Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Thèm

Tiểu Tử

Tụi bây biết không? Bây giờ tao đi làm bằng xe đạp. Tụi bây đừng cười. Tao không giỡn đâu. Hồi xưa, trong bọn mấy đứa tụi mình, tao là thằng tếu nhứt. Tao hay kể chuyện tiếu lâm, hay bịa chuyện này chuyện nọ để chọc cười, để phá phách cho vui với nhau. Nên tụi bây thường nói: “Coi chừng! Nó nói cái gì mình phải xin keo coi có đúng không, rồi hãy tin”. Hồi đó, khác. Bây giờ, khác. Tụi bây đi hết rồi, chỉ còn mình tao kẹt lại. Nói thiệt hay nói dóc đều không còn ý nghĩa gì nữa, cũng không còn giá trị gì nữa đối với tao. Bởi vì không còn ai để giỡn, không còn lòng dạ đâu để giỡn, và cái cười của tao đã vượt biên đâu mất từ lâu ...


Điều ngộ nghĩnh là, bây giờ, bất cứ chuyện gì tao kể ra chắc chắn tụi bây đều không tin ráo! Bởi vì tụi bây đã di tản trước ngày 30 tháng tư 1975, không thấy không biết những gì đã xảy ra ở trong nước, làm sao mà tin? Vả lại “những gì đã xảy ra” đã không xảy ra theo quy luật thông thường. Tất cả đều bị xáo trộn, đảo lộn một cách nghịch lý đến nỗi tao là người sống trong đó mà lắm khi tao phải tự hỏi: “Làm sao có thể như vậy được?”. Vậy mà nó đã “như vậy được” tụi bây à! Khó tin nhưng có thật! Cho nên, những gì tao viết ở đây cho tụi bây hoàn toàn là những chuyện có thật mà ... khó tin đó.

Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày, tao cứ phải nghe ra rả nói láo nói dóc, cứ phải luôn luôn nói láo nói dóc ... Nào là “Đã vượt chỉ tiêu 150%” (Chỉ tiêu là con số đã được ấn định trước cho mức sản xuất, không biết là bao nhiêu, nhưng thấy tháng nào cũng vượt, năm nào cũng vượt, ngành nào cũng vượt - tao phải ... dịch những chữ mới rõ ràng ra như vậy cho tụi bây hiểu, bởi vì bây giờ mình không còn nói giống như hồi trước nữa). Nào là “Đã hồ hởi phấn khởi đi làm nghĩa vụ” nghĩa là đi làm cái nghĩa vụ gì đó một cách ... khoái trá sôi động bởi vì biết chắc rằng không đi cũng không được. Nào là “Hoàn toàn nhất trí” (Bây giờ không nói “nhứt” nữa, mà nói “nhất”. Nghe... cách mạng hơn), nghĩa là “đồng ý hoàn toàn”, cho nó rồi, kẻo không thì ... kẹt lắm. Mọi người đều “nhất trí” hết mà mình không “nhất trí” thì nó ... lòi ra coi không giống ai. Thành ra “nhất trí” cũng có nghĩa là “phải làm như mọi người”. Tụi bây hiểu chưa? Nào là “Làm việc rất là năng nổ”. Tao nghĩ chắc khỏi cần dịch. Tụi bây cứ nghe “nó ... lốp bốp” là đoán ra cái nghĩa của nó rồi. Đại khái là làm việc giống như có cờ phất trống khua, có loa trên loa dưới ồn ào, còn lè phè suốt buổi hút thuốc uống trà là chuyện khác ... vân vân và vân vân ... Kể không hết!

Sau bao năm dài sống trong môi trường như kể trên, “cái thèm” rất lớn của tao là được sống thật, nói thật. Cho nên, viết cho tụi bây giống như tao được ... giải phóng. V ậy những gì tao kể ra đây, tụi bây khỏi phải xin keo!

Bây giờ, tao đi làm bằng xe đạp. Vẫn làm ở sở cũ. (Còn được làm việc ở sở cũ là may đó nghen. Nhiều người bị đổi đi nơi khác xa hơn và thường thì ở một ngành nghề không dính dấp gì với phần chuyên môn của mình hết. Cách mạng mà!). Cái xe hơi con cóc , tao đã cho nó lên nằm trên bốn gộc cây để bán lần bán hồi bốn bánh xe, cái bình điện, cái đề-ma-rơ ... Hầu như tháng nào tao cũng phải bán một món gì trong nhà, bởi vì lương của tao cộng với những gì vợ tao và hai con gái lớn kiếm được hằng tháng ... không đủ sống. Tình trạng đó bắt đầu từ sau hai “trận” Nhà Nước đổi tiền.

Đạp xe riết rồi cũng quen. Khoảng cách trên mười cây số từ nhà đến sở, tao coi như “pha”. Chỉ bực mình là xe đạp của tao hay sút sên khi nó “nhảy” ổ gà. Mà đường sá bây giờ, ổ gà ở đâu nó ... lòi ra nhiều quá. (Người ta nói Mỹ rút đi, để lại toàn là đồ giả không - tao nghe sao chép vậy!). Cho nên, ở nhiều đoạn đường, tao lái xe tránh ổ gà giống như người say rượu! Vậy mà có hôm vẫn “nhảy” ổ gà cho nên hai tay tao thường lấm lem dầu, đất, mà quần áo thì ướt đẫm mồ hôi.

Bây giờ, tao làm việc “thông tầm”, nghĩa là làm suốt tới chiều rồi về sớm không có về nhà ăn cơm nghỉ trưa như hồi trước. Vì vậy, mỗi sáng tao mang theo một lon ghi-gô cơm với vài miếng cá mặn để ăn tại bàn viết buổi trưa. Chiều về sớm, tao có bổn phận nấu cơm làm đồ ăn, bởi vì giờ đó vợ con tao còn làm việc ở tổ may thêu cách nhà cũng khá xa.

Mỗi sáng đi làm, lúc nào tao cũng đem theo cái giỏ đi chợ treo tòn ten ở ghi-đông, giống như đi chợ chớ không giống đi làm! Bởi vì trong sở thường hay ... bất thần bán cho nhân viên (gọi là “phân phối” chớ không gọi là “bán”, nghe có vẻ ... chia xẻ hơn là trao đổi) cá, rau cải ... v.v... Tuy không nhiều và không được lựa chọn vì phải ... bắt thăm trúng lô nào lấy lô đó, nhưng rẻ hơn ngoài chợ thành ra cũng đỡ. Cho nên, đi làm việc mà ngày nào cũng nhóng nhóng hỏi thăm “coi bữa nay có phân phối gì không?” và chiều về đến nhà, thằng con tao — thằng út đó, tụi bây nhớ không? bây giờ nó lớn đại rồi - chạy ra mở cổng lúc nào cũng hỏi: “Bữa nay có mua được gì không ba?”. Và hôm nào thấy trong giỏ có đồ gì để ăn là mắt nó sáng rỡ. Tội nghiệp, sống trong sự thiếu thốn triền miên, có đứa nhỏ nào, có người lớn nào mà không nghĩ đến miếng ăn?

Bây giờ, tao hút thuốc lá vấn tay. Tao tự vấn lấy. Không phải tao muốn lập dị mà vì tao không đủ sức mua loại thuốc điếu kỹ nghệ thông thường. Mới đầu, tao vấn thuốc rê Gò Vấp. Nó nặng muốn ... tét phổi! Về sau, tao bắt chước thiên hạ mua thuốc lá Lạng Sơn đã xắt sẵn - nghe nói là giống thuốc Virginia, mấy ông ngoài Bắc bảo thế! - đem trộn với thuốc Gò Vấp, hút thấy được. Vậy là mỗi khi muốn hút, tao cứ tà tà xé một miếng giấy quyến, tà tà rứt một miếng thuốc kéo cho dài dài ra khi để lên lòng giấy, rồi đặt hết tâm tư vào mấy ngón tay (của cả hai bàn tay đang chụm đầu lại nâng nhẹ giấy và thuốc!) để ém, lận, cuốn, xe ... cho điếu thuốc được tròn đều trước khi đưa lên lưỡi liếm. Xem thật “ung dung nhàn hạ”. Giống như một nghi thức. Và tao có quyền tà tà vấn thuốc như vậy bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào: trong khi làm việc, trong các buổi hội họp học tập, và cả ngay trước mặt ông xếp của tao nữa (Bây giờ gọi là “thủ trưởng”, nôm na là “cái đầu đứng đầu”. Còn cái đầu có cái óc hay không lại là chuyện khác). Cho nên, hút thuốc vấn - đối với tao - giống như là một cách thoát tục, cái “tục” quá ... tục mà tao đang sống bây giờ. Tuy nhiên, sao tao vẫn nghe thèm điếu thuốc ba số năm là loại thuốc mà mấy chục năm tao đã hút! Làm như mùi vị của nó còn nằm ở đâu trong máu trong xương. Nhiều đêm trở giấc, tao nghe thèm ray rứt, thèm chảy nước mắt!

Chiều hôm qua, trên đường về nhà, đạp xe tới chợ Tân Định thì trời bỗng đổ mưa. Tao tấp vô đụt mưa dưới mái hiên tiệm nước nằm ở góc đường dọc hông chợ (tao quên tên) và đường Hai Bà Trưng. Lúc đó, cỡ gần năm giờ (đồng hồ tay, tao đã bán từ lâu, nên từ lâu, tao chỉ ... đoán giờ thôi!). Trong tiệm thấy lai rai có người ăn uống.

Tao đã đứng sát vào vách vậy mà gió cũng tạt mưa vào ướt hết phía dưới chân. Một lát, tao nghe lạnh chân. Rồi tao nghe đói. Cái đói đến một cách đột ngột, giống như nó chui từ dưới chân chui lên. Hồi nãy đạp xe trên đường, tao có thấy đói đâu, mặc dù buổi trưa tao chỉ ăn có một lon ghi-gô cơm với ít mắm ruốc - dĩ nhiên là tao có uống thật nhiều trà, thứ này, loại thường thôi, trong sở (Bây giờ gọi là “cơ quan”) có chị nhân viên tối ngày cứ châm đầy bình cho mình uống “líp” - Vậy mà bây giờ tao lại thấy đói. Có lẽ tại vì lỗ mũi tao nghe mùi hủ tiếu, mùi mì. Ờ ... tụi bây không biết chớ từ lâu rồi - tao không nhớ là bao nhiêu lâu, nhưng chắc là lâu lắm - tao chưa được ăn mì. Bây giờ đứng đây phía đường hông chợ Tân Định, phía trên gió, vậy mà vẫn “đánh hơi” rõ mồn một mùi nước lèo của xe mì nằm bên đường Hai Bà Trưng, phía dưới gió, rõ như hơi của nước lèo đang bốc lên ngay trước mũi! Tao nuốt nước miếng.

Thèm quá! Tao thèm ăn ngay một tô mì! Thọc tay vào túi quần, tao đụng hai tờ giấy bạc. Móc ra xem thì ra là hai đồng. Tao chỉ có ngần đó thôi! Nhưng hai đồng, đủ để ăn một tô mì rồi! Thì ăn ... đại một tô cho nó đã! Tao dợm bước vào tiệm nước bỗng nhớ lại vợ tao hồi sáng khi trao cho tao hai đồng đó, có dặn: “Chiều, anh ghé chợ Cây Quéo mua 6 cái hột vịt và nửa giỏ rau. Về, anh bắc nồi cơm bỏ vô luộc trước. Chừng mẹ con em về, em làm nước mắm rồi dầm cho nhà ăn.” Hình ảnh cả nhà tao 7 đứa quây quần bên “nửa giỏ rau và 6 cái hột vịt” và hình ảnh tao một mình ngồi ăn tô mì ... làm tao khựng lại. Tô mì mà tao muốn ăn, thèm ăn, là cả một bữa ăn của gia đình! Tao không thể đổi được. Thà là tao nhịn thèm. Thà là tao chịu đói để về ăn chung với vợ con. Ăn thứ gì cũng được, ít nhiều gì cũng được, dở ngon gì cũng được. Miễn là ăn chung với tụi nó. Để thấy rằng cuộc đời tao bây giờ chỉ còn lại có tụi nó là quí thôi! Tao nghe thương vợ thương con vô cùng. Và tao cũng nghe thương thân tao vô cùng...


Tao đứng yên nhìn ra mưa bỗng nghe hai má của mình ướt lạnh. Đưa tay lên vuốt mặt mà nghĩ rằng mình vuốt nước mưa trên má...

(Trên đây là lá thơ viết lỡ dở, của ai viết cho ai, tôi không biết. Thơ viết trên những tờ giấy tập học trò, chữ nhỏ li-ti, nhưng đẹp và rõ nét. Tình cờ, tôi nhìn thấy “nó” trong xấp giấy gói hàng của bà bán xôi đầu ngõ nên tôi xin...)

Tiểu Tử
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Nhã Ca Và Cổng Trường Vôi Tím

Liễu Trương

Một trong những hiện tượng của văn học miền Nam thời 54-75 là sự xuất hiện của một số nhà văn nữ gần như cùng một lúc: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương. Bối cảnh lịch sử đã đổi thay, xã hội không ngừng tiến hóa. Cho nên các nhà văn nữ có cái nhìn mới về gia đình, xã hội, về thân phận con người, nhất là thân phận người nữ. Họ có lối viết tự do, phóng khoáng; mỗi người mỗi vẻ đã làm cho nền văn học thêm phong phú.

Riêng Nhã Ca, từ lúc ra mắt lần đầu với độc giả đến cuối thời miền Nam đã không ngừng viết. Truyện “Đêm nghe tiếng đại bác” xuất bản năm 1966 đã mở đầu cho một loạt truyện xoay quanh hai chủ đề lớn: chiến tranh và tuổi học trò. Tính đến năm 1973, Nhã Ca có tới 28 tập truyện, điều này cho thấy tác giả có một mạch viết rất dồi dào.

Trong tác phẩm “Giải khăn sô cho Huế”, Nhã Ca đã khóc cho một thành phố Huế đổ nát, đầy tang tóc qua cơn lốc Mậu thân. Nhưng tác giả cũng có một hình ảnh khác về Huế: Huế cổ kính, Huế nên thơ của các cô nữ sinh vừa mới lớn. Trong tác phẩm “Cổng trường vôi tím”, thành phố Huế được dùng làm khung cảnh cho truyện của một nữ sinh tên Phù Dung. Đời sống của một nữ sinh trong một thành phố khép kín, phẳng lặng có gì để nói? Thế nhưng trường hợp của Phù Dung thì có biết bao nỗi niềm ngổn ngang để giãi bày.
Cô bé Phù Dung vừa mới lớn, học lớp Đệ tứ B3 trường Đồng Khánh. Cuộc đời của một học sinh là sống trong hai thế giới: gia đình và trường học. Đối với Phù Dung nhà trường là không gian của hạnh phúc, nơi đây Phù Dung đã trải qua những ngày vô tư, sung sướng: “Tôi nhìn đoàn nữ sinh tràn ra phía cửa, những tà áo trắng với những dáng nhỏ nhắn xinh xinh, tôi sung sướng thấy mình còn là một ở trong đàn.” Phù Dung biết rõ từng người bạn trong lớp, từ người trưởng lớp đứng đắn, nghiêm trang đến người bạn học dở nhất hay có chứng đau bụng. Phù Dung có hai người bạn thân: Cẩm Lệ và Đỗ Quyên. Bộ ba này sống với nhau rất mật thiết: chia sẻ với nhau những buồn vui, rồi giận hờn nhau, nhưng không ngớt yêu thương nhau. Ngoài giờ học ba người bạn cùng đi tắm sông, cùng ăn quà vặt, cùng đi xem bói, cùng lên chùa chuyện trò với một ni cô và có những trận cười nghịch ngợm. “Đời học sinh của chúng tôi là thế, chỉ tiếng cười cất lên là tan hết mọi lo lắng, ưu tư.” Cuộc sống không thể thiếu tình bạn: “Một buổi sáng Chủ nhật thật vô vị nếu tôi không gặp được bạn bè.” Phù Dung giỏi môn Quốc văn, được cô Tịnh Nhơn, giáo sư Quốc văn, thương đặc biệt, và Phù Dung cũng đáp lại tình thương của cô Tịnh Nhơn đến nỗi muốn cô là sở hữu của riêng mình. Phù Dung đã đến tuổi mơ mộng, yêu thơ: “Chao ôi, tiếng thơ như rót nhẹ vào lòng tôi, cô gái mới lớn đang còn được ươm trong nắng vàng, trong lá xanh, trong cổng trường vôi tím những mơ ước lịm người.” Cô nữ sinh bắt đầu làm thơ và bạo dạn gởi đến một tờ báo Văn Nghệ học sinh, cô được một chàng thi sĩ tên Vịnh trong ban biên tập để ý. Hạnh phúc đã đến với lá thư tình đầu tiên của chàng: “Tôi phải òa vỡ niềm vui ra cho Cẩm Lệ, cho Đỗ Quyên cùng biết. Tôi cũng phải cho sách của tôi biết, bài vở, bàn ghế và thảm cỏ xanh ngoài sân trường biết nữa.”

Thế giới thứ hai là gia đình; trái với trường học, thế giới này nặng trĩu buồn phiền. Gia đình Phù Dung ở thôn Vỹ Dạ, một nơi chốn nổi tiếng qua bài thơ của Hàn Mặc Tử, Phù Dung lãng mạn muốn những cô gái thế hệ của mình là những cô gái có mặt chữ điền. Phía sau ngôi nhà là một bến sông, Phù Dung thường tắm sông với các bạn, hoặc ngồi trên tảng đá học bài. Phù Dung là con gái út một gia đình ba con. Chị cả Phương Thảo là một người con gái ích kỷ, làm dáng, giả dối và hay đóng kịch. Chị Phương Thảo thẳng tay sai khiến Phù Dung như một người đầy tớ. Anh Toan của Phù Dung là một người con trai mặt mày lầm lì, ít nói, lúc nào cũng chúi đầu vào sách. Mẹ Phù Dung, một người đàn bà cay nghiệt, độc ác, đoạt hết quyền hành trong nhà. Người cha thì quá hiền lành đến nhu nhược, đôi khi hóa cộc cằn. Cái cảnh bất hòa giữa cha mẹ với những lời hiểm độc của người mẹ, những mâm cơn bay ra vườn, chén đĩa vỡ trong nhà làm Phù Dung ngao ngán, tâm hồn hướng về nhà trường để tìm an ủi.

Trong gia đình còn có hai nhân vật mà Phù Dung có cảm tưởng họ giữ kín một bí mật ghê gớm. Đó là chú Đặng và dì Tường. Chú Đặng điên bị nhốt trong một căn nhà cuối vườn, sau những cơn điên dữ dội chú trở nên hiền lành. Bà mẹ hất hủi chú, thường đòi gởi chú vào nhà thương điên. Dì Tường là một cô gái ba mươi tuổi, dì còn đẹp nhưng có vẻ sầu muộn, ủ rũ. Dì lo công việc bếp núc. Theo thành kiến của các bà già Huế, dì Tường là một cô gái già, bà mẹ mỗi lần nổi cơn giận không quên nhắc đến tình trạng ế chồng của dì. Để phản ứng lại tính tình độc ác của mẹ, Phù Dung rất thương cha, thương chú Đặng và dì Tường. Chị Thảo thì luôn luôn đứng về phía mẹ. Một đêm Phù Dung kinh ngạc trông thấy dì Tường rón rén đến trước cửa chú Đặng và gọi: «Anh Đặng, anh Đặng», «Anh Đặng, em đây mà.» Rồi dì Tường khóc tức tưởi. Chẳng bao lâu Phù Dung được biết khi xưa chú Đặng và dì Tường yêu nhau, nhưng bà mẹ đã phá hoại cuộc tình duyên của hai người, khiến chú Đặng tự tử hụt và hóa điên. Thế rồi nhiều biến cố dồn dập xảy đến trong gia đình. Anh Toan nhận cưới một người vợ mà anh không hề thương yêu, để tránh tai tiếng với một cô gái khác, người vợ của anh biến thành người tôi tớ của bà mẹ. Chú Đặng chết bất ngờ; bà mẹ không cho làm đám tang trong nhà và không cho con cái để tang. Đám tang chỉ có cha của Phù Dung, dì Tường, anh Toan và Phù Dung. Rồi đến đám cưới chị Thảo. Không bao lâu cha Phù Dung chết, ông chết cháy trong căn nhà chú Đặng, người em mà ông đã thương yêu và cố bênh vực trước đây. Bà mẹ cho biết sau đám cưới chị Thảo bà sẽ gả dì Tường cho một người đàn ông góa vợ, rồi sẽ có lễ dạm hỏi của Phù Dung. Khi dì Tường hay tin sắp bị ép lấy một gã đàn ông mà dì ghê tởm, dì Tường bỏ nhà lên chùa tu. Vậy là gia đình tan rã.

Về phía nhà trường, Phù Dung cũng có những mất mát: Cẩm Lệ theo gia đình vào Sài Gòn, cô Tịnh Nhơn đi lấy chồng.

Với bao lo âu, buồn phiền, Phù Dung ý thức mình đã khôn lớn: “Cổng trường vôi tím bây giờ không còn là nơi dung dưỡng tuổi hồng của tôi nữa… Ngày xanh mới đó đã thành kỷ niệm.”

Truyện “Cổng trường vôi tím” được xây dựng quanh chủ đề thoát ly. Trước mắt Phù Dung đã diễn ra nhiều cảnh thoát ly. Chú Đặng và cha của Phù Dung đã thoát ly bằng cái chết, vì hai anh em đều là nạn nhân của một người đàn bà. Dì Tường lên chùa để thoát ly một cuộc sống nô lệ đã chôn vùi mối tình tuyệt vọng của dì. Cô Tịnh Nhơn tìm trong hôn nhân một con đường thoát ly cuộc sống cô đơn với mấy con mèo.

Còn Phù Dung? Cô nữ sinh trước bao đổi thay đương nhiên không thể tiếp tục sống như trước. Phù Dung có bản lĩnh, có mơ ước lớn, có người yêu đang trông chờ. Phù Dung tâm sự với cô Tịnh Nhơn, mà Phù Dung gọi là chị, về mối tình đầu của mình. Cô Tịnh Nhơn liền tỏ ra thực tế: “Chị chắc chắn em sẽ không thể nào vượt được thành kiến của thành phố, vượt được áp lực của gia đình. Tình yêu này để lãng mạn, để tô điểm thời con gái, để có kỷ niệm đẹp trước khi về nhà chồng. Gia đình và thành phố chúng ta ở không bao giờ dung túng những chuyện đó.” Vậy là cô Tịnh Nhơn, người mà Phù Dung khâm phục và hết lòng thương yêu, đã cúi đầu trước những thành kiến dường như không lay chuyển được. Người phụ nữ thứ hai mà Phù Dung sẵn sàng hy sinh để đem lại hạnh phúc là dì Tường, nhưng dì cũng bó tay, chịu thua như cô Tịnh Nhơn. Dì thú nhận: “… ở xứ Huế ni đầy thành kiến, dì không biết vùng vẫy ra răng được. Dì đành chịu…”. Phù Dung không chấp nhận thái độ thụ động của dì Tường: “Giá như tôi đặt vào hoàn cảnh dì, tôi làm nổ tung tất cả.” Cuối cùng nhờ Phù Dung khuyến khích, thúc đẩy dì Tường mới có can đảm ra đi. Cô Tịnh Nhơn và dì Tường là hai người phụ nữ đã bị thành kiến xứ Huế nhào nặn lâu ngày, đã trở nên hoàn toàn bất lực. Nhưng Phù Dung thì khác. Tâm hồn cô nổi loạn trước những bất công, những sai lầm. Thoát ly của Phù Dung sẽ là một thoát ly đôi: thoát ly một gia đình ngột ngạt và một thành phố đầy thành kiến, mặc dù Huế vẫn đẹp, sông Hương vẫn mơ màng và Đập Đá, Vỹ Dạ vẫn nên thơ, nhưng người Huế bị giam cầm sau bức bình phong của mỗi nhà, bức bình phong tượng trưng cho sự che giấu những bí ẩn của mỗi gia đình trước mối đe dọa của thành kiến. Phù Dung tự hỏi: “Tôi sắp lìa bầy, để bay đi xa hay để gãy cánh?” Dù sao cô nữ sinh Phù Dung cũng sẽ tung cánh bay xa, có hề chi những trở ngại, những khó khăn.

Trong một bài phỏng vấn của tạp chí Văn năm 1973, trả lời câu hỏi của Nguyễn Mai: “Chị có dự tính viết một tự truyện không?”, Nhã Ca cho biết: “Hơn ba mươi tuổi, với vài chục cuốn sách tầm thường, một đời sống phẳng lặng, tôi tự thấy chuyện về mình chưa đáng để phải làm bận mắt độc giả.” Tức Nhã Ca chưa viết tự truyện vào năm 1973. Vậy “Cổng trường vôi tím” xuất bản năm 1971 không phải là một tự truyện. Như chúng ta đều biết, một tác phẩm văn chương không bao giờ hoàn toàn khách quan, một cách vô thức tác giả đã để ít nhiều đời mình, kinh nghiệm bản thân và tâm trạng của mình vào tác phẩm. Dù “Cổng trường vôi tím” không phải là một tự truyện, nhưng có những yếu tố tự truyện như nhân vật cô Tịnh Nhơn, nhân vật người yêu tên Vịnh, vấn đề thoát ly, v.v…

Vào đầu thập niên 70, nghệ thuật kể truyện của Nhã Ca trở nên điêu luyện; “Cổng trường vôi tím” gợi cho người đọc một thời xa xưa, khi một thiếu nữ thấy những hứa hẹn của cuộc đời bắt đầu lấp ló ở chân trời.

Liễu Trương
Paris, tháng 3, 2014
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

THĂM CHỒNG.

Đỗ Dung
Vi thu xếp dọn hàng về sớm hơn thường lệ. Hôm nay gặp may Vi được một mối hời. Một bà khách dáng vẻ một người phúc hậu, giàu có, đưa một bọc toàn những áo thun, quần jean, thêm quần áo trẻ con đắt tiền còn tốt nguyên và tự đưa ra một giá rẻ mạt. Vi giở ngay gói tiền đếm đưa bà, không cò kè thêm bớt. Trước khi đi bà còn dúi vào tay Vi một mẩu giấy nhỏ ghi địa chỉ của bà và nhắn Vi đến nhà, bà còn nhiều thứ muốn bán.

Vừa bày những món hàng mới mua Vi đã gặp ngay khách sộp, có hai quần jean thôi mà đã hơn gía Vi trả cho bà khách để mua nguyên cả bọc lớn. Ngoài ra Vi lại bán thêm được mấy cái “đài” và vài món qùa vặt vãnh cho mấy chú bộ đội cũng được giá.

Trên đường đạp xe về Vi ghé mua cho bé Tường Vân một cái bánh giò, một phong bánh đậu xanh để mẹ uống trà buổi sáng và một cân giò lụa cho cả nhà. Vi định bụng sau bữa ăn sẽ rủ Mai hoặc Quỳnh cùng đến nhà bà khách xem có mua thêm được món gì nữa không.

Vừa thấy Vi, bé Vân lủn tủn chạy ra bi bô đón mẹ. Mai nhìn chị tủm tỉm cười:

- Chị Vi có tin vui.

- Cái gì?

- Thư anh Tùng.

Mai phất phất chiếc phong bì vàng úa dứ trước mặt Vi, Vi chạy vội lại giật lấy, run run bóc. Trong phong thư ấy chỉ vỏn vẹn một tờ giấy phép thăm nuôi lạnh lùng. Vi bàng hoàng bật khóc trong nỗi tủi thân, Tùng không kèm thêm được cho nàng một lá thư nữa sao. Nỗi mừng sắp được gặp chồng không bù nổi với nỗi hờn giận dâng trào. Nét bút của Tùng, dòng chữ thân yêu rõ ràng ghi địa chỉ trên bao thư mà sao Tùng nỡ lòng nào không viết thêm cho nàng vài chữ cho thỏa nỗi nhớ thương, những đau khổ nhọc nhằn của nàng trong thời gian qua. Không một lời thăm con, không một lời hỏi vợ. Nghĩ miên man mà nước mắt nàng cứ tuôn.

Mai hoảng hốt cầm tờ giấy lên đọc, quay lại nhìn chị cười xoà:

- Bà Vi này buồn cười thật. Đúng là mít ướt, buồn cũng khóc, vui cũng khóc. Sắp được đi thăm chồng, anh Tùng lại ở ngay thành Ông Năm Hóc Môn gần xịt. Hai tuần nữa đến ngày thăm rồi, chị lo sửa soạn, Mai sẽ đi phụ chị khuân đồ và trông con bé Vân cho hai ông bà tha hồ mà tỉ tê.

Rồi Mai hạ giọng:

- Đừng làm mẹ buồn. Bố chưa có phép thăm kìa.

Vi gạt nước mắt nhìn Mai như biết ơn và chợt nghĩ biết đâu người ta không cho phép Tùng viết chứ Vi biết, Vi hiểu Tùng mà, không lẽ có dịp mà chàng lại không nhắc nhở tới vợ con.

Hai tuần lễ chờ đợi, hai tuần lễ trải dài nhung nhớ, Vi làm một danh sách những gì cần đem theo khi vào thăm nuôi, thuốc men, đồ ăn, vật dụng, quần áo...Hàng ngày Vi vẫn phải đến sạp hàng của mình ở khu chợ trời để mua bán, bán mua. Buổi tối về soạn lại danh sách đồ thăm nuôi để thiếu gì thì sáng hôm sau sẽ đi mua thêm trước khi dọn hàng. May mắn, qua mối hàng của bác Thụy, người đàn bà sang trọng đến bán quần áo cho Vi bữa trước, ba chị em Vi được giới thiệu đến những gia đình quen của bác đã được giấy tờ bảo lãnh của thân nhân ở nước ngoài và đã có danh sách chuyến bay, giúp họ bán đồ đạc trong nhà trước khi đi định cư nước khác. Mấy chị em Vi cũng kiếm được khá tiền.

Hai ngày trước khi đi thăm Tùng, Vi nghỉ hẳn ở nhà lo xếp dọn, nấu nướng. Thuốc men đã mua đầy đủ, Vi còn cẩn thận nhét thêm một lọ dầu xanh, một lọ dầu Nhị Thiên Đường và một túi nhỏ sâm lát. Đồ ăn khô đã gói ghém cẩn thận, tôm khô, bột đậu đủ thứ, mè đã rang, trộn muối, giã sẵn từ trước, mấy túi bột gạo lức, một bịch thịt chà bông lớn, một bịch kẹo và một bịch đường, vài hộp sữa đặc. Vi cẩn thận xếp mỗi thứ vào hai lớp túi ni lông cho chắc.

Vi mở tủ lạnh lấy thau thịt nạc đã được thái hình khối vuông to bằng nửa quân cờ, ngâm nước mắm, đường, hành tỏi và một tô thịt rọi luộc chín thái hạt lựu ướp tỏi và xả ớt từ hôm qua. Trời chợt đổ cơn mưa rào, mưa rơi lộp độp trên mái tôn nhà bếp. Một cơn gió lạnh lướt qua khiến Vi chợt rùng mình, lửa trong chiếc bếp dầu hôi vẫn bập bùng. Sau khi phi tỏi, bỏ nắm xả bằm vào cho thơm, Vi đổ tô thịt rọi vào chảo xào cho săn thêm miếng thịt. Chỉ hai ngày nữa thôi Tùng của Vi được ăn những món nàng đang nấu đây. Tùng ơi, anh biết em nhớ anh dường nào không. Tay đảo đều và nước mắt Vi lại ứa ra. Hơn một năm trời xa cách nhớ nhung, Vi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm ngày hai người hò hẹn rồi đến những nỗi oan khiên, cơn sóng gió đổ ập xuống trước ngày cưới. Ngày chào đời của con bé Tường Vân, những hạnh phúc êm đềm, ngọt ngào của một gia đình nhỏ. Vi đổ từ từ bát mắm ruốc vào chảo thịt, thịt và mắm cứ thế quyện vào nhau và cứ thế Vi xào xong chảo thịt rọi mắm ruốc thơm lừng, rắc thêm chút hạt tiêu xay, sau khi trộn đều nàng nhấc chảo sang một bên chờ cho nguội. Vi lấy một chảo to khác bắt đầu món ruốc sỏi.

Có tiếng cửa mở, mẹ Vi xách một giỏ nặng ướt lướt thướt bước vào, rũ chiếc áo mưa, xuống bếp thấy con gái đang rang chảo thịt, bà nhắc:

- Con để nhỏ lửa, đun liu riu cho thật cạn, nhớ cho nhiều nước mắm, nấu cho thật cô đặc vào miếng thịt. Hong trên bếp lửa thật nhỏ cho khô, mai được nắng phơi thêm cho thật nỏ thì mới để được lâu. Mẹ mới ghé chợ mua cho anh Tùng ký đường thẻ, bọc chuối khô, con cá khô, mấy bao lương khô và mấy bao thuốc lá. Mẹ biết anh Tùng không hút thuốc nhưng cứ phòng xa, nhỡ có lúc cần chia sẻ với bạn bè hay lo lót cho mấy người quản giáo.

Bà chép miệng:

- May trời thương các con buôn bán khá, có đồng ra đồng vào chứ nếu không thì cơm còn chẳng đủ ăn lấy đâu mà lo quà cáp.

Bà lại thở dài:

- Không biết bao giờ mới đến lượt thăm bố con. Không biết ông bị đày ải tận đâu, sống chết thế nào. Mẹ lo quá.

Vi nhìn mẹ xót xa. Nhớ bố, thương mẹ mà biết nói gì đây.

Hôm sau nắng to, Vi nghe lời mẹ trải mớ thịt đã hong khô ra phơi. Những viên ruốc sỏi thật khô, thơm mùi nắng.

Cả buổi chiều Vi ngồi sắp xếp mọi thứ vào hai chiếc giỏ cói to, cũng may Mai ra bán hàng thay chị thấy có người đem bán mấy lon sữa Guigoz không, Mai mua hết đem về cho chị. Những cái lon nhôm này đa dụng lắm. Vi lèn chặt mắm ruốc vào ba lon, ruốc sỏi vào ba lon, còn thừa một chút để lại nhà ăn. Vi cuốn mấy tờ giấy bạc như điếu thuốc, bọc ni lông cẩn thận nhét dưới đáy lon mắm ruốc. Nàng không quên bỏ mấy quần đùi vải, hai bộ bà ba xanh đậm bằng vải thô, chiếc áo len, chiếc khăn mặt, cục sà bông và bàn chải cùng ống kem đánh răng, một xấp giấy viết thư, phong bì, tem và tấm ảnh của hai mẹ con mới chụp. Cuối cùng cũng thành ba giỏ. Xách thử thì giỏ nặng, giỏ nhẹ, Vi lại giở ra xếp lại cho ba giỏ nặng đều. Ngày mai cô Mai sẽ xách cho chị hai giỏ, Vi xách một còn một tay nàng dắt bé Tường Vân. Vi nhắc Mai nhắn ông Ba xích lô máy vẫn thỉnh thoảng chở hàng cho Vi nghỉ một buổi đưa chị em Vi lên Thành Ông Năm.

Cả đêm Vi trằn trọc không ngủ, nghĩ ngợi lung tung, chuyện cũ, chuyện mới chập chùng. Mệt qúa nàng thiếp đi, nàng bỗng thấy hai vợ chồng nàng cùng nắm tay con đi trong khu vườn đầy hoa đẹp dị thường, thỉnh thoảng hai người nhấc bổng bé Vân lên, con bé cười khanh khách. Nắng vàng tươi, trời trong xanh nhưng sao lại mưa, mưa nhẹ, những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi, mong manh như những sợi tơ trời. Con bé buông tay cha mẹ ra, tung váy quay tròn, nàng cũng quay tròn, hai vạt áo dài quấn quýt bay. Mưa, mưa trong nắng hiện lên những vệt cầu vồng ...đẹp, đẹp quá. Vi như ngụp lặn trong niềm hạnh phúc tuyệt vời.

- Vi,Vi...Dậy đi con, sáng rồi.

Mẹ lay nhẹ đánh thức Vi, nàng mở mắt nhìn quanh. Qua cửa sổ, bầu trời đã sáng ra như màu sữa loãng. Tiếc quá, nàng đã trở về thực tại sau một giấc mơ hoa.

- Vi ơi, trại anh Tùng ở gần, con lại đi xích lô máy không vất vả, con sang quán bác Đạo mua cho anh tô phở, nước bỏ riêng vào bình thủy, khi ăn chan ra cho nóng. Mẹ có bỏ mấy qủa quýt để khi gặp nhau bóc ra ăn cho đỡ khát nước. Đợi ông Ba tới thì chị em đi.

Quỳnh nghe mẹ nói không chờ sự đồng ý của Vi xách gà mên và bình thuỷ chạy ngay sang quán phở mua cho chị. Mẹ Vi lấy thêm chiếc giỏ ni lông vẫn đi chợ có mặt đáy phẳng và cứng sắp gà mên phở, bình thuỷ, đũa muỗng cho con, thêm mấy cái bánh giò, bánh dầy chả, mấy qủa quýt cho các con đi ăn dọc đường.

xxx

Người ngồi trước mặt Vi là Tùng đây sao. Vi ngỡ ngàng, lạ lẫm, bàng hoàng. Mặt Tùng như biến dạng, đen đủi. Cả người như chỉ còn da bọc xương. Đầu chàng như chiếc sọ khô, hai mắt sâu hoắm. Đôi chân như hai cây sậy bơi trong ống quần. Hai cánh tay khẳng khiu như hai que củi. Hơn một năm trời bị đầy đọa, thiếu ăn mà thể xác biến đổi đến thế sao. Vi nhìn Tùng đăm đăm, nỗi xót thương trào dâng, nước mắt tuôn như suối.

- Anh Tùng, cố giữ gìn sức khỏe. Phải mạnh khỏe nghe anh.

Tiếng nói như pha tiếng nấc tức tưởi, nghẹn ngào.

Tùng yên lặng nhìn như muốn nuốt chửng vợ con, nước mắt muốn trào ra mà cố nén. Rồi tiếng nói như từ cõi xa xăm:

- Anh nhớ em, nhớ con. Anh lo cho em và con. Gặp em, nhìn thấy em thế này là anh yên chí. Em cố lo làm ăn với Đỗ Quyên, đừng lo lắng cho anh.

Bé Tường Vân nhìn cha sợ sệt, hình ảnh của bố Tùng khác hẳn, mẹ Vi hàng đêm vẫn lấy hình bố ra kể chuyện cho con về bố. Vi đẩy con bé về phía Tùng

- Con mi bố đi, bố Tùng đó.

Bé Vân nhìn mẹ, nhìn dì Mai như dò hỏi, Vi bế hẳn con lên, đặt nó lên bàn đẩy về phiá Tùng, Tùng nhân cơ hội chuyền sang tay Vi một cuộn giấy con quấn chặt như điếu thuốc lá. Nàng cầm lấy và bỏ ngay vào túi áo bà ba. Chiếc bàn dài ở giữa cách ngăn, hai vợ chồng trẻ im lặng nhìn nhau. Thỉnh thoảng nghe tiếng nấc uất nghẹn của Vi.

Mai lẳng lặng lấy phở sắp ra tô, lấy bình thuỷ rót vào bát phở, nước dùng nóng còn bốc khói mời anh ăn rồi lấy cớ bước ra ngoài. Căn phòng thăm nuôi dài, thông thống như quán chợ, hai dãy bàn ghế kê nối đuôi nhau, dãy này song song với dãy bên kia. Người thăm và người học tập ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn dài. Hai đầu dãy mấy người bộ đội đứng gườm gườm kiểm soát.

Nhìn khung cảnh xung quanh, những buồn vui hội ngộ, những giọt lệ ngắn dài, những phờ phạc âu lo... Có những bao quà to tướng, có những bọc quà quá khiêm nhường. Những bà mẹ hay người vợ từ xa đến cũng xác xơ, tiều tụy. Những đứa bé ngỡ ngàng, những đứa con lớn, hiểu biết hơn nhìn cha mà gục đầu rưng rức khóc. Nhưng tội nhất vẫn là hình dung xác xơ của những người học tập. Dù chưa đến nỗi rách rưới tang thương nhưng áo đã sờn, quần đã bạc phếch. Mặt rõ là đói và hiện lên những nỗi lo lắng, ưu tư. Lưng quần thắt chặt cho khỏi tuột thì dúm dó đằng trước, dồn cục đằng sau vì chiếc quần từ ngày đi nay đã trở thành qúa rộng. Tuy nhiên các anh vẫn còn một nét gì đó của những người đã từng có một thời hiên ngang. Nghĩ đến Vi, Mai thương chị nhưng cũng thầm biết chị mình còn may mắn hơn nhiều người. Cuộc sống chưa đến nỗi thê lương và đi thăm chồng không đến nỗi vất vả quá. Nghĩ đến ông anh rể Mai cũng bùi ngùi.

Qua giây phút xúc cảm ban đầu, Vi thủ thỉ kể chồng nghe những công việc của nàng bây giờ. Nàng kiếm tiền được, cuộc sống êm đềm bên mẹ và hai em. Bé Vân ngoan, được cả nhà thương yêu dạy dỗ, sang năm bé đã đến tuổi vào Mẫu giáo. Tùng làm quen con bé, bón cho con ăn và lấy ngón tay quẹt nhẹ vào người, chọc lét cho con bé nhoẻn miệng cười. Niềm vui như trở lại với gia đình nhỏ bé, hai cha con ăn xong bát phở Vi bóc quýt cho cả nhà cùng ăn. Con bé Vân đã quen với bố nũng nịu nói:

- Sao bố đi lâu qúa? Bao giờ bố mới về với mẹ, với con?

- Bố đi học, bao giờ học xong bố về. Con ở nhà phải ngoan, phải nghe lời bà, nghe lời mẹ với các dì. Bao giờ bố về bố sẽ thưởng con nghe!

- Bố cũng phải ngoan nghe! Bố học giỏi nghe! Bố mau về nghe!

Tiếng trẻ ngây thơ, ríu rít đem lại không khí đầm ấm, hai người đã có lúc cười vì những câu nói ngây thơ của con bé. Mai quay lại thấy không khí bớt căng thẳng cũng ngồi xuống góp chuyện hỏi thăm anh về những ngày sống xa gia đình, những người bạn tù của anh. Mai nhí nhảnh lôi ra mấy chiếc bánh dầy, bánh giò đem theo, nháy mắt đưa Tùng:

- Anh cho em gửi cho chàng nào còn độc thân, cô đơn nhất trại!

Tùng cũng vui lây với lời nói đùa của cô em vợ, tố theo.

- Cô Mai nói đấy nhé, chịu có người yêu học tập anh sẽ làm mai.

Sau những câu chuyệntrao đổi với hai chị em Vi, Tùng như cất được gánh nặng. Trong trại, nỗi lo âu nhất của Tùng là không biết mẹ con Vi xoay sở ra sao với hoàn cảnh mới. Tùng biết Vi mảnh mai, yếu đuối, tình cảm dạt dào và rất mau nước mắt, nay thấy Vi mạnh mẽ, lanh lợi ra Tùng rất yên tâm nhưng nghĩ lại phận tù tội của mình, cứ vài tháng lại có danh sách chuyển trại, những hồi hộp lo âu không biết bao giờ đến lượt mình và biết ngày nào được về với vợ con. Nhìn khuôn mặt yêu kiều của Vi lòng chàng quặn đau. Nghĩ đến lòng chung thủy của vợ chàng lại càng xót thương.

- Vi, như anh đã nói, chị em chịu khó làm ăn với cô Quyên, phần anh có nhà nước lo. Nhớ nghe lời anh.

Tùng dặn đi dặn lại việc làm ăn với Quyên vì khi Tùng ở nhà đã có tin Quyên đến bến bờ tự do. Vi hiểu Tùng muốn nhắn nàng cứ tìm đường đem con vượt biên, đừng lo lắng cho Tùng. Vi rưng rưng:

- Anh Tùng, em mong anh giữ sức khỏe, học tập tốt anh sẽ về, chúng mình sẽ đi thăm bác Vĩnh (anh của mẹ Vi ở Thuỵ Sĩ). Em chờ anh. Ráng học tập tốt để mau về với em, với con. Em chờ, anh yên tâm, mẹ con em chờ anh.

Mai tiếp lời:

- Mẹ biết anh không hút thuốc nhưng cũng mua thuốc tặng anh để thỉnh thoảng anh ngoại giao đấy.

- Anh gửi lời cám ơn mẹ, anh sẽ chia cho mấy người bạn, có thuốc lá họ mừng lắm. Hồi này họ phải hút thuốc lào rồi. Anh không cần phải ngoại giao với ai hết Mai ạ.

Như chợt nhớ ra Tùng lấy trong chiếc túi vải vẫn để dưới chân nãy giờ những món quà tặng. Cái ly nhỏ xíu bằng nhôm của bé Vân khắc hình con gấu xinh xinh ngồi trên thảm cỏ bên những bông hoa nho nhỏ. Chiếc lược bí khắc hình con hạc với dòng chữ Kính biếu mẹ. Ba cái lược nhỏ gọn trong lòng bàn tay, một chiếc khắc hoa Tường Vi với dòng Em yêu dấu, lược tên Diễm Quỳnh với đóa Quỳnh Hương và Ngọc Mai với một cành Mai dịu dàng.

- Những lúc rảnh rang trong trại tụi anh làm, quà kỷ niệm của anh đây.

Tiếng kẻng vang lên báo đã hết giờ thăm nuôi. Bịn rịn, rưng rưng, bùi ngùi, lưu luyến...chưa có cuộc chia ly nào ngậm ngùi kẻ ở người đi như cuộc chia tay não nùng sau buổi thăm tù cải tạo lần đầu tiên.

Đỗ Dung
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

ÔNG HẢI QUÂN.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
Chiếc ghe nhỏ cũ và xấu có mái che lụp xụp đang lướt đi tới một khúc sông vắng, trên đường cũng vắng hoe cô quạnh chẳng thấy bóng người qua lại, xung quanh chiếc ghe toàn là cây bần, cây dừa nước và vô số các loài cây hoang dại um tùm làm hẹp và tối cả khúc sông, những loài cây dại mà Thư không biết tên dù Thư đã có thời học đại học khoa học môn thực vật Thư đã đi tới vùng Biên Hoà để tìm hiểu về nhiều loại cây.

Trên bờ và dưới sông đều hoang vu im ắng như nhau, có lẽ nơi này hiếm khi ai qua lại.

Anh chèo ghe là dân địa phương đã rành rẽ chọn chỗ vắng vẻ nhất để cho chiếc ghe neo lại tạm trú, chiếc ghe nằm lọt trong bụi cây dại âm u.

Anh ta nói nhỏ dặn dò Thư:

- Anh nằm trong ghe đừng ló mặt ra ngoài nghen, đợi chiều tối chúng ta ra ghe lớn.

Thư vừa đùa vừa thật:

- Anh cứ nói to lên, dưới sông trên bờ chỉ có anh và tôi với ruồi muỗi chứ có ai nữa đâu mà phải thì thầm…

Anh chèo ghe cười lỏn lẻn:

- Cẩn thận cho chắc ăn mà anh Hai.

Thế rồi anh chèo ghe ngồi ở cuối ghe còn Thư nằm trong lòng ghe.

Thời gian chờ đợi cho chuyến vượt biên căng thẳng hồi hộp làm sao và thời gian trôi chậm làm sao.!.

Gía mà lúc này Thư có nổi hứng thay đổi ý định muốn trở về nhà cũng không được nữa, vì Thư chẳng biết đường nào mà về, đường sông đường bộ đều hoang vu như nơi này đã bị cuộc đời lãng quên hoặc vô danh vô thừa nhận trong bản đồ đất nước Việt Nam và nhất là anh chèo ghe rõ ràng đang canh chừng Thư như canh chừng một tên tù binh...

Thư sẽ là hoa tiêu, là nhân vật cần thiết cho chuyến vượt biên này, người ta đã ưu ái cho Thư nên canh chừng Thư là đúng rồi. Tới giờ phút này Thư mà bỏ cuộc thì người ta cũng …dí dao bắt Thư lên ghe lên tàu cho bằng được, vì tổ chức một chuyến vượt biên mất bao công phu, bao sự sắp xếp mới đến ngày ra khơi...

Đánh đổi việc Thư làm hoa tiêu,Thư không phải trả tiền mà còn có thể mang theo một hai người thân nếu muốn, Thư định dắt đứa em gái đi nhưng bố đã ngậm ngùi cản lại:

- Tuy là người ta cho đi không, nhưng chuyện vượt biên bao nhiêu rủi ro, biết được hay thua mà vơ vào, thôi thì cứ lo cho thân con sống chết cũng đành.

Bố nói đúng, mạng Thư là “mạng cùi” thì sẵn sàng thí mạng.

Thư đến thành phố Mỹ Tho được chủ ghe sắp xếp cho ở nhà một người thân của họ, chủ nhà đưa Thư ít tiền tiêu vặt.

Hôm sau Thư ăn mặc như dân miệt vườn với bộ đồ cũ và đầu đội chiếc mũ tai bèo “thanh niên xung phong” cũng đã cũ bèo nhèo. Thư ra chợ Vòng Nhỏ ăn tô hủ tiếu Mỹ Tho rồi đi chuyến xe lôi ra bến phà Rạch Miểu, qua bên kia sông Thư như người khách đường xa vào ngồi quán nước để chờ người ra đón.

Người này đưa Thư xuống một chiếc ghe nhỏ chèo tay và đưa Thư đến đây. Bây giờ khoảng 2 giờ trưa, như vậy là Thư sẽ nằm chèo queo trong lòng ghe chật hẹp này thêm mấy tiếng đồng hồ nữa chờ đêm tối đến..

Thư gối tay lên đầu, mái tóc mới cắt ngắn. Chiều hôm trước ngày Thư đi Mỹ Tho chị Thái của Thư đã cắt tóc cho Thư.

Cửa tiệm cắt tóc và uốn tóc của chị Thái mở ra trước cửa nhà ế ẩm khách vì chị mới đi học nghề và ra cửa tiệm nên bị hàng xóm chê tay nghề còn non. Sau 1975 chồng đi tù cải tạo chị lo học nghề may, rồi học nghề uốn tóc mà chẳng sống được với nghề nào.

Thư nghĩ nếu đi chuyến vượt biên này thành công thì sẽ giúp đỡ gia đình để chị Thái đỡ vất vả hơn. Mẹ mất mấy chị em sống quây quần với nhau cùng với bố.

Chỉ trong một thời gian ngắn vài ba năm mà cuộc đời Thư đã qua bao thay đổi. Thư tốt nghiệp đại học sư phạm Sài Gòn và được bổ nhiệm về dạy học tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ năm 1974, sau 1975 trường đổi tên An Cư.

Năm 1979 Thư bị ép phải “tình nguyện” đi bộ đội. Những buổi họp tại trường người ta luôn hô hào khẩu hiệu: “Sẵn sàng đi bộ đội khi cần thiết” và gọi đích danh một số giáo viên để khuyến khích họ tình nguyện trong đó có Thư.

Các học sinh đoàn viên của trường cũng được phát động chiến dịch tình nguyện đi bộ đội.

Tình hình chiến sự đang gay gắt, quân Trung Quốc gây hấn ở miền Bắc. Trong miền Nam thì bộ đội sang Campuchia để “giúp đỡ” quân sự cho người dân Campuchia thoát khỏi Khờ Me Đỏ.

Hôm trường An Cư tổ chức liên hoan mừng thày trò của trường tình nguyện đi bộ đội vượt chỉ tiêu, có một nam sinh lớp 11 trong số các em học sinh đoàn viên tình nguyện đi bộ đội đợt này đã hiên ngang ra hát giúp vui văn nghệ với bài “Hãy yên lòng mẹ ơi”. với điệu nhạc câu hát tưng bừng thúc giục như: “ …Ai…như giục lòng ta, mẹ ơi có nghe, núi sông vang dậy…”

Hát xong nó hân hoan cúi chào khán gỉa giữa tiếng vỗ tay cổ vũ thì mẹ nó cầm chổi chà đứng chờ sẵn phía sau sân khấu, thằng con vừa vào là bà mẹ túm áo nó lại quật cho nó một trận chổi chà tơi bời:

- Mẹ ơi hãy yên lòng . Nè, nè…nè….

Mỗi tiếng “nè” là bà quật chổi vào người thằng con tới tấp hơn. Bà rít lên::

- Thằng con khờ ơi, ai biểu mày tình nguyện đi bộ đội hả? hả? Mày muốn phơi thây ở Campuchia hả? hả?.Hay mày muốn chết mất xác ở ngoài Bắc vì bọn Trung Quốc hả? hả??.

Thế mà chẳng hiểu bằng cách nào hôm thày trò lên đường đến trại huấn luyện quân sự ở Trà Bay huyệnThốt Nốt thằng nhỏ cũng hớn hở có mặt.

Còn Thư thì lòng dạ não nề.

Chị Thái từ Sài Gòn đến Trà Bay thăm Thư, chị buồn đau thương cho thằng em phải gĩa từ phấn bảng, giã từ lũ học trò. Hai chị em cùng toan tính nếu học xong khóa huấn luyện quân sự ở Trà Bay họ đưa Thư ra miền Bắc thì chưa biết tính sao, nếu sang Campuchia thì Thư sẽ tìm đường vượt biên bằng đường bộ đến Thái Lan., may ra tìm được bến bờ tự do còn hơn là vào sinh ra tử cho một chủ nghĩa mà Thư cũng như những người dân miền Nam Việt Nam đều chán ghét..

Tội nghiệp chị Thái một chuyến đi buồn mà còn gặp nạn, chị mua vé xe đò từ SàiGòn đến Cần Thơ gía chợ đen gấp đôi gấp ba gía chính thức, thằng cò mồi vé dẫn chị lên xe đò và đòi tiền ngay tại chỗ thay vì chị sẽ trả cho anh lơ xe đò khi xe chạy. Thế nên chị phải trả tiền đến 2 lần cho cái vé chợ đen

May mắn cho Thư, sau khoá huấn luyện quân sự ở Trà Bay trường An Cư đã gọi Thư về dạy học lại vì thiếu giáo viên. Thư không biết đâu là sự thật? hay là họ đã thử lòng Thư? Sau đó một thời gian trường đã đề nghị cho Thư làm hiệu trưởng một trường trung học ở Long Tuyền, cách thành phố Cần Thơ khoảng 12 km, không biết vì “thành tích” tình nguyện đi bộ đội của Thư hay vì Thư đã đạt danh hiệu giáo viên giỏi của tỉnh Hậu Giang?…

Thư không muốn nhận chức vụ này vì càng lớn chức càng nhiều ràng buộc và trách nhiệm mà mục đích của Thư là đang tìm đường vượt biên, luôn chờ thời đi vượt biên.

Thư có một bạn cùng chí hướng tên Tuấn tốt nghiệp cùng khóa đại học sư phạm, nhưng Tuấn bỏ dạy học làm nghề tự do cũng vì mục đích vượt biên. Tuấn là dân bản xứ Mỹ Tho đã đứng ra tổ chức chuyến vượt biên như rủ thêm một số bạn đồng hành, mua ghe thuyền cho đến máy móc. Toàn là “cây nhà lá vườn” kể cà tài công và hoa tiêu nên không tốn kém tiền bạc nhiều.

Thư là hoa tiêu dù nghiệp dư nhưng Tuấn tin cậy vào khả năng thông minh nhạy bén của bạn,. Thư học lóm “nghề” hoa tiêu từ một anh bạn là sĩ quan hải quân đi tù cải tạo về, anh hải quân còn đưa cho Thư một cuốn sách bằng Anh Ngữ anh mang về sau chuyến sang Mỹ tu nghiệp. Với khả năng tiếng Anh Thư đã học xong ở Hội Việt Mỹ đường Mạc Đỉnh Chi Sài Gòn và nếu cần thì tra thêm tự điển thì đọc và hiểu cuốn sách này rành rọt không mấy khó khăn.

Để chắc ăn thêm Thư đã vào thư viện quốc gia ở đường Nguyễn Du Sài Gòn tìm đọc thêm những sách liên quan đến đi biển.

Thế là Thư tự tin đảm lãnh trách nhiệm làm hoa tiêu cho chuyến vượt biên “nhà nghèo” tự biên tự diễn này..

Từ Cần Thơ mỗi lần nghỉ dạy là Thư về Sài Gòn la cà ra khu chợ trời để tìm kiếm mua la bàn và bản đồ đường biển.

Dân chợ trời khôn khéo lắm, để không bị công an nghi vấn hay chất vấn họ chỉ bày bán những la bàn bộ binh, hướng đạo sinh đi trong rừng. Thư cũng phải khôn khéo và kín đáo hỏi họ về la bàn đi biển. Thế là cả người bán lẫn người mua đều biết tâm ý của nhau tuy không ai nói ra..

Dân chợ trời sau 1975 đủ mọi thành phần thượng vàng hạ cám, người bán đã dắt Thư về nhà đưa ra những la bàn Hải quân và bản đồ đi biển. Anh ta trình độ và sành sõi hỏi Thư đi biển đường nào thì sẽ bán bản đồ vùng ấy, vì biển mênh mông có nhiều hướng đi.rồi

bán cho Thư la bàn, bản đồ tốt đúng như Thư đang tìm kiếm.dĩ nhiên với gía rất đắt

Chuyến vượt biên này vào năm 1981 đã thất bại khi chưa ra tới cửa biển, cả đám vào tù ở huyện Long Đất Vũng Tàu, trong 8 tháng tù giam Thư đã quen thân với một anh tài công trẻ tuổi tên Đực nhà quê và thật thà. Đực là dân lái ghe mướn từ thời mới lớn và được một chủ ghe trọng dụng làm tài công lái chuyến ghe đi vượt biên không may thất bại.

Từ trại giam ở Long Đất ra Thư thành kẻ tay trắng, không chỗ dạy học, không hộ khẩu. Thư về Sài Gòn sống với gia đình, cha và các chị em cưu mang Thư, những ngày này thật hoang mang vô định và đôi khi tuyệt vọng.

Tuấn được gia đình lo cho ra tù sớm và sau đó lấy vợ, thừa hưởng nhiều tài sản ruộng vườn nhà vợ ở Mỹ Tho và không hào hứng chuyện vượt biên như lúc còn độc thân nữa..

Lúc này qua một bạn giáo viên quen thân dạy ở Cần Thơ Thư được biết thằng học trò tình nguyện cùng đi bộ đội với Thư, cái thằng bị mẹ cầm chổi chà đánh tơi tả sau hậu trường sân khấu hôm nhà trường ăn mừng đoàn quân tình nguyện vượt chỉ tiêu đã bỏ đơn vị, đảo ngũ trốn về nhà. Chắc nó đã thức tỉnh, đã ân hận không nghe theo lời mẹ.

Thằng học trò dĩ nhiên là bị mất hộ khẩu, bị lý lịch xấu chẳng khác gì Thư. Gia đình sẽ xoay sở ra sao cho nó? lấy lại cái hộ khẩu đã khó nói làm gì tẩy xóa được cái vết đen trong bản lý lịch đời nó.

Thày và trò đều lêu bêu như nhau, tương lai đen tối như nhau.

Con đường sống duy nhất của Thư là Thư tiếp tục vượt biên.

Biết Thư là hoa tiêu Đực đã giới thiệu cho Thư chuyến đi này với Đực và Đực vẫn là tài công. Hai anh em sẽ cùng một chuyến tàu định mệnh, sống chết có nhau như những ngày tháng trong tù chia sẻ từng miếng cơm khô, từng con cá mặn, từng buồn vui vặt vãnh chuyện đời.

****************

Khoảng 7-8 giờ tối thì tay chèo ghe bò đến chỗ Thư, lại thì thầm:

- Ta đi nghen anh Hai.

Lần này Thư thấy hồi hộp không đùa với anh ta được nữa.

Chiếc ghe lặng lẽ tách bến sông vắng để đến điểm hẹn gặp ghe lớn.

Trên ghe lớn đã có sẵn hơn 40 “hành khách” không biết họ đã đón lên từ nơi nào, từ lúc nào..

Khi Thư vừa bước lên ghe có một bà cất tiếng hỏi ngay với lòng tin tưởng và ngưỡng mộ:

- Ông là sĩ quan hải quân hả?

Thư đành …gật đầu vì chẳng có thì giờ đâu mà giải thích mà kể lể.trong phút giây căng thẳng và quan trọng này, mà nếu nói ra Thư là một thày giáo chắc không riêng chị đàn bà tò mò này mà biết đâu cả ghe đều hốt hoảng kinh sợ vì mạng sống của họ sẽ giao phó cho một người chỉ đứng trên bục giảng chưa hề đi biển lần nào ngoài chuyến vượt biên mới ra biển một chút đã bị tóm vào tù vừa rồi..

Anh Tình chủ ghe đến bên Thư dặn dò và một hai đều gọi Thư là “ông hải quân”. đầy tin cậy y như chị đàn bà kia.

Ghe rời sông ra cửa biển Bình Đại vào lúc 3 giờ sáng, tuy trời còn tối không nhìn thấy màu nước nhưng Thư biết vùng nước lợ chuyển tiếp giữa sông và biển nửa đục nửa trong, càng đi xa bờ nước càng xanh đậm.

Đến khi trời sáng rõ thì nhiều người trên ghe bỗng phát hiện ra có tàu đang đuổi theo, không biết đó là tàu của lính biên phòng hay tàu đánh cá của tư nhân? Nhưng dù tàu nào thì cũng là mối đe dọa nguy hiểm. Anh Tình đến bên Thư lo lắng giục gĩa:

- Ông hải Quân, có tàu đang đuổi theo mình, cho ghe vọt nhanh đi.

Thư nhìn ra sau thấy chiếc tàu lạ càng hiện rõ nên sau một thoáng suy nghĩ bèn quyết định:

- Anh Tình, không kịp đâu. Anh xem trên ghe mình có mang theo bất cứ cây gậy nào thì tận dụng hết chỉa ra sau ghe gỉa làm súng ống hù dọa chúng xem? rồi tới đâu mình tính tới đó.

Tình làm y lời, và còn kêu mấy thanh niên đứng trên khoang ra vẻ thách thức, ra vẻ như phe ta rất “ngầu”, đang có vũ khí và sẵn sàng chiến đấu.

Thế mà chiếc tàu kia rút lui thật, nó không tăng tốc độ đuổi theo nữa và khoảng cách càng lúc càng xa. Đúng là trời thương trời cứu..

Mọi người thở phào nhẹ nhỏm và suy đoán chắc chiếc tàu kia chẳng dám dấn thân vào nguy hiểm để lập công làm gì, mà bắt người vượt biên như bắt cóc bỏ dĩa, thua chuyến này thì họ lại đi những chuyến sau, cho tới khi nào không còn khả năng đi nữa thì mới chịu thôi.

Chiếc ghe lại tự tin vượt sóng, như một thủy thủ chuyên nghiệp Thư ghi nhật ký hải hành để theo dõi chuyến đi, Thư tính hướng cho Đực lái tàu đến Mã Lai, địa điểm càng gần thì càng rút ngắn sự hiểm nguy.

Chiếc ghe dài 12 mét, Thư đã vo tròn mớ giấy báo cho người đứng ờ đầu ghe ném ra xa xa theo chiều ngang song song với mũi ghe và Thư theo dõi đồng hồ mất 8 giây rưỡi khi đuôi ghe gặp mớ giấy báo vo tròn đang trôi nổi bập bềnh ấy.. Thế là tốc độ ghe đi.12 mét mất 8 giây rưỡi.và Thư có thể tính ra tốc độ mỗi giờ bằng bài toán quy tắc tam xuất đơn giản..

Ban đêm biển mênh mông đen tối thăm thẳm đến rợn người, tầm nhìn bị hạn chế Thư đã ngắm một ánh sao chênh chếch với mũi ghe khoảng 45 độ và nói Đực cứ nhắm cái hướng khỏang 45 độ ấy mà đi với tốc độ chậm hơn ban ngày để nếu có lạc đường thì cũng không lạc qúa xa rồi sáng mai sẽ chỉnh lại hướng đi chính xác..

Thư cho cột cái giẻ dưới đuôi ghe coi hướng gió, giẻ bay ngược chiều hay xuôi chiều, và mục đích ghe đi ngược hay xuôi chiều gió thì cứ lấy cái giẻ bay đó làm chuẩn..

Những điều này Thư đã đọc trong cuốn sách mang từ Mỹ về của anh hải quân cho, tất cả đều được Thư mang ra tận dụng thật hữu ích.

Sau 2 ngày trên biển thì gặp một tàu Thái Lan, họ chặn lại và từ tàu lớn họ xuống ghe uy hiếp mọi người lấy hết vàng bạc nữ trang nhưng không giết hay đánh đập ai. Có lẽ đây là một thương thuyền thấy ghe nhỏ vượt biên nên nổi lòng tham xông vào kiếm chác thêm. Một ông ra dáng chủ tàu lại biết nói bập bõm tiếng Anh thấy đám vượt biên nhớn nhác sợ hãi và có kẻ khóc lóc van xin đã thương cảm sao đó cho cả đám vượt biên lên tàu lớn ăn cơm với cá no nê xong mới trở lại ghe mình. Coi như mất của để “mua” được một bữa ăn no và ngon lành.

Thư đưa ông ta xem cuốn nhật ký hải hành, ông ta khen Thư đã đi đúng hướng và chúc tiếp tục đi đến Mã Lai thành công.

Sự may mắn này hi hữu hơn cả lúc chiếc ghe chỉa cây chỉa gậy làm súng gỉa và thoát nạn lúc ở cửa biển Bình Đại Mỹ Tho.

Hai ngày sau thì ghe đến bờ biển Mã Lai vào lúc tờ mờ sáng. Mọi người trên ghe la hét reo hò mừng rỡ

Thư ra lệnh cho Đực lái tà tà dọc bờ biển và nói mọi người cứ yên tâm thong thả ngắm cảnh biển đẹp, cảnh thanh bình của Mã Lai đợi tới sáng sẽ lên bờ để khỏi làm phiền chủ nhà.

Sau mấy ngày đêm mệt nhoài vì ít ngủ trên ghe, giờ phút này Thư bỗng cảm thấy khỏe hẳn lên, sức mạnh tinh thần thật là mãnh liệt. Thư vui thích ngắm những hàng dừa, hàng phi lao trên bãi biễn rồi lại nhìn những đợt sóng biển đang xô lên bờ trong buổi sáng vắng người êm ả.

Cũng là sóng, cũng là biển mà Thư từng thấy như biển Vũng Tàu ở Việt Nam sao hôm nay biển Mã Lai lại đẹp đến thế, lạ lùng đến thế !

Cũng là bình minh trên biển sao bình minh nơi đây lại rực rỡ và tươi vui đến thế !.

Thư mừng vui thế nhưng khi nhìn ra biển xa chẳng biết chân trời nào là hướng quê nhà Thư bỗng ngậm ngùi. Thư chỉ muốn rời bỏ chế độ chứ không muốn rời bỏ quê hương Giờ này ở nhà chắc cha Thư, các chị em Thư đang nóng lòng lo lắng cho Thư lắm.

Thư thấy tiếc đã không có đứa em gái đi theo.

Khi trời sáng tỏ thì Đực phóng cho ghe vào sát bờ tối đa, người ta có thể cảm thấy đáy ghe đi lướt trên cát và khựng lại, mọi người rối rít lên bờ, có người sung sướng qùy xuống hôn lên mặt đất, có người quay ra biển khơi vái lậy cám ơn biển đã yên bình đưa đoàn người đến bến bờ tự do.

Thật vậy, có trải qua mấy ngày đêm trên biển khơi bao la, trên chiếc ghe nhỏ đơn sơ mới biết cái chết và sự sống gần kề mong manh thế nào.

Anh Tình đã mang theo một cái đục lớn, khi mọi người lên bờ xong anh đục cho chiếc ghe thủng đáy thủng vách vài chỗ để phòng hờ có những dân bản xứ không muốn người vượt biên đến đất nước họ đã đuổi mọi người xuống ghe ra biển trở lại đi đâu thì đi, như những tin đồn tin kể của những người vượt biên trước. Khi ghe hư hỏng không thể xử dụng được nữa thì họ phải chấp nhận dung chứa người vượt biên ở lại.

Chủ ghe Tình thật chu đáo.

Người ta xúm vào cám ơn tài công và hoa tiêu:

- Cám ơn anh Đực nhé, anh lái ghe suốt 5 ngày đêm trên biển thật khỏe thật tài.

- Anh Đực là tài công chuyên nghiệp có khác, nghe chủ ghe nói anh lái ghe từ hồi mười mấy tuổi phải không?

Bà đầu tiên gặp Thư bước xuống ghe đã hỏi “Ông là sĩ quan hải quân hả” . Bây giờ cũng là bà, lần này thì bà thoải mái hỏi dài dòng ::

- Cám ơn ông hải quân thật nhiều nghe, ông cũng chuyên nghiệp không thua gì anh tài công, chỉ đường ghe đi đúng y boong. Hồi đó ông đi hải quân được mấy năm? rồi ông đi tù cải tạo mấy năm? vợ con gì chưa? Sao không thấy mang theo?...

Một người phải ngắt lời bà:

- Bà hỏi cả chục thứ ông hải quân nghe điếc tai luôn biết đâu mà trả lời.

Mấy người khác nhao nhao lên:

- Phải rồi, công ông hải quân lớn lắm đó, nếu hoa tiêu dở chỉ lầm đường thì tài công cũng chịu thua thôi, xăng dầu đâu mà đi tiếp? chưa kể sóng gió bão bùng.

- Bà nói lạ chưa? Ông ấy là dân hải quân thì phải rành đường biển chứ.

Anh Tình ra bắt tay tài công Đực xong liền bắt tay Thư với vẻ mặt tươi rói và trân trọng:

- Cám ơn ông hải quân.

Cho tới giờ này chủ ghe cũng không nhớ tên Thư, mà chỉ gọi Thư là “ông hải quân”

Thư thấy lúc này thuận tiện và thoải mái nhất để lên tiếng cải chính, nói lên sự thật:

- Anh Tình và bà con cô bác ơi, tôi không phải là hải quân.

Mọi người không tin:

- Ông hải quân giỡn hoài, tài đi biển rành rành mà.

- Ông hải quân.vui tính qúa trời.

Thư nghiêm trang và rành rọt tự khai:

- Tôi nói thật tình một lần nữa tôi không phải lính hải quân. Tôi là nhà giáo, dạy học ở trường Phan Thanh Giản tức trường An Cư thành phố Cần Thơ..

- Nhưng trước khi vào nghề giáo chắc ông có đi lính hải quân ?

- Không hề, tôi chưa là lính tráng hải quân ngày nào cả.

Mọi người bật kêu lên:

- Úy trời, thày giáo mà dám chỉ đường đi biển hả? Thày thiệt liều mạng …

- Trời thần thiên địa ơi, nếu tôi biết ông hoa tiêu là nhà giáo thì không dám đi chuyến vượt biên này rồi.

- Nghĩa là ông thày giáo chưa từng đi biển lần nào hả ??

Thư thành thật kể:

- Tôi chỉ đọc sách của một người bạn hải quân và đọc tài liệu đi biển trong thư viện. Thật ra tôi cũng có làm hoa tiêu một lần trong chuyến vượt biên nhưng ghe vừa khởi hành chưa ra tới biển thì bị bắt rồi.

Một bà giọng Bắc kỳ 54:

- Ối giiời ôi, thế ra chuyến đi vượt biên này mới là “thử nghiệm” đầu tay của ông đấy hả ? Gan ông to như cái đình.

Thư cũng ví von đáp lại bà Bắc kỳ 54:

- Vâng, “cũng liều nhắm mắt đưa chân”, chuyến đầu tiên tôi thực sự thử tay nghề hoa tiêu từ A đến Z đấy bác ạ.

Một người khác hào hứng:

- Biết đâu nhờ vía của ông nhà giáo hiền lành mà ghe mình gặp hên 2 lần đó, súng giả mà hù được người ta, rồi bị cướp mà còn được cướp mời lên tàu cho ăn cơm với cá..

- Hèn gì trông tướng tá ông …hơi yếu, không có vẻ con nhà lính là bao, tôi cứ tưởng tại ông đi tù cải tạo về nên ốm o gầy mòn đi chứ.

Anh Tình gạt đi:

- Bà con cô bác ơi, chính tôi cũng không ngờ, nghe Đực giới thiệu hoa tiêu là tôi tin cậy ngay…mà thôi dù là ông thày giáo thì tài hoa tiêu của thày giáo cũng tuyệt vời, đã đưa chúng ta tới bến Mã Lai đúng như dự tính.

- Hoan hô ông hải quân…À quên hoan hô ông thày giáo hoa tiêu

Thư rủ vài người đàn ông khác đi quanh bờ biển để tìm gặp người bản xứ Mã Lai nhờ họ báo tin cho cảnh sát.. Một bà hỏi:

- Thày giáo ơi, gặp cảnh sát làm chi?

- Để khai báo với họ sự hiện diện của chúng ta trên đất nước họ rồi mới được đưa tới trại tị nạn nào đó. Tất cả bà con cứ tập hợp một chỗ đừng đi đâu xa nhé.

Trên tàu họ đã răm rắp tin cậy ông hải quân thì bây giờ trên bờ biển Mã Lai họ cũng tin cậy vào ông thày giáo trẻ tuổi .

Đực cũng đi theo Thư, anh chàng nói với Thư:

- Thày giáo à, nếu khai báo gì thày khai cho em ở gần thày nhé, kể cả sau này đi định cư nước nào cho em theo thày luôn.

Mới ngày nào Đực và Thư là đôi bạn trong tù mù mịt tương lai, nay là đôi bạn trên xứ người tự do thoải mái, tương lai rộng mở phía trước. Chỉ một chuyến vượt biên có thể thay đổi cả cuộc đời.

Họ đi dọc theo bờ biển về phía vài người bản xứ phía xa…

Biển bên cạnh họ, hiền hoà và thân thiện cùng với chân trời rạng ánh bình minh trên biển khơi lấp lánh tươi vui như đang chào đón họ, những người đi tìm tự do may mắn.

Nguyễn Thị Thanh Dương

( Tháng Tư, 2014)
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Sợ vợ

Tràm Cà Mau

Ông Niết tuổi đã bảy mươi, nói với anh con rể:
“Mầy phải biết vùng lên một chút chứ! Sợ vợ như mầy, làm tao cũng nhụt chí anh hùng theo!”
Anh rể khoảng bốn mươi tuổi, cười hề hề:
“Thôi Ba ơi. Chúng ta phải thanh toán cho xong dĩa tiết canh nầy, rồi thu dọn chiến trường, dấu kín tàn dư, chứ chốc nữa vợ con và Má về, biết được thì ồn ào lắm. Khi vui, ba đừng tiết lộ cho Má biết con lén mua tiết canh về cho Ba ăn nghe!”
“Tao có ngu đâu. Mầy biết tao thèm tiết canh nên mua, chứ mầy đâu quen ăn cái thứ nầy! Vợ mầy biết chuyện, thì cũng khổ cho mầy đó!”
Hai bố con miệng mồm dính tiết đỏ lòm, hành lá màu xanh dắt trong răng, nhồm nhoàm nhai khoái trá. Mặt đã đỏ bừng vì mấy chai bia. Giọng ông Niết lè nhè:
“Ừ. Mầy ‘chơi’ thêm chai nữa đi! Tao cũng làm một chai nữa. Có mấy khi được tự do như hôm nay?”
“Sợ mặt đỏ, vợ con về biết!”
“Mặt mầy đã lỡ đỏ như ráng trời rồi, không thể đỏ hơn được. Uống đi, sợ cóc gì? Kỳ thật, đàn bà thấy tiết canh là la lên í-oái. Cấm đoán. Mấy khi có được thứ ngon như thế nầy! Không ăn, cũng uổng lắm sao?”
Ông Niết uống cạn ly bia khà một tiếng, anh rể cũng nốc ực. Ông Niết lặp lại:
“Mầy phải vùng lên, ‘hỡi giai cấp bị trị’ hãy vùng lên dành lại tự do, công bằng.Vợ chứ đâu phải ông trời đâu mà mầy cứ chịu lép một bề hoải?”
“Ba vùng lên trước, rồi con sẽ theo chân Ba mà vùng.”
“Tao đâu có bị vợ đè nén ức hiếp mà phải vùng lên? Mầy biết, bà ấy coi tao như ông trời. Có khi nào tao bị sai bảo, chạy cho có cờ đâu. Bà nói gì mặc, tao đâu có nghe, chẳng làm. Rồi cũng thôi. Làm gì tao được?”
Anh rể cười hì hì: “Con nghe nói ông Trời cũng biết sợ vợ đó Ba à’”
Ông Niết tiếp: “Có ai như mầy đâu? Đi làm việc một ngày mười tiếng đã bở hơi tai. Chiều nào tan sở về cũng phải ghé ngang chợ, vợ điện thoại nhờ mua đủ thứ. Thế mà cũng cứ bị chê rau không tươi, thịt không ngon, trái cây lựa chưa kỹ. Hạch xách đủ thứ. Rồi thứ bảy, chủ nhật sai mầy chở tao và má mầy đi cả trăm dặm thăm người nầy, người kia, Việc gì cũng đổ lên đầu mầy cả. Đôi khi tao cũng bực lắm, thương mầy chịu đựng. Tao mà như mầy, thì...thì...”
“Thì sao hở Ba?”
“Thì sao? Tao cũng chưa biết. Nhưng phải vùng lên, đấu tranh. Ừ, nhưng mà thế hệ của mầy văn minh hơn, nên kiên nhẫn, chịu để cho vợ đè sát ván. Tao không binh con gái, thấy việc bất bình thì phải nói ra. Hừ, nam nữ bình quyền, bình cái con khỉ. Đã cưỡi lên đầu người ta, mà vẫn kêu gào là bị đàn áp chưa bình quyền.”
“Ba say rồi đó!”
“Đúng. Tao say, nhưng còn nói điều sáng suốt.”



Ông Niết chịu bán cái dinh cơ có vườn rộng mênh mông sáu mẫu đất tại một tỉnh nhỏ của một tiểu bang lạnh miền đông bắc Mỹ, dọn về nam California ở với vợ chồng người con gái cho ấm áp và đỡ cô đơn trong tuổi già.

Cái nhà năm phòng ngủ của người con gái được thiết kế lại, chia làm hai phần riêng biệt, cửa vào riêng, nhưng có cửa sau thông nhau. Phần ông bà Niết cũng có đủ hai phòng ngủ, phòng khách, phòng ăn, chỉ thiếu cái bếp, vì cô con gái muốn cùng bố mẹ cùng ăn chung cho tiện. Hàng tháng ông bà đóng góp rộng rãi tiền nhà, tiền ăn, vì không muốn mang tiếng nhờ vả con. Ông bà Niết gạt ra ngoài tai lời khuyên của các bạn già đã có kinh nghiệm quý báu, rằng không nên ở chung với con dâu con rể. Bất tiện và đôi khi tủi thân lắm. Những khi dâu rể nó vô tình đóng cửa mạnh, hay lỡ to tiếng với con cái chúng, mình cũng ái ngại, không biết nó có buồn giận chi mình chăng. Vợ chồng nó cũng có lúc bất hoà cãi cọ nhau, nghe cũng mất vui. Tự do của mình cũng bị hạn chế. Trong nhà, mình cũng phải ăn mặc đàng hoàng, lịch sự, không được tự do đánh trần mang xà lỏn, phơi cái bụng phệ. Ở riêng là tiện và sướng nhất. Biết rõ ý bố mẹ vợ, anh con rể ngăn đôi căn nhà. Khi muốn chung thì cũng chung được, khi muốn riêng biệt thì cũng hoàn toàn riêng. Không ai phiền hà ai.

Bà Niết thường hay to nhỏ cùng chồng: “Anh đừng nêu gương xấu cho thằng rể, làm hư nó, con gái mình có phước, lấy được một thằng chồng hiền như đất cục, biết cưng chiều, hết sức nhịn vợ và chăm sóc cho gia đình. Khó mà kiếm ra được một thằng như vậy lắm”.
Ông Niết cự nự lại: “Thế nào là nêu gương xấu? Tôi đã làm gì sai? Ít sợ vợ là nêu gương xấu chăng? Tôi chưa thấy thằng đàn ông nào ỉu xìu, sợ vợ như nó. Vợ chứ đâu phải cọp beo chi mà sợ đến thế? Nếu nó là con trai của bà, chắc bà đã giãy nảy lên mà xỉa xói, kêu là thằng đàn ông râu quặp, đội vợ lên đầu. Bà phải xử sự công bằng.”
“Không công bằng gì cả. Nó tự nguyện, chứ con gái mình có ức hiếp đâu? Nó cảm thấy sung sướng hạnh phúc được phục vụ gia đình. Đừng nói là ‘sợ vợ’ nghe chướng tai, phải nói là thương vợ mới đúng! Em không có phước bằng con gái, nó được chồng thương hơn.”
Ông Niết cười khà khà; “Tôi không là con gà chết.”

Mỗi ngày đi làm về, anh con rể len lén đặt nhẹ lên bàn mấy tờ báo Việt Nam, rồi liếc nhìn ông già vợ, miệng hơi mỉm cười. Ông Niết biết nó mua cho ông, chứ chưa bao giờ thấy nó đọc báo. Sau đó, anh rể ra xe, ôm nhiều bao bì đầy cả hai tay vào bếp. Vợ nó dặn sẵn, trên đường về ghé chợ mua các thứ nầy.
Những khi có việc đi qua phố, anh con rể thường dẫn ông Niết vào các tiệm sách, la cà tìm kiếm. Thấy ông có vẻ ưa thích cuốn nào, thì nó mua liền. Ông Niết nói không đọc thì đừng mua. Nó bảo cứ mua để đó, khi có thì giờ thì đọc. Biết nó mua cho ông, nên định dành trả tiền, mà nó nhanh nhẩu hơn, trả tiền trước, làm ông cứ áy náy mãi.

Một lần bà Niết nhận xét cái máy truyền hình trong phòng ông bà không được rõ nét và đẹp bằng cái ở phòng khách. Chủ nhật hôm đó, anh con rễ mang về một cái máy truyền hình mới, màn dẹp, khổ lớn, đem vào phòng ông bà. Ông Niết la lên:
“Chết, chết, đem trả lại đi. Cái máy cũ cũng đã tốt lắm rồi. Mua máy mới làm chi cho tốn kém. Ba không chịu cái máy mới nầy đâu.”
“Ba không chịu, nhưng mẹ chịu. Cái màn hình lớn, màu đẹp, rõ nét, xem sướng con mắt hơn máy cũ nhiều lằm. À, mà Ba Mẹ đã xem hết mấy cái dĩa phim truyện chưa? Con đi đổi bộ phim khác. Nghe nói có mấy bộ phim Đại Hàn mới, chuyện cảm động lắm. Mấy bạn con có cả trăm bộ phim hay chọn lọc chứa trong “ổ cứng”, hôm nào con mượn về sang ra, để dành mà xem.”

Ông Niết không muốn phiền anh con rể, gạt ngang: “Thôi, thôi, đủ rồi. Chừng đó dĩa phim xem mãi, mờ con mắt ra, cũng chưa xong.”
Bà vợ ông gắt: “Thôi sao được mà thôi? Ông không xem thì để tôi xem.”
Ông Niết nháy bà vợ, nói nhỏ: “Đủ rồi, đừng quá lợi dụng lòng tốt của nó.”

Cứ vài ba hôm, anh con rể mua món nhậu ngon về cùng bố vợ khề khà với vài chai bia trước khi ăn cơm chiều. Mấy lần mua được thịt bê thui, anh con rể vui vẻ nói lớn:
“Hôm nay qua chợ, thấy có thịt bê thui còn nóng, mới giao hàng, trông ngon lắm, con mua mấy lạng, về hai bố con mình nhậu cho vui.”
“Không chờ vợ con và mẹ ăn luôn sao?.”
“Con có để phần rồi. Mình lai rai làm vài chai bia trước. Bê mới thui, thịt tươi rói, mới nhìn thôi cũng đã cảm được cái vị ngọt trong miệng rồi!
Hai bố con đem bàn ra vườn, ngồi nhai lai rai. Ông Niết cười, nói đùa:
“Mầy tập cho tao hư rồi đó! Uống bia nhiều, cái bụng cứ to thêm mãi. Khi ở trên miền Bắc, không có bạn nhậu, lâu lắm mới uống một chai bia. Uống một mình, không thấy vui, chẳng cảm được cái vị ngon.”
“Lâu lâu mới có một bữa mà Ba! Tội chi không vui với những cái hạnh phúc nho nhỏ nầy? Trời cho mà không nhận, cũng uổng! Con biết Ba ưa ăn ngon, nhưng lại sợ bị bệnh tim, gan. Cứ ăn tưới đi, tới đâu thì tới. Năm ba bữa, làm một chầu cho đời lên hương, đừng ngày nào cũng say sưa là được!”
Cô con gái ông Niết đi làm về, mở cửa nhìn ra sân sau, làm anh con rể giật bắn mình quay lại nhìn vợ. Cô nói lớn: “Mỗi người một chai bia thôi nghe!”
“Ưà! Một chai thôi.” Anh con rể đáp lời vợ, quơ tay xuống bàn, giấu mấy vỏ chai vào góc kẹt, rồi nháy ông Niết mà cười.



Mùa hè trời nắng nóng, buổi chiều ngày nghỉ, anh con rể thường đưa cả nhà ra bãi biển, trải tấm khăn lớn, quây quần dọn thức ăn ra, chung vui. Thằng bé con lăn lộn vọc cát. Ông Niết đi bộ ven theo bờ nước nghe sóng vỗ rì rào. Bà vợ không muốn ông đi một mình, sợ ông ham ngắm nhìn những thân thể lồ lộ mập mạp của các bà ít vải che trên thân thể. Bà cứ kêu ông trở lại, không cho đi xa.
Bà nguýt ông và nạt: “Con mắt cứ láo tiên như mèo thấy mỡ.”
Ông phản ứng ngay: “Ra đây bà bắt tôi phải nhắm mắt lại sao? Nói thế, con cháu nó cười cho.”
“Cười ông chứ cười ai? Già rồi mà chưa chịu yên!”
Anh con rể đưa tay bí mật bấm ông Niết làm dấu. Ông liếc nó mà mỉm cười.

Trăng vàng sáng vằng vặc trên bãi biển. Ông Niết nằm ngữa nhìn lên trời và nhớ về quê hương xa xôi, có những đêm trăng sáng trên đường quê, trai gái rộn ràng ca hát vui chơi. Tiếng nhạc du dương êm đềm từ các quán nước văng vẳng mơ hồ. Ông Niết nhắm mắt, thiếp đi một giấc ngắn. Mộng thấy còn nằm trong lao tù cải tạo. Khi thức giấc,ông giật mình hoảng hốt, nhìn quanh xem có thực đang ở trên đất Mỹ, có vợ con bên cạnh hay không. Thấy dáng điệu lạ của chồng, bà vợ hỏi có sao không? Ông trả lời là không sao hết. Những lúc như thế nầy, ông bồi hồi, cảm thấy sung sướng, hạnh phúc dâng tràn. Ông cám ơn nước Mỹ, đã dang rộng vòng tay ra cho ông có nơi dung thân, cám ơn vợ, con đã đem lại cho ông tháng ngày bình an sung sướng nầy. Ông nghĩ đến những người anh em bên kia chiến tuyến mà thương cho họ. Họ đã khởi động cuộc chiến, xua quân xuống miền Nam, tấn công chinh phục. Thế mà họ lại còn hận thù chất ngất nạn nhân của họ. Biết bao nhiêu xương máu đã đổ ra, chỉ để được nghèo đói hơn, bị áp bức hơn, và thiếu tự do hơn. Ông thầm nhủ, thôi quên đi, phe nào cũng tội nghiệp cả. Lỗi lầm của lịch sử.

Nhiều khi anh con rể đưa cả gia đình về một khu thương mãi lớn, ngồi trên sân rộng, có gần cả trăm bàn vây quanh sân khấu thấp, nghe nhạc sống, đàn trống xập xình vang vang. Ban nhạc đầy đủ đàn lớn, đàn nhỏ, kèn, tiêu, sáo hoà âm rộn ràng. Ca sĩ già trẻ thay phiên nhau ca hát. Người nghe ngồi gật gật thưởng thức với cái hạnh phúc toát ra trên những khuôn mặt vui tươi. Những sinh hoạt nầy không có ở thành phố vắng vẻ nơi ông ở trước đây. Không cần hỏi trước, anh con rể băng qua bên kia, mua về cho mỗi người một ly kem mát lạnh, ngọt và ngon. Khi thấy nhiều cặp già trẻ đứng lên nắm tay nhau bước theo điệu nhạc, anh rể kéo ông Niết đứng lên:
“Ba ra nhảy với con vài bản cho ấm người thông máu”

Ông Niết gạt tay anh con rể: “Nhảy nhót gì, mấy chục năm chưa nhảy lại lần nào. Mà già rồi, kỳ lắm.”
Anh rể cười cười: “Ba nhìn qua bên kia kìa, hai cụ cũng gần chin chục tuổi, còn muá may lia lịa. Ba đứng dậy đi! Má chịu rồi đó.”
Ông Niết ra muá may với anh con rể trong tiếng nhạc dập dồn. Bước tới, bước lui, tay hoa, chân đá, uốn éo. Hai cha con vờn nhau trong tiếng trống, tiếng kèn. Khi nhạc dứt, trở về ghế ngồi. Anh con rể nói:
“ Ba dấu nghề kỹ quá. Ba nhảy bay bướm mà lạ lắm.”
“Bay bướm cái con khỉ. Tao múa võ đó, đi theo bài quyền ‘Thập Bát La Hán’ Múa theo điệu nhạc, thì ‘khiêu võ’ cũng thành ‘khiêu vũ’ vậy.”
Bà vợ ông xì một tiếng dài.

Ông Niết thấy dọn về nơi nầy, tìm được nhiều thú vui hơn. Có khi cả tuần, ông chưa hề nói một câu tiếng Mỹ. Nhưng ông cũng bực, vì bị bà vợ và con gái bao vây, chăm sóc cho ông quá kỹ, không cho ông lái xe nữa, lấy lý do ở đây thành phố đông đúc, xe cộ như mắc cữi, mà thì ông đã già, chậm, mắt kém, dễ gây tại nạn. Ông nói hai mươi mấy năm nay đã lái xe trên đất Mỹ, mà có sao đâu? Thế nhưng vợ và cô con gái đồng thanh bảo, nơi đây là đô hội, chỗ ở trưóc kia là thành phố nhỏ quê mùa, hai bên khác nhau. Ông đòi mua xe đạp, cũng ngăn cản, không cho. Những khi ông đi bằng xe buýt, thì ở nhà bà lo lắng, quýnh quáng, chốc chốc kêu điện thoại di động kiểm soát xem ông có gặp trắc trở gì không. Vợ và con gái canh chừng ông như chăm nom đứa trẻ con. Ông cũng biết vì tình thương mà vợ và con lo lắng và ngăn cản ông.
Những khi cần thăm bạn bè ở xa, ông Niết muốn dùng xe công cọng cho khỏi nhờ vả ai. Nhưng cô con gái ông không muốn bố mẹ đi đường chờ đợi cực khổ, nên nhờ chồng đưa đi.

Ông Niết phải cương quyết: “Thôi, bố mẹ ở nhà, không cần đi nữa.”
Anh con rể dịu dàng nói: “Con cũng cần đi qua vùng đó có công chuyện, nhân tiện chở Ba Mẹ đi luôn.”
Ông biết anh con rể có lòng tốt, nói vậy cho ông khỏi áy náy, ông nhất quyết khước từ. Bà vợ ông thì không chịu hiểu, cứ nằng nặc đòi đi. Ông thở dài: “Thôi, nếu muốn thì bà đi một mình. Tôi mệt nằm nhà.”
Bà vợ gắt: “Vô duyên chưa! Bạn của ông mà tôi đi thăm một mình được sao?”
Những khi anh con rể đi vắng, ông Niết có dịp ngồi riêng với cô con gái, ông thường nhỏ nhẹ:
“Con cũng nên xét lại cách cư xử với chồng cho hợp lý hơn. Cứ sai nó việc nầy, việc kia lu bù, bắt nó chạy cho long tóc gáy, lại còn chê bai, giận hờn, nạt nộ. Chống chứ đâu phải là đầy tớ, hay nô lệ? Một ngày kia nó ý thức được bất công, rồi vùng lên, thì không tốt đâu!”
“Con có làm gì quá đáng đâu? Con chưa hề nghe anh ấy kêu khổ hoặc than thở bao giờ! Con không hiểu Ba muốn nói gì!”
Một hôm, con gái ông ngồi chơi đùa với đứa cháu ngoại bảy tuổi. Khi cô ôm con vào lòng và hỏi:
“Sau nầy lớn lên con sẽ làm gì?”
“Con sẽ sợ vợ, như bố sợ mẹ!”
“Không. Không. Không được. Con của mẹ phải mạnh dạn, hùng dũng, không sợ ai cả. Mà ai dạy cho con câu nói nầy?”
Thằng bé đáp rất tự nhiên:
“Ông ngoại.” ./.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM

truyện ngắn của PHAN XUÂN SINH

Sau khi lên ngồi phía sau xe taxi, Hiền nói với người tài xế: “Tôi muốn đi tìm nhà người quen ở Thanh Khê. Lâu quá rồi tôi không đến đây nên chỉ còn nhớ mang máng. Từ ngã ba Thanh Khê vào một con hẻm lớn chừng hai trăm thước, rồi lại quẹo phải chừng năm mươi thước, căn nhà đó nằm bên phải. Người bạn tôi tên Lượm, dân cố cựu vùng nầy. Nhờ anh tìm giùm. Anh đừng lo, tôi sẽ bồi dưỡng cho anh hậu hỉ”.

Người tài xế hỏi lại: “Thế chị không tới đây từ bao lâu rồi?”

Hiền trả lời, hình như đã tính trước: “Chừng mười lăm năm”

“Mười lăm năm, biết bao nhiêu vật đổi sao dời, sợ rằng mọi vị thế đều thay đổi, nhận không ra. Hy vọng anh ấy là dân sống ở đây lâu năm thì hàng xóm láng giềng biết sẽ chỉ cho chị, hy vọng không khó lắm”.

Người tài xế cho xe chạy ra đường Hùng Vương, con đường huyết mạch của Đà Nẵng ngày xưa, xe cộ tấp nập nhưng chị không để ý, suy nghĩ miên man. Chị quyết tâm gặp lại Lượm và đứa con gái của chị, sau mười lăm năm chị vượt biên biệt tích, không có một tin tức nào về cha con họ. Dù Lượm có xỉ vả mắng nhiếc chị, có xua đuổi thì chị cũng phải gặp họ để nói một lời xin lỗi, để nhìn lại đứa con gái mà khi chị ra đi nó chỉ mới bốn tuổi. Đứa con mà bao nhiêu năm sống cơ cực ở quê nhà, chị không gửi một đồng bạc nào về cho con bởi lòng ích kỷ vì sợ Lượm sẽ bắt liên lạc, gây khó khăn cho chị. Trong lúc chị muốn tránh tất cả, để mọi người nghĩ rằng chị đã chết. Khi ra đi trong lúc Lượm còn trong trại cải tạo, gia đình nghèo khổ, tất cả đồ đạc trong nhà đều bán sạch. Cũng vừa lúc đó có những chuyến vượt biên bán chính thức dành cho người Hoa, chị được một người đàn ông quen biết đề nghị giúp chị với điều kiện chỉ một mình chị đi, con phải để lại. Chị đắn đo bao nhiêu ngày, nếu ở lại với tình trạng nầy mẹ con đều chết đói, chi bằng gửi con về bên nội rồi qua đến Mỹ chị gửi tiền về nuôi con. Chỉ có một con đường nầy giải quyết ổn thỏa bức bách về sự sống còn của chị và con. Thế nhưng oan nghiệt thay…

Xe ngừng trước một con hẻm, tài xế quay qua nói với chị: “Đã đến nơi, chị cứ ngồi trên xe, để tôi xuống hỏi những người quanh xóm nầy có biết ông Lượm còn ở đây không?”

Chị nhìn quanh nhưng không thể nhận ra có cái gì quen thuộc mà trước đây chị sinh sống. Mọi vật đều thay đổi xa lạ. Tự nhiên chị hồi hộp, tim chị đập mạnh không biết chuyện gì sẽ xẩy ra với chị khi đứng trước mặt anh. Bây giờ chị mới thật sự thấy lo lắng. Chị lấy kính đen ra mang để mọi người trong xóm nầy không ai nhìn ra được chị, người đàn bà có một thời gian dài sống ở đây. Làm sao chị có thể bước xuống xe đi bộ vào con hẻm trước bao nhiêu cặp mắt soi mói nhìn mình. Có phải chăng đây cũng là một hình phạt về cái chuyện mình đã gây ra cho cha con họ. Vì sự ích kỷ của mình, vì gặp một hoàn cảnh nhục nhã mà mình không muốn cho cha con họ biết, nên mình đã cắt đứt liên lạc với chồng con, để bây giờ mọi chuyện đều ngỡ ngàng, cảm thấy xấu hổ.

Người tài xế trở ra nói với chị: “ Anh Lượm còn ở đây, nhưng không có ở nhà, đang bán phở ngoài đường cái. Tôi đưa chị ra đó”.

Xe chạy ra đầu hẻm thì ngừng, quán phở nằm bên kia đường. Chị ngồi trên xe nhìn qua quán phở nhận ra anh ngay. Anh đang đứng phía sau nồi nước lèo đang bỏ bánh phở vào tô cho khách. Vẫn bộ râu mép rậm rạp, vẫn nụ cười luôn luôn trên môi mà ngày xưa anh đã chinh phục chị. Chỉ khác một điều là ngày xưa anh là một phi công, còn bây giờ anh là người bán phở. Chị ôm mặt cúi đầu khóc nức nở, thương cho anh quá nhưng bây giờ làm sao đây. Tóc anh nhuốm bạc, da sạm, đôi gò má hóp đủ biết anh sống trong cơ cực, bần hàn, thế mà bao nhiêu năm nay chị không chi viện một đồng bạc nào cho anh và con để sống. Nghĩ tới sự bạc tình của mình, chị cảm thấy xấu hổ. Làm sao cha con anh không oán trách?

Người tài xế hỏi chị:

“Chị xuống xe, hay còn đi đâu khác?”

“Anh cho tôi xuống đây”. Rồi chị móc ví trả tiền xe, không quên gửi tiền thêm cho tài xế.

Chị vào một quán nước đối diện với tiệm phở của anh bên kia đường, tìm một chỗ ngồi thích hợp để nhìn qua. Chị phân vân không biết làm cách nào để gặp anh, trong lúc khách khứa còn ra vào. Chị gọi một ly café đá rồi hỏi chuyện người bán quán:

“Tiệm phở bên kia đường bán có khá không chị?”

“Phở bình dân rẻ tiền, bán cho khách lao động quen biết, kiếm đủ sống?”

Chị muốn hỏi về đứa con gái của chị, nhưng không biết cách nào chị phải hỏi một cách lòng vòng, mông lung:

“Có một mình anh đó đứng bán, không có ai giúp anh ấy sao?”

“Trước đây thỉnh thoảng có đứa con gái phụ với cha, bây giờ nó đi học xa chỉ một mình ổng làm”.

Chị ngạc nhiên:

“Bộ ở đây không có trường sao mà phải đi học xa?”

“Con bé học giỏi lắm. Lên đại học, ở đây không có ngành đó, nên nó phải vào Sài Gòn”.

Chị cuối mặt thoáng một vẻ vui mừng. Chị nói một cách bâng quơ:

“Bán phở bình dân mà nuôi con lên đại học, giỏi thiệt”.

Người bán quán dừng tay pha café, nhìn chị như soi mói và trách móc một cách nhẹ nhàng:

“Ông đó có vợ đi Mỹ nhưng biệt tích, nghe nói bà ta có chồng khác không giúp gì cho cha con ông ấy hết. Tệ thật”.

Một lời cố ý hay vô tình đã làm cho chị thấm đau. Một người dưng bên ngoài không ở trong cuộc, nhưng thấu hiểu được hoàn cảnh của cha con anh, lời của họ như muối xát vào mặt chị, huống gì cha con anh làm sao tránh được sự phẩn nộ? Chị tự hỏi có nên gặp anh ngay bây giờ không? Chị có chịu nổi sự chửi bới nặng nề của anh giữa lúc tiệm đang có khách, có mặt những người lạ.

Chị hỏi người bán café:

“Quán phở bên kia mấy giờ mới đóng cửa?”

“Sắp đóng cửa bây giờ. Quán chỉ bán buổi sáng và trưa, hai giờ chiều đóng cửa để ông ấy đi chợ lấy hàng về nấu, chuẩn bị cho sáng mai. Ngày nào cũng vậy, tội nghiệp”.

“Anh ấy không lấy vợ khác sao?”

“Ông ấy bảo rằng mình nghèo quá không lo cho người ta trọn vẹn, làm khổ thêm một người nữa, mình không đành. Thôi ở vậy nuôi con. Ông ấy cũng có nhiều bà thương, cũng có bà lắm của nhiều tiền, nhưng ông không màng tới, hình như ông sợ chuyện lấy vợ. Một con chim bị thương nên sợ hãi tiếng bật của cung”.

Chị cuối xuống, khóc nức nở như có ai thọc trúng yếu huyệt. Sau cơn giằng xé con tim, chị gỡ kiếng đen ra lấy khăn lau nước mắt. Ngày xưa anh đẹp trai, một trung úy phi công bay bướm. Nhưng khi kết hôn với chị, anh từ bỏ tất cả các thú vui về sống với vợ con. Lương trung úy của anh cộng với lương giáo viên của chị, hai vợ chồng không giàu có nhưng sống thoải mái. Những ngày sống với nhau thật hạnh phúc, buổi chiều anh chở vợ con trên chiếc xe lambretta đi hóng mát trên bờ sông Hàn. Thứ bảy gửi con cho bà ngoại, vợ chồng đi xem ciné hay nhảy đầm. Một khoảng thời gian ngắn đó đã cho chị hiểu được thế nào là hạnh phúc, mà suốt cuộc đời sau nầy chị không thể nào tìm lại được. Chính chị là người đánh rơi mất cái hạnh phúc tuyệt vời đó, chối bỏ chồng con, chạy theo một thứ danh lợi phồn hoa. Đày ải anh và con lâm vào cảnh bần cùng tồi tệ.

Chị nói thật với người bán café:

“Tôi là vợ của anh Lượm trước đây và là mẹ của cháu Hậu. Không ngờ rằng tôi đã gây ra nhiều oan nghiệt cho cha con họ quá. Chính tôi cũng không thể tha thứ cho lầm lỗi của mình, thì làm sao tôi đòi hỏi chồng và con tôi tha thứ cho tôi được”.

“Tôi không ngạc nhiên, vì Hậu giống bà như đúc. Khi nghe bà hỏi thăm ông Lượm là tôi có linh tính đoán ra được bà là vợ của ông ấy trước đây. Bà cứ qua đó gặp ổng, chắc ông mừng lắm”.

“Không đâu. Tôi nghĩ anh ấy có thể giết tôi cho hả giận, nhưng tôi không sợ. Có lẽ như vậy tôi cảm thấy thanh thản hơn”.

Chị trả tiền café, đứng dậy, cám ơn, rồi băng qua đường. Người bán hàng nhìn theo chị vừa lo lắng, vừa thương hại, và cũng vừa có chút trách móc. Anh đang chuẩn bị đóng cửa tiệm, chị bước tới đứng phía sau, gọi khẻ:

“Anh Lượm”.

Anh quay lui, sững sờ, mắt anh sáng rực, đôi mày anh nhíu lại, rồi anh thốt lên:

“Hiền đó à, khỏe không em?”

Em không muốn anh hỏi em như vậy. Hãy tát vào mặt em, chửi rủa hành hạ em và nếu cần có con dao thái thịt trên bàn, anh có thể chém em một nhát. Em sẳn sàng tất cả rồi, phải dùng những phương tiện tồi tệ nhất đối với em chứ đừng nhỏ nhẹ với em như vậy. Em không có quyền nhận sự mềm mỏng, sự tha thứ nào của Anh và con…

“Hiền vào quán, anh khóa cửa. Chúng ta nói chuyện không có ai quấy rầy”

Chị nhìn quanh cửa tiệm, vỏn vẹn có năm cái bàn nhỏ, một quày tính tiền, hai bếp lò than kê sát vách tường. Một quán phở bình dân dành cho dân lao động. Tài sản sơ sài của anh khoảng chừng một trăm dollars, thế mà nuôi con ăn học đàng hoàng. Chị kéo ghế ngồi vào bàn, hai tay chống trên bàn mặt cúi xuống, chị gỡ kính ra lau nước mắt, nhưng nước mắt cứ trào. Chị khóc cho ai, cho chị hay cho anh? Chị không còn phân biệt được, nhưng có một điều nước mắt sẽ làm cho người đàn ông phấn chấn và xiêu lòng. Anh kéo ghế ngồi đối diện, không nói một lời, nhìn chị khóc cho hả bớt sự tức tối, đay nghiến chính mình. Sau một hồi lâu, anh mới lên tiếng:

“Em đừng chống tay lên bàn dơ tay áo. Hôm nay anh chưa lau bàn”.

“Anh đừng lo, cái dơ bẩn nầy nhằm nhò gì cái dơ bẩn của em đang mang trong người. Mọi người biết chuyện đều xa lánh khinh bỉ em, chửi rủa mắng nhiếc em. Còn anh, sao anh lại tiếp em, không hành xử thô bạo với em, để cho hả dạ mà em đã gây ra cho anh…”

Anh nhìn chị rồi cười:

“Như vậy thì ích gì cho anh? Thú thật với em, từ lâu anh không còn biết giận hờn là gì cho nên lòng anh mới được thanh thản. Nếu cứ mang hận thù mãi trong người, chồng chất cái nầy lên cái kia, đến bây giờ chắc nó đã dìm anh chết mất. Nhưng thôi, lâu quá mới gặp em, nói chuyện khác cho vui”.

“Chuyện gì với em cũng không thể vui được. Từ khi ngồi trên máy bay em khóc mãi cho đến bây giờ. Em nghĩ gặp anh, em sẽ bị xua đuổi, sẽ bị nguyền rủa thậm tệ. Em đã chuẩn bị những tình huống xấu nhất. Dù thế nào, dù có chết em cũng phải gặp anh và con, để cho em thấy được mặt, rồi sau đó ra sao cũng mặc”.



“ Cái gì mà ghê gớm đến thế. Tụi mình cũng đã bắt đầu mấp mé đến tuổi già, không bằng lòng cái gì thì nói với nhau, gây cho nhau khó khăn để làm gì? Con Hậu nó đi học ở Sài Gòn, em cần thì anh cho địa chỉ để vào gặp nó. Còn anh bao giờ cũng vậy, tà tà sống qua ngày, không còn bị ràng buộc những bon chen, những tranh giành. Bây giờ anh không còn gì để mất, một cơn bão đã bật tung cội rễ, một canh bạc đã làm khánh tận. Có ngồi than thân trách phận cũng chẳng được gì. Chi bằng mình gạt bỏ tất cả để sống cho mình, cho con. Đủ rồi”.

Chị ngồi trước mặt anh, cách nhau một cái bàn, có thể nắm lấy tay nhau được. Thế nhưng sao hai người có một khoảng cách rộng lớn quá. Anh sống cho mình, cho con, nhưng chị cứ nghĩ anh đang sống cho tha nhân, lòng anh mở toang. Anh rộng lượng như Bồ Tát, tính tình anh thay đổi một cách lạ kỳ. Ngày xưa chị khiếp sợ trước cơn giận dữ của anh, đôi mắt anh sáng quắc nhìn chị như ăn tươi nuốt sống. Chị tránh nhìn vào đôi mắt đó, hình như nó có một cái gì đó làm cho chị khiếp sợ, thuần phục. Thế nhưng sau cơn giận, bao giờ anh ôm chị rồi xin lỗi chị trước. Còn bây giờ cũng đôi mắt đó sao nó có vẻ lung linh dịu hiền, có một thần lực sâu kín, một cái nhìn vị tha. Còn chị, chỉ biết bo bo sống cho mình, hẹp hòi, ích kỷ. Luôn luôn nghĩ tới lợi ích, chà đạp lên tất cả, bất chấp dư luận. Chị đã ruồng bỏ chồng con, xem như họ không có mặt trên cuộc đời nầy. Chị quên họ để dễ bề tái lập một cuộc sống mới cho đở hổ thẹn với lương tâm. Mà làm gì có lương tâm khi con người không còn tình thương yêu đồng loại, đừng nói gì đến tình máu mủ ruột thịt. Anh đang ngồi bên kia đối diện. Cái áo thun cũ mèm, chiếc quần tây mốc thếch, đôi dép Nhật mòn lẳng. Vẫn đôi lông mày rậm rạp, mái tóc muối tiêu bềnh bồng một chút phong trần, vẫn hồn nhiên tươi cười, thanh thản. Một tấm lòng rộng lượng. Trông anh sao oai vệ, lớn lao quá. Còn chị, trong bộ áo quần đắt tiền, sang trọng. Khuôn mặt hồng hào trắng trẻo. Sao chị vẫn cảm thấy mình thấp hèn và u tối quá.

“Anh thù ghét em, khinh bỉ em, phỉ nhổ em... anh làm đi, hãy làm đi để em được thấy mình bị trừng phạt, bị nguyền rủa. Em không mong anh và con tha thứ, mọi thứ nầy em không xứng đáng nhận lãnh. Về đây, em chỉ mong thấy được anh và con, rồi em có chết cũng thỏa lòng”.

“Tại sao em phải đày ải mình như vậy để làm gì? Được em còn nhớ tình xưa đến thăm cha con anh, đó là diễm phúc lắm rồi. Chúng ta không còn nợ gì với nhau, hãy để mọi chuyện yên nghỉ. Nếu em còn ở đây thỉnh thoảng đến thăm anh, còn vào Sài Gòn thì đến thăm Hậu, nếu em có thì giờ. Cuộc sống của cha con anh như một cổ máy vận hành đều đặng, mười mấy năm không ngơi nghỉ. Em về, tự nhiên anh cảm thấy có một chút giao động, cuộc sống như chựng lại. Hy vọng mọi chuyện sẽ trở lại như cũ”.

“Có phải chăng đó là lời cảnh cáo? Đừng làm phiền anh phải không?”

Anh nhìn đi chỗ khác:

“Em nghĩ sao cũng được, bây giờ không phải lúc tranh cãi những chuyện vu vơ. Anh không nói như vậy. Nhưng nếu em nghĩ như vậy thì cũng chẳng sao. Từ lâu anh sống trong cô đơn quen rồi, em về khuấy động lòng anh không ít. Dù có dửng dưng thì cũng bị một cái ”sốc”. Anh thấy tủi thân. Hay là em đừng tới nữa, để anh yên vị với cách sống xưa nay của mình”.

Chị bật khóc nức nở, anh đã thẳng thừng đuổi chị nhưng chị cảm thấy như vừa lòng. Bây giờ chị mới nhận được một chút hất hủi, ít ra nó phải mang một cái gì đó thể hiện sự trừng phạt. Mười lăm năm, anh đã đắng cay trong cực khổ, chờ vợ thương tình gửi cho một ít tiền nuôi con, vợ lờ đi. Anh bữa đói bữa no, hy sinh cho con. Những nhọc nhằn trong thời kỳ khó khăn đó, anh không quên được. Bây giờ đời sống đã tạm ổn dù vẫn nghèo khó, vẫn chật vật, nhưng không ở trong tình trạng bức bách như hồi trước. Anh tự cảm thấy bằng lòng với mình. Mỗi tháng gửi cho con một ít tiền ăn học, dặn dò con cố gắng dè xẻn trong số tiền ít ỏi đó. Tội nghiệp con bé, biết cha khổ cực nên không dám tiêu một đồng bạc nào phung phí. Con bé nói với cha nhiều lần là nó phải học. Chỉ có học sau nầy mới giúp được cha thoát khỏi cái cảnh nghèo khó. Con bé khôn lanh từ nhỏ, đã lăn lóc với cha trong mưu sinh, trưởng thành trong chật vật, nên hiểu cái giá trị đồng tiền tạo ra từ mồ hôi, từ khổ nhọc. Chính vì vậy nên anh cũng yên lòng khi phải xa con.

Sau khi những xúc động, những ngỡ ngàng gặp lại nhau trôi qua. Bây giờ anh nhìn chị một cách kỹ càng, để xem một con người hiền hậu, thương yêu chồng con của thủa nào, sau một thời gian ngắn đến Mỹ, đã chối bỏ quá vãng của mình một cách dễ dàng, ruồng bỏ chồng con. Anh lắc đầu, không thể hiểu nỗi lòng dạ con người, khéo léo che đậy bên trong một sự phản phúc thối tha. Cái nhận xét của anh có trung thực không? Có cay nghiệt không? Hay anh là một nạn nhân của hoàn cảnh nên phán xét sự việc nghiệt ngã như vậy. Anh đã cố quên đi những uất hận, những khổ đau của một con người sống cô thế nghèo hèn, bằng lòng với những gì mình tạo ra được, cuốn mình trong cô đơn. Từ lâu đã quen sống trong một môi trường chật vật, không còn tha thiết đến chuyện lập lại gia đình. Anh ngán ngẩm với lòng người. Khi mới học tập trở về, nghe tin vợ đến Mỹ, anh mừng lắm. Như vậy đời sống của cha con anh có một tia hy vọng, sẽ được vợ trợ cấp, rồi một ngày nào đó sẽ được vợ bảo lãnh. Thế nhưng năm nầy qua năm khác, trông ngóng dài cổ vợ vẫn biệt vô âm tín. Cha con anh sống trong khổ cực, trong thiếu thốn phải cắn răng chịu đựng. Tất cả các ước mong trong anh đều tan biến, không còn một tia hy vọng nào. Cũng may, giữa lúc khó khăn như vậy thì một người bạn được gia đình bảo lãnh đi Mỹ, bán lại tiệm phở bình dân nầy bằng cách trả góp. Một cái phao vớt anh ra khỏi sự ngụp lặn trong bon chen, dù nó không đắt khách lắm nhưng sau khi trang trải mọi thứ, cha con anh cũng có một cuộc sống tạm ổn.

Anh nói với chị:

“Con Hậu giống em như tạc, nhưng nó không hiền hậu khéo léo bằng em. Nó sống với cha từ nhỏ nên tính tình của nó cứng rắn, dứt khoát”.

Không hiền hậu khéo léo bằng em, sao anh không nói nó không điêu ngoa, không lừa lọc như em. Để em dễ dàng nhận thấy mình còn được một diễm phúc, là con em ít ra nó khác xa mẹ nó về tính nết, về xử sự, về nhân tính…Anh đã ném cho em một cục đường, mà khi nuốt vào mắc ngang cổ họng. Cái đau của sự ngọt ngào nầy như một chất cường toan thiêu đốt em. Sao anh vẫn còn đối xử với em nhẹ nhàng để làm gì? Khi mà em muốn mọi người phải hành hạ em, phải chửi rủa em. Mười lăm năm nay em chưa thấy mặt con, nhưng em biết nó là một đứa bé ngoan, một mình đi xa trọ học, quyết tâm thay đổi cuộc sống khá hơn sau nầy, để giúp cha thong thả trong tuổi già sức yếu. Nội cái suy nghĩ đã đượm cả một nhân sinh quan đạo đức đó thôi, đủ biết nó sống hết mình với thân thuộc. Hậu là con em, nhưng bỏ xa một khoảng cách dài trong quan niệm sống của em. Nó rộng rãi với người thân bao nhiêu thì em nhỏ nhen ích kỷ bấy nhiêu. Quả thật em không còn xứng đáng một người mẹ, nhưng cũng may cho em, an ủi được em là con em đang là một thiên thần, trong lúc em đã là một quỷ sứ.

“Em à, anh phải đi chợ chiều nay, rồi về nhà nấu, để ngày mai dậy sớm bán hàng. Bây giờ đã trễ quá rôi, sợ người ta không chờ mình được”.

“Anh có thể đóng cửa vài hôm được không? Em năn nỉ anh, cho em xin một cơ hội được gần anh với con vài ngày. Rồi sau đó em sẽ ra đi không còn làm phiền lòng anh nữa”.



“Anh nghĩ, chúng ta đã trao đổi với nhau đủ rồi, cái gì cần thì đã nói. Không cần phải kéo dài ra thêm để làm gì. Chân đã bước qua khỏi lằn ranh, không rút lại được. Tiếc nuối làm gì thì cũng vậy thôi”.

Chị gục xuống bàn khóc. Cũng tiếng khóc nầy, cũng con người nầy mà ngày xưa khi giận dỗi chị vào buồng lên gường nằm khóc, dù có tức giận cách mấy nghe chị khóc anh không làm sao chịu được, nó rưng rức, nghẹn ngào đã làm cho anh xốn xang. Bao giờ anh cũng thua cuộc trước. Lấy khăn lau nước mắt, dỗ dành chị. Còn bây giờ, cũng tiếng khóc đó nhưng sao anh cảm thấy xa lạ. Nó không đánh động được lòng anh. Sao vậy? Mười bảy năm từ khi anh vào trại cải tạo, anh không còn được nghe chị khóc. Bao nhiêu năm xa nhau đã làm cho con người anh chai lì, không còn biết rung động, ngược lại anh thù ghét tất cả. Cũng may anh còn đứa con gái là chiếc phao cuối cùng anh vịn vào đó để sống. Những năm đầu, anh oán hận chị nhưng dần dần về sau nguôi ngoai, mang làm gì cái đó trong người cho thêm nặng nề. Tự nhiên cuộc sống được bảo hòa, anh cố quên đi tất cả để sống thoải mái an lạc.

“Thôi được, anh treo bảng đóng cửa vài ngày vì bận việc gia đình, để khách khỏi phải đợi”.

Anh vẫn chìu chị, anh cứng rắn lắm kia mà, sao lạ vậy? Anh cũng không biết tại sao mình lại mềm lòng như thế. Chỉ vài ngày rồi chị ra đi, anh không nở khi chị trở qua bên kia mà còn mang trong lòng u uất, dù điều nầy xứng đáng với hình phạt bỏ bê chồng con của chị. Thôi, mọi chuyện đâu vào đấy. Gây thêm làm gì những rắc rối cho người khác. Anh phân vân có nên gọi Hậu về thăm mẹ, hay để mẹ vào Sài Gòn rồi đến thăm con. Hậu là đứa con gái cứng đầu, thù ghét dai dẳng chắc gì nó tiếp mẹ, mặc dù nó cần có mẹ. Anh đề nghị với chị nên đánh điện tín gọi Hậu về, dù gì có anh bên cạnh nó cũng không dám đay nghiến mẹ hay lở lời với mẹ. Anh về nhà tắm rửa thay đồ rồi lấy chiếc xe honda cà tàng của mình chở chị ra bưu điện. Chiếc xe nầy thuộc loại cũ mèm, khi qua tay anh nó chưa có hân hạnh chở người, mỗi ngày anh dùng nó chở thịt, bánh phở, rau v.v.. mọi thứ cho tiệm phở của anh. Đây là lần đầu tiên chở người. Sau khi suy nghĩ, anh đánh điện tín cho Hậu với nội dung: “Hậu, Ba đau nặng. Mua vé máy bay về gấp”.

Sau hơn mười bảy năm, bây giờ chị mới ngồi phía sau xe anh chở. Chị cảm thấy thật hạnh phúc, tay chị ôm ngang lưng anh, đầu tựa vào vai, chị được ngửi lại mùi da thịt quen thuộc của những ngày êm ả thủa nào. Chị cảm thấy thương quá, thân hình anh ốm o, vóc dáng như nhỏ lại. Ước gì hai tay chị được ôm siết anh thật chặt như ngày xưa, cái mơ ước thật nhỏ bé, thật đơn giản, đang ở trong vòng tay chị. Thế nhưng nó quá xa vời, chị không đủ can đảm tiến tới thêm, hình như nó đang có một lực cản mà chị không tiến tới được, vừa xấu hổ vừa quý trọng đang âm ĩ trong người chị.

“Em có cần đi đâu nữa không?”

“Anh chở em đi vòng thành phố một chút được không? Em muốn nhìn thấy lại thành phố”.

Anh không thấy gì ở chị một sự thay đổi, vẫn nhỏ nhẹ như ngày nào, vẫn còn thùy mị mà sao trong lòng chị thay đổi nhiều như vậy. Anh không muốn hỏi về gia đình của chị ở Mỹ, vì anh sợ đụng tới một sự thật phủ phàng. Thôi hỏi để làm gì, khi mà mọi thứ đều nằm ngoài tay với, biết để rồi ấm ức chứ ích gì. Anh đưa chị đi những nơi mà ngày xưa vợ chồng hay lui tới, khung cảnh tuy có đổi khác, nhưng trong lòng của hai người vẫn còn đọng những dấu ấn. Chị xin anh cho chị về nhà ở vài ngày được không, để chờ con Hậu về rồi tính sau. Anh phân vân, lại làm khó cho anh nữa rồi. Cũng may căn nhà anh mới xây lại năm vừa qua, tuy không tiện nghi nhưng cũng có nơi để chị nghỉ. Ghé qua khách sạn để chị lấy đồ đạc. Anh ngạc nhiên, đi bao lâu mà mang đồ nhiều quá vậy, bốn cái va-li và một cái xách tay, phải nhờ khách sạn gọi taxi chở đồ.

Khi xe về tới đầu hẻm, cả xóm chạy ra nhìn chị. Chị cảm thấy thẹn thùng, cúi đầu đi nhanh vào nhà. Chị còn nghe tiếng trằm trồ: “Bà đẹp quá, giống con Hậu như đúc”. Hàng xóm phụ anh mang va-li vào nhà, không quên chúc mừng anh đoàn tụ. Anh nghe như có cái gì mỉa mai, thấm đau. Có ai biết được nội tình của anh bây giờ. Vợ sờ sờ ở đó mà không phải của mình. Xa nhau lâu ngày khi gặp lại mà trong lòng vẫn bình lặng.

“Tối rồi, em muốn ăn gì anh chở đi”.

“Em ăn chay, mười lăm năm nay”.

Anh nghe như có cái gì đó chói tai. Ăn chay mười lăm năm nay để rồi bỏ bê chồng con như vậy sao? Con người nầy càng gần càng thấy khó hiểu. Những người có tâm nguyện ăn chay thì phải hướng về những điều lương thiện. Việc của chị đối xử với cha con anh mười lăm năm nay không có chút lương thiện tí nào. Anh không thể nào hiểu nổi lòng dạ đàn bà.



Hai ngày sau, Hậu về tới nhà. Bước vào cửa, Hậu nhìn thấy chị, kinh ngạc và biết ngay người đó là mẹ mình. Hậu quay mặt vào vách khóc nức nở, tiếng khóc mang nhiều suy nghĩ lẫn lộn: trách móc, thù ghét, mừng tủi v.v.. chị lại gần ôm con. Mười lăm năm bao giờ chị cũng nghĩ tới con, chính vì nó mà chị giữ lại mạng sống nầy. Ai hiểu được cái đau khổ tột cùng của chị. Nước mắt chị rơi trên vai con.

Hậu nói trong nước mắt:

“Từ lâu con cứ nghĩ mẹ đã chết”.

“Vâng, chính mẹ cũng nghĩ rằng mẹ đã chết. Hãy tha thứ cho mẹ”.

Khi ra đi, con mắt của con cứ đau đáu trông chờ chị. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chị cầu nguyện cho chồng con chóng quên chị, xem như chị đã bỏ thây trên biển đông. Chị không liên lạc để cho chồng con nghĩ rằng chị đã chết. Nhưng mỗi lần toan tính quyên sinh là mỗi lần chị thấy đôi mắt của đứa con hốt hoảng nhìn chị, nên chị phải dừng lại ý định nầy. Thế mà chị không đủ can đảm bắt liên lạc với chồng con. Chị sợ rằng sẽ gây cho họ một sự đau khổ, một nhát chém trên lưng mà không bao giờ lành được. Mười lăm năm, chị không thể chờ thêm được nữa. Phải trông thấy được mặt con, mặt chồng rồi qua lại Mỹ quyết định mọi chuyện”.

Chị ôm vai Hậu lay nhẹ:

“Hậu à, cho mẹ xin lỗi. Về đây mẹ mới biết được một điều là ba và con hận mẹ, nhưng không xua đuổi mẹ. Rồi đây con sẽ hiểu mẹ hơn. Cho đến bây giờ mẹ vẫn ở vậy, không có gia đình. Làm sao mà tái giá được khi mà lòng mẹ bao giờ cũng nghĩ về ba và con. Nhưng thôi chuyện nầy sẽ nói với con sau”.

Anh giật mình nhìn sửng chị. Hậu nín khóc ngay, quay lui nhìn mẹ. Tất cả chờ đợi.

Chị thong thả nói với con:

“Mẹ không nói dối con. Mười lăm năm nay mẹ chỉ biết đi làm, về nhà tụng kinh rồi đi ngủ, ngày nào cũng vậy. Chỉ có cuối tuần đi chợ mua thức ăn. Mẹ nghĩ rằng Ba bây giờ đã có vợ khác. Không ngờ mọi chuyện không như vậy. Tội nghiệp, tất cả đều do mẹ”.

“Thật hả mẹ, con mừng quá”.

Chị ôm con vò đầu:

“Trong bốn cái va-li mẹ mang về, áo quần của con và Ba. Còn mẹ đồ dùng chỉ trong xách tay. Qua lại Mỹ dần dần mẹ sẽ chuyển tất cả tiền về cho con và Ba tùy nghi. Đó là số tiền dành dụm mười lăm năm của mẹ”.

*



Thay đoạn cuối

Thưa chị Hiền,

Chị đã kể cho tôi nghe câu chuyện của đời chị. Chuyện quá sức thương tâm của một người đàn bà bị dày vò bởi những nghịch cảnh trên biển đông, trong lúc vượt biển. Mà sau nầy không dám nhìn lại chồng con. Luôn luôn bị dằn vặt, ám ảnh bởi những hình ảnh dã man của một lũ người mọi rợ, dày xéo trên thân thể của những người đàn bà cô thế, vô tội. Làm cho nhiều người xem mình như đã chết, không dám nhìn lại những người thân, trong đó có chị. Có một điều, sau mười lăm năm chị mới tỉnh người và có một quyết định sáng suốt trở về gặp lại chồng con.

Tôi không đủ chữ nghĩa để mô tả lại cái đau khổ tột cùng của chị, cái chờ đợi mỏi mòn của chồng con chị. Tôi là người ghi nhận vô cùng thiếu sót, mong chị lượng tình tha thứ. Song tôi nghĩ dù sao đi nữa câu chuyện nầy cũng làm cho nhiều người cùng hoàn cảnh thấy được chính mình, cho người khác thông cảm những mảnh đời oan ức của những người đàn bà bị làm nhục, bị dày xéo, đọa đày. Tôi nghĩ, tất cả mọi người nghiêng mình kính phục những người như chị. Đó là vấn nạn khổ đau chung của dân tộc chúng ta, trong một hòan cảnh bi đát của đất nước. Thế giới phải sửng sốt, lương tâm của những con người được đánh động và tình thương đã thắng.

Tôi mong rằng chị sẽ được sống thanh thản với chồng con, với cộng đồng loài người và tự hào tình thương đã đùm bọc lấy nhau, san sẻ cho nhau và tương kính nhau để sống.

Chúc chị và gia đình thành công trên bước đường còn lại.

Dallas, ngày 29 tháng 9 năm 2008.

Phan xuân Sinh
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

CUỐI BỜ XA CÁCH
TRẦN HOÀI THƯ

Cho tới bây giờ, tôi mới thấy rằng tôi là một tên bất nhân nhất thế gian. Một tên vô tâm độc ác. Không, anh đừng vội ngạc nhiên. Cũng đừng thắc mắc tại sao tôi lại tự sỉ vả tôi như thế. Cho dù từ trước tới nay, tôi chưa dám giết một côn trùng, sợ máu như sợ một thứ gì ghê gớm. Hãy bình tâm, cho tôi thú tội. Dù sao đi nữa, anh là kể đến với tôi chiều nay, buồn cùng nỗi buồn to lớn của tôi, thương hại cùng nỗi cô đơn khủng khiếp của tôi. Anh hãy để tôi được quyền coi anh là một vị linh mục, và tôi sẽ quì xuống để nói ra những gì đã dần mòn cắn rứt con tim tôi suốt mấy năm trời. Tôi đang bị cái hình phạt khủng khiếp ấy bủa xuống, như một ám ảnh tàn khốc nhất của kiếp người. Càng lúc càng độc hại. Ừ trước khi thổ lộ, xin mời anh uống thêm một cốc rượu nữa. Và cho phép tôi cùng nâng ly. Tâm hồn tôi yếu đuối lắm. Nếu không có chất men độc địa này, chắc tôi không đủ can đảm thú tội đâu. Tôi xin anh hiểu mà thương tôi…À, anh thấy gì không? Mua thu đang trở về. Trời ngập gió heo may. Đường ngập lá vàng. Mặt trời màu tái xanh bệnh hoạn . Cảnh trời cũng lây cả một màu bệnh hoạn, đến tận đáy lòng mình. Cây ngô đồng đã đổi màu xanh thành vàng chết, và kìa, lá vàng từng trận rơi xuống như chia buồn cũng cõi thế…

Hình ảnh ấy đã làm chết điếng hồn tôi. Ở đó, có một chút gì của thoi thóp, của run rẩy, của sương khói, của bệnh hoạn, và của ngăn cách. Hình ảnh ấy đã nhắc nhở tôi những kỷ niệm, những hình bóng. Thật vậy, từ lâu tôi yêu những cái gì quá đỗi mỏng manh, như môt làn hương gió. Không hiểu sao, tôi lại yêu đến độ thê thiết như vậy, Nhất là đàn bà. Tôi yêu hạng người có dáng gầy như liễu, có bờ ngực bệnh hoạn, có một cái gì toát ra một vẻ thánh thiện, hay không thực tựa chừng một ảo ảnh…

Có lẽ vì những kỷ niệm xưa cũ. Từ ấu thơ, tôi sống như một vì sao côi cút, và trong xã hội, tôi chẳng khác một con chó ghẻ không hơn không kém. Tôi đã có những đêm bỏ nhà bỏ cửa trốn đi, ngủ nhờ ở vỉa hè thành phố, tôi đã có những ngày đói khát theo lũ bé đánh giày nương tựa. Tôi chưa biết thế nào là môt người mẹ như trăm ngàn đứa bé trên quả địa cầu này đã biết. Nhưng, tôi thề rằng tôi có cô hiệu trưởng của trường cô nhi để tìm đến những lúc tủi thân tột cùng. Đôi mắt của cô trời ơi, khi khép lại, để cầu nguyện thì chẳng khác một đức Thánh mẫu. Cái dáng gầy hao của cô, trong buổi sớm mai, từ văn phòng đến ngôi giáo đường, thì chẳng khác một hình bóng vô cùng thánh khiết, nhất là vào những sáng sương mù dày đặc, thì lại càng đẹp đến não nùng. Lúc ấy, trí óc bé nhỏ của tôi, hình dung ra một bà Tiên. Chính cô là một bà Tiên trở về để an ủi, vỗ về lũ trẻ mồ côi bất hạnh. Chính đôi mắt cô là cả một biển bao dung, và hình ảnh cô là cả một hình ảnh của từ bi độ lượng. Hình ảnh ấy, như một cơn mơ. Đến và đi như một làn hương quí. Quả vậy, tôi còn nhớ như in, hình ảnh ấy đến với tôi trong khi tôi nổi sốt. Tôi chỉ thấy lờ mờ gương mặt dịu hiền, đôi mắt ngoan đạo. Tôi chỉ thấy mập mờ cái dáng mềm yếu, rất là mỏng manh rất là xa vắng, như chừng tan loãng ra ngay. Và đó là lần đầu tiên tôi được nếm thế nào là hạnh phúc. Đó là lần đầu tiên tôi được bắt gặp hình ảnh một người mẹ hiền. Và đó cũng là lần đầu tiên tôi nhỏ xuống má những giọt lệ vì sung sướng quá.

Để rồi từ đó, hình ảnh của cô hiệu trưởng trở nên thân mật với tuổi thơ. Tôi bắt đầu thấy mình nhớ nhung, cũng như thèm khát được nhìn hình ảnh của cô. Có nhiều đêm, tôi lẻn trốn ra ngoài phòng, tìm đến nhà của cô – gần đó, và nép người dưới vườn hoa rậm rạp để nhìn cô đánh đàn dương cầm. Tôi muốn chết trân trước mái tóc dài óng ả chảy suốt cả bờ vai xuống tận nền. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao tôi lại thích như vậy. Tuổi thơ của tôi thật kỳ lạ. Nhưng nếu sống trong hoàn cảnh của tôi, người ta mới hiểu và tha thứ.

Có lẽ, trong những ngày dài như cả thế kỷ trong viện mồ côi, cuộc sống của tôi chỉ thấm nhập bởi những bài kinh thánh, bởi những lời cầu nguyện, bởi những ước mơ xa vời. Nhất là trong nỗi bất hạnh, tủi thân của một vì sao lạc loài, tôi không còn biết gì hơn là ngưỡng vọng một hình ảnh rất dịu dàng mà gần gũi, rất thánh khiết mà bao dung như cô hiệu trưởng. Ở người cô, dường như toát ra một cái gì tuyệt dịu mà tôi không làm sao diễn tả được. Không biết, đó là cái đẹp không? Không biết đó là đức thánh mẫu không? Mà sao tôi mãi mãi bị cái hình bóng của cô theo đuổi hớp hồn. Mà sao, tôi chỉ yêu thích mỗi một hình bóng ấy. Một hình bóng như sương như khói, bệnh hoạn xanh xao, một hình bóng không bị ô nhiễm bởi cuộc thế.

Và năm 20 tuổi, tôi bắt gặp hình bóng ấy qua một người con gái ngoan đạo. Nàng tên là Liên Hạ. Dĩ nhiên là tôi yêu nàng rất tha thiết. Dĩ nhiên đối với tôi, nàng là tất cả. Tôi đã từng bỏ công lặn lội theo nàng hàng giờ, từ ngôi trường nữ trung học, hay từ ngôi nhà của nàng, đến tận nhà thờ thành phố. Tôi đã từng núp đằng sau cánh cổng giáo đường, ôm ngực ôm tim nhìn ngóng nàng đang quì gối trước bục thờ Chúa Hài đồng. Tôi đã từng bị gương mặt thanh tú, đôi mắt vô lượng, bờ ngực gầy, cái dáng mong manh ấy làm chết điếng, bỏ ăn, bỏ ngủ. Nhưng tôi thề tôi không nghĩ đễn nỗi ô trọc, đến thân xác. Tôi chỉ nghĩ nàng là một thần tượng cao cả của tôi một ngôi vị miên viễn tuyệt vời nhất của tôi. Nhất là trong bầu không khí vừa âm u, vừa thần linh dưới vòm nhã nhạc thánh ca ấy. Ở đó, chan hòa một bầu trời vô lượng, vô biên, mà nàng, quì gối cúi đầu, viền mi khép trĩu, áo lụa thanh khiết như hình ảnh cô hiệu trưởng. Khi ấy, con tim tôi được xoa dịu lại và tâm hồn tôi tràn ngập một tình cảm vô cùng trong sạch. Tôi yêu nàng trong kính nể. Tôi nghĩ đến nàng trong tâm tư trinh trắng của tôi. Ở nàng là một con người khác, không phải con người trần tục. Nàng chính là cõi mộng, cõi chiêm bao, mà tôi gởi gắm vào, nương nhờ đến trong dòng sông lênh đênh tuổi trẻ.

Trời ơi, tôi không thẻ nào quên được những chiều nàng đi lễ. Ngôi giáo đường ở bên cạnh bờ biển, bên cạnh ngôi nhà tôi nương nhờ với chức dạy kèm trẻ. Và khi tiếng chuông nhà thờ được ông lão kéo đổ từng hồi, thì tôi như một nhấp được một cốc rươu hành phúc nhất. Tôi chạy ra ngoài cổng, rồi đứng dưới hàng dương trước giáo đường. Tôi dấu con tim hồi hộp cùng cực để đợi chờ nàng bước qua. Gió lộng, biển xanh và áo trắng của nàng ẩn hiện như nàng yêu dấu. Tôi thề là tôi không hề liên tưởng đến sự dục vọng của xác thịt, cho dù, gió biển đã làm tà áo của nàng bay phất phới, và nắng chiều soi những đường nét thân thể của nàng. Tôi chỉ thấy ở dáng người nàng được tỏa ra một cái gì cao cả quá, hiền lành quá, tinh khiết quá. Như bờ ngực gầy của nàng, như bước chân nhỏ nhắn của nàng…

Và từ nỗi đam mê ấy, tôi bắt đầu làm thơ, vẽ tranh. Tôi đã làm những bài thơ đầu tiên nói về Liên Hạ, nói về một người con gái như sương như khói chẳng hạn:

Em qua đời tôi,
bằng thánh ca trong giờ lễ đạo
bằng đôi mắt như một ma soeur
bằng bước đi không còn vướng bụi
bằng tiếng chuông chiều vang vọng ba ngôi.

Thơ tôi còn non. Nhưng tôi vẫn tiếp tục làm cả trăm bài bằng một nỗi say mê kỳ lạ. Nhan đề cho tập thơ đầu tiên là Liên Hạ, và tôi vẽ một lô phụ bản, toàn là hình ảnh một người con gái, thật cao, thật mỏng, ngực thật lép, với mái tóc buông xóng xõa xuống hai gọt chân trần. Hơn nữa, tôi cho nàng bay lên không trung, như chạm vào một cõi chim muông, sương mù, những ngọn đèn cầy… Trên mỗi một phụ bản, tôi vẫn thường trích ra những câu thơ hay mà tôi góp nhặt được. Chẳng hạn hai câu thơ sau đây:

Em đi dáng mỏng như là gió
phơi tuổi vàng ta trên ngọn cây…
( Thơ Hoàng gỗ Quí)

Đó tình yêu của tôi là thế. Bây giờ, tôi có thể thú thật đây là cơn mộng du không hơn không kém. Bởi vì, ngày ấy, tôi sống hoàn toàn bằng một cơn mộng. Tôi không dám xa vào thực tế. Tôi không dám thổ lộ tình yêu.

Nhưng thực tế là một cái gì khủng khiếp. Đó là một đêm không trăng, khi tôi một mình ra bờ biển trước nhà. Thường thường, mỗi đêm tôi vẫn có thói quen lang thang như thế. Bởi tôi muốn thoát khỏi căn nhà âm u tù tội mà tôi phải chịu giam mình bởi nhu cầu cơm áo. Bởi tôi coi cõi tịnh lieu vĩ đại của biển cả là một nơi để tôi suy nghĩ, và sáng tạo. Nhưng, một đêm , ừ một đêm thật tàn nhẫn, tôi đã bắt bặp cái hình ảnh mà tôi cho lầ thánh thiện, trinh khiết là ma soeur ấy đang làm những gì mà loài người trần tục vẫn làm. Tôi đã sững sờ chôn chân trên mặt cát. Trước mắt, nàng và ai đó. Hai người đang bấu víu nhau. Trong khi tiếng sóng vang động cả cõi đêm như thể nhịp đập của con tim tôi. Và tôi đã chạy như một tên cuồng. Tôi chạy trong bầu trời gầm thét, và trên đầu tôi dễ chừng có tiếng sét đánh xuống. Phải, thực tế. Cơn mộng. Tôi đã thấy hai bờ vực đó, và hiểu được tê tái những gì mà tôi đã rồ dại lao mình vào. Cho dù, tôi vẫn tự nói với chính tôi nghe: Không, không thể được Liên Hạ không thể hèn mạt, ghê tởm như thế được. Nhưng lập tức cái bóng đen kia lóe sáng với hai thân thể. Và tôi cứ chạy, chạy mải miết. Ảo tượng, cơn mộng du của tuổi trẻ của tôi đã chết từ đêm đó.

Kể từ đó, tôi không đến như thường lệ. Vị Linh mục ngạc nhên trước sự thay đổi này. Ông ra gặp tôi ở bờ biển, trong một buổi chiều biển động. Ông hỏi:


- Cha nhận thấy dạo này con không đến nhà thờ.

Tôi trả lời bướng bỉnh:


- Con không đến bởi vì con không thích.

Vị linh mục nhìn tôi, nửa ngạc niên, nửa sợ hãi như thể tôi là một kẻ điên. Sau đó, ông nói:


- Con cho phép Cha đi dạo với con?

Nhìn ông, tôi cảm thấy ân hận. Và chúng tôi bước trên bờ cát ướt. Sóng biển gào thét, ào vào bờ xa hơn mọi khi. Bãi biển vắng lặng đến rợn người. Bầu trời một màu mây ảm đạm, với những chớp sáng lóe lên đều khắp, gầm gừ trong tiếng động của biển. Tôi nhìn những cặn bã còn sót lại trên cát trắng, miệng muốn nôn.
Vị linh mục gợi câu hỏi đầu tiên:


- Cha đoán không lầm là con vừa trải qua một câu chuyện đau buồn?

Tôi không trả lời.
Ông nắm vai tôi:


- Cha là người của Giáo hội, là vị Cha tinh thần của các con. Con hãy nói cho Cha biết. Con nên nhớ rằng, Chúa có mặt khắp mọi nơi, mọi người.

Tôi cắn môi mới khỏi bật khóc:


- Cha có bao giờ thấy giấc mơ của Cha bị sụp đổ? Cha có nghĩ rằng trên bãi cát trắng phau này, sau khi nước biển rút đã để lại bao nhiêu cặn bã. Cha có hiểu…

Vị Linh mục ngắt ngang lời tôi nói.


- Con hãy bình tĩnh lại.

Tôi nắm bàn tay Cha:


- Cha có ở trường hợp, hoàn cảnh như con Cha mới hiểu. Con sinh ra trong viện Mồ Côi. Con lớn lên trong cảnh tù tội, và bây giờ con là nạn nhân của xã hội. Con không tin điều thiện ở con người. Con chỉ thấy một loài người cấu xé, giành giựt, lấy nỗi đau đớn của kẻ khác là một trò vui. Con chỉ thấy giống cái, giống đực…

Tôi hét lên và bỏ chạy. Trong khi đó tiếng nói của vị Linh mục đuổi theo sau, khi mất khi còn trong tiếng sóng biển gào thét:


- Chúa phù hộ cho con. Rồi con sẽ trở về với Chúa…

Có lẽ tôi điên đến nơi. Tuổi trẻ có những giây phút mê cuồng rồ dại. Tuy nhiên là nỗi mê cuồng rồ dại hữu lý. Bởi vì chính hắn là nạn nhân. Bởi vì hắn không biết nương tựa vào đâu nữa. Anh hãy tha thứ cho tuổi trẻ của tôi. Cũng như Chúa hãy tha thứ cho sự phạm thượng này. Chúa cũng hiểu trên quả địa cầu này, Chúa không ban ơn trọn vẹn.
Và cũng chính sự mê cuồng, thất vọng tái tê mà tôi ghê tởm tất cả. Tôi bắt đầu dẹp bỏ cơn mộng, niềm tin để sống một nếp sống cuồng loạn, Tôi đã uống rượu đập ly, tôi đã lăn xả vào các thân thể nóng hổi đàn bà. Nhất là loại đàn bà có hình dáng mảnh mai, gầy ốm. Trong trí não của tôi luôn luôn dục dã tiếng nói trả thù. Tôi hành hạ, đày đọa. Tôi chẳng khác một tên cuồng bạo. Nhưng định mệnh lại không buông tha tôi. Vài năm sau, tôi lại quen người con gái thứ hai. Nàng giống Liên Hạ như đúc. Có nghĩa là bờ ngực gầy, dáng người mong manh như cành liễu. Có nghĩa là ở người nàng toát ra một nỗi bệnh hoạn âm u. Thoạt đầu, những lá thư trao đổi, rồi dần dà đưa đến chỗ hẹn hò. Tôi đã giăng cãi bẫy mà nàng không hay. Và tôi xin mấy ngày phép để trở về thành phố. Nàng đứng đợi tôi ở sân bay. Tôi huyên thuyên mời mọc nàng vào từng quán tối. Tôi khẩn cầu nàng bỏ học bỏ hành. Trong tâm tưởng của tôi bây giờ là phải hưởng thụ trong mấy ngày phép. Và ngày cuối cùng, tôi mời nàng đi thật xa, về ngọn đồi hiu quạnh. Nàng ngần ngừ, nhưng sau đó, khi thấy đôi mắt van lơn của tôi, nàng cầm lòng không đậu, bằng lòng. Và chúng tôi ra đi. Tôi còn nhớ rõ buổi sáng mùa thu ấy, ngọn đồi mang một màu vàng úa bởi những cơn mưa lá vàng rơi rụng. Tôi còn nhớ, dưới chân đồi biển cả xanh biếc một màu và những cơn sóng bạc đầu vỗ mạnh vào bờ đá, với những tiếng gào thét hung dữ. Tôi vẫn còn nhớ là nàng bé nhỏ, bệnh hoạn nương cậy vào tôi khi trèo lên các sườn đá cheo leo. Tuy vây đôi mắt nàng long lanh một màu hạnh phúc. Nàng cười nói huyên thuyên như con sáo nhỏ. Nàng kể về những ngày, những đêm nhớ nhung thê thiết. Nàng nhắc đến con đường từ nhà ra bưu điện, một bóng hình nàng cô độc giữa một hàng sao cúi đầu, vàng úa. Chính trong những lá thơ nàng gởi nàng vẫn viết về con đường ấy. Con đường bệnh hoạn như cuộc đời của nàng: bệnh hoạn liên miên. Và không hiểu sao nàng lại yêu nó đến ngây ngất. Lời nàng dịu dàng bên tôi, và tôi nghe bằng một tâm trạng cay đắng. Tôi liên tưởng đến cái đêm trên bãi biển. Tôi nhớ lại cơn mộng du tuổi trẻ với kết cuộc là phũ phàng, thất vọng ê chề. Và tôi nhắm mắt. Tôi cũng không hiểu nổi cõi lòng của tôi nữa. Tôi dịu dàng bảo nàng ngồi dưới một gốc cây phong. Tôi dịu dàng bảo nàng hát. Và nàng vừa nhặt một chiếc lá chết vừa cất tiếng hát. Bài hát về mùa thu, về số phận mong manh của những chiếc lá cuối mùa. Tiếng hát của nàng cũng đầy nước mắt trong khi trên cao, lá từng chiếc từng chiếc rụng xuống như mưa, và tiếng gió thổi xao xuyến một lúc… Quả là tiếng hát kỳ diệu. Nó cất lên bằng cả một con tim yếu đuối. Nó tỏa ra bằng nước mắt bệnh hoạn. Và nàng đã hát bằng tất cả nỗi lòng tha thiết nhất, Mùa thu. Thu đi cho lá vàng bay. Tại sao nàng nức nở. Tại sao bờ vai yếu mềm của nàng run rẩy tội tình. Tại sao bờ ngực của nàng thoi thóp. Nàng đã trao trọn vẹn tâm sự thầm kín nhất, u ẩn nhất cho ai. Cho tôi hay cho Trời Cao. Cho Định mệnh. Phải, tôi biết, sau này, nàng đã trao cho Định mệnh. Bởi vì, vô tình tôi thấy nàng mang theo trong chiếc sắc tay học trò những viên thuốc trợ tim màu hồng, mà nàng vẫn dùng như suốt đời con gái. Tôi cựa tim đau đớn. Tôi sợ cũng nên. Nhìn nàng tôi thấy má tái xanh. Tôi thương nàng quá. Rõ ràng lúc này là lúc tôi cảm thấy nàng vô tội. Tôi nhìn lên trời cao. Màu lá vàng ngợp ngàn. Màu mây trắng mong manh sương khói. Và tiếng biển gào thét vang động dưới đồi. Bỗng dưng tôi thấy lại bộ áo đen tuyền của vị linh mục. Trong tiếng gió, tiếng sóng có cả lời réo gọi của vị Cha xứ:


- Cầu Chúa phù hộ con. Rồi con sẽ trở về với Chúa…

Tôi mới thấy một điều là trên đầu tôi Chúa hiển hiện. Bằng cõi lòng bao la, khoan dung và tha thứ. Trên quả đất này, Chúa luôn luôn mở rộng vòng tay, ban xuống những ơn mưa móc. Cho mỗi mùa một vẻ đẹp. Cho con tim con người tình yêu. Cho lá vàng rơi rụng, cho mây trời thôi trôi về biển khơi. Cho tôi một người con gái. Không hiểu sao, tôi ôm choàng lấy nàng, và hôn như mưa trên tóc nàng, má nàng, môi nàng. Tôi hôn như hôn một thứ tuổi trẻ ngọc ngà nhất mà từ lâu tôi đã đánh mất. Đó là lúc tôi vừa nếm được hương vị của ái tình và vừa thổ lộ niềm ân hận, tạ lỗi. Nhưng hỡi ơi, nàng đã ngất xỉu rồi. Cái hôn lần đầu, sự luyến ái lần đầu trong đời người con gái bệnh hoạn đã làm nàng trở bệnh. Căn bệnh tim của nàng lại tái phát vì sự xúc động. Trời ơi, tôi ôm nàng trong vòng tay của tôi, hốt hoảng cực độ. Tôi lay nàng, tôi nắn nót, xoa bóp nàng. Nhưng nàng vẫn còn nằm yên đấy, má tái xanh và ngực thập thò yếu ớt. Sau đó, nhớ lại vài kinh nghiệm ở chiến trường, tôi bắt đầu làm vài động tác hô hấp nhân tạo, và lấy chai dầu thoa khắp thân thể. Lúc này là lúc tôi yêu nàng cực độ. Lúc này là lúc tôi khám phá được hạnh phúc cũng như tình yêu. Nhưng cũng lúc này, tôi biết tôi sợ. Vì, cơn mộng du của tôi đã hóa ra một cơn mộng du đẫm đầy nước mắt. Như người con gái đang ngất xỉu trên đám lá vàng khô này.

oOo

Để rồi từ đó, tôi tự cắn răng không dám liên lạc với nàng nữa. Tôi biết tôi không xứng đáng với tình yêu của nàng. Tôi biết, với cuốc sống trận mạc của tôi chỉ làm nàng hãi sợ, nhuốm bệnh thêm lên. Vì, tưởng tượng mỗi đêm, nàng nghe tin từ đài phát thanh báo về một mặt trận lớn có tôi tham dự thì nàng sẽ như thế nào? Cũng như đọc một bản tin trên tờ báo, hay một lời phân ưu nhỏ mọn thì nàng sẽ như thế nào. Điều đó; ai cũng biết. Bởi thế, tôi cắn răng chấm dứt mối tình đang độ nồng cháy nhất của đời tôi. Khi từ giã thành phố, nàng bảo nàng không đưa, và tôi cũng khuyên nàng như vậy vì sợ nàng lại chịu thêm một nỗi xúc động mới. Nhưng ngày cuối cùng, ngồi trên xe ca, tôi lại thấy nàng đứng ở ngã tư, nhìn tôi trong khi chiếc xe lăn bánh. Nàng mặc áo vàng, tựa như màu úa trên ngọn đồi vĩnh cửu. Sau đó, nàng vừa chạy vừa bưng mặt khóc. Còn, tôi thì nhào ra cửa xe, giữ chặt lan can xe mà cay con mắt. Xe càng lúc càng xa dần. Bánh xe nhẹ nhàng, lăn như nhịp điệu của một bài hát. Người đi qua đời tôi. Người đi qua đời tôi. Là chia biệt. Người áo vàng xa khuất. Thành phố từ giã. Còn lại một mình tôi. Người đi qua đời tôi, bằng xót xa, bằng đắng cay… bằng tất cả tấm lòng trinh trắng, nhưng tôi không bao giờ nếu giữ nổi….

oOo

Rồi một ngày mùa thu năm sau, tôi được phép trở về thành phố cũ. Tình yêu bão bùng ngày trước bây giờ nhường lại cho một tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối. Tôi trở về, để nghe tin nàng đã chết vì một trận đau tim kinh khủng. Đó là điều nàng vẫn hay kể trong những lá thư gởi cho tôi trước đây. Và điều ấy đã đến thật sự. Bạn tôi lại kể thêm, là sau khi tôi đi khỏi, nàng càng lúc càng vàng võ, càng sợ người đời. Chừng như nàng có một mặc cảm phạm tội. Nhưng tôi biết, chính nàng là nạn nhân của tôi. Chính tôi đã mang cho nàng cái vết thương dậy thì. Chính tôi đã tập cho nàng làm chinh phụ. Trời ơi, tôi không thể ngờ được. Nàng đã chết. Lần trở về, có tôi thất thểu trên ngọn đồi Thu, có tôi một mình trên mỏm đồi cao, nhìn về phương trời, trong khi lá thu rơi rụng như mưa và mây trắng vẫn bay qua không hề dừng lại. Một đám mây trắng thật tinh khiết dịu dàng trôi thật thấp, thật thấp, rồi vô tình trôi qua không luyến tiếc, không xót thương. Chỉ có trong tiếng gió là tiếng hát về mùa thu. Về mùa bệnh hoạn. Tiếng hát vĩnh cửu của người con gái Đà nẵng…

TRẦN HOÀI THƯ
Cần thơ 26-6-74
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image



Áo Dài


Võ Phiến
Nữ sĩ Linh Bảo đi dự một đại hội thường niên của các nhà sinh vật học Hoa Kỳ tại tiểu bang Vermont, một hôm vừa bước vào phòng ăn bỗng nghe tiếng một người đàn ông Mỹ nói sau lưng:“Bà mạnh giỏi không? Áo zài. Chời ơi!” Nữ sĩ quay lại, hỏi chuyện, thì ông Mỹ tịt: Ông ta chỉ biết có mỗi một câu tiếng Việt ấy. Và trong câu tiếng Việt duy nhất của ông ta đã có cái “áo zài”.

Năm ngoái, trên sân khấu trình diễn tại hội chợ Osaka, so sánh với thiếu nữ của mấy mươi quốc gia trên thế giới, các cô gái Việt Nam vẫn được đặc biệt chú ý mỗi lần xuất hiện với chiếc áo dài.
Đầu năm 1970 ấy, một phái đoàn đại diện báo chí và các cơ quan truyền thông của ta sang thăm Đại Hàn, ông Tổng trưởng Thông tin và Văn hóa Đại Hàn — bấy giờ là ông Shin Bum Shik — có tặng mỗi người một xấp hàng để về làm quà cho vợ! Mở ra xem thì là thứ hàng rất mỏng và dài đúng 2m80. “Chời ơi”, ông Shin Bum Shik am hiểu cái món “văn hóa” Việt Nam ấy sao mà kỹ quá vậy?

Hai trăm năm mươi năm trước, vào đúng ngày cuối năm Canh Thìn đời Cảnh Hưng, sứ giả nước ta là Lê Quí Đôn gặp sứ giả Triều Tiên là Hồng Khải Hy tại Yên Kinh nước Tàu. Đôi bên bút đàm, thành ra thân mật. Đêm trừ tịch của cái năm Canh Thìn ấy, sứ thần Triều Tiên sai con trai mang đến cho Lê Quí Đôn một phong thư và một món tặng phẩm. Trong thư có những câu:“Nhân giở bản đồ, biết có quí quốc, hai nước chúng ta, Đông Nam xa cách, loài trâu ngựa có dông nhau cũng không kịp. Thế mà được cùng hội họp nơi Hồng Lô quán, thực là ngoài sức tưởng tượng”.

Hai trăm năm sau, sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước Hàn Việt càng vượt xa cái sức tưởng tượng của Hồng sứ giả không biết đến bao nhiêu mà nói. Không cần “giở bản đồ”, người đồng bào lỗi lạc của Hồng sứ giả không những đã biết rõ về nước Việt Nam, lại còn biết vanh vách đến cả món y phục của đàn bà con gái nước này nữa. Không những Shin tiên sinh nắm vững kích thước của áo dài, ông lại cảm thông đến cả cái sở trường của nó, là thật mỏng!

Nhưng trong câu chuyện này không phải chỉ có Shin tiên sinh là đáng khen. Phải nhận rằng về phần chiếc áo dài Việt Nam, tự nó cũng phải xuất sắc mới được. Thật chứ: Để cho bấy nhiêu chi tiết về nó thấu đến tai nhà lãnh đạo văn hóa một quốc gia cực bắc, món nữ phục của nước Đông Nam Á này phải lẫy lừng lắm.

Áo dài lẫy lừng ở quốc ngoại. Nó cũng không ngớt ghi những thành công liên tiếp ở quốc nội.

Đôi ba mươi năm trước, phụ nữ miền Nam không mấy người mặc áo dài. Ngày nay thì chiếc áo dài đã thẳng xông xuống tận Năm Căn, U Minh… Áo dài đã Nam tiến đến mũi Cà Mau.

Con đường Tây tiến của nó nhiều trở ngại hơn, nhưng không hẳn sẽ bế tắc đâu. Hôm 14 tháng 4 năm nay, ai có đến xem lễ chịu tuổi của đồng bào gốc Miên tại ngôi chùa đường Trương Minh Giảng đã có dịp thấy hầu hết các cô gái Miên đều mặc áo dài. Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, các nữ sinh trung học gốc Chàm mặc một thứ áo cổ truyền đã cải biến, rất gần với chiếc áo dài của ta.

Hai sắc dân thiểu số tiến bộ nhất đã dần dần chấp nhận áo dài, chắc chắn một ngày không xa, chúng ta sẽ thấy các bạn gái sắc tộc trên Tây nguyên mặc áo dài. Phải, hiện nay thì chưa có, hay hiếm có lắm, cái hình ảnh một thiếu nữ Gia-rai, hay Ba-na, hay Xơ-đăng v.v… với áo dài tha thướt. Nhưng họ đã dùng bà ba, áo thun, xú-chiêng, sơ-mi… Họ sẽ tiến đến áo dài là cái chắc.

Và như thế, thiết tưởng áo dài có một đóng góp không nhỏ vào việc làm nồng nàn thêm tình cảm dân tộc.

Trong một thiên truyện nọ của Sơn Nam, thầy phái viên nhà báo Chim Trời ở Sài Gòn xuống tận xóm Cà Bây Ngọp ở Rạch Giá tìm ông độc giả Trần Văn Có để đòi hai đồng sáu cắc rưỡi tiền mua báo. Đến nơi, chủ và khách, sau bữa cơm chiều, đốt lửa un khói rồi chui vô trong mùng trốn muỗi, ngồi nói chuyện. Quanh quẩn một hồi, hai người gặp nhau ở những trang Quốc văn giáo khoa thư: kẻ nhớ bài “Chốn quê hương là đẹp hơn cả”, người thuộc bài “Thú chăn trâu”, mỗi người thay nhau đọc to lên một câu, có khi cả hai cùng hợp xướng: “Đầu tôi đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa…”. Cuộc hàn huyên thú vị quá, tình nghĩa giáo khoa thư đầm ấm quá. Sáng hôm sau, thầy phái viên báo Chim Trời từ giã ông bạn đi về Sài Gòn, không thâu một cắc bạc nào.

Hãy tưởng tượng một ngày kia những người bạn gái gặp nhau, kẻ ở U Minh người trên Phú Bổn, kẻ gốc Chàm Phan Rí, người gốc Miên Sài Gòn v.v… mà có thể cùng nhau bàn tán om sòm về những chuyện tà nam, tà bắc, cổ thuyền, cổ hở, cổ tròn, cổ vuông, eo suông, eo thắt v.v… thì cuộc gặp gỡ sẽ hào hứng, thân mật biết mấy! Giữa đàn bà con gái với nhau mà không gặp nhau được ở đề tài ăn mặc, không đem chuyện áo chuyện xống nói với nhau được thì biết làm sao gây được thân tình?

Nhất định rồi một ngày nào đó, tất cả các bạn gái Việt Nam sẽ gặp nhau. Và cũng nhất định, cuộc gặp nhau trên vạt áo dài con gái càng đông đảo, vui thú, thân thiết hơn cuộc gặp trên những trang Quốc văn giáo khoa thư.

Thế cho nên chúng ta tin mạnh ở sự thành công của cuộc thống nhất đất nước bằng chiếc áo dài. Nó êm thấm, đẹp đẽ hơn những đường lối thống nhất bạo tàn biết bao!
Áo dài Việt Nam thắng lớn trong nước và ngoài nước, do đâu mà được vậy?

—Do nó cho thấy gió.

Nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm, sau nhiều tháng ở hội chợ Osaka, chứng kiến sự thắng lợi của chiếc áo dài Việt Nam trước các đối thủ quốc tế, sau khi so sánh các ưu khuyết điểm của y phục phụ nữ các nước được phô diễn tại đây, đã nhận xét như thế.

Mặc áo dài mà đứng yên chưa chắc đã ăn đứt nổi những cô gái Âu Á khác mặc y phục dân tộc của họ. Nhưng mặc áo dài mà đi, mà múa v.v… thì người con gái Việt Nam linh động hẳn lên.

Áo dài Việt Nam nó vừa theo sát những nét tuyệt mỹ của thân người, lại vừa thêm cho tấm thân ấy sự linh động phơi phới mà nó vẫn ao ước. Những tà áo nhẹ ve vẩy phất phơ trong gió làm cho một thân hình nặng nề nhất, cục mịch nhất, cũng hóa ra thanh thoát.

Thân người là đẹp, nhưng thứ y phục chỉ nhằm khai thác cái đẹp của thân người thì rõ ràng là tục. Trang phục là văn hóa, văn hóa là một cố gắng cải biến thiên nhiên. Trang phục mà như mini-jupe, thì ấy là một cuộc phi nước đại trở về tự nhiên, gợi lên những ham muốn trực tiếp vào “tòa thiên nhiên”, là một chối bỏ văn hóa.
Nhưng thân người đẹp, y phục không được phép xóa hẳn cái thân người đi. Trang phục mà như chiếc kimono Nhật thì là một sự quá trớn của văn hóa đấy nhé. Văn hóa cũng phần nào thôi chứ.

Chiếc áo dài Việt Nam là một sự dung hòa giữa tự nhiên và văn hóa. Phần trên của nó đề cao thân người, bạo và tục; đã có phần dưới rất thanh, thoát hẳn thân người.
Nhìn vào một người nữ mặc áo dài, sau khi bị khích động vì cái phần trên, mắt lần dò nhìn xuống, thì ở phần dưới lại chỉ thấy… gió! Vâng! ở đây chỉ thấy có gió (như người nhiếp ảnh gia tinh mắt đã thấy), có cái thướt tha, cái bay bướm mà thôi.

Luận về dân tộc tính, có người đã đặc biệt chú ý đến cái đức tính truyền thống của người Việt Nam là đức tính thiết thực, thể hiện trong lối ăn mặc những áo quần (nhất là quần) rất ít màu sắc. Đúng lắm, quần áo chúng ta lại còn thiết thực ở chỗ gọn ghẽ, giản đơn nữa. Tuy nhiên, nhận xét đây không bao gồm chiếc áo dài phụ nữ. Áo dài gái Việt thì được phép màu mè sặc sỡ, được phép lả lướt. Tha hồ!

Mà như vậy phải chứ. Trong cuộc sinh hoạt thường nhật ở một hoàn cảnh gian khổ, dân tộc ta thiết thực; nhưng áo dài không phải là sinh hoạt thường nhật. Nó là hội hè. Dân tộc nào cũng tự cho phép mình có những ngày hội, những cuộc vui.

Những ve vẩy phấp phới của các tà áo dài là niềm vui hợp lý mà chúng ta tự thưởng cho mình bên cạnh những lao tác nhọc nhằn. Là cái văn vẻ trong cuộc sống tinh thần của dân tộc, sau khi đã nỗ lực củng cố cuộc sống vật chất.

Bởi vậy, trên đất nước, hễ nơi nào còn đang khai phá, còn đang bận rộn vất vả nhiều về công cuộc xây dựng những cơ sở vật chất của đời sống thì chiếc áo dài chưa vội xuất hiện. Chỉ nơi nào đất mới đã khai phá xong, điều kiện sinh sống đã thiết bị xong xuôi, con người đã thảnh thơi, bấy giờ thì hai vạt áo của người đàn bà Việt Nam mới tự buông thõng xuống, phe phẩy, và reo vui với gió.

Hồi sinh thời, anh Y Uyên thích một câu ca dao của tỉnh Phú Yên:

“Con ngựa tía ăn quanh đèo Cả, Vầng nguyệt đêm rằm bóng ngả về đông.
Chẳng thà tôi giục ngựa về không,
Chẳng thèm cướp của giành chồng người ta”.

“Về không”? — Tốt lắm. Nhưng chuyện “giục ngựa” nghe có hơi kỳ. Đây là chuyện của con gái Phú Yên ba bốn mươi năm trước. Thuở ấy, con gái Phú Yên quấn khăn trùm đầu, cưỡi ngựa phóng như bay. Thuở ấy dĩ nhiên họ chưa mấy người mặc áo dài. Thuở ấy, ở Phú Yên, gái cũng như trai, còn phải xông pha vất vả; cũng là cái thuở — như Võ Hồng từng cho biết — mà văn bằng yếu lược là cả một sự hiếm hoi, cuộc sống tinh thần chưa kịp lo đến. Như thế không phải chỉ riêng trong Nam, mà ngay ngoài Trung, trước đây chẳng bao lâu cũng vắng bóng chiếc áo dài phụ nữ.

Rồi dần dần Phú Yên có văn sĩ, có luôn áo dài. Rồi trong Nam cũng lại nhiều văn thơ, và… áo dài. Áo dài xuất hiện, rồi thịnh phát cùng với sự tăng cao của mức sống, cùng với sự thuần hóa của nếp sống.

Nó là món trang phục đẹp đẽ. Nó đáng yêu, đã đành; nó lại là một dấu hiệu đáng mừng.

Võ Phiến
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Mùa Thi’, ca khúc cho Ðỗ Kim Bảng, một chỗ đứng riêng, lẻ

Du Tử Lê

Mùa Hè dù ở quốc gia hay phương trời nào, cũng là mùa đáng ghi nhớ vì đó là mùa nghỉ học của tuổi thơ và, tuổi hoa niên.

Mùa Hè đối với tuổi trẻ Việt Nam còn ý nghĩa, rực rỡ hơn nữa, với những chói đỏ từng khoảng trời hoa phượng vỹ, tiếng ve và những trang “lưu bút ngày xanh.” Ðó cũng là mùa của những hứa hẹn gặp lại. Hoặc những chia tay bằn bặt giữa những đôi bạn của sân trường, vì hoàn cảnh riêng, không cho họ một hẹn ước gặp lại nhau. Ðó cũng là mùa đáng ghi nhớ nhất của tuổi trẻ Việt Nam, ngay cả với những người không có nhiều mùa Hè trong tuổi hoa niên, hay chưa một lần lưu lại bút tích những tình cảm thơ ngây, trong sáng của mình, cho bạn học cùng lớp.

Image
Từ trái: NS Hoàng Trọng, Duy Trác, Thanh Sơn, Kim Tước, Tuyết Anh, Ánh Tuyết, Mai Hương. (Hình: Cỏ Thơm)


Có lẽ vì thế mà nền tân nhạc 20 năm của miền Nam, đã để lại cho chúng ta nhiều ca khúc mùa Hè hân hoan, rộn rã. Ðiển hình như ca khúc “Hè Về” của cố nhạc sĩ Hùng Lân (1922-1986):

“Trời hồng hồng sáng trong trong ngàn phượng rung nắng ngoài song. Cành mềm mềm gió ru êm lọc mầu mây bích ngọc qua mầu duyên. Ðàn nhịp nhàng hát vang vang nhạc hòa thơ đón Hè sang! Hè về trong khóm trúc mềm đầu Hè. Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ Hè về gieo ánh tơ! Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng đàn chim cánh do trời. Phân vân đôi mái cHèo lữ thứ thuyền ai biếng đưa. Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo dốc trên đồi. Thanh thanh hương sen nồng ướp gió mát khi chiều rơi. Hè về Hè về nắng tung nguồn sống - Khắp nơi Hè về Hè về - Tiếng ca nhịp phách lên khơi - Ðầu ghềnh suối mát reo vui dào dạt, ngập trời gió mát ven mây phiêu bạt hồn say ý chơi vơi - Ngày xanh thắm nét cười lòng tha thiết yêu đời..." (Theo Wikipedia - Mở)

Hoặc “Khúc Ca Mùa Hè” của cố nhạc sĩ Canh Thân (1920-1975):

Về đây ta lắng nghe muôn cung đàn
Ðường tơ tha thiết vương hương nồng nàn
Về đây nghe bao câu hát du dương mơ màng
Và về đây tắm ánh sáng trăng huy hoàng

Khúc ca mùa Hè
Lắng trong chiều về
Vang trong đêm êm đềm thánh thót
Ngân nga tiếng ai ca
Khúc ca mùa Hè... (01)

Chúng ta cũng có những ca khúc của nhiều nhạc sĩ khác viết về mùa Hè. Ðó là những mùa Hè không đằm thắm. Những mùa Hè của “lưu bút ngày xanh” mà Thanh Sơn là nhạc sĩ chuyển tải được tiếng lòng với nhiều game màu khác nhau của tuổi học trò. Ông giống như “sứ giả,” như “phát ngôn nhân” thân thiết, gần gũi nhất của tuổi học trò. (02) Trong số những sáng tác cho mùa Hè, cho phượng vĩ của ông, thì ca khúc “Lưu Bút Ngày Xanh” là bài hát ở lại bền lâu nhất trong tâm hồn của những người từng có một thời sân trường, lá biếc - hoặc từng đôi lần được nghe ca khúc này:

Lòng xao xuyến mỗi khi hoa phượng rơi
Nhắc lại câu chuyện buồn
Trường còn kia ôi mái đổ tường rêu
Nơi kỷ niệm êm ái
Ðâu dư âm của tiếng nói ngây thơ
Ngày hai đứa dìu nhau đến sân trường
Cùng đuổi bướm hái hoa trên cuối đường
Tiếng cười vạn tình thương

Người ơi nhắc đến chi kỷ niệm xưa khiến lòng tôi bùi ngùi
Ngày biệt ly hai đứa đứng nhìn nhau
Anh cài cành hoa tím
Hoa xưa đây nhưng bóng dáng anh đâu
Dòng nhật ký đã ghi nốt tâm tình
Và đôi lúc nhớ nhau lưu bút còn
Ðể lại chuyện buồn vui... (03)

Cũng vẫn là Thanh Sơn, với ca khúc “Nỗi Buồn Hoa Phượng”: Sự chia tay hay đoạn lìa của tuổi hoa niên trong những mùa Hè, không trở lại, hoặc không bao giờ còn có nữa của tuổi trẻ, được ông ghi lại với tất cả xúc cảm giữa sân trường, mùa phượng vĩ, khi ngoái nhìn biệt ly đầu đời:

Mỗi năm đến Hè lòng man mác buồn,
Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương
Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi,
Phút gần gũi nhau mất rồi
Tạ từ là hết người ơi!

Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng,
biết ai còn nhớ đến ân tình xưa
Ðường xưa in bóng hai đứa nay đâu,
những chiều hẹn nhau hết rồi,
giờ như nước trôi qua cầu.

Giã biệt bạn lòng ơi! Thôi nay xa cách rồi
Kỷ niệm mình xin nhớ mãi,
buồn riêng một mình ai chờ mong từng đêm gối chiếc
Mối u hoài này ai có hay... (04)

Tuy nhiên, mùa Hè, không chỉ là mùa tạm biệt sân trường, mùa chia tay trong những “lưu bút ngày xanh” mà, mùa Hè cũng còn là mùa của các “sĩ tử” khăn gói đến trường thi. Dù ở cấp độ nào thì một “sĩ tử” khi vượt qua được một kỳ thi để bước lên bậc cao hơn của hành trình học vấn thì, cũng có thể ví như “cá vượt vũ môn,” cơ hội bay nhảy, vươn tới những chân trời học vấn khác.

Nhưng, dường như nền tân nhạc 20 năm của sinh hoạt nghệ thuật miền Nam đã không để lại cho chúng ta, nhiều ca khúc viết về mùa thi!

Mùa mà nỗi âu lo, thấp thỏm không chỉ chất trên đôi vai nhỏ bé của học trò, chúng còn đè nặng lên tâm trí của các bậc phụ huynh nữa. Chúng ta biết, đã có không ít những bậc phụ huynh mất ăn, mất ngủ, thức trắng nhiều đêm, thậm chí theo con đến tận cửa trường thi, để nâng đỡ, khích lệ tinh thần con em trong những giây phút căng thẳng, sau nhiều tháng, năm đèn sách.

Mùa Hè, hay mùa thi, do đó là mùa thể hiện cụ thể nhất mối quan tâm, lòng thương yêu đến xót ruột, buốt gan của các bậc phụ huynh, đối với những “sĩ tử” của họ - Vốn là truyền thống hy sinh đời mình cho sự tiến thân của con cái qua đường học vấn... Nhưng không vì thế mà văn chương, âm nhạc đã cho chúng ta nhiều sáng tác ghi lại hiện tượng đặc thù của những đấng sinh thành Việt. Nếu không muốn nói ngược lại là, quá ít.

Trong số ít ỏi những ca khúc viết về mùa thi thì, sáng tác “Mùa Thi” của nhạc sĩ Ðỗ Kim Bảng là ca khúc được biết đến nhiều nhất. Nó gắn liền với mùa thi của các “sĩ tử” vậy.

Họ Ðỗ, ở lãnh vực này, hiện ra như người bạn lớn, duy nhất, thấu hiểu, chia sẻ nỗi ưu tư, thấp thỏm của các “sĩ tử,” đời nay!

Chú thích:

(01), (03), (04) Nđd.

(02) Theo Wikipedia-Mở thì, nhạc sĩ Thanh Sơn sinh ngày 1 tháng 5 năm 1938 tại Sóc Trăng. Tên thật Lê Văn Thiện. Ngoài bút danh Thanh Sơn, ông còn có thêm bút danh Sơn Thảo nữa. Ông được biết đến từ thập niên 1960 với những ca khúc trữ tình buồn nói về tuổi học trò đi sâu vào ký ức của học sinh, nhiều thế hệ như “Nỗi Buồn Hoa Phượng, Lưu Bút Ngày Xanh, Nhật Ký Ðời Tôi, Trả Lại Thời Gian”... Khoảng thời gian sau, ông nổi tiếng với các ca khúc mang âm hưởng dân ca Nam bộ và dòng nhạc bolero. Ông mất ngày 4 tháng 4 năm 2012 tại Saigon.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Chiều nay, tôi nghe những tàn phai
Nguyễn Ngọc Già


(Danlambao) - Ngót ba mươi năm, sân khấu không còn đọng trong trí nhớ của tôi. Để tìm chút thư giãn, giữa những bài viết chính trị khô không khốc, youtube trở thành người bạn, gởi lại những tiếng vọng êm đềm và bãng lãng.

Khánh Ly và kỷ niệm

Với túi tiền nho nhỏ, cứ ngỡ, lâu lâu, mình hãy tự cho phép "xài sang" một lúc nào đó, khi Khánh Ly về hát. Ít nhất đối với giọng ca một thời của "Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên". Đợi từ năm kia, tới năm ngoái và rồi năm nay...

Đành mượn lời Nhật Trường - "thôi em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé..." - mà diễn đạt tâm trạng "Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên" - như Trịnh Công Sơn thốt lên. Dù biết "Em" là cho tất cả. "Em" không phải "sở hữu" riêng ai. Nhưng "Em" nói, đến với nhau là cùng tìm về kỷ niệm.

Do đó, sự trở về của Khánh Ly như một hành khách kịp bắt chuyến tàu cuối cùng trên sân ga. Chuyến tàu, nếu không phải mua nhầm vé, chắc người soát vé ngủ gục, nên mặc hành khách lạc tuyến, khi ga đến đầu tiên - sau gần 40 năm xa xứ - không phải Sài Gòn. Cũng không phải Đà Lạt hay Huế, dù tài công tiếp tục đưa người lữ khách rong ruổi lần thứ hai.

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Sài Gòn, không còn gợi lên những "chiều nội trú bâng khuâng". Lâu lắm rồi. "Con đường Duy Tân cây dài bóng mát" đã xa vời vợi. Thay vào đó là những vỉa hè luộm thuộm với quán nhậu và tiệm cafe. Chen lẫn vài ngân hàng cùng hiệu kính và cả tiệm... rửa xe. Ừ, có cả một quán ăn kèm hát với nhau của Cẩm Vân. Con đường "duy cái mới", bây giờ, thế đó (!).

Những góc phố ngày xưa chỉ còn lại ánh chiều tà ảm đạm, tô đậm ngón tay vàng khói thuốc, cho những ai muốn tìm về dĩ vãng.

Dường như chẳng còn gì hấp dẫn hay quyến rũ và gợi nhớ? Nhưng ngày xưa, Khánh Ly hát cho "Người Già và Em Bé", cho cả dân "Du Mục" với "đàn bò vào thành phố réo buồn tiếng hạt chuông", chứ đâu chỉ "chiều nay còn mưa, sao em không lại..." hay ân cần ôm lấy "vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi"? Không, Khánh Ly không chỉ kiêu sa như thế. Không cần đài các như vậy. Giản dị hơn nhiều...

Sài Gòn quen lắm nhưng không còn "Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi!"

Người Sài Gòn, không xứng đáng, dù chỉ được phép mua vé "tàu ghế cứng toa hạng hai" để nghe, để nhìn và để ngẫm ngợi những gì Khánh Ly muốn tìm về kỷ niệm (?). Một chút gì phả ra nhạt nhòa từ ánh màu bạc bẽo! Nó hắt xuống phố Sài Gòn lấp lóa màu đen hắc ín, trong không khí nóng hực của ngày hè.

Người Sài Gòn nhớ Khánh Ly từ những gì mộc mạc mà rướm máu, hơn là những bóng bẩy và chải chuốt như người Hà Nội xem thấy. Một không gian có vẻ sang trọng nhưng khô và giả. Giả mà như... thật, từ những "bông hoa sống đời", người ta bán ngoài chợ hay trong các shop để trang trí, làm cảnh cho ngày tết, dịp lễ mà không cần mất công nhiều lắm...

Kỷ niệm, khi gọi tên, nó nên khởi đi từ nơi người ta gắn với tột đỉnh vinh quang và cả nỗi niềm ly biệt. Cả êm mượt như nhung và sóng gió dập vùi. Nước mắt hòa trong thảng thốt trên từng bước chân tháo chạy trong rối bời. Và chia lìa những gì sâu lắng tận đáy tim, in đậm trên từng hàng rào dâm bụt loang lổ. Tan nhanh như từng hạt mưa bong bóng, hòa lẫn "muối mặn" chảy từ khóe mắt. Tất cả nối nhau chảy vô... ống cống. Từ ngày đó - 30/4/1975.

Thế là hết. Dù trẻ lắm, dù mơ hồ, những chao đảo trong tâm khảm vẫn còn nguyên với nỗi sợ hãi lớn dần theo ngày tháng của những năm xưa. Hiển hiện, không thể né tránh. Từ đó, ngụp lặn và đào bới trong... "đống bản nhạc" - như một đống rác buộc dọn dẹp. Lén lút và vụng trộm để tìm mọi cách "tẩu tán" tài sản của chính mình, dù trong mắt "người cách mạng", chúng nó là thứ cặn bã, lai căng và... phản động! Một thời của văn hóa nghệ thuật Sài Gòn bỗng chết... ngắc!

Đấy là một trong những điều người Sài Gòn nhớ nhất, trong ngày tháng rầm rập bước chân các anh "giải phóng quân" dộng ầm ầm trên những con đường Sài Gòn thơ mộng.

Chốc chốc, gió thốc những bản nhạc bay tán loạn rồi đậu lại trên vỉa hè với vẻ u hoài và xơ xác. Nhiều người thẫn thờ "Để Gió Cuốn Đi" từng bản nhạc như mảnh giấy gói bánh mì. Văn hóa Sài Gòn tuyệt diệt. Tôi biết điều đó, khi từng trang giấy với năm dòng kẻ và những hồn thơ trong đó - được trình bày công phu và trân trọng, thẩm mỹ và đậm cá tính nhạc sĩ sáng tác - đầy dấu chân người qua kẻ lại, chấp chới như cánh bướm rách tả tơi.

Khánh Ly ra đi như hàng triệu người rời bỏ Sài Gòn và miền Nam. Người ở lại chỉ biết nhìn. Lầm lũi và co quắp trong những cơn mưa chiều nặng hạt, mơ về "Những Ngày Xưa Thân Ái" hồn nhiên. Tất cả chỉ còn lại "Như Giấc Chiêm Bao" ngọt ngào. Giấc chiêm bao của đời thực. Dường như định mệnh an bài.

Nói cho ngay, "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" trở thành chân lý, khi bóng dáng khập khiễng những lời nhạc đầy ắp chất thơ, còn chỗ nào để bày biện tốt hơn trong nhà hát lớn Hà Nội đầy màu sắc lấp lánh? Với áo quần thơm tho và những bó hoa sặc sỡ. Rỗng. Sáo. Và như những hạt ngọc trai nhân tạo xứng đáng với cái giá của nó.

Nhưng kỷ niệm, cứ ngỡ, là nơi không phải chỗ mình bỏ chạy cùng với nước mắt, vào năm 1954, bé xíu. Nó phải là nơi cưu mang, bước ra khỏi "tàu há mồm" với cái thở phào năm xưa? Nó phải là nơi gắn bó, thành danh, làm nên tên tuổi và nuôi nấng giọng hát của mình chứ?

Nếu gọi tên "non nớt" khi "Mơ Về Nơi Xa Lắm", nó có một chút gì kệch cỡm, bởi e rằng lứa tuổi "gió heo may đã về" trở nên chọc ghẹo giới trẻ mất.

Giọng hát của "Nữ Hoàng Chân Đất" bây giờ thích hợp với đôi giày cao gót - dù chông chênh nhiều.

Thời gian quả khắc nghiệt. Như một viên đá mài, chà xát trên dây thanh đới người ca sĩ. Giọng ca Khánh Ly đục hơn và rè hẳn như dây số 1 guitar, lâu ngày bong tróc dần, sau những miệt mài nâng phím lòng, xoa dịu nỗi đau đời dân Việt "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/Một trăm năm đô hộ giặc Tây/Hai mươi năm nội chiến từng ngày...".

Làn hơi ngày nào gây nghiện cho khán giả, giờ đã ám đầy khói. Những sợi khói bay lên từ "Tàn Tro" năm cũ. Đứt quãng và mệt nhọc. Đuối sức không chỉ từ thần thời gian cản bước mà còn thiếu hẳn sự tự nhiên trong cách ngắt câu và kiểu lấy hơi nặng nề như "người phu quét đường" thở dốc với chiếc xe kéo, cùng một chút khò khè từ buồng phổi nhiều năm không thể thiếu thuốc lá? Âu cũng là lẽ thường.

Giọng ca tái tê và rạn vỡ, bây giờ không còn. Không chỉ là rì rầm như "đại bác đêm đêm dội về thành phố" mà Khánh Ly nì non "Hát Trên Những Xác Người" thay cho những bà mẹ, những người cha hóa điên bên xác con thơ của trận Mậu Thân năm nào... Nhiều lắm...

"Tình cũ không rủ cũng tới", bây giờ sai mất rồi. Một chút hoài niệm chen lẫn bối rối, khó diễn tả cùng tâm trạng... cụt hứng, khi chờ một kỷ niệm tìm về. Vả chăng, nếu có, người Sài Gòn cũng không thích ngắm nghía giọng ca Khánh Ly với vẻ sang trọng nhưng cứng đơ và đạo mạo, được khoác lên khá khiêng cưỡng như tại Hà Nội. Vốn dĩ người Sài Gòn cũ, dù sành điệu nhưng không sính ngoại với "đặc danh": "diva".

Sài Gòn và cả Việt Nam, bây giờ có thứ gì mà không cần đến tiền? Giờ, lộ thiên chơ vơ, trái tim như cục than đen xì bất động; khe khẽ đập và hổn hển thở theo... hai trăm triệu của Phó Đức Phương. "Áo Lụa Hà Đông" bị xé rách toạc trước mắt người... làm văn hóa. Văn hóa gì đây? À! Văn hóa từ "tâm hồn treo ngược ở cành cây" của Sóng Hồng đây mà!

Biết đâu, chuyến trở về thứ hai, với Sài Gòn là bến đợi, chiếc áo dài vàng hoa cúc, không bị phết những nhát cọ "một màu đen đen, một màu trắng trắng, chiều hoang vắng chiếc xe tang đi thật vội vàng"! Trên chuyến xe đó, bên "quần tang áo chế", người ca sĩ năm nào lê bước chầm chậm để hát nốt những ca từ "Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu".

Nghe những tàn phai

Khi nhắc về "đền đài âm nhạc", dù quý phái hay bình dân; dù thính phòng hay nhạc nhẹ; dù chắt lọc ngôn từ hay bình dị câu hát, nó vẫn phải dành hết cho thân phận con người - Con Người Việt Nam hôm nay.

Đó không thể gọi là "đền đài" [1], bởi nó chỉ xứng với tên gọi trang trí như những phông màn làm buổi diễn cho những thanh âm rè đục như "Nghe Những Tàn Phai" cất lên trong lòng chế độ. Sao lại chọn Khánh Ly vào lúc này - như một sự giễu cợt cuối cùng mà người cộng sản vốn thích đùa dai?

Bất kỳ giá trị nào được làm từ dĩ vãng đều trở nên vô nghĩa, nếu người ta không biết hiện tại xuất phát từ đó đang ra sao và làm sao xoay xở nó trong tương lai - tương lai rất gần, đang đến. Một nỗi bế tắc mang bóng dáng "âm nhạc", khi cầu viện đến cái tên "Khánh Ly". Tựa như chiếc vợt cũ rách, cố vớt tạm lòng dân - đang rã mục. Thế thôi. Bởi dòng nhạc Trịnh Công Sơn đã là dĩ vãng, không còn được giới trẻ quan tâm nhiều lắm.

"Đồ cổ" chỉ có giá trị khi mang tính lịch sử và truyền lại tinh thần văn hóa vô giá cho con cháu đời sau. Chỉ tiếc, chính tư tưởng thực dụng đến bẽ bàng của người cộng sản gieo rắc bao năm qua, làm cho giới trẻ không khoái... "đồ cổ"!

Vả lại "môi trường văn hóa" Việt Nam ô nhiễm đến mức ngột ngạt, người ta làm sao có thể ngồi ngân nga hay ngẫm ngợi những câu hát đậm "chất thiền" và đầy tính bao dung của Trịnh Công Sơn nữa?

Người cộng sản hãy cố xoa tay và hít sâu lồng ngực với một cái thở mạnh, hắt ra cho buồng phổi thêm chút oxygen mà tiếp tục sống và hy vọng...

Dù sao, những phút cuối dọn dẹp mặt bằng sân khấu, hạ màn đang đến. Và ở đó, thấp thoáng nhiều "cặp mắt đỏ quạch" dáo dác tìm bằng được "visa EB-5" [2] cho cuộc tháo chạy an toàn, đến Mỹ. Sắp đến rồi...

Bình minh chuẩn bị ló dạng. Chắc chắn là như thế, cho người dân Việt Nam, không phải cho ai khác.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Hà Nội gió !!!

- Trần Mộng Tú
Gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy! (tmt)...

Tôi trở về nhà sau một chuyến bay dài đỏ mắt. Không biết ai là người đầu tiên đặt tên cho những chuyến bay đêm là 'đỏ mắt' thật là hay. Chập chờn giữa thức và ngủ cả mười ba, mười bốn tiếng thì chắc chắn mắt xanh như cô Kiều của cụ Nguyễn Du cũng thành mắt đỏ. Chữ nghĩa mang ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của ta rất nhiều, có những chữ mình không thể nào thay bằng chữ khác được.


Chúng tôi đi trong một Hà Nội đầy gió, người Hà Nội đặt tên cho gió này là Gió Mùa Ðông Bắc. Có không biết bao nhiêu thi sĩ, bao nhiêu nhạc sĩ đã xúc động về những cơn gió này và viết ra bao nhiêu tác phẩm làm thăng hoa đời sống con người để ngay cả khi đang sống trong một hoàn cảnh khó khăn nhất, con người vẫn tìm ra cái đẹp của nơi mình đang sống. Khí hậu của tháng Mười Một và tháng Chạp âm lịch là khí hậu lạnh và đẹp nhất trong năm của miền Bắc. Gió hay trở lạnh đột ngột như một người đi xa bỗng trở về không báo trước. Có thể mới buổi sáng trời còn rất ấm không có gì báo hiệu là một ngày lạnh, nhưng đến trưa gió ở đâu bỗng kéo về chật phố. Gió chen chúc vào đám đông đang đi trên đường, gõ cửa những ngôi nhà, hàng quán, ngồi sát vào những người buôn bán hai bên vỉa hè rất là hồn nhiên. Chẳng cần nói năng gì cả. Chỉ cần có mặt, tôi đến, tôi ngồi xuống và tôi ở lại. Giống như Caesar ngày trước I came, I saw, I conquered. Thế là mọi người chạy ùa đi mua áo ấm để ngồi chung với gió.

Chúng tôi đã được đi, được ngồi chung với Gió Mùa Ðông Bắc trong suốt mười ngày ở Hà Nội.

Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc.

Suốt từ Sài Gòn, đi xe ca theo tour Tiền Giang, Hậu Giang, Phan Thiết, Nha Trang, Hà Nội rồi bay ra Phú Quốc, ta nhìn thấy sự phồn thịnh luôn luôn đi bên cạnh nghèo đói một cách rất rõ ràng.

Miền Bắc, miền Trung ở quê vẫn còn khổ và nhiều người rất nghèo trong khi ở thành phố Sài Gòn, Hà Nội, hàng đêm người ta đổ xô ra phố tiêu tiền (không biết tiền ở đâu ra mà nhiều thế!) Ở những nhà hàng, những quán ăn thì người trong nước tiêu phung phí hơn Việt Kiều. Thử vào một chỗ ăn chơi như vào bar chẳng hạn, thì có thể chỉ nhìn chai rượu gọi sẽ nhận ngay ra ai là Việt Kiều ai là Việt Việt (chữ một cậu cháu tôi dùng để gọi người trong nước). Việt Kiều xài sang gọi chai rượu 150 mỹ kim, trong khi đó Việt Việt gọi chai rượu 1.500 mỹ kim. Tôi quê mùa, hỏi cháu:

- Chai rượu gì mà đắt vậy?

- Con không biết, nhưng thấy họ trả 1.500 mỹ kim cho chai rượu; họ đi năm, sáu người tiêu một buổi tối năm ngàn đô là chuyện nhỏ.

Nghe nói một tối tiêu năm ngàn đô là chuyện nhỏ thì chắc ai cũng biết cái xuất xứ của những số tiền nhỏ đó thật là mù mịt.

Ăn uống ở các tiệm bây giờ cũng đắt hơn gấp năm sáu lần của ba năm trước và không ngon. Trung bình chúng tôi ăn một bữa cho một người là từ ba cho đến bẩy mỹ kim. So với ở Mỹ thì rẻ, nhưng với tiền lương của một người trung bình là 700.000 đồngViệt- khoảng hơn 40.00 mỹ kim một tháng- thì làm sao trả được.

Tôi tự hỏi, Sài Gòn bây giờ hình như không ai nấu ăn trong nhà hay sao mà tối nào các tiệm, các quán cũng tấp nập khách ăn? Bao giờ nhìn chung quanh các bàn cũng rất nhiều người địa phương ngồi ăn, phần đông là giới trẻ, và trung niên. Trên bàn đầy ắp thức ăn và bia, nước ngọt.

Lương của một công chức không biết con số thật là bao nhiêu?

Tôi có một người em họ xa ở Hà Nội, làm phó giám đốc một công ty nhà nước gì không rõ mà anh đi xe BMW, khi chúng tôi tới thì vợ đang du lịch ở Singapore, con thì đi du học ở Mỹ, một năm hết ba mươi ngàn Mỹ Kim tiền học, chưa kể chi phí ăn ở. Nghe mà giật mình.

Theo cách anh nói chuyện thì ở Việt Nam bây giờ du học tự túc ở Pháp và Ðức như một phong trào cho các con ông lớn. Học giỏi hay không thì chưa rõ, nhưng mà đã là con của những ông lớn thì phải xuất ngoại, phải du học. Sang bên đó không học được thì ở chơi một thời gian, may mắn kiếm được người lấy thì ở lại, không thì về.

Nghe anh nói, tôi nhớ đến một ca làm việc của mình ở Mỹ. Khi tôi đến thăm tại gia cho một sản phụ được hưởng Phiếu Y Tế (Medical Coupon) tôi mới biết đó là một sinh viên Việt Nam du học tự túc, có bầu và ở lại. Cô là sinh viên du học mà không nói được một câu Anh Ngữ nào. Căn nhà cô ở thuê là một apartment water front. Tôi hỏi tiền đâu mà cô trả tiền nhà thì được cô ạ cho biết căn apt. này cha mẹ cô chuyển tiền sang mua, trả bằng tiền mặt, cho một người bà con có quốc tịch Mỹ đứng tên. Nghe mà giật mình, vì tôi biết căn apartermen đó ở Seattle ít nhất là 400.000 Mỹ kim, bởi gần sát mặt hồ.

Khi có những người giầu không rõ xuất xứ lợi tức như thế thì người nghèo có xuất xứ rất rõ ràng. Họ sống bằng những món tiền kiếm được hàng ngày rất khiêm tốn. Nếu đi dọc theo bờ hồ Hoàn Kiếm ta sẽ luôn luôn bắt gặp những người (một cụ già, hay một đứa trẻ đang tuổi đi học) bán vé số, hoặc nước trà. Bán vé số thì lấy vé của nhà nước đi bán lại mỗi vé số giá có hai ngàn, không biết lời được bao nhiêu? Trong khi đó giá một gói xôi khoảng bốn ngàn đồng- một Mỹ kim bằng 15.900 đồng-

Vốn liếng của người bán nước trà tất cả chắc chưa đến ba Mỹ kim: Một cái ấm ủ trong cái khăn cũ kỹ, vài cái ly thủy tinh nhỏ, năm ba cái kẹo lạc, kẹo vừng. Họ ôm cái gia sản bán buôn đó trong vòng tay gầy guộc, mời khách bên hồ. Hy vọng họ kiếm đủ cơm ăn cho một ngày hôm đó.

Ngay ở trong khu phố có tấp nập khách du lịch, thỉnh thoảng ta vẫn thấy một người gánh hai cái thúng hầu như chẳng có gì trong đó, chỉ có vài ba mớ hành, mấy củ su-hào, mấy quả chanh đem đi bán. Chắc đây là những thứ kiếm được trong vườn nhà. Tiền thu về may ra đủ cho một gói xôi, hay hai chiếc bánh mì không nhân.

Có cô bé lên năm cầm từng chiếc kẹo cao su lẻ bán cho du khách, cô bé nhỏ xíu, đen thui, ốm nhách mà cái mặt tươi như một bông hoa Mười Giờ chạy theo con gái tôi, đưa cái kẹo ra mặc cả bằng thứ tiếng Mỹ ngô ngọng, thấy vừa buồn cười, vừa tội nghiệp. Cô con gái tôi trêu cho em cười bằng cách nói tiếng Việt cũng ngô ngọng với em và gần như muốn bế em lên, vì em bé xinh quá!

Ôi tuổi thơ Việt Nam! Khi em lớn lên, em sẽ có ước vọng gì?

Ði càng về miền quê càng thấy những người nghèo. Ở những nơi ruộng nước như lối vào Tam Cốc, Bích Ðộng ở Ninh Bình hay Suối Trong, Suối Ðục ở Chùa Hương thì những người dân quê vẫn ngâm một nửa người trong nước nguyên ngày mò ốc, lưới tép kiếm ăn. Một kí tép khoảng hai chục ngàn, ngâm nước nguyên ngày được khoảng ba đến năm kí, kiếm được 60.000 -100.000 đồng cho nguyên một gia đình bốn năm người, trong đó có cả tiền học cho con.

Trẻ con đi học cho biết đọc, biết viết rồi nghỉ vì không có tiền trả tiếp, lại đi ngâm mình dưới nước giống cha mẹ thôi. Suốt một đời họ ngâm dưới nước. Người chèo thuyền chỉ cho chúng tôi xem một vài nấm mộ chôn một nửa chìm dưới nước, nói là mộ của những ông bà cụ già suốt đời mò cua, xúc tép ở đây, họ muốn con cháu họ chôn mình như thế, vì họ đã có câu: 'Sống ngâm da, chết ngâm xương' để chỉ đời sống gắn liền với nỗi vất vả này.

Du khách Âu Châu đổ vào Việt Nam một ngày một đông hơn, sau sau vụ khủng bố11/9/2001. Cả nước sống về nguồn lợi thu nhập được của du khách. Du khách nước ngoài vào, mang theo bao sự thay đổi. Việt Kiều đóng một vai trò không nhỏ trong môi trường này.

Mỗi người đem một ít về cho thân nhân, giúp vốn buôn bán, xây lại nhà cửa, mai mối cho lấy chồng nước ngoài. Cho nên ta thấy có những con hẻm lầy lội, nghèo nàn tự nhiên mọc lên một cái nhà hai ba, thậm chí bốn từng. Cửa kính, cửa sắt đứng cô đơn như một anh hề sau khi vãn hát. Những cô gái được tân trang từ đầu đến chân để lấy chồng nước ngoài, trông như những con búp bế vô hồn. Ðã có một số cô bằng lòng lấy bất cứ ai, dù đó là anh cắt cỏ hay rửa chén bên Mỹ, bên Úc. Ngay cả một anh ăn tiền tàn tật cũng vẫn lấy. Cứ lấy để đi đã, sang đó không ở được thì bỏ. Những câu chuyện đó bây giờ không có gì là mới lạ nữa, chỉ có sang bên đó mà sau năm năm không bỏ chồng thì mới gọi là 'Lạ'. Người không có thân nhân lo cho thì sẽ rơi vào bất cứ một bàn tay không lương thiện nào đó, và đã xẩy ra bao nhiêu thảm kịch. Ban đầu thì còn là chuyện thương tâm, sau đi đến nỗi quốc nhục.

Nhiều cô gái quê lớn lên trong cảnh nghèo sẽ làm bất cứ điều gì, không đắn đo để được thoát ra cảnh mò ốc, bắt cua, làm ruộng. Cô ở tỉnh thì chạy theo những nhu cầu vật chất và cũng một phần muốn có một cuộc sống nhàn nhã, không phải vật lộn với đời sống xã hội khó khăn hiện tại, nên họ không ngần ngại làm gái bao cho những người nước ngoài.

Chúng tôi đã gặp trên con đường từ Bắc vào Trung, ra Nam một vài cô rất trẻ, khoảng 17 đến 22 đi cặp đôi với những người đàn ông luống tuổi nước ngoài như Thụy Sĩ, Ðức, Pháp, Ðại Hàn, Ðài Loan.v.v. Trên bãi biển Phú Quốc nơi chúng tôi tắm, một lúc chúng tôi gặp ba người Ðức độ ngoài sáu mươi tuổi cùng tắm với ba cô gái Việt rất trẻ. Họ ngồi ngay ở mấy cái võng, và bàn ăn dưới gốc dừa cạnh chúng tôi. Họ nói tiếng Anh với mấy cô, mấy cô nói rất ít, ngoài lắc, gật và cười ròn rã. Một lúc sau có thêm một người nữa dắt một cô đến, họ làm quen và nhập bọn với nhau. Họ ngồi ngay cạnh chúng tôi, nên dù không chú ý cũng nghe rõ tiếng những người đàn ông nói với nhau:

- Gái ở đây hiền và dễ bảo hơn gái Sàigòn.

- Sống ở đây, cần bao nhiêu một tháng, kể cả tiền trả cho mấy cô này?

- Rẻ lắm, chỉ độ năm trăm mỹ kim thôi.

Hình ảnh mấy ông già da nhăn nheo đó đùa rỡn dưới biển với mấy cô má hồng còn lấm tấm mấy cái mụn dậy thì, trông chẳng khác gì cảnh ông nội, ông ngoại ra bơi với cháu. Thật đáng buồn!

Tôi nhìn sang con gái tôi, cô đang nằm phơi nắng trong bộ áo tắm, cuốn tiểu thuyết The memoirs of a Geisha úp trên mặt, tôi thấy cô thật là may mắn biết bao! Cô được đi học, có có việc làm tử tế, cô kiếm sống được bằng kiến thức và lòng tự trọng. Nếu cô chẳng may sinh ra và lớn lên trong một cái làng, cái tỉnh nghèo nàn nào đó Việt Nam, không được đi học đến nơi, đến chốn, thì có gì bảo đảm cô sẽ không là một trong những cô gái đang bơi lội dưới kia? Cái nghèo khó luôn luôn kéo theo cái bất hạnh.

Giữa mênh mông sóng biển, nhìn những cô gái trẻ đang bơi trong nước, bỗng những cành đào Nhật Tân hiện ra trong trí tôi. Những cành đào hiếm hoi còn sót lại năm nay ở làng này vì người ta đang cào xới đất để xây những cao ốc trên đó. Rồi những cô gái làng này không còn hoa đào để bán, không còn đất để trồng cúc, trồng lay-ơn, trồng hoa hồng nữa. Họ sẽ đi đâu và sẽ làm gì để sống? Họ sẽ lại ra những bãi biển với những người đàn ông già như ông nội hay sao?

Khu đất cổ truyền trồng hoa, nổi tiếng về hoa đào Nhật Tân còn không cứu được, còn bị san bằng để xây cao ốc thì những cô gái Nhật Tân có ai cần để ý tới là họ sẽ trôi ra biển hay đi về đâu!

Người thanh niên hai mươi tám hướng dẫn tour cho chúng tôi than:

- Tụi con bây giờ, những người lợi tức thấp, khó kiếm vợ và kiếm bồ lắm. Họ cặp với người nước ngoài hết rồi cô ơi!'

Tôi hỏi.:

- Nhưng các cô ở miền quê như Phú Quốc này, thì làm sao gặp được những người du khác ở xa đến, trong khi họ lại không biết ngoại ngữ?

- Dễ lắm cô ạ. Cứ cô nào đi trước kiếm được một người thì lại chỉ dẫn giới thiệu cho cô sau. Mấy ông du khách đó lại giới thiệu cho nhau. Cứ cái đà này thì con gái Phú Quốc chẳng còn ai cho tụi thanh niên chúng con ở đây nữa. Mấy tỉnh miền Tây bây giờ cũng thế hết, con gái họ bỏ đi Sàigòn kiếm sống bằng cách làm gái bao cả.

Anh ta nói như một tiếng than. Tôi ngồi im nghe không biết nên an ủi thế nào.

Ở Sàigòn thì gặp mấy người chạy taxi kể lể:

- Cô ơi! Mấy thằng cha Ðại Hàn bây giờ nó khôn lắm. Nó sang đây giành giật của Việt Nam vừa đàn bà vừa tiền. Nó không cần biết tiếngViệt, nó bỏ tiền ra thuê một cái mặt bằng, thuê bao luôn một cô vợ ở đây đứng trông tiệm (bán đồ cho khách du lịch) làm người ở và làm vợ tạm thời cho nó. Cô ta được trả vài ba trăm đô một tháng là mừng lắm rồi. Làm ăn một thời gian vài ba năm thôi, hết hạn, nó trả tiệm lại, trả cô nhà quê ra đường, ôm tiền về nước. Mấy thằng Ðài Loan cũng vậy.

- Còn mấy ông già Việt Kiều nữa cô ơi! Ðến tuổi hưu trí rồi, về Việt Nam kiếm một cô bồ chỉ bằng tuổi con gái, con dâu mình. Giữ đấy, như một thứ vợ nhỏ, cho một tháng hai ba trăm đô la. Mỗi năm đi, về hai, ba lần hưởng thụ. Cơm bưng, tình bưng đến tận miệng. Trong khi ổng không có ở đây thì các cô muốn làm gì thì làm, khi ổng qua thì các cô phải hoàn toàn phụng sự ổng là được rồi.

Anh nói thêm:

- Chuyện này đều đều từ nhiều năm nay rồi. Các cô rủ nhau, dắt mối cho nhau, Ðại Hàn giới thiệu cho Ðại Hàn, Ðài Loan giới thiệu cho Ðài Loan, Việt Kiều giới thiệu cho Việt Kiều. Mỗi người một tiêu chuẩn, một dịch vụ khác nhau. Ai cũng vui vẻ hài lòng cả.

Tôi nghe, mà lòng buồn ruời ruợi. Có lẽ những phụ nữ chọn cuộc sống này họ thấy còn hơn là phải sang Ðài Loan làm nô lệ cho cả một gia đình, hay bị bán vào những nơi họ không hề lựa chọn. Tôi nhớ đến một bản tin đọc được ở báo trong nước về một người đàn bà Việt Nam muốn sang Ðài Loan kiếm tiền giúp gia đình. Hai vợ chồng vay mượn một số tiền mười ngàn mỹ kim để được sang bên đó làm công nhân, hay ở mướn gì đó qua trung gian môi giới. Không biết vì một lý do đau thương, tủi nhục nào, người vợ đã không cho chồng biết, âm thầm chịu đựng rồi đi đến chỗ tự tử chết. Người chồng vừa đau đớn vừa bị món nợ mười ngàn mỹ kim hối thúc, tự tử chết theo vợ, để lại mấy đứa con thơ.

Thử hỏi có bản tin nào đau thương hơn bản tin này!

Trong khi đó thì ở một mặt khác của xã hội, những cô gái của cả Sài Gòn, Hà Nội bây giờ sống rất là thời thượng. Họ đi làm những công việc văn phòng chỉ để lấy danh nghĩa đi làm, họ có một nguồn lợi tức ở đâu đó cung cấp chuyện tiêu pha ăn, mặc hàng ngày cho họ mình không biết. Họ rất giỏi về lãnh vực tìm bạn Việt Kiều trên mạng. Mỗi tối ngồi hàng giờ để chat với một ai đó, rồi đưa đến hò hẹn. Một cậu Việt Kiều ở Mỹ hay Úc, trước khi về Việt Nam, có thể tìm trên mạng cho mình một cô bồ ra tận phi trường đón. Cô ta nói tiếng Anh tương đối, hướng dẫn các dịch vụ ăn chơi, cô chỉ bảo tận tình và cho cậu cái cảm tưởng là cô không đến vì tiền của cậu (cô có tiền rồi!) cô sẵn sàng mời cậu về nơi cô ở thay vì ở khách sạn (tình cho không, biếu không), cô hiền lành, chiều chuộng hết mình, rồi cô cho cậu biết cha mẹ cô là những người có địa vị trong xã hội, cô mời cậu ra Bắc hay lên Ðà Lạt, hoặc Nha Trang gặp họ. Trong khi chuyện trò, cô thường nói là 'Em không thích sống ở Mỹ', cô cho cậu cái cảm tưởng cậu là người may mắn, gặp được một cô không giống những cô mà trước đây cậu thường nghe tả. Có thể cậu Việt Kiều này sẽ gặp ông bố của cô bồ là một Kỹ Sư nhà nước hay một ông bác sĩ thật (Một bác sĩ xuất thân là y tá và được thăng bác sĩ nhờ tuổi đảng thâm niên). Và cô 'không thích sống ở Mỹ đâu' chỉ có nghĩa là cậu lấy cô rồi cậu sẽ ở lại Việt Nam, và cô có cơ hội vào quốc tịch Mỹ. Có trời mà biết những gì sẽ sẩy ra sau tấm màn sân khấu này.

Những vở kịch này hiện nay đang diễn ra thường xuyên ở Việt Nam. Những người thân quen ở Việt Nam chỉ biết dặn dò:

- Cháu coi chừng đấy, gái Việt bây giờ có cả ngàn chiêu, không biết đường nào mà đỡ đâu.

Tôi được nghe kể, còn một phương cách kiếm chồng nước ngoài cao hơn thế nữa là các cô con ông lớn thứ thiệt, có đăng ký tên trong những cái bar sang trọng. Khi chủ nhân thấy có một đám khách Việt Kiều trẻ nào, thuộc loại mặt mũi sáng sủa, lịch sự, học thức, ăn xài sang vào bar là lập tức họ thu dọn chiến trường, dẹp hết những cô tầm thường đang làm việc ở đó, gọi những cô gái con các ông lớn trong danh sách đến. Các cô ăn nói lịch sự, có học đến làm quen chuyện trò với khách, và sau một buổi tối, nhiều cậu đã được mời về nhà, giới thiệu với gia đình. Nhà sang trọng, có xe hơi, và tài xế riêng, cha mẹ niềm nở đón tiếp. Hỏi ra thì được biết cha mẹ các cô toàn là những nhân viên cao cấp của chính quyền cả. Những cậu được mời này, chắc chắn sẽ quay lại và kết thân cùng cô gái. Mọi việc kế tiếp thì chỉ có Trời mới biết là sẽ được xếp đặt như thế nào.

Ôi! Những chuyện quê nhà thì nói sao cho hết. Chuyện vui thì qua mau, chuyện buồn thì ở lại. Mỗi lần về là một lần xót xa. Cứ nhủ lòng thôi không về nữa. Thế mà một hai năm sau, nguôi ngoai một chút lại thu xếp quay về.

Hà Nội bỗng dung nhan đổi khác nhờ những cơn Gió Mùa Ðông Bắc. Thanh niên, thiếu nữ giấu trong chiếc áo len, áo dạ, những mơ ước lãng mạn của mình. Họ khoác tay nhau ngồi xuống những quán ăn đơn sơ ngay ở vỉa hè. Chuyền tay nhau những chén lục tào xá, bánh trôi, bánh chay. Họ ăn bằng mơ mộng của tuổi trẻ, ăn bằng hoang mang của những ngày cuối năm, ăn bằng nôn nao của mùa xuân đang tới. Gió lãng mạn, gió phiêu du, gió làm gầy những con phố, làm trái tim đập dịu dàng và làm những bài thơ bỗng nghiêng xuống, nằm sát vào những chiếc lá cuối đông.

Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc.

Về Sài Gòn để được chen lách giữa những đám xe cộ, nhất là xe gắn máy. Ðể nhìn khói bụi mù đường, nghe những tiếng gọi nhau ơi ới, những tiếng rao hàng, hòa vào giữa tiếng xe nổ, tiếng còi xe inh ỏi. Ðể trong lúc chen lấn giữa dòng người, dòng xe, thỉnh thoảng lại nhìn cái bảng tên đường lạ hoắc, cố đoán ra trước đây là đường gì? Rồi chợt nghe đau nhói trong ngực về một kỷ niệm thân yêu cũ ở con đường mình đang đi. Nước mắt ứa ra, hình dung lại một buổi chiều êm ả đã xa lắm rồi.

Tình đã quan san từ đáy mắt (Ðinh Hùng)

Về để lại đi xuồng máy nguyên ngày trên Tiền Giang, ghé vào những rạch, chỗ người dân làm bánh tráng, làm kẹo dừa, đan võng, đan giỏ, để được ngắm những người dân miềm Nam giản dị, chất phác, nhìn những vất vả của người mẹ, người cha:

Quê hương là cây cầu khỉ
khẳng khiu như cánh tay cha
quê hương gánh hàng nặng trĩu
mẹ về tất tả chợ xa
quê hương áo bà ba trắng
khăn lau lệ mẹ vắt vai
quê hương mồ hôi cha đổ
cho con miếng ngọt miếng bùi. (tmt)

Về để đi ra Bắc, lên tận Yên Bái, đến ngôi nhà sát bên sông Hồng của người anh họ, được soi mặt trong thau nước múc lên ở lòng sông, có phù sa lắng hồng đáy chậu. Ðược ngồi trong một cái bếp còn đun củi, bám đầy bồ hóng, được dùng gáo múc nước, được ăn măng trúc, măng mai. Nhớ về câu thơ cũ trong bài Trấn Thủ Lưu Ðồn:

Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng

Về để được chen chân đi trong phố cổ Hà Nội nhỏ hẹp, có rác và cống trên từng bước đi, được đi trong nắng, trong gió Hà Nội nhớ lại thủa ấu thơ, ngơ ngác đi qua nhà thờ xưa như đứa bé tan Lễ ra, lạc mẹ:

Lâu lắm em mới về Hà Nội
đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
gió mùa đông bắc làm em khóc
Hà Nội, anh ơi phố rất gầy! (tmt)

Mấy ngày hôm nay Hà Nội lạnh, Hà Nội vào Tết, Hà Nội chạy ùa ra phố mua áo ấm, gió mùa đông bắc thổi vạt áo bay tung, hai mẹ con đi sát vào nhau, chen chân trong khu chợ đêm trong phố cổ. Cảm tưởng hương vị của một ngày cuối đông đang tan trong cổ mình như những câu thơ:

Hà Nội rủ nhau mua áo ấm
gió mùa đông bắc thổi qua len
khăn san quàng vội vào cổ gió
trên vai một chiếc lá rơi nghiêng (tmt)

Người, xe, hàng quà hai bên vệ đường cùng đan vào nhau, gần như dẫm lên chân nhau. Hàng Ðào với những cửa tiệm sang trọng bán quần áo tơ lụa cho du khách, Hàng Bạc lấp lánh những vòng vàng những xuyến bạc, và kiềng trạm, Hàng Mã một mầu đỏ đến căng từng mạch máu của đèn lồng, giây pháo giả, vàng mã. Người ta đổ xô đi mua về để đốt cho ông Táo lên trời. Cứ thế đi theo dòng người, hai mẹ con bập bềnh trôi.

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
(Bùi Giáng)

Ðúng là mùa xuân đang về trước mặt cho con gái và sau lưng là cả một giấc miên trường của đời sống mà người mẹ đã đi qua.

Trần Mộng Tú
dailien
Posts: 2458
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Bình Nguyên Lộc, Một Nhân Sĩ Trong Làng Văn

Võ Phiến
Năm 1969, tạp chí Khởi hành (ở Sài Gòn, số24, ra ngày 9-10-1969) hỏi Bình-nguyên Lộc: “Ông đang viết cuốn truyện thứ bao nhiêu của ông?” Bình-nguyên Lộc đáp: “Tôi đang viết truyện thứ nhứt”.

Cuốn truyện thứ nhứt của Bình-nguyên Lộc, ông khởi thảo từ năm 1935, năm ông hăm mốt tuổi. Tức cuốn Hương gió Đồng Nai. Bản thảo thất lạc trong thời chiến tranh, trong những cuộc tản cư hối hả. Mấy chục năm sau, ông vừa thử viết lại vừa cố gắng tìm bản thảo xưa; ông rao tìm trên mặt báo, kêu gọi sự giúp đỡ của người hảo tâm tứ xứ. Cho tới khi qua đời ở Mỹ năm 1987, tức 52 năm sau, tác phẩm nọ vẫn chưa tìm lại được, vẫn chưa viết lại xong. Đồng Nai là một mối bận tâm suốt đời của Bình-nguyên Lộc. Dòng họ ông vẫn giữ được bản gia phả mười đời. Sinh sống ở đất Tân Uyên, một làng bên con sông Đồng Nai. Mười đời kể đến 1965 (lúc ông trả lời cuộc phỏng vấn của Ngu Í) thì đến đời cháu ông hiện nay đã thành ra mười hai đời, tức độ ba trăm năm; vậy tổ tiên ông thuộc lớp những di dân đầu tiên vào Nam lập nghiệp.
Image
Đồng Nai là bận tâm của một dòng họ. Phù sa là bận tâm của cả miền Nam. Phù sa, tác phẩm thứ hai trong đời Bình-nguyên Lộc, khởi thảo năm 1942, nhằm vào công trình mở mang bờ cõi về phương nam, cho đến mãi tận mũi Cà Mau. Tác phẩm ấy, đến ngày cuối cùng của ông, 45 năm sau, viết đi viết lại mãi vẫn chưa xong.

Chúng ta vừa nói đến hai mối bận tâm, mối bận tâm thứ ba của Bình-nguyên Lộc bao trùm cả dân tộc. Cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam được xuất bản năm 1971, năm sau đã xuất hiện ngay cuốn Lột trần Việt ngữ. Cả hai đều là sách đồ sộ, đòi hỏi lắm công phu, không biết khởi thảo từ lúc nào, và công cuộc tìm tòi sưu khảo bắt đầu từ bao giờ. Dù sao phải là một thời gian đáng kể; ông từng than với Viên Linh trong cuộc phỏng vấn ở số báo Khởi hành nói trên : “Về ngôn ngữ học thì thật là bể đầu, vì tôi tự học, chớ không có vào trường ngôn ngữ nào hết, mà phải học ngót một trăm ngôn ngữ thì rất khổ”. Biến cố tháng 5-1975 làm cho công trình bị ngưng lại, dở dang. Năm 1985, sang đến Mỹ ông nghĩ ngay đến việc tiếp tục. Trong lá thư gửi chúng tôi viết ngày 16-1-1986, ông cho biết : “Số là quyển Nguồn gốc Mã Lai của tôi tuy đã dày 950 trang, nhưng thật ra thì chỉ là tome I mà thôi. Tome II quan trọng hơn, tôi đã viết xong tại Sài Gòn, nhưng mang bản thảo theo không đọc, thành thử giờ phải viết lại, mà viết thuộc lòng vì tài liệu cũng không mang theo được (…). Số là trong tome I tôi chỉ mới chứng minh bằng việc đo sọ và bằng trích các cổ thư. Tome II là sách đối chiếu ngôn ngữ, trong đó có nhiều khám phá mới lạ về ngôn ngữ học, mà Âu Mỹ đã làm nhưng không xong.” Đầu năm sau, ông qua đời: lại một bận tâm dày lâu nữa chưa toại nguyện.

Một chủ đề khác cũng được Bình-nguyên Lộc trân trọng. Xem qua các tác phẩm đã xuất bản của ông, người để ý có loại được ông dành cho một sự đãi ngộ đặc biệt. Như cuốn Những bước lang thang trê nhè phố của gã Bình-Nguyên Lộc, cuốn Thầm lặng. “Lang thang trên hè phố” là hè phố Sài Gòn đấy thôi: nơi ông đã sống hẳn từ 1949 về sau, tức 36 năm, những năm trưởng thành, sung sức, nơi ông đã trải qua gần như suốt cuộc đời hoạt động văn nghệ của mình.

Sách thuộc loại này – như ông nghĩ – không dính dáng đến chuyện thương mãi: trên đời hẳn không mấy ai đọc nó, mua nó. Sách loại này kẻ viết viết vì mình, in cho mình : thật ít, bìa không hề có màu sắc lòe loẹt. Cuốn Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc in đúng 658 bản trên giấy đặc biệt chế tạo tại làng Vĩnh Cửu, không có bản nào in trên giấy thường, và cam đoan sẽ không bao giờ tái bản ! Sau cuốn “Lang thang”, cuốn Thầm lặng cũng được tác giả liệt cùng loại: sách bìa đen trắng, “bán không ồ ạt”. Năm sau nữa, có lời rao mời độc giả đón đọc cuốn Thu hẹp thiên nhiên, “sẽ chỉ in có 569 quyển và không bao giờ tái bản”; nhưng cuốn này rồi không thấy xuất hiện trên thị trường, chẳng hay có phải vì lý do bán chác thiếu ồ ạt quá đáng mà dự định đành gác bỏ chăng?

“Những bước lang thang” thực ra thuộc một thiên phóng sự dài, tên là thám hiểm đô thành. Trong “những bước lang thang” ấy, Bình-nguyên Lộc ca ngợi “những hàng me Sài Gòn”, những ghe thuyền, những “quà đêm trên sông ông Lãnh” v.v…, với những bài viết từ năm 1952. Trong Thầm lặng bài nói về “Người chuột cống” kiếm ăn trong những ống cống dưới lòng thành phố đã đăng báo từ 1950. Vậy Sài Gòn cũng là một ấp ủ trong lòng tác giả qua nhiều thập kỷ.

Nhớ quê là một ấp ủ khác nữa. Nhà Văn Nghệ ở California tái bản cuốn Cuống rún chưa lìa năm 1987 với lời nói đầu (tôi nghĩ là do chính tác giả soạn thảo), cho biết về đề tài này Bình-nguyên Lộc từng viết tới 17 thiên truyện ngắn. Nhớ quê, chữ “quê” nên hiểu rộng : đối với kẻ đi làm ăn xứ xa, thì làng cũ tỉnh cũ là quê; đối với dân ruộng đi Cần Thơ, đi Sài Gòn, sinh sống, thì nông thôn là quê, đối với Việt Kiều theo chồng sang Pháp, sang Mỹ ở, thì nước Việt Nam là quê, đối với dân thương hồ lênh đênh trên sông nước rập rờn, thì mặt đất liền là quê v.v…Quê thì vui, thì quí, thì thương không biết để đâu cho hết, thì nhớ da diết không nguôi được. Lửa reo trong bếp thì vui, nước mưa tràn đồng thì vui; xa đất thấy thèm mùi đất; xa xứ bắt được mùi nước mắm, mùi hương hành kho cá thì … xao xuyến cả tâm tình v.v…Tôi có cảm tưởng những câu chuyện như thế, trong một đời, từ năm nọ sang năm kia, ông Bình-nguyên Lộc không chỉ đem ra viết có mười bảy cái truyện nhỏ đâu. E hơn thế. Có dịp kiểm điểm kỹ, e còn gặp thêm nhiều.

Trong đời Bình-nguyên Lộc còn có một bận tâm khác nữa. Ông không hề cố ý ấp ủ nó, tự nó đến với ông, dày vò ông. Đó là chứng bịnh thần kinh, được phát hiện vào nam 1944. Năm sau, ông khỏi bịnh. Nhưng vào khoảng thời gian từ 1950 đến 1964, ông bỗng trở nên khó tính, bực tức khác thường, khiến cuộc sống gia đình lắm lúc rất khó khăn. Sự kiện này ám ảnh ông. Trong nhiều năm ông suy nghĩ, tìm hiểu về bịnh thần kinh. Người trưởng nam của ông – bác sĩ Tô Dương Hiệp – chuyên về chứng bịnh này và đã từng là giám đốc một dưỡng trí viện. Hai cha con cùng nhau thực hiện một công trình biên khảo mang tên Khinh tâm bệnh và sáng tác văn nghệ. Sách chưa xuất bản thì bác sĩ Tô Dương Hiệp qua đời. Riêng ông, Bình-nguyên Lộc từng có nhiều truyện về bệnh tâm trí.

Vào khoảng đầu thập niên 70, Nguyễn Nam Anh của tạp chí Văn ở Sài Gòn có hỏi Bình-nguyên Lộc trong một cuộc phỏng vấn về tác phẩm ưng ý nhất của ông, Bình-nguyên Lộc cho biết, trong tất cả những gì đã viết, ông thích nhất ba cuốn : Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc, Cuống rún chưa lìa và Tỳ vết tâm linh. Tại chủ quan tôi thấy nó hay. Nhưng người khác chưa chắc đã thấy như tôi. Tỳ vết tâm linh là cuốn truyện dày về một thiếu nữ bị bệnh tâm trí. Cùng một chủ đề tâm trí, ông còn nhiều truyện ngắn. Cái cảm tình “chủ quan” của ông đối với cuốn truyện dày kia có chỗ thương tâm.

Chúng ta chắc chắn là chưa kiểm điểm dược mọi nỗi niềm tâm sự của Bình-nguyên Lộc : đời có ai thấu hết được lòng ai. Tưởng không nên tham lam quá.

*

Bình-nguyên Lộc trước viết báo, rồi sau làm báo luôn. Vừa viết văn vừa làm báo là một đời quá bận rộn, mà sự thiệt thòi thường khi thuộc về phía nhà văn. Người ta vẫn có cảm tưởng rằng cái văn cái truyện viết đăng báo, viết trong hối hả, e chẳng qua là món tiêu khiển, hời hợt. Báo chí liên hệ với thời sự, không phải thứ để đời.

Ở Bình-nguyên Lộc – như đã thấy – không phải thế. Cái ông viết ra hàng ngày trên báo mà là cái tiêu khiển ư?- Là tấm lòng ông đấy. Là những thiết tha một đời của ông đấy. Là những gì vẫn theo đuổi ông từ năm nọ đến năm kia không buông tha đấy.

Bình-nguyên Lộc là một tác giả nghiêm chỉnh. Ông được kính trọng.

Năm 1974, trên tại chí Thời tập (ở Sài Gòn, số ra ngày 10-10-74) Sơn Nam có nói về việc ông mua một cuốn sách cũ của Bình-nguyên Lộc: cuốn Nhốt gió. “Quyển này in 3.000, gần một phần tư thế kỷ rồi, chắc là đã hao mòn, mất mát, người chơi sách họa chăng còn giữ ở Sài Gòn này chừng mười quyển là nhiều. Chúng tôi may mắn có một quyển, mua cách đây bốn năm ở hiệu bán sách cũ với giá đặc biệt của loại sách cổ sách quí. Năm 1950, sách ghi bán 18đ00. Chúng tôi mua lại 600đ.00 với cái bìa đã nát. Mua để làm gì? Mến mộ Bình-nguyên Lộc là một lẽ…”

Mến mộ Bình-nguyên Lộc không phải chỉ những người cùng xứ, tuổi đáng đàn em, như Sơn Nam. Trong số quen biết bạn bè, giao du về văn nghệ với Bình-nguyên Lộc từ lâu có Xuân Diệu, Huy Cận, Đỗ Đức Thu, Mặc Đỗ, Nguyễn Văn Bỗng…, kẻ Bắc người Trung, trong thời tao loạn có kẻ đứng về bên kia chiến tuyến. Sau tháng 5-1975, Xuân Diệu đến thăm Bình-nguyên Lộc hai lần lại nhà; Nguyễn Văn Bỗng cũng còn đi lại.

Anh chị em cần bút trong Nam thì chắc là số người thân với ông tất phải nhiều hơn, nhưng tôi không thấy cần dông dài. Chỉ xin chú ý đến những nhà văn các miền ngoài, nhất là ngoài Bắc. Ở đó, cái biết về các hoạt động văn học trên phần đất Nam Kỳ cũ rất là sơ sài. Theo sự phác giác của Nguyễn Văn Trung gần đây, bộ môn tiểu thuyết xuất hiện ở trong nam sớm hơn ngoài Bắc chừng ba, bốn chục năm. Vũ Ngọc Phan không hề biết; ông nói về Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn…như những người đi tiên phong, mà không kể đến những Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắc, Trương Duy Toản, Trần Chánh Chiếu v.v.. Sau lớp tiên phong, đến lớp nhà văn tiền chiến các cây bút trong Nam cũng không được chú ý bao nhiêu. Trong bộ Nhà văn hiện đại có 79 tác giả, gốc Nam Kỳ cũ được 4 người. (Ở hai quyển 4 và 5, nói về các bộ môn sáng tác, thì không có người Nam nào). Trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân có 46 tác giả, người Nam chỉ được một cặp ông bà Song Hồ. Sau1945, miền Bắc chỉ quan tâm đến những cây bút đã gia nhập vào hàng ngũ chính trị của họ. Thành thử sự kết giao của các tên tuổi Bắc Trung vừa kể với Bình-nguyên Lộc là trường hợp hiếm.

Ngoài ra, Bình-nguyên Lộc còn được Nhất Linh chọn mời cộng tác vào tờ tạp chí ông chủ trươg ở Sài Gòn sau Genève. Năm 1952, mới từ Hương Cảng về Sài Gòn, Nhất Linh đã nhắn Bình-nguyên Lộc đến gặp mình tại nhà trọ bấy giờ ở đường Lê Văn Duyệt (Phỏng vấn của lê Phương Chi, Tin sách số 32, tháng 2-1965).

Một thắc mắc có thể được nêu ra : Liệu có thể bảo rằng những mối giao hữu, những sự chọn lựa nọ đối với Bình-nguyên Lộc là căn cứ trên các ưu tư làm cơ sở cho văn nghiệp một tác giả nghiêm chỉnh không ? Có phải ai tiếp xúc với Bình-nguyên Lộc cũng để ý đến các hoài bảo âm thầm của ông, và quí trọng nó?

- Không phải chúng ta vừa khám phá ra điều bí ẩn nào bất ngờ nơi Bình-nguyên Lộc đâu! Trước chúng ta mấy chục năm, các phỏng vấn viên Ngu Í, Nguyễn Nam Anh, Viên Linh, vị nào đến với Bình-nguyên Lộc đều biết, đều có đề cập xa gần đến tác phẩm đầu tiên luôn ám ảnh ông. Tất nhiên họ không biết hết mọi hoài bảo của Bình-nguyên Lộc. Thì cũng như chúng ta!

- Nhưng những hoài bão cao quí có làm nên giá trị một tác giả hay một tác phẩm văn chương chăng?

- Đó là một nghi vấn lợi hại. Trăm năm trước Oscar Wilde đã nói chăc nịch : “There is no such thing as a moral or an immoral book. Books are well written, or badly written.” Sách chỉ có sách hay với sách dở thôi, cần gì biết tới chuyện cao quí với không cao quí ? Nhưng chúng ta sống trong một truyền thống văn hóa khác. Ở ta, đến như cụ Nguyễn Du mà vẫn từng điêu đứng một thời vì cái giá trị đạo lý của cuốn Kiều, huống chi những phận hèn như chúng ta. Mặc dù chúng ta đã xa thời Nguyễn Du, dù các quan niệm văn học Tây phương đã phổ biến rộng rãi, nhưng phải nhận rằng ảnh hưởng của truyền thống vẫn còn : Đối với sách, ngoài chuyện sách hay sách dở ở ta vẫn lắm kẻ lưu tâm đến sách tốt sách xấu; và đối với người (tác giả) ta vẫn quí chuộng những kẻ kiêm đủ tài và … đức, những kẻ có lòng. Dĩ nhiên chỉ quí chuộng khi sách tất không đến nỗi dở, kẻ có đức không đến nỗi bất tài.

Nhưng chuyện hay dở rồi sẽ bàn sau.

*

Người ta để ý thấy Nhất Linh mời Bình-nguyên Lộc cộng tác làm báo, nhưng Nhất Linh không đề cử Bình-nguyên Lộc vào Tự Lực văn đoàn, không đưa sách ông vào các nhà xuất bản Phượng Giang, Đời Nay, như đối với một số nhà văn khác lúc bấy giờ (Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam…). Tại sao vậy? Một cách đánh giá chăng? Chúng ta không có căn cứ đầy đủ để ức đoán. Hãy bằng lòng với một ghi nhận, một “để ý” vậy thôi.

Từ đó liên tưởng đến vài sự kiện khác.

Trở lại với Sơn Nam, xem cách Sơn Nam đọc sách Bình-nguyên Lộc. Ông mua cuốn Nhốt gió với cái giá đã gấp 33 lần nguyên giá, lý do thứ nhất là vì lòng mến mộ đối với tác giả (như ông đã nói). Lý do thứ hai là đối với tác phẩm: “là muốn có sẵn trong tủ một quyển sách có công dụng thiết thực. Công dụng gì? (…) Chúng tôi đọc Nhốt gió để tìm một vài phút lâng lâng (…) Thế nào là lâng lâng? (…) .Muốn thưởng thức Nhốt gió thì nên lật ra, đọc một vài hàng, hoặc vài chục hàng để rồi xếp lại. Hoặc bỏ vài chục trang, đọc một đoạn cho vui. Người đọc không phải cố gắng, chịu cực để theo dõi nhơn vật hoặc suy nghĩ gì cả. Xin giới thiệu vài đoạn (…). Cứ đọc Nhốt gió khi nào mình thấy thiếu thốn một chút hương vị quen thân. Sách chỉ dày có 200 trương, đọc lai rai chừng một tháng là hết, nhưng thỉnh thoảng đọc lại năm ba hàng, tình cờ, lại thấy vui và mới.

Nó giống như ca dao, những câu ca dao bằng văn xuôi.” (Thời tập, Sài Gòn, số đã dẫn.)

Vài đoạn Sơn Nam đem ra giới thiệu là một đoạn nói về cánh rừng dầu lông cao lỏng khỏng, lá khô rôm rốp dưới chân người, ong kêu vù vù như muôn ngàn người trò chuyện trên ngọn cây. Và đoạn nữa là về một anh chàng xa quê nhớ về làng quê, nhớ những buổi đầu đông gió bấc ở rừng về bay theo bầy tu hú, những chiều đầu mùa mưa gió nồm từ biển vào rũ dọc đường bầy bông lồng mứt trắng mịn như tơ trời…

Cả tháng trời, Sơn Nam đọc từng đoạn như thế, và ông lâng lâng. Thì ra ông có đọc truyện đâu! Tay cầm cuốn truyện, ông đọc ca dao!

Như thế, Sơn Nam quả là tay sành sõi. Ông Cao Huy Khanh, ông Nguyễn Văn Sâm đọc truyện của Bình-nguyên Lộc, và không mấy vừa lòng. Ông Cao kêu về cái “cá tính ưa thích sự phân tích lý luận bác tạp rộng về bề mặt nhưng thiếu chiều sâu”. Ông Nguyễn cũng bảo “Ông (Bình-nguyên Lộc) giải thích quá nhiều lần, nên người đọc dễ chán, người ta đọc tưởng mình đọc sách học hơn là đang thưởng thức một sáng tác phẩm.” (Tạp chí Văn học, Hoa Kỳ, số 18, tháng 7-1987). Hay vị gặp nhau ở cái chủ tâm giảng giải, thuyết phục, nơi Bình-nguyên Lộc.

Hai vị đã bắt đúng một trong vài chỗ nhược của Bình-nguyên Lộc. Một chỗ nữa là cốt truyện. Lấy kinh nghiệm sáng tác của mình, ông khuyên các bạn trẻ đừng nghe lời một số các nhà phê bình mà nghĩ rằng cốt truyện hay thì làm mất giá trị của truyện. (Thời tập, Sài Gòn, số đã dẫn). Có nhà phê bình nào bảo vậy không? Dù sao Bình-nguyên Lộc là một tác giả tốt bụng, ông chuộng loại truyện hay vì truyện (dĩ nhiên cũng hay luôn về các phương diện khác). Truyện nhiều tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đọc vẫn thích; ông tử tế với độc giả, ông muốn độc giả hưởng nhiều khoái trá.

Rốt cuộc ông lâm lụy vào hai cái ấy: truyện rộn ràng tình tiết và nặng giảng giải

Về cái giảng giải khỏi cần dông dài: một sự kêu trời rập ràng của hai vị Cao – Nguyễn vừa rồi đã đủ. Giảng làm chi chữ hả? Tiểu thuyết gia nào có phải là thầy cô của ai đâu, độc giả tìm đến cuốn truyện nào có ý học hỏi gì đâu mà tự dưng hạ người ta xuống phận học trò cho người ta í ới thảm thương!

Còn về tình tiết rộn ràng, có thể chọn một thí dụ nơi cuốn Đò dọc mà ông cao Huy Khanh cho là “sự thành công duy nhất và quá hiếm hoi” của Bình-nguyên Lộc. Bốn chị em Hương, Hồng, Hoa, Quá đều chưa chồng, các cô đã quá muộn, cha mẹ đã lấy làm lo. Lại gặp cảnh rời Sài Gòn về tỉnh nhỏ, cha mẹ càng lo thêm. Chợt có tai nạn xe xảy đến ngay trước nhà. Trong một đêm, cả bốn chị em nối đuôi trò chuyện với nạn nhân, là anh Long. Rồi bốn chị em cùng yêu. Rồi hai chị em nối nhau tự tử vì tình. Rồi ba chị em lại xúm nhau lấy chồng. Sự việc sao mà dồn dập, mà rụp rụp, ngoạn mục quá chừng. Cũng ngoạn mục như chuyện yêu đương có dây gai thắt gút, có đèn pin bỏ túi của một chàng trai Sài Gòn, trong Tỳ vết tâm linh. Lại cũng ngoạn mục như chuyện anh chàng Bùi An Khương trong truyện “Thèm người” bị thất tình, đi trả thù tình, vào rừng, bị con khỉ cái bắt, cặp nách nhảy vùn vụt nên các ngọn cây, đêm đêm trói chàng lên cành cây, ban ngày hái trái ngậm đầy mồm đem về nuôi chàng, nuôi để mà … hiếp. Chàng trai sống riết với khỉ đến gần mất hình người.

Chúng ta có cảm tưởng ông Bình-nguyên Lộc có hảo ý muốn làm vui người đọc. Hảo ý không thuộc về nghệ thuật.

*

Giảng giải là một quan tâm về ý nghĩa, cốt truyện ly kỳ là mối quan tâm gây thích thú. Ý nghĩa nếu cao xa, diễn biến nếu ngoạn mục, xem qua biết rồi cũng sẽ mất lý do thu hút. Trong khi đó vài câu bâng quơ, chẳng hạn:

“Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió run bông sậy để buồn cho em”’

lại có thể hát đi hát lại hoài vẫn còn sức kích động. Ông Sơn-Nam bỏ qua các khoản kia, nhảy vọt qua từng đoạn sách, chọn dọc những câu “ca dao” trong truyện Bình-nguyên Lộc, cho nên sách cũ một phần tư thế kỷ vẫn thấy hay.

Cái nhược kia với cái ưu này cùng của ông Bình-nguyên Lộc cả. Và đều do những bận tâm ấp ủ một đời của ông cả. Điều ấp ủ mà nóng lòng đem ra phân giải quá lộ liễu thành hỏng. Nỗi lòng ấp ủ mà tiềm ẩn tận cõi sâu trong tâm hồn hoặc kín đáo bộc lộ, hoặc bất thần xuất hiện không chủ tâm lại gây xúc động, lại làm nên giá trị nghệ thuật.

Cảnh rừng dầu lông ong kêu vù vù (“Thèm người”) cảnh những chiếc ghe thương hồ đậu kinh Tàu Hủ, những chiếc ghe từ các miền Ba Thắc, Đồng Nai… lên, trên mui chưng vài ba cây cảnh, trước mui một con heo đứng ngơ ngác nhìn bờ (…), những chiếc ghe khẳm lừ hàng hóa, thủ phận người vợ hiền chăm nuôi con dại, và bỡ ngỡ như một chị nhà quê lạc lõng vào thành phố (“Sông ông Lãnh”); cảnh mùa mưa nước dâng ngoài đồng, đom đóm đậu nghẹt lá cây, chớp nháy buồn thê thiết, cảnh hai ba giờ khuya thức giấc, cất tiếng hú chị em bạn vầy đoàn chín chị mười chị cùng đi chợ vui không quên nổi (“Con Tám cù lần”); chuyện những ngôi cổ mộ, hoặc của một ông sư hoặc của một ông tướng, phu phen ty Lộ chính đô thành quật lên nay ở góc đường này mai góc đường kia, những mả cũ bên đường một đô thị nhộn nhịp gợi bao nhiêu ngậm ngùi (“Hui nhị tì II”) v.v…, bấy nhiêu chuyện nọ cảnh kia rải rác khắp tác phẩm Bình-nguyên Lộc. Lại còn như câu chuyện người các tỉnh lên Sài Gòn làm ăn, buổi sáng ngồi ở bến ông Lãnh uống tách cà-phê, trông ra những chiếc ghe thương hồ trên sông mà:

“Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê

Rưng rưng nước mắt tư bề người dưng”

lại nghĩ quẩn :

“Ghe ơi, vài bữa ghe về

Nhắn người dưới ruộng cô Quì còn không?”

Ghe đi ghe lại về, người xa xứ thì mòn mỏi tháng năm trên các nẻo đường đô thành, tư bề người dưng ! Những cái ấy cũng làm ông Sơn Nam lâng lâng sầu được chứ! Những cái ấy, chúng là những “ca dao” lốm đốm trong truyện, trong thơ, trong bút ký, trong mọi môn loại sáng tác của Bình-nguyên Lộc. Chúng là cái dấu ấn phân biệt thứ văn chương đăng báo, văn chương nhật trình của Bình-nguyên Lộc với văn nhật trình của bao kẻ khác.

Những đóm “ca dao” ấy đã kết tinh từ cái thiết tha đối với quê hương, nguồn gốc, đất đai, cái thiết tha từng ôm ấp các công trình Phù sa, Đồng Nai, Mã Lai v.v…trong mấy thập kỷ. Cái ưu này kết hợp với cái khuyết kia kết quả thế nào? Nên cân nhắc bên nặng bên nhẹ ra sao cho phải ? Chắc chắn Bình-nguyên Lộc không có ý cãi cọ với ai, nhưng có lần cùng Nguyễn Nam Anh nói chuyện, trước 1975 (bài phỏng vấn được đăng lại trên tạp chí Văn học, Hoa Kỳ, số 18 năm 1987) ông đã xác quyết, cũng chắc nịch như Oscar Wilde: “Giữa tài với đức, đức phải hơn. Tôi không phải là một nhà đạo đức chút xíu nào hết, nhưng tôi vẫn trọng đức của người khác, đánh giá họ bằng đức chứ không bằng tài, mặc dầu tôi vẫn quý trọng tài của họ lắm.”

Bình-nguyên Lộc không chịu nhận lấy cho mình chút xíu đạo đức nào, nhưng tấm lòng của ông chắc chắn là yếu tố đáng kể trong sự quý trọng của người đời. Người ta quý trọng ông như quý trọng một nhân sĩ trong làng văn, cái lòng rộng lớn cả cõi Nam Kỳ cũ.

Võ Phiến
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Nàng thơ, người trong tranh

Viên Linh

Yêu người trong tranh trong sách không phải là chuyện lạ, học sinh Việt Nam bậc trung học đã được biết về tích truyện lãng mạn đa tình Bích Câu Kỳ Ngộ,
qua bản quốc ngữ của Thi Nham Ðinh Gia Thuyết, dịch và chú giải từ nguyên tác chữ Hán của Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748) trong Truyền Kỳ Tân Phả.

Image
Ba vẻ đẹp qua nét vẽ của họa sĩ Chóe-Nguyễn Hải Chí (1943-2003), “Một năm hai thước vải thô.” (Hình: do Viên Linh cung cấp)




Nguyên bản của nữ sĩ họ Ðoàn có 6 truyện, “cuộc gặp mặt lạ lùng ở suối biếc” (Bích Câu Kỳ Ngộ) là một trong 6 truyện ấy. Bích Câu có thật, thuộc làng Yên Trạch huyện Thọ Xương ở Thăng Long, nơi hiện nay vẫn còn ngôi đền ở gần Văn Miếu Hà Nội. Trong truyện ca dài 648 câu, kể ngọn ngành thi sĩ Tú Uyên thời Lê - [Nhà Tiền Lê (1428-1527), nhà Hậu Lê (1533-1788), khoảng 6 năm giữa 1527-1532 không kể vì bị nhà Mạc xen vào.]- một hôm đi thăm Chùa Bà ở phố Sinh Từ, nhác thấy một thiếu nữ đẹp tuyệt trần đi ngang qua phía trước cổng tam quan, chàng chạy theo, lẽo đẽo phía sau ướm hỏi này kia mãi cho tới gần Cửa Nam.

Thấy người trước cổng tam quan
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ
Lạ lùng con mắt người thơ
Hoa còn phong nhụy trăng vừa tròn gương...

Gần xem vẻ mặt thêm tươi
Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều
Làn thu lóng lánh đưa theo
Não người nhăn chút lông nheo cũng tình...

Người còn cợt gió đợi mây
Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh
Ngóng theo đến Quảng văn đình [Cửa Nam]
Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua...
(Bích Câu Kỳ Ngộ, bản dịch Ðinh Gia Trinh)

Nàng biến mất, trông lên chỉ còn thấy bóng dáng thấp thoáng trên cành cây. Thế là về nhà ốm tương tư, có phần sắp chết. Bạn chàng tội nghiệp, mách hay là tới đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm [nay vẫn còn] xin một quẻ bói xem sao. Thần ngựa trắng nơi đây rất thiêng. Quẻ nói: sáng mai ra đợi ở cây cầu gỗ ở phố Hàng Ðường thế nào cũng gặp. Gặp thật, nhưng không phải gặp người, mà chỉ gặp một kẻ bán tranh tố nữ, diện mạo người trong tranh nhìn đúng là tiên nữ đã gặp mấy ngày trước. Tú Uyên mang tranh về treo lên tường, ra cũng nhìn, vào cũng ngắm, ngày hai bữa khi ăn thì để thêm bát đũa mời người trong tranh ra ăn với mình. Nói mời là nhẹ, thực ra là cầu khẩn:

Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là...
Có khi gẩy khúc đàn tranh
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân...

Có khi ngồi suốt năm canh
Mõ quyên điểm nguyệt chuông kình nện sương...

Có khi chuốc chén rượu đào
Tiệc mời chưa cạn ngọc giao đã đầy...
(Bích Câu Kỳ Ngộ, bản dịch Ðinh Gia Trinh)

Và nàng đã hiện ra. Ðó là những nét chính của Bích Câu Kỳ Ngộ, nàng thơ của thi sĩ Tú Uyên. Năm 1957 nhà văn Vũ Khắc Khoan đã do cuốn cổ văn này mà viết thành truyện ngắn nổi tiếng Người Ðẹp Trong Tranh. Theo thời gian, một số thi sĩ lớp sau cũng yêu người trong tranh, yêu người trong sách lắm. Thi sĩ uống rượu ngon, ăn bánh thật, nhưng yêu người vẽ, cách này cách khác. Nàng thơ của họ do thiên hạ vẽ ra.


Cùng Người Trong Sách Tương Hội
Bích Khê

Tên thật Lê Quang Lương (24.3.1916 - 17.1.1946) người Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, học trung học ở Huế, Hà Nội, bỏ dở dang, về sống và dậy học một thời gian ở Phan Thiết. Có thơ đăng các báo Tiếng Dân, Tiểu Thuyết thứ năm. Tập thơ đầu tay xuất bản năm 23 tuổi: Tinh Huyết (1939). Yểu mệnh vì bệnh lao. Nguồn cảm hứng của Bích Khê là nỗi đam mê sống trong khắc khoải vội vàng; xúc cảm được thể hiện bằng những danh từ, trạng từ, và động từ như “vú non non” (Mộng Cầm Ca), “ấp bóng nường” (Tân Hôn), “Hai vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi!” (Tranh Lõa Thể), “Cắn, Nàng! Hở nàng! Hãy cắn vào hồn ta.” (Bàn Chân)...

Trong sách có người ngọc
Khép cửa mặc hoa xuân
Ðốt lò vàng. Mở quyển
Tương hội với tân nhân.

Ngu Cơ theo Bao Tự!
Phi Yến lẫn Ngọc Chân!
Người đẹp ở trong quyển
Niên hoa mãi có phần.

Ngoài trời là mộng cả;
Hương lại thêm vài phân.
Người như trang Ðạo Uẩn
Ta như khách Tô Tần!

Tương kỳ cùng tương ứng,
Tương cảm lại tương thân.
Cùng nhau ta hoan lạc,
Hư thực chẳng phân vân.


Màu Thời Gian
Ðoàn Phú Tứ

Nhà thơ Ðoàn Phú Tứ (10.9.1910 - 20.9.1989) không có tranh Tần phi, song yêu nhân vật Tần phi qua lịch sử tiểu thuyết. Quê Tiên Du, Bắc Ninh, đang học Triết và Luật ở Ðại học Hà Nội thì bỏ dở đi làm kịch, làm báo; chủ nhiệm báo Tinh Hoa (1937), thành viên Nhóm Xuân Thu Nhã Tập (cùng với Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh,) trong đó bài Màu Thời Gian là một bài thơ tinh khôi, tân kỳ, quí phái. Người nữ là cung phi đã già, được vua gọi, không muốn vua thấy mặt mình nữa, nên cắt tóc gửi cho vua với lời tạ từ, đành “nép mày hoa thiếp phụ chàng.” Cùng với Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, cái đẹp mà nhóm này ca ngợi đều rất cao kỳ sang cả (đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà / áng tóc não nùng...)

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa - Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thủa còn vương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
(Ngày Nay, Hà Nội, 1940)

Trong thi phẩm xuất bản cách đây 32 năm, người viết bài này có ba đoạn thơ về hồ ly tinh trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, cũng xin kể ra cho phải phép.

Ðợi Mãi, Giọt Sương, Mai Thôn
Viên Linh

Ðợi mãi nàng không thấy hiện lên
Ở đâu về gấp hỡi hồ tiên
Muông nương thảo dã cầm tinh nữ
Cửa ngõ trăng mờ mộng thiếu em.

Nhà học đêm mưa mộng thấy nàng
Thân ngà lồng lộng mở từng trang
Cái yêu ẩn mật trong lòng ấm
Một giọt sương chìm giữa chấm son.

Người đến Mai thôn trọ một đêm
Ðược cùng Mai nữ ngủ chung mền
Sáng ra chỉ thấy nằm trên cỏ
Và một cành mai trắng ở bên.

(Ðoạn 66, 67, 68 trang 34-35, Thủy Mộ Quan, 1982)
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image


CÕI TẠM‏


Song Thao

Nghỉ hè, nghỉ phép, ta thường đi chơi xa, trú ngụ tạm tại khách sạn. Dăm ba bữa nửa tháng, lại trở về nhà. Thường khi về nhà, lọt vào khung cảnh cũ, ngả mình trên chiếc giường quen thuộc, ta luôn luôn cảm thấy thoải mái, thú vị. Khách sạn là cõi tạm, nhà là cõi thực . Cuộc đời này là một cõi tạm. Hầu như mọi người đều nghĩ như vậy. Nhưng cái cõi tạm này, chúng ta tạm trú hơi lâu, quen hơi quen tiếng, nên khó rời. Biết là tạm mà vẫn cứ thích ở... khách sạn!

Ông bạn da đen của tôi, rất tha thiết được chầu Chúa, đạo Cơ Đốc thuần thành, Chủ Nhật nào cũng đi nhà thờ, trong túi không bao giờ quên tờ giấy hai chục đô cúng dường, cuốn Thánh Kinh luôn luôn đeo theo người, nói câu nào cũng mời Chúa về góp tiếng cho chắc ăn. Một bữa, thấy ông vất vả với công việc, tôi giỡn.

- “Này, Gabriel, cuộc sống coi bộ nhiều mồ hôi quá nhỉ?”

Bạn tôi cười nhe hàm răng trắng lạnh.

- “Đời mà! Chúa đã phán “Con phải đổ mồ hôi trán lấy bát cơm ăn”. Mình cứ phải theo ý Chúa vậy chứ sao.”

Tôi làm bộ tỉnh phán theo.

- “Tôi thấy cậu là con cưng của Chúa, sao không xin Chúa cất về ngồi bên chân Chúa cho nhàn hạ cái thân!”

Gabriel lắc đầu quầy quậy.

- “Còn sớm quá! Tôi còn mấy đứa con nhỏ phải nuôi, chắc Chúa cũng hoãn cho một thời gian nữa chứ!”

Bạn tôi không nói rõ một thời gian là bao lâu, nhưng bằng vào cái lắc đầu hung hãn như vậy, tôi dè chừng chắc là phải lâu lắm!

Một ông bạn khác, ung thư thời kỳ cuối, con cái đã có chồng vợ đâu vào đấy, đời chẳng còn gì phải lo lắng, cuộc sống rất thoải mái về vật chất, nhưng cái đau đớn của tật bệnh thật khôn lường, chép miệng than thở khi tôi tới chơi.

- “Mình cũng tới tuổi rồi. Nhưng nếu Trời cho ít năm nữa thì quý hóa quá!”

Sống có vất vả, đau đớn đến thế nào chăng nữa, vẫn cứ thích bám vào cõi tạm. Sao vậy? Bởi vì cái cõi mà người ta gọi là vĩnh hằng, miên viễn, vô ưu... ta chưa hề biết tới chăng? Hay là bởi vì từ cõi tạm bước qua cõi thật đó, người ta phải xuôi tay nằm dưới ba tấc đất hoặc uốn người trong ngọn lửa thiêu? Toàn những trò khó chơi cả.

Nhà sinh học Susanne Wiigh-Maesak, người Thụy Điển, vừa phát minh ra một trò mới. Trò này coi bộ dễ chịu hơn. Thi hài người chết sẽ được làm lạnh cực nhanh đến -18 độ C và sau đó nhúng vào nitơ lỏng có nhiệt độ -196 độ. Thi hài, sau khi được lấy ra khỏi dung dịch siêu lạnh, trở nên giòn tan như kính và vỡ vụn thành một hợp chất dạng bột . Tất cả số nước còn lại được hút vào một khoang chân không, trước khi cho chạy qua một màn kim loại để lọc bỏ tất cả những vật thể còn sót lại (những thứ cấy ghép trong thân thể) chưa phân hủy. Bột thi hài, sau đó, có thể được thiêu đốt, hoặc được chôn trong một quách làm bằng tinh bột bắp, đặt trong hố nông khoảng 30 phân. Sau khoảng một năm, oxy và vi khuẩn sẽ phá hủy chúng hoàn toàn, biến thi hài trở thành cát bụi.

Bà Wiigh-Maesak cho biết bà đã đăng ký bản quyền phương pháp này ở 35 quốc gia. Phương pháp này giúp tránh làm vẩn đục môi trường như hai phương pháp thông dụng hiện nay là hỏa thiêu và chôn dưới đất quá sâu làm trì trệ quá trình phân hủy.

Không phải là các nhà sinh học, mấy ông bạn tôi cũng bầy ra nhiều cách... vượt biên từ cõi sống qua cõi chết vui lắm.

Như ông Du Tử Lê chẳng hạn.

khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà

Ông Luân Hoán còn cãi cọ với... thinh không.

không từ đất sao phải về với đất
thịt xương này không thể mất khơi khơi
khi tôi chết xin đem giùm thi thể
chia cho thù lẫn bạn hữu nhậu chơi

Ông Lưu Nguyễn cứ thiên thai lơ lửng.

mai này ta sẽ ra đi
người ơi có nhớ có gì nhắn không
trăm năm mây trắng bềnh bồng
về nơi đã đến mà lòng thảnh thơi

Dặn dò rối rít xong các ông ấy đi... uống cà phê. Bởi vì cái chết vẫn chưa trong tầm mắt. Cõi tạm này mới đích thực trong tầm tay. Tạm lâu ngày dễ có ảo tưởng đây mới là cõi thật. Đời người được bao lâu? Trăm năm trong cõi người ta. Trăm năm? Mấy người được trăm năm?

Bà cụ 114 tuổi của kỷ lục Guinness vừa qui tiên, nhà cầm quyền Việt Nam đang vận động cho một cụ bà Việt nam, cũng 114 tuổi, được ghi vào thay thế. Lóng rày, coi bộ Việt Nam ham giữ kỷ lục thế giới dữ. Hết bánh dầy, bánh chưng, bánh tét lớn nhất thế giới (có ở đâu khác làm thứ bánh này không nhỉ?), nay muốn đầu tư vào kỷ lục tới sự sống của con người (bệnh kỷ lục có phải là một biến tấu thời mở cửa của bệnh thành tích ngày cũ chăng?). Kỷ lục là thứ xịn. Thường thường bực trung khó với tới. Ông anh tôi bảo cứ sáu chục cái xuân già là gỡ đủ sở hụi rồi. Thêm được năm nào là bonus của trời đất, cứ hân hoan mà cám ơn!

Trong cái thời gian sống chỉ là tích tắc so với đời sống của vũ trụ, con người quậy như điên. Đủ món ăn chơi. Kèn cựa, khích bác, tranh dành, lừa đảo, xô đẩy, chém giết... nhau. Mỗi người cố thu vén cho riêng mình. Nhà sang, xe xịn, lợi danh, tiền bạc... Mặc sức mà vung tay vung chân. Mặc sức mà lèn cho đầy túi tham. Nhiều người sống trong cái sân si tối tăm trong suốt cuộc sống. Trẻ, tiết vịt còn chảy rần rần trong người, hung hăng con bọ xít đã đành. Già, máu tưởng đã phải nhiễm lạnh mà vẫn cứ sân sân si si phát khiếp. Như Bà Margaret Ann Thomas-Irving, 58 tuổi, cư dân ở Hartford, Connecticut chẳng hạn. Từ tháng 10/2002 đến tháng 7/2003, trong vòng chưa đầy một năm, đã một mình cướp nhà băng tới 12 lần. Tổng cộng số tiền cướp được là 19 ngàn đô. Vũ khí của bà chỉ là khẩu súng đồ chơi con nít, hoặc ngon hơn, chẳng súng siếc gì cả chỉ dọa nhân viên ngân hàng là trong ví có súng là họ nộp tiền ngon ơ!

Cướp có nghệ thuật hơn là hai vợ chồng James Roland Clark, 71 tuổi, và Deloris Jane Clark, 66 tuổi, dân Florida. Ông chồng xách một bao cát vào ngân hàng dọa là chất nổ, bà vợ rồ sẵn máy xe chờ ở ngoài cửa. Cướp xong ông chạy ra phóng lên xe vù mất. Nhờ một gói thuốc nhuộm cho phát nổ sau đó cảnh sát mới tóm được hai ông bà già chịu chơi này.

Bà già Connie Parker, 74 tuổi, cư ngụ ở Nassau, tiểu bang Nữu Ước vừa trúng số độc đắc 25 triệu. Khi đi lãnh thì, sau khi trừ thuế má, bà cầm tay được 7,3 triệu. Bà ôm chặt lấy tiền, nhất định không chia cho ông chồng Kenneth Parker, 77 tuổi, đang bị ung thư phổi thời kỳ cuối. Ông chồng cho biết là ông đã đưa cho bà 20 đô để bà đi mua số nhưng bà cãi lại bà đã mua số bằng tiền riêng của bà. Ông chồng tức giận đâm hai đơn một lúc. Một đơn đòi chia tiền, một đơn xin ly dị sau 16 năm rưỡi chung sống. Rút cục, cụ đi đường cụ tôi đường tôi, và bà Connie phải thỏa thuận chia cho ông chồng một số tiền không rõ là bao nhiêu nhưng, theo tiết lộ không chính thức, là một phần ba số tiền bà lãnh.

Thất thập cổ lai hy. Hiếm có thiệt! Sống đã từng ấy tuổi tưởng tay chân đã làm biếng nhấc lên nhấc xuống, ai ngờ vẫn cứ chụp giật như máy. Để làm chi? Ôm về cõi viên mãn chăng? Cõi bình an đó có cần những thứ phù phiếm của cõi tạm này không?

Một cặp vợ chồng già đã trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Họ ăn uống kiêng khem và tập thể dục hàng ngày. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt, họ lên thiên đàng và được thánh Phêrô đón tiếp nồng hậu. Thánh Phêrô đưa hai người đi coi nhà bếp khổng lồ, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi golf... Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi thánh Phêrô.

- “Chúng tôi có phải trả tiền cho những thứ này không?”

- “Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà!”

Đến giờ ăn, thánh Phêrô đưa hai cụ đến môt phòng ăn sang trọng, thức ăn ê hề. Cụ ông hỏi.

- “Thưa Ngài, tất cả các món ăn này cũng miễn phí cả sao?”

- “Tất nhiên!”

Cụ ông lại rụt rè hỏi tiếp.

- “Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đường, cholesterol chứ ạ?”

- “Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đường cơ mà! Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị mập phì, đái đường hay nhồi máu cơ tim gì cả.”

Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, quay sang cụ bà quát to.

- “Tất cả do lỗi của bà! Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục hàng ngày thì tôi đã lên đây sớm hơn mười năm rồi!”

Cái cõi mông lung đó đâu phải chỉ có thiên đường. Những nơi khác có vui như vậy không?

Hai bợm nhậu ngồi bên chai rượu đã cạn quá nửa. Một ông hỏi.

- “Ông bạn nghĩ là có thế giới bên kia hay không?”

Ông bạn gục gặc đầu.

- “Có chứ! Mà chắc ở bển cũng vui vẻ lắm, nhậu nhẹt lu bù.”

- “Sao ông biết?”

- “Thì ông thấy đấy. Mấy chả đi có cha nào thèm quay về đâu!”

Dương sao âm vậy. Dân gian vẫn cứ tin như thế. Cái cõi đầy bí ẩn đó được hiểu như là một nối dài của cõi tạm này, cũng có cuộc sống và những cung cách sống cụ thể như nhau. Vậy nên mới có dịch vụ gửi UPS không thiếu thứ gì qua cõi mờ ảo đó. Nhà cửa, xe cộ, quần áo, nồi niêu soong chảo, vàng bạc, tiền đô giấy lớn 100.000, và cả... điện thoại di động nữa! Mấy bà thương chồng cũng không quên gửi những nàng hầu trắng trẻo xinh đẹp xuống cho các ông chồng bớt cô đơn. Dĩ nhiên, trước khi hóa vàng, mấy bà không quên rạch mặt, chọc mù mắt hình nhân để thỏa cơn ghen kéo dài qua hai cõi!

Tin như thế bị coi là tin nhảm. Mê tín! Nhưng mâm cơm cúng ngày giỗ ngày tết chắc có ý nghĩa khác. Không ai nghĩ là người từ cõi kia về ăn như chúng ta ăn (cơm canh còn nguyên đó chứ có hụt đi chút nào đâu!) nhưng làn khói nhang ấm áp mời người quá cố về thụ lộc được hiểu như là một cách tưởng nhớ tới người thân đã bước sang cõi khác trước chúng ta. Tấm lòng thương tưởng của chúng ta thể hiện qua cách cúng những món ăn mà người thân quá cố ưa thích khi còn sinh tiền.

Trong nghĩa trang, một ông dọn cơm canh cúng trên mộ vợ. Một ông người bản xứ thành kính đặt bó hoa trên ngôi mộ bên cạnh. Lễ bái, cầu kinh xong, ông bản xứ hỏi ông Việt nam.

- “Bộ ông tin rằng vợ ông có thể về ăn được những thức ăn ông cúng như vậy chăng?”

Ông Việt nam bình thản hỏi lại.

- “Bộ ông cũng tin rằng vợ ông có thể về ngửi được bó hoa ông đặt trên mộ kia chăng?”

Chỉ một bước ngắn, chúng ta chuyển từ cõi này qua cõi khác. Ai cũng ngại ngần trước nhịp bước vô định này. Cõi tạm, cõi... khách sạn, chúng ta đã quen nếp sống. Cõi thực, cõi... nhà, chúng ta u u minh minh.

Cái bước dùng dằng từ một chỗ đứng cân bằng trên mặt đất sang chỗ chênh vênh mây trời là cái bước mỗi con người phải trải qua. Cái điều chắc chắn sẽ xảy ra này chúng ta không muốn nghĩ tới. Càng thêm tuổi, chúng ta càng làm lơ không muốn nghĩ tới. Không nghĩ thì làm sao mà hiểu được.

Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.

(Mai Thảo)
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Về Hưu Ở Miền Nam California

Dân Đen


Tính tới ngày hôm nay, tôi được hơn 63 tuổi. Tôi cũng đã dọn về vùng Bắc của thành phố San Diego được đúng một năm. Thời gian mặc dù chưa đủ dài để có những kinh nghiệm như những cư dân đã ở lâu năm, nhưng sau 12 con trăng tròn sáng rực, sau một chu kỳ già thêm một tuổi, tôi nghĩ rằng mình đã thu góp ít nhiều dữ kiện về vùng đất mới, nhất là vấn đề thời tiết, vùng đất mà vợ chồng chúng tôi dự định sẽ trú ngụ cho hết cuộc đời còn lại...

Ngày 30/4/1975, sau những giờ phút vô vọng tìm đường ra biển, trong vòng thành Hải quân công xưởng, trong sự an bài của Thượng Đế, tôi và một nhóm quân nhân, đã lên được trên chiếc tuần duyên đỉnh nhỏ, trở về từ biển, cặp cầu nước xuôi, rồi tách bến vội vàng tại bộ Tư lênh Hạm đội...

Tôi xa rời quê hương, tới đất Mỹ, chỉ có một thân, một mình, chỉ gặp được một người hàng xóm, không có được một người bà con, nên chấp nhận định cư ở vùng nào cũng được...không hề chọn lựa.

Từ lúc lập gia đình cho tới ngày dọn về vùng đất Cali, tính ra tôi đã cư ngụ ở tiểu bang Oklahoma được 35 năm. Năm nào cũng thế, từ cuối tháng 4 cho đến đầu tháng 6, hầu như ngày nào cũng có còi hụ, báo động những cơn bão lốc (tornado). Rồi mùa Đông lạnh lẽo, rồi mùa Hè nóng bức, hầu như lúc nào cũng có gió thổi triền miên, cái bệnh dị ứng thì hầu như người nào cũng bị...

Cái tốt nhất của vùng Oklahoma là giá cả về nhà cửa thì vô cùng thấp, rất rẻ, so với giá nhà bên vùng Bolsa hoặc vùng San Jose. Hầu như cư dân ở đây không bao giờ than phiền về vấn đề kẹt xe hay vấn đề đời sống đắt đỏ... Tôi cũng cám ơn vùng đất OK, nơi mà tôi đã có việc làm và nuôi được hai đứa con tốt nghiệp đại học.

Có người hỏi tại sao tôi lại ở Oklahoma lâu như thế, thời tiết khắc nghiệt vậy mà chịu đựng được... thì thôi ở luôn bên ấy cho rồi, dọn đi đâu cho mệt cái thân già.

Câu trả lời vô cùng đơn giản là... vì cái công việc làm nó bắt mình phải theo nó. Nồi cơm là quan trọng đấy mà... nhưng lúc về hưu thì phải chọn vùng đất nào có thời tiết mát mẻ, khí hậu ôn hòa đấy thôi.

Mấy người bạn đồng nghiệp của tôi ở OK, phần lớn ai ai cũng có mộng ước hưu trí sớm, rồi sẽ đi du lịch đó đây. Khác biệt với cư dân Cali, đa số họ không bao giờ muốn về hưu, họ muốn làm việc đến già, càng lâu càng tốt, ngoại trừ trường hợp bị sa thải hay vì vấn đề bệnh hoạn.

Mà thật vậy, tôi đã về sống ở vùng Oceanside phía Bắc của thành phố San Diego được một năm tròn, với thời tiết vô cùng mát mẻ của vùng biển Thái Bình xanh mát.

Tới ngày hôm nay, tôi chưa hề nghĩ tới chuyện du lịch đó đây...vẫn còn thấy mấy ông hàng xóm lớn tuổi hơn mình mà vẫn còn... siêng năng đi làm không biết mệt.

Mấy năm trước, tôi có dịp đọc được bài viết của vài tác giả về vấn đề chọn một nơi chốn lý tưởng để về hưu, họ phân tách cặn kẻ từng thành phố mà họ cho là tốt nhất. Nơi nào cũng có cái tốt, cũng có những cái không hay, nhưng tóm lại là họ sẽ chọn nơi nào thích hợp nhất cho cá nhân, cho gia đình của họ tùy theo tình trạng tài chính hay sức khỏe của mình.

Tôi cũng đã viếng thăm nhiều nơi trên đất Mỹ cũng như ở Âu châu, Á châu và phải kể là về Việt Nam để xem mình có thể hưu trí ở quê nhà hay không?

Trong những năm cuối, trước khi về hưu, tôi quyết định chọn vùng San Diego để dừng chân cho đến hết cuộc đời còn lại. May mắn cho tôi, trong thời gian giá nhà cửa ở Cali xuống thấp, tôi mua được căn nhà thật nhỏ, trong khu phố có tên miền biển mặn Oceanside

Tôi sống 35 năm bên tiểu bang Oklahoma, mỗi lần bán nhà là mỗi lần lỗ nặng... nhưng mừng hết cỡ...vì bán được nhà.

Năm 2012, tôi phải trả cho người mua 2 năm tiền thuế, 2 năm bảo hiểm, bớt giá nhà xuống vài chục ngàn, phải sửa chữa đủ thứ trước khi giao nhà...để bán được căn nhà 15 tuổi trước khi về hưu...dọn về Nam Cali.

Những người bạn cùng sở ở bên Oklahoma, khi nghe tôi mua nhà bên San Diego, họ lo lắng cho tôi, vì theo họ, dọn về CA là một quyết định vô cùng sai lầm, mạo hiểm và tự sát. Tại vì Cali động đất triền miên, thuế má nặng nề, xe cộ kẹt cứng, nhà cửa đắt đỏ, tội phạm rất nhiều... Trước hai tháng đến ngày tôi nghỉ hưu, môt anh bạn đồng nghiệp của tôi hối hả đi tìm tôi và lo sợ, nói với tôi rằng."...có tin đồn rằng cuối năm 2012, đất Cali sẽ chìm xuống biển!" và anh hỏi tôi có nên đổi ý về vụ dọn nhà về Cali.

Tới ngày hôm nay, tôi dọn về Cali được 365 ngày, tôi vô cùng sung sướng và vô cùng hài lòng về quyết định của mình, không còn luyến tiếc về đồng lương bởi vì lúc còn đi làm đến đúng 62 tuổi, tôi không có vấn đề gì về sức khỏe hoặc công việc trong sở làm, mà lại xin nghỉ hưu, tiền hưu bổng, tiền An sinh xã hội bị khấu trừ bớt đi 25%, từ bỏ nhà cao, cửa rộng bên Oklahoma, mặc dù bây giờ đang sống trong một căn nhà mà diện tích chỉ còn bằng ¼ căn nhà vừa bán đi.

Như tất cả mọi người, tôi chưa bao giờ biết "thiên đàng" và không biết được trong tương lai, không gần thì xa, rằng mình có lên "trên ấy" hay không...nhưng thành thật mà nói...trong những ngày đầu tiên của tháng Mười dương lịch, tôi đã được sống trong cái thời tiết vô cùng ôn hòa, dễ chịu của vùng đất Oceanside, tiểu bang Cali. thì tôi cũng ví như tôi đang sống trong một thiên đàng của hạ giới...

Chung quanh nhà tôi đang ở, mấy cây ớt cây chanh, cây quít, cây bông hồng và nhiều cây cảnh... đang trổ bông rất nhiều, như đang ở mùa Xuân. Trong khi đó, bên tiểu bang OK?của tôi đã sinh sống, cây cỏ vàng úa...lá rụng đầy sân, dân chúng bắt đầu vặn máy sưởi trong nha, ra đường phải mặc áo lạnh...

Lúc ở bên Oklahoma, so sánh cái lạnh mùa Đông dưới 32 độ F (0 độ C) với những luồng gió thật mạnh, lạnh cắt da... sang bên vùng San Diego, trong tháng Mười dương lịch nhiệt độ lạnh nhất ban đêm không dưới 45 độ F (7 độ C) lại không có gió mạnh, vì gần biển, nên thời tiết vô cùng dễ chịu, khí hậu nầy đối với tôi cũng là một thứ...thiên đàng.

Như thế, nếu tôi được phép nêu ra ý kiến về thời tiết trên đất Mỹ, thì tôi sẽ ví von là...vùng đất San Diego cũng giống như thiên đàng nào đó mà bây giờ tôi mới biết được.

Có nhiều năm, hồi mới sống ở bên Mỹ, nhớ đến những thứ trái cây như... ổi Xá lị, trái Thanh Long, Trái Mận, Chùm ruột, Đu đủ, Bưởi, Cam, Lựu, Trái hồng (hồng dòn, hồng mềm), Khế, Mãng cầu, táo Tầu... thì cũng nhớ lắm và cũng thèm lắm.

Nhưng nếu người đọc là dân Nam Cali hay đã có kinh nghiệm sống ở vùng Nam Cali thì những thứ trái cây nầy trong tháng Mười là hầu như nhà nào có đất... có trồng cây ăn trái...là nhà nào cũng có đầy ra...ăn không hết...

Đó là không kể những vườn rau thơm xanh mướ, đầy chất vị quê hương hầu như nhà nào cũng co, kể cả dân Việt sống trong những khu apartment không có đất trống...

Trong thời gian còn đi làm trong vài năm cuối, với tuổi già đang kéo đến, mấy cái chất mỡ trong máu hơi cao, do đó vấn đề tập thể dục, tôi đã bắt đầu siêng năng tập luyện, mong mấy anh chàng nầy xuống thấp mà mình còn có thêm sức mạnh.

Tôi đã đọc nhiều tài liệu về sự "hưu trí" và sự "ăn không ngồi rồi" của mấy ông bà lão đã về hưu. Họ thường ra ngồi ghế sa-lông, coi phim chưởng, phim bộ hay bắt đầu ít có hoạt động hơn lúc đi làm... rồi cái bụng cứ to ra, rồi sinh bệnh...rồi bị trầm cảm, chán chường.

May mắn cho tôi, chỗ tôi ở chỉ cách bờ biển Thái Bình độ 7 miles (khoảng hơn 10 km), chính quyền có xây một đường lộ, dành riêng cho xe đạp từ nhà tôi cho tới tận bờ biễn, tha hồ mà đạp.

Phía sau sân nhà là một cái công viên thật lớn, thật đẹp, có tới bốn sân đá banh, bóng tròn. Bà xã tôi sang ở bên đây, mỗi ngày đi bo, chạy bộ trên dưới hai tiếng đồng hồ ở ngoài trời....ở ngoài công viên...bỡi vì thời tiết quá mát...lại không có nắng....thường thì mặt trời chỉ ló dạng sau khoảng 9 giờ hay trể hơn.

Cách nhà 10 phút lái xe, là chỗ tôi tập thể dục hàng ngày với các huấn luyện viên chuyên nghiệp (certified instructors) về thể dục: Yoga, Kickboxing, Station bicycle, Power lift (tập tạ), Yumba, Aerobic... thời khóa biểu có sẵn, muốn đi tập lớp nào thì cứ vào lớp học.

Cái tôi đang mê nhất là đi trượt sóng ngoài biễn (Ocean Surfing). Nước biển ở Nam Cali thì khá lạnh, mùa Đông phải có áo nhái (wet suit) để mặc và không biết mình già lão thì mấy anh cá mập có tha hay không.

Thêm một điều nữa, hồ bơi (heated swimming pool) ở đây lộ thiên ngoài trời, mở cửa quanh năm, tha hồ mà đi bơi...thực hành công phu chịu lạnh của Tây Tạng.

Do đó, không ai giống ai... nhất là vấn đề sức khỏe của mấy cụ già như tôi, những sinh hoạt trước và sau khi nghỉ hưu không những không khác mà đôi khi còn...bận rộn hơn, nhất là sống ở vùng đất mới nầy, thời gian tôi ở ngoài trời nhiều hơn là ở trong nhà.

Nói riêng về khí hậu...thời tiết ở dọc theo vùng bờ biển từ Bắc xuống Nam Cali...nhất là ở Nam Cali...đối với cá nhân tôi thì là đây là một vùng đất...thiên đàng.

Dân Đen
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests