Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image

Tưởng như dòng sông không trở lại
Nguyễn Công Khanh
28 tháng 2, 2022


Tôi rời Hà Nội năm 1954, khi tôi 18 tuổi. Có nhiều bài hát về Hà Nội khá hay, nhưng sau này tôi thường nghêu ngao bài Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng, vì bài hát có nhiều điểm phù hợp với tôi và trong đó có tên cả hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn. Hát lên hai chữ Hà Nội để lãng mạn tưởng tượng là mình có một người yêu thật sự đã bỏ lại ở thành phố cũ. Nhớ đến Sài Gòn, là nhớ cả một thời tuổi trẻ hoa mộng trong một thành phố mới.

“Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…

… Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui

Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…”


Kỷ niệm với Hà Nội là kỷ niệm của thời niên thiếu. Với Sài Gòn là lúc đi vào tuổi trưởng thành và thành phố này đã cho tôi hai kỷ niệm khi đến và khi đi khó quên. Kỷ niệm Sài Gòn đầu tiên của tôi liên quan đến nhà văn Mai Thảo. Những ngày mới di cư vào Nam, gia đình tôi cư ngụ tại con hẻm gần nhà thờ Huyện Sĩ. Hai đầu con hẻm nối với hai đường lớn, là đường Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.

Một anh bạn thân đã chỉ cho tôi một người có bóng dáng rất văn nhân, đó là Mai Thảo. Ông thường xuất hiện trong những buổi sáng ở đầu hẻm trên con đường có nhà in mà tôi được biết là ông đang chăm lo cho ra đời tác phẩm đầu tay của ông. Đó là cuốn Đêm Giã Từ Hà-Nội. Tôi đã phải lấy món tiền để dành nhỏ nhoi ra mua và nghĩ rằng nó sẽ là một kỷ niệm để đời cho mình. Tôi đọc truyện ngắn Đêm Giã Từ Hà-Nội nhiều lần, và đến nay vẫn còn nhớ mang máng câu “Tôi nhìn xuống nước sông Hồng đục ngầu như máu mà Hà nội đang ở dưới đó…”.



Tôi cũng rời Hà Nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn chở những người di cư qua cầu Long Biên trong buổi tối nửa đêm về sáng sang phi trường Gia Lâm để đáp máy bay vào Sài Gòn. Trời tờ mờ sáng, đèn vàng trên cầu mờ nhạt, nhịp xe đều đều dọc theo chiều dài của chiếc cầu, gió sông thổi vào trong xe làm mọi người se lạnh, nhưng lúc đó tôi lại thấy háo hức được ra đi và nghĩ rằng sẽ không quay lại thành phố này nữa. Tôi ngoái nhìn xuống dòng sông, nước phù sa cuồn cuộn đục ngầu và có cùng một ý nghĩ như Mai Thảo.

Kỷ niệm thứ hai là với dòng sông Sài Gòn. Như những câu chuyện tình, các nhà văn thường hay tả cảnh lần đầu hai người gặp nhau, và lần cuối họ chia tay nhau, nếu khung cảnh đó lại là một bến sông thì câu chuyện lãng mạn và lâm ly biết bao. Chuyện của tôi với sông Sài Gòn cũng gần như thế. Tôi đến với Sài Gòn năm 54 và rời Việt Nam năm 75 cũng từ bến sông Sài Gòn.

________

Nhớ lại từ hồi học lớp Nhì trường Lý Thường Kiệt ở phố Sinh Từ, Hà Nội, tôi là một tay bơi có hạng. Trung thu năm 1946, thành phố tổ chức một buổi tập trận trên hồ Hoàn Kiếm, giữa Nhi Đồng Cứu Quốc và Hướng Đạo. Hướng Đạo chiếm lĩnh Tháp Rùa, có những thuyền nhỏ chèo đi phá các cứ điểm của Nhi Đồng quanh hồ. Mỗi nhi đồng được lệnh chuẩn bị từng xâu vỏ bưởi cắt thành từng miếng vuông đeo bên người làm võ khí. Mỗi khi thuyền của Hướng Đạo xông vào là hàng loạt vỏ bưởi được ném ra túi bụi để đẩy lui thuyền ra xa.

Lần đó tôi được tuyển vào Đội Yết Kiêu để bơi ra “tái chiếm” Tháp Rùa. Khoảng cách bơi gần nhất là chỗ Khai Trí Tiến Đức. Sau tiếng hô của đội trưởng, tôi nhoài người ra hồ, tưởng là gần nhưng sao bơi mãi mới tới nơi. Khi đó thì toán đến trước đã đẩy lui được Hướng Đạo, và họ đã rút lui bằng thuyền. Tôi vạch bờ cỏ, lên đảo và đi xung quanh tháp, sau đó vào trong lòng tháp đứng nghỉ. Nhìn quanh không còn ai, đội của tôi xong nhiệm vụ đang bơi vào bờ. Còn một mình, tôi chợt nhớ đến cụ rùa Hoàn Kiếm đã lấy lại gươm thần của vua Lê Lợi mấy trăm năm trước. Phải chi cụ hiện lên trong lúc này, nói với mình một tiếng thì thú vị biết bao!

Hồi chiến tranh Việt-Pháp, gia đình tôi phiêu bạt hơn bốn năm trời trong vùng hậu phương trung du Bắc Việt. Tôi đã bơi qua nhiều con sông đào nhỏ, và có lần cùng bạn bơi qua ngang sông Đáy, gần ngả Vân Đình, để về trại tạm cư vì không muốn lội bộ quá xa để đến bến đò ngang. Sau này về Hà Nội, tôi lại thường bơi từ Petite Đồ Sơn ở Hồ Tây sang chùa Trấn Quốc, sang đình Nghi Tàm. Tại hồ Quảng Bá, tôi đã bơi ngang qua hồ sang đến gốc cây xoài phía bên kia.

Image
Ảnh: Eden Constantino/Unsplash
Sau mùa Hè di cư năm 1954 ngắn ngủi và bận rộn, tôi đổi sang trường Hồ Ngọc Cẩn, học lớp đệ Tam. Năm học mà thường được gọi là năm ăn chơi không phải bận rộn thi cử. Tôi cũng hay về thăm lại trường cũ Chu Văn An được đặt tạm tại khu nội trú của trường Petrus Ký, gặp lại được một số bạn cũ, và nhớ những người bạn đã ở lại. Các bạn tôi lúc đó ai cũng có xe đạp, nên sau giờ học là rủ nhau đạp xe đi khám phá thành phố mới. Cuối tuần chúng tôi đi xa hơn, mỗi người mang theo một ổ bánh mì thịt nguội hay cá hộp sardine, nước thì đựng trong bi-đông nhỏ của nhà binh. Cả bọn đạp xe qua cầu Bình Lợi đi thăm Thủ Đức, Lái Thiêu, suối Lồ Ồ. Có lần đi đến tận Biên Hòa và còng lưng đạp xe leo dốc thăm ngôi chùa trên núi Châu Thới.

Một hôm, đạp xe qua Khánh Hội, rồi vòng vào Kho 5, cả bọn dựng xe và ra bến sông Sài Gòn. Lúc đó thủy triều xuống, lòng sông thu lại, những đám cỏ dại bờ bên kia trông cũng khá xa. Sông Sài Gòn hồi đó còn nhỏ hẹp, không như bây giờ đã được khơi rộng ra nhiều lần. Một anh trong bọn nảy ra ý cùng bơi qua sông. Tôi nhìn xuống dòng sông, nước ngả màu xám, lóng lánh vết dầu loang, có ý hơi ngần ngại, nhưng cũng theo bạn ùa nhau nhảy xuống. Bơi được một quãng, ra đến giữa dòng, không ngờ nước chảy xiết, cả bọn bảo nhau cố bơi ngang và cứ để mặc cho trôi theo dòng. Nước đẩy chúng tôi quá xa, hơn cả hai trăm thước chỗ định đến. Trước khi bơi trở về, chúng tôi phải đi ngược lại gấp hai lần khoảng cách trên. Lên lại được bến Kho 5, thật là hú vía, cả bọn thấy mình thật là liều lĩnh, chắc là từ nay không anh nào còn dám đùa rỡn với con sông này nữa.

Sau này, mỗi kỳ hè về thăm gia đình, tôi lại có dịp bơi qua sông Hương từ chỗ bến đò trước trường Đồng Khánh với những người bạn ở Huế, nơi cha tôi đang làm việc. Nước sông Hương ngày đó trong xanh, hiền hòa lững lờ trôi, khác hẳn những con sông mà tôi đã lội qua.

Dòng sông cuối cùng tôi đã bơi qua là con sông Dương Đông ở đảo Phú Quốc, khi tôi được chuyển ra đó làm việc sau khi ra trường Hành Chánh và xong một khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế, Nha Trang, vào khoảng đầu thập niên 1960. Tôi ở đó gần ba năm, không nghĩ đến chuyện xin đổi đi nơi khác. Nhiều lần, một mình tôi bơi từ Dinh Cậu, nơi dòng sông chảy ra biển, sang bên kia cồn cát, nơi cái xóm nhỏ mới thành lập, mà tôi đã đặt tên là “xóm Bình Định” cho những người dân ngoài đó trốn chiến tranh đến đảo xin lập cư. Có lần tôi bơi ra ngoài xa, đến tận cái cột mốc để hướng dẫn thuyền vào cửa biển, khiến một lão ông lo sợ tôi có thể bị cá mập tấn công.
Image
Ảnh: pexels-anna-tarazevich

Hơn hai mươi năm sống với mưa nắng Sài Gòn, học hành, gầy dựng tương lai, tôi đã có những năm tháng thanh bình cũng như xáo trộn vì tình hình đất nước. Cuối cùng, một quyết định đau lòng là phải bỏ quê hương khi người anh em từ miền Bắc xông vào cưỡng chiếm miền Nam.

Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975, gia đình tôi và ông anh vợ là quân nhân chạy về ngôi nhà đường Trần Quý Cáp của bà chị lớn. Tôi biết lòng anh nóng như lửa vì vợ con đã rời khỏi Việt Nam từ mấy ngày hôm trước. Phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích, bất khiển dụng. Chúng tôi gần như tuyệt vọng nghĩ không tìm được đường nào thoát. Bỗng có điện thoại, anh nhấc lên nghe, rồi buông một câu ngắn gọn: Ra ngay bến Bạch Đằng, đi tàu hải quân! Chúng tôi ùa ra khỏi nhà và cùng nhảy lên xe jeep nhà binh của anh.

Tới nơi, một vòng kẽm gai đã chăng ngang đường tới tận bờ sông. Lính canh ngăn chặn đám đông bên ngoài đang cố tràn vào. Anh cho xe đậu sát bờ sông, bên kia là tượng Đức Trần Hưng Đạo, nơi có lính đứng kiểm soát. Nhìn thấy anh đeo lon trung tá, họ cho vào, nhưng ngăn gia đình chúng tôi lại vì là dân sự. Anh không nỡ bỏ đi, nói khó với mấy người lính rằng tôi là một quân nhân biệt phái, nhưng họ nói không dám vì sợ trái lệnh trên. Không muốn nhùng nhằng làm mất cơ hội cuối cùng đi tìm vợ con của anh, tôi bắt tay anh, hối thúc anh đi may mắn, còn gia đình tôi có thể trở về.

Đám đông ngoài hàng rào cản ngày càng đông, bỗng hàng tràng súng nổ phía sau tượng Trần Hưng Đạo, sau đó hàng tràng đạn bên trong hàng rào đáp lại, mọi người chạy tán loạn. Một toán lính dù đang định tiến vào nhưng bị cản lại, nhưng may là cả hai bên chỉ bắn chỉ thiên. Hai đứa con nhỏ nhất sợ hãi, khóc ầm ĩ. Chúng tôi nghĩ nếu còn ở đây dám bị đạn lạc và quyết định lái xe về. Tôi đề máy. Xe không nổ. Đề lần thứ hai, thứ ba, xe cũng không nổ.



Lính canh sợ hỗn loạn như vụ di tản miền Trung vừa qua, họ vội giăng thêm mấy lần kẽm gai rộng ra ngay đằng sau xe. Không biết tính sao, đi không được mà về cũng không xong. Súng bắn, con khóc như ri, cùng quá, tôi đành bước xuống xe, lại gần nói khó với anh trung sĩ đang giữ rào cản. Anh ta nói: “Ra xe, nổ máy, khi tôi mở rào thì phóng xe thật nhanh vào”. Tôi nghĩ xe đã không nổ máy, làm sao đây. Tuy vậy không còn cách nào hơn là trở lại xe. Vợ tôi đang cầu nguyện Trời Phật ông bà. Tôi yên lặng ngưng thở vài giây, vừa thì thầm khấn theo vừa thử đề máy xe, thì lạ thay, xe nổ máy, thế là gia đình tôi thoát vào được! Tuy vậy cũng còn phải trải qua nhiều gian nan vợ chồng tôi cùng năm đứa trẻ mới leo được lên chiếc chiến hạm cuối cùng đang nằm ụ chờ sửa chữa.
Image
Ảnh: pexels-spencer-lee

Hai giờ sáng, con tàu 502 có tên là Thị Nại rời bến Bason trên chở năm ngàn người. Khi tàu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống dòng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi nghĩ thầm nếu không tìm được Tự Do, chắc mình cũng không thể trở lại được con sông này. Trông lên đường Nguyễn Huệ, con phố không một bóng người, đèn đêm vàng bệch như màu da của người sắp chết.

Sáng 30, tàu đến được Côn Sơn, nơi tập trung của hạm đội. Qua radio, nghe tiếng tướng lãnh đầu hàng như một lời báo tử. Nhìn lại phía sau, Sài Gòn và cả miền Nam khuất dần cuối chân trời, như đang chìm sâu xuống biển. Đi chẳng được bao lâu, tàu chết máy, nằm chơi vơi giữa biển khơi, phải chờ một chiến hạm khác quay lại kéo. Vì là con tàu cuối cùng ì ạch chạy, phải vớt thêm một số ghe còn lại, nên tàu lại càng chật len người. Một trực thăng cố đuổi theo tàu tìm chỗ đậu, sau khi hạ xuống xong, lại phải tìm cách đẩy trực thăng xuống biển.

Ngoài ra còn một máy bay thám thính T28, trên có hai phi công, bay đến lượn sát quanh tàu nhiều vòng, nhưng làm sao đáp xuống được. Cuối cùng phải bay là sát xuống để cố đáp trên mặt biển, nhưng không ngờ máy bay bị lật úp văng một phi công ra ngoài. May nhờ toán người nhái bơi ra cứu được. Còn phi công khác đã chìm theo máy bay đi vào lòng biển… Ngày thứ tư Hạm Đội Mỹ mới đến giúp, tiếp tế thực phẩm và bơm thuốc phòng bệnh. Bảy ngày tàu mới tới được Subic Bay, Phi Luật Tân. Trước khi cặp bến, họ yêu cầu xóa bỏ hết các dấu hiệu của Việt Nam. Tên tàu Thị Nại 502 bị phủ một lớp sơn đen. Lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống. Mọi người trên tàu đứng lên hát Quốc ca, nước mắt nhạt nhòa. Tiếng hát theo gió tan trên biển như một bi hùng ca của những người thất trận.

Rồi chúng tôi được chuyển qua các trại tị nạn và vượt được Thái Bình Dương, đến được lục địa Mỹ Châu, trở thành công dân Mỹ, thành người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi lại đi xuyên qua lục địa Mỹ đến tận chân tượng Nữ Thần Tự Do phía bên kia bờ Đại Tây Dương, trèo vào trong lòng tượng và leo lên tới gần bó đuốc biểu tượng của Tự Do để chắc chắn là mình đã làm trọn lời nguyện khi đi qua tượng Đức Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng năm xưa.
Image
Ảnh: pexels-tuvictor

Chúng tôi trở lại Hà Nội sau 40 năm, vì mấy người em họ gọi về lo việc phần mộ. Rồi lại một lần nữa tái ngộ Sài Gòn khi con gái út muốn về lại quê hương Việt Nam để làm lễ thành hôn. Lớn lên trong xã hội Mỹ, con tôi đã làm chúng tôi ngạc nhiên là cô quyết định về Sài Gòn làm lễ cưới. Trong lòng chúng tôi rất ngần ngại nhưng cũng cảm động nghe con giải thích: Con sinh ra ở Việt Nam thì con cũng muốn bắt đầu cuộc hôn nhân của con ở Việt Nam. Và con cũng muốn giới thiệu với chồng con đất nước, phong tục Việt Nam.

Lễ cưới được cử hành trên một chiếc thuyền rồng, biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Con thuyền đưa khách từ bến Nhà Rồng đến Bình Quới Resort. Hôm đó, trong lời chào mừng quan khách, tôi có dịp nhắc lại chuyện xưa:

“Chúng ta đang đi trên sông Sài Gòn, dòng sông lịch sử này đã nhắc lại cho gia đình tôi những kỷ niệm không thể quên. Nhiều năm trước, trong đêm cuối cùng trước khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi cũng thoát được từ một bến không xa nơi này, trên một chiến hạm hư hỏng cũng trôi trên con sông này. Chúng tôi đã phải rời bỏ quê hương, không biết nơi đến và cũng không biết tương lai ra sao…”. Nhiều bạn ngoại quốc đã lau nước mắt và lên chia sẻ với cô dâu về sự bất ngờ họ được biết về một khúc quanh lịch sử của chiến tranh Việt Nam và lý do tại sao gia đình cô lại sống nơi hải ngoại.

Những ngày ở Sài Gòn, tôi có dịp đưa các con đến chỗ mà phép lạ đã cứu chúng tôi khỏi cơn đại nạn. Nếu không thoát, tôi sẽ bị những người anh em thù nghịch đưa đi cải tạo tù đày điêu đứng. Và là con của “ngụy”, các con tôi sẽ không tránh được cảnh sống khốn cùng. Dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi đã kể lại cho các con nghe chuyện buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975 và tôi cũng nhắc đến sự giúp đỡ của những người chúng tôi không bao giờ quên, như anh Trung sĩ bộ binh đã mở rào cản cho gia đình tôi, rồi Trung úy Hải quân Hùng giúp chở chúng tôi ra tận tàu; Trung úy người nhái Trịnh Công Hiển, người em nuôi đạo đức đã theo giúp săn sóc con cái chúng tôi suốt cuộc hành trình; Trung tá Hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh; Trung tá Hải quân Phan Lạc Tiếp; Thủy thủ đoàn Tân Lập và toán người nhái của chiến hạm Thị Nại 502 đã cùng điều động con tàu hư hỏng đến bến tự do. Và trên hết, anh nhà tôi là Trung tá Đặng Bá Cảnh đã mở đường cho chúng tôi khi tình thế trở nên tuyệt vọng nhất.

Xin Thượng Đế phù hộ cho họ.

Sài Gòn đã đổi mới rất nhanh. Đi xa quá lâu, về lần nào cũng thấy xa lạ, ô nhiễm và bất an. Lần vừa rồi, chúng tôi ở lại Sài Gòn hơn một tháng. Trước ngày trở lại Mỹ, hai vợ chồng tôi đi dọc đường Tự Do, sang đường ra bến Bạch Đằng. Tôi nhớ lại hơn nửa thế kỷ trước, gần tám trăm ngàn đồng bào từ miền Bắc đã cặp bến này đi tìm tự do, nay không còn một dấu tích nào để lại. Cũng tại nơi này bao nhiêu năm trước đây, gia đình tôi đã bỏ lại chiếc xe bên đường và nhờ sự tình cờ như một phép lạ mà đến được miền đất hứa.

Chúng tôi đi ngược lên, đến dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, cố tìm lại chỗ của chiếc xe năm xưa. Ở đây họ đã xây một công viên nhỏ. Lúc quay về chỗ ngã ba để tìm cách sang đường Tự Do thì đúng vào giờ tan sở, xe chạy hai chiều không ngớt. Đường thì rộng, không đèn giao thông, cũng không có lằn sơn dành cho bộ hành, chần chừ mãi không dám qua. Chợt nghe thấy tiếng chuyện trò vui vẻ của mấy cô gái, chúng tôi quay lại thì các cô tươi cười “Hai bác theo chúng cháu” và không đợi trả lời, hai cô đã nắm tay chúng tôi dẫn qua đường. Sang đến nơi chưa kịp nghe lời cám ơn, các cô đã vội rảo bước ríu rít đi. Tôi bỗng nhiên thấy trong cái xa lạ, trong sự bất an, trong cái vô cảm của cuộc sống hối hả, vẫn còn cái thiện căn bản trong sáng của những người trẻ Việt Nam.
MatVit
Posts: 1309
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by MatVit »


TUỔI GIÀ NHƯ CON THUYỀN
KHÔNG BẾN


Bến mơ dù thiết tha,
thuyền ơi đừng chờ mong

(ĐTP)

Nào giờ, tui vẫn thích khí hậu Cali nói chung và san Jose nói riêng. Mười lăm năm sống ở đó tui thấy bình thường lắm, chẳng nhận ra khí hậu ở đó thật tuyệt vời. Nhưng sau này vì công việc, tụi tui dọn qua TX. Qua tới đây rồi mới biết khí hậu bên này oi bức quá, mùa đông lạnh hơn và muà hè thì nóng hơn. Chợt thấy tiếc cái khí hậu ôn nhu mình được hưởng suốt một thời gian dài. Chính vì vậy mà làn da của tui lúc đó được mọi người khen đẹp, đi đến đâu cũng có người hỏi tui dưỡng da bằng loại kem gì? thú thiệt, cái này trời thương mà phú cho chứ tui chẳng chăm sóc gì nhiều.

Ở TX hai mươi lăm năm, cái khô khốc khắc nghiệt của mùa hè, cái tê tái rét buốt của mùa đông, thêm tuổi già sồng sộc kéo tới, chúng nó đã xúm nhau tàn phá làn da của tui không thương tiếc. Giờ thì hởi ôi, tui nhìn tui trong gương mà muốn khóc thét.. vừa già, vừa sập xệ.. Ôi! thời gian, và nắng gió. Có những hôm mưa dầm, mây xám giăng giăng, tư lự một mình, chợt ngậm ngùi thấy thương một thuở thanh xuân. (Tui biết tui hay lằng nhằn, nhưng quí vị chịu khó cho tui than thở một chút nhen.)

Gần đây chăm sóc Mẹ già, có những hệ lụy buộc tui phải suy nghĩ. Có nhiều câu hỏi luôn hiện diện trong óc. Biết rằng ai cũng phải đi tới bước này, nhưng mình sẽ an bài cho chính mình như thế nào cho hợp tình, hợp lý đây?. Nhìn Mẹ tui ở tuổi 85 và những người cùng thời của bà mà chợt thấy thương thân. Thời đại Mẹ tui, không biết tiếng bản xứ, quen rau mắm, tương cà, cả đời chỉ gần con cháu trong nhà, thì làm sao mà vô viện dưỡng lão toàn người ngoại quốc ở được? tội lắm. Cũng may đám con nửa nạc, nửa mỡ. Sinh ở Vn, lớn ở Mỹ như tụi tui cũng hiểu được điều này, nên ráng tận sức trong điều kiện có thể.

Như Mẹ tui, bà không thể một mình, cần có người bên cạnh 24/7. Các con ai cũng đi làm cả ngày thì làm sao có thể chăm sóc bà. Mướn người thì không có. Do vậy cuối cùng các con phải chia nhau. Dù ở gần, nhưng một tuần bà phải di chuyển tới 3 căn nhà. Thêm nữa, theo chu kỳ, mỗi đợt tui hay chị hai qua chăm bà, thì lúc đó sẽ có căn nhà thứ 4. Đây là điều làm bà bực mình lắm. Nhưng hết cách. Lắm khi tôi thấy thương cho bà và gọi đùa bà là con thuyền không bến. Phận già cứ đi loanh quanh theo con, trong khi căn nhà to đùng của Mẹ bỏ hoang không ai ở, bên VN.

Mỗi lần qua San Jose là tui mượn nhà cậu em trai, đem mẹ về bên nhà đó với tui hai tuần. Cậu em chỉ phụ giúp coi mẹ khi cần chứ không chăm mẹ thường xuyên được như các chị em gái, nên mỗi khi chị hai, chị ba đến phiên, thì sẽ ở nhà cậu em này. Có những buổi sáng nắng hanh nhẹ, hai mẹ con ngồi ngoài ghế xích đu sau vườn ngắm chim, ngắm hoa trái, mẹ vui lắm, nhất là nhắc đến kỷ niệm lúc ba còn sống. Đang vui nhưng bất chợt nghe nói: hai ngày nữa con về, là mẹ sầm nét mặt, như một đứa con nít, lo lắng hỏi: Con về rồi mẹ làm sao? ở với ai. Tôi giải thích thì mẹ ầm ừ tỏ ra hiểu. Nhưng chỉ lúc đó thôi, rồi quên ngay. Lát sau lại hỏi nữa.

Có lúc tỉnh táo, bà buồn phiền: Tại sao không cho mẹ ở một chỗ mà phải di chuyển đi hoài? Các con lại giải thích: Tụi con đi làm cả ngày, mẹ ở nhà với ai? nghe vậy bà giẫy nẩy: mẹ sợ lắm, không dám ở nhà một mình đâu. Em gái nói: bởi vậy tụi con sắp xếp đi làm ngày khác nhau để thay phiên lúc nào cũng có người bên cạnh mẹ, để mẹ không phải lo lắng. Mẹ à một tiếng ra vẻ đã hiểu và bằng lòng. Nhưng rồi hôm sau lại quên và mẹ lại hỏi, con cũng lại trả lời.. cái vòng lẩn quẩn cứ thế mà xoay.

Tui tưởng chỉ mình mẹ tui trong cảnh này nên cảm giác buồn và thương tâm lắm. Nhưng đồng bịnh tương lân, hỏi thăm ra mới biết mẹ bạn tôi, bà sui của mẹ tôi, và nhiều bạn già khác.. giờ cũng đều trong tình trạng này. Đã đến lúc không thể ở một mình, giờ ở với đứa con này 2 ngày, đứa con kia 3 ngày, đứa con nọ 1 ngày.. cứ giáp vòng luân phiên, đều đặn đến hẹn lại lên, như con nước, sáng lên chiều xuống.. Biết vậy tui cũng vơi bớt cảm giác bất lực, cảm giác có lỗi. Cầu mong cứ kéo dài hoài như vầy cũng được, chỉ lo rằng bình iên này không biết bao lâu.? Cây đèn trước gió, ai biết được ngày mai.

Đó là những gì thời đại Ba mẹ tui đang trải qua. Nhưng tới thời đại chính tui thì sao đây? Tụi tui là ba rọi, nửa nạc nửa mỡ, chứ đời con tui, sinh đẻ, lớn lên bên này, mỡ tuốt luốt chứ kiếm đâu ra chút nạc.. mà cũng đâu phải 7-8 đứa con. Thời nay chỉ 1-2 đứa. Chắc lép gì nữa, phải tự lo thân thôi. Chuẩn bị tư tưởng, gói ghém hành trang mà đi vào nơi gió cát thôi. Ôi cái thân già, tuy khác kiểu một chút nhưng rồi cũng sẽ là một con thuyền không bến..

.. ánh trăng mờ chiếu,
một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la,
thuyền mơ bến nơi đâu.?


(ĐTP)
Seattle 7-2021
lilac2010
Posts: 76
Joined: Sun Mar 21, 2010 10:45 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by lilac2010 »

Tình Yêu
Mặc-Bích


Từ ngày hôm ấy, nhà Hương có thêm một khuôn mặt mới. Đối với tất cả mọi người trong nhà, trừ Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!
-“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”
Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:
-“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”
Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:
-“Con chơi, con phải ‘take care’ nó đó!”
-“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”
-“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”
-“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”
Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.
-“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”

Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!” Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương, nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.

Từ đó trong nhà nàng có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép, trừ khi có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy nó nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì, rồi thương hại Duy lại thôi.


Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.
Duy la lên: “Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”
Hương phì cười, nghĩ bụng: “Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!”
Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dạy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.

Vài tháng trôi qua, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!

Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ: “Joshua chắc bị ‘shock’ nặng nên nó không nói nữa!”
Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!

Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao…
Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:
- “Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?”
- “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”

- “Con trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”
Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:
- “Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”
- “Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”
- “Cậu con bà có thích con Joshua không?”
- “Chúng tôi quý nó lắm... có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”
- “Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”
Hương chép miệng:
- “Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”
Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách. Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:
- “Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”
- “Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”
Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:
- “Chúc bà may mắn!”
Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.

Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.
Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão: “Alice Park! Alice Park!”
Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn, bạc thếch theo với thời gian! Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí, hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp!
Những đôi mắt u uẩn, hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm! Như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt, mà những ngôn từ; động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây, chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia!!!
Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào, ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:
- “Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”
Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh:
- “Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong, rồi quẹo trái; đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”
- “Cám ơn cô nhé!”
Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội, làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.
- “Nó tên gì vậy bà?”
- “Joshua!”
- “Hi Hoshua! Hi!”
Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú! Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo: “Nó thích đàn bà, con gái Mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!

Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng! Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa. Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người, mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất!!!
Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác, theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia, mà đã có một lần họ đã sống qua! Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó, để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô- độc chăng???
Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu, và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.
Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch, và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi!
Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp, mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:
- “Love ya, Mama! Love ya, Mama!”
Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan! Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão, dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon? Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run, mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào! Chỉ có đôi mắt chớp khẽ!!! Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc, chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống!!!
Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:
- “Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”.
Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại! Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị! Làm như thế gian này, chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất! Không có gì có thể chia lìa!!! Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi, nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên! Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà! Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.
Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được!!! Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:
- “I love you too. Joshua! Mama love you!”
Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng, và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang, suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:
- “He hurt me!”
Bà sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:
- “My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore! Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua???”
Joshua lập lại y hệt như vậy:
- “Do you miss me, Joshua?”
Bà lão bật cười:
- “No! Do you miss me, Mama?”
Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:
- “No! Do you miss me, Mama?”
Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:
- “Cô mang Joshua đến đây?”
Câu hỏi này thay cho câu hỏi “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà, chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi! Hương thấy ngay điều này, nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:
- “Vâng!”
Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai, mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây! Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi, nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.
Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì, mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè, nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó, và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành! Một đành đoạn chia ly tất nhiên!!! Nàng dựa lưng vào băng ghế, nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu; rồi lìa cành! Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất! Có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống! Có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây, đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất, để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước!!! Nhưng có một điều chắc chắn, những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia; nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa! Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống! Tình yêu! Nỗi chết! Rồi cũng chỉ như thế thôi!!!
Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu:-”I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy???
Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa??? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau! Có nhau! Cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa! Và những ngày kế tiếp, có còn đến nữa hay không!!!
Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: “2:30 chiều!” Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về! Joshua phải trở về căn phòng của Duy, và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống! Chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!!!

Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa! Joshua đang đậu trên thành giường! Còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người! Nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn! Trông bà ta có vẻ mệt mỏi!!! Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi, nhìn Hương rồi hỏi:
- “Cô quen thế nào với bà Alice?”
Hương chỉ con Joshua:
- “Qua con két này!”
- “Thật à?”
Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:
- “Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”
- “Cô tử tế quá!”
Lần đầu tiên, từ lúc gặp gỡ, Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.
Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu:
- “Joshua! Đến lúc phải đi về..”
Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa! Mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:
- “Joshua!”
- “Mama!”
Cô y tá thích thú kêu lên:
- “Ồ nó nói được!”
- “Go home, Joshua! Go home!”
Nó lập lại lời bà Alice:
-“Go home! Go home!”
Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:
- “Love ya, Mama! Go home!”
Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà lão nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây, nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:
- “Go home, baby! You cannot stay here. I have no home now! Go, baby! ... Go...”
Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:
- “Nó ở lại với bà cụ được không cô?”

Cô y tá lắc đầu:
– “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”
Hương lặng im!!!
Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice! Chỉ giữa con két xanh và bà lão!!! Nó bay lên và đậu vào vai Hương, nhưng vẫn kêu lên:
– “Love ya Mama!”
- “I love you too, Joshua!”
Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:
- “Cám ơn cô... đã mang Joshua đến đây! Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì… vui lắm!!!”
Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice, và nhẹ nhàng nói:
- “Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”
Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:
- “Cám ơn cô! Cám ơn cô nhiều lắm!!!” .
Nàng đi ra, và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian!!!
Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương ???

-Mặc Bích-
buikiem
Posts: 503
Joined: Sat Sep 22, 2012 12:45 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by buikiem »

Image

Bố già và bản dịch để đời của Ngọc Thứ Lang
Hoàng Hải Thủy

Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu. Năm ấy tôi mang theo cây đàn lên phi cơ nhưng số tôi không khá về mặt đàn địch – “không khá” không đúng, phải nói là “Dzêrô Ghi-ta” – ba lần tôi học đàn nhưng rồi tôi cũng bỏ cuộc, không chơi nổi được lấy một bài tủ cho ra hồn, như bài La Vie en Rose tôi rất thích. Năm 1950 tôi học đàn thầy Tạ Tấn ở Hà Nội, năm 1951 tôi học đàn thầy Vĩnh Lợi ở Sài Gòn, năm 1959 tôi học đàn thầy Lâm Tuyền ở Sài Gòn. Ba lần học, thầy dậy đàng hoàng, tôi vẫn không đàn được. Quá tam ba bận. Không được là không được.

Năm 1952 tôi làm phóng viên nhật báo Ánh Sáng, tòa soạn ở đường Bonard, gần tiệm ăn Kim Hoa cạnh rạp xi-nê-ma Casino de Saigon. Những năm 1970 nhà này là Tiệm Kem Kim Ðiệp. Thời ấy – một nửa thế kỷ trôi qua – Sài Gòn an tĩnh, đời sống ở Sài Gòn tương đối thanh bình, chiến tranh Việt Pháp diễn ra dữ dội ở miền Bắc, miền Trung, những tờ nhật báo Sài Gòn không có nhiều tin giật gân, kể cả những tin không giật gân, tin xe cán chó, để đăng. Một hôm có chiếc xe buýt chạy đường Phú Nhuận-Sài Gòn lạc tay lái đâm vào cổng Dinh Gia Long, vài người bị thương nhẹ. Năm ấy Cao Ủy Pháp ở trong tòa nhà về sau ta gọi là Dinh Ðộc Lập, chính phủ ta, Thủ tướng Trần Văn Hữu, ở Dinh Gia Long. Tôi đến nơi xẩy ra tai nạn lấy tin. Ðang đứng láng cháng hỏi và ghi chép tôi nghe tiếng người hỏi:

-Báo nào thế?

Người hỏi là Nguyễn Ngọc Tú, tức Ngọc Thứ Lang, người những năm 1965, 1970 là dịch giả tiểu thuyết Bố Già dịch từ The Godfather của Mario Puzo. Lúc tôi đến đấy, tình cờ Tú cũng đến đấy. Ðấy là lần đầu tiên tôi gặp Tú. Tú trạc tuổi tôi, công tử Bắc kỳ — những năm đầu thập niên 1950 chúng tôi mới hai mươi tuổi. Tôi vào Sài Gòn đã sớm, Tú còn vào Sài Gòn sớm hơn tôi. Chắc vì là con thứ nên Tú lấy bút hiệu là Ngọc Thứ Lang. Gặp nhau chúng tôi thân nhau ngay. Tú nói anh từng là nhân viên tòa báo của ông Hiền Sĩ. Dường như là tờ Phục Hưng. Ðây là tờ nhật báo Việt đầu tiên ra đời ở Sài Gòn sau khi người Pháp trở lại Ðông Dương năm 1945.


Nghe nói Phục Hưng là tờ nhật báo do Sở Thông Tin Pháp tài trợ để tuyên truyền cho Pháp. Do đó Phục Hưng bị coi là “báo Việt gian.” Báo có mặt ở Sài Gòn chừng hai, ba năm thì Sở Thông Tin Pháp cho đình bản. Trong tòa soạn báo Phục Hưng có anh Trường Sơn Nguyễn Huy Thái, một ký giả có tài của làng báo Sài Gòn trước năm 1954. Một bút hiệu khác của anh Thái là Huy Thanh. Anh qua đời khoảng năm 1990 ở Sài Gòn. Năm 1952 khi tôi gặp Tú và thân với Tú tờ báo của ông Hiền Sĩ đã đóng cửa từ lâu, ông Hiền Sĩ đã về Chợ Gạo, Mỹ Tho làm Cai Tổng. Có lần tôi thấy ông đến tòa soạn báo Sàigònmới thăm ông bà Bút Trà. Lên Sài Gòn ông Hiền Sĩ vẫn ăn bận đúng kiểu Cai Tổng Nam kỳ lục tỉnh: Đội mũ nỉ, miệng ngậm ông vố, tay cầm ba-toong, mặc bộ đồ sá xẩu, chân đi dép, răng vàng, nói cười rổn rảng.

Về chuyện Tú là nhân viên tờ báo của ông Hiền Sĩ tôi phải viết thêm: Đấy là chuyện Tú kể với tôi. Mới đây khi nhắc đến Tú, một ông bạn nói Tú du học ở Paris đến năm 1954 mới về nước. Tôi hỏi ai nói, ông bạn nói Tú nói. Tôi biết Tú không có đi Tây, đi Tầu chi hết, kể cả Tây Ninh, Tú cũng chưa bao giờ đi. Thành ra chuyện Tú nói với tôi anh từng là nhân viên nhật báo Phục Hưng của ông Hiền Sĩ tôi sợ cũng chỉ là chuyện Tú nói.

Tú bằng tuổi tôi, học hành lem nhem như tôi, chúng tôi cùng bỏ học sớm, cùng biết tí đỉnh Pháp văn, Anh văn. Tú thông minh hơn tôi, Tú sắc sảo nước đời hơn tôi, ít tuổi nhưng hay chơi trội: Mới hai mươi tuổi đã vào Nhà Cercle Sòng Bạc Kim Chung đánh roulette, hút thuốc phiện. Năm 1955 Tú kiếm được nhiều tiền. Anh in và bán quyển “Tại sao tôi di cư?” cho Bộ Thông Tin Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa – thời Bộ trưởng Cao Ðài Phạm Xuân Thái. Nghe nói ông Bàng Bá Lân là tác giả quyển sách nhỏ ấy. Sách ra đúng thời điểm, đúng nhu cầu.

Ông Bàng Bá Lân viết sách, Tú mang sách vào bán cho Bộ Thông Tin. Không bán bản quyền mà tác giả in sách, sách tuyên truyền, chừng 100 trang, Bộ Thông Tin mua cả chục ngàn quyển. Nhờ việc chia tiền lời với ông Bàng Bá Lân, Tú có cả trăm ngàn đồng, số tiền thật lớn thời đó. Anh ăn diện: Sơ-mi Valisère hàng nylon mới từ Paris sang bán ở tiệm đồ đàn ông mode nhất, đắt nhất thời đó trên đường Tự Do, dùng đồng hồ vuông mặt đen, mũ Mossant, cặp da nâu bệ vệ như cặp của Bộ trưởng Phạm Xuân Thái, máy chữ portatif, quạt máy Marelli, hút thuốc lá Mỹ Phillip Morris vàng Kingsize, bật lửa Dupont, ăn cơm Tây, rượu chát v.v.

Và Tú gặp tình yêu. Nàng là cô giáo người Bắc, nhà ở gần ngay nhà Tú – đường Genibrel, từ sau 1956 là đường Huyền Quang, Tân Ðịnh – cô giáo có chồng. Chồng nàng ra bưng kháng chiến. Nàng ở Sài Gòn dậy học, sống với đứa con nhỏ và bà mẹ, chờ đợi chồng trở về. Cô giáo trung thành với chồng. Chiến tranh chấm dứt, đất nước chia đôi, tháng 12 năm 1954 chồng nàng từ Ðồng Tháp Mười tập kết lên tầu Ba Lan ra Bắc. Thấy chồng không chịu trở về, cô giáo thất vọng.


Nàng trao trái tim nàng cho Tú. Cuộc tình của họ gặp trắc trở. Dường như bà mẹ của cô giáo không bằng lòng. Cô giáo tự tử chết, bỏ lại mẹ già, con thơ. Thật tội. Ðời Tú, từ cái chết bi thảm của cô giáo, bắt đầu xuống dốc không phanh. Anh nằm luôn trong một nhà bán thuốc phiện ở hẻm Monceaux, Tân Ðịnh, sau 1956 là đường Huỳnh Tịnh Của nối dài. Anh ăn, hút, ngủ trong nhà đó luôn, bán dần đồng hồ, máy chữ, cặp da trả tiền hút. Tú ra khỏi nhà đó hai tay không với bệnh nghiện hút nặng.

Từ sau năm 1954 đất nước chia đôi nguồn cung cấp á phiện cho miền Nam Việt Nam, nay là Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, không đến từ Bắc Việt nữa mà đến từ vùng Xiêng Khoảng nước bạn Ai Lao, hoặc vùng gọi là Tam Giác Vàng. Hàng – á phiện – từ Lào về Sài Gòn bằng đường hàng không. Năm 1960, 1961 Ai Lao có nạn binh biến, đảo chính xảy ra chí chạt: Ðại úy Nhẩy Dù Lèo Khong Le làm đảo chính, đuổi Thủ tướng, rồi hai ông Hoàng Lèo Phoumi, Phouma tranh quyền thủ tướng đánh nhau liên miên.

Trong một lần hai ông Hoàng Lèo tranh quyền, Vientiane bị giới nghiêm, phi trường Vientiane đóng cửa nhiều ngày. Phi cơ không bay, á phiện Lèo không về được Sài Gòn. Tình hình giới HítTôPhê Việt Nam Cộng Hòa thập phần nguy kịch. Ðệ tử của Cô Ba Phù Dung có thể nhịn ăn nhiều ngày nhưng không thể nhịn hút dù chỉ là nửa ngày. Ðệ tử Cô Ba Phù Dung có thể thiếu cơm – thực ra là mấy ổng Tiên Ông Phi Yến Thu Lâm săng phú cơm, săng phú luôn cả thịt cá, rau dưa – nhưng mấy ổng không thể nửa ngày không có thóc. Thời ấy trong giới Hít Tốp có câu nói:

-Phu Mi, Phu Ma đánh nhau, PhuMơ chết!

PhuMơ: fumeur, tiếng gọi khác là phum, dân phum, tức dân hút thuốc phiện.

Mà PhuMơ Mít chết thật. Hàng không về, thuốc tăng giá. Những nhà còn thuốc giữ lại không bán ra. Gần như có tiền và chịu giá đắt mấy cũng không mua được thuốc. Mà lính của Cô Ba thì tuyệt đại đa số là đọi, tức tiên khồng. Chít mất. Chít là cái chắc! Nô thóc! Không có thóc! Làm sao bi giờ? Trong cơn nguy cấp ấy không biết ông Con Trai Bà Cả Ðọi Hít Tô Phơ thông minh nào có óc khoa học vật lý hóa kiêm bào chế sư nẩy ra sáng kiến thần sầu cứu nguy cho thân mình và đồng bạn bằng cách: Lấy sái thuốc phiện nấu lên với nước, lọc đại khái cho nước thuốc không có cặn, rút vào ống chích, chích thẳng vào gân máu. Sáng kiến này dựa trên sự phân tích khoa học: Hút khói thuốc phiện vào phổi, phổi đưa chất thuốc vào máu.

Tiến trình này mất thì giờ và tốn thuốc, mười phần thuốc được dùng thì chất vào máu chỉ được hai, ba phần. Tại sao không nấu cho sái tan ra nước – thuốc phiện chưa hút cháy thành sái lại không dùng được trong trò chích choác này – lấy nước sái chích thẳng vào mạch máu? Chích như vậy là thuốc vào máu đủ chăm phần chăm, ép-phê liền tù tì tút suỵt, chưa rút mũi kim chích ra thuốc đã vào đến tim, lại không bị tiêu hao, phí phạm môt ly ông cụ nào.

Thế là từ đó thế giới ma túy Việt Nam Cộng Hòa có thêm trò chích choác. Rồi màn kịch vô duyên mấy trự Gà Lèo không bôi mặt cũng đá nhau sặc mắm ngóe rồi cũng phải ngừng, á phiện lại từ Lèo bay về Sài Gòn đều đều, nhưng dân nghiện Sài Gòn đã có thêm trò chích choác. Dân nghiện ma túy Âu Mỹ chích cocaine, heroine, gọi chung là bạch phiến, chất trắng, là tinh chất của á phiện.

Dân nghiền Việt chích bằng nước sái thuốc phiện, chất nước mầu nâu sẫm hay vàng nhạt, đậm hay đặc, tùy theo số sái và số nước nhiều hay ít. Người đã choác khó có thể bỏ choác để trở lại hít, tức hút. Vì choác quá nặng. Ðang hút 100 đồng người nghiện chỉ cần choác 10 đồng là phê khủng khiếp, choác phê hơn hít nhiều. Và choác tàn phá con người nặng, mạnh và nhanh hơn Hít rất nhiều. Cai thuốc phiện khó hơn lên trời, nhưng người nghiện hút may ra còn có thể cai được. Cai: Bỏ hút, còn Choác thì vô phương. Choác một năm cơ thể bị tàn phá bằng Hít mười năm.

Tú Lé – Tú bị lé một mắt nên chúng tôi gọi anh là Tú Lé – từ Hít sang Choác. Những năm 1965 Tú chuyên mặc sơ-mi dài tay. Những gân máu trên hai cánh tay anh bị chích nhiều quá thành chai cứng, đen sì, trũng xuống như lòng máng nước. Tú viết cho Tuần San Thứ Tư của Nguyễn Ðức Nhuận và lai rai cho nhiều báo khác, anh lấy bút hiệu Ngọc Thứ Lang. Nhuận đưa The Godfather cho Tú dịch. Tú chọn tên Bố Già và bản dịch Bố Già của Ngọc Thứ Lang là một bestseller của tiểu thuyết Sài Gòn những năm 1968, 1972.


Năm 1976 Tú và tôi đến dự cái gọi là Khoá Bồi Dưỡng Chính Trị cho văn nghệ sĩ Sài Gòn do Hội Văn Nghệ Giải Phóng Thành Phố Hồ chí Minh tổ chức. Cùng dự khóa này với chúng tôi có Phan Nghị, Nguyễn Đình Toàn, An Khê, Lê Minh Ngọc, Cao Nguyên Lang, Nguyễn Ước, Phan Kim Thịnh, Nguyễn Mộng Giác v.v. Hai mươi mốt ngày “học tập”, học viên được Thành Ủy cấp mỗi ngày một đồng tiền công tác phí.

Ngày học viên được mua nhu yếu phẩm, được phát đúng hơn, tiền mua số nhu yếu phẩm này lấy từ trong số 21 đồng tiền công tác phí: Hai hộp sữa, hai gói thuốc điếu Vàm Cỏ, một ký đường, hai gói mì, một cây kem đánh răng, nửa ký bột giặt, hai trăm gam bột ngọt v.v. Lãnh nhu yếu phẩm xong học viên Nguyễn Ngọc Tú, tức Ngọc Thứ Lang, tác giả Bố Già, biến mất liền trong hai ngày không đến lớp. Chúng tôi nói với nhau: “… Ngọc Thứ Lang mang nhu yếu phẩm đi hưởng bồi dưỡng rồi”. Anh đổi số nhu yếu phẩm ấy lấy thuốc chích.

Cuối năm 1976 ký giả Hồ Ông – hiện ở Sydney, Úc, làm báo – cho tôi hay: “Anh Tú bị bắt đi phục hồi nhân phẩm trên Bình Triệu. Anh ấy nhắn về bảo anh lên thăm.” Một sáng Hồ Ông và tôi trên hai xế đạp lên Bình Triệu thăm Tú. Trung tâm cai ma túy của thành phố được đặt trong tòa nhà Tu Viện Fatima. Tu viện vừa xây cất xong, chưa khai trương thì bị chiếm. Phòng ốc rộng rãi, mát mẻ, sạch sẽ, thênh thang, thừa tiện nghi, bể xi-măng chứa nước máy lớn ở vườn sau, tha hồ tắm. Mỗi phòng dự định dành cho một tu sĩ nay có ba, bốn anh nghiện ở, phòng không có đồ đạc, bàn ghế gì cả, chỉ có mấy cái chiếu trải trên sàn. Ða số là dân choác, bị công an hốt đi từ những động choác. Rất ít người được gia đình tiếp tế. Anh em vào đây chỉ với một bộ quần áo đang mặc trên người.

Khi tôi đến gặp Tú anh đã khoẻ, đi lại, ăn uống được. Những vết chích trên da thịt anh bị lở loét nhưng không sao, rồi sẽ lành. Nhiều người cai choác bị lở như vậy. Tú dẫn tôi đến xem tờ bích báo của Trung Tâm Phục Hồi Nhân Phẩm. Báo có 7 bài, một mình Tú viết 5 bài. Nghề của chàng. Tú kể chuyện có nữ ký giả ngoại quốc đến thăm Trung Tâm, Tú nói được tiếng Pháp, tiếng Anh nên ban quản đốc đưa anh ra nói chuyện với khách. Nữ ký giả ngạc nhiên khi nghe nói Tú là dịch giả The Godfather của Mario Puzo. Chắc cô nghĩ, theo những tiêu chuẩn kinh tế thị trường Âu Mỹ, đã là dịch giả The Godfather thì đâu có thể thân tàn, ma dại quá đến như Ngọc Thứ Lang. Cô nhà báo không tin. Tú được phép của trại về Sài Gòn lấy quyển Bố Già đem lên Trung Tâm cho nữ ký giả thấy là thật.

Tú nói sau thời gian cai nghiện ở Trung Tâm Bình Triệu đệ tử của Cô Ba sẽ phải đi nông trường cải tạo ít nhất là hai năm, nhưng vì Tú có khả năng ban quản đốc sẽ giữ Tú lại làm việc ở Trung Tâm. Tốt thôi. Ðấy là lần cuối cùng tôi gặp Tú. Từ lần chúng tôi gặp nhau đầu tiên năm 1952 đến lần gặp nhau lần cuối năm 1976, 24 mùa lá rụng đã qua cuộc đời chúng tôi.

Năm 1977 tôi bị bắt lần thứ nhất. Hai năm tôi sống trong Nhà Giam Số 4 Phan Ðăng Lưu. Năm 1979 trở về mái nhà xưa tôi được tin Tú đã chết ở Trại Cải Tạo Phú Khánh. Trại này nằm giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Tôi nhớ Tú nói anh sẽ được giữ lại Trung Tâm Bình Triệu, tại sao anh lại phải đi Trại Phú Khánh?

Tôi hỏi và được biết nguyên nhân như sau: Một hôm Trung Tâm cần in một số tài liệu. In ronéo. Vì Tú từng làm báo, biết về việc in và nhà in, nên ban quản đốc giao tiền cho Tú, và hai chú phục hồi đã khoẻ mạnh, mang tài liệu về Sài Gòn in. Ðến nhà in Tú đặt in, để hai chú bạn ngồi lại, đem tiền in đi luôn. Tú đi choác. Hai chú bạn ngồi va-ly đói dài, tiền ăn cơm trưa không có, tiền lấy đồ in cũng không luôn. Tú biến mất vài ngày rồi cũng trở lại Trung Tâm. Ban quản đốc thấy không thể giữ Tú lại nên cho Tú đi trại. Nghe nói một sáng trời lạnh ở Trại Tù Khổ Sai Phú Khánh, Tú rít điếu thuốc lào, đứng tim, ngã ra chết.

Tú có một bà chị. Năm 1955, khi đất nước ta bị cắt đứt ở khúc Bình Ðịnh-Quảng Ngãi, sau 9 năm chiến tranh mới liền một giải từ sông Bến Hải đến Mũi Cà Mau; thời ông Phạm Xuân Thái làm Bộ Trưởng Bộ Thông Tin, Tú và tôi đi một chuyến miền Trung. Tú đi với tư cách ủy viên Bộ Thông Tin, tôi là phóng viên nhật báo Sàigònmới. Tú đưa tôi đến thăm gia đình bà chị Tú ở Lăng Cô, trên đường Huế-Ðà Nẵng. Ông anh rể Tú năm ấy là Trung úy Bác sĩ Quân Y. Anh rất đàng hoàng – danh từ thời đó là réglo – bà chị của Tú hiền hậu. Sau đó, đến những năm 1960 tôi nghe nói ông anh rể của Tú làm giám đốc một quân y viện ở Ðà Lạt. Tú lên chơi, vào phòng thuốc của quân y viện, đòi chìa khóa, mở tủ thuốc cấm, lấy cocaine, morphine chích loạn cào cào. Nhân viên thấy Tú là em vợ của bác sĩ giám đốc nên không dám ngăn. Khi bác sĩ biết, ông cấm cửa không cho Tú đến nhà nữa.

Những năm về sau Tú sống trong nhà anh Thạch Thái Phúc, đường Bùi thị Xuân, Sài Gòn. Anh Phúc là ký giả pháp đình, tức tòa án. Anh có dáng người bệ vệ, kính trắng, ria mép, lúc nào cũng comlê, cavát, cặp da, ô đen. Không ai dám chứa một ông chích choác không phải là con cháu mình ở trong nhà, anh chị Phúc đã chứa Tú. Nghe nói bà mẹ của anh Phúc và bà mẹ của Tú là hai bà bạn thân. Bà mẹ của Tú ở lại Hà Nội. Năm 1954 khi gia đình anh Phúc di cư vào Nam, bà mẹ của Tú có lời nhờ bà mẹ anh Phúc trông nom, săn sóc Tú. Anh chị Phúc làm theo ý bà mẹ, cưu mang Tú mãi. Anh chị cho Tú ăn ở trong nhà, chỉ có tiền choác là không chi. Anh Phúc thông gia với Minh Vồ Con Ong. Minh đã qua đời năm 1993. Anh Phúc còn sống ở Sài Gòn.

Năm 1986 theo Liên Xô, theo Trung Cộng, Tổng Bí thư Ðảng Cộng Sản Nguyễn Văn Linh ban hành chính sách “đổi mới,” tuyên bố “cởi trói cho văn nghệ”. Cùng với hằng hà sa số những tác phẩm tiểu thuyết Việt Nam Cộng Hòa từng bị lên án là đồi trụy, phản động, tuyên truyền cho thực dân Mỹ, bị tịch thu, bị hủy hoại, tiểu thuyết Bố Già của Ngọc Thứ Lang được in lại. Hai nhà xuất bản tranh nhau in Bố Già: Nhà Xuất Bản Trẻ Thành Hồ và Nhà Xuất Bản Văn Hóa Hà Nội.

Bố Già của Ngọc Thứ Lang được in lại ở Hoa Kỳ. Mario Puzo, tác giả The Godfather, tiểu thuyết bestseller từng bán đến 21 triệu cuốn, qua đời ở nhà riêng trong thành phố Bay Shore, bang New York, ngày Một Tháng Bảy năm 1999, thọ 78 tuổi, có năm con, chín cháu. Ngọc Thứ Lang, tác giả Bố Già, qua đời ở Trại Lao Cải Phú Khánh năm 1979, chưa đầy 50 tuổi, không vợ, không con.

________

Đây là một bài viết cũ của ông Hoàng Hải Thủy. Nhà văn Hoàng Hải Thủy (tên thật là Dương Trọng Hải) đã qua đời ngày 6 Tháng Mười Hai 2020. Hưởng thọ 88 tuổi. Ông là nhà báo, nhà văn nổi tiếng miền Nam trước 1975, với các bút hiệu: Công Tử Hà Đông, Ngụy Công Tử, Con Trai Bà Cả Đọi, Hạ Thu, Hồ Thành Nhân, Văn Kỳ Thanh, Dương Hồng Ngọc, Triều Đông, Người Sài Gòn…
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by tiendung »

Nam tài tử Ray Liotta từ giã cõi đời
Xuân Huy
26 tháng 5, 2022

Image
Tài tử Ray Liotta (ảnh: Roy Rochlin/Getty Images)

Nam tài tử lừng danh một thời Ray Liotta, nổi tiếng với vai kẻ cướp Henry Hill trong phim Goodfellas và cầu thủ bóng chày Shoeless Joe Jackson trong phim Field of Dreams, vừa qua đời (*) ở tuổi 67 vào tối 25 Tháng Năm 2022.

Xuất thân từ Newark (New Jersey), Ray Liotta sinh năm 1954 và được chủ một cửa hàng phụ tùng xe hơi nhận nuôi khi mới 6 tháng tuổi từ một trại trẻ mồ côi. Liotta luôn cho rằng mình gốc gác Ý nhưng sau này, khi tìm kiếm cha mẹ đẻ, Ray Liotta mới biết ông thật ra là người Scotland. Thích chơi thể thao từ bé, đặc biệt bóng chày nhưng Ray Liotta lại bước vào lĩnh vực nghệ thuật. Lúc Ray Liotta học năm cuối trung học, giáo viên kịch hỏi cậu có muốn tham gia một vở kịch không; Ray Liotta đồng ý. Đó là bước khởi đầu cho Ray Liotta đi theo sự nghiệp diễn viên. Sau đó, tại Đại học Miami, Ray Liotta chọn môn kịch nghệ; đơn giản vì môn này không phải… học toán.
Image
Ray Liotta trong Goodfellas (IMDb)
Ông thường kể trong các cuộc phỏng vấn rằng mình chỉ bắt đầu thử vai vì một cô bạn gái xinh đẹp khuyên như vậy. Sau khi tốt nghiệp đại học, Liotta chuyển đến thành phố New York, nơi ông đóng quảng cáo rồi và được chọn vào vai Joey Perrini trong phim truyền hình nhiều tập Another World (từ năm 1978 đến năm 1981). Và phải mất vài năm nữa Ray Liotta mới có vai diễn điện ảnh lớn đầu tiên, trong Something Wild của đạo diễn Jonathan Demme (trong vai người chồng của bạn diễn Melanie Griffith). Lúc đó Ray Liotta đã 30 tuổi và vẫn chưa có công ăn việc làm nào ra hồn.
Image
Tài tử Ray Liotta và hôn thê Jacy Nittolo, 2021 (ảnh: Taylor Hill/FilmMagic)

Vai diễn trên mang về cho Ray Liotta một đề cử Quả cầu vàng. Vài năm sau, Ray Liotta xuất hiện trong vai hồn ma Shoeless Joe Jackson trong Field of Dreams. Phim lấy được nước mắt khán giả nhưng cạnh đó cũng bị nhiều nhà phê bình chê không tiếc lời. Vai đáng chú ý nhất, đóng dấu ấn sự nghiệp Ray Liotta, là vai tên cướp Henry Hill (nhân vật giang hồ có thật) trong Goodfellas của đạo diễn Martin Scorsese. Trước đó, hãng sản xuất không muốn Ray Liotta; và ông cùng đạo diễn Martin Scorsese phải đấu tranh để được đồng ý.
Image
Ray Liotta và con gái Karsen (ảnh: David Parry/PA Images via Getty Images)

Những bộ phim điện ảnh và truyền hình khác có mặt Ray Liotta phải kể đến John Q, Blow, Operation Dumbo Drop, Shades of Blue (đóng cùng Jennifer Lopez), và Unbreakable Kimmy Schmidt. Ray Liotta giành được giải Emmy vào năm 2005 cho vai một gã nghiện rượu trên bộ phim truyền hình ER của NBC. Những năm gần đây, Ray Liotta khá bận rộn với các vai diễn trên màn ảnh rộng trong Marriage Story (2019) của đạo diễn Noah Baumbach; No Sudden Move (2021) của Steven Soderbergh và The Many Saints of Newark (2021) của Alan Taylor. Theo IMDb, Ray Liotta còn có mặt trong loạt phim sắp phát hành El Tonto, Cocaine Bear, The Substance và April 29, 1992.

___________

(*) Các báo vẫn chưa cho biết rõ nguyên nhân Ray Liotta chết; chỉ viết rằng ông ra đi trong giấc ngủ, tại Cộng hòa Dominica, nơi ông đang quay phim Dangerous Waters
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image

Ba Tôi! Người Đánh Máy Mướn!
Đoàn Xuân Thu
Năm 1961, thằng em thứ sáu, vừa lên 5 của tôi, bị viêm màng não rồi chết. Thân phụ tôi đang làm Trưởng Ty Bưu Điện Rạch Giá buồn bã quá, xin đổi về Sài Gòn làm ở Bưu Điện Trung Tâm gần Vương Cung Thánh Đường dắt cả gia đình chạy trốn một kỷ niệm buồn đau! Nhà thì chính phủ cho một căn, ở lầu hai cư xá Bưu Điện trên đường Hai Bà Trưng, nằm trong con hẻm lớn, đối diện nhà thờ Tân Định.

Rồi năm 63, cuộc đảo chánh 1/11 của các tướng lãnh. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết. Cái chết của Tổng Thống Diệm đã chấm dứt luôn cuộc sống tương đối dể thở của các công chức bậc trung.

Nhà đông con, vật giá ngày một tăng, con cái ngày một lớn, tiền ăn, tiền quần áo, tiền trường đè nặng lên vai Ba. Nên Ba phải làm thêm ‘job’ nữa. Đánh máy mướn!

Vốn xuất thân từ thư ký, sau vừa làm, vừa học, thi đậu cải ngạch thành Cán Sự Bưu Điện, nên Ba đánh máy rất nhanh, chỉ nhìn vào văn bản mà không cần nhìn vào bàn phím chữ. Đánh bằng mười ngón, tốc độ nhanh, nghe như tiếng rào rào đổ trên mái tôn. Mưa!

Cuối đường Phan Đình Phùng, đi về phía Chợ Lớn, rồi quẹo tay phải sang đường Lý Thái Tổ có rất nhiều tiệm Ronéo. Trong tiệm, ngoài giàn máy Ronéo, còn có vài cái máy đánh chữ, bàn ghế ngồi do chủ tiệm cung cấp. Làm ăn chia, tứ lục, 6/4.

Muốn in Ronéo, phải đánh trên giấy ‘stencil’. Đó là loại giấy có tráng sáp để khi đánh, chữ sẽ khắc dấu trên sáp; rồi khi đưa vào máy, mực sẽ tràn ra phủ đầy trên những dấu lõm. Dán stencil vào máy, rồi quay bằng tay hay bằng điện. Bài viết sẽ lần lượt được in ra.

Khách hàng đến là các giáo sư, mướn đánh máy bài giảng ở trường đại học, bán ‘cours’ cho sinh viên. Khách hàng cũng có thể là các nhà văn chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton” như Dương Hà, An Khê, Ngọc Linh, Sơn Nam… Họ mang những bản thảo viết tay, thường là khó đọc, đến mướn đánh máy cho rõ ràng để thợ sắp chữ nhà in dễ đọc, dễ sắp chữ trên bản kẽm rồi in ra thành tiểu thuyết. Giá cả có khác nhau tùy theo khách hàng thường xuyên như các giáo sư hay các nhà văn. Ngoài ra cũng có nhận đánh đơn từ các loại.

danh-may-muon-4Mỗi ngày, Ba cỡi chiếc xe đạp đòn dông, đi làm theo giờ hành chánh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Tan sở lại phải chạy xuống tiệm Toàn Thắng ở cuối đường Phan Đình Phùng để làm cái ‘job’ thứ hai. Khoảng 9, 10 giờ đêm, mệt mỏi, rã rời sau 16 tiếng đồng hồ làm việc, Ba mới theo đường Phan Thanh Giản, chỉ cho chạy một chiều, để quay trở về Hai Bà Trưng, Tân Định.

Má vẫn thường chờ Ba cơm tối; nhưng 8 anh em tôi thì đã đi ngủ mất rồi. Hôm nào được lãnh lương hoặc đánh máy có tiền nhiều, Ba vẫn thường ghé qua xe bán bánh mì Tám Cẩu ở ngã tư Cao Thắng và Phan Thanh Giản, gần rạp hát Đại Đồng, mua vài ổ bánh mì về cho con. Về nhà Ba vô giường, bế từng đứa dậy, đặt ngồi ngoài bàn, rồi bảo: “Ăn đi con!”. Ăn thì khoái thiệt nhưng ‘bù ngủ’ híp con mắt luôn! Em gái tôi cắn miếng bánh mì nhai, chưa kịp nuốt thì gục xuống bàn… ngủ tiếp. Ba lại bế từng đứa, cho vào giường ngủ.

Người ta thường bảo người mẹ như cánh cò. Cánh cò lặn lội bờ sông… Ba tôi không phải là cánh cò, Ba tôi là đại bàng nhưng con đông quá, bám vào đôi cánh của Ba nặng trĩu. Ba không bay cao, bay xa được mà chỉ bay là đà; nhưng vẫn phải rán mà bay để tìm mồi về cho vợ và con trong thời khốn khó! Ba chưa từng bao giờ từ bỏ ước vọng là con mình sẽ được ăn học đàng hoàng, tới nơi tới chốn để cuộc đời không phải vất vả như ba!

Bước ra đời, nếu mình có thành công, có giỏi hơn người khác thường là bị dèm pha, xúc xiểm, ganh tị… nhưng mỗi thành công dù rất nhỏ trên trường đời của con thì Ba lại tự hào, hãnh diện coi thành công đó là rất lớn và là chính của Ba luôn?

Năm 63, tôi thi đậu vào Petrus Ký. Đỡ cho Ba không phải lo tiền trường. Vì nếu rớt, phải đi học tư, tốn lắm! Việt Nam lúc đó đậu vào một trường công lập nổi tiếng như Petrus Trương Vĩnh Ký cho con trai hay Gia Long cho con gái là rất khó. Trường rất có kỷ luật nên học trò trường công không dám ‘cúp cua’ đi chơi nên thường học giỏi hơn học trò trường tư dù giáo sư trường tư lại nổi tiếng dạy hay hơn! Vì dạy hay hơn nên mới được chủ trường tư mời dạy!

Ngày coi kết quả thi vào Petrus Ký, trời đổ trận mưa to. Thầy Trường, dạy luyện thi đệ thất, có danh sách học trò thi đậu, báo tin vui cho Ba. Ba nhường áo mưa cho con, còn mình đội mưa đến. Thầy và Ba bắt tay nhau, hỉ hả cười rạng rỡ, dù nước mưa còn chảy ròng ròng trên má. Tôi thấy thương Ba quá trời! Sao mà khổ dữ vậy? Tôi thấy đậu vô đệ thất, cho dù là của một trường trung học nổi tiếng nhứt miền Nam đi chăng nữa, thì có gì là lớn đâu? Mấy thằng bạn học chung với tôi cũng thi đậu đó thôi!

Rồi khi thi đậu Tú tài một rồi hai, Ba cũng mừng như chính Ba thi đậu vậy! Khi vào đại học, Ba muốn con học Luật Khoa để trở thành Luật Sư chẳng hạn… Có lẽ đường hoạn lộ công danh của Ba đã từng bị áp bức, bị đối xử bất công quá hay chăng mà Ba không muốn con mình phải gánh chịu. Phải biết Luật để cho tụi nó sợ mà không dám áp bức lại mình?

Tôi thì thấy chồng ‘Cours’ là đã ‘ớn’. Lại phải tốn rất nhiều tiền để mua nên không muốn đi học Luật; dù trường đó, con đường Duy Tân đó, thơ mộng và có biết bao nhiêu là con gái, tiểu thơ con nhà giàu chưng diện, ẹo tới, ẹo lui?

Ba nói một, hai lần thì tôi vẫn giả bộ tảng lờ. Nhưng lần thứ ba thì con Ba, cái thằng bất hiếu, cứng đầu cãi lại: “Con là con ếch, con nhái mà Ba muốn con to bằng con bò! Không được đâu!”. Tôi đã nhẫn tâm làm tan nát niềm ước vọng của Ba tôi rồi; mà tôi cứ ‘thản nhiên’ như không? Trời ạ!

Sau nầy vào Đại học Sư phạm ra trường, đi dạy, một hôm Ba nói: “Thôi không làm luật sư; làm giáo sư cũng được!”. Dù tôi chỉ là Giáo Sư Trung học Đệ nhứt cấp ‘quèn’ mà thôi?!

***

danh-may-muon-5Rồi 75 đến, nhà tôi cũng sống lầm than mà cũng không nghe Ba một tiếng thở than? Đi tù cải tạo sáu tháng vì là viên chức ngụy quyền, cấp trưởng ty.

Trong tù, Ba tôi vẫn ăn mặc một cách đàng hoàng, tề chỉnh. Đêm trong trại, Ba xếp quần áo lại, lót dưới gối trên đầu nằm cho thẳng thớm. Sáng ra, mặc áo bỏ vô quần, mang giày như thuở còn đi làm; bị cán bộ phê bình là còn giữ tác phong ‘tiểu tư sản’?

Ra tù, Ba lại trở về Sài Gòn, ra Lý Thái Tổ ngồi đánh máy mướn để nuôi đàn con mà nhiều đứa em tôi vẫn còn thơ dại. Ba vẫn ăn mặc rất đàng hoàng, vẫn áo trắng bỏ vô quần, vẫn mang giày, dù cũ, ra đánh máy mướn, làm đơn cho bà con cô bác Sài Gòn đi thăm nuôi chồng, con đang ở tù cải tạo.

Bà con ở Hố Nai, có thời đi lính Liên Hiệp Pháp, xuống nhờ Ba đánh đơn gởi Tổng Thống François Mitterrand để xin đi định cư. Là người học chương trình Pháp, Ba viết thơ cảm động làm sao đến nỗi ông Chánh Văn Phòng của Tổng Thống hồi đáp ngay, rồi Ba dịch ra tiếng Việt cho bà con nghe là: “Tổng Thống Cộng Hòa Pháp đã nhận được thơ ông và chỉ thị cho bổn chức chuyển hồ sơ qua Bộ Ngoại Giao để làm các bước tiếp theo!”. Sau đó cũng có vài gia đình được đi Pháp định cư.

Có lần ông chủ một cây xăng ở Rạch Giá bị đánh tư sản, bị đuổi đi vùng kinh tế mới, khổ quá, ông trốn về Sài Gòn và gặp lại Ba. Ông vẫn còn gọi Ba là ông Trưởng Ty như ngày cũ?! Ông nói vì không có hộ khẩu nên không làm được thông hành và chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ; dù con ông đã gởi đơn về bảo lãnh. Ba lại giúp ông làm đơn gởi cho bộ phận xuất nhập cảnh ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, Thailand. Đơn thành công và ông được ra đi!

Trước ngày đi, bùi ngùi từ giã, ông nói: “Tôi đi rồi không biết chừng nào mới có dịp gặp lại ông Trưởng Ty” Rồi rưng rưng nước mắt, bắt tay chào vĩnh biệt!

Raoul Wallenberg (1912 –1947), nhà ngoại giao Thụy Điển, đã cứu hàng chục ngàn người Do Thái ở Hungary thoát khỏi Holocaust, lò hơi ngạt của Phát Xít Hitler trong Thế chiến thứ hai. Ông đã cấp những thông hành bảo vệ (Schutz-Pass) và cho những người Do Thái ẩn náu trong những tòa nhà thuộc tòa đại sứ Thụy Điển ở hải ngoại. Ngày 17.1.1945, Hồng quân Cộng Sản Liên Xô tiến vào Budapest, Hungary bắt ông giam cầm và ông chết ngày 17.7.1947 trong nhà tù Lubyanka ở Moskva. Trái tim vĩ đại của một con người nhân hậu đã mãi mãi thôi không đập nữa!

Dĩ nhiên thân phụ tôi không thể cứu được nhiều nạn nhân như ông Raoul Wallenberg đã từng làm; nhưng chí ít Ba tôi cũng đã giúp được một số người, dù con số đó rất nhỏ nhoi, được có một cuộc đời khả dĩ tốt đẹp như xưa.

Chỉ có một trái tim nhân đạo mới dám, mới làm được như thế! Ba từng nói: “Giúp được ai, dù là chuyện nhỏ, để làm cho họ bớt thống khổ hơn là điều phải làm con ơi!”

***

Năm 81, thằng em thứ 5 của tôi liều chết vượt biên đến được Pulau Bidong, Mã Lai. Về Adelaide, Nam Úc định cư, nó lần lượt lãnh Ba và các anh em qua. Rồi cả gia đình đoàn tụ!

Đêm nay, ngồi trước bàn phím computer, viết bài nầy nhân Father’s Day bên Mỹ, tôi lại nhớ đến cái bàn máy đánh chữ của Ba. Nhớ mười ngón tay xương xẩu, cong vòng của Ba, gõ trên bàn đánh máy mà ngày xưa người ta thường cảnh báo về già sẽ bị đau tim mà chết. Nhưng Ba không sợ! Mười ngón tay đó của Ba đã nuôi anh em con ăn học, đủ để sống sót và làm lại cuộc đời nơi đất lạ quê người. Tụi con xin cảm ơn Ba!

Ba bỏ tụi con đi, năm nay nữa là 20 năm chẵn. Tiếng gõ trên bàn máy chữ vẫn rào rào như tiếng mưa rơi… vẫn còn vang động đâu đây! Nhớ và thương vô cùng cái dáng của Ba còng lưng trên xe đạp trong những ngày ngược gió.

Nhớ bánh mì Tám Cẩu Ba mua; mà đút vào miệng chưa kịp nhai tụi con đã gục đầu xuống bàn… mà ngủ tiếp. Nhớ cái bắt tay của Ba với thầy Trường ngày con đậu vào đệ thất.

Người ta cần tới Father’s Day, Chúa Nhựt, tuần lễ thứ ba của tháng sáu như ở Hoa Kỳ hay Chúa Nhựt, tuần lễ thứ nhứt của tháng chín ở Úc để kỷ niệm ngày từ phụ, để nhớ tới phụ thân! Còn con, con nhớ Ba mỗi ngày, khi còn sống, cho đến lúc nào đó con sẽ được gặp lại Ba!

đoàn xuân thu
melbourne
TranAnhDung
Posts: 288
Joined: Tue Oct 28, 2008 7:43 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by TranAnhDung »

Con Cò Lặn Lội Bờ Sông


Con Cò Lặn Lội Bờ Sông... Viết tặng Bố Mẹ yêu quý của con. Nhiều nguời không hiểu đuợc vì sao Bố tôi về già lại thuơng yêu quý trọng Mẹ tôi đậm đà hơn khi ông bà còn trẻ, nhưng tôi thì hoàn toàn có thể hiểu đuợc. Ngoài tình thuơng yêu một nguời vợ hiền đảm đang, Bố còn trân trọng Mẹ đã muời mấy năm trời thay mặt Bố nuôi dạy năm đứa con nên nguời, và biết ơn Mẹ nguời bạn đời can đảm thủy chung đã luôn sát cánh bên cạnh ông trong những năm tháng đen tối nhất trong cuộc đời của ông.

Truớc năm 1975, Bố làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến, Mẹ đi dạy học ở một ngôi trường gần nhà, cuộc sống của gia đình nhỏ chúng tôi êm đềm như hàng trăm ngàn gia đình khác ở Saigon lúc bấy giờ. Bố Mẹ tôi đều là nhân viên cao cấp nơi ông bà làm việc, với rất nhiều cơ hội đuợc đút lót và hối lộ, nhưng Bố Mẹ tôi sống rất trong sạch. Bố Mẹ luôn dạy chúng tôi, sống ở trên đời, đồng tiền mất đi còn có thể gầy dựng lại đuợc, nhưng lòng tự trọng một khi đã mất rồi thì khó lòng có thể thay thế. Tuy thanh bạch, nhưng gia đình chúng tôi vô cùng hạnh phúc.

Thế rồi, một ngày đen tối của tháng Tư năm 1975 đã thay đổi cuộc sống của gia đình tôi, và của tất cả nguời dân trong đất nuớc Việt Nam này. Chín tuổi đầu, tôi không hiểu đuợc cảnh hoảng loạn trên đường phố lúc bấy giờ, tôi cũng không nhận ra đuợc những ánh mắt sợ hãi, hoang mang của những nguời dắt dìu nhau chạy ngoài phố, tôi chỉ biết đuợc trong những tháng ngày sau đó, Bố tôi bỗng trở nên xa vắng trầm ngâm, còn Mẹ thì tất bật vất vả hơn mới lo đủ bữa ăn trong gia đình. Anh chị em chúng tôi tuy còn nhỏ, nhưng cũng cảm nhận đuợc cả một trời mây u ám che phủ ngôi nhà mình, năm đứa chúng tôi chỉ dám ngồi nơi góc nhà, ráng thu mình thật nhỏ lại, để không làm phiền đến Bố Mẹ. Chị lớn của tôi vẫn thì thầm với chúng tôi, “Chị cũng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng dù sao, mình vẫn còn Bố Mẹ ở đây, các em đừng lo sợ gì hết nha!”Vẫn còn Bố và Mẹ! Vâng, Bố và Mẹ là miếng phao mà trong cơn sóng dữ chập chùng lúc đó, tất cả chúng tôi đều bám víu vào, với tất cả lòng tin tưởng và thơ ngây biết bao.

Than ôi, miếng phao mỏng manh đó cũng sớm tan thành mảnh vụn, khi một ngày giữa tháng 6, Bố tôi khăn gói ra đi trong một chuyến gọi là, “một tháng học tập cải tạo”. Một tháng, vâng, nguời ta hứa hẹn một tháng rồi Bố tôi sẽ trở về. Một tháng tất cả các bác, các chú sẽ “cải tạo” xong rồi trở về! Một tháng đó đã trở thành thiên thu cho những chú bác một lần vĩnh viễn nằm xuống trên Đồi Chè Vĩnh Phú, đã trở thành cơn sốt rét rừng hành hạ suốt đời cho những chú bác đã từng bị giam hãm ở những nơi rừng thiêng nuớc độc. Một tháng đó đã trở thành năm bảy năm cho những chú bác trở về tìm thấy gia đình mình tan tác khắp nơi, đã trở thành chín muời năm cho những chú bác quay về với tấm thân tàn tạ, những căn bệnh mãn tính đeo đẳng. Một tháng đó đã trở thành muời ba năm tù tội cách biệt, muời ba năm khổ xác và lao tâm cho Bố tôi. Một tháng đó đã trở thành cơn ác mộng muời ba năm cho Mẹ tôi một mình chèo chống dắt dìu năm đứa chúng tôi qua cơn bão tố, là đoạn đường dài gian truân mà Mẹ tôi đã gánh gồng một vai nuôi chồng, một vai chống đỡ với những áp lực nặng nề của một xã hội mới, đầy định kiến với những gia đình như gia đình tôi.

Ngày hôm nay, mỗi lần có dịp nhắc nhở về những năm tháng khắc nghiệt đó, Bố tôi đều kết thúc câu chuyện bằng đôi mắt âu yếm nhìn Mẹ. Bố hiểu rằng, và tất cả chúng tôi cũng đều hiểu rằng, nếu không có Mẹ, dù mảnh mai, nhưng vô cùng bền chắc, làm sợi dây kết nối, thì có lẽ gia đình chúng tôi không có đuợc ngày hôm nay. Bố vẫn nhắc đến lần đầu tiên sau bao năm trời tù giam biệt xứ, Mẹ là một trong những nguời đầu tiên đã lần mò tìm đuợc đường lên thăm chồng tại Vĩnh Phú, một trại tù năm sâu trong vùng rừng núi Bắc Việt. Bố đã hãnh diện biết bao với anh em bạn hữu trong trại, cũng vui mừng biết bao, vì Mẹ đến thăm Bố, cùng với bao nhiêu luơng thực và thuốc men tiếp tế, đã cả về mặt vật chất lẫn tinh thần kéo Bố ra khỏi vực sâu kề cận của Đồi Chè, nơi các bác các chú không may đã vĩnh viễn nằm xuống, không bao giờ còn ngày trở về. Bao năm trôi qua, như trong những câu chuyện cổ tích, để kết thúc có hậu luôn dành cho nguời hiền, gia đình chúng tôi đã vuợt qua những tháng ngày tăm tối đó, đã về được bến bờ bình yên và sống yêu thuơng hạnh phúc cùng nhau.

Tôi không muốn nhắc và càng không muốn nhớ đến cơn ác mộng năm cũ nữa, và thật lòng ngỡ mình có thể quên đuợc đoạn đường ngày xưa gian truân đến chừng nào… Cho đến ngày chú tôi hỏi và yêu cầu tôi viết cho chú về chuyến đi thăm nuôi Bố. Để ôn lại những chi tiết về chuyến đầu tiên thăm nuôi Bố tại Vĩnh Phú, tôi lần giở lại trang nhật ký của những ngày tháng đó, và không khỏi bàng hoàng khi nhận ra những cảm xúc cũ, nhưng hoang mang sợ hãi xưa vẫn còn chực chờ trong lòng tôi để sống lại.

Tôi, con bé muời ba tuổi năm xưa đã trưởng thành đến chừng nào khi cùng Mẹ vuợt qua đoạn đường gian khổ ấy để tìm gặp đuợc Bố.... Mùa Hè năm 1979, gom góp hầu hết tài sản còn lại để mua sắm luơng thực thuốc men cho bố, Mẹ giao bốn anh chị tôi ở lại với ông ngoại và dắt tôi tìm đường đi thăm bố. Tất cả những ai chưa từng phải sống trong chế độ Cộng Sản chắc sẽ không thể nào hình dung đuợc những chuyện vô cùng đơn giản như mua một chiếc vé xe lửa đi từ Nam ra Bắc cũng trở thành một chuyện khó khăn đến nực cuời. Tôi nhớ hai anh em tôi phải chở nhau trên chiếc xe đạp cũ kỹ đến gần một tiếng đồng hồ mới đến đuợc ga Bình Triệu, nơi duy nhất bán vé xe lửa tàu Thống Nhất đi xuyên Việt. Đến nơi là 7 giờ sáng, chúng tôi đã thấy nguời ta ngồi rồng rắn sắp hàng chờ đợi truớc hai quầy bán vé còn đóng kín. Lúc đó còn bé, tôi vẫn thắc mắc trong lòng không hiểu tại sao từ sau ngày 30 tháng Tư, tất cả đều trở nên thiếu thốn như vậy. Từ những món đồ nhỏ nhoi như cuốn tập, cây viết đi học, đến những nhu cầu thiết yếu như miếng cơm manh áo hằng ngày cũng không có đủ. Cái gì cũng phải sắp hàng chờ đợi thật lâu mà cuối cùng cũng chưa chắc đã mua đuợc. Mà thật vậy, anh em tôi ngồi chờ đợi, sắp hàng từ sáng đến chiều tối, bụng đói meo mà rồi cũng đành trở về tay không. Đúng 5 giờ chiều, nguời ta lạnh lùng treo một bảng nguệch ngoặc viết tay “Hết Vé”, rồi thô lỗ đóng sầm cánh cửa nhỏ lại, mặc kệ lời than vãn chống đối của những nguời chờ đợi cả ngày giống như là anh em tôi vậy.

Vừa mới lớn và vừa mới đuợc hiểu biết là tôi đã tiếp xúc ngay với sự thiếu thốn đói khổ, và sự vi phạm vào lòng tự trọng mà chế độ lúc bấy giờ áp đặt lên tất cả mọi nguời dân. Không như các anh chị lớn đã hiểu biết đuợc xã hội Cộng Hòa ngày xưa để so sánh và phẫn uất về sự khác biệt, tôi hồn nhiên chấp nhận sự thiếu thốn và áp bức của xã hội mới, thái độ cục cằn thô lỗ thiếu văn hóa của những nguời mệnh danh là “đầy tớ của nhân dân”, như con chim nhỏ khờ khạo lớn lên trong chiếc chuồng tre bé xíu bẩn thỉu, nghiêng đầu ca hát mà không biết đuợc bên ngoài song cửa là cả một thế giới thanh lịch, và cả một bầu trời tự do bát ngát. Sự thiếu thốn và áp bức đó hình như chỉ tập cho chúng tôi kiên trì nhẫn nại, và cho chúng tôi sức chịu đựng bền bỉ hơn mà thôi. Sau sự thất bại đầu tiên, hôm sau anh em chúng tôi dậy từ hai giờ sáng, thủ theo bánh mì cầm bụng, và cuối ngày đã hớn hở vui mừng cầm hai vé xe lửa về cho Mẹ.

Con đường tìm gặp Bố thế là đã qua đuợc ải đầu tiên rồi! Sắp đến ngày lên đường thì chị thứ hai của tôi ngã bệnh nặng, chị nằm thiêm thiếp trên giường, đôi môi nứt nẻ mà vẫn ráng cuời thều thào an ủi Mẹ yên tâm lên đường thăm Bố. Mẹ gạt nuớc mắt, dặn dò các anh chị còn lại phải chăm sóc chị, chăm sóc lẫn nhau, rồi gởi gấm anh chị tôi cho Ông Ngoại, cho các dì, Mẹ dẫn tôi đi. Tội nghiệp Mẹ, lúc đó tôi chỉ biết quá sung sướng vì đuợc Mẹ cho cùng đi thăm bố, chứ không biết rằng Mẹ quay quắt với trăm ngàn nỗi lo âu. Ngoài nỗi lo về đoạn đường mịt mù truớc mặt, Mẹ còn canh cánh trong lòng về sức khỏe và sự bình an của những đứa con Mẹ để lại sau lưng. Chỉ có tình yêu thủy chung Mẹ dành cho Bố, sự đảm đang hy sinh của nguời vợ hiền mới giúp giúp Mẹ vuợt qua tất cả để tiếp tục buớc tới mà thôi.

Đoạn đường bốn ngày đêm ngồi gật gù trên chuyến xe lửa chật chội, với phòng vệ sinh bẩn thỉu không nuớc nôi, và cả một đêm đột ngột ngừng lại tại một ga hẻo lánh vì có tin chuyến tàu truớc vừa trật bánh ở đoạn đèo Hải Vân, cũng trở thành chuyến ngắm trăng hóng gió, nếu như so sánh với đoạn đường từ Hà Nội vào đến Vĩnh Phú, Ấm Thượng nơi Bố tôi đang bị giam giữ. Đến Hà Nội trưa hôm truớc thì sáng sớm hôm sau, 4 giờ sáng, Mẹ con tôi và gia đình bác Phú, nguời bạn thân nhất của Bố tôi hiện cũng đang bị giam giữ cùng trại với Bố, dắt díu nhau ra ga xe lửa để đến Ấm Thượng. Ga đông người, với những đôi mắt không thân thiện nhòm ngó đến đám hành lý nặng trĩu mà chúng tôi đang còng vai mang vác. Ngoài chuyện phải cảnh giác nhòm chừng cho nhau, chúng tôi còn phải đề phòng trộm cắp bằng cách may kín tất cả những miệng bao túi lại, đồng thời dùng một sợi dây thừng xỏ ngang qua tất cả những quai xách và nắm giữ, cột chặt hai đầu dây vào cổ tay mình. Thật sự đến lúc đó, chúng tôi không lo cho bản thân mình nữa, mà chỉ lo lắng mất đi một bao đồ nào, là thuơng Bố sẽ mất đi chừng đó luơng thực và thuốc men mà thôi. Lên chiếc tàu này, tôi không còn dám than phiền về chiếc tàu Thống Nhất n

ữa. Những toa tàu ở đây giống như những chiếc toa chở hành lý và súc vật, vì nó chỉ là một toa tàu trống với sàn tàu bẩn thỉu, không ghế ngồi, không tay vịn. Tất cả hành khách hoặc là ngồi duới sàn, hoặc là đứng. Thật ra đứng ở toa tàu này, dù không có tay vịn cũng không có gì la không an toàn, bởi vì họ tiếp tục chất thêm nguời lên, đến khi không còn một chỗ trống. Nếu tàu có lắc lư, thì cũng chỉ là một đám nguời ngã nhào lên nhau, chứ cũng không thể nào văng đi đâu đuợc! Tôi may mắn lên tàu sớm, tìm đuợc chỗ đặt ngay những túi quà của Bố xuống và ngồi lên đó. Gần bên cạnh tôi là những nguời bán cá mang theo những thùng cá lúc nhúc. Nuớc cá văng ra sàn tàu, ra quần áo những hành khách kế cận, tanh tuởi, nhưng chẳng có ai buồn để ý. Bởi vì nói chung, chúng tôi đã quen với cái mùi hôi thối và cái cảnh chen lấn chật chội đó không biết từ bao giờ. Tôi thật sự lấy làm thán phục Mẹ vô cùng, vì không biết làm sao mẹ dò la lần mò ra đuợc đường đến tận trại của Bố. Lúc đó tôi còn bé nên chẳng giúp ích gì đuợc cho Mẹ ngoài ráng hết sức muời ba tuổi gánh vác hành lý giúp Mẹ. Nghe nói Bố ở Ấm Thượng, tôi cứ ngỡ rằng xuống tàu là trại của Bố cũng gần đâu đó mà thôi. Nhưng đoạn đường đâu cho chúng tôi cái may mắn như vậy. Sáu bảy tiếng đồng hồ từ ga Hàng Cỏ, Hà Nội, đến Ấm Thượng Vĩnh Phú, xuống tàu, chúng tôi lại dò hỏi và lếch thếch kéo nhau đi bộ chừng hơn một tiếng trên con đường mòn ngoằn ngoèo đầy sỏi đá đến một bến đò.

Sau thêm một tiếng chờ đợi, một chiếc thuyền nhỏ xập xệ xuất hiện, ông cụ già gân guốc nón lá rách tả tơi chèo thuyền đưa chúng tôi đi. Chuyến đò dọc nặng trĩu chở chúng tôi đi từ trưa đến tận chiều tối mới cập bến. Trên thuyền thật lòng tôi chỉ van Trời vái Phật cho ông cụ già đủ sức lèo lái chiếc thuyền nhỏ bé đi đến nơi, về đến chốn bình yên, an toàn. Trên thuyền là một đám đàn bà con nít không biết bơi, cũng chẳng có phao cứu hộ, nhưng đám hành lý lại là cả một gia tài, cả một năm luơng thực, và cả tấm lòng của tất cả chúng tôi cho Bố, cho bác Phú, nếu chẳng may có gói hàng nào rơi xuống sông, chắc tôi cũng nhắm mắt mà nhảy theo để mong hòng vớt lên đuợc!!! Nhưng có lẽ Trời cũng thuơng, nên khi ánh nắng cuối cùng trôi quyện vào màn đêm, thì chúng tôi cũng đặt chân bình yên lên Bến Ngọc. Đêm đó chúng tôi xin ngủ trọ tại nhà một ông lái xe trâu. Nói tiếng là ngủ trọ cho sang, ông thâu chúng tôi mỗi nguời một đồng (là số tiền cũng khá lớn lúc bấy giờ), rồi cho phép chúng tôi muốn nằm đâu thì nằm trên... hè nhà bằng đất nện của ông, không một mảnh chăn, không một manh chiếu! Cùng ngủ lại đêm đó tại nhà ông lái xe trâu là vài ba nguời phụ nữ khác, có nguời từ ngay ngoài Bắc đi thăm con em họ là tù hình sự, cũng có nguời từ trong Nam ra thăm chồng “cải tạo”. Cái hè nhà của ông lái xe trâu cũng trở thành chật ních. Mẹ dọn đuợc một chỗ trên nền đất hè nhà ông, trải miếng vải ny lông cho tôi nằm, thôi thì dù sao cũng còn một mái tranh để che suơng trên đầu, còn Mẹ thì cứ ngồi gà gật cả đêm để canh đống hành lý.

Thật tội nghiệp cho Mẹ! Lúc đầu, tôi nghĩ sao Mẹ quá cẩn thận, nhưng đến mờ sáng hôm sau, khi một bà la lối, khóc lóc um xùm vì bị mất tiền lận trong áo, thì tôi mới phục Mẹ biết nhìn xa. Nằm cong queo trên nền đất, tôi cảm tưởng như mình chỉ mới chợp mắt thì đã ba giờ sáng, đến lúc phải thức dậy chuẩn bị lên đường. Chúng tôi xúm vào chất đồ đạc lên chiếc xe trâu ọp ẹp. Trong khi ông xe trâu ngồi trên xe, roi vung vẩy lái con trâu già gầy guộc, đoàn nguời chúng tôi lặng lẽ cất buớc theo sau. Trong màn đêm, cảnh núi rừng hùng vĩ nằm yên giấc duới đám suơng mù dày đặc, càng làm cho chúng tôi cảm thấy mình yếu đuối, bé nhỏ hơn. Mãi nghĩ về Bố, tôi quên cả đoạn đường dài lên đồi, xuống dốc, lầy lội nuớc mưa, quên cả cơn buồn ngủ rũ nguời. Bố yêu quý ơi, giờ này hẳn Bố còn đang ngủ vùi để lấy sức cho một ngày mai lao động cực nhọc, Bố có biết hai mẹ con đang vuợt đèo lội suối để tìm gặp Bố, không hở Bố? Trong giấc ngủ, Bố có mơ về Mẹ, về chúng con, về những ngày xưa hạnh phúc của gia đình mình không hở Bố? Miên man với những suy nghĩ về Bố, tôi không nhận ra trời đã bắt đầu rạng sáng. Từ đằng xa, chúng tôi đã có thể nhìn thấy những mái nhà tranh lụp xụp và những cánh đồng cày xới dở dang. Tất cả chúng tôi đều quá hồi hộp với những ý nghĩ về nguời thân của mình nên chẳng ai bảo ai mà cùng rảo buớc đi nhanh.

Chiếc xe trâu dừng lại ở K5 thì chúng tôi cũng đã cuốc bộ đuợc ba tiếng đồng hồ. Tiếng kẻng xa xa trong trại vọng lại, đúng 6 giờ sáng, thì chúng tôi bắt đầu nhìn thấy … Dẫn đầu là một cán bộ trẻ, tay vung vẩy cây súng dài, sau đó là từng đoàn nguời lặng lẽ cúi gầm đầu buớc đi, ai cũng như ai, cùng một manh áo rách tả tơi, cùng làn da cháy nắng đem sạm, cùng đôi vai gầy guốc nhô cao, và cùng ánh mắt già nua, mỏi mệt… Đôi mắt tôi nhòa đi trong nuớc mắt mặn cay, nhưng vẫn ráng chong chóng tìm kiếm hình dáng quen thuộc của Bố. Bố ơi, Bố yêu quý của con ơi, Bố đâu rồi. Nguời ta làm gì Bố của tôi rồi. Lão đánh xe trâu nhăn nhó thúc giục chúng tôi mau chất đồ đạc xuống. Trong khi đó, mẹ quay ra cho biết nguời ta nói Bố và Bác Phú không có ở đây. Họ chỉ lên K1, là trại tù kế tiếp, cách đó vài dặm đường. Thế là chúng tôi lại phải năn nỉ, đưa thêm tiền để ông lái xe trâu tiếp tục chở hành lý chúng tôi sâu hơn vào rừng, về phía trại K1. Đoạn đường đi từ trại K5 đến K1 sẽ mãi mãi ghi vào lòng con bé muời ba tuổi là tôi lúc bấy giờ những ấn tượng không bao giờ quên đuợc. Trong khi tôi cũng đưa mắt tò mò nhìn các bác các chú “tù cải tạo” đang làm việc dọc bên đường đi, thì nhiều bác cũng lén lút dõi mắt nhìn theo chúng tôi, như hy vọng sẽ nhận ra một nét quen thuộc nào của nguời thân mình. Hy vọng để rồi nỗi thất vọng lớn lao hơn lại hiện ra trong đôi mắt. Họ lại cúi đầu làm việc với vẻ nhẫn nhục của những nguời đã chịu nhiều áp bức…

Có một bác chăn trâu dắt trâu lại gần, lấm lét ngó xung quanh, rồi đưa mắt nhìn tôi và liệng xuống đất một mảnh giấy nhỏ. Tôi cũng dáo dác nhìn quanh rồi nhanh tay luợm mảnh giấy đó dấu vào lòng bàn tay mình. Mảnh giấy chỉ nguệch ngoạc ghi xuống một địa chỉ và dòng chữ “Anh còn sống, xin thăm nuôi anh!” Mắt tôi nhòa trong màn lệ. Ai gây ra những cảnh tượng đau lòng như thế này hở Trời? Bố ơi, Bố của con cũng đáng thuơng, cũng tiều tụy như thế sao? Có một bác gánh nuớc bon bon đi tới, đôi mắt bác nhìn tôi như muốn nói điều gì. Có lẽ bác cũng muốn nhắn gởi gì về cho gia đình bác chăng? Tôi giả vờ cúi xuống săm soi quai dép của mình để đợi bác đến gần. Bỗng từ trên lưng đồi, lớn tiếng quát tháo nạt nộ, “Anh kia, đi đâu ra đây? Bộ muốn liên hệ gì hả?” Tất cả chúng tôi đều đưa mắt nhìn lên, tên cán bộ trẻ măng thấy đuợc chú ý, lại chống hai tay vào sườn, càng làm ra vẻ phách lối hơn, hình như hắn không nghĩ rằng nguời gánh nuớc đã lớn tuổi lắm rồi, có thể còn lớn tuổi hơn cả cha mình.

Bằng giọng nhè nhẹ, nghẹn ngào và nhẫn nhục của những nguời quen chịu nhiều ức hiếp, bác gánh nuớc đáp, “Báo cáo cán bộ, tôi đi gánh nuớc…” “Anh định qua mặt tôi đấy hả?” Tên cán bộ lớn giọng cắt lời, “Đi vào đây gặp tôi ngay, không gánh gồng gì nữa!” Đi xa tầm mắt cú vọ của tên cán bộ lớn lối ấy, tôi mới hé môi. Đôi môi bị cắn chặt gần muốn chảy máu, nhưng tôi chẳng còn cảm giác gì nữa… Tôi bật khóc, khóc nức nở, gục mặt vào tay mà khóc như chưa từng bao giờ đuợc khóc. Tất cả chúng tôi đều phẫn nộ truớc thái độ hống hách, hiếp đáp của tên cán bộ đáng ghét, chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho bác gánh nước. Thuơng cho bác ấy một phần, mà cũng xót xa cho thân phận tù đày của nguời thân yêu mình nữa. Xót xa, căm phẫn mà không làm gì đuợc, chúng tôi chỉ biết ôm mặt khóc ròng.

Bố ơi, các bác ơi, tội tình chi mà lại chịu cảnh khổ sở đày đọa như ngày hôm nay, hở Trời?? Những hình ảnh thuơng tâm của cảnh tù đày, bóng dáng tả tơi tiều tụy của những nguời tù K5 làm chúng tôi đau đớn xót xa như chính mình bị hành hạ vậy. Chìm đắm trong cơn đau đó, đoàn nguời chúng tôi buớc đi một cách máy móc như những nguời mất hồn. Con đường dài gian truân, qua bao nhiêu suối, vuợt bao nhiêu đồi, chúng tôi cũng không còn nhớ vì đã không còn cảm giác gì nữa. Tôi chỉ hình dung đến Bố qua những hình ảnh khốn khổ của các bác bên K5 vừa gặp là nuớc mắt lại chảy vòng quanh… Chẳng biết lâu hay mau, chỉ biết ánh nắng mặt trời gay gắt bây giờ đã ở xế trên đỉnh đầu thì chúng tôi nhìn thấy đầu con dốc xa xa là một chòi kiểm soát. Tôi vội vã chùi nuớc mắt. Phải, đối với những nguời này, tôi không thèm tỏ ra yếu đuối, tôi không cần họ thuơng hại, và tôi cũng căm thù những mắt nhìn diễu cợt của họ… Nhưng đây lại là một nguời cán bộ khá lễ phép. Ông ta nhỏ nhẹ nói với Mẹ rằng. “Anh là Đại Tá thì chắc đã chuyển xuống K5 rồi chị a. Hồi đầu tháng này tất cả các anh Đại Tá ở K1 đã chuyển xuống K5 hết rồi, không còn ở đây đâu, chị hãy quay trở lại đi!” Nhưng K1 đã ở truớc mặt rồi, vả lại cũng không có gì chắc chắn, nên chúng tôi lại tiếp tục hướng về trại K1 buớc đi. Đến nơi, Mẹ trình giấy tờ cho một cô cán bộ trẻ, chúng tôi đuợc hứa hẹn gặp Bố buổi chiều hôm đó.

Tôi đi vào rừng luợm một ít củi về để Mẹ nấu một nồi xôi và luộc cho Bố một con gà. Mấy ngày vừa qua, cả hai mẹ con tôi chỉ ăn qua quít để lót dạ chứ không đuợc bữa nào ra bữa nào cả. Chiều hôm truớc ở nhà ông lái xe trâu, hai mẹ con tôi chỉ mua một rổ hạt mít rồi chia nhau, thế là cũng xong bữa. Từ sáng đến giờ chưa đuợc ăn uống gì, ngửi mùi gà luộc gừng thơm lừng, trong bụng tôi cũng thèm lắm, nhưng lúc đó tôi cũng đã muời ba tuổi rồi, nên cũng ý thức đuợc mình phải để dành những món ngon lành nhất cho Bố. Biết thế, nhưng chắc ánh mắt tôi nhìn con gà luộc hẳn phải … tha thiết lắm, nên Mẹ cũng thuơng hại cho tôi, Mẹ dùng một phần của nuớc luộc gà ngon ngọt để nấu một nồi cháo cho hai mẹ con và cả bên gia đình bác Phú nữa.

Chúng tôi đang sung sướng xì xụp bát cháo nóng thì bỗng dưng tôi nghe thấy tiếng gào khóc thảm thiết từ gian nhà thăm nuôi bên cạnh. Tất cả chúng tôi đều hoảng hốt chạy sang xem có chuyện gì. Trên bàn tôi thấy bày ra một nồi cá kho tiêu thật ngon lành, một tô cơm nóng vẫn còn bốc khói, trên chiếc giường tre la liệt gói to gói nhỏ, có cả một trái mít chín vàng, nhưng trên nền nhà lại ngồi co quắp một nguời phụ nữ trẻ. Cô ôm vào lòng một em bé chừng bốn năm tuổi và không ngừng gào khóc gọi tên chồng. Em bé gái đôi mắt mở to ngơ ngác sợ hãi, em chẳng hiểu chuyện gì, nhưng thấy mẹ khóc thì cũng mếu máo khóc theo, trông thật thuơng tâm vô cùng. Những nguời biết chuyện xung quanh thì thào thuật lại, thì ra hai mẹ con cô lên đây từ tối qua. Cô ở miền Trung, lặn lội ra đến đây thăm chồng, mang theo đứa con gái lần đầu tiên cho chồng biết mặt. Sáng nay hai mẹ con cô dậy từ sáng sớm nấu cơm và làm nồi cá kho tiêu là món mà chồng cô yêu thích nhất. Cả buổi sáng không thấy chồng ra, cô cứ đi vào đi ra hâm lại nồi cá, hy vọng đến trưa sẽ gặp đuợc chồng.

Đến trưa, nguời ta cũng dẫn cô đi gặp chồng thật. Nhưng thuơng thay, người chồng mà cô thủy chung mong đợi bốn năm qua giờ chỉ còn là nấm mồ đắp sơ sài, nằm chen chúc với vô số những nấm mộ không bia khác trên Đồi Chè Vĩnh Phú. Chúng tôi xúm lại an ủi cô mà nuớc mắt ai cũng lưng tròng, thuơng cho cô mà cũng hoang mang lo sợ cho nguời thân của mình. Từ đó đến chiều, tuy không nói ra nhưng tất cả chúng tôi đều lo lắng, căng thẳng ra vào không yên. Khoảng 3 giờ chiều hôm đó, đang ngồi trong nhà, tôi nghe tiếng xôn xao từ bên ngoài, “Các ông ra kìa, chạy ra mau, chạy ra mau các chị…” Tất cả chúng tôi ùa chạy ra ngoài, thấp thỏm nhìn ngó. Từ xa xa, tận cuối con dốc, bốn nguời đàn ông mặc quần áo dân sự đi tới, bên cạnh là màu áo vàng của nguời cán bộ cầm súng. Tôi cố gắng tìm ra một nét quen thuộc nào của Bố. Cả bốn bác đều đen đủi gầy gò. Bộ quần áo, chắc hẳn đuợc mặc trong ngày trình diện đi “học tập cải tạo”, đến hôm nay thuơng sao, đều bỗng dưng trở nên rộng thênh thang như đuợc treo vào những chiếc mắc áo biết đi vậy. Các bác tiến lại càng gần thì tôi càng hoang mang hoảng loạn. Bởi tôi nhận ra đuợc bác Phú trong số nguời đó, nhưng còn Bố tôi… Bố tôi đâu rồi?? Nguời ta đã làm gì Bố tôi rồi??? Hình ảnh nguời phụ nữ trẻ ngồi co quắp khóc chồng, khuôn mặt trẻ thơ của em bé mếu máo khóc cha bỗng dưng quay trở lại, bóp thắt trái tim tôi. Tôi thấy mình cũng mếu máo níu tay Mẹ hỏi, Mẹ ơi, Bố đâu rồi hở Mẹ? Bố của mình sao không thấy ra hở Mẹ? Trong lúc đó, Hằng, con gái bác Phú chạy ùa ra đón bác, hai cha con ôm nhau khóc làm tôi càng tủi thân hơn vì nhớ Bố của tôi. Có lẽ nhìn thấy khuôn mặt thất thần của hai mẹ con tôi, bác Phú vội vàng buớc đến chào Mẹ tôi và nói ngay cho hai mẹ con tôi đuợc yên tâm, rằng Bố tôi vẫn đuợc mạnh khỏe, nhưng Bố đã chuyển xuống K5 từ đầu tháng rồi.

Hai mẹ con tôi cám ơn bác Phú và ôm nhau trong vui mừng. Bố ơi, Bố ơi, miễn là Bố còn sống mạnh khỏe thì dù ở đâu hai mẹ con con cũng sẽ tìm đến Bố mà. Tội nghiệp bác Phú, vì cố gắng báo cho mẹ con tôi yên tâm về tin tức của Bố mà bác bị nguời cán bộ gay gắt “phê bình, kiểm điểm” (vì dám tự động lên tiếng nói chuyện với nguời ngoài khi chưa đuợc sự cho phép của cán bộ quản giáo!!!) Chiều tối hôm đó, duới cơn mưa rừng tầm tã, chúng tôi lê buớc quay trở lại K5. Tất cả những vải bạt bằng ny-lông mang theo, chúng tôi dùng để che đậy đám luơng thực và thuốc men cho Bố nên khi đến đuợc căn nhà tranh làm phòng đợi cho thân nhân của những nguời tù cải tạo thì hai mẹ con tôi đều uớt sũng, lạnh run. Cả nguời uớt mem, nhưng vì quá mệt mỏi sau một ngày dài băng rừng lội suối, tôi co ro đặt mình xuống chiếc giường tre là ngủ một giấc đến sáng. Chỉ tội nghiệp Mẹ tôi, truớc khi chìm hẳn vào giấc ngủ, tôi còn thấy Mẹ lò mò trong ánh đèn dầu, lau khô sắp đặt đám quà cho Bố. Tôi không biết Mẹ có thức trắng thêm một đêm đó nữa hay không, nhưng khi tôi thức dậy thật sớm sáng hôm sau, đã thấy Mẹ đang chiên lại con gà hôm qua cho Bố. Ánh nắng ban mai xuyên rọi qua những khe hở của vách nhà tranh, chiếu lên khuôn mặt Mẹ những vệt nắng loang lổ. Tôi nhìn ngắm Mẹ đang chăm chú nấu nướng cho Bố mà thấy thuơng Mẹ vô cùng. Chỉ mới có mấy ngày mà trông Mẹ đã hốc hác đi thấy rõ. Trong khi nguời phụ nữ ngồi kế cạnh giường tôi đang điểm trang, tô son vẽ mắt, đám đồ lèo tèo duới chân giường bà vẫn còn lạnh tanh, uớt sũng, thì Mẹ tôi tóc búi, áo cánh giản dị, đã sắp xếp đồ đạc của Bố ngăn nắp lên chỗ khô ráo, và chuẩn bị sẵn sàng cho Bố một nồi xôi bốc khói, cùng một con gà quay thơm lừng. Tôi hy vọng Bố cũng nhìn thấy Mẹ như tôi đang nhìn thấy Mẹ lúc này đây, bởi dù không phấn không son, nhưng Mẹ tôi nổi bật lên tất cả với vẻ đẹp dịu hiền, đằm thắm của nguời vợ hiền chỉ biết tần tảo lo cho chồng cho con. Điều đó tôi nghĩ mới vô cùng đáng quý và sẽ không bao giờ phai tàn theo thời gian…

Sáu giờ sáng, một lần nữa, cùng với tiếng kẻng quen thuộc vang lên trong trại, từng đoàn nguời trong manh áo tả tơi lê buớc ra, vai vác cuốc xẻng, tay xách bi-đông nuớc, ai nấy cùng chung nét gầy gò, đen sạm, và đôi mắt, Trời ạ, cùng ánh mắt hoang mang không biết một ngày mai, và cùng một nét nhẫn nhục, chịu đựng, đau thuơng đến chừng nào… Tất cả chúng tôi đều chạy sát ra hàng rào của sân nhà đợi, và dõi mắt chăm chú nhìn theo từng nguời đi qua, hy vọng sẽ tìm thấy nét quen thuộc nào của nguời thân mình. Nhưng có đến hàng trăm các chú các bác buớc qua, và hàng chục nhóm rẽ ngang, rẽ dọc vào các cánh đồng đây đó. Tôi bối rối nhìn Mẹ, Mẹ ơi, Mẹ có nhìn thấy Bố không hở Mẹ? Sao con không tìm thấy Bố mình đâu hết hở Mẹ? Mẹ tôi nhìn quanh quất để chắc chắn không có nguời cán bộ nào trong tầm tai, rồi nhỏ giọng cất tiếng hỏi các bác các chú đi qua truớc mặt, “Các bác ơi, mẹ con tôi ra thăm anh PTT, các bác có thấy chồng tôi không ạ? Các bác có biết anh PTT không ạ? Các bác nhắn dùm cho anh PTT biết là có vợ con ra thăm đuợc không ạ?” Các bác các chú tuy không dám quay lại nhìn Mẹ con tôi, nhưng ai cũng đều nhỏ giọng trả lời, “Đuợc rồi, đuợc rồi!” Có bác cũng giả vờ đưa tay lên gãi mũi, rồi lén hỏi lại Mẹ tôi, “Thế anh ở cấp bậc gì hả chị?” “Dạ, truớc ảnh làm Đại Tá ạ”, Mẹ trả lời.

Rồi tôi nghe các bác các chú, nguời thì gãi cằm, nguời thì che miệng ho, nguời thì giả vờ hắt hơi… để che mắt cán bộ, các bác các chú truyền miệng nhau… “Này, anh có biết ông T. không?” “T. ở đội nào nhỉ? Có phải đội 18 không?” “Không, ông này là Đại Tá mà…” “Thế thì phải ở đội 21 rồi!” “Ông Luân ơi, ông ở đội 21 phải không? Nhắn cho ông T. biết là có vợ con ra thăm này” “Sướng nhé!!” “Chúc mừng ông T. nhé!!!” Chúng tôi nghe các bác lao xao nói qua kẽ răng mà vừa thuơng, vừa cảm động. Đời sống lao tù khổ ải có làm thân xác các bác các chú tiều tụy đi, nhưng vẫn không làm mất đi tình đồng đội của các chiến hữu cũ. Các bác các chú vẫn muốn, bằng cách nào đó, để giúp đỡ, che dấu cho nhau, và thật lòng san sẻ những mừng vui cho nhau như lúc này đây. Hai mẹ con tôi vẫn đang cố gắng giuơng mắt tìm kiếm Bố thì một bác dừng lại ngay truớc mặt. Xoay lưng lại chúng tôi, giả vờ đưa lon guy-gô lên miệng uống, bác nói, “Chị T. phải không ạ? Tôi là Luân. Chị nhìn ra cánh đồng truớc mặt nhé, gần thằng cán bộ đứng đó, anh T. đang cuốc đất, anh đội cái khăn màu xanh duới cái nón lá đấy, chị thấy chưa? Tôi sẽ nhắn cho anh T. hay, chị và cháu đứng đây nhé.” Nói xong, bác đậy lon nuớc lại và quày quả buớc đi. Một phần chúng tôi quá bất ngờ vội vã theo sự hướng dẫn của bác để tìm Bố, một phần mọi việc diễn ra rất nhanh, nên chúng tôi chưa kịp ngỏ một lời cám ơn thì đã thấy bác buớc về phía cánh đồng nơi bác nói Bố tôi đang làm việc. Cánh đồng hơi xa, nên tuy bác Luân chỉ dẫn rất rõ ràng, chúng tôi chỉ đoán đuợc nguời đó là Bố chứ không thể nào nhìn rõ đuợc nét mặt hay dáng nguời. Quá xúc động, nuớc mắt tôi lại trào ra, khiến tôi lại càng chẳng nhìn thấy gì nữa. Trong khi đó, Mẹ vẫn bình tĩnh dõi mắt nhìn đăm đăm theo bác Luân đang len lỏi từ từ tiến lại gần chỗ của Bố. Tôi nghe Mẹ cuời khe khẽ, “Bố nhìn thấy mẹ con mình rồi con ơi!” Mẹ giơ tay vuốt tóc, và vẫy một cách rụt rè kín đáo. Bố ngưng tay cuốc nhìn về hướng mẹ con tôi, và mở nón ra quạt. Mẹ cuời qua màn nuớc mắt, “Bố mở nón ra để mẹ con mình dễ nhận ra cái đầu hói đấy mà…” Rồi Mẹ bảo tôi, “Bố đang men dần ra phía bìa cánh đồng kìa, con thử tìm cách đi lại gần Bố xem sao.” Chỉ chờ có thế, tôi men theo hàng rào ra ngoài cổng chỗ đồn công an.

Nguời cán bộ đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, nhưng lúc đó tôi còn bé, lại lúi húi giả vờ luợm củi, nên ông ta cũng mặc kệ cho tôi men dần ra gần cánh đồng. Cách chừng bốn năm thuớc, tôi vẫn đang lom khom luợm củi, thì khóe mắt tôi nhìn thấy một nguời tiến về phía cán bộ. Tôi cố buớc thêm vài buớc và ngẩng mặt lên nhìn. Đúng là Bố của tôi rồi! Lúc đó tôi có một cảm giác thật lạ lùng như mình đang sống trong một giấc mơ kỳ ảo, chỉ có Bố và tôi. Trời đất núi rừng đảo lộn xung quanh… Tất cả mọi vật đều mờ nhạt, chỉ có Bố tôi là sáng rực… Nhưng Trời hỡi, Bố tôi đó sao?? Trong ký ức con bé 9 tuổi của tôi ngày Bố ra đi, Bố tôi luôn trắng trẻo, to lớn, gọn gàng trong bộ quân phục oai hùng với ba đóa hoa mai bạc lấp lánh trên cổ áo. Còn hôm nay, Bố gầy gò rách ruới… Bố nhỏ bé đen sạm giữa núi rừng hoang dã. Bộ áo lính cũ rộng thùng thình Bố đang mặc làm Bố càng thêm tiều tụy… Trời hỡi, tôi muốn gào khóc thật to, sao Ông nỡ đày đọa Bố tôi đến thế này?? Bố tôi có tội tình chi đâu mà sao Ông lại gây cảnh thuơng tâm đến như vậy? Bố ơi, con thuơng Bố quá Bố ơi. Xót xa trong lòng, trái tim tôi quặn đau như bị ai bóp nát, tôi như muốn quỵ xuống, nhưng rồi cố gượng. Cắn chặt môi, tôi nhắm mắt bảo mình phải thật bình tỉnh, bởi tôi biết lúc này mà quỵ xuống chắc tôi sẽ không còn bao giờ muốn thức dậy nữa…

Bên tai, tôi bỗng nghe giọng Bố nghẹn ngào, “Xin cán bộ cho tôi đuợc gặp con gái tôi, đã bốn năm trời nay tôi không đuợc nhìn thấy con tôi…” “Thì đợi đến chiều nay, chúng tôi sẽ giải quyết cho anh đuợc gặp mà”, nguời cán bộ trả lời. “Nhưng con gái tôi đang đứng ngay ở đây này cán bộ?” Tôi mở choàng mắt, nguời cán bộ nhìn tôi bằng đôi mắt dò xét. Tôi đứng thẳng dậy và cố gượng cuời. Nguời cán bộ chắc cũng cảm thấy đuợc sự xúc động khao khát của cả Bố và tôi, nên sau vài phút suy nghĩ, ông nhìn quanh và se sẽ gật đầu, “Nhanh thôi đấy nhé!” Tôi sững lại nhìn Bố, còn Bố thì mếu máo đưa tay về phía tôi. Khuôn mặt Bố tôi lúc đó, chắc suốt đời tôi không thể nào quên đuợc. Thời gian khắc nghiệt in hằn lên khuôn mặt Bố nét già nua tội nghiệp, đời sống lao tù ghi khắc lên đôi mắt Bố vẻ nhẫn nhục, chịu đựng thật đáng thuơng. Nhưng nhìn tôi, cả khuôn mặt và đôi mắt Bố đều bừng sáng lên rạng rỡ. Tôi liệng đám củi, chạy a lại vòng tay Bố. Giọng Bố sũng nuớc, “Con, ôi con tôi!” Tôi cũng nghẹn giọng gọi Bố, Bố ơi! Ôi “Bố”, tiếng Bố mà cả mấy năm trời nay tôi chỉ có gọi mà không đuợc nghe tiếng trả lời… Trong giây phút diệu kỳ ấy, tôi thấy thời gian như ngưng đọng và quay trở lại thời gian xa xưa hạnh phúc cũ… Tôi vẫn là con bé năm tuổi đòi Bố phải cõng xuống cầu thang mỗi buổi cơm chiều, là con bé bảy tuổi mỗi ngày ngồi trong xe Jeep Bố chở đến trường và nhõng nhẽo bắt Bố phải kể đi kể lại câu chuyện Đường Tăng Thỉnh Kinh, là con bé chín tuổi mà cả thế giới của nó là Bố là Mẹ, một ngày tháng Tư đen tối cũng chia cắt làm đôi... Tôi nhìn Bố, xót xa làm sao, Bố gầy quá, Bố ơi.

Như đọc đuợc ý nghĩ của tôi, Bố cuời trong màn nuớc mắt, xăn tay áo và cong tay lên khoe với tôi, “Bố vẫn còn khỏe lắm, con xem này”. Trời ơi, thay vì an ủi, Bố lại làm tôi thuơng xót và lo lắng cho Bố nhiều hơn. Khác hẳn với khuôn mặt tròn to bủng beo vì thiếu dinh dưỡng, đôi cánh tay Bố gầy nhom, đen đủi, khẳng khiu, như chỉ còn xuơng bọc da mà thôi. Bố hỏi thăm Mẹ, hỏi thăm hai mẹ con đi đường xa có mệt không. Sau vài câu thăm hỏi bình thường, Bố khịt mũi, nuốt nuớc bọt hỏi tôi, “Mẹ có mang nhiều đồ không hả con? Có xôi không? Có bánh chưng không? Có gà không?”... Sau mỗi tiếng Có của tôi, nét mặt Bố rạng rỡ hẳn. Tôi nghe lòng quặn xót, và thuơng Bố vô cùng. Không biết bố con tôi đã nói đuợc với nhau những gì, nhưng thời gian trôi nhanh như một giấc mơ, nguời cán bộ cắt ngang chúng tôi và hứa hẹn sẽ “giải quyết” tiếp vào buổi chiều. Hai bố con tôi lưu luyến ôm nhau một lần nữa, rồi Bố tần ngần quay ra đồng làm việc tiếp, còn tôi quyến luyến nhìn theo Bố rồi vội quay vào nhà thuật chuyện lại cho Mẹ. Trong lúc nói chuyện với Bố, Bố có nhắc đến đường mật. Mẹ nghe thế nên vội vàng dò hỏi những nguời xung quanh. Họ chỉ quay trở lại làng, đến nhà ông xe trâu hỏi thăm sẽ ra. Thế là Mẹ bảo tôi tìm đường vào làng để tìm mua cho Bố vài lon đường mật. Lặn lội nắng nôi một mình trên đoạn đường dài sáu bảy cây số, nhưng tôi vẫn cảm thấy vui vẻ vì nghĩ đến khuôn mặt rạng rỡ của Bố.

Buổi chiều hôm đó, chúng tôi vẫn chưa đuợc phép gặp Bố, nhưng đứng ở hàng rào nhìn thấy bố làm việc ngoài đồng cũng là một an ủi rất lớn cho hai mẹ con tôi. Mẹ lại bảo tôi đi vào làng hai lần nữa, khi thì mua thêm cho con gà, khi thì vác về bao gạo nếp. Không hiểu sao đi đi lại lại nhiều lần như thế mà tôi vẫn không thấy mệt. Chỉ nghĩ đến Bố đuợc ăn no đủ những món đồ này mà tôi thấy hăng hái vô cùng. Tôi uớc mình có thể làm đuợc gì nhiều hơn cho Bố nữa cơ. Buổi chiều Mẹ hỏi và nguời cán bộ cho phép Mẹ đuợc gởi vào truớc cho Bố một ít món ăn, con gà chiên và nồi xôi thơm dẻo. Chúng tôi hy vọng buổi tối nay đuợc ăn uống no đủ, Bố sẽ cảm thấy phần nào khỏe khoắn hơn lên chăng. Tối đó, lần nữa hai mẹ con tôi lại dằn bụng bằng nồi cháo lỏng và thiếp vào giấc ngủ với rất nhiều mộng đẹp. Sáng hôm sau, cả hai mẹ con tôi đều dậy rất sớm. Tôi giúp Mẹ bắt bếp nấu thêm nồi xôi, và luộc thêm con gà mới mua hôm qua. Đám củi tôi luợm về rất có ích, nhưng vì còn uớt nên khói bốc lên mù mịt. Chật vật một lúc rồi hai mẹ con cũng nấu nướng xong xuôi. Mẹ còn pha đuợc bình trà thơm và một ly nuớc chanh đường thật ngon cho Bố. Đến khoảng tám chín giờ thì chúng tôi nhìn thấy một đoàn bốn năm nguời từ trong trại đi ra. Mọi nguời bên ngoài ai cũng cuống quít gọi nhau mau ra để đón nguời thân mình. Chúng tôi nhận ra Bố ngay, vì khác với bộ áo lính bạc màu hôm qua, hôm nay Bố diện hơn với bộ đồ civil mà Bố mặc khi đi trình diện cải tạo. Có điều, bộ đồ ngày xưa Bố mặc vừa vặn sát vào mình thì giờ đây, thuơng thay, bỗng trở nên rộng thùng thình, phất phới như áo đi muợn vậy. Tôi ỷ mình là con nít nên mặc dù cán bộ đã dặn dò không đuợc chạy ra khỏi nhà khách, tôi vẫn chạy ùa ra đón Bố và dìu Bố vào. Chắc chiều qua món xôi và gà Mẹ gởi Bố đã nhận đầy đủ ngon lành, nên hôm nay tôi thấy giọng Bố sang sảng hơn, ánh mắt Bố nhìn cũng tinh anh vui vẻ hơn nhiều. Tôi mừng là hôm nay Mẹ mới gặp đuợc Bố, chứ nhìn Bố cận kề như ngày hôm qua tôi thấy Bố, chắc Mẹ sẽ còn đau lòng hơn nữa...

Phút giây hội ngộ mới đẹp làm sao. Cha con, vợ chồng trong vòng tay nhau, mừng mừng tủi tủi, nuớc mắt hòa nhau, mặn đắng đến quặn thắt trong tim. Nguời cán bộ cho phép chúng tôi đuợc một vài phút ngắn ngủi ôm nhau, sau đó tất cả đều phải vào ngồi trong một chiếc bàn gỗ dài sần sùi. Nguời cán bộ ngồi đầu bàn, bốn nguời tù cải tạo ngồi một bên, vợ con họ đuợc ngồi đối diện. Ba nguời chúng tôi may mắn đuợc ngồi cuối bàn bên này, xa nguời cán bộ nhất. Một lần nữa giấc mơ như tràn về, khi tôi chỉ còn thấy có Bố Mẹ và tôi ngồi bên nhau mà thôi. Bố uống hết ly nuớc chanh Mẹ pha, rồi hỏi thăm các anh chị của tôi, hỏi thăm ông ngoại và các bác các dì. Rồi Bố cũng nhỏ giọng hỏi thăm tin tức của Bà Nội và các cô chú bên gia đình bố là những nguời đã di tản vào những ngày cuối tháng Tư năm 75. Cũng may, chỉ truớc ngày chúng tôi đi thăm Bố vài tháng, chúng tôi nhận đuợc thư của chị Nga, là cháu gọi Bố tôi bằng chú từ bên Đức gởi về. Chị cho biết bà nội và các cô chú, các bác đều đã bình yên định cư ổn định tại Hoa Kỳ. Đuợc tin này, tôi thấy Bố cũng vui hẳn lên.

Rồi Bố kể cho Mẹ con tôi nghe về đời sống trong trại. Mặc kệ cho ánh mắt không hài lòng của nguời cán bộ, Bố nói, “Trong này luơng thực thiếu thốn, đói khát lắm, nên ai cũng tìm mọi cách để tăng thêm phần chất đạm (protein) cho mình. Con cóc, con nhái, con chuột, con rắn… hễ con gì nhúc nhích là ăn tuốt. Có anh vừa chụp đuợc con nhái, chỉ đập đầu cho nó chết, rồi phủi đất cát qua loa, bỏ vào miệng nuốt sống luôn đấy!” Có lẽ nhìn thấy ánh mắt kinh hoàng của hai mẹ con tôi, Bố vội vàng cuời, xua tay, “Nhưng Mẹ con đừng lo, Bố thì khác, Bố cũng ăn, nhưng Bố phải rửa sạch sẽ và bỏ vào lon guy gô nấu chín lên rồi Bố mới ăn. Không sao đâu!” Nghe Bố nói mà hai mẹ con tôi thuơng Bố xót xa. Ngoài xã hội lúc bấy giờ, thật ra chúng tôi cũng như hầu hết nguời dân Việt Nam tại thời điểm đó, cũng đều không no đủ. Một ngày, thường chúng tôi chỉ có một hai bữa chính, chủ yếu chỉ là vài củ khoai sắn hay một chén bo bo sượng cứng (một loại thực phẩm truớc đây chỉ dành cho ngựa và các loại gia súc).

Tuổi đang lớn mà chỉ đuợc chừng đó lót bụng, hầu như lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy đói. Thiếu dinh dưỡng, anh em chúng tôi còn phát sinh ghẻ lở nữa. Mặc dù anh chị em tôi đều bảo nhau không đuợc một lời kêu ca, than vãn để Mẹ khỏi phải thêm lo lắng, nhưng nhìn chúng tôi gầy còm, xanh xao chắc Mẹ cũng đau lòng lắm. Dù vất vả, chật vật, nhưng không biết bằng cách nào, Mẹ vẫn ráng xoay xở cho chúng tôi bữa rau, bữa cháo, và thi thoảng còn đuợc miếng thịt miếng cá. Hơn thế nữa, dù đói khổ, chúng tôi vẫn còn có nhau, vẫn còn có Mẹ, vẫn còn có Ông Ngoại làm nơi nuơng tựa. Chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy bơ vơ, hụt hẫng, hay nghĩ đến chuyện phải bắt cóc nhái, rắn rết về ăn. Còn Bố, trong những tháng ngày tù tội đó, tự do đã không còn mà miếng ăn cũng không có. Sự thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần chắc hẳn còn làm Bố đau đớn và kiệt quệ hơn nhiều.

Chúng tôi gặp gỡ và nói chuyện với nhau chừng hơn 30 phút, thì nguời cán bộ quản giáo cắt ngang, ông bắt đầu, gọi là “kiểm điểm” từng nguời. Đến phần Bố, ông ta lắc đầu bảo rằng cả đội của Bố chưa thấy ai có một chút tiến bộ nào cả, ông bảo gia đình phải biết “động viên, khuyến khích” để Bố “thành tâm cải tạo, học tập tốt, lao động tốt” thì may ra mới sớm đuợc trở về đoàn tụ với gia đình. Bố nghe nguời cán bộ phê bình mà vẫn tỉnh bơ nhún vai, và mỉm cuời với mẹ con tôi. Lạ lùng thay, khi nhìn thái độ của Bố, trong lòng tôi vừa lo lắng nguời ta sẽ trừng phạt Bố, nhưng lại vừa tràn ngập với niềm tự hào. Nguời ta có thể làm cho cơ thể Bố gầy còm suy nhuợc đến tàn tạ, nhưng họ sẽ không bao giờ khuất phục đuợc ý chí của bố đâu, phải không hở Bố? Mấy bác và Bố tôi có kéo theo một chiếc xe hai bánh kiểu xe bò loại nhỏ để chở đồ tiếp tế vào trong trại, nên khi nguời cán bộ tuyên bố là buổi nói chuyện kết thúc, tôi nhanh nhẩu chạy lấy xe đẩy đến cho Bố.

Bố cúi xuống định vác một gói đồ bỏ lên xe, nhưng tôi thấy Bố lảo đảo rồi phải bỏ gói đồ xuống. Bố thở dốc, nhưng lại xoay sang cuời với Mẹ sung sướng, “Mẹ mang cho Bố nhiều quà quá!” Tôi thấy vậy thì vội vàng tiến tới giúp khiêng cái giỏ quà lên xe cho Bố. Gói đồ mà lúc nãy Bố vác không nổi, thì tôi, dù ì ạch, nhưng cũng chất lên xe đuợc. Một lần nữa, nuớc mắt tôi lại trào ra, thuơng Bố của con quá đi Bố ơi. Bố của tôi yếu đuối đến như vậy sao? Thật khổ cho Bố quá, tù tội, đói khát, tiều tụy, bệnh tật, cách biệt gia đình. Sao nguời ta ác độc qua hở Bố? Sao nguời ta hành hạ Bố của con ra nông nổi thế này?? Mẹ con tôi quyến luyến đi theo Bố đến nửa đoạn đường vào trại thì nguời cán bộ không cho chúng tôi đi xa hơn. Ba nguời chúng tôi ôm siết nhau một lần nữa, khóc với nhau một lần nữa, rồi thôi. Bố xiêu vẹo đẩy chiếc xe nặng trĩu đi về phía những mái nhà tranh xa xa, mẹ con tôi nhìn theo, rồi ôm nhau khóc, gọi Bố ơi Bố ơi.... Bốn ngày đêm trên chiếc tàu Thống Nhất bẩn thỉu chật chội, một ngày đò dọc bập bềnh trên sông, hàng chục cây số đường rừng lê gót từ K1 lên K5, đói, lạnh, hoang mang, sợ hãi… chúng tôi đuợc gặp Bố tất cả chưa đuợc một tiếng đồng hồ!

Thế nhưng đó chỉ là khởi đầu, bởi vì sau đó, mỗi năm Mẹ tôi đều tiếp tục con đường gian truân đó, theo đuổi Bố tôi từ hết trại học tập này, sang trại cải tạo khác. Từ rừng sâu Vĩnh Phú, rồi trèo đèo Thanh Phong, lặn lội Hà Sơn Bình, qua núi thẳm Hà Nam Minh... mỗi năm tóc Mẹ một bạc thêm, vai Mẹ lại gầy guộc, nhưng không đoạn đường gian khổ nào còn có thể ngăn đuợc buớc chân Mẹ kiên trì thăm nuôi Bố. Tôi nhớ mài mại ngày còn bé vẫn nghe câu ru à ơi của Mẹ, như sau: “Thân cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non…” Bây giờ tôi mới hiểu đuợc hết và khâm phục thật nhiều những nguời phụ nữ Việt Nam, những nguời vợ hiền đảm đang, thủy chung nuôi chồng qua bao năm bao tháng. Nhưng tôi thuơng Mẹ còn can đảm hơn Con Cò nọ, vì không một lần, không một lần nào tôi nghe Mẹ nỉ non than vãn khóc lóc vì phải gánh gạo nuôi Bố những ngày tháng qua...

Tháng 4/2004 PLBL
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by caubennoc »

Làm phim về Trịnh Công Sơn – yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau
Song Chi
19 tháng 6, 2022


Image
Cảnh trong phim “Em và Trịnh”

Làm phim về những nhân vật có thật bao giờ cũng khó, làm phim về những nghệ sĩ nổi tiếng – bất kể là nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ, diễn viên điện ảnh, sân khấu… càng khó hơn. Thứ nhất là phải chịu sự phán xét của quần chúng nói chung và khối lượng fan đông đảo nói riêng, của người nghệ sĩ ấy. Ngay trên thế giới, hiếm có bộ phim nào làm về một nghệ sĩ nổi tiếng mà đạt được sự hài lòng, thỏa mãn của dư luận cả.

Thứ hai, nghệ sĩ thì cũng là những con người, và đã là con người thì khó mà hoàn hảo, cũng có những thói hư tật xấu, những điểm yếu điểm mạnh, góc sáng góc tối như mọi con người bình thường khác, lắm khi còn nhiều thói tật hơn, nhiều góc khuất hơn.

Chính vì vậy, có những người từng nói nếu yêu tác phẩm của một nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ nào đó thì cứ đứng xa mà thưởng thức tác phẩm của họ, đừng tìm hiểu sâu về cuộc đời của họ để khỏi thất vọng, càng không nên đi xem những bộ phim làm về họ làm gì, vì hình ảnh, hình tượng về người nghệ sĩ sau khi được diễn giải qua lăng kính của biên kịch, đạo diễn, lại được “sáng tạo” lần nữa bởi người diễn viên, liệu có còn bao nhiêu phần trăm là chân thực?



Mới đây, các nhà sản xuất phim ở Việt Nam đã cho ra rạp tới hai bộ phim về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, là “Em và Trịnh” và “Trịnh Công Sơn”, cùng một đạo diễn và có chung dàn diễn viên. Như thông tin từ báo chí, “Hai phim vốn là một trên kịch bản và trong quá trình quay, nhưng khác biệt ở khâu hậu kỳ. “Em và Trịnh” có thời lượng 135 phút, hay được gọi là bản dài. Trịnh Công Sơn với thời lượng 96 phút, thường được gọi là bản ngắn”.

Sau một tuần ra rạp, phim “Trịnh Công Sơn” dừng chiếu, còn phim “Em và Trịnh” tiếp tục phục vụ khán giả. Và cả hai phim đều nhận về những luồng dư luận trái chiều.

Người khen thì khen bốc tận mây xanh-thường là khán giả trẻ, thuộc thế hệ sinh sau đẻ muộn và một số người miền Bắc, thích “nhạc Trịnh”, thích “văn Trịnh” qua những lá thơ nhạc sĩ viết cho người yêu Dao Ánh, nhưng không hiểu về môi trường, bối cảnh, hoàn cảnh cũng như con người phức tạp của Trịnh Công Sơn. Người chê, thường là những người từng sống ở miền Nam trước năm 1975, ít nhiều biết về nhạc sĩ ngoài những bài hát, và cũng chê đến mức không còn gì để nói.
Image
Cảnh trong phim “Em và Trịnh”

Không có gì lạ. Ngoài thách thức chung của việc làm phim về người nghệ sĩ nổi tiếng như vừa nói ở trên, thì những người làm phim về Trịnh Công Sơn còn gặp thêm một thách thức khác. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Phạm Duy, thiền sư Thích Nhất Hạnh hay một số nhân vật khác của miền Nam, là những con người gây tranh cãi về quan điểm, thái độ chính trị. Nếu muốn làm phim về họ phải tìm hiểu kỹ, khách quan, đa chiều và phải dũng cảm đặt sự trung thực lên trên hết.

Với một môi trường làm phim như ở Việt Nam làm sao làm được điều này? Làm sao thể hiện khách quan về chế độ VNCH, về cuộc sống và những con người dưới chế độ ấy? Làm sao thể hiện được toàn bộ bối cảnh lịch sử phức tạp giai đoạn đó, sự tàn bạo của cuộc chiến không chỉ nằm ở một bên, sự kiện Mậu Thân 1968 với tội ác kinh hoàng của Việt Cộng là cơ sở để cho ra đời hàng loạt bài hát như “Hát trên những xác người”, “Bài ca dành cho những xác người”, “Ngày dài trên quê hương”…? Và sự phức tạp, nghiêng ngả, ngộ nhận về chính trị, những ảo tưởng, sai lầm trong giai đoạn này nhưng lại yếu đuối, “tiến thoái lưỡng nan”, tự quay lưng lại với hiện thực xã hội trong giai đoạn khác, ở người nghệ sĩ?

Có người cho rằng hãy chỉ làm phim về khía cạnh âm nhạc của nhạc sĩ, đừng bàn về khía cạnh khác. Nhưng nếu nói về Trịnh Công Sơn thì không thể chỉ nói về âm nhạc, và ngay cả âm nhạc thì Trịnh Công Sơn cũng không chỉ sáng tác tình ca mà còn nổi tiếng hơn ở dòng nhạc phản chiến. Trong những tháng năm mà mỗi ngày mở mắt ra là nhìn thấy bom rơi đạn nổ, thịt nát xương tan, chia ly tử biệt, trừ những “thợ” hát, “thợ” vẽ, “thợ” làm nhạc, có người nghệ sĩ đúng nghĩa nào lại không có những suy tư, trăn trở về thời cuộc, xã hội, thân phận con người, vận mệnh đất nước? Cho nên nếu chỉ đánh giá Trịnh Công Sơn ở góc độ âm nhạc thôi thì cũng phải nói đến quan điểm, tư tưởng của dòng nhạc phản chiến.

Không chỉ có thế, Trịnh Công Sơn là một nhân vật văn hóa, lịch sử, sinh ra trong một bối cảnh lịch sử-chính trị cụ thể của miền Nam Việt Nam nói riêng và Việt Nam nói chung, nên không thể tách rời Trịnh Công Sơn khỏi cái bối cảnh đó, cũng như những lời Trịnh Công Sơn nói, những việc Trịnh Công Sơn làm ở góc độ nhân vật lịch sử. Và điều này là hoàn toàn bất khả trong một chế độ độc tài toàn trị như ở Việt Nam. Bao nhiêu nhân vật lịch sử cận hiện đại như các vua nhà Nguyễn, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… đều bị bóp méo, và cả cuộc chiến Việt Nam là bị viết lại hoàn toàn dưới quan điểm của nhà nước cộng sản thì làm sao mà thể hiện Trịnh Công Sơn cho trung thực?
Image
Poster phim “Em và Trịnh”

Những người làm phim, do vậy, chỉ còn chọn lựa hoặc né tránh sự thật lịch sử hoặc thể hiện theo cái nhìn đã được “giáo dục” bao nhiêu năm, còn về con người nhạc sĩ, khi không thể xây dựng một cách trung thực, đa chiều thì đành chuyển qua khai thác khía cạnh tình cảm và ở đây, như nhiều người đã chỉ ra, những người làm phim cũng lại hạ thấp con người Trịnh Công Sơn trong tình yêu, khi thể hiện Trịnh Công Sơn cứ hết đuổi theo cô này lại si mê cô khác, sống chỉ để đuổi theo gái, kể cả những “chuyện tình” mà từ lâu người trong cuộc đã đính chính là tình người, tình tri kỷ, tình nghệ sĩ, tình anh em-thầy trò chứ không phải là tình yêu trai gái.

Nếu những người làm phim đáng trách một vì không đủ kiến thức, hiểu biết, không đủ dũng cảm mà vẫn lao vào làm phim về Trịnh Công Sơn; thì gia đình Trịnh Công Sơn còn đáng trách hơn nhiều lần vì đã đồng ý để người ta làm phim về người đã khuất như thế. Một bộ phim trung thực về Trịnh Công Sơn, nếu chưa làm được bây giờ thì đợi đến ngày có thể làm được, đâu có gì phải vội vã. Yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau…
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Già rồi tưởng đã khô nước mắt nhưng lại ứa lệ khi đọc câu chuyện tình này.
Xin gởi đến bạn hữu.
MỘT NỤ CƯỜI
Bửu Uyển

Vào dịp cuối năm 1994, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết : “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo : “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc.Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi : “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”

Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”

Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi : “Anh ạ, mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”

Đạo như chợt tỉnh, ông lão bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giả bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.

Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà, khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam Hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !

Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.
Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“ Anh nhớ không, ngày chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.Chi vội vã đứng lên giới thiệu : “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngỡ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay : “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cười , rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó, và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn.

Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói : “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”

Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay : “Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi : “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”

Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “
Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.

Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.
Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !
Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.

Bửu Uyển
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by bichphuong »

Image

Giọt mưa trên tóc -

Tiểu Tử
Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục: - Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt. Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận: - Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?
<!>
Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:
- Mình đi chung mà Kim.
Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”... Một “cái gì”... Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm:
“Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng....”

Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng...” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.
Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường .. đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.
Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau...
Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:
- Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng...
- Sao Nghĩa biết?
Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.
Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:
- Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.
- Họ đi thoát không?
- Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.
Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:
- Không biết họ đi có thoát không?
Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:
- Gia đình Kim có định... có định... đi không Kim?
Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:
- Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?
Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:
- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết...

Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng...
Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, chở nhau trên chiếc xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!
Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:
- Còn Nghĩa? Có tính đi không?
Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:
- Kim trả thù hả?
Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:
- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi.

Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.
Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.
Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!
Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.
- Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?
Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:
- Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó... Nó...
Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.
Nghĩa tiếp:
- Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!
- Cái gì uổng?
Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:
- Thì...
Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:
- Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.
Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.

Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.
Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:
- Thôi, “bye” nghe Kim.
Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.


***
Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:
- Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.
Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:
- Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?
Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”.
Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng:
“Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”

Vậy mà bây giờ... bây giờ... Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song... Vậy mà bây giờ... bây giờ... Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ... những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày... bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?... Kim?... Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!
Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:
- Con đem trả sách cho thằng Tuân.
Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:
- Trả cho nó học.
Ba gật đầu:
- Ờ... Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?
Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:
- Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.
Nghĩa "dạ" rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.
Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?... Ra sao?...”. Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh...
Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:
- Ai đó?
- Dạ thưa cháu.
Nghĩa trả lời.
- Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?
Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:
- Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao...

Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách! Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng de ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.
Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút... như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ... Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi... Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ...
Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:
- Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?

Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.
Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ... cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn... Vĩnh viễn...”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu... tình yêu... tình yêu...

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên...
Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh:
- Nghĩa đi hả?
Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa! Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt....
Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt... mai mốt... Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng...
Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:
- Chừng nào?
Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:
- Khuya!

Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa... Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như... siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!
Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.
Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất... Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.


*****
Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn...
Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ...
Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….
Nghĩa đốt điếu thuốc. Hít một hơi dài bỗng nghe khói thuốc thật đắng và làm cay chảy nước mắt!

Tiểu Tử
dailien
Posts: 2456
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by dailien »

Vợ là một vĩ nhân đúng 100%


Vợ là một vĩ nhân đúng 100% đang lúc vợ còn tại thế người chồng xem thường công lao của VỢ lúc vợ mất rồi thì mới thấm thía nhận ra sự mất mát to lớn biết là chừng nào. Cám ơn tất cã các Bà vợ HIỀN.

Có thời ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết. “Bây giờ vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất nhân, không nên nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.

Sau khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh âm u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa sai.

Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em ơi! Anh đi làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai lạy vợ bao giờ.

Ông nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.

Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một mình.

Ông đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả. Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất trên từng món vật dụng.

Mỗi bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến bữa cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình, không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn cảm được hương vị ngon ngọt.

Nhiều khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng, bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi, làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không ngủ được.

Ông tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn, khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu dại.

Tại sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.

Nếu được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.

Lấy kinh nghiện đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu, nên họ nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chiếc bóng, thì tiếc thương cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.

Mẹ ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ, vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông đã ngã gục khi chết vợ.

Có khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm, còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?

Trong căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật, để cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.

Hơn cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra. Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi! lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay cay, tim đập sai nhịp.

Tủ áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần mới khi tham dự tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến phục.

Áo quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt, màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông. Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết. Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay, nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.

Ông nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau, thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ dặp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục xương không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.

Bà biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.

Nhiều lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy bay, đặt khách thuê sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh, điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món. Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường. Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”

Một lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các ‘tua’ du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì. Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.

Ông thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.
Từ khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và thời gian dường như thành trống rỗng.

Mỗi chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu,về đâu cho đỡ thấy quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận. Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.

Mỗi khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được. Vài ba cây trái đã đen điu thồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?

Như một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần kinh.
Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.

Khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra về. Ông nấn ná không muốn khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.

Mùa đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.
Chỉ mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng.
Ông nghĩ, bác sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.

Một buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:
“Đừng đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời. Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…”

Ông đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu giấy vụn. Trước đó bà Frye nẩy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương.
Nếu bên kia thế giới mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ, hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước bia mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc. Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.”

Ông lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông đã tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo bước bà tan vào hư không.

Về nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ, ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.

Mỗi sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây?, cử tạ, bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.

Có một bà góa ỡm ờ đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”

Ông cười lịch sự đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”
Ông bóng bẩy nhấn vào hai chữ “phục vụ” làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông không thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.

Ông tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời trai trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng.

Đôi khi ông cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí.
Ông đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn.

Trên du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp, duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.

Ông Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim nhân áí, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn.

Bà Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút nhát như thời mười sáu tuổi.

Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn ông vào cuộc tình già. Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một vài người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt. Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng xác nhận anh nầy là một ‘ông Phật đất’. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.

Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”
Ông Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã ly hôn lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”
Ông Tư hạ giọng: “Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có thật vậy không?”

Ông chồng cũ của bà Huyền ngững mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”

Ông Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chưởi ông hèn nhát, bần tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chưởi mắng mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông.
Ông Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo lối bút họa, ghi lời của một người bạn:
“Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”


Tràm Cà Mau
TranAnhDung
Posts: 288
Joined: Tue Oct 28, 2008 7:43 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by TranAnhDung »

Gặp Lại Cố Nhân


Tôi trang điểm xong và sửa soạn thay váy áo chỉnh tề mà lòng vừa rộn ràng vừa hồi hộp. Chốc nữa ra mắt cố nhân sau 50 năm bặt tin xa vắng. Anh có nhận ra cô gái xinh xinh tuổi hai mươi ngày xưa anh từng tương tư và thề nguyền sẽ cưới làm vợ không nhỉ? Còn anh ấy, tôi không quên mái tóc bồng bềnh của chàng sĩ quan Hải quân mỗi lần anh về phép thăm tôi và tôi từng mơ là thi sĩ để dệt những vần thơ trên tóc anh.

Bây giờ tôi đã 70 và anh 75 tuổi đời rồi.

Tôi và Nguyện yêu nhau được một năm, vào lúc cuộc chiến khốc liệt mùa hè đỏ lửa 1972 anh bỏ dở học hành vào đời lính biển. Tình yêu càng xa cách càng nhiều nhớ thương chất ngất, tôi và Nguyện luôn khao khát chờ mong một ngày nào đó hai đứa sẽ nên duyên chồng vợ. Nhưng biến cố năm 1975 chúng tôi chia lìa nhau, mất nhau không một tin tức nào của nhau cả.

Bao nhiêu năm qua chuyện tình xưa và hình ảnh Nguyện chỉ còn là kỷ niệm đẹp, rất đẹp để đôi lần có dịp nghĩ lại tôi thấy thương nhớ và nuối tiếc bâng khuâng. Bỗng tuần trước tình cờ trên Facebook Nguyện liên lạc với tôi.

Thế là kỷ niệm sống dậy cứ như tôi vẫn là cô gái tuổi hai mươi ngày ấy. Cả hai cùng vui mừng thăm hỏi nhau. Nguyện sau cuộc hôn nhân dài đổ vỡ hiện sống một mình, còn tôi cũng một mình vì chồng tôi đã qua đời vài năm nay.

Hai chúng tôi ở cùng tiểu bang, ở hai thành phố lân cận nhau, cách 2 giờ lái xe. Nguyện đã mời tôi một buổi tái ngộ để anh được trực tiếp giải bày xin lỗi và hàn huyên thăm hỏi nhau nhiều hơn. Để thuận tiện cho tôi điểm hẹn sẽ là một nhà hàng trong thành phố của tôi và anh sẽ lái xe đến. Anh chọn nhà hàng Tao Ngộ vừa có ý nghĩa vừa nổi tiếng thức ăn ngon.

Tôi sẽ đến trước giờ hẹn nửa tiếng vì háo hức và tò mò muốn trộm nhìn anh xem dung nhan ấy bây giờ ra sao (như trong một bài hát) và tôi sẽ có thì giờ sửa soạn điệu đàng vào gặp anh sau. Thật là thú vị.

Đến khu parking nhà hàng Tao Ngộ tôi lượn xe chầm chậm tìm chỗ đậu vì chiều cuối tuần nhà hàng đông khách đông xe. Tuổi về già từ lâu tôi đã biết điều luôn tìm chỗ đậu xa, vắng vẻ để dễ vào lane khỏi đụng chạm đến ai. May quá có một chỗ trống tôi cố lái xe len vào thế mà vẫn xuýt đụng xe bên cạnh may mà tôi thắng kịp. Tức thì một ông đầu hói từ trong xe hung hăng bước ra thô lỗ quát to:

– Này, này… Không có mắt à? Mắt mũi để trên trời à?!

Nói xong ông đóng cửa xe cái “rầm” bày tỏ sự tức giận và vội vã bước đi, tôi ngượng ngùng vì chưa kịp nói lời xin lỗi chỉ biết nhìn theo bóng dáng to kềnh của ông với chiếc áo khoác màu da bò đang hối hả bước vào nhà hàng.

Tôi bước ra khỏi xe nhìn lại chỗ đậu của mình thấy rõ ràng xe đậu lệch méo mó lấn sang lane xe bên cạnh, thật đáng đời nghe ông kia quát mắng, may mà chưa đụng làm trầy da tróc vẩy chiếc xe, chắc ông sẽ nắm áo đòi bồi thường, vừa phiền phức vừa mất thì giờ.

Tôi đi vào nhà hàng, hi vọng đừng đụng mặt ông ta lần nữa, mất hứng cho giây phút hẹn hò của tôi với cố nhân. Tôi thong thả từng bước vào nhà hàng và kín đáo tìm chỗ khuất để Nguyện khó có thể nhận ra tôi.

Theo ước hẹn của nhau là Nguyện và tôi đều mặc áo màu trắng, màu áo lính Hải quân của chàng và màu áo học trò của tôi để cả hai cùng nhớ về một thời tình yêu trong trắng. Nguyện sẽ đến nhà hàng trước đặt bàn và ngồi chờ tôi trên bàn có sẵn một bình hoa hồng đỏ.

Tôi đứng nép một góc cửa phía xa nhìn vào trong nhà hàng và sững sờ khi thấy người đàn ông áo trắng đầu hói đeo kính đen bệ vệ ngồi một mình bên cạnh bình hoa hồng đỏ. Hoa hồng thì đẹp và nên thơ nhưng chàng thì như một tay xã hội đen đang ngồi… rình mồi để trả thù ân oán giang hồ chứ không phải kẻ đang đợi người tình xưa.

Nếu ông to béo màu mỡ này là Nguyện. Chàng Hải quân vóc dáng chuẩn hào hùng thanh nhã ngày xưa của tôi đâu? Ngày xưa mỗi lần chúng tôi sánh vai dạo phố thế nào mấy cô thiếu nữ cũng có kẻ phải quay đầu lại để suýt soa chàng Hải quân đẹp trai quyến rũ làm cho tôi tự hào biết bao. Và mái tóc bồng bềnh nếm bao nhiêu mùi vị biển mặn nắng gió phương xa của chàng Hải quân lãng tử đâu?

Tôi an ủi mình cũng già đi, cũng thay đổi, toàn đồ giả trên người thì đòi hỏi chi nữa, nên lại hân hoan và khoan thai bước vào nhà hàng, đứng trước mặt người đàn ông áo trắng đeo kính đen tôi nhỏ nhẹ cất tiếng:

– Có phải là anh Nguyện không?

Ông ta nhìn tôi hồi lâu mới từ từ… tháo kính đen ra. Chắc đôi mắt láo liên của chàng sau màn kính đã tha hồ săm soi lướt nhìn tôi từ đầu đến chân để đánh giá tôi rồi, chàng có phát hiện ra mái tóc giả của tôi không? Phấn son che giấu những vết nhăn vết nám trên gương mặt tôi không? Chiếc ví xách tay hàng hiệu đẹp sang cũng là hàng giả hàng nhái chàng có biết không?

Ôi trời ôi, còn tôi đã nhận ra ngay bản mặt của lão hói đầu lúc nãy mắng tôi sa sả chỗ bãi đậu xe, không lầm lẫn vào đâu được vì tôi đã thấy chiếc áo khoác màu da bò lão ta vắt trên thành ghế bên cạnh.

– Xin lỗi, chắc… tôi lầm.

Tôi lắp bắp nói xong định quay đi thì chàng gọi lại:

– Anh là Nguyện đây mà.

Tôi thẫn thờ ngồi xuống ghế vì đã qua cơn choáng, đã tỉnh trí ra, Nguyện chứ còn ai vào đây, dấu hiệu mặc áo trắng, bàn có bình hoa hồng rành rành ra kìa. Chỉ tại chàng đeo thêm đôi kính đen mà thôi. Bồi bàn đến, chúng tôi gọi món ăn và bắt đầu nói chuyện.

Bây giờ đối diện tôi nhìn Nguyện kỹ hơn, nét đẹp trai hiền lành tao nhã ngày xưa đã thay thế bằng nét cau có đăm đăm của một ông già khó tính. Có nhà nhân chủng học nào, nhà tâm lý nào nghiên cứu giùm tôi tại sao thời gian lại có tài biến đổi lạ lùng đến thế không!

Chàng không hề nhận ra tôi mụ đàn bà vô duyên xớn xác đậu xe không nên thân vì lúc ấy tôi còn ngồi trong xe.

Biến cố 1975 chàng đã lên tàu ra khơi và sau đó không thể liên lạc được với tôi nữa. Đường đời chúng tôi hai ngã rẽ. Tôi không trách móc gì chàng, bao số phận con người đã chìm trong bể dâu cuộc đời nào chỉ hai chúng tôi.

Nguyện kể công:

– Anh đã đến sớm nửa tiếng trước giờ hẹn để chọn bàn chọn chỗ ngồi cho buổi tái ngộ này. Tất cả chỉ vì em.

Tôi cảm động quá, chàng cũng như tôi đều đến sớm vì nao nức chờ mong và tôi tha thứ cho chàng tội thô lỗ “mắng” tôi lúc nãy, chàng không biết đó là tôi và vì chàng đang vội vào nhà hàng. Ăn uống và chuyện trò xong gần 2 tiếng đồng hồ, bồi bàn mang đồ tráng miệng ra cùng một cái dĩa có tờ bill tính tiền. Chàng cầm lên xem và bất mãn kêu lên:

– Trời! Chỉ có hai người mà những 160 đồng kể cả tiền tip. Nhà hàng này chém ngọt thật.

– Chắc họ tính tiền cả bình hoa hồng nữa anh ạ.

Chàng xót xa lẩm bẩm:

– Chúng ta có ăn bình hoa hồng này đâu, chưng bày xong lát nữa họ lại cất vào mà.

Tôi ái ngại giùm chàng, chẳng lẽ tôi móc bóp trả tiền làm mất mặt chàng quá nên đành im lặng để cho chàng thể hiện sự ga lăng như trước kia chàng đã từng ga lăng mỗi lần về phép là mỗi lần tôi đều có quà tặng hậu hĩ. Nhưng chàng đã tiếp làm tôi giật cả mình:

– Anh và em chia hai, mỗi người trả một nửa 80 đồng.

Tôi còn đang bàng hoàng chàng thản nhiên giải thích:

– Anh đến Mỹ 1975 sống quen kiểu Mỹ từ lâu rồi. Mời đi ăn chung nhưng phần ai nấy trả.

Tôi lấy lại bình tĩnh:

– Em cũng đến Mỹ 1975 em hiểu mà.

Tôi mở bóp lấy ra 80 đồng để trên bàn cạnh 80 đồng của chàng:

– Thôi tạm biệt anh. Cám ơn anh một buổi chiều tái ngộ.

Tôi đứng lên và bước ra khỏi nhà hàng, chàng cũng vội bước theo tôi, tôi bước nhanh chàng tuy to béo cũng cố bước nhanh và hụt hơi gọi vì thấm mệt:

– Này, em… này… em…

Tôi khựng bước lại, hay là chàng hối hận đã bắt tôi hùn trả tiền ăn và muốn nói điều tình cảm gì đó trước khi chia tay cho tôi đẹp lòng? Chàng đã bắt kịp tôi vừa thở vừa nói:

– Này em, nãy giờ mình nói chuyện đủ thứ mà anh quên chưa hỏi em một điều quan trọng…

Tôi chờ đợi:

– Vâng, anh cứ hỏi.

Chàng khẩn khoản:

– Anh muốn biết tiền hưu trí mỗi tháng em lãnh bao nhiêu có tương đương với anh không? Để khi chúng ta quyết định nối lại tình xưa về sống chung bên nhau không ai phải thiệt thòi. Thế thôi.

Tôi nhìn thẳng vào cố nhân, người đã từng làm tôi thổn thức tiếc thương và trả lời dứt khoát không còn thương tiếc gì nữa:

– Chúng ta tái ngộ tâm sự chuyện 50 năm qua chứ em chưa hứa hẹn sẽ về sống chung với anh và sẽ không bao giờ đâu. Anh khỏi phải tính toán trước cho mất công.

Nguyện thất vọng, mặt trở nên lạnh tanh và ngạc nhiên thấy tôi vẫn đi cùng hướng, ra tới chỗ đậu xe chàng mới hiểu khi tôi mở cửa xe chui vào. Tôi nói:

– Em “de” xe nếu đụng xe anh, anh đừng nổi cáu mắng em đồ không có mắt nhé.

Trong khi tôi đang toát mồ hôi nhích từng chút một, quẹo tới quẹo lui cho cái đuôi xe méo lệch ra khỏi lane tôi còn nghe giọng anh ta thô lỗ vang lên y như lúc nãy:

– Thế mà làm người ta mất thì giờ đến đây, lái xe cả đi lẫn về 4 tiếng đồng hồ và tốn hết nửa bình xăng!

Nguyễn Thị Thanh Dương
(08/2022)
hoanghoa
Posts: 2259
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by hoanghoa »

Image

Giọt Mưa Trên Tóc

Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục:

- Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt.

Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận:

- Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?

Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:

- Mình đi chung mà Kim.

Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”... Một “cái gì”... Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm:

“Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng....”

4524 2 GiotMuaTrenTocTTu

Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng...” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.

Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường .. đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.

Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau...

Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:

- Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng...

- Sao Nghĩa biết?

Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.

Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:

- Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.

- Họ đi thoát không?

- Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.

Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:

- Không biết họ đi có thoát không?

Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:

- Gia đình Kim có định... có định... đi không Kim?

Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:

- Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?

Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết...

Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng...

Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, chở nhau trên chiếc xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!

Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:

- Còn Nghĩa? Có tính đi không?

Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:

- Kim trả thù hả?

Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi.

Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.

Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.

Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!

Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.

- Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?

Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:

- Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó... Nó...

Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.

Nghĩa tiếp:

- Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!

- Cái gì uổng?

Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:

- Thì...

Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:

- Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.

Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.

Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.

Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:

- Thôi, “bye” nghe Kim.

Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.

*****

Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:

- Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.

Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:

- Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?

Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”.

Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng:

“Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”

Vậy mà bây giờ... bây giờ... Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song... Vậy mà bây giờ... bây giờ... Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ... những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày... bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?... Kim?... Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!

Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:

- Con đem trả sách cho thằng Tuân.

Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:

- Trả cho nó học.

Ba gật đầu:

- Ờ... Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?

Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:

- Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.

Nghĩa "dạ" rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.

Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?... Ra sao?...”. Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh...

Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Dạ thưa cháu.

Nghĩa trả lời.

- Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?

Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:

- Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao...

Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách! Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng de ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.

Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút... như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ... Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi... Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ...

Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:

- Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?

Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.

Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ... cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn... Vĩnh viễn...”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu... tình yêu... tình yêu...

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên...

Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh:

- Nghĩa đi hả?

Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa! Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt....

Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt... mai mốt... Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng...

Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:

- Chừng nào?

Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:

- Khuya!

Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa... Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như... siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!

Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.

Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất... Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.

*****

Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn...


Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ...

Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….

Tiểu Tử
lengoi
Posts: 486
Joined: Sat Oct 23, 2010 7:17 pm
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by lengoi »

Duyên Tiền định.
(Cô hàng cà phê Tân Định kể)

Ai có cho rằng tôi mê tín dị đoan nhảm nhí mặc kệ, tôi vẫn tin rằng có duyên "tiền định" mới nên vợ chồng. Chồng tôi người Việt nhưng quốc tịch Mỹ, lấy tên là Charles Lee, thường gọi là (Đít) Dick. Dick tốt nghiệp đại học Mỹ. Trong khi chờ ngày đi làm, bố chồng tôi có ý định đưa con trai về Việt Nam kiếm vợ. Anh ta học giỏi, đẹp trai, mặt mũi sáng láng nhưng khờ đặc trong việc giao tiếp với bạn bè. Ngay thời còn ở high-school, nhiều cô bạn cùng trường đến làm quen, anh ta cứ thụt lùi mãi, khiến các cô phát nản.

Trước năm 1975, bố anh ta là hạ sĩ quan an ninh phi trường Tân Sơn Nhất, ông có người bạn đồng ngũ rất thân. Sau 1975, bố anh ta về quê, xoay xở đưa cả gia đình vượt biên, còn người bạn thì về nhà, kế nghiệp cha mẹ, làm chủ một tiệm hủ tiếu ở đường Hai Bà Trưng, trước chợ Tân Định. Người bạn nầy gốc Tàu, tính cần kiệm và kín đáo nên không bị đánh tư sản (bị tịch thu gia sản, đuổi đi kinh tế mới).

Ở Mỹ, bố anh chàng Dick thường thư từ cho người bạn bán hủ tiếu ở Tân Định. Khi biết ông ta có ý định về Việt Nam kiếm vợ cho con thì người bạn đồng ngũ nầy ngỏ ý muốn giới thiệu con gái của mình với anh Dick. Hai ông bạn trao đổi hình ảnh con của mình cho hai đứa nhỏ nghiên cứu, tìm hiểu nhau. Thấy hình cô gái cũng đẹp, chưng diện coi bộ còn thời trang hơn cả các cô gái Việt ở Mỹ nên Dick thích lắm, nhưng đỏ mặt, không có ý kiến. Thế là ông gọi cho người bạn, hẹn năm nay về ăn Tết, sẽ cho tiến hành lễ hỏi và lễ cưới cho hai đứa.

Hôm gia đình anh ta xuống phi trường Tân Sơn Nhất, cả nhà cô gái long trọng đón về. Vừa là bạn chí cốt, lại sắp thành thông gia nên hai gia đình rất vui vẻ, thân mật. Cô gái đẹp hơn cả trong hình, nên chàng Dick thích mê, nhưng mắc cỡ. Hễ đối diện với cô ta thì mặt đỏ lên, miệng ấp úng, nói không nên lời. Hơn nữa, vì không rành tiếng Việt nên anh ta cứ ngập ngọng, nhưng nhờ cô gái đang học đại học, ban Anh văn nên cả hai không đến nỗi khó khăn khi chuyện trò. Cô ta rủ anh chàng đi chơi Sài Gòn, đi mua sắm, đôi khi còn chở Dick sau xe gắn máy, vi vút ra ngoại ô hóng gió, ăn uống ở các nhà hàng đồng quê. Được ngồi sau, ôm eo người đẹp, anh ta thích quá, nhất là khi được người đẹp ngồi bên cạnh tựa ngực vào người, giọng thủ thỉ, nũng nịu khiến anh chàng chết mê, chết mệt. Thế nên, trong một buổi cơm tối, cô cậu được hỏi ý kiến, có bằng lòng nhau không? Chàng ta trả lời "Dạ chịu!" Còn cô gái chỉ liếc anh ta và tủm tỉm cười. Thế là đám hỏi diễn ra ngay hôm sau.

Thời đại hỏa tiễn, gì cũng tốc hành cho nhanh gọn. Buổi sáng, nhà trai đi sắm nhẫn đính hôn, nhẫn cưới, trang phục cô dâu, chú rể và các vật dụng cần thiết, ý là đám hỏi xong thì tiến hành đám cưới ngay. Buổi chiều hai họ kéo nhau ra nhà hàng nhậu nhẹt tưng bừng. Trong buổi tiệc gọi là tiệc đám hỏi đó, hai ông bạn nghéo tay nhau hẹn tuần sau nhà trai (từ dưới tỉnh) sẽ lên đón cô dâu về quê làm đám cưới cho xôm tụ. Nhà gái, dĩ nhiên phải o bế cho cô dâu thêm phần xinh đẹp để bà con dưới tỉnh rõ mặt gái Sài Gòn.

Dick về dưới quê nhưng đã bị cô gái hớp hồn rồi nên người cứ sững chừng, suốt ngày lơ ngơ, không nghe, không thấy gì chung quanh, rồi than buồn. Cha mẹ anh ta biết ngay là thằng con đã bị cô gái bắt mất vía nên gợi ý cho anh ta lên Sài Gòn, ở lại nhà cô vợ tương lai trước khi làm đám cưới. Biết con mình chánh hiệu con nai vàng ngơ ngác, nên ông bà dặn dò rất kỹ, nào là không được qua đường một mình (sợ xe tung), đi đâu phải có cô vợ tương lai bên cạnh để khỏi bị bọn bất lương lường gạt, cướp giật. Ở chơi đúng hai ngày sau thì về để chuẩn bị làm đám cưới.

Chiều hôm đó, Dick đón xe đò lên Sài Gòn. Về đến bến xe Miền Tây thì đã khuya, Dick là người lịch sự theo kiểu Âu Mỹ, không muốn làm phiền người khác nên anh chàng đến khách sạn qua đêm.

Sáng hôm sau, Dick đón xe đến tiệm hủ tiếu. Anh ta nghe người đẹp nói là thường đi học lúc tám giờ sáng, nên dự định đứng ngoài chờ, hễ thấy cô ta bước ra để đi học thì Dick sẽ bước vào tiệm, mục đích tạo bất ngờ với người đẹp, chắc chắn cô ta sẽ mừng rỡ, nghỉ buổi học để hai người cùng đi chơi. Vì thế, khi đến tiệm hủ tiếu, anh ta không vào mà đứng bên kia đường, chờ. Đúng tám giờ, thấy người đẹp đi ra, đứng trước cửa tiệm ngó quanh, Dick định băng qua đường nhưng xe cộ nhiều quá, cứ lúng túng, chưa dám bước xuống lòng đường thì bỗng nhiên có một thanh niên đi xe gắn máy, dừng lại trước tiệm hủ tiếu, và cô vợ sắp cưới của chàng Dick phóc lên yên sau, ôm eo ếch chàng thanh niên kia. Chiếc xe vọt đi. Cả hai chìm vào đám xe cộ, biến mất tiêu. Chàng Dick dại gái chưng hửng. Anh ta bèn bước lui lại lên lề đường, mặt bắt đầu nóng, tim đập thình thịch, chân tay bủn rủn, người run lên như bị bịnh sốt rét, ngực nặng trịch, thở không nổi. Đó là "triệu chứng lâm sàng" của người nổi cơn ghen. Nhưng vốn đã được giáo dục về phép lịch sự ở xứ Mỹ, lại nhút nhác, chàng Dick bối rối, không biết làm gì cho hạ hỏa. Giận lây bố mẹ vợ tương lai nên không vào tiệm hủ tiếu, anh ta cũng bước qua đường, nhưng tấp vào một hàng quà rong ngay bên hông tiệm. Đây là một con hẻm, được biến thành những "tiệm ăn chồm hổm" buổi sáng bán bún, mì, cà phê... Mỗi hàng ăn chiếm một khoảnh đất, đặt vài cái bàn thấp ngang đầu gối, chung quanh là mấy chiếc ghế nhỏ xíu, không vừa cái bàn tọa. Bình thường từ sáng sớm, người ta mang thức ăn, đồ uống ra, đến trưa, bán hết thì "dẹp tiệm", dọn về. Chàng Dick ngồi đại xuống một hàng cà phê. Chủ là một cô, tuổi đôi mươi, nhà nghèo, ăn mặc đơn sơ, không trang điểm, nhưng đôi mắt cô đen láy, long lanh, miệng cô cười thật tươi, phô bày hàm răng trắng đều, đẹp hết sức!. Nhờ đôi mắt và nụ cười nầy mà hàng cà phê của cô đông khách. Mấy cậu trai sáng nào cũng ra đây, gọi một ly cà phê, ngồi ngắm cô cũng đỡ buồn cảnh thất nghiệp của mình. Đôi khi tâm hồn rung động, vài cậu nói bóng gió để tỏ tình, cô chỉ cười không trả lời. Cô biết mình đẹp nên có quyền chờ đợi, tối thiểu cũng một anh chàng trông được con mắt, có công ăn việc làm kha khá, chứ thứ thất nghiệp, chỉ giỏi tán phét như mấy cậu khách hàng nầy, thì cô coi thường. Hơn nữa, ngay bên cạnh là hàng bún bò Huế của mẹ cô. Mẹ cô cũng biết giá trị con gái mình, nên thường xuyên nhắc nhở, kiểm soát cô rất chặt chẽ. Bà ta chỉ vẽ cho cô cách từ chối sao cho khách hàng biết nhưng vẫn vui vẻ, tiếp tục đến ăn uống để trồng cây si. Quán bún, cà phê của mẹ con cô hàng tựa vào vách tường của tiệm hủ tiếu của bố mẹ vợ tương lai chàng Dick. Sau tiệm có cửa hậu thông ra gần hàng cà phê, thỉnh thoảng nước dơ trong tiệm hắt ra, mấy con chó xúm lại nhặt nhạnh thức ăn thừa.

Khi Dick vừa ngồi xuống là cô hàng đã nhanh nhẩu hỏi "Anh uống gì? Ăn bún nghe!" Chàng Dick bối rối "Cô cho tôi lon cốc (Coca cola)" "Tôi không bán cóc. Anh ăn bún, uống cà phê nghe!" "Dạ, cô cho tô bún".

Nghe cách đối đáp, giọng nói ngọng nghịu, cùng lối ăn mặc của Dick, cô hàng biết ngay là Việt kiều, nên cô để ý xem con cừu non nầy lạc lối đến đây làm gì? Có lẽ còn quá sớm nên mấy cậu thanh niên thất nghiệp chưa ra, nếu không, làm gì anh ta cũng bị mấy tay nầy tìm cách chọc ghẹo hoặc ăn hiếp ngay. Ăn xong tô bún anh ta mở cái túi nhỏ cột trước bụng, móc tiền trả rồi ngồi ngó mông ra đường. Dick chờ người đẹp trở về, nhưng không biết giờ nào nên thỉnh thoảng đứng lên, ra nhìn trước cửa tiệm rồi vào ngồi lại chỗ cũ. Dick dự định, nếu người đẹp về với thằng tình địch thì anh ta sẽ bước đến, hiên ngang nắm tay người đẹp dẫn vào nhà, coi như là cách công bố quyền sở hữu đóa hoa biết nói đó.

Có chí thì nên, khoảng mười hai giờ, quả nhiên cô vợ tương lai của chàng Dick trở về với thằng tình địch. Vừa thoáng thấy, cơn ghen lại nổi lên khiến anh chàng đứng chết sững, chưa kịp phản ứng thì cô gái xuống xe, hôn thằng kia đánh "chụt" một cái mới bước vào nhà, còn thằng kia thì rồ xe chạy đi. Chàng Dick lại ngớ ra, đành quay về chỗ hàng cà phê, kéo ghế, gọi một ly cà phê, ngồi suy nghĩ xem mình nên làm gì bây giờ? Lúc nầy, các hàng quà rong đang chuẩn bị dọn dẹp ra về, nhưng thấy cậu Việt kiều, cô hàng cũng nấn ná pha cho khách một ly. Thình lình chàng ta nghe từ cửa sau tiệm hủ tiếu vẳng ra tiếng la lối "Tao bảo mầy có từ thằng đó ra không? Ít bữa nữa mầy lấy chồng rồi. Thằng chồng mầy nó biết, nó cạo đầu mầy" "Tía đừng lo tía ơi. Người ta ở bên Mỹ làm sao biết được chuyện của con. Mà con đâu có làm gì mà tía phải la? Bạn bè chút chút mà tía"

Tiếng cãi cọ càng lúc càng cao giọng, càng nhanh khiến chàng Dick chịu thua, không nghe kịp, nhưng chừng đó cũng đủ cho anh ta mất tinh thần. Bao nhiêu hứng thú tiêu tan, Dick quyết về dưới tỉnh mét bố mẹ, không thèm lấy vợ nữa.

Tối đó, nằm trong khách sạn, Dick không ngủ được. Phần nhớ người đẹp, phần cảnh tượng lúc trưa khiến cho máu nóng bốc lên đầu nên anh ta lăn qua, trở lại mãi. Cuối cùng thì tình yêu và ghen tương sống chung hòa bình trong quyết định của anh ta. Nghĩa là cứ để đấy nhưng theo dõi, tìm hiểu, nhất là để ngắm lại xem, cô ta có đủ đẹp để mình tha thứ không?

Sáng hôm sau, Dick lại ra hàng cà phê ngồi, nghĩ cách hỏi cô hàng về cô gái, con chủ tiệm hủ tiếu. Cô hàng cà phê, thấy thằng con trai trắng nõn, ngây thơ như em bé, cô thích lắm, mặc dù anh ta là Việt kiều, cô không hi vọng gì, nhưng yêu là việc của quả tim, xin khỏi bình luận. Tuy nhiên cô hàng cũng phải giữ kẻ vì sợ mấy thằng con trai, khách hàng, sẽ mỉa mai vì ghen tức "Thấy Việt kiều như mèo thấy mỡ". Nhưng anh chàng Việt kiều nầy hỏi chuyện thì mình trả lời, còn có thể hỏi lại mấy câu để tỏ tình quen biết. Đại khái Dick nói là về Việt Nam chơi chứ không nói về cưới vợ. Anh ta bảo rằng thấy con gái chủ tiệm hủ tiếu đẹp nên hỏi thăm cho biết, và hình như cô ta có bồ thì phải? Cô hàng nói là không biết chắc đó là bồ bịch hay chỉ là bạn bè, dù cô thấy hai người chở nhau đi mỗi ngày.

Khi yêu, người ta dễ tha thứ. Nghe cô hàng nói vậy, dù thấy rõ ràng hai đứa hôn nhau, Dick cũng không thấy trở ngại trong việc hôn nhân của mình. Vả lại Dick đã nhiễm văn hóa Âu Mỹ, chẳng xem trinh tiết là quan trọng, thế nên anh chàng vừa tự an ủi vừa hãnh diện "Cho mầy chở đi, ít bữa nữa, tao cưới nó, đem về Mỹ thì mầy no way!". Và Dick lại vui vẻ nói chuyện với cô hàng cà phê. Anh ta bảo tuần tới sẽ về Mỹ nhận việc. Cô hàng thất vọng. Tình cảm của cô chỉ mới quen biết chứ chưa đủ thân mật để cho nhau địa chỉ, sau nầy còn thư từ, tặng ảnh nhau khi hai người cách xa nhau nửa vòng trái đất. Thật tâm, cô buồn vì không còn được gặp anh ta nữa chứ cô không hề nghĩ đến chuyện Việt kiều có nhiều tiền, sung sướng. Giá mà anh ta là một người Việt "nội địa" dù thất nghiệp, cô vẫn yêu như thường.

Khi về dưới tỉnh, bố mẹ hỏi, Dick chỉ trả lời có, gì cũng nói có chứ không giải thích. Tưởng con mắc cỡ, hai người không hỏi thêm. Họ cứ theo chương trình mà thực hiện. Ở dưới quê, cưới hỏi, giỗ quãi đều làm tại nhà. Ngã heo, vật bò cũng chẳng tốn bao nhiêu. Ông bà Việt kiều nầy chơi sang, mời bà con hàng xóm, kể cả xã ấp, tập trung một chỗ hẹn, sẽ có xe đến rước lên nhà hàng trên tỉnh dự tiệc cưới, còn dặn xin đừng quà cáp. Mấy khi được đi nhà hàng sang trọng dự tiệc cưới Việt kiều nên mọi người rủ rê, bàn tán coi bộ sôi nổi và sốt ruột lắm.

Đó là chuyện chuẩn bị tiệc cưới ở dưới quê, tức bên nhà trai. Trên Sài Gòn cũng có một bữa tiệc ở nhà hàng trong Chợ Lớn do con gái ông chủ tiệm hủ tiếu tổ chức đãi đằng bạn bè trước khi cô lên xe hoa. Cô ta nói "Thưa các bạn, ngày mai tôi sẽ lên xe hoa, hôm nay hai đứa tôi mời các bạn nhậu một bữa, xong lên lầu nhảy nhót"

Các bạn cô tưởng rằng đó là đám cưới của cô với người tình, không ngờ, sau đó mới vỡ lẽ là cô lên xe hoa với người khác. Bạn bè càng ngạc nhiên hơn khi thấy người tình của cô vẫn vui vẻ chứ không buồn bã hay ghen tức gì cả? Rượu ngà ngà, hai người mới thổ lộ âm mưu là cô sẽ làm đám cưới với anh chàng Việt kiều và qua Mỹ sống độ mấy năm, khi đã vô quốc tịch, cô sẽ li dị chồng rồi về Việt Nam cưới anh chàng tình nhân nầy. Đây là mánh thường làm của các cô lấy chồng Việt kiều.

Về phần nhà trai ở dưới quê, theo đúng ước hẹn, khởi hành từ bốn giờ sáng dự định trưa sẽ đến Sài Gòn. Cô dâu chú rễ làm lễ tổ tiên bên nhà gái xong, sẽ lên xe hoa về dưới tỉnh vừa kịp giờ đãi tiệc.

Tiệm hủ tiếu đóng cửa từ hôm qua để treo đèn kết hoa, thiết trí bàn thờ, mời bà con, bạn bè đến dự buổi đưa dâu. Đúng mười một giờ, phái đoàn nhà trai gồm ba chiếc xe lớn và một chiếc xe nhỏ có kết hoa dừng lại trước tiệm hủ tiếu. Bà con xuống xe, ẹo qua, ẹo lại cho đỡ mỏi lưng sau một chuyến đi dài. Mấy cô bưng quả, mấy cậu phù rể sắp hàng ngay ngắn chờ nhà trai vào xin giờ rước dâu theo đúng lễ nghi. Trong khi đó, nhà gái đã đứng chờ sẵn, vẻ mặt mọi người rất long trọng. Ông chủ tiệm hủ tiếu kêu vọng lên lầu "Hỏi A Muối sẵn sàng chưa? Nhà trai đã đến rồi đó nghe!" Tiếng mấy cô phù dâu trả lời "Tụi con kêu hoài mà cửa chị Muối đóng chặt, không nghe trả lời gì cả!" "Má nó đâu? Sáng giờ làm gì mà không kêu nó dậy? Người ta tới rồi kìa!" "Tôi đây. Có gì mà quýnh lên? Cứ nói chuyện đi. Nó dậy thay đồ, trang điểm là xong ngay" Rồi nghe tiếng lao xao trên lầu, một lát, cô phụ dâu xuống thì thầm báo cáo "Chị Muối không có trong phòng. Tìm khắp nơi cũng không thấy" "Chết cha! Vậy chớ nó đi đâu? Tìm về ngay. Coi thử nó có đến nhà bạn bè nào không? Đứa nào xách xe đi tìm nó coi. Lẹ lên!" "Thằng Tửng nói chiều hôm qua, bạn của chỉ đến đón đi ăn tiệc chia tay, khi hôm không thấy về"

Ông chủ tiệm hủ tiếu, trước đây là lính kiểng, chưa hề đụng độ ngoài chiến trường bao giờ, nay bỗng lưỡng đầu thọ địch. Đối phương đã đến trước cửa mà mình thì không có gì để nghênh chiến! Ông muốn lên lầu để la hét cho hả giận nhưng nhà trai đã bước vào nhà rồi. Ông như Khổng Minh tọa lầu, cười nói vui vẻ mà bụng đánh lô tô. Nhưng Khổng Minh còn hi vọng lừa được đối phương chứ ông thì chắc chết! Ông giận mụ vợ cưng con mà vô tâm, không chịu nhắc nhở, dặn dò, để nó đi từ chiều hôm qua, đến nay vẫn không biết! Trong lúc đó, bà chủ cũng bấn xúc xích lên. Bà nhờ các cô cậu nào có xe gắn máy, tức tốc đến nhà các bạn của cô Muối để "Lôi cổ nó về đây ngay!". Nửa giờ sau, các đặc phái viên trở về lắc đầu "Không thấy A Muối đâu cả!" Bà cho một cô xuống thì thầm với ông chủ. Ông chủ lắng nghe, cười và gật đầu ra điều chẳng có gì quan trọng. Nhà trai thấy thế mới đứng lên có mấy lời. Đại ý đã chọn được ngày lành, giờ tốt, xin cho chú rể và cô dâu lạy bàn thờ tổ tiên. Ông vui vẻ gọi lên lầu "Má nó đâu. Cho con xuống làm lễ. Đến giờ rồi!" Đó là kế hoãn binh chứ ông biết tỏng là làm gì có A Muối. Thế rồi nhà trai, nhà gái lại tiếp tục vui vẻ chuyện trò. Nhưng chờ mãi chẳng thấy gì! Ông bạn nhà trai co tay xem đồng. Ông bạn hủ tiếu làm vẻ ngạc nhiên "Ủa. Sao lâu quá vậy cà?" Rồi ông bình thản đi lên lầu làm như tìm hiểu nguyên nhân, và ông lại xuống lầu, coi bộ hơi bối rối một chút. Ông khèo ông bạn sui gia tương lai vào nhà trong, lôi luôn ra sau hẻm, vì sợ mấy đứa người làm biết chuyện. Người ta xúm cả cửa trước xem đám cưới, chỉ có hai mẹ con bà hàng bún bò, cà phê đang lui cui dọn hàng về. Cô hàng cà phê, lúc nãy chạy ra dòm đã thấy anh chàng Việt kiều là chú rể, bèn chạy vào báo cáo với mẹ rằng đó là người khách "gà rù" thường đến mấy hôm trước, nay đi cưới cô A Muối, con gái ông hủ tiếu. Hai mẹ con đang bàn tán thì hai ông sui tương lai kéo nhau ra ngoài cửa sau xì xầm. Tuy nói nhỏ, nhưng hai mẹ con bà hàng nghe tất cả. "Chết tôi rồi anh sui ơi! Con A Muối nó đi từ hôm qua đến nay chưa về" Ông sui trai chưng hửng, rồi nổi xùng "Thật hay giỡn đó anh sui? Tụi mình nghéo tay nhau từ lâu rồi mà! Anh muốn "xù" tôi sao không nói trước? Báo hại tôi đặt tiệc mời bà con làng nước ngồi chờ ở nhà hàng dưới tỉnh. Bây giờ tụi tôi lên đây, anh nói một câu "bù chốc" !?" "Tôi lạy anh mà anh xui, anh thông cảm cho tôi. Tôi đâu ngờ con nhỏ trốn đi! Anh với tôi, bạn bè mấy chục năm rồi, anh biết tôi mà. Tôi đâu lòng dạ nào hại anh!" Ông sui trai cũng hạ hỏa "Nói vậy chứ, tôi với anh...Đơn vị mình còn ai đâu. Thôi, chuyện anh xù tôi vụ nầy cũng chẳng sao. Nhưng bây giờ mình tính sao đây? Không lẽ đi cưới vợ cho con mà không có cô dâu thì mất mặt tôi quá! Hay là anh tìm đại cho tôi một con nhỏ nào đó, đóng tạm vai cô dâu, khi về dưới tỉnh ra mắt bà con, làng xóm xong thì trả nó về. Không ai biết" "Anh tính vậy mà hay. Nhưng gấp quá. Chà! Khó dữ!" "Anh coi mấy đứa trong nhà, có đứa nào mặt mũi sáng sủa một chút, mướn nó, tôi sẽ trả khá tiền" Hai mẹ con bà hàng bún bò, nãy giờ giả bộ làm việc nhưng dỏng tai nghe hết ráo. Đến khi ông kia nói "trả khá tiền", bà ta sốt ruột vọt miệng nói. "Ông trả bao nhiêu? Tôi cho con nhỏ nầy làm cô dâu giả được không?" Ông sui trai quay nhìn cô hàng cà phê, gật đầu. "Được quá đi chớ! Tôi trả hai trăm" "Hai trăm tiền gì? Được bao nhiêu?" Ông chủ tiệm hủ tiếu mừng rỡ. "Hai trăm là nửa cây vàng đó. Không ít đâu" "Vậy hả. Nhưng tôi giao hẹn trước, xuống đó, ra mắt bà con dự tiệc xong là tôi dẫn con nhỏ về Sài Gòn ngay chứ không có lộn xộn gì cả. Chịu không?" "Được mà bà chị. Bà chị đòi gì tôi cũng chịu hết, miễn là có cô dâu về dưới tỉnh là được"

Thế là tất cả cứ rối lên như chạy giặc. Bàn ghế, nồi niêu, son chảo của bà bún bò Huế được lùa hết vào gậm cầu thang tiệm hủ tiếu. Mẹ con bà hàng bún được đẩy gấp lên lầu. Quần áo, phấn son, nữ trang, tròng vào, bôi trét hết cho cô hàng cà phê. Bà hàng bún bò thì diện bộ đồ vía của bà hủ tiếu. Chỉ mười phút sau là các diễn viên đã xong y trang. Tiền trao cháo múc, bà hàng bún đòi ngay hai trăm đô lận lưng cho chắc ăn. Thế là cô dâu giả cũng e lệ, lúng túng bước xuống thang lầu, theo sau là bà bún bò Huế và các cô phụ dâu. Rồi thì cũng lễ gia tiên, cũng diễn văn ngắn gọn của nhà trai, nhà gái, cũng nhẫn cưới đeo tay, đủ mọi thủ tục. Cuối cùng cô hàng cà phê bước lên xe hoa cùng với đoàn hộ tống của nhà gái. Bà chủ tiệm hủ tiếu cũng tháp tùng phái đoàn để khi xong bữa tiệc sẽ thu hồi trang phục, vòng vàng mà bà đã sắm cho con gái là cô Muối. Khán giả tụ tập trước tiệm hủ tiếu ngạc nhiên khi thấy cô dâu không phải là A Muối mà là cô hàng cà phê. Họ bàn tán rồi phịa chuyện nầy nọ để ra điều ta đây biết hết "từ lâu rồi"! Nào là cô Muối bị ép duyên, đòi tự tử nên phải thay người khác làm cô dâu, nào là cô hàng cà phê dụ dỗ được anh chàng Việt kiều, nhưng nhà nghèo quá mới thuê tiệm hủ tiếu làm nhà gái.

Khi xuống dưới tỉnh, quan khách, bà con đều trầm trồ cô dâu đẹp quá. Mà cô đẹp thiệt! Khi là cô hàng cà phê, cô đẹp một, giờ đây, đóng vai cô dâu, cô đẹp mười. Giá như tỉnh tổ chức một cuộc thi sắc đẹp, chắc chắn cả tỉnh sẽ bầu cô là hoa hậu. Hai con mắt và miệng cười của cô, đẹp đến độ anh chàng Dick ngắm mà chóng mặt, không nghĩ rằng đó là cô hàng cà phê. Trong bữa tiệc, theo đúng tập tục của người văn minh tiến bộ, cô cậu đến từng bàn cám ơn quan khách dự tiệc, uống chút rượu bà con ép mời và ôm nhau hôn trước mặt mọi người. Rồi cũng vỗ tay, gõ muỗng lên ly, chén leng keng, tiếng cười nói, la hét của mấy tay say rượu...đủ thứ. Dick đã hoàn toàn quên cô Muối rồi. So với cô hàng cà phê, cô Muối thua xa. Sắc đẹp của cô hàng cà phê hớp hồn chàng Dick còn mạnh hơn cô Muối rất nhiều. Nhưng giây phút thần tiên cũng qua mau. Tối đó, sau khi tiệc tan, ai về nhà nấy thì bà hàng bún bò bảo cô con gái cởi trả nữ trang, áo quần đẹp, (nhất quyết) ra ngủ phòng ngủ ở bến xe để sáng hôm sau về Sài Gòn sớm. Cô hàng cà phê nhìn chàng Dick rơm rớm nước mắt.

Ngay lúc đó lại xảy ra chuyện rắc rối mà không ai có thể ngờ được. Dick không cho cô hàng cà phê về lại Sài Gòn. Cậu lớn tiếng với cha mẹ cậu, đòi cưới thật cô hàng cà phê chứ không phải cưới kiểu giỡn chơi như vậy. Cha mẹ chàng ta lại phải điều đình với bà hàng bún bò Huế, xin cưới thật cô con gái của bà ta. Mấy người buôn bán bao giờ cũng linh mẫn chuyện đầu cơ. Bà ta lạnh lùng lắc đầu, vì bà biết con cá đã cắn câu rồi thì bà cứ thế mà kéo con mồi lên, chiên, kho là quyền của bà. Cha mẹ chàng Dick thấy cô hàng cà phê đã đẹp còn hiền lành, dễ thương nên lại càng quyết tâm cưới cô ta cho con mình. Sau khi được năn nỉ, bà bún bò Huế phán mấy câu. "Ông bà nói vậy chẳng khác gì bắt tôi bán con gái tôi cho ông bà. Mà vợ chồng tôi chỉ có nó là đứa con duy nhất, tôi chỉ muốn nó lấy chồng gần chúng tôi để sau nầy, về già còn nhờ vả được. Ngay hiện tại, nó cũng phụ giúp tôi trong việc buôn bán sanh nhai. Nay ông bà đòi bắt nó về Mỹ, tôi mất con mà chẳng còn ai để nương tựa lúc tuổi già. Hơn nữa, nếu tôi gả con gái tôi cho ông bà thì chẳng khác gì con tôi giành chồng của cô Muối. Thử hỏi tôi có yên ổn mà buôn bán ở đó không? Rồi tôi phải làm sao đây?"


Chỉ mấy lời thôi mà bà hàng đã nêu vấn đề một cách minh bạch. Câu đầu bà gợi ý cho đối phương thấy "chủ đề" ở đây là tiền, mấy câu sau bà quảng cáo món hàng của bà và bà bắt chẹt.

Cha mẹ chàng Dick hiểu ngay điều đó nên đưa ra một cái giá mà họ nghĩ có thể thuyết phục đối phương. Tuy nhiên họ cũng biết văn hoa một chút. Đại ý là họ hiểu tình cảnh bà hàng bún bò, nhưng xin bà yên tâm, khi cô con gái qua Mỹ, nó sẽ gửi tiền về nuôi bà, chồng nó là kỹ sư, tiền bạc dư dã, hiện tại, họ sẽ gửi bà một số tiền để bà tìm chỗ khác, hoặc có thể sang một sạp hàng trong chợ mà buôn bán. Nói trắng ra, họ chồng một số tiền lớn để mua cô gái cho con trai họ. Bà hàng bún không ngờ con gái mình lấy Việt kiều một cách ngon lành, khỏi tốn công, tốn thì giờ mà mình lại ẳm được mấy nghìn đô. Thế là nhà trai lại điều đình với bà sui hụt, mua lại tất cả nữ trang, áo quần mà họ đã sắm cho cô Muối.

Tối đó, Dick và cô hàng cà phê ngủ chung một phòng (riêng).

Kể câu chuyện chồng tôi lấy vợ trên đây để quí vị thấy, rõ ràng vợ chồng đến với nhau là do "tiền định!". Có ai nghĩ rằng cô Muối lại mất chồng sau bao nhiêu công sức, cố mồi chài cho được anh chàng Dick, để rồi "công trình kể biết mấy mươi" trở thành công cốc.

Nhưng nguyên nhân vì đâu? Tại sao cô lại không về làm cô dâu để thực hiện chương trình đánh lừa anh chàng Dick ngơ ngáo kia?

Số là tối đó, sau khi nhậu nhẹt say sưa, nhảy nhót tưng bừng cho đến gần sáng, cô Muối cùng tình nhân thuê khách sạn ngủ, dự định sáng mai về cũng còn kịp chán. Muốn cho đêm ân ái thêm nồng nàn, họ phi một đợt xì ke (ma túy), sau đó họ lăn ra ngủ. Đến gần chiều cả hai mới giật mình tỉnh dậy. Cô Muối hối hả lên xe, chạy về.

Xe hoa đã lên đường được hơn nửa giờ rồi.


Phạm Thành Châu
quangminh
Posts: 548
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Re: Văn Nghệ Văn Gừng

Post by quangminh »

GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG TRONG QUÂN NGŨ
Đây là một câu chuyện đặc biệt và ly kỳ , khó tin nhưng có thật . Có thể không một đơn vị nào trong QLVNCH chứng kiến cảnh bi hài nầy .

Câu chuyện xảy ra từ lúc 12 giờ trưa đến 2 giờ chiều ngày 30/4/75 của Chi-đoàn 2/5 TK, chính tôi –Vũ Đình Lưu– chứng kiến đầy đủ hơn ai hết (Trong Trại Phù Đổng hiện nay có vài KB có mặt như Phu Ha nhưng ở xe khác, không rõ Chuyen Vu – Sĩ-quan Tiền-Sát Pháo-Binh cho Chi-đoàn 2/5 lúc bấy giờ có còn trên xe không ?)

Đây là chuyện một đơn vị Bắc quân và ông thủ trưởng QĐND VN điều động đơn vị mình lúc cưỡng chế 10 xe M113 của 2/5 TK từ khi lên xe tại cầu Bình Phước, tấn công vào Bộ Tổng Tham Mưu (Cổng chính Lăng Cha Cả) cho đến khi tôi rời xe chỉ huy từ giã đơn vị.

Chúng ta không nên nêu lên những: ví dụ, nếu như, theo tôi thì…hãy hỏi những câu hỏi tại sao không làm như thế này, thế khác, vì câu trả lời lúc bấy giờ khác xa với hiện tại (khoảng cách thời gian 47 năm) cũng như những suy nghĩ, nhận định, những phản ứng tức thời rất khác nhau giữa tuổi hăm mấy và bảy mấy.

Tôi chỉ hồi nhớ lúc bấy giờ thấy gì, nghe gì, làm gì để viết lên trong khách quan không phê phán hay hận thù. (Những chữ viết Hoa hay cách gọi tên trong bài viết này theo nguyên tắc hay chỉ là lịch sự chung). Những diễn biến trước và sau thời gian bài viết, tôi đã kể trong bài Bút ký “Trảng Bom Bão Lửa” nên không lặp lại nữa.

Chi-đoàn 2/5 TK di chuyển sau Bộ Chỉ-huy Thiết-đoàn 5 KB đến Cầu Bình Phước thì ngừng lại theo đoàn quân, chừng 10 phút sau một đoàn xe Molotova chở đầy nhóc Bắc quân ùn ùn kéo đến rồi cũng dừng lại phía sau. Một phần họ xuống xe và chạy đến leo lên cưỡng chiếm đúng 10 xe M113 của 2/5 (cho đến nay cũng không hiểu sao lại như thế vì phía trước còn rất nhiều xe Thiết Giáp khác)

Tôi thấy tình hình nguy kịch nên tháo dây TAB mang súng, lưỡi lê bỏ xuống lòng xe, cởi chiếc áo trận, cuộn tròn lại ném xuống cái mương nước bên cạnh đường vì biết đâu chừng, chiếc áo là di vật cuối cùng để gia đình biết ngày tháng cuối đời của tôi ở nơi nào. Trên người tôi chỉ còn vũ khí duy nhất đó là khẩu Browning nhỏ xíu trong túi quần, để dùng khi hữu sự: tự vệ hay tự sát.

Bốn câu thơ của Trạch Gầm quá đầy đủ để diễn tả tâm trạng của tôi lúc bấy giờ :

“Thân lính trận, nhận lệnh gì không nhận
Nhận lệnh đầu hàng.. rời rã tai ương
Hồn chinh chiến chỉ còn trơ thân xác
Thân xác không hồn …điếng ngắt cô đơn”

Toán Bắc quân đầu tiên leo lên xe Chỉ-huy, phản ứng đầu tiên là tôi gọi cho Thiết-đoàn trưởng nhưng bị một tên giật lấy ông liên hợp truyền tin ném đi, một KB ngồi kế bên chĩa M16 vào anh nầy định bắn nhưng bị một tên khác dộng báng súng vào người rớt xuống thùng xe. Một KB khác rút chốt lựu đạn tính cho nổ nhưng nhờ sự bình tĩnh của tôi và các KB khác nên sự việc tồi tệ không xảy ra. Các máy truyền tin trong xe bị chúng đập bể.

Họ bắt đầu leo lên xe, chúng ta thường thấy chữ “khỉ Trường Sơn” chưa đúng cho lắm vì loài khỉ phải leo trèo giỏi, đằng này họ lên mà cứ leo bên hông xe nên tuột lên, tuột xuống, cà trật cà duột, rớt cả dép râu. Anh nào anh nấy như con ếch đầy rong rêu màu cỏ úa bám thành xe, một người kéo, một người đẩy mới leo lên được ! quần áo thì rộng thùng thình vướng víu. Bộ Binh tùng thiết của mình lên xuống xe gọn gàng, nhanh chóng từ trước và sau xe chứ ai như mấy anh này quá quờ quạng. Rõ chán !

Chỉ có một ông hơi đứng tuổi mang súng lục K54 nói với chúng tôi bằng giọng Nghệ An câu độc nhất “Các anh thua rồi, vào giải phóng Sai gòn đoái công chuộc tội” (cũng còn đỡ, không kêu là “bọn mày”) xong ông ta đứng trong thùng xe M113 cạnh tôi (tôi ngồi trên ghế xe jeep gắn trên xe Chỉ-huy) Tôi biết ông là cấp chỉ huy đại đội hay tiểu đoàn vì lính ông gọi là thủ trưởng, nhưng không biết cấp bậc gì, điều lạ kỳ người chỉ huy lại lên đúng xe tôi.

Tất cả vị trí súng cộng đồng bị chiếm chỉ còn có tài xế và tôi hoàn toàn mất quyền chỉ huy từ giờ phút này, ngồi như bất động, các KB ngơ ngác nhìn nhau không ai nói được tiếng nào.

Xe tôi ở vị trí thứ 5 sau Chi-đội đầu 4 chiếc, ông ta la lớn (không có máy truyền tin) kêu các xe trước di chuyển nhưng máy xe nổ lớn, khoảng cách mỗi xe 2. 3 chục mét thì làm sao ai nghe cho được. Ông bảo anh lính thuộc cấp ngồi gần tài xế nói chạy lên phía trước và ra dấu hiệu bằng tay là theo ông. Đoàn quân 10 xe M113 bắt đầu di chuyển.

Từ cầu Bình Phước đến cổng chính Bộ TTM , ông thủ trưởng thỉnh thoảng rút K54 bắn lên trời đùng đùng như thị oai hay biểu diễn, ngoài ra không có tiếng súng nào.

Khi đến trước Bộ TTM ông lên đứng trên xe, miệng thì la hét, tay quơ lia lịa ra hiệu cho thuộc cấp xuống xe. Khi mấy chả xuống xe M113, nhìn cũng đủ mắc cười, lúng ta, lúng túng, ngã lăn cù mèo, dép râu thì bung ra khỏi chân. Thỉnh thoảng ông lại nổ súng bắn chỉ thiên đoành đoành.

Đó, một cánh quân vượt Trường Sơn đi giải phóng Miền Nam tự do.

Sau cùng ông cũng điều động được mấy M113 hàng ngang, với thuộc cấp thập thò sau xe cùng với rất nhiều Bắc quân bố trí quanh hàng rào từ trước rồi dùng đại liên trên xe, trung liên nồi bắn loạn xạ, bắn vô tội vạ vào doanh trại Bộ TTM. Tôi nhìn qua xe kế bên thấy một anh loay hoay kéo cần lên đạn Đại liên 50 ba bốn lần mà không được vì ốm yếu quá, sau đó cả hai người cùng kéo. Trên xe tôi một tên dùng trung liên chỉa thẳng lên một cao ốc trước Bộ TTM bắn ào ào vào các cửa kính dù không có tiếng súng nào nổ . Ông thủ trưởng hết đứng rồi ngồi trên xe để … chỉ huy bằng cách la to, hét lớn trong khi không có được một chiếc máy truyền tin, tôi cũng chẳng hiểu được !


Rất nhiều toán bộ binh, khom lưng ôm súng vừa bắn vừa chạy tiến vào các dày nhà, họ tác xạ rất nhiều bằng các loại súng. Không biết Bộ TTM còn bao nhiêu lực lượng cố thủ nhưng tiếng súng M16, M79 chống trả không nhiều. Sau nầy mới biết có khoảng một trung đội Biệt Cách Nhảy Dù còn tử thủ bên trong.

Hai bên giao tranh chừng nửa giờ thì ngưng tiếng súng.

Tôi trích một đoạn trong bài bút ký “Trảng Bom Bão Lửa” để kết thúc bài giờ phút sau cùng đời Lính của tôi, cũng là của một đơn vị Thiết Kỵ.

“Lợi dụng sự hỗn loạn của Đồng bào, Dân Quân Cán Chính VNCH lũ lượt rời nhiệm sở. Anh em Thương Binh vết thương còn rỉ máu bị xô đuổi từ Bệnh viện Cộng Hòa đi về hướng Sàigòn. Tôi xuống xe bỏ cuộc và tháp tùng theo đoàn người, đi được chừng mấy bước, một họng súng AK47 đen ngòm chĩa thẳng vào ngực, hét lớn “Quay lại xe, bằng không sẽ bắn bỏ”. Tôi đành phải trở lại xe và tháo bỏ thêm đôi giày trận đã theo tôi hơn 7 năm trời ròng rã. Tôi mang đôi dép quai dọc, với chiếc quần khaki, và chiếc áo may-ô cùng màu ôliu. Một lần nữa tôi và anh em đồng đội thân thuộc trà trộn vào đoàn người đủ mọi thành phần thoát khỏi xe M113. Trong lòng quặn thắt, tim nhói đau tột cùng, như bị buộc phải thoát khỏi lòng người Mẹ tuyệt vời bao năm trời bảo bọc, che chở cho những người con yêu quí, để đi về một phương trời vô định…!

Tôi ra đi trong tức tưởi nghẹn ngào; ra đi trong âm thầm lặng lẽ. Không kịp nói một lời từ giã với cấp chỉ huy, bạn bè và đồng đội thân yêu. Đầu óc choáng váng, nước mắt tuôn rơi, với từng bước chân mệt mỏi rã rời. Từng bước uể oải, nhọc nhằn xiêu vẹo (bàn chân trái của tôi đã từng bị thương 2 lần, nay không quen mang dép đi xa). Tôi vừa đi vừa nhìn xuống mặt đường thấy bóng mình chao đảo nghiêng ngả !”

Hết !

Kb Vũ Đình Lưu
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 5 guests