tựa vững chắc về tinh thần ở nơi mẹ.
Nỗi đau mất mát những người con ruột thịt quá lớn. Nén nỗi đau, hàng ngày mẹ nâng niu, trân trọng kỷ vật còn sót lại của con trai, lấy đó làm niềm tin tiếp tục sống, chờ ngày hòa bình để gặp lại các con.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau, hậu quả của chiến tranh vẫn đọng lại. Trong chiến tranh, những người mẹ đã hy sinh cả tuổi thanh xuân và những gì yêu quý nhứt của mình. Nỗi đau quá lớn của người và nỗi cô đơn mà mẹ phải đối mặt trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.

Trong sự mất mát chia lìa bởi chiến tranh, người mẹ nào chẳng khóc đau
xé lòng vì con mình hy sinh trong trận mạc, dẫu biết chiến tranh nghiệt ngã sinh tử là điều không tránh khỏi, nhưng tình mẫu tử khiến nước mắt mẹ không còn để khóc những người con lần lượt ra đi, đi mãi mãi. Nấm mồ này cỏ chưa kịp lên xanh, mẹ lại phải đắp thêm nấm mộ khác.

Khói lửa chiến tranh tan rồi, còn lại hình bóng người mẹ hiền cô đơn trong hoàng hôn cuộc đời.
Hình ảnh một người mẹ đầu tóc bạc phơ lăn dài nước mắt ở nghĩa trang trong ngày Tết mới càng thấm thía với sự hy sinh của cả một dân tộc và vết thương lòng của những người mẹ vẫn còn hằn sâu theo tháng năm dùcuộc chiến đã lùi xa hơn 40 năm.

Tấm lòng của mẹ ngày đêm hướng về chiến trận - nơi có mấy người con bà dứt ruột sinh ra nhưng vì tổ quốc phải từ biệt mẹ tham gia chiến đấu chống xâm lăng. Khói lửa chiến tranh qua rồi, cả mấy con mẹ đều gởi lại tuổi xuân ở chiến trường, còn lại một mình mẹ thôi.

Nỗi đau thương vẫn còn len lỏi âm thầm trong căn nhà nhỏ, nơi mẹ và các con của mẹ cùng chung sống. Cũng không biết bao lần, mẹ đứng ở đầu ngõ trông về phương xa.
Mỗi ngày người mẹ ngồi bên mâm cơm với mấy cái chén và mấy đôi đũa, ở giữa là bình nhang nhắc tên từng đứa con đã hy sinh khiến tim chúng ta nghẹn lại vì cảm động.

Chúng ta khó cầm được nước mắt, đó là khi mẹ đến bàn thờ với hai bàn tay nhăn nhúm của mẹ để lên từng bức hình, rồi sờ lên đầu, lên mắt các con. Mẹ áp má lên di ảnh con mình. Nỗi đau vẫn còn đó trong lòng, nhưng các mẹ cũng hiểu, sự hy sinh to lớn của con mình chính là để bảo vệ chủ quyền của tổ quốc.

Có một khoảng trống lòng mẹ không bao giờ lấp đầy được, một nỗi hiu quạnh không bao giờ ấm lại, nỗi buồn đau không bao giờ dứt.
Đến nay khi mẹ đong đầy nước mắt, mẹ mới nhận ra rằng đó là những gì mẹ không bao giờ quên được.

Cuộc chiến đã lùi xa, nhưng mẹ vẫn đau nỗi đau xé lòng, buồn nỗi buồn
khôn cạn, sống với kỷ niệm không phai, hình ảnh không mờ của những người thân yêu nhứt, càng ngày mẹ càng héo hắt, vầng trán mẹ thêm nhiều nếp nhăn, lưng mẹ còm cỏi và yếu dần theo năm tháng.

Cảm ơn cuộc đời này vì đã cho chúng con được là con của các mẹ! Chúng con luôn hướng về gia đình, hướng về mẹ. Mẹ mãi là vòng tay ấm áp và bình yên của các con.

Con cám ơn mẹ vì những gì mà mẹ đã làm cho con, vì những khó khăn, vất vả mẹ đã phải vượt qua để nuôi nấng con. Nhờ mẹ mà con mới trở thành một người như hôm nay. Cám ơn mẹ vì tất cả. Con yêu mẹ!
Mẹ là quà tặng vô giá mà cuộc đời dành cho chúng ta -những đứa con thân yêu của mẹ .

Cổ Tấn Tinh Châu
Tháng 5 năm 2019
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Mưa Bên Đời

Đỗ Bình

Từ độ quê nghèo yên khói lửa,
Mẹ ngồi khắc khoải đếm sương khô.
Núi sông phảng phất mùi thây rữa,
Vất vưởng hồn oan chẳng nấm mồ!
(Tử Sĩ - ĐB)

Mưa Paris chiều nay làm tôi gợi nhớ về những chiều mưa trên quê hương, những cơn mưa chợt nắng Sài Gòn, những ngày mưa lê thê Phố Huế, mưa lạnh trên Cao Nguyên và cơn mưa phùn Hà Nội của thuở xa xưa lúc còn bé. Đang thả hồn bay bổng trong những kỷ niệm đẹp hồn tôi bỗng se lại vì chợt nhớ cơn mưa chiều năm ấy. Những hình ảnh cũ hiện ra như một khúc phim của một quãng đời tưởng đã nhạt phai theo thời gian nhưng nó vẫn ẩn trong tiềm thức. Chiều năm ấy màu hoàng hôn đầy mây xám, trời đổ những cơn mưa tầm tã làm giăng mờ con đường rừng dẫn đến trại tù. Mưa trút nước trắng xóa lớp hàng kẽm gai rào quanh trại như muốn xóa bỏ những móc nhọn đang vây hãm những người bị mất tự do. Trời nhá nhem tối tiếng mưa lẫn tiếng gió hú tạo thành một âm thanh rờn rợn tê tái khiến cảnh sắc trại tù thêm thê lương!

Hồi còn ở trại tù Suối Máu và trại An Dưỡng tôi gặp lại rất nhiều bạn thời đi học cũng như bạn cùng đơn vị, ngày ấy tôi đã gặp một người bạn thuộc lớp đàn anh của tôi trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, anh có bằng cao học Văn Khoa trước khi vào lính. Đang đảm trách trưởng khối của một đặc khu chẳng hiểu bị đổi hay anh thích phong trần nơi chiến trường nên xin thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến và được đưa về ban tham mưu bộ chỉ huy chiến thuật nhưng chẳng đảm trách nhiệm vụ gì, mặc dù cấp bậc của anh ngang với tiểu đoàn trưởng! Anh Nghiêm Đặng dáng người cao dong dỏng nghệ sĩ nhưng trong màu áo trận đậm nét phong sương của núi rừng trông anh có vẻ oai hơn. Anh ít nói, cử chỉ từ tốn, thích trầm tư như triết gia phong cách ngược hẳn với một người lính nhanh nhẹn xông xáo. Anh có tài thổi Harmonica thỉnh thoảng giúp vui văn nghệ nên được tất cả mọi người trong đơn vị qúy mến.
Sau hiệp định Paris chiến tranh ngày càng khốc lệt, đã có biết bao người ngã xuống nơi chiến trường nhưng anh không tìm cách ở hậu cứ nấn ná nơi văn phòng có rất nhiều việc để làm, mà thường theo chúng tôi đi hành quân. Anh và tôi có chung một nhiệm vụ ra chiến trường vũ khí anh mang theo là cây bút và mớ kiến thức về chính trị thì chắc không phải muốn làm người hùng mà chỉ muốn làm giống các bạn trong đơn vị tác chiến.

Cuộc hành quân kéo dài liên miên cũng may trong nhiều trận đánh khốc liệt đạn đã tránh nên anh còn lành lặn sau cuộc chiến. Có lần đơn vị dừng quân bên ngoài một thành phố nhỏ nghỉ dưỡng được ít ngày, thời gian đó các bạn tôi quây quần bên nhau uống rượu đàn hát. Nghiêm Đặng cũng có mặt, anh thích uống rượu vui văn nghệ thì làm sao mà bỏ lỡ cơ hội này. Anh uống rất nhiều nên đã ngà ngà say và nằm võng ngủ gần đó. Riêng tôi vì không biết uống rượu nên chỉ ngồi chơi với anh em, hòa nhập vào không khí văn nghệ thưởng thức những tiếng đàn hát tiếng cười nói thật vui nhộn. Đến quá nửa khuya Alpha Ẩn một cây văn nghệ tham gia, anh là một đại đội trưởng thâm niên có nhiều huy chương chiến trận. Ẩn hát một bản nhạc tiền chiến nổi tiếng một thời, ca khúc có giai điệu thật dìu dặt nhưng Alpha N Hữu Chung men rượu đã thấm, chếch choáng say nên đệm không đạt khiến nhạc phẩm mất một phần tinh hoa! Bỗng dưng tiếng anh Nghiêm Đặng gắt lên như xé âm thanh:
"Thôi xin ông đừng đàn nữa tôi điếc ráy rồi!"

Chúng tôi cứ ngỡ anh Nghiêm Đặng đã ngủ nhưng anh vẫn còn thức nằm nghe các anh em đàn hát. Nghe anh hét Chung đang chơi đàn bỗng nhiên xìu mặt, nó cũng là dân cựu Văn Khoa đã tốt nghiệp cử nhân và là một đại đội trưởng gan dạ. Nó nửa đùa nửa thật cười nói:"Thôi cha! Anh biết đàn đâu mà dám chê tui?.. Xin niên trưởng để chúng em yên!".

Cả nhóm cuời ồ lên và tiếp tục đàn hát. Không thấy anh Nghiêm Đặng trả lời, tôi nghĩ anh say, nhưng lại thấy anh ngồi dậy im lặng trên võng nghe hết bản nhạc rồi đứng lên tiến đến tôi miệng nở nụ cười và chậm rãi nói:
"Cậu lấy cho tớ cây mượn đàn".

Tôi hơi ngạc nhiên tưởng anh đùa vì quen biết anh đã lâu ở Sài Gòn không hề thấy anh chơi đàn. Tôi hơi ngần ngừ nhưng vì nể anh tôi cũng mượn cây đàn của Chung đang chơi. Chung vì nể tôi nên đã trao đàn mà lòng không vui! Cả nhóm trố mắt nhìn anh ôm đàn, có lẽ họ nghĩ là anh Nghiêm Đặng đang muốn diễu? Tôi biết anh hát nhạc tiền chiến rất hay và nghĩ anh ôm đàn làm dáng để hát góp vui. Nhìn cách ôm đàn và so lại dây hơi lâu mà không cần nhấn nhiều vào phím, sau đó lại xuống dây số 6 thành Rề, tôi giật mình vì chỉ những nhạc sĩ có lỗ tai nhạy bén âm độ và đạt mức chuẩn âm mới lên dây đàn kiểu này. Tôi ra dấu bảo các bạn im lặng, Nghiêm Đặng rít mạnh mẩu điếu Basto xanh dính trên môi một hơi và trịnh trọng vào nhạc.



Những ngón tay trái của anh như đoàn vũ ballet lướt trên cung bậc diễn tả bản Capricho Arabe của danh sư Francisco Tarrega một cách tài tình, đây là một bản nhạc khó, kỹ thuật cao của guitare trong dòng nhạc cổ điển Tây Phương. Nghiêm Đặng chơi tiếp một số bản khác. Hay quá, một sự việc không thể ngờ được! Rất tiếc các ngón tay của anh vẫn chưa mềm để có thể diễn tả đến mức tuyệt vời những hình nốt trong cấu trúc bác học của dòng nhạc cổ điển Tây Phương. Đáng lẽ anh cần phải để các ngón tay quen dần dạo qua một số bài đơn giản trước khi chơi bản Capricho Arabe của F. Tarraga! Có lẽ do lâu ngày không cầm đàn nay cầm lại khiến anh hứng quá và chơi liên tục chứ anh không có ý định khoe hay biểu diễn.
Các bạn không ai bảo ai giữ im lặng tạo một không gian thật tĩnh để lắng nghe tiếng đàn và đêm càng khuya chỉ còn tiếng đàn dìu tâm hồn người nghe vào một thế giới riêng thật huyền ảo của âm nhạc. Tiếng đàn đang réo rắc bỗng ngưng lại vì anh Nghiệm Đặng đặt đàn xuống lấy trong túi ra gói thuốc Basto xanh rút một điếu thuốc se se nhẹ hai ngón tay chậm rãi gõ điếu thuốc vào lưng bàn tay trái, sau đó gắn lên môi rồi móc trong túi lấy chiếc bật lửa Zippo mồi thuốc. Cử chỉ của anh chậm chạp làm chúng tôi sốt ruột! Anh rít mạnh một hơi rồi tiếp tục ôm đàn dạo tiếp đoạn nhạc cổ điển, dòng nhạc liên tục chuyển sang nhạc Việt với những nhạc phẩm nổi tiếng mang tính nghệ thuật cao của một số nhạc sĩ tiền chiến và đương thời đã được các nhạc sĩ tài danh về guitare soạn hòa âm guitare. Cứ như thế chúng tôi thay nhau mồi thuốc khi điếu thuốc của anh sắp tàn để dòng nhạc được liên tục cho đến 3 giờ sáng mới chấm dứt. Về sau tôi hỏi anh tại sao chơi đàn giỏi thế mà giấu, anh cười buồn trả lời:
"Cũng tại mê đàn tớ mới mất mối tình đầu, và sống độc thân đến nay gần 40 mà chưa vợ!"Tôi tôn trọng chuyện riêng của anh nên không hỏi gì thêm.
Sau biến cố tháng tư năm 75 tôi từ Tổng y viện Cộng Hòa ra và đi tù. Gặp lại anh Nghiêm Đặng trong tù anh em chúng tôi vừa mừng vừa tủi, tôi trông anh gầy hốc hác do thiếu ăn mà còn phải lao động nhiều, nhưng phong cách vẫn nghệ sĩ. Anh nắm tay tôi trìu mến ái ngại cho tình trạng sức khỏe của tôi đang chống cặp nạng! Tôi cười bảo anh yên tâm tôi chịu đựng được !Anh khoe với tôi đang cho một con chim sẻ ăn cơm. Tôi cười hỏi:
"Ở tù cơm không có mà ăn, anh nuôi chim lấy đâu cho nó ăn ?!"
Anh cười:
"Nhín một chút sẽ có hạt cơm cho nó ăn ngay, hơn nữa nó ăn được cả bo bo!"
Tôi bảo:
"Đã ở tù rồi anh lại nuôi nó chẳng khác nào anh nhốt tù nó ?"
Anh Nghiêm Đặng:
"Cậu không hiểu, ở đây làm bạn với chim vui hơn người; mình thích nó hơn. Còn ở đất nước mình chỗ đếch nào mà chẳng là nhà tù... mình có nhốt nó đâu?"
Tôi và anh ở chung không lâu thì bị biên chế trong đợt ra Bắc lần đầu, dù có tên trong danh sách chuyển trại nhưng vì những vết thương cũ của tôi bị nhiễm trùng nên được nằm điều trị bệnh xá trại, ở đó có nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Đại tá Đông cũng bị hoãn đưa ra Bắc vì bệnh nặng. Họ xếp tôi vào loại là bệnh mãn tính nên không có thuốc chữa do đó tôi phải rời viện trở về lán lao động. Về trại, các bạn bảo tôi trông giống bộ xương khô biết đi và tưởng tôi đã đi "đứt" nhưng tôi vẫn sống, vẫn lết từ trại nầy sang trại tù khác dù sức khỏe càng ngày càng tệ.



Ngày tháng cứ dần trôi và sự gian khổ cũng dần quen, người được thả về thì ít người bị bệnh thiếu thuốc ra nghĩa trang ngày càng nhiều! Sự chuyển trại cứ vẫn liên tục, dù bị chuyển đến đâu các bạn thấy tình trạng sức khỏe của tôi đều thương nên đã lãnh thế những công tác lao động nặng như vào rừng cưa cây, đập đá núi làm đường,... anh em để tôi làm những việc nhẹ ở lán. Có lần tôi và người bạn được giao đi lãnh cơm vì tôi không còn đi bằng cặp nạng nữa, vết thương cũ đã tạm lành nhưng con mắt bị nhiễm trùng vì không được thuốc chữa thì trở nặng, gần như mù! Còn người được phân công khiêng cơm với tôi là bạn cũ, anh ấy bị cụt một chân phải đi bằng chiếc chân gỗ. Ngày trước anh ấy là một người anh hùng rất can đảm trong chiến trường đã giành được chiến thắng. Nhưng cũng ở nơi đó anh đã để lại một phần thịt xương thịt của mình trên ngọn núi 1062 cùng với bao chiến hữu khác nằm yên nghỉ muôn đời nơi chiến trường Thường Đức năm xưa! Mới ngày nào khi rời ghế đại học tâm hồn chúng tôi đầy mơ mộng, đầy hoài bão về một tương lai rộng mở, thế nhưng chiến tranh càng khốc liệt thì sự tử vong càng nhiều, đất nước rất cần thanh niên dấn thân đi bảo vệ quê hương, giữ gìn sự tự do an bình cho tổ quốc đang bị lâm nguy.
Tiếng gọi quê hương đã thúc dục chúng tôi lên đường nhập ngũ tiếp nối truyền thống hào hùng của cha ông, chúng tôi thay vì ở văn phòng đã tình nguyện ra những đơn vị tác chiến hiên ngang xông pha trận mạc. Thế sự thay đổi khiến thế đời cũng dổi thay nên hôm nay hai chúng tôi làm kiếp tù nhân đang khiêng thau cơm nặng cho các bạn tù khác ở lán. Cái thau đựng cơm được gò bằng tôn chế biến lại trông nó có vẻ to tưởng đựng được nhiều, nhưng đến khi chia ra cho mỗi người cũng chỉ được lưng chén! Chúng tôi đang khiêng hau cơm về gần đến lán thì đoàn tù lao động cũng vừa trở về chưa đến lán nhưng đã thấy thau cơm, các bạn đã reo lên vì đói!….Người bạn khiêng thau cơm đi phía trước của tôi chẳng biết vì xúc động bởi những tiếng reo của các bạn hay vì đường trơn ướt mà chiếc chân gỗ không chịu quen nặng nên đã bước lệch khiến hai người té sấp xuốngđường! Trong đoàn tù có những tiếng rú lên mà thanh âm nghe não nuột:
-Trời ơi! Cơm đổ rồi!

Tôi nghe tiếng thét mà rụng rời cùng với những tiếng chân vội vã chạy đến như đang dẫm vào hồn tôi! Sự áy náy trách nhiệm tạo cảm giác hụt hẫng, trống vắng nhưng trong đầu vẫn vang lên âm thanh lảnh lót:"Đổ cơm rồi"! Tôi bỗng cảm thấy đau nhói vì chẳng một tiếng thở dài xót thương cho hai kẻ thương binh bị té xấp! Có lẽ trong số bạn tù chẳng ai còn tâm trí nghĩ đến tình chiến hữu thuở nào! Phải chăng khi con người trong cơn đói lả thì miếng ăn đã ám ảnh che lấp tình đồng loại? Cái đói đã khiến người tù không đủ hơi sức kêu thành tiếng khác, ngoài sự ám ảnh của cơn đói vọng lên âm thanh từ vô thức "đổ cơm rồi"!

Những khoảng khắc giao động của cảm xúc lắng xuống, một số bạn tù ùa nhau chạy lại kẻ thì đỡ tôi, người thì vực Quý Dù. Một số khác xúm nhau nhặt từng hột cơm văng xuống dưới rãnh hiên lán rồi đem rửa từng hạt cơm như đãi cát tìm vàng. Mặc dù không trông thấy rõ nhưng tôi vẫn cảm nhận được cơn đói hằn trên khuôn mặt anh em khiến mắt tôi tuôn trào như cơn mưa chiều đang giăng mờ!

Dù trong tình trạng vết thương cũ chưa lành hẳn, tôi không chịu làm việc nhẹ nữa. Kể từ hôm đó tôi cùng anh em vào rừng cưa cây, tôi còn quyết định để một nửa phần cơm chiều của mình dành cho bữa cháo sáng. Tôi nghĩ: "Đây cũng là cách chuộc lỗi đã tắc trách làm đổ thau cơm của anh em". Bạn cùng tổ lúc đầu còn áy náy khi thấy tôi nhịn bớt phần cơm mình để có phần cháo sáng, nhưng dần dần thành quen, không còn ai thắc mắc. Tình trạng thiếu ăn ở trong tù ngày càng trầm trọng! Hạt cơm trong tù qúy và hiếm lắm! Ai đã từng trải qua cơn đói lả mới thấy giá trị của miếng ăn! Cơn đói đã trở nên gối đầu, nghĩa là ăn bữa nay mà cái đói nó dồn từ vài bữa trước.

Nhiều buổi chiều lao động về đói quá tôi đã ăn hết phần cơm để dành dể nấu cháo. Sáng ra vài bằng hữu không thấy cháo đâm nổi quạu! Tôi ngạc nhiên và tự hỏi tại sao lại nổi quạu? Và chợt nghĩ:"Hình như các bạn ấy ngỡ bổn phận của tôi là phải có cháo sáng cho họ ăn…Thế mới biết một việc được lập đi lập lại nhiều lần dù ở trong tù hay bất cứ ở nơi đâu cũng thành thói quen!”
Tôi bùi ngùi thở dài, trong lòng vừa có chút xót xa vừa cảm thấy ưng ức! Rồi lại nghĩ:"Mình thì bệnh tật, lại thường hay phát biểu bị quy là chống đối, và bị kỷ luật, có lẽ mình sẽ bỏ xác trong tù! Mình có ăn thêm một chút thì cũng chỉ kéo dài sự sống, thêm chuỗi ngày đau khổ,nhưng nhín chút cháo sáng lại là chút niềm vui nhỏ mỗi ngày…cũng ấm lòng cho ít bạn bè". Tôi lại tiếp tục nhịn, nhịn riết rồi cũng quen. Niềm vui nhỏ đó thoáng nhanh, chỉ một thời gian không lâu chúng tôi lại bị biên chế, nhóm bạn ấy và tôi bị phân tán đi khắp nơi.



Sau này ở hải ngoại gặp lại một số bạn tù, các bạn kể trong số những người bạn cũ, có người đã chết vì bệnh, người thì kiệt sức ngủ yên nơi góc rừng khe núi. Nghe kể lòng tôi xót xa! Các bạn tôi và tôi chẳng còn ai thèm những hạt cơm rơi nữa, nhưng tôi vẫn nhớ hạt cơm rơi trong chiều mưa.Tôi có gặp lại Nguyễn H. Chung nhưng anh Nghiêm Đặng thì không!

Paris đã vào mùa xuân nhưng tiết trời còn lạnh, chiều nay ngồi trong căn phòng ấm nhìn những hạt mưa rơi lòng tôi chợt cảm thấy buồn! Cơn mưa chiều đã gợi nhớ những hình ảnh những người bạn năm xưa; mà nay có người còn kẻ mất! Những kỷ niệm vui buồn của một thời khói lửa, và những năm tháng ngậm ngùi sau cuộc chiến về thân phận con người!

"Đời buồn như chiếc lá,
lặng rơi bên hiên nhà.
Mưa vô tình ngập lối
Cuốn trôi mảnh hồn ta !"

Đỗ Bình
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Mẹ ơi! đừng khóc
Việt Phương
Thế rồi gia đình tôi lại được dọn đến một chốn riêng tư của mình, mặc dù nơi chúng tôi mới đến chỉ là căn nhà gỗ đơn sơ, không có điện. Chúng tôi đến nhà mới khi buổi chiều đang tàn. Mẹ tôi loay hoay dọn dẹp chỗ cho chúng tôi ngủ tạm. Khuôn mặt người thật vui, tôi biết. Vì qua bao nhiêu tháng dài chung sống chật hẹp trên căn gác lửng của một người bà con, mẹ tôi đã trải qua không biết bao nhiêu cay đắng. Căn gác nhỏ với những trưa mùa hè nóng cháy da và anh em chúng tôi lại nằm xếp hàng như cá, thin thít, dù không ngủ được. Mẹ tôi là một người đàn bà tự trọng, không muốn để anh em chúng tôi làm phiền lòng hàng xóm, nhất là chủ nhà, trong những trưa êm ả họ cần một giấc ngủ ngắn.

Anh em chúng tôi đến nhà mới như cá được thả vào nước. Chúng tôi tha hồà có vườn bao bọc chung quanh, nằm ở ngoại thành. Mỗi ngày ba tôi phải đạp xe đi làm xa hơn, nhưng người chấp nhận nó với số tiền khiêm nhường có thể tậu đuợc một chốn riêng tư cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi mất hết trong cuộc tấn công của Việt cộng năm Mậu Thân ở Huế. Trong một thời gian ngắn mà ba mẹ chúng tôi lại xoay sở được một ít tiền để mua nhà thì thật là một điều không đơn giản.

Trở về với căn nhà gỗ, nơi có những nỗi vui buồn của gia đình chúng tôi. Mặc dù sau này, căn nhà đã biến dạng thành một dãy nhà khang trang, nhưng kỷ niệm trong căn nhà gỗ vẫn là những hình ảnh tôi không bao giờ quên được. Buổi sáng, lo xong cho chúng tôi mọi thứ, mẹ tôi lại quẩy gánh cho kịp chuyến hàng sáng. Cứ như thế, phụ với đồng lương công chức của ba tôi cũng đắp đổi được qua ngày.

Căn nhà gỗ với những buổi sáng nắng chiếu xuyên qua những lỗ đinh dọi xuống khuôn mặt chúng tôi. Rồi những lúc trời mưa nhỏ nước xuống gối chăn. Lúc đó, nồi niêu soong chảo được dàn binh bố trận cùng khắp nhà. Tôi nghe mẹ tôi nén tiếng thở dài trong những lúc lăng xăng hứng những giọt nước mưa đổ xuống. Những ngày mưa chợ ế, mẹ tôi xong việc trong nhà, ngồi nhìn những bọt bong bóng nổ lách tách bên hiên nhà, mắt buồn rười rượi.

Tôi đã thấy mẹ tôi khóc bên nồi cơm vừa bắc lên. Đó là buổi chiều sau một ngày mưa dầm dề, mẹ tôi với gánh hàng còn nặng trĩu trở về nhà cùng nỗi buồn còn đọng lại trên đuôi mắt. Mẹ tôi lặng lẽ ra sau bếp. Tôi biết mẹ tôi buôn bán ế ẩm hôm nay. Tôi ngồi nhìn những hạt mưa rơi tí tách từ tàu lá chuối. Chán chê. Tôi mới xuống bếp, lân la lại gần hỏi nhỏ:

"Mạ khóc?"

"Không, tại khói. Trời mưa làm bếp núc, than củi ướt hết."

Tôi nhìn từng đợt khói ngùn ngụt trong bếp, ngần ngại:

"Hay mạ để con thổi lửa cho."

Mẹ tôi xoa đầu tôi, cười gượng gạo:

"Hơi hám mô mà thổi. Con trai không nên vô bếp, học dốt cho coi. Đói bụng rồi phải không?"

Tôi dúi mặt vào lưng mẹ tôi, cười:

"Mô có."

"Thôi con lên nhà chơi đi, chờ ba con về rồi ăn cơm. Sắp xong rồi. Hôm nay, có món đặc biệt lắm."

Tôi nhìn vào chiếc rổ bên cạnh, reo lên:

"A! Hôm nay mạ chiên mực ống dồn thịt."

Mẹ tôi cười rạng rỡ:

"Con thích lắm phải không? Hồi sáng thấy bà bán cá nài nỉ quá, mạ mua giúp bà ấy. Lâu lắm rồi ba con chưa có được miếng ăn ngon."

Sau cơn mưa, trời tối rất nhanh. Mẹ tôi lên tiếng sai anh tôi thắp đèn. Ba tôi vẫn chưa về tới nhà. Hình như mẹ đang sốt ruột:

"Không biết ông ấy làm chi mà giờ này còn chưa về?"

Anh em chúng tôi nôn nao ngồi bên cửa chờ ba về. Mưa đã ngưng hạt, ngõ vào nhà lầy lội. Ánh sáng ngọn đèn dầu trong nhà hắt ra vườn một vùng sáng yếu ớt. Vài chú ễnh ương kêu gọi bóng đêm đổ xuống nhanh hơn. Có một bóng đen đang bước vào vườn, hình như là bóng ba. Tôi reo lên:

"Ba về, ba về."

Mẹ tôi nghe tiếng tôi gọi, vội vàng chạy xuống bếp hâm đồ ăn. Ba tôi thiểu não bước vào, tóc người đẫm ướt. Người cởi chiếc áo mưa ra máng lên vách. Chiếc áo mưa cũ và rách nhiều chỗ không đủ che cho người. Áo quần ba tôi ướt sũng, nhểu nước xuống nền nhà. Ba tôi cố giấu run vì lạnh. Tôi thấy môi ba tôi tái ngắt. Anh tôi cất tiếng hỏi:

"Xe mô mà ba đi bộ rứa?"

Ba tôi đặt ngón tay trỏ lên môi ra dấu cho anh em chúng tôi đừng nói lớn. Ba tôi lặng lẽ vào buồng riêng. Sau khi lau tóc và thay quần áo. Ba bước tới ngồi bên bàn ăn, cố nói giọng tự nhiên:

"Mình ơi! Đói bụng lắm rồi đó."

Tiếng mẹ tôi từ trong bếp vui vẻ vọng ra:

"Gần xong rồi."

Anh em chúng tôi háo hức ngồi bên cạnh ba tôi. Chúng tôi mở lớn mắt nhìn xuống bếp, chờ đợi. Tôi đang náo nức với những con mực được mẹ tôi nhồi thịt, cùng nấm mèo và bún tàu. Con nào cũng nung núc được mẹ tôi chiên lên rồi kho rim lại thơm nức mũi. Còn chiếc chảo nữa, tôi đã quanh quẩn với mẹ dưới bếp "đặt cọc" trước để... trộn cơm; chiếc chảo mà tôi biết chắc rằng mẹ tôi sẽ còn dành ở đó vài cái đầu mực. Tôi nghe có tiếng soong chảo chạm vào nhau dưới bếp. Ba tôi sốt ruột lên tiếng hỏi:

"Răng mà lâu rứa mình?"

Không có tiếng trả lời của mẹ tôi từ sau bếp. Ba tôi quay qua bảo anh tôi:

"Con xuống dưới xem mạ con đang làm chi mà lâu rứa?"

Khi tôi xuống nhà bếp thì thấy mẹ tôi đang ngồi nhặt từng con mực dưới nền đất lên chùi cát. Cái chảo nằm lăn lóc bên cạnh. Những con mực đang nằm tội nghiệp rải rác chung quanh, vài ba con nằm phơi mình trong vũng nước đọng trên nền như mắc cạn. Tôi hốt hoảng ngồi xuống bên mẹ:

"Mạ làm đổ hết rồi hở?"

Mẹ tôi im lìm. Người lặng lẽ lau sạch những con mực bỏ vào đĩa. Tôi thấy mẹ tôi khóc. Tôi bồi hồi nhặt một con mực lên chùi cát giúp mẹ. Bóng hai mẹ con tôi chập chờn bên ngọn đèn dầu. Mẹ tôi lẩm bẩm:

"Con mèo nhà ai mà vô hậu rứa không biết. Mạ vừa quay lưng là nó tha đi gần hết, còn làm đổ tứ tung nữa. Mạ thật vô ý. Làm ba và tụi con hỏng ăn."

Tôi làm vẻ thông minh:

"Mình đem rửa rồi rim lại."

Mẹ tôi gượng cười:

"Như rứa thì còn chi mà ngon nữa? Thôi, con lên trên nói ba con đợi một chút nghe."

Tôi tiu nghỉu bước lên nhà trên. Anh em tôi nghe tin cũng xụ mặt xuống, chống cằm lên bàn, thiểu não. Ba tôi rời ghế đi xuống bếp. Một lúc sau, tôi nghe tiếng người nói với mẹ tôi:

"Đổ hết rồi thì thôi, ăn chi lại không được. Thôi đừng buồn nữa mình ạ."

Tiếng mẹ nức nở:

"Nhưng bấy lâu nay cả nhà đâu có được miếng ăn ngon, toàn là cơm rau muối mắm. Tội nghiệp thằng Tí thòm thèm từ hồi chiều đến giờ."

Không dưng, tôi thấy thương mẹ tôi thật nhiều. Tôi nhớ khuôn mặt mẹ lúc chiều rạng rỡ bên rổ mực tươi. Tôi nhớ mẹ thấy tôi mừng làm mẹ rất vui. Giờ đây, giọng mẹ nghẹn ngào chỉ vì ước mơ nhỏ nhặt của tôi bị vụn vỡ. Tôi tự hứa với lòng là từ nay về sau sẽ không háu đói để mẹ khỏi bận lòng nữa.

Tối hôm đó, gia đình chúng tôi trải qua một bữa cơm thật ảm đạm. Sáng hôm sau, khi tôi vừa mở mắt dậy thì lại nghe tiếng mẹ tôi khóc:

"Răng anh không nói cho em biết sớm?"

Ba tôi ngồi vừa nhấp trà, vừa nhỏ giọng:

"Tối hôm qua thấy em buồn quá làm sao anh mở miệng được?"

Mẹ tôi ngơ ngác hỏi:

"Bây giờ anh tính sao?"

"Thì phải đón xe lam đi làm tạm một thời gian đã."

Ba tôi ngập ngừng trả lời. Mẹ tôi cất giọng tiếc nuối:

"Gia tài chỉ còn có chiếc xe đạp cho anh đi đỡ chân cũng bị mất. Không biết sao mà xui xẻo quá đi."

Ba tôi an ủi:

"Thôi, việc đến đâu hay đến đó, lo lắng cũng không giải quyết được chi."

Mẹ tôi suy nghĩ một chút rồi nói nhỏ với ba:

"Hay là đem nữ trang anh tặng em lúc cưới, bán đi để mua cho anh chiếc xe khác?"

Ba tôi nhổm người lên như đỉa phải vôi:

"Nhất định là không được, lúc trước cần tiền mua nhà chúng mình cũng quyết định không bán mà. Đó là kỷ vật của em."

Thấy mẹ tôi như muốn nói thêm. Ba tôi tiếp lời, dứt khoát:

"Để xem anh em ở sở ai có chiếc xe cũ nào cần bán, anh sẽ mua lại."

o O o

Đời sống thường mang lại quá nhiều phiền muộn, nhất là những người nghèo khổ như chúng tôi. Mẹ tôi chạy ăn từng ngày vẫn không đủ cho chúng tôi ngày càng lớn. Nỗi lo làm tóc mẹ tôi bạc sớm, lưng mẹ tôi còng mau. Hai người anh lớn của tôi phải ra chiến trường. Chiến tranh đã bắt đầu leo thang. Căn nhà gỗ của chúng tôi lại rung lên từng đêm khi có tiếng bom đạn dội về. Khoảng cách của tiếng bom đạn dần thu ngắn trong cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Rồi Tháng Tư gẫy gánh. Tháng Tư tôi bỏ trường về lại mảnh vườn xưa. Tháng Tư anh ba tôi chết trên đường triệt thoái cao nguyên. Tháng Tư ba tôi đi lao động khổ sai.Tháng Tư nhà tôi tan nát. Căn nhà năm xưa tuy nghèo nhưng đầy vang tiếng cười, nay chỉ còn mình tôi bên cạnh mẹ tôi hiu hắt tiếng thở dài. Mẹ tôi lại buôn thúng bán mẹt chắt chiu từng chút một để dành có dịp thăm nuôi ba tôi. Còn người anh cả của tôi không biết lưu lạc phương nào? Mẹ tôi thường nằm mơ thấy anh tôi vẫn còn sống, nhưng tôi nghĩ là không thể nào. Nếu có, anh cũng trở về bên chúng tôi hoặc ít nhất là cho chúng tôi biết tin. Nhưng mẹ tôi vẫn tin tưởng ông trời có mắt, lúc nào cũng nhìn xuống lòng thành của con người.

Cuộc sống ngày càng chật vật, chúng tôi phải đương đầu với nhiều áp lực của chính sách mới. Chính sách thay đổi bất chợt, từng ngày. Như bữa cơm đạm bạc trong gia đình chúng tôi; hôm qua có khoai thì độn khoai, hôm nay có bắp thì độn bắp, ngày mai không biết chừng chúng tôi chỉ đuợc ăn khoai luộc trừ cơm. Tôi lại bị kêu đi làm nghĩa vụ lao động liên miên, riết rồi thành nghề của tôi. Ai mướn đi làm thế, cũng nhận lời. Cuối cùng sự gặp gỡ giữa mẹ tôi và tôi cũng thưa dần.

Một hôm, mẹ tôi cầm bàn tay đen đúa và khô nhám của tôi bật khóc. Mạ đã lo cho con đâu vào đó rồi. Gia tài của mạ chỉ còn lại sợi dây chuyền và chiếc vòng tổng cộng là ba lượng. Ba và Mạ không bao giờ dám nghĩ là sẽ tiêu xài đến nó, vì đây là quà cưới của ba con cho mạ. Nhưng thấy con khổ cực quá, mạ phải lo cho con. Con cái người ta đã lần lượt vượt biên hết, con cũng nên đi tìm tương lai cho mình. Mạ không thể nào thấy con như vậy mà không đau lòng. Mạ sẽ chờ ba con về. Tôi gục đầu vào vai mẹ tôi khóc ròng. Hình như hôm đó là buổi chiều. Nắng thoi thóp trên tàn cây trứng cá trong vườn. Mạ tôi tiếp. Mạ tưởng con không về kịp hôm nay. Mạ sợ con hụt chuyến này thì mạ sẽ ân hận suốt đời. Ngày mai con phải đi rồi đó, tất cả mọi thứ mạ đều chuẩn bị cho con cả rồi. Tôi bật người ra sau, thảng thốt:

"Ngày mai? Mau vậy?

Mẹ tôi lặng lẽ gật đầu. Tôi không còn nhớ tâm trạng của tôi lúc ấy ra sao, có lẽ tôi vui, vì chung quanh, bạn bè đã ra đi gần hết. Tôi thường ngưỡng mộ những đứa bạn tôi đã ra đi trót lọt, nhưng tôi biết khả năng kinh tế của gia đình tôi không để cho ước mơ của tôi có dịp bộc lộ. Nhưng ngày mai? Trời ơi! Đột ngột quá. Tôi không biết nói gì với mẹ tôi hết, tôi chỉ biết rưng rưng mắt mà lòng xót đau. Tối hôm đó, nhìn bóng mẹ tôi khòm khòm đi lại trong nhà, thỉnh thoảng người lại mở túi xách của tôi xem xét còn thiếu món gì nữa không, tôi không khỏi mủi lòng. Ánh sáng của ngọn đèn dầu đêm đó hình như làm lưng mẹ tôi còng thêm theo từng vệt sáng tù mù hắt lên tường nhà. Thỉnh thoảng, mẹ tôi dừng tay, nói như để trấn an tôi:

"Con đừng sợ, đây là nơi thân tín, mạ năn nỉ quá họ mới nhường cho mình một chỗ. Lúc đầu họ đâu chịu nhận nữ trang, nhưng số con may mắn lắm đó..."

Suốt đêm hôm đó, tôi nằm thao thức theo tiếng trở mình của mẹ tôi.

o O o

Rồi tôi cũng được qua tới Mỹ, với lần tiếp kiến phái đoàn Mỹ thật là trôi chảy, trôi chảy như chuyến vượt biên của chúng tôi. Ba tôi còn trong trại cải tạo là lý do khiến tôi được phái đoàn Mỹ chấp nhận sớm nhất, trong thời gian mà những người Việt Nam vượt biên bằng những chiếc thuyền gỗ mỏng manh còn làm thế giới lưu tâm tới. Tôi qua đến Mỹ, vừa học vừa làm cũng có chút tiền gởi về thường xuyên cho mẹ.
Nhu cầu của mẹ tôi không nhiều nên vấn đề xoay sở của tôi bên này không phải là gánh nặng cho tôi trong thời gian còn đi học. Tôi vẫn nhận được thư của mẹ tôi thường xuyên. Và lá thư làm tôi không thể nào ngủ được mấy đêm liên tục, đó là lá thư của anh cả tôi. Người anh tưởng như đã chết trong cuộc tháo chạy năm nào, nay đang bình yên ở Mỹ. Tôi gọi điện thoại cho anh tôi bày tỏ nỗi hân hoan cùng lòng xúc cảm. Anh em chúng tôi khóc với nhau trên đường dây điện thoại. Chuyện nhà, chuyện ba mẹ được tôi tường tận kể ra cho anh tôi cùng những dòng nước mắt tủi hờn. Mùa hè năm đó, theo lời anh tôi, tôi bay lên miền Bắc nước Mỹ thăm anh tôi. Cuộc đón tiếp nơi phi trường làm tôi ngỡ ngàng. Anh tôi cùng người đàn bà Mỹ và một nhóc tì tròn trịa nhìn tôi bằng đôi mắt bi ve không nhấp nháy. Người đàn bà lạnh lùng bắt tay tôi với một câu xã giao thường lệ. Anh tôi rưng rưng nước mắt nhìn tôi im lặng. Ngay trên chiếc xe đưa chúng tôi về nơi anh cư ngụ, là tôi đã có ý định thu ngắn thời gian ở lại với anh tôi. Anh tôi nói với tôi bằng những giọng nhát gừng, thỉnh thoảng xen một vài câu tiếng Anh vào khi thấy khuôn mặt hơi cau lại của bà vợ. Người chị dâu đã không cho tôi được cái thiện cảm tôi gặp lúc đầu. Nhìn bà phục phịch bước lên xe là tôi đã cảm thấy có một chút gì đó bất hạnh xảy ra trong đời sống của anh tôi. Anh tôi biết ý đã giải thích với tôi bằng một câu rất gọn. Năm 1975, lúc anh mới qua Mỹ không có chỗ nào hơn ngoài gia đình June. Hình như tôi có gợi ý với anh dọn về nơi nắng ấm, nhưng anh tôi khẽ lắc đầu. Sống đâu quen đó rồi chú ạ.

Tối hôm đó, anh em chúng tôi thức suốt đêm để ôn lại những ngày tháng cũ. Vợ anh thỉnh thoảng lại bước ra phòng khách giục anh đi ngủ nhưng anh làm lơ. Anh hỏi tôi:

"Chú có định lên đây ở cho có anh có em không?"

Tôi lắc đầu, vì tôi biết anh tôi hỏi để mà hỏi. Tôi không muốn anh bị lấn cấn tình cảm giữa anh em và vợ chồng.

Đến ngày tôi ra phi trường để về lại nơi tôi ở, anh tôi đưa tôi đi một mình. Anh hỏi tôi khi tôi đang chờ kiểm tra hành lý. Sao chú lại về nhanh quá vậy? Có điều gì chú không bằng lòng nơi anh phải không? Tôi đáp nhỏ. Em có cảm tưởng chị June không thích sự hiện diện của em lắm. Anh tôi im lặng. Tôi biết lời nói của tôi đã làm cho anh tôi buồn nhiều. Lúc máy bay cất cánh, tôi thấy anh tôi vẫn còn đứng trong phi trường, dáng anh thật cô đơn.

o O o

Ba tôi qua đời trong trại cải tạo đã làm kiệt quệ mẹ tôi. Tôi biết và càng đau lòng hơn khi thấy bóng dáng mẹ tôi nơi phi trường. Người lựng khựng bước ra với chiếc áo dài nâu lạc lõng trên phi trường quốc tế. Vợ tôi ngọt ngào săn đón. Phải! Tôi đã có vợ sau khi ra trường đi làm được vài năm. Vợ tôi người Bắc, khéo ăn, khéo nói. Thời gian sau này tôi cũng bị vợ tôi hạn chế gửi quà về cho mẹ. Đến bây giờ, tôi mới thông cảm nỗi khổ của anh tôi. Thảo nào, gần hai mươi năm sống ở Mỹ, anh tôi chỉ gửi quà về cho mẹ tôi được vài lần, rồi thôi. Trước khi mẹ tôi qua, anh em chúng tôi cũng đã bàn thảo với nhau ai sẽ rước mẹ về ở chung. Giọng anh tôi ra điều thiểu não:

"Chú bây giờ dầu sao cũng được ổn định. Anh công ăn việc làm tạp nham, hơn nữa June nó người Mỹ sợ mạ không thích. Vợ chú dầu sao cũng là người Việt Nam. Mạ cũng dễ sống."

Tôi xuôi lòng dầu biết rằng vợ tôi cũng có phần khó chịu. Anh tôi cũng có mặt trong ngày mẹ tôi qua Mỹ. Nhìn mẹ đi đứng khép nép trong phi trường, tôi đâm ra thương mẹ lạ lùng. Tôi tự nhủ lòng sẽ hết lòng săn sóc, hiếu thảo với mẹ.

Những ngày đầu mẹ tôi đến Mỹ, chúng tôi sống với nhau thật là vui vẻ. Vợ tôi thấy mẹ tôi chăm sóc cho bé Nam chu đáo cũng mến mẹ tôi. Tôi biết, trong thâm tâm vợ tôi là tiết kiệm được một số tiền gửi trẻ. Nhưng không sao, mẹ tôi cũng rất cưng cháu nội của bà. Hơn nữa, ở nhà một mình, có bé Nam cũng làm cho mẹ tôi khuây khỏa được phần nào.

Cho đến một hôm tôi đi làm về sớm hơn thường lệ, thì nghe có sự lớn tiếng trong nhà. Tôi rón rén bước vào, thấy vợ tôi hùng hổ:

"Con đã nói với mẹ rồi, bé Nam phải cho ăn uống đúng giờ đúng giấc. Mẹ làm thế nào mà mấy bình sữa của bé Nam vẫn còn y nguyên?"

Mẹ tôi nhỏ giọng:

"Tại mạ thấy bé Nam ngủ ngoan quá, nên không đành lòng thức nó dậy để bú sữa."

Giọng vợ tôi, cất lên chua buốt xương:

"Mẹ làm vậy là giết con đó. Nó ngủ đẫy giấc, tối nay nó quấy con thì làm sao con ngủ cho được? Ở Mỹ phải tập cho con nít nó ngủ đêm. Mẹ không biết gì cả."

Tôi không kềm được giận dữ, xông vào, tát vợ tôi một cái. Nàng tru tréo lên:

"Anh dám đánh tôi? Có ngon thì đánh tôi thêm một cái nữa đi nào?"

Nói xong, nàng xấn tới phía tôi chìa mặt thách thức:

"Anh có tin là tôi kêu cảnh sát bắt anh không nào?"

Tôi giận quá, mất khôn, tát nàng thêm một cái nữa. Nàng òa ra khóc như cha chết rồi quay qua chiếc điện thoại, chụp bấm lia lịa. Tôi xông tới, mẹ tôi sợ tôi đánh nàng nên vội kéo tay tôi ra:

"Thôi con à. Mọi sự cũng tại mạ hết."

Tôi quát lớn:

"Bấy lâu nay vợ con đối xử với mạ như vậy sao mạ không cho con biết... Thật là quá đáng mà."

Tôi buông mình xuống sô pha ngồi thở dốc. Nửa tiếng đồng hồ sau, xe cảnh sát chạy đến trước nhà tôi như điều tôi đã đoán. Sáng hôm sau, tôi gọi điện thoại về bảo vợ tôi mang tiền đến bảo lãnh tôi ra, nhưng nàng không chịu. Giọng nàng còn tức tối:

"Có gan đánh vợ thì có gan ở trong đó vài ngày. Kêu réo làm gì?"

Nàng cúp dây. Tôi đành muối mặt gọi bạn tôi nhờ đến lãnh tôi ra. Khi tôi về đến nhà thì mẹ tôi đang ngồi khóc trong bếp. Tôi ngồi xuống vỗ về:

"Xin lỗi mạ. Con không biết mạ bị vợ con xài xể sau lưng."

Mẹ tôi vuốt đầu tôi:

"Mạ sợ họ nhốt con luôn chứ. Trời ơi! Xứ chi mà đánh vợ một cái nhẹ là bị công an còng tay."

Tôi cười, giễu:

"Đàn bà, nhất là đàn bà Việt Nam ở đây là những động vật sắp bị tuyệt giống, cần phải bảo vệ kỹ lưỡng mà mạ."

Mẹ tôi đánh yêu vào má tôi (như dạo tôi còn bé):

"Thằng con. Rứa mà cũng giỡn được."

Tôi đứng dậy:

"Thôi để con vô tắm cái đã."

Mẹ tôi nói với theo:

"Rứa con định tính sao với con Duyên?"

"Thì coi như không có nó."

Nói như vậy nhưng lòng tôi đang thắc mắc là giờ này nàng đang làm gì? Ở đâu?

o O o

Tôi tưởng là tôi có thể làm mặt lơ được. Nhưng không, vợ tôi còn lỳ hơn tôi. Nàng có thể im lặng không nói từ tuần lễ này sang tuần lễ khác. Đôi khi nàng biểu lộ sự bực mình của nàng bằng cách quăng chén bát dơ vào chậu rầm rầm. Đôi khi vô cớ nàng đánh tét vào mông bé Nam cho nó ré lên ngặt nghẽo. Mẹ tôi giơ tay ra bế thì nàng lại ngoe nguẩy vác bé Nam vào phòng. Tôi nhìn ngứa mắt lắm nhưng cố tình làm ngơ. Không khí trong gia đình tôi ngột ngạt, đến mức độ sau khi tan sở, tôi thật sự không muốn về nhà chút nào hết.

Một hôm, mẹ tôi gọi tôi vào phòng. Người bảo:

"Mạ không muốn ở đây cản trở hạnh phúc của con nữa. Mạ muốn về Việt Nam."

Tôi khóc:

"Mạ giận con phải không? Khó khăn lắm mới qua được bên này, mạ về Việt Nam cũng đâu còn ai?"

Mẹ tôi cười hiền từ:

"Mạ còn bà con láng giềng. Ở đây mạ như mù như điếc. May mà căn nhà ở Việt Nam mạ không bán, mạ chỉ cho gia đình dì Huệ ở và coi sóc giùm hương khói ba con và thằng Ba."

Tôi cất giọng thống thiết:

"Con có làm điều chi sai thì mạ thứ lỗi cho con, dầu sao con cũng là con của mạ. Con thà bỏ vợ chứ không thể để mạ trở về Việt Nam đâu."

"Con đừng nói rứa mà mạ mang tội. Mạ già rồi, ở đâu lại không được. Vợ chồng đánh nhau đầu giường thì hòa nhau cuối giường, có chi mô mà con làm cho lớn chuyện?"

Cuối cùng rồi tôi cũng bị mẹ tôi thuyết phục. Ngày mẹ tôi ra phi trường để về lại Việt Nam, chỉ có mình tôi đưa. Lại chiếc áo dài nâu mẹ tôi đã mặc trong ngày qua Mỹ, mẹ tôi nhỏ nhoi vô cùng giữa hàng người hớn hở về thăm quê hương. Tôi không còn cầm được nước mắt. Mẹ tôi cũng vậy, người hứa sẽ trở lại thăm chúng tôi, nhưng tôi biết chắc mẹ tôi sẽ không bao giờ trở lại lần nữa. Lúc máy bay cất cánh. Tôi thấy mẹ tôi đã mang theo rất nhiều điều tôi chưa nói được...

Thắm Nguyễn
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Khói nhang
Hồ Đình Nghiêm
Mạ tôi không có nhiều áo dài, đâu chừng chỉ ba chiếc. Áo của mạ đúng là áo dài, dài miên man, vướng víu hai tà gần chấm gót. Cổ cao, in tuồng có độn mi-ca ở trong cho cứng cáp. Không mấy khi thấy mạ ủi, xếp trong tủ mà chừng như luôn phẳng phiu, chẳng nhăn nhàu. Thợ may khéo, đã đành, qua thời gian hàng vải lạ thường kia không hề thu rút lại một mảy may. Chúng vẫn ôm lấy, sát sao cơ thể một người đàn bà có đông con. Thường thì thời gian hậu sản, da thịt người mẹ hơi bị “phát tướng”, hơi bị sỗ sữa; nhưng mạ tôi cứ rứa, thuỷ chung thi gan cùng tuế nguyệt. Nếu dùng thuật ngữ mà thời buổi lạ lùng này, người trong nước cắc cớ ưa nhắc là “số đo ba vòng” thì chẳng cần dùng thước đo đạc, ngày đó mạ tôi vẫn “chuẩn” không cần “chỉnh”, không phì nhiêu chẳng giảm sút, ôm vào lòng vẫn ấm gọn một vòng tay, vẫn bất di bất dịch lượng suối trong nguồn chảy ra, vẫn chuối chín cây, vẫn biển Thái bình hiền hoà sóng vỗ êm đềm, che chở và bảo vệ suốt đời một bờ bãi luôn được bồi đắp phù sa. Có một câu tiếng Pháp viết như thế này: Je n’ai pas besoin de m’aimer avant de t’aimer, parce qu’il n’y a pas d’ordre, juste l’amour. Có lẽ tác giả chỉ dành cho tình yêu lứa đôi. Đâu cần phải yêu mình trước khi yêu người… Mình được mạ đẻ ra thì mình yêu thương mạ là chuyện ắt có và đủ. Không so đo, chẳng phân bì. Vẻ đẹp do tình yêu mang lại nó vốn thế.

Mạ tôi thương người con đầu ra sao thì thương thằng út một mực như vậy. Người con đầu ra riêng thì cán cân tự động lệch hẳn một phía. Nào lạ gì khi trong gia đình ai nấy đều thông hiểu câu “con út trút gia tài”. Tôi là đứa hưởng được cái đặc ân kia, thứ lề luật không tiện viết ra văn bản. Trong mâm cơm, món ngon hoặc thứ “hắn” thích mạ luôn xí phần: Ăn chi vô hậu rứa bây, cứ tranh ăn với em là tại vì răng? Thằng út hay bị chảy máu cam, mạ nấu cho nồi chè đậu đỏ ăn giải nhiệt sau khi biểu hắn nằm xuống tấm phản đắp trán bằng khăn ủ nước lạnh và lỗ mũi đã nhét chật một lá trầu xanh nhằm ngăn chận giọt máu đào thất thoát, hao hụt.

Hôm ấy (một sáng sương Thu đầy gió lạnh?) mạ tôi mặc lấy chiếc áo dài màu xanh rêu, hàng nhung êm mịn. Bối tóc sau khi chải mượt bằng chiếc lược làm bằng sừng trâu, xỏ đôi bông tai có nạm ngọc xanh vào trái tai chỉ thua đức Phật chút đỉnh về độ dài. Mạ đeo vòng kiềng bằng vàng 24 le lói, chỉ hèn kém thua vật trang sức của Nam Phương hoàng hậu nhưng đủ tăng hào quang khi tôi ngó sững tới mạ. Nó “ăn” với chiếc áo màu xanh rêu nhung gấm ấy quá và tổng thể, những vật phụ kiện vừa cài đặt kia đã khiến mạ ăn gian thần thời gian tới cả chục niên, hàm hồ mà nói rứa. Trong xóm vắng có ai lạc giọng hát bài “Tôi đưa em sang sông”, giọng chất ngất tâm sự:… chiều xưa mưa rơi âm thầm để thấm ướt chiếc áo xanh… hôm nao em sang ngang, bằng xe hoa thay con thuyền, giờ phút cuối đến tiễn em… gót chân ngày xa xưa sợ lấm trong bùn khi mưa…

Khi mạ chính thức sang ngang, bản nhạc này chưa thể hiện hữu. Ngoài làng mạ ở cũng có một dòng sông, nhưng cây đa bến cũ con đò năm xưa hình như chỉ dành riêng cho một mình ba tôi đến đón đưa. Thời đó, khi thất tình, người ta sẽ làm gì? Người ta bỏ làng nước để trốn đi làm cách mạng ư? Bây giờ thì xem chừng người ta đã làm quen với tất cả những cơn sóng tràn bờ, với thứ lãng mạn tiểu tư sản, dùng nó vỗ về chút thương đau. Ai thất tình mà hát giọng buồn chi lắm thế? “Anh” nhắc tôi nhớ hôm nay là ngày chị tôi thực sự lên xe hoa, không sang ngang chẳng qua đò, cũng không xác pháo vướng gót chân. Vì đại sự nên mạ tôi đã “diện” chiếc áo đẹp nhất mà mạ có. Chiếc áo “ăn nói” ít khi tìm ra cớ để khoác thân. Nôm na là xếp trong đáy tủ để “phòng khi hữu sự”. Và hữu sự đã tới, sánh đôi cùng những lời mạ thủ thỉ dành cho chị tôi, người từng ái ngại để bùn hoen gót chân trong ngày mưa:

Kể từ ngày mạ đẻ con ra
Ai mớm cơm, trún cháo lớn mà từng ni?
Hai tay bưng đọi chè tàu
Vừa đôi thì lấy ham giàu làm chi.

Rõ là:

Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.

Có ngồi chào vao, có kiếm cách chuyển vẫn gì đi nữa thì cuối cùng chị tôi cũng “bỏ nhà ra đi”. Dù anh hàng xóm buồn đời hát hỏng “mưa bên chồng có làm em khóc?” thì mọi chuyện cũng đã lỡ sang trang. Dâu bể cuồng nộ vùi dập phận người tả tơi rồi cũng đâu vào đó huống hồ chuyện nhi nữ thường tình. Xe hoa mang đi chỉ một người đâu sánh bằng chiếc thuyền chở hàng trăm tính mạng bọt bèo trôi sông đổ biển? Nghe ai đó nói “người tình không chân dung” nọ đã xếp bút nghiên theo việc đao cung. Là sĩ quan lính thứ dữ, đánh đấm ra trò ở mặt trận cổ thành Quảng Trị, là nơi do vua Minh Mạng dựng xây mà trong phạm vi lớn chưa tới 3 cây số vuông đã hứng chịu 320 ngàn tấn bom đạn chăm cày xới trong 81 ngày đêm khói lửa triền miên. “Anh không chết đâu anh”. Anh cũng không làm bại tướng cụt chân, nhưng khi anh trở về thăm xóm, vô tình anh khiến mạ tôi siêng đi chùa.

Ngoài chiếc áo nhung xanh rêu mạ còn hai chiếc khác: Một màu lam và một màu nâu. Có người gọi lam là màu khói nhang, có người kêu nâu thành màu nu. Và có người đưa nhận xét, đó là những màu căn bản mà con em gia đình Phật tử vẫn thích mặc vào người. Không tin hả? Mấy sư cô, các sư nữ hằng tin rằng thứ sắc độ ấy ít trêu ngươi, ưa lắng chìm vào sự trầm tịch. Vậy thì chẳng lẽ kiếp trước mạ tôi là o con gái quét lá sân chùa, rót nước dâng hoa lên bàn Phật? Bên ngoài cảnh giới nghiêm cẩn đạm bạc ấy có lắm màu vui nhộn non tươi là thế răng mạ lại đi chọn thứ màu “kín đáo” rứa hè?

Giống hầu hết quý vị phụ nữ thời đó, mạ tôi làm thứ nghề nghiệp kỳ cục được ghi nắn nót trong sổ gia đình: Nội trợ. Phong trào nữ quyền là gì? Nào ai hay! Cũng như kế hoạch hoá gia đình là gì? Condom là cái quỷ sứ chi? Quý ông đầu đội trời chân đạp đất vẫn như vịt nghe sấm, nước đổ lá môn, chẳng làm nhăn mặt nước hồ thu từ bao lâu vẫn phẳng lặng. Nội trợ là giúp đỡ việc trong nhà? Quán xuyến việc chăm con, giặt giũ, may vá, đi chợ, nhặt rau, nấu ăn, rửa chén bát. Nếu có nuôi bầy gà thì sáng ra sân vãi nắm gạo cho chúng ăn để chạng vạng thì tục tác gọi chúng về chuồng. Đầu tắt mặt tối thì có vẻ hàm oan vì mạ tôi tự ví mình là ba đầu sáu tay “mặt trận nào cũng đánh thắng”. Đã thế còn biết cách thu xếp lịch lao động để chừa ra một khoảng trống trong hai mươi bốn giờ lu bu trấn nhậm hậu phương. Khoảng thời gian phù du ấy mạ tôi dành vào việc đọc sách. Bà có một trí nhớ phi thường, kể ra vanh vách từng chi tiết, tên các nhân vật nằm trong toàn bộ các tiểu thuyết của bao tác giả ở nhóm Tự Lực văn đoàn. Mạ nào con nấy, tôi cũng bắt đầu sa ngã lòng mình, thổn thức theo những trang văn chương có khả năng dắt trí tưởng mình dẫm chân vào những “vùng địa đàng” tuyệt đối không hề có cảnh tên bay đạn lạc. Người sĩ quan binh chủng Thuỷ quân lục chiến xóm giềng hết ba ngày phép, sang chào mạ tôi để kịp có mặt ở một trận đánh ác liệt khác. Anh nhìn tôi: Mi không lo học thì bữa mô chân cẳng cũng phải lội khắp bốn vùng chiến thuật như tao. Một xanh cỏ hai đỏ ngực là thứ khiến mạ tao phải ăn chay trường trì chú tụng kinh. Coi chừng, mạ mi cũng rứa thôi, kêu trời răng thấu?

Tôi học rất kém. Vẫn ước ao có được đầu óc minh mẫn giống mạ mình. Thông tín bạ luôn có hàng chữ mực đỏ của thầy cô phê: “Chăm chỉ, hiền ngoan nhưng học lực cứ không thấy tiến bộ”. Mấy thầy cô “học lực” coi bộ kém thua ba tôi. Ông phán, kiểu tam đoạn luận: Thằng ni luôn coi sách vở là kẻ thù, đã là kẻ thù thì buộc phải tránh xa, vì xa lánh sách đèn nên dốt đặc cán mai nào là chuyện lạ! Thấy chưa toàn vẹn, ba tôi buông một dấu chấm: Đồ con hư tại mạ! Mạ tôi chẳng lấy đó làm điều, bà hoá thân thành một nhà hiền triết: Không có học trò dốt, chỉ có thầy cô chẳng nắm vững phương pháp giáo dục thôi! Chao ôi, một người chỉ biết nghề nội trợ mà dõng dạc phát ngôn ra thế. Dễ nể thật! Khẩu khí nọ đi thẳng vào người tôi, sướng như cởi được tấc lòng, như đả thông được hai huyệt nhâm đốc. Mạ tôi mô phải là người mạ bình thường, bà còn là thần tượng của tôi nữa, không phải rứa hay răng? Bà là chưởng môn nhân môn phái Tình Thương: Hỡi những con chim chưa ra ràng đang bị vặt lông, hãy nối kết cánh lại. Tôi chưa đủ lông đủ cánh vì rứa nên cứ bu mạ như sam. Tôi nghĩ quẩn, e chiếc áo dài xanh rêu nhung gấm sang trọng và đẹp đẽ của mạ sẽ bị xếp xó, ngủ yên dưới đáy tủ, vì rằng cái ngày mà tôi cả gan “đem nàng về dinh”, đưa nàng sang sông, tam thập nhi lập… thì ngày đó có diễn ra sẽ không cách chi có sự hiện diện của mạ. Sức người có hạn, có là tài thánh mới bắt mạ mình chờ được, nhìn ngó đứa con út dại khờ tự lập thân chập chững vào đời.

Rồi thần thời gian đã lén “đi đêm” với thần chết. Quỷ khóc thần sầu đã vi phạm hiệp định ngưng bắn, đang an vui là thế họ tới gõ cửa, điểm danh đúng tên mạ tôi. Bà chẳng có một biểu hiện nào trước đó, rất đột ngột một cơn bệnh ngặt nghèo đã vật bà xuống. Anh chị tôi mang bà vào Sài Gòn, tìm đến một bệnh viện nổi tiếng nhất, nhưng họ bó tay sau một tuần làm đủ các xét nghiệm. Sẽ không lâu nữa đâu, chúng tôi buộc lòng phải nói thế. Hãy mang cụ về nhà để nhỡ có những việc cụ đang dở dang việc hoàn thành… Một người nội trợ, hãy nghiệm xem, những việc nhỏ nhặt họ làm thường nhật có đáng không để bận tâm mưu cầu một vuông tròn? Cho dù chẳng ra cơm ra cháo thì… ba vạn cũng bỏ. Hãy thõng tay vào chợ. Xin cho một lần được thảnh thơi. Không, tôi quả thật hồ đồ, tôi quá trẻ người non dạ. Tôi đâu biết tâm niệm của mạ là được ngó mặt tôi lần cuối. Không biết ở ngoài nớ, việc ăn uống ngủ nghê sách đèn của thằng út con mạ ra răng? Mạ ở xa hắn có nhớ quay quắt không?

Chị tôi nói trong nước mắt: Theo chị đoán thì thực sự tim mạ đã ngừng đập khi nằm trên máy bay, tay chân lạnh ngắt. Chị không ngờ mạ đã gắng gượng, dùng tàn lực để mở mắt ra trông em phút cuối. Hãy nhớ đến thời khắc nọ để ghi chính xác tới ngày giờ tử của mạ. Tôi không vuốt mắt vì thứ nhãn tuyến mù mờ ấy đã vội đóng, đồng tử khép lại liệu có kịp thu giữ nhân diện thằng con út của người? Một giọt nước mắt trườn ra khỏi khoé, bò chậm xuống những đường da nhăn. Ai đã mặc cho mạ tôi chiếc áo dài màu khói nhang trên người? Chiếc áo đã bạc tình thôi ôm giữ sát sao cơ thể mạ như ngày nào. Một bầu trời vừa sụp đổ xuống người tôi.

Trước khi chạy được sang tới đây, tôi mất cả mạ lẫn ba, bỏ lại hai nấm mồ hoang lạnh. Như ca dao ví, tôi là một cây đờn bị đứt hết dây, tình tang chi nữa hỡi con bạn mình ơi! Tôi vượt biển cùng một người con gái đất Thần kinh mà mạ tôi nào chứng giám là hắn vừa có vợ. Tôi lên đò chòng chành sóng lớn, ôm theo hành trang một “con sáo sổ lồng bay đi” vô phương hướng. Đất lành chim đậu là một từ ngữ thậm chính xác. Đất lành cho nên thống kê về số tử vong gần như chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chuyện nhỏ. Cũng vì đất lành cho nên đến lúc trái gió trở trời, chim có lạc đường bay, có rụng lông gãy cánh thì người sống trên cuộc đất ấy sẽ ra công tô đậm thành ngữ “cho chim liền cánh như cây liền cành”. Tôi từng vào nằm nhà thương, mát dạ mát gan khi nằm yên cho họ lắp cánh tháp cành. An tâm, rồi bạn sẽ chóng bình phục. Họ hỏi: Trong gia đình bạn có ai mất vì chứng ung thư không? Tôi nói có, hiền mẫu. Họ bày dao kéo chuẩn bị làm một cuộc banh da xẻ thịt, họ bảo mức độ nguy hiểm chỉ lên tới 17% và rồi tôi bị đánh thuốc mê, chìm trôi không hay biết chuyến đò chèo mát mái hay sông trôi lộn bờ. Nhận chén cháo lú hay hoàn hồn reo to chữ Freedom như ngày nào chính thức giã từ kiếp thuyền nhân.

Chuyến “sang ngang” ấy tối đen hơn mộ huyệt, chừng tám tiếng sau có người cúi mặt thấp xuống thăm dò sự hô hấp của tôi, mặt nạ dưỡng khí làm tôi trông lên không rõ hư thực một quang cảnh xa lạ, đầy hơi nước mù ẩm. Người ấy nói: Tôi tên Sylvie, y tá chăm nom bạn hôm nay, chúng tôi sẽ chuyển bạn lên tầng bốn, nằm ở phòng đầy đủ máy móc dụng cụ để dễ theo dõi tiến độ sức khoẻ bạn mang. Bạn thấy thế nào? Từ một tới mười, cơn đau của bạn đang ở lằn mức số mấy? Không cần nói, bạn dùng tay để ra dấu. Sylvie có mái tóc vàng, tôi chỉ nhận ra điều ấy trước tiên. Thật có hơi bất tiện nếu tôi di chuyển cánh tay trái, bởi ở đó còn ghim một mũi kim với ống nhựa chuyền nước biển. Tay phải tôi xoè cả 5 ngón, cộng thêm 3 ngón ở lần hai. Ô, vậy thì thuốc tê đã bắt đầu hết gây ảnh hưởng, hãy uống bốn viên này đi. Vừa morphin giảm đau vừa thuốc tăng lực, giúp chóng hồi phục.

Cửa thang máy mở. Một nam y tá cao to đẩy chiếc giường tôi nằm vào một diện tích quá đỗi rộng rãi. Sylvie theo cùng, cô ta cũng đẩy một cái bàn có bốn bánh xe đặt để hai cái máy hình thù kỳ lạ. Cô nhặt một tấm mền mỏng từ dưới giường, trải rộng rồi đắp vào người tôi. Trong bệnh viện dường như bao giờ cũng có một cơn gió lạnh vụt thoáng qua. Một ngày có mấy chục bệnh nhân câm lặng thay đổi chỗ trú thân? Từ “khách sạn 3 sao” này xuôi đổ về cái motel hoang lạnh mọc chơ vơ bên xa lộ, đưa mặt cho người ta tô son trét phấn như kiểu thủ tục làm đẹp để trình diện Diêm vương ngó sao cho tử tế?

Tôi nghĩ là bạn khỏi cần thở bình dưỡng khí nữa. Chừng nửa giờ sau, có người sẽ mang phim đặt dưới lưng bạn để chụp quang tuyến X. Sylvie nói khi phụ người y tá lực lưỡng cẩn trọng nhấc hỏng tôi đặt sang một chiếc giường khác, êm ái hơn, tươm tất hơn. Tối nay chúng tôi gồm ba người sẽ thay phiên vào xem chừng bạn, sợi dây này có cái nút nhựa đỏ, bấm nó chừng nào bạn cần tới sự giúp đỡ. Trong lúc này bạn ngủ được chừng nào tốt chừng đó. Tấm màn được kéo lại, bóng điện hạ độ sáng xuống sau khi Sylvie hý hoáy ghi vài hàng chữ vào tấm bìa cứng rồi máng nó gần đầu nằm. Cô bóp nhẹ vào vai tôi thế một lời tạm biệt.
Nửa khuya, chừng khoảng hai giờ sáng, tôi bị lôi ra cơn ngủ vùi do ảnh hưởng thuốc cứ mãi uống cách khoảng bốn tiếng. Một bóng trắng vừa lẻn vào, mang theo chút giá lạnh và bà mặc đồng phục y tá ấy đã vạch áo tôi thăm dò vết cắt cùng những đường chỉ khâu y như có một con rết mãi bám cứng, mãi hút máu, mãi truyền độc tố làm tê nhức. Đẹp. Ổn thoả. Chẳng sưng tấy. Bà từ tốn chậm rãi lau mặt cho tôi bằng chiếc khăn ấm áp vừa hấp tẩy xong. Bà dịu dàng điều chỉnh cho chiếc giường gấp lại để từ nằm tôi đổi qua thế ngồi, xong thì bà ôm lấy tôi vào lòng vỗ về, thì thầm nói hãy mơ tới một điều gì thật tốt đẹp, phải tự nhìn nhận rằng cuộc đời này vẫn còn đó những điều đáng yêu, dẫu nhỏ nhặt. Tôi dựa đầu vào vai bà, khứu giác ngửi ra một hương mùi quen thuộc, xa vắng. Tôi vòng tay ra ôm cứng lấy bà, tôi lục soạn trí nhớ và mơ hồ nghĩ rằng thân thể vừa kích ấy rất trùng hợp với mạ tôi. Bà nói bà biết tôi đang đắng miệng, vậy thì thèm ăn hoặc uống một thức gì cứ cho hay, khuya mai bà sẽ mang vô. Tôi có những cuốn truyện hay nhưng ngại là mắt người bệnh hẳn còn yếu, chưa nên đọc. Hãy nên thương mình trước khi yêu tha nhân. Hãy cố tĩnh dưỡng, bởi được đi lại bình thường là một món quà của thượng đế trao tặng cho mỗi chúng ta.

Những gì bà nói thoảng qua tai tôi có mãnh lực khiến căn phòng hồi sức này tự động biến sang vuông không gian ở Huế ngày cũ. Tự dưng tôi nhớ mạ mình đến muốn khóc. Trong đời, chỉ có mạ tôi mới quan ngại chăm lo kiểu đó, kỳ dư chẳng còn một ai. Lương y như từ mẫu hoặc y tá như mẹ hiền thì cũng nằm ở một chừng mực nào đấy thôi. Từ một tới mười, bà thương tôi ngang mức số mấy? Nếu có hỏi e rằng bà ấy chỉ xoè bàn tay đủ năm ngón là cùng. Mức trung bình. Vậy cũng nên xem là tốt phước.
Tôi chóng bình phục, tình trạng khả quan đến độ cả bác sĩ lẫn năm cô y tá thường theo dõi chăm sóc tôi cũng phải ngạc nhiên. Họ nhận xét: Thường thì người Á châu tuy thể lực không bằng dân Âu châu Nam Mỹ nhưng ngược lại, tinh thần của họ rất vững vàng, giỏi chịu đựng. Sự chịu đựng của bạn là phương thuốc quý, nhưng chúng tôi nghĩ, ngoài ra hẳn bạn phải nương vào một phép nhiệm mầu nào đó, khó giải thích. Họ thay phiên bắt tay tôi, chúc mừng ngày tôi trở lại sinh hoạt với nhân quần bên ngoài khuôn viên bệnh viện. Tạm thời quên chuyện mưu sinh đi nhé, chúng tôi sẽ viết giấy chứng nhận rằng bạn cần tĩnh dưỡng ít lắm là một tháng. Tháng sau nhớ vào lại đây cho chúng tôi xét nghiệm, một thủ tục cần có, chỉ vậy thôi.

Tôi thưa với họ là tôi chưa an lòng ra đi khi lỡ quên thốt lời cảm ơn chân thành đến một bà y tá. Ai vậy? Bà đó tên gì? Họ trố mắt nhìn tôi. Bằng vào sự ấp úng khi diễn đạt vừa tiếng Anh chen lẫn tiếng Pháp: Tôi thật vụng về quên hỏi tên bà ấy. Bà vẫn đến hằng đêm, vào khoảng hai giờ sáng, ôm ấp tôi, vỗ về tôi… Không biết tên, vậy thì nhân dáng bà ta ra sao? Mập, ốm, màu da, độ tuổi? Tôi cà lăm, phụ diễn bằng tay… rằng thì là tôi trông không rõ mặt, chỉ biết bà có một mái tóc đen… bà ngồi trên giường nên tôi cũng chẳng biết cao thấp ngang đâu… không ốm chẳng mập, đủ ôm vừa một vòng tay và người bà thơm thứ mùi nồng đậm tựa trầm hương. Cả ê-kíp vây quanh tôi, đứng nhìn nhau mặt nhăn mày nhíu, Sylvie là phát ngôn viên sau cùng: Mỗi ca trực chúng tôi đều ghi rõ tên họ, giờ giấc của từng y tá. Điều anh nói thì rõ là hoang đường, không riêng khu này, tôi e là khu lân cận cũng chẳng có một người y tá như anh vừa tả. Chúng tôi hy vọng là liều lượng thuốc mà chúng tôi trao anh uống suốt tuần lễ qua sẽ không gây cho bệnh nhân một ảo giác nào cả. Dù sao thì trường hợp này sẽ buộc chúng tôi nên lưu tâm. Vậy đi nhé. Chúc may mắn.

Về nhà, việc đầu tiên là tôi quét dọn bàn thờ, mua trái cây đặt lên, rót nước trà, thắp ba cây nhang cắm trước di ảnh đen trắng mạ tôi. Tấm ảnh duy nhất mà tôi có chụp mạ trong ngày cưới chị tôi. Chiếc áo dài nhung xanh rêu, đôi bông tai, cái vòng vàng quanh cổ, đầu tóc bối cao, đôi mắt đen láy, nụ cười đôn hậu hiền lành. Mạ tôi không thể hình dung được là có ngày đứa con út của bà vụng dại đi vào nghiệp viết văn. Tổn hao bao giấy mực nó chưa hề lắng lòng viết riêng cho mạ hắn một trang. Tôi nghĩ là chắc các bạn đọc cũng rộng lòng tha thứ cho lỗi lầm tôi mang. Khi đứng trước biển, bạn có tài cán gì để lột tả hết sự bao la vô bờ đến choáng ngộp mà con sóng từ ngàn trùng cứ mãi chuyên cần vỗ lao xao vào bờ, vào triền cát ẩm mơn trớn bàn chân trần mình đặt để, mỗi khi một lún xuống? Nếu bạn không có được sự ví von biển cả là lòng mẹ thì tôi xin thôi đối thoại cùng bạn. Chỉ một chuyện sau cùng xin bạn hiểu cho, mỗi khi gặp điều bất ưng khiến lòng sầu muộn tôi đều nhớ tới mạ mình để tìm quên. Ngay cả khi hoạn nạn bất ngờ đổ ập xuống, hình bóng mạ tôi là cái phao giúp tôi vượt qua gian khổ, kể cả vực tôi lên khỏi hai bờ tử sinh. Tôi quả quyết để thưa với bạn rằng: Bà y tá “vô danh” xuất hiện hằng đêm trong bệnh viện ấy, đó chính là mạ tôi.

Tôi đợi ba cây nhang cháy hết chiều dài nó mang, lụn tàn trong bát đựng gạo rồi mới “đi thưa về trình”: Mạ ơi, chừ thì đến giờ con vô phòng uống thuốc đã, mạ nghe!

Hồ Đình Nghiêm.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 6 guests