Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Bà Năm Xóm Chợ Bà Chiểu.

Phan Đức Minh
Mấy hôm nay, Bà Năm mất cả ăn, cả ngủ vì chỉ còn 1 ngày nữa thôi, sáng mai là Bà lên máy bay sang Mỹ đoàn tụ gia đình, sống với đứa con gái lớn đã sang sinh sống ở Mỹ dễ chừng hơn 2 chục năm rồi. Lâu lâu nó vẫn gửi thư cho Bà và gửi tiền nữa. Với số tiền 5, 6 trăm đô la mỗi lần nó gửi về, đem đổi ra tiền Việt Nam hơn chục triệu lận. Bà ngồi mà ăn, cúng vô chỗ này, chỗ nọ để lo cho kẻ nghèo khổ, giúp đỡ bà con, chòm xóm, kẻ nhiều người ít, cũng không cách nào cho hết. Bà già rồi, sống với đứa con gái út, hàng ngày chỉ có việc ăn 2,3 bửa rồi đi đây, đi đó, thăm bà con, bè bạn. Về nhà thì mở Ti Vi , coi băng video cải lương , phim hài, phim chưởng… đủ thứ trên đời. Cuộc sống của Bà nghĩ thật sung sướng. Bao nhiêu người già cả ở quanh cái chợ Bà Chiểu, Quận Bình Thạnh nơi đất Sài Gòn này, ước mơ có được một phần cuộc sống của Bà mà đâu có được. Họ phải đầu tắt, mặt tối, chạy xuôi chạy ngược, buôn bán tảo tần nơi lề đường, hè phố, bị công an rượt đuổi chạy có cờ… để kiếm miếng ăn cho no cái bụng thôi mà cũng không nổi.

Bà Năm có đứa con gái vượt biển rồi đi Mỹ mà cuộc đời sướng như thế đó. Người ta bảo “Bà Năm ăn ở phúc đức lắm mới được đứa con gái như thế. Chớ biết bao nhiêu người, sinh con đẻ cái, gái trai cả bầy mà có làm nên cơm cháo gì đâu?“

Cuộc đời của Bà quả là sướng như tiên ở Sài Gòn rồi còn chi nữa. Bảo đứa con gái út viết thư cho chị nó, Bà cứ bảo nó viết cái tên Sài Gòn, vừa quen, vừa gọn, vừa dễ nghe, chớ đâu lại có cái tên dài lòng thòng…Thành Phố Hồ Chí Minh, nghe mệt thấy mồ.

Mỗi khi nhận được thư của đứa con gái từ Mỹ gửi về Sài Gòn cho Bà, có lúc kèm theo vài tấm ảnh… theo thói quen từ hồi có… “loại thư Việt Kiều gửi về quê“, Bà lại dúi vào tay người đưa thư mấy ngàn bạc cho người ta vui vẻ, lương tiền nhà nước làm chi đủ sống. Chu cha! Đất Mỹ đẹp quá trời! Con Nguyệt, con gái Bà, nói nó ở thành phố San Diego, tiểu bang Ca-li, một thành phố đẹp lắm. Coi những tấm ảnh, Bà thấy thành phố San Diego quả là đẹp thật. Nhà cửa, đồ đạc, xe cộ của con gái Bà sao mà đẹp chi lạ! Hai đứa con trai của nó trong ảnh còn đẹp hơn cả mấy đứa trẻ trong những bức tranh Tầu ôm quả đào tiên nữa lận. Con Nguyệt nó bảo làm thủ tục bảo lãnh cho Bà sang Mỹ ở với nó. Nó bảo Bà già rồi, sang Mỹ khỏi có phải làm ăn chi hết, rồi ít lâu sau thành dân Mỹ, lại có tiền chính phủ nuôi, chỉ ở nhà chơi với cháu thôi. Bà muốn coi cải lương hả? – Băng Video phim Việt Nam, phim Tầu, phim chưởng Hồng Kông nhiều vô số kể. Chẳng thiếu thứ gì. Nó mua, nó thuê về nhà cả thùng lận. Bà tha hồ mà coi. Bà muốn đi Chùa hả? – Nó lái xe Mỹ, xe Nhật êm ru bà rù, chở Bà đi đây, đi đó, chỉ nháy mắt là tới nơi, chớ đâu có phải đi bộ mỏi cả giò, đổ mồ hôi hột hay đi xích lô chạy loạng quà loạng quạng, cứ như muốn ủi vào xe lam, xe đạp, xe Honda, ô tô con, ô tô mẹ, chạy tưới hạt sen, lộn xộn xà ngầu… kinh khủng, muốn chết quá!

Mấy năm trước, khi Ông Cụ còn sống mà ai nói tới chuyện kéo Ông đi Mỹ sống với con gái là Ông chửi toáng cả lên: ”Không có đi đâu cả! Ở quê nhà với bà con, chòm xóm bạn bè, mồ mả Tổ Tiên không sướng hơn hay sao? Tiền bạc nó gửi về, ngồi mà ăn đến chết cũng không hết. Già cả rồi, sang đó làm nên cái giống chi mà làm?”

Thế nhưng từ ngày Ông Cụ mất đi, Bà Cụ thấy buồn buồn làm sao ấy. Thiếu người bầu bạn. Đôi khi có cằn nhằn gấu ó với nhau về cái chuyện ”Đi hay ở” thật đấy, nhưng lúc này Bà Năm mới cảm thấy cô đơn, cô đơn thưc sự. Người già có cái tình yêu thương cũng như nỗi cô đơn của người gia. Thế là càng ngày Bà càng cảm thấy cần phải đi Mỹ để sống với đứa con gái mà Bà từng mang nặng, đẻ đau, rồi còn gian nan về những phen chạy giặc, chiến tranh nữa chớ. Bà phải đi Mỹ để sống với hai đứa cháu ngoại trong ảnh thật dễ thương. Lắm lúc Bà ngồi một mình mà nước mắt rưng rưng, Bà thương đứa con gái hiếu thảo và hai đứa cháu ngoại quá chừng chừng…

Sáng nay, Bà gọi con Lan, đứa con gái út, dậy thật sớm để kịp ra phi trường Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ sáng nhưng xe đón từ lúc 5 giờ. Bà Năm có 2 đứa con gái, con Nguyệt là lớn, vượt biển đi Mỹ đã hơn 2 chục năm. Con Lan là thứ nhì mà cũng là út, lúc ấy còn bé tí ti. Bây giờ con Lan đã lớn tướng rồi, đã vào Đại Học và theo mấy khoá Tiếng Anh. Chị nó bảo ”Sang Mỹ, con Lan sẽ vào Đại Học, tha hồ mà học.” Con Lan đang ở cái tuổi mới lớn, nó còn thích đi Mỹ hơn cả bà Năm nữa, tuy rằng đi Mỹ thì nó phải xa vô số bạn bè, thân thiết, đã từng gắn bó với nhau trong những tháng ngày khốn khổ, gian nan, kinh hoàng nữa chớ. Nó nghĩ lại mới ngày nào đó, vậy mà Chị nó đi Mỹ cũng đã hơn 2 chục năm, mau dễ sợ! Nó tính trong đầu: sang Mỹ chịu khó mất vài 4 năm thì cũng lấy xong cái B.S. hay B.A. chi đó như Chị nó nói. Học thêm vài năm cũng lấy được cái bằng Master cho nó hách, rồi đi làm. Thế là sẽ có vô số tiền. Nó sẽ đáp máy bay từ Mỹ về Sài Gòn. Lúc đó là đi thẳng cái một, khỏi có… quá cảnh xứ này, nước nọ lôi thôi. Bạn bè của nó kéo cả băng, cả đoàn đi đón. Vui ơi là vui! Nó sẽ cho tiền những đứa bạn nào nghèo khó, chồng con vất vả đầu hôm sớm mai. Nó sẽ lôi hết bạn bè cũ cùng học lớp 12 với nó ở Sài Gòn, thuê vài cái xe đi chơi khắp mọi chỗ kêu bằng… danh lam, thắng cảnh, quay video, chụp ảnh, đi ăn nhà hàng chết bỏ… cho bõ ghét những ngày… con nít chẳng dám đi đâu hay làm cái gì…

Có tiếng xe "pin! pin!" ở ngoài cổng. Người ta tới đón mẹ con Bà Năm ra phi trường. Bà con, bạn bè lối xóm bu lại, nước mắt ngắn dài, kẻ ở người đi… Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn thế! Mẹ con Bà Năm với mấy cái va-li bự chảng, hai cái xách tay nho nhỏ đã lên xe. Một số bà con thân thiết cũng leo lên xe để tiễn mẹ con bà Năm tới tận phi trường. Một số bà con ở lại, vẫy tay từ biệt khi cái xe 12 chỗ ngồi đã từ từ lăn bánh.

Bà Năm cố nhìn lại cái xóm cũ đã gắn bó, sống chết với Bà từ bao nhiêu năm nay. Những dãy nhà hai bên đường phố chạy thụt lui lại phiá sau cùng những bóng cây, cột đèn, thân thương quá đỗi. Vài chiếc xích-lô đưa khách sớm, dăm cái xe đạp, vài chiếc Honda rồ máy chạy ào ào… Tự nhiên Bà Năm thấy nhớ, thấy thương Sài Gòn quá đi mất thôi. Vậy mà Bà nỡ bỏ nó để đi xa, chẳng biết bao giờ mới trở lại nơi này.

Bác tài xế bấm còi "pin! pin!" khi tới chỗ ngã tư đông người lộn xộn làm con Lan giật mình khi còn đang ngủ gà, ngủ gật vì sáng nay nó phải dậy sớm. Xe qua cổng phi trường, vòng qua vòng lại rồi đậu phiá trước một ngôi nhà đông nghẹt những người.

Hai mẹ con Bà Năm đã lọt vào trong căn phòng ”cách ly” để lạï bên ngoài số bà con, bạn bè thân thiết với bao nhiêu nỗi niềm thương nhớ đến độ sót sa. Thoát được cái cảnh lo sợ bị rạch túi, mất giấy tờ, tiền bạc như thiên hạ vẫn đồn đại, Bà Năm thấy an tâm đỡ khổ. Bà Năm đã già, lẩm cẩm, may mà có con Lan đi theo chớ không dám chết quá. Bà có biết trời trăng, mây nước gì đâu. Hết nạp giấy tờ, kêu tên, rồi nạp tiền đủ thứ linh tinh. Đến chỗ mấy ông, mấy bà công an áo vàng, cầu vai đỏ chóe, bà hơi run khi thấy họ lục xét, bới tung đồ đạc của mấy người đi trước. Con Lan hích hích cùi chỏ rồi thò tay bấm Bà ”Má để con!” Con nhỏ này nó học ở đâu mà bữa nay nó lanh … như quạ, dấm dúi tiền bạc cho đám công an bằng những cái phong bì ”có nhân” ở bên trong. Kẹt quá, nó dúi đại cả mớ tiền Hồ vào tay bọn công an tỉnh bơ, chẳng còn coi ai ra gì cả. Công việc đi qua nhanh như gió. Cuối cùng một lão công an, mặt lạnh như tiền, hất hàm hỏi ”Bà và Cô có đem theo đô la không?” – Thưa không! – Thế còn giữ tiền Việt Nam không? Con Lan lại hích hích cái cùi chỏ vào ba sườn Mẹ nó. Bà Năm lôi trong người ra cái phong bì to bự đựng mớ tiền Hồ còn lại, đưa cho lão công an, miệng líu ríu ”Còn lại mấy trăm ngàn, xin biếu… đồng chí uống cà phê.” Lão công an phì cười khi nhét cái phong bì vào ngăn kéo bàn gần đó nhanh như người ta làm xiệc. Lão ta cười chắc là vì lão ta có đồng chí đồng choé gì với Bà Năm bao giờ đâu…

Hành khách lên xe, ra chỗ máy bay đậu. Ngồi trong máy bay rồi, con Lan buộc dây lưng an toàn cho Mẹ. Sau một hồi gầm gừ, lắc lư, chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam từ từ cất cánh. Bà Năm nhăn mặt vì khó chịu, nôn nao trong người. Ngồi cạnh cửa kính máy bay, Bà Năm thấy phố xá, đồng ruộng quanh vùng Sài Gòn lu m, xa dần rồi mất hẳn. Chung quanh chỉ còn là mây trắng xoá, mịt mờ…

Nỗi buồn xa xứ ở đâu tự nhiên kéo đến. Hai hàng nước mắt chạy quanh. Con Lan giương tròn đôi mắt nhìn Mẹ nhưng chắc là nó không làm sao hiểu nổi. Máy bay dừng lại ở Thái Lan để chuyển sang máy bay quốc tế, nghe nói bự lắm. Con Lan lúc này lanh lẹ, dễ thương vô cùng. Nó thương Mẹ nó. Nó lo cho Bà đủ chuyện trong chuyến đi nửa vòng trái đất đầu tiên và chắc cũng là cuối cùng của đời Bà. Mới ăn có một bữa trên máy bay với một bữa ở khách sạn để chờ chuyển máy bay mà Bà Năm đã thấy nhớ món cá lóc nấu canh chua, cá nục kho khô, nhất là điã giá sống… Con Lan cứ ăn tỉnh bơ, ào ào hết sạch. Con gái 17 bẻ gẫy sừng bò còn được, huống hồ năm nay nó đã lớn tướng, dư sức lấy chồng được rồi. Bà lẩm cẩm lo nghĩ vẩn vơ ”Nếu cứ ăn uống hoài kiểu này chắc chết quá!” Mà không, con gái Bà nó bảo ở bên Mỹ đồ ăn không thiếu cái chi cả. Chợ Mỹ, Chợ Tầu, chợ Việt Nam có đủ hết. Tha hồ mà làm… bún bò giò heo, bún cá, phở, mì, bánh canh, bánh xèo, chả giò, bánh cuốn… Tự nhiên Bà Năm lại thấy … lên tinh thần.

Người ta hướng dẫn Mẹ con Bà Năm lên cái máy bay to chi lạ. Nghe nói nó chở cả mấy trăm con người và vô số đồ đạc, va-li, thùng, xách, linh tinh. Dễ sợ thật! Bà thấy hành khách đông vô số kể, ngồi trông từa tựa như cái rạp cải lương ở gần Chợ Bà Chiểu thân quen của Bà. Mấy cái màn ảnh chiếu phim cả ngày cả đêm, hoạ hoằn mới cho chúng nó… giải lao nghỉ xả hơi một lúc. Cứ độ 2 tiếng đồng hồ, mấy cô tiếp viên lại đẩy cái xe đi quanh, dọn ăn, dọn uống cho khách. Bà nghe nói ở Mỹ cả chục triệu người béo phị, đi không nổi. Chắc tại họ ăn uống lu bù tối ngày sáng đêm như thế này chăng. Bà ăn đâu có nổi, Chỉ có con Lan là cứ tỉnh bơ như sáo sậu, hết coi phim lại ăn, lại uống. Bà bảo con Lan ”Con ăn nhiều thế, mai mốt béo phị ra thì ai nó thèm lấy!” Con Lan phì cười ”Má đừng có lo ! Con biết hết trơn rồi.”

Máy bay bay miết, bay hoài, dễ chứng cả ngày lẫn đêm chi đó. Bà Năm thấy cái lối sống ở trên máy bay và chắc cả ở Mỹ nữa nó không đơn giản như ở quê nhà, nơi gần chợ Bà Chiểu. Cái chi cũng máy với móc, lộn xà lộn xộn, không biết đâu mà rờ cả.

San Diego
Máy bay hạ cánh xuống phi trường Mỹ. Con Lan bảo là phi
trường quốc tế Los Angeles. Bà Năm mệt mỏi nhừ tử cả người, đứng lên muốn hết nổi. Con gái Bà, con Nguyệt sẽ lái xe từ San Diego lên đón Mẹ con Bà ngay tại nơi này. Người đâu mà đông thế? Người ta ăn mặc thật là kỳ cục. Cả đời, bây giờ Bà mới thấy người ta ăn mặc chẳng giống dân Sài Gòn của bà tí nào. Đàn ông, con trai thì lắm người mặc áo để phanh cả bộ ngực lông lá tùm lum. Có người ăn mặc đồ lớn như dân Sài Gòn đi ăn cưới.có người chỉ mặc có mỗi chiếc áo ”may-ô ba lỗ”, có người cởi trần trùng trục đi lại tự nhiên, thoải mái. Đàn bà con gái cũng mặc quần, mặc váy như mấy cô, mấy bà hạng sang ở sài Gòn, nhưng có nhiều người lại mặc váy, quần cụt, ngắn cũn cỡn trông chẳng giống ai. Ở chỗ đông người thế này mà đàn bà con gái chi lạ, cứ như ở trần, ở trên thì vú vê to nung núc, rùng rà rùng rình, để ra cả đống cho người ta coi, ở dưới cứ như là … để ra ngoài hết trơn, cái quần, cái váy ngắn tí teo, lại còn xẻ rạch lên một khúc nữa… Trông dễ sợ quá! Bà Năm không biết con gái mình, con Nguyệt nó có ăn mặc như thế này không? Nếu nó lại bắt Bà phải ăn mặc như thế nữa thì không biết rồi ra làm sao? Liệu Bà sống nổi hay không? Tự nhiên Bà chặc lưỡi… kệ nó tới đâu thì tới, đã đến đất Mỹ thì cũng như… đã leo lên lưng cọp rồi, tụt xuống đâu còn được nữa. Thôi thì… cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem… đất Mỹ xoay vần tới đâu .

Sau khi làm thủ tục giấy tờ này nọ, Mẹ con Bà đẩy xe hành lý ra phiá ngoài. Còn đang ngơ ngác thì con gái Bà, con Nguyệt, đã la lên ”Má! Má Con đây nè!” Con gái Bà lúc này nó cao, nó to con, nó đẹp như ”đầm” ấy, Bà nhận ra không nổi. Nó chỉ người đàn ông đứng bên cạnh ”Đây là chồng con. Đây là hai đứa cháu ngoại của Má! Và đây là bạn bè của con… ” Con Lan đứng sau lưng Bà, bây giờ mới đến phiên người ta ôm lấy nó cứng ngắc, hỏi thăm rối rít tít mù, làm cho nó đỏ bừng cả mặt, cả tai …

Mấy cái xe Mỹ, xe Nhật bóng láng đưa Mẹ con Bà Năm về nhà con gái. Bà thấy cái chi cũng lạ. Nhà to và đẹp quá, nhưng không bầy đồ đạc tùm lum tà la như nhà của Bà ở gần Chợ Bà Chiểu. Con rể và con gái Bà chắc hẳn giầu lắm. Hai đứa cháu ngoại thì cứ nhìn Bà mà nói với nhau bằng thứ tiếng gì Bà không hiểu. Chắc là tiếng Mỹ! Vợ chồng con Nguyệt nói với Bà thì bằng tiếng Việt, còn khi chúng nó nói chuyện với nhau lại bằng tiếng Mỹ chi đó, làm Bà chẳng hiểu chi hết trơn.

Gặp mấy ngày nghỉ cuối tuần, bà con bạn bè người Việt ở gần, nghe tin Bà Năm sang Mỹ, cũng kéo tới thăm. Bà cũng thấy vui vui một chút. Cơm nước bầy ra đầy cả bàn, nhưng Bà ăn sao nó dở ẹt, không bằng món cá bống kho tiêu, cá lóc nấu canh chua của Bà ở Sài Gòn. Chúng nó lấy xe chở Mẹ con Bà đi chơi tùm lum đủ chỗ, đẹp mắt và to lớn, vĩ đại vô cùng. Sạch sẽ nữa chớ, không có tạp nhạp, lộn xộn, dơ dáy như cái xóm cũ của Bà.

Mấy ngày đầu đoàn tụ qua đi. Vợ chồng con Nguyệt đi làm, hai đứa cháu ngoại được đưa đến trường học con nít. Chỉ còn Bà với con Lan ở nhà, cái nhà rộng thinh rộng thang, phòng dưới nhà, phòng trên lầu, đủ kiểu. Chẳng bù với cái nhà của Bà gần Chợ Bà Chiểu, chỉ có một cái phòng để ngủ, một phòng cho khách ngồi chơi, còn lại là nhà bếp với bộ bàn ghế ăn cơm và linh tinh đủ thứ. Ấy vậy mà mới ở Mỹ chưa được một tháng, Bà Năm đã lại thấy nhớ nhung luyến tiếc nếp sống của Bà, một bà già hiền lành, chất phác, ở gần chợ Bà Chiểu. Đến cái ngày con Lan được Chị nó dẫn đi học ở cái trường nào đó xa lắm, phải đi bằng xe hơi, chớ không có đi bộ hay đi xe đạp được đâu. Thế là chỉ còn có một mình Bà ở lại với ngôi nhà to lớn rộng thênh thang mà thôi. Lúc này, Bà thấy quả thiệt là buồn, cái buồn miên man khó tả. Con Lan đã chỉ cho bà cách bật Ti Vi bằng cái… bấm cầm tay. Bật máy lên thì Bà chỉ thấy toàn là đánh lộn, la hét um xùm. Bật sang kênh khác thì lại bắn súng đùng đùng, máu me tùm lum. Bà ráng thử bật sang kênh khác nữa. Trời đất quỷ thần ! Một lão đàn ông, một mụ đàn bà ôm nhau cứng ngắc, hôn hít cứ y như là cắn nhau vậy thôi. Rồi cả hai… nhào lên giường vật lộn... hung hãn, trông mà phát khiếp, chi mà kỳ lạ ! Chán quá, Bà tắt máy chẳng buồn lắp phim, coi cải lương với lại chưởng Tầu.... Hết đi ra lại đi vô, Bà đâm ra cứ muốn ngủ gà, ngủ vịt. Mà nằm xuống thì đâu có ngủ được…

Bà từng nghe nói thành phố San Diego là nơi ấm áp mà sao mùa lạnh mới sang Bà đã thấy lạnh chi mà lạnh dữ. Ở Sài Gòn, Bà có thấy lạnh bao giờ đâu. Buổi sáng sớm và ban đêm, ở Mỹ, Bà cứ phải mặc cả mớ quần áo, trông to bự trác như hình vẽ Ông già Nô-en vậy. Có bữa con Lan mở Ti Vi, Bà thấy cảnh động đất, mưa lụt, bão bùng, xe cộ tông nhau, người chết, nhà cửa tan tành… Ở Mỹ cái gì đối với Bà cũng vĩ đại, to lớn, dễ sợ, kinh hoàng, dựng tóc gáy, nổi da gà. Nó không yên tĩnh, hiền lành như cái vùng đất chợ Bà Chiểu của Bà.

Tối đến vợ chồng con Nguyệt mới đi làm về. Cả nhà chỉ gặp nhau vào lúc ăn cơm. Ăn xong, ai về phòng người nấy, hay vợ chồng con Nguyệt lại lấy xe đi đâu đến khuya. Bà Năm muốn chơi với hai đứa cháu ngoại. Khốn nỗi hai đứa nhỏ lại chỉ biết nói tiếng Mỹ mà thôi, Bà đâu có hiểu. Còn có con Lan thì nó lo học và làm bài túi bụi. Rảnh một tí, nó mở cái Ti Vi để coi ca nhạc mà kẻ đàn, người hát cứ như đánh vật với nhau, la hét um xùm. Hình như nó bảo nhạc Rốc, nhạc riếc chi đó, nghe đến chóng cả mặt, đau cả đầu. Không thế thì nó lại ôm cái điện thoại nói chuyện với bạn với bè. Nói liên hồi, không biết mệt. Chuyện chi mà nhiều thế?

oOo

Bà Năm đau nặng phải vô nằm bệnh viện, lắm lúc mê man rồi lại tỉnh. Vợ chồng con Nguyệt chỉ biết thương Bà, nhưng vẫn không hiểu được Bà. Chỉ có con Lan về sau nó hiểu, nó hỏi ”Có phải ở đây Má buồn, Má không chuyện trò được với ai, nhất là với hai đứa cháu ngoại, Má nhớ Quê Hương, bạn bè của Má, Má nhớ mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Má nhớ Chợ Bà Chiểu… nên má đau, má bịnh phải không?” Bà Năm nắm lấy tay nó rồi gật đầu. Con Lan bỗng nhiên mím môi lại, nước mắt chẩy hai hàng ”Sao Má không ở lại Việt Nam với chòm xóm, bạn bè, với Chợ Bà Chiểu của Má? Má không chịu đi Mỹ thì đâu con có đi! Con nhất định ở với Má cho đến khi nào Má… không còn nữa, Má đi với Ba cơ mà!” Rồi nó ôm mặt khóc rưng rức sót thương cho Mẹ, người đã suốt đời khổ cực vì chồng vì con, hình như chẳng có lúc nào để nghĩ đến chính mình… Bỗng bà Năm tỉnh táo, vẫy tay cho vợ chồng con Nguyệt cùng tới gần. Bà nắm lấy tay 2 đứa con gái, nói trong hơi thở nghẹn ngào ”Má chấp nhận rời bỏ tất cả để ra đi vì Má thấy thương con Nguyệt, nó muốn Má được an nhàn, sung sướng lúc tuổi già, nhất là Má thương con Lan, Má hy sinh vì mong cho nó được ăn học nên người và có một cuộc sống tốt đẹp như Chị nó ở đất nước văn minh, giầu có, vĩ đại như thế này. Má già rồi nên không quen, nhưng Má chấp nhận… Má chỉ tiếc một điều là không được chết và nghỉ yên bên cạnh Ba con…”

Nguyệt lúc này mới cảm thấy một nỗi xót xa thật to lớn. Nguyệt đã chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của Bà Năm. Vợ chồng Nguyệt đã không làm được một việc mà nhiều gia đình Việt Nam khác đã làm được. Đó là vợ chồng Nguyệt không để ý hay không làm được cái việc: dậy cho 2 đứa con những khi ở nhà với Cha Mẹ, tập nói tiếng Việt. Nếu hai đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt như nhiều đứa trẻ gốc Việt khác thì Bà Năm đã có nhiều giờ phút khuây khỏa, vui chơi, chuyện trò với hai đứa cháu ngoại mà Bà thương hết mình. Đằng này, Bà không làm sao gần gũi được với chúng nó. Khi Bà và hai đứa cháu ngoại gần nhau, thay vì chuyện trò như nhiều gia đình gốc Việt Nam khác, thì lại chỉ biết nhìn nhau như những người xa lạ ở đâu đâu ấy. Nguyệt cũng úp mặt vào hai bàn tay để dấu đi những giọt nước mắt xót thương người Mẹ già đã từ giã tất cả để đến nơi đây sống với mình. Nguyệt thương Mẹ nhưng đã không hiểu được Mẹ. Bây giờ thì mọi sự đã trễ mất rồi, không cách nào làm lại được nữa dù chỉ một lần… Nếu 2 đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt để Bà cháu hủ hỉ với nhau thì… Bà Năm không nói được nữa, Bà đã vĩnh viễn ra đi để được sống với chồng Bà bên kia thế giới, có lẽ gần gũi hơn với Quê Hương Đất Tổ, ở đó có nhiều bạn bè thân thiết và có cái chợ Bà Chiểu thân thương gắn bó với Bà từ những ngày khốn khổ xa xưa…

Phan Đức Minh
(Đặc San Lâm Viên)
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

Ma men!
Đoàn Xuân Thu
“Hai tay nâng chén rượu đào. Không uống thì tiếc uống vào thì say!” Tui hằng trộm nghe rằng: 7 nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel Văn chương thì có 5 người ghiền rượu, một trong số đó ghiền nặng.

Còn hồi xưa ở bên Tàu, Vương Hàn (687-735): Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi. Dục ẩm tì bà mã thượng thôi. Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?”

Nên tui thường tự hỏi rằng muốn viết văn hay làm thơ cho nổi tiếng như mấy ổng, điều kiện tiên quyết là phải ghiền rượu hay chăng?

Khám phá ra cái bí quyết ấy, tui bắt đầu nhậu; để coi cái 'văn nghiệp' của mình có nhờ sự trợ giúp của chén rượu đào mà lảo đảo đi cẳng không vào văn học sử hay không?

***

Rượu là một chuyện dài đi theo nhân loại hoài mà chưa có hồi kết trừ phi thiên hạ chết hết.

Thời hái lượm, ăn lông ở lỗ là nhân loại đã có rượu rồi. Chẳng qua trái cây nào có chứa đường, ăn thừa mứa dư dả, để lâu men trong không khí rơi vào chuyển hóa đường thành rượu.

Rồi mấy con khỉ đột, đười ươi uống, vô cùng khoan khoái, nhảy nhót chí chóe tưng bừng nên tổ tiên mình mới bắt chước đó chớ. Chính vì vậy mà ngày nay trông mấy chàng say múa may như là khỉ vậy vì bắt nguồn từ độ ấy đó đa.

Ghiền cần rượu như cần thức ăn, nước uống. Thèm rượu kinh khủng, phải uống vài ly cho đỡ nhớ. Nếu không cảm thấy trong mình bực bội, khó chịu, ợ khan, đổ mồ hôi, cơ thể run rẩy, ngáp lên ngáp xuống như thầy bói lúc lên đồng.

Sáng ngồi kiểu nước lụt trên cái ghế đẩu, một tô xí quách và một xị đế. Con chó Bích La (tức ba lít) ngồi nhóng mỏ chờ cục xương. Cầm cái ly hột mít quất nhẹ cái trót; húp miếng nước ‘súp’ có rắc hành lá và bỏ tiêu là mồ hôi tươm ra, hai tay nó hết run hè!



***



Người ta gọi á phiện là ‘ma túy’ và rượu là ‘ma men’. Toàn là ‘ma’ hết ráo.

Không uống thì bị mất ngủ, nếu chợp mắt được thì gặp ‘ma’; thấy toàn ác mộng, thấy toàn là hổ, báo, sư tử, quỷ dữ, quái vật, chuột cống, rắn độc, nhện độc, hay gián bò kín đất.

Tai thì nghe thấy la hét, nhạo báng, dọa nạt, buộc tội mình! Thấy sâu bọ bò khắp người và có chỗ đau như bị chó cắn, xung quanh đều mờ mờ ảo ảo.

Quất vài ly tới một xị là mặt hồng hồng sáng trong trong tất cả các triệu chứng trên đều biến mất. Thiệt là thần dược, có tên là: Sakê của Nhựt, Mao Đài của Tàu hay Whiskey của Tô Cách Lan hoặc Tequilla của Mexico, rượu đế của quê mình!

Năm dài chày tháng thì gan ruột, đồ lòng tiêu tùng ráo trọi. Tùm lum bịnh. Ghiền rượu là một cách tự vận, chết từ từ nhưng chết chắc.

Giống như quý anh mình, tui sợ chết, bỏ em yêu lại cho thằng khác nuôi nên tui tính thôi nghỉ nhậu thì mấy chiến hữu của tui nhào vô can gián quyết liệt, thuyết phục tui là: “Nam vô tửu như kỳ vô phong!” Không nhậu bạn bè chê chú mầy là “Đồ gà mái”!

Rồi cũng trộm nghe. Uống vừa phải, không gây tác hại. Vừa phải là một lon bia hay một ly vang, hoặc một ly rượu mạnh, có tác dụng tích cực, ăn ngon hơn, hơi vui vẻ với má bầy trẻ. Vì “Một là những lúc ngà ngà. Hai là những lúc đi xa mới về!” nên tui lại nhậu nữa!

Tuy nhiên hai chuyện mất mặt bầu cua nầy của bạn nhậu cũng làm tui khá phân vân giữa ngả ba đường nên nhậu nữa hay thôi?

Chẳng qua anh bạn nhâu của tui đi làm ăn xa mới về, chị làm món đồ nhậu cho anh sương sương, khui chai sâm banh ướp lạnh. Người cạn một ly rồi dìu nhau vào phòng, tính đàn lại bản tình ca sau bao ngày xa vắng!

Thằng cu, mới 4 tuổi, thấy Tía Má mình người “lỳ một lam” sao vui hết biết, bèn tự ý rót cho mình một ly. Cha đã nhe! Chua chua ngọt ngọt mà có sủi bọt như “Coca Cola!” Cạn ly, đi lảo đảo, đụng bàn ghế ngã rầm rầm.

“Ối giời ơi! Ai cứu con tui? Sao thằng nhỏ sùi bọt mép, mắt trợn trắng trợn vọc nè Trời?!”

Thiệt là một kinh nghiệm rất kinh hoàng!



***



Rồi anh bạn nhậu, một chiến hữu khác, sau một chầu bí tỉ bèn lết về nhà. Say quá mà nên leo đại lên giường quánh cho mầy một giấc mà không để ý: “Ủa bữa nay hình như em yêu hơi ‘sổ sữa’? Rượu đưa con buồn ngủ lên bờ. Mùng ai có trống cho “qua” ngủ nhờ một đêm. Chuyện đâu có gì lớn hè?”

Vậy mà sáng bửng, còn mơ màng giấc điệp bỗng nhe tiếng la bài hãi, bị gọi giựt dậy. Chưa kịp đưa tay lên dụi mắt thì đã bị ăn một đạp, lăn xuống đất. Con sư tử Hà Đông tức con vợ nhà của ‘ảnh’ làm dữ mặc bà con lối xóm chạy tới xem.

Em “single mum” nói: “Tối qua, mệt nên em đi ngủ sớm, khi tỉnh giấc thì thấy thằng chả nằm ngáy kho kho trên giường. Quá hốt hoảng nên em hô hoán lên. Chớ “giả” say quắc cần câu rồi thì còn cần câu nào mà đi câu cá.”

Vậy mà con Sư tử Hà Đông nghe không lọt lỗ tai, kết tội “ảnh” là cái ruộng đó hoang hóa lâu ngày chẳng qua ông mượn rượu để làm nư. Có sẵn không xài mà đi mượn đỡ của ai đâu. Thiệt là nhục!



***



Tui cũng thấy nhục lây với anh bạn nhậu nầy quá! Xỉn rồi, còn vỏn vẹn cái tư cách cũng vụt vô sót rác hè nên tui tính nói ‘bái bai’ với ông thần Lưu Linh để làm người tử tế! Nhưng khổ nỗi, lóng rày cứ cuối tuần là quý độc giả thương mến thương thường hú tui đi nhậu.

Em yêu buồn bực lắm nên nói tui đi khám bác sĩ để tìm kiếm sự giúp đỡ bởi em nghĩ tui đã bị ghiền rượu quá xá quà xa rồi!“Ghiền rượu có thể chữa được bằng thuốc, bằng tâm lý. Nhưng quan trọng nhứt là tùy thuộc ý chí của anh có thực tâm muốn xa lánh thần Lưu Linh hay không?”

Em lải nhải hoài nghe nhức cả lỗ tai nên tui phải đành chiều em đến bác sĩ gia đình để khám. Mới gặp mặt tui, ổng mừng hết biết, nói: “Ông nhà báo chờ tui đóng cửa phòng mạch rồi hai đứa mình lại “pub” làm vài ly trước đã rồi mình nói chuyện sau nhe!”

Lâu lâu được Bác sĩ mời đi nhậu, hãnh diện hổng hết, từ chối sao đành.

Ngà ngà say, tui lảo đảo về nhà thì nghe em yêu lải nhải giảng “moral” vầy nè:“Đời tui ghét nhứt là hút thuốc và uống rượu. Ghét của nào Trời trao của nấy. Tui sẽ thôi; không ở với anh nữa. Tui về ở với Má tui!”

Tui tính bỏ rượu rồi đó chớ. Nghe vậy, tui bèn lục ra một chai rượu quý, Johnny Walker’s, Ông già chống gậy, nhãn xanh; bấy lâu nay giấu trong kẹt tủ ra nhậu, để mừng ngày được trả tự do!

Cheers! Mong em yêu đừng nửa chừng đổi ý nhe!

Đoàn Xuân Thu
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Chuyện Một Nhà Văn

Nguyên Nhung
(Đặc San Lâm Viên)
Nguyễn là một nhà văn. Cứ tạm gọi như thế, khi ngoài giờ đi làm việc kiếm sống như mọi người, chàng còn có thú viết. Nguyễn có một số bài đăng rải rác trên các báo địa phương, có một số độc giả ái mộ, nên nghiễm nhiên được truy tặng là nhà văn, mặc dù chàng biết muốn đạt được danh hiệu ấy, chàng còn phải viết tướt khói ra, mới được ngồi vào cái chiếu văn chương đầy chữ nghĩa.

Thôi mặc kệ, gọi như thế cho vui, mặc nhiên chàng cũng miễn cưỡng nhận là mình đứng vào hàng văn nghệ sĩ, dù chưa in được cuốn sách nào. Bạn bè có nhiều người khuyến khích chàng ra mắt sách cho có một cái gì để nhớ, nhưng do tình cờ Nguyễn cũng được biết thêm nhiều cái bạc bẽo của người cầm bút. Giai đoạn phôi thai cho đứa con tinh thần đã lắm nhọc nhằn, khi in xong cuốn sách lắm tác giả tự nhiên như bừng tỉnh một cơn mơ, nhìn những thùng sách cao nghều nghệu như núi chất lên nhau, nỗi hứng khởi ban đầu đã pha trộn cảm giác chán chường. Chưa kể nỗi đoạn trường khi bị những con buôn sách thiếu lương tâm bóc lột, khiến người viết văn còn dọ dẫm trên hành trình văn hoá lắm lúc muốn bật ngửa ra dở khóc dở cười vì sách. Tuy vậy chàng cũng nôn nao hình dung một ngày nào đó, khi đứa con tinh thần của mình chào đời, với niềm vui của lòng chàng và sự chia xẻ nồng nhiệt của bạn bè, cũng như độc giả bốn phương.

Ngày xưa, lúc còn là sinh viên, Nguyễn cũng sáng tác khá nhiều truyện ngắn, ông thầy học cũng từng khuyến khích chàng bằng câu: "Dù chỉ có một người đọc và hiểu mình, thế cũng đủ khi ta có một người tri âm, tri kỷ”. Điều ấy đúng, nhưng không đúng với hoàn cảnh của chàng hiện tại, đồng lương thì eo hẹp, chỉ đủ lo cho gia đình mà nghĩ đến chuyện in sách, với vợ chàng đúng là chuyện "ruồi bu". Chàng cũng có nghĩ ngợi, bỏ mấy ngàn đồng bạc in một tuyển tập truyện ngắn, bạn bè khua chiêng đánh trống lên, may ra trong buổi ra mắt sách chàng tiêu thụ được một mớ, còn bao nhiêu vác về nhà nhìn nét mặt cau có của vợ, chàng lại chịu không nổi.

Thế là Nguyễn co vòi trước cái mộng làm nhà văn, để có chút tên tuổi với thiên hạ. Đối với chàng, viết lách là thú tiêu khiển tao nhã, giải tỏa những uẩn ức của lòng, chia xẻ cảm nhận về cuộc sống với những người xung quanh. Con người dù có thành công bao nhiêu, thế nhưng đến một tuổi nào đó cũng cảm thấy cần có một góc riêng sống thật với mình, không gì hay hơn là làm bạn với âm nhạc, văn chương, sách vở, có dăm người bạn đồng điệu để mà trao đổi, hạnh phúc nhất cho cái tuổi không còn trẻ trung và sức lực để tranh đua với đời nữa.

Sang Mỹ, trôi giạt vào khu chung cư đa số là người Việt Nam, Nguyễn cảm thấy dễ chịu như chàng đang sống trên mảnh đất quê hương. Khu chung cư nằm trên ngọn đồi thấp, một con dốc thoai thoải xuống dòng suối um tùm cây lá, ven bờ là con đường mòn có dấu chân người, Nguyễn biết đám trẻ con vẫn hay la cà đi hái những trái dâu dại.Thỉnh thoảng, trong những buổi sáng rảnh rỗi, Nguyễn thơ thẩn một mình dọc theo bờ suối. Mặt nước phẳng lặng nổi lềnh bềnh những chiếc lá khô, Nguyễn tưởng đấy là những chiếc thuyền con, đã chở hồn chàng ngược về dĩ vãng, nơi có dòng sông êm đềm chốn quê nhà.

Đúng là văn sĩ có khác, vợ chàng lắm lúc rất bực mình vì cái tật đãng trí và vớ vẩn của chồng. Chỉ cần đi dọc theo con suối ấy, Nguyễn cũng có vô khối cái nhìn về sự sống đang hiện diện quanh chàng. Lũ chim chóc chuyền cành hót véo von trên cành dâu chín màu tím thẫm, vài con bướm lượn lờ trên những bông hoa dại, một con cá nhảy lên đớp mồi trên mặt nước lao xao, tất cả như cùng chàng tận hưởng cái đẹp của thiên nhiên. Chàng thấy dễ chịu quá, cần gì phải đi đâu xa, cần gì phải tụ họp những chốn đông người, người ta cứ ao ước đi đến nơi này chốn nọ mới hưởng hết sinh thú của cuộc đời. Ở đây, ngay tại chốn này, khi lòng chàng thanh thản thì chàng đã được hưởng hết cái mỹ miều của trời đất, nó đâu hẹp hòi gì và nào của riêng ai, cứ để hồn thênh thang với tám phương, bốn hướng.

Khu chung cư chàng ở thuộc loại cũ kỹ lâu đời, người chủ Mỹ đã mừng rỡ khi đẩy được vào tay những người di dân Việt Nam, lại được một số tiền rất khá. Khi lọt vào tay những người chủ Việt Nam, bộ mặt của khu chung cư đổi sắc, từ vẻ hoang tàn của khu nhà dột nát, bỗng dậy lên sức sống dưới bàn tay khéo léo của những người Việt cần cù, chịu thương chịu khó.
Đằng trước và đằng sau mỗi nhà là một khoảng đất trống sát đường đi rộng chỉ độ một mét, vậy mà những bà cụ già, những người phụ nữ lớn tuổi không đi làm, đã chịu khó vun vén để trồng những khóm hành ngò, rau thơm, những giàn bầu bí, khổ qua, đậu ván. Nguyễn hay lang thang đi dạo quanh xóm, nhìn mảnh vườn rau quê hương xa vời vợi trong tâm tư chàng, đang được những bàn tay của bà con lối xóm gây dựng lại trên mảnh đất xứ người. Nó thể hiện nụ cười của cả một dân tộc hiền hòa, khi vợ chàng thiếu một nắm húng quế cho tô phở, thiếu quả ớt cho bát nước chấm, lúc chàng khoan khoái thưởng thức món thịt bò quấn lá lốt, phết mỡ hành và đậu phọng giã nhỏ, bà hàng xóm đã cho vợ chàng những thứ rau cần thiết.
Sự thật, thỉnh thoảng họ cũng có cãi nhau, chén bát còn có lúc xô huống gì con người có tiếng nói. Họ hay phàn nàn nhau về chỗ đậu xe, khi lũ trẻ có bạn bè từ nơi khác tới cứ đậu bừa bãi lên "parking" của người khác. Họ rầy rà nhau một lúc, cũng lời qua tiếng lại một hồi, nhưng khi lắng xuống lại lý luận "ba xu" một chút rằng cái chỗ ấy có phải của ông của cha gì mà giữ, lại mất đi tình hàng xóm bấy lâu nay.

Đa số đàn ông trong xóm đi làm, còn phụ nữ ở nhà giữ trẻ, nấu cơm. Nguyễn thích nghe bà già người hàng xóm miền Trung nói lối, nó ngộ nghĩnh và đậm đà màu sắc thi ca dân tộc, một bà cụ miền Nam chỉ thích tuồng cải lương, xem những phim có hậu như Bao Công xử án Quách Hòe, Phạm Công Cúc Hoa, Đời cô Lựu v.v... Đại loại các bộ phim phải có chung, có thủy, có tình người. Họ cũng đọc sách báo, nhưng có nhiều nhà văn viết theo lối mới, khó hiểu, từ ngữ cầu kỳ kiểu cách, Nguyễn cũng chưa hiểu nổi họ nói gì thì đám dân mộc mạc ở đây cần gì biết cho mất công. Ngay như là vợ Nguyễn, nàng cũng chỉ thích đọc những bài đơn giản, trắng ra trắng, đen ra đen, không nhuôm nhuôm mờ mờ ảo ảo, bởi vậy mà lối viết của chàng cũng ào ào, chằn chặt như tiếng dao băm trên thớt, như tiếng bát đũa khua lanh canh, xủng xoảng của trẻ con háu đói trước mâm cơm.

Đám trẻ ở đây có mòi nhiễm lối sống Âu Mỹ, thích sự yên tĩnh của những căn nhà riêng biệt đóng kín cửa, họ cố làm ăn và lôi cả nhà ra khỏi cái khu chung cư nghèo nàn, nhếch nhác. Chỉ tội nghiệp những người lớn tuổi, cũng phải chạy theo đám con cháu để hòa nhập vào xã hội phương Tây, họ trở thành những cái bóng mờ bên lề cuộc sống. Suốt ngày, lũ nhỏ đi học, đi làm, các cụ luẩn quẩn, loanh quanh trong căn nhà đóng kín cửa, tội nghiệp biết bao. Từ ngày có mấy Đài Phát Thanh Việt ngữ, các cụ cao niên và người Việt trung niên như bắt được bạn vàng lâu ngày không gặp, nghe như trong quãng đời hiu quạnh trên xứ người, thoang thoảng chút tình quê trong tiếng nói của người đồng hương. Thỉnh thoảng, Nguyễn gặp lại những người hàng xóm cũ, họ trở về khu chung cư cũ kỹ, nụ cười móm mém nở trên khuôn mặt hân hoan vì cảm động, họ thú thật với chàng rằng, chỉ ở nơi này họ mới thấy tình quê hương, mới cảm thấy ấm lòng để sống nốt những ngày còn lại.

Ngay như Nguyễn cũng thế, một lần chàng đi thăm bạn bè ở các tiểu bang xa, dù chỉ có hai tuần lễ mà lúc về nhà, gặp lại những khuôn mặt hàng xóm quen thuộc, nhìn giàn mướp xanh trĩu quả, ngắm cây cải lên ngồng với con bướm lượn, nghe tiếng người xướng ngôn viên đọc bản tin chiều, tự nhiên chàng xúc động quá. Chàng có cảm tưởng như xa quê hương đã lâu, nay trở về mái nhà xưa, chàng vô tình có được cái cảm xúc dạt dào của đứa con xa nhà, nay trở về với mẹ.

Chàng đi làm một tuần năm ngày, hai ngày nghỉ ở nhà viết lách. Chàng không có mặc cảm khi nghĩ mình chỉ là mầm cây non nớt giữa một rừng văn học ngát hương, bởi vì chàng chỉ dùng văn chương để trang trải nỗi lòng, kể lể chuyện đời buồn vui, không một mục đích nào khác.

Thằng con lớn nhân ngày Father’s Day, mua tặng bố cái máy computer để sáng tác cho tiện, vì mỗi khi nhìn bố gò lưng ra viết lách một cách khổ sở, xoá xoá viết viết thấy khổ thân gì đâu. Chiếc máy để trong căn phòng nhỏ đóng kín cửa, cố tạo sự yên tĩnh để chàng sáng tác, vậy mà chàng không viết được. Chàng công nhận mình quê mùa quá, không quen xử dụng máy móc hiện đại. Trong căn phòng đóng kín, tiếng máy lạnh chạy êm ru, chiếc màn hình trắng xóa, óc chàng cũng trắng xóa, chàng cố gắng viết nhưng chữ nghĩa hình như vô hồn, thế là chàng chịu thua.

Bây giờ thì Nguyễn hiểu rồi, người ta phải tạo cho tâm hồn một tư thế thảnh thơi thoải mái thì mới viết cho ra hồn được. Chàng chỉ cần, một tập giấy, một cây bút, một khung cửa bên ngoài là khoảng trời xanh, có những con chim đậu trên sợi giây điện như những nốt nhạc trong buổi hoàng hôn, có tiếng lá khô lạo sạo đuổi nhau trên mặt đường, tất cả những thứ ấy mới là linh hồn của bài viết, chàng chỉ có công tô điểm lên thôi.

oOo

Nguyễn chưa phải nhà văn chuyên nghiệp, vậy mà không biết tại sao Nguyễn thích viết, "tiền oan nghiệp chướng" tự kiếp nào, Nguyễn hiếm khi thấy một nhà văn hoàn toàn sung sướng, không đói rách thì cũng lận đận, cái kiếp con tằm nhả tơ, hay “vắt từ tim và từng đêm mải miết, viết cho đời xương máu mới nên câu". Việc ấy, mấy người đã biết, một tác phẩm nâng niu, gọt giũa chỉ đọc vèo một cái là xong, có người đọc để giải trí, có người cũng nghĩ ngợi đôi chút rồi quên.

Sự nghiệp viết lách của chàng bắt đầu từ những lá thư, rồi điện thoại đấu hót với bạn bè, nhưng nói mãi Nguyễn có cảm tưởng mình chưa nói gì cả, chàng nghe được cả tiếng ngáp, cái hững hờ của người nghe, ở đây tình cảm càng ngày càng hiếm hoi, người ta phải chạy theo cơm áo, thời gian bỗng trở thành ngắn ngủi.

Nguyễn viết, những lá thư dài năm, bảy trang giấy, chẳng biết người ta có đọc không nhưng ít khi nào chàng nhận được hồi âm, không chừng người ta còn bảo chàng lẩm cẩm. Sau đấy, có người thương hại bảo chàng viết văn đăng báo, rồi có những tờ báo đăng bài của chàng, từ đấy, Nguyễn có cái vui của người cầm bút, rồi biết thêm rằng ngoài nhu cầu cơm ăn, nhà ở, công danh, sự nghiệp, người ta vẫn cần có một món ăn bồi bổ cho tinh thần.

Lúc bắt đầu, chữ nghĩa còn thập thò e lệ, sau quen dần, như cô con gái lần đầu hẹn hò với tình nhân còn thẹn thùng, luống cuống thừa tay thừa chân, nay đã biết tận hưởng cảm giác đậm đà hương vị yêu đương.

Đề tài quanh quẩn chuyện trong nhà, cha mẹ, anh em, bạn bè lần lượt đi vào tác phẩm của chàng, Nguyễn có cái thiết tha chân thật khi chàng dùng ngòi bút để hồi tưởng những bóng dáng thân yêu trong đời chàng, để chàng thực lòng đã chảy nước mắt khi nhớ đến những kỷ niệm rất đơn sơ, nồng ấm thời thơ ấu. Chuyện của chàng không có những pha mê ly, hấp dẫn, thế nên khi có người đề nghị chàng viết truyện tình thì Nguyễn bối rối lắm. Nhìn quanh xã hội này, Nguyễn không tìm ra chất liệu để viết, thời buổi bây giờ mọi người đều có dư thừa tự do và điều kiện để yêu, Nguyễn đọc nhiều truyện tình yêu của xứ này, chàng biết tình yêu đơn giản như người ta ăn một cái kẹo, một cuộc hẹn hò trên bãi biển, đùa giỡn với sóng nước và nắng ấm, sau đó đưa nhau vào khách sạn, vài giờ sau chia tay, không ngậm ngùi, không khóc lóc.

Cuối cùng thì chàng nghĩ ra được một điều thật giản dị, văn chương không cần màu mè hoa lá cành, không cần tình tiết éo le, chẳng có mở mà chẳng có thắt. Nó chỉ là chuyện đời thường viết cho người khác đọc, như mình đang rủ rỉ kể những chuyện bình thường nhất, nó là của mình mà cũng có thể là chuyện của người, để đọc xong thì ai đó cũng có thể thở phào nhẹ nhõm, bâng khuâng hay mơ mộng đến những ảo ảnh mù xa trong dĩ vãng.

Thế rồi Nguyễn cũng cố thuyết phục vợ để được chấp thuận trong vui vẻ, cho chàng ra đời một tác phẩm đầu tay. Ngày hai vợ chồng có đứa con đầu lòng, chàng cảm động như thế nào thì nay nhìn đứa con tinh thần của mình Nguyễn lại có được cái cảm giác y hệt như vậy. Đối với chàng, những đứa con được sinh ra bằng sự kết hợp máu thịt của cha mẹ, dẫu đẹp hay xấu chàng đều thương yêu như nhau, riêng tác phẩm của mình, Nguyễn cũng vẫn say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi bài viết đã chuyên chở ít nhiều tư tưởng và những kỷ niệm của chàng cho từng nhân vật của truyện.

Dĩ nhiên đâu phải Nguyễn đã có được những phút giây sống hoàn toàn với đứa con tinh thần chàng yêu thích. Vợ chàng có thể đặt nhiều dấu hỏi về một nhân vật tưởng tượng của chàng, mà nàng cho là nhất định đấy phải là một hình bóng của dĩ vãng. Chàng đã phải trả lời nhiều câu hỏi nghe thật ngớ ngẩn mà đầy những cạm bẫy, để rồi có khi nhiều lúc chàng bần thần đến phát cuồng khi thấy mình bị tước đoạt gần hết điều mà người ta hay gọi là tự do tư tưởng. Đấy chỉ là những vui buồn lẻ tẻ trong nghiệp cầm bút, trong một phạm vi nhỏ hẹp là gia đình, còn với thế giới bên ngoài chàng cũng cảm thấy sự dè dặt của mình khi không dám viết thật những gì mình nghĩ. Ôi! Đời mắc chi cái nghiệp khổ như vậy, vậy mà vẫn say mê không dứt được.

Nếu mai kia khi về già, cuộc đời sẽ trống rỗng khi nhìn mấy bức tường trắng toát, hay loanh quanh trồng tỉa mấy chậu hoa chậu kiểng, ngó mông lung một chiếc lá rơi trên khoảng sân cỏ úa, điều ấy khiến Nguyễn vẫn thú vị với cái "khổ" của nghiệp cầm bút mà Trời đã oái oăm gửi cho chàng.

Nguyễn vẫn say sưa với cái cõi của mình, chập chờn những hình bóng của từng nhân vật trong khi ăn, lúc đi ngủ. Họ là những con người không có thật mà lại có sức mang đến cho chàng những rung động lạ kỳ. Nguyễn có thể đi theo họ đến những dòng sông xa xôi nào đó, ngồi với họ bên một bờ sông mà lắng nghe tiếng sóng vỗ óc ách vào bờ. Đi theo họ xuống thung lũng mù sương của Đà Lạt năm xưa, nghe họ tỉ tê thương nhớ một thời đã mất, và kỳ lạ rằng chàng cũng đã rưng rưng đến phát khóc khi cho nhân vật đau khổ vì một mối tình tan vỡ. Còn nhiều, nhiều nữa, những mối tình thời chinh chiến, những mất mát thua thiệt đớn đau của cuộc đời, những nhớ nhung mảnh vườn đầy bóng nắng lúc sang Xuân ở quê nhà. Đó phải chăng là món quà của Thượng Đế đã ban cho chàng, không cần tiền bạc mà chàng vẫn có thể để hồn lang thang đến nhiều nơi chốn đầy kỳ thú trên trái đất.

Nguyễn vẫn sống đạm bạc, bằng lòng với sự eo hẹp chút đỉnh của vật chất mà lòng vẫn không hề cảm thấy thiếu thốn, không mơ tưởng đến một thế giới xô bồ của bạc tiền, danh vọng. Sống như vậy nhưng lúc nào chàng cũng cảm thấy đời dư thừa niềm vui, vì ngòi bút đã giúp chàng đi chu du đến nhiều vùng trời đầy những đềm êm và kỳ thú của văn chương, một thế giới không thể mua được bằng tiền vậy.

Nguyên Nhung
(Đặc San Lâm Viên)
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Thằng Chồng Việt Kiều Của Tôi !
Written by Nàng Kiều VN
Những ai phải trải qua cay đắng mới biết giá trị đích thực của cuộc sống. Tôi cũng vậy. Hạnh phúc, tiền bạc, danh vọng, và bộ mặt đã làm tôi như quay cuồng.

Cũng chỉ vì “lấy chồng Việt Kiều” và “có rể Việt Kiều” đã làm cho “thằng chồng Việt Kiều” của tôi điêu đứng và tôi suýt bỏ rơi anh ta khi mới bắt đầu qua đây.

Có lẽ tôi quá cay đắng nhưng tôi đã hối hận rất nhiều.

Tôi vốn ở Biên Hòa, được cho là xinh đẹp từ nhỏ. Tôi được gia đình cưng chiều nhưng không có hư đốn. Tôi vào được Đại Học Sư Phạm nghành Anh Văn và học xong.

Trong thời gian làm kiếp sinh viên, gia đình tôi đi xuống và lam lũ. Tôi trở thành sinh viên nghèo phải bươn chãi kiếm sống vì gia đình tôi không thể chu cấp mọi chi phí.

Ở xóm, có nhiều người lấy chồng Việt Kiều và có tiền xây nhà cao ráo. Ai cũng nói tôi có học và có sắc tại sao không kiếm được chồng Việt Kiều cho gia đình đỡ khổ. Cuộc sống khốn khổ như vậy khiến cho tôi nghĩ đến chuyện “lấy chồng Việt Kiều” để cưu mang gia đình.

Tôi nghĩ đơn giản như vậy, chính vì đơn giản đó đã làm hại một người, đó là thằng chồng Việt Kiều của tôi.

Với ý nghĩ đơn giản, tưởng rằng ở nước ngoài ai cũng ăn sung mặc sướng dễ kiếm ra tiền. Tôi có đọc sách báo thì thu nhập trung bình hàng năm của người Mỹ là 24 ngàn đô-la. Nếu thằng chồng làm 24 ngàn đô-la thì mình xin 6-7 ngàn có sao đâu.

Nhưng thánh thần ơi, đó là thu nhập, chưa tính thuế, tiền xăng, ăn uống, chi tiêu, nhà cửa, điện nước,…

Cái ý nghĩ ngu xuẩn chỉ cần 6-7 ngàn mỗi năm đó lan truyền vào gia đình tôi và gia đình tôi tưởng bở và thật.

Cũng chính vì tôi có sắc và có thân hình đẹp nên tôi kiếm được một thằng Việt Kiều hiền lành nhưng có chút khờ trong những Việt Kiều về thăm.

Hắn hồi ở Việt Nam chỉ học tới lớp 9, sau đi làm phụ hồ, và theo gia đình đi Mỹ theo diện HO. Qua đó hắn chỉ biết đi làm. So về trình độ học vấn thì chênh lệch với tôi do đó khó nói chuyện. Tôi biết không hạp lắm nhưng giả nai để được đi Mỹ.

Tôi nhanh chóng trao sự trinh tiết cho hắn và bắt hắn phải chịu trách nhiệm và cưới. Hắn hứa cưới. Tôi ra giá là trước khi tôi qua Mỹ thì gia đình tôi cần 20 ngàn đô để xây nhà mua xe (vì nhà tôi ọp ẹp và không có xe gắn máy).

Hắn trở lại Mỹ, và gởi tiền đều đều, hắn làm gì tôi không quan tâm vì tôi chẳng yêu, thấy tiền là tôi thích. Tôi cố gắng học cho xong 4 năm đại học để phòng khi không qua được Mỹ thì tôi có bằng cấp và dạy học Anh Văn cũng có tiền.

Khi nhà cửa tôi xây xong, xe có 2 chiếc thì hắn về. Trông hắn tiều tụy và ốm sau 2 năm và tôi cũng vừa tốt nghiệp Đại Học. Đám cưới tổ chức linh đình. Gia đình tôi nở mặt nở mày với hàng xóm.

Trong khi chờ đợi qua Mỹ, tôi học thêm đủ thứ nghề từ thêu may đến vi tính, uống tóc đến móng tay,… Hắn chu cấp vài trăm đô mỗi tháng.

Khi đến Mỹ tôi thật sự thất vọng. Thằng chồng tôi ốm yếu và bịnh hoạn. Tôi biết sự thật là sau khi gặp tôi, hắn làm 2 việc để có tiền gởi theo yêu cầu tôi. Mỗi ngày hắn chỉ ngủ được 4 giờ. Cuối tuần làm thêm. Nhà thì ở nhà mướn chứ không như tôi nghĩ là nhà riêng có bãi cỏ đẹp. Xe hơi thì xe cà tàng cũ xì chứ không bóng lộn như tôi thấy ở tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai.

Tôi lúc đầu nghĩ rằng hắn lừa dối tôi để được tôi nên tôi giận quá bỏ hắn qua người dì. Hắn sụp đổ tinh thần và vào bịnh viện tôi chẳng cần quan tâm. Tôi luôn nghĩ cuộc sống của hắn ở Mỹ phải tốt, phải như thiên đường….. Nào ngờ chỉ là dân lao động nghèo nàn không biết Anh Văn.

Dì tôi nói là nếu không trở lại sống với hắn thì về Việt Nam vì nếu tôi bỏ hắn thì tôi bị trục xuất. Dì tôi không dám chứa chấp tôi sợ liên lụy. Dì tôi cho tôi 10 ngày suy nghĩ.

10 ngày đó tôi tìm hiểu cuộc sống ở Mỹ. Tôi thấy ai cũng cố gắng đi làm để có tiền chứ không dễ hái ra tiền. Khác với ở Việt Nam là làm việc ở đây dù tiền ít vẫn không bị đói. Môi trường sống tốt hơn, học hành miễn phí, có biết tiếng Anh xin làm dễ hơn,....

Tôi nghĩ về thằng chồng tôi không yêu nhưng lấy chồng vì tiền. Tôi dần dần thấy tội nghiệp hắn. Vì mê sắc đẹp tôi mà hắn phải hao tổn sinh lực làm 2 việc để có hơn 24 ngàn đô-la gởi về cho tôi trong lúc bản thân hắn chẳng có gì.

Tôi dần dần động lòng trắc ẩn thằng chồng không yêu. Tôi thấy tội nghiệp quá. Đã tốn sinh lực kiếm tiền cho tôi và sau đó bị tôi bỏ đi. Tôi ứa nước mắt ân hận.

Sau một tuần tôi trở lại và xin lỗi. Những giọt nước mắt hạnh phúc trong thân hình tiều tuỵ của hắn làm tôi thêm đau lòng. Tôi thề với Trời Phật tôi không bỏ hắn và sẽ lo cho hắn.

Tôi dễ dàng kiếm việc và hắn nghỉ 3 tuần dưỡng sức vì mới ra viện. Tôi ráng bươn chãi thêm việc cuối tuần để hòng giúp hắn có tiền mua xe khác và cho tôi một chiếc xe cũ nào đó vì sống ở Mỹ thiếu xe không thể xin việc làm tốt hơn.

Tôi giải thích cho gia đình tôi hiểu và tôi chỉ sẽ chu cấp 100 đô mỗi tháng mà thôi. Gia đình tôi dĩ nhiên không hiểu và giận tôi và nói rằng tôi đi Mỹ bị Mỹ hoá không biết lo cho gia đình. Tôi thấy 100 đô đủ rồi, gia đình tôi kiếm thêm chứ làm sao tôi phải nuôi chồng và nuôi 6 người bên Việt Nam.

Hắn từ từ hồi phục nhưng do lao lực quá nên lúc nào cũng ốm ốm và không có sung sức. Cuộc sống tình dục vợ chồng rất thưa thớt vì hắn yếu sức. Tôi muốn có con với hắn để hắn yên lòng vì thế tôi và hắn phải nhịn 6 tháng để hòng hắn có đủ sức lực theo lời bác sĩ.

Trời Phật thương tôi và tôi có thai. Hắn hạnh phúc và sức khoẻ dần dần tốt hơn. Do có vốn tiếng Anh, tôi có việc trong ngân hàng và lương khác. Hắn chỉ đi làm việc nhẹ và tôi ghánh vác mọi thứ. Tôi chỉ mong hắn khoẻ mạnh trở lại chứ trong gia đình ai đi làm chính cũng vậy thôi.

Con tôi ra đời khoẻ mạnh, tôi mừng khôn xiết, người mừng vui hơn tôi là hắn.

Giờ gia đình tôi ổn định. Tôi làm việc có lương gấp 3 lần chồng vì chồng chỉ lao động bình thường và khó lòng vươn lên vì trình độ bị giới hạn. Tôi dần dần có được hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng, cũng như được thoả mãn tình dục do chồng tôi hồi phục được sức khoẻ.

Tôi đã sai và sửa sai.

Hy vọng các chị muốn lấy chồng Việt Kiều hiểu rõ hoàn cảnh của ông chồng tương lai để tránh nhiều chuyện đau lòng nơi xứ người.

Nàng Kiều VN
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang cười, đang đứng, cây, ngoài trời và thiên nhiên
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image

THẦY ƠI…THẦY ĐÂU RỒI. ?

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Tôi trở về Việt Nam thăm thân nhân vào một mùa hè.

Tôi thuê xe đến ngôi trường cũ, một mình tìm lại kỷ niệm xưa, không chỉ là mái trưòng trung học thân yêu mà còn có bóng dáng một tình yêu.Thày Chuẩn, giáo sư môn toán của tôi suốt 3 năm liền từ lớp 10 đến lớp 12.

Kể từ ngày tôi đi vượt biên được đến Mỹ định cư. Đây là lần đầu tiên tôi trở về Việt Nam và ngôi trường cũ là một kỷ niệm tôi luôn mong muốn được gặp lại.

Đứng trước ngôi trường xưa lòng tôi bồi hồi thổn thức….

Ngôi trường đã hoàn toàn thay đổi, trường được xây mới và rộng thêm, cây phượng vỹ gìa nơi sát hàng rào trường không còn nữa. Bao mùa hoa Phượng của tôi chín đỏ sân trường nay về đâu, hoa Phượng ơi, thày cô ơi, bạn bè ơi..…

Tên trường không thay đổi, vị trí trường vẫn là đây, nơi tôi từng đi về suốt mấy năm trung học.

Trường lớp đóng cổng đóng cửa im vắng trong một buổi trưa hè. Mùa khai trường sắp đến rồi, mai mốt sân trường im vắng này lại rộn rã thày trò đông vui.

Nhìn dãy hành lang trường hun hút tôi nhớ bóng dáng thày Chuẩn thường đi qua. Nhìn phòng lớp im tiếng tôi nhớ những lúc thầy đứng giảng bài và tôi thì mơ mộng nhìn ra ngoài khung cửa, bài toán thày giảng giải xong mà tôi giấc mộng chưa tròn.

Nước mắt rưng rưng tôi bâng khuâng tự hỏi:

- Thày ơi…thầy đâu rồi?

Không biết thày Chuẩn còn dạy ở trường này không? Mai này đến ngày khai trường tôi sẽ đến đây, không là cô học trò nhỏ năm xưa, chỉ là người khách lạ, tôi sẽ đứng ngoài cổng như thế này để tìm trong đám đông thày trò một bóng dáng thày. Nhất định tôi sẽ nhận ra thày, con người ấy, nét mặt ấy tôi vẫn chưa quên dù 20 năm đã xa, 20 năm chưa gặp lại thậm chí chưa nghe tin tức gì về thày.

Suốt bao năm tôi mải lo cuộc sống hiện tại nơi quê người và mối tình học trò mong manh nơi quê nhà luôn là kỷ niệm đẹp.

Năm tôi lên lớp 10 thày Chuẩn mới đổi về trường dạy môn toán, ngày đầu tiên thày vào lớp lũ học trò con gái chúng tôi xôn xao vì thày giáo trẻ tuổi đẹp trai lại vui tính ăn nói ngọt ngào.

Chúng tôi đã nhanh chóng điều tra ra “lý lịch” của thày, độc thân đẹp trai học giỏi chỉ mỗi tội con nhà nghèo.

Tôi còn nhớ bạn Kim Sa nói:

- Thày chỉ đáng tuổi anh chúng mình thôi, tao chẳng muốn gọi bằng “thày”.

Tôi cũng nghĩ thế và tôi chỉ muốn gọi thày bằng “Anh”.

Tôi thầm yêu thày ngay năm học đầu tiên, chờ mong từng giờ học với thày, mừng vui khi thấy bóng dáng cao cao của thày xuất hiện, hồi hộp khi thấy đôi mắt hiền sau cặp kính cận của thày nhìn tôi dù chỉ là cái nhìn bình thường hay thoáng qua.

Có lần trong hành lang trường, từ xa thấy thày đang đi đến gần tôi đâm ra luống cuống vụng về làm rơi cả mấy quyển vở đang cầm trên tay. Thày đã cúi xuống nhặt lên đưa cho tôi. Giây phút đối diện và chạm tay ấy tôi không bao giờ quên.

Thời kỳ bao cấp cuộc sống ai cũng ít nhiều khó khăn, tôi đã chứng kiến cảnh các giáo viên chia nhau nhu yếu phẩm gạo thịt tiêu chuẩn tại văn phòng. Tôi thương thày giáo độc thân của tôi cũng không thoát khỏi cảnh đời thực tế này, nhưng dường như tôi ít khi thấy thày Chuẩn mang những thứ nhu yếu phẩm ấy về nhà.

Một học trò lớp tôi nghỉ bệnh mấy ngày ở nhà, gia cảnh nó khó khăn, thày Chuẩn là thày giáo chủ nhiệm sẽ tổ chức một buổi đến thăm để “động viên” học trò. Tôi là trưởng lớp được đi cùng thày.

Tôi bất ngờ khi thấy thày mang theo miếng thịt heo nửa ký và bịch gạo 12 ký là tiêu chuẩn của thày vừa lãnh. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, thày nói:

- Nghe nói gia cảnh trò Hoa nghèo, lại ốm đau nghỉ học thày chẳng biết mang qùa gì, sẵn hôm nay có tiêu chuẩn gạo thịt này…

Tôi ngại ngùng và thương cảm…cho thày, chứ không phải cho bạn:

- Thế…tháng này thày không có gạo thịt ăn hả? thày báo tin thăm Hoa đột xuất qúa em chẳng kịp góp phần mua qùa…

Thày Chuẩn mỉm cười:

- Lo cho người bệnh chứ việc gì lo cho thày. Tháng này thày sẽ…ăn chực bố mẹ.

Sau này tôi biết thêm thày Chuẩn vẫn thỉnh thoảng nhường phần gạo thịt tiêu chuẩn của thày cho một vài bạn đồng nghiệp đông con hay gia cảnh khó khăn dù thày cũng chẳng khá gỉa .

Một nhà giáo chăm chỉ yêu nghề hết lòng chỉ dạy học trò, một nhà giáo luôn giúp đỡ bạn bè cả vật chất lẫn tinh thần, khi thì nhường tiêu chuẩn nhu yếu phẩm, khi thì thay bạn đứng lớp lúc họ bận việc hay ốm đau.

Lũ học trò chúng tôi đã “phát giác” ra những điều ấy không khó gì.

Thày là một chàng trai trẻ phóng khoáng và bao dung trong bộn bề cuộc sống.

Càng ngưỡng mộ thày tôi càng yêu mến thày.

Mùa hè năm lớp 12, mùa hè cuối cùng rồi mỗi người vào đời một hướng rẽ. Tôi sẽ đi xa hơn, cuộc chia tay này không thể nói cùng ai, gia đình tôi chuẩn bị cho hai chị em tôi đi vượt biên.

Ngày cuối cùng trước khi nghỉ hè tôi cố tình đợi để đối diện thày nơi hành lang lớp, lần này tôi không vụng về làm rơi cuốn vở mà vụng về nói chia tay với thày:

- Em …chúc thày…ở lại… một mùa hè vui vẻ.

Thày ân cần :

- Thày chúc em thi đậu đại học và tương lai mở ra phía trước. Còn thày dĩ nhiên vẫn ở lại làm “ông lái đò chở người qua sông”

“Anh lái đò” ơi, ước gì anh không chở em qua sông mà chở em trên suốt con sông dài cuôc đời nhỉ…

Tôi lãng mạn nghĩ thế. Thấy tôi không nói gì thêm thày định bước đi, tôi chợt tỉnh cơn mơ vội nói với theo:

- Thày ơi…thày nhớ lo cho chính bản thân mình, giữ gìn sức khỏe…

Thày hiểu ý tôi và mỉm cười:

- Em muốn nhắc lại chuyện thày đi thăm em Hoa với phần tiêu chuẩn lương thực của thày chứ gì. Xem này, thày có gày ốm đi tí nào đâu.

Khi bóng thày rẽ khuất vào một lớp học, tôi đứng ngẩn ngơ gọi thầm hai tiếng thân thương : “Thầy ơi…”.

Xa lớp xa trường đã buồn, xa thày tôi càng buồn hơn. Tôi ra đi mang theo một mối tình câm tuyệt vọng.

Để rồi hơn 20 năm sau trở về kỷ niệm năm nào bỗng thức dậy. Trong tôi vẫn còn hình bóng thày Chuẩn cao cao đẹp trai và rất đàn ông tính rộng rãi bao dung.

Bây giờ chắc thày đã có gia đình vợ con và vẫn là thày như thuở độc thân vui tính.

Tôi muốn biết thày còn dạy ở trường cũ không, để ngày khai trường sắp đến đây tôi nhất định sẽ đến trường, chỉ để nhìn thày bây giờ ra sao..

Tôi tự trách mình bấy lâu đã không tìm liên lạc với bạn bè đồng môn cũ để biết tin về thày.

Tôi cố moi óc nhớ lại những bạn bè cùng lớp cũ và nhớ ra nhà Kim Sa ở gần nhà tôi nhất nên đến thăm hỏi, Kim Sa đã dọn đi kể từ khi lập gia đình. Tôi xin được số điện thoại của Kim Sa..

Khi tôi gọi phone cho Kim Sa, nó mừng rỡ, chúng tôi cùng nhắc lại ngôi trường cũ bạn bè xưa. Tôi hỏi :

- Kim Sa ơi, thày giáo Chuẩn đẹp trai, thần tượng ngày xưa của chúng mình đâu rồi ? thày còn dạy ở trường mình không?

- Kim Sa định kể đây, thày Chuẩn đặc biệt nhất nên để dành kể sau cùng.

Tôi mừng rỡ, không kịp kìm nén lòng mình reo lên:

- Thày Chuẩn đặc biệt là phải rồi. Một người tốt tính như thày chắc luôn gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.

- Chỉ đúng một nửa, thày gặp…may mắn trong cuộc sống nhưng không còn đi dạy học nữa.

Kim Sa kể thày Chuẩn bây giờ giàu sang vào hàng đại gia. Thày lập gia đình với con gái một cán bộ cao cấp, gia đình vợ đã lo cho thày một chức vụ trong ngành giáo dục. Bao nhiêu năm qua thày làm giàu nhờ chạy điểm cho học sinh, muốn con em vào trường tốt, muốn con em vào đại học đều qua tay thày..

Nghe đến đâu tôi bàng hoàng đến đấy. Chàng tuổi trẻ thuở vào đời với tấm lòng hồn nhiên cởi mở, với nhiệt huyết yêu nghề yêu chữ đâu rồi?

- Lẽ nào thày Chuẩn lại thế??

Tôi cố tình chưa tin dù biết bạn đang nói thật, nói đúng. Kim Sa thản nhiên:

- Bạn sống ở Mỹ nên không quen với những trò tiêu cực trong xã hội như thế này, chúng tôi ở Việt Nam thì là chuyện bình thường. Thời buổi này xã hội này ai có quyền lực trong tay mà không giàu mới là lạ.

Kim Sa nửa đùa nửa thật:

- Thế bạn có muốn đến thăm thày xưa không?

Và Kim Sa tự nhanh nhẩu trả lời:

- Đừng nhé, không ai tiếp bạn đâu. Vào cửa nhà thày phải có người giới thiệu, thày chẳng có thì giờ tiếp chuyện vớ vẩn những đứa học trò xưa. Với lại mùa hè này vợ chồng con cái thày đang đi du lịch Châu Âu chưa về.

Tôi chán nản nhưng vẫn mong là nãy giờ bạn…nói đùa:

- Kim Sa đùa thế đủ chưa? Làm sao mà Kim Sa biết rõ về thày như thế ?

- Ai dám nói đùa nói xấu một con người, lại là thày giáo cũ mà mình từng ngưỡng mộ. Từ một người bà con bên vợ của thày kể ra cho bạn bè anh ta và truyền đến bọn mình. Không tin thì cứ nhìn căn biệt thự lộng lẫy của gia đình thày cũng là một câu giải đáp. Thời buổi này nhà giáo chân chính có dạy trường điểm, dạy thêm ngoài giờ đến hao mòn sức khỏe, ho lao khạc ra máu cũng chỉ đủ sống chứ ai làm giàu cho nổi…



Tôi buông phone, những lời nói của Kim Sa đang bủa vây xung quanh tôi. Thày giáo trẻ tuổi đẹp trai con nhà nghèo nhưng tâm hồn không vướng bận vật chất lợi danh của ngày xưa đã thay thế bằng một ông cán bộ ngành giáo dục tham hư danh quyền lợi, bán rẻ lương tâm nhà giáo chỉ vì tiền.

Tôi đã mất thày rồi, tôi trách hoàn cảnh xã hội, trách người phụ nữ làm vợ thày đã lấy đi trong tôi hình ảnh đẹp của thày, lấy đi mối tình đầu đời tuổi học trò mới lớn của tôi, những thứ mà tôi từng trân trọng cất dấu trong đời..

Tôi thốt kêu lên trong thất vọng:

- Thày ơi…thày đâu rồi ??

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( August, 18, 2018)
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Image

Chú Tư Cầu Lê Xuyên

Viết hồi ký, viết hoài về chuyện chết chóc, sự khốn khổ của kiếp người, chính người viết cũng thấy nản. Nhưng làm sao được, vì chính những người nằm xuống đó là chỗ thân tình của tác giả, anh em, bạn bè, hoặc là người mà tác giả ngưỡng mộ, một nhà văn, một nhà báo, một thi sĩ nào đó. Tôi nghĩ cũng là chuyện thường thôi, không oán trời oán đất gì hết, hay đổ lỗi cho ai. Con người ta chẳng qua có một số mạng, trời cho sướng thì được sướng, trời bắt khổ thì phải khổ mà thôi. Như một lần nhà văn Lê Xuyên nói với tôi.

Ðời sống tiêu cực chăng? Tôi không biết nữa. Nói chung đời sống chúng ta như bị cấy sinh tử phù, dở sống dở chết. Thôi cũng được. Người ta già mà chết, tai nạn mà chết, hoặc khổ quá mà chết thì cũng là chết vậy. Tôi không muốn nói đến chuyện chết chóc nữa. Bây giờ già rồi, có thì giờ thì dạo chơi, đi thăm bạn bè mà không tốt sao, chúc cho nhau câu sống lâu trăm tuổi. Còn khối người bạn vẫn sống đó, hoặc thành công, hoặc thất bại, hoặc ngất ngư, bị dính “sinh phù tử”.

Những người bạn thành công trên đường đời, hãy khoan, tôi chưa đi thăm vội, tôi tìm thăm những người bạn ngất ngư trước đã.

Hình như tôi cũng có nhiều thì giờ, tôi thuộc về loại đàn ông bây giờ vô tích sự, ăn bám vợ con, tự nhiên thích rong chơi, thăm anh bạn này, anh bạn kia đau ốm, hoặc có chuyện khốn khổ chi đó.

Sau cơn bão, áp thấp nhiệt đới số 4 và số 5, trời lại đẹp. Buổi sáng ở thành phố Sài Gòn, không khí trở nên trong lành, se se lạnh nhự trời thu Hà Nội. Tôi, nhà báo hết thời, làm báo từ khi còn in báo từ máy typo bỗng thấy ngứa nghề, nhớ nhung vẩn vơ và thích chạy rong. Tôi có thể ngồi nhà, trên căn gác bút mà gặm nhấm kỷ niệm, dĩ vãng coi như lùi vào quên lãng cho đỡ buồn. Mà sao cẳng tôi như cuồng lên, nhớ nhung gì đâu không. Muốn ngồi quán cà phê lúc trời tảng sáng, muốn ngửi mùi giấy thơm mực in của những tờ báo mới được nhả ra từ máy in, cái không khí âm âm của tòa soạn, tiếng máy đánh chữ lách tách. Hoặc được phóng chạy như một phóng viên đi nhặt tin giờ chót, làm phóng sự: “Vẫn còn một cột tin giờ chót để cho anh đấy trước khi báo lên máy”. Lời anh tổng thư ký tòa soạn như còn vẳng bên tai tôi.

Ðã gần ba chục năm nay mà sao tôi thấy gần gũi như mới nghe sáng nay. Ôi nhớ nhung vô vàn. Tôi yêu nghề, nâng niu nghề nghiệp của mình đến trọn đời. Vậy sao nay tôi lại gác bút đến hai mưới mấy năm trời, như một số anh em khác. Do lý do tế nhị khó nói ra nên ai hiểu sao cũng được. Nhưng những dự định viết cái gì đó trong đầu người cầm bút vẫn còn đó, mãi mãi như một nỗi bất hạnh dai dẳng... Tôi đã thấy điều đó từ nhiều năm qua.

Sau cơn áp thấp nhiệt đới trời đẹp, tôi lại ngứa nghề, muốn lên đường để nhìn ngó lung tung, muốn đi trở lại những con đường mà trước đây tôi từng in dấu chân thuở viết văn làm báo, thăm lại một số bạn bè xưa.

Thế là tôi rời căn gác bút, ra đường trên chiếc xe đạp cũ rích, cà là tàng đi trên các nẻo đường, từng quen thuộc mà nay hơi xa lạ đấy. Thành phố thanh bình như khi tôi còn hành nghề phóng viên, bên ngoài thành phố khi đó vẫn ì ầm tiếng súng, chiến tranh khắp mọi nơi, thành phố khi ấy chỉ là phồn vinh giả tạo.

Hôm nay thành phố vẫn đẹp, vẫn văn minh mà dân quê vẫn hứng chịu mọi bất công, thối nát, đói nghèo. Nạn nhân chính của thiên tai lũ lụt trên đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung đất cày lên sỏi đá. Thành phố chỉ có một bộ mặt thanh bình, văn minh, nhưng mặt trái của nó thì khác. Xe hơi, xe gắn máy đời mới chạy nườm nượp trên đường. Tôi chóng mặt, nhảy xuống khỏi xe đạp dẫn bộ, nhưng mà sao cứ vẫn chệnh choạng. Tiếng xe hới thắng kít sau lưng tôi, tôi nhìn, một thanh niên trẻ lái ô tô con thò cổ ra cửa, ngoạc mồm chửi:

“Ðịt mẹ thằng già, chán sống rồi hả?”

Tôi nghệt mặt ra, anh ta chỉ đáng tuổi con tôi mà phát ngôn được một câu độc chiêu như vậy. Tôi ngỡ ngàng đến không kịp phản ứng, chiếc xe hơi bóng loáng phóng vút đi bỏ lại một nạm khói xộc thẳng vào mũi tôi, chạy xuyên qua suốt lên óc. Có lẽ cậu bé thuộc loại con ông cháu cha, hoặc giả là ông bé mà làm lớn, loại này ở đây thì nhiều lắm. Tôi, dân đen, thấp cỗ bé miệng chịu đựng xử sự của những người thuộc loại đó nhiều năm và quen rồi.

Tôi nở nụ cười ngu ngơ đứng xem một đoàn du khách nước ngoài “tham quan” Sài Gòn 300 năm, thành phố Hồ Chí Minh. Ở những con đường chính, tôi đã “tham quan” coi như hết rồi. Tôi đã đi qua nhiều, xưa kia là tòa báo tôi đã làm việc. Bây giờ thì tôi đi thăm ai đây?

Tôi dừng lại ở đầu đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng) và đường Nguyễn Trung Trực. Tại nơi này nhìn qua Thư viện Quốc gia, Đại học Văn khoa hồi xưa, có một kiosque bán cà phê, nhìn sang bên kia đường là tòa báo Ðại Dân Tộc, phía góc đường Thủ Khoa Huân, Gia Long là báo Sống. Nói tóm lại có rất nhiều tòa báo trên quãng đường ấy. Ký giả, phóng viên, nhà văn sáng sáng ngồi đầy các quán cà phê lề đường, tất cả đều quen nhau, thân thiết đến độ xộc thẳng vào đời tư của nhau, nên tình nghĩa bạn bè cũng rộn rã. Sau năm 1975, ngày “đứt phim”, báo chí thuộc chế độ cũ dẹp tiệm, ký giả nhà văn có người đi mất, người còn sót lại lêu bêu. Tôi ở trong số đó. Buồn quá đi thôi, bỗng dưng tôi phải buông bút (mới chỉ buông chứ chưa gác), vẫn còn nghĩ mình dùng được ngòi bút để phục vụ độc giả. Sau vài lần “vỡ mặt” mới sáng mắt ra.

Nơi tôi đứng là một lề đường rộng, cái kiosque sơn màu xám xỉn cũ kỹ nay đã biến mất. Nơi đó tôi từng ngồi, thân thiết chủ quán đến độ có thể ghi sổ nợ từng ly cà phê, điếu thuốc thơm trợ hứng cho lúc viết bài hay trang feuilleton đăng trên nhật báo. Chẳng phải riêng mình tôi mà nhiều anh em đồng nghiệp cũng thế. Sau ngày đứt phim tôi còn thấy lai rai vài người. Họ vớt vát cái gì, hay chờ đợi như ngày anh em tụ lại với nhau khi báo được lệnh đóng cửa.

Hình ảnh nhà văn Lê Xuyên, anh em quen đùa gọi là chú Tư Cầu, tên tác phẩm nổi tiếng của anh viết về đồng quê Nam Bộ, dĩ nhiên là có những mối tình quê mùa mà không kém đam mê, tiêu biểu là nhân vật chú Tư Cầu Trước ngày miền Nam bại trận, Lê Xuyên là tổng thư ký báo Sài Gòn Mai rồi Ðại Dân Tộc, anh có cái nhạy cảm của người làm báo cùng với sự sâu sắc của người viết văn. Anh đã có cả lô tiểu thuyết ấn hành, tôi không nhớ hết. Nhà văn Lê Xuyên hay nhà báo Lê Xuyên cũng được. Nhưng anh em gọi anh là chú Tư Cầu cho thêm phần thân mật. Nhưng hình ảnh của nhà văn Lê Xuyên gây ấn tượng nhất cho tôi là sau ngày chế độ Sài Gòn bại trận, tôi vẫn còn thấy anh ngồi ở quán cà phê đó vào những buổi sáng kế tiếp. Mắt nhìn lên tòa soạn xưa buồn rười rượi, y nguyên như ngồi uống cà phê chờ anh chef typo xuống báo cáo đã đủ khuôn, xin lệnh chạy máy, hay cần lấp một lỗ hổng. Bây giờ không còn gì nữa, không vắng lặng mà có cái xôn xao của cờ quạt, biểu ngữ khẩu hiệu và các trẻ thơ nối vòng tay lớn nhảy múa như cuồng ở góc đường, góc công viên.

Lê Xuyên vẫn cái áo sơ mi bỏ ngoài quần tây, cái mũ phở giản dị, đôi dép. Tôi chưa bao giờ thấy ở anh một sự “se sua” thời trang nào. Con người anh rất giản dị, cái giản dị của người miệt quê Nam bộ, nên gọi anh là chú Tư Cầu cũng rất đúng, không từ nào chính xác bằng. Tôi đã ngồi đó nới chuyện với Lê Xuyên, tôi không nhớ mình nói gì. Sau đó các văn nghệ sĩ, nhà văn nhà báo chúng tôi hầu hết bị vồ đi học tập cải tạo, Lê Xuyên đương nhiên có mặt trong đám “học viên” đó. Anh về sớm, tôi lại gặp anh trên những nẻo đường đi bán bánh tiêu bánh bò, rồi anh mở quán bán thuốc lá lẻ ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn gần nhà anh. Tôi ngồi sửa xe đạp ở góc đường Nguyễn Kim gần đó, nên thỉnh thoảng tạt qua gặp nhau.

Ðã lâu rồi, đến hai ba năm tôi không có ghé qua anh. Sáng nay tại sao tôi không ghé, lần sau cùng gặp anh coi bộ anh yếu lắm. Khi đó anh nói với tôi anh tròn 70 tuổi. Ðường về Chợ Lớn đối với tôi bây giờ xa vời vợi, nhưng phải đi chứ. Thăm một người bạn sau nhiều năm giam mình ở ấp Ðông Ba cũng là một điều hay.

Kia kìa, chú Tư Cầu còn đó, sau cái quầy bán thuốc lá cũ rích, con người anh cũng cũ rích, gầy guộc và đầy chất Nam bộ chân chất. Cái mũ bánh tiêu rúm ró chụp trên đầu, cái sơ mi mỏng lét, mòn cả vai, cái quần tây màu nâu ống cao ống thấp, đôi dép không rõ bằng vật liệu gì nữa. Mặt anh gầy rộc, xanh mét. Tôi gọi anh:

“Chú Tư Cầu!”

Anh nhìn tôi một giây xong mới hỏi:

“Có phải Trâu Nước không?”

“Chính tớ, mà sao ông gầy thế, có khỏe không?”

“Ông cũng chẳng hơn gì tôi, tôi suy yếu toàn diện rồi, 72 tuổi, hai mươi năm ngồi bán thuốc lá lẻ ở lề đường, trên góc đường này còn gì. Cám ơn, ông mò đến tôi mới nhớ mình là Lê Xuyên, chú Tư Cầu...”

Niềm hãnh diện còn lại của một người cầm bút. Niềm xót xa của một nhà văn đã từng có một thời vang bóng. Nay anh ngồi đây trong sự lãng quên, hai mươi năm ngồi ở một góc đường. Trước mặt, bên kia đường có cái đình tên Vĩnh Viễn, bên cạnh đình có một căn nhà có bảng đề “BCH phường đội 8”.

Tôi nói với anh, tôi mới đi thăm thành phố Sài Gòn về, tức là thuộc khu vực Quận 1, Quận 3. Anh nói:

“Tớ 15 năm nay không lên đến thành phố Sài Gòn, chẳng biết bây giờ nó ra sao nữa?”

“To cao lắm, đúng là chốn phồn hoa đô hội, cũng đã lâu lắm tớ không tới đó, giống như gã nhà quê ra tỉnh...”

“Chúng ta giống nhau.”

Nhìn cái quầy thuốc lá cũ rích, long đinh, tróc sơn thấp lè tè của Lê Xuyên, tôi lại lo lắng cho anh trong trận mưa chiều ngày 9 tháng 11 vừa qua nhiều con đường ngập lụt, hàng hóa chợ Bình Tây bị nước úng hư hỏng thiệt hại bạc tỉ. Lê Xuyên cũng chỉ cười.

Anh cố ép tôi hút một điếu thuốc Con Mèo. Trong câu chuyện của anh, tôi rút ra được có một câu: “Tớ suy sụp toàn diện rồi”. Tôi cũng được biết hoàn cảnh gia đình anh, bà vợ bị mắc bệnh hiểm nghèo từ mấy năm nay, một đứa con gái của anh đã chết vì ung thư bỏ lại hai đứa con và cái quầy thuốc lá này cho anh, anh là ông ngoại của chúng. Tôi hỏi về sự học hành của hai đứa cháu mồ côi, anh có vẻ ngạc nhiên. Qua câu nói của anh, tôi biết anh không đủ sức nuôi hai cháu ăn học. Một quầy bán thuốc lá lẻ như vầy ở đường kiếm chác được bao nhiêu, nuôi bao nhiêu miệng ăn, đã thế lại phải lo thuốc thang cho người bệnh. Tôi cũng đang mệt nhọc vì còn ba đứa con đi học nên rất đồng cảm với anh.

Xoay sang chuyện văn học nghệ thuật, Lê Xuyên than phiền với tôi rằng anh mới đọc một bài báo nói về các tác giả làm văn học Việt Nam từ năm chục năm trở lại đây, những nhà văn nhà thơ ở miền Nam đã từng cầm bút và có danh không được nhắc đến một ai, nghĩa là bị gạt ra ngoài lề. Tôi nói tôi có biết quyển từ điển văn học ấy.

Báo Kiến thức Ngày nay số 297 trang 186, mục “Ai sao?” có một độc giả tên Lê Minh (Khánh Hòa) hỏi: Vì sao các nhà văn Võ Hồng, Sơn Nam, Nguyễn Văn Xuân, Kiên Giang, Bình Nguyên Lộc không có tên trong Từ điển văn học do nhà xuất bản Khoa học Xã hội in năm 1983-84? Người tòa soạn có tên là Phan Hoàng trả lời: Chúng tôi thiết nghĩ ông nên gởi thẳng câu hỏi này về Ban biên tập Từ điển văn học và NXB KHXH. Tin rằng ông sẽ nhận được hồi âm cho thắc mắc mà dường như tất cả những người yêu thích văn chương đều quan tâm. Chúng tôi chỉ xin lưu ý, bên cạnh những nhà văn trên đây, còn rất nhiều tên tuổi văn học đáng kính khác cũng không hề được nhắc đến, dù chỉ cái tên, trong bộ từ điển tầm cỡ quốc gia này. Chẳng hạn như các bậc tiền bối thời tiền chiến: Hoàng Ðạo, Ðinh Hùng, Nguyễn Vỹ, Phạm Hầu, Ðoàn Phú Tứ, Bàng Bá Lân... cho đến những nhà văn nhà thơ góp phần đáng kể vào diện mạo văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Vũ Anh Khanh, Trần Dần, Lê Ðạt, Phùng Quán, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng...

Những nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ tầm cỡ như thế còn chưa được ngồi sau porte bagage đèo xe đạp vào văn học sử nữa là... Ðừng nói là người ta thiếu sót trong việc biên soạn, vì ban biên tập toàn là người có đầu óc, có văn hóa được đào luyện. Sỏi đá xôn xao. Chúng tôi cười xòa, cũng xong cả thôi. Quan tâm làm đếch gì đến chuyện đó.

Bạn bè lâu ngày gặp nhau không cà kê dê ngỗng, thì cũng dây cà ra dây muống. Tôi hỏi anh về việc cư trú, anh nói anh chưa có hộ khẩu, đương nhiên không thể có chứng minh nhân dân, chẳng có giấy tờ mẹ gì cho biết anh là một con người sống trong chế độ.

“Ông có xin nhập hộ khẩu sau khi đi học tập cải tạo về không?”

“Có chứ sao không, xin nhiều lần rồi mà người ta không cho, đôi khi còn bị mắng mỏ khi xin giấy tờ, nên đành ì ra, bị phạt thì chịu thôi, chán rồi người ta cũng nản.”

Ðến lúc ấy tôi mới thấy Lê Xuyên xì ra chuyện sống chết.

“Tớ cũng nghĩ về những trường hợp của những người chết chui.”

Tôi ở dưới chế độ này lâu lắm nên hiểu rất rõ từ “chui” là gì, từ này được nhập cảng vào miền Nam sau năm 1975. Chui có nghĩa là lậu, buôn chui, bán chui, phở chui. Những thứ không được công nhận. Chết chui thì thảm lắm, thảm còn hơn phở chui lèo tèo mấy miếng, nước lèo thì nhạt thếch nhạt thác đựng trong bình thủy, bát phở không hành ngò. Nói theo kiểu thời thượng là “phở không người lái”.

Thi sĩ Bùi Giáng chết, cũng ở dạng chết chui, nhưng vì ăn ở có đức nên được chôn cất đàng hoàng, lại được người đời vớt cho một câu: “Chúng tôi đã bỏ quên anh.” Dù rằng với cách sống của ông thì ông cóc cần. Khoác thêm cho cái xác lạnh tanh ấy một sơ mi gỗ hay đội lên đầu thêm vòng nguyệt quế nữa thì nhằm nhò gì.

Thuở còn ăn mắm mút dòi, gạo châu củi quế, người dân khoái xài đồ chui hơn là đồ quốc doanh. Vì, muốn ăn một bát phở quốc doanh phải xếp hàng cả buổi, nhân viên phụ trách khâu bưng phở mặt vác lên như ba cái thớt chồng lên nhau, dằn tô phở trước người mua phiếu như ra ơn ban phát, bố thí. Phở đồng loạt là phở chín, khách hàng không nên đòi chín nạm gầu hoặc xin thêm nước béo hành trần lôi thôi, chẳng ngon lành gì hơn phở chui.

Người ta thèm nụ cười cầu tài của anh bán phở chui, lấy chuyện đó làm hài lòng nên cũng ấm cái bụng. Chứ không treo bảng “khách hàng là thượng đế” như bây giờ.

Nhìn sang bên kia đường tôi thấy một sạp báo. Báo chí đủ các thể loại phục vụ độc giả, sắc màu rực rỡ, hấp dẫn, in ấn đẹp bằng mười ngày xưa, hơn thuở tôi còn xách bút chạy rong nhiều. Sự tiến bộ trong ngành báo chí trông thấy ngay trước mắt. Tôi nói với Lê Xuyên:

“Có một dạo tôi tính mở một sạp báo bán cho đỡ buồn, nhưng rồi lại thôi, dù có mượn được vốn.”

“Tại sao vậy?”

Tôi lắc đầu:

“Sau những ngày thực tập nghề bán báo, tôi bỗng cảm thấy buồn, vì ngày nào cũng đụng đến báo chí tự nhiên mình thấy nhớ nhung gì đâu không, cái dĩ vãng làm báo tội nghiệp của tôi ám ảnh tôi quá nhiều.”

Lê Xuyên vốn là tổng thơ ký của nhiều nhật báo gật gật đầu:

“Ờ ông nói có lý đấy, chúng ta không thể hành nghề bán báo được, sẽ buồn lắm, không như nghề bán thuốc lá lẻ của tôi.”

Có người khách ghé mua một gói thuốc lào. Bây giờ tôi mới biết anh còn bán cả thuốc lào đượm khói dân tộc nữa, nhặt nhạnh từng cắc một, quả là con người lương thiện từ đầu đến chân.

Chia tay chú Tư Cầu vì trời đã muộn. Gặp anh tôi không thể không nhớ đến nhan đề một truyện dài của anh là Gió đưa trăng. Sau này tôi biết anh lấy từ câu hò trữ tình trên sông nước Cửu Long. Câu hò như thế này: Gió đưa trăng, trăng đưa gió, [con] trăng lặn rồi gió biết đưa ai?...

Tôi như nghe thấy tiếng ca trữ tình vút lên thinh không, man mác trên sông nước Cửu Long, đồng bằng lúa gạo Nam bộ. Tính chất Nam bộ trải dài trong tác phẩm của anh và ở ngay chính con người anh. Trăng lặn rồi gió biết đưa ai? Có phải một câu than thở không? Tôi lẩn thẩn mãi với câu hỏi ấy trong đầu. Tôi nghĩ đến hát ru Nam bộ mà Lê Xuyên đặt tên cho tác phẩm của mình, có một câu bỏ lửng.

Tôi về đến nhà ở Ấp Ðông Ba xưa vào buổi trưa, mở truyền hình lên coi. Tôi nhận được tin cơn bão số 6 đang trên đường đổ vào bờ biển Việt Nam. Sao mà khổ thế nhỉ, bao nhiêu là tai ương. Người ta kêu gọi nhân dân chống bão lụt.

Tôi nghĩ hoài về nhà văn Lê Xuyên. Mưa ập xuống ngập đường như sông. Trên con đường Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ nước ngập đến bụng, liệu Lê Xuyên có khiêng nổi xe thuốc đội lên vai lên đầu để tránh ướt không, bảo vệ cái vốn liếng nhỏ bé, duy nhất của gia đình anh trên đôi vai còm cõi.

Tôi lo lắng, thương xót bạn, thầm cầu xin sự an lành đến với anh. Năm hết Tết đến rồi. Anh từng nói từ lâu rồi anh không có mùa xuân.

Nguyễn Thuỵ Long
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »


[align]
Image


Vợ hiền
Tràm Cà Mau

Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn.
Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả.
Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.
Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác. Ngoài tình cảm thắm thiết chia xẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.
* * *
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là ” tam thập nhi lập.” Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để bề nói ép uổng.
Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng chuyên chính của bà vợ nhà.
Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rỉ nói với tôi: ”Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mầy, một ngày thôi cũng đủ.” Nghe thế thì không sợ sao được?
Trong sở tôi, có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xẩy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt! Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỹ sư giả bên Pháp về.
Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.
Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra.
Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, ít át, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai, từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá, chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?
Không nỡ để thấy mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp. Mẹ tôi đến thăm xã giao nhà Lam hai lần dể dò xét gia thế , và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói: “ Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?”.
Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu.
Tôi cố bào chửa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói: “Mẹ thương con, mẹ không muốn sau nầy con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu”.
Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi.
Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.
Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tối thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt.
Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ xỉ vả tôi: “Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả.
Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.”
Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ. Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu.
Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau nầy. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.
Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc dục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói: “ Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm”.
Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép. Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo: “Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui”.
Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói : “Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh . Em nào cũng vậy cả.” Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời: “Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.”
Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng . Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia dình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu, và bảo: ”Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.”
Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành dộng theo lối đó.
Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại.
* * *
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi. Tôi thấy mình tan loang vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo.
Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ: “Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế nầy, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.” Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tách thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc.
Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát nước bể Ðông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẵng làm nên được việc gì cả.”
Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc nầy, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, vì ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có một phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định.
Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn. Tôi nghĩ, nếu những lúc nầy mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tội tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lổi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lổi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mĩa, nói những lời tàn nhẩn.
Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo: ”Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn”.
Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác. Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, dắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai thở than hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói: “Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.”
Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.
Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nỗi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế cho gia đình.
Mỗi ngày, Mai thường đọc báo, và khoanh cho tôi các bài hay, các tin tức cần thiết. Nàng ghi danh cho tôi học ở Ðại Học Luật Khoa Sài Gòn, mua bài gởi về tỉnh. Nàng đọc và làm tóm tắt từng bài học, ghi các ý chính của từng đoạn vào bên lề giấy. Nhiều đêm trước khi đi ngủ, Mai đọc bài cho tôi nghe, và nói lại đại cương của vấn đề. Ban đầu, tôi chìu vợ mà nghe những bài học khô khan đó. Nghe lơ là, không quan tâm lắm.
Nhưng về sau, tôi thấy cũng hiểu được nhiều điều hay của luật pháp, kinh tế, các vấn đề xã hội khác. Tôi thành chăm chỉ. Nhờ vậy mà ngày tháng ở tỉnh lẻ thành bận rộn trong êm đềm. Sau bốn năm, hai vợ chồng đều tốt nghiệp cử nhân Luật khoa và tôi xin chuyển ngành. Tôi thường nói đùa với bạn bè rằng, vợ tôi là giáo sư duy nhất mà tôi theo học trong chương trình cử nhân luật khoa. Tôi thật sự khâm phục vợ, vừa đi dạy trẻ kiếm thêm tiền, vừa chăm sóc con cái, nấu nướng, và học bài, ôn bài cho tôi mà khi nào cũng vui vẻ, dịu dàng, không than phiền, kêu ca.
Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi.
Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tình mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẵng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia xẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy?
Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè. Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng không tài sản.
Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối bán tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền.
Bằng tiền bạc, Mai mua chuộc được tên cán bộ cai tù, cho nó một cái đồng hồ, hứa hẹn cho thêm cái đài (radio) và hứa thêm khi tôi được thả về, sẽ cho một chiếc xe đạp. Ðó là ba niềm ước mơ cao sang của nhân dân anh hùng miền Bắc dạo đó: “Ðạp, đồng, đài”, ai có ba thứ nầy thì được xem như tột đỉnh giàu có. Thanh niên có đủ “đạp đồng đài” thì có thể cưới bất cứ cô gái nào trong xứ.
Tên cai tù đã tiếp tế cho tôi thuốc men, mì gói và các thức cần thiết,và phục vụ tôi như một tên đầy tớ trung thành. Nhờ thuốc từ gia đình,tôi thoát chết qua hai lần bệnh nặng không hy vọng sống sót. Sau nầy, gã cai tù tội nghiệp đã trở thành kẻ chịu sự sai khiến của tôi trong trại cải tạo. Tôi đã sai nó mua cho anh em nhiều thứ cần thiết, bí mật đưa tin tức về cho gia đình.
Trong thời gian tôi đi tù, một người bạn cũ của ông anh Mai, trước kia có theo đuổi nàng, sau vào bưng biền theo Cộng Sản, hắn đã đến viếng thăm và nói xa gần, rằng muốn giúp đỡ nếu Mai chịu hắn. Hắn sẽ xin việc làm cho Mai và sẽ tìm cách bảo lãnh cho tôi. Mai đã khéo léo nói cho nó bỏ đi và về sau tránh tiếp xúc.
Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc dục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân.
Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi : ”Mình hãy xem cuộc đời nầy như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xẩy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian nầy. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.”
Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ mới. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa bao cấp (kinh tế chỉ huy, kinh tế tập trung-TC)
Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên. Ngày chia tay, Mai rất bình tỉnh, mà tôi thì trong lòng nhũn ra vì yếu mềm, cố cầm dòng nước mắt cho khỏi tuôn trào. Mai dặn dò: “ Anh phải giữ gìn sức khỏe. Em đủ sức lo cho các con và bản thân.
Ðừng bao giờ quên cả dân tộc đang khổ đau, đợi chờ! Thôi anh đi“. Tôi ôm vợ vào lòng, nước mắt chảy tràn đầy gò má. Tôi cố cầm tiếng nấc cho Mai đừng biết tối đang khóc.
Lời dặn dò của vợ làm tôi cứ ngỡ mình đang ôm cả khối hào quang sáng rực, ôm cả mặt trời chói lọi trong vòng tay. Tôi tự hứa sẽ không phụ lòng kỳ vọng của vợ trong phút chia ly. Tôi tự hứa, ra đi không phải chỉ để tìm tự do riêng cho bản thân mình thôi.
Chuyến đi không thành, phải dời lại một tháng sau. Nhiều người bỏ cuộc nên thuyền trống. Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.
Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.
Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái. Ðể cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tránh xa những nơi có tranh dành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng.
Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn cực khổ trong trại tị nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt.
Những thiếu thốn, khó khăn trong trại tị nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ Cộng Sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tị nạn.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa đông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày.
Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần, hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về nuôi những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới.
Trong vòng ba tháng, chúng tôi đi xin việc cả trăm nơi khác nhau, đâu cũng gõ cửa, đâu cũng xin việc. Hai vợ chồng lội bộ dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà. Thơ của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã.
Khi bỏ nước ra đi, hầu như ai cũng mang trong lòng một hứa hẹn, một trách nhiệm âm thầm, không nói ra nhưng vô cùng tha thiết. Nhiều đêm Mai thì thầm: “Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không, hay chỉ mãi mê lo cho đời sống riêng tư?”
Mai thường an ủi tôi: “Thôi, mình ráng làm ăn, rồi làm được những gì nhỏ nhất có lợi cho quê hương thì làm. Em tin tưởng sẽ có một ngày nào đó, chúng ta sẽ có cơ hội đóng góp cho quê hương nhiều hơn.”
Chúng tôi đi làm việc toàn thời gian, và làm thêm những việc sửa chữa lặt vặt cho các gia đình trong nhà thờ họ đạo. Các bà cụ dành việc làm cho tôi với tinh thần giúp đỡ, trả cho tôi những thù lao nhiều hơn trị giá thực sự. Chúng tôi chỉ để dành một số tiền nhỏ phòng khi bất trắc và ăn tiêu hết sức tiện tặn. Hàng tháng, Mai gởi tiền giúp đỡ các gia đình bà con, bạn bè đang đói khó, gia đình những người đau khổ trong tù đày, các bạn đang quay quắt ở các vùng kinh tế mới. Giúp nhiều nhất cho những người tù không có thân nhân bới xách, thiếu thốn thuốc men, thiếu thốn chất bổ dưỡng. Vợ tôi thường bảo, dù cho những giúp đỡ nầy như muối bỏ biển trong một quê hương đầy đói rách, nhưng có còn hơn không. Mai vui sướng trong việc xẻ chia chút dư thừa vật chất cho những người cùng khổ.
Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà. Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, dành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang. Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm.
Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị thương tổn. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẳn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm.
Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền. Tôi đem nhận xét nầy nói với Mai, nàng cho rằng những người đàn bà đó, chỉ đáng thương, vì không ai dạy cho họ điều khôn ngoan phải đạo mà có lợi cho họ hơn là có hại.
Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng: ”Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu.
Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.” Thế là tôi tìm dược nguồn vui và yên tỉnh tâm hồn.
Khi tôi bị thất nghiệp, Mai càng an ủi vỗ về tôi nhiều hơn, để tôi không có cái mặc cảm mình vô tích sự, sống nhờ vào người khác. Nàng nói, cứ từ từ tìm rồi việc khác, đừng nóng lòng, không gấp chi, vì một người đi làm, nếu ăn tiêu tiện tặn lại, thì cũng không thiếu thốn. Vả lại công việc, thì cửa nầy đóng, sẽ có cửa khác mở. Mai khuyên tôi ở nhà nghỉ ngơi một thời gian cho khỏe. Bởi vậy nên tôi không hốt hoảng lo âu như vài người bạn khác. Một anh nói chuyện trong lúc trà dư tửu hậu, đùa rằng: “ Phải đi tìm việc gấp chứ, không thì ăn được của vợ một miếng cơm, thì phải mửa ra ba miếng máu”. Tôi không tin và không vui khi nghe câu đùa cợt đó.
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai: “Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?”.
Nàng nói: “Ngày xưa đọc sách, em không nhớ tác giả nào đã viết rằng, con chó suốt đời không làm gì cả mà được mọi người thương yêu, vì cách xử sự của nó. Nó không giận hờn, không đòi hỏi, không trách móc. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.”
Tôi thành thực mà nói rằng đã học rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.
Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại nầy cũng là bài học tốt về sau.
Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.
Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.
Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.
Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói: “Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học.
Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng, có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trờ chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền. Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc. Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy một bữa cơm.
Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn. Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu, mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm.
Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ tôi cũng thấy việc làm của tôi là có lý. Anh bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, thì phải mất một con bò khác.
Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nó nghe gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bửa cơm.
Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe.”
Mai kết luận rằng; ” Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương.”
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan, dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền nhân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: ”Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi”.
Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.

Tràm Cà Mau
Last edited by bichphuong on Sun Dec 29, 2019 4:20 pm, edited 1 time in total.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »


Không món quà nào hơn

Nguyễn Diệu Anh Trinh

Khu phố cô ở có chừng một trăm căn nhà, dãy bên phía nhà cô nhà nào cũng nằm trên một con dốc thoai thoải, không cao lắm, còn phía bên kia thì bằng phẳng hơn, với những sân cỏ xanh mướt. Ðặc biệt căn nhà đối diện nhà cô, chủ nhân là đôi vợ chồng già, màu da hơi sậm. Sân cỏ trước nhà ông bà này rất đẹp, xanh mướt như nhung và không hề có một gốc cỏ dại. Chiều chiều, ông bà hay ra ngồi xổm xuống để nhặt lá vàng và nhổ những cọng cỏ dại mới nhú, hình ảnh rất quen thuộc với đám trẻ con hàng ngày lên xuống xe bus đưa đón học sinh ở góc phố cạnh đó.

Khu phố nhỏ thỉnh thoảng có người dọn đi, có kẻ dọn đến… nhưng ông bà lão này chẳng hề quan tâm đến những thay đổi ấy.

Một cảnh quen thuộc, cứ chiều chiều là có người thanh niên râu tóc đậm đen, hình như là Ấn Ðộ, hay dắt chú chó đi qua đoạn đường trước mặt nhà cô. Anh chủ thì mặt lầm lì còn con chó thì cao to và có phần năng động. Có hôm cô bắt gặp quả tang con chó ị trên sân cỏ phạm vi nhà cô nhưng anh chủ không dùng bao nylon để “thanh toán” như quy luật mà làm ngơ, dắt chó đi luôn. Cô hơi bực mình. Vài lần khác, con chó ị ngay ở khoảng sân đẹp nhà đối diện. Ông bà lão kia dường như không biết, cô cảm thấy ái ngại giùm nếu lỡ ông bà ngồi xuống nhổ cỏ mà chẳng may vớ phải “của quý” thì ôi thôi! Năm lần, ba lượt… cô quyết định bắt chuyện với bà lão:

– Bà có biết là phân chó trên sân cỏ nhà bà không?

Bà lão nhìn cô, đôi mắt nheo nheo… Cô lặp lại, bà trả lời bằng một nụ cười. Nghĩ rằng bà lẩm cẩm, cô lên tiếng:

– Người chủ con chó đó nhà ở góc kia, bà có muốn phàn nàn về chuyện dẫn chó đi dạo mà không giữ vệ sinh chung một cách vô ý thức vậy không?

Bà lão bình thản:

– Không cần đâu, nếu con chó của ông ta ị bậy, tôi có thể dọn được mà!

Cô tròn mắt:

– Phải nói cho ông ta biết để giữ vệ sinh chung ở đây chứ!

Bà nhẹ nhàng:

– Yên tâm cô bé, tôi có thể làm việc đó mà.

– Bà không bực bội sao?

– Chuyện rất nhỏ, không nên làm cho nó lớn ra, cô à!

Cô đang ngạc nhiên trước vẻ bình thản tự tại của bà thì bà tiếp:

– Chúa dạy ta, “Nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ …”

Cô nhìn bà lão bằng ánh mắt lạ lùng vì thấy bà lão lẩm bẩm giống một người đãng trí đang nói chuyện với chính mình, hay giống như một Bà Cố đang giảng đạo trong Nhà Thờ. Nhưng không phải, bà cười cười lắc lắc tay cô:

– Tôi và chồng tôi có thể làm việc ấy, không sao đâu cô bạn nhỏ.

Buổi tối, trong bữa ăn cô định kể lại câu chuyện cho chồng nghe thì thật bất ngờ anh cũng có chuyện để kể:

Xem thêm: Đám rước
… “Hai cụ già trước nhà là người rất siêng năng đi Nhà Thờ, hôm nọ cụ ông nhờ anh qua thay giùm cái bóng đèn vì chân cụ yếu không leo lên thang được. Thấy trong nhà đồ đạc không có gì anh nghĩ hai cụ chắc sắp dọn nhà đi nơi khác nên hỏi:

– Ông bà sẽ dọn đến đâu ạ?

– Chúng tôi không dọn đi đâu cả…

Nhìn nét mặt ngơ ngác của anh, cụ nói:

– Tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ trừ những thứ cần phải để dùng hàng ngày, còn lại… tôi đã cho hết…nhiều người đang cần hơn chúng tôi.

Ôi trời, quả thật trong gian bếp rộng và rất khang trang chỉ còn sơ sài đôi cái chén, ly, không bàn ghế, không tủ. Cụ ông còn đưa tay chỉ vào cái sofa nhỏ bảo:

– Cái này của người bạn tôi, ông ta đến đây muốn ngồi xem TV mà không có ghế nên ông ta mang đến, chừng nào chúng tôi ra đi… thì ông ấy bưng về lại….

– Thế các con của ông bà đâu?

– Các con của chúng tôi đều có công ăn việc làm, nhà cửa hẳn hoi. Chúng chẳng quan tâm đến những thứ này. Tất cả đồ dùng trong nhà chúng tôi đã cho hết những người cùng đi Nhà Thờ. Rất nhẹ nhàng khi ra đi mà mình không còn gì hết cậu à…”

Chồng cô kể xong thì tiếp lời:

– Mà thiệt đó em, cái nhà bên ngoài coi bộ nguy nga hơn nhà mình, sân cỏ trước sau đẹp hơn nhà mình… vậy mà trong nhà hổng có gì ráo, ngoài hai cái mạng già!

Nghe mẩu chuyện anh kể, cô cảm thấy xấu hổ trong lòng, nhưng cô cũng kể nốt chuyện con chó hàng xóm và câu chuyện nói với cụ bà ban chiều.

Hai vợ chồng bỗng dưng không ai bảo ai, ngồi trầm ngâm. Hai câu chuyện mà vợ chồng cô nghe được từ ông bà cụ hàng xóm thật là bài học, là tấm gương rất đáng trân trọng, rút ra được ý niệm: của cải vật chất thật ra chẳng là gì cả, mọi thứ đều phù du…Cuộc sống có an nhiên tự tại được hay không là do chúng ta tự buông xả, mọi chuyện nặng nhẹ hay không cũng là do chính suy nghĩ của mình. Khi còn tại thế, mình muốn giúp ai, làm gì thì hãy cứ làm, đừng nên ngần ngừ… Con người ta cuối đời, khi về với cát bụi hư không là hai bàn tay trống và một cõi lòng.

Ðôi vợ chồng trẻ từ ngày nghe câu chuyện mang ý nghĩa “buông xả” của đôi vợ chồng già hàng xóm gốc da màu thì vô cùng ngưỡng mộ. Không biết từ đâu, trong tiềm thức cô cũng như nhiều người bạn cô luôn nhìn về những người da màu với một cái nhìn ít thiện cảm. Mặc dù chính bản thân mình cũng thuộc nhóm người di dân gốc da vàng.

Bẵng đi mấy hôm, từ trong nhà, chồng cô nghe tiếng xe cấp cứu hú còi. Nhìn sang căn nhà hàng xóm đối diện thì thấy nhân viên cấp cứu đang đưa cụ ông lên băng ca, xe chạy đi còn thấy cụ bà ngơ ngác đứng trước cửa. Hai vợ chồng bước sang hỏi thăm, được biết cụ ông tự nhiên bị ngã bất tỉnh nên bà bấm 911 gọi cấp cứu. Thế là từ ngày ấy, chỉ còn lại một mình bà cụ trong căn nhà mênh mông. Thỉnh thoảng khi chạy bộ mỗi sáng, nhìn thấy bà cụ dọ dẫm từng bước trước sân nhà, cô hỏi thăm thì được biết cụ ông vẫn còn điều trị trong bệnh viện. Cô luôn luôn nhắc chừng, “Bà cẩn thận nhé, cần giúp gì cứ bấm chuông nhà chúng tôi, vợ chồng tôi luôn sẵn lòng”. Cụ Bà cười móm mém, ánh mắt nhìn cô như reo vui.


Một hôm, hai vợ chồng cô đang chăm sóc mấy bụi cây trước sân nhà, cụ bà tay cầm một chìa khóa, từ từ bước qua sân nhà cô. Rất ngạc nhiên, chồng cô ngừng tay hỏi:

– Bà cần giúp gì ạ?

– Cậu có thể nào giúp tôi đưa chiếc xe từ trong “ga ra” ra ngoài này không?

– Bà định làm gì thế?

– À, tôi muốn lái xe đến bệnh viện thăm ông ấy…

– Vậy sao, tôi chưa từng thấy bà lái xe bao giờ kể từ ngày chúng tôi dọn về đây.

Bà cụ chậm rãi:

– Tôi lái được chứ, có điều… cách đây nhiều năm, sau một tai nạn xe dù không nặng lắm, nhưng… ông ấy không cho tôi lái xe nữa, đi đâu thì ông ấy đưa tôi cùng đi.

Ngưng chút xíu, bà tiếp:

– Lâu thật không lái xe nên bây giờ tự đưa chiếc xe từ trong “ga ra” ra ngoài, tôi… không được tự tin lắm. Nhờ cậu giúp.

Chồng cô ngừng tay, đón chiếc chìa khóa trên tay bà cụ. Anh bước qua nhà ông bà cụ hàng xóm, cẩn thận nổ máy xe, đưa chiếc xe ra khỏi “ga ra”. Trong khi chờ đợi, cô bắt chuyện:

– Ông ra sao rồi thưa Bà, ổn chứ?

– Ông không thể đứng dậy đi được nữa, chắc trí nhớ cũng kém rồi…

Cô ái ngại:

– Thế…ông… ăn uống ra sao bà?

– Cũng không tệ lắm, ông cứ sợ tôi lái xe đi nguy hiểm…

Cô nhìn bà đầy thương cảm:

– Tôi có thể giúp bà, hôm nay tôi rảnh.

Bà cụ cười:

– Cám ơn cô, tôi nghĩ tôi một mình lái xe đến thăm thì ông ấy rất vui đó.

– Bà chắc bà Okay chứ?

Bà cụ lại cầm tay cô lắc lắc:

– Cô yên tâm, Chúa nhìn thấy những gì tôi làm mà, không sao đâu.

Chồng cô đã đưa xe ra ngoài, Bà cụ chầm chậm leo vào, xe đang nổ máy. Bà bình thản thắt dây an toàn, nụ cười móm mém, nhắc lại một câu:

– Ðã lâu lắm tôi không lái xe. Ông ấy hứa sẽ chở tôi đi bất cứ nơi nào tôi muốn. Bây giờ ông ấy đã nằm một chỗ, không đi lại được. Tôi cần phải vì ông ấy mà cố gắng, chắc chắn ông vui lắm đây! Rất cám ơn hai bạn.

Cả hai vợ chồng cô đều dặn bà:

– Bà cẩn thận nhé!

Ðôi vợ chồng trẻ nhìn nhau… rồi nhìn theo chiếc xe chầm chậm rời khu phố. Cả hai cùng buông tiếng thở dài, cõi lòng mênh mang buồn. Cầu cho bà cụ còn đủ sức khỏe và minh mẫn để một mình lái xe đi thăm ông. Nếp sống của đôi vợ chồng trẻ từ ngày quen biết ông bà cụ hàng xóm đã thay đổi khá nhiều. Bài học về lòng vị tha, tư tưởng không coi nặng vật chất, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Rất an nhiên tự tại, đời sống có phần nhẹ nhàng hơn.

Xem thêm: Để chụp hình đường phố đẹp
o O o

Mùa Ðông đang đến sau vài cơn mưa nhỏ, những hàng cây vàng lá hai bên đường bắt đầu trơ trụi. Thảm cỏ xanh nhà hàng xóm đã không còn xanh tươi, lác đác có những chiếc lá vàng cuối cùng từ cây phong trồng phía trước bay bay theo gió rồi nhẹ nhàng đáp xuống sân nhà.

Bà cụ hàng xóm dạo này thường tự lái xe ra mà không cần đôi bạn trẻ trợ giúp. Cô thầm nghĩ: Có lẽ hạnh phúc khi mang lại niềm vui cho người bạn đời đã khiến Bà cụ trông có phần tự tin.

Hôm nay, thật lạ, bà cụ lần bước qua khoảng sân nhà cô. Từ trong nhà cô đã nhìn thấy chiếc xe bà cụ đã nổ máy và đậu ở ngoài lề đường. Vừa bước ra ngoài cô suy đoán, có lẽ xe bà bị gì đang cần giúp đây.

– Chào Bà! Hôm nay đi thăm người yêu đó à?

Ánh mắt bà cụ long lanh. Cô dò chừng:

– Sắp đến Giáng Sinh rồi, bà làm món gì cho ông, nào?

Cụ Bà cười rất tươi:

– Năm nay tôi được Chúa thưởng…

– Bà sẽ vào bệnh viện mừng Lễ với ông chứ?

– Tôi có món quà lớn lắm, muốn chia sẻ với vợ chồng cô.

Người phụ nữ trẻ nhìn quanh, vẫn không hiểu ý bà cụ hàng xóm. Cô lại hỏi tiếp:

– Ông nhà vẫn ok chứ bà?

– Vâng, năm nay Chúa thưởng tôi. Lát nữa xe bệnh viện sẽ đưa ông ấy về nhà. Hằng ngày sẽ có nhân viên y tế đến chăm nom vì ông vẫn phải chuyền oxy và ông hầu như chẳng còn biết tôi là ai. Nhưng tôi còn biết ông ấy. Là chồng tôi mà! Ðây chính là món quà Giáng Sinh vô giá mà tôi mong mỏi từ bấy lâu đấy cô gái ạ.

Ôi Trời, người phụ nữ trẻ vừa mừng vừa cảm động. Món quà vô giá dành cho người vợ chỉ đơn giản là được thấy chồng mình trở về nhà, cho dù ông đã hoàn toàn mất tri giác. Những suy nghĩ rất bao dung cho đến những việc ông bà hàng xóm đã làm khiến cô cảm thấy mình sao quá nhỏ nhoi, ích kỷ. Tại sao không buông bỏ để đời sống nhẹ nhàng? Những suy tư nhỏ nhen đã khiến tâm hồn nặng trĩu, rồi cuối đời còn gì đâu. Hãy sống như ông bà cụ. Bao nhiêu của cải ít cần dùng đem phân phát hết. Không ước ao gì hơn. Mùa Giáng Sinh đang đến, chỉ một hình hài chằng chịt dây nhợ của chồng trở về bên cạnh mà cụ bà đã xem đó là một Ân sủng quý báu, mang lại cho bà nụ cười hạnh phúc, khiến khuôn mặt già rạng rỡ như ánh nắng mai.

Cô thật ngưỡng mộ tấm lòng người hàng xóm già nua có trái tim rất ấm.

Nước mắt tràn trên đôi mắt người phụ nữ trẻ tuổi. Cô run run choàng tay ôm lấy bà cụ. Một mái tóc bạc bên cạnh mái đầu xanh.

Mùa Ðông đang đến thật chậm bên thềm.

NDAT
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

KHI TÓC KHÔNG CÒN XANH...

Nguyễn Thị Thanh Dương

Tôi thu xếp ít quần áo và vài thứ lặt vặt cần thiết vào trong chiếc va ly nhỏ, sửa soạn cho một chuyến đi vài ngày. Bác ruột tôi vừa qua đời tại thành phố Wichita, tiểu bang Kansas . Gia đình bác mới từ Washington D.C. dọn về đây được mấy tháng nay. Lòng tôi buồn vời vợi đang nghĩ nên nói cách nào cho đám anh chị em họ của tôi về chuyện của gia đình mình đang đến hồi sụp đổ khi mà bấy lâu nay họ chỉ thấy tôi khoe ra bên ngoài một màu hạnh phúc?

Chồng tôi về tới nhà, thấy tôi bên chiếc va ly anh chỉ hỏi một cách bình thường:
- Em sắp đi đâu?
- Bác Lân em vừa qua đời, em phải về tham dự tang lễ.

Anh lạnh lùng, ngắn gọn:
- Cho anh gởi lời chia buồn đến họ.

Chúng tôi đang làm đơn ly hôn. Anh, người đàn ông thành đạt của tôi cũng là một người bay bướm trăng hoa. Suốt thời gian 20 năm chung sống tôi đã cố gắng chịu đựng vì các con, vì muốn gìn giữ tài sản của gia đình không thể để mất vào tay người đàn bà khác. Nhưng cho tới hôm nay thì sức chịu đựng của tôi đã cạn kiệt, như giòng nước lũ làm vỡ bờ chảy xối xả những giận hờn và tủi nhục. Anh đã lừa dối tôi, có một tình yêu khác với một cô gái trẻ đẹp, chính anh thẳng thắn đề nghị ly hôn tôi để cưới cô gái đó làm vợ.

************

Sau những ngày tang lễ bác và những lần tâm sự với các anh chị họ về tình trạng gia đình của tôi hiện nay. Các anh chị đều nói hạnh phúc của tôi không thể cứu vãn được nữa, chia tay là giải thoát cho cả hai. Khi đã chia sẻ được những điều đau khổ tôi thấy nhẹ lòng.

Wichita thành phố không qúa lớn cũng không qúa nhỏ và cũng chẳng có gì hấp dẫn tôi vào lúc này, mà còn hai ngày nữa tôi mới phải trở về nhà, dù là ngôi nhà bất hạnh, có người đàn ông tôi từng yêu thương, qúy trọng, nay đã quay mặt phản bội hất hủi tôi.

Đến tiểu bang Kansas, thành phố Wichita lại không xa mấy thành phố Liberal, chỉ 4 tiếng lái xe, làm tôi bỗng dưng tha thiết nhớ đến thành phố Liberal nghèo nàn nhỏ bé với khỏang 15 ngàn dân, nơi mà ngày đầu tiên đến Mỹ gia đình chúng tôi đã ở đây và trong ký ức tôi cũng nhớ đến John, người bạn thân thuở đó. Thuở tôi mới 15 tuổi.
Gia đình chúng tôi đi vượt biển, đến trại tị nạn Bidong, Mã Lai. Sau 9 tháng gia đình chúng tôi đến Mỹ nhờ sự bảo trợ của một gia đình người Mỹ. Đó là ông bà Smith, nhà truyền giáo, họ chỉ có 1 người con trai, anh tên John, lớn hơn tôi 1 tuổi. Năm ấy anh 16 mà đã phổng phao, đẹp trai cao ráo.

Nhà chúng tôi ở không xa căn nhà của ông bà Smith, nơi hứơng Nam của thành phố Liberal. Nhà ông bà Smith đúng là một căn nhà nông thôn, mảnh sân rất to rộng phía trưóc trồng trọt dưa hấu, xung quanh nhà những cây lê, cây táo và cây đào lần lượt thi nhau nở hoa. Nhưng được trồng nhiều nhất là cây táo. Tôi không có ai để chơi ngoài John hay sang nhà trò chuyện, mấy đứa em tôi cũng thích xúm vào hóng chuyện và cũng là cách để chúng tôi tập luyện tiếng Anh . Thỉnh thoảng tôi cũng chạy sang nhà John, nhất là vào những lúc cây có trái chín trên cành. Ôi, tôi mê những cây táo vào mùa thu qúa, có loại mọc thẳng, cành vươn cao và trái cũng ở trên cao, có loại cành mềm, khi đậu trái thì chĩu cành lòa xòa sát xuống đất đến nỗi tôi chỉ việc ngồi xổm mà tha hồ hái trái.

Lại còn vườn dưa hấu trước sân tôi hay cùng John háo hức vạch tìm trong đám lá những trái dưa hấu nhỏ vừa hiện ra và thích thú theo dõi chúng cho đến khi lớn lên to tròn vươn lên khỏi đám lá. Không gì ngon ngọt bằng trái dưa hấu vừa cắt cuống trong vườn, bổ ra ăn ngay tại chỗ trong một buổi trưa hè mà John thường làm cho hai đứa cùng ăn.

John nói chuyện với tôi đủ thứ, từ những chuyện hàng ngày của anh cho đến những ước mơ mai sau, anh lấy vợ thì sẽ về sống ở một nông trại. Anh say sưa tả cái nông trại của gia đình anh trước kia ở tiểu bang Texas, có một căn nhà gỗ bề ngang dài, bên cạnh là chuồng bò bằng hàng rào gỗ sơ sài. Anh khoe biết cách vắt sữa bò. Anh đã chạy rong trên cánh đồng có khô hay đi trên con đường đất mà mỗi khi gío mùa hè lồng lộng thổi làm tung bụi mịt mù và cả những khi mấy con bò đua nhau về chuồng cũng làm bụi mù tung lên như gío đã thổi.

Đất Texas có nhiều nơi khô cằn gần như sa mạc, cả mấy chục acre đất nhà anh với nhiều bụi xương rồng rải rác và những bụi cây đã là to lớn vĩ đại với thàng bé lên 10 như anh thuở đó. Anh yêu thích ở nông trại, một trời một cõi như của riêng mình. Tôi cũng say sưa nghe John kể, như đi lạc vào một cảnh trong phim ảnh, vì nó xa lạ với tôi, chứ tôi chẳng đời nào thích sống ở những nơi khỉ ho cò gáy như thế.

Tôi luôn mơ nước Mỹ với những thành phố nhộn nhịp phồn hoa như New York mà tôi đã thấy trong phim ảnh làm tôi thích thú, tôi sẽ dạo bước trên những vỉa hè có những cửa hàng sang trọng. Cuộc sống sẽ là một chuỗi ngày vui.

Hai năm sống ở Liberal thì cha mẹ tôi quyết định sẽ dọn đi tiểu bang khác, vì tương lai của mấy chị em tôi, để chúng tôi được sống ở thành phố lớn, học ngôi trường lớn và có cộng đồng người Việt Nam đông hơn. Tôi qúa chán thành phố Liberal nhỏ bé này rồi và đã đợi chờ quyết định này của cha mẹ từ lâu. Thành phố gì mà chỉ có 1 phi trường nhỏ xíu, chỉ đủ cho mấy chiếc máy bay nhỏ thỉnh thoảng đến rồi đi, lặng lẽ, buồn hiu. Muốn đầy đủ tiện nghi, người ta phải đến phi trường ở thành phố Wichita hay Amarillo.

Ngay chiều hôm đó, tôi hí hửng chạy sang nhà John để báo tin vui này. Đó là một buổi chiều mùa hè đầy nắng. Tôi quen thuộc thò tay vào trong mở chốt cánh cổng rào bằng gỗ ngoài sân, mỗi lần đến nhà John tôi đều nhanh nhẩu làm thế, tự nhiên như nhà mình, và đi bộ trên con đường dài mà hai bên là vườn dưa hấu đang độ chín, trước khi đến căn nhà nhỏ bằng gỗ khiêm nhường. May qúa John có nhà, mà mấy khi John đi vắng đâu, anh thích ở nhà giúp cha mẹ làm vườn, ngoài những khi thỉnh thoảng theo cha mẹ đi truyền đạo trong thành phố vào dịp cuối tuần.

Trời nắng nên tôi và John không hẹn mà cùng bước về phía những cây táo trồng quanh mảnh sân trước, nơi mà chúng tôi thường đến đó tán gẫu và ngắm hoa táo nở đẹp vào tháng năm hay hái táo vào cuối tháng chín, cùng ăn, cùng chia nhau nếm thử quả táo ngọt với niềm vui thích. Tới một cây táo to lớn, cành rậm rạp, tháng này táo đang kết trái sau một mùa hoa xum xuê. John ngồi xuống trước rồi đến tôi. Tôi chẳng thèm ngắm những trái táo xanh nhỏ dễ thương trên cành mà lên tiếng hớn hở khoe ngay:
- Anh John ơi, gia đình tôi sắp rời khỏi thành phố này rồi.

Mặt Johm hoảng hốt như vừa nghe một tin kinh khủng lắm:
- Sao? Em sẽ đi…có thật không?
- Thật đấy, bố tôi nói cuối tuần này sẽ dọn đi. Ngày mai cha mẹ tôi sẽ sang từ gĩa cha mẹ anh. Bây giờ tôi cũng sang để chào tạm biệt anh.

Giọng John vẫn bàng hoàng:
- Em sẽ trở lại đây không?

Thấy gương mặt buồn lo của John, tôi tội nghiệp hứa liều không cần suy nghĩ:
- Chắc chắn tôi sẽ trở lại thăm John và cha mẹ của John chứ. Vì cha mẹ John là người đã giúp đỡ gia đình tôi rất nhiều khi mới đặt chân đến Mỹ mà.

John bỗng vụt đứng dậy:
- Hãy đợi anh ở đây, anh sẽ trở lại ngay trong giây lát.

John chạy bay vào nhà và lại chạy bay ra chỗ cây táo, không để tôi phải đợi lâu, anh đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ có ghi sẵn tên John và số điện thoại nhà anh, mà chắc là anh vừa ghi vội, giọng anh tha thiết như năn nỉ:
- Em hãy giữ lấy số điện thoại này, khi nào đến nơi ở mới thì liên lạc với anh. Em hứa đi!

Tôi cảm động, một lần nữa tôi hứa liều:
- Vâng, khi có nơi ở mới tôi sẽ gọi cho anh.
- Đừng thất lạc nhau nhé. Em hứa đi!
- Vâng, không bao giờ !

***********

Nhưng khi đến California thì tôi bận rộn với cuộc sống mới và những lời hứa vội vàng với John bỗng chỉ là một trò đùa, tôi vứt đi mảnh giấy mà anh đã kỳ vọng trao vào tay tôi, đã dặn dò tôi và chắc là đã chờ đợi mỏi mòn kể từ ngày tôi rời thành phố nhỏ. Nối lại nhịp cầu liên lạc với John làm gì trong khi ở cái tuổi 17 tôi mơ hồ hiểu John đã yêu thích tôi, mà tôi dù có cảm tình với anh thì tôi cũng không thể nào lấy anh, vì mộng ước của anh và tôi hoàn toàn trái ngược. Đành rằng gia đình anh là người ơn của gia đình tôi, họ hiền lành đạo đức, John sẽ là người chồng, người cha tốt như tấm gương của cha mẹ anh, nhưng tôi không thể lấy người chồng ít học làm nông trại và tôi chỉ quanh quẩn sống với chồng trong mấy chục acre đất hoang vu, chốn đồng khô cỏ cháy với mấy con gà, con bò như anh đã vẽ ra.

Tôi đã từng nghe chuyện nhà nông khốn khổ, trồng 1 acre bắp chỉ bán được khỏang 80 đồng theo gía sỉ, hay những vụ cam trúng mùa ở Florida, gía cam bán ra mà như cho không, chỉ 50 cent cho một thùng cam và những vụ khoai tây trúng mùa ở Idaho cũng xuống gía rẻ bèo như thế. Giấc mơ tuổi mới lớn của tôi là giàu sang phú qúy, lấy người chồng có địa vị, học cao hiểu rộng. Ở thành phố mới tôi đã miệt mài học hành, chính bản thân tôi cũng sẽ vươn cao. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đi làm và kén chọn người chồng tương lai. Tôi đã bỏ qua nhiều cơ hội lập gia đình vì chê họ không xứng đáng với tôi, cho đến khi gặp người chồng hiện tại. Năm ấy tôi đã 30 tuổi, chồng tôi là một người thành đạt trong học vấn và trong kinh doanh. Tôi đã đạt được ước mơ và vui hưởng hạnh phúc trong những năm đầu.

************.

Vì rảnh rỗi và tò mò tôi quyết định thuê xe để lái từ thành phố Wichita đến thăm thành phố Liberal, nói cho đúng hơn để thăm lại gia đình ông bà Smith và John của ngày xưa xem họ thế nào? Tôi hình dung ra ông bà Smith đã gia, họ đã nghỉ hưu không đi truyền giáo nữa. Còn John đã có vợ con và đang sống ở một trang trại nào đó, anh John sẽ là hình ảnh ông Smith nông dân chất phác và hiền hậu ngày xưa, anh chăm chỉ lao động nuôi bò, trồng trọt, các con anh sống và lớn lên ở nông trại, chúng biết cách vắt sữa bò và bám lấy nông trại không dám đi đâu xa giống như anh.

Sau 4 giờ lái xe, tôi đã trở về nơi chốn cũ. Thanh phố nhỏ, đường kính lớn khỏang hai miles thì có gì là khó mà không tìm ra ngôi nhà của ông bà Smith nơi cuối phố, dù tôi đã xa cách 30 mấy năm rồi. Nhưng tôi vẫn hỏi thăm, có vẻ như gia đình Smith có uy tín với cư dân ở đây lắm. Người ta nói nhà Smith vẫn ở chỗ cũ. Khi tôi xuống xe, đứng ngẩn ngơ nơi cánh cổng rào gỗ năm xưa, bỗng thấy ngậm ngùi, có thể cánh cổng gỗ đã từng hư cũ, từng được thay đổi, làm lại cái khác nhiều lần rồi, và cái chốt mở cửa không phải là miếng gỗ mà tay tôi đã từng chạm vào năm xưa, nhưng vẫn giống thế, và như thể vẫn chờ đợi tôi trở về để chạm tay vào. Tôi run run thò tay vào mở chốt cửa, lại ngậm ngùi hơn vì ngẫu nhiên bây giờ đang là mùa hè, hai bên lối đi của mảnh sân vẫn trồng dưa hấu, lá xanh rậm rạp và xung quanh vẫn là những cây đào, cây lê, cây táo…dù có thể những loại cây này năm xưa đã gìa, đã cằn cỗi, được thay thế bằng những cây trồng sau này. Thế giới đổi thay bao nhiêu thứ mà nhà ông bà Smith dường như không hề thay đổi. Khu vườn của họ vẫn là những hình ảnh cũ.

Tôi đi vội trên con đường dài, hồi hộp nhìn chăm chăm vào ngôi nhà trước mặt đang đóng cửa, không còn tâm trí nào nhìn ngắm vườn dưa hấu xem có nhiều trái hay không. Rồi tôi gõ cửa và chờ đợi. Mãi sau mới có tiếng mở cửa, hiện ra trước mặt tôi là bà Smith, bà đã gìa đi -dĩ nhiên- Sau vài phút ngỡ ngàng nghe tôi tự giới thiệu thì bà đã nhận ra tôi, bà mời tôi vào nhà, rưng rưng nước mắt bà trách móc:
- Thì ra là cô, tại sao mãi hôm nay cô mới trở lại đây? John đã chờ đợi cô mấy năm trời.

Tôi ngạc nhiên và xúc động, nước mắt cũng rưng rưng như bà Smith:
- Thật thế sao? Tôi xin lỗi, tôi vô cùng xin lỗi vì đã không thực hiện điều đã hứa với John
- Cô đâu có biết, ngay khi gia đình cô đi được một tuần là John đã chờ đợi cô gọi phone về từng ngày. Nó luôn tin tưởng cô sẽ gọi phone cho nó và một ngày nào cô sẽ trở về Liberal.

Bà Smith gục đầu xuống và khóc nấc lên, kể tiếp:
- Nó đau khổ và héo hon cho đến khi hoàn toàn tuyệt vọng…
- Trời ơi, tôi không ngờ.

Tôi cố ngăn giòng nước mắt, vuốt ve cánh tay bà an ủi như an ủi cho chính mình và hỏi thăm:
- Số phận tôi và John không thể gần nhau thôi mà. Bây giờ anh ấy ra sao?
- Sau đó John lấy vợ, Christine là con gái một nhà truyền giáo bạn thân của vợ chồng tôi, cô gái hiền lành ngoan ngoãn và rất yêu John, đã làm lành vết thương lòng của John. Nhà vợ chồng nó cũng ở gần đây.
- Thế anh ấy không sống ở nông trại như anh ước mơ sao?

Bà Smith lau nước mắt, thoáng một niềm vui:
- Đó chỉ là ước mơ của một thằng bé tuổi vị thành niên, một thằng bé nhà quê mà suốt thời thơ ấu sống nơi trang trại. Khi John và Christine yêu nhau, cả hai cùng vào đại học. Họ đã tốt nghiệp y khoa và đang hành nghề bác sĩ ngay tại thành phố Liberal này.

Tôi ngạc nhiên và vui mừng reo lên:
- Không ngờ John học gỉoi và có chí đến thế!
- Tôi tin là nhờ có tình yêu của Christine.
- Với nghề nghiệp bác sĩ cả hai vợ chồng John có thể đi đến những thành phố lớn lập nghiệp dễ dàng, nhưng sao họ vẫn ở lại nơi đây?
- Chúng tôi đã quen sống ở thành phố nhỏ, từ ngày ông Smith mất đi, John càng không muốn xa mẹ. Nhưng nó dù bận hành nghề, vẫn không quên phụ giúp tôi gieo trồng và làm vườn mỗi khi mùa Xuân về. Đó là niềm yêu thích của John, của chúng tôi.

Họ thật thủy chung, bao năm qua vẫn ở nơi này, ở căn nhà này dù họ có điều kiện để thay đổi. Bao năm qua họ vẫn trồng trọt làm vườn như nhà nông khi đến mùa dù họ có là ai đi nữa. Tôi đứng dậy chào tạm biệt bà Smith. Bà bỗng nắm cánh tay tôi, lo lắng dặn dò:
- Phải đấy, cô nên về ngay đi và xin cô hãy hứa với tôi một điều.

Tôi nói với tất cả chân tình:
- Tôi xin hứa bất cứ điều gì tôi có thể.
- Cô hãy đi và đừng bào giờ trở về đây nữa, bao nhiêu năm qua, vết thương lòng của John đã lành. Tôi tin là John đã quên cô, nó đang sống yên vui hạnh phúc bên vợ con. Nhưng nếu cô xuất hiện sẽ gợi lại nỗi đau cũ. Cô hãy hứa lại một lần nữa cho tôi yên lòng.

Tôi chậm rãi nói từng lời rõ ràng cho bà Smith nghe rõ:
- Tôi xin hứa đây là lần cuối cùng đến đây. Thôi, xin chào bà.

Tôi đi ra cửa, buớc trên con đường thân quen của thuở tôi 17 tuổi lòng đầy kiêu kỳ tham vọng và John 18 tuổi hãy còn ngây thơ ngốc nghếch, muốn tán tỉnh tôi mà đưa ra một ước mơ nghèo nàn, đơn giản. Tình yêu chân thật của anh John nhà quê chẳng mấy khi đi đâu xa khỏi cái tiểu bang Kansas với những cánh đồng lúa mì mênh mông chỉ là một trò cười đối với tôi.

Nhưng hôm nay, ở cái tuổi không còn trẻ nữa, khi mái tóc không còn xanh nữa, sau những vật chất phù hoa tôi đã nếm biết bao vị đắng, trải qua bao phũ phàng của tình nghĩa vợ chồng. Và sau cuộc trò chuyện với bà Smith, tôi chợt nhận ra một tình yêu hồn nhiên trong sáng của John dành cho tôi. Cái hạnh phúc mà bây giờ vợ của John đang hưởng tôi biết là vững chắc, đẹp đẽ biết bao nhiêu. Điều mà tôi không hề có. Tôi chợt nghĩ đến mấy câu thơ tôi đã đọc đâu đó và yêu thích:

Ngày mái tóc không còn xanh được nữa,
Ngày đôi tay thôi dệt mộng phù hoa,
Thì em sẽ vì anh mà mở cửa,
Trông lên trời đếm hàng vạn sao sa.

Giờ đây không có ai, không có một tình yêu nào để cho tôi thể hiện sự thủy chung đằm thắm đơn giản như thế… Khi ra đến ngoài cổng, tôi quay lại khép cánh cổng rào bằng gỗ. Tôi biết mình vừa khép lại một qúa khứ, một bầu trời xanh và mất nó vĩnh viễn.

Nguyễn Thị Thanh Dương
hoangphong
Posts: 360
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoangphong »

Bà hàng xóm
Nguyễn Văn Tới
Trưa thứ Bảy, sau một tuần lễ đi huấn nghiệp xa nhà, tôi lái xe về, vừa quẹo vô khoảng sân cul-de-sac trước nhà, tôi thấy lố nhố mấy chiếc xe và nhiều người đứng bàn tán ngay trên sân trước của bà hàng xóm kế bên phải của nhà tôi, tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Một người hàng xóm tiến về phía tôi và cho hay bà BJ mới được xe cấp cứu chở đi nhà thương trong tình trạng gần như bất tỉnh. Tôi không ngạc nhiên chút nào vì đã biết trước thế nào cũng có ngày này vì bà BJ đã già yếu và bệnh hoạn triền miên xem chừng khó có thể sống lâu được nữa.
Sẽ có người nói chuyện hàng xóm thì xưa như trái đất, ở đâu cũng vậy, có người khó tính không thể chịu nổi, có người dễ thương, hiền lành, dễ hòa đồng. Đúng vậy, xóm tôi cũng giống như mọi khu xóm khác, nhưng tôi muốn kể bạn nghe về một người phụ nữ hàng xóm độc thân của tôi, người này không thuộc loại nào trong hai loại đó. Bà không phải là cô “láng giềng ơi” của nhạc sĩ Hoàng Quý, hoặc cô thôn nữ nhà bên với vẻ e ấp, nên thơ, và sầu muộn như nhà thơ Nguyễn Bính tả: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn.

Tám năm trước đây, bà BJ và tôi mua hai căn nhà gần kề nhau cùng một lúc. Chúng tôi chào nhau, tự giới thiệu tên tuổi thật nhanh, rồi ai lo việc người đó. Tháng sau, tôi dọn vô, nhìn qua thấy căn kế bên đang còn sửa chữa và sơn mới lại. Vài tháng sau đó, một chiếc U-Haul thật lớn mang bảng số New-York cũng lăn bánh vào sân. Bà BJ run run bước xuống xe. Những người khuân vác làm việc cật lực mang vô nhà rất nhiều thùng giấy được dán băng keo cẩn thận, phải nói là quá nhiều đồ vật. Tôi hơi thắc mắc chồng con bà đâu mà không thấy một ai. Bán anh em xa, mua láng giềng gần, nên tôi thỉnh thoảng qua giúp bà khuân vác và treo những tranh ảnh trên tường mà vẫn không thấy bóng dáng chồng con của bà.

BJ là một người đàn bà da trắng, tóc bạc phơ, trạc 70 tuổi, vóc dáng nhỏ bé, da nhăn nheo, gầy guộc, lưng hơi còng, nhưng khuôn mặt rất sắc sảo, đặc biệt đôi mắt lạnh lùng tạo cho người đối diện một cảm giác e dè, khó thân thiện. Thoạt nhìn, tôi không mấy thiện cảm, nhưng tình hàng xóm cũng nảy nở dần theo thời gian. Bà cho biết chồng bỏ đi từ lâu lắm rồi, lúc bà còn trẻ, cả hai không có con cái gì nên chia tay dễ dàng. Trong giọng nói bà có vẻ khinh bỉ ông chồng bằng cách buông thõng một câu “he was a useless guy, I kicked him out”, một kẻ vô tích sự, trước khi kết thúc câu chuyện.
Tôi hỏi đùa bà có buồn khi sống một mình không? Bà nói bà không cần có chồng mà vẫn sống vui vẻ, thoải mái, muốn làm gì thì làm, khỏi vướng víu chân tay. Tôi đùa rằng bà phải rất tự hào vì cả mấy chục năm nay chưa một người đàn ông nào được hân hạnh nắm bàn tay của bà. Bà đáp anh nói rất đúng, tôi thấy không cần thiết phải có người đàn ông.

Trước đây bà là giám đốc tiếp thị, Marketing Director của hãng General Electric và về hưu đã hơn 10 năm nay, bà đưa tôi xem một số hình ảnh khi còn tại chức, trong đó có bức hình chụp chung với nhiều giám đốc khác ở chỗ làm, một mình bà, thấp và nhỏ con nhất, với nét mặt kiêu hãnh, đứng giữa hai bên là những đấng nam nhi, tai to mặt lớn, áo vét thẳng nếp, cao hơn bà cả cái đầu. Như một bông hoa lạc giữa rừng gươm, bà vẫn ngẩng cao đầu với khuôn mặt tự tin không kém cạnh một ai.

Về hưu, bà sống ở New-York, đồng thời coi sóc và cho thuê một nhà kho lớn (warehouse) ở đó mà bà là người chủ duy nhất. Hơn 70 mùa lá rụng với những mùa đông lạnh lẽo dài lê thê, một bầu trời xám xịt, những làn gió buốt giá, và sự cô đơn kéo về, bà muốn kiếm một miền đất ấm áp chan hòa ánh nắng nên bà chọn Arizona để gởi gắm cuộc đời còn lại.

Lai lịch của bà gây cho tôi một ấn tượng mạnh rằng đây là một người đàn bà thép, không phải thân liễu yếu đào tơ, chân yếu tay mềm cần một bờ vai để tựa đầu. Bà không thích giao tiếp nhiều với hàng xóm. Đôi khi tôi có cảm giác bà bất đắc dĩ phải giao tiếp với tôi vì hai nhà ở sát cạnh nhau. Vì vậy, kính nhi viễn chi là thái độ tôi chọn để giao tiếp với bà. Bề ngoài, tôi vẫn vui vẻ, lịch sự khi nói chuyện với bà, nhưng vẫn giữ một khoảng cách cần thiết. Tôi luôn nhấn mạnh rằng nếu bà cần chi, cứ cho biết, tôi sẽ giúp nếu có thể.

Tất cả những người hàng xóm khác cũng đến chào hỏi thăm và làm quen với bà như thông lệ, bà cũng đáp lại một cách xã giao, có phần lạnh nhạt khiến họ khá phật lòng. Họ nói chắc tôi đặc biệt lắm nên bà mới làm bạn với tôi. Tôi đoán có lẽ tôi là người Á Châu duy nhất ở đây nên bà đối xử khác thường chăng? Mấy đứa con nít hàng xóm lỡ chơi skateboard trên sân nhà bà sẽ bị mắng xối xả nên chúng cũng tránh né không dám đến gần. Nói chung hàng xóm không mấy ai muốn kết thân với bà bà trừ gia đình chúng tôi và một gia đình hàng xóm khác ở bên trái nhà tôi.

Gia đình này là một cặp vợ chồng trung niên và một đứa con trai trạc tuổi con trai tôi. Người chồng đi làm tối ngày, nhưng người vợ chỉ ở nhà ăn không ngồi rồi nên hay lê la lắm chuyện. Mỗi khi bà bắt chuyện với ai thì người đó nên kiếm một cái ghế và ngồi xuống vì đôi môi của bà sẽ không bao giờ kịp ăn da non. Vì nói nhiều và nói khéo nên bà từ từ có được cảm tình của bà già hàng xóm. Tôi đặt cho bà này biệt danh cô môi mỏng.

Vì thái độ không thân thiện và bẳn gắt nên hầu hết người trong xóm không hiểu bà là người như thế nào, giàu nghèo ra sao, trước đây làm gì. Tôi và cô môi mỏng là hai người duy nhất biết một chút về quá khứ của bà. Tôi đoán cô môi mỏng mà biết thì chẳng bao lâu cả xóm đều biết.

Mùa Giáng Sinh năm ấy, bà tự tay giăng đèn, trang trí sân trước với những con nai, máng cỏ Chúa Hài Đồng, và vô số các hình tượng có đèn xanh đỏ rực rỡ. Bà bắc thang trèo lên cao để mắc những giây đèn màu ven theo mái nhà. Nhìn bà run rẩy trèo lên bước xuống thang mà tôi thấy ái ngại, nhưng bà vẫn cương quyết làm cho xong. Bà cho tôi coi một cái trống đồng Đông Sơn cổ của Việt Nam khiến tôi vô cùng ngạc nhiên và hỏi ở đâu mà bà có? Bà chỉ cười nói đó là 1 trong những đổ cổ bà sưu tập. Tôi không phải người chơi đồ cổ nên không chắc đây là đồ thật hay chỉ là 1 cái trống đồng làm nhái (replica) mà thôi.

Qua những đồ vật trang trí trong nhà, tôi biết bà rất giàu có nhưng hà tiện. Bà tự làm lấy những việc quanh nhà dù đó là những việc nặng nhọc. Nhìn bà đi lại khó khăn với cái lưng còng mà thấy tội nghiệp. Tôi tự hỏi sao bà không thuê người làm thay cho đỡ cực thân. Thỉnh thoảng bà lại đi bệnh viện để mổ, nắn lại cái xương sống lưng, không phải 1 lần, mà rất nhiều lần. Bà nuôi hy vọng bà có thể đứng thẳng lưng được như lời bác sĩ hứa. Sau mỗi lần mổ, sức khỏe bà xuống dốc nặng nề, bà bước đi còn nghiêng ngả hơn trước mà cái lưng còn còng hơn trước. Tôi có khuyên bà nếu không cần thiết thì đừng mổ nữa vì tuổi đã cao và cuộc giải phẫu không có vẻ gì là giúp cho lưng bà thẳng lên được. Bà chỉ im lặng không nói gì.

Bà khoe có nhiều bất động sản ở New York, nhiều quỹ hưu trí, nhiều đồ cổ sưu tập trong nhà. Nhưng cách sống của bà thì rất keo kiệt và chi li đến từng đồng. Đặc biệt, bà ta rất cứng đầu, không bao giờ nghe lời và không tin ai cả. Cái gì bà đã quyết là làm tới cùng. Bà tự làm lấy những công việc như cắt tỉa cây cối sân trước sân sau mà không bao giờ chịu mướn người làm thay. Bà nhờ tôi mua máy thổi lá cây và tự làm lấy một mình. Đôi khi tôi phải chạy sang làm giúp bà vì thấy dáng run rẩy. đi đứng khó khăn của bà sau những lần mổ xương sống, càng làm cho bà thêm đau đớn và khó tính hơn.

Một lần tôi mướn thợ cắt cành của 2 cây Meskite ở sân trước vì chúng chạm vào mái nhà. Nghe tiếng cưa máy nên bà bước ra sân nhìn. Bà hỏi tôi trả bao nhiêu tiền. Tôi cho bà biết số tiền tôi trả công anh thợ. Bà nhờ tôi hỏi người thợ cắt luôn cho cây Palo Verde to lớn của nhà bà. Anh thợ qua nói chuyện giá cả trực tiếp với bà. Hôm sau, khi xong việc, anh thợ về nhà; bà sang ngay bên tôi và trách sao anh ta đòi tiền mắc quá. Tôi đoán có lẽ cây nhà bà to hơn nên anh ta đòi tiền thêm. Bà tỏ vẻ bực mình và ngúng nguẩy bỏ về nhà không nói với tôi thêm lời nào.

Tuần sau, bà bắc cái thang và mua 1 cái cưa điện mới tinh để tự mình cắt cành cây. Lui cui làm sao, cành cây rớt xuống trên đầu bà, làm cái thang và cả bà lật ngang một bên, té xuống cái sân sỏi đá khiến bà xây xước, chân tay rướm máu vì gai góc đâm vào da thịt vốn đã xương xẩu của bà. Hàng xóm không ai hay cho đến khi mấy đứa con nít bấm chuông cửa nhà tôi và nhờ ra coi bà có bị gì không. Tôi chạy vội ra gỡ cành cây, đỡ bà ngồi dậy, và dìu bà vào nhà. Khuôn mặt bà hầm hầm và tức giận một cách lầm lỳ. Trước đây, tôi có nhắc bà nên mua một loại dụng cụ đeo vào cổ (medical alert system) như giây chuyền, nếu té ngã, nạn nhân chỉ cần bấm 1 cái nút trên đó, nó sẽ phát tín hiệu cầu cứu vì bà đã cao tuổi và ở một mình. Bà nói tốn tiền. Tôi cố thuyết phục chỉ 30 đô la một tháng. Bà nhất quyết không nghe.

Thời gian ngắn sau đó, sau khi các vết thương lành hẳn, bà nhờ tôi coi nhà giùm và tưới cây cảnh trong khi bà đi xa. Rồi bà trở về với một người đàn ông to béo khoảng 50 tuổi lái 1 chiếc U-Haul khá lớn, chất đầy đồ đạc. Ông ta phải khuân vác tất cả những thùng giấy vô nhà, bà nói với tôi đây là chuyến cuối cùng chở tất cả đồ đạc về đây. Bà kể lể và than phiền về cuộc hành trình mệt mỏi, dằn xóc, từ New York đi bằng chiếc xe dọn nhà quỷ quái này. Bà và người đàn ông, ngày lái, đêm ngủ motel, mất gần 4 ngày mới về đến đây. Tôi phải lắc đầu chịu thua sự cứng cỏi của bà.

Bà nói anh này là “gay”, dân đồng tính, nó thiếu nợ bà nhiều tiền lắm nên bà bắt nó theo bà về đây làm việc để trừ nợ, nếu làm tốt, bà sẽ cho một số tiền để nó trở về New York làm đám cưới với “vợ” của nó. Một hôm anh này qua nhà tôi nhờ scan dùm mấy tài liệu riêng tư và gởi qua điện thư email cho vợ sắp cưới của anh ta vì bà già không có máy in (printer). Tôi làm dùm rồi để hắn dùng địa chỉ email tôi gởi đi, nhưng tôi hoàn toàn không để ý là giấy tờ gì.

Một tuần sau, bà BJ qua nhà tôi than thở rằng “thằng gay” ăn cắp đồ nhà bả và tuồn ra một chỗ nào đó, rồi sau đó ghé qua lấy, đoạn lái chiếc U-Haul thẳng về New York. Giờ hắn đổi địa chỉ nên bà không biết nó ở đâu để thưa cảnh sát. Tôi coi lại email và máy scan mới tìm được địa chỉ của cặp “vợ chồng” này trong 1 tài liệu. Tôi in ra và đưa cho bà già. Bà nhờ luật sư gởi giấy đến địa chỉ và đòi bồi thường, nếu không bà sẽ thưa chúng ra tòa. Bà cười một cách khoái trá và khoe với tôi là vợ chồng 2 thằng đồng tính đó phải trả giá vì dám ăn cắp đồ của bà.

Ngày tháng trôi đi, tôi bắt đầu đi làm ở nước ngoài nhiều, ít có dịp qua giúp đỡ bà BJ. Thỉnh thoảng về, tôi ghé hỏi thăm, có vẻ như bà không còn thân thiện như xưa. Tôi để ý thấy đôi mắt mờ đục của bà nhìn tôi như xa lạ. Hàng xóm nói hình như bà bị Amnesia, một căn bệnh tuổi già khiến trí nhớ kém dần đi. Một lần bà chợt hỏi:
-Anh từ đâu đến?
Tôi biết trí nhớ của bà giờ lãng đãng rồi, bà ở kế nhà tôi đã mấy năm rồi mà vẫn không nhớ mình là ai. Tôi khẽ đáp:
-Tôi là người Việt Nam.
-Tôi ghét người Đại Hàn và món ăn của họ. Bà chợt xa xầm nét mặt.
-Vậy bà có ghét người Việt Nam và cuộc chiến Việt Nam không? Tôi hỏi.
-Không, không, tôi chưa bao giờ đến Việt Nam nên không có dịp tiếp xúc với người Việt.
Bà kể khi còn làm việc với GE, bà hay qua Nam Hàn gặp gỡ khách hàng bên đó. Bà không thích người Đại Hàn vì họ thô lỗ lắm. Đồ ăn của họ, cái gì cũng có 1 chút xíu, trong cái chén cũng bé tí teo mà mùi thì nặng nề, khó ngửi. Xứ sở gì đâu mà kỳ cục. Tôi nhận ra trí nhớ của bà bắt đầu có vấn đề.

Cô môi mỏng bên trái nhà tôi cho biết trong lúc tôi đi làm xa, có đứa cháu trai từ New York ghé thăm bà và ở lại một thời gian ngắn. Ông này khoảng gần 60 tuổi, thân hình mập quá khổ, dễ chừng đến gần 350 pounds, mỗi lần đi đứng rất khó khăn và thở rất mệt nhọc. Ông nhờ chúng tôi để ý coi chừng có ai lạ đến thăm bà không. Anh nói đến một số tiền khá lớn của bà hình như bị ai đó lừa lọc và chiếm đoạt cách nào đó mà không ai rõ.

Cô môi mỏng tiết lộ rằng hình như bà BJ bị lừa mất một số tiền rất lớn qua mạng. Cô cho biết bà BJ khoe có quen với một người đàn ông ở Nigeria, Châu Phi. Ông này hứa sẽ bay qua Mỹ cưới bà. Hiện bà BJ vẫn gởi tiền đều đều cho tên lừa đảo này bằng nhiều cách. Tôi hỏi sao cô biết? Cô không trả lời mà chỉ khẽ suỵt ra dấu im lặng. Cô còn cho hay tuần này, gã người tình ảo hứa sẽ lái xe đến trước cửa nhà đón bà đi du lịch. Bà đã chuẩn bị sẵn hai cái suite-cases với quần áo, passport, và tiền bạc đầy đủ để đợi người tình không chân dung của bà.

Cô nói đã báo cảnh sát và FBI, họ đang âm thầm theo dõi vụ lừa đảo này. Họ yêu cầu phải có đơn thưa gởi từ bà BJ thì họ mới có cơ sở để tiến hành vụ này. Nhưng mỗi lần cô môi mỏng khuyên nhủ BJ, bà ta chỉ ậm ừ cho qua, rồi đâu vẫn hoàn đó. Sau đó, bà đóng cửa nhà và đóng cả cửa lòng với hàng xóm. Bà ít ra khỏi nhà, chỉ ra lấy thư từ khi rất cần thiết. Bà dành thời giờ để “chat” với người tình ảo Phi Châu.

Sáng thứ Hai, trước khi tôi lái xe ra khỏi nhà để đến phi trường, tôi thấy bà đứng trước cửa nhà để xe với một khuôn mặt xanh xao, gầy gò đến tội nghiệp. Bà đứng im lặng, mắt nhìn xa xăm mà như không nhìn thấy gì khi tôi vẫy tay chào bà. Hôm nay thứ Bảy, tôi trở về thì hay tin bà nằm nhà thương cấp cứu. Cô môi mỏng cho hay mấy ngày nay không thấy bà ra lấy thư nên cô nghi ngờ có chuyện gì xảy ra. Cô đến và mở hộp thơ của bà, thùng thơ đầy như không còn chỗ chứa. Cô bèn gọi sở cứu hỏa, nhưng nhân viên cứu hỏa nói họ không có quyền phá cửa vô nhà khi chưa có bằng chứng rõ ràng rằng chủ nhà đã chết.

Sau cùng cô phải gọi cảnh sát và họ phá cửa vô nhà. Bà nằm xõng xoài trên nền gạch giữa những vũng chất thải, không biết đã mấy ngày, còn thở thoi thóp. Nghe kể lại, bà BJ không còn nhận ra ai, hơi thở yếu lắm, chỉ khò khè qua cổ họng. Bà như cái xác không hồn khi họ đưa bà ra khỏi nhà. Tôi hỏi cô sao không khuyên bà mua medical alert đeo ở cổ, cô nói có khuyên nhủ nhưng bà không nghe. Bà nói bà còn khỏe lắm, không cần những thứ này.

Ngay chiều hôm đó, cô môi mỏng báo tin bà BJ đã qua đời tại bệnh viện. Chúng tôi lấy gỗ đóng niêm phong cánh cửa mà họ đã phá để vào nhà sáng nay. Là hàng xóm kế bên, tôi phải làm người canh gác nhà bất đắc dĩ cho bà.

Vài ngày sau, người cháu trai bay từ New York qua, đi với một người luật sư và một người cảnh sát, họ đậu xe trước sân nhà. Cô môi mỏng cũng là một trong những người có mặt ở đó. Họ mở cửa vào nhà, liệt kê và niêm phong tài sản. Họ ở tại một khách sạn và đi lại trong vòng mấy ngày liền. Bây giờ mới hay cô hàng xóm môi mỏng là người có giấy Power of Attorney để quản lý và phân chia tất cả số tiền của bà. Phần căn nhà căn nhà và tài sản bên trong sẽ được để lại cho người cháu trai của bà BJ. Cả xóm đoán già đoán non rằng cô môi mỏng lợi dụng bà BJ bị lãng trí nên thuyết phục được bà gìa để lại toàn bộ tài sản cho cô. Tôi không biết sự thật ra sao, nhưng tôi đã từng gặp những người có tài mồm miệng đỡ tay chân.

Sau mấy ngày làm việc, cô môi mỏng cho tôi hay cô chính thức là người thừa hành trên tài sản cùa bà BJ ngoại trừ căn nhà. Mọi người khám phá ra bà BJ đã cho người tình ảo khoảng hơn 3 triệu đô la tiền mặt qua các chứng từ giấy tờ và cả những thẻ cạo gift-cards. Bốn, năm cọc gift-cards được buộc lại bằng dây thun, mỗi cọc dày khoảng 8 inches, và mỗi thẻ là 7,500 đô la đã được cạo. Họ coi ngày tháng mới hay bà BJ gởi $15,000/ 1 tuần cho người tình ảo trong vòng nhiều năm. Tổng số tiền bà có trong ngân hàng là 187 triệu đô la gồm cả stocks và bonds. Đồ cổ khoảng 2 triệu, chưa kể một nhà kho khổng lồ ở New York.

Nói về sự lừa lọc (scam) qua mạng hay qua điện thoại. Báo chí có đăng và cho biết nhiều nguời ở khắp thế giới đã từng bị lừa. Nhưng tôi không ngờ một trong số đó lại là bà BJ, bà hàng xóm lạ kỳ của tôi, mà số tiền lên đến hơn 3 triệu đô la. Không ngờ trong trái tim sắt đá của bà đầm thép, với khuôn mặt lạnh lùng không ưa đàn ông, vẫn còn có chỗ trống cho một mối tình, dù chỉ là tình ảo. Ông cảnh sát cho hay, bọn lừa đảo này chuyên đi sưu tầm tên tuổi, địa chỉ tất cả các bà góa và những người già cô đơn. Chúng sẽ tìm mọi cách liên lạc và dụ dỗ. Những người già là những người cô đơn, hụt hẫng khi chồng hoặc vợ qua đời, họ dễ dàng rơi vào cạm bẫy ngọt ngào của bọn này. Cô môi mỏng chỉ vào hai cái suitcases vẫn còn nằm trong garage, mà người tình của bà đã và sẽ không bao giờ đến đón.

Tôi biết bà BJ giàu, nhưng chỉ dám đoán bà có trên dưới chừng 10 triệu, không ngờ bà có số tiền gần gấp 20 lần tôi phỏng đoán. Ông luật sư cho cô môi mỏng hay, tất cả số tiền trong ngân hàng sẽ được chia đều cho các hội từ thiện đã được bà nêu tên trong di chúc. Bà không để lại tiền cho người cháu trai hay bất cứ cá nhân nào, kể cả cô môi mỏng, dù là một xu. Cô môi mỏng kể tôi nghe với giọng điệu khá cay cú, cố giấu đi sự thất vọng não nề vì cô chỉ là người thừa hành (executive) để làm công việc phân chia tiền cho những hội đoàn có tên trong di chúc, dưới sự chứng nhận của luật sư.

Tôi an ủi cô môi mỏng dầu sao bà BJ cũng đã coi cô như con gái trong nhà nên mới bỏ tên cô vào trong di chúc, cô là người tốt đáng tin cậy và giờ đây cô là triệu phú rồi vì có trong tay gần 200 triệu đô la. Và cô cũng là người vinh dự được bà trao cho nhiệm vụ rải tro cốt của bà xuống lòng biển Thái Bình Dương theo di chúc để lại. Sống ở Mỹ khá lâu, đôi khi tôi vẫn không hiểu tại sao có những người rất giàu, lúc sống họ ky cóp từng xu, khi chết họ chẳng đem theo được bất cứ một thứ gì, nhưng nay tôi thầm ngưỡng mộ bà hàng xóm của tôi, khi chết đi, bà không mang theo được gì, nhưng di sản bà để lại là một tấm lòng vàng cho những người nghèo.

Khi tôi đang viết những giòng chữ này, tôi vẫn là người canh chừng bất đắc dĩ ngôi nhà của bà BJ vì giấy tờ luật sư vẫn đang tiến hành, và vì giấy chủ quyền nhà vẫn chưa tìm ra. Nhà vẫn cửa đóng then cài với vài ngọn đèn sáng bên trong. Sân sau, cái thác nước nhân tạo nhỏ của bà BJ không còn chảy róc rách như lúc bà còn sống; những bộ bàn ghế sân vườn được phủ bạt không ai ngồi, đã bám bụi, và những chậu cảnh đang chết dần vì không ai tưới. Tôi muốn tưới cũng không dám vì tôi sẽ vi phạm luật nếu bước vào sân nhà bà. Tôi chợt nhìn lại cái xã hội mình đang sống và tự hỏi rồi mình sẽ ra sao trong những ngày tháng khi cuộc đời về chiều ./.

Nguyễn Văn Tới
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by tiendung »

Bước Thêm Bước Nữa



Được lệnh tổng công ty cho tuyển thêm công nhân, ban giám đốc hãng giao cho Quân phụ trách xét đơn và phỏng vấn. Trong số đơn nhận được có một người Việt Nam tên Lê Thị Tam Thương khiến cho Quân chú ý.

Tên Tam Thương gợi nhớ hình ảnh êm đềm của một bến nước trên sông Trà Khúc mà thuở còn thơ ở quê nhà nhóm bạn của Quân thường hay đùa chơi dưới dòng nước mát. Bến Tam Thương có hàng tre xanh lả ngọn phủ mát cả một vùng. Dù không lớn lắm nhưng là cửa ngõ để thuyền bè chở củi, than đun từ trên đầu nguồn đổ về cho các vựa cung cấp chất đốt vùng Thị xã và các lò gạch ngói quanh ven thị.

Tam Thương còn là địa danh của lò mổ heo, lò quay heo và các tiệm bán cháo lòng tiết canh heo nổi tiếng. Sáng sớm, con đường chạy xuống cửa Đông lai rai không ngớt xe Honda, xe đạp đến bến Tam Thương ăn điểm tâm. Buổi sáng trời còn sương lành lạnh mà kêu tô cháo lòng, thêm đĩa thịt heo xắt phay tươi rói còn bốc hơi từ những con heo mới rả thịt chỉ cách đó vài giờ kèm theo chiếc bánh tráng nướng, đĩa rau thơm chuối chát. Rắc một ít tiêu vào tô cháo trộn đều, húp một muỗng cháo nóng thơm lừng ta nghe ấm cả ruột gan. Chất ngọt của huyết, thịt vụn và nước cốt xương heo không thêm gia vị nào khác cho nên cháo có cái ngọt nguyên chất của thịt ăn vào nhớ mãi. Dân địa phương dù lưu lạc chốn nào, khi trở về thị xã Quảng Ngãi là không quên rủ nhau đi ăn điểm tâm ở bến Tam Thương.

Nói đến cháo lòng heo ở bến Tam Thương mà không nhắc đến lò quay heo là cả sự thiếu sót. Điểm độc đáo của lò heo quay ở đây là chọn loài heo cỏ từ miền thượng nuôi cho chạy rông ngoài rẫy nên thịt chắc, ít mỡ. Da heo quay dòn rụm dính vào lớp thịt ba chỉ bỏ vào miệng nhai dòn tan vừa béo vừa thơm. Rưới lên miếng bánh hỏi ít mắm nhỉ cá thu Sa Huỳnh gia vị tỏi ớt thì quả thực cơn đói có run tay cũng phải chờ cho được đĩa thịt heo quay mua từ bến Tam Thương mang về. Trước những ngày có dự tính vượt biển, sáng nào Quân cũng đến bến Tam Thương ăn cháo lòng vừa với túi tiền của đám dân lao động, lại là nơi dò la tin tức. Nơi đây tập trung đủ mọi thành phần cán bộ, công nhân, thương gia. Là địa điểm chạy mánh, móc ngoặc. Cứ thấy một mâm đầy, nào tiết canh, cháo lòng, thịt mông đùi cộng thêm chai rượu ngoại, gói thuốc ba số 5 bưng lên cái phòng đặc biệt là biết ngay có “cấp côi”.

Quân tìm được mối ra đi cũng nhờ cái khu cháo lòng bến Tam Thương. Đó là địa danh ghi dấu nơi chôn nhau cắt rốn của mình mà lòng Quân lúc nào cũng lưu luyến nhớ về.

Ngày làm hẹn phỏng vấn, khuôn mặt người nào cũng căng thẳng, đầy lo lắng. Duy chỉ có người phụ nữ Việt Nam tỏ ra rất bình thản. Cô ăn mặc giản dị, sơ-mi trắng dài tay, quần tây màu xanh đậm thoạt trông như cô bé học trò trung học ngày xưa. Khuôn mặt tròn trĩnh thêm đôi mắt to đen như hai hạt nhãn lồng long lanh dưới đôi lông nheo cong rất tự nhiên.. Mái tóc cắt ngắn che một phần khuôn mặt khiến cho cô gái vừa có dáng ngây thơ vừa láu lỉnh.

Quân hỏi:

– Cô đã làm qua mấy hãng rồi?

– Tôi làm cho hãng MCS bốn năm, bất ngờ công ty mẹ quyết định dời hãng đi Arizona, thế là phải lãnh tiền thất nghiệp “bất đắc dĩ”. Hãng thứ hai được hai năm, gặp hồi kinh tế xuống dốc công việc ế ẩm, hãng chết queo đành dẹp tiệm. Bây giờ là lần thứ ba, lần nầy là “sự bất quá tam”.

Biết mình lỡ lời không giữ thái độ nghiêm chỉnh khi trả lời vị phỏng vấn viên, cô nàng chun chiếc mũi lại, chúm chím môi cười như để xin lỗi. Quân thích thái độ tự nhiên, phớt đời khá dễ thương của cô gái.

***

Sau giờ tan sở trong ngày làm việc đầu tiên, gặp Tam Thương, Quân gợi chuyện:

– Xin lỗi, cô có phải người Quảng Ngãi không?

– Đó là quê ông ngoại sắp nhỏ, còn em sinh ở Đà Lạt.

– Cô được mấy cháu?

– Một.

– Nghe cô nói từ “sắp nhỏ” tôi tưởng cô nhiều con lắm.

– Em tập dùng lần cho quen ấy mà, đằng nào cũng cho ra cả bầy con trong tương lai.

– Cô thích đông con thế sao?

– Ôi, cái dòng của em trời cho được mùa con. Ông bà nội mười hai người con còn nguyên xi. Ông bà ngoại không chịu thua, vượt lên mười ba người, chết hai còn mười một. Mấy bà dì, bà nào cũng thi nhau sinh ra gần chục đứa con.

Quân lắc đầu:

– Ở Mỹ nầy mà sinh cả bầy con như các cụ ta ngày xưa chắc phải đứng đường homeless mất.

Thương trấn an:

– Lo gì, mình kham không nổi thì có Ty Xã Hội đưa lưng cõng.

– Này, cô có biết tên Tam Thương là địa danh của một bến sông ở thị xã Quảng Ngãi, quê nội cô không?

Cô bé liến thoắng:

– Biết chứ, ông già em chơi ác, nhớ quê nhớ làng không đặt tên nào khác nhè chọn cái tên Tam Thương cho nó vận vào người em.

Quân ngạc nhiên với nhóm từ ngữ “vận vào người em” bèn thắc mắc:

– Thế nào là vận vào người?

– Nầy nhé, cô nàng giải thích – tam thương là ba lần thương. Như vậy, có phải là bố em giới hạn con gái mình chỉ được thương có ba lần trong đời.

– Vậy cô đã thương mấy lần rồi?

– Lần thương đầu đời của em là anh chàng sinh viên tuổi Thìn vượt biên rồi kết bạn với thủy thần đi chu du miền Thủy Cung quên về, có lẽ anh ấy tuổi con rồng, mạng thủy nên hợp với nước hơn đất liền. Lần thương thứ hai gặp thằng chồng tuổi Ngọ trở chứng như ngựa nên đành để cho ngựa “cất vó truy phong’’. Đã mấy năm rồi em đợi sợi xích thằng của ông Tơ bà Nguyệt dắt dẫn cho lần thương thứ ba, nhưng chưa tới. Cái lần thương sau cùng nầy mà chẳng ra gì thì coi như mình về với ông bà ông vải là vừa.

Quân phì cười trước cái lối giải thích của Thương vừa khôi hài mà cũng mang đầy nỗi đắng cay. Quân cải chính:

– Cô lầm rồi, nguyên ủy của từ Tam Thương không như ý nghĩa của cô nghĩ mà xuất phát từ một chuyện tình xảy ra từ xa xưa. Câu chuyện thế nầy:

– Vào thời xã Cẩm Thành còn thuộc về phủ Tư Nghĩa. Ông quan đầu Phủ quê xứ Nghệ có đứa con gái tuổi vừa cập kê yêu một anh học trò nghèo xứ Quảng. Quan phủ buộc con gái cành vàng lá ngọc của mình phải dứt khóat mối tình dân dã đó. Nhưng hai người vẫn lén lút gặp nhau. Quan phủ bèn bắt người cha của anh học trò vào phủ đường. Quan đưa ra hai điều kiện phải chọn một. Đứa con trai phải bỏ làng đi xa, hoặc cả nhà phải bỏ xứ đi nơi khác.

Vốn mang dòng máu bất khuất của tiên linh đất Quảng, người cha lặng lẽ ra về. Vào một đêm tối trời, mưa gió bão bùng, nước sông Trà dâng cao, người cha đã nhảy xuống sông trầm mình.

Dù nước trên nguồn đổ về như thác nhưng xác ông vẫn quanh quẩn nơi bến sông, đến khi nước xuống, xác nổi lên tấp vào bờ. Trong đêm thứ bốn chín ngày tuần chay của cha, người con trai mang nỗi ân hận, vì mình mà cha phải liên lụy bèn nhảy xuống sông nơi cha đã trầm mình để chuộc lỗi với cha.

Nghe tin người yêu tự tử, vị tiểu thư của quan phủ bất thần nổi cơn điên. Dù có người canh giữ cẩn mật, người con gái vẫn trốn được ra ngoài. Như có người dắt dẫn, cô đã tìm đến bến sông rồi trầm mình trong dòng nước lạnh giá của mùa đông.

Cảm thông cho mối tình chung thủy, các chức sắc trong làng đến yết kiến quan phủ thỉnh nguyện cho mộ tiểu thư được chôn gần với mộ người yêu, nhưng quan phủ từ chối. Ông quyết định đưa xác con gái về Huế chôn tại quê ngoại của quan bà.

Từ đó, dân làng gọi đây là bến Tam Thương để nhắc đến ba cái chết thương tâm.

– Chuyện cảm động anh há. Thương xít xoa, rồi bình phẩm thêm:

– Cái chết trầm mình đỡ ghê rợn hơn cái chết treo cổ, xác ma le lưỡi dài thòng lại còn trợn trừng cả mắt. Một lần xem người chết treo cổ trên cây mà em nhớ cả đời. Có lẽ tự tử bằng súng là nhẹ nhàng hơn cả. Nền văn minh giúp cho con người tìm cái chết ít đau đớn hơn. Người ta phản đối “bác sĩ tử thần” chứ riêng em thì tán thành cả hai tay.

***

Thương cùng mẹ qua Mỹ theo diện đoàn tụ do người chị ruột bảo lãnh. Vợ chồng anh chị nhanh chân ra được hạm đội trong ngày 29 tháng 4 năm 75. Người chị thứ ba được gia đình chồng bảo lãnh hiện định cư ở Canada. Bố Thương đã mất trước ngày miền Nam gẫy gánh. Thương yêu anh chàng Lũy, sinh viên khoa văn ở Đà Lạt. Hai người rủ nhau vượt biển. Thương đi lạc đường đến điểm hẹn bị trễ, người ta bỏ nàng lại. Không ngờ chuyến đi đó thuyền bị bão đánh đắm chết hết ngoài khơi, mất hẳn tin tức của Lũy từ đó.

Thương đến Mỹ được một tuần lễ là bà chị ghi tên theo học lớp ESL gần nhà. Đúng nửa năm thì tìm được việc làm. Nàng tiếp tục học tại trường college nhưng chuyển qua các lớp đêm.

Anh chàng láng giềng gần nhà bà chị để ý Thương, rồi nhờ chị Hai của nàng mai mối. Tuy tướng người cục mịch vai u thịt bắp, ít lời nhưng chịu khó “cày”. Bùi Như Ngọ, tên anh chàng, chuyên nghề sửa nhà cửa. Bất cứ công việc nào liên hệ đến xây dựng là anh chàng có đủ giấy phép hành nghề. Mẹ và chị Thương thấy Ngọ có công ăn việc làm vững vàng lại có nhà cửa khang trang cứ nói vào không ai chịu nói ra.

Cái viễn tượng sáng sủa của cuộc sống làm vợ Ngọ được mẹ liên tục thúc hối:

– Con nghĩ kỹ xem, căn nhà ba phòng mà chỉ có hai mẹ con nó ở. Về bên ấy chẳng có cảnh chị chồng em dâu. Vả lại bà cụ có một đứa con trai thì làm sao không cưng con dâu một.

Thương chần chừ:

– Phải để con tìm hiểu tính tình anh ấy thế nào, có hợp với nhau không đã.

Mẹ Thương bảo:

– Ngày trước, ông bà cố mầy toàn quyền chọn vợ gả chồng cho con cái trong nhà. Ông ngoại làm rể suốt năm trời mà có được trò chuyện với bà ngoại bao giờ đâu, sau nầy cũng con đàn cháu đống. Ông bà quấn quýt bên nhau không rời nửa bước.

– Cái cảnh đó xưa rồi mẹ ơi! Thương bài bác.

– Xưa gì mà xưa, tao với cha mầy cũng mới đây thôi. Thấy ổng từ ngoài cổng là tao đã chạy vào buồn trốn, đâu dám ló mặt ra.

Thương nhận lời lấy Ngọ chỉ có một lý do thầm kín là thoát khỏi cảnh ăn nhờ ở đậu nhà của ông anh rể.

Lễ cưới của Ngọ và Thương tổ chức cũng rình rang lắm. Nào xe limosine rước dâu, mặc dầu hai nhà chỉ cách nhau mấy lốc đường. Khách mời dự tiệc nhà hàng trên dưới ba mươi bàn. Người ta khen ngợi chú rể cô dâu đẹp đôi xứng lứa khiến cho mẹ nàng cũng hãnh diện lây.

Ở quê nhà xem phim đám cưới ai cũng xúyt xoa con nhỏ Thương mới qua Mỹ chân ướt chân ráo mà chôm được thằng chồng kỹ sư. Ông bà Tư Đa Thiện thiệt có phước. Ba đứa con gái đứa nào cũng giàu có ở nước ngoài. Bà Tư ngày ngày chỉ biết ăn trầu xỉa răng không làm việc gì động đến móng tay. Đúng là phúc đức mấy đời để lại.

Đọc bức thư của dì Mười gởi từ Việt Nam kể lại những lời tán tụng mẹ mình của bà con lối xóm khiến Thương thấy xót xa.

Ngày đầu mẹ con nàng đến ở nhà anh chị Hai, một “tuyên cáo” đầu tiên là cấm mẹ ăn trầu. Lý do thứ nhất bôi dơ nhà, dơ thảm. Thứ hai, các cháu sợ màu đỏ trong miệng của bà ngoại. Thứ ba, trầu cau ở Mỹ khó mua, thêm đắt đỏ. Thứ tư, người Mỹ dị ứng cái loại “kẹo gum” của mấy bà già trầu gốc Mít. “Tuyên cáo” tiếp theo là mẹ có nhiệm vụ giữ đứa cháu trai thay vì gởi nhà trẻ.

Thằng cháu ngoại chỉ mới ba tuổi mà phá phách thần sầu, lắm lúc bà ngoại khổ sở rơi nước mắt. Tuổi già, lưng đau, chân mỏi muốn nằm nghỉ mà nào có yên đâu. Phải canh chừng thằng nhỏ hết phá giàn máy đắt tiền đến mở nước cầu tiêu…

Về phần Thương, khi đậu bằng lái xe, gia đình anh chị cho mượn tiền mua chiếc xe đời cũ và có nhiệm vụ chở con bé năm tuổi đưa đón hàng ngày đến trường mẫu giáo. Đời sống thực dụng ở Mỹ thế đấy, già có công việc cho người già. Không ai bóc lột ai.

***

Cuộc sống vợ chồng Thương tương đối êm ả. Dù tính tình cục mịch, nhiều khi nói năng thô lỗ nhưng Ngọ một mực chiều vợ. Hai năm sau nàng sinh được đứa con trai, bà mẹ chồng mừng vô kể. Bà vừa vuốt tóc thằng bé vừa nói với Thương:

– Con ơi, bao lâu nay, mạ cứ lo lắng trong lòng sắp đến ngày theo tiên tổ mà chưa có chút cháu đích tôn. Giờ thì mạ yên chí có người nối dõi tông đường rồi. Cảm ơn con dâu của mạ.

Có mẹ chồng coi con, Thương vừa đi làm vừa lấy một lớp đặc biệt về ngành Electronic assembly.

Tính tình lạ lẫm của Ngọ mỗi ngày mỗi lộ dần ra. Bản tính cộc cằn nhiều khi làm cho Thương buồn tủi. Nhưng khó chịu hơn cả là cách ăn nằm với vợ như một tên mắc bệnh. Thương có cảm tưởng như mình bị hành xác. Nhiều lúc Thương chảy nước mắt chịu đựng để giữ êm ấm gia đình. Sau nầy, mỗi lần thân thể bất an là nàng tìm cách bồng con qua nhà chị mình ngủ với mẹ.

Một hôm, Thương đang đùa chơi với con trên bãi cỏ trước sân nhà, bỗng một chiếc xe truck đậu vào lề đường trước cổng. Một người đàn ông Việt Nam tiến thẳng đến trước mặt Thương hỏi:

– Xin lỗi, bà có phải vợ Bùi Như Ngọ?

Thương gật đầu, thưa vâng.

Người đàn ông chìa cho Thương một bì thư nói:

– Xin gởi bà.

Người đàn ông cúi đầu chào từ biệt.

Thương vội vào nhà đưa con cho mẹ chồng giữ, nàng vào phòng hồi hộp mở gấp phong bì. Một tấm ảnh màu chụp một đôi nam nữ trần truồng trên giường nệm. Ngực Thương chợt đau nhói khi nhận ra người đàn ông là Bùi Như Ngọ, chồng nàng giấu mặt vào gối. Còn người đàn bà thì chẳng chút ngượng ngùng. Trái lại, có vẻ kiêu hãnh với cái thân hình rực lửa của mình.

– Thế nầy là thế nào? Thương thắc mắc đợi chồng về để hỏi cho ra lẽ.

Một ngày rồi hai ngày chẳng thấy Ngọ về nhà. Buổi chiều đi làm về, Thương thấy mẹ chồng bồng đứa cháu nội đang ngủ trong lòng, nước mắt bà sụt sùi. Thương hỏi:

– Có chuyện gì thế mạ?

– Thằng Ngọ bỏ nhà theo con đĩ nào đó không biết nữa..

– Sao giống chuyện trên sân khấu vậy mạ, đâu phải chuyện đùa!

– Tao có biết ất giáp gì đâu, nghe thằng thợ của nó cà lặp cà bặp rằng nó ăn nằm với vợ người ta bị thằng chồng rình bắt tai trận, nghe đâu có chụp hình và ký giấy biên bản. Thằng Ngọ bị con nầy quyến rũ lâu lắm rồi, giờ đây mới đổ bể ra. Không biết mạ có nợ nần gì kiếp trước mà sinh ra thằng con hư đốn làm tan cửa nát nhà như vậy. Bà lấy khăn lau nước mắt ràn rụa trên đôi gò má nhăn nheo.

Thương đi thẳng vào phòng tắm rửa, rồi xin phép mẹ chồng bồng con về thăm ngoại. Đêm đó Thương trình bày với anh chị và mẹ về việc làm bất chính của chồng, kèm theo bức hình chụp của hai người. Xem hình mọi người đều sững sờ, chuyện khó tin mà có thật.

Trước khi nộp đơn ly dị, Thương cần gặp Ngọ để làm sáng tỏ mọi vấn đề nhưng chẳng bao giờ gặp được hắn. Tòa án đầu hai lần gởi trát đòi nhưng hắn không đến trình diện để hòa giải. Cuối cùng tòa chấp thuận đơn ly dị của Thương. Nàng có quyền giữ con và căn nhà. Bà mẹ chồng quyết định ở lại với con dâu. Sau nầy, nghe đâu hắn dẫn người phụ nữ đó qua sống tại tiểu bang Florida cùng với hai đứa con riêng của ả. Mẹ của Ngọ đau buồn và thương nhớ con nên năm sau lâm trọng bịnh qua đời.. Thương bán ngôi nhà. Sau khi thanh toán nợ ngân hàng còn dư một số tiền vừa đủ tiền “down” cho một căn mobil home. Hiện giờ nàng sống chung với mẹ ruột tại căn nhà đó. Tuy chật chội nhưng lúc nào cũng thấy thoải mái tinh thần.

***

Một đoạn đời của Tam Thương như thế đấy.. Tựa một khúc phim đầy chất bi hài đã tác động vào tâm hồn và tư tưởng khiến cho nàng nhìn cuộc đời diễn tiến như một hài kịch dài trên sân khấu.

Một hôm, nhân lúc hai người cùng ra bãi đậu xe sau giờ tan sở, Thương hỏi Quân:

– Anh nghĩ thế nào về lòng chung thủy?

– Theo tôi, lòng chung thủy không hề bền vững mà luôn luôn bị hoàn cảnh chi phối.

Thương tiếp:

– Cuộc đời anh có khi nào bị phản bội?

Quân nhìn những lá vàng rơi ngập trên lối đi, trả lời rất thành thật,

– Sao không!?

Thương nhìn Quân, nàng chun mũi hỏi đùa:

– Có thể nào con bé Thương nầy được anh trút bớt cho một nửa “bầu tâm sự”?

– Vâng, sẵn sàng, mời cô lên xe ngồi để tránh gió, tôi sẽ kể cho nghe một phần đời tôi:

Chẳng một chút ngại ngùng, Thương mở cửa xe ngồi vào ghế trước.

Mắt Quân nhìn về phía trời xa, với tâm trạng u buồn chàng kể:

– Ở quê nhà, tôi đã có vợ và đứa con gái tròn một tuổi. Chúng tôi tổ chức cho bốn gia đình vượt biển gồm hai chục người trên chiếc thuyền hai lốc. Vào giờ chót vợ tôi sợ không chịu đi và giữ luôn đứa con ở lại. Chuyến đi thông suốt. Tôi được định cư tại Hoa Kỳ. Sau năm năm, tôi làm thủ tục bảo lãnh vợ con. Nhưng vợ tôi từ chối với lý do nàng đã có chồng khác, một người chồng có thế lực trong chính quyền hiện tại. Nàng cũng không muốn con gái tôi xuất ngoại.

Để quên sầu, tôi vùi đầu vào sách vở đến khi lấy được bằng cao học điện toán thì mái tóc đã thành muối tiêu. Như cô thấy đó, tôi cằn cỗi trước tuổi đời.

Thương đặt tay mình lên bàn tay lạnh giá của Quân đang nắm chặt tay lái, nàng an ủi:

– Chẳng sao, miễn là anh biết quên đi những gút mắt của cuộc đời thì niềm vui sẽ trở lại.

Nhìn Quân với ánh mắt đồng cảm, Thương hỏi:

– Anh có tin rằng mạng số con người bị lệ thuộc vào một vì sao trên trời?

Quân đưa mắt nhìn Thương, thẳng thắn trả lời:

– Tôi chưa cảm nhận được điều đó đúng hay sai, chỉ biết mình tận dụng hết sức mình mà thất bại thì lấy mệnh trời để an ủi. Vì vậy mà người xưa có câu: “Tận nhân lực tri thiên mệnh”. Có nghĩa là làm hết sức mình mới biết được mệnh trời.

– Nhưng anh có tin là vợ chồng sống hạnh phúc, ăn đời ở kiếp là nhờ hợp tuổi hay không?

– Điều đó vượt ra ngoài nền khoa học thực nghiệm. Tuy nhiên, ngày vợ chồng tôi quyết định lấy nhau, cha mẹ hai bên đều đi coi thầy. Thầy nào cũng cho biết hai tuổi không hợp. Sau nầy khi hai đứa xa nhau tôi thường tự hỏi tại tuổi hay do thời thế?

– Vậy thì, anh có muốn em đoán cho anh một quẻ không?

– Cô đâu phải là hậu duệ của Hi Di Trần Đoàn, ông tổ của khoa tử vi bói toán.

– Không phải hậu duệ nhưng là học trò mấy trăm đời được không. Thuở em còn bé được bố cưng chiều thường cho đi theo bố coi huyệt, xem hướng nhà đất, coi tuổi lương duyên… Khi lớn khôn em được bố dạy cho biết nhiều điều về khoa bói toán, phong thủy. Yên chí đi, em coi là trúng phóc, anh tuổi gì nào?

– Tuổi Dần.

Thương bấm trên mấy đầu ngón tay nhẩm tính như thầy bói toán chuyên nghiệp:

– Dần Thân Tỵ Hợi tứ hành xung, nàng lắc đầu. Không xong, không xong, ngồi gần cọp có ngày bị ăn thịt mất.

Giọng đùa bỡn, Quân hỏi:

– Ai ăn thịt ai? Thế còn tuổi cô?

– Hợi.

– Tuổi Hợi nằm đợi mà ăn, tính tình ngoan hiền.. Quân tán vào.

Thương cãi:

– Nhưng tuổi Hợi của em sinh nhầm “giờ hành thổ”, “mạng đất bùn” thành con lợn sổng chuồng chỉ biết đào ủi, phá phách bị người ta rượt đuổi.

– Cô yên tâm, từ nay lợn có đi đâu thì cần phải đi gần cọp là chẳng ai dám đến gần.

Mắt nheo nheo tinh ranh nhìn Quân, Thương hỏi:

– Cọp bảo vệ cho lợn hay là lợn làm mồi cho cọp?

Quân cười:

– Nếu cọp có thèm thịt lợn thì tình bạn họ càng gắn bó chứ sao. Ca dao dân mình có câu: “Kim đâm vô thịt thì đau, thịt trộn với thịt nhớ nhau suốt đời!”

Thương bạo mồm khen:

– Hữu lý, hữu lý! Hèn chi loài bọ ngựa cái ăn thịt ngay anh chàng bọ ngựa đực sau khi xong cái việc yêu đương. Thế anh có dám làm anh hùng dấn thân chết vì người yêu như loài bọ ngựa?

Quân gật đầu:

– Sợ gì,

Cả hai cùng cười. Thương mở cửa xe, bắt tay Quân từ biệt.

***

Chiều qua, khi tan sở, Quân và Thương đứng ngoài hành lang trao đổi với nhau về những dự tính đi chơi đâu nhân ngày lễ Giáng sinh sắp tới.

Thương cho biết là sẽ lên máy bay vào chiều thứ Sáu đi Vancover, một thành phố nằm về phía miền Tây của Canada thăm bà chị họ

Quân bảo:

– Tôi thì đi Seattle thủ phủ của tiểu bang Washington sát biên giới Canada thăm bà cô mới đoàn tụ với ông anh họ.

Mắt mở to, chân mày dướn lên, Thương bảo với Quân:

– A, thế thì anh có thể bước thêm bước nữa, em cũng bước thêm bước nữa là hai người sẽ gặp nhau.

Quân cười bảo :

– Hai người sẽ cụng đầu nhau ở biên giới chứ!

Thương nhún vai:

– Đâu có điên, trán em mà cụng phải trán anh làm sao chịu nổi, em không u đầu thì cũng sứt trán.

Khi về đến nhà, Quân nghĩ đến câu nói của Thương chàng mới giật mình bởi có dấu ý thầm kín của cô gái tinh nghịch nhất trong hãng. “Bước thêm bước nữa” là câu của ông bà mình thường khuyên những ai mất vợ mất chồng tái giá hay tục huyền.

***

Thấm thoát, ngày lễ Giáng sinh đã đến. Thương đi Canada vào chiều thứ sáu. Thứ bảy Quân mới lên máy bay đi Seattle. Tiểu bang Washington được sắp vào hạng mưa nhiều nhất nước Mỹ, hai trăm ngày trong một năm, quả thật không ngoa. Có lẽ nhờ mưa nhiều mà không khí nơi đây có cái lạnh dễ chịu dù rằng mùa đông đã khởi đầu trên vùng bắc Mỹ.

Qua một ngày tiệc tùng mừng bà cô ruột đoàn tụ với gia đình anh con trai, Quân cùng đứa cháu dạo quanh thành phố xem các trang trí đón mừng ngày Chúa ra đời. Sẵn dịp chú cháu đến thăm khu Space Needle. Một cái tháp hình cây kim chỉa thẳng lên trời cao hàng mấy trăm feet. Đó là biểu tượng của tiểu bang Washington và là địa điểm thu hút khách du lịch. Trên ngọn tháp có khu giải trí, nhà hàng, khu bán quà lưu niệm…

Lên tầng cao nhất, cả một khoảng trời bát ngát lấp lánh ánh sao hiện ra trước tầm mắt khiến Quân bàng hoàng, xao xuyến. Bên dưới, ánh đèn óng ánh như hàng triệu viên kim cương rải đầy trên thành phố, Quân chợt hiểu vì sao Seattle còn có tên gọi thành phố Ngọc Bích. Tháp được xoay tròn nên khách thưởng ngoạn trông thấy hầu khắp thành phố sáng rực hoa đèn, lòng Quân nao nao.

Khi trông về hướng Canada chợt Quân chạnh nhớ đến Tam Thương. Để rồi tự hỏi giờ nầy nàng đang làm gì bên ấy. Quân nhớ đến chiếc mũi hay chun lại như tự chế giễu mình trông nàng vừa duyên dáng vừa tinh nghịch. Đột nhiên, Quân mong muốn được gần Thương để nhận chút hơi ấm từ trong cơ thể đầy sức sống của nàng giữa bầu không khí lạnh giá của mùa Giáng sinh. Cầm lòng chẳng được, chàng bấm phôn tay gọi Thương ngay.

Bên kia đầu dây lên tiếng:

– Anh Quân hả? Em Tam Thương đây. Bộ bên đó lạnh lắm hay sao mà gọi em giờ nầy?

– Anh đang đứng trên tầng cao chót vót Space Needle của Seattle lộng gió. Thương đang làm gì bên đó, thành phố Vancouver của bà chị em,

– Bên nầy chẳng thua gì bên anh, em đang đi viếng khu phố Tàu vừa lạnh trời vừa lạnh lòng, cô đơn!

– Thương ơi, anh sẽ thực hiện lời khuyên của em.

– Chuyện gì thế anh?

– Anh quyết định ngày mai nầy sẽ “bước thêm bước nữa” và vượt qua biên giới Mỹ – Canada để đến với em tại quốc gia của nữ hoàng Anh quốc. Hy vọng vòng tay em sẽ sưởi ấm đời anh đã chịu lạnh lùng suốt bao năm trường trên đất khách.

Giọng Thương đầm ấm từ bên kia văng vẳng:

– Vâng, Quân ạ. Đến giờ nầy anh mới ngỏ lời nhưng trái tim em đã xao xuyến từ buổi đầu gặp anh. Ngày mai em sẽ đến biên giới đón anh như lời em đã nói. Chúng mình cùng bước thêm bước nữa, cả hai đồng đều khỏi thiệt thòi cho nhau.

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

KHI TÓC KHÔNG CÒN XANH...

Nguyễn Thị Thanh Dương

Tôi thu xếp ít quần áo và vài thứ lặt vặt cần thiết vào trong chiếc va ly nhỏ, sửa soạn cho một chuyến đi vài ngày. Bác ruột tôi vừa qua đời tại thành phố Wichita, tiểu bang Kansas . Gia đình bác mới từ Washington D.C. dọn về đây được mấy tháng nay. Lòng tôi buồn vời vợi đang nghĩ nên nói cách nào cho đám anh chị em họ của tôi về chuyện của gia đình mình đang đến hồi sụp đổ khi mà bấy lâu nay họ chỉ thấy tôi khoe ra bên ngoài một màu hạnh phúc?

Chồng tôi về tới nhà, thấy tôi bên chiếc va ly anh chỉ hỏi một cách bình thường:
- Em sắp đi đâu?
- Bác Lân em vừa qua đời, em phải về tham dự tang lễ.

Anh lạnh lùng, ngắn gọn:.
- Cho anh gởi lời chia buồn đến họ.

Chúng tôi đang làm đơn ly hôn. Anh, người đàn ông thành đạt của tôi cũng là một người bay bướm trăng hoa. Suốt thời gian 20 năm chung sống tôi đã cố gắng chịu đựng vì các con, vì muốn gìn giữ tài sản của gia đình không thể để mất vào tay người đàn bà khác. Nhưng cho tới hôm nay thì sức chịu đựng của tôi đã cạn kiệt, như giòng nước lũ làm vỡ bờ chảy xối xả những giận hờn và tủi nhục. Anh đã lừa dối tôi, có một tình yêu khác với một cô gái trẻ đẹp, chính anh thẳng thắn đề nghị ly hôn tôi để cưới cô gái đó làm vợ.

************

Sau những ngày tang lễ bác và những lần tâm sự với các anh chị họ về tình trạng gia đình của tôi hiện nay. Các anh chị đều nói hạnh phúc của tôi không thể cứu vãn được nữa, chia tay là giải thoát cho cả hai. Khi đã chia sẻ được những điều đau khổ tôi thấy nhẹ lòng.

Wichita thành phố không qúa lớn cũng không qúa nhỏ và cũng chẳng có gì hấp dẫn tôi vào lúc này, mà còn hai ngày nữa tôi mới phải trở về nhà, dù là ngôi nhà bất hạnh, có người đàn ông tôi từng yêu thương, qúy trọng, nay đã quay mặt phản bội hất hủi tôi.

Đến tiểu bang Kansas, thành phố Wichita lại không xa mấy thành phố Liberal, chỉ 4 tiếng lái xe, làm tôi bỗng dưng tha thiết nhớ đến thành phố Liberal nghèo nàn nhỏ bé với khỏang 15 ngàn dân, nơi mà ngày đầu tiên đến Mỹ gia đình chúng tôi đã ở đây và trong ký ức tôi cũng nhớ đến John, người bạn thân thuở đó. Thuở tôi mới 15 tuổi.
Gia đình chúng tôi đi vượt biển, đến trại tị nạn Bidong, Mã Lai. Sau 9 tháng gia đình chúng tôi đến Mỹ nhờ sự bảo trợ của một gia đình người Mỹ. Đó là ông bà Smith, nhà truyền giáo, họ chỉ có 1 người con trai, anh tên John, lớn hơn tôi 1 tuổi. Năm ấy anh 16 mà đã phổng phao, đẹp trai cao ráo.

Nhà chúng tôi ở không xa căn nhà của ông bà Smith, nơi hứơng Nam của thành phố Liberal. Nhà ông bà Smith đúng là một căn nhà nông thôn, mảnh sân rất to rộng phía trưóc trồng trọt dưa hấu, xung quanh nhà những cây lê, cây táo và cây đào lần lượt thi nhau nở hoa. Nhưng được trồng nhiều nhất là cây táo. Tôi không có ai để chơi ngoài John hay sang nhà trò chuyện, mấy đứa em tôi cũng thích xúm vào hóng chuyện và cũng là cách để chúng tôi tập luyện tiếng Anh . Thỉnh thoảng tôi cũng chạy sang nhà John, nhất là vào những lúc cây có trái chín trên cành. Ôi, tôi mê những cây táo vào mùa thu qúa, có loại mọc thẳng, cành vươn cao và trái cũng ở trên cao, có loại cành mềm, khi đậu trái thì chĩu cành lòa xòa sát xuống đất đến nỗi tôi chỉ việc ngồi xổm mà tha hồ hái trái.

Lại còn vườn dưa hấu trước sân tôi hay cùng John háo hức vạch tìm trong đám lá những trái dưa hấu nhỏ vừa hiện ra và thích thú theo dõi chúng cho đến khi lớn lên to tròn vươn lên khỏi đám lá. Không gì ngon ngọt bằng trái dưa hấu vừa cắt cuống trong vườn, bổ ra ăn ngay tại chỗ trong một buổi trưa hè mà John thường làm cho hai đứa cùng ăn.

John nói chuyện với tôi đủ thứ, từ những chuyện hàng ngày của anh cho đến những ước mơ mai sau, anh lấy vợ thì sẽ về sống ở một nông trại. Anh say sưa tả cái nông trại của gia đình anh trước kia ở tiểu bang Texas, có một căn nhà gỗ bề ngang dài, bên cạnh là chuồng bò bằng hàng rào gỗ sơ sài. Anh khoe biết cách vắt sữa bò. Anh đã chạy rong trên cánh đồng có khô hay đi trên con đường đất mà mỗi khi gío mùa hè lồng lộng thổi làm tung bụi mịt mù và cả những khi mấy con bò đua nhau về chuồng cũng làm bụi mù tung lên như gío đã thổi.

Đất Texas có nhiều nơi khô cằn gần như sa mạc, cả mấy chục acre đất nhà anh với nhiều bụi xương rồng rải rác và những bụi cây đã là to lớn vĩ đại với thàng bé lên 10 như anh thuở đó. Anh yêu thích ở nông trại, một trời một cõi như của riêng mình. Tôi cũng say sưa nghe John kể, như đi lạc vào một cảnh trong phim ảnh, vì nó xa lạ với tôi, chứ tôi chẳng đời nào thích sống ở những nơi khỉ ho cò gáy như thế.

Tôi luôn mơ nước Mỹ với những thành phố nhộn nhịp phồn hoa như New York mà tôi đã thấy trong phim ảnh làm tôi thích thú, tôi sẽ dạo bước trên những vỉa hè có những cửa hàng sang trọng. Cuộc sống sẽ là một chuỗi ngày vui.

Hai năm sống ở Liberal thì cha mẹ tôi quyết định sẽ dọn đi tiểu bang khác, vì tương lai của mấy chị em tôi, để chúng tôi được sống ở thành phố lớn, học ngôi trường lớn và có cộng đồng người Việt Nam đông hơn. Tôi qúa chán thành phố Liberal nhỏ bé này rồi và đã đợi chờ quyết định này của cha mẹ từ lâu. Thành phố gì mà chỉ có 1 phi trường nhỏ xíu, chỉ đủ cho mấy chiếc máy bay nhỏ thỉnh thoảng đến rồi đi, lặng lẽ, buồn hiu. Muốn đầy đủ tiện nghi, người ta phải đến phi trường ở thành phố Wichita hay Amarillo.

Ngay chiều hôm đó, tôi hí hửng chạy sang nhà John để báo tin vui này. Đó là một buổi chiều mùa hè đầy nắng. Tôi quen thuộc thò tay vào trong mở chốt cánh cổng rào bằng gỗ ngoài sân, mỗi lần đến nhà John tôi đều nhanh nhẩu làm thế, tự nhiên như nhà mình, và đi bộ trên con đường dài mà hai bên là vườn dưa hấu đang độ chín, trước khi đến căn nhà nhỏ bằng gỗ khiêm nhường. May qúa John có nhà, mà mấy khi John đi vắng đâu, anh thích ở nhà giúp cha mẹ làm vườn, ngoài những khi thỉnh thoảng theo cha mẹ đi truyền đạo trong thành phố vào dịp cuối tuần.

Trời nắng nên tôi và John không hẹn mà cùng bước về phía những cây táo trồng quanh mảnh sân trước, nơi mà chúng tôi thường đến đó tán gẫu và ngắm hoa táo nở đẹp vào tháng năm hay hái táo vào cuối tháng chín, cùng ăn, cùng chia nhau nếm thử quả táo ngọt với niềm vui thích. Tới một cây táo to lớn, cành rậm rạp, tháng này táo đang kết trái sau một mùa hoa xum xuê. John ngồi xuống trước rồi đến tôi. Tôi chẳng thèm ngắm những trái táo xanh nhỏ dễ thương trên cành mà lên tiếng hớn hở khoe ngay:
- Anh John ơi, gia đình tôi sắp rời khỏi thành phố này rồi.

Mặt Johm hoảng hốt như vừa nghe một tin kinh khủng lắm:
- Sao? Em sẽ đi…có thật không?
- Thật đấy, bố tôi nói cuối tuần này sẽ dọn đi. Ngày mai cha mẹ tôi sẽ sang từ gĩa cha mẹ anh. Bây giờ tôi cũng sang để chào tạm biệt anh.

Giọng John vẫn bàng hoàng:
- Em sẽ trở lại đây không?

Thấy gương mặt buồn lo của John, tôi tội nghiệp hứa liều không cần suy nghĩ:
- Chắc chắn tôi sẽ trở lại thăm John và cha mẹ của John chứ. Vì cha mẹ John là người đã giúp đỡ gia đình tôi rất nhiều khi mới đặt chân đến Mỹ mà.

John bỗng vụt đứng dậy:
- Hãy đợi anh ở đây, anh sẽ trở lại ngay trong giây lát.

John chạy bay vào nhà và lại chạy bay ra chỗ cây táo, không để tôi phải đợi lâu, anh đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ có ghi sẵn tên John và số điện thoại nhà anh, mà chắc là anh vừa ghi vội, giọng anh tha thiết như năn nỉ:
- Em hãy giữ lấy số điện thoại này, khi nào đến nơi ở mới thì liên lạc với anh. Em hứa đi!

Tôi cảm động, một lần nữa tôi hứa liều:
- Vâng, khi có nơi ở mới tôi sẽ gọi cho anh.
- Đừng thất lạc nhau nhé. Em hứa đi!
- Vâng, không bao giờ !

***********

Nhưng khi đến California thì tôi bận rộn với cuộc sống mới và những lời hứa vội vàng với John bỗng chỉ là một trò đùa, tôi vứt đi mảnh giấy mà anh đã kỳ vọng trao vào tay tôi, đã dặn dò tôi và chắc là đã chờ đợi mỏi mòn kể từ ngày tôi rời thành phố nhỏ. Nối lại nhịp cầu liên lạc với John làm gì trong khi ở cái tuổi 17 tôi mơ hồ hiểu John đã yêu thích tôi, mà tôi dù có cảm tình với anh thì tôi cũng không thể nào lấy anh, vì mộng ước của anh và tôi hoàn toàn trái ngược. Đành rằng gia đình anh là người ơn của gia đình tôi, họ hiền lành đạo đức, John sẽ là người chồng, người cha tốt như tấm gương của cha mẹ anh, nhưng tôi không thể lấy người chồng ít học làm nông trại và tôi chỉ quanh quẩn sống với chồng trong mấy chục acre đất hoang vu, chốn đồng khô cỏ cháy với mấy con gà, con bò như anh đã vẽ ra.

Tôi đã từng nghe chuyện nhà nông khốn khổ, trồng 1 acre bắp chỉ bán được khỏang 80 đồng theo gía sỉ, hay những vụ cam trúng mùa ở Florida, gía cam bán ra mà như cho không, chỉ 50 cent cho một thùng cam và những vụ khoai tây trúng mùa ở Idaho cũng xuống gía rẻ bèo như thế. Giấc mơ tuổi mới lớn của tôi là giàu sang phú qúy, lấy người chồng có địa vị, học cao hiểu rộng. Ở thành phố mới tôi đã miệt mài học hành, chính bản thân tôi cũng sẽ vươn cao. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đi làm và kén chọn người chồng tương lai. Tôi đã bỏ qua nhiều cơ hội lập gia đình vì chê họ không xứng đáng với tôi, cho đến khi gặp người chồng hiện tại. Năm ấy tôi đã 30 tuổi, chồng tôi là một người thành đạt trong học vấn và trong kinh doanh. Tôi đã đạt được ước mơ và vui hưởng hạnh phúc trong những năm đầu.

************.

Vì rảnh rỗi và tò mò tôi quyết định thuê xe để lái từ thành phố Wichita đến thăm thành phố Liberal, nói cho đúng hơn để thăm lại gia đình ông bà Smith và John của ngày xưa xem họ thế nào? Tôi hình dung ra ông bà Smith đã gia, họ đã nghỉ hưu không đi truyền giáo nữa. Còn John đã có vợ con và đang sống ở một trang trại nào đó, anh John sẽ là hình ảnh ông Smith nông dân chất phác và hiền hậu ngày xưa, anh chăm chỉ lao động nuôi bò, trồng trọt, các con anh sống và lớn lên ở nông trại, chúng biết cách vắt sữa bò và bám lấy nông trại không dám đi đâu xa giống như anh.

Sau 4 giờ lái xe, tôi đã trở về nơi chốn cũ. Thanh phố nhỏ, đường kính lớn khỏang hai miles thì có gì là khó mà không tìm ra ngôi nhà của ông bà Smith nơi cuối phố, dù tôi đã xa cách 30 mấy năm rồi. Nhưng tôi vẫn hỏi thăm, có vẻ như gia đình Smith có uy tín với cư dân ở đây lắm. Người ta nói nhà Smith vẫn ở chỗ cũ. Khi tôi xuống xe, đứng ngẩn ngơ nơi cánh cổng rào gỗ năm xưa, bỗng thấy ngậm ngùi, có thể cánh cổng gỗ đã từng hư cũ, từng được thay đổi, làm lại cái khác nhiều lần rồi, và cái chốt mở cửa không phải là miếng gỗ mà tay tôi đã từng chạm vào năm xưa, nhưng vẫn giống thế, và như thể vẫn chờ đợi tôi trở về để chạm tay vào. Tôi run run thò tay vào mở chốt cửa, lại ngậm ngùi hơn vì ngẫu nhiên bây giờ đang là mùa hè, hai bên lối đi của mảnh sân vẫn trồng dưa hấu, lá xanh rậm rạp và xung quanh vẫn là những cây đào, cây lê, cây táo…dù có thể những loại cây này năm xưa đã gìa, đã cằn cỗi, được thay thế bằng những cây trồng sau này. Thế giới đổi thay bao nhiêu thứ mà nhà ông bà Smith dường như không hề thay đổi. Khu vườn của họ vẫn là những hình ảnh cũ.

Tôi đi vội trên con đường dài, hồi hộp nhìn chăm chăm vào ngôi nhà trước mặt đang đóng cửa, không còn tâm trí nào nhìn ngắm vườn dưa hấu xem có nhiều trái hay không. Rồi tôi gõ cửa và chờ đợi. Mãi sau mới có tiếng mở cửa, hiện ra trước mặt tôi là bà Smith, bà đã gìa đi -dĩ nhiên- Sau vài phút ngỡ ngàng nghe tôi tự giới thiệu thì bà đã nhận ra tôi, bà mời tôi vào nhà, rưng rưng nước mắt bà trách móc:
- Thì ra là cô, tại sao mãi hôm nay cô mới trở lại đây? John đã chờ đợi cô mấy năm trời.

Tôi ngạc nhiên và xúc động, nước mắt cũng rưng rưng như bà Smith:
- Thật thế sao? Tôi xin lỗi, tôi vô cùng xin lỗi vì đã không thực hiện điều đã hứa với John
- Cô đâu có biết, ngay khi gia đình cô đi được một tuần là John đã chờ đợi cô gọi phone về từng ngày. Nó luôn tin tưởng cô sẽ gọi phone cho nó và một ngày nào cô sẽ trở về Liberal.

Bà Smith gục đầu xuống và khóc nấc lên, kể tiếp:
- Nó đau khổ và héo hon cho đến khi hoàn toàn tuyệt vọng…
- Trời ơi, tôi không ngờ.

Tôi cố ngăn giòng nước mắt, vuốt ve cánh tay bà an ủi như an ủi cho chính mình và hỏi thăm:
- Số phận tôi và John không thể gần nhau thôi mà. Bây giờ anh ấy ra sao?
- Sau đó John lấy vợ, Christine là con gái một nhà truyền giáo bạn thân của vợ chồng tôi, cô gái hiền lành ngoan ngoãn và rất yêu John, đã làm lành vết thương lòng của John. Nhà vợ chồng nó cũng ở gần đây.
- Thế anh ấy không sống ở nông trại như anh ước mơ sao?

Bà Smith lau nước mắt, thoáng một niềm vui:
- Đó chỉ là ước mơ của một thằng bé tuổi vị thành niên, một thằng bé nhà quê mà suốt thời thơ ấu sống nơi trang trại. Khi John và Christine yêu nhau, cả hai cùng vào đại học. Họ đã tốt nghiệp y khoa và đang hành nghề bác sĩ ngay tại thành phố Liberal này.

Tôi ngạc nhiên và vui mừng reo lên:
- Không ngờ John học gỉoi và có chí đến thế!
- Tôi tin là nhờ có tình yêu của Christine.
- Với nghề nghiệp bác sĩ cả hai vợ chồng John có thể đi đến những thành phố lớn lập nghiệp dễ dàng, nhưng sao họ vẫn ở lại nơi đây?
- Chúng tôi đã quen sống ở thành phố nhỏ, từ ngày ông Smith mất đi, John càng không muốn xa mẹ. Nhưng nó dù bận hành nghề, vẫn không quên phụ giúp tôi gieo trồng và làm vườn mỗi khi mùa Xuân về. Đó là niềm yêu thích của John, của chúng tôi.

Họ thật thủy chung, bao năm qua vẫn ở nơi này, ở căn nhà này dù họ có điều kiện để thay đổi. Bao năm qua họ vẫn trồng trọt làm vườn như nhà nông khi đến mùa dù họ có là ai đi nữa. Tôi đứng dậy chào tạm biệt bà Smith. Bà bỗng nắm cánh tay tôi, lo lắng dặn dò:
- Phải đấy, cô nên về ngay đi và xin cô hãy hứa với tôi một điều.

Tôi nói với tất cả chân tình:
- Tôi xin hứa bất cứ điều gì tôi có thể.
- Cô hãy đi và đừng bào giờ trở về đây nữa, bao nhiêu năm qua, vết thương lòng của John đã lành. Tôi tin là John đã quên cô, nó đang sống yên vui hạnh phúc bên vợ con. Nhưng nếu cô xuất hiện sẽ gợi lại nỗi đau cũ. Cô hãy hứa lại một lần nữa cho tôi yên lòng.

Tôi chậm rãi nói từng lời rõ ràng cho bà Smith nghe rõ:
- Tôi xin hứa đây là lần cuối cùng đến đây. Thôi, xin chào bà.

Tôi đi ra cửa, buớc trên con đường thân quen của thuở tôi 17 tuổi lòng đầy kiêu kỳ tham vọng và John 18 tuổi hãy còn ngây thơ ngốc nghếch, muốn tán tỉnh tôi mà đưa ra một ước mơ nghèo nàn, đơn giản. Tình yêu chân thật của anh John nhà quê chẳng mấy khi đi đâu xa khỏi cái tiểu bang Kansas với những cánh đồng lúa mì mênh mông chỉ là một trò cười đối với tôi.

Nhưng hôm nay, ở cái tuổi không còn trẻ nữa, khi mái tóc không còn xanh nữa, sau những vật chất phù hoa tôi đã nếm biết bao vị đắng, trải qua bao phũ phàng của tình nghĩa vợ chồng. Và sau cuộc trò chuyện với bà Smith, tôi chợt nhận ra một tình yêu hồn nhiên trong sáng của John dành cho tôi. Cái hạnh phúc mà bây giờ vợ của John đang hưởng tôi biết là vững chắc, đẹp đẽ biết bao nhiêu. Điều mà tôi không hề có.
Tôi chợt nghĩ đến mấy câu thơ tôi đã đọc đâu đó và yêu thích:

Ngày mái tóc không còn xanh được nữa,
Ngày đôi tay thôi dệt mộng phù hoa,
Thì em sẽ vì anh mà mở cửa,
Trông lên trời đếm hàng vạn sao sa.


Giờ đây không có ai, không có một tình yêu nào để cho tôi thể hiện sự thủy chung đằm thắm đơn giản như thế…
Khi ra đến ngoài cổng, tôi quay lại khép cánh cổng rào bằng gỗ. Tôi biết mình vừa khép lại một qúa khứ, một bầu trời xanh và mất nó vĩnh viễn.

Nguyễn Thị Thanh Dương
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoanghoa »

BỐ MUỐN VỀ NHÀ
Nguyễn Thị Thanh Dương.

Ông Đê mở mắt thức dậy sau giấc ngủ trưa, hôm nay là thứ mấy và bây giờ là mấy giờ ông cũng không biết. Ở đây ngày nào cũng như ngày nào, ông là người già trí óc lúc nhớ lúc quên bên cạnh những người già khác, bệnh hoạn, lú lẩn, thì ngày tháng có nghĩa gì đâu.

Ông ngồi dậy nhìn sang giường bên cạnh ông Mỹ già đã thức từ lúc nào. Ông Đê thản nhiên hỏi bằng tiếng Việt Nam:

- Ông ngủ trưa có ngon không?

Ông Mỹ vốn mất trí nhớ khá nặng lại không hiểu tiếng Việt nên cũng thản nhiên và ngu ngơ đáp lại dĩ nhiên là bằng tiếng Mỹ:

- Ông muốn đi ăn bữa chiều không, ông đói bụng chưa ?

Hai ông già chung phòng trong nursing home vẫn nói chuyện với nhau trời ơi đất hỡi chẳng ai hiểu ai như thế. Cả hai đều vui vẻ y như vừa xong một cuộc trò chuyện tâm đầu ý hợp..

Ông Đê tìm chiếc gậy để đi ra ngoài, chiếc gậy này con gái ông mua 20 đồng trong cửa tiệm bán dụng cụ, đồ dùng y khoa cho người già, có thể điều chỉnh cao thấp tùy ý và đầu gậy có bọc cao su khó trơn trượt để cho ông nương tựa.

Ông Đê lúc nào cũng hướng về phía cổng nursing home dù ông biết là cánh cửa đã khóa cùng với người nhân viên ngồi canh cổng, không bao giờ ông có thể đi ra ngoài, nhưng ông được nhìn qua tấm cửa kính cảnh vật bên ngoài, ở nơi nào đó ông đã từng có một mái nhà.

Thẫn thờ đứng rất lâu nhìn ra ngoài ông Đê lại dò dẫm chống gậy bước về phòng, đi qua phòng khách hay các hành lang ông thấy vài người già như ông, mỗi người một vẻ, một kiểu, lặng lẽ ngồi gục đầu trong xe lăn, hay lò dò từng bước đi walker

Về chiếc giường của mình ông Đê lại nằm xuống, mắt mở thao láo, ông rất hồi hộp lo lắng sợ mình ngủ quên mấy đứa nhân viên bất ngờ đến dựng ông dậy để đưa ông …xuống phòng tắm hay phòng ăn dù ông đang say sưa ngủ đến đâu, dù ông không muốn tắm, dù ông chẳng muốn ăn, nhưng chúng nó làm việc ăn lương cứ đúng giờ là làm nhiệm vụ.

**************

Sáng hôm sau con gái ông đến, ông mừng rỡ túm lấy áo con nài nỉ:

- Con ơi…đưa bố về nhà đi.

Con gái an ủi:

- Thì con đến đón bố về thăm nhà chơi với con cháu đây.

Ông kể lể và khóc, không biết vì mừng vui hay vì tủi thân, nhưng giọng điệu ông tỉnh táo hẳn ra:

- Bố thèm món ăn Việt Nam, thịt kho, cá kho, rau luộc chấm với nước mắm…bố thèm nhiều thứ lắm.

Con gái nhắc nhở:

- Con biết rồi. Bố nhớ mang hai hàm răng giả vào để ăn cơm cho ngon miệng. Về nhà con sẽ làm thịt ba rọi luộc chấm với nước mắm như ngày xưa bố từng nhắm rượu..

- Thế hả con… mẹ mày làm cho bố chén nước mắm dằm tỏi ới đậm đà ngon lắm.

Những ngày ấy đã qua lâu rồi. Vợ ông mất cả chục năm nay, vậy mà mỗi lần nhắc lại ông đều tưởng như mới ngày hôm qua, hôm kia..

Bà mất, căn phòng housing trợ giúp thuê ở apartment chỉ còn lại một mình ông tiếp tục sống, một mình tuy buồn nhưng ông thảnh thơi tự do như ý . Ông đi bộ ra chợ Việt Nam ở bên kia đường, thích ăn gì thì mua về nấu. Ông vẫn nhớ món thịt ba rọi luộc chấm nước mắm của vợ mà ông dù có làm cũng không ngon bằng bà làm.

Nhà con gái ở gần, cách 10 phút lái xe, vẫn thường đến thăm và phụ giúp ông nhiều việc vặt như nấu nướng, giặt giũ hay dọn dẹp nhà cửa cho đến khi con gái ông nhất quyết bắt ông phải dọn vào ở trong nursing home này.

Ông Đê năm nay vừa đúng 90 tuổi, về thể chất ông “khỏe mạnh” so với tuổi, không bệnh hoạn ngặt nghèo, chỉ có tội chân tay run rẩy yếu ớt nhưng ông vẫn đi đứng được, về tinh thần ông nửa nọ nửa kia, lúc tỉnh nói năng bình thường, lúc lú lẩn nói không đâu vào đâu, chẳng nhận thức gì cả. Ông không thể tự chăm sóc bản thân được nữa.

Con gái ông đã suy nghĩ tính toán cặn kẽ, nhà chị có 4 phòng đã đủ cho 4 người, hai vợ chồng và hai đứa con. Vợ chồng chị đều đi làm, hai đứa con đi học, không thể mang bố già về ở chung, lấy ai chăm sóc? Với lại chị quan niệm để bố trong nursing home còn có y tá theo dõi tình trạng sức khỏe, ăn uống hợp lý cho tình trạng từng người.

Thỉnh thoảng chị ghé thăm bố như ngày hôm nay.

Ông Đê hớn hở chống gậy lê bước theo con gái ra xe, như một đứa bé vui mừng náo nức sắp được mẹ chở đi chơi công viên.

Con cháu vui vẻ đón ông về nhà, hai đứa cháu ngoại từng được ông bà chăm sóc đón đưa từ lúc lọt lòng đến khi đi học nay đã lớn phổng phao, đứa 15 đứa 17. Thỉnh thoảng ông vẫn lú lẩn hỏi chúng là…con cái nhà ai. Cũng may lúc tỉnh ông vẫn nhớ ra và nói tên từng đứa .

Con gái thu xếp cho ông một phòng vì ông sẽ ở nhà hai ngày cuối tuần

Bữa cơm đầu tiên về nhà đã được dọn ra, có bát đũa sạch đẹp, có napkin , có mảnh báo trải sẵn, có chai bia lạnh mới lấy trong tủ lạnh ra và có món ông ưa thích là canh mồng tơi nấu tôm khô giã nhỏ, có thịt ba rọi luộc thái mỏng chấm nước mắm nguyên chất dằm tỏi ớt.

Con gái chỉ mảnh báo dặn dò:

- Bố nhai gì không được thì nhả ra để vào tờ báo này, đừng vứt xuống sàn nhà sinh ra kiến dán đấy. Còn napkin này bố lau tay.

Lúc bố còn ở apartment, phòng ăn, góc bếp đầy dán, chúng tự do sinh sôi nẩy nở chẳng thuốc nào tiêu diệt nổi dù chị đã thay đổi mua nhiều loại thuốc diệt dán khác nhau..

Tuy dặn dò kỹ lưỡng thế chị vẫn…ngồi canh chừng kẻo bố trí óc lãng đãng hoặc quen tay vứt thẳng rác xuống sàn nhà như bấy lâu nay ..

Ăn cơm xong ông tráng miệng miếng bánh đậu xanh Bảo Hiên Rồng Vàng. Từ đầu đến cuối toàn là những món mà ông ưa thích.

Con gái ông ngồi tiếp thức ăn cho bố. Chị kiên nhẫn ngồi đợi ông ăn đến miếng cuối cùng. Khi ông vừa ăn xong thì chị đã nhanh nhẩu:

- Bố ra chỗ sink kia rửa tay xúc miệng.

Đích thân con gái rửa tay và đưa nước ấm cho bố xúc miệng, chị nhắc nhở từng chút một:

- Bố rửa tay xà bông xong tháo răng giả ra xúc miệng vài lần cho sạch sẽ.

Chị rửa sạch bộ răng giả cho bố và ngâm vào hộp nước.

Khi ông Đê vào restroom vừa ra thì tức khắc con gái… chạy bay vào để lau chùi, chị biết chắc thế nào bố đi tiểu cũng vương vãi ra sàn nhà như chị từng thấy khi bố ở apartment trước kia, nếu không lau sạch mùi khai sẽ bốc lên và người khác dẫm vào là bôi bẩn ra cả nhà.

Buổi tối con gái trải sẵn giường gối cho bố, đưa tận tay bố chiếc remote control ti vi và chỉ dẫn:

- Đây là các đài ti vi Việt Nam. Bố tha hồ mở xem khi nào muốn ngủ thì tắt đi. Chúc bố ngủ ngon nhá.

Ông nằm đắp chăn xem ti vi ngoan ngoãn như một đứa trẻ

Chị yên chí ra ngoài và làm việc của mình, đến khuya chị sắp sửa vào phòng ngủ của mình thì bắt gặp bố già vừa lẻn vào bếp xong vội vã trở về phòng ngủ, chị ngạc nhiên…dí theo bắt gặp bố đang bóc thanh bánh đậu xanh Bảo Hiên Rồng Vàng bỏ vào miệng ăn ngon lành như người đang đói khát. Chị dãy nãy lên:

- Trời ơi, nửa đêm bố còn mang bánh ngọt vào phòng ngủ để ăn, sẽ sinh ra dán kiến bố biết chưa? Với lại bố đã xúc miệng rửa tay rồi, bây giờ phải…làm lại tất cả.

Ông trở thành lú lẩn cáu kỉnh:

- Thôi, thôi, để cho tao yên, tao đi ngủ đây.

Và ông nhất định từ chối rửa tay xúc miệng, nằm trùm chăn phản đối con gái tới cùng. Ông đã chiến thắng.

Suốt hai ngày cuối tuần con gái quá căng thẳng vì cứ phải liếc mắt để ý từng hành động của bố, ông làm gì cũng vương vãi rơi đổ không canh chừng sao được, chưa kể phải trả lời hàng chục lần các câu hỏi của bố giống như nhau mà mỗi lần hỏi xong ông lại quên và…hỏi nữa.

Vất vả nhất là bắt bố vào phòng tắm, bố không chịu để con cái tắm giùm, bố tự ái tao còn tay còn chân không phải nhờ đứa nào.

Chị đã pha sẵn thùng nước ấm, xà bông gội đầu, xà bông tắm để gần kề, một chiếc ghế con cho bố ngồi tắm, khăn áo mới sạch sẽ để bố thay…

Vậy mà 10 phút sau bố tinh tươm quần áo mới ra khỏi phòng tắm và khoe rằng bố đã …lau chùi mình mẩy đủ sạch rồi, khỏi cần tắm rửa làm gì…tốn nước.

Không biết bố “lau chùi” kiểu nào mà thùng nước ấm còn nguyên.

Chị lại chịu thua như tối qua đã thua bố khi ông không chịu rửa tay sau khi ăn bánh trong phòng ngủ.

Chỉ có nhân viên trong nursing home làm việc thẳng thừng may ra bố mới chịu nghe. Với lại bố không biết tiếng để nói năng cãi cọ với họ được.

Con gái đang soạn đồ cho bố trở lại nursing home thì ông chống gậy ra ngoài sân từ lúc nào, chị vội vã đi tìm thì thấy ông đang đi mãi phía xa, chị chạy lại cầm tay bố:

- Bố đi đâu thế, làm con hết hồn tưởng bố đi lạc…

Giọng ông dõng dạc:

- Về nhà.

Con gái dỗ ngọt:

- Đúng rồi, con đang chuẩn bị đưa bố trở về nhà, về nursing home của bố .

Ông tỉnh táo hơn bao giờ, tuôn ra một tràng… thống khổ:

- Bố không về nhà của con đây, không về nursing home kia. Bố về nhà của bố, về căn nhà housing ở apartment, nơi ấy bố được quyền sống theo ý bố. Ở nursing home là một nhà tù, họ khóa cửa, có người canh cổng. Buổi trưa bố đang ngủ, họ giở thốc tấm chăn lên một cách phũ phàng để bắt bố đi tắm cho bằng được. Bố chưa đói nhưng tới giờ ăn cũng bị đưa xuống phòng ăn cho bằng được. Họ không cần biết cảm xúc bố ra sao, họ cho gì ăn nấy, bố không có quyền đòi hỏi thứ mình muốn. Hỏi, đời còn gì vui?

Về nhà con chơi lại là nhà tù thứ hai, tuy con cháu thương yêu chăm sóc nhưng bố cảm thấy luôn bị theo dõi rình rập, nhất cử nhất động của bố đều bị con cháu bám theo, chỉ huy bố từng ly từng tí chỉ để giữ gìn sạch sẽ cái nhà này. Hỏi, đời còn gì là hai chữ tự do?

Nói xong ông bật khóc như đứa trẻ, là lúc trí óc ông lẩn thẩn ngu ngơ mà vẫn khẳng định:

- Để bố về nhà… về nhà của bố…

Nguyễn Thị Thanh Dương
( Father's day 2020)
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by caubennoc »

MỘT PHIÊN GÁC ĐÊM

truyện của Phương Lan

Đêm đã khuya, đường vắng không một bóng người. Chiếc xe tuần tiễu của cảnh sát chạy chầm chậm một vòng quanh thành phố, rồi đổi hướng đi dọc theo bờ biển. Không thấy có gì khác lạ, viên cảnh sát dừng lại, cho xe tấp vào lề đường và bước xuống đi bộ. Đêm nay ông có nhiệm vụ đi tuần tra an ninh ở khu vực này. Đây là khu bãi sau Vũng Tàu, một vùng biển rất đẹp, bãi cát sạch, và nước biển xanh trong. Vào mùa hè, thiên hạ ra đây nghỉ mát đông lắm, nhưng ít ai dám bơi ra xa, vì nơi đây có sóng lớn nguy hiểm. Một lá cờ màu đen, vẽ hình sọ người với hai khúc xương chéo nhau, để cảnh báo du khách. Thế mà vẫn có những người bất chấp hiểm nguy, cứ liều lĩnh bơi ra thật xa để chơi trò nhảy sóng, hoặc trượt ván nuớc. Đã xảy ra nhiều vụ chết đuối, nên người ta dựng một chòi canh để quan sát, và báo động cho toán cứu cấp trên cái tầu đậu ở ngoài khơi, để kịp thời cứu những người đang bị sóng cuốn.

Căn chòi mái lá đơn sơ, mỗi khi có trận gió lớn, lại nghe lá khua lào xào. Chòi cao độ bốn, năm mét, nên lên xuống phải dùng thang. Chòi xây trên một cái sàn hình vuông, bằng gỗ thông sơn màu nâu đậm. Sàn được chống bởi bốn cái cột gỗ tròn to, trông có vẻ vững chắc. Nhưng cái chòi lại nhỏ xíu, giống như một túp lều nhỏ, diện tích chưa tới bốn mét vuông, vừa đủ cho một người ngồi thoải mái để nhìn ra xa, dùng ống nhòm quan sát. Vây chung quanh cái sàn, là bốn bức vách lửng làm bằng ván ép, chỉ cao tới ngực, phía trên tứ bề đều để hở. Một trong bốn bức vách để chừa một khoảng trống nhỏ, để làm cửa ra vào. Dưới bậc cửa là một cái thang bằng sắt có tay vịn, dựng thoai thoải xuống tới mặt đất, dùng để lên xuống.

Bây giờ đang là mùa đông, không ai đi bơi, hay tắm biển vào thời tiết lạnh như thế này, nên chòi bỏ trống, không có ai canh gác. Bóng đêm bao trùm vạn vật, cái chòi nhỏ bé, chênh vênh, đứng chơ vơ một mình trên bãi cát mênh mông, hoang vắng đến rợn người.

Viên cảnh sát nhìn đồng hồ, đã hơn 11 giờ khuya, đang giờ giới nghiêm. Thành phố thời chiến tranh im lìm như thành phố chết. Ngoài đường không một bóng người, những bóng điện đường toả ánh sáng vàng vọt, càng tăng thêm vẻ thê lương. Xa xa, biển đang gầm thét, sóng lớn ầm ầm xô vào bờ, gió ào ạt đem theo hơi nước, càng làm không khí thêm lạnh lẽo.

Tay cầm cây đèn pin, ông bước những bước thong thả, dọc theo bãi vắng. Ngang qua cái chòi, ông dừng lại, châm một điếu thuốc. Khói thuốc làm ông cảm thấy ấm hơn, ông nhìn bóng mình đổ dài trên bãi cát, rồi lại nhìn ra ngoài khơi. Biển cả mênh mông bây giờ trông giống như một khối đen khổng lồ đang dập dềnh lên xuống. Nước triều lên làm mặt biển như bị nâng cao. Thiên nhiên về đêm đầy vẻ bí hiểm và đe dọa.

Ông nghĩ giờ này mà được chui vào chăn ấm thì sướng biết mấy. Rồi ông lại tặc lưỡi nhủ thầm, cũng chỉ còn hơn một tháng nữa là mình sẽ đổi qua làm ca ngày, thôi ráng chịu khó thêm một thời gian ngắn nữa. Ở đồn cảnh sát này, người ta chia phiên làm đêm, mỗi người phải làm ca đêm hai tháng, sau đó sẽ đến lượt người khác.

Năm nay, thời tiết mùa đông có vẻ khắc nghiệt hơn mọi năm. Ông quấn lại cái khăn quàng cổ cho bớt lạnh, thì bỗng nghe có tiếng trẻ khóc, tiếng khóc yếu ớt nghe như tiếng mèo kêu, chỉ vài giây rồi im bặt. Thoạt đầu ông cứ tưởng mình nghe lầm, có lẽ chỉ là tiếng gió. Nghe ngóng một hồi, không thấy động tĩnh gì thêm, ông rụi tắt điếu thuốc, rồi lại tiếp tục nhiệm vụ tuần tra. Nhưng khi ông vừa dợm cất bước, thì tiếng khóc lại cất lên, lần này rõ hơn, đó là tiếng khóc của một đứa bé sơ sanh chừng vài tháng tuổi. Ông nhìn quanh quất, không thấy ai cả, ông rợn người nghĩ đến chuyện ma quỉ.

- Hừ, có lẽ nào…

Như để trả lời, tiếng khóc lại vang lên ngằn ngặt. Xen lẫn trong tiếng khóc là những tiếng nói ngắt quãng như xoa dịu, hay dỗ dành chẳng biết, nhưng rõ ràng là tiếng người. Ông định hướng và thấy những tiếng động đó phát ra từ phía cái chòi canh. Vội vàng đề cao cảnh giác, ông đặt tay lên báng súng, thận trọng bước tới. Khi còn cách cái chòi chừng vài thước, ông dừng lại quan sát. Chòi cao ngang cột điện, nên ánh đèn soi vào bên trong, cái chòi cũng sáng như có đèn. Ông nhìn thấy rõ có người đang ngồi gần cửa. Theo thói quen nghề nghiệp, ông lùi lại mấy bước, cất tiếng hô dõng dạc, ra lệnh:

- Cảnh sát đây! Những người ở trên đó hãy xuống hết!

Không có tiếng trả lời, cả tiếng trẻ khóc cũng im bặt, dường như đang bị bịt miệng. Chờ thêm vài phút vẫn không thấy động tĩnh, ông dùng cán cây đèn bấm gõ mạnh vào cái thang sắt, nói lớn hơn:

- Tôi lập lại, đây là cảnh sát! Ra lệnh những người trên chòi phải xuống hết, nếu không tôi sẽ bắn.

- Ấy chớ, đừng bắn! Tôi xuống ngay đây, ông cảnh sát.

Tiếng một người phụ nữ kêu lên hốt hoảng. Tiếp theo là những tiếng khua động lịch kịch, và từ trên khung cửa, một người đàn bà xuất hiện, một tay bế đứa bé, tay kia vịn thang, run rẩy leo xuống. Ông sửng sốt nhận ra đó là một cô gái rất trẻ, chỉ chừng mười bẩy, mười tám tuổi, trên khuôn mặt hốc hác, đôi mắt mệt mỏi vì thiếu ngủ đang mở to, đầy vẻ sợ hãi. Cô ta mặc một cái áo lính đã cũ và bẩn thỉu, chân đi đôi dép nhựa, dáng nghèo khổ, lam lũ, nhưng không có vẻ bất lương. Xuống tới mặt đất, cô ta ôm vội ôm chặt đứa bé vào lòng để che cho nó khỏi lạnh. Ông hỏi:

- Trên kia còn ai nữa không?

Bấy giờ cô ta mới ngẩng lên, thấy trước mặt mình là viên cảnh sát già, tóc bạc hoa dâm, trông có vẻ hiền lành, cô yên tâm và giọng đã hết run:

- Dạ không! Chỉ có mình cháu và đứa bé thôi ạ.

- Để tôi kiểm tra lại đã.
Ông nói và leo lên thang, tới lưng chừng, ông bật đèn pin, lia chùm ánh sáng rà một vòng khắp căn chòi nhỏ để kiểm soát. Không thấy có dấu hiệu gì khả nghi, ông đi xuống và dịu giọng hỏi:
- Con ai thế? không phải cô bắt cóc nó để đòi tiền chuộc đấy chứ?
- Dạ cháu đâu dám. Đứa bé này là con của cháu.

- Có gì chứng minh không?

- Cháu sẽ cho nó bú, chắc nó cũng đang đói.

Vừa nói, cô ta vừa vạch áo, sửa soạn cho con bú. Ông vội vã xua tay:
- Thôi khỏi, để lát nữa đi! Tôi tin cô. Bây giờ cho tôi coi thẻ kiểm tra.
- Thưa ông, cháu không có. Tại vì... Cô cúi mặt ngượng ngùng, vì... người ta đâu có cấp căn cước cho những người không có nơi cư ngụ như cháu.

Nhìn khuôn mặt non choẹt của đứa con gái, ông cau mày thở dài:

- Hừm! Mới tí tuổi đầu mà đã bụi đời, bỏ nhà đi hoang?

- Thưa, ông nói vậy là oan cho cháu, sự thật không phải thế đâu ạ.

- Không phải à? Không phải thì tại sao cô lại ở đây giờ này? Cô có gia đình không? Nhà cửa, cha mẹ cô đâu?

- Cháu không có nhà... Cô ngập ngừng, đúng ra là cháu bị buộc phải rời khỏi nhà, chứ cháu đâu có muốn làm một kẻ lang thang…

- Thật thế ư? Chuyện ra sao, nói nghe coi!

Cô gái cúi đầu buồn bã, ngần ngại một hồi, rồi mới bắt đầu kể:

- Thưa ông! Má cháu mất rồi, cháu ở với cha và mẹ ghẻ. Ba cháu làm nghề đi biển, lâu lâu mới về nhà, ông chẳng bao giờ ngó ngàng tới cháu, phó mặc cháu cho mẹ kế, bà ấy muốn đối xử với cháu ra sao cũng mặc kệ. Cháu học hết tiểu học thì phải ở nhà giữ em và làm việc nhà cho mẹ ghẻ cháu rảnh rang đi đánh bài. Cách đây mấy tháng, ba cháu bị tai nạn đắm tàu. Hôm đó bão lớn lắm, ghe đánh cá của ba cháu bị lật, ba cháu bị sóng cuốn đi mất tích. Mẹ ghẻ cháu đổ thừa vận đen là tại cháu, bà không muốn chứa đứa con gái chửa hoang ở trong nhà xui xẻo, nên đuổi cháu đi…

- Thì ra là vậy, thế cô không có chồng à?

Cô gái cúi mặt dấu vẻ xấu hổ, ngượng ngùng, một lúc mới lí nhí nói:

- Cháu có bạn trai. Tụi cháu yêu nhau, nhưng không có tiền làm đám cưới.
- Cha đứa nhỏ đâu rồi? anh ta phải có trách nhiệm chứ?

Cô nhìn đứa con còn đỏ hỏn đang bế trên tay, thở dài:

- Anh ấy thương cháu thật lòng, nhưng chưa có điều kiện đem cháu theo. Anh Bình là lính, đang đi hành quân.

- Cơ khổ! Chưa có điều kiện lập gia đình mà lại để cho có con, tệ quá. Thế gia đình anh ta có biết việc này không? Họ phải giúp đỡ cô chứ, chẳng lẽ lại khoanh tay làm ngơ?

- Thưa ông! anh Bình mồ côi cả cha lẫn mẹ từ thuở nhỏ, anh sống trong viện mồ côi, lớn lên đi lính nhảy dù, bây giờ là hạ sĩ nhất. Bình không có bà con thân thuộc nào hết ạ.

Viên cảnh sát thấy lòng se lại, cô gái này lâm vào đường cùng rồi, không biết nên giúp cô ta bằng cách nào? Nghĩ ngợi một hồi, ông thở dài:

- Tội cho cô quá, nhưng cô không thể ở đây được. Tôi sẽ đưa cô vào viện tế bần, ở đó họ nuôi cơm, và có chỗ trú cho hai mẹ con.

- Lậy ông đừng làm vậy, cháu chết mất.

- Sao thế? vì lẽ gì cô không muốn vào đó? Cho dù viện tế bần chẳng phải là một nơi sung sướng, thoải mái, nhưng ít nhất cô cũng có cơm ăn, và không phải ở ngoài trời những đêm lạnh như thế này.

- Cháu còn chút tiền. Trước khi theo đơn vị đi hành quân, Bình cho cháu một số tiền, và hẹn tết này về phép, sẽ lo cho mẹ con cháu. Từ giờ đến tết cũng chỉ còn chưa tới một tháng nữa…

Thấy ông làm thinh, cô năn nỉ:

- Thưa ông! Tiền anh ấy cho, cháu nhín nhút cũng còn lại chút ít, nhưng không đủ để mướn nhà.. Xin ông cho cháu ở tạm đây ban đêm thôi, ban ngày cháu sẽ làm bất cứ việc gì người ta mướn, để kiếm tiền nuôi con, trong khi chờ ba nó về.

- Nhưng ở đây lạnh lắm, cô và đứa bé sẽ bị ốm mất.
- Đỡ hơn là ở ngoài trời, vì dù sao mẹ con cháu cũng có được cái mái che, và bốn bức vách, tuy thấp nhưng cũng chắn gió được phần nào, nếu nằm ngay xuống sàn.

Ông cau mày, hoàn cảnh cô gái này đáng thương quá, nhưng ông không thể làm sai nguyên tắc. Buồn bã, ông lắc đầu:

- Không được đâu! Đây không phải là chỗ trú cho những người vô gia cư. Địa điểm này thuộc khu vực an ninh do tôi phụ trách, nếu có ai báo cáo có người ở lậu nơi đây, thì tôi sẽ bị khiển trách vì không làm tròn nhiệm vụ.

Cô ta oà lên khóc:

- Cháu không muốn ông bị rắc rối, nhưng quả thật cháu không biết phải làm thế nào... Bình không biết là cha cháu mới chết, và cháu bị đuổi ra khỏi nhà. Nếu cháu bị bắt vô viện tế bần thì anh ấy làm sao kiếm được cháu? Bình hẹn khi về phép sẽ tới đây tìm mẹ con cháu, vì truớc kia tụi cháu vẫn hẹn hò ở chỗ này. Ngày nào cháu cũng bồng con ra đây chờ…

Viên cảnh sát chợt thấy tim xao động, ông nhìn người mẹ trẻ đang ôm con đứng co ro trong gió lạnh, với vẻ thương cảm. Ông bối rối không biết phải hành động như thế nào? Bao nhiêu năm tận tụy trong nghề cảnh sát, ông được tiếng là một người có tinh thần trách nhiệm, làm việc đúng nguyên tắc. Chưa bao giờ ông gặp một trường hợp khó xử như lần này. Đúng lý ra thì ông phải đưa cô ta về bót, và chắc chắn cô ả sẽ bị tống vào viện tế bần, cùng chung với đủ mọi hạng người cặn bã của xã hội: những tên lưu manh, du thủ du thực, những gái điếm ăn sương, những tên ghiền ma tuý, lưu manh, bụi đời… Viện tế bần, tiếng là trạm cứu tế, nhưng thật sự chỉ là một trại giam lỏng, điều kiện sinh sống rất tồi tệ, luật lệ lại khắt khe, nên chẳng ai muốn vào cả. Những người vô gia cư vẫn thích ở bên ngoài, cho dù có bị đói khát. Đưa cô gái này về bót, thì ông không nỡ, nhưng nếu làm ngơ cho cô ta ở trong cái chòi này, là bất hợp pháp.

Ông thừ người suy nghĩ, giữa lương tâm và chức nghiệp, ông không biết phải nghe theo bên nào. Cô gái này có vẻ lương thiện và ngây thơ rất đáng thương, cô ta chỉ có một hoài bão nhỏ là đợi người tình về, anh ta sẽ có kế hoạch để lo cho mẹ con cô. Một mối tình nghèo thật cảm động, và những lời van xin của cô làm ông mủi lòng, nên ông cứ đứng đó mà suy nghĩ, đắn đo cân nhắc mãi. Sau cùng lòng trắc ẩn đã thắng, ông nghĩ thầm cũng chỉ còn hơn ba tuần nữa, thôi thì hãy cho cô ta một cơ hội, biết đâu… Còn việc làm sai nguyên tắc, ta sẽ giải thích với cấp trên sau. Đứng thẳng người lên, ông nói:

- Thôi được, tôi sẽ lờ đi cho cô. Cô có thể ở đây cho tới hết ngày mùng 3 Tết. Đó là tất cả những gì tôi có thể giúp cô trong quyền hạn của tôi. Sau đó, tôi sẽ không nhân nhượng với cô nữa.

- Cháu cũng chỉ xin có thế, cám ơn ông ngàn lần.

Vừa nói, cô ta vừa quì xuống, chắp tay lạy như tế sao. Ông bất nhẫn quay đi, nói:
- Đứng lên đi! đừng làm thế. Cô có thể ở tạm lúc ban đêm, nhưng ban ngày cô phải rời khỏi đây trước khi trời sáng, kẻo mọi người qua lại sẽ thấy.

- Dạ! cháu hứa sẽ ra đi thật sớm, cháu cũng giữ sạch sẽ, không xả rác và không để lại dấu vết gì, ông yên tâm.

- Thôi bây giờ hai mẹ con lên chòi, đi nghỉ đi!

Nghĩ ngợi làm sao, ông cởi cái khăn len trên cổ, đưa cho cô ta:

- Ở đây gió máy, cô hãy dùng tạm cái khăn quàng của tôi quấn cho cháu bé, đừng để nó bị lạnh.

Rồi ông ra xe, lái tới một khách sạn đang xây cất ở gần đó. Đi vòng ra phía sau, chỗ người ta để những vật liệu phế thải, ông tìm được mấy miếng giấy cạc tông lớn. Quay trở lại cái chòi, ông đưa cho cô gái:
- Cô lấy mấy tấm bìa cứng này, che lên chỗ trống để chắn gió. Nhớ dẹp đi khi trời sáng, đừng để người ta thấy.

Đứa bé bỗng ré lên khóc làm ông giật mình, nghĩ ngợi một lúc, ông lục trong túi áo, lấy hết số tiền lẻ đưa cho cô ta:

- Cầm đi, mai mua sữa cho đứa nhỏ, đừng để nó đói tội nghiệp.
Nói xong, không cần nghe cô ta cám ơn, ông bỏ đi, lòng nửa vui, nửa buồn nhưng nhẹ nhàng thanh thản vô cùng. Từ đó, mỗi khi đi tuần ở khu vực này lúc ban đêm, ông vẫn nhìn thấy bóng hai mẹ con người đàn bà khốn khổ nọ trong cái chòi bỏ hoang.

* * *

Ba ngày sau Tết nguyên đán, viên cảnh sát được nghỉ phép, ông đưa cả gia đình về quê vợ ở Bạc Liêu, ở chơi vài tuần. Khi trở lại, ông không thấy hai mẹ con họ đâu nữa, căn chòi bỏ trống, mọi vật vẫn y như cũ. Cô ta đã giữ lời hứa, ra đi không một lời từ giã. Ông băn khoăn không biết số phận hai mẹ con họ ra sao? trôi nổi về đâu? Ông bồi hồi thương cảm một lúc rồi quay bước, ông phải tiếp tục nhiệm vụ.

Thời gian qua, mọi việc chìm vào quên lãng, cho tới hơn ba tháng sau, ông nhận được một bức thư gởi về ty cảnh sát Vũng Tàu, một bức thư rất đặc biệt, không có tên người nhận, ngoài phong bì chỉ đề có dòng chữ "Gởi người cảnh sát tuần tiễu khu bãi sau, trong khoảng thời gian trước Tết." Thơ gởi về ty cảnh sát Vũng Tàu, địa chỉ và tên người nhận đều mơ hồ như vậy, mà cũng tới tay ông. Tò mò, ông mở phong bì, một lá thơ rơi ra:

"Trại gia binh Long Bình ngày..tháng.. năm 1969

Thưa ông cảnh sát

Cháu rất ân hận đã sơ ý không hỏi để biết tên ông, ân nhân của gia đình cháu. Chắc ông còn nhớ người thiếu phụ trẻ với đứa con nhỏ ông gặp trong cái chòi hoang ở bãi sau Vũng Tàu, cách đây vài tháng? Chính là cháu đó, nhờ lòng nhân của ông, mẹ con cháu đã sống sót qua mùa đông. Chồng cháu đã về kịp lúc để lo cho mẹ con cháu. Anh Bình đã xin được một căn nhà ở trong trại gia binh, và đón mẹ con cháu về. Căn nhà tuy nhỏ, nhưng rất ấm cúng.

Trước khi rời khỏi nơi đây, vợ chồng cháu có đi tìm ông để từ giã, nhưng không được gặp. Cầu mong thư này sẽ tới được tay ông, để ông được biết một tin vui về hai mẹ con cháu. Anh Bình và cháu mới làm hôn thú, và khai sanh cho đứa nhỏ. Bây giờ cuộc sống của vợ chồng cháu đã tạm thời ổn định, Bình có lương hạ sĩ, được thêm tiền trợ cấp vợ con, còn cháu buôn bán lặt vặt phụ thêm, nên cũng đủ sống. Gia đình cháu có được ngày nay, một phần cũng là nhờ ông đã cho cháu một cơ hội.

Cháu rất mong được gặp lại ông, một người cảnh sát rất nhân từ, tốt bụng. Khi nào có dịp đi ngang qua trại gia binh ở dưới chân đồi Long Bình, cách Biên Hoà chừng một cây số, xin mời ông ghé chơi, nhà chúng cháu ở dãy H, nhà số 32. Vợ chồng cháu mong được nói vớ ông một lời tri ân. Cầu xin Phật trời phù hộ cho ông và gia đình ông được mọi điều tốt lành.

Kính thư
Nguyễn Thị Nhiên và chồng là Đỗ An Bình"

Đọc xong lá thư, viên cảnh sát mỉm cười cảm động, không ngờ một hành vi nhân đạo nhỏ nhoi, không đáng gì lại có thể cứu vãn cuộc tình của hai người trẻ tuổi đáng thương. Ông nhủ thầm, bây giờ ta có thể yên tâm về họ, nhưng còn ta, danh dự của một người cảnh sát không cho phép ta nói dối, không thể cứ dấu nhẹm mãi chuyện này. Bổn phận của ta là phải báo cáo hết sự thật, rồi tới đâu thì tới, cho dù có bị khiển trách hay bị hình phạt nào chăng nữa, ta vẫn không buồn vì đã làm được một việc đúng với lương tâm. Nghĩ vậy, ông mạnh dạn cầm lá thư tới sở cảnh sát, xin gặp ông trưởng phòng.

Chậm rãi ông kể lại hết sự việc, nghe xong, viên cảnh sát trưởng tên Hoà cười ha hả, vỗ vai ông mà rằng:

- Nếu cậu cứ lờ đi không nói thì cũng chẳng ai biết, nhưng mà chính cậu đã tự ý khai ra... Hà hà! cũng tốt thôi, nhưng pháp bất vị thân, mặc dù cậu là bạn tôi, nhưng đã biết cậu vi phạm nội qui, thì tôi không thể không phạt cậu. Lẽ ra, vì tinh thần tự giác, có thể cậu sẽ được hưởng trường hợp giảm khinh nếu báo cáo sớm, đàng này để tới bây giờ, gạo đã nấu thành cơm rồi mới chịu thú thiệt, trễ quá...

Ông ngưng lại để suy nghĩ, đắn đo cân nhắc một hồi, rồi mới nói tiếp:

- Tôi phạt cậu phải gác đêm hai tuần liền, bắt đầu từ thứ hai tới, thay thế cho một viên cảnh sát được nghỉ phép vì vợ đẻ. Thế nào? có kêu ca oan ức gì không?

Ông lắc đầu, cười ngượng nghịu:

- Nếu đem lên bàn cân, thì hai tuần lễ phạt chắc chắn sẽ nhẹ hơn cái lá thư này nhiều.

- Tôi cũng nghĩ thế.

Cả hai cùng cười xoà, họ bắt tay nhau từ giã. Rời khỏi văn phòng, ông bước những bước nhẹ tênh trên hè phố. Ông phóng tầm mắt nhìn ra xa xa, cảnh vật hôm nay sao đẹp quá, chim chóc ca hót ríu rít, gió xôn xao và hoa cỏ dường như xanh tươi hơn mọi ngày. Mùa xuân đã về trên khắp nơi, thành phố biển dường như sinh động hẳn lên với những tiếng sóng rạt rào từ ngoài khơi xô vào bờ tung bọt trắng xoá, tiếng sóng nghe như tiếng reo vui, hay lòng ông đang vui? Ông nghĩ về đôi vợ chồng trẻ nọ, về cái gia đình nhỏ bé của họ và mỉm cười, thấy lòng ấm áp lạ thường.

PHƯƠNG LAN
quangminh
Posts: 548
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by quangminh »

Hàng ngày, trên các phương tiện truyền thông : báo chí, TV, internet... thình thoảng có những bàiviết về người già và viện dưỡng lão, làm thổn thức tim người đọc, và mới đây có tin một bà cụ bắn chết ông con trai, vì ông này sắp sửa đưa cụ vào viện dưỡng lão... Những bi kịch về người già vẩn xảy ra trong mọi xã hội, Đông cũng như Tây.
Vì sao Viện dưỡng lão lại là một nỗi ám ảnh kinh hoàng của các cụ già?? Xin mời các bạn hãy cùng tôi đi thăm một viện dưỡng lão, nơi những con người khốn khổ đang sống nốt chuỗi ngày tàn trong bệnh họan, cô đơn... Họ vào đây với một xác thân tàn tạ, và đi ra trong môt cái hòm. Những ngày lất lây trên giường bệnh, họ vẫn bám víu vào một chút hy vọng để sống. Ước mơ cuối đời của họ đơn giản lắm, mời các bạn hãy lắng nghe tâm sự của một bà mẹ già tội nghiệp, bà mẹ Việt Nam, thế hệ cuối cùng của những người vẫn coi trọng chữ hiếu, nhưng than ôi, lại là thế hệ đầu tiên bị con cái bỏ rơi

ĐÊM GIAO THỪA BUỒN
Truyện của Phương Lan

Vớt xong chiếc bánh chưng cuối cùng, bà Sang thở ra nhẹ nhàng sung sướng, thế là mọi công việc chuẩn bị đã xong, giờ chỉ còn chờ đợi để đón xuân. Tết năm nay là một cái Tết đặc biệt, các con cháu của bà từ hai tiểu bang khác đều về tụ tập ở đây cả, nên bà muốn tổ chức ăn một cái Tết thật lớn với đầy đủ mọi thủ tục, lễ nghi, đủ các món ăn cổ truyền như hồi còn ở quê nhà. Bà chưng dọn nhà cửa đẹp đẽ, bày bàn thờ cúng trang nghiêm với lư trầm, chân nến, bát nhang... tất cả đều là đồ đồng, được đánh sáng bóng,. Bài vị của tổ tiên, và ảnh của ông, được bà lau chùi cẩn thận và lộng kiếng mới. Mâm ngũ quả, và hai bình bông tươi đã được bày biện sẵn sàng, chỉ chờ các con cháu về, là bày cỗ cúng...
Đặc biệt hơn cả, năm nay bà gói lấy bánh chưng, chứ không mua như mọi năm. Chả mấy khi các con cháu về đầy đủ, bà muốn tạo một không khí đặc biệt ngày Tết, để chúng nó hiểu sơ qua về phong tục, tập quán Việt Nam. Mấy hôm trước, bà sai Trung mua về một cành đào và mấy chậu cúc, thược dược và hai chậu quất nặng chĩu những trái, những trái quất chín mọng này, ra giêng bà sẽ hái để làm mứt, mứt quất bà làm ngon tuyệt. Các món bánh mứt, dưa hành, củ kiệu, măng nấm, cá thu kho riềng, giò thủ, thịt đông v..v.. đều đã chuẩn bị xong xuôi. Bây giờ chỉ còn nồi bánh chưng, bà gói tới mười mấy chiếc, nên phải nấu ở sau hè mới có chỗ. Bánh đã vớt hết rồi, bà nhấc cái nồi để qua một bên, đổ nước vào bếp, dập tắt củi lửa, rồi mới khoan khoái dúng ngắm công trình của mình. Những chiếc bánh chưng vuông vắn, đẹp đẽ xếp thành từng hàng, để trên mặt bàn, đang bốc hơi nghi ngút, lá dong sau khi luộc, vẫn giữ nguyên màu xanh tươi tắn, chứ không biến thành màu nâu như lá chuối. Ở Mỹ, lá dong đến là hiếm, phải nhờ người quen mách chỗ, mới thửa được một mớ, bánh chưng gói bằng lá dong bao giờ cũng ngon hơn lá chuối. Bà đưa tay nắn thử mấy cái, và mỉm một nụ cuời hài lòng:
- Bánh gói chắc tay, lại nấu tới gần tám tiếng, cam đoan là rền và ngon phải biết!
Bỗng có tiếng chuông cửa reo. Biết là giờ này là giờ các cháu đi học về, nên bà vội vã rửa tay, rồi ra mở cổng. Một bọn bốn đứa trẻ chạy ùa vào sân, chúng ôm lấy bà, mỗi đứa nói một câu om xòm như cái chợ:
- Bà nội, bà nội…
- Thưa nội cháu đi học về!
- Bánh chín chưa nội?
- Bà nội ơi! bánh chưng nhỏ của cháu đâu?
Chúng chạy lăng xăng quanh bà, một đứa ôm chân làm bà vướng víu, nhẹ nhàng cúi xuống gỡ nó ra, bà xoa đầu đứa này, nựng má đứa kia, vuốt ve hôn hít từng đứa, rồi mới dịu dàng nói:
- Bà không quên đâu, vào nhà rửa tay đi đã, rồi ra đây bà cho!
Phát bánh cho các cháu xong, nhìn chúng nó tranh nhau ríu rít, bà thấy vui vui trong lòng. Bắt chợt đứa cháu trai một mình dành tới hai cái, bà bật cười một mình, lẩm bẩm một cách âu yếm:
- Cái thằng đến là tham ăn, giống y hết bố nó lúc còn nhỏ!
Đứa em nó không có phần, chạy tới giựt không được, khóc thét lên rồi lăn ra đất ăn vạ.
- Sơn! đưa trả cho em! không bị đòn bây giờ.
Mẹ chúng vừa khóa xong cửa xe, từ bên ngoài bước vào, la con xong, quay sang cười với mẹ chồng:
- Cái thằng hư quá, lớn rồi mà không biết nhường em.
- Con nít mà, thôi đừng mắng nó. Bà cũng cười và quay qua lũ nhỏ, bánh còn nhiều lắm, các cháu cứ từ từ ăn, đừng tranh nhau..
- Chắc mẹ mệt rồi, mẹ đi nghỉ đi, để con nấu cơm cho. Đứa con dâu nói.
- Không sao cả, mẹ vui nên không cảm thấy mệt. Hôm nay con đón các cháu hơi trễ thì phải?
- Tại kẹt xe mẹ ạ, con lo quá, cứ sợ chúng nó chạy loăng quăng ra đuờng, nguy hiểm.
- Dặn chúng nó mẹ có đến trễ thì cứ chờ ở bên trong cổng trường. Bà gật gù nói tiếp, có phải kẹt xe là vì chiều cuối năm không con?
- Không, mẹ à! Đứa con dâu cười, kẹt xe là vì một tai nạn nhỏ chứ không phải vì chiều cuối năm,Tết là tết của mình thôi, người Mỹ họ đâu có tham dự.
- Ờ nhỉ, mẹ quên. Bà cũng cười, cứ tưởng như hồi còn ở bên nhà, giờ này xe cộ đông lắm, người ta vội về nhà, để còn lo làm cỗ cúng giao thừa.
- Nhà con ra phi trường đón gia đình chú Ba và cô Út phải không mẹ?
- Ừ, đi từ trưa đến giờ, chắc cũng sắp về.
- Năm nay nhà mình vui lắm, đã lâu rồi chưa gặp, không biết dạo này mấy đứa nhỏ thay đổi ra sao?
- Ừ, trẻ con lớn mau như thổi, mỗi năm trông mỗi khác. À này! con đã thu xếp chỗ ở cho hai gia đình về ăn Tết chưa?
- Rồi, mẹ ạ! Nhà con nói mấy đứa nhỏ sẽ ở chung phòng với vợ chồng con, nhường hai phòng ngủ cho gia đình chú Ba và cô Út.
- Được vậy thì tốt lắm, chịu khó ở chật lại một tị cho vui cửa, vui nhà. Chẳng mấy khi có dịp anh em, mẹ con, bà cháu lại gặp nhau, chúng nó chỉ ở chơi có một tuần rồi lại phải về để đi làm. Trung có xin nghỉ phép được không con?
- Có mẹ ạ, nhà con được nghỉ tới mười ngày, còn con cũng xin nghỉ một tuần, bắt đầu từ ngày mai.
- Thế trẻ con có được nghỉ không?
- Thật ra thì trường học không có nghỉ, nhưng con đã xin với cô giáo cho các cháu nghỉ ba ngày, vì là ngày Tết, cũng may họ thông cảm. Hai ngày sau đó là thứ bảy và chủ nhật, tổng cộng cũng được năm ngày.
- Vậy cũng được rồi.
Tới đây thì có tiếng xe ngừng ngay trước cửa nhà. Bà nhìn ra, đúng là xe của Trung. Tim bà đập rộn lên, vừa hồi hộp vừa sung sướng, khi nhìn thấy mọi người từ trên xe van bước xuống. Bà đếm đủ cả: hai con, một dâu, một rể, ba dứa cháu nội, ngoại với Trung nữa là tám... Mỉm cười vui vẻ, bà hấp tấp chạy ra mở cổng…
Bỗng xoảng một cái, tiếng một đồ vật nặng bằng kim khí rơi xuống đất, khiến bà giật mình mở choàng mắt, tỉnh hẳn ngủ. Thì ra vừa rồi chỉ là một giấc mơ, tiếng người khán hộ đưa bà về thực tại:
- Xin lỗi đã làm cụ giật mình.
Nụ cười chưa tắt hẳn trên môi, bà nhìn cô khán hộ đang cúi xuống lượm cái khay nhôm vừa đánh rơi, với cặp mắt khó chịu, phải chi cô ta đừng vô ý như thế thì giấc mơ tuyệt vời của bà còn kéo dài thêm một lúc lâu nữa. Bây giờ thì bà sẽ chẳng bao giờ còn được nhìn thấy nữa, cảnh các các cháu xúm xít quanh bà, cảnh dâu, con hiếu thảo với bà, những cảnh chỉ có trong mơ… Tiếc quá, lẽ ra cô ta không nên vô đây làm rộn, trong lúc bà đang nằm ngủ, bây giờ thì hỏng cả rồi, tất cả khung cảnh gia đình đầm ấm đều đã tan biến hết…
- Cụ ơi! sao chẳng chịu ăn uống gì cả? Cụ bỏ cơm bữa nay là bữa thứ ba rồi đó, phải cố mà ăn thì mới khoẻ đuợc chứ. Hay cụ chê đồ ăn không ngon? nếu vậy, cụ ráng uống ly sữa hay ăn một tí súp nóng cho lại sức nhé?
- Tôi không muốn ăn, chỉ muốn ngủ thôi.
Nói xong, bà quay mặt vào tường, nhắm mắt lại, cố mơ tiếp giấc mơ hồi nãy, nhưng không thể đuợc, bà thở dài lắng nghe cuộc đối thoại giữa ngưới khán hộ và bà cụ nằm ở giường kế bên:
- Cô ơi! hôm nay thứ mấy rồi? Ở trong này tôi chẳng còn nhớ ngày tháng gì cả.
- Thứ ba cụ ạ, hôm nay là 30 Tết đấy!
- Thì ra đã quá ngày các con tôi vào thăm tôi rồi ư? chắc chúng nó bận rồi lại quên mất.. Tôi buồn quá, con cái đều là đồ bất hiếu, coi cha mẹ già như đống giẻ rách, đem bỏ vào nhà dưỡng lão, chẳng thèm ngó ngàng gì tới nữa…
- Thôi cụ ơi! đừng than lắm thế, các ông bà ấy bận không săn sóc cụ được, thì giao cho chúng tôi. Dễ gì được vào ở đây? tốn kém lắm chứ bộ thí sao? Ở đây có kẻ hầu người hạ, cơm bưng nước rót, đưa tới tận miệng, sướng thế còn than nỗi gì?
- Cô không biết nỗi đau tinh thần của chúng tôi... Chúng tôi nhớ con, nhớ cháu, chúng tôi thèm một không khí gia đình ấm cúng. Những đòi hòi đó có gì quá đáng đâu? người già chẳng mong gì hơn là được sống với con cháu.
- Nhưng cụ già yếu rồi, ai sẽ săn sóc cụ?
- Chúng nó phải săn sóc tôi chứ! Thế khi xưa ai đã săn sóc chúng nó khi còn nhỏ? đâu phải đẻ ra thổi phù một cái là thành người lớn? Được nên vai nên vóc như ngày nay, là nhờ công ơn của cha mẹ, tôi đã vất vả vì chúng cho đến khi chúng khôn lớn. Một mẹ nuôi năm con thì được, năm con lại không nuôi nổi một mẹ à? Đồ bất hiếu! chúng nó không nghĩ đến công lao của tôi đã nuôi dưỡng chúng nên người. Ai cũng bảo tôi có phước, năm đứa con thì hai đứa là bác sĩ, một đứa là dược sĩ, một đứa là luật sư, còn đứa kia mở ba, bốn tiệm ăn. Đứa nào cũng nhà cao cửa rộng, đứa nào cũng giàu có nhưng coi mẹ không bằng con chó nhà chúng nó. Con chó đau ốm thì chúng nó thương sót, vuốt ve, an ủi và đưa đi bác sĩ, mẹ già đau ốm, chúng quăng vào viện dưỡng lão, phủi tay cho rằng xong bổn phận.
- Chắc các con cụ nghĩ rằng cụ không đem đến cho họ những phút vui tươi thoải mái như với con chó.
- Tôi đâu có biết làm trò như con chó để làm cho các ông bà ấy vui? Chắc vì thế nên họ quý chó hơn mẹ.
Người khán hộ phì cười:
- Cụ ví thế sao được, người là người mà chó là chó chứ? Chó già, người ta put to sleep…
- Còn tôi, nếu chúng nó “put” được tôi “to sleep” mà không bị tội thì chúng đã làm rồi, chẳng qua chúng nó sợ ở tù. Cha tiên nhân bố cái lũ vô ơn, đồ ăn cháo đá bát!
Cô khán hộ nhăn mặt, ngập ngừng một lúc, rồi mới lấy giọng nhẹ nhàng khuyên nhủ:
- Chỗ đồng hương cháu nói thật, cụ chửi bới vừa thôi, coi chừng người ta nói cụ mắc bệnh tâm thần, đưa vào nhà thương điên thì lại khổ. Cụ không nhớ cách đây mới có vài tuần, “ông già gân” bị người ta chở đi nhà thương điên đó sao?
“Ông già gân” là biệt danh người ta đặt cho một ông già có cô vợ trẻ chỉ đáng tuổi con cháu, ông bị vợ đưa vào nhà dưỡng lão sau khi cuỗm hết nhà cửa, tiền bạc bỏ đi theo một anh chàng trẻ tuổi đồng trang lứa. Phút chốc bỗng mất hết, trở thành trắng tay, ông vừa tiếc của, vừa căm giận người vợ bội bạc, người vợ mà ông đã từng mê say, và đã tốn công, tốn của về tận Việt nam để cưới và đem qua Mỹ, sau mới có ba năm đã trở mặt, ông đập phá đồ đạc và luôn miệng chửi bới suốt ngày. Một lần ông lẻn về nhà, bóp cổ cô vợ trẻ đến gần tắc thở, may không chết. Nhưng sau vụ dó, người ta chuyển ông đi bệnh viện tâm thần, ở luôn trong đó cho đến mãn đời. Bà Tám rùng mình, chết bà không sợ, nhưng phải ở chung với những người điên thì bà sợ lắm, bà có vẻ hơi chùn, nhưng còn cố chống chế:
- Người ta giết người thì mới sợ tội, còn tôi… Mà ai dám bảo là tôi điên? cô hả? đi mà báo cáo, tôi thách cả nhà nhà cô đấy!
- Cháu đâu dám, sợ là sợ các con cụ kìa. Gởi cha mẹ già vào viện dưỡng lão là chuyện rất thường ở bên Mỹ, có gì đâu mà bảo là bất hiếu?
- Chúng nó bắt chước Mỹ, nhưng Mỹ khác, mình khác chứ? Mỹ mười tám tuổi là bị cha mẹ tống ra khỏi nhà không nuôi nữa, nên cha mẹ già các con cũng để mặc cho tự lo lấy. Đàng này tôi nuôi chúng nó đến ngoài ba mươi tuổi, lại còn lo dựng vợ gả chồng…
- Nữa, cụ lại dở điệp khúc cũ ra rồi! Cô khán hộ ngắt lời, thôi cụ ơi cháu không có thì giờ nghe cụ kể đâu, cụ đã kể lể nhiều quá rồi nghe đến chán cả tai. Các cụ có khổ cách mấy cũng còn đỡ hơn bọn cháu phải làm mửa mật mới có miếng ăn, cực hơn thân trâu bò.
- Mấy người có tuổi trẻ là sướng rồi mà không biết đấy, cực cách mấy cũng còn sướng hơn lũ người già chúng tôi ở đây, sống chỉ để đợi chết, những chuỗi ngày còn lại sao mà vô vị…
- Cụ nào cũng than như thế, nhàm quá! Các cụ không chịu hiểu rằng sống lâu rồi thì phải chết chứ? có ai mà sống đời? Khổ nỗi trước khi chết, các cụ hành chúng tôi thê thảm, cụ tưởng rằng việc săn sóc cho các cụ là sướng lắm hả?
- Tôi có bảo là sướng đâu? tôi chỉ muốn kể tâm sự của tôi, cô không muốn nghe thì thôi, việc gì mà phải lắm lời? Không có bọn tôi, mấy người tìm đâu ra việc làm? lại không đói nhăn răng ra à? Đừng có mà làm bộ!
- Thôi được, chịu thua cụ. Cô ta cười không có vẻ gì giận cả, đúng vậy, chẳng thà cực như trâu mà có miếng ăn còn hơn là nằm nhà chết đói. Bây giờ không nói chuyện đó nữa, qua chuyện khác cụ nhé? cụ uống hai viên thuốc này đi rồi có muốn ăn gì thêm thì nói đi trước khi cháu ra khỏi đây.
- Tôi không muốn ăn gì cả, thức ăn như chó mửa, nuốt sao vô mà cứ ép người ta ăn hoài? Tôi chỉ muốn nhờ cô thay dùm cái khăn trải giường, tôi lỡ đánh đổ cái bô nước tiểu, khai quá…
- Khăn giường thứ sáu mới thay, mỗi tuần chỉ thay một lần. Ở đây cái gì cũng phải làm theo thời khóa biểu, người đâu có đủ để có thể làm tất cả mọi việc các cụ sai bảo? Thôi cụ đi nghỉ đi, cháu phải qua phòng khác.
Người khán hộ ra khỏi phòng, bà Sang quay qua an ủi người bạn già:
- Thôi bà chịu khó lấy cái khăn tắm che lên chỗ dơ nằm đỡ, rôi xin cái khăn khác, khăn tắm thì chắc họ không nỡ từ chối.
- Chẳng còn cách nào hơn, chúng mình ở đây đâu có khác gì những con vật?
2
Bà Sang mỉm cười chua chát, những người ở đây đều là những người già yếu, bệnh tật, con cái không thể chăm sóc, họ vào đây để mà chờ chết. Nhưng họ không chết ngay, có người sống lâu tới mức có đủ thời gian để những người chung quanh nhận ra những cá tánh đặc biệt của họ, mà đặt cho một biệt danh, thí dụ biệt danh của bà Tám đây là “bà khó tính”, cũng như bà Sang có biệt danh là “người trầm lặng". “Bà khó tính” và "người trầm lặng” sống chung trong một phòng đã sáu, bẩy năm qua, nhưng chẳng bao giờ xảy ra chuyện xích mích nào cả, hoàn cảnh tương tự khiến họ cảm thấy gần gũi và thương nhau hơn. Bà Tám thích kể chuyện gia đình, bà Sang lắng nghe tâm sự của bạn, để ngậm ngùi cho bạn, cũng như cho chính mình.
Ở đây có một ông nhạc sĩ tên tuổi, nghe đâu hồi xưa là một giáo sư dạy nhạc, tăm tiếng một thời. Năm nay ông đã tám mươi tuổi, nhưng còn minh mẫn, và cũng trầm lặng, ít nói. Ông thường dậy sớm, dạo đàn vào những buổi sáng tinh mơ, lúc mọi người còn đang say ngủ. Ông âm thầm ra ngồi đàn một mình, rõ ràng là ông dạo đàn không phải để mọi người nghe, mà để cho chính ông, như là một thói quen, để nhớ lại quá khứ, cái quá khứ mà tiếng đàn đã gắn liền gần như suốt cả cuộc đời của ông. Viện dưỡng lão nào cũng có một cây đàn dương cầm, nhưng chẳng ai đụng đến, trừ ông nhạc sĩ nọ. Ông không biết rằng, ông có một thính giả trung thành là bà Sang. Từ khi khám phá ra sự có mặt của ông ở đây, bà không bỏ qua một buổi dạo đàn nào của ông cả. Sáng sớm tinh sương, bà len lén ra khỏi phòng, đến phòng sinh hoạt, đứng trong một xó tối, lắng nghe vớ tất cả vẻ say mê. Khi ông ngưng đàn, bà lại lặng lẽ ra khỏi phòng, về giường nằm lại. Những hôm ông nhạc sĩ mệt không dạo đàn được, bà nghe như thiếu thốn một cái gì. Bà nhớ lại thời còn son trẻ, bà đã say mê âm nhạc, đã chịu khó học đàn, bà đàn cũng khá hay. Nhưng bây giờ về già, bệnh đau khớp, khiến bà không thể xử dụng được các ngón tay.
Ở đây cũng có một người nghệ sĩ cải lương, nhưng đã qua đời năm ngoái, thọ bẩy mươi sáu tuổi. Ở đây cũng có một ông tướng, ông tướng hết thời, không còn binh lính dưới quyền. Nhớ thời vàng son, ông tướng ngồi trên xe lăn, vẽ bản đồ hành quân, đo toạ độ, ghi chấm các điểm đóng quân. Ông vẽ rồi lại xoá, xoá rồi lại vẽ, đôi khi cao hứng, ông đứng thẳng người lên, hò hét như đang ra lệnh ngoài mặt trận.
Ở đây cũng có những ông bộ trưởng, những ông văn sĩ, giáo sư, các bà mệnh phụ, các bà buôn bán, các bà nội trợ… đủ mọi hạng người, đủ mọi tầng lớp xã hội, vào đây là cá mè một lứa, ai cũng như ai, sắp hàng chờ chết... Trước cái chết, mọi người đều bình đẳng như nhau, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, chỉ phân biệt theo tình trạng sức khỏe. Có người trông vẫn khỏe mạnh như người bình thường, có người đi phải chống gậy, hoặc ngồi xe lăn, có kẻ nằm liệt trên giường, tiêu tiểu không kiểm soát được nên phải đeo tã như trẻ con, đa số đều tỉnh táo, vài người đã lú lẫn… Họ thương nhau lắm, coi nhau như những người trong gia đình, một người ra đi, những ngươi còn lại đều để tang, và buồn rầu tự hỏi không biết bao giờ sẽ đến lượt mình? Tương lai chỉ là cái chết, nên họ sợ không dám nghĩ đến, họ chỉ nhớ đến quá khứ. Ôi quá khứ! quá khứ nào mà chẳng đẹp? nhất là đối với những người già, người già chỉ sống với quá khứ.
Bà Sang thở dài, biết rằng không thể ngủ lại được nữa, bà mệt nhọc ngồi dậy, chống tay vào thành giường đứng lên, cố gắng lê bước đến bên cửa sổ và ngồi xuống, nơi đây lúc nào cũng có sẵn hai cái ghế có tựa lưng, nhưng chỉ có một mình bà ngồi. Đây là nơi ưng ý nhất của bà, từ khi sức khỏe suy sụp, đi đứng run rẩy, bà ít khi ra ngoài, để giải khuây, bà hay ra ngồi bên cửa sổ. Bà ngồi cả mấy tiếng, ngó xuống vườn hoa ở phía dưới, và xa hơn nữa là vùng phụ cận, có một con đường nhỏ, xe cộ qua lại không đông lắm, hai bên đường là nhà cửa, cây cối. Tuy khung cửa nhỏ hẹp, và tầm nhìn có giới hạn, nhưng được nhìn thế giới bên ngoài, bà cũng thấy thoải mái, hơn là cứ nằm hoài trên giường, để chỉ nhìn có bốn bức tường, người bạn già đau yếu nằm kế bên, và bóng dáng áo xanh của những người khán hộ đi qua đi lại.
Mấy năm trước, hồi mới nhập viện, bà chưa yếu lắm, vẫn đi lại nhanh nhẹn một mình, bà ra vườn hoa đi dạo, ra phòng đọc sách đọc báo, xem truyền hình, tham gia các sinh hoạt của viện, và nói chuyện với những người bạn mới, nên không cảm thấy buồn nản lắm. Nhưng mấy lúc gần đây, sức khoẻ suy kém, bà thấy mệt mỏi, ăn không ngon và xuống cân từ từ. Mỗi buổi chiều bà lại gây gây sốt, những cơn sốt nhẹ chỉ làm bà hơi váng vất khó chịu, người bà hâm hấp nóng và ướt rịn mồ hôi, bà uống đủ loại thuốc cảm nhưng không công hiệu. Thuốc tây nóng hay sao, mà mũi bà cứ bị chảy máu, chảy tí ti thôi, nên bà không sợ, nhưng bà ngưng uống thuốc cảm rồi mà thỉnh thoảng máu vẫn chảy. Thôi mặc kệ, người già cũng như chiếc xe cũ không hư bộ phận này, cũng hư bộ phận khác. Bà chẳng thèm khai bệnh, để làm gì chứ? bà đâu có muốn sống lâu trong hoàn cảnh này. Ở đây chẳng ai cầu được sống lâu cả, họ chỉ cầu nguyện sao cho được chết một cách nhẹ nhàng êm ái, không đau đớn, đó là ước nguyện duy nhất của các cụ già ở đây. Vô phước cho ai phải sống dây dưa qua nhiều năm tháng lất lây trên giường bệnh. Mỗi khi có một người nằm xuống, những người còn lại ngậm ngùi thương tiếc, nhưng mừng dùm cho bạn đã thoát khỏi kiếp đời đau khổ.
Bà Sang nghe trong người đang thay đổi, một cái thay đổi lạ lắm, người bà ốm teo, da bà xanh lướt, bà hay mệt, nên thường nằm lơ mơ trên giường nhiều hơn là đi lại.. Những lúc tỉnh táo, bà hay ra ngồi bên cửa sổ.
Buổi trưa hôm nay trời không có nắng, bầu trời màu xám u buồn, phía xa xa, đỉnh ngọn núi phủ đầy tuyết trắng xóa. Bây giờ đang là mùa đông, những hàng cây maple hai bên đường đã rụng hết lá, chỉ còn trơ cành khẳng khiu, cây đào trồng trong sân viện đơm đầy nụ, lác đác vài nụ đã hé nở.
Sắp Tết rồi, ở đây không có lịch ta, nên chẳng ai nhớ ngày tháng, nhưng người ta vẫn cảm thấy qua thời tiết, là mùa đông sắp tàn, và mùa xuân đang quanh quẩn, rất gần…
Trong viện dưỡng lão, người ta cũng sửa soạn để đón xuân, một cành đào lớn được ban giám đốc viện cho chặt ở ngoài vườn dem vào cắm trong một cái lọ lục bình lớn, chưng ngay giữa phòng sinh hoạt của viện. Bánh chưng, dưa hành, mứt kẹo của những người thăm viếng được bày cả ở trên một cái bàn lớn, để mọi người cùng ăn chung, những bàn cờ tướng, bầu cua cá cọp, tam cúc, những cỗ bất v…v … tất cả đều sẵn sàng. Ông nhạc sĩ cũng tham gia, bằng cách đàn cho mọi người nghe những bản nhạc xuân. Tiếng đàn khơi dậy một quá khứ tuơi đẹp những mùa xuân trên quê hương, tiếng đàn gợi bao nhiêu niềm nhớ, nhớ nhà, nhớ quê, nhớ gia đình, nhớ tiếc tuổi thanh xuân… Thành ra tuy là nhạc vui, nhưng người nghe đều nghẹn ngào, rưng rưng. Ông nhạc sĩ tuy già, nhưng tiếng đàn còn điêu luyện lắm, giáo sư âm nhạc quả cũng có khác. Cái lạnh se da làm mọi người cùng cảm thấy nao nao, chiều cuối năm có cái buồn đặc biệt của một năm sắp tàn, một cái buồn man mác. Nơi đất khách, những người tha hương không khỏi chạnh lòng nhớ tới quê nhà, giờ này đang đì đùng tiếng pháo, đèn thắp sáng chưng, bàn thờ khói nhang nghi ngút, cả nước tưng bừng sửa soạn đón giao thừa.
Ở đây sao tẻ lạnh quá chừng, buổi chiều cuối năm ở viện dưỡng lão, lại càng thê lương hơn nữa, một chiều cuối năm không xum họp, con cháu không ở quanh mình, không bàn thờ, không người thân thích... Ai ở trong viện dưỡng lão, mới thấy thấm thía nỗi buồn cô quạnh. Lại một năm nữa sắp tàn, người ta tiến gần đến cái chết hơn một chút nữa, cái chết đang chờ đợi ở cuối đường. Còn được bao nhiêu mùa xuân nữa? những mùa xuân không đợi, nhưng vẫn cứ đến rồi đi như một qui luật của tạo hoá.
Bà Sang rơi lệ, ông mất đi vào một buổi chiều cuối đông, nên mỗi lần Tết sắp đến, bà lại buồn ray rứt. Nhớ khi xưa ông vẫn thường nói:
- Khi các con khôn lớn không cần đến cha mẹ nữa, bà với tôi sẽ về lại quê hương, chúng ta sẽ mua một căn nhà nhỏ có vườn cây ăn trái ở một vùng quê yên tĩnh để hưởng thú điền viên.
Hai ông bà xa quê đã mấy chục năm, dạo đó cả hai đều là sinh viên đi du học, họ gặp nhau, yêu nhau và kết thành vợ chồng, ba đứa con theo nhau ra đời: hai trai, một gái.
Thật ra ông bà còn có thêm một đứa con nữa, nhưng đứa bé gái xấu số đó đã bị chết ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ. Cái gia đình năm người ấy, nổi trôi trên nước Mỹ, sau cùng họ chọn vùng California nắng ấm để làm nơi định cư. Sau bao nhiêu gian nan vất vả, cố gắng nuôi con ăn học, hai ông bà vui mừng vì các con đều nên danh nên phận cả. Trung lập gia đình trước tiên, đám cưới xong, hai vợ chồng nó dọn nhà đi Loma Linda, một tỉnh nhỏ ở miền nam Cali. Nơi đó, Trung làm bác sĩ trong một bệnh viện nổi tiếng thành công trong các vụ ghép các cơ quan như gan, thận, và thay van tim... Hai năm sau, đến lượt Hiếu lấy vợ, hai vợ chồng cũng dọn ra riêng, lần này đi tận tiểu bang Colorado, nơi Hiếu vừa xin được một chân kỹ sư hàng không. Sau chót là Anh Thư, đứa con gái út đi lấy chồng, chồng nó là người Mỹ, làm trong một ngân hàng quốc tế. Thư khăn gói theo chồng đến New York, là nơi có các trung tâm thương mại lớn nhất thế giới, tiện cho công việc làm ăn của cả hai vợ chồng.
Thế là cái gia đình năm người ấy, nay tứ tán mỗi người một phương, ít khi có dịp tụ họp đông đủ. Ông bà vẫn ở lại căn nhà nhỏ ở Santa Ana, vì không muốn làm gánh nặng cho đứa con nào cả, vả lại đây mới là lúc thực hiện “giấc mơ hồi hương” như chương trình ông bà vẫn dự tính. Thu xếp xong công việc, ông bà đăng bảng bán nhà để sửa soạn về quê.
Trung bấy giờ đã có ba con, vợ lại đang có bầu đứa thứ tư, Trung gọi điện thoại ngỏ ý mời bố mẹ về ở chung để trông cháu cho hai vợ chồng nó đi làm.
- Thôi cũng được. Ông cười, nói với bà, không hưởng thú điền viên thì chúng ta vui với con, với cháu..
Bà vui vẻ đồng ý liền, được sống với con, với cháu cũng là niềm vui của các bậc cha mẹ khi tuổi đã xế chiều. Ông bà không ngại tuổi tác đã cao, cố đem sức già ra để giúp cho con cháu. Mấy đứa cháu quấn quít, ông bà thấy rất vui, trẻ con dễ thương chi lạ. Ông bà yêu cháu lắm, chúng nó đứa nào cũng giống bố, chỉ cần nhìn những đôi mắt nai tơ, chỉ cần nghe những lời thỏ thẻ ngây thơ của các cháu, là bao nhiêu mệt nhọc đều tan biến hết, trẻ thơ quả là thiên thần của hạnh phúc. Đến lượt vợ Hiếu sanh con trai đầu lòng, bà lại khăn gói di Colarado, để tiếp tay với vợ chồng nó săn sóc thằng cu Tí.
- Con mẹ nó đến là khờ dại. Bà nói một cách âu yếm, ai lại mới sanh xong đã tắm nước lạnh, lại chẳng chịu kiêng cử gì cả cái gì cũng ăn bừa đi, mai mốt về già sinh bệnh mới khổ. Nói của đáng tội, có ai đâu mà chỉ bảo và cũng chẳng ai nấu nướng gì cho nó ăn cả, thật tội nghiệp!
Thế là bà lại lui cui nấu ăn cho con dâu, nấu nướng theo kiểu của bà, mà bà tin rằng rất tốt cho người đẻ: gà ác tiềm thuốc bắc, cháo đậu xanh, chân giò hầm gạo nếp…
Sau cùng, cô gái út cấn thai, nó hôi cơm tanh cá, nuốt không nổi đồ ăn Mỹ nên người gầy võ vàng. Thương con, bà lặn lội đi New York, để lo cơm nước cho nó, ông thì ở nhà, lo cho đám con của Trung, đưa đón các cháu đi học. Bà ở với Thư chờ cho nó sanh xong mẹ tròn con vuông, cứng cáp rồi mới trở về với ông. Hai ông bà “nghỉ hè” được có vài tháng, thì Trung lại điện thoại nói các cháu nhớ ông bà, thằng bé út mới có vài tháng cứ khóc hoài, khiến vợ chồng nó không ăn ngủ gì được. Thế là ông bà lại khăn gói lên đường. Ông bà như con thoi, hết ở với đứa này ít lâu, lại đến đứa khác. Nơi nào cần, thì ông bà tới, giúp cho con cho cháu. Ông bà chẳng bao giờ ngại tốn công sức cũng chẳng quản chi mệt nhọc.

3
Cuộc đời nếu cứ suôi chèo mát mái như thế thì đâu có gì đáng nói, đàng này đang yên vui, thì trời bỗng giáng xuống một tai họa. Một buổi sáng mùa đông, trên xa lộ vắng, chiếc xe cũ ông đang lái, bỗng bị văng mất một bánh xe, chiếc xe mất thăng bằng, lạng qua một bên. Hốt hoảng, ông vội vã đạp thắng, và bẻ tay lái cho xe tấp vô lề, nhưng không kịp, lỡ trớn ông băng qua hai, ba lane, và đâm ngay vào cây cột đèn phía trước mặt. Đầu xe thun lại, bẹp rúm, và ông nằm gục ngay trên tay lái, người ta phải cắt mui xe mới lôi được ông ra. Mới thoạt đầu, trông ông không có vẻ gì là bị thương nặng cả, ngoại trừ mấy vết cắt nhỏ ở trên mặt, do mảnh kiếng bể văng trúng, ông không bị thêm một vết thương nào nữa cả, cả người ông vẫn nguyên vẹn không bị bầm tím hoặc trầy sát chi hết. Nhưng ông chết trong nhà thương một giờ sau đó, vì bị nội thương trầm trọng. Hình chụp quang tuyến cho thấy xương sọ của ông bị tách rời khỏi cột sống, do sức va chạm quá mạnh. Ông ra đi không một lời từ biệt. Cái chết của ông khiến bà bị khủng hoảng thần kinh một thời gian. Tang ma cho ông xong, bà ốm liệt giường hơn một tháng mới khỏi. Tuy hết bệnh, nhưng bà yếu đi nhiều, trông bà hom hem và già xọm hẳn đi.
Mọi việc bắt đầu thay đổi từ đó, bà trở nên trầm lặng, ít nói, mặt mũi lúc nào cũng ủ rũ, héo hắt. Bà không còn đủ sức để làm được việc gì, dù nhẹ, nói chi đến việc nấu ăn và trông cháu? Bà nhớ ông, nên ra ngẩn vào ngơ. Bác sĩ nói bà bị bệnh trầm cảm, nên con dâu không cho phép bà lại gần mấy đứa cháu, sợ bà nổi điên bất tử, bóp cổ mấy đứa nhỏ !?!
Trung phải săn sóc cho mẹ mấy tháng liền, đã thấm mệt, cộng thêm công ăn việc làm khó khăn, con cái quấy khóc, không ngủ được, nên trở thành cau có, gắt gỏng. Con ruột đã thế, nói chi đến con dâu? cuộc sống chung không còn hoà thuận như xưa, trong gia đình đã bắt đầu có nhũng tiếng bấc, tiéng chì, nói cạnh nói khóe, nhiếc móc… Chỉ có lũ cháu là vẫn thương bà, nhưng chúng còn nhỏ quá, không thể bênh vực bà được. Sau cùng, hai vợ chồng Trung tìm cách đẩy bà cho Hiếu, rồi cho cô Út. Ở đâu cũng bị đối xử tương tự, các con bà quá bận rộn với cuộc sống, không ai muốn phải gánh thêm một gánh nặng là nuôi mẹ già bây giờ đã trở nên vô dụng. Ôi ! sao chẳng ai nhớ đến công ơn dưỡng dục sinh thành? sao chẳng ai nghĩ đến người mẹ đã tận tụy hy sinh cả đời để nuôi nấng, chăm lo săn sóc các con, không chỉ những lúc còn nhỏ mà ngay cả khi đã khôn lớn? Khi nào các con cần tới bà, thì bà giúp ngay, không bao giờ từ chối. Bây giờ là lúc bà cần đến các con, thì đứa nào cũng muốn trốn tránh trách nhiệm.
Ôi bà Sang tội nghiệp! bà bây giờ cũng giống như trái chanh khô héo, vì đã bị vắt hết nước, chỉ còn cái vỏ xấu xí, người ta muốn quăng đi cho rảnh mắt. Bà sống cô đơn trong sự lạnh nhạt của con cái, cho tới một ngày buồn quá, bà đi lang thang, và quên mất đường về, cảnh sát tìm ra bà và đưa về cho Trung. Ba đứa con họp nhau lại, và quyết định đưa mẹ vào viện dưỡng lão. Mới đầu bà không chịu và ứa nước mắt, khóc:
- Mẹ chưa mất trí nhớ đâu, mẹ chỉ buồn vì nhớ bố. Các con nên an ủi mẹ, chưa bao giờ mẹ thấy cô đơn như lúc này, mẹ cần các con các cháu, mẹ không muốn sống ở một nơi toàn là những người xa lạ, mẹ không muốn vào viện dưỡng lão.
Nhưng cả Trung và Hiếu đều nói:
- Mẹ cần người trông nom, mà chúng con đâu có thể bỏ việc để ở nhà săn sóc mẹ đuợc?
Thư cũng nói:
- Chồng con là người Mỹ, không có tục lệ ở chung với cha mẹ khi đã trưởng thành, chắc chắn Mike sẽ phản đối không bằng lòng cho mẹ ở đâu.
Đứa nào cũng có lý do để từ chối, bà đành thở dài, cam chịu số phận, vì có còn con đường nào khác đâu? Các con đón bà về nhà mỗi tuần một lần, ở chơi từ sáng đến chiều, rồi lại đưa về viện dưỡng lão. Bà thấy thế cũng được an ủi phần nào. Cả tuần bà chỉ mong đợi đến ngày được đón về nhà. Bà thương các cháu lắm, chỉ cần được trông thấy chúng nó, là bà đã có cảm giác sung sướng ấm êm trong lòng.
Nhưng cái hạnh phúc nhỏ nhoi đó cũng không kéo dài được bao lâu, những cuộc viếng thăm cứ từ từ thưa dần rồi ngưng hẳn. Bà mỏi mòn đợi mong… Ngày “mother day”, bà hy vọng thế nào cũng được về nhà, nhưng Trung gọi điện thoại nói là phải trực gác ở bệnh viện nên không tới đón được. Hiếu và Thư thì gởi cho bà một hộp chocolat và một bó hoa hồng thật đẹp. Bà đâu có cần hoa? cũng chẳng muốn ăn kẹo, nhưng thôi, dù sao chúng nó cũng có lòng, còn nhớ đến sự hiện diện của bà ở trên cõi đời này là quí rồi. Bà nhẫn nại chờ một dịp khác. Nhưng đến Thanksgiving, thì cả nhà Trung lại đi chơi Las Vegas, bà buồn rầu, ngơ ngẩn cả mấy hôm liền. Nhưng rồi ngạc nhiên và cảm động biết bao, buổi trưa hôm lễ Giáng sinh, cả ba đứa con cũa bà cùng xuất hiện một lượt, thăm bà ở viện dưỡng lão, ở chơi tới hơn một giờ mới đi, nhưng không cho bà về nhà, vì nhà Trung tối hôm đó có mở party lớn lắm, mời tới hơn trăm người, có cả nhảy đầm. Mở party thì bận thật, bao nhiêu việc phải làm, ai có thì giờ mà đón với đưa bà về?
- Mẹ cứ ở đây có phải yên thân không? về nhà mà làm gì, vẽ chuyện!
Họ đã bảo như thế, thấy bà thất vọng lộ ra nét mặt, Trung an ủi, và hứa chiều 30 Tết sẽ đón bà về cúng giao thừa, và ở chơi trọn ba ngày Tết. Bà đếm từng ngày, và sau cùng cái ngày mong đợi đó đã tới…
Mấy giờ rồi? không có đồng hồ nên bà bực lắm, đành phải đoán chừng vậy. Hồi nãy, bà nghe có nhiều tiếng chân đi lại trên hành lang, và tiếng người nói chuyện ồn ào. Thôi đúng rồi, những người khán hộ đang bàn giao công việc, vì sắp sửa đổi phiên. Đổi phiên là mới 6 giờ chiều, chưa trễ lắm, Trung tan việc lúc 4 giờ, từ sở đến đây cũng phải mất hơn một tiếng, ấy là chưa kể kẹt xe. Vẫn còn hy vọng, bà tự nhủ hãy ráng chờ thêm một lúc nữa, một lúc nữa thôi…
Ngồi tựa đầu bên cửa sổ, bà ngắm nắng chiều chiếu phớt trên những ngọn cây, sốt ruột khi thấy nắng cứ nhạt dần, rồi tắt hẳn, và màn đêm đang buông xuống. Trời đã nhá nhem tối, bà Sang thở dài, bỏ vào giường nằm, cứ đêm về, người bà lại gây gây sốt. Trên chiếc bàn con để cạnh đầu giường, khay đồ ăn người nhà bếp đem lên từ hồi chiều, bây giờ đã nguội lạnh. Miệng đắng ngắt, bà nhìn một cách chán nản đĩa khoai nghiền rưới một tí nước sốt màu nâu đục lờ lờ, mấy miếng cà rốt, đậu ve và củ cải đỏ, để cạnh một miếng thịt gà lớn bằng nửa bàn tay, một chén súp lõng bõng nước, nổi lều phều những sợi nui, và vài miếng thịt bò băm, một ly sữa và một ly nước cam. Đồ ăn Mỹ tuy bổ, nhưng không hợp khẩu vị, bà chỉ thèm cơm, giờ này mà được một bát canh rau ngót có phải dễ nuốt hơn không? Nói nào cho ngay mấy lúc sau này, trong người không được khoẻ, nên ăn gì cũng chẳng thấy ngon. Nướu răng bà cứ bị chảy máu hoài, mỗi lần nhai đồ ăn lại xót, nên bà sợ ăn lắm, uống thì còn được, cứ việc nhắm mắt, nín thở nuốt ực một cái là xong. Nhưng bất cứ thức ăn, hay đồ uống nào vào đến dạ dầy, lại muốn quay lộn trở ra, làm bà bợn dạ chỉ muốn ói, và bà ói ra hết, ói ra cả mật xanh lẫn mật vàng... Khó chịu quá, thôi thì đừng ăn uống gì cả cho nhẹ mình. Người bà yếu đi dần dần, sinh lực từ từ tiêu tan, giống như hy vọng cũng từ từ tiêu tan.
Bà ngồi ghé xuống giường, rồi ngả lưng từ từ nằm xuống, vắt tay lên trán, bà nhắm mắt lại, nghĩ ngợi vẩn vơ hết chuyện này đến chuyện kia, không biết bao lâu. Bỗng có tiếng nói vang lên ngay bên cạnh giường làm bà giật mình:
- Bà cụ lại bỏ ăn nữa à?
Bà mở choàng mắt, cô khán hộ lúc buổi trưa đã trở lại, cô ta đứng tần ngần nhìn khay đồ ăn còn nguyên, chép miệng hỏi, bà giương đôi mắt lờ đờ, mệt nhọc đáp:
- Tôi không thấy đói cô ạ, nhưng tôi đã uống hết ly nước cam rồi đấy.
- Một ly nước cam thì đâu có đủ? Cụ bỏ cơm bữa nay là bữa thứ tư rồi đấy, mấy tháng nay cụ ăn uống cũng thất thường, không trách người cứ gầy rạc
đi. Bữa nọ, bác sĩ khám bệnh cho cụ bảo sao hả cụ?
Không thấy bà trả lời, cô khán hộ nhìn bà có vẻ áy náy một lúc, rồi ngập ngừng đề nghị:
- Hay là cụ mệt thì để cháu xúc cho cụ ăn nhé?
Bà cố gượng cười:
- Chỉ tại không đói thôi, tôi đâu đến nỗi phải xúc cho ăn như xúc cho con nít.
- Thôi cháu hiểu rồi, cụ buồn vì nhớ nhà, có đúng không nào? Chiều nay là chiều cuối năm, cháu tưởng các con cụ đã tới đón cụ về nhà rồi chứ?
- Mọi năm thì vẫn vậy, nhưng không hiểu sao năm nay giờ này chưa thấy chúng nó tới, tôi vẫn đang đợi…
- Chắc họ bận việc gì đó nên tới trễ. Thôi cụ cứ ở đây nằm chờ nhé, cháu phải về vì đã hết giờ rồi.
- Được, cô cứ về. Chúc cô một năm mới tốt đẹp.
- Cháu cũng chúc cụ như vậy.
Nói xong cô nắm lấy tay bà xiết nhẹ một cái rồi quay đi, ra tới cửa, cô đứng bịn rịn một lúc, đưa tay quệt nước mắt rồi mới ra về, linh tính cho cô thấy một điều gì bất tường nhưng không thể đoán được là việc gì, cô chỉ thấy rất tội nghiệp cho người mẹ bị bỏ quên này.
Mưòi giờ đêm, thì bà Sang không còn hy vọng, không còn chờ đợi gì nữa, thế là hết, đêm nay cũng sẽ giống như mọi đêm khác, bà âm thầm khóc một mình trong canh khuya. Bà lặng lẽ ngồi dậy, cởi cái áo đẹp mà bà đã mặc vô từ hồi sáng sớm để sửa soạn về nhà, thay bộ đồ ngủ nhàu nhè, và lên giường nằm lại.
Đêm nay bà không ngủ được, nằm một lúc thấy mỏi, bà trở mình, cảm thấy chóng mặt và hơi buồn nôn, bà ôm ngực ho khan lên vài tiếng, thấy có vẻ dễ thở hơn một chút. Trời về đêm trở lạnh làm bà rét run, bà kéo chăn đắp đến ngang ngực, nhưng chỉ một lát lại tung ra ngay, hơi nóng hừng hực từ trong người bà bốc ra làm chân tay, mình mẩy bà ưót đẫm mồ hôi. Cơn sốt đêm nay dường như gia tăng nhiệt độ, chứ không chỉ âm ỷ như mọi đêm, sốt gì mà dai dẳng cả mấy tháng không dứt. Nghĩ mà buồn cho tuổi già ,suy xụp nhanh quá, mới ngày nào bà còn mạnh khoẻ, một mình bà quán xuyến hết mọi việc nhà, làm quần quật từ sáng đến tối mà không thấy mệt, thế mà chỉ mấy năm sau khi ông mất đi, bà đã biến thành một người khác hẳn, một người mà sự sống phải phụ thuộc vào kẻ khác, một người là gánh nặng của mọi người. Bị con cái bỏ rơi, bây giờ bà nằm đây một mình, bệnh hoạn, cô đơn… Nước mắt rơi ướt gối từ lúc nào, bà muốn trở mặt gối, nhưng sao thấy khó khăn quá. Tay chân bà rã rời, giở lên không muốn nổi, mình mẩy thì đau như dần. Giá còn ông lúc này thì đỡ quá, bà sẽ nhờ ông xoa bóp cho đỡ nhức. Thấy bà không ăn được, thể nào ông cũng nấu cho bà một tô cháo nóng, và những lúc như bây giờ, bà sẽ nhờ ông nâng dậy, kê thêm gối dưới lưng, nằm cao lên cho dễ thở. Chưa bao giờ bà thấm thía nỗi cô đơn, chưa bao giờ bà thấy cần ông như lúc này

4
Một cơn gió lạnh bỗng lùa vào phòng, làm bà rùng mình, mệt nhọc thả rơi người xuống giường, bà nhắm mắt lại, thếu thào...
... Cái cửa sổ vẫn mở, gió lùa vào lạnh quá,gió làm tôi muốn ngạt thở, hình như có tiếng chân ai đang đi bên ngoài, phải ông đó không? làm ơn ra khép dùm tôi cái cửa! hồi chiều cô y tá quên đi kiểm lại, lạnh quá… Sao ông không lên tiếng? ờ mà tôi quên là ông đã chết rồi còn đâu nữa, có lẽ chỉ là tiếng lá rơi mà tôi lại tưởng là tiếng chân người cũ, không hiểu sao tôi vẫn có cảm tưởng ông đang quanh quẩn ở đâu đây, rất gần… Ông có nghe tôi nói không? ông bỏ đi đâu mà bất thình lình làm tôi đau khổ quá sức, người đâu vô tình, có muốn bỏ đi cũng phải từ từ cho người ta chuẩn bị tinh thần chứ? Căn nhà mình ở tôi đã bán rồi ông ạ, bán ngay sau khi ông qua đời được có vài tháng.
Hôm bán nhà, tôi không khỏi ngậm ngùi rơi lệ, căn nhà vợ chồng mình ở đã mấy chục năm giờ đã có người dọn vào. Nhìn họ khuân đi những đồ đạc kỷ niệm của mình, tôi không cầm được nước mắt, kia là bộ sa lông cả nhà vẫn quây quần ngồi xem TV mỗi tối sau bữa cơm chiều, nọ là bộ bàn ăn có sáu cái ghế và cũng là bàn học của các con, chúng mình đã mua được với giá rẻ chỉ vì có một vết xước nhỏ ở mép bàn, vết xước rất nhỏ, có để ý mới thấy thế mà cũng được trừ mấy trăm bạc. Sau này hai anh em thằng Trung, thằng Hiếu vô ý làm trầy thêm vài vết nữa khiến ông phải mua một tấm kiếng đặt lên để khỏi bị trầy thêm, gia đình mình đâu có dư dả nên cái gì cũng phải tiện tặn. Hai thằng con mình đến là nghịch ngợm, đá banh trúng cửa sổ làm bể kiếng phải thay kiếng mới. Con Thư thì trái lại, gọn gàng ngăn nắp từ trong ra ngoài, nó giữ gìn phòng nó sạch sẽ, đẹp đẽ lắm, con gái có khác. Kìa họ đang tháo gỡ những bức tranh trên tường, những bức tranh tự tay ông chọn lựa, nâng niu cưng quí, đo đạc từng ly từng tí rồi mới treo lên không dám làm mạnh tay, bây giờ bị họ giật xuống, gom lại thành đống. Tôi để cho họ đem đi hết, không biết họ có dùng không hay vứt thùng rác, nghĩ mà đau lòng, nhưng tôi còn có nhà cửa đâu mà đem về?
Còn nữa, còn cây đàn dương cầm, lúc họ khiêng đi, tôi đau đớn như bị cắt từng khúc ruột, cây đàn này ông dã mua tặng tôi nhân dịp kỷ niệm cưới ba mươi năm của chúng mình, nó đã cũ lắm rồi, nhưng âm thanh còn tốt và không có phím nào bị hư cả, tôi chơi dở nhưng ông vẫn thích nghe và vẫn khuyến khích cho tôi khỏi nản. Tôi hỏi:
- Tiếng đàn của tôi thì có gì đặc biệt để ông phải mất thì giờ lắng nghe?
Ông nhìn tôi với ánh mắt ngập tràn thương yêu:
- Đặc biệt lắm chứ, vì là tiếng đàn của vợ mình. Tôi yêu thích tất cả những gì thuộc về bà, xấu cũng như đẹp, hay cũng như dở...
Ôi câu nói mới chí tình làm sao làm tôi nhớ suốt một đời.. Bây giờ thì chẳng còn gì nữa ông ạ và tôi thề sẽ chẳng bao giờ đụng đến bất cứ một cây đàn nào khác. Tôi cố năn nỉ các con xin giữ lại một kỷ niệm của bố mẹ, nhưng chẳng đứa nào bằng lòng, nhà cửa của chúng nó sang trọng, toàn những đồ đạc quí giá đắt tiền, đâu có thể bày một cây đàn piano cũ rích trông chẳng xứng tí nào, làm xấu cả căn nhà đi, chúng sợ bạn bè của chúng chê cười. Mọi đồ đạc cũ đã được đem đi hết chỉ còn cài ghế đá sau vườn là vẫn để y chỗ cũ, cái ghế đá kê dưới bóng mát của cây ngọc lan, ông vẫn ngồi đọc báo mỗi buổi sáng, ghế bây giờ trống trơn không có ai ngồi cả, tôi đau quặn trong lòng. Ôi! ghế đá còn đây mà người thì đã khuất rồi. Thấy tôi đứng ngẩn ngơ, người chủ mới thông cảm bảo tôi cứ nhìn ngắm cho thoả thích, ở lại bao lâu cũng được, nhưng tôi từ chối và ra về ngay sau đó, ở lại làm chi, càng nhìn càng đau lòng. Ông đi trước là ông sướng hơn tôi bởi vì ông đâu có phải chịu cảnh bơ vơ như tôi bây giờ? Chả trách các con ông ạ, đời sống ở bên này quá vất vả, chúng nó lo cho gia dình của chúng nó còn khó khăn, đâu có thì giờ lo cho tôi. Tôi vào viện dưỡng lão là phải rồi, nhưng tôi nhớ chúng nó lắm, nhất là các cháu, thằng cu Sơn càng lớn càng giống bố nó như đúc, giống bố nó tức là giống ông đấy, thuở nhỏ ai cũng bảo hai cha con ông giống nhau như hai giọt nước. Năm nay Sơn mười bốn tuổi, đang học trung học, chóng thật mới đây mà đã bẩy, tám năm… Nhớ hồi nó học lớp mẫu giáo, ông vẫn đưa đón nó tới trường, thế mà chả bao lâu nữa nó sẽ vô đại học, thời gian đi nhanh thật đáng sợ.
Từ ngày tôi vào viện dưỡng lão, Hiếu và Thư ở xa nên lâu lâu mới về thăm mẹ một lần, nhưng chúng nó thỉnh thoảng vẫn gọi điện thoại nói chuyện, còn Trung ở gần nên tới lui thường xuyên hơn, mỗi tuần nó tới đón tôi về nhà một lần. Nhưng chỉ được có năm đầu, sau này chả hiểu chúng nó bận chuyện gì mà năm thì mười họa mới tới, lần cuối tôi được về nhà là Tết năm ngoái, từ đó tới nay bặt tăm. Tôi nhớ các cháu lắm, nhưng biết làm thế nào bây giờ? tôi đâu có thể tự mình về nhà được, mà chắc gì vợ chồng thằng Trung bằng lòng cho tôi về? Tôi nhớ nhà quá, đêm nay là đêm 30, nhà nào cũng xum họp gia đình, tôi thèm được về nhà dù chỉ một chốc cũng được, tôi muốn tự tay thắp vài nén nhang trên bàn thờ, mời ông bà, cha mẹ và mời ông về xum họp với con cháu trong ba ngày đầu xuân. Nhưng không biết bàn thờ có còn đó không hay chúng nó dẹp đi rồi, vì sợ nhang nến làm cháy thảm? Khổ quá, giá tôi còn một chút sức khỏe thì tôi sẽ gọi taxi đi một mình, đâu cần phải đợi chúng nó đến rước, đợi đến bao giờ? Ông không biết chứ cứ nằm một chỗ mà đợi thì sẽ sốt ruột lắm vì thấy thời gian đi chậm vô cùng.
Mấy giờ rồi nhỉ? tôi chợt nghe có tiếng pháo nổ ở đâu đây, lúc xa lúc gần, pháo nổ từng loạt, hết loạt nọ đến loạt kia liên tiếp không ngừng, chắc là đã đến giao thừa rồi. Giao thừa năm nào nhà mình cũng xum họp đầy đủ, vui lắm. Tôi nhớ giao thừa năm nào, hồi chúng mình còn trẻ, dắt các con đi lễ chùa, hái lộc, đông người quá, loanh quanh thế nào mà lạc mất thằng Hiếu, phải đi tìm mãi mới thấy.. Tôi phải một phen hết hồn, nhưng cu cậu trái lại chẳng có vẻ sợ hãi tí nào, đứng mê mải xem thiên hạ dâng hương, coi bộ lạ lắm, cái thằng thật là gan lỳ hết chỗ nói, giá ở bên nhà thì thể nào cu cậu cũng dám đốt pháo đùng rồi lại bị phỏng mất thôi. Tội nghiệp những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở quê người, chưa bao giờ được nghe tiếng pháo giao thừa, chưa bao giờ cảm nhận được không khí thiêng liêng cuả ngày tết khi mà cả nước tưng bừng sửa soạn đón xuân. Ở đây ngày Tết êm rơ như ngày thường, Tết mà vẫn phải đi học, đi làm, Tết mà không có tiếng pháo, không có hoa mai hoa đào, không cả diện quần áo mới thì chẳng có vẻ gì là Tết... Ở đây, Tết chỉ riêng trong nhà người Việt Nam thôi, người bản xứ không bao giờ hoà mình vào những niềm vui chung của một đám dân thiểu số,Tết là Tết của mình chứ đâu phải là Tết của họ.
Mỗi lần Tết đến, tôi không khỏi nao nao nhớ nhà, tôi nhớ lắm những phong bao lì xì ngày còn bé, những lần đi chúc tết họ hàng, những đám múa lân, những bàn bầu cua cá cọp, tôi nhớ giao thừa năm nào chuông nhà thờ, chuông chùa cũng đổ dồn dập đón mừng năm mới, tôi nhớ những ngày đầu xuân đi lễ chùa, khói trầm nhang nghi ngút, tôi nhớ… Ô hay tiếng pháo sao lại ngưng? đã hết giao thừa đâu? giao thừa người ta đốt pháo rộn ràng cả giờ cũng chưa chấm dứt, hình như pháo nổ càng dài bao nhiêu thì vận mệnh năm mới càng hên bấy nhiêu, nhiều nhà còn thi đua xem pháo nhà ai nổ lâu nhất, ròn rã nhất... À thôi phải rồi, tôi quên là ở bên Mỹ họ cấm đốt pháo, nhưng tôi đang ở đâu thế này? tôi cứ tưởng đang ở quê nhà, có lẽ tôi lẩm cẩm mất rồi, thì ra nãy giờ tôi đang nằm mơ… Bây giờ thì tỉnh rồi, tôi biết tôi đang ở trong viện dưỡng lão, hôm nay viện vắng hoe, chiều cuối năm, mọi người đều được con cháu đón về nhà cả, ở lại toàn là những người đau yếu, bệnh nặng không đi lại được, hoặc những người không có thân nhân. Tôi cũng có thân nhân, con cháu tôi đông lắm, nhưng chẳng đứa nào nhớ tới là còn có người mẹ già ở trong viện dưỡng lão đang mỏi mòn đợi mong. Đêm đã khuya lắm, bầu trời đen kịt không trăng sao, chỉ có bóng tối, đêm 30 bóng tối càng dầy đặc, âm u dến rợn người, tôi sợ bóng tối lắm, bóng tối luôn luôn làm cho tôi có cảm giác bất an…
Có tiếng nói lao xao ở ngoài cửa, bà nhìn ra, lạ nhỉ, đêm hôm khuya khoắt như thế này ai đến viện dưỡng lão làm gì? Hay là Trung tới đón? có thế chứ, lẽ nào các con lại bỏ rơi mẹ, bà mừng chảy nước mắt, cái thằng thiệt hết nói, đến vào giờ này à? Vô đi con! không sao cả, có đến là tốt rồi. Nhưng không phải, có tiếng của trẻ con, hình như nó đang gọi mẹ, giọng non nớt chưa từng nghe qua bao giờ, nhưng không có vẻ xa lạ tí nào. Tự dưng bà liên tuởng đến Thảo, đứa con thứ ba của ông bà sau Hiếu, đứa con xấu số vừa sanh ra đã chết ngay từ lúc mới lọt lòng, nhưng cũng được mang một cái tên… Có phải Thảo đó không? lại đây cho mẹ xem mặt tí nào! con đã lớn bằng từng này rồi à? Ồ, nhưng có lẽ không phải đâu,Thảo nếu còn sống thì giờ này cũng đã ba mươi tuổi, chứ đâu có bé xíu như thế này? Nhưng nó là con nhà ai mà ông lại dắt nó thế? nó đang nhoẻn miệng cười, dễ thương quá. Xem kìa! cặp mắt và cái miệng cười của nó giống hệt con Thư, giống hệt tôi... Chỉ có con thì mới giống mẹ, nó đúng là con tôi rồi. Lại đây với mẹ đi con! lại đây cho mẹ ôm con một tí, tội nghiệp con bé bỏng từ lúc sanh ra chẳng được ở với mẹ ngày nào. Sao con đứng im thế kia? cả ông nữa? Nãy giờ chỉ có một mình tôi nói, tôi chưa từng nói nhiều như thế bao giờ cả, nhưng hãy để cho tôi nói chỉ một lần cuối cùng này rồi thôi, tôi chất chứa ở trong lòng lâu rồi không biết thố lộ cùng ai… Dạo này tôi đau nhiều lắm ông ạ, chiều nào cũng lên cơn sốt, xương sống, xương vai buốt như có kim châm, thỉnh thoảng lại bị chảy máu mũi, máu răng. Tôi chẳng thèm khai bệnh với ai, nhưng thấy tôi xuống cân nhiều quá, cô y tá báo cáo nên tuần vừa rồi có bác sĩ tới khám bệnh cho tôi, có cả thử máu nữa, mới biết kết quả mấy hôm nay, người ta bảo tôi bị ung thư máu cấp tính phải vào bệnh viện để chữa trị, họ sẽ báo cho người nhà biết để tùy người nhà quyết định. Chẳng biết họ đã báo cho các con chưa mà không thấy chúng nó tới, có thể chúng nó chưa biết, chứ biết rồi chắc chúng chẳng nỡ làm lơ đâu. Tôi đâu còn sống được bao lâu nữa, được thoát kiếp là mừng vì khỏi phải dây dưa kéo dài những đau khổ. Tôi không sợ chết, nhưng tôi sợ phải nằm bệnh viện lắm, đàng nào cũng chết thì chết ở nhà sướng hơn. Tôi chỉ mong được về nhà ba ngày Tết, nhìn đủ mặt các con cháu rồi muốn ra sao thì ra, có chết cũng mãn nguyện, nhưng sợ chúng nó không chịu, đem người bệnh về nhà xui, rủi chết bất tử lại càng xui nữa. Có lẽ vì vậy mà chúng chần chờ không chịu đón tôi chăng? Thật không may, phải chi biết trễ vài ngày nữa, có thể tôi đã được ăn Tết ở nhà. Ở đây buồn lắm chả có ai trò chuyện, bà Tám cũng được con đón về từ hồi chiều rồi, nơi đây chỉ còn mình tôi với bóng tối và cô đơn…
Đêm đã khuya lắm, tôi nghe đồng hồ vừa gõ ba tiếng, chắc là đã 3 giờ khuya, sao tôi cứ trăn trở hoài không ngủ được, đầu tôi nhức lắm, mắt tôi mờ đi rồi, tôi mệt quá chỉ muốn ngủ được một giấc dài để mơ một giấc mơ thật đẹp… Không, ông đừng đi! đừng bỏ tôi lúc này, bây giờ là lúc tôi cần ông nhất, người tôi làm sao rồi ấy, khó chịu lắm, có cái gì chặn nơi ngực làm tôi không thở được…

5
Bà dướn người, há miệng thật to cố hít lấy không khí vào phổi, nhưng một cơn ho dữ dội làm bà gập đôi người lại. Dứt cơn ho, bà mệt lả nằm cong người như con tôm, đầu tụt xuống khỏi gối, hơi thở yếu lắm chỉ còn thoi thóp, nhưng bà còn đủ tỉnh táo để nhận ra có một thứ nước gì nhờn nhờn, tanh tanh bắt đầu chảy ra từ miệng, từ mũi và có lẽ cả từ tai bà nữa, chất lỏng tanh tanh mằn mặn ấy đang rỉ rả chảy ra từ từ, nhưng liên tục… Máu? phải, đúng là máu rồi, máu bò thành từng giòng trên mặt bà rồi rơi xuống tấm nệm giường trắng tinh.
- Trời ơi!
Bà hốt hoảng kêu lên nhưng rồi bình tĩnh lại ngay, có gì mà phải sợ? Được, máu cứ ra nữa đi! ra hết đi, càng ra thoát người bà càng nhẹ. Bây giờ thì bà nhẹ tênh, lâng lâng như bay bổng, bà quờ quạng tìm ông, nhưng không thấy. Bà mở mắt ra cố nhìn, mắt bà mờ rồi, nhưng bà vẫn thấy được ông đang đứng mãi tận đàng xa, nơi cuối đường, trong vùng có ánh sáng như dát vàng đẹp quá… Bà mừng rỡ, cất tiếng gọi. Ông dơ tay lên vẫy, bà vội vã bước tới, bước tới mãi, nhưng bóng ông lúc ẩn lúc hiện, lúc gần lúc xa, đi hoài không tới. Ô hay! cái ông này lạ chưa, sao ông không bước tới để tôi cứ phải gắng sức như thế? ông không biết rằng tôi đang mệt à? Ông mỉm cười dang tay ra đón, bà lại xích tới, xích tới nữa, khoảng cách cứ ngắn dần, ngắn dần… Ừ, có thế chứ, đừng chơi trò cút bắt với tôi, ít ra ông cũng đứng yên, chứ tôi tiến mà ông lùi thì bao giờ mới tới? Còn vài bước nữa thôi, bà đưa tay ra với, chỉ còn hai bước, rồi một bước… Tay bà sắp chạm tay ông, bây giờ thì bà mới nhận thấy giữa bà và chỗ ông đứng có một khoảng cách - mà là khoảng không mờ mịt - không xa lắm, nhưng sao với mãi không tới?
Bỗng nhiên như có một sức mạnh vô hình từ phía sau đẩy tới, xô bà té nhào vào khoảng không phía trước mặt. Bà kêu lên sợ hãi, khi thấy thân hình mình lơ lửng trong không gian, rồi cứ thế vùn vụt rơi xuống, chạm mặt đất gây nên một tiêng động lớn, không đau đớn gì cả, chỉ có tiếng rơi vỡ loảng xoảng, rồi thì im lặng, một cái im lặng tuyệt đối.
Khi bà mở mắt ra, thì thấy chồng và đứa con nhỏ đã đứng bên cạnh bà từ lúc nào, mỗi người đang nắm một tay bà. Họ cười với bà và nói vài câu trấn an. Bà cũng cười lại với họ, và từ từ ngồi dậy, cảm thấy thân thể nhẹ nhõm, bà thử đứng thẳng người lên, và bà đứng lên dễ dàng. Mỉm cười sung sướng, bà ngoái đầu nhìn xem chung quanh, đây vẫn là viện dưỡng lão, chứ có phải chỗ nào xa lạ đâu? Vẫn khung cảnh quen thuộc cũ, nhưng không hiểu có chuyện gì, mà mọi người đang hối hả đi tới đi lui, gọi nhau í ới. Vài người đang bước đi vội vã trên hành lang. Thế rồi đèn bật sáng choang, tiếng chuông báo động, tiếng chân chạy rầm rập… Có người nào đó la lớn:
- Gọi xe cứu thương, nhanh lên!
- Trời ơi sao lại ra nông nỗi này?
Bà thấy thân thể bà nằm dài trên mặt đất, cạnh cây đèn bàn đổ nghiêng, thuốc men, chai lọ, mấy quyển sách, và cặp kiếng lão của bà văng tung tóe trên sàn nhà. Một người nâng bà dậy, lay gọi rối rít:
- Bà Sang, bà Sang, tỉnh dậy đi! gần sáng rồi đó, con bà sắp tới đón bà. Về nhà ăn Tết với các con các cháu. Tỉnh dậy, tỉnh dậy đi!
Bà mỉm cười:
- Tôi có mê đâu? vẫn tỉnh đấy chứ. Bây giờ tôi đã khỏi hết bệnh tật rồi các ông các bà ạ, người tôi khỏe khoắn dễ chịu lắm, nhưng tôi không về nhà đâu, có ai mong tôi đâu mà về? Hiện giờ đang có ông nhà tôi và con Thảo tới đón tôi, họ mới là những người còn nhớ đến tôi, thương yêu tôi lắm, nhưng là những người đã chết…
Bà cố gắng nói thật lớn, nhưng hình như không ai nghe thấy bà nói gì cả, họ đang bận rộn tiu tít. Thế rồi xe cứu thương rú còi inh ỏi, xe cảnh sát chớp đèn sáng lóa, họ đến khiêng xác bà đi. Trời đã bắt đầu rạng đông, vầng ánh dương vừa ló dạng, chiếu những tia sáng rực rỡ làm hồng một góc chân trời, một ngày mới bắt đầu, một ngày đầu xuân rất đẹp, rất êm đềm. Những người ở trong viện dưỡng lão đã thức dậy cả, vài người tò mò chạy tới coi, và xì xào bàn tán:
- Bà ấy đi nhanh quá, mới chiều hôm qua còn thấy ra ngồi cửa sổ.

* * *
Sáng sớm mùng một Tết, chuông điện thoại reo tới tấp, trước hết là viện dưỡng lão gọi báo tin cho Trung, sau đó Trung gọi báo tin cho các em. Lại có một cuộc bàn tính qua điện thoại, Hiếu nói:
- Anh đưa mẹ vào nhà quàng Rose Hill, tụi em sẽ mua vé máy bay về ngay ngày mai.
- Chôn cùng chỗ với bố hả? Thư hỏi.
- Dĩ nhiên! Trung nói, đám tang phải tổ chức cho thật lớn, thật sang trọng. Các cô, chú đồng ý cả chứ?
- Còn phải hỏi! Hiếu và Thư cùng đáp, đám ma mẹ của một ông bác sĩ, một ông kỹ sư, mẹ vợ của một nhà đại thương gia phải làm sao cho đẹp mắt để thiên hạ trông vào mà thán phục. Tốn kém bao nhiêu cũng được, anh cứ lo cho chu đáo, tổng kết hết bao nhiêu, chúng mình chia ba, đồng ý?
- Đồng ý!
Như thế đó, đám ma của bà Sang lớn chưa từng thấy, làm lé mắt thiên hạ. Xe hòm phủ khăn đen, do bốn con ngựa kéo, một cái kiệu sơn son thếp vàng, trong có cái hình phóng lớn của bà Sang đang cười thật tươi, hình được lộng trong một cái khung mạ vàng. Kiệu được che bằng hai cái lọng, do hai người cầm, rước đi trước xe tang, theo sau là những bức trướng, và cờ phướn bay rợp trời. Con cháu mặc xô gai đi sau xe tang, cất tiếng khóc ai oán. Một dàn nhạc với tám người nhạc công, mặc đồng phục màu đen vừa đi vừa trỗi những bản thật buồn. Người đi đưa đám có cả mấy trăm, những người xem đứng chật hai bên đường, đông vô số kể, ai cũng khen đám ma lớn chưa từng thấy. Bà Sang chắc cũng mát dạ, và nở mặt nở mày với thiên hạ, lúc sống bị các con bỏ rơi, lúc chết được tiễn đưa bằng một đám ma linh đình, được thiên hạ suýt soa khen ngợi là có phước.
Trong viện dưỡng lão, mọi sinh hoạt đã trở lại bình thường. Mấy ngày Tết qua đi, mọi người lục tục trở về gần đủ số, chỉ thiếu có một mình bà Sang. Nhìn cái giường trống của bà chưa có ai thay thế, vài người bạn cũa bà bùi ngùi thương cảm một lúc, rồi thôi. Ở đây, cái chết chỉ là một điều tất nhiên, rồi ai cũng sẽ tới lượt, họ nhanh chóng quên đi cái biến cố nho nhỏ đó.
Bà Tám xin đổi qua phòng khác, với lý do là không muốn trông thấy khung cảnh gợi lại những kỷ niệm của người bạn đã chung phòng với bà trong bẩy năm qua, nhưng kỳ thực chính là vì bà ta sợ ma.
Ông nhạc sĩ có lẽ không biết rằng ông vừa mất một người thính giả trung thành, vẫn ái mộ ông từ thuở còn trẻ. Mấy lúc sau này, ông không còn dạo đàn mỗi buổi sáng nữa. Ông yếu đi nhiều rồi, hai tay bắt đầu run rẩy, đàn không hay nên ông không đàn nữa. Hẳn ông buồn lắm, phải giã từ những bản đàn, những nốt nhạc suốt một đời gắn bó. Mỗi buổi chiều, ông thường chống gậy thơ thẩn ra vườn hoa, ngồi trên băng ghế trong sân viện, ngắm mặt trời xuống thấp sau ngọn cây, đếm thời gian qua thêm được một ngày. Người nghệ sĩ về chiều ngồi im, buồn bã nhớ ánh đèn sân khấu, nhớ những tràng pháo tay hoan hô, nhớ thuở vàng son, vang danh một thời… Hôm đám ma bà Sang, ông không đi dự, nhưng khi nhà quàng đến đem bà đi, ông ra ngồi đàn, run tay dạo một bản nhạc buồn, như để tiễn đưa người bạn già về bên kia thế giới, đó là bản nhạc cuối cùng của ông.

Phương Lan
(trích trong tập truyện Bốn mươi năm cuộc tình)
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 6 guests