Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image


BÁNH CHƯNG MUÀ XUÂN CŨ.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Ngày thường cũng có bánh chưng bán ngoài đường ngoài chợ, nhưng bánh chưng ngày tết đối với chị Bông vẫn là miếng ngon miếng thèm dù rằng ăn thì chóng chán.

Ngày xưa ở Việt Nam nhà chị Bông đã từng gói bánh chưng mỗi khi tết đến, chị Bông không đi chợ Hạnh Thông Tây gần nhà mà đi chợ Xóm Mới xa hơn một chút để mua lạt tre và lá dong, chợ nằm khu dân cư toàn là người Bắc di cư, họ vẫn giữ nhiều phong cách sống và hình dáng cũ, vẫn có những bà gìa vấn khăn hay chít khăn mỏ qụa cắp rổ ra chợ, có ông gìa ngồi trước cửa nhà trong khu chợ hay trước các gian hàng hút thuốc lào với ống điếu với điếu cày là những nét Bắc kỳ hay hay.

Chị thích đi chợ Xóm Mới vì thế.

Chợ Xóm Mới bán lá dong rất nhiều, gía lại rẻ, nhìn các bà nội trợ người Bắc xúm xít chọn lựa lá dong chị Bông nghĩ bánh chưng và người Bắc không thể nào rời xa nhau, cũng như chị Bông, mùi bánh chưng thơm lá dong chị đã quen thuộc từ tấm bé..

Chị Bông đã phải tất bật từ sáng sớm để đãi đậu xanh, hấp chín gĩa nhuyễn xong nắm thành từng nắm tròn, rồi vo gạo nếp trộn đều với tí muối để ráo nước.

Đến phần thái thịt heo và ướp tiêu muối cho đều…

Lá dong đã rửa sạch và lau khô từ hôm qua.

Tất cả nguyên vật liệu gói bánh chưng đã sẵn sàng

Nhưng người gói là ông anh họ chứ không phải chị Bông, anh Xây gói bánh chưng rất khéo, không cần khuôn chỉ gói bằng tay mà vuông vức đều đặn cái nào ra cái ấy.

Chị Bông đã lăng xăng gần bên anh Xây để lúc thì mang thêm lạt tre, thêm lá dong, lúc thì chuyển những bánh đã gói xong sang một chỗ khác cho gọn, và nhất là để tiếp tế ly nước chanh cho anh uống thấm giọng, anh vừa gói bánh vừa chuyện trò râm ran với cả nhà, hết chuyện tết nhất từ đời xưa đến đời nay thì lại sang chuyện thế sự cuộc đời, chuyện nào chị Bông cũng thích nghe cả, cái tật thích nghe chuyện từ hồi bé chị Bông từng bị mẹ mắng:” Này Bông, trẻ con không được hóng chuyện “..

Những ngày gần tết và những bận rộn ấy thật vui và đáng yêu.

Buổi tối luộc bánh chưng lại có những bận rộn khác, những niềm vui khác..

Khi bánh chín anh Bông vớt ra bày lên một chiếc bàn và chồng chất vật nặng đè lên bánh để cho bánh mau khô ráo. Thế là chị Bông đã có những chiếc bánh chưng ngon lành để biếu họ hàng và bày lên bàn thờ nhà mình trong 3 ngày tết.

Ngày nay ở Mỹ món bánh chưng không thiếu trong các tiệm food to go, hàng ngày nhìn thấy nó, nhưng chị Bông vẫn mơ đến chiếc bánh chưng to đẹp vào dịp tết, vẫn nôn nao khi nhớ lại cảnh gói bánh chưng của những mùa Xuân đã qua.

Chị Bông đã nghĩ về món bánh chưng khi chỉ còn một tuần nữa là đến tết, tết ở hải ngoại không vui như ở quê nhà nhưng chẳng người Việt nào có thể quên được, vẫn sắm sửa, vẫn đầy đủ bánh trái, nghi thức.

Hàng năm chị vẫn mua bánh chưng tại chợ Việt Nam hay đặt mua nơi các hội tôn giáo, nhà thờ, nhà chùa, các hội đoàn cộng đồng người Việt đứng ra gói bánh chưng để gây qũy..

Tết năm nay chị Bông bỗng muốn sống lại cảm giác gói bánh chưng, muốn tìm lại những kỷ niệm ngày nào, chị không phải tỉ mỉ ngồi đãi một chậu to đầy ắp đậu xanh nữa, vì đậu xanh ở đây đã bóc vỏ sẵn, còn mọi thứ khác vẫn thế, thay vì rửa và lau lá dong thì là lá chuối.đông lạnh, thay vì buộc bánh bằng lạt tre thì buộc bằng dây ni lông..

Ông anh họ hiện sống ở Mỹ nhưng anh ở khác tiểu bang chẳng trông mong gì nhờ vả, chị Bông sẽ tự tay gói bánh chưng theo cách chỉ dẫn trên net thật đơn giản dễ dàng..

Đúng lúc sáng nay cô em dâu vừa gọi phone nhắc nhở:

- Chị Bông ơi, có đặt mua bánh chưng nhà thờ không để em cùng mua luôn ?

Chị Bông từ chối:

- Nghe này, năm nay chị sẽ gói bánh chưng và em khỏi cần mua, chị sẽ tặng.

Em dâu người miền Nam thật thà nghĩ sao nói vậy, nó ngạc nhiên và nghi ngại:

- Từ ngày em làm dâu nhà chị chưa thấy chị gói bánh chưng bao giờ, em chỉ thấy chị thích ăn bánh chưng thì nhiều. Gói bánh chưng ngày tết chứ không phải gói cái bánh ít bé xíu bằng nắm tay đâu, chị gói được không hay lại làm hư nếp hư đậu?

- Em đừng làm lòng chị… lung lay, chị đã nghiên cứu cách gói bánh chưng trên net rồi.

Em dâu định cúp phone, chị Bông vội khoe thêm:

- Chị gói bánh chưng và bánh tét nữa đó, chị sẽ tặng nhà em đủ hai thứ này.

Em dâu lại ngạc nhiên lần nữa:

- Hôm nay chị nói toàn chuyện …động trời., gói bánh chưng lại thêm bánh tét. Bánh tét khó gói lắm à nghen, đòn bánh tét vừa dài vừa tròn.

- Làm gì mà em kinh ngạc ghê thế?, chị sẽ gói cả hai thứ, bánh chưng vuông, bánh tét dài tròn như em nói, nhà nào có vợ chồng hai miền Nam Bắc như nhà em chẳng hạn chị sẽ biếu chiếc nọ chiếc kia cho đề huề. Em ơi, bây giờ chúng ta muốn lấp sông vá biển gì thì cứ lên net là có sẵn hết.

- Chị liều mạng ghê, chỉ xem trên net mà …dám gói bánh chưng và còn ý định biếu tặng bà con bạn bè nữa chứ.

- Em nói chị “liều mạng” theo tiếng miền Nam của em, tiếng Bắc chị là “cả gan” chứ gì, không sao chị đã tính kỹ rồi, nếu bánh ngon thì biếu người ta, nếu bánh dở thì chị sẽ…để dành làm món bánh chưng chiên cả nhà ăn dần trừ cơm, chẳng thiệt hại gì cả…

Bây giờ đến lượt chị Bông nghi ngại mất tự tin, trên net chỉ dẫn rõ ràng và dễ dàng coi vậy chắc gì chị làm được vậy?

.Chị thường xem những show nấu ăn trên ti vi thấy mấy tay đầu bếp chẳng cần dùng đũa hay thìa để xào nấu, họ chỉ cầm tay chảo và hất những món trong chảo cho thấm gia vị và trộn đều vào nhau thật dễ dàng và ngoạn mục, có lẽ đó là bí quyết làm cho món ăn ngon thêm nên chị đã bắt chước khi làm món tôm rim, chị hất chảo lên thì tôm và gia vị …nhảy tung toé ra khỏi chảo làm chị phải lau chùi bếp và chừa luôn không dám làm thử lần thứ hai.

Anh Bông chứng kiến cảnh ấy đã thẳng thừng nói:

- Thôi em ơi, anh xin em đấy. Anh thấy em dùng đũa xào nấu mà có khi đồ ăn, dầu mỡ, mắm muối còn văng ra ngoài thì tài cán gì mà lắc chảo, hất chảo bắt chước các tay đầu bếp chuyên nghiệp trên ti vi .

Chị Bông đã quen bị chồng chê nên khỏi cần bào chữa vì ăn ở bao nhiêu năm chồng đã hiểu vợ qúa rồi, cũng như mẹ chị ngày xưa đã hiểu con gái, bà thường mắng con gái xớn xác hậu đậu làm cái gì cũng sai sót rơi vãi chẳng nên thân. Tuy nhiên chị được chút an ủi là bố chị đã bênh “ Tại bà chiều nó cái gì cũng không cho nó động tay vào còn than trách gì nữa”.

Nghe vợ nói phone với cô em dâu xong anh Bông cũng ngạc nhiên như cô em dâu: :

- Hàng năm nhà mình vẫn đặt bánh chưng của nhà thờ ăn ngon vừa miệng, sao năm nay em lại nổi hứng muốn làm cho mệt cả thân.

Chị Bông thoáng mơ màng:

- Em tìm niềm vui trong dĩ vãng mà, món bánh chưng của mùa Xuân xưa goị theo kiểu thơ văn hay âm nhạc là “Hương Xưa” đấy anh, cảnh gói bánh chưng ở nhà mình em chưa bao giờ quên, chỉ khác là thay vì nhờ anh Xây gói bánh chưng bây giờ người gói là em.

Anh Bông lập lại và cười ruồi, lửng lơ:

- Người gói là em……

Chị Bông vênh mặt cũng lập lại:

- Người gói là em. đấy. Thì sao ?? Và người luộc bánh chưng vẫn là anh, anh sẽ sống lại cảm giác …

Anh Bông ngắt lời:

- Biết rồi, anh sẽ sống lại cảm giác bận rộn và mất ngủ cho tới khi nấu xong nồi bánh chưng .

- Nhưng chúng ta sẽ có những chiếc bánh chưng ngon như ngày ấy với nhân bánh cho nhiều đậu xanh, nhiều thịt heo lại là thịt heo tươi thì sẽ ngon gấp mấy lần bánh đặt mua ấy chứ.

Gạo nếp, đậu xanh, thịt heo ướp đã bày ra bàn. Chị Bông để tờ giấy chị đã ghi chép lại từ trên net cách gói bánh chưng bánh tét ngay trước mặt và bắt tay vào việc, chị sẽ cố gắng, sẽ gói bánh bằng tất cả tâm tình.

Bắt đầu là bánh chưng, chị đặt hai lớp là chuối lên nhau và đổ nếp, trải đều ra trước khi bỏ nhân đậu nhân thịt vào, nhưng chị không sao gói nó vuông vức được, chị sửa đầu này thì đầu kia lá chuối rách ra, chị phải …bổ sung thêm nhiều lá chuối cuối cùng ra cái bánh chưng chỗ dày chỗ mỏng và to tổ bố, nhưng chị cũng mừng, còn hơn càng gói càng rách lá chuối và gạo, đậu, thịt tuy không có chân mà cứ chạy ra ngoài.

Chị Bông phải tạm dừng gói bánh để gọi phone cầu cứu ông anh họ ở phương xa:::

- Anh Xây ơi, chỉ gấp cho em cách gói bánh chưng .

Ông anh gìa nghễnh ngãng:

- Ai đấy? Cô vừa bảo gì?

Chị Bông phải giới thiệu thân thế cho ông anh họ gìa cả nhanh chóng nhận ra mình:

- Em Bông đây, Nguyễn thị Bông đây, là vợ của em họ anh, anh chỉ em cách gói bánh chưng ngay bây giờ đi, nhanh lên, nhanh lên………

Anh Xây vẫn tuổi gìa đủng đỉnh:

- À, thì ra cô Bông …Cô để tôi nghĩ ngợi đã, tôi đang ngủ trưa đùng một cái cô đánh thức tôi dậy, cô hỏi vội vã như đi bắt cướp bảo tôi trả lời ngay sao được.

- Sao ngày xưa anh gói bánh chưng cho nhà em nhanh thế, vèo một tí là xong một cái, em ngồi nhìn anh gói mà ngưỡng mộ luôn. Cho em xin lỗi cú phone đột ngột vì nếp đậu thịt đang nằm chờ đây. …

Anh Xây thở dài:

- Cô ơi, hãy nhớ là thuở ấy tôi còn tương đối trẻ, gần 30 năm đã qua rồi cô nhé. Năm nay tôi đã gìa yếu tay run, mắt mờ, đầu óc thì lơ mơ….…

Chị Bông cũng thở dài:

- Em quên mất, em cũng già còn nói chi anh, vậy anh bình tĩnh chưa? Anh tỉnh ngủ chưa? Em đang gói bánh chưng đây nè, em đặt lá chuối mấy lớp mà vẫn không gói được anh ơi. Hay là trên net nó …lừa mình, người ta nói mạng ảo không nên tin nó, có bao nhiêu trò lừa bịp từ đơn giản đến tinh vi chúng ta cần cảnh giác.

Anh Xây mắng mỏ:

- Cũng tuỳ, trên net nó lừa cô cách gói bánh chưng thì nó được gì ? sao cô ác mồm ác miệng thế hử? Sao cô vô ơn bội nghiã thế hử? trên net nó giúp chúng ta bao nhiêu là kiến thức lợi ích, bao nhiêu thứ hay ho tiên.nghi….

Chị Bông nhắc nhở:

- Anh ơi, giờ này không phải lúc anh sưả sai em, mà là anh chỉ em gói bánh chưng.kia mà.

- Chuyện nào phải ra chuyện nấy đã, cô ăn nói vô duyên thế bảo sao tôi im lặng cho được. Bây giờ là bánh chưng đây, thế cô đặt lá chuối làm sao đến nỗi mấy lớp lá còn rách hử?

- Hay tại…lá chuối rổm kém chất lượng hả anh? Thời buổi này đến thực phẩm cũng gỉa dối độc hại nữa là…

- Cô chỉ được cái đổ vạ, hết bảo trên net lừa cô lại bảo tại lá chuối. Cô phải đặt lá chuối ngược chiều nhau, cái ngang cái dọc, lá to ở dưới, lá nhỏ hơn để trên, cô nghe rõ chưa?

Chị Bông kêu lên:

- Trên net cũng chỉ dẫn thế mà em… quên mất cứ đặt là chuối trên dưới cùng chiều. Hèn chi gói đến đâu lá rách đến đó.…

Anh Xây lo ngại dặn dò:

- Cái tính cô xớn xác thế, ba chớp ba nhoáng thế phải tập trung tinh thần khi gói bánh chưng nhé kẻo lại quên bỏ đậu bỏ thịt vào bánh chưng..

- Vâng, em sẽ không để tâm tư đi lạc bốn phương tám hướng nữa, chỉ nhìn thẳng vào trước mặt với nếp đậu thịt.. Bóc cái bánh chưng ngày tết mà thiếu đậu hay thiếu thịt thì chẳng vui tí nào..

Ông anh họ cẩn thận:

- Cô còn thắc mắc gì thì hỏi luôn đi, đêm qua tôi mất ngủ nên trưa nay mệt qúa muốn ngủ bù, cô đừng gọi lần nữa nhé.

- Vâng chúc anh ngủ ngon. À quên, nhưng làm sao cho bánh đều vuông vức hả anh?

- Cô phải dồn nếp vào mỗi góc lá cho đừng xô lệch và ấn mạnh cho đều bốn góc bánh.

- Vâng chúc anh ngủ ngon. À quên, em hỏi anh lần nữa là anh có biết gói bánh tét làm sao cho vừa dài vừa tròn không?

Anh Xây gắt lên:

- Cô đang hỏi cách gói bánh chưng lại tạt sang bánh tét, tôi có là thánh đâu mà cái gì cũng biết. Cô hỏi gì mà hỏi lắm thế…!!

Chị Bông cụt hứng lí nhí:

- Vì chốc nữa em sẽ gói bánh tét nên sẵn hỏi luôn ấy mà. Thôi, chúc anh ngủ ngon,

Ông anh họ cằn nhắn và khẳng định:

- Cô chúc tôi ngủ ngon mấy lần mà chưa cho tôi ngủ, bây giờ tôi ngủ đây, cô mà gói không xong cũng đừng gọi tôi, tôi thề không bốc phone đâu..

Ông anh họ đã gìa, đã đổi tính, càng ngày càng khó tính khó nết, anh không là người đàn ông trung niên vui tính hay đùa hay kể chuyện trong lúc gói bánh chưng giùm nhà chị Bông như ngày xưa nữa.

Chị Bông xếp lá chuối theo chiều ngang rồi chiều dọc của lá, tiếp tục gói bánh theo chỉ dẫn của anh Xây, cái bánh gói xong trông đỡ xấu hơn cái đầu tiên nhưng vẫn không thể nào vuông đều cho được.

Sang tới gói bánh tét cũng chẳng khá hơn gì, cũng tốn lá cho bánh khỏi lòi nếp ra ngoài.. Có lẽ khả năng gói bánh của chị chỉ tới đó không khá hơn được.

Đang gói thì thiếu lá chuối, thật là một cực hình khi chị phải bỏ dở dang nếp đậu thịt để lái xe ra chợ mua thêm bịch lá chuối, rồi rửa rồi lau.…

Càng gói càng mệt, càng gói bánh càng dở, càng xấu, những cái bánh tét sau cùng chị làm “trả nợ qủy thần”cho mau hết gạo, cái thì mập cái thì gầy trông như một đàn heo con cùng cha khác mẹ chẳng cái nào giống cái nào.

Gói xong bánh chị Bông vừa mệt vừa…chán, nỗi hào hứng ban đầu biến mất, cảm giác và kỷ niệm xưa chẳng thấy đâu, chị Bông chỉ thấy mắt mình hoa lên, lưng đau mỏi và hai tay rã rời, chị Bông chỉ muốn leo lên giường nằm nghỉ xả hơi cho sướng thân. .

May có anh Bông phụ một tay, anh phụ trách mục nhóm bếp và luộc bánh.

Anh đã nhóm bếp sẵn sau vườn với cái nồi to tổ chảng chị Bông mượn từ nhà một người quen dùng để luộc bánh. Khói bốc lên nghi ngút, chị Bông lo ngại dặn chồng:

- Anh bớt khói lửa được không? Em nghe nói có người luộc bánh chưng ngoài vườn khói bốc lên và hàng xóm nó gọi 911 đấy.. Phiền lắm.

- Nếu lửa không lớn thì làm sao chín nồi bánh.. Để anh vừa nấu bánh vừa khấn cầu trời Phật vậy.

- Em đi ngả lưng một chút đây. Trên net và anh Xây cũng nói phải luộc bánh ít nhất 8 tiếng đồng hồ mới chín, anh nhớ canh chừng lửa và chế thêm nước sôi vào nồi bánh mỗi khi nó vơi dần anh nhé.

Chị Bông nhìn đồng hồ:

- Bây giờ là 4 giờ chiều, khoảng 12 giờ đêm nay thì bánh chín, anh gọi em dậy nhé, mình …gỉa bộ đón giao thừa bên nồi bánh chưng xanh cũng thú vị đấy.

Chị Bông vào nhà tắm rửa mát mẻ xong chị nằm xuống giường, giấc ngủ đến dễ dàng vì chị qúa mệt mỏi.

Trong bóng đêm chị Bông tỉnh dậy chợt nhớ ra nồi bánh chưng đang luộc ngoài vườn chị vội vàng vùng ngồi dậy, nhưng anh Bông đã nắm tay chị lại:

- Em định làm gì? Đang là nửa đêm…

Chị Bông hoảng hốt nửa tỉnh nửa còn mê ngủ:

- Nồi bánh chưng của em, nó ra sao rồi? anh bỏ mặc nó và đi ngủ đấy hả? đã 12 giờ đêm chưa? Chúng mình cùng đón giao thừa anh ơi….

- Em nói mơ gì thế? Làm như em đang chờ đón giao thừa nơi quê nhà ngày nào? Hãy nằm xuống đây, anh đã hoàn thành tất cả rồi và vừa mới vào giường, lúc nãy 12 giờ đêm bánh chín anh vào thấy em ngủ say qúa anh không nỡ gọi em dậy bánh chưng bánh tét của em anh đã vớt ra và xếp trên bàn đàng hoàng và nhất là mọi thứ vẫn êm tĩnh chẳng có hàng xóm nào kêu 911, chẳng có người nào của city đến hỏi tại sao vườn nhà mình bốc khói và đỏ lửa cả.

Chị Bông thở phào nhẹ nhỏm và tỉnh ngủ::

- Thế anh có bóc cái bánh nhỏ em làm để nếm thử chưa?

- Chưa, suốt 8 giờ đồng hồ anh cho thêm củi và đổ nước thêm mấy chục lần, sái cả tay, còng cả lưng, hơi nóng từ bếp lửa, từ nồi bánh bốc lên rát cả mặt thử hỏi còn sức nào mà bóc bánh ăn thử. Em ngủ tiếp đi sáng ra hai vợ chồng mình cùng ra ngắm và ăn thử bánh chưng..

- Thì ra em đã ngủ lu bù từ lúc chiều đến giờ, mệt qúa em chẳng biết gì cả.

- Khi anh vào giường em đang nằm mợ luôn miệng kêu lên mừng vui “bánh chưng ơi, bánh chưng ơi”

Chị Bông bồi hồi nhớ lại:

- Em nằm mơ thấy cái tết xưa, nhà mình đã luộc một nồi bánh chưng, những cái bánh chưng xếp đầy trên bàn tại một góc bếp nhà mình, em đem biếu họ hàng và nhà mình ăn tết còn dư để dành đến ra giêng chiên lên ăn dần.. Em đã gặp lại cảm giác và mùa Xuân vui tươi trong qúa khứ rồi anh ơi

- Cả ngày hôm nay bánh chưng nó ám ảnh em mà

Chị Bông lại nằm xuống dỗ tiếp giấc ngủ khi trời gần sáng, lần này trong giấc ngủ chập chờn và nao nức chờ sáng chị Bông lại mơ thấy bánh chưng, những chiếc bánh do chính tay chị làm đã được bóc lá, bày ra đĩa, bánh chín mềm thơm tho mùi gạo nếp và mùi đậu mùi thịt đậm đà với hạt tiêu cay y như những chiếc bánh ngày xưa..

Chị Bông dậy trong khi anh Bông còn ngủ, chị đi ra vườn sau trong buổi sớm mai trong lành và se lạnh, chị đã thấy những chiếc bánh chưng bánh tét đủ mọi hình thù nằm yên trên chiếc bàn nhỏ trong patio, tất cả bánh đã nguội và khô ráo, chị Bông tìm chiếc bánh chưng nhỏ nhất mang vào nhà.

Chị bóc lá cắt bánh ra và ăn thử, bánh ngon như chị đã thấy trong giấc mơ, chị Bông mừng rỡ chạy vào phòng gọi chồng:

- Anh ơi dậy mà ăn điểm tâm với bánh chưng mới ra lò đêm qua.

Anh Bông còn ngái ngủ:

- Em làm gì mà hò hét lên như nhà khoa học vừa phát mình ra một điều vĩ đại thế?.

- Em sung sướng thật đấy, vĩ đại thật đấy vì cả đời em chưa biết gói bánh chưng là gì thế mà lần đầu tiên lại thành công vừa ý..

Anh Bông thấy vợ hào hứng qúa đã tỉnh ngủ, anh ngồi dậy:

- Chúc mừng em nhà “phát minh” ra những chiếc bánh chưng, bánh tết đủ kiểu đủ cỡ.

- Tuy ngoại hình không đẹp mắt, bánh chưng thì cái vuông cái méo, bánh tét thì cái ngắn cái cao nhưng tấm lòng nó như tấm lòng em thật nhiệt tình thơm ngon..

Anh Bông nịnh vợ:

- Vì em gói bánh với tình quê nên có tâm hồn em làm gia vị chiếc bánh thêm ngon..

Chị Bông vui vẻ:

- Hôm nay em sẽ mang bánh tặng gia đình em mình và chị bạn thân, những người này sẽ thông cảm cho những chiếc bánh chưng bánh tét xấu của em. Phải là chỗ thân tình mới nhận được món qùa xấu bên ngoài ngon bên trong của em đấy nhá…

Anh Bông đi vào phòng tắm đánh răng rửa mặt, chị Bông lo chuẩn bị món bánh chưng để hai vợ chồng cùng ăn thử công lao của mình..

Ngoài khung cửa sổ gío vẫn se lạnh, mây vẫn trôi chậm âm u của mùa Đông chưa qua và mùa Xuân chưa đến nhưng chị Bông đã thấy một mùa Xuân khác, có nắng nhiệt đới ấm áp rực rỡ, có hoa Xuân nở tưng bừng.

Những chiếc bánh chưng mới làm hôm nay chị sẽ bày ra đón Tết. Ở quê người mà hương vị bánh chưng vẫn thơm ngon của những mùa Xuân cũ, của đất trời quê xa.

Nguyễn Thị Thanh Dương
( Xuân, 2014)
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Ca Dao Ngày Tết
Chuyện xưa kể rằng: Vào một thời xa xưa lắm, người đang sống yên ổn thì một bầy quỷ dữ đến xâm lăng. Chúng dùng mưu mô quỷ quyệt chiếm hết đất đai, tài sản của người. Người thành kẻ làm công cho quỷ. Người trồng lúa, quỷ chia cho người phần gốc, quỷ lấy phần ngọn. Thấy người khổ quá, Phật hiện ra giúp kế. Theo điều kiện đã được giao ước đúng như lời Phật dặn, người trồng khoai lang. Đến mùa thu hoạch, quỷ lấy phần ngọn chỉ có dây và lá, người lấy phần gốc, củ chất đầy nhà. Quỷ lại đặt điều kiện: quỷ ăn phần gốc và ngọn, người ăn phần giữa. Lại theo lời Phật dặn, người trồng bắp. Đến mùa, người lấy hết trái, quỷ chẳng có gì để ăn. Quỷ thua bèn đòi lại đất. Phật khuyên người nên xin quỷ bán cho mình một mảnh đất bằng bóng của một chiếc áo cà sa. Quỷ bằng lòng. Phật bảo người trồng một cây tre rồi máng chiếc áo cà sa lên ngọn. Phật hóa phép làm cây tre cao mãi, cao mãi đến tận trời và bóng chiếc áo cà sa lan xa càng lúc càng rộng. Quỷ phải dắt dìu nhau chạy ra ngoài bóng râm của chiếc áo. Cuối cùng quỷ bị đuổi ra mãi ngoài tận biển Đông. Người lại làm chủ vùng đất của mình. Từ đấy, quỷ xin với Phật hàng năm cho vào đất liền để thăm mồ mả tổ tiên. Phật bằng lòng cho quỷ vào đất liền nhân ngày Tết Nguyên đán của người. Phật dặn người nên trồng cây NÊU trước nhà vào những ngày này để cho quỷ không thể xâm phạm đến người.

Trên đây là sự tích cây nêu ngày Tết của ta. Thế nên ca dao ta có câu:

Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông mau tới Tết dựng NÊU ăn chè.

Trong tâm thức của dân tộc Việt, cây nêu là biểu trưng của sức mạnh tinh thần Việt chống lại sức phản động của cái ác (quỷ). Cây nêu cũng biểu hiện quyền lực của mỗi gia đình trong làng xã ngày xưa:

Thứ nhất nêu cao,
Thứ nhì pháo kêu.

Nhà có cây nêu cao là nhà giàu sang quyền quí. Tràng pháo nổ giòn và đều là báo hiệu điềm tốt cho gia chủ.

“Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè” chỉ là tâm trạng trẻ con bởi lẽ chỉ có trẻ con mới mong chóng tới Tết để được “ăn ngon mặc đẹp” còn đối với người lớn, Tết đến là cả một nỗi lo :

Tết đến sau lưng
Ông vải thì mừng
Con cháu thì lo.

Quả vậy, vào những ngày năm cùng tháng tận, đa số dân ta lo lắng đủ điều. Nào là nợ nần chưa trang trải. Nào là công việc chưa hoàn thành. Nào lo sắm sửa cho 3 ngày Tết. Nào lo sửa sang nhà cửa để đón Xuân . . .

Đời sống của người nông dân ta ngày trước không phải là dễ dàng vì phương pháp canh tác cổ truyền, mọi việc phần lớn như còn tùy thuộc vào sự định đoạt của Trời. Cuộc sống tuy có muôn vàn cơ cực, ăn buổi hôm lo buổi mai, thế nhưng việc tiêu tốn cho 3 ngày Tết lại không thể dè xẻn được. Thế nên có nhiều gia đình đã phải chịu cái cảnh:

Đi cày ba vụ
Không đủ ăn ba ngày Tết!

Tết đến, trăm vạn nỗi lo quấn quít trong đầu, thứ nhất là lo nợ nần chưa trang trải:

Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi

Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không an.

Thật là trớ trêu. Tiền không có mà tiếng còi của gánh hát Quảng Đông lại quyến rũ, thúc dục. Về nhà thì nợ đòi. Mà nợ đòi thì nguy lắm. Các chủ nợ có lệ cuối năm giằng thúc con nợ, cố đòi cho được số tiền đã cho vay, dù rằng đòi được tiền về để đấy. Người ta cho rằng, nếu không đòi được tiền trước giao thừa, ngày hôm sau, món tiền nợ đã ra nợ cũ, và ngày Mồng một đầu năm và những ngày sau nữa, người ta không dám đòi nợ, vì con nợ kiêng sợ giông.

“Tục lệ như vậy nên cái ngày tất niên nầy, những người có nợ làm ăn kém may mắn, không có tiền trả mà phải khất chủ nợ không chịu, đành phải đi trốn nợ đến lúc giao thừa mới trở ve”.(1).

Tục ngữ lại có câu:

Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
Giàu có Ba mươi Tết mới hay.

Hoặc là:

Có, không: mùa Đông mới biết
Giàu nghèo: Ba mươi Tết mới hay.

Trên đây là những quan sát thực tế của người bình dân ta ngày xưa. Kẻ khôn ngoan là kẻ khéo biện bạch trước cửa quan (tức cơ quan chính quyền hàng Xã, Tổng, Huyện...) để giành lẽ phải về mình. Mùa Đông là mùa giá rét. Nhiều công việc làm ăn hầu như đình trệ. Đây thường là khoảng thời gian đem lương thực dự trữ ra để ăn. Nhà giàu có của dự trữ nên không lo. Nhà nghèo phải đi vay từng đấu gạo. Đến ngày giáp Tết, nhà giàu sắm sửa ề hề, dân nhà nghèo đôi khi còn phải lo trốn nợ. Thế nên dù ai có tài khoe mẽ đến đâu, đến ngày giáp Tết là người ta biết hết, không thể nào giấu giếm được.

Ngoài những ngày kỵ giỗ bình thường để con cháu tưởng nhớ đến ngày từ trần của người đã khuất, hàng năm người Việt ta còn có lệ Chạp mả, tất cả mồ mả của giòng họ đều được giẫy cỏ sạch sẽ vào tháng Chạp để sửa soạn mời gia tiên về ăn Tết với con cháu. Cũng có nơi để sang tháng Giêng mới giẫy mả.

Đi đâu mặc kệ đi đâu
Đến ngày giỗ chạp phải mau mà về.

Con cháu không thể bỏ được ngày giỗ chạp bời vì “con cháu muốn tròn đạo hiếu với tổ tiên thì những ngày kỵ Chạp, Tết nhứt phải cúng cấp tử tế. Những người bỏ giỗ bỏ Tết là bất hiếu chi cực”. (2)

Bỏ sêu Tết kỵ Chạp là một điều bất hiếu. Vì thế đã có cô gái trách cứ vị hôn phu của mình một cách nặng nề:

Chiều Ba mươi anh không đi Tết,
Rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ,

Hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công.

Lạy bàn thờ gia tiên quả một điều hệ trọng. “Về Tết Nguyên đán, từ ngày 29 tháng Chạp, gia trưởng phải làm lễ Rước Ông Bà. Trong 3 ngày Tết, suốt đêm ngày lúc nào cũng có hương đèn và lễ vật để cúng tổ tiên. Đến chiều Mồng 3 hay sáng Mồng 4 thì làm lễ Đưa Ông Bà để đốt vàng mã cúng trong 3 ngày Tết”. (3).

Lạy bàn thờ gia tiên vào 3 ngày Tết là một nghi lễ không thể thiếu của con cháu đối với những người đã khuất. Thế nhưng, khi bị vị hôn thê trách cứ, người con trai đã khéo biện bạch cho sự vắng mặt của mình bằng một lễ nghi có vẻ còn quan trọng hơn: lo việc họ, việc làng.

Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ
Sáng mồng Một anh bận việc làng,
Ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!

Đến ngày Tết, con cháu dù làm ăn ở đâu cũng cố tìm cách về nhà để ăn Tết, mừng tuổi ông bà cha mẹ. Con cái dù đã lập gia đình ra ở riêng cũng đem con cái về thăm và chúc Tết cha mẹ mình:

Mồng một Tết cha
Mồng ba Tết thầy.

Hay : Mồng một thì ở nhà cha,
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.

Lệ tết thầy của ta ngày xưa thật đẹp. Đó là tinh thần “tôn sự trọng đạo”, là tinh thần “tiên học lễ, hậu học văn”. Học trò học nghề hay học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy trò. Học trò phải kính trọng thầy, quý mến thầy mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.

“Lúc học, gặp khi mồng Năm ngày Tết như: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Đoan ngọ, Trung thu, ... mùa nào thức nấy, hoặc cặp gà thúng gạo, đường mứt bánh trái hoặc năm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy”.(4).

Trong các tục lệ về ngày Tết, ta có tục xông đất hay xông nhà đầu năm. Theo tục lệ nầy, có nhiều người tin rằng, có người vía xấu đến xông đất nhà nào (tức là người đến chúc Tết đầu tiên) nhà đó sẽ gặp điều xui xẻo quanh năm. Vì thế, “nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng Một Tết đến xông nhà, trước khi có khách đến chúc Tết, để người này đem sự dễ dãi may mắn lại”. (5).

Do tục lệ nầy, vào sáng Mồng một Tết ít người dám ra khỏi nhà để đi thăm bà con láng giềng, sợ mình sẽ đem điều xui xẻo đến cho người khác. Cũng do tục lệ nầy, người ta rất sợ những kẻ “mang tiếng không tốt” đến xông nhà mình. Ơ đất Hà thành vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có hai nhân vật trào phúng nổi tiếng, một cặp bài trùng mà những tay có máu mặt thời bầy giờ đều ngán, đó là Ba Giai và Tú Xuất. Hai nhân vật này mang tiếng là hay chòng ghẹo và phá phách thiên hạ. Vì thế người ta đã hù dọa nhau:

Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết Ba Giai đến nhà.

Đa số dân ta sống bằng nghề nông. Hàng năm, nhiều nhà dâng lễ cúng đất, còn gọi là lễ “tạ thổ kỳ yên” vào những ngày đầu năm. Ơ vùng đồng bằng sông Cửu Long, lệ cúng đất được thực hiện vào ngày ngày 10 tháng Giêng:

Mổng chín vía Trời
Mồng mười via Đất

Ngày vía đất có lệ cúng đất. “Ơ nhà quê miền Nam, đến ngày 10 tháng Giêng người nhà nông làm lễ cúng đất. Nghi lễ rất giản dị. Nhà khá giả thì dọn mâm cơm có gà vịt đem ra ruộng cúng rồi cùng nhau ăn uống tại chỗ. Ơ nhà thì dọn lễ vật ra cúng tại bàn thờ Thổ Địa đặt trong nhà. Lễ vật cũng đơn giản: con gà, miếng thịt hoặc rút gọn chỉ còn bộ tam sên với dĩa gạo, muoi”. (6).

Trong 3 ngày Tết ta có lệ chúc Tết. Con cháu chúc Tết ông bà cha mẹ, ông bà cha mẹ chúc Tết lại con cháu; bà con quên đi mọi ghen ghét, giận hờn; hề gặp nhau là gửi lời cầu chúc tốt đẹp cho nhau:

Nay mừng tứ hải đồng xuân
Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình.
Sĩ thời chăm việc học hành,
Một mai khoa bảng để dành công danh.
Công thì phượng các long đình
Đủ nghề sư khoáng, rứt nghề công thâu.
Nông thời cuốc bẫm cày sâu,
Thu hòa hạ mạch, phong thâu có ngày.
Thương thời buôn bán liền tay
Rứt tài Tử Cống ai tày cho đang!

Ơ miền Bắc có tục hát “xúc xắc xúc xẻ” để mừng Tết ngay vào đêm giao thừa. Một đoàn trẻ con gồm chừng 10, 15 em tay cầm ống bương đựng đồng tiền kẽm. Ngay từ lúc chạng vạng, bọn trẻ lũ lượt kéo đến từng nhà để mừng gia chủ sang năm mới gặp nhiều điều may mắn với lời hát mừng đầy ắp những điều tốt đẹp:

Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
Mở cửa cho chúng tôi vào
Bước lên giường cao: Có đôi rồng ấp

Bước xuống giường thấp: Có đôi rồng chầu
Bước ra đằng sau: Có nhà ngói lợp
Ngựa ông còn buộc
Voi ông còn cầm

Ong sống một trăm linh năm tuổi lẻ
Vợ ông sinh đẻ
Những con tốt lành
Những con như tranh
Những con như đối...

Ơ một số địa phương lại có tục “hát sắc bùa” vào ngày Tết. Thông thường hát sắc bùa do phường sắc bùa hát theo điệu dân ca sắc bùa của từng dịa phương. Có một số địa phương lại kết hợp múa sắc bùa với hát sắc bùa thành một vũ điệu dân-gian đầy quyến-rũ như ở một số xã miền biển quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Phường sắc bùa còn có những bài hát riêng cho từng nghề nghiệp: buôn bán, nông tang, canh cửi . . . :

Thánh chúa vạn niên.
Thánh chúa vạn niên!
Chúng tôi nay dâng cách đội đèn
Thái hòa gặp tiết xuân thiên

Gió đưa chồi ngọc, hoa chen cành vàng
Trong nhà ta đèn thắp sáng trưng
Song le còn muốn chơi trăng ngoài thềm
Để cho ấm ngoài êm...

Vào sáng Mồng một Tết, một số chức sắc trong làng từ Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lý trưởng, Trương tuần cùng các bô lão đều tề tựu về đình làng để tế cáo thần linh bản thổ và thần Thành hoàng. Trong ngày gặp mặt đầu năm ở nơi linh-thiêng này, quý chức sắc của làng đều dâng lời cầu nguyện xin Thành hoàng và thần-linh bản-thổ phù trợ cho dân làng sang năm mới được vạn sự như ý:

Chúc mừng thượng đẳng tối linh
Phù trì dân xã hiền-vinh sang giàu
Trước đình lại có rồng chầu
Có đôi qui phụng tựa màu non tiên

Giữa đình có đấng bát tiên...

Trong những hội Xuân đầu năm, làng thường tổ chức các hội hát nam nữ như: hát đúm, hát dặm, hát trống quân, hát quan họ... Thường vào cuộc hát, người khởi xướng thường hát những lời chúc tụng tốt đẹp:

Tới đây viếng cảnh, thăm hoa
Trước mừng các cố, sau là mừng dân.
Sau nữa tôi mừng cả làng tuần
Mừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầy
Một mai đàn có bén dây
Ơn dân vạn bội biết ngày nào quên!

Vào 3 ngày Tết, các làng thường tổ chức các trò chơi tại sân đình, sân chùa hay một khoảng đất trống nào đó để dân làng tụ tập vui Xuân. Các trò chơi thông thường gồm có: cờ người, tổ tôm điếm, đánh đu, ném cầu, chọi gà, đô vật, ... Ngoài dịp Tết Nguyên đán, các làng còn tổ chức hội Xuân vào các ngày Thần kỵ tức ngày húy kỵ của vị Thành hoàng của làng. Các lễ hội này thường được tổ chức vào mùa Xuân hay mùa Thu vời nhiều trò chơi đặc biệt hơn.

Ngoài địa điểm chính nêu trên, dọc theo đường làng dưới bóng các lũy tre hay cây đa, cây bàng, người ta thấy tụ tập từng 5, 7 người, có nơi 10, 15 người để chơi các trò cờ bạc như xóc dĩa, đánh đáo...

Mồng một chơi cửa chơi nhà,
Mồng hai chơi xóm, mùng ba chơi đình.

Thực ra, các nơi vui Xuân không phận biệt ra từng ngày rạch ròi như trên mà còn tùy thuộc vào từng hạng người, từng lứa tuổi. Phần lớn các người đứng tuổi thích tụ tập về sân đình, sân chùa để thưởng thức các trò vui Xuân, lớp con cháu lại thích tụ tập ở các nơi xóc dĩa, bầu cua, đánh đáo...

Một số tỉnh thuộc miền Trung Trung phần, ngoài các trò chơi như xóc dĩa, bầu cua, đánh đáo, ... còn có thú chơi bài chòi:

Rủ nhau đi đánh bài chòi
Ơ nhà con khóc nó lòi rún ra.

Đây là một hội bài chòi được nhà văn Võ Phiến thuật lại theo tài liệu của nhà thơ Quách Tấn:

“Trên một khoảnh đất, dựng lên 9 cái chòi. Các chân bài, mỗi chân chiếm một chòi. Người ta dùng bộ bài Tam Cúc 27 cặp, đem mỗi lá bài dán vào một thẻ tre. Bộ bài chia ra làm đôi: một nửa bỏ vào ống do người hô hiệu giữ, một nửa đem phân phối cho 9 chòi, mỗi chòi 3 lá. Lúc vào cuộc, anh hiệu rút bài trong ống ra, hô lên, chòi nào trúng lá ấy thì gọi hiệu đem lại. Khi có một chòi trúng đến lá thứ 3 là xong một ván. Người hô hiệu thu hết bài, trộn nhau, rồi lại phát ra mỗi chòi 3 lá để bắt đầu lại ván khác. Cứ thế cho đến 8 ván là mãn hội” (7).

Phần lớn những người thích chơi bài chòi là thích cái điệu hô đặc biệt gọi là hô bài chòi của các tay hô hiệu.

Nói đến Tết mà không nhắc đến các phiên chợ Tết là cả một điều thiếu sót. Chợ Tết có thể là những phiên chợ cuối năm bày bán các hàng Tết từ đồ cúng tế, hoa quả đến quần áo và đồ chơi trẻ con. Chợ Tết cũng có thể là những phiên chợ đầu năm họp lấy hên và thường được tổ chức các trò vui Xuân cùng với việc bày bán hàng Tết. Có những phiên chợ Tết mỗi năm chỉ họp một lần:

Bỏ con bỏ cháu,
Không ai bỏ hai mươi sáu chợ Yên
Bỏ tổ bỏ tiên
Không ai bỏ chợ Viềng mồng tám.

Đây là hai phiên chợ Tết đặc biệt của Nam Định xưa: chợ Yên mỗi năm chỉ họp một phiên vào ngày 26 tháng Chạp. Đây là một phiên chợ Tết thật sầm uất với đầy đủ mặt hàng Tết cho người lớn và trẻ con, quy tụ khá đông đảo người quanh vùng về mua sắm.

Chợ Viềng lại họp vào ngày 8 tháng Giêng. Tương truyền ngày xưa ở Nam định có đến 3, 4 chợ cùng mang tên chợ Viềng. Chợ Viềng chính nằm ở xã Kim thái, huyện Vụ bản; họp phiên đầu năm vào mùng 8 tháng Giêng, quy tụ dân quanh vùng. Dân vùng này tin rằng buôn bán vào ngày nầy sẽ gặp may mắn quanh năm. Do đó, nếu gặp những ngày có mưa gió, lại gặp đò ngang cách trở, dân buôn tự động họp chợ ở một nơi nào đó để buôn bán gọi là “lấy ngày”, cầu may cho cả năm. Thế là một phiên chợ Viềng mới được thành hình. Sau phiên chợ họp lấy may đầu năm đó chợ không còn để lại một dấu vết nào. Năm sau hoặc những năm sau nữa, nếu lại gặp trở ngại như trên, dân buôn quanh vùng lại hình thành một chợ Viềng khác, có thể là ở vùng đất năm trước hay một nơi nào khác. Những phiên chợ Viềng này mỗi năm chỉ họp một lần thôi.

Ơ kinh đô Huế có chợ Gia Lạc, mỗi năm cũng chỉ họp có một phiên:

Gia Lạc chỉ mở ngày Xuân
Quanh năm, suốt tháng khó lần tìm ra.

Gia Lạc là một phiên chợ đặc biệt gần thôn Vĩ Dạ, hằng năm chỉ họp vào mấy ngày Tết: từ 29 tháng Chạp đến mồng 3 Tết. Tương truyền đây là phiên chợ đặc biệt do vị hoàng tử thứ 4 của Vua Gia Long là Nguyễn Phúc Bính cho lập vào 3 ngày Xuân trên một khoảnh đất rộng gần phủ đệ của ông để cho các người trong hoàng phái đến sắm hàng Tết và vui Xuân như đánh bài chòi, đổ xăm hường, đánh đáo lỗ... Chợ tập trung được nhiều mặt hàng Tết nhất là đồ chơi cho trẻ con do dân các phủ huyện lân cận sản xuất và mang về bán. Dần dần về sau dân quanh vùng cũng được tham dự trong các sinh hoạt của phiên chợ Tết này và mỗi năm chợ cũng chỉ họp vào 3 ngày Tết mà thôi.

Ơ tỉnh Vĩnh Yên có phiên chợ Dưng cũng rất nổi tiếng:

Bỏ con, bỏ cháu
Không ai bỏ hội mùng 6 chợ Dưng.

Dưng là tên nôm na của làng Văn Trưng thuộc phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên. Hàng năm làng Văn Trưng mở hội Xuân vào ngàymùng 6 tháng Giêng. Chợ Dưng tọa lạc gần đình làng Dưng và mở phiên chợ đầu năm cũng vào mùng 6 tháng Giêng. Vừa gặp ngày hội Xuân, vừa gặp phiên chợ đầu năm nên chợ Dưng vào ngày này thật đông đúc. Ngoài việc buôn bán lấy may, dân chúng còn được thưởng thức các trò vui Xuân, đặc biệt là trò chơi trai gái bắt chạch trong chum.

Ơ huyện Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Cầu Quan cũng thật hấp dẫn. Chợ Cầu Quan, dân quanh vùng quen gọi là chợ Thượng, họp chợ ngay bên bờ một con sông đào từ thời nhà Lê vào dịp đầu Xuân. Dân chúng vừa đi chợ Tết vừa xem đua thuyền rồng:

Cầu Quan vui lắm ai ơi,
Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng!

Vùng quan họ đất Bắc cũng có những phiên chợ Tết nổi tiếng một thời còn được dân chúng nhắc nhở qua câu ca dao:

Xứ Nam: nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc: Vân Khám, xứ Đoài: Hướng Canh.

Xứ Nam, xứ Bắc, xứ Đoài là tên gọi nôm na của các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Tây ngày xưa.

Riêng đất Nam Định còn có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ của họ một cách thú vị:

Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình.
Mông bốn chơi chợ Quả linh
Mồng năm chợ Trình, mùng sáu non Côi.

Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua.

Tết Nguyên đán là ngày lễ cổ truyền trọng đại của dân tộc Việt Nam.

Trên đây chúng tôi đã nêu lên một số tục ngữ ca dao phản ảnh một số tập tục và hình ảnh quen thuộc của ngày lễ trọng đại đó.

Ngày nay, vì hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, một phần con dân Việt phải sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng, dù sống trong hoàn cảnh nào, châu lục nào, quốc gia nào người Việt ta cũng vẫn nhớ đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc và vẫn tổ chức những hội vui Xuân một cách trọng thể. Tổ chức vui Xuân để giử gìn truyền thống Việt và quảng bá phần nào văn hóa Việt với các sắc dân khác đang cùng sống trên một địa bàn với chúng ta. Đó là ý nghĩa quan trọng của ngày Tết Nguyên đán mà chúng ta vẫn thường tổ chức hằng năm.

ĐÀO ĐỨC NHUẬN
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »


'50 sắc thái' tiếp tục dẫn đầu phòng vé Bắc Mỹ


Sau hai tuần ra rạp, bộ phim tâm lý - tình cảm nóng bỏng đạt doanh thu 410 triệu USD trên toàn thế giới.

Sau tuần đầu tiên mở màn tưng bừng và lập được nhiều kỷ lục, doanh thutrong tuần thứ hai của Fifty Shades of Grey giảm tới 72%.
Tuy nhiên, con số 23,2 triệu USD tiền vé đủ để giúp bộ phim này đứng đầu bảng xếp hạng những phim ăn khách nhất tuần thứ hai liên tiếp.

Tổng cộng, Fifty Shades of Grey đang có doanh thu 410,6 triệu USD trên toàn thế giới, trong đó 130,1 triệu USD tại Bắc Mỹ.
Với chi phí sản xuất chỉ có 40 triệu USD, bộ phim này đang sinh lãi lớn cho các nhà sản xuất.

Khán giả Việt Nam được thưởng thức Fifty Shades of Grey từ ngày 13/2.

Image
Cảnh trong phim "50 sắc thái".


Bộ phim hành động hài hấp dẫn Kingsman: The Secret Service tiếp tục duy trì vị trí thứ hai. Doanh thu trong tuần qua của bộ phim này là 17,5 triệu USD, giảm 51,6% so với tuần trước đó. Doanh thu tuần cầu của Kingsman: The Secret Service hiện là 124,7 triệu USD so với mức kinh phí là 81 triệu USD.

Như vậy, so với bảng xếp hạng tuần trước, hai vị trí dẫn đầu vẫn được giữ nguyên. Ba bộ phim mới ra mắt là Hot Tube Time Machine 2, The DUFF và McFarland, USA đều có mặt trong top 10 như dự đoán.

McFarland, USA giữ vị trí thứ năm. Bộ phim là câu chuyện về một huấn luyện viên giúp đội thể thao nhỏ bé của mình trở thành một ứng cử viên vô địch. Trong tuần đầu ra mắt, McFarland, USA đạt doanh thu 11,3 triệu USD. Đây là con số khả quan so với chi phí 17 triệu USD làm phim.

Đứng ngay sau McFarland, USA là The DUFF, một bộ phim hài dành cho tuổi thiếu niên. Bộ phim xoay quanh Bianca, một nữ sinh trung học phát động một chiến dịch kỳ lạ sau khi cô trở thành mục tiêu châm chọc của nhóm bạn. 11 triệu USD tiền vé trong tuần đầu ra rạp là mức doanh thu tốt của bộ phim độc lập có kinh phí 8,5 triệu USD này.
Image
Hình ảnh trong phim "Hot Tub Time Machine 2".


Đứng trí thứ bảy là phim mới Hot Tub Time Machine 2. Đây là phần tiếp theo của bộ phim cùng tên ra mắt năm 2010. Trong phần này, khi Lou gặp rắc rối, Nick và Jacob quyết định sử dụng chiếc máy thời gian trở lại quá khứ để giúp bạn. Nhưng họ lại đi nhầm tới tương lai và mọi chuyện bi hài bắt đầu từ đây.

Trước khi bộ phim này ra mắt, giới chuyên môn nhận định Hot Tub Time Machine 2 có thể đạt 15 triệu USD doanh thu mở màn. Nhưng trên thực tế, bộ phim hài này chỉ đạt 5,8 triệu USD, con số khá khiêm tốn khi kinh phí làm phim là 14 triệu USD.

Những bộ phim còn lại trong Top 10 gồm The SpongeBob Movie: Sponge Out of Water, American Sniper, Jupiter Ascending, The Imitation Game và Paddington.

Hai bộ phim ra mắt cuối tuần nhiều khả năng góp mặt trong bảng xếp hạng phim ăn khách tuần tới là Focus và The Lazarus Effect. Các bộ phim đáng chú ý khác như ’71, Maps to the Stars và Everly chỉ được chiếu hạn chế ở một số rạp.


10 phim ăn khách nhất Bắc Mỹ tuần qua:


1. Fifty Shades of Grey - Universal - 23,2 triệu USD
2. Kingsman: The Secret Service - Fox - 17,5 triệu USD
3. The SpongeBob Movie: Sponge Out of Water - Paramount - 15,5 triệu USD
4. McFarland, USA – Buena Vista - 11,3 triệu USD
5. The DUFF – Lionsgate - 11 triệu USD
6. American Sniper - Warner Bros. - 9,6 triệu USD
7. Hot Tub Time Machine 2 - Paramount - 5,8
8. Jupiter Ascending - Warner Bros. - 3,7 triệu USD
9. The Imitation Game - StudioCanal - 2,6 triệu USD
10. Paddington - Weinstein/Dimension - 2,3 triệu USD

Thanh Hải
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Ước Mơ Đầu Xuân
Trần Trung Đạo

Tôi ít viết thơ tình. Không phải vì tâm hồn tôi khô khan, lạnh cảm nhưng chỉ vì một cảm xúc riêng tư chưa kịp dâng lên đã bị những ưu tư chung đè xuống. Đất nước nghèo nàn, quê hương xa xôi, lòng người ly tán trở thành những gánh nặng không rời. Nặng đến nỗi nhiều khi tôi tưởng chừng nếu không có sự đóng góp của mình đất nước sẽ khó mà thay đổi. Thật ra, không phải thế. Tôi chỉ thương cho quê hương khốn khó mà nghĩ thế thôi. Không có tôi mùa đông vẫn ra đi và mùa xuân sẽ đến.

Tôi yêu quê hương qua số phận của đời mình, đời một một giọt nước mưa, một chiếc lá. Trong thơ, tôi viết nhiều về cơn mưa và chiếc lá. Bởi vì đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời xóm làng, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác, mưa dưới gốc đa già, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi.

Những ngày ở trung học Trần Quí Cáp tôi có viết bốn câu thơ tình:

Em về phố Hội chiều mưa lớn
Vóc ngọc ngà khoe dưới lụa hồng
Ta như giọt nước mùa mưa đó
Đã cuốn trôi về trăm nhánh sông.


Bốn câu thơ đã trở thành điềm báo trước cho tôi, giọt nước mưa trên con đường Phan Đình Phùng Hội An ngày nào đã thật sự cuốn về trăm nhánh sông trên khắp bốn phương trời.

Tôi rời Hội Anh năm 1972. Ngày ra đi, một người bạn lớn hơn tôi vài tuổi, cũng là người làm thơ quen thuộc ở Hội An thời đó, Huỳnh Kim Sơn, tặng tôi hai câu thơ:

Trong tôi đã hết mùa xuân thắm
Cỏ mọc quanh đời say viễn du.


Hai câu thơ rất hay nhưng với tôi chưa mang nhiều ý nghĩa như bây giờ. Tôi đi học ở Sài Gòn chứ chẳng viễn du nơi phương trời xa lạ nào cho lắm. Ngày đó Sài Gòn khá xa với Đà Nẵng nhưngnăm nào khi Tết đến tôi vẫn trở về.

Hội An những ngày tôi sống buồn và vắng vẻ. Thành phố buồn đến nỗi trong một bài luận văn tả Hội An, tôi đã gọi đó là ”Thành phố chết”. Không những con người chẳng ai ngó ngàng đến Hội An mà cả chiến tranh cũng bỏ sót Hội An. Thật vậy, ngoại trừ vài trận đánh lẻ tẻ, trong suốt mấy mươi năm của cuộc chiến, thành phố thân yêu của tôi gần như được cả hai bên để cho yên, đúng ra là quên lãng.

Điều rất lạ, ngay cả Mỹ, trong thời cao điểm với cả trăm ngàn quân đóng ở Đà nẵng, cách đó chỉ vài chục cây số, không đơn vị nào đóng ở Hội An. Hẳn nhiên không ai để ý đến chuyện bảo tồn văn hóa mà chỉ vì Hội An đã không còn là một ví trí kinh tế chính trị chiến lược như 300 năm trước. Dù sao, nhờ những lãng quên đó mà ngày nay những mái ngói cong nguyên vẹn, những cột nhà chạm trổ tinh vi đã giúp kiếm ra được ít tiền của du khách để nuôi sống người dân phố Hội sông Hoài.

Những ngày tôi còn ở đó, Hội An rất nghèo. Một lần, có người hỏi tôi bây giờ Hội An sống nhờ du khách, ngày xưa sống bằng gì. Tôi trả lời nửa đùa nửa thật, ngày xưa Hội An sống bằng thơ. Ngoài thơ, tôi không nhớ Hội An không bằng gì khác. Không ruộng đất, không nhà máy. Không du khách. Không có những đêm rước đèn phố cổ như bây giờ. Ngày đó, gia tài tuổi học sinh của chúng tôi là những bài thơ đầy sáo ngữ và một cây đàn xài chung cho cả nhóm. Bài Thu hát cho người tôi thường nghêu ngao ở Ngã Ba Tin Lành vẫn còn vang vọng mấy chục năm sau.

Những người từ Hội An ra đi đều có một nhận xét giống nhau: “Hội An là thành phố để về thăm chứ không phải nơi để ở”. Tuy buồn bã như thế, hàng năm, tôi vẫn về. Ngay cả những năm khó khăn sau 1975, tôi vẫn cố gắng về. Đi xa, nhớ Hội An da diết nhưng khi vừa bước chân về lòng lại muốn ra đi. Trong những năm ở Sài Gòn, tôi về Hội An chỉ để vấn an thầy, thăm đám bạn, đi một vòng phố, đứng trước trường Trần Quí Cáp đảo mắt nhìn kỷ niệm thời học trò, rồi lại ra đi trên những chiếc xe Renault màu xanh đậm và già không thua gì thành phố.

Tháng 6 năm 1981 giọt nước ra đi, trôi theo những nhánh sông dài, sông lớn như sông Seine, sông Thames, sông Danube. Cách đây không lâu khi rời Hằng huyền bí ở Vanarasi tôi viết mấy dòng thơ tạm biệt và mong có một ngày giọt nước sẽ trở lại thăm:

Và một ngày tôi sẽ trở lại thăm
Sông Hằng Varanasi
Có thể không còn là con người xương thịt như hôm nay
Mà chỉ là giọt nước
Từ mây trời phương tây xa xôi
Hãy đón giọt nước như đón tôi hôm nay
Hãy cho tôi cùng chảy với sông
Trong tiếng đàn Sitar và tiếng trống Tabla
Trong một đêm huyền diệu
Trong buổi sáng lặng yên
Ngoài những cơn mưa, tôi còn hay viết về những chiếc lá.


Nhà văn Lương Thư Trung, hiện đang cư ngụ tại Houston có lần thắc mắc tại sao tôi thường viết về những chiếc lá. Ông xúc động khi đọc bốn câu thơ tôi viết ở Raleigh và sau đó viết bài văn cảm động Người tiều phu và những chiếc lá vàng:

Tóc bạc theo mỗi ngày biệt xứ
Bụi cuộc đời trắng dã đôi vai
Tiều phu gánh củi về ngang núi
Trăng chiếu lưng đèo một bóng soi


Một ngày rảnh rỗi nhà văn Lương Thư Trung ngồi đọc tập thơ của tôi “Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười”, sau đó viết một bài nhận xét với những câu rất đẹp:

“Đất trời rồi sẽ chuyển sang mùa theo sự vận hành của vũ trụ. Những chiếc lá vàng rồi sẽ rơi rụng, bay đi, bỏ lại bên trời những cành, những nhánh khẳng khiu, buồn thảm đến ngậm ngùi… Trong dòng đời, với biết bao lần ngụp lặn, chìm đắm trong bể khổ trầm luân, giông tố, bão bùng… Rồi bức tranh vân cẩu cũng phải tan đi, để trả lại trần gian này một chút nắng ấm mặt trời, để trả lại cho con người một cõi an nhiên, thanh tịnh. Cao đẹp biết bao khi có những con người hy sinh đời mình tự nguyện làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi khắp bốn phương tám hướng gom góp từ nhánh củi, cọng rơm, ngọn cỏ đến những chiếc lá vàng khô để đốt lửa soi đường, sưởi ấm nhân sinh! Hạnh phúc thay được làm một nhà thơ! Hạnh phúc thay được làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi góp nhặt những chiếc lá vàng!”

Anh gởi tặng tôi bài viết. Đọc bài anh viết, chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên mình dùng chữ lá nhiều đến thế. Có lẽ vì lá gần gũi tôi trong một khoảng đời niên thiếu khá dài ở chùa Viên Giác.

Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

hay

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

hay

Ai về qua phố Hội An
Mua dùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
Tôi đi quét lá trăm miền
Mẹ ngồi dệt sợi ưu phiền quanh năm

hay

Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn

hay

Một chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ
Thu đã về rồi đó phải không em
Anh chợt thấy bàng hoàng trong tuổi dại
Một tình thương tha thiết sẽ không quên

hay

Cho tôi nhặt chiếc lá vàng trước ngỏ
Viết bài thơ tha thiết hiến dâng đời
Chút chân tình trang trải với muôn nơi
Rất nhỏ bé nhưng vô cùng sâu rộng

hay

Mỗi chiếc lá như chừng nghe hơi thở
Mỗi cành cây như có một linh hồn
Ta sẽ về sống lại môt lần thôi
Em sẽ khóc như chưa hề được khóc

hay

Ai mang em trên đường đi vượt biển
Chẳng kịp về thăm góc phố năm xưa
Em bỏ đi như lá bỏ quên mùa
Như giọt nước quên tấm lòng biển cả.


Và nhiều nữa.

Nhưng dù bay đi bao nhiêu xa, giọt mưa và chiếc lá vẫn mong có một ngày về lại cội nguồn. Những dòng sông tôi qua nổi tiếng bao nhiêu không đẹp hơn sông Thu Bồn:

Em đừng hỏi ta mong về quê cũ
Chiếc lá khô còn nhớ cội thương cành
Ta chẳng lẽ bước chân đời lê mãi
Nơi quê người làm một kẻ lưu dân


Quê hương Quảng Nam của tôi đẹp và thật như những dòng nhạc trong bài Tình quê hương của Việt Lang: “Ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ”. Ai không muốn trở về. Vâng, nhưng nếu về chỉ về để tìm lại quê hương trong ký ức thôi thì về để làm gì. Hàng tre đến ruộng lúa của tuổi thơ không còn nữa. Như có lần tôi đã viết, ký ức không chết khi nào con người còn sống nhưng ký ức chỉ là quá khứ không thay đổi, không cũ đi và cũng chẳng mới hơn. Ký ức là chất nhựa, sức bật cần thiết để con người từ đó vươn lên chứ không phải dừng lại. Phải sống trong hy vọng vào một ngày mai. Nhưng hy vọng chưa đủ, phải hoạt động tích cực để biến ước mơ dựng một mùa xuân tự do và trường thịnh cho dân tộc Việt Nam thành sự thật.

Trong mùa xuân tự do và cường thịnh đó, quê hương Việt Nam sẽ không có tù chính trị, không có đấu tranh giai cấp, không có tuổi thơ lây lất ăn xin trên các vỉa hè, không có những em bé cất tiếng khóc chào đời trong thùng rác, không có các em học sinh mỗi ngày hai bận phải bơi qua sông đi học, không có các thiếu nữ Việt Nam trần truồng sắp hàng để được các ông Đài Loan, Hàn Quốc mua như mua thịt ngoài chợ, không có những ngư dân bị bắn chết chỉ vì đi đánh cá trên vùng biển của tổ tiên để lại.

Trong mùa xuân tự do và cường thịnh đó, quê hương Việt Nam sẽ có trường đại học tiêu chuẩn quốc tế, với các hạm đội hải quân trang hiện đại tên Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Hàm Tử, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, với những binh đoàn, phi đoàn trang bị vũ khi tối tân mang tên Chi Lăng, Đống Đa, Nhật Tảo, với những công ty kỹ thuật, những nhà máy công nghiệp, nông nghiệp cao cấp cạnh tranh ngang ngửa với các công ty Nam Hàn, Đài Loan, Nhật Bản.

Trong mùa xuân tự do và cường thịnh đó, quê hương Việt Nam không chỉ có núi đồi, sông biển, ruộng vườn, cây trái nhưng còn là một dân tộc có tâm hồn nhân bản, có trái tim dân chủ, có mục tiêu khai phóng, có đôi chân tiến về phía trước và đôi tay kiến tạo một xã hội thanh bình thịnh vượng cho mãi mãi Việt Nam.

Tôi đã sống một phần đời với nhiều nghiệt ngã nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy phía trước mình là hố thẳm. Tôi học quá khứ nhưng không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.

Ước mơ làm một con én nhỏ trong mùa xuân Việt Nam tự do và cường thịnh vẫn theo tôi từ những ngày 13 tuổi ngủ trọ trong trại cây Thạc Gián, lang thang ngoài Chợ Mai ở Sơn Chà, trong hiên chùa vắng lặng ở Hội An và 33 năm trời qua nhiều nơi trên thế giới. Dù đi bao xa và đời mình đã bao lần thay đổi, mơ ước mùa xuân tự do nhân bản cho dân tộc Việt Nam vẫn không bị vùi lấp trong cuộc sống mới tốt đẹp hơn mà vẫn thức dậy mỗi đêm khuya, khi nghe một chiếc lá rụng, một giọt nước rơi, như nhắc nhở mình để biết thương tuổi thơ, tuổi trẻ Việt Nam và biết yêu đất nước mình hơn.


Trần Trung Đạo

Boston, Xuân 2015
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Trần Quảng Nam và, ‘Mười năm tình cũ’

Du Tử Lê

1.

“...Phần trình diễn ngay sau đây, tôi nghĩ sẽ là trích đoạn vở Nhạc kịch ‘Kim Vân Kiều Truyện’ đi ra từ những vần thơ trác tuyệt của Nguyễn Du,
hòa hợp với dòng nhạc lộng lẫy của Trần Quảng Nam. Theo tôi, vở nhạc kịch: ‘Kim Vân Kiều Truyện’ của họ Trần,
mới thực sự là một công trình nghệ thuật lớn của ông. Một tác phẩm để đời của nhạc sĩ Trần Quảng Nam.

Image
Nhạc sĩ Trần Quảng Nam. (Hình: dactrung.net)

“Tuy nhiên, hẳn quý vị cũng đồng ý với chúng tôi rằng, bất cứ một công trình nghệ thuật lớn lao nào, cũng cần đến sự chung tay, góp sức của nhiều người, để tuyệt phẩm đó có thể đi tới những khoảng không gian bát ngát...

“Tôi muốn nói tới những nhà bảo trợ. Tôi muốn nói, ngoài nhà bảo trợ Mỹ An đến từ Úc châu và nhiều người khác, đã bảo trợ cho chương trình nhạc Trần Quảng Nam hôm nay, tương lai sẽ còn có thêm nhiều nhà bảo trợ khác nữa, giúp cho vở nhạc kịch ‘Kim Vân Kiều Truyện’ của Trần Quảng Nam có cơ hội bay lên tới những đỉnh cao vô tận. Như một niềm hãnh diện Việt về phương diện văn học và nghệ thuật ở hải ngoại này vậy...”

2.

Những ghi nhận ngắn ở phần 1 của bài viết này là nguyên văn phát biểu của tôi trong live show “30 Năm Tình Cũ” của Trần Quảng Nam, ở San Jose, tháng 10, 2013.

Vì không có thói quen nói dài, nên hôm đó, tôi tập chú ghi nhận của tôi vào công trình hay tham vọng đưa toàn bộ vở nhạc kịch “Kim Vân Kiều Truyện” của họ Trần, soạn từ tác phẩm bất hủ “Kim Vân Kiều” của Nguyễn Du, lên sân khấu...

Nhưng, viết về Trần Quảng Nam mà không nói tới ca khúc “Mười năm tình cũ” trong live show “30 Năm Tình Cũ” của họ Trần, tôi cho là một khiếm khuyết - - Mặc dù theo tôi, ca khúc “Mười Năm Tình Cũ” không phải là sáng tác tiêu biểu cho sự nghiệp âm nhạc của Trần Quảng Nam, với trên dưới 200 ca khúc, tính tới hôm nay.

Trả lời một cuộc phỏng vấn của hệ thống truyền hình SBTN cách đây chưa lâu lắm, họ Trần cho biết:

“...Khoảng năm 1983, bằng hữu văn nghệ có đề nghị tôi viết một ca khúc dễ nghe, ăn khách. Một hôm dọn dẹp nhà, tình cờ dở cuốn album thấy hình cô bạn gái cũ, xúc động và nghĩ ra câu nhạc và lời đầu tiên 'Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ,' và những nốt nhạc kế tiếp tuôn trào, tôi hoàn tất bài hát rất mau. Mấy ngày hôm sau, hát cho bạn bè nghe thử và được ngợi khen. Lúc đó tôi có cộng tác với Quán Văn, một quán ca nhạc cuối tuần ở San Jose, đưa cho ca sĩ Ngọc Tú hát và khán giả thích thú. Sau đó tôi thực hiện băng nhạc và mời ca sĩ Lệ Thu hát bản Mười Năm Tình Cũ năm 1985, đầu năm 1986 phát hành...”

Dưới đây là phần ca từ của một ca khúc hiếm hoi, sớm nhận nhiều ưu ái của định mệnh từ bậc thềm thứ nhất của sinh hoạt tân nhạc Việt hải ngoại:

“Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ
Mây bay bao năm tưởng mình đã quên
Như mưa bay đi một trời thương nhớ
Em ơi! Bên kia có còn mắt buồn?
Mười năm cách biệt một lần bỡ ngỡ
Quên đi quên đi mộng buồn bấy lâu
Nhưng em yêu ơi! Một vùng ký ức
Vẫn còn trong ta cả một trời yêu

“Cả một trời yêu bao giờ trở lại
Ôi! Ta xa nhau tưởng chừng như đã
Ôi! Ta yêu nhau để lòng cứ ngỡ
Tình bất phân ly tình vẫn như mơ
Đành nhủ lòng thôi giã từ kỷ niệm
Cho qua bao năm mộng buồn quên dấu
Nhưng sao bao năm ngày dài qua mãi
Trong anh hôm nay thấy tình còn đây

“Mười năm cách biệt tình đành quên lãng
Như mây như mưa bay đi muôn phương
Nhưng em yêu ơi! Một dòng thư cũ
Vẫn còn trong ta một đời cuồng điên

“Mười năm cách biệt hình như em đã
Quên câu yêu thương ta trao cho nhau
Em ơi! Bên kia còn chăng nhung nhớ
Như anh hôm nay thấy mưa trở về
Như anh hôm nay thấy lòng tiếc nhớ
Mười năm không gặp
Mười Năm Nhớ Thương!” (1)

3.

Tôi vẫn nghĩ, mỗi tác phẩm như một con người, luôn có cho nó lộ trình sống, chết riêng. Nói cách khác, tự thân, nó có định mệnh của riêng nó. Và, tác giả, dù muốn cũng chẳng thể can dự...!

Với ca khúc “Mười Năm Tình Cũ,” dường như ngay tự “sơ sinh” đã được định mệnh ưu ái, dành cho nó nụ cười hiếm hoi thân ái...

Ở thời điểm, khả năng tỏa rộng tới mức sau đấy, khiến trung tâm băng nhạc nào cũng phải thu âm ít nhất một lần “Mười Năm Tình Cũ” thì, ca khúc này, là một biệt, biệt lệ. Đấy là một hiện tượng bất ngờ trong lãnh vực âm nhạc của tỵ nạn Việt thời mới nhóm lửa.

Tôi nhớ khoảng giữa thập niên 1990s, ca sĩ Thái Xuân, chủ nhân trung tâm băng nhạc Diễm Xưa, mời tôi đi ăn tối, cho biết, chắc chị sẽ phải cho thu âm bài “Mười Năm Tình Cũ” của Trần Quảng Nam. Tôi hỏi lý do?

Chị nói:

“Trung tâm nào cũng thu bài đó ít nhất một lần, trong sản phẩm của họ, nếu muốn trung tâm mình, gặp được nhiều may mắn... Mặc dù Xuân biết bây giờ Diễm Xưa mới thu thì quá muộn, cũng như đã có quá nhiều người hát...”

Tôi thông cảm với niềm tin nhiều cảm tính của người đứng đầu trung tâm băng nhạc này. Nhưng chính sự kiện Thái Xuân phân vân: Nên hay không nên thu âm “Mười Năm Tình Cũ” của Trần Quảng Nam cho tôi thấy rõ hơn sự khẳng định sống / chết của định mệnh nơi sinh phần của mỗi tác phẩm (dù âm nhạc hay văn chương, hội họa...)

Tuy nhiên, ở mặt nào khác, theo tôi thì, nụ cười thân ái, bất ngờ mà định mệnh dành cho ca khúc “Mười Năm Tình Cũ” của họ Trần cũng góp phần thổi bùng ngọn lửa niềm tin nơi những nhạc sĩ khác. Những nhạc sĩ chỉ chính thức khởi nghiệp sau biến cố tháng 4, 1975, ở xứ người. Nó như kẻ dẫn đường cần thiết cho những bước đi hăm hở, kế tiếp của những đường bay ca khúc mới. (2)

Và, tôi tin, có dễ chẳng nhạc sĩ nào không thầm mong, một lần định mệnh bất ngờ gõ cửa sáng tác của họ, như đã xảy đến với “Mười Năm Tình Cũ” của Trần Quảng Nam vậy!?!

Du Tử Lê,

(Garden Grove, tháng 1, 2015)


Chú thích:

(1) Nguồn: Wikipedia-mở.

(2) Về tiểu sử của nhạc sĩ Trần Quảng Nam, trang mạng Wikipedia-mở đã ghi như sau: “...Trần Quảng Nam sinh ngày 15 tháng 2, 1955 (Ất Mùi) tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Anh học tiểu học tại Đà Nẵng, trung học tại trường Quốc Gia Nghĩa Tử (Saigon), rồi Đại Học Văn Khoa (Anh Văn) và Tri Hành (điện ảnh) trước khi du học Mỹ đầu 75. Sau đó là đại học Long Beach (California). Trong đời hầu như lúc nào cũng có hai mối tình cùng một lúc, đến lúc cố gắng, quyết định chỉ có một mối tình thôi, thì, lúc ấy mới sóng gió và tan vỡ (...) 'Mười Năm Không Gặp' (sáng tác năm 1983 và phát hành 1986) viết về cảm xúc khi nhìn lại hình ảnh một người hiện đang ở Pháp tên là Isabel Hạnh, thêm cảm xúc và hình ảnh của một người khác hiện đang ở Việt Nam. Cả hai người đều đã lớn tuổi và có gia đình. (Trần Quảng Nam) đến với âm nhạc từ lúc nhỏ, 7-10 hay nghe nhạc cổ điển từ máy thâu băng do ông anh đi du học gửi về. Sau học nhạc ở trung học cùng nhạc sĩ Phạm Nghệ và một thời gian ngắn ở Quốc Gia Âm nhạc. Thích sáng tác từ nhỏ nên cứ theo đuổi và tự học hoài... Sáng tác đầu tay của anh là 'Cồn Cát' (1969)...”
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Ông Nội và Cháu Nội

Ông nội là cựu đại úy Việt Nam Cộng Hòa, con trai là đại úy không quân Hoa kỳ, mấy người quen thân gọi đùa cháu là Captain junior. Có hôm buổi sáng ông nội ngủ dậy khệnh khạng bước ra phòng khách, thằng con đang ăn điểm tâm đứng phắt lại giơ tay lên chào "Good morning, Sir!". Ông nội giật mình đứng lại, không suy nghĩ ông nghiêm túc giơ tay lên chào. Miệng lẩm bẩm "Morning Sir!". Cả nhà cùng cười, thằng cháu nội cũng cười.

Bước ra xe, con dâu mang cái túi baby có tã, sữa, quần áo. Bà nội dìu ông nội ra, tay mang một cái giỏ. Con dâu hỏi "Mẹ mang theo gì đó?". Bà nội trả lời "Mang tã, nước và quần cho ba". Thằng con cười:

- Hai ông cháu thiệt giống nhau.

Thằng cháu đái ướt tã khóc đòi thay. Ông nội lí nhí: "Tui muốn thay tã". Con dâu vào phòng vệ sinh nữ trước. Ló đầu ra "Mẹ ! Không có ai". Bà nội dẫn ông nội vào, đẩy nhanh vô phòng toilet đóng cửa lại. Một lúc sau, bà nội đưa ông nội ra nói với con dâu: " Coi chừng ba, cho mẹ vào rửa tay". Xong xuôi, ông nội cũng sạch, cháu cũng sạch. Cả nhà lại đi dạo phố. Con trai cười cười:

- Hai ông cháu cùng vào nhà vệ sinh nữ.

*
Chơi chán cả nhà lên xe về nhà. Thằng cháu nội khóc um sùm không chịu nằm vào ghế baby. Thằng con loay hoay lo cho con nó. Bà nội đưa ông nội ngồi vào ghế trước. Ông nội cũng không chịu lên. Bà nội năn nỉ, ông cương quyết phản đối: "Tui muốn nói chuyện với đồng đội của tui, sao bà kéo tui đi". Thằng con trai hỏi lý do. Bà nội nói là đi ngang mấy người lính Mỹ ngồi uống nước, ông nội đòi ngồi lại đó nói chuyện. Thằng con dụ dỗ: ''Mai con mời họ tới nhà nói chuyện chơi với ba" Ông cương quyết bấu chặt cửa không chịu lên xe. Thằng con gỡ tay bồng ông lên, gài dây an toàn. Xe chạy, ông nội cũng ngủ, thằng cháu cũng ngủ.

*
Thằng cháu nội nhễu, nước miếng chảy lòng thòng. Ai cũng la con dâu: "Lúc có bầu bộ nhịn thèm hay sao mà thằng cu nhểu dữ vậy". Con dâu chỉ cười. Ông nội không còn nhỏ nhưng ông nội cũng nhểu. Ông nội bồng cháu, mặt quay ra đàng trước. Hai tay ông bấu thật chặt sợ cháu té. Nước miếng ông nội nhểu lòng thòng rớt từng dây trên đầu cháu. Cháu nhểu lòng thòng rớt từng dây trên tay ông. Bà nội chạy lại lau cho cả hai:

- Ông nội và cháu nhểu giống nhau.

*

Thằng cháu đứng chơi trong trong cái xe đi trẻ em. Chơi chán, nó muốn ra ngoài. Cháu la và khóc. Ông nội đang nằm bật dậy, chạy ra. Ông lại gần bồng cháu lên. Hai tay ông bíu chặt vào nách cháu lôi ra. Cháu vùng vẫy, Ông cố sức nắm. Hai bàn tay ông cuối cùng chỉ còn nắm chặt cái áo, Cháu gần rơi xuống đất. Bà nội chạy lên. Kịp thời chụp cháu. Bà nội hết hồn. Ông phân bua: "Con ai mà bỏ khóc um sùm, thiệt là tội".

- Thì ra ông còn ngái ngủ, không biết thằng bé là cháu mình.

*
Thằng cháu nội tắm trong cái bồn tắm nhỏ xíu trẻ em. Nó thích lắm, hai tay đập vào nước cười ngây thơ. Xong xuôi, cháu được lau sạch thay đồ. Con dâu nói: ''Mẹ! con xong rồi". Bà nội đem ông nội vào phòng, kéo cái ghế để vào bathtube cho ông ngồi rồi xối nước tắm rửa, kỳ cọ. Ông đưa tay vuốt mặt nói: "Mát quá! Mát quá". Bà nội tắm ông xong, lau sạch, thoa lotion và thay đồ. Ông ra ngoài, cháu đang nằm ngửa chân đạp lòng còng. Ông được dìu vào giường. Ông nằm yên, hai chân cũng nằm yên;

- Hai ông cháu sau khi tắm giống nhau.

*
Con dâu đút cho cháu nội ăn từng muỗng baby food. Cái yếm đeo trước ngực. Cháu vừa ăn vừa chơi. Thỉnh thoảng lắc đầu không chịu cho đút. Con dâu ngọt ngào: ''Giỏi nè, giỏi nè." Bà nội cũng dìu ông nội lại bàn, kéo cái ghế ngay mông ông rồi kéo ông ngồi xuống. Bà nội lấy cái tạp đề mang vào cổ cho ông rồi đút cơm cho ông ăn. Ông đôi lúc cũng lắc đầu không chịu nuốt. Bà nội năn nỉ: ''Ăn đi ông, còn vài muỗng nữa thôi. Giỏi đi ông".

- Khi ăn, ông và cháu cũng giống nhau.

*
Ông muốn bồng cháu nhưng tay ông bấu chặt quá, cháu đau, cháu khóc. Bà nội đem ông vào phòng, cho ông nằm xuống rồi đặt cháu nằm một bên. Cháu nằm trên tay ông, chân quơ lung tung, tay cầm đồ chơi bỏ vào miệng cạp liên tục. Bà nội ngồi nhìn hai ông cháu. Ông đã ngủ khò, còn cháu cứ ê a.

- Bà nội mắt cay xè, muốn khóc.

*
Thằng con nhận lệnh qua Ý công tác 3 năm. Cả nhà làm tiệc tiển đưa. Vợ chồng thằng con buồn, nước mắt ngân ngấn mi, nghĩ mấy năm xa nhà, nghĩ cha già thế này có chuyện gì không biết có về kịp không? Thằng cháu nội vẫn cười, bi bô những âm thanh không rõ tiếng. Bà nội nắm tay ông nội lại gần con nói: ''Con nó muốn nói với ông trước khi đi nè". Ông cười cười: ''Nói gì! Đi đâu? Ừ đi chơi vui vẻ". Xong ông đi vào phòng ngủ. Chả biết ông có buồn hay không. Chỉ biết khi bà nội vào phòng ông đã ngủ khò. Thằng cháu nội nằm trong ghế cũng ngủ khò.

- Hai ông cháu ngủ giống nhau.

*
Từ đất Ý, thằng con mở Webcam nói chuyện. Thằng cháu nội đã biết ngồi, đã bập bẹ âm thanh ba ba. Bà nội dẫn ông vào phòng, kéo ghế cho ngồi để nhìn con, dâu và cháu. Hỏi ông: ''Biết ai không ông?". "Biết chớ, người quen". Bà nội chỉ cháu và hỏi: ''Ông biết thằng đó không?". Ông nội trả lời mạnh mẽ: ''Biết chớ sao không. Nó là bà con chú bác của tui mà". Ông đưa tay rờ rờ màn hình. Bên kia thằng cháu cũng đưa tay quơ quơ. Bà nội muốn khóc.

- Hai ông cháu cùng trẻ con như nhau, không ai biết ai.

* * *
Vậy đó, ông nội và cháu có nhiều điểm giống nhau. Cháu sẽ lớn, sẽ trưởng thành. Ông một ngày nào đó sẽ ra đi. Bà nội nhìn ông mà nhớ cháu. Hạnh phúc của ông bây giờ là sống vô tư như trẻ con. Hạnh phúc của bà bây giờ là không còn giận hờn mà con tim đầy ắp những yêu thương và bổn phận.

Thế là thời gian trôi qua nhanh chóng, thằng cháu nội theo cha mẹ công tác bên Ý đã được 2 tuổi.

Cuối tháng này là sinh nhật cháu tôi. Đứa cháu trai duy nhất trong gia đình. Đứa cháu nội mà tôi thương nhất. Chẳng phải tôi thiên vị vì nó là con trai hay là vì nó là cháu nội. Mà vì nó ở quá xa. Nó lớn lên từng ngày không có tôi bên cạnh. Nhiều khi nhớ quá muốn ôm nó vào lòng mà hai tay trống rỗng. Muốn đi thăm nó thì ông chồng già chẳng biết bỏ cho ai. Thằng con trai cứ năn nỉ, "Má ơi! Qua đây một chuyến. Con sẽ đem má đi khắp Âu Châu cho biết với người ta." Tôi cười cầu tài nói cho con yên lòng. Nhìn ông chồng đau yếu mà thương. Thôi đành thúc thủ.

Nhìn ông chồng ngày càng yếu để thấy sự đào thải của thời gian và thân phận của kiếp con người.

Ngày xưa, lúc cháu được vài tháng tuổi, mỗi lần đi đâu con dâu đem một giỏ tã, sữa cho con, còn bà nội cũng lè kè một túi cho chồng. Mỗi khi cần vào phòng vệ sinh thay tã, bà nội lại nhờ con dâu xem chừng phòng nữ có vắng hay không rồi đem chồng vào làm vệ sinh. Xong xuôi cháu cũng sạch mà ông cũng sạch.

Bây giờ cháu đã bỏ tã, nó mặc quần lót đàng hoàng. Lần đầu tiên bỏ tã, trên webcam con trai bảo nó kéo quần xuống cho nội xem. Nó mừng rỡ chỉ cái quần lót hình Superman bí bô khoe. Bà nội chẳng hiểu cháu nói gì, chỉ cười cười. Thương quá đỗi!

Còn ông nội, ngày xưa chỉ mang tã lúc đi đâu hay những lúc cần. Bây giờ ông phải mang tã cả ngày vì ông cũng không biết lúc nào mình cần giải quyết. Những ngày quan trọng cần thiết, bà nội mang khẩu trang, đeo găng tay làm y tá giải quyết những cục nợ đời hôi tanh mà ông không có sức rặn ra. Những ngày đó tã thay không biết bao nhiêu cái.

Bây giờ cháu đã biết đâu là phòng vệ sinh để vào, còn ông thì phòng vệ sinh ngay trước mặt cũng không biết mà vô, bà nội nắm tay ông lôi vào và làm từ A tới Z.

Cháu bây giờ đã biết bắt ghế đứng lên tự đánh răng. Còn ông nội thì bà nội phải đưa ly vào miệng cho ông từng ngụm nước. Bỏ kem vào bàn chải và giúp ông đánh răng. Xong lau mặt, lau tay đưa ông ra khỏi phòng.

Kết luận bây giờ, hai năm sau cháu đã vượt qua mặt ông cái vù về phương diện vệ sinh cá nhân.

Cháu bây giờ đã biết ngồi ăn chững chạc dù mẹ phải đút, bởi không đút là cháu ham chơi ăn không no. Cháu tự múc ăn khi nào đó là ăn chơi hay cháu thật đói. Còn ông thì bây giờ hoàn toàn không chủ động. Đút gì ông ăn đó, ăn xong thỉnh thoảng càm ràm bà nội, "Sao từ qua tới nay không cho tui ăn."

Cháu bây giờ rất gọn gàng không cần khăn, còn ông nội thì phải một cái khăn lót ở dưới để hứng thức ăn rơi. Một cái khăn nhỏ ở trên để lau miệng.

Ngày xưa cháu đi tắm phải có cái thau riêng, cháu nằm trong đó cho mẹ kỳ cọ. Bây giờ cháu có thể đứng trong bathtub cho cha, mẹ thoa xà bông và xịt nước ấm.

Còn ông nội giờ này vẫn tệ như xưa. Càng tệ hơn sau khi xong xuôi, bà nội bảo giơ chân lên để mặc tã, ông cũng đứng im. Những giọt nước miếng cứ nhểu lòng thòng rơi trên đầu bà nội. Khi bà vỗ vỗ vào chân ông, nói, "Chân này nè ông, giơ chân lên!" thì ông mới giơ chân lên. Có hôm ông giật mình kéo mạnh chân tống vào càm bà nội bầm một cục.

Ờ mà còn cái vụ nhểu nữa. Cháu bây giờ ngon lành hơn ông nhiều. Cháu hết nhểu, đẹp trai ra, biết nhận diện đâu là mắt, mũi, miệng. Còn ông nội thì càng ngày tốc độ nhểu càng trầm trọng. Không có thuốc men hay phương pháp gì chận lại. Bà nội dùng kim gút gài một cái khăn bên áo để bà nội chùi cho ông để khỏi chạy đi tìm. Ông không thích cái khăn lòng thòng nên giựt tét cả áo, đứt kim băng. Bà nội phải mặc ngoài một cái áo che lại. Khi cần bà lôi khăn ra lau, xong nhét lại. Thế nhưng nước miếng ông vẫn nhểu dài theo nền nhà theo mỗi bước chân đi. Bà nội lúc nào cũng chuẩn bị khăn lau nhà. Thỉnh thoảng bà lại đạp khăn dưới chân xóa đi dấu vết cho đỡ trơn trợt và cũng để mấy đứa cháu ngoại khỏi gớm.

Cháu nội hôm nay đã có bạn, biết các trò chơi và tung tăng như chim sáo. Còn ông nội thì càng ngày càng quên, càng lẩm cẩm.

Mỗi khi đi đâu bà nội nắm tay ông tình tứ như một cặp tình nhân. Nhưng thực ra là giữ ông cho khỏi đi lạc. Ông rất thích tự do. Ờ mà tự do ai không thích. Nhưng tự do trong trật tự. Thế nhưng ông nội nào biết trật tự là gì. Buông tay ông ra là ông đi, không cần biết điểm đến và đi đâu. Bà nội lạc ông mấy lần nên sợ lắm. Bà giữ tay ông trong bàn tay già yếu nhăn nheo. Thế nhưng đôi khi ông gặp một người không quen, ông vẫn nhào tới nói không ra lời hay lôi bà nội chạy theo họ. Ông la, "Bạn tui, bạn tui." Bà nội biết tẩy của ông nên ngọt ngào dụ dỗ, ''Biết rồi! Họ ra xe đợi mình đó. Đi chợ xong mình sẽ gặp," có vậy ông mới chịu nghe lời và đi theo bà.

*
Cháu nội bây giờ đã biết nghe lời cha mẹ. Mỗi khi làm điều gì sai, mẹ cháu bắt xin lỗi, nhận được gì cháu biết cám ơn. Cháu đã bắt đầu học để nhận biết đúng, sai. Còn ông nội tháng ngày trôi qua ông nội càng mù mịt đúng sai. Cái gì ông muốn là ông làm, ông không muốn thì đừng hòng ép. Khi cần ông đứng lại thì ông đi. Khi muốn ông đi thì ông đứng yên một chỗ. Kéo ghì không nhúc nhích. Năn nỉ một hồi ông mới chịu cho kéo đi. Khi cần ông nói thì ông làm thinh hoặc tiếng không thoát ra ngoài, chỉ lầu bầu, lịch phịch theo nước miếng. Nhưng khi ông nói chuyện với những gì ông thích hay bạn bè ảo tưởng của ông thì ông nói ra tiếng, mạnh mẽ và đầy sức sống.

*
Cho nên hai ông cháu đã đi ngược chiều với nhau, không còn giống nhau như xưa.

Mỗi khi vào Webcam nói chuyện, cháu chỉ trên màn ảnh "Bà nọi, bà nọi. My bà nọi." Còn ông chỉ nhìn cháu như nhìn một cái gì lờ mờ không quen biết. Cặp mắt lơ đãng, ánh nhìn tỉnh khô, môi xệ xuống, nước miếng lòng thòng chảy ra.

Tuy nhiên hai ông cháu cũng có điểm na ná giống nhau là dỗi hờn.

Khi cháu dỗi cháu lăn xuống đất nằm đạp lòng còng. Cha, mẹ cháu kêu đứng dậy và bảo xin lỗi, nếu không sẽ phạt time out.

Còn ông nội, ông hay hờn mát. Mỗi khi như vậy ông bỏ đi nằm và bỏ ăn.

Cả nhà năn nỉ, dụ ngọt cả buổi trời ông mới ngồi dây ăn uống.

Chỉ hai năm thôi, hai năm trôi qua cho thấy một lực hút cuốn mọi người xoay chóng mặt. Đứa cháu ngày nào mới biết lật giờ đã là một cậu bé dễ thương tinh nghịch, ngây thơ. Cháu đang học mọi thứ để tập sự những ngày bước vào trường mầm non.

Còn ông thì mòn hết mọi thứ để đi vào con số không của cuộc đời. Ông như một cây đã cạn hết nhựa. Sống trong một trạng thái mơ hồ và làm theo quán tính của mình.

*
Thằng con trai vừa sinh thêm một đứa con gái. Đứa con gái đẹp như một con búp bê. Khi đứa con dâu sinh xong, thằng con chụp hình gửi về, rồi vào Webcam nói chuyện. Bà nội vui lắm khi nhìn con bé thật dễ thương nằm gọn trong lớp khăn xinh xắn.

Đứa con trai bồng con giơ giơ trước mặt ông nội:

- Ba biết ai không ba?. Cháu nội ba nè.

Ông nhìn cháu hai mắt lim dim, nước miếng chảy có dây ậm ừ:

- Cái cục gì đen đen vậy bà?

- Cái ông này nói kỳ. Bé Hạnh cháu mình đó. Bà nội vội trả lời

Ông làm thinh dường như mọi sự việc chẳng có gì liên quan đến ông. Đứa cháu gái hay cháu trai cũng không còn quan trọng.

Thỉnh thoảng ông cũng không nhớ bà là ai, ông cũng không phân biệt hai đứa cháu ở chung nhà đứa nào là chị đứa nào là em. Ông cũng không nhớ cháu ông tên gì. Cả đứa con gái đầu lòng ngày xưa ông rất mực yêu thương, thỉnh thoảng ông cũng không nhận ra và gọi là chị.

Thằng cháu nội ngày nào giờ đã được đi học ở thư viện trong base của quân đội. Cháu được dạy và chơi các môn thể thao. Cháu đã biết đếm từ 1 đến 40 bằng tiếng Mỹ và đếm 1 đến 10 bằng tiếng Việt Nam.

Còn ông nội bây giờ nói ông thử đếm xem. Bà nội đưa những ngón tay lên để đố, ông chỉ cười cười không trả lời. Không hiểu ông có biết hay ông chả thèm để ý chi ba cái chuyện đố ai lặt vặt trẻ con của đàn bà con gái.

Thằng cháu nội nhìn ông trong webcam và nói:

- Ông nội, ông nội. Ông nội nhểu giống em bé. Ông nội hư quá.

Ông nội bây giờ hư thật, ông sống trong thế giới của riêng ông và những thói hư tự dưng bây giờ xuất hiện.

Người ta nói đó là những thay đổi tâm tính của người già. Ông lúc nào cũng coi đồng tiền quan trọng lắm. Lúc nào cũng khư khư cái giỏ trong đó có cái ví tiền mà ông giữ thật cẩn thận.

Mỗi sáng ông lấy ra đếm đi đếm lại những đồng tiền mới mà bà nội để vào ví cho ông. Những giọt nước miếng chảy xuống làm ướt nhẹp mấy đồng tiền nằm trên. Ông cẩn thận xăm soi rồi lại bỏ vào. Như đứa bé chơi đồ chơi lấy một nón đồ chơi rồi bỏ vào trong hộp. Lại lôi ra chơi tiếp.

Ông hay sợ mất tiền và hay than hôm nay bị ai đánh cắp mấy trăm. Ông dấu kín dưới gối, kẹt tủ rồi lại hoảng loạn đi tìm vì không biết ở đâu. Ông kêu lên đầy lo lắng.:

- Gói tiền và giấy tờ để làm hồ sơ đi Mỹ đã bị đánh cắp rồi. Mình làm sao lên máy bay?

Vậy đó, ông nội lại trở về quá khứ để sống, còn cháu nhìn về tương lai để lớn lên. Cháu lớn từng ngày và mỗi ngày mỗi hiểu biết thêm một chút để bỏ xa ông nội đằng sau.

Bây giờ ông nội lại sắp hàng giống con em nó là con bé mới sinh được 5 tháng tuổi. Cũng mang tã, cũng ngu ngơ không biết gì như nó mấy năm về trước.

Tôi nhìn ông chồng tội nghiệp của tôi mà suy gẫm ra nhiều thứ.

Trên con đường đời của luật tử sinh vòng xoay bất biến, con người luôn đi theo một vòng tròn.

Khi đứa bé sinh ra bắt đầu bằng tã, sữa. Niềm vui là được bú no, ngủ cho yên giấc. Đứa bé lớn dần học nhiều thứ để trưởng thành. Để biết tham lam muốn cái này cái nọ. Để biết tìm cách lấy phần hơn về cho mình và trưởng thành để tự lập một đời sống riêng tư. Cái tuổi thành niên đến giai đoạn tráng niên là phải vật lộn với đời sống, với mưu sinh. Con người tốt hay xấu, danh vọng hay nghèo nàn, có nhân cách và đạo đức hay không là do mình tạo ra trong giai đoạn này.

Đến lão niên cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Tuổi đời chồng chất, đấu tranh mòn mõi, luật đời đào thải, cơ thể đào thải để cuối cùng cũng chỉ trở lại với tã và sữa.

Đứa bé là một sinh vật trong trắng, thơ ngây. Tã và sữa là những thứ cần thiết để đứa bé lớn lên và phát triển.

Người già là một cơ thể đã hết rồi nhựa sống. Trang sách đời đầy những dấu vết đau thương và tội lỗi. Nên ngoài tả sữa còn mang cả một quá khứ ở tâm hồn và đau đớn ở thân xác. Vì vậy đôi khi họ rất khó tính và câu chấp thiệt hơn. Cái vòng tròn khi về điểm cuối bao giờ cũng nhạt nhòa và mất dần đi nét vẻ đẹp ban đầu. Tất cả rồi sẽ nhập lại để hủy diệt. Để trả lại cái thân xác cho đất, nước lửa và không khí. Để sau đó một mầm sống mới vươn lên của vòng sinh tử, tử sinh bắt lại từ đầu.

Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.

Rất may ông và cháu đều được sống, được là công dân của một đất nước coi trọng người già và trẻ con. Một nước Mỹ tân tiến có nhiều quyền lợi ưu tiên cho cả ông và cháu. Cháu được xã hội nâng niu vì là mần non của đất nước. Cháu được tạo mọi điều kiện để sức khỏe và trí tuệ phát triển đến mức tối đa. Cháu sẽ trưởng thành để góp phần vào sự phồn vinh của đất nước, một người công dân xứng đáng trong xã hội.

Ông được xã hội trân trọng vì đã đóng góp ít nhiều cho xứ sở này. Một đất nước nhân bản coi trọng mỗi cá nhân. Những người già được quan tâm và hưởng những phúc lợi cần thiết để bảo vệ sức khỏe của mình. Để những ngày cuối đời là những ngày hạnh phúc và đáng sống.

Tôi cám ơn nước Mỹ vô cùng đã cho gia đình tôi có cơ hội sống và làm việc. Đã cho chúng tôi có một chỗ thật bình yên và an lành. Cho chúng tôi khi tuổi già không lo cơm áo gạo tiền, vật lộn với đời sống để kiếm miếng ăn. Nếu tôi còn ở VN ông chồng tôi chắc đã ra đi từ lâu lắm... Tôi sẽ không đủ khả năng để lo cho chồng như hiện nay Vì với một sức khỏe cạn kiệt sau bao nhiêu năm trên trại tù Việt Bắc. Bao nhiêu những ám ảnh quá khứ và hiện tại anh sẽ không thể nào đủ sức vượt qua.

Ông trời đã cho chồng tôi sống sót sau bao nhiêu năm tù tội gian lao. Đã cho chàng cùng tôi sang đây để xây lại một mái gia đình hạnh phúc. Và bây giờ đã cho chàng ở bên tôi hàng ngày, hàng giờ như tôi đã từng ước mơ, cầu nguyện.

Ông trời đã đùa với tôi. Ổng háy một bên mắt và cười: "Con ạ! Con xin gì ta đã cho con điều đó. Con ước nguyện cho chồng con sống sót trở về. Con cầu nguyện có chồng một bên không rời xa dù cực khổ bao nhiêu con cũng chịu. Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con hàng ngày, hằng giờ không bao giờ chia cắt. Con hãy trân trọng những đặc ân ta ban cho con. Chúc con hạnh phúc."

Và thế, tôi ôm lấy niềm hạnh phúc ơn trên ban cho tôi và giữ lấy nó bằng cả trái tim.

Trái tim của một người phụ nữ Việt Nam yêu chồng.

Nguyễn thị Thêm
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Giấc Mộng Về Hưu

Bà lìa đời đúng vào ngày ông chính thức nghỉ việc để về hưu, chắc bà muốn hưởng nhàn một mình một cõi nơi bên kia thế giới, để lại giấc mộng nghỉ hưu mà ông đã lên kế hoạch từ lâu, nay chỉ còn một mình ông với nỗi buồn ngơ ngẩn.

Đứa con trai duy nhất của hai ông bà từ tiểu bang khác dẫn vợ con về lo tang lễ của mẹ xong, đã đề nghị ông về ở với chúng , để cha con , ông cháu đoàn tụ , để ông nương tựa lúc tuổi già. Lời đề nghị rất hợp lý hợp tình, nhưng điều này ông chưa hề nghĩ tới, cả một đời vất vả làm việc, ông chờ đợi cái ngày được nghỉ hưu này để rong ruỗi đó đây, hay để nằm nhà hưởng nhàn, đọc sách báo, coi ti vi, và lên internet là cả một cái thư viện khổng lồ để mở mang kiến thức.

Ông từng mơ hai vợ chồng sẽ đến New York vào mùa đông, sau những bữa dinner với. rượu vang chếnh choáng, ông bà trở về phòng trọ ấm cúng, ngoài kia tuyết rơi, gió lạnh, điều ấy không ảnh hưởng gì đến ông cả, vì ông có phải thức dạy đi làm nữa đâu, ông cứ việc ngủ chán chê, muốn dậy lúc nào thì dậy, rồi ông sẽ vén màn cửa sổ nhìn xuống đường, trong mùa Đông rét mướt kia có bao nhiêu kiếp người đang lao vào cuộc sống, đang tính toán từng giờ từng phút để nghỉ ngơi, để làm việc.


Ông buồn thật, nhớ bà, nhớ những bữa cơm, giấc ngủ, những lúc bà hiền dịu, và cả những lúc bà đanh đá mắng mỏ ông. Sự mất mát, đau thương còn mới quá, ông chả biết làm gì cho hết một ngày, thì về với gia đình thằng con trai vậy..

Nhà có hai vợ chồng với hai đứa con, thêm ông nữa là năm người, ra vào gặp nhau cũng thấy vui. Nhưng chỉ mấy ngày đầu thôi, dần dần ông biến thành baby sit cho nhà nó, trông hai đứa cháu nội, đưa đón chúng đi học, chúng muốn ăn cơm, uống sữa cũng gọi ông, chúng vô bathroom cũng gọi ông…Ăn uống thì con dâu ông quyết định, ông thèm ăn cơm với thịt kho mắm, thì nó bảo món ấy hôi nhà, mời bố ăn món khác. Con dâu còn gợi ý khi thấy ông tha thẩn một mình: nếu bố rảnh rang, buồn chân buồn tay không biết làm gì, thì bố cứ việc hút bụi nhà hay ra vườn cắt cỏ, vừa giết thời gian vừa được việc bố ạ

Trời ơi, con trai và con dâu coi như đời ông đang tàn, ở đây làm việc vặt cho nó rồi chờ chết hay sao? Thời gian nghỉ hưu của ông là vô giá, không tiền bạc nào mua nổi, ông cần dùng nó để vui hưởng, đâu có dư thừa mà phải tìm cách giết nó như con dâu ông đã tuyên bố.

Một tuần sau ông giã từ gia đình thằng con để trở về ngôi nhà của chính ông.

Ông bắt đầu lại cuộc sống độc thân khi tuổi đời đã 66, là một người khoẻ mạnh và nhiều tình cảm, ông muốn về thăm lại Việt Nam sau 25 năm xa cách., 25 năm qua hai vợ chồng ông cùng làm việc chăm chỉ, chẳng những đã giúp cho con trai một món tiền mua nhà khi nó cưới vợ, ông bà cũng có một căn nhà, một ít vốn, và lương hưu này nọ của ông, cộng với 401k…mỗi tháng gần 2000, tha hồ cho ông hưởng một cuộc đời phong lưu.

Về Việt Nam , ông ở chơi dưới quê với bà con họ hàng vài tuần rồi lên thành phố Sài Gòn thuê khách sạn, nơi đây là chốn cũ , những con đường, những khu phố, đầy ắp kỷ niệm. Ông như thấy mình trở lại thời trai trẻ, quán cà phê nào ông đã từng hẹn hò, cơn mưa nào còn đọng lại trong hồn ông những vũng nước, những vết bùn của bước chân vội vàng chiều cuối phố ?

Những ngày xưa đâu? Những mối tình ngắn dài đâu? Ông bâng khuâng bước vào một quán nước mong tìm lại chút hương vị ngày xưa. Nhưng nay đổi khác quá, các cô gái phục vụ trong quán vây quanh ông, chẳng hiểu sao họ biết ông là Việt Kiều nên rối rít hỏi thăm đủ chuyện, lòng ông tràn trề niềm vui và hãnh diện, ông đâu có ngờ ở tuổi này còn được các cô săn đón chiều chuộng như thế! Họ gọi ông bằng anh và xưng em ngọt xớt. Có một cô xinh nhất đám tiếp chuyện ông lâu nhất, đôi mắt cô liếc, đôi môi cô cười, dù ông luôn khẳng định cô chỉ ở hàng con cháu, mà sao cô vẫn là những ngọn sóng làm ông phải chòng chành chao nghiêng.

Ngày nào ông cũng đến quán để gặp cô gái xinh đẹp đó, cô thì thầm tâm sự với ông, cô tên Bưởi, một cô gái quê con nhà nghèo, phải tha hương lên Sài Gòn bán quán để kiếm tiền nuôi cha mẹ già, em nhỏ. Cô tha thiết mong được làm vợ ông, sang Mỹ sinh sống để hầu hạ ông.

Vốn hiền lành, thật thà, tin người như tin mình, ông nghe cảm động quá, lấy cô, vừa cứu được một kiếp người vừa có một cô vợ trẻ đẹp. Từ ngày vợ mất đôi khi ông cũng thấy lòng trống vắng, cô đơn, cũng mong muốn có bàn tay người đàn bà ấp ủ.

Thế là ông theo cô Bưởi về quê ra mắt cha mẹ vợ tương lai và làm đám cưới.

Mối tình không biên giới kể cả về tuổi tác và khoảng cách địa lý, chỉ sau 9 tháng đã thành sự thật, cô Bưởi được sang Mỹ đoàn tụ với chồng.
Được vui duyên mới ông đã chịu nhục nghe thằng con trai gọi phone sang đay nghiến, ông già rồi mà còn mê gái, vợ con gì cái thứ gái bia ôm đó! và câu kết luận của con trai là từ bố luôn.

Thôi đành, ông thương con thương cháu, nhưng ông cũng phải thương chính cái thân ông chứ.

Từ nay ngôi nhà ông lại ấm cúng vì đũa đã có đôi, dù là đôi đũa lệch, ông phải tân trang lại ngoại hình, nhuộm tóc đen, làm răng giả, mặc quần jean áo thun và cả cách ăn nói cho trẻ trung để thích hợp với cô Bưởi. Ông chợt khám phá ra một báu vật vô giá ông đánh mất từ lâu mà không biết, đó là hai chữ “tự do”, vợ ông từ giã cõi đời cũng đồng nghĩa là mang trả lại cho ông sự tự do mà bà đã nắm trong tay suốt bao nhiêu năm qua.

Ông tung tăng dẫn cô Bưởi đi phố, đi chợ, đi chợ Mỹ thì không sao, vì chẳng ai để ý đến vợ chồng ông cả, nhưng vào chợ Việt Nam , sao người Việt Nam mình tinh đời thế, ông bắt gặp những cái nhìn tò mò, châm biếm như muốn nói ông già mà còn ham lấy vợ trẻ. Ông đưa cô đi shopping ở Walmart mà cô đã hoa mắt lên, khen quần áo tiệm này sang trọng quá, cô Bưởi vui sướng bao nhiêu lòng ông hạnh phúc bấy nhiêu.

Một năm trôi qua, ông vẫn thấy hạnh phúc còn mới mẻ, nhưng cô Bưởi thì không, cô đã biết chê đồ Walmart rổm, chê nhà hàng nọ không ngon, cô đã biết đánh giá cũng là cái xe hơi 4 bánh nhưng loại nào sang hơn, đẹp hơn. Ông chiều cô vợ trẻ , sắm cho cô một xe hơi đời mới đắt tiền, rồi cô đòi đi làm, ở nhà hoài chán quá, cô cần có tiền để mua sắm thêm và giúp đỡ cha mẹ ở Việt Nam . Ông yêu cô, không muốn dời cô chút nào, lương hưu ông dư sức nuôi cô ở nhà với ông suốt đời. Nếu để cô đi làm hãng xưởng ông sợ có ngày mất vợ vì mấy thằng Mễ khoẻ mạnh đẹp trai, may quá cô đòi học làm nail, nghề nail có mấy thợ là đàn ông! Còn khách hàng thì toàn là phụ nữ.

Mộng cô đã thành, cô Bưởi đi làm nail, bản tính dạn dĩ xông xáo, chỉ trong vòng một năm mà cô bay nhảy hết tiệm này sang tiệm khác đến mấy lần, cô đi làm từ sáng đến tối, để ông ở nhà thui thủi và mong ngóng cô như trẻ mong mẹ đi xa về, ông chẳng thể nào kiểm soát được giờ giấc của cô, hôm thì cô nói khách đông, hôm thì cô bận đi shopping với bạn bè…đó là những lý do cô thường xuyên về trễ.

Để níu chân cô vợ trẻ, ông muốn có 1 đứa con cho vui nhà vui cửa, đàn bà khi có con thì sẽ chín chắn hơn. Cô Bưởi ngày càng ăn diện, quần áo đồ hiệu lộng lẫy, còn những quần áo cô sắm ở Walmart trước kia bây giờ thành rẻ lau hay đem cho Goodwill rồi, cô bĩu môi chê ông nhà quê không hợp thời, cô ít sánh đôi với ông, ông chỉ còn mỗi một ưu điểm mang ra khoe là anh yêu em vô bờ bến, cả đời anh dành cho em đây.

Khi cô Bưởi báo tin đã có thai, ông mừng quýnh quáng hơn cả ngày xưa vợ ông đã mang thai thằng con trai cưng duy nhất của ông, rồi cô sinh một thằng cu tí mà cô nói rằng nó giống ông như đúc.

Từ ngày có baby nhà cửa vui thật, ông bận rộn tưng bừng, hết pha sữa lại thay tã, bế con, ông đứng ngồi không yên mỗi khi nó gào khóc, còn mẹ nó lại đi làm nail đến tối mịt mùng mới về nhà như cũ.

Nhưng một ngày cô Bưởi không về nữa, ông đợi cô trắng đêm, sáng hôm sau ông lục lọi mọi ký ức để đoán xem cô đang làm nail ở tiệm nào, vì những chủ tiệm nail đều là người Việt Nam nên ông ngại chẳng ra mặt bao giờ và vì cô Bưởi không cho phép. May quá, ông đã đến đúng chỗ, một cô thợ nail nói Betty chơi thân với cháu, Betty tâm sự vì cha mẹ ngăn cản nên Betty phải trốn đi cùng người yêu để xây tổ ấm rồi.Thế hai bác không biết Betty đang yêu Tư Chuột à?

Ông ngẩn người, chết đứng ra, vợ ông Nguyễn thị Bưởi đi làm nail với tên Mỹ là Betty đã đi theo thằng Tư Chuột , ông đau đớn vì mất vợ mà cô này tưởng ông đau đớn vì mất con càng làm ông bối rối, ông hỏi một câu vụng về:
- Tư Chuột là thằng phải gió nào thế? cái tên Tư Chuột thấy mà ghê thì bà nào dám đến làm nail?

Cô gái cười giải thích tên Mỹ nó là Peter, tên Việt Nam là Tư, mặt nhọn hoắc như mặt chuột nên tụi cháu gọi thế .

Ông về nhà đành làm thân gà trống nuôi con, giận vợ nhưng con ông có tội tình gì, ông càng thương con hơn... Thằng bé 8 tháng tuổi, mập mạp khoẻ mạnh, bú vèo một cái hết bình sữa, chắc nó biết thân phận không có mẹ chăm sóc nên chẳng nỡ làm khó dễ cha già, nhưng mỗi lần ông thay diaper cho nó thì nó chẳng biết điều tí nào, hai chân nó vung vẫy lung tung làm ông lọng cọng dán mãi mới xong miếng băng keo…

Ông lo lắm, nếu cô Bưởi đi luôn không bao giờ trở lại thì sao? Ông tưởng tượng một ngày nào ông ngã bệnh, yếu đuối, phải vào Nursing home, thằng cu tí phải vào một nhà trẻ từ thiện nào đó, hai cha con sẽ là hai phương trời cách biệt. Ông thương cu tí quá, đành phải nhịn nhục mà kêu gọi cô Bưởi về thôi, ông liền đăng lên báo mục nhắn tin tìm vợ ‘Bưởi em, ở đâu về gấp, anh sẽ bỏ qua mọi chuyện để chúng mình cùng lo cho con”

Ông hi vọng và chờ đợi cô Bưởi hồi tâm trở về, có một cú phone gọi cho ông, nhưng không phải cô Bưởi mà là bạn cô Bưởi, cái người ông đã gặp ở tiệm nail trước kia, cô hỏi địa chỉ đến nhà thăm ông, lần này cô tỏ ra hiểu chuyện:
- Cháu xin lỗi bác, lần trước cháu tưởng bác là bố của Betty, nay có người nói với cháu bác là chồng nó, đọc lời nhắn tin tìm vợ của bác trên báo thấy tội cho bác quá, nên cháu đến đây để cho bác biết cái thằng con mà bác đang nuôi đó không phải là con của bác đâu.

Ông lắp bắp:
- Tại sao cô biết nó không phải là con tôi?

Cô ta khẳng định:
- Betty nói với cháu mà, bác xem, mặt thằng nhỏ giống Tư Chuột y khuôn, hai mắt lồi đen, cái mặt nhọn hoắc.

Ông mở to mắt nhìn thằng bé, nó đang nằm cười toe toét, đâu biết mình đang là cục nợ trong ngôi nhà này. Trời ơi! Đúng quá, cô Bưởi cứ nói nó giống ông, nhưng mắt ông đâu có lồi, mặt ông đâu có nhọn thế kia, ông mê mẩn, mù quáng quá, ngày nào cũng ở bên nó mà không nhận thấy sự khác biệt này.

Khi cô làm nail về, ông gục đầu xuống bàn , tức giận và đớn đau !

Hôm sau tỉnh trí , ông lại bỏ vài chục đồng để đăng lời nhắn tin khác trên báo:
“Hai cháu Bưởi và Tư Chuột ( tức Betty và Peter) ở đâu về gấp để đoàn tụ với con của hai cháu là thằng Cu Tí .Chúc hai cháu trăm năm hạnh phúc”.

Lần này thì cô Bưởi lên tiếng, ông nhận được lá thư của cô vài dòng ngắn gọn:
“Đúng thằng cu Tí là con của cháu và anh Tư Chuột, nhưng Tư Chuột đã bỏ cháu, cháu cần rảnh tay để làm lại cuộc đời đầy hoa mộng phía trước, bác đã mang cháu qua Mỹ, mong bác hãy làm ơn cho trót, nuôi thằng cu Tí, để hủ hỉ cùng bác lúc tuổi già xế bóng. Cám ơn bác”.

Nguyễn Thị Thanh Dương
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Định mệnh và Tình yêu trong tình ca Từ Công Phụng

Kalynh Ngô/Người Việt

Có một loài chim chỉ cất tiếng hót một lần trong đời rồi chết, nhưng tiếng hót ấy hay nhất thế gian, vượt lên trên mọi nỗi đau khổ của thân xác.
Với nữ văn sĩ người Úc Colleen Mc Cullough thì những gì tốt đẹp nhất trên thế gian chỉ có thể có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại nhất.

Nhạc sĩ Từ Công Phụng thì cho rằng, loài người cũng chỉ một thời để sống và để chết, thì cũng nên hát lên những bản nhạc tình
để ngợi ca một thời đã sống trước khi bước vào những nỗi khốn cùng buồn thảm của cái chết.

Do đó, tình ca là con đường ông đã chọn và đã cưu mang trong suốt cuộc đời nghệ thuật.
Tình ca đối với ông như một kẻ đồng lõa cho sự tồn tại của nhân loại.


Image
"Tình ca là con đường tôi đã chọn và cưu mang." (Hình: Kalynh/Người Việt)


'Tình ca là con đường tôi đã chọn và cưu mang'

Sau lần đầu tiên gặp ông trong đêm nhạc ở phòng trà Văn Nghệ, Sài Gòn năm 2008, bảy năm sau, vào ngày mùng 5 Tết Ất Mùi, tôi mới có dịp gặp lại nhạc sĩ họ Từ tại chính tư gia của ông ở Portland, Oregon – thành phố của hoa hồng.

Oregon những ngày cuối tháng Hai đẹp như một bức tranh. Cái lạnh se se của mùa xuân làm cho tâm hồn người ta dịu lại. Những con dốc lúc lên cao lúc xuống thấp, những cây thông cao vút gợi nhớ đến một Đà Lạt xưa cũ.

Cho dù xe dừng trước nhà ông vừa đúng với thời gian đã hẹn, thì người đầu ấp tay gối của ông, bà Từ Công Phụng đã đứng chờ trước cửa.

Người phụ nữ có gương mặt khả ái và một nụ cười rất hiền nói “Ông nhà tôi sẽ ra ngay.”

Không phải chờ lâu, người nhạc sĩ của “Mưa trên ngày tháng đó” bước ra cùng câu nói: “Rất đúng giờ.” Giọng nói của ông vẫn thế, trầm, đủ để người đối diện cảm thấy như ông chỉ nói cho riêng người đó; ấm, đủ để xóa bỏ bức tường ngần ngại giữa hai người xa lạ lần đầu tiên gặp nhau.

Trong đêm nhạc bảy năm trước ở Sài Gòn, bài hát “Xứ thâm trầm” được ông cất lên chưa kịp hết câu thứ nhất, thì ông ngập ngừng... “Xin lỗi quý vị, bài hát này tôi chưa được phép.”

Không giống như nhà văn Nguyễn Tuân lúc sinh thời có lần thốt lên rằng, “đôi khi, người ta đi không hẳn để tìm một nơi đến, mà ít nhất có một nơi để rời bỏ,” Từ Công Phụng ý thức rất rõ vì sao ông phải đành đoạn dứt áo rời bỏ quê nhà, đến một bến bờ xa lạ. Ông muốn tìm đến một nơi mà ông gọi là “Xứ thâm trầm” để âm thầm sống.

“Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này. Sẽ không còn ngàn kiếp truân chuyên và hết nhân duyên, tôi trở về kết đọng linh hồn làm mặt đá xây hồ lãng quên.” (ca khúc Xứ thâm trầm)

“Khi một người nhạc sĩ viết ra một ca khúc, họ muốn âm nhạc của mình được phổ biến rộng rãi trong nhân gian để nhận diện được những tâm tư thầm kín mà họ không được thổ lộ. Người nhạc sĩ nào cũng muốn âm nhạc của mình được 'bay' trong nhân gian.”

Ông mỉm cười, chậm rãi nói khi được hỏi về suy nghĩ của mình trong lần không thể trình diễn trọn vẹn bài hát khán giả của mình mong muốn trong lần đầu tiên về hát trên quê hương.

Ông chưa từng quên giây phút đó.

Rất nhiều người, trong đó có cả những thế hệ được sinh ra sau cuộc chiến, được nuôi dưỡng và lớn lên bằng những lời nhạc tinh tế đến từng nốt, đẹp đến từng câu chữ. Qua những tác phẩm ấy, họ nhìn tình yêu và cuộc đời, cuộc sống và con người bằng cái nhìn hiền hòa hơn. Cho dù đó là những bản nhạc tình buồn thì cái buồn ấy cũng chất chứa một tâm hồn yêu thương dạt dào.

Nhạc sĩ họ Từ cho rằng sở dĩ nhạc tình của ông chất chứa một triết lý tình yêu sâu lắng, buồn nhưng không bi lụy, đó là do quan điểm sống của mỗi con người. Theo ông thì “mỗi người có một hào quang khác nhau.”

Cái “hào quang” mà ông nhắc đến không phải là ánh sáng chói lọi từ thiên đường nào đó. Và càng không phải là ánh sáng phân biệt giữa sang hèn. Mà đó là cái “hào quang” trong sự chiêm nghiệm cuộc đời của riêng mỗi một người.

Có người nói rằng nhạc Từ Công Phụng buồn đến con dế nghe nó cũng buồn và “tự tử giữa đêm sương”; con chim sẻ cũ nó cũng “qua đời trong lặng lẽ” (ca khúc 'Trên ngọn tình sầu', Từ Công Phụng phổ nhạc theo bài thơ 'Khúc thêm cho Huyền Châu' của Du Tử Lê.)

Với Từ Công Phụng, ông nghĩ rằng cho dù có thế nào chăng nữa thì cuộc gặp gỡ nào cũng là hữu duyên và cũng để lại một điều đẹp đẽ.

“Dù một khoảnh khắc sớm phai tàn/Và lệ em rớt trên môi nhạt/Đôi mắt em rất buồn, đôi chúng ta rất buồn/Vạn câu tình cũ, xin gửi cho đời.” (Mắt lệ cho người)

“Cho dù chỉ là một khoảnh khắc trong cuộc đời, nhưng cuộc gặp gỡ ấy vẫn là đẹp. Dù có xa nhau, nhưng trong tâm tưởng của mình vẫn còn đó những kỷ niệm đẹp,” ông nhẹ nhàng nói.

Nhạc tình của ông mang cái buồn nhẹ tênh. Người nghe như thoảng thấy cái buồn quấn quanh sự hờn dỗi mà ông giữ cho riêng mình. Rồi đến một lúc nào đó, ông nhẹ nhàng xin gửi vạn câu tình cũ lại cho đời. Khi một khoảnh khắc đã qua, ông chỉ nhẹ nhàng xin tạ tình khi một ai đó một lần nữa đi thoáng qua cuộc đời ông.

Chính cái buồn nhẹ tênh không hờn trách ấy mà giai điệu và thanh âm những bản tình ca của ông phảng phất cái đẹp sang trọng, hiền hòa như dòng suối chảy hoài từ ngàn kiếp? Từ Công Phụng cho rằng “có lẽ do cách mình cảm nhận và hiểu về cuộc sống.”

“Đối với người phụ nữ, tôi luôn dành cho họ những gì nhẹ nhàng nhất. Nếu đó là những người đi ngang qua cuộc đời mình, cho dù chỉ là trong khoảnh khắc, thì nó vẫn đem lại cho mình hạnh phúc. Trong khoảnh khắc đó, có những điều luôn được giữ lại vĩnh cửu trong lòng.”

Nhưng ông xác nhận tình ca của ông truyền tải một tình yêu nhân từ. “Tôi không trách ai, hờn ai, cho dù cuộc tình với họ để lại cho mình những niềm đau. Cuộc đời có lúc đến rồi cũng phải có lúc đi.”

Cho dù ông có là chứng nhân của những cuộc tình ngắn ngủi, không thực, nhưng sự hụt hẫng nơi ông chưa bao giờ là đau đớn đến tuyệt vọng. Bởi ông luôn quan niệm “nếu có điều gì là vĩnh cửu, thì em ơi đó là tình yêu của chúng ta” và vẫn muốn sống trọn vẹn với chính mất mát của mình.

“Trong cuộc đời, tôi đã có những hình bóng trong tâm tưởng để gọi là tình yêu dù chỉ một khoảnh khắc gặp gỡ thoáng qua. Nhưng khi đã là tình yêu với một người, hoặc lớn hơn là khi lập gia đình, thì tôi tự nhận mình là người chung thủy,” ông nói.

'Tất cả là định mệnh'

“Đừng hỏi vì sao ngày xưa chúng tôi viết được những bài nhạc như thế. Chúng tôi sẽ không trả lời được. Tự nhiên nó ở trong mẫn cảm của mình, những lãng mạn trong tâm hồn của mình nó nảy ra. Có thể gọi đó là thiên phú. Người nhạc sĩ viết ca khúc là nói lên giùm tâm tư của những người bình thường không nói lên được bằng văn, bằng thơ bằng nhạc. Những người làm văn nghệ như chúng tôi viết giùm cho họ. Mình viết đúng, họ sẽ nghe đúng và họ cứ mang theo bài hát ấy suốt cuộc đời của họ,” ông từ tốn nói.

“Rất nhiều lần tôi cũng tự hỏi vì sao tôi trở thành nhạc sĩ? Nhưng...tôi chịu. Đó là 'định mệnh'”
Image
Nơi Từ Công Phụng cho ra đời những bản tình ca diễm lệ. (Hình: Kalynh/Người Việt)

“Có một câu chuyện tôi nhớ mãi. Một lần về Việt Nam hát, có một khán giả yêu cầu tôi hát bài 'Đêm không cùng' Khi đó, cũng với lý do giống như 'Xứ thâm trầm', nên tôi nói khéo là 'Xin lỗi, tôi không nhớ lời' Thế là vị khán giả ấy, còn rất trẻ, nói rằng 'Chú hát đi, cháu nhắc lời cho' Tôi vừa ngạc nhiên vừa hạnh phúc. Ngạc nhiên vì có những người thuộc thế hệ bây giờ hát nhạc của tôi. Tôi nghĩ đó là hạnh phúc chung của bất cứ người nhạc sĩ nào,” ông kể lại, ánh mắt cười hạnh phúc.

“Có những lời nhạc khi người nhạc sĩ viết ra và khán thính giả nghe, họ thấy hay, họ nhìn thấy họ trong đó, thì người nhạc sĩ đó thành công.”

Tôi chợt hỏi “Nhạc sĩ vẫn còn và sẽ còn viết nhạc chứ?”

“Tôi vẫn còn sáng tác,” ông cười và nói.

“Nhưng chắc chắn có khác với ngày xưa. Ngày xưa tôi viết nhạc lãng mạn nhiều. Bây giờ cái lãng mạn đó được quay về với tình yêu thương gia đình bạn bè nhiều hơn là tình yêu bâng quơ thời trẻ.”

Nói đến cái lãng mạn bâng quơ của tuổi trẻ, thì đó chính tình yêu của “Bây giờ tháng mấy,” bài hát đầu tiên ông sáng tác năm 1961. Thế nhưng, phải đến một thời gian sau, khi thành lập ban nhạc Ngàn Thông ở Đà Lạt, ông mới “có can đảm” hát tác phẩm của mình cho người nghe qua làn sóng phát thanh.

Đúng như lời ông nói, “Bây giờ tháng mấy” là một bản tình ca có mơ mộng, có hờn dỗi, có yêu thương, có cảm xúc bâng quơ nhưng rất ngọt ngào.

Năm ấy ông 18 tuổi.

Ông tự nhận rằng khi nghe nhạc Từ Công Phụng ở thập niên 60 sẽ khác với nhạc của Từ Công Phụng của những năm 70s, 80s và cả sau này.

“Ở thập niên 60s, những câu thơ, trang sách tiểu thuyết mang đến cho tôi cái lãng mạn, thậm chí ray rức về cuộc tình thoáng qua nào đó. Đến những năm 70s, mình đủ lớn để có những lo âu, suy nghĩ về một tình yêu đang có. Sau đó nữa, thì mình đã sống nhiều hơn, hiểu đời nhiều hơn, và cái nhìn của mình về cuộc đời sâu hơn, trầm lắng hơn.”

Khi con người hướng đến sự “sâu hơn,” “trầm lắng” hơn thì khái niệm thời gian đối với họ không còn là sự khởi đầu nữa. Ai cũng có một thời để sống và một đời để chết. Khi mỗi ngày đi qua một ngày, họ nâng niu những gì thuộc về giá trị tình thâm hơn là những mộng mơ tuổi trẻ. Đó là lúc mà “tôi nhìn tình yêu với ánh mắy nhân từ hơn.”

Ông cho biết có những tác phẩm ra đời rất nhanh, chỉ hơn…một giờ đồng hồ, như “Giữ đời cho nhau”; “Lời cuối”. Tuy nhiên, “Mưa trên ngày tháng đó,” thì bài hát này phải đến ba tháng mới được hoàn thành.

“Đó là bài hát tôi viết lâu nhất, trong ba tháng. Tôi viết đi viết lại hoài vẫn chưa thấy hài lòng. Mà tôi nghĩ sẽ khó có một bản nhạc nào được hài lòng một cách trọn vẹn. Bởi người nhạc sĩ luôn muốn khám phá và tạo ra cái đẹp hoàn hảo,” ông chia sẻ.

Khi nói định mệnh cho ông trở thành nhạc sĩ, thì ông cũng khẳng định rằng “định mệnh mình thay đổi mình không biết được.”

“Ngày xưa, khi ở Việt Nam, tôi kết nghĩa vợ chồng với một người. Thế rồi, vì những lý do mà không ở bên cạnh nhau được. Tôi tiếp tục cuộc đời thứ hai. Và tôi có hạnh phúc. Người này hy sinh quá nhiều cho tôi. Nên tôi thấy mình 'nợ'. Đó chính là định mệnh. Cũng như mình không biết khi nào mình được sinh ra và khi nào mình chết đi. Đó là bí mật của thượng đế. Và mình phải tin.
Image
Từ Công Phụng và "cuộc đời thứ hai" của ông. (Hình: Kalynh/Người Việt)

“Cuộc đời thứ hai” mà ông nhắc đến chính là người phụ nữ đã đứng chờ tôi ở cổng. Từ đầu câu chuyện đến giờ, bà loay hoay châm trà, mứt, bánh, trái cây. Hôm nay vẫn còn là ngày Tết.

Nghe ông nói đến định mệnh vợ chồng, bà cất tiếng: “Tình nghĩa vợ chồng không chỉ là tình nghĩa giữa hai người, mà nó là sự liên hệ đến đời con, đời cháu. Trong lúc đau ốm, mình phải biết mình có bổn phận với người phối ngẫu của mình. Không phải vì hôm nay anh tài danh, anh đẹp mà tôi yêu thương anh. Đạo công giáo có câu nói 'tuy hai mà một.'”

“Người kia bệnh, là thân xác của chính mình bệnh. Tại sao thân xác của mình? Người đàn bà được ví nhu một mảnh đất phì nhiêu, và người đàn ông là người cày xới. Sự gắn kết của họ chính là những đứa con, cháu.”

Trong suốt câu chuyện, ly trà của ông không bao giờ vơi. Vì cứ mỗi khi gần cạn, là bà lại châm thêm cho đầy. Bà khen và “cho ông 10 điểm” mỗi lần ông nhớ mang theo điện thoại khi ra ngoài.

Ông nghiêng người nói nhỏ, “Nhà tôi giỏi lắm. Bà là người phụ nữ chu toàn, tần tảo vun xới gia đình.”

***

“Yêu một người nổi tiếng đã khó, khi người đó là nghệ sĩ lại càng khó hơn. Mình phải biết rằng mình không thể giữ trái tim của họ. Trái tim của họ là dành cho nghệ thuật. Nhưng không phải như thế mà mình không hạnh phúc. Vì hạnh phúc đến từ sự thấu hiểu và tôn trọng nhau,” bà Từ nói và giục ông quay về vì trời bắt đầu lạnh, mà bà thì “tôi không muốn ông ấy bị cảm.”

50 năm, định mệnh đã gắn Từ Công Phụng với những bài tình ca mượt mà, trầm lắng. Những bản tình ca đó sẽ mãi mãi là những chiếc que diêm đốt cháy trái tim người nghe, mang họ về với mùa xuân đỉnh bình yên của đời người.

Liên lạc tác giả: kalynh@nguoi-viet.com
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Tản Mạn Đầu Xuân!

Đông đã qua, Xuân đến khí hậu ấm hơn . Hoa anh đào năm nay nở sớm hơn năm tước. Tuy đẹp, nhưng chúng mang lại nhiều phiền toái như ngứa mắt, nước mũi chảy lòng thòng và ho đau cả ngực, nhưng đến hôm nay đã hết ngứa mắt và ho hơn 1 tuần.

Như dự định đầu năm. Lôi Minh gom bạn hữu vài đứa yêu thơ tình và nhạc . Nhậu lai rai , than vãn chuyện ngắn, chuyện dài về đời người trong vòng luẩn quẩn tam giác. Qúa khứ - Hiện tại - Tương lai như một tam giác đều ba cạnh khép kín.
Đêm nay họp mặt bạn hữu gồm có:

- 1 chai rượu Johnny walker 18 tuổi.
- 3 gói chip khoai tây.
- 1 nồi bún bò.
- 1 chai rượu vang.
- 1 samsung tab 2: Chứa tất cả bản thơ tình , để bạn hữu nhìn vào diễn ngâm.

- Bạn hữu:

* Lôi Minh - Tình yêu đầu học trò vỡ tan, vẫn còn giận hờn , nuối tiếc. Học xong, lấy vợ rồi lại thêm một lần tan vỡ . Thích thơ tình, bình thơ và nhạc cổ điển. Đêm nay Lôi Minh diễn ngâm 2 bài thơ, một của Khiêu Long , một của Xuân Quỳnh. LM nay 67 tuổi.

Tuổi học trò luôn mãi đẹp, hè về chia tay nhau, nhất là có một mối tình vu vơ nào đó, cũng để vấn vương nhớ nhung , sự nhớ nhung có thể mãi theo. Lời thơ trong bài "Nắng Phai" của tác giả thật mượt óng ả, ý thơ êm đêm bình an. Lôi Minh xin diễn ngâm bài thơ "Nắng Phai". Xin bạn hữu nghe giọng Quy Nhơn lai giọng SàiGòn trong bài thơ Nắng Phai thật dễ thương của tác giả Khiêu Long

Nắng Phai

Theo gió về giữa mùa nắng phai
Áo em lồng lộng bến sông dài
Đường hoa xưa vẫn ươm nỗi nhớ
Bao năm rồi ta vẫn ...chờ ai

Ta quen em chiều nắng hồng tươi
Không gian xưa rộn tiếng em cười
Ta về từ đó hồn mơ mộng
Tình học trò trong tuổi đôi mươi

Nắng nồng nàn rồi cũng phai phôi
Dấu yêu thoảng chốc đã xa rồi
Để có những chiều trên lối nắng
Nhớ thương người nơi chốn xa xôi

Em có còn về qua lối xưa
Tiêng ru buồn vọng giữa mùa trưa
Cho ta gởi lá tình thư cũ
Mảnh nắng vàng phai hạ cuối mùa

Thơ Khiếu Long


Có lẽ và chắc có lẽ tình yêu ở tuổi nào nó cũng có lời nóng bóng âu yếm của nó. Có ý riêng tư của nó. Dù người tình đầu đời bỏ Lôi Minh khi tuổi 19. Nhưng những lá thư tình lời âu yếm vẫn in dấu trong LM. Bài thơ "Chỉ Một Mình Anh" của Xuân Quỳnh diễn tả cái yêu của người con gái. Lôi Minh diễn ngâm , mời bạn hữu nghe lời trần tình trong bài thơ của Xuân Quỳnh

Chỉ Một Mình Anh

Anh! Chỉ một mình anh
Biết trả cho em những ngày đã mất
Và mang đến mùa xuân trong những giờ lạnh nhất
Là anh, chỉ một mình anh
Có phải vì anh
Khi nghe anh nói
Mà tim em xao xuyến bồi hồi
Có phải chỉ vì anh mà cỏ xanh im lặng
Bỗng xôn xao xuân đến cựa mình
Có phả vì anh mà muà xuân đến vội
Mà mây mù trên nước bập bùng trôi
Có phải vì anh mà lòng em bừng nắng
Và diụ dàng, tất cả vì anh
Nhưng không, anh nói không
Là mặt trời rơi ngay xuống đất
Là tất cả trên đời em mất
Khi anh nói Không...

Thơ Xuân Quỳnh



* Ngọc Miễn - Tình yêu đầu học trò. Nàng bỏ đi , thỉnh thoảng vẫn thở than bằng lời nhạc nào đó " yêu người như thế đó, người bỏ đi ". Học xong, lấy vợ ở tuổi 30. Thích thơ tình. Chơi guitar nhạc cổ điển. Đêm nay Ngọc Miễn chơi 2 bài nhạc cổ điển và đệm nhẹ với tiếng sáo tp khi bạn hữu diễn ngâm. NM nay 64 tuổi.

* Thăng Nguyên- Tình yêu đầu ở chàng tuổi 15, nàng 14. Lấy nhau ở tuổi 22. Vẫn hạnh phúc, một cặp đôi hoàn hảo. Dân khoa-học nhưng lại thích triết học, thơ tình . Đêm nay Thăng Nguyên diễn ngâm bài thơ Mắt Lá của Mường Mán. TN nay 65 tuổi.

Tình yêu thửa nào vỡ tan. "Lạ" nhỉ , cứ bảo mình hãy quên đi ! À này quên đi là nhớ đấy. Hôm nay gặp được hai câu thơ của Mường Mán lại thấy như không "Lạ". Đã nhiều lần tự bảo quên tức là nhớ đấy.
"Tình như là bụi hư không ấy
Phủi mãi, mà sao vẫn nhớ đời"

Thăng Nguyên diễn ngâm giọng Huế bài thơ "Mắt Lá" của Mường Mán. Mời các anh chị nhớ lại một lần trong đời mình khi gặp tình yêu .

Mắt Lá

Hình như có mùa đông rất vội
Theo áo em về mấy bữa nay
Giòng sông xanh quá đôi bờ sóng
Ta bỗng nghe lòng chớm theo may

Hình như có đôi mắt đi lạc
Len nhẹ vào tim một thoáng cay
Tình như là bụi hư không ấy
Phủi mãi, mà sao nhớ vẫn đầy

Hình như người ấy không đi lẻ
Có bạn lâu rồi ta đâu hay
Chiều nay qua phố nghe chim kể
Mới biết lòng không nhẹ hơn mây

Chục tách café trong quán đợi
Chẳng đắng bằng một thoáng mong ai
Chiều bâng khuâng rụng đôi bờ lá
Ngỡ mắt người dưng lúng liếng bay

Thơ Mường Mán




* Nguyệt Thy.
Tình đầu giở giang. Sống độc thân. Thích thơ tình và hội họa. Đêm nay Nguyệt Thy diễn ngâm bài "Tìm Về Bến Xưa" của Tiểu vũ Vi . NT nay 66 tuổi.
Chắc có lẽ ai trong chúng ta cũng một lần yêu. Yêu mãnh liệt như thác đổ. Khi tình yêu đầu đổ vỡ, lại lui về yêu cái kỷ niệm đã mất. Đấy yêu là thế! Có lẽ bây giờ tuổi xế chiều, hiểu biết hơn. Mang lại tâm hồn bình an hơn. Nguyệt Thy diễn ngâm bài thơ Tình của tác giả Tiểu Vũ Vi với giọng Nam Bộ Cần Thơ.

Tìm Về Bến Xưa

Em như chim sáo xa rời phố cũ
Bỏ lại sau lưng nước mắt dòng sông
Bông điên điển chín nõn thơm mưa lũ
Người sang sông vẫn nhớ cơn bão lòng

Ngõ tình xưa có đôi mình chung lối
Em khua guốc mộc trên quãng đường đê
Gió lùa hương lúa quyện làn tóc rối
Nụ ngoan e ấp quýnh bước anh về

Trận mưa giông đưa em xuôi dòng ngược
Bao mùa bến lạ lưu lạc xa nhà
Ba chìm bảy nổi lòng em nghe đuối
Khao khát mùa phượng cũ tình xót xa

Em đã về bên dòng sông kỷ niệm
Đò xưa còn đó sáo nay sổ lồng
Mùa bông điên điển nồng thơm gió nội
Điểm tuyết sương người vẫn đợi bên sông

Thơ Tiểu Vũ Vi


* ToànParis. Tình yêu đầu đời tuổi học trò, nàng lên xe hoa khi chưa học hết lớp đệ nhị. Học xong, lấy vợ ở tuổi 32, tức sau 15 năm khi tình đầu tan vỡ. Cuộc sống bình an- bình dị, may lấy được bà vợ thật hiền hòa. Khoái thơ tình và nhạc. Đêm nay toànparis chơi sáo trúc "tông Đô" âm thanh ấm, thổi đệm và thêm tây ban cầm phụ họa của Ngọc Miễn cho tất cả các bài thơ do bạn hữu diễn ngâm. TP nay 64 tuổi với bản chất thích ngao du, thích vu vơ, đôi khi lơ đãng chuyện đời. Nên bạn hữu tặng cho tên " anh đồ già " lẩm cẩm đôi khi.

* không quên đêm nay có sự hiện diện: Phác thiền, Tuấn Anh, Ngọc Tuynh, Gia Cẩm.

Bây giờ đã 11 giờ đêm chai rượu đã cạn, men đã thấm. Vợ của Thăng Nguyên đã chuẩn bị một tô chè lớn để giải nhiệt cho mấy cao thủ một thời bợm nhậu. Ngọc Miễn ngồi trong góc phòng khách, ôm cây đàn vẫn tự diễn , đầu hơi cúi xuống, lắc qua lắc lại , mắt nhắm lim dim đang chơi nhạc bản "qua ngõ nhà em".

Tết Nguyên Đán đã qua hơn một tháng , nhưng mùa xuân Canada mới đến. Nguyệt Thy hát nhạc bản "Câu chuyện đầu năm" thay lời chúc đến các bạn yêu thơ Tình đêm nay trước khi chia tay . Mỗi người một ngả trong dịp hè . Người về VN, người đi Japan, người xuống Mê-hi-cô, người đi Cuba, người đi Caribbean.

Năm 2008 tp về thăm quê mẹ miền Bắc xóm đạo làng Xuân Hòa, và làng bên Sen Hồ, Bấc Ninh hầu hết là đạo ông bà và Phật Giáo. Có một điều thú vị là dân Quan Họ dù già trẻ đều có máu văn nghệ - thơ văn. Lục chồng thơ cũ, thấy Khiêu Long bài thơ " gởi về quan họ" tác giả Trương Nam Hương hay quá. Nguyệt Thy diễn ngâm cũng là bài thơ cuối cùng đêm nay.

Gửi Về Quan Họ

Mưa Xuân giăng mắc miền Quan họ
Cánh nón quai thao lấp lửng chờ
Đêm ấy sông Cầu thao thiết gió
Anh về hôn rét một câu thơ

Chiếc khăn hoa lý choàng duyên nợ
Lấm tầm tầm xuân dọc nỗi buồn
Ai khép ơ hờ câu hát thế
Để mình Quán Dốc với anh thương

Mười năm dan díu tình anh lại
Thấm thắc heo may lối tuổi thề
Đuôi mắt đa tình mưa ướt đấy
Ngại ngùng hai vạt áo so le!

Thơ Trương Nam Hương


Nếu 6 Long ghé nơi đây. Chúc anh KL luôn khoẻ mạnh & may mắn.
Je Vous mercie em gái. Nếu có thể, em tvv upload nhạc bản "câu chuyện đầu năm" . Đan Nguyên hoặc Lệ Quyên hát.
Thân tặng em tvv thay lời chúc đầu năm.

Thân mến,
Anh toànParis.



[/align]
quangminh
Posts: 548
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Post by quangminh »


Image

Vũ Hữu Ðịnh, người đội vương miện cho thành phố Pleiku

Du Tử Lê
Trong sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, có một hiện tượng ít người để ý; đó là hiện tượng có một số nhà thơ được quần chúng biết đến, không phải vì tự thân những sáng tác của họ phổ biến trong sách, báo mà, vì họ có một (hay nhiều hơn một) bài thơ được soạn thành ca khúc.

Nếu rất mau chóng những ca khúc đó, trở thành quen thuộc, thân thiết với nhiều giới.

Vì những tính chất đặc biệt sẵn trong nội dung của những bài-thơ-trở-thành-ca-khúc nổi tiếng kia, nên đám đông thường nhớ tới tên tác giả thứ nhất (nhà thơ), nhiều hơn tên tác giả thứ hai (nhạc sĩ).

Một trong những trường hợp điển hình cho hiện tượng vừa nêu là ca khúc “Còn Chút Gì Ðể Nhớ,” thơ Vũ Hữu Ðịnh, nhạc Phạm Duy xuất hiện vào đầu thập niên (19)70.

Tính chất đặc biệt trong bài thơ phổ nhạc “Còn Chút Gì Ðể Nhớ” là thành phố nhỏ Pleiku, ở vùng Tây nguyên. Nơi tập trung rất nhiều sắc lính thuộc QL/VNCH.

Ca khúc vừa kể phổ biến tới mức, khi nhắc tới, người ta thường nói thêm (như thể cho rõ nghĩa): “Em Pleiku má đỏ môi hồng.” Cùng lúc, người ta cũng nhớ tới Vũ Hữu Ðịnh, trước khi nhớ Phạm Duy. (1)

Nhưng ở thời gian đó, nếu có ai hỏi Vũ Hữu Ðịnh là ai? Hầu hết sẽ không thể trả lời chính xác câu hỏi này.

Tuy nhiên, sau biến cố tháng 4, 1975 và, nhất là sau cái chết của Vũ Hữu Ðịnh, một số bằng hữu của ông đã có những bài viết tương đối đầy đủ. Khả dĩ vẽ được chân dung, con người tác giả “Còn Chút Gì Ðể Nhớ” bằng chữ.

Một trong những bài viết tạo được nhiều chú ý nơi người đọc là bài viết của nhà thơ và cũng là nhạc sĩ Ðynh Trầm Ca - Người cùng thời với nhà thơ Vũ Hữu Ðịnh - Họ quen biết nhau từ giữa thập niên (19)60.

Trong bài viết của mình, nhà thơ Ðynh Trầm Ca ghi lại khá đầy đủ tiến trình thi ca của Vũ Hữu Ðịnh, tự bước khởi đầu.

Nhạc sĩ Ðynh Trầm Ca viết:

“Bút hiệu đầu tiên của Vũ Hữu Ðịnh là Hàn Phong Lệ, làm thơ vào những năm 60. Tôi đã thấy cái tên này trên những tờ báo không có ‘tầm cỡ’ cho lắm. Những năm đó tại Quảng Nam-Ðà Nẵng có những cây viết xuất hiện trên những tạp chí ‘bề thế’ của Saigon và gây ấn tượng ngay cho người đọc. Những Nguyễn Nho Sa Mạc, Thái Tú Hạp, Luân Hoán, Phương Tấn, Hoàng Thị Bích Ni, Phan Duy Nhân, Hoàng Lộc, Nguyễn Nho Nhượn, Hà Nguyên Thạch, Ðynh Hoàng Sa, Tần Hoài Dạ Vũ, Triều Hoa Ðại, Chu Tân, Hạ Ðình Thao, Hạ Quốc Huy, v.v... cứ mỗi năm một đầy thêm, đã làm mờ lấp Hàn Phong Lệ và nhiều người làm thơ khác cùng thời. Tôi cũng là người làm thơ từ thuở ấy, nhưng chẳng hề giao du với ai. Có vài anh em do ‘trời đất xui khiến’ mà gặp nhau. Trong số hiếm hoi đó có Vũ Hữu Ðịnh. Hình như lần tương ngộ đầu tiên là một ngày mùa Ðông năm 67, 68 gì đó. Tôi đang ở nhà mẹ tôi sau lưng thị trấn Vĩnh Ðiện thì có hai người, một mặc quân phục, một mặc đồ đen XDNT (xây dựng nông thôn), đẩy chiếc xe Gobel trên đường lầy lội vào nhà. Anh Nguyễn Tam Phù Sa giới thiệu tôi biết Vũ Hữu Ðịnh. Vũ Hữu Ðịnh đang đi giang hồ qua chỗ Phù Sa đóng quân thì hết xăng. Anh đâu định ghé nhà tôi mà rồi lại ghé. Tôi chưa biết anh là ai nhưng anh thì biết tất cả những người trong làng văn nghệ từ những nhà thơ, nhà văn, đến các nhạc sĩ, họa sĩ... kể cả những người không mấy tên tuổi. Anh biết gần hết những nơi có văn nghệ sĩ ở trên các tỉnh miền Nam. Anh nói chuyện có duyên và vui vẻ. Qua anh, tôi biết được những ‘cái tật’ lạ thường của nhiều người tôi đã từng biết tên hoặc chưa biết. Anh thật sự hấp dẫn tôi về những ‘chuyện trên trời, dưới đất’ nhưng vẫn chưa hấp dẫn tôi về thơ anh. Sau ngày đó thì anh mất biệt và tôi cũng chẳng còn nhớ anh.” (Theo Wikipedia)

Những năm sau đó, vì chiến tranh lan rộng, anh em văn nghệ tản lạc khắp nơi. Ở Quảng Nam, gần như chỉ còn một mình Ðynh Trầm Ca. Nói cách khác, ông không có dịp gặp lại bạn thơ Hàn Phong Lệ mà, chỉ thỉnh thoảng nghe kể Hàn Phong Lệ cùng Trần Quang Lộc, A Khuê... nay đọc thơ chỗ này, mai ca hát chỗ kia. Tác giả bài viết về Vũ Hữu Ðịnh nhấn mạnh:

“...Phải chờ đến khi nghe Thái Thanh hát ‘Còn Một Chút Gì Ðể Nhớ’ do Phạm Duy phổ nhạc, tôi mới để ý về anh hơn. Anh cầm cái băng cassette do chính nhạc sĩ Phạm Duy ký tặng vào nhà tôi như một cơn gió mạnh. Tôi mở nghe. Một mặt băng là những bài thơ của nhiều tác giả mới được phổ, mặt kia là 10 bài tục ca do chính Phạm Duy hát. Lại một phen ồn ào rôm rả. Rôm rả vì ở chung với tôi còn có một đám học sinh rất yêu thơ, nhạc và sính chuyện làng văn. Mấy em học sinh tha hồ mượn để sang và để hát theo. Vũ Hữu Ðịnh cũng biết đánh đàn Guitar và hát rất tốt. Hình như thời gian này là thời gian anh có việc làm ở Ðà Nẵng nên anh năng ghé tôi nhiều hơn. Mỗi lần anh đến là một chương trình ‘thế giới đó đây’ được mở ra với chúng tôi. Anh luôn sôi động, luôn có cái mới để nói, để kể. Chính anh đã ít nhiều nhen nhóm lại trong tôi một chút lửa văn nghệ để tôi tham gia một vài buổi thơ nhạc tại Hội An, Tam Kỳ, Huế... và viết lại khá nhiều trong những năm 73 đến 75 để rồi chẳng còn gì sau ngày 30 tháng 4, 1975.” (2)

Tôi không biết có phải mấy năm đầu của thập niên (19)70, là thời gian tác giả “Còn Chút Gì Ðể Nhớ” vắng mặt ở Quảng Nam, về sinh hoạt ở thành phố Saigon nhiều hơn hay không? Nhưng đó là thời gian tôi được gặp ông nhiều lần.

Ngay tự gặp gỡ thứ nhất với Vũ Hữu Ðịnh do một người em văn nghệ mang về nhà giới thiệu, tôi đã có thiện cảm với người làm thơ có dáng vẻ chân chất này.

Những lần gặp sau, lòng tôi quý mến ông, gia tăng.

Ðiều tôi thích nhất nơi ông là, không bao giờ ông đem chuyện văn chương ra thảo luận. Chúng tôi rất thoải mái trong những chuyện đời thường. Chuyện buồn, vui của nhiều anh em văn nghệ thân quen với ông mà, tôi chưa có hân hạnh gặp gỡ.

Ông cũng không màu mè, không lên gân, không tác điệu cho ra vẻ của một người làm thơ. Cần gì, ông hỏi thẳng. Không quanh co rào đón. Bên trong cái dáng vẻ cục mịch, đôi khi hơi ngơ ngác, Vũ Hữu Ðịnh, trong ghi nhận của tôi còn là một người rất ý tứ. Tôi nhớ những lần trong nhà gần hết cà phê, hết thuốc lá, ông tế nhị từ chối không uống, không hút... Cùng lắm, ông bảo tôi mua cho ông một bao thuốc đen Quân Tiếp Vụ. Ông nói, ông quen hút loại thuốc đó.

Tôi hiểu, ý ông muốn nhường thuốc thơm cho người khác.

Với tôi, đây cũng là một khía cạnh nói lên cung cách ứng xử đáng trân trọng ở con người chọn cống hiến đời mình cho thi ca.

Cũng nhờ giao tiếp lâu với ông, tôi mới được biết, ông có một đời sống rất cơ cực.

Sinh trưởng trong một gia đình không được khá giả, việc học của ông vì thế lỡ dở. Ngay tự tấm bé tác giả “Còn Chút Gì Ðể Nhớ” đã sớm bước chân vào đời. Sau đó, do duyên nghiệp, ông đã lập gia đình khá sớm.

Những ngày tháng ở Saigon, ông tâm sự với một số bằng hữu rằng, mơ ước lớn nhất của ông là một ngày nào có nhiều tiền, ông sẽ đền đáp công ơn người vợ tình nghĩa tào khang của mình.

Ông nói:

“Chính vì không kiếm ra tiền nuôi vợ con cho nên tôi mới bỏ vào Saigon, để khỏi thấy cảnh gia đình nheo nhóc. Vào đây, tưởng kiếm được việc, ai ngờ việc đã không có mà lại còn là gánh nặng cho bạn bè vì hoàn cảnh trốn lính của tôi nữa!”

Kể từ đầu năm 1973 tới tháng 4, 1975, tôi không còn cơ hội gặp ông. Khi hỏi thăm, một vài người cho tôi biết, Vũ Hữu Ðịnh đã trở về lại Ðà Nẵng với gia đình.

Ðầu thập niên (19)80 ở xứ người, một hôm tôi nhận được hung tin, “Vũ Hữu Ðịnh từ trần.” Khi đó, tôi không biết ông bao nhiêu tuổi. Chỉ nhớ ông còn khá trẻ.

Từ đấy, mỗi khi tình cờ được nghe ca khúc “Còn Chút Gì Ðể Nhớ,” tôi không nhớ nhiều về Pleiku (dù nơi chốn ấy có ảnh hưởng ít nhiều tới đời sống riêng của tôi) mà, lại rất nhớ Vũ Hữu Ðịnh.

Tôi nhớ tới ông, như từng nhớ Hàn Mặc Tử, người, bằng những vần thơ của mình, đã đội vương miện cho Thôn Vỹ Dạ. Nhớ Quang Dũng thi ca hóa đôi mắt người Sơn Tây và, một vài địa danh của tỉnh này. Nhớ Nguyễn Nhược Pháp, người đã làm cho con sông, những thước đường dẫn tới Chùa Hương ngạt ngào trầm, hương lãng mạn qua bài “Ði Chùa Hương” của ông.

Cũng như Hàn Mặc Tử, Nguyễn Nhược Pháp, Quang Dũng... Vũ Hữu Ðịnh không còn nữa. Nhưng những mảnh đất, những địa danh (những phần xương thịt của quê hương, tổ quốc) qua thi ca của họ đã thơm tho hơn. Ðáng yêu hơn trong tâm tưởng nhiều người. Cũng như tấm lòng chúng ta yêu mến họ, các thi sĩ, dù trải qua nhiều thế hệ, cũng sẽ bàng bạc. Mãi mãi.

Ðể kết thúc bài viết này, chúng tôi trân trọng kính mời quý bạn đọc thưởng lãm một bài thơ cũ, của Vũ Hữu Ðịnh. Bài “Kỷ Niệm,” sưu tập của nhà thơ Luân Hoán.


con đường đất có màu xanh bữa nọ
cây bên đường màu lá lục hôm kia
con chim bỏ đi có bận quay về
cất tiếng hát chào niềm vui của gió

anh ra đứng sau hè nghe để ngó
không thấy chim mà thấy tiếng kinh chiều
vui trong lòng anh đã bước chân theo
em có nói là em không trở lại

hôm em nói em đi buồn biết mấy
anh có nghe bên đường tiếng chim kêu
con chim chi buồn chết cả buổi chiều
từ bữa đó anh nhớ đường ra ngõ

con đường đất bàn chân từ thuở nhỏ
một ngày vô bốn bận đi về
cây bên đường, cỏ bụi, hàng tre
quen đến nỗi không nhớ gì tha thiết

hôm em đi anh bắt đầu thấm mệt
thấy trường xa con đường ngại đi về
mắt anh nhìn lên đọt ngọn tre
dõi mấy bụi tìm con chim nhỏ

con chim nhỏ có nằm trong vạt cỏ
bữa hôm nay anh mới thấy cỏ vàng
con chim đời nào lại sống trong hang
anh vô cớ soi tìm trong đụn đất

tuổi mười một anh biết mình đã mất
một cái chi không nên ảnh thành hình
cho tới bây giờ hết tuổi học sinh
râu đủ bộ vẫn còn ngơ ngẩn mãi

con chim nhỏ có bao giờ trở lại
em năm nay không biết mấy con rồi
con chim lạ lùng năm nọ của tôi ơi
hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy.

(VHÐ)


Du Tử Lê
(Tháng 11, 2010)

Chú thích:

(1) Ðặng Tiến với một bài viết về nhà thơ Vũ Hữu Ðịnh, in trong Thư Quán Bản thảo, tập 23, đề tháng 4, 2006 ghi lại rằng: Vũ Hữu Ðịnh tên thật là Lê Quang Trung, sinh năm 1942 tại Thừa Thiên. Ông sống nhiều ở vùng Tây nguyên, trước khi lập gia đình rồi định cư hẳn ở thành phố Ðà Nẵng.

Vẫn theo Ðặng Tiến thì: “Năm 1975, (Vũ Hữu Ðịnh) đi học tập cải tạo thời gian ngắn vì là cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, rồi làm công nhân Nhà Ðèn. Ðầu năm 1981, tại làng An Hải, Ðà Nẵng, anh qua đời vì say rượu té từ lầu 1, cái chết còn gây nghi vấn.”
(2) Nguồn đd.
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Anh Tư

Trần Yên Hòa

Sao mà đến khi tôi có trí nhớ thì tôi không thấy anh tư tôi đâụ Cũng có thể ảnh với tôi gần nhau quá khiến cho tôi không thấy ảnh những lúc nàỵ Trong trí nhớ tôi, ảnh thấp thoáng không đặc sắc lắm, đó là một đứa con trai hơn tôi ba, bốn tuổi gì đó, khuôn mặt ngây ngô nhưng sáng sủa, với đôi mắt lớn, mái tóc đen dày, dáng người thẳng, chắc…đi với nhau người lạ ít ai nghĩ tụi tôi là hai anh em. Nhưng đúng là hai anh em, vì rằng ảnh là “cu anh” còn tôi là “cu em”...


Ảnh học hơn tôi hai lớp, tôi cũng không nhớ là hồi nhỏ ảnh học ở đâu…Sau này nghe ảnh kể lại là khi tôi và bọn thằng Trịnh Tộ, thằng Lư Nho đi học ở trường Chiên Đàn thì ảnh được cha gởi xuống học đâu dưới chợ Vạn. Đến khi tôi về học lớp ba ở trường tiểu học thì ảnh mới về học lớp nhất…Tôi nhớ được chi tiết này vì có một lần, anh em tôi có đánh lộn với thằng Đồng, một bạn học cùng lớp. Anh em tôi chơi “hai chọi một”, nhưng thằng Đồng khoẻ quá, nó ở xóm Long Phước, là con nhà nông dân thứ thiệt, nên kết quả “hột kê huề”. Tôi thì bị sưng mặt vì thằng Đồng đấm những cái búa tạ như trời giáng vào mặt, còn anh tư thị bị chảy máu răng tùm lum tà la…

Cũng có một lần nữa, là anh em tôi hợp đồng tác chiến, cùng đánh lộn với thằng Trương Chá ngoài chợ. Thằng Trương Chá con bà Chá bán bánh tráng. Hàng ngày lúc rãnh, Trương Chá đội bánh tráng đi bán rong khắp chợ, khắp xóm, nên đôi chân, đôi tay nó khỏe như voị Không biết vì lý do gì mà tụi tôi gây sự, rồi lăn xả vào đánh nhaụ Thằng Chá mạnh và to con hơn thằng Đồng, dĩ nhiên một chọi hai, hột kê cũng huề, nhưng tụi tôi cũng bị u đầu, sứt trán.

Đó là nói cho ngon thế chứ, tôi vốn nhát gan, đâu có giám gây sự với ai, hai lần đánh lộn là tôi đã tởn da gà rồi, chắc anh tư tôi cũng vậỵ

Anh tư tôi đẹp trai hơn tôi là cái chắc, có hai cái tôi thua xa ảnh là đôi mắt và mái tóc. Đôi mắt ảnh lớn và mái tóc ảnh đen mượt, phía ót sau ảnh xuôi nên khi hớt tóc, “hớt thấp”, thì mái tóc phía sau ôm cái đầu “không có chớn”, rất đẹp.

Còn đôi mắt của tôi thì ti hí, nhỏ xíu, nhiều khi cười tít mắt không thấy đất trời đâụ Mái tóc tôi thì cứng như rễ tre, phía sau ót có cái xương mọc nhô lên, nên dù những thợ hớt tóc “nghề” nhất chợ Quán Rường như anh năm Lý, hay anh Được, sau một hồi hì hục, cho tông đơ hay kéo rà qua rà lại, rà lên rà xuống, vẫn lắc đầu chịu thua, mái tóc tôi không xuôi được mà vẫn còn có “chớn”.

Cũng xin mở dấu ngoặc thêm là ở quê tôi có những người thợ hớt tóc sau đâỵ

Đầu tiên là anh năm Xuân.

Anh năm Xuân là con một ông cựu chánh tổng, gia đình anh “rân rác” lắm. Nhưng ảnh ỷ con nhà giàu nên ham chơi, chẳng lo học hành gì, nên sau khi quốc gia tiếp thu anh mở một cái chòi nhỏ gần chợ Quán Rường để hớt tóc cho cánh đàn ông. Cái tiệm hớt tóc được dựng lên gần sát cổng ra vào nhà ông tú Khảm. Ông Khảm đậu tú tài nho học nên được dân làng gọi là ông tú, nhưng ông chẳng làm được chức gì, chỉ nhà giàu, có ruộng có đất cho tá điền “làm rẻ”. Đến ngày mùa, tá điền đong lúa cũng ăn dư dã. Ông tú Khảm có một đàn con lớn, người vợ lớn đã mất nên ông lấy một bà vợ sau, nhỏ hơn ông ba con giáp. Cô Lan đẹp người, nên đi ra chợ ai cũng nhìn ngắm, trầm trồ. Anh năm Xuân biết ông tú Khảm già rồi, không còn “xíu quoách” nên đem “lời to tiếng nhỏ” tán cô Lan. Anh lấy câu phương châm tán gái là “nhất cự ly, nhì tốc độ” ra thực hành. Nghe thiên hạ đồn rằng, cứ buổi tối đến, anh năm Xuân cởi áo quần nằm trong quán hớt tóc phục sẳn, cô Lan ra đóng cổng khu nhà đồ sộ của ông tú. Cô ngó trước ngó sau không thấy có ai, liền chui tọt vào quán hớt tóc. Hai người “ịch đụi” nhau chừng mười phút, thì cô Lan vọt ra, vội vàng đóng cổng, khóa cổng vào nhà. Cuối năm đó cô sinh một đứa con gái kháu khỉnh, ai cũng nói con năm Xuân, nhưng ông tú Khảm thì vẫn đinh ninh là con mình, nên ông thương lắm.

Chuyện tình đến đó là hết, anh năm Xuân nghe nói buồn vì “tình đời đen bạc” nên bỏ vào Sài Gòn làm ăn.

Sau đó thì tới anh thợ hớt tóc thứ hai tên là Giống. Anh cũng làm một cái quán thô sơ bên ngã ba đường, gần quán bà cả Trâu và trường tiểu học Kỳ Mỹ. Anh là con trai mới lớn, cao to, lực lưỡng. Không ngờ anh bị đưa vào tầm ngắm của chị Hồng. Chị Hồng người gầy như que tăm, ốm nhom ốm nhách, gương mặt đầy tàn nhang, mỗi lần nói chuyện nước miếng văng tùm lum, nên gần ba mươi tuổi mà chẳng có chàng trai nào tới rước.

Chị Hồng nưng niu anh hết mực, dỗ ngon dỗ ngọt sao đó mà chị lại mang bầụ Cuối cùng, cũng mấy tháng sau, có lẽ nhìn lại thấy chị Hồng gầy gò, ốm o quá, nên anh Giống cũng bỏ đất mà đi, để lại chị Hồng với đứa con còn trong bụng mẹ.

Người thứ ba là anh Được, chồng chị Lâm. Hai người làm nhà gần cây bàng ở chợ Quán Rường. Cặp đôi này trông rất hạnh phúc. Chị Lâm bán nước chè (quê tôi gọi là “đổi” nước chè), còn anh Được hớt tóc. Anh Được hớt tóc đẹp, khéo tay, nên quán rất đông khách. Muốn hớt tóc anh Được phải ra quán ngồi đợi ít nhất cũng ba mươi phút. Anh hớt đẹp mà không trị nổi mái tóc của tôi, nên dù có “gò” bao nhiêu, mái tóc tôi phía sau ót vẫn còn có “chớn”.

Người thứ tư là anh năm Lý. Anh năm Lý lớn tuổi, khoảng trên bốn mươị Anh hiền lành, thật thà. Ảnh hớt tóc kỹ lưỡng nhưng không đẹp bằng anh Được. Khi tôi biết là mái tóc tôi khó trị, tôi thôi không ra ngồi chờ ngoài quán anh Được nữa, mà nhảy qua quán anh năm Lý để được ảnh hớt, gọt, tỉa, cạo mặt, lấy ráy taị Ảnh có môn lấy ráy tai thần sầu, khi ảnh để cái que ráy vào lỗ tai, xoay vòng vòng thì trời đất chung quanh đều quay cuồng, vì nhột mà sướng. Xong đâu đó anh còn lấy tay xoa xoa ngoài vành tai rồi búng chách chách nữạ



Trở lại chuyện anh tư.

Anh tư có hàm răng khá đẹp, nhưng còn nhỏ nên ảnh làm biếng đánh răng lắm, hàm răng thường có bợn vàng. Chị hai gọi đó là hàm răng “đóng khớm”. Hồi đó chưa có kem đánh răng, chưa có bàn chải đánh răng, nên chị hai thường lấy vỏ cau khô cắt nhỏ, đem “ép” anh tư và tôi đánh răng. Chị đưa miếng vỏ cau khô và đứng canh chừng, khi chúng tôi lấy xác cau chà qua chà lại hàm răng, khoảng năm phút, chị mới đị Hình như hai ba ngày hay một tuần gì đó, tụi tôi mới được đánh răng một lần. Vỏ cau khô đánh răng cũng tuyệt lắm. Đánh xong nhìn vào gương thấy hàm răng mình trắng nhởn rạ

Anh tư ăn mặc chỉnh tề, khi nhà tôi đã sắm được cái bàn ủi “con gà trống” thì ảnh ủi áo quần thường xuyên. Tôi có lẽ còn nhỏ và tính cẩu thả, nên áo quần thường giặt qua loa xong là tròng vào ngaỵ

Gần phía bên trên nhà tôi là nhà ông tư Trí, ông này có một đức tính là hay cằn nhằn vợ con lắm. Có chuyện gì mà vợ con làm sai ý ông thì ông “nhằn” lớn tiếng, cả dưới nhà tôi cũng nghẹ Câu cuối cùng lúc nào ông cũng nói như rên lên: “Răng tui khổ quá thế này nề trờị Trời ơi là trời!” Anh tư tôi cũng vậy, có chuyện gì không vừa ý thì ảnh cằn nhằn, rằng rực suốt, nên chị hai tôi thường đùa, “thằng nhằn như ông tư Trí”, sau này thành biệt danh của ảnh luôn.

Có một điều khác biệt giữa hai đứa tôi là, tôi mau mắn, nhậm lẹ, “lất cất” bao nhiêu, thì anh tư tôi chậm rãi, rề rà, “nước đến chân mới nhảy” bấy nhiêu. Buổi tối ngồi học bài chung trên chiếc bàn trong buồng nhà ngang, thì tôi “rống” cả xóm ai cũng nghe, còn ảnh thì đọc từ từ, lại hay ngủ gà, ngủ gật. Tôi thì học không hết bài, mà ảnh cứ tỉnh bơ, ngáy khì khì, khò khò.

Những trò chơi chung như đánh bóng chuyền, đá bóng, hai đứa tôi đều không xuất sắc, chỉ xếp hạng C trong xóm. Nên khi thành lập đội banh thiếu niên của xã, tụi tui đành ra rìạ

Cũng có vài kỷ niệm vui vui, dù khác tính nhau và ảnh là anh tôi, nhưng nhiều khi chúng tôi cũng “hợp đồng tác chiến” trong chuyện “con gái”. Như là tụi tui cùng rũ con Tình ra chỗ giếng nước, dụ hái trái dâu đất cho nó, rồi thò tay rờ thử “núm cau” của nó ra saọ Tuy còn nhỏ, nhưng có lẽ vì tính hiếu kỳ, tò mò của con nít, nên chúng tôi đã thành công. Con Tình không nói gì mà còn cười vui vẻ nữạ Buổi chiều hôm đó, mẹ tôi kêu hai đứa ra giếng tắm, vì tranh giành cái gàu múc nước không được, nên tôi nổi cáu, định mét mẹ là: “anh tư rũ con bóp v. con Tình, mẹ à”. Trong lúc ảnh sợ lộ tẩy, bèn xô mạnh tôi té nhào vào đám vò hốt giá của mẹ, nên tôi chưa kịp nói hết câụ Tôi bị té nhào vào đám mảnh sành, bị xóc, chảy máu tùm lum. Mẹ tôi hoảng quá kéo tôi vào nhà, lấy thuốc lá rê rịt cho cầm máụ Vết té bây giờ vẫn còn, và câu định nói đó, tôi chưa nói ra hết được bằng lời, coi như cuốn theo chiều gió bay đi, bay mãi đến bây giờ, chỉ có hai anh em tôi biết.

Anh tư học chỉ khá thôi chứ không giỏi, nhưng kỳ thi đệ thất năm đó, anh thi đậu vào trường công lập Trần Cao Vân, một ngôi trường tỉnh, nên cả nhà tôi vui như tết. Cha tôi làm một bữa tiệc đãi các thầy dạy ở trường tiểu học và các bạn đồng liêu ở hội đồng xã cũng mười mấy mâm. Thế là ngon, cả tỉnh cũng hơn ngàn thí sinh, lấy khoảng trăm rưởi, mà đậu được là ngon.

Thế là từ niên khóa đó anh tư bắt đầu đi học trung học, anh phải ở trọ, ăn cơm tháng dưới thị xã, mỗi cuối tuần mới được về nhà. Tôi cũng nhớ ảnh lắm, nhưng rồi tôi cũng có một số bạn học rũ chơi đủ mọi trò, nên cái nhớ cũng vợi bớt đị

Như vậy thì tôi thua anh tư tôi nhiều điều, nhưng gẫm cho cùng, tôi cũng có duyên ngầm với nụ cười có hai cái lúm đồng tiền trời cho, nên cũng vớt vát lạị Những năm sau đó, tôi cũng thành công trong công cuộc trường chinh tán gái, cũng là tay “sát gái” dễ nễ.

Sau này lớn lên, cùng chạng tuổi nhau, nên có lúc, tôi và anh tư cũng có nghĩ đến và thương ngầm một cô học trò nào đó, nhưng đó chỉ là “thương ngầm” mà thôi, không có “mối tình chung” nào sống động để đời, để nhớ đến…

Trần Yên Hòa
(trong truyện dài “Rơi Xuống Ấu Thơ”, sắp phát hành)
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Chiếc Áo Bà Ba In Hình Chữ Hỷ
Mới đầu nghe ba em gọi, tôi tưởng tên em là Muỗi. Tôi ghẹo em: “Muỗi này!Đừng chích anh, đau lắm”. Em trề môi, vẻ không bằng lòng: “Tên em là Muội. Muội là em. Em là Muội”. À ra thế!

Ba Muội, chú Phu, người Quảng Đông. Phu là phú, phú là giàu. Tên chú giàu nhưng chú không giàu. Chú chỉ có chiếc xe hủ tiếu, bán điểm tâm dưới hai tàng me đại thụ, trên vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường

Má tôi đông con, cũng nghèo, có quầy bán cơm tấm gần bên.

Chủ nhựt được nghỉ học, hai đứa ra phụ chạy bàn. Em giúp ba em. Tôi giúp má tôi. Năm ấy tôi mười tám tuổi, học Đệ nhứt, năm cuối cùng của bậc Trung học Đệ nhị cấp. Cuối năm, tôi sẽ thi Tú tài hai. Đậu thì lên Đại học. Rớt thì vào Thủ Đức. Chiến trường đang hồi ác liệt. Bạn tôi, rớt Tú tài một, đi Đồng Đế, có đi mà chẳng có về. Muội, mười sáu tuổi, học Đệ tam, trường Tàu, sắp thi bằng Cao Trung.

Muội là cô giáo dạy tôi tiếng Quảng Đông. Dách là một, dì là hai, xám là ba, xập là mười. Bài xập xám là bài mười ba lá. Muội nói Muội không thích thanh niên đánh bài. Tôi đâu có ở không để đi đánh bài; vì tôi còn bận tơ tưởng đến Muội của tôi suốt ngày; ngay cả năm thi Tú tài hai, bài vở còn cả đống, tôi còn không để mắt tới nữa là.

Muôi dạy tôi tính tiền là xấu lúi. Kỷ tố là bao nhiêu. Dách cô phảnh là một tô hủ tiếu. Tôi hỏi: “Một dĩa cơm tấm bì, tiếng Quảng nói làm sao?” Muội nói: “Muội không biết”. Tôi nói: “Đi hỏi ba Muôi đi!”. Muội không dám. Muội sợ ba biết Muội quen với tôi, ba Muội rầy.

Ba Muội nói: “Con trai Việt Nam làm biếng lắm, đi chơi tối ngày, không lo buôn bán. Không buôn bán lấy gì ăn. Không có gì ăn, làm sao lấy vợ. Nếu lấy được vợ làm sao nuôi vợ, nuôi con”.

Tôi nói: “Muội đừng lo. Tôi sẽ rán học, thi đậu Tú tài hai, vào Đại học Sư phạm, được hoãn dịch, đi bán chữ, để có tiền nuôi Muội. Muội đi bán hủ tiếu, để tôi có hủ tiếu, ăn trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế”.

Muội nói: “Muội còn nhỏ lắm, chưa biết yêu”. Tôi nói: “Tôi sẽ chờ vài năm nữa”.

Nhưng thời cuộc biến chuyển. Tôi không chờ được Muội mà ngược lại Muội phải chờ tôi. Chờ tôi suốt cả một thời con gái.

Cuối năm đó tôi đậu Tú tài hai. Hai năm xa Mỹ Tho, đi học Đại học Cần Thơ, tôi không còn dịp gặp Muội mỗi sáng chủ nhựt, để nói chuyện tào lao bắc đế nữa. Tôi sắp ra trường, sẽ đổi về một quận lỵ buồn thỉu, buồn thiu nào đó của đồng bằng sông Cửu Long; để làm một ông giáo làng, hai mươi mốt tuổi. Tôi sẽ trở về Mỹ Tho nhờ má tôi nói với chú Phu, ba Muội, hỏi cưới Muội cho tôi. Bây giờ tôi đã có đủ chữ để đi bán rồi. Tôi sẽ có tiền nuôi Muội, để ba Muội không còn chê con trai Việt Nam làm biếng nữa. Tôi sẽ không còn ăn cơm tấm má nấu. Tôi sẽ ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế.

Tôi không ao ước cao xa gì hết. Chuyện ấy dành cho con nhà giàu, quyền thế. Tôi chỉ ước được làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ tiếu. Vậy mà cũng không được!

Mùa hè năm 72: mùa hè lửa đỏ. Các trận đánh lớn đồng loạt nổ ra ở Quảng Trị, Kon Tum, An Lộc. Tin chiến sự chiếm đầy mặt báo. Trang sau là cáo phó, phân ưu những người lính tử trận. Tôi tốt nghiệp, nhưng không được nhận nhiệm sở. Lệnh tổng động viên đã ban hành. Tôi vào trường Bộ Binh Thủ Đức.

Tôi thư về Muội bảo chờ tôi. Tôi còn quá trẻ để chết. Tôi sẽ trở về! Tôi sẽ trở về! Tôi vẫn còn muốn ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế. Hai năm xa Mỹ Tho, tôi đã ăn hủ tiếu nhiều nơi, nhiều chỗ nhưng không nơi nào, chỗ nào nấu hủ tiếu ngon bằng Muội của tôi.

Muội hứa sẽ chờ tôi về dẫu trời sập chăng đi nữa. Lời hứa ấy làm ấm lòng tôi suốt những ngày gian khổ giày sô, áo trận.

Tôi rời trường Bộ Binh Thủ Đức, về Thủy quân Lục chiến. Sư đoàn là lực lượng tổng trừ bị, nên tôi lội khắp nơi: từ Cà Mau, Chương Thiện, Bến Tre ra tận Thừa Thiên, Quảng Trị.

Một năm lính trôi qua, khi tiểu đoàn về Mỏ Cày, Bến Tre truy kích chủ lực miền của địch về quấy rối thì tôi đạp phải mìn. Sức nổ của trái mìn tự tạo bằng quả đạn pháo 105 lép, đẩy tôi văng tuốt xuống mương, mình dính đầy những miểng.

Tôi không chết, như đã hứa với Muội. Trực thăng phầm phập tải thương về Bịnh viện 3 Dã chiến Mỹ Tho. Tôi nằm trên băng ca, ngoài hành lang trên lầu, chờ ngày mai xe hồng thập tự chuyển tôi về bịnh viện Lê Hữu Sanh của sư đoàn ở Thị Nghè. Muội nghe tin tôi bị thương; tất tả cùng má đến thăm. Đã hết giờ thăm thương bịnh binh, má với Muội đứng dưới lề đường Trương Định nhìn lên nơi tôi nằm. Tôi thò cái tay, không bị dính miểng, vẫy vẫy. Má khóc. Muội cũng khóc. Vạt áo xẩm, Muội mặc, đẫm đầy nước mắt.

Muội sợ tôi chết, Muội khóc. Khóc cho giấc mộng tôi muốn làm thầy giáo đi bán chữ nuôi Muội; Muội đi bán hủ tiếu cho tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế đã không thành.

Tôi nằm bịnh viện cả tháng trời. Miểng trong người lâu lâu lại lòi ra. Tôi nghiến răng, rút miểng ra, máu lại chảy. Tôi được hai tuần phép để chờ ra hội đồng giám định y khoa.

Tôi trở về Mỹ Tho gặp má. Cởi giầy sô, áo trận, tôi mặc lại chiếc áo học trò năm cũ. Tôi ra vỉa hè, dưới hai tàng me đại thụ, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, chạy bàn cho má tôi. Tôi gặp lại Muội. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhứt đời tôi, khi bây giờ, tôi nhớ lại.

Tôi hỏi Muội: “Đẹp tiếng Quảng là gì?”. Muội nói: “Hụ len. Còn yêu là ói”. Vậy thì “Nị hụ len; ngọ ói nị”. Muội mắc cỡ, ửng hồng đôi má.

Cả tháng trời nằm bịnh viện, không có dịp xài, lương vẫn y nguyên. Tôi lãnh tiền ra, đưa cho má tôi một nửa. Má tôi không cầm tiền, má khóc.

Tôi nài nỉ: “Em con đang sức lớn, má ơi!”

Số tiền còn lại tôi dắt Muội xuống tiệm Văn Minh, gần rạp hát Vĩnh Lợi, mua vải cho Muội may áo. Tôi chọn một xấp gấm Thượng Hải có in chữ Tàu.

Tôi hỏi: “Chữ Tàu đó nghĩa là gì?”

Muội nói: “Đó là chữ hỉ. Hỉ là vui. Vải này dành cho người ta may áo cưới”.

Tôi hỏi: “Muội muốn màu gì?”

“Màu đỏ hên lắm! Muội xin Trời, Phật cho anh đi đánh giặc bình an, hết giặc, về với Muội”.

Tôi nói: “Thôi! Đời anh xui quá xá rồi còn gì, muốn đi bán chữ mà cũng không được, mới đi lính có một năm đã bị thương rồi, hên đâu hỏng thấy”.

Tôi chọn cho Muội vải áo màu xanh đọt chuối.

Tôi bảo: “Màu xanh là màu hy vọng. Anh hy vọng Muội sẽ chờ anh dù cho trời sập tới nơi.” Muội nói: “Muội sẽ chờ.”

Tôi may cho Muội một chiếc áo bà ba để bắt đền cho chiếc áo xẩm đẫm đầy nước mắt khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bệnh viện 3 Dã chiến ngày nào.

Muội nói: “Muội mặc chiếc áo bà ba giống hệt con gái Mỹ Tho.”

“Ba má sanh Muội ra ở đây thì Muội đã là con gái Mỹ Tho rồi; mà con gái Mỹ Tho chánh cống chưa chắc đã dám đọ với em”. Tôi nịnh Muội.

Hai tuần phép trôi nhanh, tôi ra hội đồng giám định y khoa tái khám, bị phân loại một, trở về tác chiến. Lại băng rừng, vượt suối, bạc màu áo trận, mốc thích giầy sô cho đến ngày tan hàng, sập tiệm.

Tôi chỉ là một sĩ quan cấp thấp, nhưng lại thuộc binh chủng rằn ri nên những người thắng trận cải tạo tôi hơi lâu; mãi năm năm sau mới thả tôi về.

Tôi trở về Mỹ Tho bèo nhèo như một chiếc áo rách. Má tôi đã mất khi tôi còn ở trong trại. Mấy đứa em giấu tôi tin buồn. Đứng trước bàn thờ má, đốt một nén nhang, tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.

Má ơi!

Tôi nhớ lại nồi cơm tấm má nấu, nồi cơm tấm nuôi tôi ăn học. Tôi nhớ cái vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, dưới hai tàng me đại thụ mà mùa thu lá me bay bay, rơi đầy trên tóc. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi, khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bịnh viện 3 Dã chiến năm nào. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi khi không chịu cầm số tiền lương tôi gởi. Bây giờ má tôi đã mất rồi; đàn em tôi vẫn còn nheo nhóc.

Cả nhà đói, ăn độn bo bo mà cũng không đủ. Ăn buổi sáng, phải chạy, lo buổi chiều. Việc chạy gạo dồn lên cả đôi vai khẳng khiu của em gái tôi đang tuổi thanh xuân. Nhưng tuổi thanh xuân của em tôi còn đâu nữa. Nước mất nhà tan! Chưa bao giờ tôi thấm thía câu nói ấy cho bằng bây giờ.

Tôi không tìm gặp lại Muội nữa. Tình thơ dại của tôi đã tan theo vận nước. Bây giờ tôi chỉ là một sĩ quan ngụy, đi cải tạo về, mỗi tuần phải trình diện công an phường một lần cho tới ngày xả chế. Tôi ra khỏi một nhà tù nhỏ, để vào một nhà tù lớn hơn! Tôi chỉ có chữ, mà chữ bây giờ chẳng ai mua. Chế độ này không cần chữ. Lúc tôi lên trình diện, lão phó công an phường lẩm nhẩm đánh vần lịnh tha của tôi mà nước miếng tràn ra cả khóe miệng. Chế độ này cần lý lịch. Mà lý lịch tôi hạng 15, nghĩa là hạng bét, tận cùng đáy xã hội, thì tôi làm được gì bây giờ?

Tôi không tìm gặp lại Muội không phải vì tôi mặc cảm. Tôi không có gì phải mặc cảm cả. Tôi chỉ đi lính, đánh giặc, tôi thua, giặc bắt tôi ở tù. Thế thôi!

Tôi không tìm gặp lại Muội chỉ vì tôi không muốn mình trở thành gánh nặng cho Muội. Yêu người, có ai muốn trở thành gánh nặng cho người mình yêu bao giờ đâu? Tôi cũng không muốn trở thành gánh nặng cho em tôi. Thương em, có ai muốn trở thành gánh nặng cho em mình thương bao giờ đâu?

Tôi đã sống sót suốt năm năm trời dưới chín tầng địa ngục. Tôi đã đói, đói đến mức phải ăn bất cứ cái gì động đậy: cóc, nhái, ễnh ương, bù tọt. Tôi phải sống sót để trở về, như đã hứa, với Muội. Kẻ thù muốn tôi quỳ xuống, van xin. Tôi không quỳ xuống, van xin. Kẻ thù muốn tôi chết. Tôi không chết. Tôi đã trở về, dù thân tàn ma dại.

Em gái tôi đem chiếc nhẫn cưới của má để lại, đến vợ tên công an khu vực cầm, để tôi có chút vốn đi buôn lậu dầu dừa. Ngày xưa nói đến buôn lậu là nói đến tiền tỉ, đến những vật phẩm đắt tiền, trốn thuế, chuyển hàng có xe quân cảnh hụ còi như vụ Long An. Còn bây giờ chỉ mười lít dầu dừa, bỏ vào cặp táp, từ cầu Ba Lai qua phà Rạch Miễu về Mỹ Tho, kiếm lời đủ mua lít gạo.

Đế quốc Mỹ, tàu to, súng lớn, không đủ sức đưa nhân dân ta trở về thời kỳ đồ đá. Nhà nước ta, đỉnh cao trí tuệ loài người, bằng ngăn sông, cấm chợ, rào đường, chặn ngõ dễ dàng đưa nhân dân ta trở lại thời kỳ đồ đá, thời kỳ hái, lượm, thời kỳ của nền kinh tế tự cung, tự cấp; bởi buôn bán, dù năm mười lít gạo, mười, hai chục lít dầu dừa là không lao động, không sản xuất, là bóc lột, là chủ nghĩa tư bản xấu xa.

Tôi cắt tóc ngắn lên, cho gọn gàng, cho có vẻ thầy giáo. Phần thì để né mấy tay du kích bên Cầu Bắc Tân Thạch, quê hương Đồng Khởi. Mấy tay du kích VC này có kiểu làm tiền rất láu cá, bằng cách làm nhục khách bộ hành qua phà, dùng súng, chận họ lại, bắt vào hớt tóc. Tóc dài là tàn dư Mỹ Ngụy. Ngồi trước gương của ông thợ hớt tóc đầu đường, thấy tóc mình đã điểm vài sợi bạc, dù tôi chưa đầy ba mươi tuổi. Tôi mặc lại chiếc áo sơ mi trắng năm học đệ nhứt, đã ố vàng. Chiếc quần xanh được nhuộm đen. Mặc áo bỏ vô quần, mang giày với đôi vớ rách. Tôi xách chiếc cặp táp cũ nhưng không để đựng sách vở. Sách vở ích gì cho buổi ấy. Chiếc cặp đựng cái can nhựa mười lít dầu dừa. Tôi nhập vai thầy giáo, dù ước mơ làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ tiếu để tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế, đã chết tự lâu rồi, từ Mỹ Tho qua Bến Tre dạy học, canh giờ đến lớp hay tan học, hòa vào đám học trò để vượt qua trạm Cầu Bắc.

Tôi đi buôn lậu dầu dừa được chừng sáu tháng thì thằng bạn học cũ thời trung học cũng ở tù về, rủ tôi hùn tiền mua chiếc xích lô đạp. Nó chạy sáng, tôi chạy chiều hoặc ngược lại. Thằng bạn tôi nói, cay đắng: “Thằng Mỹ quýnh quáng bỏ chạy, còn làm rớt lại cái tên Mỹ, Xô xích Le, xe xích lô”. Tôi thì lại nói: “Mấy ông tai to, mặt lớn của tụi mình thì hô hào tử thủ, để có thời giờ tom góp vàng bạc, đô la rồi dông, còn làm rớt lại chức dân biểu. Xô xích Le, dân biểu. Dân biểu đâu, mình chạy đó”

Một buổi chiều sau khi chở khách ra bến xe cổng thị xã, tôi thả xe không về chợ Vòng Nhỏ thì thấy một ông cắc chú đội chiếc nón mây đan, rộng vành, như Khương Đại Vệ trong phim kiếm hiệp tàu trước 75. Ông mặc chiếc quần tiều lỡ, quá gối, chiếc áo thung tay dài gần tới cùi chỏ, bỏ vô quần, gánh hai cái cần xé không, đi lủi thủi. Tướng đi ngờ ngợ, quen quen. Chú Phu rồi chứ chẳng ai!

“Đi xích lô hông? Chú ba!” Chú Phu nhìn lên, ngơ ngác, ngờ ngợ một lát, rồi nhận ra tôi. Tôi đã đổi thay nhiều quá.

“Chèn ơi! Vậy mà ngộ tưởng nị chết rồi.”

“Chết sao được! Sống nhăn răng ra đây nè.”

Tôi chở chú Phu về nhà. Cũng căn nhà lợp ngói âm dương ở đường Huyện Toại, nhưng có vẻ tiêu điều, u ám. Chiếc xe hủ tiếu xập kỷ nìn, năm xưa, ngày cũ, còn đậu trước hàng ba, xẹp bánh, bụi bám, nhện giăng.

“Nị ở chơi, ngộ nấu hủ tiếu cho nị ăn. Lâu quá ngộ cũng không có ăn hủ tiếu.”

“Vậy chứ chú thôi bán hủ tiếu rồi sao?”

“Thôi lâu rồi! Giờ ai cũng mạt, tiền đâu ăn hủ tiếu.”

“Thì bán cho mấy ổng.”

“Ổng nào? À mấy ông cách mạng hả? Ờ mấy ổng đâu có thèm ăn hủ tiếu. Mấy ổng ăn vàng không hà.”

Chú Phu đem ra một tô hủ tiếu và một lít rượu. Tô hủ tiếu, chú Phu vừa mới nấu, cũng chịu cùng số phận tang thương theo vận nước, chỉ nước lèo, bánh và lèo tèo những lát thịt mỏng như tờ giấy quyến.

Tôi nhớ tô hủ tiếu Muội nấu cho tôi ăn trong những ngày mưa bán ế. Tô hủ tiếu với bánh bột lọc làm bằng gạo Gò Cát, trụng với nước thật sôi, dai mà không bở như hủ tiếu Sài Gòn, nước lèo nấu bằng xương heo, tôm khô, khô mực, cải bắc thảo, thêm vài tép mỡ, điểm xuyến vài cọng sà lách non xanh với mấy cọng hành luộc, một nhúm giá, vài lát ớt sừng trâu xắt mỏng, rắc chút tiêu, ăn với xì dầu và dấm đỏ. Tô hủ tiếu, người thương mình nấu, ly cà phê sữa nhỏ, xây phé nại, do chính tay mình pha, trong những ngày bão rớt, mưa dầm, bán ế giờ đã trở thành kỷ niệm.

Tôi không tiện hỏi thăm về Muội, dù rất muốn.

Tôi hỏi: “Chú bây giờ làm gì để sống?”

“Thì nị thấy đó, ngộ đi mua ve chai, lông vịt về bỏ cho vựa. Nghề ve chai lông vịt mà, nghề móc bọc, móc bọc ny lon đem xuống sông rửa, rồi cân ký. Bây giờ khổ quá! Nhớ hồi xưa mình vui quá!”

Lít rượu ngâm ô môi, cho có màu, chú, cháu cưa hai gần hết.

Chú Phu, chưn nam đá chưn chiêu, lảo đảo bước vào nhà trong, lấy ra cái bọc ny lon.

Chú nói: “Con Muội! Nó gởi cho nị. Con Muội! hu hu! Nó chết rồi!”

“Muội ơi!”

“Ngộ biết nó thương nị. Lúc nị đi ở tù, nó nói nó chờ nị được tha về, nó sẽ đi bán hủ tiếu nuôi nị. Nhưng có được đâu! Tụi nó đánh ăn tụi mình rồi lại giành ăn, đánh lẫn nhau. Thiệt hết biết! Hết Pol Pot, Bành Trướng Bắc Kinh, rồi Nạn Kiều. Ngộ sợ tụi nó sẽ đuổi cha con ngộ về Trung Quốc. Tưởng thống chế bỏ ngộ chạy ra Taiwan. Mao xếnh xáng rượt ngộ chạy tuốt đến đây. Mỹ Tho đất lành chim đậu. Rồi sanh ra con Muội. Ngộ nói với con Muội: “Mỹ Tho bây giờ đất dữ rồi, thôi bay đi con!”

Muội ngần ngừ, có ý đợi nị về. Ngộ nói: “Nị làm quan, mà lại rằn ri nữa, tù biết đến lúc nào ra? Nếu không đi; sợ không còn có dịp. Cái cột đèn còn muốn đi nữa mà.”

“Suốt cuộc đời bán hủ tiếu, ky cỏm được hai cây vàng, ngộ xuống năn nỉ mấy xì thẩu dưới chợ Mỹ Tho cho con Muội một chổ.”

“Tàu nó ra cửa được ba ngày đêm thì bơm nhớt bị hư, máy lột dên, trôi giạt. Ở hải phận quốc tế, tàu buôn qua lại nườm nượp mà không ai vớt. Ba tuần linh đinh trên biển, tuyệt vọng quá, mấy người đi trên tàu gom quần áo, giày dép lại, đốt. Cuối cùng có chiếc tàu buôn tội nghiệp dừng lại, thả thang dây xuống. Ba tuần trên biển, nị nghĩ coi, sức đâu nữa mà leo. Nó sút tay, rớt xuống biển. Chết chìm. Hu hu.”

Chú Phu không còn nước mắt nữa để khóc, chú chỉ kêu hu hu, tiếng kêu của con thú bị một vết thương trí mạng, bị ví vào đường cùng, không lối thoát thân.

“Đêm trước khi đi, nó đưa cho ngộ cái này, nói nếu nị còn sống sót trở về, thì đưa lại cho nị. Hu hu!”

Trong cái bọc ny lon, chú Phu đưa cho tôi, là chiếc áo bà ba hình chữ hỉ tôi may cho em ngày cũ.

Muội ơi! Xác em giờ ở phương nào. Trôi vào đất Thái hay vào Nam Dương. Áo bà ba, Muội yêu, hòa biển tím. Tình còn đây trời đày ta mất nhau.

Tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.

“Muội ơi! Anh sẽ đem chiếc áo bà ba hình chữ hỉ của chúng mình theo, ra biển!”

Đoàn Xuân Thu
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Đà Lạt Trời Mưa

Phạm Tín An Ninh

Tôi đến Đà Lạt đúng vào một ngày mưa. Mưa tầm tã. Ngồi trong nhà Thủy Tạ, nhìn những hạt mưa bay giăng kín rừng thông, phủ mờ khu phố Hoà Bình , và rơi lả tả xuống mặt hồ Xuân Hương, tôi mơ hồ như những giọt nước mắt của người góa phụ đã từng một thời nhan sắc.

Người con gái vừa đến gặp tôi làm cho tôi mỉm cười với sự so sánh lạ lùng này. Bởi cô ta cũng xinh đẹp, và dù có nở nụ cười tỏ ra mừng rỡ khi chào tôi, vẫn không giấu được nét buồn trong đôi mắt. Một nỗi buồn có cái gì xót xa sâu lắng lắm.

Tôi đã đến thành phố này nhiều lần. Lần cuối cùng vào mùa Giáng Sinh năm 1970, khi đơn vị tôi may mắn được lệnh về đây phối họp hành quân giữ an ninh cho một khóa Võ Bị làm lễ ra trường. Bao nhiêu năm trong rừng núi tây nguyên gió lạnh mưa mùa, rồi xuống bờ biển Phan Thiết với những động cát trơ trọi nóng như lửa đốt, bất ngờ được về Đà lạt, cho dù chỉ sau một ngày ở thành phố, đơn vị tôi lại được đổ xuống những rừng thông xa tít, nhưng đám lính tráng bọn tôi vẫn có cái cảm giác như được đi nghỉ mát. Người ta nói đúng, Đà Lạt dễ thương như những cô gái với gò má trắng hồng và đôi môi mộng đỏ để ai một lần lên xứ Hoa Đào mà lòng không vấn vương. Đà lạt cũng là nơi có nhiều huyền thoại về những mối tình đẹp và buồn của các cô sinh viên với những chàng trai mang alpha đỏ theo nghiệp kiếm cung, mà tôi đã đọc được trong những bài thơ thật buồn của Lệ Khánh từng vang tiếng một thời.

Nhưng đó là Đà Lạt của ngày xưa. Còn hôm nay tôi đến Đà Lạt, với ngổn ngang những nỗi buồn nặng trĩu trong lòng, và Đà Lạt bây giờ chỉ là một thành phố chết.

Tôi ra tù, trong thời gian còn bị quản chế, trong túi không có bất cứ một tờ giấy nào. Ngay tấm “Giấy Ra Trại” cũng đã bị công an xã giữ. Nhờ thằng em cùng đơn vị cũ, có lò bánh mì ở Tháp Chàm, gởi tôi theo một chiếc xe bộ đội nhận mối chở bánh mì với tiền thù lao khá, tôi mới có mặt ở đây. Anh tài xế sau khi giao mấy thùng bánh mì, còn gởi tôi cho cô “chủ nhiệm” quán Thủy Tạ (bây giờ là của nhà nước), bảo là ông anh họ, để tôi yên lòng không bị hỏi giấy tờ. Quán vắng tanh.Tôi chọn cái bàn nhỏ xa phía trước và gọi hai tách trà nóng. Tôi cũng chỉ đủ tiền để trà hai tách trà này.

- Anh chờ em có lâu không ?

Tôi giật mình khi nghe cô gái hỏi.

- Không sao, tôi chờ cũng đã khá lâu, nhưng được gặp chị hôm nay là tôi mừng lắm rồi.

Điều mà ai cũng ái ngại khi phải mang tin buồn đến cho một người. Đặc biệt người đó lại lại là một cô con gái đẹp, như cô gái đang ngồi trước mặt tôi đây. Tôi dè dặt :

- Chắc chị đã biết, như trong lá thư tôi gởi. Tôi là bạn tù của Thống, và hôm nay muốn gặp chị là để nhắn lại những điều Thống đã nhờ tôi.

- Em biết là anh Thống đã chết từ năm 1978, nhưng mãi đến năm ngoái , em mới được phường đưa “Giấy Báo Tin”. Em không biết làm sao báo cho mẹ anh ấy biết. Bà ở bên Mỹ nhưng em không liên lạc được.

Tôi bất ngờ, nhưng chợt thấy một chút yên lòng khi nghĩ là cô sẽ không còn đột ngột nhận một tin buồn từ chính miệng của tôi .

- Chị đã biết tin buồn về Thống. Như vậy cũng là may, chứ không phải người tù nào chết mà người nhà cũng được báo tin. Hôm nay, dù hoàn cảnh khó khăn, tôi cũng phải tìm gặp chị đề nói lại cùng chị những lời trăn trối cuối cùng, và trao cho chị những kỷ vật mà anh Thống nhờ tôi trao lại chị.

- Cả tuần nay lòng em rất bồn chồn, mong sớm được gặp anh. Vì em không biết anh Thống chết ở đâu và mồ mả ra sao. Nhiều lần nằm mơ, em thấy anh Thống, nhưng chưa bao giờ nghe anh ấy bảo là anh đã chết.
Tôi lấy trong túi ra để trên bàn một sợi dây đeo một tấm ảnh nhỏ được lồng vào trong cái khung có hình trái tim đẽo bằng gỗ mun -loại gỗ quý mà chúng tôi thường tìm được ở khu rừng Việt Bắc- , một chiếc vòng nhỏ làm bằng nhôm xinh xắn, có khắc đậm sáu chữ Lê Minh Thống & Hà Nhất Anh, và trịnh trọng đứng lên đưa cho cô.

Nhất Anh chính là cô gái, và Minh Thống là tên một người bạn tù của tôi. Anh đã chết sau gần hai năm bị chuyển ra ngoài bắc.

Tôi gặp Thống ở trại Lào Cai, khi hai thằng vừa trong nam mới chuyển ra. Sau hơn một năm cả hai cùng chuyển về trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn và may mắn được “biên chế” về cùng một tổ. Thống tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, được chuyển sang không quân, lái phản lực. Trong thời gian học trường Võ Bị, Thống quen Nhất Anh , khi ấy đang là sinh viên của trường Chính trị Kinh Doanh. Thống chỉ còn bà mẹ già và cô em gái ở Sài Gòn. Cuộc tình của cô sinh viên Đà Lạt và chàng cựu sinh viên sĩ quan alpha đỏ kéo dài khá lâu. Hai người đã làm lễ hỏi. Nếu Thống không sang Mỹ học phi hành và nếu không có ngày 30 tháng tư, thì hai người đã làm đám cưới .

Những ngày cuối cùng khi Sài gòn hấp hối, Thống được bạn bè thu xếp hai chỗ trên trực thăng để bay ra hạm đội Mỹ, nhưng Thống lại dành cho mẹ và cô em gái. Gởi mẹ và em cho thằng bạn thân, Thống nói dối với mẹ là anh sẽ đi sau.

Thống liều lĩnh tìm mọi cách chạy về Đà lạt. Chưa kịp đón Nhất Anh, thì Sài Gòn mất. Thống nằm ở nhà Nhất Anh một tuần rồi ra trình diện “uỷ ban quân quản”, nhưng người ta chỉ cấp giấy chứng nhận và ghi là phải về Sài Gòn trình diện chính quyền địa phương ngay. Trở lại Sài Gòn, nhà bị tịch thu, Thống phải ở ké nhà một người bà con trước khi vào trại cải tạo.

Mấy năm trong tù, Thống có liên lạc được với Nhất Anh . Nhưng vài tháng mới nhận được một lá thư ngắn, chỉ hỏi thăm vài câu và khuyên “học tập tốt để sớm được khoan hồng về với nhân dân”. Bao nhiêu nhung nhớ yêu thương đều phải dấu kín ở trong lòng. Trong tờ khai lý lịch, Thống ghi Hà Nhất Anh là vợ, cũng là người thân duy nhất, và địa chỉ của Nhất Anh cũng là nơi anh xin cư trú sau này .

Thống to con đẹp trai, nhưng dường như tình yêu dễ làm cho Thống yếu lòng. Có những ngày đi chặt nứa trong rừng, Thống chỉ ngồi khóc và thì thầm gọi tên người yêu. Mấy lần không mang về đủ nứa, bị phạt cắt bớt một nửa phần ăn vốn đã ít oi, nhưng vẫn không ngăn được nước mắt của Thống. Dường như khi lòng đang thương nhớ ai, thì cái đầu không còn điều khiển đôi tay được nữa. Nhiều hôm tôi phải vận động anh em nhường bớt một chút phần ăn cho Thống, và chia nhau đi lấy thêm nứa cho Thống có đủ chỉ tiêu để không bị phạt.

Thống còn trẻ, nhưng cũng như hầu hết sĩ quan xuất thân từ Đà Lạt, dù ở binh chủng nào cũng kiêu hùng và thăng tiến rất nhanh. Thống nhỏ hơn tôi sáu tuổi, nên xem tôi như người anh. Có điều gì vui buồn, Thống tìm tôi chia sẻ. Tôi luôn an ủi và khuyến khích để anh có thêm nghị lực. Thống có gì khó khăn tôi sẳn sàng hết lòng giúp Thống.

Sau này, đội tù của tôi được phân công đi lấy gỗ về xây dựng hội trường. Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ, chúng tôi chia từng nhóm hai mươi người vừa kéo vừa bẩy cho từng thân cây lăn theo những con đường mòn ấy từ trên núi cao lao xuống suối để cho nó trôi về bên hông trại.

Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc, nên chỉ sau một tuần lấy cây, người nào cũng mệt lả. Một hôm đang lấy sức bật một thân cây xuống bờ suối, Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.

Trời nhá nhem tối, cả hơn bốn mươi thằng tù chia nhau trèo xuống suối đi tìm Thống. Gần nửa giờ sau chính tổ của tôi tìm được Thống. Anh nằm bất động bên bờ suối. Rất may là ở một nơi không có đá. Thống thoi thóp thở, nhưng không còn cử động được.

Chúng tôi nhanh chóng kết một cái bè gỗ, rồi theo dòng suối, cùng nhau đẩy anh về trại. Sau hơn một tiếng đồng hồ trong trạm xá, Thống tỉnh lại, mở hé mắt nhìn mọi người. Khi nhận ra tôi, Thống thì thào :

- Nếu sau này anh còn sống mà về được, nhớ tìm giùm Hà Nhất Anh và nói là em xin lỗi nàng. Mong nàng hãy sớm lấy chồng và quên em đi.

Tôi nắm chặt đôi vai lạnh lẽo của Thống :

- Thống yên chí, tôi sẽ làm bất cứ điều gì mà Thống dặn dò.

Thống cố gắng mở lớn mắt nhìn tôi như cầu khẩn :

- Nhờ anh giữ lại cái vòng nhôm trong balô và tấm ảnh em đang mang trong cổ này, trao lại cho Nhất Anh. Nhớ nói giùm là em xin lỗi cô ta.. xin lỗi cô ta .

Ngày hôm sau, một buổi chiều mưa buồn ảm đạm, dưới sự kiềm soát của hai vệ binh, tôi cùng ba người bạn tù đẩy xác Thống trên một chiếc xe “cải tiến” ra chôn dưới triền núi, bên một hốc đá . Chúng tôi đào huyệt đúng vào lúc cơn mưa trút xuống. Huyệt đào tới đâu thì nước ngập theo tới ấy. Tôi năn nỉ xin hai vệ binh cho chúng tôi tìm một nơi khác cao hơn, và chờ cơn mưa tạnh bớt, nhưng không được đồng ý, mà còn bị quát tháo, bảo phải “chôn khẩn trương lên mà về ngay”.

Tôi phải ngồi đè trên xác Thống, lềnh bềnh trên nước, để cho ba người bạn tù kia lấp đất.
Chuyện xảy ra đã hơn sáu năm rồi. Thời gian có biết bao sự đổi thay. Tôi cũng đã nghe và chứng kiến không ít những điều phản trắc. Không biết bây giờ Nhất Anh đã có chồng chưa và trong cảnh đổi đời kéo theo bao cay đắng, liệu trong lòng cô có còn lưu luyến chút tình xưa.

Đắn đo giây lát rồi tôi cũng quyết định phải nói hết những gì tôi biết và nhất là những điều mà Thống, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đã nhờ tôi nếu còn có dịp trở về, hãy nói lại cùng nàng.

Nghe tôi kể xong mọi điều, Nhất Anh vẫn ngồi yên bất động. Im lặng một lúc tôi nghe tiếng nàng khóc. Hai tay nắm chặt các kỷ vật mà tôi vừa trao lại cho nàng. Ngoài trời những cơn mưa càng vần vũ. Tiếng mưa như thấu hiểu được nỗi niềm, từng đợt trút xuống mái nhà Thủy Tạ làm át đi tiếng sụt sùi, để cho nàng khóc. Tôi cũng đã không cầm được nước mắt.

- Em cám ơn anh, và xin lỗi .. em đã không nén được xúc động.

Tôi cũng kịp lấy lại bình tĩnh và tìm lời an ủi nàng :

- Dù sao mọi việc cũng đã qua rồi. Sau cái ngày nước mất nhà tan, biết có bao cảnh chia lìa tang tóc. Thôi thì tôi cầu mong Nhất Anh sớm nguôi được nỗi buồn này và có thêm nhiều nghị lực để mà bước tới, như lời trối trăn của Thống. Nhất Anh còn trẻ mà, còn cả một con đường thật dài trước mặt. Còn tôi, trong hoàn cảnh này, cũng chẳng biết rồi đời sẽ ra sao. Thôi đành phó cho trời đất đẩy đưa.

Nhất Anh vẫn ngồi bất động, không nói lời nào. Nhìn đồng hồ treo trên vách, nhớ tới lời hẹn của anh tài xế, tôi khẽ gọi nàng :

- Chị Nhất Anh ! Chỉ còn 15 phút nữa là anh tài xế sẽ quay lại đón tôi. Sau này nếu chị có cần gì ở tôi, cứ liên lạc với tôi nghe !

Tôi nói cốt chỉ để an ủi thôi. Chứ tôi thì còn khả năng gì mà giúp nàng. Hơn nữa thời buổi nhiễu nhương này, dễ gì mà liên lạc được với nhau.

Nhất Anh lấy tay lau nước mắt, ngước lên nhìn tôi, ngần ngừ vài giây rồi lên tiếng :

- Nhờ anh vẽ lại và hướng dẫn cho em nơi chôn cất anh Thống. Sau này biết đâu có dịp may, em sẽ tìm ra thăm anh ấy.

Tôi đứng lên đến quày trả tiền hai tách trà, và xin một tờ giấy trắng. Tôi ngồi vẽ khá tỷ mỷ và hướng dẫn cho Nhất Anh con đường đến trại tù, và mộ của Thống nằm bên hốc đá trên triền núi, phía sau trại tù chừng một cây số. Cũng may là có cái hốc đá lớn duy nhất, để có thể định hướng được ngôi mộ nằm ở nơi nào giữa vùng rừng núi bao la.

Nhất Anh đứng dậy mặc lại áo mưa, xúc động nói lời chia tay, rồi đạp xe đi. Tôi nhìn theo bóng dáng nhỏ nhắn của nàng lảo đảo xiêu vẹo dưới cơn mưa tầm tã mà ngậm ngùi lo âu cho số phận của nàng. Tôi nghĩ có lẽ không bao giờ tôi còn có dịp gặp lại Nhất Anh.

Mùa hè năm rồi, vợ chồng tôi sang Cali thăm mấy cô con gái, nhân tiện chúng tôi đến thăm gia đình ông anh họ ở thành phố biển San Diego. Giáng Sinh năm 1970, nhân cuộc hành quân bất ngờ ở Đà Lạt, tôi có ghé thăm anh chị,. Khi ấy anh làm ở trung tâm điện lực Đa Nhim và vợ anh là giáo sư dạy trường Bùi thị Xuân Đà Lạt. Anh chị rời Việt Nam từ những ngày Sài Gòn hấp hối, nên cũng đã hơn ba mươi năm rồi bây giờ anh em mới gặp lại nhau. Anh lớn hơn tôi gần mười tuổi, vừa bà con lại vừa là học trò cưng của ba tôi lúc anh còn học ở trường Pháp Việt, nên anh chị rất quý chúng tôi, nhất quyết bắt vợ chồng tôi phải ở lại nhà anh chị một tuần để cùng đi chơi với anh chị. Sau một ngày đi khắp nơi ở San Diego, chúng tôi đi một vòng sang khu nghỉ mát Cancun bên Mexcico. Đến ngày thứ bảy cuối tuần anh chị rủ chúng tôi đi tham dự buổi họp mặt của Hội Đồng Hương Đà Lạt, tổ chức tại Anaheim, gần khu Little Saigon, nhân tiện sau đó anh chị đưa tôi về lại nhà cô con gái ở Fullerton, cũng rất gần nơi ấy. Gia đình anh được giấy mời với bốn chỗ ngồi. Vợ chồng đứa con trai lớn không đi, nhường chỗ cho chúng tôi. Bảo là chú thím ở tận bắc Âu, lâu lắm mới có dịp gặp nhiều đồng hương.


Không ngờ đã rời khỏi quê hương khá lâu, nhưng những người Đà Lạt còn giữ cái tình đồng hương đậm đà như thế. Hội trường không còn một chỗ ngồi. Nghe bà chị nói là họ đã đến từ khắp nơi trên nước Mỹ và Canada, một số từ Úc và Âu châu. Chưa tới giờ khai mạc, mọi người ngồi nói chuyện líu lo với những tiếng cười nghe như dư âm của một thời trai trẻ. Những cô gái với đồng phục áo dài trắng trong ban tổ chức đang chuẩn bị cho bài quốc ca, vẫn còn dáng dấp của Đà Lạt ngày xưa: môi đỏ má trắng hồng .

Chúng tôi ngồi ở dãy bàn đầu dành cho quan khách, cùng với gia đình của hai vị cựu giáo sư Bùi Thị Xuân khác. Trên sân khấu, một cái phông lớn là hình ảnh của khu chợ Hòa Bình và một mảng của hồ Xuân Hương trong sương mù. Tôi thầm phục người họa sĩ Đà Lạt nào đã vẽ bức tranh thật sống động. Tôi có cảm giác như mình đang ở một nơi nào đó trên thành phố thơ mộng một thời này. Ai đó đã nói đúng “người Việt nào ra đi cũng mang theo quê hương”.

Khi nghe cô MC giới thiệu thành phần ban tổ chức cuộc họp mặt hôm nay, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy toàn là phái nữ. Tôi chợt nhớ tới một bài viết nào đó mà tôi đã đọc đươc: Người Việt đến Mỹ, nữ giới thành công hơn là nam giới, và số lượng phụ nữ tham gia vào những hoạt động chính trị, cộng đồng ngày một nhiều hơn. Tôi nghĩ tới Dương Nguyệt Ánh, Lê Duy Loan, những người phụ nữ đã mang đến cho người Việt bao điều hãnh diện. Nhưng đến khi chị trưởng ban tổ chức có đôi lời cùng đồng hương, tôi mới hiểu thêm: Buổi họp mặt này là do các cựu nữ sinh trường Bùi Thị Xuân đảm trách.

Đang vui tôi bỗng ngậm ngùi khi một chị trong Ban Tổ Chức lên trình bày về hoàn cảnh thương tâm của nhà thơ Lệ Khánh. Bây giờ tôi mới biết Lệ Khánh là con gái của phó trưởng ty cảnh sát Đà Lạt và có cuộc hôn nhân thật buồn với một nhà thơ quân đội, lại là sĩ quan cấp tá trong ngành Tâm Lý Chiến. Bao nhiêu điều ấy đã đưa nhà thơ nổi danh một thời của xứ sương mù vào bước đường cùng, phải đi bán hàng rong, bán từng trái cà trái ớt trong cơn bệnh hoạn, và đứa con trai duy nhất phải đi ở mướn cho người ta. Ban tổ chức kêu gọi tình thương của những cựu Bùi Thị Xuân, của những người Đà Lạt cũ. Tôi thầm cám ơn tấm lòng của những người Đà Lạt và nghĩ đây là một việc rất nên làm.

Đến phần văn nghệ, cô MC giới thiệu <“nhạc phẩm Ai Lên Xứ Hoa Đào với một giọng hát truyền cảm của một Bùi Thị Xuân ngày trước, đã từng làm điêu đứng bao trái tim học sinh, sinh viên Đà Lạt”.

Lời giới thiệu đó không có một chút cường điệu nào. Giọng hát cất lên cao vút làm cả hội trường im lặng trong khi lòng tôi lắng xuống thẫn thờ. Không phải vì giọng hát truyền cảm, mà vì người hát ấy chính là Hà Nhất Anh, người con gái có một mối tình buồn với người bạn tù của tôi ngày trước. Gần hai mươi năm rồi, khuôn mặt có đôi chút đổi thay, nhưng tôi vẫn nhận ra. Cũng với nhan sắc ấy, nhưng với nụ cười rạng rỡ, không còn nét buồn nào đọng trên đôi mắt.

Thấy tôi nhìn đăm đăm lên sân khấu, bà chị đập vai tôi :

- Bộ có quen hay sao mà nhìn dữ vậy ? Hay lại là một người xưa ?

Tôi quay lại, đúng vào lúc bài hát vừa chấm dứt. Chờ cho những tràng pháo tay, cùng những tiếng la hét lắng xuống, tôi ôm vai bà chị :

- Đúng là có quen, nhưng không phài người xưa của em, mà là hôn thê của một thằng bạn tù của em, đã chết ngoài Bắc ! Chính em là người đã trao lại cho cô ấy những kỷ vật của anh ta, khi em vừa mới ra tù.

- Cô ấy là học trò cũ của chị, để chị gọi cô ấy lại nghe .

Tôi chưa kịp trả lời, thì bà chị đã vẫy tay gọi một cô trong ban tiếp tân nhờ đi mời “ca sĩ Hà Anh”.

Cô đến nhoẻn miệng cười, cúi đầu chào anh chị tôi và các thầy cô giáo cùng bàn, rồi khựng lại khi nhìn vợ chồng tôi, gật đầu nhưng không nói lời nào. Thấy tôi ngồi gần bà chị, nên cô nhìn bà chị như muốn hỏi chúng tôi là ai. Bà chị cười chỉ vào tôi :

- Đã gặp nhau rồi mà không còn nhận ra sao?

Cô nhìn tôi, rồi lắc đầu :

- Xin lỗi, em không nhớ ra .

Tôi có một chút khó chịu trong lòng. Hóa ra người đàn bà cũng dễ quên, ngay cả những kỷ niệm đáng ra phải nhớ trong đời. Giữ lịch sự, tôi nhìn cô :

- Có phải chị là hôn thê của anh Lê Minh Thống ? – Tôi là người đã trao cho chị những kỷ vật của anh ấy ở nhà Thủy Tạ, khi tôi vừa mới ra tù. Chị không còn nhớ ?

Cô ta khựng lại giây lát, nhưng rồi lắc đầu :

- Xin lỗi , em không nhớ. Có lẽ anh nhầm em với … ai đó !

Cô chào tất cả mọi người rồi vội vã quay về phía sau sân khấu.

Tôi nhìn sang ông anh bà chị nói cho đỡ ngượng:

- Chắc bây giờ chị ta đang hạnh phúc, nên không muốn nhắc lại chuyện tình xưa.

Trên sân khấu chương trình văn nghệ nối tiếp bằng một hài kịch. Thiên hạ cười ầm ĩ, trong lúc lòng tôi dửng dưng với một chút bẽ bàng .

Buổi họp mặt chấm dứt, tôi theo ông anh bà chị bước ra khỏi hội trường. Trong lòng không còn cái háo hức của lúc mới bước vào đây. Trống rỗng và một chút bực dọc.

Tôi đang đứng chờ ông anh bà chị đi lấy xe, thì một bàn tay đâp trên vai tôi . Quay lại, tôi ngạc nhiên khi nhận ra Hà Nhất Anh. Cô đưa cho tôi mảnh giấy, rồi bảo nhỏ, trước khi chạy nhanh về phía hội trường :

- Em xin lỗi, nhưng Anh nhớ phải đến nghe !

Tôi mở vội tấm giấy ra đọc. Chỉ có số điện thoại và địa chỉ, cùng với một dòng ngắn ngủi: “Suốt ngày mai, chủ nhật, em sẽ chờ anh ở nhà ”

Tôi cảm giác có điều gì lạ lắm. Và dường như cô ta muốn dấu mọi người . Nghĩ như vậy nên tôi không nói lại với ông anh bà chị và ngay cả vợ tôi. Ông anh bà chị đưa vợ chồng tôi về Fullerton, rồi hẹn quay lại sáng thứ bảy tới đưa chúng tôi đi thăm mấy người đồng hương và cũng là học trò cũ của cha tôi ngày trước.

Tôi nhờ cô con gái lớn gọi phôn, hẹn đến gặp vào lúc hai giờ chiều chủ nhật. Cô con gái chở vợ chồng tôi tới trước cổng nhà, sau khi xem đúng địa chỉ, bấm chuông, rồi lái xe đi, bảo khi nào cần gọi cellphone, sẽ quay lại đón.

Một ngôi nhà nhỏ, khá xinh, có trồng nhiều loại hoa Đà Lạt, nằm trong khu Fountain Valley yên tĩnh. Người ra mở cổng là một người đàn ông trẻ, khá bảnh trai với hàng ria mép. Anh gật đầu chào, nở nụ cười rất tươi bắt tay chúng tôi, giới thiệu tên, nói năng lễ phép bặt thiệp :

- Cám ơn anh chị đến thăm. Bà xã em mừng lắm, đợi mong từ sáng tới giờ . Tôi bước vào sân nhà, với một ý nghĩ vừa thoáng trong đầu: Được một người chồng như thế, hèn gì cô ta chóng quên mối tình xưa.

Nhất Anh mang nước ra mời chúng tôi, vui vẻ, thân tình, khác hẳn với Nhất Anh trong hội trường ngày hôm qua. Tôi im lặng, bởi không biết phải nói điều gì, ngồi chờ cô ta lên tiếng trước. Một lúc im lặng, tôi bất ngờ nhìn thấy cô ta khóc. Anh chồng đưa giấy cho cô lau nước mắt .

- Mong anh chị tha lỗi cho em. Ngày hôm qua khi gặp anh, nghe anh nhắc tới anh Thống em xúc động lắm, lại biết chính anh là người đã mang về những kỷ vật của anh Thống nữa. Nhưng hôm qua đông người quá, em không tiện nói.

Tôi đỡ lời :

- Tôi hiểu. Làm sao mà chị có thể quên được mối tình đầu, vừa đẹp lại vừa buồn, nhất là anh Thống đã ở lại và bị chết oan ức cũng vì quá yêu chị. Phải không ?

Rồi quay sang anh chồng, tôi lên giọng như một nhà tâm lý học:

- Ai lại chẳng có mối tình đầu. Và người chồng nào lại không tôn trọng cái kỷ niệm đẹp đó của vợ mình, phải không anh ?

Anh ta không trả lời, chỉ cúi xuống với một chút bối rối.

- Xin lỗi anh. Em không phải là chị Nhất Anh, và cũng không phải là người yêu của anh Thống!

Tôi bất ngờ, vừa ngượng ngùng vừa hụt hẩng khi nghe câu nói của người con gái, mà tôi đã chắc nịch là Hà Nhất Anh. Bây giờ người bối rối lại chính là tôi .

Cô gái hạ giọng :

- Em là em kế của chị ấy và cũng là đứa em duy nhất. Ba má em chỉ sinh có hai đứa con gái. Chị em giống nhau lắm, nên có nhiều người cũng lầm.

Tôi nhìn cô ngờ vực :

- Tôi nhớ ngày hôm qua khi MC giới thiệu chị lên hát, cũng với tên là Hà- Anh mà ? Tôi nghĩ Hà Nhất Anh, nhưng khi qua Mỹ người ta thường bỏ đi chữ lót .

- Đúng ra tên em là Hà Nhị Anh, nhưng bây giờ trong giấy tờ, em mang tên chị em: Hà Nhất Anh , mà Nhất Anh hay Nhị Anh gì sang đây, như anh nói, cũng đều gọi Hà Anh như nhau mà anh. .

Đến lúc này thì tôi không còn hiểu gì nữa. Cô ta đứng lên nhoẻn miệng cười và mời vợ chồng tôi theo cô lên từng trên, cô bảo :

- Anh chị cứ theo em lên trên này thì hiểu nhiều hơn .

Ba tấm ảnh để trên bàn thờ nhỏ. Tôi nhận ra Thống và Nhất Anh, mặc dù lúc chụp những tấm ảnh này hai người còn rất trẻ. Còn tấm ảnh thứ ba, một người con gái khác, tôi không nhận ra ai. Tôi chưa kịp hỏi thì cô gái lại sụt sùi:

- Chị Nhất Anh đã chết khá lâu rồi anh ạ. Vào một ngày mùa đông mưa tầm tã, chị ấy đạp xe đi đâu không biết, cả nhà chờ cơm tới tối vẫn chưa thấy về. Từ trước chị không bao giờ đi đâu một mình vào buổi tối. Cả nhà em và mấy người bạn hàng xóm chia nhau đi tìm. Em đạp xe đi khắp nơi. Trời mưa lớn quá nên em lạnh cóng. Đường xá vắng tanh không một bóng người. Cuối cùng thì chính em tìm ra chị ấy. Chị nằm bất động bên bờ hồ Xuân Hương, không xa nhà Thủy Tạ bao xa.

Tôi giật mình hoảng hốt :

- Ở gần nhà Thủy Tạ, bên bờ hồ Xuân Hương ? Rồi có tìm được chiếc xe đạp và cái gì nữa không ?

- Chiếc xe đạp rớt xuống hồ, ngày hôm sau người ta mới tìm thấy.

- Và chị đã chết ? Tôi hỏi

- Không, khi ấy thì chị còn sống, nhưng bất tỉnh và mình mẩy thì lạnh cóng. Vào bệnh viện, nửa giờ sau chị tỉnh lại, nhưng rất yếu chưa nói được. Khi thay áo cho chị, em thấy trong túi áo có một sợi dây đeo cổ có tấm ảnh của chị và một chiếc vòng nhôm có khắc tên chị và tên anh Thống

- Không có tờ bản đồ vẽ trại tù và nơi mộ anh Thống ?

- Có chứ ! Chính nhờ tấm bản đồ đó mà vợ chồng em, cách nay ba năm về Việt Nam, ra tận nơi tìm được, rồi thuê người lấy hài cốt của anh Thống mang về chôn trên Đà Lạt . Cám ơn anh đã vẽ cái bản đồ khá chi tiết và chính xác.

- Còn chị Hà Nhất Anh ?

- Hai tuần sau, chị khá hơn nhiều, nói năng tỉnh táo, bệnh viện cho xuất viện bảo về nhà điều trị, bồi dưỡng là chị sẽ khỏe thôi. Nhưng không ngờ về nhà mấy hôm thì lên cơn sốt nặng rồi hôn mê trở lại. Đưa vào bệnh viện thì chị mất. Người ta bảo là chị bị sưng phổi cấp tính. Mà thời ấy có thuốc men gì đâu mà chửa. Trong mấy ngày tinh táo, chị thường nhắc tới anh Thống, năn nỉ ba má em tìm mọi cách đem anh Thống về Đà Lạt, và báo cho mẹ anh ấy biết. Lúc trước bà thương quí chị lắm, nên chị cũng rất thương và lo lắng cho bà, khi em gái anh Thống vừa quá trẻ lại vừa yếu đuối. Không ngờ đó lại là những lời trăn trối của chị.

Tôi thầm nghĩ, chính vì đi gặp tôi hôm ấy mà Nhất Anh chết. Chắc cô đã xúc động nhiều lắm. Lòng tôi chùng xuống. Tôi có cái cảm giác đau đớn như vừa có những nhát chém vô hình nào đó trong lòng mình. Tôi lấy lại bình tĩnh :

- Như vậy là bây giờ mộ của Thống nằm trên Đà lạt .

- Dạ . Anh nằm bên cạnh chị Nhất Anh. Vợ chồng em mua lại mảnh đất tư gần khu rừng Ái Ân. Từ đó anh Thống có thể nhìn thấy Trường Võ Bị của anh lúc xưa và đỉnh núi Lâm Viên mà anh đã từng chinh phục.

- Đồi thông hai mộ . Tự dưng tôi buột miệng.

Đến lúc này tôi mới thấy cô nhoẻn miệng cười :

- Sau ngày 30 tháng 4/75, ở Đà lạt có khá nhiều “đồi thông hai mộ”. Có dịp anh chị về Đà Lạt, ghé lại Rừng Ái Ân hỏi thăm, là người ta biết hai ngôi mộ của anh chị Thống-Anh.

- Thế rồi, cô có liên lạc được mẹ và em gái của anh Thống ?

Cô không trả lời, mà lại mời vợ chồng tôi bước sang phòng bên cạnh. Căn phòng rộng, thoáng mát, có cửa kính lớn nhìn ra công viên phía trước. Một bà cụ tóc bạc trắng, nhưng da dẻ hồng hào, đôi mắt sáng, ngồi trên chiếc xe lăn. Khi tôi cúi đầu chào bà , cô gái giới thiệu:

- Anh này là bạn tù của anh Thống ở ngoài Bắc.

Rồi quay sang tôi :

- Chắc anh ngạc nhiên lắm, đây chính là mẹ của anh Thống.

Bà cụ ôm lấy tôi, nước mắt trào ra trên đôi gò má. Bà hỏi tôi về Thống trong những ngày ở tù và vì sao mà Thống chết. Nhưng tôi chỉ kể vài kỷ niệm về Thống trong những lúc vui vẻ, và không dám nói cho bà nghe về cái chết thảm thương của Thống. Tôi nói dối là Thống chết vì bệnh kiết lỵ nặng mà nhà tù không có thuốc. Tôi tưởng nói dối như vậy cho cụ yên lòng, không ngờ cụ đã khóc ngất lên. Tôi chỉ còn biết ôm vai bà cụ mà im lặng.

Một lúc sau, bà cụ mới tỉnh táo và kể lại tai nạn xe hơi đã làm chết cô con gái, em Thống và làm tê liệt đôi chân của bà. Nhìn sang cô gái, bà cụ thỏ thẻ :

-




Cũng nhờ vợ chồng cháu nó đây mà bác còn sống đến bây giờ.

Nhị Anh nắm tay bà cụ :

- Má coi vợ chồng em không khác gì con ruột của má. Em sang đây sau khi em gái anh Thống chết. Tấm ảnh trên bàn thờ lúc nãy là của cô ấy. Cô nhỏ hơn em tới sáu tuồi. Lúc ấy má đang làm chủ mấy sạp may, đã lo lắng tiền bạc cho em sang đây và cho em tiếp tục học xong đại học nữa. Ngôi nhà này là của má cho vợ chồng em đó chứ.

Vợ chồng tôi chào bà cụ, chúc bà sức khỏe và hứa bất cứ lúc nào có dịp sang Cali, sẽ ghé lại thăm bà.

Khi bắt tay từ biệt vợ chồng Hà Nhị Anh, chợt nhớ tới một điều,
nên tôi hỏi cô :
- Khi nãy tôi có nghe chị nói là bây giờ tên tuổi của chị trong giấy tờ lại là tên tuổi chị Nhất Anh. Sao vậy ?

Cô gái vẫn còn nắm chặt bàn tay tôi, kéo tôi ra xa, nhìn quanh rồi hạ giọng :

- Chính nhờ cái giấy của trại tù báo tin anh Thống chết, trong đó có ghi tên chị Nhất Anh là vợ, nên em đã thay chị ấy mà sang đây theo diện dành cho vợ tù nhân cải tạo bị chết trong tù. Em thấy xấu hổ lắm khi phải làm điều gian dối ấy, tội lớn lắm đối với luật pháp Hoa Kỳ, nhưng đó lại là ước mong của mẹ anh Thống, và của cả chị Nhất Anh trước khi chết nữa. Em săn sóc cho má bao nhiêu năm nay, nên má thương em như con gái má. Biết đâu đây là sự sắp xếp nhiệm màu từ chị Nhất Anh – anh Thống? Hơn nữa nhìn em cũng giống chị em lắm, và tên em với tên chị ấy cũng như nhau mà. Nhưng anh nhớ phải tuyệt đối giữ hộ cho em điều bí mật này nghe .
Vâng! Chính vì tôi đã giữ cho cô cái điều bí mật đó, nên hai cái tên Hà Nhất Anh , Hà Nhị Anh mà các bạn vừa đọc được trong truyện, đều không phải là tên thật của hai chị em nàng.

Phạm Tín An Ninh
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Nhạc sĩ Y Vũ và những nổi buồn để đời
Bài & ảnh Tiểu Vũ


Y Vũ chưa bao giờ nhận mình là nhạc sĩ. Ông nói danh hiệu nhạc sĩ là do những nhà sản xuất âm nhạc và khán giả thời đó gán cho ông. Trước sau Y Vũ chỉ nhận mình là người chơi nhạc. Ông may mắn nổi tiếng nhờ vào một vài bài hát. Nhưng âm nhạc chưa bao giờ mang lại cho ông niềm vui trọn vẹn, cuộc đời của Y Vũ gắn liền với những nổi buồn trong âm nhạc lẫn ngoài cuộc sống. Có thể nói đó là những nổi buồn để đời.

Nhạc sĩ Y Vũ tên thật là Trần Gia Hội, sinh năm 1942 tại Hà Nội trong một gia đình không có truyền thống về âm nhạc. Rất may mắn cho Y Vũ khi ông có người anh trai là nhạc sĩ nổi tiếng Y Vân. Chính nhạc sĩ Y Vân đã gieo tình yêu âm nhạc cho Y Vũ khi tuổi ấu thơ trong những ngày sống với gia đình ở Hà Nội. Nhạc sĩ Y Vân đã truyền tất cả những ngón nghề âm nhạc cho người em trai. Năm 1954 gia đình Y Vũ di cư vào Nam, ông trở thành một nhạc công lão luyện và chơi nhạc cho các quán bar vũ trường ở Sài Gòn và Vũng Tàu. Ngoài chơi nhạc ông bắt đầu sáng tác những tác phẩm đầu tay.

So với anh Y Vân, Y Vũ không có nhiều bài hát nổi tiếng. Người yêu âm nhạc biết đến ông qua những bài hát như Kim, Ngày cưới em, Chuyện loại hoa dang dỡ, Chuyện tình đầu, Tiếng hát về đêm… Mỗi tác phẩm của Y Vũ đều mang đậm dấu ấn của kỷ niệm và nỗi niềm của riêng ông. Nói đến Y Vũ người ta còn nhắc đến bài hát Tôi đưa em sang sông, nhưng nhạc phẩm này cũng mang cho đến cho Y Vũ nhưng phiền muộn day dứt không nguôi về quyền tác giả. Những nỗi buồn của ông có thể đúc kết thành những câu chuyện dưới đây:

Nổi buồn mang tên “Kim”


Năm 1969 tên tuổi của Y bắt đầu được chú ý trong giới âm nhạc miền Nam qua tác phẩm đình đám mang tên Kim được ca sĩ Túy Phượng hát trên làn sóng điện của đài phát thanh Sài Gòn. Nguồn gốc của bài hát Kim được nhạc sĩ Y Vũ kể lại rằng: Trong những ngày chơi nhạc trong một vũ trường ở Vũng Tàu, Y Vũ yêu một người con gái tên là Kim. Nàng là một vũ nữ nhưng mang trong mình bệnh tim rất nặng. Để lên dây cốt tinh thần và động viên nàng, Y Vũ đã sáng tác bài hát Kim tặng riêng cho người yêu. Bài hát với giai điệu sôi động mạnh mẽ. Bất ngờ sau khi được ra đời Kim đã có sức lan tỏa rất rất mạnh. Ngoài nữ hoàng nhạc twis Túy Phượng, còn rất nhiều ca sĩ sử dụng bài hát này trong các vũ trường quán bar ở miền Nam.


Buồn thay cho Y Vũ, giai điệu sôi động vui tươi yêu đời của bài hát Kim đã không thể cứu sống được người mình yêu. Một năm sau đó Kim đã qua đời trong cơn bạo bệnh. Tác phẩm Kim đã trở thành một kỷ niệm đau đáu trong lòng ông. Mỗi khi bài hát vang lên ở đâu đó tim ông lại sắt se lại và cảm thương cho người yêu bạc phước.
Bài hát Kim còn mang đến cho ông nhưng nỗi buồn khác đó là sự nhầm lẫn về tên tác giả. Y Vũ cho biết, có những chương trình đại nhạc hội rất lớn, MC giới thiệu bài hát này là của nhạc sĩ Y Vân làm ông không vừa lòng. Nhạc sĩ Y Vũ rất mong những người biên tập chương trình, và MC khi giới thiệu tác phẩm nên tránh những nhầm lẫn như vậy. Bởi tác phẩm là đứa con tinh thần của của người sáng tác khi bị gọi sang tên của người khác đó là điều tối kỵ. “May mắn cho tôi là người ta nhầm bài hát này của anh ruột tôi là Y Vân chứ nhầm tên ai đó thì quả là rất đáng buồn”, Y Vũ tâm sự.

Nỗi buồn “Tôi đưa em sang sông”


Bài hát Tôi đưa em sang sông với giai điệu slow trữ tình nhẹ nhàng ngọt ngào man mác buồn của Y Vũ đã đi vào lòng của nhiều thế hệ người nghe nhạc Việt Nam. Người đầu tiên trình bày ca khúc này là ca sĩ Lệ Thu. Tuy được mệnh danh là người xấu trai nhất trong giới nhạc sĩ, nhưng bù lại, âm nhạc của Y Vũ đã làm xiêu lòng biết bao nhiêu người phụ nữ, tuổi trẻ của Y Vũ gắn liền với những cuộc tình ướt át. Nhiều người quý cô đã yêu Y Vũ đến say đắm bất chấp cái vẻ bề ngoài hơi ngô ngố của ông, bởi nhạc của Y Vũ dễ đi vào lòng người, nhất là nhưng cô gái có tâm hồn đa sầu đa cảm. Y Vũ đã đáp lại tất cả những tình cảm ấy để rồi cuối cùng ông nhận lấy những cuộc chia tay không hẹn trước. Trong tất cả những cuộc tình ấy, đa số những người phụ nữ đều bỏ ông ra đi với nhiều lý do khác nhau. Có người hụt hẫng giữa con người thật của Y Vũ và âm nhạc. Có người ra đi vì chê ông nghèo. Có người đến với ông chỉ vì những rung động nhất thời rồi lại chia tay vì những lực hấp dẫn khác, và có cả những cuộc chia tay mà đến tận hôm ông không bao giờ lý giải nổi. Nhạc sĩ Y Vũ ngậm ngùi: “Có lẽ lời bài hát “Tôi đưa em sang sông” đã vận vào cuộc đời tôi. Suốt đời tôi luôn làm kẻ đưa tiển người yêu đi lấy chồng”.

Theo lời kể của Y Vũ: Tôi đưa em sang sông được Y Vũ sáng tác trong một lần thất tình. Thuở ấy ông là một cậu học trò ở trường tư thục Hàn Thuyên, và yêu một tiểu thư con nhà giàu học cùng lớp có tên là Thanh. Mối tình đầu trong trắng thơ ngây với người con gái lớn hơn một tuổi đã đem đến cho Y Vũ một khoảng thời gian đẹp nhất của thời trai trẻ. Kỷ niệm đáng nhớ của ông là nhà nàng rất giàu và có một cây xăng tư nhân cứ mỗi chiều ông “canh me” đến giờ nàng trực thế gia đình về ăn cơm chiều là ông lái xe máy đến ngã bảy Lý Thái Tổ để được đổ xăng miễn phí. Theo lệ thường chiều nào ông cũng đến cây xăng và hẹn hò nàng ở trường, nhưng đã hơn một tuần trôi qua Y Vũ không thấy nàng đến lớp. Nỗi nhớ trong chất chồng trong lòng. Tan học ông đánh liều đến nhà người yêu để tìm nàng. Đến nơi Y Vũ đau đớn biết chính ngày hôm đó là ngày nhà nàng tổ chức ăn hỏi cho người yêu với một ông bác sĩ lớn tuổi thuộc hàng nhà giàu có đại gia đại gia ở Sài Gòn.

Một thoáng suy tư của nhạc sĩ Y Vũ


Đau đớn và thất vọng, Y Vũ tìm đến nhà một người quen tá túc. Lần đầu tiên trong đời chàng thanh niên Trần Gia Hội biết đến rượu. Ông uống thật nhiều để hi vọng quên đi nỗi buồn. Y Vũ uống nhiều đến mức gục xuống. Hai giờ sáng, men rượu trong người bắt đầu nhạt dần. Y Vũ thức giấc. Nỗi buồn vẫn chưa nguôi. Nhà người bạn sát nghĩa địa.Trời khuya mưa bay lất phất khung cảnh buồn đến thê lương. Y Vũ bất chợt liên tưởng đến câu thơ : “Đưa người, ta không đưa qua sông/Sao có tiếng sóng ở trong lòng” trong Tống biệt hành của Thâm Tâm. Hình ảnh “Đưa người sang sông” đã gợi cho ông về cuộc đưa tiển không hẹn trước với người yêu. Y Vũ cầm đàn và sáng tác liền một mạch đến sáng. Tôi đưa em sang sông đã ra đời trong một nỗi buồn để đời như thế. Ba tháng sau Tôi đưa em sang sông đã trở thành một “hiện tượng” trong làng âm miền Nam. Bài hát đã được ca sĩ Lệ Thu chắp cánh trên làn sóng radio của Đài phát thanh Sài Gòn và được hát rộng rãi trong các chương trình Đại nhạc hội.

Ngày người yêu chính thức lên xe hoa, Y Vũ đến dự tiệc cưới một cách lặng lẽ giữa đám đông. Ít người đến hỏi han và chia sẻ, bởi không ai biết ông từng là người yêu của cô Thanh trang đài. Rời bàn tiệc với tâm trạng buồn tủi, Y Vũ có những ca từ đầu tiên:


Hôm nay ngày cưới em
mừng vui họ hàng đôi bên
vì đâu nàng mời tôi đến
tuy có đây cũng như không
chiếc áo tình chóng phai
một sớm một chiều đã thay
thì nhớ đừng vì có tôi
mà nàng giấu vui không cười


Một tháng sau đó tác phẩm thứ hai là Ngày cưới em cũng được ra đời để giải tỏa nỗi buồn của mối tình đầu tan vỡ trong lòng Y Vũ.

Nhạc sĩ Y Vũ lấy làm không vui khi lời bài hát gốc của ông bị nhà xuất bản thời đó cũng như các ca sĩ hát sai so với nguyên bản. Cụ thể là đoạn ca từ : “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là cánh mây trôi bốn phương trời” được sửa là “ “Rồi thời gian lặng lẽ trôi, đời tôi là chiến binh đi khắp phương trời”. Y Vũ kể ông chưa từng đi lính nên câu đó hoàn toàn không phù hợp với tâm trạng của ông. Ngoài ra đoạn cuối của bài hát với ca từ: “Nàng đã thay một lối về, thay cả bàn tay đón đưa” được sửa thành: “Nàng đã thay một lối về, quên cả người tình trong gió mưa”. Đương thời Y Vũ đã nhiều lần đến nhà xuất bản để đòi chỉnh sửa theo đúng nguyên bản nhưng bất thành.
Khi được hỏi vì sao Tôi đưa em sang sông còn có thêm tên của nhạc sĩ Nhật Ngân là đồng tác giả nhạc sĩ Y Vũ cho biết: “Nhạc phẩm này do tôi hoàn toàn sáng tác hoàn toàn không liên quan đến Nhật Ngân. Anh ruột của tôi là nhạc sĩ Y Vân dạy nhạc cho nhạc sĩ Anh Thy và Nhật Ngân. Tôi đem bài hát này cho anh tôi nghe. Anh tôi bảo bài này nghe được đấy, thôi để thêm tên Nhật Ngân vào cho nó có tiếng. Tôi nghe lời anh mà làm theo vậy thôi”.

Tôi đưa em sang sông là dấu ấn của một cuộc tình tan vỡ, là nỗi buồn vời vợi trong tim người nhạc sĩ đa tình nhưng chung tình. Cuộc tranh cãi về quyền tác giả của Tôi đưa em sang sông cho đến nay vẫn chưa có đoạn kết. Ở Việt Nam thì tác quyền bài hát này thuộc về Y Vũ, nhưng ở hải ngoại thì tác quyền thuộc nhạc sĩ Nhật Ngân. Nhạc sĩ Y Vũ ngậm ngùi: “Đó là nỗi buồn và trăn trở nhất trong cuộc đời làm nhạc của tôi. Chuyện tác quyền chỉ là một phần nhưng đứa con tinh thần và kỷ niệm về mối tình đầu tôi bị đặt nhầm sang tên người khác đó là một tổn thương không hề nhỏ”.


Nỗi buồn của một gã ve chai


Sau những tháng ngày sống trong ánh hào quang lẫn bóng tối của cuộc đời. Sau những cuộc chia ly không hẹn trước Y Vũ lại trở về với chính mình trong sự ghẻ lạnh của nhân tình thế thái. Thuở còn nổi tiếng Y Vũ có bao nhiêu tiền đều gởi vào nhà băng, nhưng rồi chiến tranh lạc ông bị mất trắng. Sau khi đất nước thống nhất. Y Vũ có lần từ bỏ âm nhạc và làm đủ mọi thứ để mưu sinh. Ông từng làm công nhân cạo mủ cao su ở Bù Đăng, Bù Đốp, Bình Phước. Cuộc sống của Y Vũ thời đó khó khăn, vất vả vì ông là lao động chính để nuôi cả gia đình chưa ai biết làm việc. Rời Bình Phước ông về lại làm phụ hồ cho một công trường ở Tân Quy Đông, TP. HCM. Hằng ngày Y Vũ phải chở hàng chục bao xi măng trên xe kéo vào công trình.

Do công việc cơ bắp khá vất vả, Y Vũ quyết định chuyển sang nghề buôn ve chai. Mỗi ngày ông phải đi bộ hàng chục km săn lùng các loại phế liệu, gọng kính cũ để bán kiếm lời. Có hôm may mắn kiếm được vài trăm ngàn, nhưng cũng có ngày ông trắng tay. Đôi khi trên bước đường mưu sinh ông gặp một vài người quen cũ họ nhìn ông bằng đôi mắt ái ngại thương cảm Y Vũ cũng có đôi chút chạnh lòng nhưng ông biết chấp nhận và vượt qua.
Mười năm làm gã mua bán ve chai, mười năm đoạn tuyệt với âm nhạc để lo miếng cơm manh áo đã biến Y Vũ gần như trở thành một con người khác. Có đôi khi Y Vũ tuyệt vọng không nghĩ rằng có một ngày mình sẽ quay lại với âm nhạc. Dẫu thế Y Vũ vẫn sẵn lòng chấp nhận không một chút đắn đo.

Sau năm 1990 kinh tế của gia đình Y Vũ dần ổn định. Thời điểm đó đời sống âm nhạc của đất nước bắt đầu có những dấu hiệu tích cực cho những người làm âm nhạc. Y Vũ bắt đầu có ý định quay âm nhạc. Nhận lời mời của nhạc sĩ Vinh Sử ông bắt đầu sáng tác một số tác phẩm cho chương trình Mưa bụi. Với số tiền thù lao kha khá, Y Vũ nghỉ hẳn nghề ve chai và toàn tâm cho âm nhạc. Ông cũng được mời chơi nhạc cho một số phòng trà ở Sài Gòn bằng ngón đánh piano rất điêu luyện.

Đoạn kết có hậu


Ở tuổi lục tuần, Y Vũ lại kết hôn với một người phụ nữ gốc Bắc để bầu bạn trong lúc tuổi già. Hiện tại ông có một mái ấm gia đình khá hạnh phục ở quận 12, TP.HCM. Công việc mỗi ngày của Y Vũ vẫn là sáng tác âm nhạc. Nhiều bạn bè và người quen ở nước ngoài thường gởi những bài thơ để nhờ ông phổ nhạc. Thù lao của mỗi bản nhạc có khi lên đến hàng trăm đô-la cộng với tiền tác quyền đã đem đến cho ông cuộc sống khá nhẹ nhàng và sung túc. Ngoài công việc sáng tác Y Vũ vẫn đi chơi nhạc cho các phòng trà. Ông làm việc đó không phải vì tiền mà vì yêu thích. Tiếng đàn của ông hàng đêm lại niềm say mê cho nhiều thính giả. Thi thoảng ông vẫn nhận đào tạo một vài học trò tâm đắc và tham gia những event âm nhạc do mình đứng tên đỡ đầu cho những người tổ chức


Căn nhà ấm áp ở ngoại ô, cùng người bạn đời đã cho Y Vũ một chốn bình yên để đi về sau những năm tháng thăng trầm nổi trôi giữa dòng đời xuôi ngược. Một lần nữa âm nhạc lại chảy tràn trề trong tâm hồn của ông. Đối với Y Vũ những buồn vui được mất trong cuộc sống lẫn âm nhạc đã trở thành quá khứ, và có lẽ những nỗi buồn để đời của ông đã giúp Y Vũ kết tinh và tận hiến cho đời những tình khúc vượt thời gian.

Bài & ảnh Tiểu Vũ
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »


Image

TÓC XƯA

Hình như ở tuổi 60-70, người ta thường hay nhắc đến, hoặc dùng chữ "Xưa" như mắt xưa, áo xưa, dáng xưa, người xưa,... để kể lại một câu chuyện, để nhắc lại một ngày tháng nào? Có phải "Xưa" đó luôn là những kỷ niệm đẹp không hề phai tàn qua năm tháng, là những nỗi nhớ nhung chẳng hề quên lãng qua bao thăng trầm, đổi thay của cuộc sống?

Có lẽ trong trái tim của tất cả chúng ta, "Xưa" cũng chính là nỗi mất mát, niềm tuyệt vọng nào đó đã thoáng qua nhưng mãi ở lại vĩnh viễn trong ký ức sâu thẳm nhất của đời mình.

Trong tâm tình đó, xin chia sẻ với người nghe hai ca khúc được viết theo cung trưởng và thứ tôi đã phổ từ cùng một bài thơ của nhà thơ Dương Văn Thiệt bên trời Âu (bạn của một đồng môn Nguyễn Trãi, Lê Văn Thu).

Ngô Thuỵ Miên, 10/2014

Nhập:


Bài thơ Tóc Xưa đã đến với Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên qua một điện thư thân tình nhưng trân trọng của tôi đề ngày 18 tháng 2 năm 2014:

“Tôi có một người bạn cùng lớp y khoa, hiện ở bên Anh, mới mất vợ cách đây gần 2 năm. Anh ấy rất thương vợ và đã làm rất nhiều thơ. Khi chị ấy mất, anh đã chôn hết thơ theo vợ; nhưng mới đây, trong một lần thấy được sợi tóc của vợ sót lại bên gối, anh đã viết được một bài thơ mà chúng tôi khi đọc đều thấy xúc động. Thơ được làm theo thể lục bát.

TÓC XƯA

Ngày nào nhặt tóc quanh đây
Sợi nằm bên gối sợi bay ra vườn
Sợi dài buộc mối yêu thương
Sợi ngắn cột lấy nỗi buồn xa quê

Mượt mà một thuở tóc thề
Gió lùa qua tóc mân mê vai mềm
Sợi nào đánh rớt bên thềm
Nhặt về chờ tối ru đêm giấc nồng

Sợi nào sáng gội chiều hong
Gió đưa hương tóc qua song cửa mành
Lạc vào ngõ vắng nhà anh
Quen người quen cảnh không đành rời xa

Tóc nào đen óng hôm qua
Gởi vào trang sách bên ta mỗi ngày
Sợi nào là sợi tóc mai
Loà xoà bên trán làm ai phải lòng

Để mà sáng đợi chiều trông
Sợi kề bên má sợi hôn môi người
Sợi nào từ thuở đôi mươi
Tóc tơ se kết tiếng cười nỗi đau

Sợi nhìn ngày tháng qua mau
Tóc xanh hôm trước bạc màu hôm nay
Tóc xưa giờ đã xa bay
Sợi buồn ở lại ngắn dài xót xa

DVT 2013


Biết anh là một nhạc sĩ có tài phổ nhạc - chính những bản nhạc phổ thơ của anh mà mọi người, nhất là giới sinh viên thuở trước, mới biết đến Nguyên Sa - tôi xin mạn phép gởi anh bài thơ đó để anh xem. Nếu như bài thơ gợi cho anh chút cảm hứng thì xin anh phổ nhạc giùm. Anh ấy không nhờ tôi, nhưng tôi vốn rất thương anh ấy qua tư cách và tình cảm của anh ấy, và đồng thời rất quí trọng anh, mặc dù mới quen - thấy anh chị rất hiền hòa, đôn hậu, khiêm nhượng - nên muốn được làm trung gian để giới thiệu bài thơ đó với anh.”

Ngày 5 tháng 8 cùng năm, tôi nhận được điện thư của Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên trong khi đang lang thang thăm bạn bên Rochester, Minnesota, với nội dung sau:


Dear anh Thu,

Viết vội gửi anh bản chép tay Tóc Xưa tôi phổ từ bài thơ của anh Dương Văn Thiệt. Tiếc là sáng nay mới biết software Encore viết nhạc của tôi bị bịnh, nên không thể gửi bản máy computer viết đẹp hơn nhiều!

Như anh đã biết vì hoàn cảnh riêng, tôi đã không còn sinh hoạt âm nhạc, văn nghệ... Nhưng mến anh chị, cũng như quí tình bạn của 2 anh, và nhất là tình nghĩa vợ chồng của anh Thiệt, tôi phổ nhạc bài thơ Tóc Xưa và mong đó là một kỷ niệm đẹp cho anh ấy.

Thân,

Bình
(Ngô Quang Bình là tên thật của Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên)
Image

Thật ngạc nhiên và rất vui khi nhận được món quà vô giá này, tôi liền gởi ngay cho Dương Văn Thiệt, tác giả bài thơ. Thiệt cho tôi biết, anh sẽ đóng khung bản nhạc và để bên cạnh di ảnh của chị Thọ Chí với hy vọng chị sẽ được an ủi về sự kiện này.

Cuối tháng Tám, Thiệt từ Bolton, Anh quốc, bay qua Sydney, Úc, thăm con và cháu ngoại, cùng lúc có diễn ra một cuộc hội học của giới y nha dược sĩ Việt Nam tại đây. Trong dịp này, Thiệt đã mang bản nhạc đến cho Nguyễn Mạnh Tiến, bạn cùng lớp Y khoa Saigon 1973, một nhạc sĩ. Chị Tiến, Cao Xuân Ái-Minh, một dương cầm thủ rất nổi tiếng về nhạc cổ điển Tây phương trước 1975 ở miền Nam Việt Nam, và hiện là giáo sư dương cầm ở Sydney, đã cùng với Tiến đàn và hát cho Thiệt nghe lần đầu. Không khí thật cảm động cho cả ba, vì với tài năng phổ thơ độc đáo của Ngô Thuỵ Miên, lời thơ và ý nhạc đã thấm vào lòng tác giả bài thơ, người hát, và người dạo đàn. Chị Ái-Minh và Tiến đã gởi cho tôi xem và nghe cả phần độc tấu lẫn phần có giọng ca của Tiến. Phần độc tấu dương cầm đã là một thích thú cho tôi vì tiếng đàn thanh thoát của chị Tiến hoà với nét nhạc dịu dàng, quí phái của anh Ngô Thuỵ Miên đã trở thành một phối hợp tuyệt vời. Giọng Tiến, tuy đã bị thay đổi với thời gian, nhưng vẫn gieo vào lòng tôi nỗi buồn man mác vì Tiến đã diễn tả được ý của bài thơ.

Tuần sau, ngày 10 tháng 9, tôi lại nhận được một thích thú khác: Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên gởi cho tôi bản nhạc Tóc Xưa, được soạn với âm giai thứ, da diết hơn bản đầu viết bằng âm giai trưởng. Cái đặc biệt trong cả hai lần phổ nhạc là người nhạc sĩ tài hoa này đã không sửa một chữ nào trong bài thơ, và các dòng nhạc đó – dù trưởng hay thứ - đều đã chuyên chở hết hồn thơ.

Chị Ái-Minh đã viết “vào đàn thử version 2 thêm vài lần thì càng đàn càng thấy thích, vì nó không còn giống một bài để hát nữa mà gần như một bài đàn solo.”

Trong thư trao đổi giữa Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên và Nhà thơ Dương Văn Thiệt, Nhạc sĩ đã viết “Mong rằng khi anh vui hãy nghe version 2, và khi buồn thì nghe version 1. Đó là để cân bằng tâm hồn mình với một kỷ niệm sống mãi với thời gian và không gian...(Nov. 2, 2014).”

Cả hai bản Tóc Xưa với hai âm giai trưởng và thứ đã được Ca sĩ Đoàn Thanh Tuyền, em vợ Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên (tức con gái thứ của cố Nghệ sĩ Đoàn Châu Mậu), soạn hoà âm, đệm đàn và hát. Tưởng cũng nên biết, Ca sĩ Thanh Tuyền này là người đã cùng Đức Huy xuất hiện chung ở Saigon thập niên ‘70 trong hai vai trò, nhạc sĩ và ca sĩ chính, của ban nhạc trẻ Đức Huy. Giọng hát Thanh Tuyền vẫn mượt mà, đã diễn tả rất chuẩn cả hai bài, đưa người nghe vào môt không gian huyễn mộng của đôi nhân tình chung quanh mái tóc, và kết thúc bằng một đớn đau “tóc xưa giờ đã xa bay, sợi buồn ở lại ngắn dài xót xa”.

Thiệt đã nhờ “cô em” Đinh Minh Châu, một nghệ sĩ chuyên làm power point đưa vào you tube cả hai bản. Cô Minh Châu đã đem rất nhiều hình ảnh các cô gái Việt bên các mái tóc óng ả vào làm nền cho các trình chiếu này khiến khán thính giả vừa cảm nhận được ý nhạc và lời thơ, vừa thưởng thức được nét đẹp dịu dàng khả ái của các thiếu nữ Việt Nam. Trong hai trình chiếu này, Minh Châu đã đưa phần độc tấu dương cầm, bản cung trưởng, của chị Cao Xuân Ái-Minh và lời giới thiệu của tôi (TP) vào phần cuối.

Tóc Xưa - Bản cung trưởng (Đinh Minh Châu):



Tóc Xưa - Bản cung thứ (Đinh Minh Châu):



Song song với Minh Châu, Nghệ sĩ Ngọc Phú, phu quân của Ca sĩ Thanh Tuyền, cũng làm hai powerpoint cho hai bản này. Trong các trình chiếu của Ngọc Phú, khán thính giả cũng được chiêm ngắm các mái tóc thật đẹp của các thiếu nữ trong lúc thưởng thức giọng ca mượt mà truyền cảm của Thanh Tuyền:

Tóc Xưa - Bản cung trưởng (Ngọc Phú):



Tóc Xưa - Bản cung thứ (Ngọc Phú):

Image
Gần đây, Bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến đã viết một đoản văn kể về tình nghĩa vợ chồng của bạn mình, DVTh, cùng với lý do xuất hiện của hai bài thơ, trong đó có bài Tóc Xưa. Đoản văn đã được đăng trên Việt Luận, số Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015, ở Úc châu, ai nấy đọc đều không giấu được sự xúc động.

Tóc Xưa - thơ của Dương Văn Thiệt, nhạc của Ngô Thuỵ Miên, hoà âm, tiếng đàn và giọng hát của Đoàn Thanh Tuyền, Cao Xuân Ái-Minh độc tấu dương cầm, với phần trình bày youtube trên mạng của Đinh Minh Châu và Ngọc Phú - đã tạo nên một hiện tượng trong sinh hoạt âm nhạc, thơ, văn và liên mạng của người Việt hải ngoại cuối năm 2014.

Lê Văn Thu (14 tháng 12 năm 2014)
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 8 guests