Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

NGƯỜI MẸ CÔ ĐƠN.

Phan
Sáng nay rỗi việc, tôi nhận lời ủy thác của anh bạn nhờ tôi chở một bà cụ với hai cái va li và một tấm nệm từ Dallas đi Arlington, vì xe anh không chở được tấm nệm nên anh mới nhờ tôi.

Tôi đến căn nhà mới xây (theo địa chỉ). Nhìn qua cũng biết giá trị căn nhà hơn hai trăm ngàn. Tôi nghĩ nhà đất ở đây rẻ, chứ căn nhà mới này ở Cali, hay Boston, thì bạc triệu. Người Việt Dallas giàu quá khi tôi vừa lái qua những căn nhà xập xệ của người Mễ chừng vài chục ngàn.

Xe lăn bánh, tôi không khỏi ngậm ngùi với hành trang nghèo nàn của bà cụ nhỏ thó, bệnh hoạn. Ngoài tấm nệm, hai cái va li cũ, lớn nhỏ không đều, lại khác hiệu, đủ biết chủ nhân không giàu; một bà cụ gần đất xa trời còn lỉnh kỉnh túi xách, rổ nhựa đựng quần áo chưa giặt-có cả hũ thức ăn khô gì trong đó nữa… “Người đàn bà đi cầu hôn thần chết”. Tôi đặt tên cho cụ trong tư tưởng kín bưng của mình.

Thấy cụ thở không ra hơi lúc lên xe làm tôi cũng hơi lo. Nhưng nhìn kiếng chiếu hậu thì cụ không đến nỗi khiến tôi phải đổi lộ trình vô bệnh viện gần nhất. Tôi mong đến nơi càng sớm càng tốt.

Xe ra xa lộ bon bon rồi. Cụ khoẻ lại sau cú leo lên cái xe hơi cao.

Cụ hỏi tôi, “Anh được mấy cháu?” -để mở đầu tâm sự của người mẹ cô đơn trên nước Mỹ bao la… Cụ vô chuyện lòng nhẹ hều như hơi thở của cụ ban nãy…

“…Ông nhà tôi ngày xưa là sĩ quan Phòng 7 – Tổng tham mưu. Sau 75 đi tù. Nhưng tôi nhờ được tay cán bộ lớn bảo lãnh chồng tôi ra. Tôi chỉ nói chồng tôi là người bắt điện thoại ở Tổng tham mưu ngày trước… Vì thế, ông nhà tôi về sớm, nhưng không được đi theo diện H.O là vậy! Ông ấy về sớm, nhưng buồn chán nên chết sớm…”

Bà cụ khóc trong kính chiếu hậu – thật cay đắng! Tôi nghĩ thế, nhưng không hiểu cay đắng lẽ gì? Cay đắng cho người vợ lính trong chiến tranh và hoà bình ở quê xưa, hay cay đắng cho chuyện nhờ cậy bên thắng cuộc, và hậu quả…

Cụ tỉ tê cho tôi nghe, từ băng sau xe, tiếng cụ rặt giọng Bắc làm tôi nhớ mẹ tôi nhiều…

“… tôi kém phước anh ạ! Tôi có mười hai người con. Chín đứa còn ở Việt Nam, ba đứa bên Mỹ. Tôi không đi ở nhà con này, con kia như anh nghĩ đâu. Tôi đi ở thuê nhà người ta đây! Vì con gái tôi ở Arlington thì nó đang sống chung với chồng con và bố mẹ chồng của nó. Tôi đâu ở chung được. Thằng con trai thì cũng sống chung nhà với vợ con và bố mẹ vợ của nó. Tôi cũng không ở chung được. Còn căn nhà mà anh đến đón tôi là nhà thằng con cả. Cả đời tôi mới ở nhà con đúng mười ngày thì phải nhờ anh đến dọn đi đây…”

“Bác qua Mỹ lâu chưa? Trước đây, bác ở đâu?” Tôi hỏi cụ,

“Tôi qua Mỹ được 9 năm. Mỗi năm tôi ở Mỹ 9 tháng, về Việt Nam 3 tháng – toàn ở mướn chứ không ở với con cái nào được, như tôi đã nói. Nhưng bây giờ tôi phải ở Mỹ lâu dài để trị bệnh. Khổ là tôi không thể ở nhà thằng con cả được. Hôm tôi mới từ Việt Nam qua, tháng trước. Tôi ở nhờ con cháu ở Apartment vì tôi bệnh quá nên cũng cần có người ở bên tôi đêm hôm. Nhưng phòng nó chật chội và phiền phức quá nên thằng cả đến đón tôi về nhà nó ở. Tôi cũng bất đắc dĩ vì bệnh hoạn chứ đâu muốn làm phiền con cái. Nhưng buồn lắm anh ạ! Tôi ở được đúng mười ngày thì hôm nay phải dọn đi thôi. Tôi định dọn về Houston, ở với đứa con gái của người hàng xóm với tôi bên Việt Nam xưa kia. Nó hứa giúp tôi. Nhưng con gái tôi đã xin trị bệnh cho tôi ở Arlington, nên tôi phải dọn về Arlington để trị bệnh vài tháng. Không chết thì tôi dọn về Houston với con gái người hàng xóm…”

Tôi nghe tâm sự buồn nên cũng kém vui mà thưa cụ, “Bác lớn tuổi rồi, lại bệnh hoạn. Đâu thể xa con cái ruột của bác được, vì khi hữu sự thì ai lo cho bác. Và sao lại đi sống với người con của người bạn ở mãi Houston. Bác nên suy xét lại chuyện đó cho cảm giác của con cái bác. Các anh chị có hoàn cảnh đã khó, bác làm mẹ nên không nên… xử sự như thế! Bác hiểu ý cháu chứ! Bác ở share phòng ở nhà người dưng vì hoàn cảnh, nhưng gần con gái bác là ổn lắm rồi!”

“Thì bây giờ tôi dọn đến ở với hai vợ chồng ông này ở Arlington. Họ đã hơn sáu mươi tuổi, nhà không con cái. Ông chồng ở nhà ăn tiền bệnh, vợ còn đi làm. Tôi cũng gần con gái tôi rồi, có gì nó chạy sang giúp tôi… Anh nói cũng phải nhỉ!”

“Cháu xin lỗi…”

“Anh ạ! Họ cho tôi thuê một phòng, không hạn chế sử dụng restroom anh ạ! Tôi thật mừng. .”

“Bác nói sao…?”

“Cơ khổ. Ở nhà thằng con cả, thì con trai lớn nó ở riêng phòng lớn nhất, có restroom riêng trong đó. Không ai được vào phòng nó.”

“Rồi! Thằng đó là bác sĩ hay nha sĩ?”

“Không.. Nó là dược sĩ. Nhưng sao anh hỏi vậy?”

“Cháu đoán thôi! Bác đừng nghĩ xấu về những người tuyệt đối vệ sinh nên không chung chạ được với ai! Hiểu thế, tốt hơn cho bác. Mọi phiền não nhẹ bay… ô-kê!”

“Ô-kê. Tôi hiểu ý anh rồi…”

“Cơ khổ. Còn lại hai vợ chồng thằng cả, thằng con nhỏ và tôi, bốn người xài chung một restroom. Mỗi sáng, tôi đã chịu khó nín nhịn chờ đợi, hỏi con trai, con dâu, cháu nội đã sử dụng restroom xong chưa, rồi mới đến mình. Thế mà thằng con cả vẫn quát vào mặt tôi chiếm dụng restroom lâu quá, chỉ vì một hôm nó đau bụng bất tử sau khi đã dùng restroom trước đó.

Tôi ở mới có chục ngày, mà sáng nào nó cũng cằn nhằn tôi đi restroom xoành xoạch suốt đêm thì nhà cửa nào chịu nổi… Tôi khổ quá! Mình bệnh hoạn, tuổi già, thật là phiền phức…”

“Sao bác không ở bên Việt Nam với con cháu đông vui. Thui thủi bên này một mình làm gì cho khổ.”

“Thì bệnh thì phải đi tìm thầy, tìm thuốc chứ sao anh… Hóa trị với xạ trị thì tiền đâu cho đủ ở bên Việt Nam…”

“Cháu không hiểu được anh con cả của bác sao lại để bác bệnh hoạn, tuổi già như thế này mà đi ra ở share phòng với người dưng? Bác có chuyện gì ai lo? Cơm nước hàng ngày ai nấu cho bác ăn, ai giặt giũ cho bác…?”

“Thì phước phần là thế! Tôi bây giờ chỉ còn cậy vào đứa con gái. Nó cũng đã sáu mươi tuổi rồi. Nhưng còn làm dâu hàng ngày. Tôi lại còn làm khổ nó miếng cơm, tô cháo, gói quần áo cần giặt giũ… Nó làm sao mà kham nổi lo lắng cho chồng con, bố mẹ chồng ngày hai bữa, lại còn mẹ ruột bệnh hoạn phải chạy tới chạy lui. Tôi định về Houston là vậy!

Tôi nghĩ mà buồn cái thằng Cả nhà tôi sướng từ bé. Nó chẳng thiếu thứ gì vì thời trẻ tôi làm ăn được lắm! Cung phụng nó đủ điều hơn người. Nó đi đại học, ra trường, thì mê con vợ nó bây giờ đó. Nó về nhà bảo tôi cưới vợ lúc gia cảnh tan hoang. Tôi bấm bụng bảo nó, ai lại đi cưới vợ tháng Bảy. Cho mợ một tháng để dọn dẹp nhà cửa, và cho qua tháng ngâu đã con. Nói thế để có thêm chút thời gian nghĩ cách cho con chứ mẹ nào từ chối được con cái chuyện nó muốn lập gia thất. Ai ngờ nó đi báo với bên nhà gái, bố mẹ nó đi vượt biên, chết hết rồi!

Có con cái nào như thế chứ! Đám cưới nó không có mặt tôi mà nó nhẫn tâm được. Nó bỏ nhà, bỏ mẹ, bỏ đàn em đi sống riêng, đến khi tôi gượng dậy làm ăn lại được thì nó mới mò về nhà, quát tháo…

Tôi làm ăn lại được thì mới có tiền cho gia đình thằng con trai với gia đình đứa con gái vượt biên, bây giờ chúng ở Arlington là vậy! Còn thằng cả thì làm ăn khá nên cho con nó đi du học, tìm cách ở lại rồi bảo lãnh bố mẹ với em nó qua sau…”

“Tức là thằng cháu đích tôn của bác. Anh chàng làm dược sĩ đó, sanh đẻ bên Việt Nam?”

“Phải.”

“Cháu hiểu rồi! Không có gì thắc mắc nữa! Anh ấy không giống những người trẻ sanh đẻ bên Mỹ là vậy!”

“Cái thằng ấy làm tôi buồn còn hơn bố nó. Nó đi kiểm tra căn phòng tôi ở. Nó hỏi tôi đạo gì? Tôi nói, trên có Trời, Phật. Rồi đến Thần, Thánh… Nó bảo tôi: Cái đạo của bà là đạo cô hồn, chẳng ra gì hết. Tội lỗi, tội lỗi quá!

Nó hỏi tôi đẻ chi cho lắm, để chẳng ở với ai được, rồi làm phiền gia đình nó? Tôi bảo thời bà nào có biết kế hoạch hoá gia đình là gì đâu!

Tôi thấy phải dọn ra khỏi nhà thôi. Nhưng mấy hôm không khoẻ nên còn vướng bận để nó nói tôi, sao bà không ở bên Việt Nam cho xong. Già cả, bệnh hoạn còn lết sang Mỹ làm gì… để phiền cho gia đình nó!

Tôi đi chậm vì chân tôi yếu. Tôi đâu có lết như ăn mày. Anh hiểu không, anh hiểu cái chữ lết nó làm tan nát lòng dạ tôi. Tôi đau đớn hơn ung thư nhiều…”

Nước mắt bà cụ lại chảy thành dòng trên gương mặt nhăn nheo. Làm tôi nghĩ đến cha nào con nấy. Lẽ ra người ta phải học thành nhân trước khi thành tài, thì đời nay tranh nhau lấy bằng… súc vật, để kiếm thật nhiều tiền, đi xe hiệu, ở nhà mới… Người con cả ở nhà mới xây mà để mẹ bệnh hoạn đi ở share phòng. Cụ nói trong nước mắt, “nhẽ như người ta, nó cũng đưa tôi đi, sắp xếp cho tôi chỗ ăn chỗ ngủ ở nơi lạ lẫm quê người này chứ! Anh thấy đấy, anh xin số điện thoại của nó để khi anh đưa tôi đến nơi thì gọi cho nó biết. Nó bảo không cần đấy phỏng! Nhưng khi nó thấy anh chất đồ, ràng buộc cẩn thận như người chuyên nghiệp, người làm việc có trách nhiệm, lương tâm… xe anh lại tốt và mới. Thì nó xin anh số điện thoại để khi nó cần chở đồ sẽ gọi anh. Đấy…”

Biết nói gì để an ủi bà cụ hơn là im lặng chia chung nỗi ngậm ngùi của phận người. Muốn kể cho bà cụ nghe chuyện Đức Phật đi hoằng pháp, nhưng người ta không biết ngài chính là Đức Phật nên hỏi ngài, “Thưa ngài, Đức Phật ở đâu, làm sao tìm gặp Người?” Đức Phật trả lời, “Phật ở trong nhà bạn. Cha mẹ của bạn là Phật. Hãy trở về nhà phụng dưỡng cha mẹ cho thật tốt, là thờ phụng Phật.”

Nhưng kể ra câu chuyện đó là bất nhân với bà cụ vì người nghe phải là cha con anh cả. Càng nên kể thêm những chuyện nhân quả cho những người quên học bài học làm người trước khi học thành tài để giàu có. Phải chăng phong thổ địa dư làm nên người anh cả trong bài ca dao bất hủ,

“bốn con ngồi bốn góc giường
mẹ ơi, mẹ hỡi, mẹ thương con nào
mẹ thương con út mẹ thay
thương thì thương vậy có tày trưởng nam
trưởng nam ăn được gì đâu
một trăm cái giỗ đổ đầu trưởng nam”

Thôi làm thằng anh Hai như đứa bé mồ côi theo phong thổ địa dư xứ nó, câu chuyện ngắn chữ mà dài ý, kiệm lời mà sâu xa. Nó không tốt nghiệp đại học nào, không có bằng cấp gì… mà ai cũng xem trọng cái khí khái của nó. Chuyện kể mắc cười mà người đọc chậm nước mắt như sau:

… một cái xe hơi bóng loáng đang chạy trên đường. Không ai biết bên trong xe có người mẹ giàu có, đang dỗ dành cậu ấm của mình ăn miếng bánh kem đi con, ngon lắm đó! Nhưng thằng bé nhà giàu cáu gắt với mẹ vì không muốn ăn, nó bấm kiếng xe hơi xuống và ném quách miếng bánh kem xuống đường.

Trong khi thằng bé mồ côi nhanh mắt thấy được, nhanh chân chạy đến, nhanh tay xớt ngay miếng bánh lên tay mình. Phải cái xe vận tải nhanh hơn lao tới nó. Nó thì nhanh hơn thần chết là lao mình thoát thân – miếng bánh tõm xuống miệng cống. Công cốc.

Con em gái nó khóc ré lên,

“Anh Hai thiệt tình! Làm bánh lọt xuống cống rồi lấy gì ăn?”

“Thôi nín đi em…”

Nó xoè bàn tay còn dính kem của nó ra, “Nè, cho em ba ngón. Anh Hai hai ngón.”

Anh Cả với anh Hai khác nhau ở tư cách chứ không phải văn bằng, địa vị hay nhà, xe… Nhưng nói ra làm gì cho thêm đau lòng bà cụ…

Tôi đến căn nhà mà bà cụ sẽ ở trọ vài tháng để chữa bệnh. Tôi biết bà cụ này không chết đâu, sức khoẻ có tệ nhưng nghị lực lớn lắm! Khoẻ lại là cụ sẽ đi Houston. Linh tính tôi mách bảo về bà cụ mới gặp lần đầu nhưng hiểu cụ như thân vì tôi cũng không thích làm phiền, để khổ cho người nhà.

Con gái cụ xin nghỉ làm nửa buổi để giúp cụ dọn vô nơi ở mới. Tách xách theo túi cơm, canh nấu vội cho mẹ có cái ăn. Tội cả hai người bị hoàn cảnh hành hạ đến khổ tâm. Đêm nay, người con khó ngủ vì lo mẹ có ngủ được không ở chỗ lạ. Trong khi sáng mai chị vẫn phải thức dậy đúng giờ để còn đi làm. Chị còn phải lo chồng con, cha mẹ chồng… thêm người mẹ ruột bệnh hoạn cũng cần bàn tay con cái giúp đỡ lúc tuổi già, đau yếu,… Còn cụ, đêm nay có ngủ không, trong căn phòng lạ, khi nghĩ tới người con cả và thằng cháu đích tôn của mình. Ai rót cho cụ ly nước sau cơn ho khan đêm khuya, hay cụ tự hứng nước mắt mình để giải khát nỗi cô đơn trên xứ Mỹ lạnh lùng.

Tôi thì không ngủ được đêm nay rồi, vì bà cụ… đúng là “má tui”! Hoàn cảnh nào cũng chơi ngon, chơi đẹp, xả láng sáng về sớm. Tôi dọn nệm cũ trong căn phòng ấy ra, vì ông chủ nhà ăn tiền bệnh thì làm được gì, nhìn ông đi… còn chậm hơn bà cụ. Tôi bỏ nệm của cụ lên giường thẳng thớm, xách đồ vô phòng cho cụ xong xuôi… Tôi chào từ biệt để ra về. Nhưng cụ,

“Này anh ạ! Cảm ơn anh đã giúp tôi tận tình. Nhưng thế này, hôm qua, bạn anh có nói với tôi là một trăm đồng tiền xe. Thì đây, tôi xin gởi anh một trăm. Tôi xin gởi thêm anh hai chục… biếu anh uống cà phê, chơi thôi!”

Đúng là bà già chịu chơi chơi tới cùng giăng mùng chơi tới sáng, nên tôi nói, “Thôi bác cất hết đi. Coi như cháu giúp bác. Cháu không làm nghề này, chỉ vì sáng nay rảnh và xe cháu chở được tấm nệm nên cháu mới đi giùm ông bạn cháu thôi.”

“Đâu thế được! Anh cầm lấy cho tôi vui. Tôi còn một việc nhờ anh giúp, là sáng nay tôi không ăn sáng ở nhà thằng cả. Bởi tôi kể chuyện ngày xưa thì cháu nội bảo là bà chẳng có chuyện gì mới để nói hay sao? Tôi ở trong nhà từ sáng tới… sáng mai thì biết đâu chuyện mới để nói. Tôi kể về thằng cả ngày còn bé, thì vợ nó nói nhàm quá, kể hoài… Mà giời không cho tôi câm nên tôi đói vì giận – không ăn. Tôi định bụng bảo anh chở tôi đi ăn sáng khi ra khỏi nhà. Nhưng bây giờ thì tôi mời anh đi ăn… bữa kỷ niệm với tôi. Anh chở tôi đi ăn… món gì thật ngon vào. Tôi không có nghèo đâu, còn đồng nào trong túi thì cứ tiêu đồng ấy cho nó vui vẻ. Mình đi thôi anh ạ!”

Từ chối cách gì cũng không được với bà cụ. Ra nhà hàng thì lại chưa tới giờ mở cửa… Tôi bảo cụ, bác cháu mình vô chợ rảo chơi, cho bớt nóng. Bà cụ kể chuyện đi thi quốc tịch bị rớt. Nhưng tôi cho là cụ quá giỏi tiếng Anh nên… rớt. Dù cụ đi thi quốc tịch không mất tiền vì đã tám mươi. Nhưng lần sau đi thi lại thì bớt nói tiếng Anh… sẽ dễ đậu hơn. Vì người hỏi thấy người được hỏi trả lời được là hỏi tới, hỏi tới… Bác chỉ cần nhớ cháu dặn là bác không bao giờ nói: Tôi không biết – I don’t know. Mà bác chỉ nói: Tôi biết. Nhưng tôi quên – I know. But, I’m forgetting.

Bác quên chừng hai, ba câu là đậu liền. Vì người già có quyền quên, nhưng công dân Hoa Kỳ không có quyền không biết Tượng Nữ thần Tự do đặt ở đâu; Tổng thống đầu tiên của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ tên là gì, Tổng thống đương kim là ai?…

Bà cụ thật lanh trí, chỉ cần nghe và hiểu được một từ trong câu hỏi là cụ đoán ra cả câu hỏi – và biết trả lời bằng tiếng Anh – đúng. Nên bị hỏi tới, hỏi tới, hỏi tới… rớt luôn là vậy! (Thường mấy tay phỏng vấn thi quốc tịch Mỹ nhưng là người Mễ ở Texas không có thiện cảm nhiều với người Việt thì ai cũng biết và thường nghe nói tới trong chuyện thi quốc tịch ở xứ cao bồi. Gặp người phỏng vấn mình là Mỹ đen là dễ nhất, Mỹ trắng khó hơn, nhưng công bằng. Chỉ có Mễ là không ưa Việt Nam…)

Tôi đi ăn tô mì với bà cụ rồi chia tay. Biết nói gì hơn những lời chúc may mắn cho việc chữa trị bệnh tật của bà cụ. Chúc cụ chóng hồi phục, chừng nào muốn đi Houston thì gọi cho hay. Tôi không làm nghề đưa đón nhưng với bà cụ thì tôi khoái cái lối chơi xả láng trước đi, đời có bao lâu mà hững hờ…

Tôi sẽ nhớ câu “còn đồng nào trong túi thì cứ tiêu đồng ấy cho nó vui vẻ.” Tôi sẽ đưa cụ đi Houston khi cụ không thay đổi quyết định, vì nghĩ cho cùng những ngày ở trọ trần gian của cụ cũng chỉ còn ít ỏi như những đồng tiền còn lại trong túi thì tiêu hết đi, tiếc gì, miễn vui vẻ là được. Cũng cóc cần chừa mặt mũi cho con cái khi con đẻ tống mẹ bệnh hoạn ra đường ở tuổi gần đất hơn trời…

Phan
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image
Không còn Mẹ
Tháng giêng có nhiều ngày lạnh và mưa, đan trộn vào những ngày nắng ấm tìm về. Buổi sáng dường như thấm lạnh hơn, từ lúc cánh cửa khép lại cho người ở bên trong đến bên cửa sổ, dõi mắt nhìn theo chiếc xe chầm chậm rời nhà khi bóng tối chưa tan. Cà phê một mình chợt không còn mùi vị, cho mãi đến cuối tuần khi có hai người. Chợt nhận ra, năm mới đã bắt đầu như thế.

Gần tết, lòng bâng khuâng xa vắng. Nỗi nhớ từ đâu bỗng ùa về dẫu đã dặn lòng đừng ngoảnh lại kiếm tìm, hãy sống với những gì đang hiện diện ngay đây. Biết phải làm sao khi một bầy con gái, đứa nhỏ nhất nhà năm nay cũng đã bắt đầu nhờ chị nhuộm tóc để che đi dấu thời gian. Năm chị em trong khoảng cách của 16 năm, giờ không còn thuở xôn xao đón tết. Còn lại chăng là nỗi nhớ quặn lòng, người mẹ hiền xưa đã ra đi

-Em ơi. Gần cuối năm chị nhớ mẹ nhiều.
-Chị ơi. Tết sắp đến rồi, em nhớ mẹ làm sao.
-Chị có như em không? Cảm nghe buồn, nhớ mẹ hơn bao giờ.
Đứa em gái út hồn nhiên, bận rộn chạy đuổi theo cuộc sống cũng than.
-Càng gần tết em càng nhớ mẹ.

Không còn mẹ, mất đi nhiều lắm. Sâu như biển, rộng như bầu trời, dịu dàng như vầng trăng tỏa sáng những đêm khuya…Thấy đó mà sao không với tới. Cho đến khi thật sự mất mẹ rồi mới cảm nhận được khoảnh trống vắng không gì bù đắp được.

Mẹ ơi! Không phải đợi ngày gần tết con nhớ mẹ. Con nhớ mẹ mỗi ngày dẫu vẫn nói cười bên dòng đời trôi chảy không ngừng. Một năm, hai năm… rồi bốn năm. Con thường nhận đôi dòng ngắn, gửi gắm sự quan tâm dài theo với thời gian. “Huynh vẫn lặng lẽ đi vào khu vườn cũ. Không có bông hoa nào ở đó từ sau lúc muội mồ côi. Dẫu vậy huynh sẽ còn trở lại, cho đến khi nào muội xếp lại nỗi mất, nỗi buồn tưới tẩm lại vườn xưa”. “Vết thương nào rồi cũng lành. Xin đừng ôm mãi nỗi đau. QM hãy đứng dậy vun xới lại khu vườn nhỏ êm đềm, cho khách vãng lai có lại chốn dừng chân nhiều bóng mát, ngắm cỏ hoa sau những lúc mỏi mệt, ê chề vì cuộc sống”. Còn nhiều nữa những câu nhắc nhỡ, từ người gần con nhất đến người xa. Dẫu con buông trôi không viết nhiều năm, những đặc san Phật học vẫn thường xuyên gởi tới. Con nhận đủ hết những ân tình đầy ắp, dặn lòng phải làm gì để đáp tạ ơn đời. Ơn cha mẹ đã cho con cuộc sống, cho con hành trang cần thiết vào đời. Cho con gia tài là đức độ, từ bi. Là tấm gương ngời sáng của người biết sống. Biết coi cuộc đời là chốn tạm dung. Coi đau khổ là mưa, là nắng cần cho những hạt giống lành đơm hoa, kết trái mai này.

Chiều 30 tết mẹ đi vào giấc ngủ, rồi xa đời sau lúc giao thừa. Hai đứa con gái ở lại đón giao thừa cùng mẹ, bên câu niệm Phật không ngừng sau lúc mẹ ra đi. Sáng mồng một thất thểu rời bệnh viện. Chợt nhận ra chúng con mồ côi cả mẹ lẫn cha. Con về nhà nhìn chỗ nằm quen thuộc, từ đây chỉ còn lại mình con. Ba năm được chia cùng mẹ từng bữa ăn, giấc ngủ. Cùng đứa em gái kế lấy bệnh viện làm nhà. Gọi bệnh viện Methodist ở Sugar Land là khách sạn 5 sao, vì cả hai cùng ăn, ngủ, tắm gội dài ngày nơi đó. Chia với mẹ nỗi đau của nhiều lần bị té gẫy xương. Nỗi mừng hồi phục, nôn nao lúc bác sĩ cho rời bệnh viện. Nhờ bên mẹ mà chúng con càng thấu rõ, có thân là có khổ, vô thường không bỏ sót một ai. Sức mỏi, hơi tàn sau bốn lần giải phẫu vì xương mòn rỗng. Chứng kiến những cơn đau của mẹ để thấy mình bất lực, không thể đau nỗi đau này thay cho mẹ dù trong khoảnh khắc. Hạnh phúc của con là được đi cùng mẹ, đoạn sau cùng của một đời người. Con nhiều lần không dám nghĩ, hạnh phúc này thật quá mong manh. Tất cả mọi người, rồi ai cũng mồ côi. Con vừa mong kéo dài hạnh phúc còn có mẹ, vừa nguyện cầu cho mẹ chấm dứt nỗi đau, sau quãng đời dài mang thân bệnh. Con an tâm tin tưởng như lần đưa tiễn cha đi. Mẹ chắc chắn sẽ về cảnh giới an lành, có duyên gặp Phật để tiếp tục những gì còn dang dở. Con lau nước mắt, cắt vải xếp thành những vành khăn tang trắng cho đàn con của mẹ và lũ cháu, chắt trong nhà. Con nhớ mẹ, nhớ luôn lời mẹ nói. Càng giản dị càng có thêm cơ hội để giúp cho người cần giúp. Ngày trước con tự học may áo để may áo cho em, cho mẹ. Con làm sao biết có một ngày con cắt vải trắng làm thành những chiếc khăn tang. Đó là ngày người chị dâu thương mến ra đi. Với tình thương dành cho người đã mất, người còn ở lại, con tiếp tục làm khi có ai cần, không chút đắn đo. Thương mẹ, từ anh chị lớn đến con cháu nhỏ ngày hai lần niệm Phật, tụng kinh tiễn mẹ đi. Khi tụng bài chú Đại Bi và kinh Bát Nhã, con gõ mõ, em Hồng lãnh phần chuông. Sau buổi tụng kinh anh Lưu cười than thở. “Sư cô” gõ mõ nhanh quá làm đám “đệ tử” tụng theo muốn đứt hơi! Nói thế nhưng các anh chị em và con cháu, lúc nào cũng làm theo sự hướng dẫn của con. Thủy, Hồng mỗi buổi sáng ghé nhà con để ba chị em cùng tụng một thời kinh cho mẹ trước lúc đi làm trong 49 ngày. Các anh chị em đến chùa, ra viếng mộ ở nghĩa trang đều đặn theo lời dặn, cũng là cơ hội để anh em xúm xít bên nhau. Con tin chắc ba mẹ sẽ ấm lòng, an tâm nhiều khi nhìn thấy đàn con thuận hòa, thương yêu chăm sóc cho nhau. Anh chị lớn lo cho em nhỏ, cùng lúc không đắn đo, thắc mắc khi em gái yêu cầu những việc cần làm để bày tỏ tình thương dành cho cha mẹ, cùng xoa dịu nỗi khổ của tha nhân.

Đứa em trai mẹ cưng nhất, sau khi vào phòng đóng cửa khóc thỏa thuê như đứa trẻ, đã hỏi con rằng. Mẹ mất rồi, tết này chị không gói bánh hay sao? Con biết em nhớ mẹ, nó mong tìm lại chút hương vị tết như khi còn mẹ. Cũng mừng. Khi mẹ yếu, con tập tành làm bánh, kho thịt kho tàu, làm dưa giá…cho ngày tết. Cũng như mẹ, con không đo lường liều lượng, may sao cả nhà đều thưởng thức món con làm. Cũng bởi mẹ nấu ăn ngon quá đỗi, làm các con dâu, con gái trong nhà ngại ngùng khi nấu đãi mọi người. Con đem nỗi buồn gởi trong nỗi bận rộn đầu năm, cùng với Thủy gói thật nhiều bánh ít nhân dừa. Không chỉ con trai của mẹ, mà hai đứa cháu nội cũng mê bánh ít. Có lẽ vì chúng được đặt tên bằng nơi chốn mẹ chào đời, nên yêu thích món bánh trái miền quê hiền lành đó. Cháu Mỹ Thạnh của mẹ bây giờ đã lớn cùng với những năm học đại học xa nhà. Tết dẫu không về, cháu vẫn nhận được bánh ít nhân dừa gởi qua bưu điện. Bến Cát sắp trở thành thiếu nữ, đã tham gia đội lân ở chùa như ba nó ngày xưa. Con vui nhiều mỗi lúc đến chùa, nhìn những đứa cháu nội của mẹ học phật pháp, học tiếng Việt và ăn ngon lành những món ăn chay.

Ngày chủ nhật cận tết, ba chị em hẹn nhau gói bánh. Con thay mẹ rửa, lau khô lá, xếp sẵn hình cái phễu. Nhờ lá sạch nên để lâu bánh vẫn không hư. Nhân bánh với 4 trái dừa rám nạo bằng nút phéng. Cái bàn nạo “homemade” nhẹ tênh giống đồ chơi, nhưng thật tuyệt vời vì không cần dùng sức với tay cầm vừa vặn bằng gỗ đánh vẹc ni bóng loáng. Có nhiều người “đặt hàng” sau đó, nhưng phải xếp hàng chờ vì người sản xuất chưa có thời gian rỗi rảnh. Con tặng chị dâu cái bàn nạo độc nhất vừa mới có, được làm theo yêu cầu để chị đem về Atlanta, vì có mua cũng không nơi nào bán. Hồng nghe nói 4 trái dừa làm nhân hơi ít bèn mua thêm 4 trái, nạo đem sang. Hơn 10 giờ đêm em gởi text cho con. Nạo dừa em mệt muốn đứt hơi. Bây giờ mới ngấm, thương các chị. Món ăn ngon có được do bao công sức của người thân. Con xào dừa, không nhớ với bao nhiêu đường. Chỉ nhìn, đoán chừng không quá ngọt để mấy đứa em vừa ăn xong lại muốn ăn thêm. Không bỏ vanila, con dùng lá dứa tươi có sẵn. Cây lá dứa đem về từ Florida của cậu Phương cho. Chúng con thừa hưởng gia tài của mẹ, từ bộ xững hấp bánh cho đến cách nấu ăn. Không nhớ, không ghi liều lượng. Con chuẩn bị lá, làm nhân. Có cả nhân bánh đậu xanh cúng tết vì khi xưa ba thích. Thủy đem bột nếp tới nhồi cùng nước ấm. Có thêm đứa em nữa, không khí rộn ràng hơn. Hồng lăng xăng chụp hình rồi mới bắt tay làm. Nếu mẹ còn chắc sẽ lắc đầu cười. Hát dở mà sắm tuồng lâu là vậy. Kết quả tuyệt vời như khi còn mẹ. Mỗi đứa lo một phần nhưng khi ráp vào nhau, bột, nhân, lá khít khao vừa đủ.

Hai đứa em ra về, sau khi được chia phần. Con hấp thêm vài lần bánh nữa thì xong. Thủy đã nhanh tay sắp những chiếc bánh đầu tiên đem lại thắp nhang ở bàn thờ, rồi dù làm chẳng ngừng tay nhưng vẫn nhớ để mà thử bánh sau lúc nhang tàn. Em suýt xoa. Ngon tuyệt chị ơi! Nghĩ là nhân có vẽ bị khô, nhưng sau khi hấp thật là thơm, dẻo, ngọt vừa. Con mỉm cười khi một lúc sau, em gọi sang báo cáo. Chị ơi! Sau khi sắp bánh cúng xong, bữa ăn trưa hôm nay của là em là bốn cái bánh ít nhân dừa, chưa kể một cái thử trước bên nhà chị. Chắc phải đợi tới sang năm, em mới cho phép em…ăn tiếp! Ngon quá, không thể nào ngừng được cho nên em cho nó…tới luôn! Hai chị em giống mẹ, thường cảm thấy no ngang sau khi đã nấu xong. Có lẽ chỉ cần nhìn mọi người vui, thưởng thức món ăn cũng đủ no. Thủy lần này đạt kỷ lục của một một lần ăn, bỏ qua luôn chuyện “giữ eo”.

Còn lại nồi thịt kho tàu khổng lồ như nồi nấu phở của nhà hàng. Nghĩ đến niềm vui ngày tết lúc chia cho từng người để mang về, con rán sức bê nồi thịt đã kho xong mềm rục. Mùi thịt kho tết tỏa khắp nhà thơm ngát, không giống như mùi thịt kho bình thường của trong năm. Nhớ mẹ con nhớ luôn lời cậu Út hôm nào. “Đi khắp nơi, thưởng thức bao nhiêu món ngon, vật lạ nhưng không có món ăn nào ngon như món thịt kho tàu của chị Hai”. Những đứa trẻ còn mê trứng luộc kho chung. Con tăng dần số lượng trứng, năm nay thành con số 40. Chuẩn bị hoa quả, bánh trái, thức ăn chay cúng tổ tiên, ông bà cùng giỗ mẹ đầu năm, trời vào đêm lúc nào con cũng không hay. Nghĩ thương mẹ khi còn sức khỏe, một mình cực nhọc, làm việc chẳng ngừng tay đến nỗi quên ăn, để dâng lên lòng tưởng nhớ biết ơn cửu huyền thất tổ, cùng cha mẹ quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp đã qua. Bản tính chân chất, mẹ thường chắp tay khấn rõ, con đứng cạnh bên nghe và in sâu trong tâm khảm của con. Mẹ luôn luôn trải lòng ra, khấn nguyện cả những linh hồn không nơi nương tựa hoặc ngưòi thân đã lãng quên. Phần còn lại là tình thương dạt dào dành cho lũ cháu con khi thấy chúng quây quần, xúm xít cùng nhau quanh những bữa ăn. Con đã làm như mẹ từng làm. Lúc nào con cũng cảm nhận mẹ đang ở bên con. Mẹ có mặt bên ly cà phê buổi sáng con pha. Xưa, mẹ dành ly cà phê đó cho ba, cho chị Ngọc. Nay con dành cho hết những người thân lẫn người con chưa gặp bao giờ. Đứa cháu ngoại của mẹ trước khi đi học hoặc đi làm, tới lấy ly cà phê có phảng phất mùi nhang, bỏ thêm vào những viên đá dù mùa đông hay hạ. Một lần con vắng nhà. Buổi sáng con trai gọi tìm. Mẹ ơi, chỉ cho con cách pha cà phê của mẹ. Mọi người không giấu nỗi ngạc nhiên. Con cũng ngạc nhiên khi chợt nhận ra. Không biết từ bao giờ, đứa con trai lớn bắt đầu uống ly cà phê cúng mỗi sớm mai như bà ngoại thuở xưa. Cho nên đã 22 tuổi vẫn chưa pha cà phê lần nào là vậy. Riêng con đâu khác gì hơn. Dẫu biết nấu ăn, làm việc nhà rất sớm, từ ngày sang đất Mỹ con vẫn được mẹ nấu từng bữa ăn, giặt từng chiếc áo cho đến năm 31 tuổi. Con tự biết đó là những tháng năm hạnh phúc nhất đời con, bởi thời gian được sống bên ba mẹ dài hơn tất cả.

Mai chị về. Năm này nữa là lần thứ năm kể từ khi mẹ mất, anh chị về ở lại một tuần. Con mở cửa căn phòng ngày xưa hai mẹ con mình ở, bây giờ dành đón khách phương xa. Hình của mẹ, của con vẫn còn đó y nguyên. Sàn nhà con lau đẫm ướt có trộn thêm nước mắt. Dẫu tình thương dành cho mẹ không sao nói hết, vẫn nhận ra điều thiếu sót riêng con. Vị giáo sư kính quý ở xa, thường an ủi những lần con nhắc mẹ. Cô nói, khi cha mẹ không còn mình mới nhận ra sự thiếu sót, vô tình không còn cơ hội để mà bù đắp lại. Nhưng cha mẹ thì lúc nào cũng thương yêu, rộng lượng, bao dung. Chỉ cần em sống thiện lành, sống với tâm hỷ, xả, từ, bi. Đó chính là sự thành tâm của lòng tưởng nhớ, báo ân dành cho hai đấng sinh thành. Con biết con có phước, được thân gần thầy lành, bạn tốt là những người anh thiện tri thức phương xa. Nhưng trong phút giây quên hiện tại, con nếm trải nỗi đau chưa từng có xưa giờ. Tưởng chừng như sắp ngất đi. Con thoáng nhìn thấy khuôn mặt mẹ ngày té ngã sóng soài trên chuyến đi cruise đầu tiên và cũng là cuối cùng của mẹ với đại gia đình năm đó.

Mở cửa đón mừng anh chị bằng tay còn lại, chị xót xa nhìn cánh tay phải bó bột kèm sợi dây đeo qua cổ của con. Trời ơi! Sao em không cho chị biết trong phone. Con cười. Em được nghỉ vacation ít nhất là 6 tuần. Năm nay ở nhà ăn tết lớn với chị, không bỏ đi làm nữa. Coi như số em may. Xương chưa gẫy nên không giải phẫu. Được chơi 6 tuần thay vì nghỉ tới nửa năm. Quan trọng nhất là không ai…biểu tình, vì bánh trái, món ăn dành cho tết đã làm xong trước lúc anh chàng bên cánh phải đình công. Hai chị em con thực sự có những ngày ấm áp, vui nhiều. Chị đúng là cánh tay mặt của con. Bày dọn cúng ông bà, cúng giỗ mẹ ngày mùng một, chị đảm đang, chu đáo nhắc con đừng làm động cánh tay đau. Vui nhất là mấy món soup con mới học nấu dành đãi anh rể, đâu ngờ cũng là những món cho con khi cầm muỗng bằng tay trái. Càng ngày chị càng giống mẹ nhiều. Để ý, chăm sóc từng món ăn ưa thích, từng viên thuốc uống dành cho người em rể. Con nhiều lần thầm nghĩ, nếu mẹ vẫn còn, thì người đồng hành cùng con sẽ được chia tình mẹ. Lòng mẹ vốn bao la, êm ái dịu dàng như những cơn mưa, trải lên cánh đồng khô hạn, qua từng tháng năm bị tách rời giòng suối ngọt ngào, bởi phải xa mẹ khi còn rất trẻ. Con biết mẹ thường im lặng, lúc nào cũng lắng nghe với tâm từ cùng sự cảm thông. Thay cho phán đoán, khen chê đúng hay sai, là ánh mắt hiền từ thấu hiểu, biểu lộ tình thương lan tỏa. Mẹ dẫu không còn sức để làm thêm điều gì nữa, chỉ cần lòng bi mẫn của mẹ thôi đủ xoa dịu nỗi buồn, nỗi khổ của nhiều người. Nhìn cách mẹ kham nhẫn, chịu đựng những cơn đau hoành hành bất kể ngày đêm, cùng lúc vẫn quan tâm chia sẻ hạnh phúc cùng nỗi khổ của mọi người không phân biệt, nên ai gần mẹ cũng đều cảm nhận sự an ổn và tình thương không giới hạn.

Những ngày có chị là những ngày vui như tết. Con quên bàn tay sưng cứng, tê đau mãi cho đến lúc đêm về, sau khi nghe chị chúc ngủ ngon. Anh chị Phong từ Atlanta về ở bên nhà Thủy, mỗi ngày sang nhà con ăn chung bữa sáng, bữa trưa với đủ món mặn, chay. Trước và sau khi đi làm về, ngày nào Thủy cũng ghé để tận hưởng những ngày có chị, nên đùa. Hotel nhà em chỉ 3 sao nên không có điểm tâm free. Anh chị chịu khó qua khách sạn 5 sao bên đó đông vui, có đủ ngày ba bữa. Với các anh chị xa nhà sớm, không có nhiều cơ hội gần nhau, ai cũng quý những lần được gặp nhưng mấy đứa em gái không bỏ qua cơ hội trêu anh. Anh có nhớ câu ông bà mình thường nói hay không? “Ăn nhiều chứ ở chẳng bao nhiêu” anh hỉ? Em út xin nghỉ tết, thêm Hồng được rảnh rang nên anh chị em con cùng đi chùa lễ Phật đầu năm. May mắn, con tìm được chiếc áo dài có thể mặc vào dẫu cánh tay bó bột thật to. Ngôi chánh điện cũ đã san bằng chờ xây lại. Chị dâu sợ con không đi vững, nắm tay dắt con bước chậm qua. Như giấc mơ. Chớp mắt, dấu tích xưa đi vào quá khứ. Nơi chốn ngập đầy hình ảnh mẹ trong mùa Vu Lan, mùa Phật đản sinh cùng những ngày chủ nhật suốt bao năm, giờ không bao giờ nhìn thấy nữa. Mai này ngôi chánh điện mới sẽ hình thành. Mảnh đất cũ thay vào hình ảnh khác.

Hôm chị về trời trở lạnh và mưa. Chị cảm động cầm cái bàn nạo dừa mới toanh vừa đánh vẹc ni, được trao tay khi người em rể hug chào trước lúc đi làm. Bên ngoài bóng tối phủ đầy. Anh rể lặng lẽ mang hành lý ra xe, sẵn sàng cho đoạn đường gần ngàn dặm trở về. Đứa em nhẩm tính đã 32 năm rồi, là 32 lần anh lái xe về kể từ khi ba mẹ đặt chân đến đất tạm dung. Trước đây, thời gian về thăm nhà có khi là mùa xuân, mùa hạ, hay đông. Từ khi không còn mẹ thì ngày giỗ mẹ là ngày anh chị về xum họp. Ôm chặt em gái trong tay từ giã, chị ân cần dặn nghỉ ngơi, cho xương mau lành lặn để có đôi tay bình thường trở lại. Môt tuần lễ bên chị trôi nhanh quá. Căn nhà rộn rã tiếng cười giờ im vắng như chưa từng im vắng thế. Mỗi ngày nhìn chị nói cười, cùng lúc những khớp xương đau như có ai đang đục, xoáy bên trong. Con là người chứng kiến khi gần bên mẹ, bên chị và cả người đi cạnh đời con. Tất cả đều chấp nhận, thân này chẳng thuộc về mình. Gìn giữ cách nào đi nữa, vẫn là ‘nó muốn đau thì nó đau” thôi. Ngắn hay dài, nỗi đau nào rồi cũng hết khi mình thay áo mới, xong cuộc hành trình đi ngang qua cỏi tạm.

Thích nghi mọi hoàn cảnh chính là gia tài lớn nhất, ba mẹ đã trao truyền cho một đàn con. Không còn mẹ nhưng con luôn nhận biết, mẹ ở trong con mọi lúc mọi nơi. Nghĩ tới điều lành dù rất nhỏ để làm, là lòng biết ơn vô bờ bến cùng tình thương không giới hạn con dâng lên mẹ, người mẹ hiền trong đời này con có diễm phúc được làm con.

Mẹ kính yêu, mẹ biết phải không?

Thảo Ly.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Khi mùa xuân qua…
Phan

Mùa Xuân vừa qua, như lâu lắm rồi. Tuy cành non còn chưa vững gió chiều vào hạ thì tháng Năm đã về. Ôi tháng Năm của tuổi nhỏ rình rập tờ lịch trên tường từng ngày trước nghỉ hè để được tha hồ vui chơi. Rồi tháng Năm biết nhớ ngôi trường như ngục tù bao la của tuổi nhỏ mà khi xa nó thì lòng thấy bâng khuâng. Đến tháng Năm bái biệt mái trường mà lòng thấy chơi vơi, hụt hẫng vì đã biết không trở lại nữa vào mùa thu tới.

Những tháng Năm trên vạn nẻo đường, chợt nhớ chợt quên những mùa hè cổ tích như tuỳ bút “tháng Năm rồi đó em” thì tháng Năm vẫn về…
Tháng Năm. Tôi ngang qua Paris. Chen chúc những dòng xe bất tận thật ngột ngạt. Quận 13 nổi tiếng ở Paris có nhà sách Khai Trí. Nhưng không còn hồn xưa của nhà sách Khai trí ở đại lộ Lê Lợi, Sài gòn. Nhà sách Khai trí ở quận 13 Paris nổi tiếng món bánh mì thịt. Nhìn những quyển sách đóng bụi thời gian trên tường của cái tiệm bánh mì thịt nổi tiếng Paris, chỉ trớ trêu mang tên nhà sách Khai trí.
Những phận người giạt trôi theo vận nước đã đành. Nhưng nhìn ở một góc cạnh nào đó, văn hoá Sài gòn lưu vong cũng bụi mờ, váng nhện đến đau lòng.

Tôi rời Paris – không hẹn ngày trở lại. Bấm máy định vị và trực chỉ sang Amsterdam – Hà lan. Tôi lái xe xuyên qua một Paris còn đó những kiến trúc cổ, lâu đài, những bức tượng điêu khắc công phu… gợi nhớ biết bao về văn học, hội họa và âm nhạc tây phương thời phục hưng. Và, những tòa nhà kính mới mọc lên sau này, chắc chắn là mang dáng vóc hiện đại, cao ngất ngưỡng tới chói lòa tầm mắt bởi mặt trời tháng Năm.

Tiếc cho một Paris được ái mộ toàn cầu thì người đến không khỏi chạnh lòng với những lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ nền cũ lâu đài bóng tịch dương…

Tôi rời Paris không tiếc nuối điều gì ngoài những vạt Popies đỏ thẩm. Trong cái thành phố – không có chỗ đậu xe khi tôi chở bạn bè ghé ăn tô mì ở quận 13 Paris cho biết! Các bạn tôi ăn xong thì mua cho tôi ổ bánh mì vì tôi vẫn chưa có chỗ đậu xe để vô ăn chung với bạn bè cho vui.

Paris là những làn đường xe chạy liên tu bất tận-không biết về đâu, những đường hầm thắp đèn 24/24. Nhưng hễ lộ ra một dạ cầu, một vạt đất dốc khi qua đường hầm… thì hoa Popies tháng Năm đỏ rực.

Paris có thể thay đổi theo thời đại với những toà nhà chọc trời bằng kính. Nhưng Paris hôm nay chỉ như khiêu vũ với bầy sói. Một Paris của muôn đời là tưởng nhớ – bất tử.

Vâng. Tháng Năm đã về. Màu hoa Popies đỏ thắm trên cánh đồng Flanders trăm năm trước không đỏ hơn hoa Popies ở Paris nhốn nháo hôm nay, có cả đài tưởng niệm công nương Diana! Kiến trúc có thể làm thay đổi bộ mặt Paris, nhưng hoa Popies ở Paris thiên về tưởng nhớ thì bất tận.

Tôi qua khỏi phi trường Charles-de-Gaulle. Ngoại ô Paris như đường quốc lộ 4 về miền tây Việt nam thời xưa. Hai bên đường chỉ xanh ngắt màu lá. Đường như đường làng, khác xa, khác hẳn những xa lộ xuyên bang bên Mỹ.
Tôi trao tay lái cho cô bạn đã từng sống ở Paris khi trẻ, sau khi lập gia đình mới định cư bên Đức. Những vạt hoa Popies tù túng ở Paris ám ảnh tôi về lòng người Paris; cái hồn Paris sống trong chen chúc nhà cao tầng bằng kính thật không hợp.
Thôi thì đọc lại In Flanders Fields-Trên những cánh đồng ở Flanders trên điện thoại. Bài thơ xúc cảm này mở đầu với những bông hoa poppy nở rộ trên những cánh đồng trận địa nước Bỉ. Bông hoa poppy từ đó trở thành biểu tượng tưởng nhớ những chiến sĩ đã nằm xuống vì lý tưởng tự do. Nên từ năm 1922, những bó hoa poppy bằng giấy màu đỏ được các cựu chiến binh bày bán trên đường phố trong ngày Tưởng niệm Chiến sĩ Trận vong – Memorial Day hằng năm.

Bài thơ và tác giả của nó đã thuộc về con người và thời đại trăm năm trước. Nhưng vì sao nhân loại có tục lệ mang hoa poppy trong thời gian tưởng niệm những người chiến sĩ đã chết trên các chiến trường cả trăm năm qua và mãi mãi về sau chỉ vì lý tưởng tự do. Bài thơ Trên những cánh đồng Flanders như thế này bạn ạ!

Trên cánh đồng Flanders
Giữa những hàng hàng bia mộ
Hoa poppies nở
Dập dờn
Ðánh dấu nơi chúng tôi yên nghỉ
Trên trời
Những con sơn ca vẫn can đảm hót
Tiếng hót chợt vang lên đôi lúc
Giữa tiếng đại pháo rền dưới kia
Chúng tôi là những người đã chết
Chỉ mới mấy ngày trước đây thôi
Chúng tôi vẫn sống
Cảm nhận bình minh
Thấy được ánh hoàng hôn
Yêu và được thương yêu
Và giờ đây
Chúng tôi nằm yên nghỉ
Trên những cánh đồng Flanders
Hãy tiếp nhận cuộc chiến đấu của chúng tôi chống kẻ thù
Từ những bàn tay buông xuôi
Chúng tôi trao lại bó đuốc
Ðể các bạn giương cao
Ôi, nếu vì lẽ gì bạn quên lời thề, đập vỡ niềm tin
Với chúng tôi những người đã chết
Chúng tôi sẽ không bao giờ nhắm mắt
Dẫu hoa poppies vẫn nở dập dờn
Trên những cánh đồng Flanders

Bài thơ In Flanders Fields của Trung tá Quân Y John McCrae, thuộc quân đội Gia Nã Ðại, là một trong những bài thơ viết về chiến tranh được lan truyền nhiều nhất theo thời gian. Nó là di sản của trận chiến khốc liệt ở tuyến đầu Ypres thuộc nước Bỉ vào mùa xuân năm 1915. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh cũng khá đặc biệt là bác sĩ John đã phục vụ quân đội trong nhiều năm, đã từng phục vụ ở chiến trường Nam Phi. Nhưng Trung tá John McCrae vẫn không thể nào làm quen được với những cơn đau, những tiếng kêu thét, máu, và nước mắt ở Quân y viện.
Tại đây, ông là bác sĩ giải phẫu đã trải qua mười bảy ngày đêm liên tục chăm sóc cho các thương binh thuộc đủ mọi quốc tịch: Gia Nã Ðại, Anh, Ấn Ðộ, Pháp và Ðức. Quả thật là kinh hoàng! Ông nghĩ mình không thể nào chịu đựng nổi. McCrae ghi lại trong hồi ký như sau: “Tôi ước mong có thể ghi lại trên trang giấy một số cảm nhận về mười bảy ngày ấy… Quả là mười bảy ngày trong Địa ngục. Nếu cuối ngày thứ nhất ở đây có ai bảo rằng chúng tôi phải trải qua mười bảy ngày như thế thì tôi sẽ chắp tay cúi đầu nói không, không thể nào chịu đựng nổi.”
Thế rồi một cái chết trong hằng hà những cái chết bởi lý tưởng tự do mà thành chiến tranh mà bác sĩ John đã thấy qua, nhưng gây ấn tượng mạnh với người trai trẻ McCrace. Chuyện rằng, Trung úy Alexis Helmer quê ở Ottawa, đã bị giết vì bom nổ trong ngày 2 tháng Năm 1915. Trung tá McCrae đã làm lễ an táng và cầu hồn cho Helmer ở một nghĩa trang nhỏ bên cạnh Quân y viện, mặc dù nơi đây không có nhà nguyện.

Ngày hôm sau, ngồi ở băng sau xe cứu thương gần Quân y viện, John McCrae bắt đầu viết. Dù không phải là việc xa lạ với McCrae, ông đã từng viết nhiều bài viết cho báo y học. Nơi ông viết nằm bên cạnh nghĩa trang và ông có thể nhìn thấy những bông poppies vươn lên từ bờ các chiến hào của vùng trận địa Bắc Âu này.

Người lính trẻ nhìn thấy McCrae làm việc chính là Cyril Allison, một Trung sĩ nhất, 21 tuổi. Hôm ấy lãnh nhiệm vụ đưa thư đến cho Quân y viện. Trung tá McCrae ngẩng lên nhìn Allison rồi cúi xuống im lặng tiếp tục viết. Khuôn mặt ông lộ vẻ mệt mỏi nhưng rất yên tĩnh. Thỉnh thoảng ông lại nhìn ra ngôi mộ Alexis Helmer.

Viên Trung sĩ quân bưu vẫn đứng ở đó. Hai mươi phút sau thì xong bài thơ, McCrae ngừng viết, nhận thơ từ Allison mà không nói gì hết, và trao cho Allison những thơ từ cần gởi đi. Ông đưa luôn cả bài thơ mới viết cho Allison đọc. Allison hết sức cảm động khi đọc nó. “Bài thơ tả đúng y khung cảnh trước mắt chúng tôi. Ông ấy dùng từ blow (gió thổi dập dờn) rất chính xác vì sáng hôm ấy ngọn gió đông không ngớt thổi qua nghĩa trang, làm lay động những bông hoa poppies. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng bài thơ sẽ được đăng báo!”
Quả thật bài thơ suýt nữa đã không được phổ biến. Không vừa ý với nó, McCrae vứt bỏ bài thơ, nhưng một người bạn sĩ quan nhặt lại và gởi cho các báo ở Anh. Tờ The Spectator ở London không chịu đăng, nhưng tờ Punch đã in bài thơ trong số báo ra ngày 8 tháng 12 năm 1915. Riêng Trung tá thi sĩ John McCrae không được may mắn, ông chết vì bệnh sưng phổi năm 1918 lúc đang ở Pháp.

Bài thơ Trên những cánh đồng Flanders từ đó được lan truyền rộng rãi. Năm 1918 Moina Michael, làm việc cho một tổ chức thanh niên thiện nguyện phục vụ các chiến binh Hoa Kỳ trên các chiến trường. Ngày 9 tháng 11 năm 1918, xúc động khi đọc bài thơ In Flanders Fields, Michael đã tự nguyện mang một bông poppy màu đỏ trên ngực áo như một biểu tượng tưởng nhớ những chiến sĩ đã nằm xuống trong khi thực hiện niềm tin.

Sau ngày ấy, trong một buổi hội của tổ chức, Michael bày những bông hoa poppies màu đỏ tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh tính mạng cho niềm tin. Và Michael bắt đầu bán những bông poppies đỏ để gây quỹ hỗ trợ các thương binh và chiến sĩ ngoài mặt trận. Chẳng bao lâu hoa poppy đỏ được biết đến và chấp nhận là biểu tượng tưởng nhớ những người con thân yêu của tổ quốc đã hy sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ ngoài tiền tuyến.

Chúng ta không thể nào quên những người đã hy sinh xương máu cho mảnh đất tự do này. Kể từ Thế chiến thứ I đến nay đã trăm năm trôi qua; người lính cuối cùng của Đệ nhất thế chiến đã chết; cuộc chiến tranh mang tầm cỡ thế giới chỉ còn trong thư viện cho những hậu thế nghiên cứu.
Nhưng từ đó, bao tang thương dâu biển, biến cố dập dồn, nhiều cuộc chiến tranh đã nổ ra cuốn theo bao nỗi đau, nước mắt và máu của những người lính. Họ đã chiến đấu trên toàn cầu mặt đất và cả bầu trời không biên giới… Họ chiến đấu mọi nơi để thắp sáng một niềm tin, một lý tưởng, vì tự do của loài người, vì hạnh phúc của đồng loại.

Những bông hoa poppies màu đỏ nhắc mọi người nhớ tới họ, tri ân các chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh cho ngày hôm nay của chúng ta. Các tổ chức Cựu chiến binh Hoa Kỳ đã phát động ngày Poppy Day trong thời gian từ 15 đến 21 tháng Năm năm nay để mọi người tri ân những người lính đã vị quốc vong thân.

Riêng với người Việt chúng ta trên nước Mỹ, chúng ta cũng nên xin chọn một bông poppy màu đỏ cho cha anh của chúng ta, những người chiến sĩ VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến 20 năm trên đất nước mình. Xin các chú bác hãy yên nghỉ trong màu đỏ của hoa poppy tháng Năm – là lòng tưởng nhớ của con cháu xa xứ…

Phan
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Cha con
(Trích đoạn tiểu thuyết American Pastoral)

Philip Roth

Image
Philip Roth [1933-2018]
Lời người dịch: Philip Roth, đại thụ của văn học Mĩ đương đại, vừa tạ thế hôm thứ ba 22/5/2018 tại New York. Cùng với Saul Bellow và John Updike, ông làm thành bộ-ba cột trụ nâng đỡ nền văn học Mĩ suốt nửa sau thế kỉ XX và sang cả thế kỉ XXI. Đến nay thì cả ba đã ra đi.

Sau Thế chiến II văn xuôi Mĩ như đi vào thời kì Phục Hưng Mới. Bước ra khỏi bóng mát của những cây cổ thụ ở nửa đầu thế kỉ như John Dos Passos, Ernest Hemingway, William Faulkner, Henry Miller, John Steinbeck, một thế hệ những cây bút có thực tài, tin tưởng nhiệt tình vào sự tự do tuyệt đối trong sáng tạo và luôn luôn trung thành với nghệ thuật, đã đem lại khí hậu mới cho văn học Mĩ và thật sự thể hiện được tiếng nói của thời đại mình. Có thể liệt kê ra đây một số những tên tuổi quen thuộc được cả thế giới mến mộ như John Updike, Grace Paley, Hubert Selby, Flannery O'Connor, John Cheever, Bernard Malamud, Saul Bellow, J.D. Salinger, J.F. Powers, Raymond Carver, Ann Beattie, Andre Dubus, Richard Ford, Mary Gaitskill, Joyce Carol Oates, Erica Jong, Toni Morrison, Joy Williams, Jayne Anne Phillips, Tim O'Brien, Tobias Wolff, vân vân. Danh sách dài lắm, có lẽ kể không xiết.

Nhưng không thể không nhắc đến Philip Roth.

Ngay với tác phẩm đầu tay, cuốn Goodbye, Columbus (Giã từ, Columbus) xuất bản năm 1959, Roth đã thành công rực rỡ, và tập truyện này (gồm một truyện vừa và năm truyện ngắn) được trao tặng giải National Book, giải thưởng văn học cao quý nhất của nước Mĩ. Nói đến giải thưởng, người ta không khỏi chóng mặt khi đếm lại những giải thưởng ông được trao tặng trong suốt quá trình sáng tạo. Không kể những giải nhỏ, những giải thưởng sau đây đã lọt vào tay ông: năm lần PEN, một lần Ambassador Book, một lần Pulitzer, hai lần National Book, hai lần National Book Critic Circle. (Điều phi lí là giải Nobel Văn chương tìm mọi cách né tránh ông.) Năm 1998, toà Bạch Ốc vinh danh ông với Huân chương Nghệ thuật Quốc gia. Năm 2001, ông được Hàn lâm viện Văn học & Nghệ thuật trao tặng huy chương vàng bộ môn tiểu thuyết. Năm sau Sáng hội Văn chương Quốc gia trân trọng vinh danh ông như là người có những đóng góp cao quý nhất vào văn học Mĩ. Năm 2005, dự án Philip Roth Toàn Tập khởi in và hoàn tất năm 2012, đây là vinh dự hiếm hoi cho một nhà văn còn tại thế.

Philip Roth sinh năm 1933 tại Newark, bang New Jersey, nơi ông dùng làm bối cảnh địa lí cho rất nhiều tiểu thuyết của ông kể cả cuốn American Pastoral (Miền thôn dã Mĩ quốc) trích dịch dưới đây. Thời trẻ ông theo học tại đại học Chicago và tốt nghiệp Thạc sĩ Anh ngữ. Năm 1955 ông bị gọi nhập ngũ nhưng chỉ ít lâu sau phải giải ngũ vì bị thương trong lúc huấn luyện tại thao trường. Ra lính, ông học tiếp lên Tiến sĩ nhưng nửa chừng bỏ dở và từ năm 1959 ông bắt đầu viết bài điểm phim cho tạp chí New Republic. Cũng vào năm đó, cuốn Goodbye, Columbus ra đời; tác phẩm đoạt giải National Book, và sau đó được dựng thành phim truyện. Tuy thế, phải đợi mười năm sau, cuốn Portnoy's Complaint (Lời than vãn của Portnoy) mới thật sự gây tiếng vang sâu rộng và tạo phản ứng mạnh mẽ từ giới phê bình cũng như độc giả khắp nước. Cuốn sách viết về cậu trai đang ở tuổi dậy thì với những ám ảnh tình dục và liên hệ không mấy tốt đẹp giữa cậu và bà mẹ Do Thái.

Do Thái, đúng hơn đời sống người Do Thái trên đất Mĩ, chiếm phần lớn nội dung tiểu thuyết của Roth. Không khác những nhà văn đi trước ông như Malamud và Bellow, những nhân vật trong truyện của Roth gần gũi con người ông nhất bao giờ cũng là Do Thái, nhưng đó là những con người Do Thái không đẹp đẽ, dễ yêu chút nào. Người đọc thường có cảm tưởng nhìn thấy chính ông với những ám ảnh của các nhân vật trong truyện. Bị chỉ trích, ông trả lời: “Xuất bản một tác phẩm giống như xách chiếc va-li của mình đem vứt nơi công cộng rồi bỏ đi. Không cách nào nhà văn có thể bảo đảm chuyện gì xảy đến cho cuốn sách của mình khi nó được tung ra ngoài thế giới.” Càng về sau Roth càng vật vã với vấn nạn khủng hoảng căn cước.

Từ những năm 60, Roth dạy văn chương tại nhiều đại học khác nhau, phần lớn bên miền Đông nước Mĩ. Năm 1972, ông xuất bản cuốn The Breast (Cái vú)—nhái theo tác phẩm Hoá thân nổi tiếng của Franz Kafka, trong đó nhân vật chính diện David Kepesh một hôm thấy mình “hoá thân” thành cái vú đàn bà khổng lồ. Kepesh xuất hiện lần nữa trong The Professor of Desire (Vị Giáo sư của dục vọng) (1977) và The Dying Animal (Con thú đang chết) (2001). Thập kỉ 80 không thấy Roth viết nhiều, chỉ có cuốn The Counterlife (Đời sống phản) xuất bản năm 1986 là đáng kể; nhưng tình trạng lắng đọng tạm thời đó chấm dứt ở thập kỉ 90 khi Roth ào ạt trở lại với sức sáng tác sung mãn hơn bao giờ hết và liên tiếp giật hết giải thưởng văn học này đến giải kia. Cuốn The Human Stain (Vết nhơ con người) xuất bản năm 2000 được dựng thành phim do Nicole Kidman và Anthony Hopkins thủ diễn các vai chính. Cuốn tiểu thuyết viết về quan hệ tình ái giữa ông giáo sư già một trường đại học nhỏ với người đàn bà mù chữ làm lao công trong trường. Những cuốn quan trọng khác là: Patrimony (Di sản tổ tiên) (1991) được giải National Book Critics Circle; cuốn Operation Shylock (Chiến dịch Shylock) (1993) được giải PEN/Faulkner; cuốn Sabbath's Theater (Khán trường của Sabbath) (1995) được giải National Book. Ở tuổi tác khá cao, Roth vẫn sáng tác không ngừng, mỗi năm vẫn đều đặn cho ra đời một cuốn sách, và trái với lẽ thông thường nơi nhiều nhà văn khác, càng về sau tiểu thuyết ông càng có giá trị văn học, minh chứng bởi những giải thưởng văn học ông liên tiếp nhận lãnh hằng năm. Cuốn A Plot Against America (Kế hoạch phá hoại nước Mĩ), xuất bản năm 2005, viết theo thể tiểu thuyết phản lịch sử, trong đó Charles Lindberg thay vì Franklin Delano Roosevelt đắc cử Tổng thống năm 1932 và nước Mĩ rơi vào tình trạng quân phiệt như Đức Quốc xã. Lịch sử trong cuốn sách là một lịch sử giả định, và được nhiều người xem là có tính tiên tri, nó dự báo việc Donald Trump lên làm Tổng thống nước Mĩ. Sau cuốn Indignation (Phẫn nộ) viết năm 2008, người ta tưởng ông đã ngưng viết, nhưng năm 2010, ở tuổi 77, ông cho xuất bản cuốn Nemesis và đây mới là tác phẩm cuối cùng của một sự nghiệp đồ sộ trên 30 cuốn sách. Sức sáng tác của ông bền bỉ và giá trị tác phẩm cao đến độ ngay cả những kẻ nghi hoặc nhất cũng phải kinh ngạc. Hai lần tạp chí TIME bình chọn ông là nhà văn lớn nhất của nuớc Mĩ.

Trích đoạn Cha Con (tựa do người dịch đặt) nằm trong phần hai của cuốn tiểu thuyết American Pastoral (Miền thôn dã Mĩ quốc) xuất bản lần thứ nhất năm 1997 và được trao tặng giải Pulitzer. Bối cảnh lịch sử là thập kỉ 60 với những xáo trộn và phân hoá chưa từng thấy trong xã hội Mĩ do tác động trực tiếp của cuộc chiến tại Việt Nam và những biến đổi sâu sắc trong đời sống dân Mĩ – như cuộc cách mạng tình dục – đem lại. Swede Levov, nhân vật chính trong truyện, thời niên thiếu là một lực sĩ nhiều triển vọng, đẹp trai, được nhiều người mến mộ. Anh thuộc thế hệ Do Thái thứ ba sinh sống ở Newark, bang New Jersey. Cha anh có nghề làm găng tay da và khi trưởng thành Swede thừa hưởng gia tài cha mẹ để lại, trở thành chủ nhân một doanh nghiệp lớn và trở nên giàu có. Swede lấy vợ, hoa khôi New Jersey, và sinh được mụn con. Đó là Merry, cô gái xinh đẹp và hết sức thông minh. Anh mua đất nơi vùng thôn dã Old Rimrock cách xa thành phố, xây nhà cho vợ con ở. Cuộc sống gia đình anh tưởng như nơi thiên đường.

Nhưng thiên đường sụp vỡ khi Merry năm mười sáu tuổi đặt bom phá tan cửa hàng tạp hoá gần trường học và làm thiệt mạng một người đàn ông. Merry không phải là cô gái hư hỏng, ngược lại ngay từ khi còn bé thơ cô đã học hành giỏi giang, cha mẹ cô yêu thương cô hết mực và dốc lòng chăm sóc cô đến nơi đến chốn. Tuy vậy, Merry không trở thành cô gái tiểu thư con nhà khuê các. Mầm mống của tai hoạ bắt đầu từ khi cô có chút trí khôn, đầu óc của cô gái nhỏ không hiểu do đâu bỗng chứa đựng toàn những tư tưởng phẫn nộ, phản loạn. Mỗi ngày phải nhìn những hình ảnh chết chóc phi lí của cuộc chiến tranh bên Đông Dương, cô thù ghét khôn tả cuộc chiến đó và cô đổ tội lên các lãnh tụ quốc gia nơi cô sinh trưởng. Cô phản loạn đến độ cô nghe theo các nhóm phản chiến đi vào con đường bạo động nhằm đánh thức lương tâm nước Mĩ. Cô không biết hay cố tình không cần biết hành vi đó của cô đã gây đau khổ dường nào cho hai người sinh thành ra cô.

Swede đau khổ vô cùng. Con gái anh, sau vụ đánh bom, trốn biệt và bị công an liên bang lên án, truy tầm. Anh sống trong lo âu, sợ hãi, nhưng một hôm, năm năm sau khi Merry bỏ trốn, qua móc nối của người đàn bà trong phong trào phản chiến, anh tìm gặp lại Merry…

Roth luôn luôn dành tình cảm đậm đà cho các nhân vật của mình. Đây là đặc tính của ngòi bút ông, trích đoạn dưới đây cho thấy điều đó. Cảm xúc tuôn chảy không ngừng, người đọc có cảm tưởng như chính ông chịu cái đau của nhân vật. Swede gặp con gái xong, ra về trong hoảng loạn. Về nhà anh càng hoảng loạn hơn khi nhìn vợ. Vợ anh ngoại tình với tay kiến trúc sư, người chính tay xây cất ngôi nhà hoành tráng của vợ chồng anh, ngôi nhà bên trong thiên đường nơi miền thôn dã nước Mĩ. – Trịnh Y Thư
Image

Chiếm trọn góc toà nhà cao tầng tường gạch lở lói là cái bệnh viện chó mèo, bên cạnh khu đất trống nơi bánh xe phế thải vứt bừa bãi, cỏ dại cao tận đầu người mọc vô trật tự, hàng rào sắt lưới mắt cáo gãy đổ xiêu vẹo bên lối bộ hành nơi anh đứng đợi con gái mình . . . cô sống ở Newark. . . bao lâu rồi. . . nơi đâu, khu xóm nào trong thành phố này? Không, đầu óc anh không thiếu khả năng tưởng tượng—tưởng tượng những điều kinh khiếp giờ đây với anh trở nên quá dễ dàng, mặc dù anh vẫn không hình dung nổi làm thế nào từ Old Rimrock cô có thể xiêu lạc về tận nơi đây. Mất rồi những ảo tưởng cho anh bám víu hòng kềm hãm mọi kinh ngạc đang lăm le ào tới.

Nơi cô làm việc cho thấy cô chẳng còn tin tưởng gì vào lời kêu gọi đi thay đổi lịch sử nước Mĩ nữa. Lối thoát hoả hoạn, cái thang sắt rỉ sét của toà nhà, nếu có ai đặt chân lên, chắc nó sẽ gãy lìa khỏi neo móc và rơi ập xuống thôi—cái thang, nhiệm vụ của nó không phải để cứu người trong trường hợp hoả hoạn, nó treo toòng teng nơi đó thật vô dụng như minh chứng cho nỗi cô độc mịt mùng bấu chặt vào cuộc sống. Với anh, nó không hề hàm chứa ý nghĩa nào khác—toà nhà đó không tượng trưng cho bất kì ý nghĩa nào. Vâng, chúng ta đang sống cô độc, sâu thăm thẳm nỗi cô độc, và luôn luôn chờ đón trước mặt chúng ta tầng cô độc sâu hơn. Chúng ta chẳng thể nào chối bỏ được điều đó. Không, cô độc không làm chúng ta lạ lùng kinh ngạc, kinh ngạc như khi chúng ta nếm mùi nó. Bạn có thể dốc lòng dạ mình ra, nhưng làm thế thì được gì, thay vì hướng nội và cô độc thì bạn hướng ngoại và cô độc. Hỡi Merry yêu dấu ngu xuẩn, ngu xuẩn của tôi, ngu xuẩn hơn cả người cha ngu xuẩn của con, phá sập nhà cửa dinh thự đem lại ích lợi gì đâu. Cô độc nếu có những toà nhà và cô độc nếu không có những toà nhà. Chẳng ai phản đối được sự cô độc—tất cả những cuộc tấn công bằng bom đạn trong lịch sử có bao giờ gây vết trầy nhỏ nào lên nó đâu. Chất nổ tàn hại độc phá nhất của con người cũng chẳng đụng tới nó. Hỡi đứa con dại khờ của tôi, đứng sừng sững đầy khiếp hãi trước mặt không phải là Chủ nghĩa Cộng sản mà là nỗi cô độc thường tình, bình nhật. Lễ Lao động con hãy đi diễn hành với bạn bè để vinh danh nó, siêu lực của những siêu lực, sức mạnh phủ trùm lên mọi vật. Hãy đặt hết niềm tin, hãy thờ phượng—hãy quỳ xuống phủ phục không phải trước mặt Karl Marx, hỡi đứa con nói lắp, phẫn nộ, ngu muội của tôi, không phải Hồ Chí Minh, không phải Mao Trạch Đông—hãy quỳ xuống và phủ phục trước mặt Chúa Cô Độc vĩ đại!

Con cô đơn quá, cô thường bảo anh vậy lúc cô còn là cô gái bé thơ, và anh không hiểu cô học chữ đó từ đâu. Cô đơn. Từ ngữ thốt ra từ miệng đứa trẻ lên hai nghe sao thê thiết. Nhưng cô biết nói quá nhiều và quá sớm, ngay từ buổi đầu cô đã ăn nói thật dễ dàng, sắc sảo—và biết đâu đó chính là cái gì ẩn nấp đằng sau tật nói lắp, những chữ cô thành thuộc một cách kì quái trước khi những đứa trẻ khác biết cách phát âm tên của chính mình, một tình trạng quá tải vốn liếng từ vựng trong đó có cả câu nói kêu rêu “Con cô đơn quá.” Cô chỉ trò chuyện được với anh. “Bố ơi! Mình nói chuyện này đi.” Thường câu chuyện xoay quanh mẹ cô. Cô bảo anh mẹ bình phẩm quá nhiều về quần áo, tóc tai cô. Mẹ muốn cô phải ăn mặc như người lớn chứ không như những đứa trẻ khác. Merry thích để tóc dài như Patti, nhưng mẹ muốn cô cắt tóc ngắn. “Chắc mẹ sẽ hài lòng vui sướng lắm nếu con mặc đồng phục như hồi đó mẹ mặc ở trường St. Genevieve.” “Mẹ là người bảo thủ, thế thôi. Nhưng con thích đi sắm hàng với mẹ mà.” “Đi mua sắm với mẹ con chỉ thích lúc ăn trưa, ăn trưa vui lắm. Đôi khi chọn quần áo cũng thích. Nhưng lúc nào mẹ cũng n-n-n-n-nói quá nhiều.” Bữa trưa ở trường học cô chẳng bao giờ chịu ăn thức ăn mẹ cô bới cho cô đem theo. “Bánh mì kẹp thịt thấy mà ghê. Xúc xích gan thấy mà ghê. Cá tu-na để trong túi ướt nhẹp. Món duy nhất con thích ăn là thịt dăm bông Virginia, nhưng phải lột vỏ bì. Con cũng thích ăn s-s-súp nóng nữa.” Nhưng khi cầm theo bình thuỷ đựng súp đến trường, cô cứ làm vỡ bình. Nếu không tuần lễ đầu thì tuần thứ nhì. Dawn mua cho cô loại bình không vỡ nhưng ngay thế cô vẫn đập nó vỡ tan như thường. Đó là mức độ đập phá nơi con người cô.

Đi học về, trong lúc nướng bánh với Patti, bạn cô, Merry lúc nào cũng phải đập trứng vì Patti bảo đập trứng làm cô nhợn nhạo. Merry cho đấy là chuyện vớ vẩn, thế là một hôm cô đập quả trứng ngay trước mặt Patti và cô gái này nôn thốc ra. Đó là tính đập phá trong con người cô—đập bình thuỷ và đập trứng. Và vứt đi tất cả những gì mẹ cô bắt cô đem theo lúc đến trường. Không bao giờ than phiền, chỉ không chịu ăn. Khi Dawn bắt đầu nghi ngờ hành vi đó của con gái và hỏi cô ăn gì trong trường, Merry có lẽ vứt thức ăn mà chẳng hề mở hộp xem có gì bên trong. “Đôi lúc mẹ nghĩ con là đứa trẻ bất trị,” Dawn bảo cô vậy. “Không đâu. Con không b-b-b-bất trị như thế đâu nếu mẹ đừng hỏi con ăn gì trong trường.” Điên tiết, mẹ cô nói, “Merry, thật chẳng dễ dàng chút nào để làm nên con người con, phải không?” “Mẹ à, con nghĩ để làm nên con người con có lẽ còn dễ dàng hơn là lại g-g-gần con.” Với cha cô, cô tâm sự, “Con nghĩ trái cây cũng chẳng có gì h-h-hấp dẫn nên con vứt đi luôn.” “Và cả sữa con cũng vứt.” “Bố à, sữa hết lạnh uống sao nổi.” Nhưng dưới đáy hộp đồ ăn trưa bao giờ cũng có đồng mười xu để mua kem, và cô chỉ ăn có thế. Không thích mù-tạt. Đó là lời than phiền khác của cô ít năm trước khi cô bắt đầu than phiền về Tư bản chủ nghĩa. “Bố ơi, trẻ con làm cái gì?” Cô hỏi anh. Câu trả lời là Patti. Patti ăn bánh mì kẹp thịt có mù-tạt và phó-mát; Merry, trong những lần tâm sự trò chuyện với cha, không thể nào hiểu nổi điều đó. Bánh mì quết phó-mát nướng chảy là cái gì Merry thích ăn hơn cả. Phó-mát Muenster nướng cho chảy ra rồi ăn với bánh mì trắng. Ở trường học ra, Merry rủ Patti về nhà, và bởi Merry vứt hết thức ăn trưa rồi, hai đứa trẻ lúi húi nướng phó-mát ăn với bánh mì. Đôi khi chỉ là phó-mát nướng trên mảnh giấy nhôm. Cô dám chắc cô có thể sống ăn độc món phó-mát nướng chảy nếu có ngày cô phải sống như thế, cô bảo cha cô vậy. Có lẽ đó là hành vi vô trách nhiệm nhất của đứa trẻ—sau buổi học về nhà nướng phó-mát trên giấy nhôm rồi nhồm nhoàm ăn—cho đến khi cô ném bom phá nổ tan tành cửa hàng tạp hoá. Ngay chuyện Patti làm cô khó chịu cô cũng chẳng bao giờ nói ra, bởi cô sợ Patti đau lòng. “Đến nhà chơi mãi cũng có lúc p-p-p-phát chán chứ.” Nhưng với Dawn cô luôn luôn làm ra vẻ cô muốn Patti ở chơi lâu hơn. Mẹ ơi, Patti ở lại ăn cơm tối với mình được không? Mẹ ơi, Patti ở lại ngủ đêm chung với con được không? Mẹ ơi, Patti đi giày bốt của con được không? Mẹ ơi, mẹ chở con và Patti xuống quê chơi đi.

Năm lớp năm cô tặng mẹ món quà nhân Ngày Hiền Mẫu. Ở trường, các cô cậu học sinh được hỏi làm gì cho mẹ, cô viết lên tấm vải lớn mỗi thứ sáu trong tuần cô sẽ nấu cơm tối cho mẹ, một nghĩa cử khá rộng rãi nơi đứa trẻ lên mười nhưng cô không quên lời hứa đó phần lớn chỉ vì cô muốn chí ít một lần trong tuần có món ziti nướng trên bàn ăn; thêm nữa, nếu nấu ăn cô không phải dọn bàn rửa bát. Có Dawn phụ giúp, thi thoảng cô nấu món lasagna hoặc sò nhồi thịt, nhưng món ziti nướng bao giờ cũng do cô chính tay làm lấy. Đôi ba thứ sáu có nui trộn phó-mát nhưng thường vẫn là ziti nướng. Điều quan trọng là phải canh chừng cho phó-mát chảy ra, mặc dù quan trọng không kém mặt trên phải cứng giòn. Anh là người có nhiệm vụ dọn dẹp bát đĩa mỗi lần cô làm món ziti, và lần nào anh cũng phải rửa ráy một đống đồ dùng. Nhưng anh yêu thích chuyện đó. “Nấu ăn thích lắm nhưng dọn dẹp thì chẳng vui thú tí nào,” cô tâm sự với anh, nhưng anh không thấy vậy khi Merry nấu ăn. Anh nghe nói trên đường 49 có nhà hàng làm món ziti nướng ngon nhất New York, anh liền đưa gia đình đến ăn ở tiệm Vincent đều đặn mỗi tháng một lần. Anh đưa vợ con vào xem Radio City hoặc một vở nhạc kịch Broadway nào đó rồi kéo nhau vào tiệm Vincent. Merry thích tiệm này lắm. Anh chàng chạy bàn trẻ trung tên Billy cũng tỏ ra yêu mến cô đặc biệt vì cậu em anh chàng cũng bị tật nói lắp giống cô. Anh ta kể cho Merry nghe về những ngôi sao TV và điện ảnh đến ăn ở tiệm. “Ghế bố em đang ngồi kìa, thấy không? Signorina, thấy cái ghế đó không? Tối qua Danny Thomas ngồi ngay đấy. Em biết Danny Thomas nói gì khi có người lạ đến làm quen không?” “Kh-kh-kh-không.” “Ông ấy nói 'Hân hạnh được gặp ông.'” Sáng thứ hai, ngày hôm sau, tại trường, cô lặp lại những gì Billy của tiệm Vincent ở New York kể cô nghe tối hôm trước. Có đứa trẻ nào vui sướng hơn không? Một đứa trẻ ít phá hoại hơn? Một signorina be bé được cha mẹ yêu thương hơn? Không.

Mụ đàn bà da đen người to béo như con ngựa kéo xe thồ, mụ mặc quần màu vàng bó sát đùi, chân đi giày cao gót, khập khiễng tiến đến anh, một tay mụ chìa ra mảnh giấy nhỏ. Vết thẹo chằng chịt trên khuôn mặt mụ. Anh biết mụ đến báo tin con gái anh đã chết. Mảnh giấy viết thế. Chữ viết của Rita Cohen trên mảnh giấy. Mụ bảo anh: “Thưa ngài, ngài có thể chỉ đường cho tôi đến Salvation Army được không?” “Có Salvation Army quanh đây à?” Anh hỏi lại mụ. Trông mụ chẳng có vẻ gì là đang nói sự thật. Mụ đáp lời, “Ừm, tôi nghĩ vậy,” Mụ giơ lên mảnh giấy, “Trong này nói thế. Ngài biết nó ở đâu không, thưa ngài.” Bất kì câu nói nào bắt đầu hay chấm dứt bằng tiếng ngài thường có nghĩa là “Tôi muốn tiền,” và vì thế anh rút túi đưa cho mụ xấp giấy bạc, mụ lảo đảo quành bước rồi biến dạng vào hầm cầu, nhưng sau đó anh chẳng thấy bóng dáng ai hiện ra.

Anh đứng chờ bốn mươi phút và có lẽ bốn mươi phút nữa, có lẽ đến khi trời tối, tối mịt không chừng, người đàn ông mặc trên người bộ com-lê trị giá bảy trăm đô la, đứng dựa lưng vào cột đèn điện như gã lang thang không nhà áo quần rách rưới, người đàn ông với nhân dáng bề ngoài cho thấy ông ta là nhân vật chỉ biết đi dự hội họp và quan tâm đến chuyện kinh doanh, xã hội, chứ không thể là người chủ ý ra đứng lảng vảng trên con lộ đổ nát gần trạm ga xe lửa, người đàn ông có lẽ là kẻ giàu có từ phương xa đến ngỡ mình lạc vào khu chị em ta, và đang giả tảng nhìn bâng quơ lên bầu trời trong lúc đầu óc đầy ắp những điều bí mật và nhịp tim thình thịch đập (quả đúng như vậy.) Trong trường hợp Rita Cohen nói thật, một sự thật khiếp hãi, có lẽ anh sẽ đứng canh chừng nơi đó suốt đêm cho đến khi trời ửng sáng ngày hôm sau, với ý tưởng trong đầu anh sẽ bắt gặp Merry đi làm. Nhưng may mắn biết bao, sau bốn mươi phút cô xuất hiện, người đàn bà dáng thanh cao, nhưng chắc anh chẳng bao giờ nhận ra đó là con gái mình nếu anh không được mách trước đấy chính là nơi anh sẽ tìm thấy cô.

Một lần nữa trí tưởng tượng của anh thất bại. Anh có cảm tưởng anh không điều khiển nổi các cơ bắp trong người anh nữa, một khả năng anh thuần thục từ năm hai tuổi—anh không ngạc nhiên nếu mọi thứ trong người anh, kể cả máu, tung toé đổ xuống mặt đường. Làm sao anh chiến đấu nổi. Làm sao anh đem chuyện này về nhà đối diện khuôn mặt tinh khôi của Dawn. Những ngọn đèn điện sáng trưng của trần nhà bếp hiện đại chẳng thể nào soi đường cho cô ra khỏi cảnh này để trở về chốn cũ. Một nghìn tám trăm đêm buông thả cho trí tưởng tượng nổi trôi trong đầu người cha kẻ sát nhân vẫn không thể giúp anh chuẩn bị đối đầu với cuộc sống lẩn trốn của cô hiện tại. Không phải vì thế mà FBI vẫn không phăng ra manh mối. Thật quá khủng khiếp cho anh chỉ cần lướt qua ý nghĩ làm thế nào cô có thể trở thành con người như ngày hôm nay. Nhưng quay lưng lại chính con gái mình ư? Trong sợ hãi? Còn tâm hồn cô để nâng niu yêu thương chứ. “Đời sống!” Anh tự nhủ. “Không thể để mất con được! Đời sống của mình, của con!” Ngay lúc đó Merry nhận ra anh, và cho dù làm được, anh không thể quay lưng bỏ chạy, bởi đã quá trễ rồi.

Nhưng nếu bỏ chạy, anh sẽ chạy đến cái gì đây? Đến Swede, kẻ chạy đua không biết mệt chăng? Đến thằng cha Swede, phúc đức thay, quên bẵng hắn là ai và đầu óc trống trơn chăng? Đến Swede Levov của ngày xửa ngày xưa . . . Anh cũng có thể tìm đến nhờ mụ đàn bà da đen to béo mặt đầy thẹo giúp đỡ, hỏi mụ về chính anh, “Thưa bà, bà biết tôi đang ở đâu không? Bà biết tôi đang đi đâu không?”

Merry trông thấy anh. Làm sao cô không thấy anh được? Làm sao cô không thấy anh ngay cả khi anh đứng trên con đường nơi hiện hữu sự sống chứ không phải cái chết, nơi cảnh người đua chen bừng bừng sức sống đầy mạnh mẽ chứ không phải khoảng chân không vắng lạnh hoang tàn này? Cha cô đấy, người đàn ông điển trai thân hình cao gần hai thước, chẳng cô gái nào có được người cha điển trai đến vậy. Cô chạy băng qua đường, con người khiếp hãi này, và giống như đứa trẻ vô tư lự như anh có thời cảm thấy thích thú hồi tưởng chính anh cũng vậy—cô bé gái từ xích đu bên ngoài ngôi nhà đá chạy ùa vào—cô ôm chầm lấy anh, hai tay vòng lên bá cổ anh. “Bố! Bố!” Tiếng cô thốt ra từ bên trong tấm mạng che kín nửa mặt dưới—không thấy miệng và cằm cô đâu, tấm mạng chỉ là miếng giẻ rách xé ra từ chiếc vớ ni lông cũ—cô cất tiếng gọi con người cô thù ghét thật trơn tru, không chút gượng gạo, như bất kì đứa trẻ nào, và giống như người lâm vào thảm kịch không biết mình là con cái nhà ai.

Cha con cứ thế khóc mùi mẫn, người cha vững vàng, người quản chế mọi trật tự, người không thể để bất kì dấu hiệu hỗn loạn nào xảy ra—giữ không cho hỗn loạn lại gần là con đường đã chọn của trực giác tiến đến đích thực, điều hẳn nhiên chắc nịch thường ngày của đời sống—và cô con gái, cô chính là sự hỗn loạn đó.



Cô theo đạo Jain. Cha cô không hiểu đó là cái gì cho đến lúc với giọng nói đều đều như lời kinh cầu—giọng nói trơn tru có lẽ cô nói trong nhà nếu cô được chữa khỏi tật nói lắp trong lúc sống dưới sự bảo bọc yêu thương của cha mẹ—cô bảo anh Jain là một giáo phái nhỏ bên Ấn Độ. Anh có thể chấp nhận điều đó không khó khăn, nhưng anh không rõ Merry sống như bây giờ bởi giáo lí bắt vậy hay do chính cô tự đặt ra, ngay cả nếu cô quả quyết tất cả mọi sinh hoạt của cô bây giờ đều là sự biểu hiện niềm tin tôn giáo. Cô che mặt bằng tấm mạng để tránh gây nguy hại đến các vi sinh vật sống trong không khí. Cô không tắm rửa bởi cô tôn trọng mọi sinh thể khác kể cả loài côn trùng. Cô không rửa ráy, cô nói, “vì rửa ráy gây tác hại đến nước.” Cô không đi đâu lúc trời tối, ngay cả trong phòng riêng, bởi cô sợ bàn chân cô đè bẹp làm chết sinh vật nào đó. Cô giải thích bên trong bất cứ hình thái vật chất nào cũng có linh hồn nhốt bên trong; hình thái đời sống càng thấp, linh hồn nhốt bên trong càng đau đớn. Con đường duy nhất để giải thoát khỏi vật chất và đạt tới “cõi chân phúc vĩnh cửu dựa vào cuộc sống tự túc” là con đường tiến tới một “linh hồn toàn bích.” Cô kính cẩn gọi thế. Người ta chỉ có thể đạt tới cõi toàn bích này qua sự tu tập khổ hạnh, quên mình và qua học thuyết ahimsa, tức bất bạo động.

Năm “lời nguyện” đánh máy trên mấy tấm cạc nhỏ dán trên tường bên cạnh một đống nệm cao su cáu ghét nằm dưới sàn nhà bẩn thỉu. Đó là chỗ ngủ của cô, và bởi không còn gì khác ngoài đống cao su trong góc phòng và đống giẻ rách—áo quần của cô—ở góc bên kia, đó cũng là nơi cô ngồi gặm những gì lây lất nuôi sống cô. Ít lắm, vô cùng ít, dựa vào sắc diện của cô hiện tại; trông cô như đang ở Delhi hay Calcutta, không ai có thể tưởng tượng nổi cô chỉ cách Old Rimrock năm mươi phút lái xe, cô là người đang chết đói không phải vì niềm tin chân thành của mình vào đức tu khổ hạnh mà là con người cùng khốn bị mọi người khinh khi ghét bỏ, đang lê lết đôi chân yếu đuối bước những bước đi tội nghiệp.

Căn phòng nhỏ lắm, nhỏ ghê rợn hơn cả phòng giam nhà tù trẻ vị thành niên mà những đêm nằm trằn trọc trên giường anh tưởng tượng có ngày vào thăm cô sau khi cô bị bắt giữ. Từ bệnh viện chó mèo đi về phía trạm ga xe lửa đoạn rẽ sang hướng tây, anh theo cô về phòng sau khi chui qua gầm cầu dẫn đến xa lộ McCarter, cái gầm cầu dài không quá năm mươi thước nhưng là nơi người lái xe phải khoá cửa xe cẩn thận mỗi lần chạy ngang. Gầm cầu tối đen, lối đi bộ bừa bãi những món vật không ai hình dung nổi là gì lẫn lộn với bàn ghế cũ gãy nát, lon bia, chai lọ. Bảng số xe dưới chân. Mười năm rồi không ai buồn dọn dẹp chỗ đó. Có lẽ chẳng bao giờ. Mỗi bước chân đi anh nghe tiếng thuỷ tinh vỡ rào rạo dưới đế giày. Ngay giữa lối đi bỗng có quầy rượu nằm chình ình. Nó ở đâu ra? Ai đem nó đến đây? Một cái quần đàn ông. Dơ bẩn. Người đàn ông là ai? Chuyện gì xảy đến cho gã? Swede sẽ không kinh ngạc chút nào nếu anh chợt nhìn thấy cánh tay hay ống chân của ai đó nằm dưới đất. Một túi rác chận ngay lối đi. Màu đậm. Cột chặt. Cái gì nằm trong túi rác? Nó to vừa để chứa xác một người chết. Và cũng có thân xác những người sống, lẫn lộn ngập ngụa trong đống rác, những con người mặt mày hung tợn lẩn trong bóng tối. Và bên trên thành cầu, tiếng xe lửa chạy ầm ầm—tiếng xe lửa chạy về trạm ga nghe từ bên dưới đường sắt. Năm, sáu trăm chuyến xe lửa mỗi ngày, ngay trên đầu.

Để đến phòng trọ của Merry bên cạnh xa lộ McCarter, bạn phải bước qua cái gầm cầu đó, cái gầm cầu khiếp hãi như bất kì gầm cầu xa lộ nào trên thế giới chứ không riêng gì ở Newark này.

Cha con đi bộ bởi cô không muốn lên xe cho anh lái. “Bố! Con chỉ đi bộ chứ không đặt chân lên ô tô bao giờ,” thế là anh đành bỏ xe lại đại lộ Railroad cho ai đó đến lấy trộm, và cuốc bộ mười phút đồng hồ bên cạnh cô đến phòng trọ, đi được mươi bước suýt nữa nước mắt anh đã trào ra nếu anh không luôn tự nhắc nhở thầm, “Đây là đời sống! Đây là đời sống cha con mình! Mình không thể để mất con,” và nếu anh không nắm tay cô trong lúc đi xuyên qua cái gầm cầu kinh khiếp đó, “Đây là bàn tay con mình, bàn tay Merry. Không có gì trọng đại hơn bàn tay con gái mình.”

Cô kể anh nghe những chặng đường cô trải qua.

Và anh nghe với tâm trạng gì? Thắc mắc: Giả như có lúc trong đời sống gia đình trước khi cô đi vào con đường lầm lỡ, lúc đó là lúc nào và ở đâu? Suy nghĩ: Chẳng bao giờ có lúc đó, chẳng bao giờ có một Merry ngoan ngoãn vâng lời, suốt chừng đó năm trời cô đánh lừa vợ chồng anh, cho vợ chồng anh cảm tưởng cô an toàn nằm dưới sự bảo bọc của cha mẹ. Suy nghĩ: Vô ích thôi, mọi việc anh làm. Chuẩn bị, tập tành, trách nhiệm; quên mình để chu toàn những điều thiết yếu, những gì quan hệ nhất; xây dựng một cách có hệ thống, quan sát tỉ mỉ mọi vần đề, lớn hay nhỏ; không phó mặc, không buông thả, không lười nhác; kiên trì làm tròn mọi bổn phận, năng nổ đáp ứng mọi yêu cầu . . . danh sách dài như Hiến pháp nước Mĩ, những tín điều của anh—và tất cả đều vô ích. Tất cả chỉ là sự hệ thống hoá những điều vô ích. Còn lại là chính anh, kẻ bị trói buộc bởi muôn vàn trách nhiệm.

Suy nghĩ: Con mình không ở trong tay mình, nó chẳng bao giờ nằm trong tay mình cả. Số phận nó nằm trong tay một thế lực khốn nạn. Cái gì hết sức là điên rồ. Tất cả chúng ta đều thế. Người lớn không mang trọng trách này. Chính họ không ai chịu trách nhiệm này. Có cái gì khác.

Vâng, ở tuổi bốn muơi sáu, năm 1978, sau gần ba phần tư thế kỉ xác trẻ nít và cha mẹ chúng bị băm vằm quăng ra bừa bãi khắp nơi, Swede mới nhận thức là tất cả chúng ta đều nằm dưới sự kiềm toả của thứ thế lực vô cùng điên khùng đó. Ông bạn ơi, chỉ là vấn đề thời gian thôi. Tất cả chúng ta đều chịu chung số phận!

Anh nghe tiếng chúng cả cười, bọn Weathermen, bọn Panthers, đoàn binh ô hợp đầy phẫn nộ của những con người Bất Tha Hoá bạo tàn, bọn chúng gọi đích danh anh là kẻ tội phạm và thù ghét anh cay đắng chỉ vì anh là kẻ có của. Cuối cùng Swede nhìn ra! Chúng sung sướng đến mê say, hả hê vì huỷ hoại được cô gái cưng của anh, đời sống riêng tư anh cũng bị chúng phá nát, rốt cuộc chúng lùa anh lọt vào chân lí của chúng, một chân lí như chúng biết là chân lí của mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ nít Việt Nam, mỗi cộng đồng da đen trong nước Mĩ, bất kì người nào trên mặt đất bị rút rỉa bởi bọn tư bản tham lam tàn độc. Sự điên khùng chính là lịch sử nước Mĩ! Đó là đế quốc Mĩ! Đó là Chase Manhattan và General Motors và Standard Oil và Newark Maid Leather! Xin mời các ngươi vào, bọn chó tư bản! Hân hoan chào mừng nhân loại nằm-dưới-sự-dày-xéo-của-nước- Mĩ!

Cô thuật lại bảy mươi hai tiếng đồng hồ sau vụ nổ bom, cô trốn tại nhà riêng của Sheila Salzman, người nữ bác sĩ trước đây giúp cô chữa bệnh nói lắp, ở Morristown. Cô an toàn mò đến nhà Sheila, được bà cho vào nhà và ban ngày ẩn náu trong phòng đợi bên cạnh văn phòng làm việc của bà còn ban đêm cô ngủ ngay trong văn phòng. Thế là bắt đầu cuộc sống lẩn trốn của cô. Trong vòng hai tháng trời, cô có đến mười lăm cái tên giả khác nhau và cứ bốn năm ngày lại phải di chuyển chỗ ở. Nhưng khi đến Indianapolis, cô làm quen với một đại diện phong trào, người này chỉ biết cô là thành phần phản chiến đang sống lẩn trốn chính quyền. Cô ra nghĩa trang thấy trên bia mộ tên đứa bé sơ sinh sinh cùng năm với cô, cô lấy tên đứa bé làm tên mình rồi đi xin giấy khai sinh, và từ đó cô có cái tên khác là Mary Stoltz. Sau đó, cô còn đi xin thẻ thư viện và số An sinh Xã hội, và bằng lái xe khi cô mười bảy tuổi. Trong gần năm trời—qua sự giới thiệu của người đại diện—Mary Stoltz kiếm sống bằng nghề rửa chén trong nhà bếp một viện dưỡng lão, cho đến một buổi sáng ông ta gọi điện thoại và bảo cô phải đến gặp ông ta ngay tức khắc tại bến xe đò Greyhound. Tại bến xe, ông ta nhét vào tay cô cái vé xe đi Chicago, bảo cô ở lại đó hai ngày rồi mua vé đi thẳng sang Oregon—phía bắc thành phố Portland có khu trại tập thể nơi cô có thể dùng làm nơi ẩn náu. Ông ta cho cô địa chỉ khu trại tập thể và ít tiền để mua quần áo, thức ăn và vé xe đò, cô đến Chicago, tại đây, ngay đêm đầu tiên, cô bị hãm hiếp. Bị bắt cóc, hãm hiếp, trấn lột. Mới mười bảy tuổi đầu.

Tại nhà bếp một quán rượu tồi tàn dưới mặt đường và không được tử tế như nhà bếp viện dưỡng lão, cô rửa bát kiếm tiền đi Oregon. Ở Chicago không ai trợ giúp cô và cô cũng không dám bắt liên lạc với người trong phong trào bởi cô sợ không may có chuyện gì sai lầm cô sẽ bị công an bắt. Ngay cả dùng điện thoại công cộng gọi cho người đại diện phong trào ở Indianapolis cô cũng không dám. Cô bị hiếp lần nữa (tại phòng trọ thứ tư) nhưng lần này cô không bị cướp tiền, và vì thế sau sáu tuần lễ rửa bát cô dành dụm được ít tiền đủ để lên đường sang Oregon.

Thời gian ở Chicago, nỗi cô độc phủ trùm, cô cảm thấy nó như dòng nước xuyên chảy qua người cô. Không ngày nào, có hôm không giờ khắc nào cô không nghĩ đến chuyện ra gọi điện thoại về nhà ở Old Rimrock. Nhưng lần nào cũng thế, trước khi kịp nghĩ ngợi đến căn phòng thời thơ ấu của mình vốn có thể hoàn toàn biến đổi con người hiện tại của cô, cô tạt vào tiệm ăn nào đó rồi ngồi tại quầy ăn, gọi nhà bếp làm cho mình cái bánh mì kẹp thịt cùng li sữa đánh kem va-ni. Lần nào cũng một câu nói tương tự, đoạn cô ngồi nhìn miếng thịt mỡ heo co rút trên mặt chảo nóng, nhìn lát bánh mì nhảy lên từ lò nướng, cẩn thận rút cây tăm cắm trên ụ bánh khi phần ăn được mang lên, vừa ăn vừa uống sữa đánh kem, đặt hết tinh thần nhai từng cùi rau diếp nhạt thếch, cho thấm vào miệng vị béo xông khói của miếng thịt mỡ heo chiên giòn và vị ngọt của lát cà chua mềm mại, nuốt vào bao tử mọi thứ cùng với bánh mì quết xốt me-on-ne, kiên nhẫn cho xương quai hàm và hàm răng làm việc, nghiền nát từng miếng trong miệng để nỗi u hoài trong lòng dịu xuống—cô chăm chú đặt hết tinh thần vào phần ăn như đàn bò mẹ cô nuôi chăm chỉ nhai rơm trong máng—cho cô can đảm một mình tiếp tục cất bước. Cô ăn hết đĩa bánh và uống cạn li sữa đánh kem, lòng hồi tưởng lại chặng đường đã qua và hình dung ra chặng đường trước mặt. Khi rời Chicago, cô khám phá ra một điều, đó là cô không cần có một mái nhà; cô sẽ không bao giờ để tình cảm mình chi phối phải nặng lòng lưu luyến mái ấm gia đình.

Ở Oregon, cô dính líu đến hai vụ đặt bom.

Thay vì ngưng tay, cô thấy tinh thần phấn chấn hơn sau vụ đánh bom gây tử vong người đàn ông tên Fred Conlon; sau Fred Conlon, thay vì bị lương tâm đánh gục, cô rũ sạch mọi sợ hãi vu vơ và niềm ăn năn hối hận. Nỗi kinh hoàng sau khi giết người, dù không chủ tâm, một người vô tội, một người tốt lành như bất kì con người tốt lành nào cô muốn gặp, không hề dạy cô bài học về điều ngăn cấm cơ bản nhất, và dù được cha mẹ nuôi nấng dạy dỗ, trong cơn mê loạn say sưa cô không nhìn ra. Cái chết của người đàn ông tên Conlon chỉ làm gia tăng niềm tin tưởng cuồng nhiệt của cô vào lí tưởng cách mạng, cô không nhụt chí dùng những phương tiện, dù tàn bạo đến đâu chăng nữa, để tấn công vào thành trì tội ác. Chống đối lại bất cứ thứ gì tốt đẹp trong cái nước Mĩ sa đoạ đều cao đẹp chứ không hoa hoè như những món đồ xinh xắn cô treo trên tường phòng ngủ của cô, cô chứng minh được như thế.

“Chính con là người đặt bom?” Anh hỏi cô.

“Vâng, chính con.”

“Ở Hamlin và Oregon, cũng chính là con?”

“Vâng.”

“Ở Oregon, có ai chết không?”

“Có.”

“Ai?”

“Người ta.”

“Người ta,” anh lập lại. “Bao nhiêu người chết, hả Merry?”

“Ba.” Cô trả lời.

Tại khu trại tập thể, đồ ăn thức uống không thiếu. Ở đó, người ta tự trồng trọt nhiều loại thực phẩm và vì thế cô không phải đêm đêm đi mò rau cải trái cây hư thối bên ngoài siêu thị như thời gian cô mới đặt chân đến Chicago. Cũng tại nơi đây cô bắt đầu ngủ với người đàn bà cô yêu, bà ta là vợ anh thợ dệt. Merry học chạy máy dệt từ anh thợ những lúc cô không bận lắp ráp bom. Lắp ráp bom trở thành tay nghề của cô sau khi cô thành công đặt quả thứ hai và thứ ba. Cô yêu thích sự kiên nhẫn và chuẩn xác cần thiết để nối dây nhợ từ thanh thuốc nổ vào bộ phận nổ và từ bộ phận nổ vào cái đồng hồ báo thức Woolworth. Đây là lúc tật nói lắp của cô dần dà biến mất. Cô không bao giờ nói lắp trong lúc làm việc với thuốc nổ.

Bỗng xảy ra chuyện bất hoà giữa vợ chồng anh thợ dệt, hai người cãi nhau kịch liệt và Merry phải bỏ khu trại tập thể ra đi để tìm lại sự yên ổn trong trại.

Giữa thời gian nương náu ở Idaho, nơi cô làm việc trong những rẫy khoai, cô quyết định trốn sang Cuba. Đêm đêm trong căn phòng khu ba-rắc của nông trại cô học tiếng Tây Ban Nha. Sống chung đụng với những thành phần lao động trong nông trại, cô càng cảm thấy tin tưởng hơn vào con đường mình đang theo đuổi, mặc dù những gã nông dân uống rượu vào say sưa làm nhiều điều sằng bậy dễ sợ và cô lại bị hiếp nhiều lần. Cô tin là sang Cuba cô có thể sống bên cạnh những công nhân mà không phải e sợ sự bạo hành từ họ. Ở Cuba cô vẫn là Merry Levov chứ không phải Mary Stoltz.

Tại thời điểm này cô đi đến kết luận là sẽ chẳng bao giờ vận động được cuộc cách mạng bên trong nước Mĩ để lật đổ mọi lực lượng kì thị, phản động và tham tàn. Chiến tranh du kích trong thành thị là vô ích thôi khi phải đương đầu với một siêu cường nguyên tử không hề ngần ngại dùng bất cứ biện pháp nào để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của nó. Bởi cô không hỗ trợ được cuộc cách mạng bên trong nội địa nước Mĩ, hi vọng duy nhất của cô là hiến thân cho cuộc cách mạng đã mở màn. Nếu được vậy, cuộc sống lưu vong của cô có cơ chấm dứt và giai đoạn mới thật sự bắt đầu.

Năm kế đó cô tập trung mọi cố gắng tìm đường xuống Cuba, tìm đến Fidel, người giải phóng giai cấp vô sản và xoá tan mọi bất công với chủ nghĩa xã hội. Nhưng tại Florida lần đầu cô chạm trán với công an liên bang. Tại Miami có một công viên đầy dân tị nạn Dominica la cà. Nơi đây thật tốt cho cô tập nói tiếng Tây Ban Nha và chẳng bao lâu cô biến thành cô giáo dạy tiếng Anh cho đám thanh thiếu niên. Chúng mến cô lắm và gọi cô là La Farfulla, cô gái cà lăm, cô bỏ qua, tha cho chúng trò tinh nghịch nói lắp theo cô những chữ tiếng Anh cô dạy chúng đọc. Nhưng cô nói tiếng Tây Ban Nha khá lưu loát, không ngọng ngịu, ngập ngừng chút nào. Thêm một lí do nữa để chạy theo cánh tay cách mạng thế giới.

Một hôm, Merry thuật tiếp, cô để ý thấy một gã da đen lạ mặt đi lang thang đến công viên kín đáo quan sát cô dạy học bọn thanh thiếu niên. Cô nhận ra ngay điều này có nghĩa là gì. Một ngàn lần trước đó cô nghĩ FBI đang theo dõi cô và một ngàn lần cô lầm tưởng—ở Oregon, Idaho, Kentucky, Maryland, FBI theo dõi cô lúc cô đứng bán hàng trong tiệm tạp hoá; lúc cô ngồi ăn trong tiệm ăn; lúc cô rửa bát nơi phòng ăn tập thể; lúc cô về nhà nơi cô cư ngụ trên con phố tồi tàn; lúc cô trốn trong thư viện nơi cô đọc báo và nghiền ngẫm tư tưởng những nhà cách mạng, thông hiểu Marx, Marcuse, Malcolm X, và Frantz Fanon, nhà lí thuyết người Pháp mà mỗi câu văn của ông, như bài kinh cầu trước giờ đi ngủ, đã giúp cô vững vàng chõi dậy tương tự như li sữa đánh kem và đĩa bánh mì kẹp thịt. Phải luôn luôn ghi nhớ người đàn bà Algeria biết được vai trò của bà vừa là “người đàn bà cô độc ngoài đường” vừa là người, bằng bản năng, mang trên vai sứ mệnh cách mạng. Người đàn bà Algeria không phải là gián điệp bí mật. Không hề được tập luyện, không hề được chỉ bảo, không hề ồn ào, bà bước ra đường với ba quả lựu đạn trong sắc tay. Bà không chủ

tâm đóng một vai trò nào. Không có nhân vật nào để mô phỏng hay bắt chước. Mặt khác, có sự bi kịch hoá đầy mãnh liệt, sự liền lạc giữa người đàn bà và cuộc cách mạng. Người đàn bà Algeria chỗi dậy thẳng tiến tới mức độ của bi kịch.

Suy nghĩ: Và cô gái New Jersey tuột dốc xuống tới trình độ xuẩn ngốc dại khờ. Cô gái New Jersey cha mẹ gửi đi ăn học tại trường Montessori bởi cô quá giỏi giang, cô gái New Jersey tại trường Trung học Morristown điểm hạng chỉ có A và B—cô gái New Jersey vươn thẳng lên trình độ những trò chơi điếm nhục. Cô gái New Jersey vươn tới trình độ của căn bệnh thác loạn thần kinh.

Khắp nơi, tại các thành phố cô lẩn trốn, cô nghĩ cô trông thấy người của FBI theo dõi cô—nhưng Miami mới là nơi sau cùng cô trông thấy nguy cơ hiện rõ trong lúc cô dạy tiếng Anh cho lũ thanh thiếu niên ngoài công viên thành phố. Tuy vậy, cách nào cô phụ lòng lũ trẻ được? Cách nào cô ngoảnh mặt quay lưng lại lũ trẻ sinh ra đời không có gì trong tay đó? Lũ trẻ mà ngay với chúng cũng là rác rưởi trong thế giới loài người. Hôm sau ra công viên cô lại thấy gã lang thang da đen trẻ tuổi cầm tờ báo che mặt giả vờ nằm ngủ trên băng ghế, cô bỏ đi ngay và khi ra tới mặt đường cô chạy thục mạng, cô chạy mãi cho đến khi cô gặp người đàn bà mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, người đàn bà da đen to béo có con chó bên cạnh. Bà cầm trong tay cái li nhỏ lắc lắc lên xuống miệng nói thều thào, “Mù mắt, mù mắt, mù mắt.” Trên vỉa hè dưới chân bà là chiếc áo choàng bằng len rách bươm, và Merry nghĩ cô có thể trốn trong chiếc áo choàng đó. Nhưng cô chẳng thể nào cướp đại chiếc áo từ người đàn bà; thay vì thế cô hỏi người đàn bà cô có thể giúp bà ăn xin được không, bà trả lời được, Merry hỏi bà cô có thể mượn bà chiếc áo choàng và cặp kính đen được không, bà trả lời, “Cô gái cưng, cái gì già cũng có thể cho cô được,” thế là Merry mình mặc chiếc áo choàng cũ kĩ dày cộm, mắt đeo kính đen đứng dưới bầu trời nắng chang chang ở Miami tay lắc lắc cái li xin tiền trong lúc người đàn bà van vỉ “Mù mắt, mù mắt, mù mắt.” Đêm đó cô trốn dưới hầm cầu, nhưng ngày hôm sau khi cô mò lại chỗ bà già da đen ăn xin, lần nữa cô trá hình trong cái áo choàng và cặp kính đen, và cuối cùng cô vào sống chung với bà già và con chó của bà, từ đó cô trở thành người săn sóc bà.

Đó là thời điểm cô bắt đầu đọc sách về tôn giáo. Bunice, tên người đàn bà, hát cho cô nghe mỗi sáng khi còn nằm trên giường nơi cô ngủ chung với bà và con chó. Nhưng Bunice bị ung thư và qua đời, đó là thời kì u tối nhất: ở bệnh xá, khu ung thư, nhà quàn, cô là người thân duy nhất bên cạnh bà, cô mất đi người cô thương yêu nhất trên đời . . . cô chưa bao giờ khổ tâm như vậy.

Thời gian Bunice nằm trên giường chờ chết, cô tìm thấy trong thư viện một số sách vở và sau khi đọc cô dứt khoát từ bỏ truyền thống Do-Thái-Thiên-Chúa để tìm kiếm cho bằng được tôn chỉ đạo đức vô thượng ahimsa, một tôn chỉ hướng thượng đời sống cùng lời nguyện sẽ không bao giờ gia hại bất kì sinh vật nào.

Cha cô không còn thắc mắc ở thời điểm nào đời sống cô vuột khỏi tầm tay kiểm soát của cha mẹ, anh cũng không tiếp tục suy nghĩ tất cả những gì anh làm đều trở nên vô ích và cô con gái anh bị khống chế bởi thế lực điên khùng nào đó. Thay vì thế, anh nghĩ Mary Stoltz không phải là con gái anh, bởi lí do giản dị con gái anh không thể nào chịu đựng nổi ngần đó khổ đau. Cô là đứa bé gái sống ở Old Rimrock, được nâng niu chiều chuộng hết mực bên trong thiên đường. Không đời nào có chuyện cô làm việc trong rẫy khoai và ngủ đêm dưới gầm cầu suốt năm năm trời, khốn đốn trong nỗi hãi sợ bị ruồng bắt. Cô không thể ngủ với người đàn bà mù mắt và con chó của mụ. Indianapolis, Chicago, Portland, Idaho, Kentucky, Maryland, Florida—không bao giờ Merry có thể một mình sống tại những nơi chốn đó, một người cô độc lang thang không cửa không nhà rửa bát kiếm ăn, trốn tránh cảnh sát, kết bạn với những kẻ nghèo hèn trong công viên thành phố. Và không bao giờ cô lại có ngày quay về Newark này. Không. Sáu tháng trời sống ngay đây, đi bộ xuyên qua con đường hầm, mặt che bằng tấm mạng và cứ thế đi bộ một mình, sáng cũng như tối, ngang bãi rác phế thải và tất cả những đồ vật bẩn thỉu—Không! Câu chuyện không thể có thật, mục đích của nó là tiêu huỷ nhân vật ác, kẻ đó chính là anh. Câu chuyện là bức biếm hoạ, bức biếm hoạ được thổi phồng, và cô là diễn viên, cô gái này là kẻ chuyên nghiệp, được chúng thuê với mục đích làm cho anh đau đớn bởi anh là cái gì hoàn toàn tương phản với chúng. Chúng muốn kết liễu đời anh bằng câu chuyện kẻ ti tiện sống lưu vong ngay tại vùng đất nơi gia đình cô nhiều đời thành đạt giàu có, và vì thế anh nhất quyết không chịu tin những gì cô kể. Anh suy nghĩ trong đầu, Hãm hiếp? Bom? Miếng mồi ngon cho bất kì thằng điên nào? Khổ ải không đủ diễn tả những gì cô trải qua. Địa ngục mới đúng. Merry không thể nào sống sót nổi. Cô chẳng thể nào sống sót sau khi giết chết bốn mạng người. Cô chẳng thể nào nhẫn tâm giết người vô tội và vẫn nhơn nhơn tiếp tục sống sau đó.

Rồi anh nhận ra cô không thể tồn tại. Bất kì sự thật là gì, bất kì chuyện gì thật sự xảy ra cho cô, lòng quyết tâm từ bỏ cuộc sống đáng khinh khi của cha mẹ cô đã đẩy cô xuống vực thẳm và huỷ diệt chính con người cô.

Cố nhiên tất cả những điều này đều có thể xảy đến cho cô. Khắp nơi trên mặt đất này mỗi ngày đều có những chuyện như vậy. Anh không hề có ý niệm người ta hành xử ra sao.

“Cô không phải là con gái tôi. Cô không phải là Merry.”

“Bố nghĩ như thế cũng được. Biết đâu đó lại là điều hay nhất.”

“Meredith, tại sao con không hỏi bố về mẹ con? Bố phải nhắc con sao? Mẹ con sinh ra ở đâu? Khuê danh của mẹ con là gì? Tên ông ngoại con là gì?”

“Con không muốn nói về mẹ.”

“Bởi vì con chẳng biết gì về mẹ con cả. Hay về bố. Hay con người con đang giả dạng. Con hãy nói về căn nhà bên bờ biển cho bố nghe. Tên cô giáo dạy con ở lớp một là gì? Lớp hai là gì? Này, cô hãy cho tôi biết tại sao cô lại đi giả dạng làm con gái tôi!”

“Nếu con trả lời bố những câu hỏi đó, bố chỉ khổ tâm thêm thôi. Con không biết bố muốn khổ đến đâu.”

“Ồ, này cô gái trẻ tuổi, cô đừng lo lắng tôi bị khổ tâm—cô cứ trả lời những câu hỏi của tôi. Tại sao cô giả dạng làm con gái tôi? Cô là ai? 'Rita Cohen' là ai? Hai người rắp tâm làm chuyện gì? Con gái tôi đâu? Tôi sẽ đi thưa cảnh sát trừ phi cô cho tôi biết tất cả sự thật và chỗ ở con gái tôi.”

“Bố, những gì con đang làm chẳng ai có thể đi kiện cáo.”

Chế độ luật pháp khốn nạn. Ngoài cái đạo Jain cực kì khốn nạn còn cái luật pháp cứt đái này nữa.

“Không,” anh bảo cô, “bây giờ thì không—bây giờ chỉ là sự khốn nạn cho tôi thôi! Nhưng chuyện cô làm trong quá khứ thì sao!”

“Con làm chết bốn mạng người,” cô trả lời anh, bình thản và ngây thơ như cô có lần bảo anh, “Hồi chiều con nướng bánh đấy bố ạ.”

“Không!” Anh hét to. Đạo Jain, luật pháp, sự ngây thơ cực kì ngu xuẩn, tất cả sự tuyệt vọng, tất cả tách rời cô ra khỏi bốn mạng người chết. “Không được! Không thể như thế này được! Cô không phải là người đàn bà Algeria! Quê cô không phải là Algeria, cũng không phải Ấn Độ! Cô là cô gái Mĩ nhà cửa ở Old Rimrock, New Jersey! Một cô gái Mĩ vô cùng, vô cùng lầm lỡ! Bốn mạng người! Không!” Và giờ đây anh không chịu tin vào sự thật, giờ đây anh thấy những tội lỗi cô làm phi lí hết sức và không thể nào có thật. Cô là đứa con thừa hưởng mọi ưu đãi phúc lành và vì thế chuyện cô đi vào con đường lầm lỡ là chuyện không bao giờ có thể xảy ra. Cả anh nữa. Chẳng bao giờ có chuyện đứa con do chính anh sinh đẻ có thể giết chết bốn mạng người. Chẳng bao giờ có chuyện đó bởi cô có tất cả những gì đời sống ban phát, đòi hỏi, và tất cả những gì xảy đến cho cô từ ngày cô mở mắt chào đời không thể nào biến cô thành kẻ giết người. Giết người? Gia đình này làm gì có chuyện đó. Không có chuyện đó trong cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Họ Levov này chỉ bị gán cho cái tội tày đình đó thôi. Không, cô không phải, không thể là con gái anh. “Nếu cô khoe khoang không bao giờ nói dối, không bao giờ lấy của ai cái gì, lớn cũng như nhỏ—tất cả những thứ vớ vẩn đó, Merry, những thứ vớ vẩn hoàn toàn vô nghĩa—tôi xin cô hãy cho tôi biết sự thật.”

“Sự thật giản dị lắm. Đây là sự thật. Bố phải gạt bỏ mọi dục vọng và tính ích kỉ đi.”

“Merry! Merry! Merry!” Anh kêu lên, và không kềm chế nổi nữa, với tất cả sức mạnh cường tráng của người đàn ông, anh nhào lên cô trong lúc cô ngồi thu mình trên đống cao su dơ bẩn. “Merry ơi! Đây không phải là con! Con không bao giờ nhúng tay làm nổi những chuyện kinh khủng như vậy!” Cô không chống cự lúc anh lấy tay giật phăng tấm mạng che mặt. Tấm mạng cắt ra từ vớ chân đàn bà, nó che cằm cô nơi đáng lí phải là chỗ của gót chân. Thật không có gì hôi hám hơn món vật người ta đi dưới chân và cô lấy che miệng. Mình yêu thương con, con yêu thương mình—và kết quả nó lấy vớ chân làm khăn che mặt. “Nói! Nói ngay!” Anh ra lệnh.

Nhưng cô không chịu nói. Anh cạy miệng cô. Anh bôi xoá lằn ranh trước đây anh không bao giờ bước qua—không bao giờ dùng bạo lực với con cái. Nhưng giờ đây tất cả mọi cảm thông đều bị xoá nhoà. Không còn sự cảm thông nào nữa, mặc dù anh biết bạo lực rất phi nhân và cũng vô ích thôi, và sự cảm thông—đối thoại hợp lí giữa đôi bên cho đến khi tìm ra điểm đồng thuận—thật cần thiết để đạt đến kết quả lâu dài. Người cha, người không bao giờ dùng sức mạnh với con cái, người quan niệm bạo hành là hiện thân của phá sản đạo đức, dùng ngón tay cạy miệng con gái mình và bắt cô thè lưỡi ra. Một cái răng cửa trong miệng cô bị mất, một trong những cái răng đẹp. Điều đó chứng minh đây không phải là Merry. Suốt chừng đó năm đeo niềng răng, biết bao công lao giữ gìn cho hàm răng đẹp, cho lợi răng tốt, cho nụ cười xinh—đây không thể nào là cô con gái anh.

“Nói!” Anh lại ra lệnh cho cô, và cuối cùng mùi hôi thối từ thân thể cô xông lên mũi anh, mùi hôi thối nhất từ một con người, hôi thối hơn bất kì con người nào ngoại trừ đó là kẻ sống rệu rã hay xác chết rệu rã. Lạ thật, mặc dù cô bảo anh cô không tắm rửa bao giờ bởi làm thế sẽ tác hại đến nước, trước đây ít phút anh chẳng ngửi thấy mùi gì cả—lúc anh ôm cô ngoài đường hay khi ngồi đối diện cô trong căn phòng tối mờ mờ—không gì ngoài cái mùi là lạ, chua chua, thum thủm khiến anh liên tưởng đến toà nhà đẫm mùi nước tiểu lưu cữu. Nhưng mùi anh ngửi thấy bây giờ, trong lúc bắt cô há to miệng, là mùi hôi thối của con người, một con người điên loạn loay hoay tìm kiếm lạc thú trong đống cứt của chính mình. Mùi hôi thối từ người cô bốc lên anh. Thật kinh tởm. Con gái anh là con người hư thối nồng nặc mùi hư thối của cặn bã. Mùi thối từ cô là mùi thối của tất cả những gì hữu cơ tan rữa. Nó là mùi thối của cái gì không liền lạc. Nó là mùi thối của con người cô bây giờ. Cô có thể nhúng tay vào những chuyện kinh khiếp đó chứ, và cô đã làm, cái tôn chỉ phải biết quý trọng đời sống là sự bỉ ổi sau cùng.

Anh cố tìm kiếm một cơ bắp nào bên trong anh để bít kín cổ họng, cái gì đó giúp anh ngưng lại ngay đây, đừng đẩy anh sâu thêm nữa xuống vũng lầy nhầy nhụa, nhưng tuyệt nhiên không có cơ bắp nào như thế. Ruột gan anh quặn thắt thức ăn chưa kịp tiêu hoá cùng chất chua, lưỡi anh thấy lợm vì vị đắng a-xít từ bao tử xông lên, và lúc anh hét “Cô là ai!” anh mửa thốc mửa tháo xuống mặt cô.

Trong bóng tối nhờ nhờ của căn phòng, khi nằm đè lên cô anh biết thật rõ cô là ai. Cô không cần mở miệng với khuôn mặt trần trụi không che đậy cho anh biết cái không thể giải thích đã vĩnh viễn thế chỗ cái anh vẫn đinh ninh trong đầu xưa nay. Nếu cô không mang nhãn hiệu Merry Levov trên người nữa vì hết tật nói lắp, đôi mắt vẫn là mắt cô, không sai chạy vào đâu được. Bên trong hốc mắt sâu hoắm và to quá khổ, đôi mắt đó là mắt anh. Dáng người cao cao là anh, đôi mắt của anh. Toàn thể con người cô là anh. Cái răng hở thì bị nhổ hoặc bị ai đánh văng đâu mất.

Lúc anh lui ra cửa cô không nhìn theo mà hốt hoảng nhìn quanh căn phòng chật hẹp như thể trong lúc điên cuồng anh đã gia hại không biết bao nhiêu vi sinh thể vô hại sống chung với cô trong cô độc.

Bốn mạng người. Thảo nào cô biến mất. Thảo nào anh biến mất. Đây là con gái anh, và không ai hiểu nổi cô. Tôi là cha kẻ sát nhân này. Anh mửa lên mặt cô, khuôn m
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Giọt Mưa trên tóc
Tiểu Tử

Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục:
– Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt.

Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận:

– Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?
Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:
– Mình đi chung mà Kim.

Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”… Một “cái gì”… Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm:

“Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng…”. Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng…” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.

Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường… đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.

Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau…

Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:
– Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng…
– Sao Nghĩa biết?
Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.
Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:
– Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.
– Họ đi thoát không?
– Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.
Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:
– Không biết họ đi có thoát không?
Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:
– Gia đình Kim có định… có định… đi không Kim?
Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:
– Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?
Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:
– Thì… hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết…
Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng…

Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, đèo nhau trên xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!

Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:
– Còn Nghĩa? Có tính đi không?
Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:
– Kim trả thù hả?
Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:
– Thì… hỏi là hỏi vậy thôi.
Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.
Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.

Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!

Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.
– Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?
Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:
– Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó… Nó…
Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.
Nghĩa tiếp:
– Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!
– Cái gì uổng?

mưa xuân2
Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:
– Thì…
Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:
– Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.
Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.
Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.
Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:
– Thôi, “bye” nghe Kim.
Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.

***

Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:
– Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.
Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:
– Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?
Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”. Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng: “Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”.

Vậy mà bây giờ… bây giờ… Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song… Vậy mà bây giờ… bây giờ… Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ… những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày… bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?… Kim?… Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!

Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:
– Con đem trả sách cho thằng Tuân.
Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:
– Trả cho nó học.
Ba gật đầu:
– Ờ… Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?
Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:
– Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.
Nghĩa “dạ” rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.

Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?… Ra sao?…”.

Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh…
Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:
– Ai đó?
– Dạ thưa cháu.
Nghĩa trả lời.
– Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?
Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:
– Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao…
Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách!

Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng gie ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.

Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút… như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ… Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi… Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ…

Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:
– Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?
Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.

Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ… cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn… Vĩnh viễn…”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu… tình yêu… tình yêu…

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên…

Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh: “Nghĩa đi hả?”

Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa? Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt….

Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt… mai mốt… Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng…

Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:
– Chừng nào?
Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:
– Khuya!
Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa… Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như… siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!

Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.

Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất… Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.

***

Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn…

Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ…

Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….

Nghĩa đốt điếu thuốc. Hít một hơi dài bỗng nghe khói thuốc thật đắng và làm cay chảy nước mắt!

Tiểu Tử
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

ĐẤT NƯỚC TÔI YÊU


Ta nằm xuống thảm cỏ quê hương
Hát một bài ca về Đất mẹ
Sông, núi, bầu trời qua bao thế hệ
Vẫn ngọt ngào như câu ca dao.

Mẹ đã nuôi ta trong mưa nắng dãi dầu
Ta lớn lên thành người con đất nước
Dân tộc tôi gặp nạn nhiều,
và cũng nhiều tủi cực
Nhưng rất giàu yêu thương bao la,

Việt Nam ơi !
Ta gọi tên hai tiếng của ông cha
Qua 4.000 năm dân vẫn còn mông muội
Hết giặc ngoại xâm
lại giặc nhà giày xới
Đánh thắng bao quân thù,
mà nay chửa thành thân.

Ôi ! Đất nước ta yêu quí vô ngần
Thế kỉ XXI rồi, người ơi !
Chẳng lẽ cứ câu ca dao
"ngày tám tháng ba" hát mãi ?
Hãy mở thật rộng cửa trời Mỹ, trời Âu
Vừa láy thế chống giặc phương bắc tràn vào
Vừa mở mang kinh tế
Cụ Phan Châu Trinh đã dậy rồi:
"dân trị tức pháp trị"
Không có gì quí hơn "khai dân trí" !

Ôi, đất nước tôi yêu !
Ta sống làm người của non sông
Chết làm ma đất nước
Dẫu chưa theo được bước chân cường quốc
Hãy thương láy ngọn cỏ quê hương
Đói khát, khổ nghèo lòng nguyện thủy chung
Không theo gót Tàu Bang
hại giống nòi, dân tộc
Để con cháu muôn đời không ô nhục !


Tháng 6.2018
Phạm Ngọc Thái
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Những đóa hoa và nhành nguyệt quế
Trần Mộng Tú


Bạn có biết không?

Vào ngày 12 tháng 6 năm 2018, có sáu mươi (60) khẩu súng trên pháo đài Fort Siloso ở đảo Sentosa, Singapore đã được trang hoàng bằng những đóa hoa và nhành nguyệt quế trên nòng súng.

Nơi hai vị nguyên thủy Mỹ-Triều gặp nhau để nói chuyện hòa bình.

Sự tinh khiết trong trắng và hương thơm của những bó hoa gắn trên đầu súng: hoa lily màu trắng và màu hồng, hoa cát tường đỏ, hoa đồng tiền vàng với nhành nguyệt quế xanh ngọc, biểu tượng cho sự tốt đẹp, hòa bình. Chỉ nhìn thấy những bó hoa đó trên đầu súng người ta như nghe được cả tiếng vỗ cánh của con chim bồ câu trắng.

Bạn có biết không?

Đêm 10 rạng ngày mồng 11 tháng 6 ở nhiều thành phố trên đất nước Việt Nam, từ Sài Gòn, Nha Trang kéo ra tới Phan Rang, Phan Rí, người dân cũng kéo nhau rầm rộ ra đường để biểu lộ lòng quyết tâm giữ từng tấc đất của người Việt không để chính quyền giao cho ngoại bang.

Người dân Việt coi đất như một phần xương thịt của mình. Cầm một mảnh đất trên tay, chúng ta có bao nhiêu điều suy nghĩ về đất: Đất nước tôi; từ đất tôi sinh ra, tôi lại về với đất; đất lề quê thói; một tấc đất, một tấc vàng; đất là mẹ ta, đất là cha ta; đất cung cấp thực phẩm, đất nuôi ta sống. Và đất là nơi ta trở về tìm, đất là nơi ta gửi xương gửi thịt.

Trong quá khứ, bằng trực tiếp hay gián tiếp chính quyền Việt Nam đã mang bán từng mảnh đất biên giới cho quốc gia hàng xóm. Người dân đang sống giữa hai ranh giới đó cũng bị bán đi mà không biết, để rồi chỉ một, hai thế hệ con cái về sau bỗng nhiên trở thành người nước khác mà không cần một lý do pháp lý nào. Những “người lạ” càng ngày càng giành dân lấn đất ngay trên quê hương của chúng ta. Cái viễn ảnh bị lấn át, chiếm đoạt ngoài biển, trên bờ ngày càng rõ rệt.

Ngày hôm nay, kinh hoàng hơn nữa khi nghĩ đến việc chính những nhà lãnh đạo đất nước lại mang đất nước cho ngoại bang thuê dài hạn cả thế kỷ. Chín mươi chín năm (99 năm) tức là 4 thế hệ: Ông Bà, Cha Mẹ, Con cháu, Chắt. Ai là người sẽ đứng ra để thu lại được mảnh đất người lạ đã làm chủ bốn đời.

Ngôn ngữ của quốc gia mình cũng chẳng giữ được nói chi đến đất. Những chủ mới trong 99 năm đó sẽ biến xứ sở Việt thành nước thứ hai của họ.
Họ đến, họ ở lại và họ chiếm đoạt.

Bởi vậy ngày nay người dân phải ra sức bảo vệ đất đai của quốc gia dù có phải đương đầu với bắt bớ giam cầm ngay cả nguy hiểm đến bản thân.

Trải bốn ngàn năm dựng nước nhà

Sông khoe hùng dũng núi nguy nga

Trả ta sông núi muôn đời trước

Không đòi ai trả núi sông ta. (Thơ-Vũ Hoàng Chương)

Cha ông ta đã hy sinh bao nhiêu thế hệ để giữ từng tấc đất, người dân Việt ngày hôm nay nhất định không để cho nhà cầm quyền xẻ sông phá núi dâng đất nước cho ngoại bang.

Bạn có biết cũng hôm nay người dân đã.

Cùng nhau chống lại luật an ninh mạng của nhà nước để người dân được tự do thông báo cho nhau từng cơn gió trở mình của đất nước.

Cấm liên lạc trên mạng là cấm tất cả những liên lạc giữa người dân với nhau bằng một hình thức hiệu quả nhất. Làm sao để gọi nhắn nhau tụ họp, xuống đường, chống lại những sai trái của nhà nước. “Luật An Ninh Mạng là luật bịt mắt, bịt tai, bịt miệng người dân.” Khi mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói người dân sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào chính quyền, như người khuyết tật lệ thuộc vào bàn tay dắt đi và ai cũng biết bàn tay của chính quyền ngày nay dắt chúng ta đi tới đâu.

Bạn có biết đêm nay ở Bình Thuận-Phan Rí có những chiếc xe cảnh sát bị người dân đốt cháy, những viên gạch ném vào trụ sở của tỉnh, những người cảnh sát phải bỏ mũ áo chạy dưới sức mạnh của người dân không vũ khí. Họ chỉ có những mảnh giấy chống đối cầm tay, những viên đá nhặt ở dưới đất chống lại với súng đạn.

Bao nhiêu năm nay từ ngày “Thống Nhất”, đất nước luôn luôn ở trong tình trạng người dân bị chính quyền đàn áp bằng những luật lệ bất thành văn, cá lớn nuốt cá bé, kèm theo bắt bớ, nhà tù. Người dân Việt vốn dĩ cầu an, nếu đất nước còn đó, giang sơn còn đó, họ cũng cố chấp nhận những bất công để sống. Nhưng khi bị dồn vào tình thế đất nước dần dần thuộc về ngoại bang họ có phản ứng. Tức nước thì bờ phải vỡ. Họ cùng kéo nhau ra đường, hô lên tiếng nói và lòng yêu nước, với hai bàn tay không họ chống lại những người cầm súng.

Trong những người cảnh sát ra làm nhiệm vụ dẹp loạn thế nào cũng có những người cùng một lòng với dân, như hình ảnh của anh Cảnh Sát Cơ Động (CSCĐ) dưới đây.
Image
Hy vọng anh không bị lụy đến thân vì tấm hình rất đẹp này.
Trong tiếng hò hét phẫn nộ chợt bạn nhìn thấy một nụ cười. Nụ cười rạng rỡ an bình của người Cảnh Sát Cơ Động trong một hình hài thất thế, vết tích tang thương hai tay trần không súng không kiên chắn, buông xuôi nhưng miệng nở một nụ cười thật đẹp.

Nụ cười trên môi anh chính là chùm hoa lily và nhành nguyệt quế gắn trên đầu súng..

Nụ cười của anh cho chúng ta biết là anh đã nhận ra điều gì. Anh bắn ai, bắn vào đồng loại, bắn vào cô, bác, anh chị, hay chính vào cha mẹ mình.

Trên nét mặt của anh không có cái phẫn nộ của người thất thế, anh đã nhận ra được vẻ đẹp của chùm hoa và hương thơm của nhành nguyệt quế trên cây súng anh vừa vứt xuống. (tmt)
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

KHÓI NHANG
Hồ Đình Nghiêm
Mạ tôi không có nhiều áo dài, đâu chừng chỉ ba chiếc. Áo của mạ đúng là áo dài, dài miên man, vướng víu hai tà gần chấm gót. Cổ cao, in tuồng có độn mi-ca ở trong cho cứng cáp. Không mấy khi thấy mạ ủi, xếp trong tủ mà chừng như luôn phẳng phiu, chẳng nhăn nhàu. Thợ may khéo, đã đành, qua thời gian hàng vải lạ thường kia không hề thu rút lại một mảy may. Chúng vẫn ôm lấy, sát sao cơ thể một người đàn bà có đông con. Thường thì thời gian hậu sản, da thịt người mẹ hơi bị “phát tướng”, hơi bị sỗ sữa; nhưng mạ tôi cứ rứa, thuỷ chung thi gan cùng tuế nguyệt. Nếu dùng thuật ngữ mà thời buổi lạ lùng này, người trong nước cắc cớ ưa nhắc là “số đo ba vòng” thì chẳng cần dùng thước đo đạc, ngày đó mạ tôi vẫn “chuẩn” không cần “chỉnh”, không phì nhiêu chẳng giảm sút, ôm vào lòng vẫn ấm gọn một vòng tay, vẫn bất di bất dịch lượng suối trong nguồn chảy ra, vẫn chuối chín cây, vẫn biển Thái bình hiền hoà sóng vỗ êm đềm, che chở và bảo vệ suốt đời một bờ bãi luôn được bồi đắp phù sa. Có một câu tiếng Pháp viết như thế này: Je n’ai pas besoin de m’aimer avant de t’aimer, parce qu’il n’y a pas d’ordre, juste l’amour. Có lẽ tác giả chỉ dành cho tình yêu lứa đôi. Đâu cần phải yêu mình trước khi yêu người… Mình được mạ đẻ ra thì mình yêu thương mạ là chuyện ắt có và đủ. Không so đo, chẳng phân bì. Vẻ đẹp do tình yêu mang lại nó vốn thế.

Mạ tôi thương người con đầu ra sao thì thương thằng út một mực như vậy. Người con đầu ra riêng thì cán cân tự động lệch hẳn một phía. Nào lạ gì khi trong gia đình ai nấy đều thông hiểu câu “con út trút gia tài”. Tôi là đứa hưởng được cái đặc ân kia, thứ lề luật không tiện viết ra văn bản. Trong mâm cơm, món ngon hoặc thứ “hắn” thích mạ luôn xí phần: Ăn chi vô hậu rứa bây, cứ tranh ăn với em là tại vì răng? Thằng út hay bị chảy máu cam, mạ nấu cho nồi chè đậu đỏ ăn giải nhiệt sau khi biểu hắn nằm xuống tấm phản đắp trán bằng khăn ủ nước lạnh và lỗ mũi đã nhét chật một lá trầu xanh nhằm ngăn chận giọt máu đào thất thoát, hao hụt.

Hôm ấy (một sáng sương Thu đầy gió lạnh?) mạ tôi mặc lấy chiếc áo dài màu xanh rêu, hàng nhung êm mịn. Bối tóc sau khi chải mượt bằng chiếc lược làm bằng sừng trâu, xỏ đôi bông tai có nạm ngọc xanh vào trái tai chỉ thua đức Phật chút đỉnh về độ dài. Mạ đeo vòng kiềng bằng vàng 24 le lói, chỉ hèn kém thua vật trang sức của Nam Phương hoàng hậu nhưng đủ tăng hào quang khi tôi ngó sững tới mạ. Nó “ăn” với chiếc áo màu xanh rêu nhung gấm ấy quá và tổng thể, những vật phụ kiện vừa cài đặt kia đã khiến mạ ăn gian thần thời gian tới cả chục niên, hàm hồ mà nói rứa. Trong xóm vắng có ai lạc giọng hát bài “Tôi đưa em sang sông”, giọng chất ngất tâm sự:… chiều xưa mưa rơi âm thầm để thấm ướt chiếc áo xanh… hôm nao em sang ngang, bằng xe hoa thay con thuyền, giờ phút cuối đến tiễn em… gót chân ngày xa xưa sợ lấm trong bùn khi mưa…

Khi mạ chính thức sang ngang, bản nhạc này chưa thể hiện hữu. Ngoài làng mạ ở cũng có một dòng sông, nhưng cây đa bến cũ con đò năm xưa hình như chỉ dành riêng cho một mình ba tôi đến đón đưa. Thời đó, khi thất tình, người ta sẽ làm gì? Người ta bỏ làng nước để trốn đi làm cách mạng ư? Bây giờ thì xem chừng người ta đã làm quen với tất cả những cơn sóng tràn bờ, với thứ lãng mạn tiểu tư sản, dùng nó vỗ về chút thương đau. Ai thất tình mà hát giọng buồn chi lắm thế? “Anh” nhắc tôi nhớ hôm nay là ngày chị tôi thực sự lên xe hoa, không sang ngang chẳng qua đò, cũng không xác pháo vướng gót chân. Vì đại sự nên mạ tôi đã “diện” chiếc áo đẹp nhất mà mạ có. Chiếc áo “ăn nói” ít khi tìm ra cớ để khoác thân. Nôm na là xếp trong đáy tủ để “phòng khi hữu sự”. Và hữu sự đã tới, sánh đôi cùng những lời mạ thủ thỉ dành cho chị tôi, người từng ái ngại để bùn hoen gót chân trong ngày mưa:

Kể từ ngày mạ đẻ con ra
Ai mớm cơm, trún cháo lớn mà từng ni?
Hai tay bưng đọi chè tàu
Vừa đôi thì lấy ham giàu làm chi.

Rõ là:

Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.

Có ngồi chào vao, có kiếm cách chuyển vẫn gì đi nữa thì cuối cùng chị tôi cũng “bỏ nhà ra đi”. Dù anh hàng xóm buồn đời hát hỏng “mưa bên chồng có làm em khóc?” thì mọi chuyện cũng đã lỡ sang trang. Dâu bể cuồng nộ vùi dập phận người tả tơi rồi cũng đâu vào đó huống hồ chuyện nhi nữ thường tình. Xe hoa mang đi chỉ một người đâu sánh bằng chiếc thuyền chở hàng trăm tính mạng bọt bèo trôi sông đổ biển? Nghe ai đó nói “người tình không chân dung” nọ đã xếp bút nghiên theo việc đao cung. Là sĩ quan lính thứ dữ, đánh đấm ra trò ở mặt trận cổ thành Quảng Trị, là nơi do vua Minh Mạng dựng xây mà trong phạm vi lớn chưa tới 3 cây số vuông đã hứng chịu 320 ngàn tấn bom đạn chăm cày xới trong 81 ngày đêm khói lửa triền miên. “Anh không chết đâu anh”. Anh cũng không làm bại tướng cụt chân, nhưng khi anh trở về thăm xóm, vô tình anh khiến mạ tôi siêng đi chùa.

Ngoài chiếc áo nhung xanh rêu mạ còn hai chiếc khác: Một màu lam và một màu nâu. Có người gọi lam là màu khói nhang, có người kêu nâu thành màu nu. Và có người đưa nhận xét, đó là những màu căn bản mà con em gia đình Phật tử vẫn thích mặc vào người. Không tin hả? Mấy sư cô, các sư nữ hằng tin rằng thứ sắc độ ấy ít trêu ngươi, ưa lắng chìm vào sự trầm tịch. Vậy thì chẳng lẽ kiếp trước mạ tôi là o con gái quét lá sân chùa, rót nước dâng hoa lên bàn Phật? Bên ngoài cảnh giới nghiêm cẩn đạm bạc ấy có lắm màu vui nhộn non tươi là thế răng mạ lại đi chọn thứ màu “kín đáo” rứa hè?

Giống hầu hết quý vị phụ nữ thời đó, mạ tôi làm thứ nghề nghiệp kỳ cục được ghi nắn nót trong sổ gia đình: Nội trợ. Phong trào nữ quyền là gì? Nào ai hay! Cũng như kế hoạch hoá gia đình là gì? Condom là cái quỷ sứ chi? Quý ông đầu đội trời chân đạp đất vẫn như vịt nghe sấm, nước đổ lá môn, chẳng làm nhăn mặt nước hồ thu từ bao lâu vẫn phẳng lặng. Nội trợ là giúp đỡ việc trong nhà? Quán xuyến việc chăm con, giặt giũ, may vá, đi chợ, nhặt rau, nấu ăn, rửa chén bát. Nếu có nuôi bầy gà thì sáng ra sân vãi nắm gạo cho chúng ăn để chạng vạng thì tục tác gọi chúng về chuồng. Đầu tắt mặt tối thì có vẻ hàm oan vì mạ tôi tự ví mình là ba đầu sáu tay “mặt trận nào cũng đánh thắng”. Đã thế còn biết cách thu xếp lịch lao động để chừa ra một khoảng trống trong hai mươi bốn giờ lu bu trấn nhậm hậu phương. Khoảng thời gian phù du ấy mạ tôi dành vào việc đọc sách. Bà có một trí nhớ phi thường, kể ra vanh vách từng chi tiết, tên các nhân vật nằm trong toàn bộ các tiểu thuyết của bao tác giả ở nhóm Tự Lực văn đoàn. Mạ nào con nấy, tôi cũng bắt đầu sa ngã lòng mình, thổn thức theo những trang văn chương có khả năng dắt trí tưởng mình dẫm chân vào những “vùng địa đàng” tuyệt đối không hề có cảnh tên bay đạn lạc. Người sĩ quan binh chủng Thuỷ quân lục chiến xóm giềng hết ba ngày phép, sang chào mạ tôi để kịp có mặt ở một trận đánh ác liệt khác. Anh nhìn tôi: Mi không lo học thì bữa mô chân cẳng cũng phải lội khắp bốn vùng chiến thuật như tao. Một xanh cỏ hai đỏ ngực là thứ khiến mạ tao phải ăn chay trường trì chú tụng kinh. Coi chừng, mạ mi cũng rứa thôi, kêu trời răng thấu?

Tôi học rất kém. Vẫn ước ao có được đầu óc minh mẫn giống mạ mình. Thông tín bạ luôn có hàng chữ mực đỏ của thầy cô phê: “Chăm chỉ, hiền ngoan nhưng học lực cứ không thấy tiến bộ”. Mấy thầy cô “học lực” coi bộ kém thua ba tôi. Ông phán, kiểu tam đoạn luận: Thằng ni luôn coi sách vở là kẻ thù, đã là kẻ thù thì buộc phải tránh xa, vì xa lánh sách đèn nên dốt đặc cán mai nào là chuyện lạ! Thấy chưa toàn vẹn, ba tôi buông một dấu chấm: Đồ con hư tại mạ! Mạ tôi chẳng lấy đó làm điều, bà hoá thân thành một nhà hiền triết: Không có học trò dốt, chỉ có thầy cô chẳng nắm vững phương pháp giáo dục thôi! Chao ôi, một người chỉ biết nghề nội trợ mà dõng dạc phát ngôn ra thế. Dễ nể thật! Khẩu khí nọ đi thẳng vào người tôi, sướng như cởi được tấc lòng, như đả thông được hai huyệt nhâm đốc. Mạ tôi mô phải là người mạ bình thường, bà còn là thần tượng của tôi nữa, không phải rứa hay răng? Bà là chưởng môn nhân môn phái Tình Thương: Hỡi những con chim chưa ra ràng đang bị vặt lông, hãy nối kết cánh lại. Tôi chưa đủ lông đủ cánh vì rứa nên cứ bu mạ như sam. Tôi nghĩ quẩn, e chiếc áo dài xanh rêu nhung gấm sang trọng và đẹp đẽ của mạ sẽ bị xếp xó, ngủ yên dưới đáy tủ, vì rằng cái ngày mà tôi cả gan “đem nàng về dinh”, đưa nàng sang sông, tam thập nhi lập… thì ngày đó có diễn ra sẽ không cách chi có sự hiện diện của mạ. Sức người có hạn, có là tài thánh mới bắt mạ mình chờ được, nhìn ngó đứa con út dại khờ tự lập thân chập chững vào đời.

Rồi thần thời gian đã lén “đi đêm” với thần chết. Quỷ khóc thần sầu đã vi phạm hiệp định ngưng bắn, đang an vui là thế họ tới gõ cửa, điểm danh đúng tên mạ tôi. Bà chẳng có một biểu hiện nào trước đó, rất đột ngột một cơn bệnh ngặt nghèo đã vật bà xuống. Anh chị tôi mang bà vào Sài Gòn, tìm đến một bệnh viện nổi tiếng nhất, nhưng họ bó tay sau một tuần làm đủ các xét nghiệm. Sẽ không lâu nữa đâu, chúng tôi buộc lòng phải nói thế. Hãy mang cụ về nhà để nhỡ có những việc cụ đang dở dang việc hoàn thành… Một người nội trợ, hãy nghiệm xem, những việc nhỏ nhặt họ làm thường nhật có đáng không để bận tâm mưu cầu một vuông tròn? Cho dù chẳng ra cơm ra cháo thì… ba vạn cũng bỏ. Hãy thõng tay vào chợ. Xin cho một lần được thảnh thơi. Không, tôi quả thật hồ đồ, tôi quá trẻ người non dạ. Tôi đâu biết tâm niệm của mạ là được ngó mặt tôi lần cuối. Không biết ở ngoài nớ, việc ăn uống ngủ nghê sách đèn của thằng út con mạ ra răng? Mạ ở xa hắn có nhớ quay quắt không?

Chị tôi nói trong nước mắt: Theo chị đoán thì thực sự tim mạ đã ngừng đập khi nằm trên máy bay, tay chân lạnh ngắt. Chị không ngờ mạ đã gắng gượng, dùng tàn lực để mở mắt ra trông em phút cuối. Hãy nhớ đến thời khắc nọ để ghi chính xác tới ngày giờ tử của mạ. Tôi không vuốt mắt vì thứ nhãn tuyến mù mờ ấy đã vội đóng, đồng tử khép lại liệu có kịp thu giữ nhân diện thằng con út của người? Một giọt nước mắt trườn ra khỏi khoé, bò chậm xuống những đường da nhăn. Ai đã mặc cho mạ tôi chiếc áo dài màu khói nhang trên người? Chiếc áo đã bạc tình thôi ôm giữ sát sao cơ thể mạ như ngày nào. Một bầu trời vừa sụp đổ xuống người tôi.

Trước khi chạy được sang tới đây, tôi mất cả mạ lẫn ba, bỏ lại hai nấm mồ hoang lạnh. Như ca dao ví, tôi là một cây đờn bị đứt hết dây, tình tang chi nữa hỡi con bạn mình ơi! Tôi vượt biển cùng một người con gái đất Thần kinh mà mạ tôi nào chứng giám là hắn vừa có vợ. Tôi lên đò chòng chành sóng lớn, ôm theo hành trang một “con sáo sổ lồng bay đi” vô phương hướng. Đất lành chim đậu là một từ ngữ thậm chính xác. Đất lành cho nên thống kê về số tử vong gần như chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chuyện nhỏ. Cũng vì đất lành cho nên đến lúc trái gió trở trời, chim có lạc đường bay, có rụng lông gãy cánh thì người sống trên cuộc đất ấy sẽ ra công tô đậm thành ngữ “cho chim liền cánh như cây liền cành”. Tôi từng vào nằm nhà thương, mát dạ mát gan khi nằm yên cho họ lắp cánh tháp cành. An tâm, rồi bạn sẽ chóng bình phục. Họ hỏi: Trong gia đình bạn có ai mất vì chứng ung thư không? Tôi nói có, hiền mẫu. Họ bày dao kéo chuẩn bị làm một cuộc banh da xẻ thịt, họ bảo mức độ nguy hiểm chỉ lên tới 17% và rồi tôi bị đánh thuốc mê, chìm trôi không hay biết chuyến đò chèo mát mái hay sông trôi lộn bờ. Nhận chén cháo lú hay hoàn hồn reo to chữ Freedom như ngày nào chính thức giã từ kiếp thuyền nhân.

Chuyến “sang ngang” ấy tối đen hơn mộ huyệt, chừng tám tiếng sau có người cúi mặt thấp xuống thăm dò sự hô hấp của tôi, mặt nạ dưỡng khí làm tôi trông lên không rõ hư thực một quang cảnh xa lạ, đầy hơi nước mù ẩm. Người ấy nói: Tôi tên Sylvie, y tá chăm nom bạn hôm nay, chúng tôi sẽ chuyển bạn lên tầng bốn, nằm ở phòng đầy đủ máy móc dụng cụ để dễ theo dõi tiến độ sức khoẻ bạn mang. Bạn thấy thế nào? Từ một tới mười, cơn đau của bạn đang ở lằn mức số mấy? Không cần nói, bạn dùng tay để ra dấu. Sylvie có mái tóc vàng, tôi chỉ nhận ra điều ấy trước tiên. Thật có hơi bất tiện nếu tôi di chuyển cánh tay trái, bởi ở đó còn ghim một mũi kim với ống nhựa chuyền nước biển. Tay phải tôi xoè cả 5 ngón, cọng thêm 3 ngón ở lần hai. Ô, vậy thì thuốc tê đã bắt đầu hết gây ảnh hưởng, hãy uống bốn viên này đi. Vừa morphin giảm đau vừa thuốc tăng lực, giúp chóng hồi phục.

Cửa thang máy mở. Một nam y tá cao to đẩy chiếc giường tôi nằm vào một diện tích quá đỗi rộng rãi. Sylvie theo cùng, cô ta cũng đẩy một cái bàn có bốn bánh xe đặt để hai cái máy hình thù kỳ lạ. Cô nhặt một tấm mền mỏng từ dưới giường, trải rộng rồi đắp vào người tôi. Trong bệnh viện dường như bao giờ cũng có một cơn gió lạnh vụt thoáng qua. Một ngày có mấy chục bệnh nhân câm lặng thay đổi chỗ trú thân? Từ “khách sạn 3 sao” này xuôi đổ về cái motel hoang lạnh mọc chơ vơ bên xa lộ, đưa mặt cho người ta tô son trét phấn như kiểu thủ tục làm đẹp để trình diện Diêm vương ngó sao cho tử tế?

Tôi nghĩ là bạn khỏi cần thở bình dưỡng khí nữa. Chừng nửa giờ sau, có người sẽ mang phim đặt dưới lưng bạn để chụp quang tuyến X. Sylvie nói khi phụ người y tá lực lưỡng cẩn trọng nhấc hỏng tôi đặt sang một chiếc giường khác, êm ái hơn, tươm tất hơn. Tối nay chúng tôi gồm ba người sẽ thay phiên vào xem chừng bạn, sợi dây này có cái nút nhựa đỏ, bấm nó chừng nào bạn cần tới sự giúp đỡ. Trong lúc này bạn ngủ được chừng nào tốt chừng đó. Tấm màn được kéo lại, bóng điện hạ độ sáng xuống sau khi Sylvie hý hoáy ghi vài hàng chữ vào tấm bìa cứng rồi máng nó gần đầu nằm. Cô bóp nhẹ vào vai tôi thế một lời tạm biệt.

Nửa khuya, chừng khoảng hai giờ sáng, tôi bị lôi ra cơn ngủ vùi do ảnh hưởng thuốc cứ mãi uống cách khoảng bốn tiếng. Một bóng trắng vừa lẻn vào, mang theo chút giá lạnh và bà mặc đồng phục y tá ấy đã vạch áo tôi thăm dò vết cắt cùng những đường chỉ khâu y như có một con rết mãi bám cứng, mãi hút máu, mãi truyền độc tố làm tê nhức. Đẹp. Ổn thoả. Chẳng sưng tấy. Bà từ tốn chậm rãi lau mặt cho tôi bằng chiếc khăn ấm áp vừa hấp tẩy xong. Bà dịu dàng điều chỉnh cho chiếc giường gấp lại để từ nằm tôi đổi qua thế ngồi, xong thì bà ôm lấy tôi vào lòng vỗ về, thì thầm nói hãy mơ tới một điều gì thật tốt đẹp, phải tự nhìn nhận rằng cuộc đời này vẫn còn đó những điều đáng yêu, dẫu nhỏ nhặt. Tôi dựa đầu vào vai bà, khứu giác ngửi ra một hương mùi quen thuộc, xa vắng. Tôi vòng tay ra ôm cứng lấy bà, tôi lục soạn trí nhớ và mơ hồ nghĩ rằng thân thể vừa kích ấy rất trùng hợp với mạ tôi. Bà nói bà biết tôi đang đắng miệng, vậy thì thèm ăn hoặc uống một thức gì cứ cho hay, khuya mai bà sẽ mang vô. Tôi có những cuốn truyện hay nhưng ngại là mắt người bệnh hẳn còn yếu, chưa nên đọc. Hãy nên thương mình trước khi yêu tha nhân. Hãy cố tĩnh dưỡng, bởi được đi lại bình thường là một món quà của thượng đế trao tặng cho mỗi chúng ta.

Những gì bà nói thoảng qua tai tôi có mãnh lực khiến căn phòng hồi sức này tự động biến sang vuông không gian ở Huế ngày cũ. Tự dưng tôi nhớ mạ mình đến muốn khóc. Trong đời, chỉ có mạ tôi mới quan ngại chăm lo kiểu đó, kỳ dư chẳng còn một ai. Lương y như từ mẫu hoặc y tá như mẹ hiền thì cũng nằm ở một chừng mực nào đấy thôi. Từ một tới mười, bà thương tôi ngang mức số mấy? Nếu có hỏi e rằng bà ấy chỉ xoè bàn tay đủ năm ngón là cùng. Mức trung bình. Vậy cũng nên xem là tốt phước.

Tôi chóng bình phục, tình trạng khả quan đến độ cả bác sĩ lẫn năm cô y tá thường theo dõi chăm sóc tôi cũng phải ngạc nhiên. Họ nhận xét: Thường thì người Á châu tuy thể lực không bằng dân Âu châu Nam Mỹ nhưng ngược lại, tinh thần của họ rất vững vàng, giỏi chịu đựng. Sự chịu đựng của bạn là phương thuốc quý, nhưng chúng tôi nghĩ, ngoài ra hẳn bạn phải nương vào một phép nhiệm mầu nào đó, khó giải thích. Họ thay phiên bắt tay tôi, chúc mừng ngày tôi trở lại sinh hoạt với nhân quần bên ngoài khuôn viên bệnh viện. Tạm thời quên chuyện mưu sinh đi nhé, chúng tôi sẽ viết giấy chứng nhận rằng bạn cần tĩnh dưỡng ít lắm là một tháng. Tháng sau nhớ vào lại đây cho chúng tôi xét nghiệm, một thủ tục cần có, chỉ vậy thôi.

Tôi thưa với họ là tôi chưa an lòng ra đi khi lỡ quên thốt lời cảm ơn chân thành đến một bà y tá. Ai vậy? Bà đó tên gì? Họ trố mắt nhìn tôi. Bằng vào sự ấp úng khi diễn đạt vừa tiếng Anh chen lẫn tiếng Pháp: Tôi thật vụng về quên hỏi tên bà ấy. Bà vẫn đến hằng đêm, vào khoảng hai giờ sáng, ôm ấp tôi, vỗ về tôi… Không biết tên, vậy thì nhân dáng bà ta ra sao? Mập, ốm, màu da, độ tuổi? Tôi cà lăm, phụ diễn bằng tay… rằng thì là tôi trông không rõ mặt, chỉ biết bà có một mái tóc đen… bà ngồi trên giường nên tôi cũng chẳng biết cao thấp ngang đâu… không ốm chẳng mập, đủ ôm vừa một vòng tay và người bà thơm thứ mùi nồng đậm tựa trầm hương. Cả ê-kíp vây quanh tôi, đứng nhìn nhau mặt nhăn mày nhíu, Sylvie là phát ngôn viên sau cùng: Mỗi ca trực chúng tôi đều ghi rõ tên họ, giờ giấc của từng y tá. Điều anh nói thì rõ là hoang đường, không riêng khu này, tôi e là khu lân cận cũng chẳng có một người y tá như anh vừa tả. Chúng tôi hy vọng là liều lượng thuốc mà chúng tôi trao anh uống suốt tuần lễ qua sẽ không gây cho bệnh nhân một ảo giác nào cả. Dù sao thì trường hợp này sẽ buộc chúng tôi nên lưu tâm. Vậy đi nhé. Chúc may mắn.

Về nhà, việc đầu tiên là tôi quét dọn bàn thờ, mua trái cây đặt lên, rót nước trà, thắp ba cây nhang cắm trước di ảnh đen trắng mạ tôi. Tấm ảnh duy nhất mà tôi có chụp mạ trong ngày cưới chị tôi. Chiếc áo dài nhung xanh rêu, đôi bông tai, cái vòng vàng quanh cổ, đầu tóc bối cao, đôi mắt đen láy, nụ cười đôn hậu hiền lành. Mạ tôi không thể hình dung được là có ngày đứa con út của bà vụng dại đi vào nghiệp viết văn. Tổn hao bao giấy mực nó chưa hề lắng lòng viết riêng cho mạ hắn một trang. Tôi nghĩ là chắc các bạn đọc cũng rộng lòng tha thứ cho lỗi lầm tôi mang. Khi đứng trước biển, bạn có tài cán gì để lột tả hết sự bao la vô bờ đến choáng ngộp mà con sóng từ ngàn trùng cứ mãi chuyên cần vỗ lao xao vào bờ, vào triền cát ẩm mơn trớn bàn chân trần mình đặt để, mỗi khi một lún xuống? Nếu bạn không có được sự ví von biển cả là lòng mẹ thì tôi xin thôi đối thoại cùng bạn. Chỉ một chuyện sau cùng xin bạn hiểu cho, mỗi khi gặp điều bất ưng khiến lòng sầu muộn tôi đều nhớ tới mạ mình để tìm quên. Ngay cả khi hoạn nạn bất ngờ đổ ập xuống, hình bóng mạ tôi là cái phao giúp tôi vượt qua gian khổ, kể cả vực tôi lên khỏi hai bờ tử sinh. Tôi quả quyết để thưa với bạn rằng: Bà y tá “vô danh” xuất hiện hằng đêm trong bệnh viện ấy, đó chính là mạ tôi.

Tôi đợi ba cây nhang cháy hết chiều dài nó mang, lụn tàn trong bát đựng gạo rồi mới “đi thưa về trình”: Mạ ơi, chừ thì đến giờ con vô phòng uống thuốc đã, mạ nghe!

Hồ Đình Nghiêm
25 tháng 8, 2018.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Tiểu Thơ
Phạm Tín An Ninh

Rầm!
Tôi và hai thằng bạn vừa rà thắng xe đạp trước rạp Tân Tân để vào xem phim “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” thì bị một chiếc Vélo Solex húc từ đằng sau tới. Cả ba thằng ngã xuống đất. Riêng tôi còn bị cái xe của thằng bạn đè lên bụng đau muốn nín thở. Mới loi ngoi bò dậy, chưa kịp phủi bụi trên áo quần thì nghe tiếng quát tháo:

– Ê! bộ ba “chàng ngự lâm pháo thủ” mù cả hà. Dừng ngựa mà chẳng coi chừng phía đàng sau! Đáng đời!
Vừa ngượng vừa tức giận bởi tự dưng bị húc té nhào giữa thanh thiên bạch nhật và trước bao nhiêu nguời đẹp, chưa kịp nắm cổ áo cho một trận, thì bị thủ phạm tiếp tục tấn công phủ đầu. Đúng là cà chớn. Nhưng nhìn lên thì… à… cả ba thằng khựng lại: đối phương là một cô gái, tuổi ô mai, tóc còn thắt bím, ngồi trên Vélo, vòng tay trước ngực, trề môi, rồi trợn đôi mắt to như hai cái đèn “ô tô”:
– Số còn hên đó. Cái vélo không bị hư gì. Tiểu thơ tha cho đó. Lần sau liệu hồn!
Nói xong cô bé nguýt một cái rồi rồ ga chạy mất tiêu.

Dù chưa bao giờ bị thầy Bửu Cân phán cho cái tội “con nhà không có lư hương”, bọn tôi cũng phải chửi thề một tiếng cho hả giận. Thằng Cường, đứa hiền lành ít nói nhất trong bọn tôi, xăn tay áo, xổ nho trước:
– Đ.m. con gái nhà ai trông đẹp thế mà đanh đá như bà chằn. Phải mà con trai thì biết tay tao.
Đúng là cô bé khá xinh, nhất là đôi mắt thật to và đôi môi mọng đỏ, dù có trề lên ngạo nghễ, cũng vẫn đáng yêu ghê lắm. Tôi nghĩ vẩn vơ như thế khi theo người soát vé dẫn tới chỗ ngồi. Trong rạp tối mò. Ba thằng chúng tôi vào trễ. Trên màn ảnh đang chiếu phim thời sự: Tổng thống Ngô Đình Diệm đang kinh lý Ban Mê Thuột (nhưng không thấy cảnh ông bị ám sát hụt).
Suốt buổi hôm ấy, mắt nhìn lên màn ảnh, mà tâm trí tôi thì chỉ thấy có đôi mắt cô bé, trừ khi nào có tiếng súng nổ của ba chàng ngự lâm, tôi mới giật mình trở lại với truyện phim đôi ba phút.
Cha tôi nói đúng, hồi mới ba tuổi, tôi đã khóc đến cả tháng trời khi mẹ tôi mất, ông bảo rồi sau này tôi sẽ là một thằng đa sầu đa cảm. Và hôm nay, dường như tôi bắt đầu biết tương tư đây.
Nha Trang cũng chẳng lớn hơn cái thành phố núi Pleiku là bao nhiêu, để ông nhà thơ nào đó “đi dăm phút trở về chốn cũ”, vậy mà cả mấy tháng rồi, tôi chưa gặp lại cô bé, mặc dù thời ấy Nha Trang đã có khá nhiều vélo solex, đủ làm tôi nhìn theo muốn ngoẹo cổ. Tôi nghĩ, chắc là cô bé từ đâu đến chơi. Trông nước da trắng hồng, có thể là từ Đà Lạt xuống thăm ai đó rồi lại biến mất như một nàng tiên trong cổ tích.

Quê tôi ở ngoài Vạn Giã. Vào Nha Trang học, ở nhà ông chú, trước ở gần rạp ciné Moderne của ông Bác Ái, sau này dọn lên gần Ty Thông Tin. Chú tôi, ngoài làm chủ tiệm bán mọi vật dụng về điện, còn thầu các công trình điện. Ông bà chỉ có một cô con gái rượu, cưng như trứng mỏng, nên mọi thứ ngược xuôi giao dịch ông cần tới tôi. Để tôi lên tinh thần, bỏ bớt cái tật ham chơi và lười biếng có lẽ từ khi còn trong bụng mẹ, ông thường bảo: “cháu còn nhỏ mà coi bộ có khả năng thương mại. Cố gắng theo chú học hỏi, sau này dám qua mặt tao nữa đó “. (Cái này thì ông nói trật lất. Vì sau này tôi trở thành lính đánh giặc, nên cả đời có buôn bán được cái gì đâu).
Cả năm cứ mong tới mùa hè là tôi dọt về quê thăm cha tôi và chơi với mấy thằng bạn nối khố, rủ nhau ra con sông quê, ngày bơi lội, tối cắm câu, ngủ ngoài trời mà đua nhau đếm thử có bao nhiêu vì sao, tìm đâu là dải Ngân Hà có cái Cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức Nữ. Coi bộ vui và lãng mạn hơn ở trong cái thành phố Nha Trang này nhiều. Vậy mà mùa hè này tôi bị ông chú tôi giữ lại, sau khi thuyết phục được ông già tôi, bảo là để cho tôi tập làm quen với thương trường (!). Tôi nghe mà phát sợ, cứ như là sắp sửa bị ông đẩy tôi ra giữa chốn sa trường!
Bài học đầu tay là tôi xách cặp theo ông, đi dự một cuộc họp với mấy ông thầu khoán khác, trong một công trình “hợp tác mỗi bên cùng có lợi”. Nơi họp là một ngôi biệt thự khá đẹp nằm trên con đường Duy Tân có gió reo sóng vỗ..
Tôi rụt rè theo sau ông chú, bước vào phòng khách. Nhiều người đã có mặt. Ông nào trông cũng bệ vệ, đặc biệt có một ông mặc quân phục, oai phong cao lớn, mà coi bộ mọi người ai cũng nể trọng. Nghe nói chuyện một hồi tôi mới biết đó là ông đại tá Đỗ Cao Trí, chỉ huy quân trường Đồng Đế. Lúc ấy tôi còn nhỏ, đâu có biết gì nhiều về lính tráng, nhưng tôi có nghe nhiều người kể chuyện tình ông đại tá này với một bà dược sĩ nào đó có tiệm thuốc tây trên đường Độc Lập. Bà này mới vừa ly thân ông chồng dược sĩ, có ông bồ là đại úy phi công trẻ tuổi đẹp trai thường đèo bà trên chiếc vespa chạy vòng vòng ngoài bờ biển, mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao trọc mui duy nhất ở thành phố này. Tội nghiệp ông phi công, vừa mới bị ông đại tá này nói nhỏ bạn bè làm lớn bên Không Quân cho bay ra tận ngoài vùng 1 xa tít mịt mù. (Sau này ông phi công hào hoa lấy một cô ca sĩ có giọng hát buồn…vào hồn không tên nào đó). Nghe mấy ông bàn bạc, tôi mới biết buổi họp này là để bàn việc xây cất và chỉnh trang lại toàn bộ doanh trại của quân trường Đồng Đế, mà chú tôi và mấy ông bạn thầu khoán vừa mới trúng thầu.

Tôi ngồi sau lưng ông chú, ghi ghi chép chép cứ như là… phóng viên tập sự. Nửa buổi thì ngưng họp ăn cơm. Một bữa ăn thịnh soạn từ nhà hàng mang tới. Vì thuộc hàng con nít, nên tôi được ưu tiên ra sân sau ngồi chung với mấy anh tài xế và con cháu ông chủ nhà. Vừa bước ra, chưa kịp tìm chỗ ngồi, thì tôi giật mình, sững sờ đến mấy phút. Cô bé, cô tiểu thơ… vélo solex, tông bọn tôi trước rạp Tân Tân gần ba tháng trước, đang ngồi chễm chệ tự lúc nào trong cái ghế bành duy nhất bên bàn ăn.
Lấy lại bình tĩnh, tôi đến kéo chiếc ghế bên cạnh cô bé:
– Chào tiểu thơ, chàng ngự lâm pháo thủ bị xe tông… ngã ngựa có được phép ngồi đây không ạ?
Cô bé nhìn tôi tròn xoe đôi mắt. Đôi mắt mà tôi đã tìm kiếm hơn ba tháng nay, cứ tưởng đã biến mất khỏi Nha Trang, bỗng dưng bây giờ đang mở lớn hết cỡ trước mắt tôi. Tôi ngồi yên như bị thôi miên. Dường như vừa mới nhớ ra tôi, cô bé nhoẻn miệng cười:
– À, hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Vous cứ tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên, cô bé coi bộ tây này còn xổ cả tiếng Nôm tiếng Hán. Tôi nhủ lòng: Không phải vừa đâu nghe.
Vậy mà cái cuộc trùng phùng khá bất ngờ này lại đưa đẩy tôi đến một nấc thang danh vọng: làm gia sư cho cô bé. Nói gia sư cho oai phong, chứ hồi đó chỉ có mỗi chữ “dạy kèm”thôi chứ sư với siếc gì.
Số là sau này, khi thực hiện công trình, tôi thường theo chú tôi đến đây, cũng có nhiều lúc tôi đến một mình để trao giấy tờ và tham khảo ý kiến của ông chủ thầu, papa của nàng. Dần dà tôi quen thân với cả nhà. Gia đình trước sống ở Đà Lạt, làm chủ mấy cái hotel. Bà vợ bị chết bởi một tai nạn giao thông ngay trên đèo Ngọan Mục, ông già buồn quá không muốn mỗi ngày nhìn thấy bóng dáng bà vợ trong thành phố sương mù, nên dọn xuống Nha Trang, trở lại nghề thầu khoán gia truyền từ mấy đời trước. Ông bà chỉ có mỗi một cô con gái, nhưng trong nhà ông nuôi nhiều cháu và gia nhân. Gặp tôi nhiều lần, và qua chú tôi, ông già cô bé nghe nói tôi cũng gốc nhà quê, hiền lành chăm chỉ, nên nhờ tôi, cứ ba tối mỗi tuần ghé lại nhà kèm cô con gái cưng của ông về môn toán và Việt văn. Cô bé vừa từ trường Domaine de Marie ở Đà Lạt chuyển xuống lớp đệ ngũ trường Nữ trung Học Nha Trang, đọc thơ Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc mà không hiểu bà Đoàn thị Điểm và ông Ôn Như Hầu nói cái gì trong đó…

Môn toán thì tôi không biết vẽ rồng vẽ rắn, chứ cái môn Việt văn này coi bộ bao la trời biển quá, vẽ cái gì chẳng được.
Hôm đầu tiên, tiểu thơ vẫn còn cao điệu, gọi tôi là Thầy. Không biết là do lệnh của ông già, vì đề phòng tôi “tán bậy” con gái, nên phong cho tôi cái chức “bán tự vi sư nhất tự vi sư” để tôi biết phận mà giữ mình, hay là cô bé chọc quê tôi không biết.
Thấy “diễn nôm điển tích” mấy câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc coi bộ không ăn khách, chẳng hấp dẫn nổi cô bé, tôi quay sang đọc thơ cho cô bé nghe. Hồi đó ở Võ Tánh có hai nhà thơ rất sớm nổi tiếng, mà dù là tên thật hay bút hiệu gì nghe cũng đẹp làm sao: Thanh Nhung và Cao Hoành Nhân, Tôn Nữ Nha Trang và Bùi Cao Hoành gì đó. Không biết có đúng hay không, nhưng tôi nghe bạn bè thêu dệt về cuộc tình lãng mạn của hai nhà thơ học trò vang bóng một thời này. Tôi chọn mấy bài thơ ướt át nhất của hai người đọc cho cô bé nghe. Và cũng lạ, không cần diễn nôm diễn nghĩa gì cả, cô bé không những hiểu rất nhanh mà còn cảm nhận đến độ lim dim đôi mắt… nhìn xa xăm.
Có một điều tôi quên nói: cô bé cũng thuộc dòng Tôn Nữ, cũng có một cái tên hay lắm: Tôn Nữ Giáng Vân. Nhưng tôi vẫn thích gọi cô bé là Tiểu Thơ, cái tên mà nàng đã tự xưng khi đụng tôi trước rạp Tân Tân. Hơn nữa tôi thấy cái tên này cũng hợp với cô bé lắm. Tôi nghĩ thầm, có lẽ nàng Tôn Nữ xứ Huế nào cũng đẹp và… lãng mạn đa tình.
Các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, cô bé mê nhất là Hồn Bướm Mơ Tiên, nên thường bắt tôi kể lại cho nàng nghe. Mẹ nàng vốn là một Phật tử ngoan đạo. Sau ngày bà chết, ba nàng cúng dường khá nhiều tiền để chỉnh trang hai ngôi chùa Tĩnh Hội, Hải Đức và cung thỉnh thêm nhiều tượng Phật. Cô bé thường theo cha lên chùa Hải Đức. Nàng bảo mỗi lần lễ Phật, nàng cứ tưởng tượng mình là “chú tiểu” Lan, nhưng lại rất sợ và bịt kín tai khi nghe có tiếng đại hồng chung, nên chắc không thể nào giả trai lên chùa tu được.
Một hôm cô bé nhất quyết bắt ông thầy phải làm cho cô bé một bài thơ. Nếu không thì không chịu học. Cái này thì đúng là tiểu thơ muốn hại “đời tư” của tôi đây. Mang tiếng là học ban C nhưng hồi giờ tôi có thơ với thẩn gì đâu, chỉ lâu lâu cùng với mấy thằng bạn trong lớp nghịch ngợm bày ra trò chơi nối vần một bài lục bát con cóc để ghẹo cô bạn nào đanh đá trong lớp. Vậy mà hôm ấy, không biết con tim nó ướt át đến cỡ nào, tôi phóng bút làm xong một bài thơ chưa đầy mười phút. Đọc qua nghe có mùi cải lương không chịu nổi, nhưng tôi cũng tự phục mình. Tôi đưa bài thơ cho nàng đọc:
N gày tháng trôi dần theo nhớ thương
I như duyên nợ đã vấn vương
N ên tình mây nước cùng trăng gíó
H ẹn ở ngày mai một nẻo đường
YÊU vầng trăng sáng in cành lá
V à khúc nhạc lòng dâng đến hương
 n ái giờ đây là mơ ước
N gỡ một tâm tình một vấn vương
Cô bé đọc xong không biết có hiểu gì không, (mà thực ra bài thơ cũng có nghĩa gì đâu mà hiểu với không), gật gù khen và hỏi:
– Sao bài thơ không có tên?
– Có tên rồi đó mà tiểu thơ không thấy à?
Cô bé lật qua lật lại mảnh giấy:
– Tên với tựa gì đâu, không thấy, trả lại thầy, không thèm.
Tôi cười, vuốt ve cô học trò:
– Thì Vân cứ ghép tất cả các mẫu tự đầu ở mỗi câu lại, sẽ thấy cái tựa liền.
Khổ thật, tôi còn phải giải nghĩa thêm mẫu tự là cái gì, thì cô ta mới tìm được cái tựa bài thơ. Cô bé đỏ mặt, vất mảnh giấy có bài thơ xuống đất:
– Không thèm chơi với Thầy nữa.
Nói là không thèm chơi, nhưng cũng kể từ hôm ấy cô bé thân thiết và gần gũi với tôi hơn. Ba nàng cũng thấy tin và quý ông gia sư nhóc tì này, vì thấy con gái cưng của mình chăm học, vui vẻ yêu đời hơn.
Mùa hè năm đó, cô bé theo tôi về nhà quê chơi, nhân tiện có cô con gái của ông chú tôi cùng về thăm quê nội. Dường như đó là lần đầu tiên cô bé ra một vùng quê. Không biết là gió nội hương đồng hấp dẫn cô bé, hay là suốt ngày dung dăng dung dẻ làm nũng làm nịu với “ông Thầy”, cô bé ca hát líu lo và bảo là yêu…đồng quê ghê lắm. Và đó cũng là một mùa hè đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong đời học trò của tôi, dù ở quê tôi chẳng có cây phượng vĩ và cũng chẳng nghe có tiếng con ve sầu nào rên rỉ.
Hai năm sau, tôi rời Nha Trang vào Sài gòn học tiếp. Tôi buồn và tiếc nuối vì phải chia tay cái nghề gia sư với cô hoc trò nhỏ nhưng có đôi mắt thật to của mình. Cô bé được ông già chở lên ga Nha Trang tiễn tôi đi. Tôi cũng cố làm ra vẻ “đi là chết ở trong lòng một ít”, làm cô bé mủi lòng muốn khóc. Ông già cứ tưởng là nhờ ơn tôi mà cô bé vừa đậu cái bằng trung học kỳ rồi, nên cũng nắm chặt tay tôi, lì xì một mớ tiền và cám ơn rối rít.
Vậy mà cái tình yêu ấy (không biết có đúng là tình yêu hay không, nhưng cứ nói như thế cho nó lãng mạn và người lớn một chút) cũng làm cho lòng tôi xốn xang một dạo.
Sau đó chỉ có vài lần tôi nhận được thư cô bé, kể chuyện những bạn bè thân quen của cô bên trường Nữ, và chuyện chiếc máy bay phản lực rơi xuống bên cạnh rạp Tân Tân, nơi mà lần đầu tiên tôi biết cô bé nhờ chiếc vélo của cô tông tôi ngã xuống bên lề đường. Nhưng lần nào cũng kèm theo một bài thơ tình… con cóc.
Năm năm sau, khi cô bé đã trở thành người lớn và quên “ông Thầy” thích đọc thơ tình cho cô học trò… lim dim đôi mắt, thì cũng là lúc tôi hát khúc Biệt Kinh Kỳ, xếp bút nghiên theo việc kiếm cung.
Ra trường, tôi được bổ sung về một đơn vị lưu động trên vùng Cao nguyên gió lạnh mưa mùa. Năm 1972, tôi bị thương trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum, được đưa về Quân y viện Pleiku điều trị. Khi vết thương vừa lành, tôi nhận Sự Vụ Lệnh của đơn vị đề cử về Sài gòn trong đoàn “chiến sĩ xuất sắc” được Tổng Thống tiếp đón tại khu vườn Dinh Độc Lập. Thực ra là tôi có xuất với sắc cái gì đâu. Khi còn độc thân thì hăng máu lắm, chứ đã có vợ rồi thì cũng hơi lạnh cẳng, ngại cái cảnh “anh trở về dang dở đời em”. Nhưng chiến tranh đang hồi ác liệt, nếu cử chiến sĩ xuất sắc thứ thiệt đi thì thiếu người đánh giặc giỏi, mà lại hao hụt quân số tác chiến, tôi đang trong tình trạng bất khiển dụng, nên cho tôi đi là nhất cử lưỡng tiện. “Chiến sĩ xuất sắc” được ưu ái đi bằng máy bay dân sự. Tại phi trường Pleiku bụi đỏ, tôi bất ngờ gặp lại Tiểu Thơ khi tôi vừa ngơ ngác bước lên máy bay Air Vietnam và khựng lại trước đôi mắt thật to của cô hôtesse de l’air đang mỉm cười chào khách. Trong chiếc áo dài màu thiên thanh, có thêu hai con rồng trên cổ áo, nàng đẹp như một nàng tiên. Khi chiếc máy bay DC 4 đã lấy lại thăng bằng trên cao độ, nàng đến ngồi chiếc ghế trống trước mặt tôi, quay ra sau trò chuyện. Trong chớp nhoáng, tôi biết là nàng đã có chồng. Anh ta là một phi công phản lực F5, thuộc dơn vị Biên Hòa. Hai người làm đám cưới hơn một năm. Tôi nghĩ, con gái đẹp thường chọn mấy ông không quân, vừa được tiếng có ông xã hào hoa, đi mây về gió, vừa khó trở thành góa phụ. Anh phi công nào phải vừa bô trai vừa tốt số lắm mới lọt được vào đôi mắt của Tiểu Thơ này. Tôi nghĩ như thế mà lòng thì cũng thấy một chút bâng khuâng.
Chỉ nói chuyện được vài câu, nàng ghi địa chỉ của tôi ở Sài gòn, rồi hẹn sẽ cùng đức lang quân ghé đón đi Maxim nghe Lệ Thu hát bài Kỷ Vật Cho Em. Tôi cười, bảo là rất sợ bài hát này, cái bài hát mà thằng lính nào nhát gan nghe xong là không còn muốn “đáo nhậm” đơn vị nữa. Cuối cùng nàng đến có một mình, “ông xã” vừa mới biệt phái ra Vùng 1. Tối đó thay vì đến nhà hàng Maxim, nàng đưa tôi ra Quán Cái Chùa cho có vẻ nghệ sĩ một chút, mời “ông Thầy” uống cà phê có hương vị Tùng Đà Lạt – mà chủ nhân thường pha chế đặc biệt cho riêng nàng- để nhớ những ngày cô còn ở đó.. Dường như khi đã lớn rồi, người ta lại muốn tìm về cái thời đi học. Hai đứa chỉ ngồi nhắc lại chuyện Nha Trang, chuyện mấy bài thơ con cóc, rồi chia tay không hẹn ngày tái ngộ. Thời chiến tranh mà, “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” biết đâu mà hẹn.
Tháng 3 /1975, Nhat Trang rồi cả Vùng 2 mất. Bao nhiêu năm sống chết với núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, tôi theo đơn vị chỉ còn một phần tư quân số “di tản” vào Vũng Tàu để tái bổ sung, rồi kéo xuống tham dự những trận đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ ở những địa danh xa lạ: Bến Lức, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An, nhằm ngăn chận địch quân đang tràn về vây hãm và pháo kích Sài Gòn.
Cũng như nhiều đơn vị khác, vào giờ thứ 25, chúng tôi đánh giặc không có “đại bàng”. Lần cuối cùng tập họp anh em lại hô “tan hàng” mà không còn nghe “cố gắng” nữa, thì tôi mới biết là ông tướng tư lệnh đã có mặt trên đệ thất hạm đội Mỹ trước đó hai ngày rồi! Thôi thì, xưa nay người ta đã nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô” mà. Cuối cùng thì miền Nam cũng thất thủ. Đám tụi tôi được người “anh em” chiến thắng mời vô trại cải tạo để được hưởng “chính sách khoan hồng của kách mệnh”!
Tám năm lưu đày từ nam ra bắc, cuộc đời thôi đành cứ như gởi theo những đám mây bay. Cái hạnh phúc bây giờ chỉ còn là những phút giây hồi tưởng. Mà hồi tưởng cũng phải “cảnh giác”, chứ không khéo cũng bị cùm vì cái tội “luyến tiếc quá khứ”. Bạn bè cùng cảnh luyến tiếc điều gì thì tôi không biết, nhưng riêng tôi lại tiếc nhớ cái tuổi học trò, và cái thời con tim mới biết yêu. Tôi lại nhớ đến Tiểu Thơ, đến đôi mắt tròn xoe của cô bé, và nhớ tới cái hạnh phúc làm “gia sư” của tôi còn hơn là nhớ tới mười mấy năm làm bạn với ông Nguyễn Bắc Sơn “ta vốn hiền khô – ta là lính cậu, đi hành quân rượu đế vẫn mang theo, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo, xem chiến cuộc như tai trời ách nước”. Tôi hình dung bây giờ chắc nàng đang hạnh phúc ở một chốn thiên đường nào bên nước Mỹ. Ông xã là không quân mà, lại đóng ở Biên Hòa nữa. Chỉ cần một lần cất cánh nhẹ nhàng là thay đổi cả cuộc đời.
Ra tù, trở lại thành phố xưa, tôi có cảm giác Nha Trang sao bây giờ xa lạ quá, không còn là “hang động tuổi thơ”của bọn tôi ngày trước nữa. Nhưng rồi tôi cũng đâu có được phép ở lại cái thành phố này, mà phải về tạm trú ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Ở đó tôi chỉ còn một bà cô già sống quạnh hiu trong ngồi nhà từ đường có mái ngói âm dương của ông bà nội. Cha tôi thì cũng đã chết cách đây sáu năm trong trại cải tạo Đá Bàn. Mồ mả còn chưa biết ở đâu. Nhưng rồi tôi còn có cái may, là gần như mỗi ngày tôi đều ghé lại Nha Trang một lần, bởi tôi được ông anh bà con cho tôi làm tài xế phụ kiêm lơ xe cho chiếc xe đò nhỏ của ông chạy đường Nha Trang – Tuy Hòa. Xe chạy bằng than và khách hầu hết là mấy bà đi buôn chuyến.
Một hôm tôi đang lui cui đứng trên mui, thì một bà khách kêu tôi nhấc hộ đội thúng của bà lên. Bà lấy hết sức đưa từng chiếc thúng lên, nhưng rồi lại bị sà xuống. Trong đôi thúng là những thỏi đường màu đen khá nặng. Tôi phải dùng một cây móc sắt đưa xuống, bảo bà móc vào để tôi kéo lên. Khi lấy sức kéo đôi thúng lên tôi bất ngờ gặp đôi mắt thật to và tròn xoe. Đôi mắt nhìn tôi tựa hồ như xoáy vào lòng tôi nhát dao đau buốt. Tôi nhảy xuống xe, nắm chặt đôi vai gầy còm của bà khách:
– Là em, là Tiểu Thơ đây à?
Nàng nhìn tôi, rồi nước mắt đầm đìa.
– Tiểu Thơ, à quên…Vân, làm sao mà em lại ra đến nỗi này.
Nàng cúi xuống im lặng, không nói một lời nào.
Ra đến Tuy Hòa, tôi gánh hộ nàng gánh đường giao cho một cái quán trong chợ, rồi mời nàng đi ăn cơm trưa. Tôi đang nóng lòng được biết về hoàn cảnh của nàng:
– Ông xã em bị kẹt ngoài Vùng 1 rồi mất tích luôn từ đó tới bây giờ. Em có đi hỏi một vài người bạn cùng phi đoàn, thì họ cho biết là anh ấy bị bắn rơi khi yểm trợ cho anh em Thủy Quân Lục Chiến rút về Đà Nẵng. Em chờ đợi xem anh có bị bắt cầm tù ở đâu không, nhưng đến bây giờ thì chắc chắn là anh đã chết thật rồi.
– Còn ba em đâu?
– Nhà cửa ba em bị tịch thu hết. Ông bị bắt đi cải tạo với lý do từng thầu xây cất doanh trại cho Mỹ trong phi trường. Chỉ một năm là ông chết.
– Vậy bây giờ Vân ở với ai?
– Em ở với con gái em. Nó gần mười tuổi rồi. Khi gặp anh ở Sài gòn là em vừa mang thai nó mà chưa biết. Mẹ con em được đền bù một căn nhà tôn nhỏ của thương phế binh hồi trước, nằm sau ga xe lửa.
Tôi nhét vào tay Vân tất cả số tiền mà tôi kiếm được hôm ấy, bảo nàng mua hộ tôi quà cho cháu gái.
Sau đó tôi gặp lại nàng chỉ thêm hai lần nữa, vì ông anh họ tôi đã phải bán rẻ cái xe hơi cho người khác, bởi không đủ tiền sửa chữa mà còn cứ bị chính quyền trưng dụng đi chở lúa cho hợp tác xã, không trả một đồng nào. Cũng đúng vào lúc này, tôi tính chuyện vượt biên.
Tôi kể chuyện Tiểu Thơ cho vợ tôi nghe. Bây giờ tôi thương cô như một người em gái. Vợ tôi tốt bụng, thương mẹ con cô cũng như hoàn cảnh của chính mình, sẵn sàng cùng tôi giúp mẹ con nàng đi cùng chuyến vượt biên, do chính tôi tổ chức.
Một tuần trước khi ra đi, tôi vào Nha Trang tìm đến nhà nàng. Căn nhà khóa kín cửa. Tôi chờ đến tối mà chẳng thấy mẹ con cô trở về. Tôi gõ cửa căn nhà bên cạnh. Chủ nhà lại là một anh thương phế binh, nhờ mất cả hai chân nên không bị đuổi khỏi nhà. Anh cho biết là mẹ con nàng đã dọn đi đâu cả mấy tuần rồi, không thấy về nhà.
Trời thương, chuyến vượt biên cũng đến được bến bờ, nhờ một chiếc tàu chở dầu của Vương Quốc Na Uy vớt trên biển, trước khi cơn bão ập đến. Với ân tình này, vợ chồng tôi chọn Na Uy là nơi để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Mùa hè năm 1989, vợ chồng tôi đưa hai cô con gái sang Mỹ học, nhân tiện ghé thăm và chia buồn gia đình ông anh họ, đi từ năm 78, định cư ở thành phố Sacramento, bắc Cali,.Anh chị vừa có thằng con trai bị chết đuối khi theo cha đi câu ngoài biển.
Bao nhiêu năm gặp lại nhau, anh chị tiếp đón chúng tôi thật ân cần, nhưng không vui vì cái bàn thờ đứa con trai còn nghi ngút khói hương.
Sáng hôm sau, anh chị đưa tôi đến nghĩa trang thăm mộ cháu rồi chở chúng tôi đến một ngôi chùa Sư Nữ ở gần đó, để bàn việc làm lễ cầu siêu cho cháu. Anh cho biết anh chị rất thân quen với Sư Bà trù trì, Bà rất quý anh chị không chỉ vì biết nhau từ lúc còn ở Nha Trang mà vì anh làm nghề thầu sửa chữa nhà cửa, nên cả ngôi chùa này phần lớn là do công sức của anh cúng dường.
Ngôi chùa không lớn lắm, khu chánh điện còn đang dang dở, nhưng vườn khá rộng và trồng nhiều loại hoa. Trong chùa tiếng tụng kinh, gõ mõ càng đượm không khí trang nghiêm. Chúng tôi được một cô Phật tử mời ngồi uống trà và xin chờ chừng nửa tiếng, vì Sư Bà đang cúng ngọ.
Khi ông anh bà chị đứng bật dậy, chúng tôi chợt nhìn thấy Sư Bà vừa bước ra. Tôi ngạc nhiên vì Sư Bà còn trẻ và trông rất phương phi, nhất là hai tai thật to và dài xuống như tai các tượng Phật tôi thường nhìn thấy trong các ngôi chùa. Điều làm chúng tôi thú vị là bà rất vui vẻ cởi mở. Bà bảo bà cũng là dân Nha Trang nên rất mừng khi tiếp được người đồng hương từ tận Bắc Âu đến viếng.
Sau một lúc hàn huyên, tôi biết được Sư Bà là người có trình độ học vấn cao. Bà có cử nhân Văn Khoa và đang học năm cuối cao học văn chương tại đại học Vạn Hạnh thì miền Nam thất thủ.
Điều ngạc nhiên hơn là Sư Bà cho biết có khá nhiều ni cô gốc Nha Trang đang tu ở chùa này, trong đó có con gái của ông chủ tiệm ảnh nổi tiếng một thời ở đường Phan Bội Châu mà ngày xưa tôi cùng đám bạn bè thường đến để chụp ảnh, con gái một bà chủ tiệm vàng trước Grande Pharmacie, và một vài ni cô nữa. Bà còn bảo thật là tội nghiệp, có vài cô đã gặp bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm trên biển Đông, chồng chết con chết, chỉ còn lại một mình. Ban đầu Bà đưa về chùa cưu mang, rồi sau đó các cô xin được xuống tóc qui y luôn. Sư Bà mời chúng tôi ở lại dùng cơm chay cùng với Bà, nhân tiện bà giới thiệu với mấy ni cô gốc Nha Trang cho biết, bởi tôi cũng là một Phật tử thuần thành.

Tôi theo ông anh bà chị xuống bếp phụ dọn cơm. Nhưng ông anh ngăn lại:
– Chú là người lạ, không nên vào bếp. Hôm nay chú thím là khách của Sư Bà mà.
Ngồi dọc theo chiếc bàn dài, gồm các ni cô và một vài Phật tử, chỉ có chúng tôi là “dân sự”. Sư Bà giới thiệu chúng tôi là đồng hương, những Phật tử đến từ tận Bắc Âu. Tôi vừa đứng lên chấp hai tay trước ngực, bỗng bất ngờ bắt gặp đôi mắt thật to, tròn xoe của một ni cô ngồi ở phía cuối bàn. Ni cô cũng vừa nhìn tôi rồi cúi xuống. Đôi mắt đó với tôi có một cái gì thần giao cách cảm. Đúng. Trên thế gian này chỉ có Tiểu Thơ mới có đôi mắt ấy mà thôi

Dùng cơm xong, là đến giờ nghỉ trưa của Sư Bà. Chúng tôi cám ơn Sư Bà và xin được cúng dường một số hiện kim để trùng tu chánh điện.

Tôi từ giã Sư Bà, trong lúc mắt nhìn quanh như muốn tìm kiếm một điều gì. Nhưng tất cả chỉ có im lặng, ngoài tiếng chuông chùa ngân nga như chẳng bao giờ muốn tan đi trong không gian bao la vô tận.
Tôi bước ra khỏi cổng chùa. Chùa nằm trên một khu đất bằng phằng, nhưng sao tôi có cảm giác như mình đang lững thững bước xuống chân đồi. Tôi hình dung đến Ngọc vừa chia tay “chú tiểu” Lan lần cuối cùng ở chùa Long Giáng trong Hồn Bươm Mơ Tiên của nhà văn Khái Hưng, mà ngày xưa Tiểu Thơ đã bắt tôi phải kể đi kể lại bao nhiêu lần.

Phạm Tín An Ninh
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Kén chồng cho con

Ở xứ Mỹ nầy, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, mà cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường không dám tiếp xúc với ai. Sự thực, cô đã trên ba mươi. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách bằng ông bà, nhưng sau đó, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác ghé thăm, chuyện vãn. Những chuyện trên hắn chỉ nghe trong cộng đồng người Việt bàn tán thế thôi. Ông bố cô gái, hắn biết, vì trước bảy lăm, hắn là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái, hắn cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, chống cộng? Tất cả chỉ là giả thiết. Sở dĩ thêm tiêu chuẩn chống cọng vào đây vì trong các cuộc mít - ting của người Việt đòi nhân quyền, tự do cho đồng bào trong nước, ông bà đều dẫn cô gái theo. Để tăng cường sức mạnh cho cộng đồng hay để ông bà chọn anh chàng nào tố cộng hăng say? Hay để cho cô dễ tìm chồng giữa chốn ba quân? Tất cả vẫn còn trong vòng bí mật. Có một điều là bọn con trai, từ mới lớn cho đến sồn sồn đều suýt soa là cô quá đẹp. Dẹp dịu dàng, quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

Xin dài dòng về những điều hắn biết về ông bà và cô gái.

Năm 1973 hắn tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng hắn phải về tỉnh họp. Hắn thấy ông có một phong thái rất đặc biệt. Ông như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Ông hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm, đúng ra ông giống như “ngài quận công” em ruột “đương kim hoàng đế” ngày xưa vậy. Chẳng bao giờ ông giữ kẻ điều gì. Ông muốn là làm. Có một chuyện thực. Một lần ông báo sẽ ra quận thanh tra. Tay quận trưởng cùng đoàn tùy tùng trong đó có cả hắn ra bãi đáp nghênh đón. Trực thăng hạ xuống, ông đứng yên vài phút cho tay quận trưởng trình diện, xong ông lẵng lặng đi quanh hàng rào phòng thủ quận chi khu. Ông đi trước, phía sau là phái đoàn rồng rắn đi lòng vòng qua các giao thông hào, ụ súng, vọng gác. Đột nhiên tay quận trưởng lùi lại, ra dấu cho tất cả cùng lùi lại, yên lặng. Trời ạ! Ông đứng tè ở góc vọng gác. Chuyện nầy – chỉ có sai về thời gian thôi- kẻ nào sáng tác, nói láo, sẽ bị trời đánh.

Ông có một thói quen buồn cười mà ai cũng bàn tán. Khi làm việc ở tòa Hành Chánh tỉnh, ông thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là ông vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc ông thường hút, đưa ra, ông lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho ông, mồi thuốc xong, ông bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết ông vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính ông tìm cũng không ra, rồi lại hỏi “Có thuốc không?” Mà chẳng phải ông nghiện thuốc, chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại mồi thuốc, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có ông là hắn được cái thú đếm xem ông hút bao nhiêu điếu thuốc trong buổi họp. Đến ngày mất nước, ông không bỏ chạy, ông đi tù. Lúc ở trại cải tạo Long Thành hắn có gặp ông. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ nên trông ông chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó ông được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể… Khi hắn qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp ông một lần. Chuyện nầy hồi sau sẽ rõ.

Còn chuyện hắn biết cô gái út của ông cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của hắn ngồi than thở là Tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rỉ bảo.

- Nhưng trong túi moa tài sản chừng mươi nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì hẻo quá!


Hắn đề nghị mua một món đồ cổ, chẳng ai biết trị giá của nó nhưng trông đã đẹp lại quí. Thế là hắn được giao nhiệm vụ đó. Hắn đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Ông đại tá không có nhà, chỉ có cô gái út ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Cô học trường Đồng Khánh, từ dinh tỉnh trưởng, nơi cô ở, cô chỉ đi mấy phút là đến trường. Hắn ngồi tán tỉnh tía lia, đáng lẽ để cái tô lại, nhưng hắn ôm về, hẹn với em hôm sau đến nữa. Dĩ nhiên hắn đến vào giờ công vụ thì làm sao ông bố có nhà. Thế là hắn và em nói chuyện sa đà, đến chiều hắn lại ôm cái tô về. Sở dĩ hắn đến được nhiều lần như thế là vì hắn về thuật lại với tay quận trưởng. Tay chịu chơi nầy sai tài xế lấy xe jeep đưa hắn đến dinh tỉnh trưởng. Thấy xe quận quen thuộc, tay gác cổng không thắc mắc gì. Tuy nhiên một lần ông tỉnh trưởng về sớm.

- Moa nghe mấy bữa nay toa cứ ôm cái tô vô ra đây mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con út Mai lớn chút nữa, lúc đó mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái dĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe!

Dù sao thì em cũng đã cho hắn hôn em một lần và cả hai cũng có tặng hình cho nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau” Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp bê. Hình hắn tặng em là cảnh hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình hắn ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”.

Đáng lẽ chuyện tình của hắn với em còn dài, nhưng sau đó sập tiệm. Hắn đi tù, ông bố em cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào hắn không rõ. Hình em tặng hắn cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, hắn vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em hắn tự tin bao nhiêu thì nay hắn không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ hắn cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa, hắn đứng bán Mc Donald!

Cho đến một sáng chủ nhật, hắn ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe hắn thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là ông bà đại tá tỉnh trưởng của hắn ngày trước. Hắn thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng ông vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng, cứ ngồi nhìn tay cảnh sát như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe… và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông bà không biết tiếng Mỹ nên đến nhờ hắn thông dịch. Hắn nói.

- Sorry! He Chinese, me Vietnamese, no talk, no hear!

Anh ta chán cả hắn nên lắc đầu, lên xe bỏ đi. Lúc đó ông mới nhìn hắn cười chúm chím rồi hai ông bà vô tiệm. Hắn có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên hắn nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỷ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại, sá gì đến hắn mà đèo bòng nên hắn phe lờ. Trong lúc hắn đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo.

- Toa thấy moa có nhanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket.

- Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế, hắn còng tay ngay.

Ông ta ngạc nhiên.

- Ủa, sao toa biết moa?

Lúc đó hắn mới bảo là hắn có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là cả hai vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, họ đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác.

- Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình?

Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm sập tiệm. Tôi đi tù về, không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gã con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa.

Ông ta xen vào.

- Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi chợ búa phiền phức.
- Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu.

Chuyện trò đến đấy thì hắn xin cáo từ, ông bà có mời hắn ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Hắn không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên hắn quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật, đi chợ, hắn lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời hắn ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, hắn theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái út của ông bà có pha trà mời hắn. Hắn không dám nhìn sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, hắn nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà hơn trước nữa. Thực ra hắn biết thân phận mình nên dững dưng.

Sáng hôm đó, ông bà nghe hắn nói lại những nhận xét, cảm tưởng của hắn lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên hắn chẳng dại gì nhắc đến chuyện hắn tán tỉnh cô út của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét hắn ra mặt thì chẳng vui gì.

Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời hắn đến uống trà trò chuyện. Hắn không thích nhưng có cô gái út ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường và tuy chỉ thấy có hai bàn tay mà hắn đã vấn vương người đẹp rồi. Một lần nhân chủ nhà vô ý, hắn nhìn quanh tìm cô ta thì y như là cô đang làm gì đó ngay tầm mắt hắn. Lúc đó cô đăm đăm nhìn lại hắn và tặng hắn một nụ cười. Hắn chới với, ngất ngây như say rượu. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu hắn.

Nhưng hắn đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như hắn tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, hắn đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì hắn đã có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm hắn đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim hắn rung động nhưng đầu óc hắn tỉnh táo. Hắn dặn lòng “Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối, lại rước thêm cái xấu hổ vào thân, nhớ nhé!” Có câu hát “Khi cố quên lại càng nhớ thêm” hắn thì khác, hể cố quên là hắn quên bẵng. Hắn lại hay nản chí, thấy chẳng hy vọng gì nên cứ lơ là dần.

Cho đến một buổi sáng, hắn nghe điện thoại reo.

- Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà.

Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào, ngây thơ không thể tả. Hắn giả giọng Huế hỏi lại.

- Ba mạ cháu ở mô rứa?
- Dạ, ở nhà.
- Còn cháu ở mô?
- Dạ, cũng ở nhà.
- Rứa là biết rồi đó. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ.

Hắn phân vân, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi hắn? Khi hắn đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời, dưới đất. Đến khi giả từ ông bà lại hỏi.

- Bà cụ có mạnh khỏe không?
- Dạ, cám ơn. Những người lớn tuổi không bịnh nầy thì bịnh kia.

Hắn tố thêm một đòn về gia cảnh của hắn.

- Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta.Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ.

Tưởng ông bà sẽ dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ tổ mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc hắn đi làm. Mẹ hắn chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của thắn. Theo mẹ hắn kể, ông bà cứ suýt soa rằng hắn có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu.

Ông bà cũng nói về gia đình họ, về cô út đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ hắn vừa kể vừa cười coi bộ hắn lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Hắn không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng hắn bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới đem gã cô út xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như hắn. Còn cô út nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng họ đã lộ ý rồi. Hắn đánh cờ tướng loại khá, khi đối phương đi một nước cờ, nếu không hiểu mục đích của nước cờ đó, tuyệt đối hắn không tấn công. Hắn bắt đầu đưa giả thiết, nhưng không giả thiết nào đứng vững.

Thế nên hắn rút quân về thủ bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Hắn chuẩn bị đi thực). Xong hắn chờ đối phương đi nước thứ hai.

Hôm đó, thứ bảy đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ trước chợ Eden. Tối thứ sáu, đi làm về, hắn được điện thoại của mẹ cô gái gọi.

- Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không?
- Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất.
- Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ.
- Dạ, cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ.

Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành đến trước miệng con chốt, nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại cũng giữ được tướng an toàn.

Sáng đó, thấy hắn ăn mặc tươm tất, mẹ hắn lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện nầy lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết hắn đã yêu cô gái. Chính hắn cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Hắn không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến hắn cảm động và hắn tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng hắn với cô ta đâu có tình ý nhau bao giờ?

Đến nơi hắn để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Hắn thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, hắn đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, hắn cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, hắn đã chào cờ, hát quốc ca... .

Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim hắn theo thời gian như tình yêu thương mẹ, khi mất nước, mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Thế nên hắn chỉ sợ mọi người thấy hắn khóc khi nghe bài quốc ca. Một lý do nữa là hắn nghĩ “Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục” “Thấy người ta tử tế tưởng bở” Hắn yêu cô, ông bà tử tế với hắn nhưng chuyện cô yêu lại hắn là viễn vông, vô căn cứ. Cho nên khi nghe hắn bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại.

Thấy cô như giận, hắn mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã lỡ rồi nên đành lãng ra, vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẫn nhưng hồn vía để cả ngoài kia, lòng tự trách “Chào quốc kỳ chảy nước mắt có gì mắc cỡ. Dễ gì được đứng gần người đẹp. Dại quá! Biết bao giờ mới có dịp như thế nầy” Nghe chào cờ xong, hắn đi ra, định cà rà theo nói chuyện với cô ta nhưng mẹ cô lại nhờ hắn đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố.

Hắn đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo hắn vô nhà nhờ chút chuyện. Hắn lại vâng lời. Hắn ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi hắn sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi, đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô út hiếu thảo của bà không chịu vượt biên, ở lại với mẹ, vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy hắn thương mẹ cô đồng ý ngay. Hắn nghe mà tưởng mình mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gã con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như hắn!?.Hắn biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên hắn xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi hắn nhận ân sủng đó. Bà mẹ chịu liền.

Thế rồi một buổi chiều, hắn đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào hắn mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng hắn nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui.

- Chào chú ạ!
- Chú đến thăm Mai.
- Dạ, mời chú vào.

Cô lùi lại, hắn bước vào, cô gần như đứng sát bên hắn. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thướt tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn hắn nên khi cô ngước nhìn, đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên đều gì.

- Có ông bà cụ ở nhà không?
- Dạ không, mời chú ngồi.

Cô ngồi đối diện. Cô rót nước trà rồi mở hộp bánh ra,

- Mời chú!

Hắn cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười.

- Trà còn nóng, cháu vừa mới pha.

Hắn cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của hắn được? Thật khó tin!

- Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không?
- Dạ không.
- Thế mạ có nói chuyện nầy không?
- Dạ có.

Không khí như căng thẳng, hắn phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn.

- Chú xin lỗi làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế nầy, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui.
- Dạ.
- Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm. Ra tù chú làm đủ nghề đạp xích lô, bán vé số... Qua đây chú đi chùi nhà rồi bán Mc Donald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh, đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng.

Cô vẫn cúi đầu và nói.

- Chú thử lập gia đình, sẽ hết buồn ngay.
- Không đơn giản như Mai tưởng đâu. Muốn tiến đến hôn nhân phải có tình yêu. Vì có yêu người ta mình mới chịu đựng được những va chạm, khó khăn khi sống với nhau. Cho nên phải cẩn thận khi lập gia đình. Không yêu thà sống một mình còn hơn.

Cô ngước lên, nhìn thẳng vào mắt hắn.

- Chú đã lập gia đình và đã thất bại, đã tan vỡ rồi phải không?
- Chú chưa lập gia đình, vì chú có yêu ai đâu.
- Cháu không tin, tuổi chú mà chưa yêu ai, cháu không tin.
- Chú cũng không tin cả mình nữa. Có người có biết bao nhiêu mối tình, nhưng chú thì chẳng có gì. Khi đi làm có yêu chút đỉnh, nhưng sau đó chẳng còn nhớ nhau nữa. Nước mất, nhà tan vui thú gì mà yêu với đương.

- Chú tính xem đã yêu bao nhiêu người và bây giờ còn nhớ người nào?
- Trước kia cũng có quen một cô, cũng anh anh, em em vài câu, nhưng chỉ khoảng vài tuần. Cô ấy có cho chú hôn một lần trên trán. Rồi nước mất tình cũng mất luôn. Cô ấy đã quên hẵn chú rồi. Lâu quá rồi! Thế Mai có mối tình nào lâm ly kể cho chú nghe với.

- Chuyện của cháu cũng chẳng lâm ly gì. Lúc đó cháu mới lớn, có yêu một anh, rồi cũng như chú, khi mất nước, quá khổ, tâm trí đâu mà yêu ai.
- Nghe nói sau bảy lăm, Mai không vượt biên, ở lại Việt Nam với mạ kiếm tiền thăm nuôi ba trong tù.
- Lúc lộn xộn, trước ngày đầu hàng, mạ cháu bán được căn nhà. Hú vía, nếu trễ mấy ngày là bị chúng vô tịch thu rồi. Nhờ thế mấy chị của cháu mới có tiền vượt biên, nhưng sau đó thì nghèo lắm. Cháu với mạ cháu phải ra đường bán quần áo cũ, bị công an rượt chạy muốn chết.

Kể đến đấy cô lại cười, thật hồn nhiên. Hắn biết cô đã hết bối rối rồi.

- Có lẽ cũng giống như chú, sau đó không nhớ nhau, không gặp nhau, không nghĩ đến nhau nữa. Thế là xù! Phải không?
- Đâu có như chú, gì cũng quên. Mấy năm sau đó, cháu biết được anh ấy cũng ở Sài Gòn, cháu đến thăm mấy lần.
- Gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, kể lễ tâm sự nhớ thương nhau. Chà, mùi dữ!
- Ảnh không biết cháu, ảnh không nhớ ra cháu, cháu cũng không nhắc nữa. Thật bực mình, người đâu mau quên.
- Chỉ cần nhắc vài câu là anh ta nhớ ra ngay.

Gần cả chục năm, biết đâu anh ấy đã lập gia đình thì sao?! Nên cháu chỉ đi ngang qua, nhìn cho đỡ nhớ mà không nói chuyện bao giờ. Đến khi dọ hỏi được biết là anh ấy còn độc thân thì tìm không ra. Anh ấy đã đi HO rồi.

Rồi cô thở dài.

- Bây giờ cháu cũng còn bực. Tức muốn chết được!

- Chú biết rồi, vì thế nên Mai giận đời, định đón một chiếc xe hoa nào đó, leo đại lên cho đỡ cô đơn chứ gì?
- Cháu cũng muốn thế cho bỏ ghét, nhưng cháu yêu anh ấy...Rồi lại giận anh ấy, thấy cháu rõ ràng mà không thèm nhìn.

- Để chú đoán có đúng không nghe. Đó là một chàng sĩ quan Đa Lạt đẹp trai, hào hoa, làm dưới quyền ông cụ. Anh ta gặp cô nữ sinh đẹp quá, hai người yêu nhau. Theo chú có lẽ anh chàng cũng ở tù mút mùa như bọn chú. Nhưng sau khi ra tù, nhờ gia đình khá giả, anh ta đi buôn loại mánh mung như thuốc tây, trầm, vàng chẳng hạn. Nghề nầy mau giàu lắm. Anh ta đi xe dream, hút thuốc có cán. Lúc đó Mai ngồi bên đường với mạ bán quần áo cũ nên mặc cảm không nhìn mặt. Còn anh ta vì lâu quá nên quên người đẹp thuở nào, vả lại khi có tiền thì bao người đẹp khác chạy theo, phải không?

- Chú đoán đúng một phần. Anh ấy cũng đi cải tạo, nhưng sau về nghèo lắm. Bán vé số ở Sài Gòn

- Chú cũng từng bán vé số, cứ nói tên, nói chỗ anh chàng hành nghề là chú biết ngay.

Cô cười bí mật.

- Đố chú biết đó! Anh ấy bán vé số chỗ nhà thờ Đức Bà, trước Bộ Xã Hội cũ.
- Chú có ngồi đó chú biết rõ. Có phải đại úy Minh, thiếu tá Tuấn, trung úy Đại... Cũng không phải luôn. Chú chịu. Nhưng những người đó đều có gia đình cả rồi mà.

Hắn nhìn đồng hồ.

- Bây giờ cho chú nói lý do chú đến gặp Mai. Hôm chú được mạ Mai nói về chuyện chú với Mai, chú rất bất ngờ và cảm động. Chú cám ơn lòng tốt của Mai đã để ý đến chú. Vì chú sắp đi xa nên nhân tiện chú nói vài điều mong Mai thông cảm. Về phần chú, thú thực chú có yêu Mai, tình yêu đâu từ trước kia bây giờ sống dậy, nhưng chú biết thân phận mình nên im lặng. Rồi bất ngờ nghe đề nghị đó chú không hiểu vì sao?

Chú thua sút mọi người về mọi phương diện, chú cháu mình cũng chưa hề chuyện trò, tình ý gì nhau và chú chắc Mai cũng không hề yêu chú. Vậy thì lý do nào? Xin Mai cho chú một thời gian, hy vọng chúng ta tìm hiểu nhau rồi sẽ quyết định cũng không muộn. Tuần tới chú sẽ rời Virginia, chúc Mai ở lại tìm được một tình yêu, và lời chú khuyên Mai nên sống cho con tim mình, cho tương lai của mình. Ba mạ đâu có sống đời với mình, phải không? Phải có tình yêu trước khi quyết định tiến đến hôn nhân, chứ đừng nghe lời ba mạ, sau nầy hối cũng không kịp.

- Nói xong hắn định đứng dậy. Cô ngước nhìn hắn vẽ giận dữ.

- Thật, xin lỗi chú chứ chú...ngu quá! Chú khuyên cháu nên lấy người mình yêu. Vậy chứ cháu yêu chú thì sao?

- Trời đất! Làm gì có chuyện đó... Không lẽ chỉ mấy lần bưng nước trà mời chú mà lại yêu chú được?!

- Chú nói thật không? Cháu cho chú biết điều nầy. Theo cháu. Đi ngã nầy.

Cô đi trước , hắn rụt rè theo sau. Căn apartment chỉ có hai phòng, cô mở cửa một phòng, đi vào “Vô đây!” Hắn sợ quá, chỉ dám đứng ở cửa nhìn vào. Cô chỉ vào một tấm hình cỡ tấm bưu thiếp để trên bàn nhỏ cạnh đầu giường.

- Chú biết ai đây không? Sau tấm hình viết gì không?
- Chú đâu thấy gì, xa quá. Hình như anh chàng nào đứng đấy. Cho chú xem kỹ, có thể chú nhận ra anh chàng bán vé số tốt phước được lọt vào mắt xanh của Mai.

Cô gỡ tấm hình trong khung ra, đưa hắn.

- Nhìn kỹ xem là ai?

Hắn không tin ở mắt mình. Đó là hình hắn, chụp hôm tốt nghiệp trước trường Hành Chánh, sau tấm hình vẫn còn rõ câu hát nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời” Tấm hình hắn tặng cô, qua bao năm với bao thăng trầm, cô vẫn còn giữ, hình cô tặng hắn thì hắn vất nơi nào, lúc nào không rõ.

-Ôi! Hình chú đây mà!

Cô ngồi trên giường, xây lưng về phía hắn, hai chân co lên, trên đầu gối là cái gối. Cô úp mặt vào gối yên lặng. Vai cô rung lên nhè nhẹ. Cô khóc, có lẽ vì giận hắn vô tình.

- Cho chú xin lỗi. Chú vẫn nhớ chuyện cũ, nhưng tưởng Mai đã quên. Sao không nhắc, một câu thôi là chú hiểu ra ngay.
- Đâu có dịp nào. Hôm chào cờ ở Eden cũng bỏ đi... Mà biết còn nhớ người ta không hay đã yêu ai rồi?

- Chú nhớ chứ nhưng chú mặc cảm. Chú đâu dám mơ đến giây phút nầy. Hỏi thực Mai, rủi chú bảo đã yêu ai rồi thì sao?

- Mặc kệ... Người ta tìm muốn chết!

Yên lặng một lát.

- Hôm nào đi?
- Bây giờ có họa là điên mới bỏ đi. Trúng số độc đắc chú cũng không mừng bằng. Chú không biết nói gì để cám ơn Mai. Chú...

Cô quay lại, mắt còn đỏ hoe, cô chỉ cái khung hình còn nằm trên giường.

- Chú, chú hoài. Bộ ai ăn thịt sao cứ đứng ngoài đó? Bỏ hình lại vào khung, để lại trên bàn cho em , rồi ngồi xuống đây, em hỏi. Lúc ở tù ai thăm nuôi anh?

- Có thăm chứ không có nuôi. Mẹ anh nghèo quá, các anh của anh cũng ở tù cả.
- Em cũng đoán vậy nên cố tìm mà không biết anh ở trại nào, gia đình ở đâu để thăm nuôi. Em lo quá!

Rồi cô lại cười, nhưng nước mắt chảy dài trên má.

Đây là chuyện cổ tích đẹp nhất trong những ngày buồn thảm nhất của nước Việt Nam Cộng Hoà. Cũng còn nhiều chuyện cổ tích sáng ngời hơn, đẹp đẻ hơn, ai cũng biết nhưng không bao giờ kể ra. Đó là quả tim của những bà mẹ, những bà vợ, những người con giành trọn cho con, cho chồng, cho cha đang chết dần mòn trong ngục tù cộng sản.

Hôm đám cưới, vợ chồng hắn phải đi từng bàn tiệc chào mừng quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi cô dâu chú rễ phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ hắn chỉ thấm môi nên hắn phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Hắn không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ hắn cũng say. Ông say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai hắn lè nhè.

Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con Út Mai của moa.

Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn gì, khi mô đâu? Mà vợ chồng moa đâu biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng.

Tấm hình, mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già? Rứa mới chết chớ! Rứa là gặp đứa mô tuổi cụ mi cũng rước về nhà cho hắn nhận diện. Hú vía, hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó đâu?!..

Phạm Thành Châu
khieulong
Posts: 3553
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Đêm Giã Từ Hà Nội
Mai Thảo

Hà Nội ở dưới ấy.

Từ chỗ anh đứng, Phượng nhìn sang bờ đường bên kia. Những tảng bóng tối đã đặc lại thành khối hình. Từng chiếc một, những hàng mái Hà Nội nhoà dần. Phượng nhìn lên những hàng mái cũ kỹ, đau yếu ấy, giữa một phút giây nhoè nhạt, anh cảm thấy chúng chứa đựng rất nhiều tâm sự, rất nhiều nỗi niềm. Những tâm sự câm lặng. Những nỗi niềm nghẹn uất. Của Hà Nội. Của anh nữa.

Dưới những hàng mái cong trũng, ngập đầy lá mùa kia, đang xảy ra những tâm trạng, những biến đổi gì mà ở bên này đường Phượng không đoán hiểu được. Hà Nội đang đổi màu. Đứng bên này bờ đường nhìn sang, Phượng bắt đầu tiếp nhận với một thứ cảm giác ớn lạnh, cách biệt, anh đã đứng trên một bờ vĩ tuyến mà nhìn về một vĩ tuyến bên kia. Bên ấy, có những hình ảnh chia cắt, đứt đoạn. Bên ấy, có những hình chiến luỹ, những hàng rào dây thép gai, những đoạn đường cấm, những vùng không người.
Phượng cũng không hiểu tại sao nữa. Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia.

Phượng nhìn xuống lòng đường. Trong bóng tối, mặt nhựa lầm lì không nói gì. Những hình cây đổ nghiêng trên những tấc đất đá câm nín. Bí mật dàn ra những bề phẳng, những đường dài như một dòng sông ngăn chia hai bờ, và Phượng đã đứng ở bên này mà nhìn sang một bờ bến bên kia. Bên kia có Hà Nội. Bên này có anh. Có tập thể. Có những bạn đường. Có một chuyến đi về Hà Nội.
Chung quanh chỗ Phượng đứng, những tảng bóng tối đã đọng lại trên bờ đường như những bờ hầm hố. Nhìn xuống, Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm. Hà Nội ở dưới ấy.
Anh nhớ đến Thu. Thu cũng còn ở dưới ấy, trong Hà Nội. Cái mái nhà cũ kỹ bên kia, chính là mái nhà Thu, lại cũng chính là ở bên ấy, Thu sẽ đến với anh, ở bên này. Từ một mái nhà của Hà Nội đêm nay, đến bờ đường anh đứng, chỉ có một đoạn ngắn, nhưng Phượng biết rằng đêm nay, nó chứa đựng tất cả ý nghĩa của một đoạn đời. Và Thu, Thu phải đặt cả đời Thu vào một chuyến đi, thì Thu mới vượt được đoạn đường ngắn ngủi ấy, và Thu mới sang được với anh. Như anh, như hàng nghìn hàng vạn con người Hà Nội đêm nay, Thu sẽ ở lại hay sẽ vượt lòng biên giới cũ. Giữa những phút giây Hà Nội đang rắn lạnh lại trong chuyển đổi chính thể đã bắt nguồn, đứng bên này đường, Phượng mới cảm thấy rằng ở bên kia Hà Nội, Thu đã ở thật xa anh. Cái cảm giác ớn lạnh mỗi khi anh đứng trước một dòng sông lại nổi lên. Con sông biên giới đêm nay lại hình như con sông Hồng chảy qua một bờ Hà Nội. Trong Phượng, sóng lòng của chuyển dịch chưa kịp nổi lên mà những ngọn sóng của dòng sông cũ đã nổi dậy. Âm thanh oà oà. Lòng đêm Hà Nội chứa đựng những tiếng đổ vỡ đang xô chen trong bóng tối đặc quánh.

Qua bóng tối, Phượng nhìn thấy những hình khối của Hà Nội bên kia: một cửa ô đoạ đầy. Một hàng mái cũ. Những lớp phố phường sa đoạ. Những ánh đèn nhạt tái trên những bờ tường câm đen. Bóng tối chính thể đổ xuống làm nghiêng ngả những sự kiện này.
Bên kia, Hà Nội vẫn đang lặng lẽ đổi màu. Người Hà Nội dựng cửa tắt đèn để mà đổi thay trong bóng tối. Phượng thấy thương Hà Nội. Thương những người Hà Nội. Những người còn ở lại dưới những hàng mái cũ kỹ kia vì những vướng bận đau khổ.
Đêm khuya dần. Từ một cửa ô, Hà Nội bắt đầu ngây ngất dấy lên những ngọn gió núi rừng thổi về. Gió rừng hoang về qua cửa ô, đi thẳng vào tâm can của người Hà Nội. Ngọn gió tiền phong này đến trước chính thể, đang lọt dần qua cửa ô Yên Phụ, Kim Liên như một điển hình của hoang lạnh rộng lớn. Cả Hà Nội run lên, tê đi. Trước phút bỏ đi mà Phượng cũng như giá buốt cả cơ thể. Hà Nội đã bắt đầu đón nhận ấn tượng. Ngày mai, Phượng ở miền Nam rồi, Hà Nội sẽ phải còn đón nhận những sự kiện, những con người bên ngoài. Sau ấn tượng hoang vắng đêm nay, sẽ là sự thật tàn nhẫn ngày mai. Nhưng chỉ đón nhận ấn tượng, Phượng cũng đủ thấy Hà Nội không còn gì. Hà Nội chỉ còn là một thứ thuộc về bên kia. Hà Nội chỉ còn là một thứ thuộc về bên kia. Bên kia như Đêm. Như Bóng tối. Như Sa đoạ. Như Tù đày.

Trên đầu Phượng, những ngọn lửa nhìn xuống. Ấy là những con mắt đau yếu của một Hà Nội không ngủ. Những ánh lửa tròn, nhợt nhạt, bé nhỏ, bị giam chặt giữa bóng tối. Phượng nghĩ đến những vì sao xa xôi đứng chết ở một góc trời cũ. Hệ thống ánh sáng Hà Nội đã hết bay múa. Bóng tối dềnh lên những đường lung linh. Từng điểm lửa gục đổ. Đêm nay, Phượng chỉ còn mong chúng có đủ ánh sáng để soi đường cho Thu đến được với anh. Phượng chỉ còn mong có thế thôi. Vì anh biết ngày mai những điểm lửa ấy sẽ không sáng nữa. Hà Nội sẽ không sáng nữa.

Buổi chiều, hồi năm giờ, gặp Thu ở cuối nhà Thuỷ Tạ, anh đã nhắc Thu đến một ngả đường. Đúng hơn đến một chuyến đi. Anh lại nhắc cả Thu đến một hạn định: Hôm nay là ngày cuối cùng người ta được tự do rời khởi Hà Nội.
Phượng bảo người yêu: “Hôm nay đã là ngày chót rồi, Thu ạ! Mười hai giờ đêm nay, chuyến xe cuối cùng sẽ đi qua cầu Long Biên. Anh sẽ đi chuyến ấy. Việc lớn việc nhỏ, anh đã thu xếp tạm yên cả rồi. Chưa yên hẳn, nhưng cũng đành vất bỏ hết. Việc đi khỏi Hà Nội trước hạn định cần hơn. Anh sẽ đến đợi em ở đầu phố tối hôm nay. Chúng mình sẽ cùng vào trong Nam”.
Phượng nói vắn gọn có thế. Bao nhiêu lần gặp trước, kể từ ngày có hiệp định chia đôi, anh và Thu đã bàn với nhau nhiều. Bàn đi bàn lại, nhưng vẫn chưa ngã ngũ ra sao cả. Vấn đề chỉ mới giải quyết xong về phần anh thôi. Trước sự lựa chọn một thái độ và trước những mưu toan xây dựng một cuộc sống tay đôi ở bên kia vĩ tuyến của hai con người cùng gắn bó đến những cái cao đẹp của đời sống, những gió bão của chiến thời ở đây lại có thêm những thảm trạng của đất nước bị chia rẽ. Sự ngăn chia đến cả từng cuộc đời. Đất nước ngăn cách làm hai miền, thì những cuộc đời cũng chia về hai phía. Như đêm và ngày. Bên này, bên kia. Biên giới oán thù dựng lên ở giữa.

Cho đến nay, Thu vẫn chưa quyết định. Thời hạn được ấn định cho di chuyển trong khu vực Hà Nội cứ vợi mãi trong phân vân lưỡng lự của người thiếu nữ. Phượng cũng hiểu cho người yêu. Anh khác, Thu khác. Cuộc sống mấy năm gần đây của anh trong Hà Nội cứ an định một chỗ, chỉ một ngụm gió nổi lên là cũng đủ đưa anh ra ngoài cửa ô. Di chuyển là một cần thiết cho đời sống của Phượng trong ngày cũ, bây giờ lại là một hành động của tự do. Cứu cánh của người Hà Nội hôm nay nằm trong sự thoát khỏi phố phường cũ.
Nhưng Thu, Thu chỉ là một người đàn bà. Vây quanh lấy đời Thu, Phượng cũng đoán thấy không biết cơ man nào là những sợi dây nối kết cuộc đời của Thu với Hà Nội. Như lúa với đất. Đi khỏi được, ít ra Thu cũng phải cắt đứt được bằng hết những sợi dây ấy. Chúng là những rễ lớn rễ con đã bám chặt lấy đời Thu từ tuổi thơ. Trên mái tóc suối chảy của người thiếu nữ, bóng dáng một mái nhà cổ kính đổ xuống. Những nếp nhăn trên trán người mẹ. Những sợi tóc bạc trắng của người cha. Đi thoát được mái nhà cũ, hành động của Thu sẽ là một hành động quyết liệt. Nó đòi hỏi nhiều đau khổ, nhiều mất mát. Lòng người vẫn phải rách nát vì những đau khổ, những mất mát ấy.

Phượng biết thế, nên người anh hùng cũng không giục giã người yêu. Mặt khác, anh muốn rằng trước thử thách này, Thu sẽ hành động, sẽ quyết định một mình. Như một con người tự do hành động và quyết định. Phượng vẫn thường có quan niệm rằng chính kiến của con người như một thứ hướng đi, tuỳ theo sự lựa chọn chân trời riêng. Đối với Phượng trái đất này có hàng triệu ngả đường thì con người cũng có hàng triệu hướng đi, trên đó đua nở những hoa cỏ cùng là rung động những tình cảm của người trước cuộc sống. Thảy đều mênh mộng, không bến bờ. Nhẹ thoáng như không khí. Bay múa như nắng.
Nếu không, thì trái đất không còn là trái đất nữa. Con người không còn là con người nữa.
Mấy ngày gần đây, Hà Nội của Phượng đã hết nắng. Hà Nội đã thiếu không khí, thiếu hơi thở. Bên kia tả ngạn Hồng Hà, bên này năm cửa ô, ngay trong nội tâm Hà Nội, những sự kiện mới mai đây sẽ về ngự trị trên Hà Nội đã như những tảng bóng tối mịt mùng dâng lên. Bóng núi bóng rừng chấp chới. Tim phổi người choáng váng, rức buốt. Những mạch đời ngừng nghỉ. Những màu sắc lộng lẫy nhất cũng nhạt tái lần lần.
Trên những sân ga, bến tàu, từ những trạm hẹn, những con người có sẵn thái độ như Phượng đã hướng vào chuyến đi. Những cuộc đời như đời Thu, rách nát vì mâu thuẫn, giờ phút này đang trải qua một cuộc tranh đấu quyết liệt với bản thân. Chúng là những miền còn tranh tối tranh sáng. Sau hết, là những người ở lại. Ở lại với Hà Nội. Vì hoàn cảnh vướng bận.

Chưa bao giờ Phượng lại cảm thấy Hà Nội chứa đựng nhiều khía cạnh, nhiều thời gian tính đến thế. Đứng trước cuộc đổi đời, Phượng va chạm với những con người đang lựa chọn để nắm lại trong dĩ vãng hay đi vào tương lai. Từ một bản hiệp định chia đôi, chói lên những phút giấy thử lửa. Thái độ của từng người phân định dần mãi. Như thế cũng hay. Lại hơn. Đằng nào cũng một lần.
Từ ngày Hà Nội thay đổi sắc thái, Phượng thấy cái việc giã từ Hà Nội của anh không đến nỗi sầu thảm như anh tưởng. Nhìn sang một lớp sự kiện còn nằm lại bên kia, đêm nay, Phượng, trong một cảm thông cụ thể, như đã sờ mó thấy trên đầu ngón tay cái lành khoẻ rộng lớn của một khối đời anh sẽ dựng lên sau chuyến đi. Dựng lên bằng niềm tin. Trong tập thể. Niềm tin này, riêng đêm nay, đã đốt cháy được hộ Phượng những sợi dây gắn bó với đời cũ. Với bên kia. Với Hà Nội. Theo anh, Hà Nội cũng không còn gì. Những người như anh lên đường đã mang theo Hà Nội vào chuyến đi.
Thanh toán cho xong được những chua xót lúc đầu, lòng người đi vậy là đã ổn định.
Duy có một vấn đề là Thu. Đối với Phượng, Thu đi hay Thu ở lại, việc ấy đã ra ngoài cái lãnh vực thường rất bé mọn của tình cảm. Anh yêu Thu, qua những rung cảm của tình yêu, còn có những nỗi niềm hết sức bao la, hết sức sâu nặng của con người anh gửi đến một người bạn cùng đường. Thêm Thu tập thể thêm đông, và đời Phượng cũng vui thêm trong xây dựng.

Chiều xuống dần. Hai người yên lặng bước đi. Buổi chiều cuối cùng ở lại Hà Nội, Phượng chỉ còn tìm thấy ở Thu một sự kiện lành mạnh gần gụi, khi mà tất cả những sự kiện khác đã sa đoạ, đã đổi màu.
Anh nhìn Thu: Mái tóc dài chảy xuống một bờ vai gầy. Hàng mi nghiêng nghiêng. Và con mắt sâu đen của Thu thì nhíu lại trong suy nghĩ. Phượng nhìn lâu lâu vào đôi mắt ấy, tận trong, đôi mắt u uẩn hình như đang thăm dò một ngả đường, trong đêm tối. Anh không biết Thu đang nghĩ ngợi gì. Nhưng anh đoán Thu đang đau khổ nhiều. Trong nội tâm người thiếu nữ cũng đang có những sự kiện vừa nằm xuống, vừa chìm lặn, cùng một lúc với những sự kiện đang đi lên, đang sinh thành. Bóng tối và ánh sáng chấp chới trên những mâu thuẫn chưa ổn định. Trong Thu đã có một ngả đường? Cháy một niềm tin? Đường mũi dài, đôi môi trang nghiêm của Thu in lên một nền nhờ xanh của sương mù, của buổi chiều. Bên kia, thấp thoáng những hàng cây, những mái nhà Hà Nội.

Một lát yên lặng. Phượng châm một điếu thuốc.

Thu nói với anh: “Em thì em cũng định đi rồi. Một phần vì Hà Nội. Cơ sự đã xảy ra thế này, cũng chẳng ở được nữa. Một phần vì em không muốn xa anh. Xa nhau, biết đến bao giờ mới gặp lại? Em sợ thay đổi lắm. Nhưng anh cũng biết, còn gia đình em đấy! Thầy me em già rồi. Me em đang đau nặng. Thầy em thì chỉ biết có lũ chậu hoa cây cảnh. Hồi này ông cụ chán đời cứ thở dài suốt ngày”.
Phượng hỏi Thu:
“Thầy me không bằng lòng cho Thu đi ư?”
“Không, thầy me em bằng lòng. Chính vì thế mà em phân vân. Anh hiểu cho em chứ?”
Phượng cúi đầu không nói gì. Hai người lại yên lặng bước đi. Phượng nhìn đồng hồ. 7 giờ 35. Anh bảo bạn:
“Thôi, anh đưa Thu về. Đêm nay, trên đường tới trạm di chuyển, anh sẽ đi qua nhà em. Em về nhà nghĩ lại đi. Cố thu xếp xem có được không?”
Thu đáp, tiếng nói bé nhỏ:
“Vâng, em sẽ cố gắng thu xếp. Dù sao, anh cũng đến, anh nhé!”
Hai người chia tay. Và Phượng, đúng 11 giờ đêm, đã xách va ly đến đợi Thu ở đây, bên này đường. Bên kia là Hà Nội.
Đêm Hà Nội càng về khuya càng lạnh buốt. Mặt nhựa loáng ướt. Những ánh đèn lu xanh một màu xanh hoang vắng trong sương. Trước mắt Phượng con đường Trần Nhật Duật chạy dài, một đầu phố nhạt nhoà mất hút về phía chân cầu Long Biên. Vắt qua lòng sông Hồng, những ánh lửa nơi chân cầu đổ về một hướng Gia Lâm. Gia Lâm, Phượng nghĩ đến những vùng cỏ tối bên ấy, nơi phi trường. Lát nữa anh sẽ vượt Hồng Hà, tới phi trường và ở đó, anh sẽ giã từ Hà Nội.

Lòng Phượng lắng đọng lại trong suy tưởng, trong đợi chờ. Những ý nghĩ nhẹ thoáng nhất cũng đều có những sắc thái rất mênh mông. Nhãn giới Phượng bắt gặp những hình khối của Hà Nội đang ngược đường về trong dĩ vãng, và lòng Phượng thì đã thơm rồi, những nhành hoa của xây dựng trên luống đất tương lai. Ngày mai, anh đi khỏi, tập thể xa rồi, Hà Nội sẽ ra sao? Những con người ở lại Hà Nội sẽ ra sao? Trong đêm giã từ, ba mươi sáu phố phường đi dần vào những tầng lớp của ký ức. Nhìn Hà Nội, Phượng bỗng liên tưởng tới những thành phố khác của thế giới, của thời đại. Hán Thành, Bá Linh. Những thủ đô đổ nát vì chiến tranh, bây giờ lại chứa đựng những ấn tượng buồn thảm của chia cách, hờn oán. Bên này, bên kia. Giã từ Hà Nội. Những con người cúi đầu. Một khung cửa đen câm. Những ngả đường ngoại thành hoang vắng. Những hàng mái đau yếu. Thu, Thu của anh.
Đứng một mình trong đêm dài, trước một Hà Nội ngủ thiếp, Phượng nghĩ đến những người bạn đường đã vượt Hồng Hà, đã bỏ Hà Nội, bỏ đất Bắc trước anh, vượt vĩ tuyến về tiếp tục cuộc đấu tranh cho tự do, cho con người, trên phần đất nước còn lại. Anh biết rằng thời đại, trong ngày tới sẽ nối kết con người bằng một ý niệm một hệ thống tự do. Tâm trạng của Phượng đêm nay cũng là tâm trạng của một người thợ máy Đức, một người dân cầy Triều Tiên, đang ngày đêm vượt khỏi những vĩ tuyến tù đày để tìm một hướng đi, một chân trời có không khí và ánh sáng. Năng lực đấu tranh của con người nằm trong những cạnh khía bay múa ấy.

Cái ý nghĩ cuối cùng của Phượng, gửi đến Thu. Anh nhìn sang bên kia đường. Vẫn không thấy gì. Có lẽ Thu đã ở lại. Phượng nhìn đồng hồ: Chiếc kim dạ quang chỉ đúng mười hai giờ đêm. Phượng cúi xuống nhấc va ly, bước đi.

Sau lưng anh, bống có tiếng gọi nhỏ: “Anh!”.
Phượng quay lại. Đôi mắt anh sáng lên trong tối. Từ bên kia bờ đường, từ bên kia Hà Nội, một bóng người bé nhỏ đang vượt lòng đường đi sang anh. Thu. Bóng Thu xiêu xiêu vội vã. Một thoáng, Thu đã đứng bên cạnh anh. Đôi mắt Thu còn ngấn lệ. Phượng đỡ lấy va ly Thu.
Tiếng thu vang lên trong đêm Hà Nội:
“Em được đi rồi. Cả thầy me cũng đi nhưng đi sau.
Và kéo tay Phượng.
“Chúng mình đi đi thôi anh ạ!
Phượng mỉm cười nhìn Thu. Giọt nước mắt của người lên đường nhập vào hàng ngũ của tập thể, của di chuyển, Phượng biết là một giọt nước mắt của tin tưởng. Sự đấu tranh cho tự do khởi thuỷ ngay cả ở chỗ ấy, nơi con người phải đấu tranh quyết liệt với chính mình, chịu đựng những mất mát, lìa bỏ ruộng đất, phố phường, để đến những miền tự do. Sau Thu, rồi còn hàng ngàn người như Thu, cũng chiến thắng được hoàn cảnh, cũng sẽ lên đường. Để bảo vệ một niềm tin. Để bảo vệ con người. Tất cả, họ sẽ trở về.
Phượng đưa Thu đi. Những ánh đèn xanh biếc của Hà Nội nghiêng theo những bước chân bắt đầu dời khỏi Hà Nội.
Bóng Phượng, bóng Thu nhoà dần. Rồi mất hẳn. Họ đã đi vào Tương Lai.

Mai Thảo
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

BA VÀ TÔI
Cha tôi, nhạc Paul Anka, Trung Hành trình bày:
https://www.youtube.com/watch

Nếu bạn sống bên cạnh cha mẹ và có thể nhìn thấy những đổi thay từ từ của hai đấng sinh thành mỗi ngày thì chắc bạn cũng như tôi... ngậm ngùi nuối tiếc, ngay cả khi đang cùng Ba Mẹ ngồi ăn một bữa cơm tối.
Ba tôi đưa đũa gắp thức ăn cho vào chén, tôi giúp ông:
- Ba, để con gắp cho.
- Không, Ba tự làm được mà!
Đầu đủa của Ba cứ gắp gắp xuống mặt bàn...
-Ba để con gắp cho!
- Được mà!
Hai, rồi... ba lần. Ba chỉ gắp được một cọng hành trong đĩa thịt xào.
Miếng cơm trong miệng tôi bỗng đắng ngắt.
Một lần khác, Ba chan canh vào chén mà đổ tràn ra bàn, Ba đổ rác vô thùng mà tung tóe ra ngoài ...
Nhìn bên ngoài, so với những ông cụ cùng lứa tuổi thì Ba tôi thật khỏe mạnh, nói chuyện giọng còn sang sảng... Ba lúc nào cũng là người đàn ông trong gia đình. Ba trông coi sân trước, vườn sau chu đáo; đóng cửa khoá phòng cẩn thận; tắt bếp tắt đèn trước khi đi ngủ; thu dọn rác
rưởi sau những bữa tiệc; dành xách những túi đi chợ nặng nhất; bất cứ lúc nào, bất cứ việc gì... không cần vợ con lên tiếng yêu cầu, Ba đều hăng hái chu toàn. Ba đúng là hình ảnh trụ cột của gia đình, gương mẫu và đầy vị tha.
Nhưng, tôi biết mỗi ngày qua là mắt Ba mờ hơn một chút, tai lãng hơn, tay chân lọng cọng và trí nhớ cũng dần mai một. Vậy mà khi tôi đưa Ba đi Bác sĩ khám tai để mua máy trợ thính thì ông la chói lói:
- Ba đâu có điếc mà đeo ba thứ đó.
Hoặc triết lý hơn một chút:
- Ôi, thôi, già rồi... bớt nghe một chút, không sao. Lỗ tai là cái gây nghiệp chướng nhiều nhất, bớt nghe bớt gây nghiệp!
Cho đến lần bạn già gọi điện thoại hỏi thăm, Ba khoát tay ra hiệu:
- Nói ổng... Ba ngũ rồi hoặc... Ba đi vắng!
Khi tôi cằn nhằn:
- Ba lạ ghê, không ai gọi thì trách mà có người gọi thăm thì không chịu nói chuyện.
Ba bỏ nhỏ:
- Tai Ba... không nghe rõ, kẻ hỏi gà, người trả lời vịt, phiền lắm, con.
**********

Ba và mấy chị em tôi định cư ở USA tháng 7 năm 1994. Năm đó Ba tôi đã 64 tuổi, sau mười môt năm trong trại cải tạo đã biến Ba tôi từ một người đàn ông trung niên đầy sức sống, đang thăng tiến về mọi mặt trong đời sống trở thành một ông già sáu mươi ốm yếu, bệnh hoạn. Tài sản trong nhà lần lượt ra đi vì vợ con không có cơ hội để kiếm được một công việc làm ổn định. Tôi, đứa con gái lớn của Ba, sau một cuộc tình duyên dang dở thì cũng đang vất vả nuôi một đứa con gái nhỏ không có quê nội để về...

Tôi vẫn còn nhớ ánh mắt của Ba nhìn tôi ngày tôi lên thăm Ba ở trại tù Tiên Lãnh - Quảng Nam. Ánh mắt ấy đã theo tôi suốt những tháng ngày còn lại trong đời. Vừa xót xa và tràn đầy thông cảm. Ba đã nói: “Con gái, khi chúng ta không thể nào thay đổi được hoàn cảnh thì nên vui vẻ chấp nhận nó, biết đâu... trong cái rủi còn có cái may, con à!”

Câu nói của Ba như một lời tiên tri. Cùng với nước mắt của hai mẹ con và lời khai theo sự hướng dẫn của Ba, tôi và đứa con gái nhỏ đã may mắn được sự chấp thuận của phái đoàn phỏng vấn cho đi định cư tại USA theo diện Nhân đạo (H.O) cùng với Ba và mấy người em. Lúc đó tình hình phỏng vấn rất căng thẳng cho con em của cựu tù nhân trên 21 tuôỉ. Năm đó tôi đã ba mươi sáu tuổi, trường hợp của hai mẹ con tôi được xem như là một kỳ tích. Tuy vậy, quyết định đưa đàn con đi định cư ở một đất nước xa xôi khiến Ba tôi ray rứt nhiều ngày tháng, sau khi đến Mỹ.
Thực tế chẳng bao giờ giống như mình tưởng tượng. Những lá thư từ bạn bè, người thân gởi về trình bày hoàn cảnh nơi sống mới không chính xác, thật ra, họ cũng chẳng am tường gì cho lắm. Mấy cha con tôi lê thê lếch thếch ra đi, ra khỏi nước bằng máy bay hẳn hoi, không phải vượt rừng, vượt đại dương gì cho cam go.

Những tháng ngày đầu tiên trên đất Mỹ thật gian nan, Má tôi vì lý do sức khoẻ đã không cùng đi với gia đình vào năm đó. Dưới sự dìu dắt của Ba, tôi vừa làm chị vừa quán xuyến việc nhà thay cho mẹ. Tôi đã phải vật lộn với cơm áo và ngôn ngữ để vươn lên và tồn tại trong xã hội mới này. Mỗi ngày tôi đã phải làm việc 12 tiếng đồng hồ, lái xe đi và về gần 3 giờ. Ba tôi dù tuổi đã cao, cũng kiếm được một việc làm gần nhà... Những lúc rảnh, Ba còn giúp tôi chăm sóc đứa cháu ngoại. Vốn thấm nhuần giáo lý nhà Phật, Ba dạy cho con gái tôi nên làm điều thiện, tránh điều ác; giảng cho cháu thế nào là nhân quả, luân hồi và lòng vị tha. Sau này, cả hai mẹ con tôi đều chịu ảnh hưởng quan niệm sống của Ba tôi rất sâu đậm.

Tôi nhớ rõ ràng, sáu người trong gia đình tôi đặt chân đến vùng đất tự do này với vỏn vẹn hai trăm đô la trong túi, không kể là biết bao nợ nần còn vương vấn nơi quê nhà. Vậy mà cái xách tay đựng tiền đó, tôi đành đoạn bỏ quên trên máy bay khi chuyển phi trường ở Los Angeles.
Máy phóng thanh réo tên mình oang oang tôi cũng chẳng nghe được, đến khi có nhân viên của chương trình IOM đến giúp đỡ, tôi trình bày đúng những gì trong xách tay của mình và được hoàn lại nhanh chóng, dễ dàng. Buổi tối đặt chân lên đất Mỹ, tiếng Anh đầu tiên tôi xử dụng là lắp bắp hai chữ “Thank you” trong ràn rụa nước mắt.

Mấy cha con sau một đêm nghỉ lại ở một hotel sang trọng, món gà chiên cho buổi ăn tối đầu tiên nơi xứ người đã khiến chúng tôi muốn ói vì chưa quen với mùi bơ. Cả nhà ăn tạm bánh tráng, bánh in mang từ VN sang, trong ba lô. Sáng hôm sau, chúng tôi được lên máy bay qua Denver rồi về Georgia. Chỗ ở đầu tiên là căn nhà ngay trung tâm thành phố Atlanta.

Ngày ngày chúng tôi đón xe bus đi học tiếng Anh, học chữ và học cả cách giao tiếp. Mỗi học sinh có mặt trong buổi học trước khi ra về được cô giáo cho hai đồng token, là loại tiền để dùng trả cho xe bus hoặc tàu điện ngầm, đó là một cách khuyến khích những người di dân đến với lớp dạy tiếng Anh. Chúng tôi vừa học sinh ngữ vừa lo học lái xe, những tháng đầu, cuối tuần nào cũng có môt vài người Việt đến thăm và chở chúng tôi đi chợ mua thức ăn, có người mang gạo, nước mắm, bánh mì hay thịt hộp đến cho. Thỉnh thoảng có người từ các cơ quan từ thiện đến đưa chúng tôi đi nhận áo quần ở những nơi bán áo quần cũ. Mỗi người trong gia đình được phát một cái bao nylon loại lớn, đi vòng vòng trong tiệm tha hồ chọn những món mình ưa thích, miễn sao đầy bao là được.

Chị em tôi tham lam chọn toàn là đồ vest, com lê dày cộm, cháu bé con gái tôi thì ôm vô số gấu nhồi bông, búp bê… Ai cũng mừng rỡ vì khỏi phải chi tiền ra mà có đồ dùng, tiết kiệm được những đồng tiền trợ cấp, ai cũng vui.
Tôi nhớ có lần tôi đi chợ, muốn mua một cái chổi quét nhà mà ngần ngừ mãi, giá một cái chổi là $7, tôi nhẩm tính ra tiền VN mà hoảng hồn, không dám mua. Vậy mà Ba tôi một lần đi chợ, dám mua một bộ dao kéo, tông đơ điện để cắt tóc, tôi nhớ dạo đó chừng $19.99, thật là một khoản tiền khá lớn. Ba tôi giải thích: Nhà có hai người đàn ông, mỗi lần ra tiệm cắt tóc mất cũng hai ba chục rồi, chưa kể là phải nhờ người ta chở đi nữa. Mình cắt môt vài lần là lấy lại vốn. Sau khi Ba tôi nghiên cứu tập giấy kèm trong bộ đồ nghề về hướng dẫn cách xử dụng, ông đem tự điển Bách Khoa Toàn Thư ra tra tới, tra lui, thái độ rất tự tin, vui vẻ, yêu đời.

Thế là một ngày đẹp trời, Ba tôi hy sinh làm người mẫu cho chị em tôi luyện tay nghề. Đầu tiên là cô gái út, nổi tiếng khéo tay và từng là thợ cắt Âu phục bên VN. Không biết sao, mới cắm điện vào, đưa một phát, đầu tóc ba tôi bên phải trắng hếu. Con nhỏ hoảng hồn la lên:
- Chết, sao nó ủi nhanh quá vậy.
Con bé lấy cái kéo sửa tới sửa lui, nó lẩm bẩm, cắt bằng kéo coi bộ chắc ăn hơn. Hì hục cả buổi con nhỏ vẫn chưa dám đưa cái gương cho Ba tôi soi. Cô em kế ngồi nhìn em mình làm thợ cắt tóc, coi bộ không xong bèn làm khôn lên tiếng:
- Để tau, tông đơ bằng điện mà, mi giởn hoài.
Cô bé cẩn thận để cái lược lên rồi mới bấm tong đơ, vèo… liếm sát da đầu, trắng hếu nửa.
- Kỳ ghê ta!
Con nhỏ sửa tới sửa lui, chê:
- Ui, cái đầu Ba mình bị méo nên khó cắt cho đẹp.
Cậu em tôi chê hai con em gái không biết xử dụng đồ nghề bằng điện, nó cũng thử tay nghề, húi một phát, phía trước, mặt tiền của Ba tôi bị xẹt một phát, bên cao bên thấp. Đến phiên tôi ra tay nữa thì trời ơi, trông Ba tôi ngố như một người thường trú ở bệnh viện thần kinh đi lạc ra ngoài. Vậy mà Ba tôi soi gương, dòm khuôn mặt khùng khùng của mình rồi cười cười:
- Kệ, xấu mặt thì lâu, xấu đầu mấy lúc, mai mốt tóc dài ra mấy hồi.
Thằng em trai nhìn thấy mái tóc quái đản của Ba tôi thì e dè. Không dám chê, không dám phê bình, ngậm ngùi leo lên ghế ngồi đưa đầu tóc cho ba đứa tôi thực hành tiếp. Hắn khôn ngoan phán cho một câu:
- Cắt tự do, đi ra ngoài… tui đội mũ lên là chắc ăn nhất.

Tôi thương cái tính của Ba tôi dễ dãi, hiền hòa, ông chẳng những không phàn nàn về mái tóc không giống ai của mình mà còn lạc quan kể về những ngày mới vào trại cải tạo. Trên đó cũng đâu có ai biết cắt tóc là gì. Có một chú vì quá ốm yếu, không đi ra ngoài lao động được nên
khi cán bộ hỏi ai biết cắt tóc, chú giơ tay lên. Hy vọng làm chức thợ cạo này được nhàn nhã một chút. Đồ nghề giao cho chú chỉ là một cái kéo cùn. Ba tôi kể, khi chú nhắp nhắp, cắt tới cắt lui xong cái đầu tóc thì đúng là cha mẹ còn nhận không ra nữa, đừng nói gì chính đương sự.
Vậy đó nên khi được đám thợ không chuyên môn là bầy con của ông với dụng cụ cắt tóc bằng điện quá văn minh, ba tôi chấp nhận làm người mẫu cho chị em tôi dài dài suốt hơn hai mươi năm. Đến nay, em gái út tôi đã có bằng cắt tóc, con nhỏ chỉ cắt tóc cho người nhà. Ba vẫn là người mẫu trung thành, dễ dãi, dễ thương nhất trên đời.

Nhớ ngày ấy, nơi chúng tôi ở là vùng ít bóng dáng người Việt Nam. Hội Từ Thiện đã mướn cho gia đình tôi căn nhà nhỏ ở tạm, chắc là vì giá nhà quá rẻ. Mỗi ngày đón xe buýt đi học Anh Ngữ về, mấy chị em từ xe buýt nhảy xuống, lội bộ thêm chừng năm phút mới đến nhà. Quãng đường không xa nhưng đây là quãng đường thích thú của chúng tôi, vì khi đi bộ, thấy người ta có nhiều món đồ cũ đem ra để trước mặt nhà, có người dán tờ giấy “FREE”, nghĩa là... đồ cho không, biếu không! Ai cần thì cứ việc mang về xài. Ngày nào chúng tôi cũng lượm lặt đuợc vài món. Khi thì cái bàn nhỏ, lúc thì cái kệ để TV, vài cái đèn ngủ…
Một hôm, đi ngang qua khu vườn của một người da màu, thoang thoảng nghe hương thơm dìu dịu của rau húng. Mấy chị em lục lọi trong đám cỏ vừa mới cắt, thì ra có vô số rau húng mọc lẫn trong cỏ. Mấy đứa nhìn nhau cười, nét hân hoan hiện rõ trên mặt như gặp người quen. Cái cảm giác mà văn thi sĩ gọi là “tha hương ngộ cố tri”.
Về nhà, tôi nói liền với Ba:
- Ba ơi, đất ở đây chắc dễ trồng trọt, con thấy có rau húng mọc hoang trong cỏ.
- Ôi cha, thôi con ơi, Ba làm gì cũng được nhưng miễn cái vụ trồng tỉa nghe.
Tôi tròn mắt:
- Răng rứa Ba?
- À, thì... hồi xưa tới giờ, mỗi lần bà Nội con giú chuối trong khạp cho chín, hễ Ba ngó tới là kể như nó héo hon, không chín được. Bà Nội nói: "Ba rắn mắt, không trồng cây, không làm dưa, không...."
- Xời ơi, rứa mười mấy năm cải tạo Ba không trồng được rau, lấy chi mà ăn?
- Ba làm thợ đan giỏ, đan rổ tre, sau đó tụi nó đồn ba là Kỹ Sư Đường (Ba tôi xưa kia làm ở Ty Công Chánh thành phố Đà Nẵng) nên khi Trại có cái lò nấu đường bát, cán bộ bắt Ba qua nấu đường. Từ đường sá, cầu cống Ba qua làm ông thợ nấu mía thành đường ngon lành… Ba đổi đường lấy rau ăn, cần chi phải trồng với trọt?

Thế là sau đó Ba tôi say sưa ca đi ca lại bản nhạc “Hồi đó, trong trại cải tạo... ” Ba cứ khăng khăng là không có tay trồng trọt. Tôi không tin, phần thì ăn xà lách hoài cũng ngán, chúng tôi thèm những thứ rau có mùi, mang hương vị quê nhà. Thử tưởng tượng ăn thịt gà trộn muối tiêu mà không có rau răm, ăn bánh tráng cuốn thịt ba rọi cũng chỉ với xà lách. Hành ngò thì cũng có nhưng khá đắt, kể cả những thứ rau mùi cũng có bán ở chợ Việt Nam, chợ Thái Lan nhưng rất mắc và quan trọng là không có ai chở mình đi chợ. Tôi lải nhải nhắc Ba: "Không có việc gì khó, chỉ sợ mình... không trồng!"
Một hôm, có người quen biếu Ba mấy dây khổ qua con, Ba đem ra sau vườn cắm xuống đất một cách bất đắc dĩ, ngày ngày Ba ra tưới nước, thăm chừng một cách e dè, khổ sở. Dây khổ qua be bé như hiểu được nỗi khổ của Ba nên vươn vai lớn mạnh mẽ. Ba nhặt nhạnh mấy cành cây khô gác lên làm giàn. Cái giàn đơn sơ đón nhận những ngọn khổ qua với nhiều nụ vàng dễ thương. Đến khi mấy trái khổ qua nhỏ xíu, e ấp lẫn trong đám lá xanh mướt thì nụ cười của Ba như trọn vẹn hơn. Sau đó, mỗi khi “được” chở đi ăn phở, Ba len lén gói vài cọng rau quế vào trong giấy, về nhà tỉ mỉ đem ngâm vào ly nước cho tươi rồi trồng vào cái chậu nhỏ, Ba bón xác trà và tưới nước đều đặn, gặp ai cũng hỏi thăm mua phân bón ở đâu… Ba vì nhu cầu “ăn uống” của mấy đứa con mà hết lòng hết sức với mấy cây rau thơm, mấy cây ớt. Dần dà, vườn rau nhỏ của Ba với dây khổ qua, vài cây ớt, rau quế, rau húng... lại là niềm đam mê và tự hào của Ba.

Ba năm sau khi định cư ở quê hương mới này tôi đi mua căn nhà mới, chính là căn nhà tôi đang ở bây giờ. Hai cha con chọn nhà có sân sau bằng phẳng. Ba ra sức cuốc thêm ra phía sau, lấn vào bìa rừng để mở mang “bờ cõi”. Đất ở Georgia là vùng đồi núi nên toàn là đất đỏ lẫn với đá. Ba miệt mài “có công mài sắt, có ngày nên kim”.
Sân sau nhà tôi sau nhiều năm trồng trọt bây giờ là vườn rau với đấy đủ những thứ cần thiết. Nào là dưa leo, mướp, bí đỏ, bí đao, rau muống, rau lang, đậu bắp, rau thơm các loại, diếp cá, ớt, tía tô, khổ qua, đậu ve, rau mồng tơi, dền... là những thứ trồng vào mùa xuân, ăn suốt mùa hè mùa thu. Đầu mùa thu Ba còn tỉa được ngò rí và rau cải con, cải bẹ xanh để ăn bánh xèo. Những dịp này, buổi sáng ra vườn rau, hương của các loại rau thơm, ngò... tỏa lên ngan ngát, dịu dàng khiến tâm hồn khoan khoái thật dễ chịu. Ba còn ra công đào một rãnh nước song
song theo những luống rau, dưới đó Ba thả vài nhánh ngò ôm tức là rau ngổ, bên cạnh là đám bạc hà, hai thứ để nấu canh chua.
Ba tận dụng mảnh đất sau nhà làm thành một vườn rau rất tươi tốt, ngăn nắp. Giàn khổ qua phải cách xa giàn mướp ngọt một khoảnh sân, vì ngọt đắng là hai vị khắc nhau; rau quế là thứ kén nhất nên ưu tiên được “ngồi” trong chậu. Dây bí đỏ không lên giàn mà được thả cho bò lên đồi, như vậy chịu được mấy chục quả bí nặng nề, chắc nụi. Rau thơm và diếp cá, rau răm được sắp xếp ở gần nhau trông rất đoàn kết. Ba nói, mỗi khi cần ăn rau sống, đem rổ ra cắt một loạt là có đủ các thứ rau thơm không cần đi đâu xa. Rau muống là thứ thích nước nên Ba trồng ô
rau muống ở giữa hai rãnh nước, những cọng rau muống xanh mướt thấy mà ham! Bao nhiêu tiền con cái cho Ba vào những dịp Lễ, Tết Ba đều để dành mua dụng cụ làm vườn, mua phân bón.

Cách đây cả chục năm, khi khu nhà này đang còn xây dựng Ba thường lang thang vào xóm trong, nhặt những mảnh gỗ, khúc cây... sau đó ra Home Depot mua thêm một ít ván, Ba chăm chỉ đẽo đục, đo đạc… cuối cùng dựng lên được một căn nhà nhỏ ở góc vườn. Căn nhà làm theo kiểu ông bà thuở xưa, có cột kèo làm bằng mộng, không phải đóng đinh, có hai mái, có cửa chính, cửa sổ. Bên trong có hai dãy kệ để Ba chứa đồ đạc làm vườn, phân bón, máy cắt cỏ, một kiểu như căn nhà kho của Ba. Bên ngoài ông còn làm cái khóa rất kiên cố.
Trải qua bao mùa mưa nắng, tuyết phủ, căn nhà nơi góc vườn của Ba tôi vẫn rất chắc chắn, hiên ngang chịu đựng. Đám con cháu khen ngợi, ông thường hãnh diện: "Nhà lầu mấy tầng, cầu treo qua núi ông Ngoại còn làm được, dễ như chơi, huống chi thứ nhà nhỏ này". Hình như bao nhiêu kiến thức thời Ba học ở trường Công Chánh năm xưa nay được ông đem ra áp dụng, tuy thất cơ lỡ vận nhưng Ba tôi không thất chí nản lòng. Điều này thật đáng để chúng tôi ghi nhớ, noi gương và nhớ đến Ba với muôn vàn hãnh diện.

Vườn rau của Ba tôi mỗi năm thêm xanh tốt, mùa hè ông say sưa với mảnh đất nhỏ mà quên ăn quên ngủ, không ngại nắng mưa. Chúng tôi ủng hộ Ba bằng cách hăng hái chở Ba đi mua phân, mua đất xốp, thêm chuyện trả tiền nước hằng tháng không cằn nhằn. Má tôi thì khuyến khích bằng cách siêng năng đếm từng trái bí, trái mướp. Mỗi khi Ba cắt rau để đầy
trong tủ lạnh, chia cho con cháu ăn không hết thì Má chịu khó bỏ vào bịch nylon, buổi sáng sau khi đi bộ về, Má rủ vài người bạn già ghé qua khoe vườn rau và chia phần. Vườn rau nhỏ mang lại niềm vui cho nhiều người.
Ba tôi thường ví von chăm sóc vườn rau như nuôi bầy con. Có đứa dễ nuôi, không chăm sóc nhiều cũng lớn vùn vụt, mạnh mẽ ra đời thành công; có đứa cần phải o bế tỉ mỉ mới lớn, cũng có đứa cưng chiều quá mức thì lại ốm o hư hỏng, đem lại cho mình nỗi buồn phiền. Rau quả
ngoài vườn của Ba cũng vậy, có thứ thả lơ lửng vẫn tươi tốt cho ra hoa, ra quả ngon lành; có thứ được tưới nhiều nước, bón phân đều đặn lại èo uột, quắt queo. Ba tôi trồng rau với cả tấm lòng như thế. Dây bí đao mùa này yếu ớt, Ba tôi đâm lo như thấy đứa con bị bệnh, mỗi ngày tưới nước Ba đếm từng cái lá, hôm qua được mười bảy lá, hôm nay héo mất một lá rồi. Ba hỏi thăm người này người nọ lý do tại sao, Ba xem lịch VN coi có phải tại tiết trời quá độc, cây cỏ cũng hư hao, nhà nông gọi là mất mùa... Dây bí đao đã không phụ lòng Ba, dây bí nhỏ xíu mà cho ra quá nhiều trái, tròn trịa như một bầy heo con.
Ngày hè, chừng mười một giờ trưa là Ba ra nhà sau, lấy cạc tông che nắng cho đám rau, chiều về bớt nắng Ba dở ra, săm soi từng ngọn rau, từng cái lá. Mùa đông, Ba theo dõi dự báo thời tiết trên TV để thu hoạch hết ngoài vườn trước khi những đợt gió lạnh tràn về... Có lần Ba
tiếc mấy cây ớt còn đầy trái, bụi sả tốt tươi chưa muốn nhổ thì tuyết rơi, tuy không nhiều lắm nhưng cũng thừa sức làm đám rau của Ba héo hon ủ dột... Đứng trong nhà nhìn qua khung cửa kính, Ba chép miệng liên tục, thương cho vườn rau bị nhiễm lạnh.
Ba tôi là thế, việc gì làm Ba cũng bỏ hết tâm trí vào, Ba nói có như thế mới đạt được kết quả, bằng ngược lại mình cũng không lấy làm buồn vì dù sao mình cũng đã hết lòng hết sức, coi như “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” là ý trời mà, buồn làm gì.
Ba tôi sống lạc quan, nhẹ nhàng theo quan niệm Phật Pháp. Luôn có ý thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người nên cách hành xử của Ba tôi cũng sâu sắc, luôn quí trọng những niềm vui hiện tại. Ba tôi chăm sóc vườn rau mà đặt cả tình cảm vào như đang nuôi đàn con.
Vườn rau là niềm vui tuổi già của Ba, không những đem lại lợi tức nho nhỏ hàng ngày, mà qua đó, những suy tư của Ba cũng triết lý theo từng mầm xanh đang nảy nở mỗi ngày, bao muộn phiền như tan biến. Tôi tự hào mình là người đã “khuyến khích” Ba bước vào con đường trồng trọt này.
Nhìn dáng Ba cặm cụi bên những luống rau, dây bí, giàn mướp tôi ao ước cho Ba tôi mãi mãi có sức khỏe bên cạnh người bạn đời, ngoài niềm vui với gia đình con cháu còn vui với cả cỏ cây. Mong cho những ngày tuổi già của Ba được thanh thản, nhẹ nhàng như quan niệm sống đầy bao dung của Ba vậy.
Nhắc đến Ba má thì tôi không thể nào quên một câu chuyện, đó là một chiều cuối tuần đầu tháng Sáu, cách đây đã mười năm…
Chuông điện thoại reo.
- Con rảnh không, chở Ba má đi shopping?
Tôi giật mình, suýt làm rơi cái điện thoại xuống đất. Thường thì Ba Má tôi nhờ chở đi Chùa, đi chợ hoặc đi Bác sĩ. Tôi chưa bao giờ nghe Ba Má tôi muốn đi shopping. Tôi hỏi lại một lần nữa cho chắc ăn:
- Dạ, đi đâu Ba?
- Đi Mall.
Rồi không đợi tôi điều tra thêm, Ba tôi nhỏ nhẹ giải thích:
- Ba muốn đưa Má con đi Mall để mua tặng Má con món quà kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới.
Ôi, đúng là Ba tôi, môt người đàn ông Việt Nam vô cùng lãng mạn, dù tuổi đời đã hơn tám mươi.
Thuở tôi còn bé và cả khi tôi đến tuổi cần để xây dựng hình tượng một người đàn ông cho đời mình, tôi vẫn mong ước đó sẽ là một người chồng, một người cha giống hệt Ba tôi vậy. Tôi nhớ những khi Ba Má tôi có chuyện cãi nhau, Má tôi lúc nào cũng nóng nảy hay hờn giận; trong khi Ba tôi lúc nào cũng nhỏ nhẹ “Mình ơi, mình hỡi” ngọt xớt. Ngày Ba Má tôi có cơ hội đoàn tụ thì tuổi đã cao, sức khỏe cũng theo thời gian mà giảm sút nhưng tình yêu của Ba dành cho Má vẫn tràn đầy, ấm áp. Tôi đã nhìn thấy ánh mắt long lanh niềm hạnh phúc của Má khi nhận món quà kỷ niệm ngày cưới từ người chồng năm mươi năm mà Má thường đánh giá là “xấu trai, con nhà nghèo nhưng... học giỏi”... Cuộc hôn nhân kéo dài tính đến nay đã hơn sáu mươi năm với tám người con, bốn trai, bốn gái.

Ba Má tôi và các con dĩ nhiên cũng trải qua những cơn sóng trong gia đình, cũng trải qua bao thăng trầm của thế cuộc nhưng dù bất cứ điều gì xảy ra, tận đáy lòng tôi, Ba vẫn là một người dàn ông mẫu mực tuyệt vời.
Đến năm 2012 thì cả nhà tôi các anh em, cháu nội ngoại được Ba tôi lần lượt bảo lãnh để đoàn tụ. Tuy hơi lâu vì ngày tuyên thệ nhập quốc tịch của Ba bị trì hoãn, lý do: ngón tay trỏ của Ba bị tai nạn lao động ở chỗ làm, cắt cụt mất một lóng nên khó khăn trong việc lấy dấu
tay, phải làm tới làm lui mấy lần. Thời gian chờ đợi quả là thăm thẳm, mỗi khi có tin tức bên nhà lộn xộn là Ba má lo canh cánh. Tội nghiệp nhất là vào những kỳ mùa đông giá buốt, nếu Ba có cảm lạnh hay sốt, ho là Ba lo uống thuốc, chăm sóc bản thân, khi thắp hương trên bàn thờ Phật thì lẩm bẩm hoài:
- Cho tui mạnh giỏi để đón mấy đứa con đứa cháu qua sum họp, đừng kêu tui đi sớm nghe ông bà.
Ôi nghe mà xót cả ruột!
Đợt cuối cùng đón người nhà từ VN qua, trong bữa cơm đoàn viên, Ba tôi thắp nhang ở bàn thờ Phật xong và nói trong nước mắt:
- Bây giờ Ba có chết cũng yên tâm, cả nhà mình ở đây hết rồi, cháu nội cháu ngoại đứa nào cũng có cơ hội học hành, làm ăn đàng hoàng. Ba hoàn thành tâm niệm rồi, cảm ơn Trời Phật!
Tôi không biết các anh, em tôi khi nghe câu nói này, cảm giác như thế nào chứ riêng tôi, thật là đứt ruột!
Năm này Ba tôi đã 88 tuổi, mắt mờ, tai nghễnh ngãng, thần thái không còn tươi. Ba mang đầy đủ các chứng bịnh của người già, ngủ li bì cả ngày. Sau một lần đi ra ngoài không nhớ đường về nhà thì Ba như rơi vào trạng thái trầm cảm, biếng ăn, lặng lẽ đến ngạc nhiên.
Mùa hè đang đến, những lúc nhìn ánh mắt mờ đục của Ba khi ngắm khu vườn sau nhà không còn xanh mướt nhiều loại cây quả nữa, tôi thật quá đau lòng... Má tôi đi ngoại giao hàng xóm, xin về mấy gốc cây con Ba cũng không màng chăm bón. Những thú vui đọc sách, xem TV... ba cũng lơ là hẳn, không còn lạc quan thuởng thức cuộc sống như trước kia.

Còn đâu giọng nói sang sảng kể chuyện tù cải tạo, còn đâu hình ảnh Ba cặm cụi bên những luống rau, săm soi những búp non hay tỉ mỉ sửa sọan những quả mướp, quả khổ qua mơn mởn, lủng lẳng trên giàn. Ba giờ đây lúc nhớ, lúc quên, chẳng còn biết phân biệt thời gian. Suốt ngày Ba lục lọi, tìm kiếm; nếu hỏi: Ba kiếm gì vậy? Câu trả lời: Ờ, không biết Ba kiếm gì nữa! Khuôn mặt, ánh mắt Ba lúc ấy ngơ ngẩn như một đứa trẻ. Trông thật tội. Vậy mà con cháu mời ăn một món gì là ông cứ buột miệng hỏi: Má ăn chưa? Má đâu rồi? Một đời Ba tôi, lúc nào cũng nghĩ
đến vợ con trước hết, quên cả thân mình.

Tôi không phải là một phụ nữ may mắn về đường tình duyên nhưng tôi cảm nhận mình là một người hạnh phúc. Và lẫn lộn trong vùng trời kỷ niệm của đời mình, tôi chợt nhận ra hình ảnh của Ba tôi lúc nào cũng hiện hữu bên cạnh tôi như một cái bóng khi vui khi buồn. Cùng tôi đi
du lịch, cùng ngồi xem giải vô địch bóng tròn, cùng bàn luận chuyện nhân tình thế thái, chuyện thời sự đó đây… Ba tôi là thế, đơn giản mà gần gũi; chiếc bóng của Ba đã phủ trùm lên cuộc đời tôi mãi mãi và duy nhất, không có gì thay thế được. Tôi biết rằng không có ngôn từ nào có thể diễn tả đầy đủ về lòng biết ơn của con cái đối với bậc cha mẹ, không có tặng phẩm vật chất nào xứng đáng, có đủ ý nghĩa để tặng cha mẹ trong các ngày Lễ Trọng. Tôi cầu mong cho Ba Má tôi luôn khoẻ mạnh, vui vẻ thanh thản tâm hồn trong những tháng năm còn lại của cuộc đời, như quan niệm sống của Ba vậy.

Mỗi một ngày qua đi, bình minh rồi hòang hôn... tôi dành phần sâu thẳm trong trái tim tạ ơn đất nước đầy tình người và bao dung này đã cưu mang gia đình tôi.
Cám ơn Ba, cám ơn cuộc đời đã cho tôi một món quà vô giá mà không phải thế gian này ai ai cũng may mắn có được.

Nam Giang Tử
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Mối tình ngoại đạo

Nguyễn Diệu Anh Trinh
Tôi không phải là người có đạo nhưng Giáng Sinh với tôi có nhiều kỷ niệm thật tuyệt vời. Tất cả gói trọn vẹn trong mối tình đầu lãng mạn như sương khói và buồn như mây chiều thu.

Ngày chàng rời tôi, Chúa cũng u buồn dang đôi tay tiễn biệt, thế gian như thầm lặng chia buồn, và cô bé ngoại đạo đa sầu đa cảm là tôi tưởng như đã chết mất một phần đời. Lời cầu nguyện chàng dạy tôi khấn với Chúa những đêm đi Lễ Thánh chắc chưa đủ vang vọng đến trời cao nên chỉ sau mấy mùa Noel là tan tác. Nụ hôn vội vàng mà da diết trước cổng nhà đã khiến tôi tràn nước mắt. …Anh đi rồi, đường xưa có nắng không anh. Lá hoa còn đây, hay tàn theo tháng ngày…? Phố phường vẫn đông vui mà lòng tôi vắng chàng. Ðêm Thánh lễ những năm sau đó tôi không đến nhà thờ bởi không còn bàn tay chàng đón đưa, sưởi ấm. Tiếng nhạc đêm Giáng sinh và tiếng chuông giáo đường như chạm vào trái tim nhỏ bé của tôi thành những vết thương đau buốt.

Ðời sống không ngừng trôi như trái tim không ngừng nhịp đập. Những dòng sông bắt nguồn từ núi cao sẽ chảy ra hòa cùng biển cả cho dòng nước luân lưu. Mối tình đầu ngây thơ và trong trắng thời tôi mới lớn, theo tự nhiên đã phải lùi vào dĩ vãng để nhường tâm tư tôi lại cho bao âu lo trước thực tế cuộc đời. Tận một ngăn rất sâu, đôi lần tôi nghe tim mình thổn thức. Nước mắt lại tràn ra và tôi lắc đầu xua đi nỗi nhớ. Tôi tự nhủ lòng hãy để cho tình xưa ngủ yên, trong giấc mơ tôi thấy chàng cùng tôi đi Lễ. Chàng giảng cho tôi nghe những lời Chúa giảng ở trên cao. Giọng chàng ân cần khuyên tôi không nên than thân trách phận. Tôi nhớ ánh mắt chàng ái ngại nhìn tôi cái thời mà đọc kinh cũng se sẽ. Câu “Kính Chúa là yêu nước” không ai dám phát ra trên bờ môi. Chàng thường bảo tôi, mọi sự đều có sắp đặt của Chúa, Chúa ở cùng ta. Thời tôi yêu chàng, thời tay trong tay, tôi tin lời chàng như chàng đã tin Chúa. Nhưng tin cách mấy tôi vẫn là cô bé ngoại đạo nên chúng tôi xa nhau …
Tôi rời quê nhà, mang theo mối tình thời mới lớn và những trăn trở của người thiếu phụ trẻ một mình nuôi con. Ðời sống có những nỗi nhớ không đếm được và những nỗi buồn không viết nên thành thơ. Tôi hòa nhập vào phong tục nơi quê hương mới. Ðêm Giáng sinh tôi ngạc nhiên khi thấy đường phố vắng lặng, không một bóng xe, bóng người ngoài phố. Tất cả các cửa tiệm, nhà hàng lớn nhỏ của người bản xứ đều đóng cửa. Ngày Chúa giáng trần, lễ chính ở nhà thờ được giáo dân chuẩn bị hàng tháng trời trước đó. Ðêm Noel là đêm để gia đình sum họp. Có nhiều người cả năm đi làm ăn xa, ngoài tiểu bang hoặc ngoài nước, Noel là ngày đoàn tụ, tặng quà, vui chơi… Từ người giàu có đến bình dân, từ trẻ con đến người già đều thích thú hưởng thụ.

Tôi còn nhớ Giáng Sinh đầu tiên nơi xứ người, tuyết rơi nhè nhẹ và khí hậu khá lạnh so với những người Á đông mới định cư như chúng tôi. Mấy chị em rủ nhau mua cây thông về chưng trong nhà cho tăng phần ấm áp. Sau khi dạo tới dạo lui vài nơi, chúng tôi mua cây thông màu xanh (còn có loại cây thông màu trắng như phủ đầy tuyết nữa) và mua thêm những thứ trang hoàng để treo lủng lẳng cho đẹp mắt. Dĩ nhiên là không thiếu những dây đèn chớp chớp đủ màu. Tôi và nhỏ em đồng ý với nhau chọn thêm bốn dây đèn có âm nhạc để không khí thêm rộn ràng. Về nhà, mấy cha con, chị em rất hào hứng sửa soạn cho Cây Giáng Sinh. Sau khi kết hoa, giăng đèn… mùa Ðông tuyết rơi ngoài khung cửa vậy mà chúng tôi mồ hôi toát ra vì vừa làm vừa đọc hướng dẫn bằng English, tra tự điển… để ráp cây thông với những dây đèn cho đúng. Chúng tôi kết thêm Ðèn Âm Nhạc vào. Cắm điện và mở công tắc lên. Mời tất cả cùng lắng nghe ….hợp tấu …Ðêm Thánh vô cùng…giây phút tưng bừng ….Jingle bell…jingle bell….Thôi chết rồi, bốn dây đèn âm nhạc là bốn bản nhạc Giáng sinh khác nhau, nhạc êm dịu xen lẫn nhạc rộn ràng. Tất cả loạn xà ngầu như một buổi tổng dợt văn nghệ. Mấy cha con nhìn nhau cười, người này đổ thừa người kia, đọc chữ thì phải đọc cho hết, ngoài hộp có dòng chữ nhỏ phía dưới ghi rõ tên bản nhạc. Cậu em trai tôi cười, thấy ngoài hộp có vẽ mấy nốt nhạc …đồ rề mi fa sol….là… Ok rồi, ai mà biết?

Mười mấy lần đón Giáng Sinh xa xứ đã qua, tôi dần dần làm quen với phong tục nơi quê hương mới. Noel là dịp đoàn tụ, tôi thường để dành ngày phép của mình để thụ hưởng niềm vui đầm ấm này. Những dịp đi shopping trong mùa Lễ, ngắm nhìn thiên hạ lao xao, áo quần đẹp. Mùa Ðông với thời tiết lạnh và khô là cơ hội cho bao model áo lạnh, khăn choàng, giày ống… đủ kiểu, đủ màu sắc. Tiệm quán chưng bày rực rỡ, không khí Giáng sinh tràn về trên khắp nẻo đường, đèn đóm lấp lánh. Thế gian đang hân hoan đón chào ngày Chúa ra đời. Những buổi sáng sớm lái xe đi làm trong mùa Lễ, ngang qua những ngôi giáo đường nằm lặng lẽ trong màn sương của vùng đồi núi này.Tôi chợt thoáng nghĩ về nơi chàng đã sống ngày chúng tôi yêu nhau. Ðà Lạt, thành phố buồn muôn thuở. Miền Ðất Hứa, nơi tôi đã đôi lần rơi nước mắt khi tìm đến địa chỉ chàng đã viết ở bì thư của những lá thư tình đầy yêu thương, lãng mạn. Nơi đã vùi chôn mối tình đầu của tôi bằng những khắt khe không nói được bằng lời. Nơi đó, chàng đã ra đi mang theo lời nguyện dâng đời cho Chúa.

Bao năm tháng qua, mỗi lần nhớ lại cảm giác khi hai bàn tay chàng nâng niu ôm lấy khuôn mặt tôi trong nụ hôn ngày cuối, lòng tôi vẫn như là muối xát. Tôi không còn là một cô bé ngoại đạo hay khóc thương cho mối tình đầu không có đoạn kết thuở xưa. Ðời sống và tâm trí tôi cũng không còn hiện diện những âu lo khi ăn chén cơm hôm nay chưa no, lòng đã lo cho bữa ăn ngày mai.

Tuy nhiên, lòng tôi vẫn nhớ lời chàng… Hãy tin Chúa, Chúa ở cùng ta, mọi điều xảy ra trong đời ta đều có Chúa dự phần.

Giáng Sinh và tôi với mối tình đầu dang dở, xin hãy ngủ yên.

Nguyễn Diệu Anh Trinh
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Hoa Tím Bằng Lăng
Vì chiều cao “rất khiêm tốn” của mình, tôi cứ phải loay hoay điều chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng thâu lại hình ảnh của Tuân đang từ từ bước lên khán đài nhận bằng kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam “vinh quy bái tổ”. Tuân là đứa con “rất đặc biệt” của chúng tôi. Vợ chồng tôi mới cưới nhau được 10 năm nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22 tuổi! Gia đình bên vợ và người ngoài cứ nghĩ nó là con riêng của tôi mang theo từ Việt Nam; và chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế, vì mỗi lần gọi điện thoại về Việt Nam nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội.

hoa tím bằng lăng1

Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.

Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết chắc chắn tôi không thể có con; thay vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con tôi nhiều hơn. Đã mấy tháng nay nàng chạy ngược chạy xuôi lo thu tục giấy tờ để tuần sau chúng tôi về Việt Nam nhận một đứa cháu gái của tôi làm con nuôi. Ngày nhận được kết quả thử nghiệm xác định tôi không thể có con, Oanh đã âu yếm nhìn tôi thỏ thẻ: “Ngay từ đầu em vẫn tin anh. Em không buồn đâu anh ạ! Em chấp nhận số phận, nhất là chúng mình đã có Tuân… Tuy nhiên, em nghĩ chúng mình cũng nên nhận thêm một đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Nếu anh đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để chúng mình nhận một đứa con của chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu vẫn tốt hơn…” Đó là lý do Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường, chúng tôi sẽ về Việt Nam thăm gia đình và nhất là đưa Tuân về thăm lại mộ Trang, người mẹ ruột của Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày nó mới được 3 tháng tuổi, và Tuân trở thành “con trai” của tôi từ hơn hai mươi năm về trước tại Bình Giả, Việt Nam.

o0o

Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi của Tuân bây giờ… Tôi trở về Bình Giả năm 1979, sau mấy năm gồng mình cầm cự với nghề “gõ đầu trẻ” tại một trường tiểu học ở vùng kinh tế mới thuộc tỉnh Sông Bé. Tôi thương đám học trò nghèo đói nhiều lắm nhưng chính tôi cũng không chịu nổi cảnh đói nghèo vì lương không đủ ăn nên đành phải bỏ trường về quê ăn bám gia đình sống qua ngày. Sau mấy năm vừa dạy học, vừa làm rẫy sống lây lất qua ngày, sức tôi đã kiệt quệ! Tôi đã “cắt hộ khẩu” ở trường cũ, nhưng không xin “nhập hộ khẩu” tại Bình Giả vì tôi trở về với ý định tìm đường vượt biên. Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai cũng biết tôi đi dạy học ở vùng “Kinh Tế Mới”, và thỉnh thoảng vẫn về quê thăm cha mẹ cũng như xin thêm gạo, bắp… nên không ai thắc mắc hay hỏi han giấy tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó, ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho chuyến vượt biên chung với một số bạn bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất là vào rừng kiếm măng tre. Trong một dịp mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp lại anh Thành, một người trốn trại cải tạo, đang lẩn trốn trong rừng để tìm cách liên lạc với người vợ mới cưới được mấy tuần trước ngày anh đi học tập. Hôm đó trời trở cơn giông đột ngột, tôi chạy vội tới một gốc cây bằng lăng để trú mưa vì lúc đi rừng tôi quên không mang theo áo mưa. Lúc tới được gốc “cây cổ thụ”, tôi đã “hồn vía lên mây” khi nghe tiếng gọi tên mình vọng xuống từ ngọn cây:

– Toàn. Toàn phải không?

Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai đã gọi mình, nhưng trời đã tối mịt vì cơn mưa trong rừng nên chẳng thấy gì. Tôi sợ quá, đang định chạy trốn thì một sợi giây thòng xuống từ một cành bằng lăng rậm rạp phía trên đầu… Một bóng người trùm kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột xuống vừa lên tiếng:

– Mình đây. Thành đây.

Anh Thành đã xuống đất. Tôi đứng chết sững ngó đăm đăm người “đàn anh” nổi tiếng đẹp trai và hào hùng của mấy năm về trước, bây giờ ốm yếu da bọc xương, đen đủi hốc hác đang run cầm cập vì đói và rét. Tôi ngập ngừng:

– Trời ơi! Đúng là anh Thành đây mà. Sao anh ra nông nỗi này?

– Mình trốn trại cải tạo về đây đã mấy tuần rồi nhưng không dám về nhà vì sợ bị bắt lại. Trời xui đất khiến cho mình gặp được Toàn ở đây. Đúng là số mình chưa chết.

– Anh đừng nói gở. Bây giờ anh tính sao?

– Toàn có gì ăn không? Hơn hai tuần nay mình…

Tôi chỉ định đi kiếm măng vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo gì ngoài con dao cán dài để đào măng. Cũng may trong túi còn gói thuốc lá và mấy miếng kẹo cao-su (chewing gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua về cuộc đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ một cành hoa bằng lăng mầu tím, khắc một dấu hiệu đặc biệt lên đó và nhờ tôi mang về cho Trang, vợ anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng trở về, hẹn hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh vô rừng sớm. Thấy tôi trở về với một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ và em gái tôi ngạc nhiên lắm, nhưng tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi đứa em gái về Trang, vợ của anh Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện anh Thành trở về Bình Giả sau năm 1975 với một cô gái người miền Nam, bổn đạo mới. Gia đình anh Thành không chấp nhận nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép cưới cho hai người mấy tuần trước ngày anh ấy lên đường đi “học tập”. Năm đó Trang mới 17 tuổi, nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng còn ai nên đã theo người yêu là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm vui chưa trọn vẹn thì hoàn cảnh ngang trái đã chia cách đôi vợ chồng trẻ hơn bốn năm nay. Trang ở với gia đình cha mẹ chồng như một chiếc bóng cô đơn bên đường, mòn mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại!

Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh Thành. Hai bác tỏ vẻ khó chịu khi tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về sau tôi mới hiểu là ở Bình Giả đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái; hơn nữa, nàng lại là một người con gái đã có chồng! Từ nhà bếp đi lên, nhìn thấy tôi cầm cành hoa bằng lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững sờ nhìn tôi, miệng ấp úng nói không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:

– Có người nhờ tôi trao cành hoa này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên đó.

Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức nở:

– Trời ơi! Anh Thành! Anh đã gặp anh Thành…

Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:

– Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà tôi ở mô rứa? Công an đang truy nã nó mấy tuần nay. Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết! Chết cả nhà bây giờ! Ngày nào cũng có người tới nhà hạch hỏi về nó. Ông đóng cửa lại mau đi. Khổ thân con tôi!

Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết định sẽ chuẩn bị một số thức ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi thì nói là gia đình tôi thuê nàng đi làm cỏ lúa ở Đồng Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng không dám vì sợ hôm sau công an lại tới nhà làm việc.

Suốt một tuần liền, ngày nào Trang cũng “đi làm thuê” cho tôi để vào rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy ngày bàn bạc cùng gia đình, tôi đã quyết định nhường chỗ trên ghe cho anh Thành. Chúng tôi cũng sắp xếp cho anh Thành theo xe bò của một người quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để tránh gặp gỡ những người quen, rồi tôi đón anh ấy ra Long Hương “ở nhờ” nhà một người bạn thân của tôi để chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời, tôi và Trang trở thành những người đi buôn chuyến. Thực ra, tôi chỉ chở Trang ra Long Hương gặp chồng, có khi ở đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố Nai, Gia Kiệm… lo việc riêng. Người trong làng đã bắt đầu đồn đãi về việc tôi và Trang đi buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua đêm nữa! Mẹ tôi buồn lắm! Mặc dầu tin tôi, nhưng “lời ong tiếng ve” đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn về chúng tôi nên bà rất khổ tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ bình tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời đồn đãi đó sẽ làm người ta quên dần chuyện anh Thành trốn trại cải tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người bạn thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một tuổi, còn anh Thành thì xem tôi như một đứa em ruột, “một vị cứu tinh” đã dám liều mình cưu mang và giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.

Anh Thành và một số bạn bè của tôi đã ra đi đột ngột trước ngày dự tính vì công việc “bến bãi” bị đổ bể. Sau một tuần không thấy tin tức gì về chiếc ghe đó, chúng tôi yên chí anh Thành đã ra khơi bằng yên. Tôi lại theo bạn bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ ở Cần Giờ, đút lót xin giấy tờ tạm trú và bắt đầu công việc sửa chữa chuẩn bị một chuyến đi mới. Công việc bề bộn nên gần ba tháng sau tôi mới trở về thăm gia đình. Mẹ tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh của Trang. Nàng đã có thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh Thành coi như mất tích vì không có tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn nàng nhiều lần về đứa bé trong bụng. Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng không biết làm sao để giải thích. Mọi người đổ tiếng xấu cho tôi và nàng. Dần dà cả gia đình nhà chồng cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ, nhất là chờ mãi không thấy tin tức gì của anh Thành nên bắt đầu hạch hỏi và coi khinh nàng. Hai bác đã xuống nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ trách móc và đặt vấn đề tại sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy tháng nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi khóc vì tủi nhục! Em gái tôi cũng nửa tin nửa ngờ nên đã tìm gặp Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải thích của Trang nên càng ngày càng thân với nàng.

Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ anh Thành đôi co và cãi vã với cả gia đình và giòng họ anh ấy để bênh vực cho Trang, nhưng rồi mọi người lại càng khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều hơn trước. Quá tủi nhục và hổ thẹn, Trang đã liều mình tự tử! Cũng may người nhà phát giác kịp thời và cứu chữa cho nàng và bào thai trong bụng. Mặc dầu được cứu sống nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói, sống vật vờ như một cái xác không hồn giữa sự khinh ghét của giòng họ nhà chồng.

Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho Trang về ở chung cho đỡ buồn và cùng đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu bì cho có chị có em. Chính vì lòng tốt của em gái tôi mà cả làng đều nghĩ đứa con trong bụng Trang là của tôi. Mỗi lần tôi về thăm, Trang khóc nức nở không phải vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người phỉ báng, nhưng nàng khóc vì đã làm hại danh dự của gia đình tôi. Lại một lần nữa, mẹ tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn, và khi nghe chúng tôi thề thốt không hề có tà ý với nhau, mẹ tôi đã “ngồi xổm trên dư luận” để nhận Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ rằng mẹ tôi làm thế để tránh tiếng vì bà đã biết chắc chắn bào thai trong bụng Trang là cháu nội của bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt cay để an ủi vỗ về Trang, mong cứu vớt một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang lại liều mình tự tử như mấy tháng trước. Ôi! Mẹ đã hy sinh chịu nhục vì con và vì thương một người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con xin cúi đầu bái phục lòng can đảm của mẹ cho đến trọn đời.

Trước ngày ra đi, tôi đã trở về để từ giã gia đình. Ngay khi biết tin tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì bao nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời kỳ mang thai, Trang đã trải qua một đêm dài đau đớn, quằn quại đến kiệt sức nên y tá trong làng đề nghị phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh viện để mổ. Đáng lẽ sáng hôm sau tôi phải trở lại Cần Giờ để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi không đành nên đã lỡ một “chuyến đò”. Tôi theo mẹ và Trang ra bệnh viện. Trong lúc làm thủ tục giấy tờ trước khi đưa Trang lên bàn mổ, người ta đòi phải có thân nhân ký tên trong giấy tờ nên tôi đã đứng ra lo liệu… Cũng có thể vì lầm lẫn, và cũng có thể do số phận an bài nên các bác sĩ và y tá đã ghi tên tôi là “chồng” của Trang trong hồ sơ bệnh lý. Đó là lý do tại sao Tuân trở thành con tôi! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha mẹ anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ tôi vì những hiểu lầm trước đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất gì nên mọi người đều vui vẻ.

Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội cho cháu, và chính tờ giấy bệnh viện ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã gây nên sóng gió ồn ào cả xứ đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành Giáo và bà con trong họ anh Thành quyết liệt phản đối. Họ đến nhà hạch hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi trẻ háo thắng nên tôi đã nổi nóng đuổi hết mọi người và quyết định chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân nữa! Tôi chỉ muốn mọi người để cho chúng tôi yên nhưng miệng người không phải dễ “khóa”! Tôi ngang tàng chấp nhận sự dèm pha của mọi người và cứ hiên ngang ngẩng đầu tiếp tục chạy mánh tìm ghe lo chuyện vượt biên lần nữa. Lần này tôi quyết định sẽ đưa mẹ con Trang cùng đi.

Tôi có thể “đạp dư luận xuống bùn đen” để sống, nhưng Trang phải âm thầm than khóc từng đêm, nức nở đè nén “nỗi oan Thị Kính” từng giờ từng phút nên đã bị băng huyết cho đến chết, và chết trong tủi nhục vào một đêm tôi vắng nhà! Tôi trở về nhìn xác Trang nằm im bất động mà thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc chắn những phút cuối đời Trang đã phải quằn quại trong đớn đau tủi nhục! Tôi đã thực sự thù ghét mọi người trong xứ khi biết tin “người ta” không muốn cho tôi chôn Trang ở nghĩa trang giáo xứ vì bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự tử! Tôi không hiểu tại sao cả xứ lại lên án và “trừng phạt” thân xác một người đã chết trong khi hằng tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh “Thương Người Có 14 Mối, Thương Xác 7 Mối”, trong đó có ghi rõ việc “chôn xác kẻ chết!” Đâu có ai hiểu được nỗi đau đớn và tủi nhục đã gặm nhấm tim gan Trang từng giây từng phút vì bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức, và nhất là sự dằn vặt nàng phải gánh chịu vì đã “gieo họa” cho gia đình tôi! Đâu có ai ở gần kề bên Trang trong những giây phút cuối đời của nàng để “kết án” nàng đã “liều mình tự tử”!!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ giúp đỡ nhưng tôi đã điên lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở xa về đào huyệt chôn Trang trong một góc rẫy của gia đình tôi ở mép rừng. Tôi đã bỏ xưng tội, bỏ lễ cả mấy năm trời vì lòng thù hận vẫn chưa nguôi! Đã nhiều đêm tôi gục đầu dưới tượng chịu nạn van xin lòng nhân từ hay thương xót của Chúa thay đổi trái tim “thù hận” của tôi, và tôi cũng xin Ngài thương tha cho những người đã kết tội “oan” cho chúng tôi! Tôi chỉ thật sự trở về với Chúa như “một con chiên lạc” mấy tuần trước ngày vượt biên…

Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng được bú nhờ sữa của em gái tôi cũng mới sinh được vài tháng nên cháu vẫn lớn lên theo ngày tháng trong tình thương yêu đùm bọc của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi, về về tìm mối làm ghe vượt biển. Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế Tuân ra rẫy, đến ngồi bên mộ Trang khấn nguyện. Công việc làm ghe càng ngày càng khó khăn nên mãi 4 năm sau tôi mới thành công. Trước khi lên đường, tôi đã vô rừng tìm kiếm và đào được một cây bằng lăng nhỏ đem trồng bên mộ Trang để làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân đã chạy nhanh, nói sõi và lúc nào cũng quấn quít bên tôi những ngày tôi về quê.

Cuối cùng tôi quyết định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu mẹ tôi can ngăn nhiều lần. Tôi đã đi và tôi đã đến. Chính nhờ sự liều lĩnh của tôi mà Tuân có được ngày hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành đạt của Tuân. Tôi mang ơn Oanh vì nàng đã tận tình yêu thương săn sóc “cha con” tôi từ bao nhiêu năm qua. Nếu không có tình yêu và lòng vị tha thông cảm của Oanh, tôi đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ lạ quê người, và Tuân lại một lần nữa thành trẻ “mồ côi”!

Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước lên khán đài, tôi cảm động rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải chôn nàng ở mép rừng thay vì chôn ở nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không khóc khi từ giã mẹ già và gia đình ra đi, nhưng giờ này tôi khóc vì biết chắc chắn Tuân đã trưởng thành, và mấy ngày nữa sẽ về thăm mộ mẹ đang nằm cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng lăng “cha con tôi” đã trồng trước ngày “biệt xứ”.

o0o

Oanh đứng nép sát vào người tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống gục mặt khóc thật to. Tôi dìu Oanh đến cạnh gốc cây bằng lăng đã bị đốn từ mấy năm trước, chỉ còn một số chồi non mới lên được vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra một cành bằng lăng mới chớm vài nụ hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ nhàng đặt cành hoa mầu tím trên ngôi mộ của Trang. Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng tôi khẽ nói:

– Con biết mẹ con đang mỉm cười bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha mẹ quỳ lạy ba má đã nuôi con nên người.

Tuân nhẹ nhàng trao cho tôi tờ giấy thử nghiệm mẫu DNA xác định nó và tôi không phải “cha con”!

Nguyễn Duy-An
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image

Khi Vợ Vắng Nhà
Tràm Cà Mau

Ông Phú đã tám mươi tư tuổi, bị vợ giận vì suốt ngày ngồi ôm máy vi tính. Bà gọi cái máy nầy là“người tình mặt vuông cổ ngắn” của ông. Bà bỏ về tiểu bang Florida thăm cháu ngoại. Bà rủ ông đi, và nói khích rằng, sức mấy mà ông nỡ xa “con vợ bé mặt vuông”. Ông thì không muốn làm phiền anh con rể gốc Mỹ, tôn trọng đời sống riêng tư của hắn. Nếu đi thăm, thì ngụ tại khách sạn, chứ không ở chung nhà. Bà sợ tốn tiền, và cũng muốn được gần gũi, chơi với cháu ngoại nhiều hơn, nên dù ông không chịu, thì bà cũng cứ đi. Ông dọa bà rằng, con rể Mỹ thường có thành kiến, và xem mẹ vợ như chằn tinh. Người Mỹ có cả trăm ngàn chuyện tiếu lâm về bà mẹ vợ. Chuyện ông Adam là người đàn ông hạnh phúc nhất thế gian, vì ông không có một bà mẹ vợ, là một chuyện điển hình.

Bà nói, không cần biết, và cứ nhất định ra đi. Ông mở “internet”, tìm vé máy bay rẻ mua cho bà. Khi đưa bà ra phi trường, ông ôm tạm biệt và định nói rằng: “Hồi này bà không còn thương tôi nữa.” Nhưng tủi thân mà không nói được. Ông thầm thì: “Bà đi bình an nghe, vui nhiều với con cháu”.

Quay về nhà, tự nhiên căn nhà thành hoang vắng, quạnh quẽ. Buồn buồn, ông lật tờ báo, đúng trang có bài thơ “Hạnh Phúc Từng Phút Giây”. Đọc bài thơ xong, ông hết buồn ngay. Ông gật gù đọc lại hai câu thơ:
“Mỗi ngày qua, men hương đời uống cạn
Sống một giờ, vui sáu chục phút vui”
Ông biết rõ, thời gian còn thấy ánh mặt trời chẳng còn bao lâu nữa. Không tội chi mà phí phạm trong u buồn, dằn vặt, khổ đau, vô ích. Ông vừa đi vừa nhún nhảy hát “Tứng từng tưng, tứng từng tưng, tưng từng..” Rồi hân hoan ngồi vào máy vi tính, thư của bạn bè từ năm châu gởi đến cả trăm cái, chan chứa thân tình. Ông thầm cám ơn kỹ thuật tân tiến, đã thu nhỏ không gian của thế giới lại, để dù cho nghìn trùng xa, mà cũng như gần trong gang tấc. Có nhiều thư kèm theo hình các cô gái thân thể hồng hào lồ lộ, không áo quần, ông nhìn mà không có một chút động tâm nào. Con cái nhà ai mà đi phô trương thân thể cho thiên hạ xem thế nầy? Bố mẹ các cô thấy được, thì có bực mình không? Ông bấm bỏ hết các thư đó. Giá như còn trẻ, chắc ông cũng sẽ cất mấy tấm hình nầy lại và chuyển gởi cho bạn bè khác xem. Có phải các cô gái nầy muốn đem ra chia phần cho thiên hạ thưởng thức đường nét mỹ thuật trời dành riêng các cô không?

Ông Phú cười vì nhớ lại lời vợ nói rằng, đàn ông mà không có các bà nấu cho ăn, thì sẽ chết đói ngay. Có phải bà bỏ đi cho ông chết đói chăng? Mỗi lần nghe bà nói, thì ông cười thầm, vì bà đã quên chuyện thời ở tù cải tạo, ông đã từng nấu cơm cho hàng trăm tù nhân ăn. Nấu cho chín nồi cơm to lớn kiểu đó, thì đâu phải dễ dàng?

Buổi tối, ông ngồi nhấp trà nóng khề khà, nhìn ra cửa sổ, ngâm nga vài câu thơ ca tụng mùa đông. Bên ngoài tuyết rơi trắng xoá. Nhạc Chúa giáng sinh vang vang từ xóm giếng vọng lại.
Bỗng cái máu lãng mạn dậy lên trong lòng, làm ông ngất ngây, muốn một mình đi lang thang trong mưa tuyết giữa đêm Chúa giáng sinh. Nếu có vợ ở nhà, thì làm sao ông dám tự do thực hiện được cái ý muốn ngông nghênh nầy. Ông cười sung sướng và nghĩ rằng, vắng vợ, cũng có cái hạnh phúc riêng khác. Ông nghĩ lại mà thương vợ, bà cấm đoán ông nhiều thứ, vì lo lắng cho ông, sợ ông gặp tai nạn bất ngờ, sợ ông mệt. Nhưng bà quá lo lắng, và xem ông như đứa bé con, đôi khi làm ông bực mình.

Ông Phú mặc thêm áo khoác, kéo cao cổ, quàng khăn kín nửa mặt. Ngoài trời hoa tuyết vẫn còn bay lượn nhởn nhơ trong ánh đèn điện mù mờ. Ông cầm cây dù có cán dài làm gậy chống bước ra đường. Ông tự dặn dò, phải cẩn thận, đường trơn tuyết, đừng để té ngã mà vỡ xương chậu thì khốn đốn. Đêm Giáng Sinh, đường vắng, lâu lâu mới có một chiếc xe của kẻ về nhà muộn vụt qua. Nhà nhà kết hoa đèn màu sắc nhấp nháy. Ông Phú bước đi, lòng lâng lâng đầy sảng khoái. Ông vừa đi vừa hát nho nhỏ ca ngợi cuộc đời tử tế, dễ thương. Chỉ còn mình ông đi bộ giữa đường vắng vẻ khuya khoắt hôm nay. Không chừng ba bốn chục năm rồi, ông mới có dịp đi một mình như hôm nay, với tâm trạng hoàn toàn tự do, thảnh thơi nhẹ nhàng.

Đến một đoạn lề hẹp hơi tối tăm, ông thấy một kẻ không nhà, trùm một đống áo quần, ngồi bên chiếc xe đẩy, tuyết rơi phủ trắng cả xe lẫn người. Có lẽ đây một kẻ bị bệnh tâm thần lang thang. Lòng ông cảm thương. Ông còn mái nhà để về đêm nay, còn chén trà ấm áp để thông cổ, còn có chén rượu nhấp, và đói thì còn có thức ăn trong tủ lạnh. Kẻ không nhà nầy ngồi đây, lạnh lẽo, đói, khát, cô đơn, buồn, lo, sợ đủ thứ. Đoạn lề đường khá hẹp. Ông ngần ngại, sợ bị tấn công bất thần. Ông định quay lui, cẩn thận là hơn. Nhưng chân ông vẫn bước tới. Ông sẵn sàng phản công tự vệ bằng cây dù, nếu cần. Ông cố nhớ cho ra một thế võ hữu hiệu để sử dụng trong trường hợp nầy. Sức ông yếu, mà kẻ kia thì mang áo quần dày, có đánh vào người thì cũng như phủi bụi, không hiệu quả. Chỉ có cách đá vào hạ bộ, mà chân ông thì đi còn chưa vững, sức đá e cũng chẳng có là bao. Chỉ còn cái mũi dù là bén nhọn, đâm vào mắt thì ác quá, ông không dám, có lẽ yếu điểm hữu hiệu nhất là quanh yết hầu. Tim ông đập mạnh, tiến từng bước cẩn thận. Ráng làm ra vẻ bình tĩnh, sao cho kẻ kia đừng biết ông đang sợ. Bỗng ông thấy gã khoa tay, ông nhảy lui và chĩa cán dù ra thủ thế, đồng thời la lớn: “Ya..a..a..a” để cướp tinh thần địch thủ khi phát chiêu. Nhưng chân ông không vững, ngã nhào ra mặt tuyết. Ông lanh lẹ lăn hai vòng, nắm ngửa, hai tay giữ vững cán dù và la lớn:“Muốn chết thì đừng đụng vào ta!”. Trong khi đang hoảng hốt ông đã nói sai. Đáng ra là “Muốn sống thì đừng đụng vào ta”, mà ông nói “muốn chết”. Hình như kẻ kia nhỏm người, định rời chỗ ngồi, đến tấn công hoặc để giúp, đỡ ông dậy, mà nghe thế nên ngồi yên. Ông cẩn thận từ từ đứng lên, nói cho to kẻ kia nghe, để hắn sợ: “Lạy Chúa, con đã giết nhiều người quá rồi, đừng bắt con phải giết người thêm nữa.” Gã không nhà bỗng vùng dậy, bỏ chạy và la lớn “Cứu với, cứu với, kẻ giết người” Nghe thế ông cũng hoảng sợ, và quay gấp lại đường cũ, hấp tấp bước. Trống ngực ông đánh thình thình. Ông rẽ vào một ngõ tối, đi vòng qua đường lớn khác. Tiếng nhạc Giáng Sinh du dương vọng từ các căn nhà ven đường, làm lòng ông dịu lại. Ông ân hận đã làm cho gã kia sợ hãi bỏ chạy. Nhìn xuyên qua cửa sổ nhiều nhà, ông thấy thiên hạ đang họp mặt, ăn uống, ngồi quanh nhau, lòng ông vui, vui lây với hạnh phúc của mọi người.

Khi đi ngang qua một nhà thờ, thấy xe đậu đầy trong sân rộng, ông theo chân vài người bước vào bên trong. Không khí ấm áp. Nhà thờ cao, rộng. Ông ngạc nhiên thấy giáo dân toàn cả đầu đen. Vị Linh Mục đang làm Thánh lễ, nói tiếng Việt. Ghế ngồi không còn, nhiều người đứng xếp lớp đằng sau các dãy ghế bên hông. Họ ăn mặc chỉnh tề, đàn ông áo vét, cà vạt, đàn bà áo dài quàng khăn hoặc “còm-lê” màu sậm. Chỉ có ông là nhếch nhác lôi thôi. Nhiều người đứng dậy nhường ghế, ông không chịu, giả vờ đi qua phía khác cho họ yên tâm. Ông nhìn quanh, trai gái, già trẻ, đủ các lứa tuổi. Nhiều thanh niên mặt mày hung bạo, cũng đứng vòng tay trang trọng thành kính. Vị Linh Mục đọc kinh, ông không nghe rõ lắm. Cứ mỗi câu của vị Linh Mục xướng, thì được toàn thể mọi người đồng thanh đáp lại bằng một câu khác. Lời kinh nghe êm êm với âm thanh khi cao khi thấp như hát hò. Ông chỉ hiểu được mơ hồ thôi, nhưng lòng cũng ấm lại. Ông tự nói cho mình nghe: “Phúc thay cho những ngưòi còn có niềm tin tôn giáo”. Thánh lễ vừa trang nghiêm, vừa như trình diễn văn nghệ, đẹp mắt, đoàn thiên thần áo trắng rộng, xếp hàng đi quanh, thanh thoát như bay lượn. Linh Mục chủ lễ cầm cái dây nối với bình trầm lắc lắc đu đưa, có khói mờ lan tỏa. Tiếng đồng ca đong đưa nhẹ bồng “Bình an dưới thế cho người thiện tâm…” Ông thầm cám ơn Trời, vì ông đang được bình an, đời sống không có gì lo âu, chỉ có chút đau ốm bệnh tật, không có gì khó khăn. Còn chống gậy đi được dưới tuyết, còn nghe được lời ca tiếng hát du dương, còn được thấy cảnh vật, bạn bè, bà con. Không có đạo, nhưng ông cũng quỳ xuống làm dấu Thánh giá. Khi đứng lên, ông chóng mặt, muốn ngã nhào, phải đứng thở sâu, nén hơi xuống bụng một lúc, mới lấy lại bình thường.

Đứng xem lễ một hồi mỏi lưng, ông đi thụt lùi, ra khỏi nhà thờ. Đường càng vắng hơn. Cũng có người đi dự lễ đã lui xe ra về. Đi qua một đoạn đèn mờ, ông thấy cặp trai gái đang ôm nhau, hai tấm thân áp sát, hai vòng tay siết chặt. Có lẽ họ cũng đã trên bốn, năm mươi tuổi rồi. Tuổi nầy mà còn lén lút hẹn hò, thì e cũng có điều đáng đánh dấu hỏi. Sao không vào nhà mà ôm nhau lăn lộn, có khoái hơn không? Đâu phải trẻ con mười bốn mười lăm tuổi, sợ bố mẹ cấm đoán, phải thậm thụt nơi góc xó đường vắng? Có ai dám cấm đoán họ yêu nhau trong tuổi nầy? Hay người đàn ông kia đang có vợ? Có lẽ đàn bà thì ít khi trốn chồng ra nơi bụi bờ ái ân với người khác. Ông nhớ lời trong sách viết rằng, ái tình vụng trộm thì mê nồng say đắm, nhưng thường sợ phải công khai lấy nhau.

Đi trọn một vòng lớn, ông về đến nhà thì đồng hồ đã chỉ gần một giờ khuya. Ông nằm ngửa trên ghế nệm, thở dốc. Mệt, nhưng thấy khoan khoái, sung sướng, hạnh phúc. Ông uống một ly rượu cô-nhắc nhỏ, máu trong người chạy rần rần ấm áp. Thay áo quần xong, ông bật đèn, nằm đọc sách, chưa được nửa trang, thì mắt ríu lại, sách rơi và ông đi vào giấc ngủ ngon lành.

Khi gần sáng, ông lăn người vòng tay qua ôm vợ, nhưng vòng tay trống vắng, làm ông giật mình hoảng hốt. Bà đâu rồi? Bà dậy đi đâu? Nhưng ông chợt nhớ bà đang đi xa. Ông thở dài. Một chút buồn len qua trong ông. Nhưng ngay sau đó, ông cười, và tự bảo lòng, khi nào cũng phải vui, hoàn cảnh nào cũng cứ yêu đời. Vợ có ở nhà, cũng vui, mà vợ đi vắng thì cũng cứ vui theo lối khác. Nếu bà ở nhà, mà cứ gắt gỏng, chê bai, than vãn và làm khó ông, thì bà đi vắng, ông mới hưởng được sự yên bình thanh thản. Nghĩ thế mà lòng ông vui, và ngủ lại rất mau, giấc ngủ ngon lành vào lúc bình minh sắp ló dạng.

Buổi sáng, ông Phú tập thể dục theo lối “Thái Cực quyền”, phất tay đủ 1800 cái. Đáng ra phải để tâm rỗng không như sách dạy, nhưng ông chẳng tội chi bỏ phí thì giờ hưởng thụ cuộc đời. Ông vừa tập thể dục, vừa nghe tin tức buổi sáng. Ông quan niệm, thân thể vận động, mà lòng thì vui, hơn là để tâm trống rỗng. Nhờ nghe tin tức, mà ông không bao giờ chán nản bỏ tập. Chỉ có phất tay trong vòng nửa giờ thôi, mà máu vận động, làm ấm nóng toàn thân.

Trước khi tập thể dục, ông đã bắc lên bếp một nồi cháo gạo tẻ, để lửa riu riu cho khỏi sôi trào. Khi tập xong, ông khuấy cháo cho khỏi cháy dưới đáy nồi. Khi ăn sáng, ông mở nhạc du dương êm dịu từ máy vi tính. Ly cà phê lọc áp suất, nước sánh kẹo đặc màu sậm, tỏa hương thơm thoang thoảng trong phòng. Ông bật đèn bàn, cầm cuốn sách lật mau. Nhấp từng ngụm cà-phê nóng, hít sâu đầy phổi, ém hơi xuống bụng, ông tận hưởng cái yên tĩnh của buổi bình minh êm đềm. Ông tự nhủ, đời thật dễ thương. Tuổi già thong dong sung sướng, không phải bận tâm lo sinh kế là một hạnh phúc lớn của nhân sinh. Mỗi khi múc cháo đặc vào tô, ông ngâm nga câu thơ của một người bạn:
“Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương…”
Ông ăn cháo với cá nục kho khô, mặn, cay. Thịt con cá săn cứng, thân cá cong lại, và xương thì mềm như làm bằng chất bột. Ông húp cháo thành tiếng kêu lớn sột sột, và hít hà vì cay. Cháo béo, vị cá mặn, bùi, thơm, tan trên thớ lưỡi. Ông thường khen cho ông nghe: “Ngon, tuyệt vời. Cao lương mỹ vị cũng không bằng.” Ông nghĩ, đây là cá nục, chứ có cá bống cát kho khô mà với ăn cháo, thì còn tuyệt vời hơn.

Có lẽ khi còn trẻ, mỗi sáng ông ưa ăn tô phở, hủ tiếu, hoặc bún bò, vì cơ thể cần nhiều năng lượng hơn. Bây giờ già, mới biết giá trị tuyệt vời của tô cháo gạo tẻ. Không trách chi, sách chép rằng, nhiều vị vua nhà Nguyễn thích điểm tâm bằng cháo gạo.

Mấy hôm nay, điện thoại cứ reo hoài. Bạn bè, bà con kêu liên miên, làm ông cảm động. Có lẽ họ biết bà đi vắng, sợ ông buồn vì cô đơn. Con ông kêu, anh ông kêu, chị ông kêu, em ông kêu, và cả mấy bà vợ của những ông bạn thân thiết cũng hỏi thăm sức khoẻ hằng ngày. Họ tế nhị không nói ra, nhưng ông biết. Người nào cũng nói chuyện rất lâu. Có người kêu hai ba lần mỗi ngày. Ông ríu rít chuyện trò, muốn tỏ cho họ biết ông cũng đang vui, bình thường. Ông học được cái lạc quan của sách dạy. Hoàn cảnh nào cũng tìm được nguồn vui đơn giản. Không bỏ phí thời gian để vật vã, để buồn thương, tiếc nhớ bất cứ chuyện gì. Trời nắng thì vui theo nắng, mưa thì vui theo mưa. Vợ có nhà, thì vui với hạnh phúc gia đình, vợ vắng nhà, cũng vui theo cách khác, vì được yên bình, không ai cấm đoán việc nầy việc kia, không ai cằn nhằn, không ai làm khó. Có cả trăm chuyện để làm, để tiêu khiển. Trà, rượu, đọc thơ, sách, truyện, nhạc, máy vi tính, múa “Tài Chi”, làm thơ, viết câu đối, nấu ăn… Chỉ sợ không có đủ thì giờ mà thôi. Có người hỏi ông có cảm thấy buồn, cô đơn không. Ông trả lời rằng, “người tình mặt vuông” làm ông bận rộn suốt ngày, cho ông từng niềm vui nho nhỏ, nở ra vô số nụ cười ý nhị, dạy ông học được nhiều điều hay, lạ, bổ ích cho đời sống, cho tính tò mò của ông. Cái máy vi tính, bị cụ bà gán cho cái tên “người yêu mặt vuông” của ông, bà cụ ghen với cái máy nầy. Ông nói với bạn bè, tuổi nầy rồi mà còn được vợ ghen, phải sướng và hãnh diện, vì mình cũng còn có giá lắm chứ, đâu phải là đồ bỏ đi.

Một ông bạn kêu điện thoại và đem đến cho ông bốn hộp thức ăn, có cá kho mặn, thịt heo nước dừa, tôm rim, thịt bò kho. Thêm một hộp dưa chua lớn. Ông Phú định từ chối, nhưng sợ bạn buồn, nên đành nhận, trong lòng cũng áy náy. Ông hỏi sao mà cho nhiều quá thế. Ông bạn bảo cất vào tủ lạnh, mà ăn cả tuần. Tuần sau ông đem đến thêm. Ông giẫy nẩy bảo, đừng đem đến nữa, tủ lạnh đã chật, đựng đầy thức ăn, không còn chỗ chứa. Ông nói thêm, ông thích nấu ăn lấy, cũng có cái vui riêng. Ông bạn cười, bảo ông đừng có khách sáo, vợ vắng nhà, không ai nấu, thì ăn uống bất thường, dễ phát bệnh. Ông ém thức ăn bạn cho vào ngăn đá. Tủ lớn, nhưng cũng đã chật lắm rồi.
Vợ chồng một gia đình đồng hương Việt Nam khác, ở cách ông mấy căn nhà, thấy ông đi về một mình, biết bà đi vắng. Anh chồng nói:
“Bác gái đi vắng, thì mỗi ngày mời bác đến nhà cháu ăn cơm nhé. Nếu bác ngại, thì cho vợ cháu thêm ít đồng tiền chợ, xào nấu nhiều thêm chút chút, cũng không mất công gì. Chứ bác một mình, nấu nướng cũng bất tiện. Nấu nhiều không ai ăn, nấu ít thì cũng khó. Đi ăn bên ngoài vừa đắt, vừa không hợp với vệ sinh sức khỏe”
Ông cám ơn lòng tốt, nói rằng, khi nào thật cần, thì ông sẽ qua ăn chung cho vui.

Đứa cháu ở thành phố xa, cách ông một giờ lái xe, đem đến cho ông bảy cái hộp nhựa, bên trong mỗi hộp đựng ba thứ thức ăn. Vợ chồng hắn bảo, mỗi ngày đem hâm trong lò vi-ba, ăn một hộp với cơm. Nếu ông ăn được, thấy ngon, thì hắn sẽ đem cho ông hằng tuần. Hắn bảo rằng, tội gì mà nấu ăn. Nếu khi nào hết thức ăn, ra chợ Tàu, mua một con vịt quay, một con gà hấp xì dầu, vài cân thịt heo quay, chia ra thành từng gói, bỏ vào ngăn lạnh, ăn dần, cũng đỡ mất thì giờ nấu nướng. Ông cười, hỏi đó có phải là cách nấu ăn của cháu hồi còn độc thân không. Người cháu lắc đầu, bảo hồi đó, anh ăn đồ Mỹ, tiện đâu làm đó cho mau. Ăn hoài cũng thấy quen miệng và cảm được cái ngon. Bây giờ nghĩ đến, không khỏi rùng mình ớn lạnh.

Có kẽ khuyên ông nên ăn cơm tháng trong thời gian bà vắng nhà, nhưng ông nhớ lời một người khác rằng, ăn cơm tháng ngấy lắm, chán đến độ ghét luôn cả anh chàng đưa cơm, cứ thấy y thấp thoáng đâu đó, là trong lòng chán nản giận hờn vô cớ. Nhưng cũng có ông bạn khác, kiếm được nơi nấu cơm tháng quá ngon miệng, không có bột ngọt, không mặn và ít dầu mỡ. Ông nầy cho rằng, hiếm có các bà nội trợ nấu được ngon như vậy.

Bây giờ, ông Phú mới nhận biết, có nhiều bà con, bạn bè thương mến ông, quan tâm đến ông, mà lâu nay ông không biết. Nhưng ông không muốn được ai thương hại. Ông vui sướng thong dong như thế nầy, thì việc chi mà thương hại? Tại sao đàn bà ở một mình, cũng tự nấu ăn, tự lo lắng, tại sao không ai ái ngại cho họ?

Ông thích tự nấu ăn lấy, nấu những món giản dị, mà ngon, vừa miệng. Mỗi khi đi chợ, ông mở máy vi tính, tìm mục nữ công, gia chánh, dạy cách nấu ăn. Ông ghi chú vật liệu cần thiết để nấu các món ông muốn, rồi xem thêm đoạn phim dạy cách nấu, cho ăn chắc. Xem xong, ông lầm thầm: “Dễ ợt. Dễ như húp cháo thánh.” Cầm danh sách ra chợ, nếu không biết mặt hàng, thì ông mon men hỏi mấy bà. Nhờ chỉ giúp, hoặc nhờ lựa giùm cá sao cho tươi, ngon. Được một cụ già như ông hỏi, các bà các cô có dịp làm phước, vồn vã chỉ dẫn. Có bà hỏi:
“Thế thì cụ bà mất rồi sao? Không ai giúp cụ đi chợ? Tội nghiệp chưa!”
Ông cười và nói đùa:
“Không, bà nhà tôi còn khoẻ mạnh lắm. Bà ấy đang bận xem phim bộ.”
Bà kia trợn mắt lên mà than:
“Trời đất!”.
Ông đùa tiếp:
“Phải biết thương vợ chứ. Phim đang đến đoạn hấp dẫn, bỏ đi chợ thì uổng lắm”
Bà kia nói lớn:
“Ông cụ tốt bụng thật. Cái ông xã nhà cháu lười như hủi. Chỉ đáng đem móc mà làm mồi câu cá sấu”
Ông Phú cười và tiếp:
“Ấy, ấy, không nên, đem ông chồng làm mồi câu sấu, uổng lắm. Thời buổi nầy, và tuổi tác đã lớn, kiếm cho ra một thằng lười như hủi cũng không phải dễ đâu nhé”
Bà kia cười và háy ông một cái.
Ông Phú nấu canh chua tôm đúng theo máy vi tính dạy. Nấu nước với cà chua, trái thơm, rau, hành cắt mỏng, giá, ớt, bột nấm, muối, chút đường, nước mắm. Rồi xào sơ tôm với tàu hũ cắt lát, thả vào nồi canh đang sôi. Ông cho thêm một ít nấm bào ngư cắt mỏng. Thế là xong. Dễ dàng. Ông múc canh, lấy một khúc cá hồi nướng, thêm dĩa xà-lách rửa và cắt sẵn, trộn với nước sốt bán trong chai. Bữa ăn ba món, lịch sự rồi. Bây giờ bụng đã đói lắm, thường ông chờ cho thật đói mới ăn. Ông biết, khi đói thì ăn cái gì cũng ngon, nấu dở cũng thành ngon. Ông vừa ăn, vừa lẩm bẩm “Ngon, ngon quá, tuyệt vời”. Ông cảm thấy ngon thật, nhưng ông biết rõ, cái ngon cảm nhận được, phần lớn nhờ bụng đói. Bởi vậy, khi chưa đói, ông chưa ăn.

Hôm nay ông lái xe ra phi trường đón một ông bạn vong niên cũ từ Na-Uy sang Mỹ Quốc thăm viếng. Gọi là bạn, nhưng họ thua ông chừng trên hai mươi tuổi. Nhờ vỏ vẻ làm được năm ba câu thơ con cóc, mà ông được có bạn thơ khắp nơi trên thế giới. Trẻ có, già có, đã là bạn thơ văn, thì tuổi tác nào cũng được. Họ đối xử với nhau rất chân tình, hào sảng, dù chênh lệch tuổi tác. Ở cổng ra, có hai cái màn hình trên cao, chiếu hình người đang sắp ra cửa quan thuế, để kẻ đi đón, nhận được thân nhân. Ông Phú nhìn chăm chăm lên màn hình để tìm bạn. Nhìn lâu mỏi mắt, ông gục đầu ngủ một giấc rất say, tiếng ngáy làm các hành khách ngồi kế cận mỉm cười. Không biết ông ngủ được bao lâu, và giật mình thức giấc dậy vì có ai đó vỗ vai ông. Ông thấy một cụ già, râu bạc phơ dài xuống bụng, tóc trắng như bông, hai hàng lông mày cũng trắng xoá. Ông Phú vội vã chào: “Lạy cụ ạ”
Kẻ đó cười nói lớn:
“Bác không nhận ra cháu sao? Cháu là Trần đây.”
Ông Phú đứng phắt đậy ôm lấy bạn:
“Khỉ nào! Để râu ria dài, đẹp như thế nầy, làm sao mà ai nhận ra được”
Hai ông cùng cười vang. Ông Phú đưa bạn ra về. Đến nhà, ông bạn hỏi bà đi đâu. Ông Phú cười nói:
“Bà ấy mê thằng cháu ngoại quá, nên bỏ nhà đi theo nó. Thằng nhỏ kháu lắm, mới đầy năm mà đã biết đủ mọi thứ chuyện. Cái thứ con lại, thông minh lanh lẹ lắm. Thằng ôn dịch, cướp vợ của ông ngoại nó”
Ông bạn có vẻ ái ngại hỏi:
“Thế thì ai nấu cơm cho Bác mỗi ngày?”
Ông Phú đáp lớn:
“Tôi nấu chứ ai. Tôi có thể biết cách nấu cả trăm món. Nấu ngon không thua gì đầu bếp nhà hàng. Nấu đúng công thức, và chế biến làm cho đậm đà, hợp với khẩu vị mình hơn. Hôm nay, chúng ta ăn cá hấp tương gừng với nấm tươi, canh tôm cải bẹ xanh, và rau xà lách trộn. Đủ chưa? Bảo đảm, ăn không ngon thì cho anh nọc tôi xuống mà đánh mười hèo”.

Ông bạn cười, nhìn ông Phú với con mắt nghi ngờ. Ông Phú cứ từ từ hâm thức ăn đã nấu sẵn, thong thả dọn ra bàn, phải để ông bạn đói meo, mới cho ăn. Khi ngồi vào bàn, ông bạn ăn ào ào vì đói. Ông khen:
“Không ngờ bác nấu ngon như thế nầy, mấy bà nội trợ chắc cũng chào thua. Bác mà mở tiệm thì mau giàu lắm đó.”
Ông Phú cười:
“Tôi đánh cá, bây giờ đem cơm nguội canh ôi ra cho anh, anh cũng thấy ngon miệng. Bí quyết nấu ăn ngon, là để cho khách đói cho đắng miệng ra, rồi mới cho ăn, thì ăn gì cũng khen ngon.”
Ông bạn vội vã cãi:
“Cá hấp tương gừng ngon quá trời, tôi chưa khi nào được ăn cá hấp ngon như thế nầy”
Ông Phú gõ cái muỗng vào dĩa, và nói:
“Có thể, vì nhờ mua được cá tươi và ngon. Vào siêu thị, cứ thấy thịt, cá với giá trên trời, thì thế nào đó cũng là thức ngon. Thiên hạ họ không ngu đâu. Mình ăn ít, nên mua các thức ăn thượng hạng mà dùng, đừng ham mua đồ rẻ”

Buổi sáng, ông Phú dậy sớm, loay hoay nấu cháo chay đã khách. Nấu theo máy vi tính dạy. Ông không bỏ bột ngọt, vì không có, và cũng sợ độc không dám ăn. Nấu xong, ông nếm thử. Ông lầm thầm than: “Dở ẹc” Có lẽ vì cháo chay, mà thiếu bột ngọt, nên lạt lẽo. Ông lục tủ lạnh, thấy cục xúp bò mà Tây gọi là “Bui-dông” (bouillon), ông thả vào nồi cháo, khuấy đều, rồi nếm thử nữa. Ông rùng vai, vì cháo nầy còn dở tệ hơn nữa. Ông mở tủ lạnh, thấy mấy cây cải xanh, lấy cắt ngắn, thả vào nồi, hy vọng nước cải ra làm ngọt cháo. Nhưng không ngờ, cháo càng tệ hơn, đã dở, mà còn có mùi hăng hăng. Thôi kệ nó. Ráng căng họng ra mà nuốt. Nếu không thì đổ đi, cũng không sao.

Ông Phú pha sẵn cà phê, trà, và mời bạn ra ăn điểm tâm. Ông cười và nói:
“Sáng nay ăn tạm ‘cháo ẹc’ nhá. Đáng ra mình ăn bò kho với bánh mì thì hâm mau hơn”.
“Cháo là quý rồi. Tôi vẫn thích ăn cháo xưa nay. Lại cháo chay. Hết sẩy. Bác tài tình. Chay mặn chi cũng nấu được”
Thấy ông bạn ăn cháo với dáng điệu khổ sở, chậm chạp, phải nhắm mắt, nhăn mặt mới nuốt trôi muỗng cháo. Ông Phú nín cười. Ông bạn cúi đầu, hỏi nho nhỏ:
“Hình như bác gọi cháo nầy là cháo ẹc?”
“Đúng, cháo ẹc”
“Sao lại có tên là cháo ẹc”
Ông Phú cười xòa, nói lớn:
“Vì cháo dở ẹc, nên gọi là cháo ẹc”
Ông bạn cười to sung sướng, nói:
“Thú thật với Bác, tôi nuốt không xuống. Xin Bác tha cho tôi. Tôi xin nhận lỗi bất lịch sự”.
“Tôi cũng không nuốt trôi cháo nầy. Thôi bỏ đi. Tôi chiên cho mỗi người hai quả trứng, ăn với bánh mì giòn, và phô-ma. Sách dạy nấu ăn, đôi khi cũng sai. Có tôi lần nấu xôi thập cẩm, mà thành cháo hổ lốn, đổ đi thì sợ tội của trời, ăn cho hết, thì như bị phạt cực hình.”

Hai người vừa ăn xong, thì ông San, một bạn cũ thân thiết, từ thành phố lân cận ghé lại thăm, vì được tin ông Trần mới từ Na-Uy sang chơi. Ông Phú đốt lò sưởi bằng củi, lửa cháy tí tách, tro tàn bay bay trong lò. Ông nhóm thêm một lư trầm nho nhỏ cho thơm. Dọn rượu ngọt, trà thơm, và vài thức ăn khô. Ba người bạn ngồi quanh lò sưởi râm ran hàn huyên chuyện cũ. Nhạc hòa tấu êm dịu đong đưa. Bên ngoài tuyết vẫn xuống đều.

Khi cao hứng, ông bạn từ Na-Uy tằng hắng, rồi ngâm bài thơ mới nhất của ông. Giọng trầm, ấm, ngôn từ bí hiểm. Ông Phú không khoái bài thơ lắm, nhưng cũng khen cho bạn vui lòng, vì ông nhớ lại câu “Thượng Đế cũng còn ưa nịnh nữa, huống chi người thế gian”. Sau một hồi nói chuyện thơ văn, ba người quay qua đề tài cuộc sống, gia đình. Ông San nói:
“Bây giờ về già, các bà vợ không còn thương chồng nồng thắm như xưa nữa. Họ thương con, thương cháu hơn thương chồng. Và khi có chuyện bất bình, thì cũng khó làm hòa hơn xưa. Hồi chưa già yếu, mỗi lần chồng làm gì sai trái, để các bà hờn dỗi, thì cứ kéo các bà vào phòng, đương nhiên là bà chống cự lại. Đôi khi giả vờ chống cự cho có lệ, có khi chống cự thật, nhưng chỉ cần tăng sức kéo bằng một lực cực-tiểu ép-si-lon thôi, là đủ. Tiếp đó, cá nước vui vầy. Sau khi ra khỏi giường, là hết giận hờn, hết trách móc, và không khí gia đình êm ấm, hòa thuận, vui ngay, rồi sẽ được các bà nấu cho thức ăn ngon lành, béo bổ nữa. Bây giờ già cả, không đủ sức ẵm các bà, mà có đưa được vào phòng nữa, cũng không làm ăn chi được, chỉ tổ làm các bà cáu thêm, giận thêm.”
Ông Phú lắc đầu cười:
“Làm hòa theo kiểu đó, thì cứ bị các bà vợ giận hờn dài dài, mỗi ngày giận hai ba lần, chịu chi cho thấu?”
Cả ba ông già cùng cười với nhau. Ông bạn từ Na-Uy nói:
“Tôi nghiệm, bác San nói có lý. Vợ chồng già, thường thiếu chuyện đó, nên cũng bớt xuề xoà dễ dãi với nhau. Một người bạn tôi nói rằng, ông nào để cho bà vợ biết rõ là hết khả năng sinh lý, thì cái tình nó cũng lạt đi nhiều lắm. Các bà cứ bỏ nhà đi thăm con cháu hoài, không còn thiết tha với ông chồng nữa.”
Ông Phú lắc đầu:
“Làm như các bà vợ già ngu lắm sao? Mấy bà biết tỏng tình trạng sinh lý yếu kém của các ông, có khi cả năm chưa làm gì. Giấu sao nổi? Vả lại, các bà cũng đã qua khỏi thời hăng tiết rồi, không còn muốn cái chuyện nhớp nháp đó nữa. Vợ chồng già, thì cái nghĩa, cái thương, nặng hơn cái tình.”
“Tôi đồng ý với bác, các bà không cần chuyện đó nữa, và cũng biết tỏng tình trạng sinh lý của ông chồng. Nhưng nếu ông chưa thú nhận tình trạng bi đát đó, thì “bí mật” cũng còn trong vòng nghi vấn, chưa chắc. Nên chưa có tình trạng thờ ơ, lạnh nhạt. Tuy các bà không cần, và không còn đòi hỏi sinh lý nữa, nhưng tận cùng trong tiềm thức, che giấu dưới lớp dày của đạo đức, của thành kiến, của xã hội, tuổi tác, vẫn là ám ảnh sinh lý nó kéo dài, dư âm từ thời mới dậy thì còn sót lại, không hoàn toàn xóa bỏ được”.

Rót thêm một ly rượu, uống cạn, ông bạn từ Na Uy tiếp lời:
“Không cần nói đâu xa, kinh nghiệm bản thân tôi đây. Vợ chồng tôi khắng khít nhau, đêm nào thiếu tôi, bà không ngủ được, dù chuyện gần gũi vợ chồng đã hết từ lâu. Nhưng kể từ hôm tôi ngu dại tiết lộ cho bà ấy biết, tôi không “làm ăn” chi được nữa, bà ấy nói là không cần, không quan trọng, thế mà rồi tình trạng đổi khác ngay. Tôi có thể cảm được cái lạt lẽo của vợ đối với tôi. Vòng tay ôm không còn thắm thiết như xưa, nụ hôn không nồng nàn như cũ. Ngay chính trong thâm tâm, bà cũng không biết cái thay đổi đó. Cái ấy tự nhiên nó đến, vì không còn lực hấp lực bí mật của kẻ khác giống tính nữa. Trời sinh ra tự nhiên, con cái, con đực, hấp dẫn nhau. Mà cái hạt nhân của sự hấp dẫn, là tình dục được che rất kín, giấu rất kỹ. Thế rồi sau đó, bà ấy thường hay đi thăm con cháu hơn, ở lại với cháu dài ngày, không lý gì đến tôi nữa. Vậy, các ông già, đừng nên bao giờ thú thật với vợ, tình trạng sinh lý bất lực của mình.”

Ông Phú vuốt cằm trầm ngâm:
“Điều anh nói, có đáng tin cậy không?”
“Lấy lý trí mà xét, thì có vẻ vô lý. Nhưng đó là sự thực. Bác thử xem, bà hàng xóm đối xử với bác, có lịch sự và tử tế hơn là đối với bác gái không? Tuy bà ấy không hề có tí ti tình ý gì với bác, mà nếu bác có tình ý với bà, thì không chừng bà ấy còn nổi giận lên, tuyệt giao. Ngay bản thân bác, có đối xử lịch sự, tử tế hơn với các bà hơn là các ông không? Mà bác đâu có toan tính chinh phục bà già nào đâu? Không lỗi tại ai, không có chi xấu. Tại ông trời bày ra thế, cho muôn loài, muôn vật khỏi bị tuyệt chủng.”
Ông Phú thở dài, nghiệm ra lời nói của ông bạn cũng không phải hoàn toàn vô lý. Ông cũng từng lỡ cho vợ biết tình trạng sinh lý của ông, và từ đó, bà cũng hay đi thăm cháu ngoại ở miền xa.

Đêm đã về khuya, ông Sơn cáo từ ra về. Ngoài trời tuyết còn rơi. Ông Phú khẩn khoản mời ông Sơn ngủ lại, vì không nên lái xe trong mưa tuyết giữa đêm hôm tối tăm. Vả lại, đời dễ chi còn có đêm vui như thế nầy của ba ông bạn già, mà không bị các bà vợ giám sát. Ông Sơn nhất định về, lý do là không nơi nào dễ chịu và êm ấm bằng cái giường nhà mình.

Ông bạn thơ từ Na Uy ở lại chơi ba ngày, ông Phú dạy cho cách nấu những món ngon, nấu dễ, mau chóng. Hôm đầu, thì ông bạn vừa học, vừa thực tập. Hai hôm sau ông Phú nằm xem truyền hình, giao cái bếp lại cho ông khách phưong xa thực hành việc nấu nướng. Ông nầy hăng hái và hớn hở nói:

“Kỳ nầy về nhà, tôi sẽ trổ tài nấu nướng cho bà vợ tôi lé mắt chơi.”
Hôm nào bà vợ ông Phú cũng kêu điện thoại về hỏi thăm, rằng ông có khỏe không? Có buồn không? Có nhớ bà không? Hôm nay ông ăn gì? Có ngủ đưọc không? Khi nào ông cũng trả lời tích cực cho bà vui. Về mục ăn gì, thì ông khai nào là gà bát bửu, vịt nướng chao, cá hấp tương gừng, sườn cừu nướng than, bò chiên lúc lắc, lẩu thập cẩm, gà ác hầm thuốc bắc… Toàn là những món ngon trong các tiệm lớn. Ông nói, ăn ngon lắm, ngon hơn cả các tiệm trứ danh. Bà hỏi ai dạy cho ông nấu? Ông trả lời là “Người Tình Mặt Vuông Cổ Ngắn”, bà tình nhân nầy uyên bác, thông thạo, biết gần hết chuyện trên thế gian. Bà vợ ông nổi cơn ghen lên, dằn điện thoại xuống cái rụp.

Có hôm làm biếng, ông ăn miếng bánh mì Mc Donald. Gặp lúc bà vợ kêu điện thoại về hỏi ông ăn gì hôm nay. Ông trả lời là đang ăn bánh canh tôm thịt.
Hôm nay ông đón tiếp vợ chồng người bạn từ Hawaii về đất liền chơi. Trước khi đón bạn, ông đã lái xe qua thành phố lân cận mua sẵn các thức ăn cất vào thùng đá lạnh: Phở, hủ tiếu, bún bò, bò kho, vịt quay, heo quay, bánh ướt, bánh hỏi, bánh lá, bánh bột lọc. Ông mua thức ăn đủ cho mười ngày, định dành thì giờ đi chơi, thăm phong cảnh địa phương.

Ông bạn nầy cũng là một người thích thơ phú, chuyên làm thơ đường luật. Khi bàn về thơ văn hiện đại, ông bạn nói:
“Bây giờ, người ta làm thơ lung tung lắm. Nào là thơ mới, thơ tự do, thơ tân hình thức, đủ thứ… Muốn được gọi là thơ chính thống, thì phải là thơ Đường Luật, có niêm, có vận, có đối, có ý, có tình. Trong tám câu thôi, mà bao gồm hết toàn diện. Không dư, không thiếu. Bọn trẻ bây giờ, viết văn xuôi rồi ngắt câu, xuống hàng, không vần, không điệu, cũng cứ gán ép cho là thơ. Ngay cả thơ lục bát, cũng chưa biết được căn bản quan trọng, là chữ thứ hai, khi nào cũng phải vần bằng. Ai cũng có thể tự xưng mình là thi sĩ cả. Chán mớ đời.”
Ông Phú cũng không rành về thơ lắm, không muốn bàn luận, chỉ đưa câu hỏi:
“Thế thì thơ của các thi sĩ hiện đại như, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Phùng Quán,… không phải là thơ sao? Còn thơ lục bát, anh nói chữ thứ hai phải là vần bằng, tôi không biết luật ấy ai đặt ra, và viết ở đâu. Nhưng có lẽ cụ Nguyễn Du cũng không biết luật ấy, nên viết sai luật như câu ‘Mai cốt cách, tuyết tình thần” và “Khi tựa gối khi cúi đầu. Chín khúc, khi chau đôi mày”
Ông bạn đỏ mặt, gân cổ nổi lên, nói lớn:
“Tôi nói là thơ chính thống, thơ thực sự, chứ không phải viết thế nào cũng gọi là thơ được. Anh tưởng anh giỏi lắm sao? Anh khinh tôi không thông thái bằng anh chắc”
Thấy thái độ hùng hổ vô lý của bạn, ông Phú hốt hoảng:
“Thôi, thôi, tôi đâu biết chi nhiều về thơ văn đâu, chỉ nêu câu thắc mắc nhỏ. Tôi xin rút lại câu hỏi đó.Và nếu anh có hiểu lầm mà buồn tôi, thì tôi thành thật xin lỗi. Chuyện thơ văn, là chuyện nhỏ, chuyện tào lao, khi trà dư tửu hậu, đừng để hiểu lầm buồn nhau, uổng lắm.”
Ông bạn đưa tay chặt chặt giữa không khí, và gằn giọng giận hờn:
“Tôi không hiểu lầm. Anh xin lỗi là xúc phạm đến tôi, xúc phạm nặng nề.”
Rồi ông bạn nói thêm nhiều câu giận dỗi khó nghe khác. Mặt thì hầm hầm như đang muốn gây gổ làm lớn chuyện. Ông Phú dằn lòng, hít vào đầy phổi, chuyển khí sâu xuống bụng, tự bảo trong lòng:“Nhịn, nhẫn nhịn, đừng giận, đừng nói gì cả, hoà nhã tối đa. Bạn từ xa đến chơi, đừng làm mất lòng nhau. Tình bạn cũ, nếu không vun bồi thêm được, thì đừng làm vơi đi.” Ông ngồi yên.
Sau một hồi to tiếng, mà không ai cãi lại, ông bạn bỏ vào phòng nằm, trùm chăn, và tuyên bố tối nay không ăn.

Ông Phú thở dài. Có lẽ bạn đã già nên đổi tính thành trẻ con lại rồi. Ông thầm nghĩ, có lẽ ông cũng đã thành trẻ con từ lâu, mà ông không tự biết. Có thế bà vợ mới chán, bỏ ông đi thăm cháu ngoại. Ông Phú xuống bếp, hâm bún bò, làm ba tô lớn. Bỏ rau cắt nhỏ, bắp chuối thái mỏng, hành lát, rau răm, thơm, và múc nước cùng thịt heo, thịt bò vào tô. Lấy khăn ăn và dọn lên bàn. Ông hé phòng mời bạn ra ăn nhiều lần, ông bạn gắt: “Đã bảo không ăn mà”.
Bà vợ ông bạn vào dỗ dành hơn mười lăm phút, ông mới ra ngồi vào bàn, mặt còn nặng nề, không vui. Đang ăn, bà vợ bạn nói:
“Bún bò bên nầy lạ ghê, chỉ có thịt, nước, và rau thôi, không có bún. Chắc đây là lối ăn sáng tạo mới.”

Ông Phú giật mình, chạy vào bếp, thấy rổ bún đang nằm trên chạn. Thì ra, vì thấy tô đã đầy vun, ông tưởng đã có bún rồi. Ông mang bún ra, cả ba người cùng cười. Bây giờ mới thấy nụ cười trên môi ông bạn, làm ông Phú yên tâm.
Sáng hôm sau, ông bạn nhất định đòi đi, không chịu ở lại một tuần như đã dự định. Ông Phú cầm chân mãi, mà không được. Ông nói, thức ăn đã mua sẵn cho một tuần, các người không ở lại, thì ai ăn cho hết?

Tiễn vợ chồng bạn ra khỏi nhà, ông quay vào, vừa buồn, vừa mừng. Bạn bỏ đi thì buồn, nhưng mừng vì khỏi phải chịu đựng cái chướng ách, kỳ cục của bạn. Ông nghĩ, biết đâu, chính ông cũng chướng kỳ, mà ông không hề biết.
Ông Phú gọi điện thoại ngay cho bà vợ, nói với bà cái điều mà truớc đây ông không muốn để bà biết:
“Thôi, bà về đi, tôi nhớ bà lắm rồi. Tôi có làm gì cho bà buồn, thì bỏ qua nghe, tôi xin lỗi một vạn lần”.
Bên kia đường dây, tiếng bà vợ ông cũng ướt mềm, như nói trong nước mắt:
“Tôi cũng nhớ ông lắm. Nhiều hôm ngủ không được. Tôi sẽ về chuyến bay sớm nhất, ông nhớ đón tôi tại phi trường nhé!”

Ông Phú nghe lòng khoan khoái, mở nhạc êm dịu, nằm trên ghế trên bành và nhớ đến lời ông bạn từ Na Uy rằng: “Vợ chồng già, phải thương yêu nhau nhiều hơn, tử tế với nhau hơn, nhường nhịn nhau, dịu dàng với nhau hơn, để bù đắp vào cái thiếu tình dục mà trời đã lấy đi.”
Ông chìm vào giấc ngủ an bình và chờ điện thoại reo để biết giờ đi đón vợ.

Tràm Cà Mau
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 6 guests