Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Kyoto, Lối mòn Triết gia

Trần Đức Hợp


Kyoto, thành phố cổ kính một thời là kinh đô của nước Nhật, hàng năm có hơn 30 triệu du khách ngoại quốc và bản xứ đến đây thăm viếng.
Nó, được xem là thành phố có sức hấp dẫn hàng đầu ở Nhật Bản, sau thủ đô Tokyo.

Image
Đây là cái nôi văn hóa cổ truyền của người Nhật, và Kyoto đã được UNESCO công nhận là một trong những di sản Văn Hóa của Thế Giới với những di tích cổ xưa và nhiều thắng cảnh xinh đẹp có một không hai mà không nơi nào trên thế giới có được.

Ngay cả Tổng Thống Hoa Kỳ Harry Truman năm 1945 cũng đã đồng ý với Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ là Herry Stimson gạch bỏ Kyoto trong danh sách những thành phố được chọn để ném bom nguyên tử ngày 6-8-1945 và ngày 9-8-1945. Kết cục là Hiroshima và Nagasaki đã bị san bằng dẫn tới sự đầu hàng không điều kiện của Nhật Hoàng Hiro Hito, kết thúc chiến tranh thế giới II.

Với diện tích 828 km2, dân số khoảng 1,5 triệu dân, Kyoto đứng hàng thứ 9 về mật độ dân số ở Nhật Bản. Nơi đây có khoảng 1600 ngôi chùa Phật Giáo và 400 đền thờ Thần Đạo (Shinto), cùng với rất nhiều lâu đài Nijo cổ xưa, đã được UNESCO công nhận là những di sản Văn Hóa của Thế Giới (World Heritage site Landmarks) gồm những kiến trúc văn hóa, cung phủ được xây dưng từ thời kỳ “Shogun”, hay Lãnh Chúa Tokugawa ngày xưa, là nơi có những vườn hoa, công viên với kiến trúc và cây cảnh trang trí thật đặc biệt mà du khách hiếm khi thấy được ở những nơi khác tại Nhật Bản cũng như ở các nước khác trên thế giới.

Khi đi thăm viếng Kyoto, du khách thường được hướng dẫn đến thăm những nơi đặc biệt như chùa Vàng (Kikaku-ji), chùa Bạc (Ginkaku-ji), Hoàng cung hay cố đô Kyoto, vườn hoa Ryoan-ji với những khối đá to nhỏ tượng trưng cho vườn thiền Nhật bản, đền thờ Heian của thần đạo Shinto, hay được đưa đi thăm viếng các lăng mộ của các vị Nhật Hoàng, các Lãnh Chúa ngày xa xưa.

Du khách Tây Phương cũng không để lỡ cơ hội khi đến thăm viếng khu Gion, phía Đông Kyoto, nơi tập trung những kiều nữ Geisa trong những tấm áo Kimono tuyệt đẹp, với đôi chân bước nhẹ nhàng trên những đôi guốc gỗ mộc. Họ là những nghệ nhân chuyên nghiệp đã được đào tạo kỹ lưỡng các môn cầm, kỳ, thi, họa,… đủ để tiếp chuyện các tao nhân, mặc khách trong những dạ yến sang trọng và tất nhiên rất mắc tiền.

Con đường Triết gia


Con đường mòn này nằm về phía Đông của cố đô Kyoto, chiều dài 1500 mét, hướng phía Nam con đường tọa lạc ngôi chùa Gingaku-ji (Silver Papilon) còn gọi là ngôi chùa Bạc cổ kính và rất nổi tiếng của Kyoto.
Image
Dọc theo con đường này với hàng ngàn cây hoa Anh Đào (Cherry / Sakura) được trồng dọc theo hai lối mòn chỉ dành riêng cho người đi bộ, bên cạnh là con kinh đào Shishigatami xây dựng bằng đá chạy uốn lượn dọc theo hướng Bắc-Nam dưới chân rặng núi Higashiyama (Eastern Mountain).

Một Giáo sư Đại Học nổi tiếng của Kyoto là Nishida Kitaro (1870-1945) đã xử dụng con đường mòn này hằng ngày để đi đến giảng đường trong sự bình an, thanh thản, và ông tìm ra, và để lại những lưu bút qúy gía, hay những bài giảng thật sâu sắc về nguồn gốc của những điều tốt lành, những chân lý thánh thiện, và sự giác ngộ của Thiền đạo (Zen) ở Nhật Bản.

Tôi và người bạn thân Đoàn Công Cẩn trên con đường mòn này, khi rảo bước vào ngôi chùa Nanzen-ji cổ kính với lối vào bằng gỗ mun đen, không sơn phết lòe loẹt như các ngôi chùa ở Trung Hoa hay tại Việt Nam. Ngôi chùa Bạc hay Silver Papilon bao đời vẫn như xưa, cổ kính và tĩnh lặng bên hồ nước trong veo và xung quanh là những cây cỏ luôn xanh tươi xen lẫn và hài hòa với thiên nhiên của núi rừng, với dòng suối nhỏ róc rách chảy uốn lượn dọc theo con kinh đào được che phủ với những bờ rêu xanh tươi, mịn như nhung.
Image
Nanzen-ji cổ kính. Nguồn: Maggie Tulliver

Thỉnh thoảng du khách và chính bản thân tôi cũng dừng chân ghé thăm những ngôi đền thờ nho nhỏ bằng đá dọc hai bên đường trong trạm dừng bước để ngắm nhìn và tĩnh tâm, hay chiêm nghiệm của cuộc đời sau khi trải qua những cuộc bể dâu, thăng trầm của cuộc đời và tìm ra được sự vô ngã, bản lai diện mục của chính mình trong chốn bụi hồng trần.

Hơn hai ngàn năm trăm năm về trước khi Đức Phật Thích Ca khi ngồi thiền, suy ngẫm, khai tuệ hay gíác ngộ, ngài đã tìm ra được nguyên nhân và nguồn gốc của sự u mê, ám chướng gây ra những đau khổ của con người qua những bóng ma của cám dỗ và tội lỗi…
Trong năm bóng tối của ngạ quỷ mara như...

-sự sợ hãi / lo lắng / khiếp sợ,
-sự tham lam / ích kỷ,
-sự đam mê / ham muốn / quyến rũ,
-sự kiêu hãnh / tự hào / hãnh diện,...và
-sự vô cảm / không quan tâm / xem thường / mặc kệ nó.

là những “nghiệp” (karma) mà con người thường gặp phải ttrong đời sống hằng ngày.

Và tất cả năm điều này (Ngũ Uẩn) khi áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, không điều này hay điều kia, có thể xuất hiện cùng một lúc đã làm con người hay tiêu biểu cho cá tánh, đặc trưng của mỗi dân tộc, hay cá tánh của mỗi người.

Những ngày cuối cùng của tháng ba, và những ngày đầu tháng tư khi hoa Anh Đào nở rộ hai bên đường mòn ở Kyoto, nhiều đoàn du khách khắp nơi trên đất nước Nhật cũng như khắp nơi trên thế giới đã đến hội tụ tại nơi đây, trên những con đường dốc thoai thoải để lên những sườn đồi và thăm viếng ngôi cổ tự Kiyomizu-dera, được xây dựng vào thế kỷ thứ VIII với những dòng suối chảy róc rách từ trên cao xuống trong khung cảnh thanh tịnh thiêng liêng của núi rừng Inari xung quanh. Và rất nhiều xe bus tấp nập tại những bãi đậu xe chen chúc nhưng rất trật tự, và ngăn nắp tạo bầu không khí thật sinh động, tấp nập nhưng đầy nhẹ nhàng, sạch sẽ, không ồn ào hay ô uế nơi chốn thanh tịnh này.
Image
Đường đá qua ao tại chùa Tenjuan,trong phức thể Nanzen-ji. Nguồn: wa-pedia.com
Chính tại nơi đây, du khách sẽ nhẹ những bước chân thanh tịnh, tâm hồn bình an khi rảo bước chân trên từng phiến đá nho nhỏ, đi tìm và dễ dàng tìm thấy được dòng sông tâm thức của chính mình, nơi những hàng cây Anh Đào sống hàng trăm tuổi, đang nở rộ hoa trắng-hồng tinh anh khắp mọi nơi, và những bước đi đó chúng ta cùng hoà nhịp với cỏ cây, hoa lá với những hương thơm tinh khiết, trước những cơn gió thoảng làm rung động những cành lá hai bên, mọi người thật dễ dàng tìm thấy xúc cảm của trái tim của chính mình và tìm thấy tâm hồn thật bình an, thanh thản và thấu hiểu chữ “Không” hay “Vô Ngã” của cuộc đời ngắn ngủi qua triết lý tinh tuý của Đông Phương.

Khi ta rảo những bước chân nhẹ nhàng trên con đường quanh co, trên những phiến đá hoa cương cùng hòa mình với cỏ cây xung quanh, trong những cơn gió thoảng nhẹ bay làm cành lá xung quanh rung động, trên cành nặng chĩu những cánh hoa Anh Đào đong đưa trước gió, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui tinh khiết khi lòng mình mở rộng và con tim thắp sáng lên niềm tin yêu vào cuộc sống tràn ngập hạnh phúc.

Chúng ta thấu hiểu được niềm vui đích thực không phải là những đỉnh vinh quang chói lọi hay những cánh đồng tràn ngập hoa vàng mà trong tâm hồn ta với những bước đi thanh thản và ta chợt thấy tất cả mọi sự vật trên đời đều đến và lại ra đi, mọi sự vật đều có và lại không, dường như chỉ là phù vân hay ảo hoá. Hạnh phúc không phải là có thêm được cái gì đó trên dòng đời cuốn trôi, mà chính là buông xả để tâm thanh tịnh và nhẹ nhàng; khi tuổi trẻ chỉ toàn những ước mơ và cố gắng xây đắp một tương lai mơ hồ, và khi tuổi già thì luôn hồi tưởng, hay nuối tiếc một dĩ vãng đã đi qua.

Chúng ta thực sự sẽ thấy hạnh phúc không ở đâu xa xăm mà chính là niềm mãn nguyện trong từng giây phút hiện tại của cuộc sống mầu nhiệm trong hiện thực đơn giản và chúng ta hiểu rằng con đưòng tâm linh tuyệt đối sẽ đơn độc, không một ai có thể đi cùng con đường với ta, cho dù dó là người thân yêu nhất. Và khi đó chúng ta sẽ cảm nhận ra rằng những khoảng khắc tĩnh lặng nhỏ bé trong tâm hồn ta còn quý giá hơn những tài sản được cất giữ xung quanh ta.

Đó chính là lúc chúng ta định được giá trị đích thực của cuộc sống, kiếp nhân sinh và ta cảm thấy thật nhẹ nhàng, và thanh thản như dòng nước trong mát cuốn trôi đi bao hệ lụy: buồn-vui, thương-ghét, hy vọng-chán chường, thành công-thất bại và đưa chúng ta đến bến bờ tươi sáng của ngày mai.

Và chúng ta lại càng thương những người phải sống trong những tín điều nhồi sọ rằng chỉ có ở những quốc gia trong thể chế độc tài, độc đảng con người mới có hạnh phúc nhờ sự lãnh đạo độc tôn của đảng trị vì.

San Diego, January 20, 2014

Trần Đức Hợp
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Madrid, Mùa thu

Trần Đức Hợp

Từ thành phố Malaga thuộc vùng Costa Del Sol, hai chúng tôi đã đến Madrid bằng xe lửa cao tốc AVE mất 2 giờ 45 phút. Tốc độ trung bình của tàu trên đoạn đường này là 275 km/giờ.
Madrid, mùa thu 2010 trong mắt ai…

Image
Tác giả trước Viện bảo tàng Prado, Madrid. Nguồn: TĐH
Nhà ga Attocha Renfe ở Madrid rất lớn, với những kiến trúc vừa cổ xưa vừa tân kỳ, rất đẹp. Tôi đã lựa chọn trước khách sạn Europa ở trên mạng Internet cho chuyến viếng thăm thủ đô Tây Ban Nha (Spain) và tôi thấy mình không lầm. Khách sạn nằm ngay giữa trung tâm thành phố, khu Plaza Del Sol, rất thuận tiện cho việc di chuyển đến những địa điểm mà du khách nhất thiết phải tới. Từ nơi đây có thể đi bộ đến những nơi cần thăm viếng như những Viện bảo tàng Prado, Reina Sofia, Thyssen,… Quảng trường Plaza Mayor, Hoàng cung Palace Reil của Tây Ban Nha, thánh đường Almundina, công viên Jardin Botanico, công viên Retiro… Đại lộ lớn nhất ở Madrid là Gran Via, có thể coi tương đương như đại lộ Champs Elysees của Paris, nơi đây có hàng trăm ngôi nhà cao tầng cổ kính với bề mặt được trạm trổ và điêu khắc rất mỹ thuật,và đang được thành phố Madrid long trọng kỷ niệm 100 năm.

Ngoài những phương tiện di chuyển công cộng như xe bus, xe lửa, xe taxi,… thì mạng lưới xe điện ngầm (Metro) gồm 12 đường chính và đường Ramal được xem như một hệ thống giao thông hữu hiệu và tiện lợi cho người dân ở Madrid cũng như những du khách đến thăm viếng từ khắp nơi trên thế giới. Trên bản đồ, các đường Metro này được biểu hiện bằng những màu sắc khác nhau, rất tiện tìm kiếm. Các trạm Metro được xếp đặt, dàn trải đều khắp các nơi trong thành phố. Trạm nào cũng rộng rãi, sạch sẽ, sáng sủa và không đâu có những hình vẽ hay chữ viết bậy bạ (grafitti) như thường thấy ở các thành phố khác ở Âu Châu như Paris, London, hay Roma… Bên trong các trạm Metro có nhiều hệ thống thang cuốn, và thang máy cho người già yếu hoặc cho du khách có hành lý nặng. Hệ thống bán vé tự động bằng máy rất dễ xử dụng vì có bảng chỉ dẫn “Touch” bằng những ngôn ngữ thông dụng ở châu Âu: Anh, Pháp, Đức, và tất nhiên, tiếng Tây Ban Nha.
Image
Bản đồ xe điện ngầm ở Madrid, Spain. Nguồn: planometromadrid.org
Dọc theo những con đường lớn là những vỉa hè dành cho khách bộ hành rộng rãi với hai hàng cây xanh bóng mát làm cho thành phố càng duyên dáng và đáng yêu. Những phiến đá hoa cương cứng và bằng phẳng lót đường với những hàng ghế gỗ dài dành cho khách bộ hành nghỉ chân. Để bảo vệ an toàn lưu thông, một làn phân cách giữa người đi bộ và xe cộ bằng một hàng rào lan can bằng nhôm cao khoảng 1m bóng láng, đã được dựng lên. Lưu thông ở đây không bị tắc nghẽn như ở nhiều thành phố lớn khác ở châu Âu với hệ thống bảng chỉ đường rất ít, và rõ ràng, được mọi người tôn trọng với ý thức cao. Riêng đại lộ Gran Via đã được phân chia rõ ràng với làn xe Bus và xe Taxi ở trong cùng, bên phải tạo ra sự thuận lợi cho giao thông công cộng. Điều này chứng tỏ các kỹ sư Giao thông ở Madrid đã thiết kế và phục vụ hữu hiệu cho người dân Madrid và du khách, không như ở các thành phố khác trên thế giới.

Công việc bảo trì đường phố về mặt vệ sinh đã được làm thật tốt, có thể nói hơn hẳn nhiều thành phố khác ở châu Âu như Paris, Berlin, London, Moskva, Vienna,…
Image
Đại lộ Gran Via ở Madrid, Spain. Nguồn: Tumblr
Việc quét, tưới, chà mặt đường và những vỉa hè,… đã được thực hiện thường xuyên trong ngày với đội ngũ công nhân vệ sinh trong bộ quần áo đồng phục gần giống như đồng phục của các cảnh sát giao thông công lộ.

Trong thành phố những bức tượng đồng vinh danh người quét đường đã được dựng lên ở những quảng trường lớn chứng tỏ người dân và chính quyền ở Madrid rất tôn vinh công việc của họ, trái với những hình tượng của các vị lãnh đạo nhà nước hay các nhà độc tài như tướng Franco … thì chẳng thấy hình tượng được dựng lên ở đâu cả, và người dân ở nơi đây cũng chẳng thèm tưởng niệm hay ghi nhớ những bộ mặt độc tài, toàn trị và đáng ghét đó.
Image
Tượng người quét đường ở Madrid, Spain. Nguồn: aussieinfrance.com/Rosemary Kneipp

An ninh công cộng ở Madrid


Không giống như thành phố ở các xứ “hậu cộng sản” và cộng sản mà tôi đã đi qua như Moskva, Beijing, Hà Nội,… hệ thống cảnh sát giao thông ở Madrid có ý thức rất cao trong việc điều hành lưu thông hữu hiệu và họ làm việc rất nhã nhặn với người dân. Với vóc dáng cao lớn và khoẻ mạnh, những cảnh sát giao thông trong bộ y phục đẹp và gọn gàng với hai màu xanh lục đậm và xanh lá mạ, họ có một thái độ làm việc rất chuyên nghiệp và rất dễ thương, không một chút hống hách, cửa quyền, đã hướng dẫn người dân đi lại một cách lịch sự, hữu hiệu và với tinh thần trách nhiệm cao. Rất nhiều nữ cảnh sát lưu thông xinh đẹp trên những xe Motor hai bánh đã làm cho thành phố Madrid càng đáng yêu thêm dưới mắt người du khách đến từ phương xa.

Văn hoá ẩm thực ở Madrid


Với hàng triệu du khách đến Madrid từ khắp nơi trên thế giới, không kể từ các cựu thuộc địa nói tiếng Tây Ban Nha, dọc hai bên phố các tiệm ăn Tapas mọc lên như nấm chứng tỏ người Madrid rất biết dùng các món ăn của mình để thết đãi thực khách. Món cơm chiên Paellas trộn cà ri trong đó có tôm, hến, và mực trên nền cà chua đỏ trông rất bắt mắt. Nhưng theo khẩu vị của người Việt thì khá nhạt nhẽo và khô cứng. Riêng món heo sữa nướng trong những Restorants phục vụ dưới hầm ở khu Plaza Mayor mà tôi đã được thưởng thức thì thật ngon lắm. Một đặc điểm riêng của Madrid là những cửa hàng Jamón Ibérico / đùi lợn Iberian muối có đến hàng ngàn chiếc, treo dày đặc trên trần nhà, nhiều đến nỗi người ta dám treo những biển hiệu đề là Viện bảo tàng giăm-bông ở đây… Giá cả có lẽ làm chúng ta phải trợn mắt lên vì ngạc nhiên: nhiều món giá 1 kg giăm-bông có thể dao động từ 8 Euros/kg đến 80 Euros/kg, chắc hẳn đó là tuỳ thuộc nguyên vật liệu, cách chế biến, hay thời gian để lâu năm,… mà người viết chưa biết thưởng thức nên không thể hiểu nổi.

Giải trí và hội hè


Dọc theo đại lộ Gran Via có nhiều nhà hát ca, vũ, nhạc, kịch và nhiều rạp chiếu bóng. Tôi may mắn đã được coi một buổi trình diễn vở “Hồ Thiên Nga” của đoàn vũ ba-lê Moskva tại đây. Những vũ công xinh đẹp và nhỏ bé người Nga đã làm rất nhiều khán giả Madrid say đắm. Rất nhiều gia đình đã đến xem và mang theo cả những khán giả tí hon mà rạp đã phải cung cấp những ghế đệm cao cho các cháu bé. Những tràng pháo tay nồng nhiệt không ngớt cổ vũ vũ đoàn. Tôi cũng tình cờ được dự hai lễ hội lớn ở đây. Gần quảng trường Cibelet có một Hội Liên Hoan của các quốc gia nói tiếng Spanish từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Với những trang phục sặc sỡ, nhiều màu sắc và nhiều vẻ đặc trưng cho từng nước như điệu múa váy xoè của Mexico, hay điệu vũ Tango tình tứ và lãng mạn Agentina, Peru, Colombia, Chile, hay Cuba,… và những vũ công xinh đẹp này đã chụp hình chung với các du khách đến xem một cách rất tự nhiên không một chút e dè hay xa cách. Không một khẩu hiệu hay biểu ngữ mang màu sắc chính trị nào đã được áp đặt cho bất cứ một đoàn nào cả, ngay cả đoàn ca múa đến từ Havana của Cuba ở vùng đảo Caribbeans.
Image
Lễ hội ở Tây Ban Nha. Nguồn: www.expatica.com
Một điều không nằm trong chương trình của tôi là trước khi rời Madrid tôi được chứng kiến cuộc diễn hành quân sự của các binh chủng Tây Ban Nha, với các chiến đấu cơ tối tân và hiện đại như F-18 Super Hornets, Euro Fighters Typhoons, F-16 Fighting Falcons, Tornados,… mở màn và những đoàn máy bay vận tẳi C-130H Hercules,và những loại trực thăng kiểu mới như Puma, H-60 Blackhorse, AH1-G Super Cobra, hay H-64 Apachies theo sau… Tiếp đến dưới đất là các loai chiến xa loại mới như Leopard, các thiết vận xa, xe tăng hạng nặng M-109, xe truyền tin kiểu mới,… rồi sau đó các quân, binh chủng đặc biệt khác từ truyền thống cho đến hiện đại trong những bộ lễ phục đẹp mắt đi diễn hành trước công chúng hai bên đại lộ. Đặc biệt có những quân chủng với y phục lạ mắt như trượt tuyết với đôi Skis trên vai trong binh phục màu trắng bông tuyết đã được khán giả hai bên đường tán thưởng bằng những tràng pháo tay liên tục… Ngoài ra, những đoàn Kỵ binh trên lưng những con ngựa cao lớn và bóng bẩy và những kỵ mã trong những nhung phục đẹp mắt là những hình ảnh khó quên trong buổi lễ.
Image
Quảng trường Del Sol, Madrid. Cổng vào Metro và Tòa bưu điện Cercanías, tượng của Charles III. Nguồn: multisanti


Văn chương và báo chí


Người dân Madrid rất chăm đọc sách báo hằng ngày. Các cửa hàng sách đông nghịt người xem và mua sắm. Các sách của các nhà văn Tây Ban Nha hay của các nhà văn tên tuổi nổi tiếng trên thế giới đều có bán rộng rãi, tự do, và phổ biến tại đây. Không một giới hạn hay cấm kỵ nào như phải đi bên lề trái hay bên lề phải… như ở các xứ độc tài, cộng sản hay tôn giáo cuồng tín.

Trên màn ảnh nhỏ ở mỗi gia đình đều có đủ các chương trình của các đài truyền hình khắp nơi trên thế giới như đài BBC, NBC, CNN, Ả Rập, NHK (Nhật), Nga,… và rất nhiều đài truyền hình tư nhân, địa phương nói tiếng Tây Ban Nha. Ở đây có tới gần 500 đài khác nhau.
Image
Bức tượng Tras Jukia, cô sinh viên ôm sách. Marid. Nguồn: Cat Bethune
Kinh tế và thương mại

Ngay cả trong thời kỳ suy thoái kinh tế năm 2010, Madrid vẫn là một trung tâm thu hút du khách đến từ khắp nơi trên thế giới, các quảng trường trên đường phố nơi nào cũng đông đúc và náo nhiệt. Chúng tôi đã phải đổi khách sạn tới 3 lần trong 6 ngày tại Madrid vì đã không đặt phòng trước, họ dành ưu tiên phòng cho những đoàn du lịch “Tour” đông người. Kỹ nghệ phục vụ du lịch tại đây phát triển và đã đem lại một nguồn ngoại tệ to lớn cho Madrid nói riêng, và Tây Ban Nha nói chung. Một số cửa hàng buôn bán nhỏ đã đóng cửa trong tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, Tây Ban Nha cũng bị suy thoái nặng, chỉ thua có Hi Lạp… Tuy nhiên kỹ nghệ phục vụ du lịch thì vẫn hoạt động khoẻ và hữu hiệu.
Image
Bên ngoài Hoàng cung Palace Real Madrid. Nguồn: Jean-Pierre Dalbéra
Dân chủ và xã hội ở Madrid

Chúng tôi rời Madrid sau hai tuần thăm viếng Tây Ban Nha đi từ vùng biển Costa Del Sol ở Andalusia, phía Nam và đến thủ đô Madrid ở phía Bắc. Những gì mắt thấy, tai nghe, cảm nhận, và hiểu được,… đã để lại những ấn tượng thật sâu sắc và thật đẹp trong tim trong chuyến đi đầy thú vị và hữu ích này.

Đáng chú ý nhất là trình độ chính trị của người dân đã thăng hoa và đã được biểu lộ thật rõ rệt trong những lần chúng tôi được tiếp xúc tại nhiều nơi trong thành phố Madrid.

Một chi tiết nhỏ chúng tôi đã chứng kiến. Dưới bầu trời âm u với mưa nặng hạt ở quảng trường Puenta Del Sol nơi khách sạn chúng tôi ở, đã có những đoàn biểu tình không chút ồn ào, đi lại trong trật tự, và họ hô những khẩu hiệu, trên tay cầm những tấm bảng nhỏ, và họ không dùng loa phóng thanh để gây những tiếng động ồn ào hay gây chú ý cho du khách. Đây là một biểu hiện của cuộc “diễn biến hoà bình” đòi cải tiến dân chủ và xã hội của các nước tự do và tiến bộ. Khác hẳn Ở các chế độ độc tài, hay cộng sản sự kiện này sẽ bị coi là âm mưu lật đổ chính quyền (nhưng chính quyền cộng sản lại không do người dân trực tiếp và thực sự bầu lên).

Các chính đảng và các tổ chức xã hội Tây Ban Nha nhờ những cuộc biểu tình như thế mà hiểu rõ được những đòi hỏi chính đáng của dân chúng để chỉnh sửa và thay đổi những khiếm khuyết và cải tiến những phương pháp làm việc để từ đó hoàn thiện không ngừng và nâng cao mức sống của người dân nơi đây.

Người dân Tây Ban Nha với truyền thống cường quốc từ những thế kỷ xa xưa (thế kỷ 16,17,…), nhưng họ không có thái độ kiêu căng hay hách dịch với những người đến từ các xứ cựu thuộc địa. Sau khi chế độ độc tài Franco bị sụp đổ tháng 11, năm 1975, người dân Tây Ban Nha rất hiểu, trân trọng, và quý mến các quyền tự do và dân chủ của họ. Các đảng phái chính trị và những nghiệp đoàn công nhân ở đây như: PSOE, UGT, PCE, CCOO, PC-ml, MUC, PTE-UC, IU, AP, CD, UCD, PDP, PL, CP, PNV, EA, EE, HB, ETA,PSC,… đã từ từ chuyển hoá nền cai trị từ độc tài, chuyên chính, cứng rắn, tập quyền trung ương của chế độ Franco …nay trở thành nền dân chủ nghị viện, tự do và đa đảng.

Quá trình chuyển hóa này đã được người dân Tây Ban Nha thực hiện với ý thức cao độ, và cũng đã gặp phải những khó khăn và trở ngại lúc ban đầu qua những cuộc trưng cầu dân ý, và qua những lá phiếu bầu cử tự do, trực tiếp và kín.
Image
FEMEN biểu tình cởi trần chống du lịch tình dục, các định chế tôn giáo, phân biệt giới tính, sợ đồng tính và các chủ đề xã hội,
quốc gia và quốc tế khác Nguồn: Getty Images
Điều này đã đem lại xã hội dân chủ “thực sự” cho người dân nơi đây; đã chuyển biến quyền hành từ xã hội bảo thủ, nặng nề, kém hữu hiệu và tiến đến một xã hội tiến bộ với mục đích nâng cao đời sống của người dân cả về vật chất lẫn về tinh thần và quá trình này đã không phải trải qua những cuộc nội chiến hay cách mạng đổ máu như ở các nước cộng sản, độc tài quân phiệt, giáo phiệt như ở nhiều nơi trên thế giới.


Trần Đức Hợp
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Cà phê cà pháo
Phạm Thành Châu

Một buổi sáng nào đó, mấy ông bạn gọi nhau đi uống cà phê. Tiệm cà phê có mấy cái bàn đặt ngoài hiên, trên lề đường, kiểu cà phê vỉa hè ở Việt Nam hay cà phê Starbucks ở Mỹ thì càng quý. Ngồi đó cả ngày cũng chẳng ai đuổi mà chuyện trò cũng thoải mái. Ở Âu Mỹ mình nói tiếng Việt. Thỉnh thoảng cười với nhau thì họ biết ngay là mình đang nói chuyện vui. Không bao giờ tôi thấy người Âu Mỹ uống cà phê mà cười. Chuyện họ nói thường là thời tiết, thời sự. Họ không biết cái thú trò chuyện bên ly cà phê của người Việt mình. Họ thường ngồi một mình đọc báo, đọc sách. Nhiều ông cũng làm như ta đã là dân Tây, mũi hết tẹt, da hết vàng, cũng cầm quyển sách ngồi chăm chú đọc, ra vẻ “ta đây” trí thức (trừ những ông nghiên cứu thực). Lớn tuổi, đọc sách, báo (không phải nghiên cứu) phải nằm ườn trên giường hoặc trên ghế xa lông, trên võng…, dang tay, dang chân… rồi ngủ quên. Hạnh phúc vô cùng! Ra tiệm ngồi uống cà phê một mình là có tâm sự nào đó. Ngồi gặm nhấm nỗi buồn, có khi thở dài hoặc chết lặng, không biết làm sao cho hết buồn? Cũng có ông, thích ngồi một mình, chả suy tư, ngẫm nghĩ gì. Ở Sài Gòn, đầu hẻm thường có quán cà phê, nhiều ông, bà ra gọi một ly, ngồi “chò hỏ” (hai chân trên ghế, bó gối), chẳng nói năng, nhìn ra đường, thỉnh thoảng, đổ cà phê ra dĩa, bưng húp (cho bớt nóng). Bây giờ ở Việt Nam, uống cà phê vỉa hè mà nhìn thiên hạ chạy xe ngoài đường, đông như kiến, khói mù trời, còi bóp inh ỏi… một lát là chóng mặt. Trước 1975, thời còn sinh viên, sáng Chủ Nhật ra Thanh Bạch (Sài Gòn) tôi với vài người bạn kêu bò kho bánh mì, uống ly sữa tươi. Tuổi đó, tụi tôi không biết uống cà phê, hút thuốc, chỉ sau nầy, đi làm mới sinh tật thuốc lá, cà phê cho ra vẻ người lớn, phong trần.


Rủ nhau đi uống cà phê, càng đông càng vui. Bước chân ra cửa là đã vui rồi. Háo hức như thời trẻ, đi gặp người yêu. Trẻ có bạn. Lớn có gia đình, vợ con. Già… lại có bạn. Ông nào không có bạn cà phê tại vì mình bẩn tính, thích chê bai, trách móc người nầy người kia, hoặc tự khoe khoang, mình đã làm việc nầy việc nọ. Tệ nhất là giành nói, không chịu lắng nghe người khác. Vị nào được mời đi uống cà phê vài lần rồi bạn bè làm lơ vì mình thô lỗ, ăn nói cục cằn. Họ đáng được mời đi nhậu để có dịp gây lộn, đánh chửi nhau. Mấy ông già, cứ thui thủi trong nhà suốt ngày, con cái đã lớn, đã như chim rời tổ, chỉ còn lại mụ dzợ già, thấy hoài phát ngán, lại thêm tính lẩm cẩm, lầu bầu suốt ngày, nhăn như khỉ ăn ớt.… Chỉ gặp bạn là vui, càng “nói bậy” càng vui. Mấy bà cũng rứa, nhưng phải thật thân, mới dám nói chuyện bậy bạ mỗi khi tụ tập ăn uống riêng với nhau, đối đáp trên điện thoại hoặc đi chung xe (không có đàn ông) với nhau. Các ông thì thân, sơ gì cũng xổ “tiếu lâm”. Uống cà phê thì không nên nói chính trị, không nói đến chuyên môn, nghề nghiệp. (Xong buổi cà phê, tan hàng, bàn chuyện làm ăn sau. Lúc đó thì nước trà hoặc bia rượu, nước ngọt gì cũng được, đó không phải là “Hội Cà Phê”. Ông chủ ga-ra không nói chuyện sửa xe. Các ông văn, thi sĩ không nói chuyện văn chương. Họa sĩ không nói chuyện tranh. Nhà báo không nói chuyện báo chí.… Họ tối kỵ đem những chuyện đó vào bàn cà phê. Bình luận văn thơ hoặc “mặc áo thụng vái nhau” trên bàn cà phê chỉ làm người khác mất vui.

Bạn cà phê thường nói chuyện tào lao để tâm trí thoải mái, vui vẻ với nhau. “Trà Ðạo” quy định những kiểu cọ quá rắc rối. Bưng chung trà đưa lên mồm cũng bày đặt nầy nọ. Trà Ðạo chỉ cốt đánh lừa, dụ dỗ những ông bà ảo tưởng là mình quý phái. Người Nhật, gì cũng đạo, giết người cũng là đạo. “Kiếm đạo, Nhu đạo, Không thủ đạo”.…TràÐạo là để đọc cho vui thôi chứ chả ai theo, trong khi dân cà phê, chỉ vài ba người, tâm đầu ý hợp, đã thành “Hội Cà Phê”. Uống cà phê với nhau phải vui, không nghiêm trang, long trọng như “Trà Ðạo”. Thông thường, câu chuyện mở màn, (trong khi chờ cà phê đem ra) là tự chế giễu mình, người khác thêm thắt vào cho thêm rôm rả. Mấy ông lớn tuổi thích “khoe” bịnh của mình một cách bình thản. Bịnh nầy, bịnh kia. Coi như chuyện đương nhiên. Chẳng ông nào sợ chết. Với tuổi già, họ bất lực, không hy vọng thoát khỏi tay tử thần nên chả thèm nghĩ đến. Sống lâu thêm chật đất. Càng già càng lú lẫn, càng yếu đuối, lại thêm bịnh tật, chỉ làm khổ người khác.…Ai cũng cầu mong được ngủ một giấc và không thức dậy “Tu mười kiếp mới được như vậy”. Dĩ nhiên có bịnh thì chữa, như ra trận phải cẩn thận trước kẻ thù. Giỡn mặt tử thần đâu có được!

Ra tiệm cà phê với bạn, đôi khi còn thú vị hơn trước kia hẹn hò với người tình. Khi tan hàng (cà phê) tâm trí sảng khoái, yêu đời, yêu người, yêu chung quanh. Gặp ai cũng sẵn nụ cười chào hỏi. Ðáng tiếc là quý bà, ít người biết được cái thú nầy. Tôi nói chung chung về chuyện uống cà phê với mấy ông bạn già chúng tôi chứ mấy cậu sồn sồn ở Mỹ đến tiệm cà phê là để xem football, cá độ và để ngắm các em bưng cà phê. Ở Cali., nhiều tiệm cà phê có các em “áo hai dây, quần một ống” được quảng cáo trên internet, khách đến chật tiệm, đa số là thanh niên chứ mấy ông già, chân tay rũ liệt, đến đấy làm gì. Ðôi khi muốn giải trí, các cậu đến mấy tiệm “vũ xét xi” xem mấy em “không mảnh vải che thân!” nhảy múa. Nhớ cách nay vài chục năm, khi chúng tôi (còn ở tuổi trung niên) mới qua Mỹ, tiểu bang Virginia, có nhà thơ Hoàng Trùng Dương (qua trước) đưa năm bảy người chúng tôi đi xem “vũ xét xi” trên Washington DC. Chúng tôi ngồi một bàn, mỗi người một chai bia, trước mặt là dãy sân khấu có năm cây cột kim loại sáng bóng. Mỗi em một cây cột. Thật tội nghiệp! Chẳng em nào có áo quần. Các em cứ ôm cây cột mà trèo lên tụt xuống, đánh đu, vặn vẹo, uốn éo quanh cây cột trông rất vui và tức cười chứ chẳng thấy kích thích, ham muốn gì. Ông bạn nhà thơ đưa cho mỗi đứa mấy tờ đô la (chúng tôi mới qua Mỹ, chẳng có xu nào) rồi ông ta làm trước, chúng tôi lần lượt làm theo (mấy khán giả khác cũng làm như vậy), nghĩa là cầm tờ đô la trên hai tay, để trước ngực, đến đứng sát mép sân khấu. Em vũ nữ cười tình rất dễ thương, uốn éo đến gần, thò tay lấy tờ bạc rồi hếch chân lên trước mặt người đó một cái. Chỉ tích tắc thôi. Vậy là xong. Phải về chỗ ngồi cho người khác lên “nạp tiền”. Luật “Cấm sờ vào hiện vật” được áp dụng nghiêm ngặt. Ông nào lạng quạng sẽ bị một tên cô hồn, to như con dã nhân, nắm cổ vất ra đường. Không chỉ các ông đi xem mà các cô, các bà cũng đến uống bia ngắm người đẹp nhảy múa. Các cô quá đẹp! Cao cỡ thước bảy, chân dài, ngực đùi sạch sẽ, thanh cao, nhất là gương mặt, đẹp một cách trong sáng, thánh thiện như thiên thần. Nghe nói (trừ những cô chuyên nghiệp) những cô đó là sinh viên làm thêm để kiếm tiền chi dụng. Xem “vũ xét xi”, đúng nghĩa là ngắm thân thể cô vũ nữ, xem cô múa và tìm thấy niềm vui, chứ chẳng ai có một chút ý nghĩ dung tục nào. Các cô mới đúng là thần vệ nữ. Quý bà chỉ khoe áo quần chứ làm gì có thân hình đẹp như vậy cho thiên hạ chiêm ngưỡng. Tôi thấy, cuối dãy, có sân khấu riêng cho các cô Ả Rập nhảy múa cho các ông Ả Rập xem. Ai nấy râu ria tùm lum!

Trước 1975, ở Sài Gòn, cũng có “vũ xét xi”, nổi tiếng nhất là cô Xuân Trang, con gái nữ kịch sĩ Xuân Dung. Cũng trống kèn ầm ĩ, cũng uốn éo, quằn quại, nhưng trên, dưới đều có “lá chắn chống phi đạn liên lục địa”, phòng thủ tươm tất. Chả ra làm sao! Thà đi biển, ngồi ghế dựa, ngắm mấy em tắm biển còn thoải mái hơn!

Trở lại chuyện cà phê của mấy ông già tụi tôi ở tiểu bang Virginia, miền đông bắc Hoa Kỳ. Buổi sáng, bọn già gọi nhau “Cà phê hè!” cũng có nghĩa là đi điểm tâm, đôi khi về nhà khỏi ăn trưa, vì các tiệm cà phê, tiệm ăn ở Virginia, gần 11 giờ mới mở cửa. Vả lại, mấy ông già thường thức khuya, dậy trễ, hẹn giờ đó cho thong thả. Nếu ở Cali. Có cà phê Factory là nơi hẹn hò thì ở Virginia có tiệm phở Xe Lửa của ông chủ Toàn Bò trong chợ Eden. Hẹn nhau đến đấy thì có ngồi từ sáng đến chiều vẫn cứ thoải mái, ông chủ Toàn Bò vẫn nhe răng cười, dù khách có đông đến bao nhiêu “Xin quý vị chờ cho chút” chứ không nhăn nhó, ý muốn đuổi mấy vị “ngồi đồng” choán chỗ như những tiệm ăn khác. Ông Toàn Bò có sáng kiến, kê hai cái bàn sát nhau để bạn bè ngồi dễ chuyện trò. Thời đó (cách nay hơn chục năm) bọn chúng tôi (chưa già lắm) họp mặt ở đó trên vài chục mạng. Phần đông làm báo, làm văn, làm thơ, làm họa sĩ và… làm thinh (không làm gì cả). Tụ tập ăn uống, cà phê cà pháo, tán láo, cười đùa chán chê, đến trưa mới giải tán. Vài ông móc “tờ sớ” ghi sẵn lời vợ dặn, đi chợ mua những món gì, ở đâu, giá bao nhiêu? Ðem về bỏ tủ lạnh hay để trên bàn? Phải tuân hành tỉ mỉ như thế để khỏi bị vợ rầy! Nhiều ông nán lại thách đấu cờ tướng. Hai ông đấu nhau, các ông khác làm khán giả và làm thầy dùi, chỉ chọt, ý kiến ý cò, la hét cười nói, xỏ xiên om sòm. “Thua ra!” Ai thua thì đứng dậy, nhường chỗ cho người khác. Ông Cò Ly, trình độ cờ tướng cỡ “vịt chặt chân” (đánh thấp như vịt bị chặt chân) mà gặp ai cũng thách đấu. Ði được một nước đắc ý thì huênh hoang, khoe với khán giả là sẽ cho đối phương chết. Nhưng đến các nước cờ sau đó thì ông thừ người, chẳng biết chống đỡ cách nào để rồi bị chiếu bí. “Thua thì sắp ván khác. Sợ gì!” Ông Cò Ly có sạp báo trước tiệm phở, ham đánh cờ đến nỗi quên người mua báo đang đứng chờ ngoài kia. Ông chủ tiệm sửa xe Minh Auto có thể ngồi đánh cờ tướng từ sáng đến chiều. Ăn thua gì cũng cười. “Chơi cho vui!”.

Những chuyện tôi kể vừa rồi là thời vàng son của chúng tôi cách nay hơn chục năm. Càng về sau, càng vắng dần. Ông nào cũng trên bảy mươi, tám mươi, bịnh tật cả lô trong người. Chân yếu tay mềm, chán nản, chẳng muốn đi đâu. “Quân số” hao hụt mà không được bổ sung! Cứ lặng lẽ vơi đi. Năm nầy qua năm nọ. Ðến nỗi, ông chủ Toàn Bò chỉ để một bàn cho bạn bè, nhưng cũng lưa thưa. Mấy ông lão tóc bạc gặp nhau, chào nhau, kể bịnh tật mình mà cười như mếu. Thỉnh thoảng, ông Toàn Bò thông báo “Ông X. mất rồi. Ðêm hôm qua. Quý vị đóng mỗi người mười lăm đô để đăng báo phân ưu. Ghi tên vào tờ giấy nầy. Vị nào muốn đến viếng người quá cố thì đến nhà quàn B. số… đường……Từ giờ H. đến giờ G. ngày…tháng…năm”. Rồi thì cái danh sách người chia buồn cũng vơi đi. Người chia buồn được lần lượt đôn lên thành người quá cố, cho nên chẳng còn ai để ông thông báo, đòi đóng tiền đăng báo phân ưu. Không phải mọi người đều được “Thành kính phân ưu. Vô cùng thương tiếc” Họ còn sống nhưng nằm nhà, chỉ thích quanh quẩn trước sân, sau vườn. Mắt kém. Lái xe chậm chạp.

Có ra hàng cà phê cũng chẳng gặp ai! Ðáng kinh ngạc nhất là ông cụ thân sinh của ông Bùi Dương Liêm, trên chín mươi tuổi mà vẫn tự lái xe, ra ăn hết một tô phở. Ông Toàn Bò, chủ tiệm phở Xe Lửa thiếu bạn. Một mình đi ra đi vào, mặt buồn xo như người thất tình. Khách đến, ông cũng miễn cưỡng, thờ ơ. Buồn quá! Ông Toàn Bò dẹp tiệm, về hưu.

Trước đây, bạn bè, bà con từ Việt Nam qua, từ Úc Châu, Âu Châu, Canada, các tiểu bang khác đến tiểu bang Virginia, đều lấy tiệm phở Xe Lửa trong chợ Eden là nơi gặp gỡ, chuyện trò. Ở đó khách có thể tình cờ gặp lại bạn cũ đã mất liên lạc từ lâu, tay bắt mặt mừng… Nay tiệm phở Xe Lửa không còn nữa, phải mời bạn đến các tiệm ăn khác. Tiệm khác chỉ có ăn thôi. Ăn xong phải đứng dậy. Không nơi đâu có cái không khí thân mật, thoải mái, vui vẻ như trong tiệm phở Xe Lửa của ông Toàn Bò.

“Ơi ông Toàn Bò! Nay ông nơi đâu?”
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image

Trời Đất Bao La

Định cư ở Nauy hơn ba năm, sau khi ổn định công việc làm ăn và việc học hành cho mấy đứa con, tôi tổ chức một chuyến Âu du bằng xe hơi. Chiếc xe Ford của tôi vừa cũ kỹ vừa nhỏ, không thể nào vượt qua một chặng đường trên dưới mười ngàn cây số khứ hồi, và dĩ nhiên cũng không đủ chỗ cho một gia đình lớn nhỏ tám người. Lại nghe mấy người bạn tới trước hù, bảo là trên xa lộ Âu châu vào mùa hè, chạy một cái xe cũ có thể bị giữ lại giữa đường và nộp tiền phạt vì cái tội làm trở ngại giao thông. Tôi mướn một cái xe mới toanh mười hai chỗ ngồi, có máy lạnh và kính mát đàng hoàng. Tôi không muốn bất cứ điều gì làm mất cái hứng thú cho cuộc hành trình đầu tiên của chúng tôi trên những đất nước mà trước đây tôi đã từng một thời mơ ước nhưng chẳng bao giờ nghĩ là có một ngày được đi qua. Tôi và đứa con trai lớn vừa mới đủ tuổi lấy bằng lái xe, thay nhau làm tài xế. Bà xã và cô con gái lớn chịu trách nhiệm xem bản đồ và theo dõi lộ trình.


Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi rất thích thú khi đi qua những vùng đất xa lạ, mà ngày trước tôi chỉ biết mơ hồ qua sách vở. Sau một ngày, băng qua hai đất nước hiền hòa Thụy Điển, rồi Đan Mạch, chúng tôi sang Hamburg, thành phố lớn cực bắc của Tây Đức. Thời gian này nước Đức còn chia đôi, nên vừa mới đến ranh giới là không khí đã căng thẳng. Cảnh sát với súng ống dầy người, trông mặt người nào cũng đằng đằng sát khí làm tôi nhớ tới hình ảnh của Hitler trong bộ phim dài chiếu mỗi tuần trên truyền hình Nauy. Vừa mới thoát ra cảnh chiến tranh tù đày ở quê nhà, lại được định cư tại một quốc gia ban phát giải Nobel Hòa bình, tôi không muốn phải ngộp thở trên quê hương của ông Hitler, nên sau khi qua khỏi Frankfurt, tôi rẽ sang Hòa Lan. Một đất nước mà tôi nghe như huyền thoại: nằm dưới mặt nước biển trung bình, có một con đập dài nhất thế giới, cũng là một xa lộ băng qua biển. Chạy xe trên con đập này, tôi cứ ngỡ mình đang lái tàu chạy giữa biển khơi. Xứ sở của hoa Tulip, với vườn hoa lớn và đẹp nhất thế giới, những chiếc quạt gió cùng những con kênh đào thơ mộng.

Ở thủ đô Amsterdam, có một nơi dành cho những người nghiện đến nhận thuốc phiện miễn phí của chính phủ; nguyên cả một khu phố lớn dọc theo bờ sông thơ mộng lại là một khu dành cho mấy cô gái điếm đủ sắc dân. Đây là một cơ sở kinh doanh, có đóng thuế cho nhà nước, nên dược cảnh sát bảo vệ. Trước mỗi nhà là một cái tủ kiếng, bày hàng thật cho khách bốn phương chiêm ngưỡng. Hàng thật là một hay hai cô gái thoát y 90%, dĩ nhiên phải là đẹp, đứng như những pho tượng nữ thần Hy lạp. Chúng tôi ghé thăm gia đình mấy ngưòi bạn cùng quê, sống rải rác khắp nơi. May mà đất nước Hòa Lan này không rộng lắm, lái xe từ bắc xuống nam chỉ mất khoảng bốn tiếng đồng hồ. Dừng lại nhà một người bạn ở Bergen op Zoom, thành phố biển phía nam chúng tôi tha hồ ăn sò huyết và những con "hàu". Mấy loại này ở đây chỉ cần lội xuống biển mười phút là mang lên cả thùng nướng ngay tại chỗ. Hôm sau, chúng tôi sang Bỉ, Lục Xâm Bảo, và cuối cùng chúng tôi đến Pháp.

Điểm đến cuối cùng cũng là nơi quan trọng nhất mà chúng tôi muốn đến. Tôi dành một nửa thời gian, hai tuần lễ còn lại, cho cái xứ sở mà lúc còn nhỏ, khi học lịch sử thì tôi thù ghét, nhưng khi học văn chương thì tôi lại mê thích nó. Nào là tháp Eiffel bên dòng sông Seine tình tự, nào là nhà thờ Notre Dame cổ kính mà tôi mơ hồ thấy trong phim Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà, nào là vườn Luxembourg, nơi hẹn hò của bao cặp tình nhân. Tôi bắt gặp đâu đó những đứa trẻ trong Sans Famille của Hector Malo, những người đàn bà trong Les Misérables , và cả những bến tàu có cảnh tiễn đưa trong Oceano Nox của Victor Hugo. Chúng tôi ở trong khách sạn của một người Hà Nội, sang Pháp lập nghiệp từ hơn 50 năm trước. Khách sạn nằm trên con phố chính trong quận 13, nơi có đông ngưòi Việt Nam sinh sống.

Hơn một tuần ở Paris, chúng tôi xuôi về miền Nam nước Pháp. Thành phố Nice nằm bên bờ Đại Tây Dương, gần thành phố Cannes nơi qui tụ những tài tử điện ảnh hằng năm, và không xa đất nước Monaco với những sòng bài và những chuyện tình nóng bỏng của mấy nàng công chúa. Mười ngày nằm trên thành phố biển này, tôi tạm quên những bất hạnh trong quá khứ và những gì đang xảy ra trên quả đất có quá nhiều phiền muộn này.

Rời Nice, chúng tôi trở lại Paris trước khi về Nauy. Trời mùa hè đang nóng, bà xã và mấy cô con gái của tôi đề nghị chạy ban đêm, vừa cho mát vừa được ngắm những thành phố rực rỡ trong ánh đèn. Nhìn trên bản đồ, tôi thấy trên đường đến thành phố Lyon, mình có thể dừng lại Grenoble rồi rẽ sang Genève của Thụy Sĩ,, xem thử nơi đã cho ra đời cái hiệp định làm khốn khổ quê hương mình ra sao. Như được trở lại thời trận mạc xa xưa, tôi gọi cả bầu đoàn thê tử lại để ban bố " lệnh hành quân". Chúng tôi không đi theo xa lộ 85 mà chọn con tỉnh lộ nhỏ trực chỉ Grenoble. Tôi đích thân xem bản đồ hướng dẫn cho cậu con trai làm tài xế. Rời Nice lúc 7 giờ tối. Sau hơn ba giờ từ "tuyến xuất phát", tôi mới biết là mình đã sai lầm khi xử dụng con đuờng tắt này. Vì chúng tôi bắt đầu chạy qua một khoảng rừng và những đồng lúa mì mênh mông, không thấy một bóng người.

Đang mơ màng thì nhìn thấy phía đầu xe bốc khói. Tôi ra dấu cho đứa con trai dừng lại, bảo cả nhà xuống xe gấp. Khói trước xe vẫn còn bốc lên mờ mịt. Tôi tái mặt , vì bao nhiêu năm nay, từ lúc còn ở Việt nam cũng như sang đây, ngoài việc cầm vô- lăng và đổ xăng ra tôi có biết gì về xe cộ nữa đâu. Chờ cho khói tan hết và rờ vào nắp xe thấy không còn nóng, tôi mở nắp xe lên bảo cậu con trai rọi đèn pin vào máy nhìn thử. Đến đường cùng thì làm như phản xạ tự nhiên vậy thôi, chứ tôi có biết cái gì trong máy đâu mà xem. Nhìn quanh một chập, tôi cảm giác có điều gì lạ lạ. Cuối cùng tôi mớí phát hiện là sợi dây cu-roa không còn nữa. Nước trong bình đã bốc hơi không còn một giọt. Thấy tôi xách đèn pin trở lại, bà vợ và đám con gái đang nằm trên bờ cỏ ruộng lúa mì, ngồi bật dậy. Nghe tôi ra lệnh " đóng quân tại vị trí " vì xe hư không biết khi nào mới chạy được, bà vợ xỉ vả cho tôi một trận, bảo hèn chi ngày xưa ông đánh giặc thua là phải, đừng có đổ thừa tại tụi Mỹ nó phản bội bỏ miền Nam.

Tôi bảo đám đàn bà con gái lên xe nằm và khóa cửa lại cẩn thận, vì biết đâu khu này có thú dữ. Đàn bà coi dữ vậy chứ nhát gan, ríu rít tuân lệnh. Tôi và thằng con trai đi vòng vòng xem có nhà cửa gì không. Nhưng tất cả đều tối om, tĩnh mịch. Đến gần một giờ sáng, khi tôi đang nằm mơ màng trên ruộng lúa, thì nghe có tiếng động. Dường như là tiếng của một loại động cơ nào đó, càng lúc càng gần hơn. Một lúc sau, tôi thấy có ánh đèn từ khu ruộng lúa chay ra. Một chiếc máy cày. Ai đi cày ruộng vào giờ này ? Chưa kịp tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình, chiếc máy cày đã dừng lại trước mặt tôi.

Qua ánh đèn xe, tôi thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ là người Pháp, bước xuống tiến lại phía chúng tôi. Cử chỉ anh ta không phải là một người gian. Tôi yên tâm. Anh hỏi chúng tôi bằng tiếng Pháp, anh nói từng chữ vì sợ chúng tôi không hiểu:

- Chắc là xe các anh bị hư ? Có cần tôi giúp điều gì không?

Lúc còn đi học, Pháp văn là sinh ngữ chính của tôi. Vậy mà lâu quá không xử dụng, tôi hiểu tiếng được tiếng mất, vừa trả lời vừa ra dấu:

- Xe tôi bị đứt dây cu-roa, khô hết nước, không chạy được nữa.

- Các anh ở tỉnh nào tới ?

- Chúng tôi từ Nauy sang, chứ không phải ở Pháp. Trên đường từ Nice về, thì xe bị hỏng.

Anh bảo bây giờ đã khuya rồi, nhà anh cũng ở gần đây, anh sẽ giúp chúng tôi kéo xe về nghỉ tạm, rồi ngày mai sẽ tính..Tôi mừng rỡ gật đầu. Anh ra dấu cho tất cả chúng tôi lên xe.

Chiếc máy cày kéo xe và chúng tôi chạy lòng vòng chỉ khoảng 10 phút thì về đến nhà. Trời tối, tôi không thấy gì ngoài mấy cái nhà khá lớn nằm dưới những tàng cây. Anh đưa chúng tôi vào một gian phòng rộng, mang thêm vài tấm nệm và mấy cái mền mỏng. Một chập sau anh lại mang vào bánh mì, phô- mát, và một ấm cà phê nóng, rồi chúc mọi người ngủ ngon.

Lạ nhà, nhưng có lẽ vì mệt quá, nên khi chúng tôi thức dậy thì trời đã sáng tự lúc nào. Kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường chỉ 8 giờ 10 phút. Mở cửa sổ nhìn ra ngoài, tôi mới biết đây là một nông trại khá lớn. Chưa kịp gọi bà vợ và mấy đứa con dậy xem, thì có tiếng gõ cửa. Anh bạn trẻ tốt bụng tối hôm qua đến dắt tôi chỉ khu nhà tắm, nhà vệ sinh, rồi dặn tôi khoảng 45 phút nữa, anh sẽ trở lại đón chúng tôi ăn sáng.

Ngồi vào bàn ăn, anh giới thiệu vợ và hai đứa con nhỏ. Cô vợ khá xinh, vui vẻ, lúc nào miệng cũng cười, vừa nói vừa làm dấu với mấy đứa con gái của tôi.

- Các anh là người Việt Nam ? Anh ta vừa bưng tách cà phê vừa hỏi.

- Nhưng làm sao anh biết được vì ở bắc Âu cũng có nhiều người Tàu, người Đại Hàn , người Thái Lan và cả người Nhật nữa? Tôi không trả lời mà hỏi ngược lại anh.

- Tôi không nói được nhưng hiểu một ít tiếng Việt. Bà ngoại tôi là người Việt Nam mà. Mẹ tôi cũng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Lúc còn sống bà nhớ Việt Nam lắm và thường kể cho chúng tôi nghe những thắng cảnh bên ấy. Đặc biệt, bà thường nhắc đến một thành phố có tên là Đà Lạt. Bà bảo nơi đó thật thơ mộng và có những nơi hò hẹn thật dễ thương cho những cặp tình nhân. Tội nghiệp, bà mới mất hơn hai năm nay, trong một tai nạn xe hơi cùng cô em gái duy nhất của tôi.

Ăn điểm tâm xong, anh đưa chúng tôi vào thăm phòng đọc sách. Một tấm bản đồ Việt nam thật to treo trên vách. Anh chỉ cho chúng tôi thành phố Đà Lạt mà mẹ anh thường kể cho anh và cô em gái nghe mỗi lần bà nhớ về quê mẹ.

Càng lúc chúng tôi càng thấy gần gũi và thân thiết với gia đình anh bạn trẻ có một chút gốc gác Việt Nam này. Anh bảo vợ anh đưa chúng tôi đi thăm khu nuôi bò sữa và vắt đem về vài lít sữa tươi để chúng tôi dùng thử, trong khi anh lấy xe chạy ra phố tìm mua sợi giây cu-roa để thay cho xe chúng tôi. Mấy cô con gái của tôi rất thích thú khi được cô chủ nhà chỉ cho cách vắt sữa bò. Sau đó chúng tôi vào thăm một vườn nho.

Khi trở về, thì anh ta đã sửa xong cái xe và đang cho máy nổ thử. Thấy chúng tôi, anh cười đưa ngón tay cái lên báo hiệu là xe đã tốt. Anh tắt máy xe và giao chìa khóa lại cho tôi. Tôi chưa kịp trả tiền sợi giây cu-roa và nói lời cám ơn thì anh đã vỗ vai mời chúng tôi ở lại chơi với gia đình anh vài hôm. Anh bảo là lâu lắm anh mới gặp được những người đến từ quê ngoại. Thấy ông bà chủ hiếu khách, phong cảnh ở đây hữu tình, lại có sẵn sữa tươi và rượu nho, bà xã và mấy cô con gái cười nheo mắt nhìn tôi. Tôi hiểu ý và nói với anh là chúng tôi chỉ có thể ở lại một đêm. Trưa ngày mai chúng tôi phải lên đường.

Ăn cơm chiều xong, trời dịu mát, anh đề nghị chúng tôi đi thăm khu vườn cam nằm trên ngọn đồi. Vào vườn cam chúng tôi có cảm tưởng như lạc vào một chốn thiên thai nào đó. Những hàng cam thẳng tắp, trĩu vàng những quả, mùi hoa cam tỏa ra thơm cả một góc trời. Giữa vườn cam là một công viên nhỏ, trồng đủ các loại hoa. Bên kia công viên, ngay giữa đỉnh đồi là khu nghĩa trang nhỏ của gia đình. Vợ chồng anh mời chúng tôi đến thăm mộ của ba má anh và cô em gái. Ba ngôi mộ xây đơn giản, nhưng lại có nét đẹp cổ kính. Trên mỗi mộ bia đều có một tấm ảnh lồng trong khung kiến. Đến trước từng ngôi mộ, tôi cung kính cúi đầu, chấp hai tay trước ngực và đọc thầm từng tên khắc đậm trên bia..

Khi đọc đến tên người mẹ:
JACQUELINE CUVÉRO GAULTIER - tôi bỗng giựt mình.

Cái tên này tôi thấy quen lắm. Bà mất lúc tròn 50 tuổi. Nhìn tấm ảnh thật lâu, tôi nghĩ đến một người.

Khi về nhà, tôi ngỏ ý muốn xem những tấm ảnh lúc cha mẹ anh còn trẻ. Anh bạn chủ nhà mang đến cho chúng tôi mấy quyển album. Bà xã và mấy cô con gái thì tranh nhau xem quyển album lúc ông bà làm đám cưới và nức nở khen mấy cái áo của cô dâu. Riêng tôi dành lấy tập album cũ với những tấm ảnh đen trắng mà nhiều cái đã ngã màu vàng. Bỗng tôi lạnh người khi xem những tấm ảnh của mẹ anh thời con gái, đặc biệt là tấm ảnh có mái tóc cắt ngắn giống ca sĩ Sylvie Vartan thời cô ta đang nổi tiếng. Chẳng lẽ lại là nàng ? - Không thể nào ! Tôi lắc đầu nói thầm trong miệng.

Năm học lớp đệ nhất trường Võ Tánh, Nha Trang, dù học không giỏi nhưng tôi cũng cố gắng để được trở thành một thằng sinh viên, dù chỉ là loại sinh viên hạng bét, và cũng để khỏi phụ lòng thương yêu, lo lắng của cha tôi, suốt một đời làm gà trống nuôi con. Vậy mà tôi bị một lúc hai cái tai ương. Tự dưng có một nàng con gái, mà lại là con gái đẹp, yêu tôi. Đang ngụp lặn trong tình yêu thì ông Trời phạt tôi: phận nhà nghèo mà lại đèo bồng yêu người đẹp, nên giáng cho tôi một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Vì vậy khi bạn bè vác lều chỏng đi thi, thì tôi đang nằm bất động ở nhà thương tư của bác sĩ Thạch ở đường Trần Quí Cáp. Ba tháng sau, khi vừa xuất viện về tiếp tục điều trị tại nhà, tôi nhận được bức thư tạ từ. Người đẹp đi lấy chồng. Tôi bỏ thành phố Nha Trang, bây giờ với tôi là thành phố buồn, vào Sài gòn lang thang kiếm việc làm thuê để có tiền đi học tiếp. Nhưng rồi cũng chẳng có ai chịu thuê một thằng thư sinh nhà quê như tôi. Vừa buồn vừa không có tiền trả tiền cơm cho bà Cả Đọi, tôi đăng vào lính.

Khi chân ướt chân ráo vào Sài gòn, tôi chẳng có ai quen, ngoài một bà cô họ xa, trước lấy chồng Tây. Chồng chết, bà ở với mấy đứa con mang hai dòng máu ở sau khu tiệm phở Tàu Bay, Tàu Thủy, trên đường Lý Thái Tổ. Tôi không ngờ trong khu này đa số là những gia đình có con lai Pháp, trắng có đen có, được tòa đại sứ Pháp cưu mang lo lắng từ việc sinh sống tới việc học hành. Hầu hết đều mang quốc tịch Pháp và được theo học ở các trường Tây Sài gòn, Đà lạt. Những ngày cuối tuần tôi thường ghé lại đây chơi. Đang cô đơn ngơ ngác thì được mấy người con của bà cô họ giới thiệu cho tôi nhập bầy với đám Tây lai này. Họ cũng dễ thương và dĩ nhiên là có phong cách Tây lắm. Chiều cuối tuần họ thường tụ tập để ăn uống và nhảy đầm. Anh con cả của bà cô họ tôi là trưởng nhóm, chỉ định một cô bé tóc vàng, có mái tóc ngắn và đôi mắt thật dễ thương dạy tôi nhảy đầm và cũng làm partner cho tôi khi có tiệc tùng. Nghe mọi người trong nhóm gọi cô là Sylvie Vartan, tôi cũng gọi theo, nhưng biết vì khuôn mặt và mái tóc của cô giống người ca sĩ Pháp đang được ái mộ này nên bè bạn gọi đùa, chứ đó không phải là tên thật của cô.

Chỉ đi chơi với nhóm một vài lần gì đó, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Hôm lễ gắn Alpha, thấy anh em mời thân nhân bạn bè nhiều quá, tôi cũng tủi thân. Gia đình tôi và một số bạn bè thân ở tận Nha Trang, còn ở Sài Gòn này thì tôi tứ cố vô thân. Cuối cùng tôi nghĩ đến ba người con lai Tây của bà cô họ và mời họ đến dự lễ gắn Alpha, rồi sau đó cùng đi dự tiệc với tôi. Hôm ấy cả ba người đều đến và còn dẫn theo nàng con gái Sylvie Vartan. Họ rất thích thú với khung cảnh quân trường và sinh hoạt của lính. Ai cũng chụp chung với tôi một tấm ảnh có mang cầu đai Alpha.

Sau đó, trong những lần về phép ngắn ngủi, tôi cũng có ghé thăm họ một đôi lần. Đêm ra trường, họ cũng đến dự. Sau đó đưa tôi về Sài gòn, họ làm một buổi tiệc chia tay tôi. và lần này tổ chức tại nhà cô gái có tên Sylvie Vartan. Gia đình cô không ở trong khu Lý Thái Tổ mà có một biệt thự riêng, khá xinh, nằm trên một con hẻm lớn trên Tân Định.

Tôi không gặp ai trong gia đình của cô hôm ấy, chỉ xem tấm ảnh người cha ruột của cô chụp với mẹ cô khi còn rất trẻ, và cả tấm ảnh chụp gia đình cô bây giờ, với ông cha Việt Nam, một người em gái cũng lai Tây như cô và hai người em nhỏ cùng mẹ khác cha. Mẹ cô có nhan sắc, nên ông chồng mới sau này thuộc loại nhà giàu. Tôi nghĩ như thế.

Tới hơn hai giờ sáng, tiệc mới tàn. Khi nói lời chia tay, không hiểu vì xa họ không biết khi nào gặp lại hay vì nghĩ đến đời lính chiến nay mai trên rừng núi cao nguyên mà tôi chạnh lòng, muốn khóc. Nàng cũng nhìn tôi nghẹn ngào. Khi mọi người đi tìm áo khoác và mang giày, nàng kéo tôi ra phía sau, tặng tôi một tấm ảnh, rồi bất ngờ hôn tôi trên má.

Ngồi trên máy bay ra trình diện đơn vị, tôi bất chợt nhớ đến nàng, mở xách tay ra tìm lại tấm ảnh. Nàng có mái tóc thật dễ thương, nhìn kỹ đúng là giống cô ca sĩ Sylvie Vartan. Sau tấm ảnh nàng viết một câu ngắn ngủi: À toi, avec tout mon coeur. Phía dưới cô chỉ ghi là người có mái tóc Sylvie Vartan.

Nhớ tới nụ hôn bất ngờ tối hôm qua, tôi đưa tay lên sờ má, thấy vẫn còn thoang thoảng một mùi hương. Tôi mỉm cười và nói thầm một mình: Đúng là lãng mạn như Tây.

Tôi ra đơn vị đúng vào lúc chiến trưòng cao nguyên bắt đầu sôi động, cùng lúc nhóm người Thượng Fulro nổi loạn, giết một số sĩ quan, viên chức hành chánh người Kinh, chiếm một vài nơi, đặc biệt là tỉnh Quảng Đức và một vài quận lỵ. Đơn vị tôi đang tiếp viện cho chiến trường Quảng Nhiêu còn mịt mờ lửa đạn ở bắc Ban Mê Thuột thì được lệnh di chuyển về phi trường Phụng Dực, xử dụng máy bay dân sự của hàng không Việt Nam để đáp xuống Nhơn Cơ, một phi trường bỏ hoang nằm cách tỉnh lỵ Quảng Đức khoảng 30 cây số, do một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt mũ xanh của ta kiểm soát. Thằng trung đội trưởng mới ra trường như tôi làm sao có khả năng để ứng phó với một chiến trường nửa ta nửa địch, mà trong sách vở quân trường không hề nói tới. Lòng tôi thật băn khoăn. Nhưng cuối cùng thì mục tiêu cuộc hành quân Dân Thắng này cũng đạt được. Đơn vị tôi không hề tốn một viên đạn. Mấy lãnh tụ người Thượng thấy quân chủ lực bao vây bốn hướng, cộng với lời thuyết phục tài ba của vị chỉ huy nào đó, đã ra lệnh cho những lực lượng người Thượng buôn súng.

Nằm trong cái tỉnh khỉ ho cò gáy mà dân chúng sống rải rác trong các buôn làng hầu hết là người thượng, mấy thằng lính trẻ như tôi chỉ có buồn muốn khóc. Ai cũng mong sớm chuyển đi tỉnh khác Vậy mà riêng tiểu đoàn của tôi được lệnh nằm lại đây để giữ an ninh cho dinh điền Đạo Nghĩa nằm trong một thung lũng gần biên giới Cam Bốt. Một trong những dinh điền do Thổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh sáng lập để thu hút di dân sau 1954.

Ra trường đã hơn hai năm. Đời lính cao nguyên thật là vất vã và buồn. Nhiều lúc nằm giữa rừng già, nghe tiếng chim kêu vượn hú, tôi thường chạnh lòng nhớ tới thời còn đi học , và khuôn mặt những người quen. Đôi khi tôi cũng chợt nhớ tới cô con gái lai Tây và lấy tấm ảnh ra xem. Đến bây giờ tôi cũng không biết tên thật của nàng. Mà biết để làm gì? Vì giữa nàng với tôi là cả một thế giới cách biệt. Tôi, một thằng lính trận, gốc gác nhà nghèo, không biết sống chết ra sao. Còn nàng lại là một cô con gái lai Tây, xinh đẹp và quí phái. Nàng quen với tôi , thích tôi một chút, cũng là cái thích lãng mạn của một tiểu thư sống trong thành phố lâu ngày được bất ngờ ra thăm một vùng dân giả, thế thôi.

Ở Quảng Đức gần hai năm, đánh nhau một vài trận, tôi được mấy cái huy chương rồi lên làm đại đội trưởng. Trong mấy thằng đại đội trưởng, tôi là thằng trẻ nhất, và cũng nghèo kinh nghiệm chiến trường nhất. Ra trường gần hai năm rồi mà trông mày vẫn cứ như thư sinh. Ông tiểu đoàn trưởng bảo tôi như thế trước khi cho tôi dẫn đại đội solo xuống núi biệt phái cho tiểu khu Lâm Đồng

Đoàn xe chở đại đội tôi vừa vào ranh giới Lâm Đồng, tôi nhận lệnh ông tiểu khu trưởng, trực chỉ đến khu cầu Đại Ngà để giữ an ninh cho công binh làm lại mấy cây cầu trên QL 14, từ Saigòn chạy lên Đàlạt, vừa bị đặc công giựt sập trong hai đêm trước.

Đến vị trí, tôi phối hợp với một đại đội địa phương quân đã có mặt tại chỗ và một đơn vị công binh mới từ Đà Lạt xuống, bố trí quân theo nhu cầu. Riêng ban chỉ huy đại đội cùng trung đội vũ khí nặng, nằm trên một đồn điền trà có cao độ tốt cho việc phòng thủ và yễm trợ hỏa lực. Phía duới khu đồn điền này là cây cầu Đại Ngà, cây cầu dài nhất vừa bị phá hoại.

Sau khi công binh làm xong mấy cái cầu tạm, lưu thông họat động trở lại. Do ứ động mấy hôm trước, nên ngày đầu tiên có khá nhiều xe đò từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt. Hơn nữa bây giờ đang là mùa hè, người Sài Gòn rủ nhau lên Đà Lạt nghỉ mát. Để bảo đảm an ninh, trước khi xe chạy vào khu quân sự, đều phải dừng lại, tất cả hành khách xuống xe để được kiểm soát giấy tờ. Trạm kiểm soát là một căn nhà bằng ván do công binh vừa mới dựng lên, toán quân báo của đại đội tôi phối hợp cùng với ba nhân viên cảnh sát đảm trách. Mỗi ngày tôi lái xe đi kiểm tra các cây cầu và thường ghé lại ngồi nghỉ trong trạm kiểm soát này.

Buổi chiều, trời vừa tắt nắng, tôi định trở về vị trí đóng quân, thì một đoàn xe đò chạy tới. Có lẽ đây là mấy cái xe cuối cùng từ Sài Gòn lên. Anh cảnh sát bảo với tôi như thế. Trong số những hành khách xuống xe bước qua cái cổng chắn làm bằng kẻm gai dã chiến, tôi để ý tới một cô gái tóc vàng, mặc một cái jupe màu vàng sậm. Khi cô móc ví lấy giấy tờ, ngước mặt lên nhìn anh cảnh sát, tôi thấy thật quen và vội chạy ra. À, cô Sylvie Vartan, cô lên đây làm gì ? Tôi hỏi bất ngờ, rồi quay sang bảo anh cảnh sát ; cô này là người nhà của tôi. Anh cảnh sát trao lại cho tôi tấm thẻ căn cước bằng tiếng Tây mà anh chưa kịp hiểu.

Cô nhìn tôi cười rạng rỡ :

- Anh là anh Ninh, phải không ? Mấy năm rồi tụi mình không gặp. Em lên Đà Lạt đón cô em về Sài Gòn nghỉ hè. Nó học trên Lycée Domaine de Marie.

- Tôi đóng quân trong đồn điền trà nằm trên đồi cao kia. -

Tôi vừa nói vừa chỉ tay về hướng đồn điền -

- Đẹp lắm, và ông chủ hình như cũng là người Pháp. Mời cô ghé lại chổ tôi chơi. Tôi sẽ đón chuyến xe sau gởi cô về Đà Lạt.

Cô ngần ngừ một chút rồi gật đầu. Tôi đưa cô lại xe lấy túi hành lý và nói với anh tài xế:

- Cô này là người nhà của tôi, cô ở lại đây chơi với tôi rồi lên Đà Lạt sau.

Anh tài xế trẻ, nhìn tôi nhoẻn miệng cười.

Tối hôm ấy nàng ở lại với tôi. Có lẽ nàng cũng biết là chuyến xe của nàng là chuyến cuối cùng. Chẳng còn có chuyến sau nào để tôi gởi nàng lên Đà Lạt , như lúc tôi hăm hở nói với nàng, mà không biết là mình đang nói dối.

Giữa cảnh núi rừng, nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa. Không biết nàng đã nói gì vơí ông chủ người tây, ông dành riêng cho cô một phòng ngủ và mời chúng tôi dùng bửa cơm chiều với ông. Bửa cơm đầy đủ hương vị tây , mà chai rượu chát ông khoe đã gởi mua từ bên Pháp. Sau bửa cơm, tôi đưa nàng đi dạo trong đồn điền trà.

Bây giờ đang là mùa hè, bầu trời trong vắt, ánh trăng tỏa ánh vàng xuống cả một đồi trà. Đêm cao nguyên trời bắt đầu lành lạnh, thơ mộng như một muà thu. Chúng tôi nắm tay nhau bước tung tăng dưới ánh trăng , nghe từng nhịp đâp của trái tim giữa một vùng đất trời tĩnh mịch. Nàng kể cho tôi nghe về một ước mơ của nàng : muốn có lần trở về quê cha, thăm ngôi mộ của người và bà nội già còn đang sống ở đó với mấy người cô. Quê nội nàng đẹp lắm lại là một đất nước với nhiều thi ca lãng mạn. Chúng tôi đã xuống cuối chân đồi, nghe tiếng nước chảy từ một con suối nhỏ. Nàng bảo tôi dừng lại và dìu tôi đến ngồi xuống một bải cỏ. Bên kia con suối là một cánh đồng cỏ rộng mênh mông

- Anh có thấy gì lạ không ?

Tôi đang ngơ ngác, thì nàng chỉ cho tôi mấy hàng cây bên kia bờ suối

- Bây giờ là mùa hè, mà sao có nhiều lá vàng đang rơi. Anh không thấy sao?

Nàng âu yếm dựa sát vào tôi và hỏi tôi có biết bài thơ Les feuilles mortes của Jacques Prevert không ?

- Lúc học Littérature Francais , anh có học, nhưng lâu quá, anh chỉ còn nhớ một đôi câu. Bài thơ thật hay và cảm động. Tôi đã đổi cách xưng hô tự lúc nào không biết.

Nàng cất tiếng khe khẻ hát bài thơ Les feuilles mortes được phổ nhạc. Hát xong bài hát nàng chậm rãi đọc lại mấy câu:

Et la vie sépare ceux qui s'aimant
Tout doucement, sans faire de bruit
Et "le vent" effface sur la "plaine"
Les pas des amants désunis.


Tôi hỏi sao nàng dám đổi lời một bài thơ hay của tác giả. Nàng không trả lời mà ôm tôi hôn thật lâu. Trong say mê tôi cảm thấy có cái gì lành lạnh trên gò má. Tôi sờ tay lên mân mê: nước mắt.

Nàng ôm tôi ngồi khóc, nàng bảo là nàng có nhiều bạn bè, nhưng nàng có cảm tình thật nhiều với tôi từ khi nhìn tôi mặc áo lính. Nàng thấy ở tôi có cái gì khác lạ so với mọi chàng trai lai Pháp mà nàng quen. Và cũng ở nơi tôi nàng được thấy lại hình ảnh của cha nàng. Cũng làm lính cả một thời trai trẻ, rời quê hương, rồi chết sớm ở xứ người bỏ lại mẹ và hai chị em nàng. Những người con gái mang hai dòng máu. Buồn lắm phải không anh ? mấy lần nàng hỏi tôi như thế.

Đêm hôm ấy nàng không ngủ trong căn phòng sang trọng mà ông chủ đồn điền đã dành sẵn cho nàng. Nàng ra ngồi trong căn lều phủ poncho của tôi cùng uống trà tươi mà tâm sự thâu đêm. Nàng rủ tôi ngày mai cùng nàng lên Đà Lạt vài ngày để nàng làm thủ tục đón cô em gái về và đưa nàng đi thăm các thắng cảnh thơ mộng ở đây.

Sáng hôm sau, tôi lên máy gọi về trung tâm hành quân TK Lâm Đồng xin gặp ông Tiểu Khu Trưởng, xin ông cho ba ngày phép và được xử dụng chiếc xe jeep của TK biệt phái, đón người vợ sắp cưới vừa mới lên Đà Lạt. Tôi tả oán thêm là cả một năm nay, phải tham dự nhiều cuộc hành quân, nên hai đứa chưa được gặp nhau. Ông Tiểu Khu trưởng tốt bụng, vui vẻ chấp thuận, và dặn dò tôi phải bàn giao công việc thật kỹ càng cho anh đại đội phó.

Ba ngày ở Đà Lạt là ba ngày thần tiên nhất trong đời lính của tôi. Sau khi đưa nàng đến trường thăm cô em gái và làm một số thủ tục cần thiết, chúng tôi lấy phòng ở khách sạn La Palace nằm trên một ngọn đồi cao gần hồ Xuân Hương và cách khu phố Hòa Bình không xa lắm. Ban ngày chúng tôi đi tắm ở thác Cam Ly, thăm hồ Than Thở, cỡi ngựa ở sân Cù, bơi thuyền trên hồ Xuân Hương. Buổi tối đi ăn bê thui, uống rượu vang, rồi ra nhà Thủy Tạ ngồi tâm tình đến khuya.

Ngày hôm sau, chúng tôi rời thành phố. Sau khi thưởng thức cà phê Tùng, chúng tôi chạy về hướng thác Prenn. Nàng chỉ đường cho tôi tìm đến một hotel nằm trên núi, ông chủ cũng là một người Tây. Lấy phòng và gởi hành lý xong, chúng tôi đi bộ xuống thác Prenn, nằm không xa phía dưới. Nàng kéo tôi xuống tắm dưới dòng thác. Hai đứa ôm nhau trong cái lạnh của nước từ trên núi cao đổ xuống. Nàng dắt tôi chạy vào khu rừng phía sau để đùa với mấy con khỉ, con gấu và cả một con cọp nữa trong vườn bách thú. Rồi nàng đi trốn, giả vờ làm nàng Jane mắc nạn để bắt tôi làm Tarzan đi cứu. Nàng hò la và ôm tôi cười vang cả một khu rừng.

Trong ba ngày, nàng đã cho tôi tất cả những gì hạnh phúc nhất mà không đòi hỏi ở tôi bất cứ một điều gì. Hôm cuối cùng, tôi đưa nàng trở lại trường Domaine de Marie để gặp lại em nàng. Ngồi trên xe, nàng trầm ngâm không nói một lời. Đến cổng trường, nàng bảo tôi dừng lại. Nàng hôn tôi thật lâu. Tôi nghe tiếng nàng khóc. Tôi định nói một lời gì đó, nhưng nàng lấy một ngón tay để trên miệng tôi, không cho tôi nói, rồi bảo tôi ngồi yên trên xe chờ nàng. Hơn hai mươi phút sau nàng chạy ra, cầm tay tôi và trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, rồi vụt chạy vào phía sau trường. Trên mảnh giấy nàng viết vội vàng bằng tiếng Việt: Xin cám ơn và tạm biệt anh ở đây. Em và đứa em của em sẽ về Sàigòn vào sáng sớm ngày mai. Anh hãy trở lại đơn vị, đừng chờ và cũng đừng tìm em nữa. Hôn anh.

Tôi vội vàng bước xuống xe, chưa biết gọi nàng bằng tên gì, thì nàng đã mất hút phía sau trường. Tôi ngồi trên xe nhìn thẩn thờ vào khu trường. Tất cả đều vắng lặng, chỉ nghe một vài tiếng lá rơi từ những hàng cây đứng chơ vơ im lìm trước cổng.

Tôi trở lại nhà Thủy Tạ, tìm lại bóng dáng và mùi hương của nàng. Buổi trưa, bốn bề yên lặng. Một con chim lạ, có dáng của một con hải âu, đậu xuống con thuyền bơi phía trước, kêu vài tiếng, vụt cánh bay sà xuống mặt hồ, rồi biến mất trong rừng thông. Cả một khung trời Đà Lạt nhạt nhòa trong nước mắt. Tôi không biết mình đã khóc tự bao giờ.

Tôi lái xe trở về đơn vị mang theo một nỗi buồn kỳ lạ, dường như trong lòng chỉ còn là một khoảng trống bao la.

Suốt đêm hôm ấy, tôi lang thang trong đồi trà, ngồi một mình bên bờ con suối nhỏ, nhìn mấy chiếc lá vàng rơi xuống và trôi theo dòng nước, bàng bạc dưới ánh trăng. Nửa đêm tôi trở về căn lều cũ, đun đầy một ấm trà tươi mà không uống.

Tôi ngủ vùi từ lúc nào không biết. Thức giấc, mặt trời đã lên cao. Tôi vội vã xách xe chạy xuống trạm kiểm soát. Ngồi suốt cả ngày hôm ấy, tôi vẫn không tìm thấy bóng dáng của nàng.

Hai ngày sau, khi thay bộ đồ trận ra giặt, thò tay vào túi áo lấy mọi thứ ra, bất ngờ tôi thấy tấm thẻ căn cước của nàng, viết bằng tiếng Pháp do tòa đại sứ cấp. Tôi nhớ anh cảnh sát đã giao tấm thẻ này cho tôi hôm ở trạm kiểm soát và tôi đã quên trả lại cho nàng. Đến bây giờ tôi mới biết được tên thật của nàng: Jacqueline Cuvéro.

May mắn trong tấm căn cước có cả địa chỉ. Tôi gởi trả lại nàng tấm thẻ căn cước, viết kèm theo bốn câu thơ trong bài thơ Les feuilles mortes mà nàng yêu thích.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silensieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie

Tôi phập phồng chờ thư hồi âm, nhưng không thấy. Tôi viết thêm vài cái thư nữa cho nàng nhưng tất cả đều biệt vô âm tín. Ba tháng sau tôi xin bảy ngày phép thường niên về Sàigon. Trước khi tìm đến nhà nàng, tôi trở lại khu đường Lý Thái Tổ thăm gia đình bà cô và rủ người anh họ cùng đi. Anh bảo là nàng cùng cô em gái đã về định cư bên Pháp hơn hai tháng nay. Không biết khi nào mới trở lại Việt Nam.

Tôi lang thang ở Sài Gòn hai ngày thì lấy xe đò về Nha Trang để thăm cha tôi. Nhưng ngày nào tôi cũng đi lang thang trên bờ biển, nhìn sóng đổ vào bờ cuốn theo tất cả mọi dấu chân mình trên cát, và nhớ đến nàng.

Tôi trở lại đơn vị, đúng vào lúc đại đôi tôi nhận lệnh rời khỏi Lâm Đồng để di chuyển về Phan Thiết, tăng phái cho Tiểu khu Bình Thuận, hành quân phối hợp với một đơn vị thiết kỵ của Hoa Kỳ vừa mới đến Việt Nam, giải tỏa mật khu Lê Hồng Phong.

Kể từ ngày ấy, trên bảng tên may trên nắp áo lính, ngay phía dưới tên tôi, có thêu một chữ nhỏ: Jacqueline, màu vàng. Mấy thằng lính bảo sao tôi lại có tên con gái. Tôi giã vờ: tại vì tao ái mộ bà vợ của Tổng Thống Kennedy.


Sáng ngày mai gia đình chúng tôi phải rời nông trại GAULTIER thơ mộng này để trở về Nauy. Vợ chồng anh chủ nhà cùng mấy cô con gái của tôi đang rượt bắt mấy con gà Tây. Anh muốn đãi chúng tôi một bũa ăn Tây truyền thống. Tôi đi lang thang khắp nơi trong khu nông trại, như để cố tìm ra những dấu tích của nàng.

Buổi chiều, khi bà xã và mấy đứa con đang ngồi ở phòng khách, say mê theo dõi một cuốn phim trên truyền hình, tôi một mình lặng lẽ ra vườn cam, rồi vào khu nghĩa địa.

Tôi ngồi trước mộ nàng rất lâu, hình dung lại hình ảnh của nàng trong những ngày cùng tôi trên đồn điền trà ở bên cây cầu Đại Ngà và tung tăng khắp nơi ở bờ hồ, thác Prenn và trong rừng thông Đà Lạt.

Một cơn gió xào xạc, mấy chiếc lá vàng trên tàng cây chầm chậm rơi xuống mộ nàng.

Tôi đưa tay sờ tấm ảnh nàng trên mộ bia, nói thì thầm trong gió :

Et la chanson que tu me chantais
Toujours, toujours je l'entendrai. !

(Và bài hát mà em đã hát cho anh nghe
Mãi mãi, mãi mãi, anh vẫn còn đang nghe đây)

Vương Quốc Nauy, mùa hè 2004
Phạm Tín An Ninh
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời, hưởng thọ 81 tuổi

Image
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu. (Hình: RFA)

SÀI GÒN (NV) – Nhà văn Dương Nghiễm Mậu, một trong các tác giả nổi tiếng nhất miền Nam Việt Nam, vừa qua đời lúc 8 giờ 35 phút tối Thứ Ba, 2 Tháng Tám, tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi, nhà báo Phí Ích Bành, em ruột của nhà văn xác nhận với nhật báo Người Việt.

Theo Wikipedia, nhà văn Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 Tháng Mười Một, 1936 tại làng Mậu Hòa, huyện Ðan Phượng, phủ Hoài Ðức, tỉnh Hà Ðông (nay thuộc Hà Nội).

Ngoài tên Dương Nghiễm Mậu, ông còn một bút hiệu khác là Hương Việt Hương.

Năm 12 tuổi, ông ra sống và học ở Hà Nội đến bậc trung học. Sau đó, ông bắt đầu viết đoản văn, tùy bút cho phụ trương văn nghệ học sinh của các báo chuyên nghiệp.

Năm 1954, ông di cư vào Nam.

Từ năm 1957, ông bắt đầu viết nhiều đoản văn, truyện ngắn, truyện dài.

Năm 1962, ông chủ trương tạp chí Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, đồng thời viết cho các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ, Tia Sáng, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao Ðiểm, Chính Văn, Sóng Thần, Giữ Thơm Quê Mẹ… Ngoài ra, ông còn chủ trương nhà xuất bản Văn Xã.

Năm 1966, ông nhập ngũ, một năm sau, ông làm phóng viên quân đội Việt Nam Cộng Hòa đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, thì bị đi tù cải tạo.

Từ năm 1977, ông chuyển sang vẽ tranh sơn mài.

Theo thống kê chưa đầy đủ, tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu có một số truyện ngắn như Cũng Ðành (tác phẩm đầu tay, năm 1963), Ðêm, Ðôi Mắt Trên Trời, Sợi Tóc Tìm Thấy, Nhan Sắc, Kinh Cầu Nguyện, Ðịa Ngục Có Thật, Ngã Ðạn, Quê Người, Trong Hoang Vu, Tên Bất Lực… và các truyện dài như Gia Tài Người Mẹ, Ðêm Tóc Rối, Tuổi Nước Ðộc, Phấn Ðấu, Gào Thét, Ngày Lạ Mặt, Con Sâu, Sống Ðã Chết… (Ð.D.)
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Mối Tình Già
Cứ chiều ngày chủ nhật nào cũng vậy, khi mặt trời ngả về phương Tây, người ta thấy một ông già mái tóc bạc phơ phủ dài dưới gáy và chòm râu trắng như cước chẩy xuống tận ngực. Ông chậm rãi cất bước trên con đường đất nhỏ quanh khuôn viên ngôi chùa, hai bên lề có những khóm hoa đủ mầu sắc. Ông lơ đãng đưa mắt hết nhìn xung quanh, nhìn gần nhìn xa, rồi lại ngước mặt nhìn nền trời cao với những tảng mây trắng hơi ửng vàng bàng bạc xây thành chất lũy, từng khối, từng khối đầy đủ hình thù cảnh vật núi non, người, vật đủ loại, chập chùng mờ ảo quái dị như một thế giới nào đó khác với thế giới hiện tại. Ông lẩm bẩm: "Có thật có một thế giới nào khác ngoài thế giới này không bà nhỉ? Chẳng lẽ chết là hết? Cả ngàn năm nay người ta đã nói nhiều về cõi niết bàn, về chốn thiên đường. Bây giờ bà đang ở đâu, niết bàn, thiên đường hay chỉ là cõi hư vô? Rõ ràng mới đấy mà đã trở thành không rồi!". Thoạt đầu người ta tưởng ông già nói chuyện với một người nào đó. Thực ra ông nói một mình hay chính xác hơn, ông nói chuyện với một cái bóng vô hình.

Ngôi chùa nhỏ lại tọa lạc tại một vùng ngoài xa thành phố nên rất êm ả yên vắng, vì khách thập phương ít lui tới. Chùa có một sư bà tuổi đời trên dưới 80. Bà thứ hai vào khoảng 70 tuổi nhưng chỉ là tín nữ, vì bà chưa xuống tóc, đến chùa ở mới mấy năm nay. Cả hai đều mình hạc xương mai. Sư bà ít khi ra khỏi chùa, bà trụ tại đây đã trên 30 năm, suốt ngày đêm chỉ ngồi gõ mõ tụng kinh niệm Phật, khi rỗi rãi thì đọc sách hoặc ra sau vườn trồng hoa, trồng rau với bà tín nữ. Ngoài hai người trên, chùa còn một sư cô tuổi 17, 18. Bà tín nữ tuy khoác trên người bộ đồ mầu xám nhạt nhưng trông dáng điệu vẫn còn vẻ sang cả. Bà để mớ tóc bạc trắng quấn tròn lại phía sau đầu và trùm tấm khăn mầu xám nhạt nên trông chẳng khác gì một sư nữ. Bà chỉ mới quy y chứ chưa xuống tóc, vì lòng bà (theo lời bà sám hối với sư bà trụ trì) còn vướng chút bụi trần. Từ ngày chồng mất, mãn tang, giã từ con cháu bà lên chùa này nương tựa cửa Phật cho tới nay cũng đã mấy năm. Sau những giờ tụng niệm đọc kinh, mỗi buổi chiều bà thường thiền hành quanh khuôn viên chùa dăm chục phút. Cả ba người tuy sống trong cùng ngôi chùa nhưng ít khi họ chuyện trò tâm sự, nhất là chuyện riêng tư quá khứ. Sư cô người trắng trẻo hồng hào, phải nói là khá xinh đẹp, đang sắp thi vào đại học, theo cha mẹ lên chùa ngày Phật đản, không hiểu sao cô bất thần xin phép cha mẹ, xin phép sư bà ở lại tu luôn, mặc cho sự ngăn cản của cha mẹ. Còn sư bà và bà tín nữ là cả một sự bí ẩn. Không ai biết gốc tích dĩ vãng của họ. Hơn nữa, từ khi di tản sang đây, người ta mải lo làm giầu nhiều hơn là quan tâm tới những chuyện khác, nhất là chuyện tu hành của mấy người đàn bà không tên tuổi, ít được người đời biết tới. Ngoài ra, vì ngôi chùa này nhỏ lại tọa lạc nơi vắng vẻ chốn rừng sâu nên các Phật tử ít lai vãng chiêm bái. Thời buổi này, nhất là sống ở xứ sở có nhiều cơ hội làm giầu, người ta tới lễ Phật thì ít mà muốn khoe của, khoe sự giầu sang phú quý thì nhiều nên những ngày lễ Phật, những ngôi chùa lớn danh tiếng, Phật tử đến đông như hội chợ...

Người con trai sau khi ngừng xe lại trước con đường nhỏ dẫn vào chùa, bước ra khỏi xe, mở cửa xe cho ông già bước ra, lễ phép nói: "Thưa ba, chiều nay con vẫn tới đón như giờ giấc mọi lần?". Ông già cười nhẹ, đáp: "Vẫn vậy thôi". Ông già nhìn theo anh con trai phóng xe đi khuất mới thong thả cất bước về phía chùa. Cũng một buổi chiều như chiều nay nhưng cách đây đã bốn năm, ông được người bạn rủ tới chùa này ngoạn cảnh. Theo sự mô tả của ông bạn, cảnh giới ngôi chùa chẳng khác gì cảnh giới những ngôi chùa trong nước của những nhà tu hành chân chính thủa xa xưa trong rừng thẳm núi cao. Chùa u nhã tĩnh mịch, tuy nhỏ nhưng nằm trên khu đất khá rộng, vây quanh là những hàng cây cổ thụ cành lá xum xuê có từ trăm năm, tạo cho người ta cảm giác khác hẳn với thế giới bên ngoài, tâm thần lâng lâng như lạc vào nơi miền cực lạc cõi trần gian. Con người như bay bổng lên tầng cao tinh khiết siêu thoát, không vướng chút bụi đời. Nghe bùi tai hấp dẫn, thế là hai ông bạn già - năm đó cũng đều trên dưới bẩy chục tuổi nhưng còn tương đối khỏe mạnh - cùng nhau lái xe tới vãn cảnh chùa. Quả đúng như lời ông bạn nói - ông Thụy - tên ông già, cảnh vật cũng như đa số những ngôi chùa khác nhưng vô cùng u nhã thanh tịnh. Không gian thoang thoảng hương thiền. Ông Thụy thấy tâm hồn mình nhẹ lâng lâng sau những ngày tháng ưu tư buồn phiền mệt mỏi sống nơi đất nước người. Ông thực tâm chẳng muốn rời xa quê hương đất nước chút nào nhưng thời thế bắt buộc, nhất là các con ông, sau những năm tù đầy về, bọn nó nhất định rời bỏ quê hương sang đây sống một cuộc đời mới.

Ông Thụy già rồi chẳng còn tham vọng gì nên lúc nào cũng có cảm tưởng mình sống thừa với những ngày tháng vô vị. Con cháu ông, chúng có đời sống của chúng. Và chúng còn mải mê học hành, mải mê theo đuổi công danh sự nghiệp hoặc mải mê vui chơi. Ông chỉ còn nguồn yêu thương an ủi duy nhất là bà vợ. Nhưng ít lâu nay bà bỗng thay tính đổi nết, trở nên con người khác. Từ lúc trở thành vợ ông, bà đã phong thanh biết chuyện ông có một mối tình đầu sâu đậm khó quên, dù năm tháng trôi qua. Bà biết ông không yêu bà. Ông lấy bà vì bổn phận - cũng như bà - vì gia đình ép buộc, nên khi về già tình vợ chồng cũng trở nên nhạt nhẽo. Tuy nhiên lúc nào bà cũng vẫn đóng trọn vẹn vai trò làm vợ, làm mẹ và làm bà. Và đối xử với ông vẫn nói năng nhẹ nhàng, lễ độ trong khuôn phép con nhà gia giáo. Nhưng lẽ sống của bà bây giờ chính là nhà thờ. Sáng đi lễ. Chiều đi lễ. Buổi tối ngồi trong phòng tụng kinh trước ảnh Chúa. Vì vậy ông càng thấy mình bơ vơ lạc lõng và rất cô đơn trong cái tuổi già nơi xứ người nên ông luôn nghĩ tới người yêu thuở đầu đời, không biết giờ này trôi dạt nơi đâu, có còn trên cõi thế? Tuy hơn nửa thế kỷ trôi qua ông vẫn không thể nào quên "nàng" được. Ông tìm đến bạn bè kiếm nguồn an ủi nhưng họ cũng có cuộc sống riêng tư của họ. Chỉ khi nào rảnh rỗi như hôm nay họ mới lái xe cho ông "đi chơi xa".

Trong khi ông bạn đang chiêm ngưỡng pho tượng Phật bà Quan Âm trước sân chùa, ông Thụy thơ thẩn dạo bước trên con đường đất nhỏ giữa những khóm hoa nhỏ thì thấy một người nhẹ nhàng đi tới. Ông đứng nép vào bên đường nhường bước. Đó là một sư bà. Bỗng ông giật thót mình, lấy tay chùi kính mắt một lần rồi lần nữa, vì mắt ông bỗng hoa lên, mờ đi. Chẳng lẽ thị giác về già đánh lừa ông. Dù mấy chục năm trôi qua không gặp lại, ông vẫn quên làm sao được khuôn mặt, dáng dấp "người ấy", cho dù thời gian đã làm thay đổi nhiều. Nhưng trực giác của ông…Không kìm lòng được nữa, ông thảng thốt kêu lên: "Ô, Liên!". Bà nghe tiếng kêu cũng giật thót mình ngừng bước, mở lớn đôi mắt nhìn. Từ lâu lắm rồi, nhất là ở nơi chùa chiền hoang vắng này có ai biết tên bà và gọi đúng tên bà thời con gái? Nhưng chỉ mấy phút sau, khi nhận ra tiếng nói (đã ngấm sâu trong tiềm thức bà) và khuôn mặt con người vừa thốt tiếng kêu, bà cũng thảng thốt không kém, với giọng xúc động, hơi run run, tay trái đặt lên ngực: "Mô Phật! Thì ra là... ông!" Dứt lời bà quay mặt sang phía khác, có lẽ để tránh cái nhìn của ông. Ông Thụy nói nhanh như sợ người đối diện bỏ đi:"Vâng, tôi đây, Thụy đây. Anh đây. Em, em... bà..." "Mô Phật, xin ông đừng gọi tôi tiếng em nữa". "Vâng vâng, bà, bà...". Ông Thụy ấp úng nghẹn lời không nói thêm được. Ông muốn ôm chầm lấy bà siết chặt trong vòng tay. Mấy chục năm trời nay, ai ngờ Chúa Phật run rủi, ông gặp lại bà mà lại gặp trong cảnh ngộ éo le như thế này. Mắt ông như mờ đi và hình như ông thấy bà cũng cố che dấu hai giọt nước mắt sắp lăn xuống má. Ông biết mấy chục năm qua ông chưa quên được bà và bà cũng vậy. Nhưng sao giờ này sống trên đất Mỹ bà lại đổi đời đi tu. Ông thắc mắc. Nhất định phải có nguyên do. Hai người cứ lúng túng và đứng trơ ra. May có người đi tới. Đó là ông bạn đồng hành lái xe. Ông Thụy vội nói, nhỏ nhưng cũng đủ để bà nghe kịp:"Tuần tới tôi sẽ lên". Ông Thụy không thấy bà gật hay lắc đầu. Ngồi trên xe và xe phóng đi lâu rồi, mặt ông Thụy vẫn thừ ra đờ đẫn buồn hiu. "Ông tương tư sư bà đấy à?". Ông bạn lái xe nói đùa. Ông Thụy lắc đầu: "Không phải tương tư mà là gặp lại người xưa và dĩ vãng đang bừng sống lại trong tôi. Tôi bị "sốc", "sốc" nặng! "Thế đúng là Lan và Điệp thời nay rồi. Liệu sư bà có cắt đứt giây chuông?". Ông Thụy nói như than:"Chưa biết được ông ơi, nhưng nhất định đêm nay tôi mất ngủ". "Coi chừng cơn tam bành của Hoạn thư ở nhà đấy, ông bạn già!". "Bà ấy già rồi còn ghen tuông gì nữa, hơn nữa lại là chuyện ngày xưa". Người bạn lái xe cười cười nói:"Ông lầm rồi. Mấy mụ ấy chỉ khi nào hết thở thì may ra mới hết máu ghen". Dứt lời ông đưa tay nhấn nút CD. Một bài hát vang lên. Éo le làm sao trong bài hát lại có câu, cô ca sĩ hát như rên rỉ: "tình ngỡ đã quên đi... nhưng tình bỗng lại về...".

Chiều chủ nhật tuần sau, ông Thụy bắt người con trai lớn lái xe đưa lên chủa. Trong lúc đi đường ông kể hết chuyện tình của mình với bà sư thuở thiếu thời. Người con trai đã ngoài 50 tuổi, có học, trước là sĩ quan cấp tá và là người hiểu biết việc đời và rất cảm thông trường hợp của ông bố. Khi xe ngừng ở lối vào chùa, ông Thụy thoáng nhìn thấy bà đứng bên vệ đường sau hàng cây nhìn về phía ông như có ý trông chờ. Ông quay lại dặn con giờ giấc tới đón. Khi quay lại không thấy bóng bà đâu nữa. Ông bước vào chùa. Sư bà trụ trì trên điện Phật bước ra niềm nở chào đón khách. Ông Thụy còn lòng dạ nào chuyện trò xã giao. Ông đi thẳng ngay vào "vấn đề": "Thưa, xin lỗi sư bà, tôi muốn gặp bà Liên". Vì ông không biết pháp danh của bà nên cứ gọi theo tên ngoài đời. Sư bà không hề hỏi lý do, gọi ngay sư cô đi tìm "bà Liên". Ông Thụy được dẫn vào phòng khách gặp bà. Bà cúi đầu không nhìn ông khi ông bước vào. Hai người ngập ngừng đến mấy phút, ông Thụy mới lên tiếng: "Bà vẫn khỏe? Tôi thật không hiểu...". Câu nói ngừng lại ở đây. Bà nói, dọng nhẹ nhàng:"Tôi ở chùa này đã bốn năm rồi nhưng chỉ mới quy y chứ chưa xuống tóc". "À ra vậy! Thế có nghĩa là… bà vẫn chưa muốn dứt nợ trần?". Ông Thụy hấp tấp hỏi. Bà thở dài: "Cũng vì chút lòng trần chưa dứt nên chưa thể xuống tóc". "Có phải tại...". Ông Thụy muốn nói có phải tại chồng con. Nhưng ông kịp thời ngưng. Bà nói liền một hơi, dọng nghe có vẻ trách móc: "Tại ông... ông hiểu không? Tôi chưa xuống tóc là muốn gặp lại ông một lần chót trong đời. Mấy chục năm rồi tin ông biền biệt. Nhưng tôi vẫn tin là sẽ có ngày gặp lại ông trước khi về cõi khác. Tôi đã nguyện trước đức Phật, nếu trong 5 năm không gặp lại ông tôi sẽ xuống tóc. Xuống tóc đúng vào cái ngày ông… hôn tôi lần đầu. Hơn 4 năm đã trôi qua nhưng linh tính báo cho biết tôi sẽ gặp lại ông. Tạ ơn đức Phật từ bi run rủi, hôm nay...". Ông Thụy muốn chồm lên ôm bà vào lòng nói lời an ủi cũng như âu yếm. Nhưng nhìn nét mặt bà với chiếc khăn mầu xám nhạt chùm trên đầu, ông bỗng khựng lại. Có một cái gì vô hình đã ngăn cản ý định của ông. Ông thở dài đăm đăm nhìn hai bàn tay mình xoa xoa trên mặt bàn gỗ mầu nâu đen. Bà biết ý định của ông nhưng vờ như không biết. Bà nói, dọng vẫn nhỏ nhẹ trong trẻo ngọt ngào ấm áp - khi xưa ông mê mẩn vì dọng nói này:"Ông nên nhớ đây là chốn thiền môn và tôi là con cái của Phật. Ông là người ngoài đạo nên tôi tin đức Phật tha thứ cho ông". Có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng. Người con trai ông Thụy bước vào cúi đàu chào bà rồi nói với bố:"Thưa ba, trời sắp tối và sương mù đang buông xuống". Ông Thụy đứng lên định cầm tay bà nhưng lại ngưng. Sau một tiếng thở dài, ông nói khẽ: "Thôi tôi về Liên nhé, hẹn gặp". Bà không nói gì lặng lẽ tiễn ông ra ngoài đường, chỗ xe hơi đậu. Thế là từ đó chiều chủ nhật nào ông Thụy cũng bắt người con trai trưởng đưa ông lên chùa. Ông không muốn nhờ người khác vì e ngại chuyện lộ ra ngoài. Ông nói với bà vợ là tới nhà người bạn xoa mà chược. Bà yên tâm vì có người con trai lớn đi kèm.

Chiều chủ nhật nào cũng vậy, cứ tới khoảng 4, 5 giờ chiều là bà lắng tai nghe ngóng tiếng động cơ xe hơi vọng tới. Rồi hai ông bà già sóng bước bên nhau đi trên con đuờng đất nhỏ quanh khuôn viên chùa. Họ chuyện trò. Họ tâm sự chuyện ngày xưa và chuyện ngày nay. Ông kể cho bà nghe gia cảnh của mình. Bà cũng vậy. Họ mải mê nói quên cả thời gian trôi và đã cuốc bộ biết bao cây số không thấy mệt mỏi, nhất là với đôi chân già yếu. Ông cho biết sau khi lập gia đình có bốn người con: hai trai hai gái. Hai trai sống với vợ con trên đất Mỹ. Còn hai gái sống tại Saigon. Ông có đến 7, 8 đứa cháu nội ngoại. Vợ chồng ông hiện sống trong nhà người con trai lớn. Còn bà thì kể sau hơn hai mươi năm lập gia đình chỉ có hai người con: một trai một gái đều sống trên đất Mỹ với bầy con. Chồng bà mất trước năm 1975 trong trận đánh Hạ Lào. Sang Mỹ sống vài năm, bà quyết định đi tu, mặc cho con cái ngăn cản. Bà chưa chịu "xuống tóc" ngay vì còn "một chút vướng víu". Chút "vướng víu" đó là ông. Ông nghe bà nói thế, nhìn quanh thấy vắng bóng người, ông cầm tay bà siết chặt đến nỗi bà phải kêu lên. Câu chuyện riêng tư của đôi bạn già không thoát khỏi cặp mắt của sư bà. Mỗi lần sư bà thấy hai người đi bên nhau mải mê chuyện trò lại lẩm bẩm: "Thiện tai! Thiện tai!".

Bây giờ đúng là họ quên tuổi già để sống lại tuổi đôi mươi. Bao nhiêu kỷ niệm xưa cũ thời trai trẻ lãng mạn, họ nói ra cho nhau nghe hết. Dù là những kỷ niệm nhỏ nhặt trong đời sống học trò.
Vào khoảng năm 1919, 1920 của thế kỷ trước, hai gia đình ở cùng một khu phố giữa thủ đô Hà nội. Nhà ông đầu phố, nhà bà cuối phố. Phố Hà Nội thường nhỏ, ngắn. Lúc ấy họ chẳng thèm để ý gì đến nhau vì họ còn quá nhỏ. Nhà bà theo đạo Phật, làm nghề buôn bán, nổi tiếng giầu có. Nhà ông, theo đạo Công giáo, bố ông làm công chức cao cấp, gia đình có một đời sống khá giả. Khi ông lên trung học mới để ý tới "con bé cuối phố" xinh đẹp ngoan ngoãn. Họ yêu nhau tha thiết lúc nào không biết. Khi ông lấy xong bằng Thành Chung, bà mẹ ông ngỏ ý muốn ông lấy vợ "để sớm có cháu nội nối dõi tông đường". Thế là ông đưa "thỉnh nguyện" ngay, đó là cô gái cuối phố. Ông không ngờ gặp phản ứng liền của cả cha lẫn mẹ. Họ bác bỏ một cách thẳng thừng và hơi tàn nhẫn: "Ồ, không được. Gia đình nó ngoại đạo!". Nhất định là không được, mặc cho ông hết lời năn nỉ và ca ngợi những đức tính quý báu của cô nàng. Bà mẹ ông có vẻ thông cảm với cậu con trai nên ra điều kiện: "Nếu nó chịu rửa tội theo đạo thì mẹ bằng lòng". Đêm đó ông chưa bao giờ tỏ ra bất lực, chán đời, chán cả sự học hành và đau khổ tận cùng. Còn về phía bà. Khi hay tin con gái có "bạn trai" là ông, bà mẹ gọi cô con gái vào phòng riêng và nghiêm mặt nói: "Từ nay tôi cấm cô không được giao thiệp thân mật với "thằng ấy". Bà cãi: "Anh ấy đàng hoàng đứng đắn, con nhà tử tế". Bà mẹ dằn dọng: "Tôi đã bảo cấm là cấm, cô hiểu chưa? Bố cô mà biết chuyện này cứ gọi là cô nhừ đòn". Bà vẫn không chịu thua: "Nhưng anh ấy có làm gì nên tội đâu mà bố mẹ ghét thế?". Bà mẹ nói như rít: "Tội gì à? Nhà nó theo đạo Công giáo, còn nhà mình theo đạo Phật. Nếu nó bằng lòng bỏ đạo nó theo đạo mình thì tôi cho cô cậu lấy nhau". Bà cũng thức trắng đêm đó như ông và khóc hết nước mắt. Bà đau khổ đến muốn tự tử.

Hai, ba năm sau bà lấy chồng, ông lấy vợ theo sự lựa chọn, quyết định của cha mẹ. Họ xa nhau từ đấy mặc dù trong lòng tình yêu, nhất là tình yêu thuở ban đầu vẫn nở rộ, vẫn tha thiết. Một khi tình yêu càng bị ngăn cản, càng bị cấm triệt thì càng âm ỉ phát triển mạnh. Nhưng vào thời đó, vì lễ giáo, vì gia phong, vì giòng họ, vì xã hội, vì dư luận đôi bạn trẻ đành bất lực, chấp nhận hy sinh chia tay bởi sự kỳ thị vô lý!

Mỗi lần ông đi thăm bà về, bà đều gói một bọc lớn đủ thứ trái cây để ông đem về cho "chị nhà" và các cháu. Bà bảo: "Đây là lộc Phật". Ông đem về nhà nói dối vợ là vợ bạn cho "cây nhà lá vườn". Nhưng sau đó bà vợ cũng biết và ra lệnh cấm con cháu không được ăn. Ông không biết giải quyết sao đành nhờ người con trai "cố vấn". Và cả hai đồng ý đem những trái cây này đến cho đám con của người con trai thứ hai "hưởng lộc" dùm. Còn ông, mỗi lần lên thăm bà, ông bắt con trai lái xe tới tiệm bán hoa mua tặng bà một chậu lan. Từ trẻ bà vốn thích loại hoa trưởng giả quý phái này. Thời gian cứ lặng lẽ trôi, hết mùa đông lại tới mùa xuân, không chủ nhật nào ông không đi thăm bà và hai người tiếp tục sóng đôi cất bước chuyện trò tâm sự tới khi măt trời khuất sau rặng núi. Bà vợ ông, sau những tháng ngày ngấm ngầm chịu đựng hết nổi, bà làm dữ. Bà cấm người con trưởng chở ông già đi thăm "con mụ dở hơi".

Thế là ông phải nhờ cậy vào người con trai thứ nhưng là "đánh du kích", chứ không đều đặn đúng hạn kỳ như trước nữa. Có khi cả tháng ông mới đi thăm bà được một lần. Ông không nói nhưng bà hiểu. Bà thông cảm hoàn cảnh ông. Nhưng bà cũng không muốn "cắt đứt giây chuông". Thế rồi ông bị đưa vào bệnh viện ghép động mạch vành tim bị tắc nghẽn, vì tuổi già sức yếu nên mất cả mấy tháng trời mới lại sức. Khỏe một chút, ông kiếm cách đi thăm bà ngay. Nhưng lần này... Người đón ông không phải là bà mà là sư cô. Sư cô nét mặt hơi buồn báo ông biết: bà nhập bệnh viện cả tháng rồi vì chứng sưng màng não và phổi có nước. Ông nghe choáng váng sây sẩm mặt mày muốn ngã qụy. Còn sư cô quầy quả bước vào trong Chùa và miệng luôn lẩm bẩm: "Thiện tai! Thiện tai!" Khi ông tới bệnh viện thì bà đã trong tình trạng hôn mê. Cạnh bà có vợ chồng người con trai của bà. Hình như trong khi nằm bệnh, lúc tỉnh táo, bà đã nói cho con bà biết chuyện của hai người và bà ước muốn được nhìn thấy ông trong giây phút chót, vì vậy khi thấy ông đến, họ nhìn ông với cái nhìn trìu mến đầy thông cảm. Có một lúc bà tỉnh lại mở mắt nhìn. Thấy ông mắt bà như sáng hẳn lên. Ông đua tay tìm tay bà. Bà đưa tay tìm tay ông và nắm chặt bàn tay ông như không muốn rời. Rồi miệng bà mấp máy. Ông ghé sát tai nghe. Bà chỉ thều thào được tiếng "anh" rồi bàn tay bà từ từ buông bàn tay ông ra. Bà đã nhẹ nhàng về bên kia thế giới, mà ông nghĩ có lẽ là cõi niết bàn.

Sau khi bà mất, ông vẫn tiếp tục lên chủa. Mỗi lần lên ông mang theo một chậu lan nhỏ. Lâu dần nhiều hoa quá, sư bà bảo sư cô làm một dàn gỗ để treo những chậu lan trước phòng của bà tín nữ Diệu Liên (pháp danh của bà). Ông cứ việc móc chậu lan lên dàn, có đến mấy chục chậu. Khi lên tới chùa, việc trước tiên ông làm là đến trước cửa phòng (cũ) của bà lầm bầm như nói điều gì với bà, xong, ông mới làm công việc tưới những chậu lan. Rồi sau đó, ông (rủ bà) đi dạo con đường đất quanh khuôn viên chùa và chuyện trò với nhau y như khi bà còn sống. Duy có điều bây giờ chỉ có mình ông nói. Cũng từ ngày bà mất, ông không cạo râu cắt tóc nữa, lâu ngày tóc phủ xuống cả cổ và râu dài tới ngực. Tất cả đều bạc phơ.

"Ồ, tôi nghĩ bà cũng như tôi thôi, làm sao quên cái ngày ấy được. Lúc tôi đón bà ở cổng trường ấy mà, đưa bà về gần tới nhà, tôi đã thu hết can đảm cầm lấy bàn tay phải bà.Tôi còn nhớ rõ là bàn tay phải bà, đúng không? Mất bao ngày đêm đắn đo suy nghĩ mãi tôi mới dám liều đấy. Tôi nhớ ngón tay trỏ của bà còn dính chút mực tím. Tôi thấy bàn tay bà run rẩy rút vội ra và nhìn trước sau sợ có người trông thấy. Rồi bà bước mau như muốn chạy trốn. Tôi cứ đứng ngây người nhìn theo bà và sợ bà giận. Đêm đó tôi thao thức mãi, vừa lo âu vừa sung sướng. Bàn tay bà mềm mại thơm tho quá. Hôm sau tôi đến cổng trường bà sớm hơn mọi ngày và hồi hộp chờ đợi. Sao mà lúc đó thời giờ trôi chậm thế. Khi bà cắp cặp đi ra. Nhìn thấy tôi bà làm bộ như không thấy. Tôi tưởng bà giận thật, lẽo đẽo theo sau năn nỉ và cả xin lỗi nữa. Bà nói khẽ, mắt vẫn nhìn thẳng: "Cấm không được làm như hôm qua nữa đấy! Coi chừng bọn bạn. Hình như chúng nó đã sinh nghi, theo dõi". Thì ra bà không giận tôi, vì tôi ngu đần nên tưởng thế. Sau này bà mới thổ lộ là cũng rất hồi hộp xúc động khi bàn tay tôi nắm bàn tay bà. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời cầm tay người con gái, tâm hồn tôi bay bổng trên trời xanh, cảm tưởng mình là kẻ sung sướng nhất trần gian. Chắc bà khi đó cũng có cùng ý nghĩ như tôi, có phải vậy không? Tôi đoán đúng mà. Hà hà… À, mà sau đó, hình như đến mấy tháng thì phải, không chịu nổi nữa tôi đánh bài liều. Đi đến nơi góc phố, nhìn quanh không thấy bóng người, tôi ôm vội lấy bà và hôn nhẹ lên má bà một cái. Trời ơi, thiên đường niết bàn là đây chứ còn phải tìm ở đâu nữa! Tôi không hiểu sao lúc đó bà lại đứng im cho tôi làm cái việc đó. Kìa, bà nói đi. Cái má bà trắng hồng và… thơm thơm quá chừng! Sao, khi đó bà ngượng cứng người à?". Ông Thụy nói một hồi dài có vẻ mệt và mắt vẫn nhìn sang bên, hệt như ngày bà còn sống đang cất bước bên ông. Rồi ông ngồi bệt xuống bên vệ đường và... thở. Lát sau, chừng như đỡ mệt ông đứng lên nói: "Ta đi tiếp chứ, bà. Mặt trời còn cao mà!". Và ông lại tiếp tục nói tới những kỷ niệm xa xưa. Thỉnh thoảng ông quay sang trái hay sang phải, có khi ngừng bước như chờ bà, hỏi: "Có phải thế không bà? Bây giờ tôi vẫn nhớ như in, như mới xẩy ra ngày hôm qua...". Ngưng chút ông nói tiếp: "Thế rồi bà biết không? Hôm người ta tới nhà bà rước dâu ấy mà, tôi đứng mãi tận đằng xa nhìn. Bà mặc cái áo gấm dài mầu đỏ, khăn đỏ đội trên đầu… Tim tôi muốn vỡ ra từng mảnh. Sau này nghe người ta kể lại khi bước lên xe hoa bà đã khóc. Tôi không hiểu ý nghĩa những giọt nước mắt này, vì các cụ ta thường nói "khốc như thiếu nữ vu quy". Vậy đó là những giọt nước mắt sung sướng hay đau khổ?". Ông lại ngừng nói và vô tình ngước nhìn lên bầu trời mùa đông về chiều và như trực nhớ ra không có bà ở bên liền kêu lên thảng thốt: "Ô, bây giờ bà đang ở đâu? Có phải bà đang ngự trên chín tầng thức mây thăm thẳm kia và ngó xuống nhìn tôi tủm tỉm cười? Bà dứt hết nợ trần thật rồi sao? Bà để lại tôi một mình cất bước trên con đường này sao? Bà Liên! Bà Liên!". Ông nói to như hét. Con trai ông hoảng hốt chạy tới dìu ông ra xe.

Thanh Thương Hoàng
trinhham
Posts: 133
Joined: Mon Dec 10, 2012 2:07 am
Contact:

Post by trinhham »

Chị Bẹo
Hoàng Ngọc Châu
Buổi trưa trời nắng chang chang, với cái bụng đói xẹp lép vì đã một ngày đói cơm, tôi đang lang thang chưa biết phải đến một nhà quen nào để kiếm một bữa ăn thì bỗng nghe có tiếng gọi:

– Cậu Châu! Cậu Châu!
Bạn chị Bẹo, Nguồn: amateurphotographer.co.uk

Bạn chị Bẹo, Nguồn: amateurphotographer.co.uk

Tôi đứng lại nhìn quanh quẩn, thấy chẳng có ai quen cả nên bỏ đi. Nhưng vừa đi được năm ba bước thì tiếng kêu lại gần như sau lưng:

– Cậu Châu! Cậu Châu!

Tôi nhìn lui, thấy một người con gái ăn bận không mấy đứng đắn, đang hăm hở đi tới nhìn tôi cười ra chiều thân thiết và thích thú lắm. Đợi cô gái đến gần, tôi hỏi:

– Chắc cô lầm ai với tôi rồi?

– Lầm răng được mà lầm! Cậu không nhìn ra tui răng cậu Châu?

Không biết tôi đã gặp giai nhân này ở đâu? Một xó xỉnh nào đó của tình yêu? Tôi cố đem hết trí sáng suốt của mình ra để họa may ra nhớ nổi. Nhưng chịu. Tôi không tài nào nhớ được. Tôi nhìn chăm chăm vào mặt cô gái để thấy có một chút quen thân nào không – nhưng cái mặt trát đầy phấn son làm dáng vụng về chỉ cho tôi thêm nổi bực mình. Bạc phước lúc này mà Thủy tình cờ đi ngang nhìn thấy tôi đứng nói chuyện với một cô gái mà vào bất cứ ngõ hẻm nào cũng nhan nhản thì tôi biết nói sao với nàng đây! Chắc chắn thế nào tôi cũng lảnh đủ những cái giận hờn, sai hẹn mà chưa chắc tôi ra công cả tuần đã năn nỉ được. Nghĩ đến lỡ bị Thủy tình cờ bắt gặp, tôi sượng trân mặt ra.

– Xin lỗi! Cô là ai mà tôi không nhớ?

Cô gái ngập ngừng như để nhớ ra một điều gì.

– Tui… là… là… Bẹo đây!
– Trời ơi! Chị Bẹo. Răng hồi ni chị khác quắc khác quơ dữ rứa?
– Khác chi mà khác. Có cậu mới khác kề. Cậu hồi ni vừa ốm lại vừa đen trông xấu xí ra răng.

Ðang buồn xo vì cái bụng đã một ngày không cơm không cháo, bây giờ lại phải nghe thêm những lời chào hỏi vàng ngọc này nữa làm nỗi hớn hở của tôi tự nhiên khựng lại. Tôi nghĩ giá như lúc nầy có một chiếc gương soi, chắc tôi sẽ nhìn thấy rõ ràng cái bản mặt xấu trai đói cơm của tôi nó quê mùa cục mịch lắm. Ðã đành rằng tôi đen đui, tôi ốm o, tôi xấu xí, nhưng chẳng thà chưi cha tôi có hơn không. Tôi bực mình định nói: cái chị này vô duyên thật! Bộ chị tưởng chị đẹp, chị thơm lắm chắc! Hết chuyện nói hay sao mà mới gặp chị đã tạt nước lạnh vào mặt tôi! “nhưng không hiểu sao tôi không nói được như vậy, mà lại nói khác đi”.

– Xin lỗi chị! Tôi có chuyện gấp cần phải đi.

Nhưng khổ quá trời ạ! Chị Bẹo vẫn không hiểu được tâm địa của tôi. Chị vẫn vồn vã gần như muốn cầm nắm tay tôi. Thật tội nghiệp cho chị và cũng thật tội nghiệp cho cả tôi!

– Chuyện chi mà gắp dữ rứa? Cậu để cho tôi hỏi thăm chuyện nhà chút đã. À, cậu đã ăn cơm chưa hay là đi ăn với tụi tui cho luôn rồi kể chuyện nhà chuyện cửa cho tôi biết với.

Rồi chị đưa tay chỉ về phía cây vông đồng, nơi có ông Mỹ đen đang đứng ngậm điếu xì gà to tổ bố:

– Chồng tui đó.

Nhìn cách ăn bận và mặt mày phấn son của chị Bẹo tôi cũng đoán biết như vậy rồi. Nhưng tôi vẫn làm bộ ngạc nhiên và khen móc họng:

– À! Chị có phước quá hí.

Ðược tôi khen ý chừng chị Bẹo sung sướng lắm. Chị cười híp mắt lươn:

– Phước chi mà phước. Nì! mà răng cậu có đi ăn cơm với tụi tui không?

Ðang đói bụng nghe đến ăn cơm là mắt tôi sáng rực lên. Lẽ tất nhiên không có cách chi mà tôi từ chối được cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại làm bộ rất trái với lương tâm.

– Thôi chị để cho khi khác đi.

Nói xong, tôi thấy hối hận và hồi hộp. Tôi nghĩ mình dại dột thật. Tôi tự trách mình tại sao lại ngu ngốc nói dối chi vậy, lỡ chị Bẻo nói: “Ừ thì thôi để khi khác cũng được” thì sao. Tôi tự chửi thầm mình: “thì đáng đời mày lắm. Cho chừa dốc đi”.

Nhưng may quá.

– Khi khác chi mà khi khác. Biết có gặp cậu nữa không. Chồng em tuy trông dữ tợn rứa chớ nó hiền khô. Cậu đừng ngại chi cả.

Lẽ tất nhiên là tôi sướng rơn. Vậy mà tôi cũng vẫn làm bộ làm tịch thật đáng ghét.

– Ừ! Thì tôi chiều ý chị Bẹo vậy.

– Cậu đừng có kêu tôi là Bẹo nữa. Tui đã bỏ cái tên Bẹo quê mùa đó đi rồi. Bây giờ tui là Ly Ly. Cái tên Bẹo đã xa lắc xa lơ cậu kêu lại tôi ốt dột lắm.

Tôi bỗng cười thầm. Những kẻ xấu xí vô duyên bao giờ cũng chọn lựa cho mình một cái tên đẹp đẽ hết. Có người mở miệng ra cười méo xẹo lại là Duyên, có người đứng bên thì mùi hôi nách tỏa ra muốn ói muốn mửa lại là Hương, Thơm. Cũng như chị Bẹo đây: mập cỡ như tạ gạo một trăm ký vậy mà lại là Ly Ly. Tôi muốn hỏi chị Bẹo: “Tại sao chị không lấy tên là Tạ Tạ hay Thúng Thúng chi đó có hợp và đúng hơn không?” Nhưng sự hèn hạ thường tình của con người làm tôi không có đủ can đảm để hỏi, nên tôi đành chỉ biết cười thầm.

Chị Bẹo đưa tay ngoắc người Mỹ đen và gọi:

– Bờ Rao.

Dưới nắng vàng, một thân hình to lớn cở bằng năm người tôi, đen thui như cốt nhà cháy và bóng láng như tượng đồng được bôi lên một lớp dầu phụng, đang di động. Đó là Brown, chồng của chị Bẹo.

Khi Brown đến gần, bằng một thứ tiếng mới – thứ tiếng nửa Việt nửa Mỹ pha lẫn vào nhau đang thịnh hành khắp các thành phố đầy dẫy người ngoại quốc – chị Bẹo giới thiệu tôi với Brown. Brown đưa bàn tay đen đúa, bóng láng, kịch cởm ra bắt tay tôi. Và cực chẳng đã vì phép xã giao lịch sự tôi mới đưa tay bắt lại tay Brown. Không phải tại tay Brown trơn tru nhớp nhúa mà tôi chê. Tôi sợ thiên hạ hai bên đường hiểu lầm tôi là một tên ma cô chuyên đưa đường dẫn lối. (Dù có chắc gì tôi làm nổi được cái nghề ma cô. Khi mà bất cứ nghề nào trong đời sống này muốn làm cho được thật nhiều tiền thì phải: bất lương, lưu manh, thủ đoạn, mưu mô, xảo quyệt, hèn hạ, bần tiện, và hàng trăm thứ nhớp nhúa khác nữa làm sao tôi có được).

Cũng may quá, chỉ đi ba bước là tới nhà hàng, không thì cái mặt của tôi cũng như cái mặt mo.
Trong đời tôi đây là lần đầu tiên được bước chân vào nhà hàng sang trọng. Chị Bẹo thì như đã quen thuộc lắm. Mới ngồi xuống ghế chị đã kêu lia lịa.

– Cho hai lon bia.

Rồi chị quay sang tôi:

– Cậu Châu uống gì?

– Cô-ca cũng được chị.

Tuy tôi làm ra vẻ “gì cũng được” nhưng thật ra thì tôi uống bia rất tệ, chỉ một lon cũng đủ chếnh choáng và mặt mày thì đỏ như cắc kè.

Chị Bẹo như đi guốc trong bụng tôi:

– Cậu con trai chi mà cù lần dữ rứa. Con trai mà uống Cô-ca là quê cùng mình đi. Phải tập uống bia cho khỏe mạnh ra chứ cậu.

Lời của chị Bẹo thật tình, tự nhiên không có ý gì cả, nhưng giọng chị oang oang ba làng cũng nghe làm tôi có cảm tưởng mọi người đang có mặt đều nhìn tôi cười thương hại. Tôi sượng trân người nhưng cũng bấm bụng cắn răng mà chịu đựng. Tôi đói quá đành phải lì mặt. Sá gì những tiếng cười chê.

Khi người bồi bàn mang bản thực đơn đến, chị Bẹo hỏi tôi:

– Cậu Châu muốn ăn gì?
– Ăn gì cũng được chị. Miễn no bụng. Cần chi.

Chị Bẹo nói với người bồi bàn:

– Cho 3 bồ câu hầm, 3 cua rang muối, 3 chén súp gân nai, 3 dĩa cơm chiên dương châu, và một tô canh bông cải nấu lòng heo.
Cua rang muối. Nguồn: cuacamau.info

Cua rang muối. Nguồn: cuacamau.info

Thấy được ăn nhiều món ngon tôi mừng khúm, nhưng vẫn làm bộ.

– Chi mà nhiều món dữ rứa chị.

– Thời buổi chiến tranh ni làm có tiền mà không ăn cũng uổng. Biết chết sống chi mô.

Tôi hỏi chị Bẹo bằng giọng thân tình.

– Một tháng Brown đưa cho chị bao nhiêu?

– Hắn keo kiệt lắm. Lương hắn gần 500 đôn xanh mà hắn chỉ đưa tôi có 200. tôi phải kiếm thêm những thằng khác nữa mới đủ tiêu.

– Chị tiêu chi mà tiêu dữ rứa?

– Tui rứa là hạng bét đó. Tụi con Hương, con Phấn lần đánh bạc thua cả ngàn đôn xanh.
– Chị cũng biết đánh bài nữa?
– Cũng phải biết như tụi nó không tụi nó cho mình quê mùa, cù lần thì làm sao sống nổi. cậu biết không; tiền cơm tháng mười ngàn, tiền nhà mười hai ngàn, hắn trả hết. Ngoài số tiền hắn cho ra, tháng tháng tôi còn kiếm được vài ba trăm đôn nữa là tệ, rứa mà cũng chỉ vừa đủ tiêu vặt và cho mấy thằng em út.
– Em út nào?
– Thì mấy thằng cảnh sát dã chiến. Phải cho nó ăn như vậy nó mới che chở và bao bọc cho mình. Không thì bố ráp xét gia đình hoài còn làm ăn gì được.

Chao ôi! Thật là khủng khiếp. Năm trăm đôn một tháng mà chỉ tiêu vặt. Tôi không hiểu tiêu cái kiểu cách chi mà dữ vậy. Năm trăm đôn xanh tính theo giá chợ đen rẻ mạt cũng được bảy mươi lăm ngàn. Ôi! Số tiền mà chắc chắn suốt đời tôi cũng không có cách chi cầm nắm trong tay. Nếu tôi nhịn ăn nhịn mặc và cố đem hết sức mình ra mà làm thì ít lắm cũng là năm năm tôi mới (hy vọng) dành dụm được một số tiền lớn lao như thế này. Vậy mà chị Bẹo chỉ tiêu vặt trong một tháng.

– Cậu Châu có thấy tui hồi ni có khác chi không?

Nghe chị Bẹo hỏi tôi không biết răng trả lời cả. Tôi nhớ đến cái con Bẹo lem luốc chưa sạch mũi và một dạo nào mới đến giúp việc cho gia đình tôi ở trong Thành Nội. Cái con Bẹo đen thui, mũi chảy lòng thòng là đây sao? Cái con Bẹo mà chuyên môn chưởi lộn với trẻ con hàng xóm là đây sao? Cái con Bẹo mà mẹ tôi thường chưởi: “Mày sau này chỉ có nước chó lấy chớ ai mà thèm” là đây sao?

– Răng mà cậu trơ mặt ra rứa?

– À! À! Chị hồi ni thay đổi nhiều quá nên tôi không còn nhớ hồi trước chị ra răng nữa cả. Chị bây giờ và hồi trước như là hai người. Hồi trước chị xấu xí bao nhiêu bây giờ chị lại đẹp đẽ bấy nhiêu.

Không hiểu sao tôi lại khen nịnh chị Bẹo một câu tréo cẳng ngỗng như vậy được. Tuy bây giờ chị không còn mũi chảy lòng thòng như hồi nhỏ và nước da cũng không còn đen như mọi cà lơ, nhưng chị đánh phấn thoa son quá vụng về nên trông gương mặt của chị quá tội nghiệp và thảm thương không có cách chi diễn tả được. Tôi cố hình dung ra cô đào hát của một gánh hát nghèo đói về trình diễn tại một vùng khỉ ho cò gáy để so sánh chị Bẹo có hơn được tí nào không, nhưng không những chị Bẹo đã không hơn mà chị còn xấu đui xấu điếc gấp mười lần. Ngoài cái trán vồ, đôi mắt lươn hi hí, cặp lông mày tỉa sắc lẻm và nhọn hoắt, lỗ mũi gãy và xẹp, miệng chù vao như miệng chó đói cơm, chị còn có cái sẹo to tướng và láng xầy nằm ám chướng từ đuôi con mắt bên phải đến cuối lỗ tai. Dù chị đã có ý uốn một kiểu tóc lòa xòa để cố che lấp nó đi nhưng cũng không tài nào che kín được.

Vậy mà tôi lại khen chị đẹp. Thật tôi là một thằng có cơm nói cơm có rượu nói rượu giỏi nhất trên đời. Và thật tội nghiệp cho chị Bẹo! Được tôi khen, chị cười ra chiều thích thú, hai tay chị xoa vào nhau, và dù chị cố làm cho ra vẻ tự nhiên, nhưng tôi biết trúng tim đen là chị muốn khoe chiếc nhẫn hột kim cương sáng chói.

Chị Bẹo bỗng hỏi:

– À! Khi hồi chừ tôi quên – Ông Bà hồi ni ra răng?

Khi không phải nhớ lại chuyện nhà, làm tôi buồn buồn:

– Hình như chị xa vài năm thì ba tôi mất. Mẹ tôi thì bị đạn chết hôm tết Mậu Thân.
Huế, 1 tháng 2, 1968. Nguồn: Getty Images/Terry Fincher

Huế, 1 tháng 2, 1968. Nguồn: Getty Images/Terry Fincher

Chị Bẹo sửng sốt:

– Rứa mà tôi có biết chi mô. Tội nghiệp bà! Bà chưởi tui rứa chớ mấy năm ni tui nhớ bà quay quắc.

Rồi chị khóc ngon lành. Những giọt nước mắt thật tình ứa ra từ nỗi nhớ thương thăm thẳm nào đó làm ướt hai gò má phấn son vụng về của chị thật tội nghiệp. Nhìn chị Bẹo, tôi thấy có một cái gì làm cho tôi cảm động hết sức, nhưng tối cố gắng để khỏi phải khóc theo chị.

Chị Bẹo hỏi tiếp với giọng vẫn chưa ráo nước mắt:

– Chị Trâm và O Quỳnh hồi ni răng cậu?
– Chị Trâm đã có chồng và đã có hai đứa con. Anh Trọng chồng chị Trâm hôm tết Mậu Thân bị cụt một chân nên đã được giải ngũ, còn Quỳnh thì đi theo một thằng nào đó ở Tam Kỳ.

Tội nghiệp chưa! O Quỳnh hồi ni chắc đẹp dữ lắm. Hồi trước O trắng như bông. Răng cậu không vẽ vời cho O với. Cái thằng cha mô đó cũng độc địa thật. Dụ dỗ con gái người ta rứa khi chết nó không bị đọa địa ngục là họa.

Tôi bỗng nhớ đến bầu trời Thành Nội; khu vườn rộng vang tiếng chim kêu, bốn hàng cây nhãn trái sây và ngọt thanh như mía mật; cây thanh trà tép lớn và ngon không chịu được; hai hàng cau tháng giêng trổ bông trắng như tơ trời, thơm như gạo mới; bốn hàng rào trồng chè tàu tỉa đều, lưa thưa năm ba buội cẩn bốn mùa trổ bông đỏ ối, ngôi nhà ngói ba gian hai chái mà cột, kèo, xuyên đều làm bằng một thứ gỗ mít láng xẩy và bóng lộn. Đó là nơi có ba tôi với tuổi về hưu, có mẹ tôi ngày hai buổi vun cây nhổ cỏ quanh vườn và có chị em tôi như bầy chim sáo. Ngày tôi đi cà lất thất trở về, khu vườn xưa đầy dấu bom đạn, mấy hàng cây gãy ngang quằn quại, ngôi nhà thân yêu đổ nát, tiếng chim kêu lạc lõng cuối vườn, chị tôi ngồi buồn bã giận hờn “em răng vô tình dữ rứa? Chi đi nữa em cũng là con trai. Răng em không đi luôn đi, về chi nữa cho linh hồn mạ thêm tủi hổ!” và em tôi khóc mếu máo “anh ơi, bữa nớ mạ đang còn cầu nguyện, chị Trâm và em hối mạ đi núp thì mạ nói núp chi cho bằng cầu nguyện Phật che chở. Thình lình một quả cà nông rớt ngay nhà mình và mạ chết tươi không kịp trối anh ơi!” Trong tiếng thở dài đứt ruột của chị và trong tiếng khóc não lòng của em, tôi chỉ biết ngồi cúi đầu yên lặng giữa đổ nát mà nghe lòng mình như có ai cào xé, mà nghe hồn mình như có lất phất mưa bay.

Nghĩ đến cảnh nhà khi không rách xơ xác như tàu lá chuối trong ngày bão lớn, tôi buồn muốn khóc như ngày hay tin Quỳnh – đứa em gái mà tôi thương như thương con chim sáo thuở lên mười – đã hư hỏng và dại dột bỏ nhà theo trai.

Tôi nói với chị Bẹo, mà như cũng để an ủi mình:

– Chắc có lẽ do số trời cả chị!

– Còn cậu hồi ni răng. Đã có vợ con chi chưa?

– Ai mà thèm lấy tôi chị. Một mình tôi đây mà còn đói lên đói xuống, huống hồ đèo bồng thêm vợ con.

Chị Bẹo đưa khăn tay lên lau nước mắt và khịt khịt hỉ mũi. Đoạn chị quay sang phía Brownn và chị nói chi đó với Brown tôi nghe không được rõ. Vì chị không những nói bằng miệng, bằng lời, mà còn bằng tay bằng mắt và bằng cả bộ tịch nữa nên người nghe muốn hiểu thì phải vừa nghe vừa đoán vừa mò. Thằng Brown cũng vậy. Tôi thấy mắt hắn mở tròn theo cái múa tay của chị Bẹo, mặt hắn nhíu nhíu theo cái bặm môi của chị Bẹo.

Khi chị Bẹo quay sang phía tôi, không hiểu sao tôi lại khen chị Bẹo một câu rất hợp với cái bao tử.

– Chị nói tiếng Mỹ giỏi quá. Chắc chị học lâu lắm mới được.

– Học chi mà học. Tiếng Mỹ dễ ẹt. Nghe tụi bạn nói thì bắt chước chớ cần chi mà phải học cho mất công.

– Tài ba như chị Bẹo vậy thật là bậc nhất. Tôi đã học chăm chỉ mấy năm mà mỗi lần có dịp nói chuyện với người Mỹ tôi vẫn thấy lúng túng một cách khó khăn lắm mới nói được một câu thông thường. Vậy mà chị Bẹo lại thấy dễ ẹt. Chị chỉ cần hoa tay, nháy mắt, mấy mấy cái miệng là xong.

Đến đây thức ăn đã bưng lên. Trong lúc bụng đói mà được hít những mùi thơm phức đặc sệt, tôi có cảm tưởng như đang ngồi ở một cõi thiên đàng cực lạc nào đó.

Nhưng vừa ăn được mấy miếng tôi bỗng khựng lại vì cái giọng của cô gái ngồi bàn bên kia nói vói sang với chị Bẹo.

– Chồng mầy ở quê mới lên thăm đó hả Ly Ly?

Chị Bẹo đưa mắt lườm lườm nhìn sang. Và khi đã nuốt xong miếng thịt, chị vọt miệng chưởi.

– Mẹ mày cái con đĩ ngựa. Mày không biết cứt gì thì im cái mồm thối của con lại đi. Nói bá láp có ngày bà vả rớt răng ra.

– Chị Bẹo dữ thật. Bao nhiêu danh từ hoa mỹ chị đem ra xử dụng một cách ngon lành không biết ngượng miệng. Tôi bỗng cười thầm. Con người của chị Bẹo tuy đã thay đổi, nhưng lời ăn tiếng nói chị cũng hàm hồ và quá quắt như trước không kém chi. Có điều lạ là nói chuyện với tôi chị nói đặc sệt cái giọng Huế quê mùa, nhưng chưởi lộn với người ta thì giọng chị lại lơ lớ giọng Nam pha Bắc.

– A! Cái bà này. Người ta hỏi chuyện đàng hoàng mà lại đi làm le. Ỷ thế có nhiều chồng chắc. Coi chừng. Chọc bà nổi giận là bà bắt cóc bớt một ông cho mà biết tay. Xem mày dám động đậy gì được sợi lông bà không.

Chị Bẹo bỗng lồng lộn một cách khủng khiếp.

– Cả họ nhà mày cái con cướp chồng người. Bà đ. có sợ đứa nào cả. Bà thách mày đó. Mày dám động đến sợi lông chồng tao coi. Bà đâu có ngu dại như tụi con Lan con Điệp mà để chồng cho mày giựt một cách ngang xương như vậy được. Hừ! Đừng có hòng.

Tôi có cảm tưởng như bao nhiêu cặp mắt đang đổ dồn về phía tôi. Tự nhiên tôi khựng lại. Cái mặt tôi sượng trân ra. Kỳ lạ chưa? Tôi có là chồng của chị Bẹo đâu? Tại sao tôi lại phải mắt cở một cách vô lý như vậy?

Chị Bẹo như đi guốc trong bụng tội.

– Mặc kệ chúng nó. Cứ ăn tự nhiên đi cậu. Bọn dơ dáy chúng muốn nghĩ răng thì nghĩ.
– Răng chị nổi giận dữ rứa? Người ta hỏi chuyện đàng hoàng mà.
– Đàng hoàng chi cái mặt con đó mà đàng hoàng cậu. Cậu không biết đó chớ nó đã lăm le muốn giựt thằng Brown của tui rồi đó. Đã có hai ba đứa bị nó giựt chồng một cách ngang xương rồi chớ ít ỏi hiền lành chi con đó. Tụi tui gọi nó là ngựa cái đó.
– Răng chưởi họ chị không chưởi giọng Huế mà chị lại chưởi giọng chi mô rứa?
– Giọng Huế mình hiền lành quá ai mà sợ cậu.

Bồ câu hầm ngon quá, cua rang muối ngon quá , súp gân nai ngon quá, cơm ngon quá. Tôi ăn bụng đã no kềnh nhưng vẫn cố rán mà ăn thêm. Ăn cho bỏ những ngày khổ cực thiếu thốn đói sau. Ăn để lâu lâu nhớ lại cho đỡ thèm.

Bàn bên cạnh một đứa bé gái khoảng năm tuổi bỗng khóc òa lên, mẹ nó dỗ ngon dỗ ngọt mấy nó vẫn không chịu nín, sau cùng bà liền đưa tay chỉ về phía Brown và dọa: này này, Ni na khóc đây ông kẹ.

Đó, đó, nín đi không mạ cho ông kẹ ăn thịt bây giờ.

Tức thì đứa bé nín im ru và mở tròn mắt nhìn chăm vào Brown sợ hãi.

Brown thấy vậy cũng cười cười ra chiều thân thiết. Nhưng khổ nổi hắn có cười kiểu cách chi đi nữa gương mặt hắn cũng không có được một chút xi xí hiền từ. Bởi ngoài hai con mắt lồi như mắt cá sấu và xếch lên như mắt ngựa, cái mũi như mũi kỳ lân, cái miệng rộng thùng thình, cặp môi dày cui trề ra kịch cợm, thêm màu da đen thui bóng láng, và đầu tóc cụt ngủn luăn quăn như lông chi đó bị cháy, nên trông hắn không còn giống một người nào trên trái đất này cả, mà ngược lại, với những nét dữ tợn hợp chung lại một trông Brown giống như loại quỷ sứ ở một cõi địa ngục nào đó.

Chị Bẹo tuy cũng xấu đui xấu điếc nhưng chị còn có nét hiền từ của con người nên trông chị còn khá hơn Brown nhiều. Brown dữ tợn như rứa mà có chị Bẹo để đêm hôm đầu gối tay ôm thì cũng nhất thiên hạ rồi.

Tôi cười thầm với ý nghĩ khôi hài đó và hỏi chị Bẹo:

– Khi nào Brown về nước chị có về theo không?

Suy nghĩ một lúc, rồi với giọng buồn buồn chị Bẹo trả lời:
– Hắn cũng có ý muốn đem tui về theo đó chớ, nhưng dại chi mà theo hắn cho mệt cậu. Cực khổ chi cũng là nơi chôn nhau cắt rún của mình. Qua bên xứ hắn rủi ro đau ốm biết nhờ cậy vào ai. Ở đây chi đi nữa người mình với nhau cũng dễ thông cảm. Cậu biết, nhiều lúc nói chuyện với hắn, hắn chẳng hiểu ất giáp là gì cả, hắn như là cà lơ mô thiệt khổ. Rứa mà theo về bên nước hắn hai ngày chắc tôi chết tươi. Thôi, cực khổ chi cũng là quê hương xứ sở mình cho rồi.

Tôi không ngờ một người như chị Bẹo lại còn nghĩ được như vậy. Tôi cảm động và thành thật khuyên chị:

– Chị cũng nên dành dụm chút ít tiền nong phòng khi đau ốm.

– Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện đó rồi cậu. Chi chi cũng phải phòng lúc tra yếu chớ tiêu phí hết mô được.

– À, tôi nghe ngoài Kế Môn dạo này rộn dữ lắm mà gia đình chị ra răng?

– Chú mạ tôi thật khổ. Hồi đi được thì ông bà luyến tiếc cỏ cây vườn tược không đành bỏ mà đi, đến khi cực khổ chịu không nổi muốn đi thì bị họ kiểm soát gắt gao không đi được. Nghe mô hồi ni bên tê họ bắt đi dân công vận tải và đóng thuế cao lắm. Ở trong ni tui thì tiêu tiền như nước mà ở ngoài nớ thì chú mạ tui mần được một đồng cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt ra mới kiếm được. Nhiều khi nghĩ đến chuyện nhà tui khóc mấy cũng không hết nước mắt.

Rồi chị thở dài thật buồn. Và trong giọng nói ươn ướt nước mắt của chị Bẹo lòng tôi cũng ngùi ngùi lây.

Tôi an ủi chị Bẹo;

– Thời buổi chiến tranh mà chị. Chạy trời mô cho khỏi nắng được.

Chị Bẹo im lặng và buồn so. Tôi biết chị đang nhớ đến Kế Môn yêu dấu. Nơi chị đã ra đời và lớn lên. Nơi có cha mẹ già và em dại đang sống mỏi mòn quằn quại.

Thằng Brown vẫn ngồi tỉnh bơ. Nó vẫn vô tình không biết hiện vợ nó đang nhớ nhà đứt ruột.

Thấy đã xế chiều, với lại cũng đã quá no và không còn chuyện chi để nói nữa, tôi đứng lên vừa đưa tay bắt Brown và nói với chị Bẹo:

– Thôi chiều rồi. Xin phép chị khi khác gặp lại.
– Thỉnh thoảng cậu ghé nhà tui chơi.

Tôi vừa khẽ gật đầu vừa đi ra.

Trong sự no nê thỏa thích của một bữa ăn ngon nhất và có lẽ cũng sang trọng nhất trong đời, tôi nghĩ ở dưới âm phủ (nếu có) mẹ tôi biết được cái con Bẹo mà ngày xưa bà thường chửi: “Mày lớn lên chỉ có nước lấy chó chớ ai mà thèm” bây giờ lại lấy chồng Mỹ giàu sang ăn cơm nhà hàng lớn, ở nhà lầu cao, tiêu vặt mỗi tháng bảy mươi lăm ngàn đồng, thì thế nào bà cũng tìm cách đội mồ lên mà xem.

(Trích Bách Khoa TĐ số 305)
Sơ lược tiểu sử: Hoàng Ngọc Châu là tên thật. Tác giả sinh năm 1944 tại Kế Môn, Phong Điển, Thừa Thiên, Huế. Hiện sống tại Bảo Lộc, Lâm Đồng, Việt Nam. Ngoài viết văn còn làm thơ dưới nhiều bút hiệu như Hoàng Gỗ Quí, Hoàng Thị Thủy Tiên, Hoàng Ngọc Châu.
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Con Rạch Nhỏ Quê Mình

Tiểu Tử.

Mầy còn nhớ không ? Hồi tụi mình còn nhỏ, thời tiểu học, có ngày nào mà tụi mình không đùng xuồng con rạch trước nhà để tắm. Mầy còn nhớ con rạch đó không? Nó có cái tên cục mịch và quê mùa : rạch " Cồn Cỏ ". Người ta gọi như vậy bởi vì ở phía sông cái có một cái cồn khá lớn - gần như là một cái cù lao - làm tách con rạch ra làm hai nhánh. Có lẽ hồi xưa, trên cồn chỉ có cỏ nên họ gọi là " Cồn Cỏ ", chớ hồi thời tụi mình, trên đó thấy đầy cây cối mà một số là cây ổi " chim ăn " và cây xoài hột. Mầy bỏ xứ ra đi lâu quá, không biết còn nhớ " ổi chim ăn " và xoài hột không ? " Ổi chim ăn " là loại ổi nhỏ bằng trứng chim cút, bên trong toàn hột là hột nên không có ai trồng. Chim hay mổ ăn mấy trái chín, còn tha đi chỗ này chỗ nọ. Hột ổi rớt mọc lên cây, nhà vườn chặt bỏ để lấy đất trồng thứ khác. Còn " xoài hột " thì như tên của nó nói : trái nhỏ bằng nắm tay con nít, bên trong chỉ có cái hột lớn với chút xỉu cơm! Người ta cũng gọi là " xoài mút " bởi vì muốn ăn loại xoài đó phải lựa trái chín muồi, lột võ rồi mút cái hột với lớp cơm mỏng dánh dính chung quanh. Người lớn không ai thèm ăn bởi vì ăn không đã miệng mà mút xong một trái là hai bàn tay dơ hầy ! Chỉ có con nít là khoái ! Cho nên vào mùa xoài - cũng là mùa mưa - khi thấy trời nổi gió, trẻ con thường lội qua cồn để lượm xoài, được trái nào là đứng ngay dưới cây xoài mút lia mút lịa. Tao nhớ có lần mầy với tao cởi quần đội lên đầu rồi lội qua cồn cỏ lượm xoài. Mầy nhớ không ? Mình phải đội quần để quần xà lỏn đừng bị ướt bởi vì tụi mình " lội chó " đầu lòi ra khỏi nước. Mới nút được có mấy trái thì trời mưa ụp xuống làm hai đứa ướt ngoi. Lần đó về nhà tao bị bắt quì gối gần nửa tiếng. Tao tưởng mày là cháu đích tôn của ông Cả, được cưng nhứt nhà không ai dám rớ. Té ra hôm sau đi học, mầy kể lại mầy cũng bị ông nội mầy bắt quì cũng như tao ! Mầy coi ! Cái xã hội của mình hồi đó nó tốt như vậy. Quan quyền hay dân dã gì cũng dạy con dạy cháu na ná như nhau hết.

Trở lại với con rạch của tụi mình. Con rạch cong cong quanh quanh chạy tuốt vô xóm chợ, chui qua cây cầu đúc của con lộ cái rồi đi mất hút ra ruộng và rừng tràm. Hai bên bờ rạch là hai con đường đất dùng cho người đi bộ và xe đạp. Nhà cửa cất dài theo hai con đường đất. Mỗi nhà nằm trong một khu vườn đầy cây ăn trái và hoa kiểng. Hai bờ, lâu lâu, được nối với nhau bằng một cây cầu khỉ. Mỗi cây cầu khỉ đều có một cái tên : cầu cây gừa ( vì nó nằm cạnh cây gừa ), cầu cây trôm ( cạnh cây trôm ), cầu bà Sáu Lộc ( nằm trước nhà bà Sáu Lộc, chớ không phải bả dựng cây cầu đó !), cầu ván ( làm bằng hai tấm ván thay vì hai cây tre ) v.v...?Tía tao nói về sau, ông nội mày bỏ tiền ra xây một cây cầu đúc, giúp cho dân chúng đi lại dễ dàng. Mầy nhớ cái cầu đúc nằm ở xóm chợ không ? Đó, cái cầu đó, đó ! Người ta gọi là " cầu ông Cả ". Không biết mầy có biết rằng ông nội mầy hồi đó được dân chúng thương lắm không ? Tía tao nói rằng ổng thôi làm " Cả " từ thời Tây lận, nhưng dân trong vùng vẫn gọi ổng là " ông Cả ". Hồi trào Việt Minh, ông nội của mầy là người chức sắc cũ duy nhứt không bị cho đi " mò tôm ". Để thấy ổng ăn ở có nhơn biết chừng nào.


Nói đến cầu khỉ, tao nhớ hoài chuyện bà Năm Chiện té rạch. Bả té đâu hồi tụi mình chưa sanh. Lớn lên nghe kể lại mà bắt tức cười. Mầy biết không ? Hồi xưa, rạch Cồn Cỏ chỉ có loại cầu khỉ " một cây tre ", trơn trợt khó đi ( Về sau, dân chúng cặp thêm một cây tre như tụi mình đã thấy ) Một hôm bà Năm Chiện đi tới giữa cầu, hụt chân té xuống rạch. Người ta nghe tiếng bà Năm la chói lói : " Bớ làng xóm ! Bớ làng xóm !" Rồi giọng bả bỗng thấp xuống : " Ủa mà cạn!" Thì ra bả không biết lội, hồi té là la làng kêu cứu, chừng coi lại thấy nước mới tới lưng quần, bả té nhằm nước ròng. Bà con lối xóm nghe la, chạy ra thì thấy bà Năm Chiện lóp ngóp bò lên bờ rạch, miệng cười lỏn lẻn mắc cỡ ! Chuyện này về sau khi tao đi làm việc ở Sàigòn, tao có nghe kể nhiều lần. Họ kể " có bà đó " chớ không nói là bà Năm Chiện, và họ kể như là chuyện tiếu lâm đặt ra để cười chơi. Đâu có ai biết là chuyện tiếu lâm đó xuất xứ từ con rạch Cồn Cỏ của quê mình !

Ở làng Nhơn Hoà Cồn Cỏ, trẻ con chia ra thành bọn để đi chơi với nhau. Bọn mình có ba đứa : thằng Đực Nhỏ, mầy, tao. Mầy còn nhớ thằng Đực Nhỏ không ? Cái thằng học dở ẹc, tánh tình thì ngổ ngáo, học chung với tụi mình nhưng lớn hơn tụi mình tới ba tuổi. Vậy mà chơi với bạn, nó tốt vô cùng. Có cái gì ăn nó cũng chia và nó hay bầy đặt trò chơi này trò chơi nọ. Nó lúc nào cũng ra vẻ đàn anh bảo vệ mầy với tao. Nó nói với bọn trẻ khác :" Thằng Cương, thằng Lân là bạn của tao, đứa nào đụng vô là biết !". Mầy có biết nó nói với tao làm sao không ? Nó nói :

" Thằng Cương hiền khô nhát hít .. Nó là cháu ông Cả chớ tụi xóm Chợ đâu có coi ra gì. Tụi nó không nể nang ai hết, bắt nạt được là tụi nó bắt nạt. Tao phải dằn mặt tụi nó trước như vậy ". Rồi nó nhìn tao :" Còn mầy thì tao khỏi lo ". Nó biết rằng tao cũng không vừa gì !

Không biết mầy còn nhớ vụ bọn mình đi ăn cắp tôm không ? Bọn mình ở xóm Cồn, gần sông cái, nên biết mặt gần hết mấy ông thợ câu. Một bữa nọ thằng Đực Nhỏ hỏi :" Tụi bây muốn ăn tôm nướng không ? ". Tụi mình hỏi lại :" Tôm ở đâu mà nướng ? Mầy câu hả ?". Nó nói :" Muốn ăn thì đi theo tao ". Nó dẫn tụi mình ra ngoài vàm, chỉ tay ra đó :" Tôm cả đống ở ngoải ". Tụi mình nói nó xí gạt nên vừa " xì " một tiếng vừa quay trở vô định về. Nó níu lại : " Thiệt mà ! Ông Hai Sầm câu tôm ổng rộng tôm ngoài đó đó ". Rồi nó giải nghĩa :" Tao thấy ổng đi câu về là ổng thả cái rọ tôm có treo cục đá xuống sông. Cái rọ có sợi dây dính vô khúc củi nổi trên mặt nước để làm dấu. Tụi bây dòm coi ". Nước đang ròng. Cách bờ độ ba thước có khúc củi nhỏ lắc lư lắc lư như muốn trôi mà bị cái gì rị lại phía dưới. Mầy nói :" Tôm của người ta, ăn cắp chúng bắt chết ". Nó cười :"

Mình lặn xuống xin mỗi đứa một con ăn chơi. Ăn nhầm gì ? Chừng nào rinh hết cái rọ của ổng mới là ăn cắp chớ !". Ba đứa dợm bước xuống sông để lội ra đó thì tao khựng lại :" Không được ! Phải có một thằng đứng canh. Rủi có người thấy tưởng tụi mình ăn cắp cái rọ thì khổ ". Vậy là mầy được chỉ định đứng canh trên bờ. Tao lại nghĩ lại :" Không được ! Nước ròng chảy mạnh, ba con tôm, tay nào cầm tay nào lội ? ". Thằng Đực Nhỏ " Ờ " rồi ngồi bẹp xuống như cái bong bóng xì. Bỗng nó đứng phắt lên chỉ vào cái quần dài bằng vải đen nó đang mặc :" Tao cột túm ống quần lại, mình bỏ tôm vô quần rồi lội vô !". Rồi nó vừa cười ha hả vừa chạy lại mấy cây chuối hoang gần đó tét mấy sợi dây thân chuối cột ống quần. Mầy nói : " Mẹ ! Coi chừng càng tôm nó kẹp cho thấy bà !". Đực Nhỏ vừa nói vừa ra dấu :" Mình bẻ càng nó !". Tao chen vô :" Ờ? mà còn cái răng cưa trên đầu nó nữa ". Nó dứt khoát :" Thì cũng bẻ luôn !". Vậy là hai đứa tao đùng xuống sông, lội ra khúc củi, mò theo sợi dây lặn xuống. Như đã giao hẹn hồi lội ra, tao lãnh phần bắt tôm, nó lãnh phần bẻ càng bẻ răng cưa rồi " nhốt " vô quần. Đang làm tới con tôm thứ hai thì bỗng thằng Đực Nhỏ trồi lên mặt nước la làng chói lói. Tao hết hồn nắm đầu nó vừa lội vừa kéo vô bờ. Nó vùng vẫy như điên, hất tay tao ra rồi chìm xuống nước. Trên bờ, mầy nhớ không, mầy vừa nhảy đông đổng, vừa la :" Chết cha ! Thằng Đực Nhỏ bị ma da rút rồi ! Chết cha !". Vô tới bờ, tao chưa biết phải làm sao thì thằng Đực Nhỏ trồi đầu lên, mặt mài nhăn nhó, vừa lội vô vừa rên :" Đau thấy mẹ ! Trời ơi ! Rát thấy mẹ !". Chừng nó đứng lên mới thấy cái quần nó tuột xuống hai ống chân, còn hai bên bắp vế của nó thì máu me tùm lum như bị đâm bị cắt. Nó nói như mếu :" Mẹ bà nó ! Mình quên con tôm còn có cái đót giấu ở dưới đuôi nữa ! Nó búng đuôi chém tao đau thấy ba bốn ông Trời ! Tao phải lặn xuống cởi quần cho nó phóng ra sông !". Thằng Đực Nhỏ vừa nói vừa khoát nước rửa máu chừng đó mới thấy cái đùm giữa của nó còn nguyên chỉ bị thương ở đùi. Hú vía ! Thằng Đực Nhỏ sau này đi lính đánh giặc rồi chết trận ở Kontum. Nó chưa vợ chưa con, cũng may cho nó.

Trở về với con rạch của tụi mình. Trẻ con đi học về là nhảy ùm xuống tắm. Người lớn còn đợi nước lớn mới tắm chớ con nít thì nước lớn nước ròng gì cũng tắm được hết, bởi vì tắm lội là một trò chơi. Nhắc đến vụ tắm rạch, tao còn nhớ tới chuyện này. Chắc, tao nghĩ, mầy cũng còn nhớ. Hôm đó, mầy bận cái quần xà lỏn mới tinh của má mầy vừa may cho. Mầy sợ quần ướt nên cởi quần vắt lên cây gừa, ở truồng nhào xuống lội. Hồi thời tuổi nhỏ, tụi mình tắm ở truồng là thường. Tắm giỡn đã rồi leo lên bờ thì đứa nào đã ăn cắp cái quần mới. Mầy mếu máo khóc, tao phải qua nhà tao lấy cái quần cho mầy mượn mà mặc đi về. Hôm sau đi học, mặt mầy buồn xo. Mầy trật đít ra cho tao coi hai lằn roi đỏ ửng ! Vụ đi tắm mất quần đó, chắc mầy còn nhớ mà ! Cho dù đã mấy chục năm, hai lằn roi đó làm sao quên được ?

Vậy mà đã mấy chục năm ! Tụi mình xa lần con rạch Cồn Cỏ từ hồi lên tỉnh học trung học. Rồi xa luôn từ ngày mầy đi Tây, còn với tao thì kể cũng gần như xa luôn từ ngày tao đi lính. Mầy không biết chớ hồi tao đi lính, tao đánh giặc lì lắm. Bạn đồng đội nói tao là :" Thằng Lân ăn pháo, chỗ nào Việt Cộng bắn rát là có nó lăn tới ". Rồi tụi nó đặt cho tao cái hỗn danh " Lân pháo ", hỗn danh này tao mang tới ngày mất nước. Suốt cuộc đời nhà binh của tao, tao đánh giặc không biết bao nhiêu trận, có vào sanh ra tử, có thắng có thua? nhưng không hiểu sao tao chưa hề bị thương một lần ! Vậy mà hôm tao phải liệng súng đầu hàng vào cuối tháng tư 75, tao nghe đau điếng như vừa lãnh một viên đạn. Lần đó, tao không đánh giặc vậy mà tao lại bị thương, bị thương ở trong lòng. Vết thương đó, bây giờ, gần bốn mươi năm sau, vẫn chưa chịu lành. Mầy thấy không ? Kể lại cho mầy nghe mà tao vẫn còn rơm rớm nước mắt.

Bên vợ tao có cơ sở làm ăn ở Marseille. Nhờ vậy, tao mới qua Pháp theo diện đoàn tụ gia đình bên vợ. Mầy thấy không ? Cuối cùng rồi tao cũng được đi Tây như ai ! Trước khi đi, tao có về thăm Cồn Cỏ. Con rạch nhỏ bây giờ nó rộng huỵch, tại vì ghe thuyền bây giờ toàn chạy máy nên sóng đập lở bờ. Cầu khỉ được thay bằng cầu ván. Cầu Ông Cả gãy hết một chân lòi cốt sắt rỉ sét. Người ta nói hồi mới vô, mấy cha Việt Cộng thách đố nhau bắn chơi ! Cái cồn đã được một ông lớn nào đó chiếm ngụ. Ổng xây bờ kè, xây tường rào kiên cố, phía sông có cầu tàu, nhà thủy tạ, bên trong là nhà lầu kiểu cọ theo điệu Tàu. Bây giờ mầy có về mầy nhìn không ra đâu ! Người cũ chết bớt, đi bớt. Người mới, phần đông là dân cách mạng tụi mình không quen, về cất nhà lầu dài theo rạch. Tao có đến thăm con Huê, cái con nhỏ má lúm đồng tiền học chung với tụi mình đến hết lớp nhứt, đó, rồi về sau nó bán vải ở chợ nhà lồng, có năm đó trong dịp Tết nó tặng mầy một cái mu-soa thêu trước khi mầy đi Tây, mầy nhớ hôn ? Con nhỏ đó, đó! Bây giờ nó vẫn bán vải, vẫn chưa có chồng, coi hơi già hơn tao một chút nhưng vẫn còn có duyên. Nó với tao nhắc không biết bao nhiêu chuyện cũ, để lâu lâu thở dài.? Khi con Huê tiễn tao ra đến cổng, nó đứng ngập ngừng một chút rồi bỗng nói một mạch lè lẹ như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ :" Anh qua bên Tây, có gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh ". Nói rồi nó bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay lên quẹt mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao cách đó khá lâu hồi tao gặp nó bán vải ở chợ An Đông :" Anh Lân biết không ? Chị Huê thương anh Cương từ hồi còn học lớp nhứt lận !". Nó vừa nói vừa cười, tao tưởng nó nói chơi, té ra nó nói thiệt. Tao kể lại chuyện con Huê cho mày nghe, tao biết mày không làm gì được, nhưng tao vẫn kể. Để cho mầy thấy người con gái ở dưới quê mình nó thật thà trung hậu đến mức độ mà khi đã trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là sự tự nhiên. Cũng như, hễ đã là con rạch thì tự nhiên phải có nước lớn nước ròng.

Hồi hôm, coi télé chương trình văn nghệ đài TF1, nghe hát bài " Dòng sông tuổi thơ ", tao bỗng nhớ tới con rạch nhỏ quê mình. Rồi tao nhớ mầy Cương ơi ! Bây giờ mầy ở đâu ?

Tiểu Tử

Truyện này tôi viết theo lời yêu cầu của người kể. Ông đó nói : "Nhờ ông viết lại dùm. Biết đâu chừng thằng Cương sẽ đọc. Để nhắc nó đừng quên con rạch Cồn Cỏ, đừng quên thằng Đực Nhỏ, thằng Lân, con Huê ".
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »


TIẾC


Song Thao

Image
Ngày 12/10: Thương xá Tax hơn 130 tuổi bị xóa bỏ để xây cao ốc 40 tầng

Thương xá Tax vừa bị xóa sổ. Vậy là thêm một mảng Sài Gòn xưa bị vỡ vụn. Dân Sài Gòn chúng ta ai cũng tiếc nuối trước sự vong thân của thành phố thân yêu. Sài Gòn đang bị dày vò, không còn là Sài Gòn của chúng ta. Nhớ về Sài Gòn, chúng ta có nhiều thứ để vịn vào. Nhưng có một thứ không thuộc về Sài Gòn mà mỗi khi nhớ về chúng ta ngẩn ngơ. Trong bài “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn”, nhà thơ Du Tử Lê nhớ lung tung: Thị Nghè, Hàng Xanh, Trương Minh Giảng. Toàn những địa danh nẫu lòng. Nhưng nhiều người, trong đó có tôi, nhớ da diết như nhà thơ: Nhớ nghĩa trang quê hương bạn bè / Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường. Pho tượng lính ngồi buồn rầu ngay trước nghĩa trang quân đội ở Biên Hòa. Pho tượng đầy biểu tượng này đã làm bất tử tên người khai sanh ra nó: điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu.

Sự ra đời của pho tượng lính, nhiều người đã nói, chúng ta đã nghe nhiều. Tôi nghĩ chẳng cần nhắc lại. Nhưng chuyện về sự hình thành pho tượng bất tử này, dù nghe nhiều, nhưng mỗi người nói mỗi khác nên chuyện kể cứ như…huyền thoại! Tôi cố tìm xem câu chuyện thực sự ra sao nên kiếm đọc được những gì do chính tác giả bức tượng nói trong bài phỏng vấn của nhà truyền thông Lê Xuân Trường.

Thương xá Tax

Khi được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu giao nhiệm vụ thực hiện sơ đồ nghĩa trang Biên Hòa trong đó có bức tượng mà theo gợi ý của ông Thiệu thì là cảnh chiến trường, ông Thu đã tới nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây để tận mắt chứng kiến cảnh chuyển xác từ chiến trường về, cảnh khóc lóc của vợ con tử sĩ, cảnh an táng. Ông quan sát trong suốt một tuần lễ. “Tôi ở đó được sáu ngày như vậy, khi ở được sáu ngày rồi , ngày mai nữa là hết ngày, đến ngày phải trình Tổng Thống, cho nên đến buổi trưa thứ sáu, đây là câu chuyện thật, tôi cứ nôn nóng như vậy. Trưa thứ sáu thì tôi từ nghĩa trang Quân Ðội Hạnh Thông Tây, tôi về Gò Vấp. Ở vùng Gò Vấp, nắng quá, tôi mới vô kiếm nước uống. Tôi quẹo đại vào một cái quán gần căn phố. Vô tình, tôi kêu một ly nước chanh uống, bỗng nhiên, tôi thấy một anh lính Nhảy Dù, ảnh vô đó từ trước, ảnh cũng từ Nghĩa trang Hạnh Thông Tây về trước đó. Khi tôi bước vô thì tôi dòm qua ảnh, thấy ảnh đã uống đâu bốn năm chai bia rồi, thì thôi, tôi cũng không nói gì. Nhưng có một điều lạ, tôi thấy ảnh đang nói chuyện với cái ly, ảnh là binh chủng Nhảy Dù, ảnh để cái nón nhảy dù trên cái bàn, mặc áo nhảy dù đàng hoàng, ảnh đang uống và đang buồn, đang nhớ bạn. Một ly ảnh uống, một ly ảnh cúng, ảnh rót bia vào cái ly cúng đó, rồi ảnh nói chuyện với cái ly như có người bạn trước mặt ảnh vậy, ảnh cằn nhằn, ảnh đau đớn cho người bạn của ảnh đã mất. Khi tôi dòm thấy được cái hình ảnh mà ảnh vừa nói vừa gục đầu xuống bàn, vừa khổ sở với cái ly đó, ảnh vừa uống vừa cúng. Tôi chờ một chút nữa rồi bước qua làm quen. Tôi cầm cái ly nước chanh, bước qua, tôi đứng kề ảnh, bên cái bàn của ảnh, tôi xin phép ảnh: “Anh à, tôi muốn ngồi kề với anh, uống với anh được không? Thấy anh buồn, tôi muốn ngồi với anh”.Tôi thấy ảnh không trả lời tui, ảnh ngồi gục trên cái bàn, ảnh hất cái mặt lên, có vẻ như không bằng lòng khi có người thứ hai quấy rầy ảnh… Mặt tôi hơi sượng, mấy cô trong quầy cười khúc khích, nãy giờ, cái anh nầy nói chuyện với cái ly không, mà bây giờ có thêm một thằng điên qua nói chuyện với ảnh, mấy cô chắc nghĩ như vậy, thấy mấy cô cười khúc khích với nhau. Nhưng mà trời thương, tôi có hỏi giấy tờ của ảnh, ảnh gục cái đầu xuống, tôi đứng trơ trẽn ở đó. Bỗng nhiên, ảnh móc ở túi sau, ảnh móc giấy tờ, ảnh đưa cho tôi. Tôi đâu có phải Quân Cảnh mà hỏi giấy tờ của ảnh, thế mà ảnh đưa cho tôi. Tôi cầm cái bóp rồi trở về cái bàn của tôi, tôi lấy giấy tờ ra hết. Tôi ghi tên của ảnh, ảnh là Võ văn Hai, hạ sĩ Võ văn Hai, tôi nhớ rõ như vậy. Ở tiểu đoàn nào tôi quên rồi, tôi ghi hết cái KBC. Xong rồi, tôi đem cái giấy đến trả lại, ảnh cũng không cần biết nữa, lấy bỏ túi thôi,không nhìn tôi. Tôi trở về bàn, tôi ngồi để nhìn một chút xíu nữa. Trưa đó tôi về, dĩ nhiên là ảnh còn ngồi đó, tôi lo đi về, tên tuổi của ảnh tôi còn để đây”.

Buổi sáng bữa vào trình sơ đồ tượng, ông được Đại Tá Võ văn Cầm, Chánh Văn Phòng, tiếp trong khi chờ gặp ông Thiệu. Trong lúc ngồi đợi, ông Nguyễn Thanh Thu sực nghĩ tại sao không vẽ cảnh anh hạ sĩ Hai ngồi uống bia? Ông vội phác họa trên mặt sau miếng giấy bạc trong bao thuốc. Khi vào trình Tổng Thống, ông trải các bức vẽ cảnh chiến trường trên sàn nhà. Khi được ông Thiệu hỏi ý kiến, ông đã rụt rè đưa ra bức phác họa trên giấy trong bao thuốc lá. Ông Thiệu ưng ý và muốn ông vẽ lớn ra ngay. Ông ra ngoài xin Đại Tá Cầm vật liệu để vẽ. Khi đó ông Thu mới thấy cần vẽ chi tiết hơn. Ông ngỏ ý cần người mẫu. Đại Tá cầm bối rối hỏi: “Tôi được không?”. Tới lượt ông Thu bối rối: áo quần láng coóng, tóc tai mượt mà đâu có giống lính chiến. Nhưng rồi ông Đại Tá “hóa trang” với súng ống, nịt đạn, bi-đông nước, nón sắt. Ông Thu phác họa xong, Tổng Thống Thiệu ký chấp thuận. Ông Thu có ba tháng để hoàn tất tượng.

Ông tìm tới đơn vị của anh Võ văn Hai để xin anh về làm mẫu. Thiếu Tá chỉ huy khoái chí đề nghị: “Ông yêu cầu gặp anh Hai nhưng tôi thấy chưa hay đâu. Tôi nói thật với anh, tôi cho anh một Đại Đội, mặc sức mà chọn. Nhiều thằng một thước bảy, một thước tám thước chín, mề đay đầy người, to lắm, chiến công dữ dằn lắm!”. Ông Thu nhấn mạnh chỉ xin anh Hai nhưng ông Thiếu Tá vẫn tập họp một Đại Đội cho ông chọn. Chính ông Thiếu Tá lựa ra bốn người. Ông Thu gọi anh Hai ra. Vậy là năm người được tập trung trong câu lạc bộ với ông Thu. “Tôi nói với mấy ảnh như thế này: “Thật sự tôi chỉ cần anh Võ văn Hai thôi, nhưng ông Thiếu Tá tốt bụng cho thêm bốn anh nữa. Thôi mấy anh về nghỉ đi, cứ nghỉ ba tháng nhưng đừng ra ngoài đường, đừng mặc đồ lính quân cảnh nó bắt, tôi không có thời giờ đi lãnh về”. Vậy là chỉ có anh Hai phải ngày ngày đến ngồi làm mẫu, bốn anh còn lại được chơi thả cửa trong ba tháng! Sau ba tháng ròng rã, tượng coi như hoàn thành nhưng ông Thu vẫn chưa hài lòng. Ông không tìm được nét buồn của anh Hai khi ngồi trong quán nước trước đây. Một bữa, ông để anh ngồi, không nói gì và bỏ vào trong nhà. “Tôi vô trong nhà, dòm lén qua lỗ gió. Khi ngồi lâu, anh Hai mới nhớ lại, hoàn toàn trở lại hồi cũ ở quán nước, nét mặt ảnh buồn như trước. Khi ảnh buồn thật sự, tôi lấy cây viết chì với miếng giấy ghi lại chỉ nét mặt thôi. Nó rũ xuống như thế nào tôi vẽ như thế nấy. Tôi chỉ vẽ cái môi, cái miệng, cái mũi thôi”. Ông cho anh Hai về. Ba giờ khuya, ông tắt hết đèn, cầm đèn cầy ra tạc chi tiết trên mặt bức tượng. “Không có gì bằng đêm khuya vắng vẻ, mình nói với tượng khi soi đèn cầy để tìm ánh sáng. Khi tôi cầm cây đèn cầy bên này thì ánh sáng bên này tạt qua, khi tôicần ánh sáng bên kia thì tôi đưa cây đèn cầy qua bên đó. Tôi đưa lên đưa xuống, một tay tôi cầm đèn di chuyển, một tay tôi làm. Làm tới sáu giờ sáng, tôi thấy đẹp quá, nét mặt của tượng buồn quá, buồn lắm. Nhưng mà thôi, tôi đi ngủ”. Tám giờ sáng, khi mặt trời đã lên, ông Thu ra coi nét buồn dưới ánh sáng mặt trời có đạt như dưới ánh nến không. Ông thấy y chang!

Nghệ sĩ đích thực luôn cầu sự toàn mỹ. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tự làm khó mình để đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật. Tính ông như vậy. Một học trò của ông từ hồi trung học, anh Nguyễn Tuấn Khoa, đã kể lại. “Thầy Thu tuổi Giáp Tuất (1934), dạy môn hội họa cho tôi tại trường Võ Trường Toản từ năm 1958. Ông có dáng người chắc khỏe, tầm thước,có cá tính rất mạnh, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò cầm bút chì theo kiểu cầm archet khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học ông chọn ra hai, ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng tôi từ lớp 6, cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như người khổng lồ so với các học sinh cấp 2 bây giờ?”.

Tháng 12 năm 1975, tại lớp 10C5 trường Võ Trường Toản, đứa con trai “chịu đòn thay cả lớp” bị gọi mang cặp lên văn phòng Hiệu Trưởng. Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết, lạnh lùng ra lệnh đuổi học vì “ba em có nợ máu với nhân dân”. Anh Khoa kể tiếp: “Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe. Trí lầm lũi, khóc nấc và nói: “Tao bị đuổi học!”. Trí giấu mẹ nó vì sợ bà buồn, sinh bệnh mà chết. Mỗi sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui lỗ chó vào sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn sang trường cũ, nơi có tượng cụ Võ Trường Toản do ba nó tạc năm 1972”.

Cùng thời gian này, tại trại cải tạo Hàm Tân, ông bị quản giáo gọi lên vì không khai trong lý lịch việc tạc tượng Thương Tiếc. Sáu tên cán bộ đã thay nhau đánh ông trong ba ngày liên tiếp. Chúng đập mạnh vào hai mang tai ông đến chảy máu tai và điếc luôn từ ngày đó. Sau đó ông bị giam trong conex tám tháng không thấy ánh mặt trời.

Một ngày nọ, khoảng bốn giờ sáng, cửa conex mở, một họng súng AK chĩa thẳng vào ông, giọng tên cán bộ ra lệnh cho ông bước ra ngoài. Chiếc còng được khóa vào tay ông. Chúng dẫn ông đi về phía cổng trại để vào khu rừng chuối kế bên. Bỗng có một chiếc xe jeep chạy tới, đèn pha sáng rực. Hai bên nói chuyện với nhau khoảng năm phút. Ông tiếp tục bị kéo vào khu rừng và bị nhốt vào trong một nhà cầu của khu gia binh của quân đội quốc gia bị bỏ trống từ lâu. Ông nằm thiếp đi vì quá mỏi mệt. Ông không biết là ông được tha chết vào giờ chót. Tới trưa, một cô gái mang cơm tới cho ông. Từ đó cô gái Bắc kỳ này là chị nuôi của ông. Ít lâu sau, cô gái nói với ông: “Em thương mấy anh sĩ quan cải tạo các anh lắm. Kể từ nay, em sẽ để một chút thịt nằm dưới chén. Anh hãy ăn chút thịt này trước để đề phòng cán bộ khỏi bắt gặp làm khó dễ”. Tại sao cô gái này lại có cảm tình với ông như vậy? Tại vì bức tượng Thương Tiếc! Cô cho biết là, thấy ông bị phạt nặng, cô hỏi các bạn tù của ông. Họ cho biết ông là tác giả bức tượng Thương Tiếc. Cô là con của một bộ đội ngoài Bắc xâm nhập vào Nam, bị tử thương trong một trận đánh. Mẹ cô gánh cô vào Hố Nai sinh sống. Nơi cô ở rất gần nghĩa trang quân đội, cô thường cùng các bạn tới chơi nơi bức tượng nên biết rất rõ bức tượng lính này.

Vì biết tài nặn tượng của ông nên cán bộ chỉ huy trại tù đề nghị ông tạc tượng Hồ Chí Minh để trưng bày trong trại. Ông suy nghĩ và đồng ý với một điều kiện: ông được về nhà ở Gia Định để lấy đồ nghề. Trong thâm tâm ông muốn trốn trại. Chúng chấp thuận đưa ông về cư xá Việt Nam Thương Tín ở Hàng Xanh. Trong khi bốn tên an ninh dẫn giải ông ngồi nói chuyện với cô em gái ông tại phòng khách, ông xuống bếp với mẹ. Mẹ ông nghiêm khắc nói với ông: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu giờ con muốn gì. Nếu trái ý mẹ, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Ông đành trở lại trại tạc tượng trong sự ghẻ lạnh và xỉ vả của bạn đồng tù. Ông nuốt hận làm việc. Trong khi đó, cán bộ trong trại dàn cảnh cho vợ con ông được phép thăm đặc biệt. Tuy túng bấn nhưng gia đình cũng mua thịt vịt quay với bánh mì khi tới thăm. Ông liếc thấy trong tờ báo Tin Sáng dùng để gói thịt quay có tấm hình của Tổng Thống Thiệu, ông vội xé ra, gấp nhỏ, đút vào túi.

Khi bức tượng gần hoàn tất, đám tù nhân đi qua nhìn thấy, xầm xì với nhau khi thấy khuôn mặt tượng giống mặt ông Thiệu. Mấy tên “ăng-ten” vội báo cáo. Khi ông đang gắn một bên râu mép bức tượng thì một cán bộ tới làm bộ hỏi chuyện, tay thọc vào túi áo ông lôi ra bức hình ông Thiệu. Vậy là chết! Ông bị giam vào conex và bị hành hạ đủ điều. Bốn tháng sau ông kiệt sức, bất tỉnh, được đưa tới trạm xá. Trạm xá lúc đó do Đỗ Cao Đẳng (phi công?), chú của Trung Tướng Đỗ Cao Trí, làm trạm trưởng nên ông được ông này cùng các học trò cũ của ông từ thời trung học Võ Trường Toản tận tình chăm sóc. Ba ngày sau ông mới tỉnh lại.

Tới năm 1983 ông được thả sau tám năm trong tù. Bốn năm sau, ông vượt biên bằng đường bộ tới Thái Lan trong túi không có một xu. Tại Mỹ, trong một lần tới Cali nói chuyện, ông Thiệu đã xuống tận chỗ ngồi của ông thăm hỏi khi được nghe chuyện tạc tượng của ông trong tù khiến ông rất cảm động.

Sau mười năm ở Mỹ, ông trở lại Việt Nam. Người ta đồn ông về để dựng lại tượng Thương Tiếc khi nghĩa trang Biên Hòa được phục hồi. Tháng 3 năm 2007, hai nhà văn Văn Quang và Thái Phương tìm tới thăm ông. Cơ ngơi của ông ngày nay là tiệm cà phê vườn “Tượng Đá”. Văn Quang kể lại: “Nhận ra người quen, anh Thu rời cây kéo tỉa hoa, vui mừng ôm vai bạn. Kiểu “ăn diện” của Nguyễn Thanh Thu bao giờ cũng giản dị đến…quá bình dân. Cái “mũ nồi” từ đời tám kiếp nào vẫn chùm hụp trên đầu, có vẻ cố giấu cái đầu hơi lớn. Nhưng đó là “dấu ấn đặc biệt made in Nguyễn Thanh Thu”, không lẫn đi đâu được. Cứ như, nếu không có cái “mũ nồi đen” và không có vẻ lam lũ thì không phải là Nguyễn Thanh Thu!”. Khi được hỏi về dư luận đồn ông về làm lại tượng Thương Tiếc, ông cười hà hà: “Ai cho làm mà làm?...Người nghệ sĩ chỉ sáng tạo một lần. Lần thứ hai không thể làm như lần thứ nhất. Nhưng nó sống được trong lòng mọi người thì tự nó còn mãi. Tôi tự hào về tác phẩm này. Dựng lại là một điều chẳng hay ho gì. Nó sống trong lòng mọi người là đủ!”.

Tôi ở Thị Nghè như Du Tử Lê nên khi Lê nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè và nhớ em Xa Lộ nhớ nhà Hàng Xanh, nỗi nhớ lây sang tôi. Những địa danh nơi chốn cũ như xát muối trong lòng. Xa Lộ của chúng tôi dẫn tới bức tượng Thương Tiếc. Tượng như người nhà. Trời vừa vào thu, nơi tôi ngụ cư lá đã rơi vàng mặt đường. Trời đất ẩm ướt gọi nỗi buồn dậy men trong lòng mọi người. Nỗi buồn đã đưa tôi về lại chốn xưa. Tôi nghĩ tới bức tượng đồng trước nghĩa trang giờ chẳng biết đã nhão ra, hóa thân vào chốn nào. Và nghĩ tới người tạc tượng. Kể từ năm 2007, khi Văn Quang và Thái Phương tới gặp điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tính tới nay đã gần một thập niên, ông hiện nay ra sao? Tôi liên lạc với Thái Phương để nhờ anh một lần nữa tới quán cà phê “Tượng Đá” của ông Thu thăm hỏi. Người nghệ sĩ ở tuổi 82 vẫn còn đó, vẫn sống với tượng lính cũ. Ông cầm tay Thái Phương luôn miệng nói: “Tôi nhớ cái tượng Thương Tiếc lắm!”.

Nỗi nhớ của ông cũng là nỗi nhớ của tất cả con dân đất Việt còn ở trong nước cũng như đang sống tại đất nước người. Nhớ mà thương! Thương mà tiếc!
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »


Image


Bức Họa Khỏa Thân

Tác giả: Phạm Thành Châu

Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia, đã góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Nhà văn Võ Phiến nhận xét về các nhân vật trong ba tập truyện của Phạm Thành Châu đã xuất bản, phải kêu là tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế. Sau đây, xin mời đọc một truyện ngắn tiêu biểu của tác giả.

* * *

Chuyện quái lạ sau đây, xảy ra cho người bạn của tôi khiến tôi cứ thắc mắc mãi. Có phải chết là hết hay là còn linh hồn? Nếu còn thì thế nào là siêu thoát, thế nào là oan hồn, uổng tử? Ma, quỉ là gì? Thời đại khoa học mà lại có người bị chết vì bị con quỉ hút hết tinh lực? Giống như chuyện Liêu Trai. Làm sao mà tin được!

Tôi với hắn quen nhau trên đảo Galang, Nam Dương, nơi đón nhạn những người vượt biên bằng thuyền sau khi cộng sản vào Sài Gòn năm bảy lăm. Qua Mỹ, cùng về tiểu bang Virginia, thỉnh thoảng gặp nhau thường rủ vô tiệm cà phê, chuyện trò. Hắn và tôi đều độc thân nên sống thoải mái, chẳng hề bận tâm chuyện nhà cửa, điện nước, vợ con. Thế rồi hơn cả năm không gặp hắn, tôi gọi điện thoại, chủ nhà trọ bảo hắn đã dọn đi nơi khác rồi.

Bỗng một hôm, tình cờ tôi gặp lại hắn ngoài chợ. Người hắn ốm nhom, da xanh như tàu lá, đi không vững nhưng đôi mắt còn linh động, miệng vẫn tươi cười. Tôi hỏi.

- Lối rày sao trông mầy xanh xao quá! Có bịnh hoạn gì không? Đi bác sĩ chưa?

- Chả bịnh gì cả. Không hiểu sao? Đi bác sĩ khám bịnh, thử máu, chụp hình. Chụp từ đầu đến chân. Tim, gan, phèo, phổi đều được khám xét rất kỹ. Vẫn bình thường.

- Thế thì phải có chuyện gì xảy ra cho mầy? Hay là gặp em nào, "đêm bảy ngày ba" mầy mới ra nông nổi nầy.

- Mầy đoán có phần đúng, nhưng không phải em nào làm tao xanh xao mà là một bức tranh.

- Tôi kinh ngạc.

- Tại sao một bức tranh lại có thể làm mầy suy sụp đến nguy hiểm như vậy được?

- Chuyện dài dòng lắm, đây là địa chỉ của tao, chủ nhật tới, đến tao, chỉ cho mầy bức tranh, tao kể chuyện mầy mới hiểu được.

Chủ nhật sau, tôi đến. Hắn thuê phòng dưới một tầng hầm (basement), trong phòng có treo một bức tranh thiếu nữ khỏa thân. Tôi chưa hề thấy một bức tranh tuyệt vời đến như thế. Cô gái trong tranh đẹp lồ lộ, nhưng là vẻ đẹp tinh khiết, từ đôi mắt ngây thơ đến mái tóc đen tuyền xỏa trên vai, nhất là thân thể, chân tay, làn da... đều sáng, mịn như đúc bằng ngọc bích. Cô giống như nàng tiên, cùng các bạn xuống chơi trần thế, vừa tắm suối xong, bước lên bờ một cách hồn nhiên, vô tư tưởng chừng như thế gian không có người phàm tục.

Thấy tôi cứ đứng ngẩn ngơ trước bức tranh, hắn đi nấu nước trà rồi bắt tôi ngồi xuống để nghe hắn kể.

*

Câu chuyện bắt đầu từ Việt Nam, cách đây khá lâu, khi tao còn học trường Phan Chu Trinh, Đà Nẳng. Thời trung học thì mầy cũng biết, yêu ai thì cứ yêu, không cần biết đối tượng có yêu lại hay không. Được yêu lại thì gọi là yêu nhau. Bị từ chối thì gọi là yêu đơn phương. Tao yêu đơn phương.

Năm đó tao học đệ nhị, em học đệ ngũ. Con gái đệ ngũ như hoa hồng hé nở, cô nào cũng đẹp, cũng duyên dáng. Em là con chiên Công Giáo, sáng chủ nhật đi lễ nhà thờ, tao cũng dậy sớm, ăn mặc chỉnh tề, ôm quyển tự điển to tướng, trông giống quyển thánh kinh, dĩ nhiên đã bao cái bìa, đi chen vào với gia đình em, mục đích để được đi cạnh em mà không ai quan tâm vì tưởng tao cũng là bổn đạo. Bố em là công chức Tòa Thị Chính, nơi khác đến làm việc chứ không phải người địa phương. Ông ta ốm, thấp, mặt mũi nhăn nhó, khó chịu. Tao sợ ông ta lắm vì mặc cảm yêu con gái ông ta. Thường thì thấy tao, em mỉm cười chào một cách yên lặng. Khi đến nhà thờ, tao loanh quanh đâu đó rồi quay về, vì tao đâu phải giáo dân.

Nhà em ở đầu con hẻm, nhà tao ở trong hẻm nên tối nào, đang học bài, nhớ em, tao đi qua lại trước nhà em vài lần. Tao còn làm thơ yêu em, trước khi gửi bài thơ đăng báo, tao đều gửi đến em kèm với lá thư tình. Tao gửi trực tiếp đến phòng học của em chứ không qua bưu điện. Số là một buổi tối, đi ngang nhà em, tao thấy có ánh sáng hắt ra từ một căn phòng. Nhà em có vườn rộng, buổi tối đóng cửa sớm. Tao bước lên hiên nhà em, cúi xuống nhìn qua cửa lá sách, thấy em đang học bài. Thế là từ đó, tao đến với lá thư, tao ngắm trộm em một lúc trước khi chuồi lá thư qua khe cửa. Em không biết được, nhưng sáng hôm sau, mở cửa, em sẽ thấy lá thư.

Em được thư tao nhưng không thấy phản ứng gì, gặp tao em không nhìn chỉ mím cười. Như thế thì mầy cũng hiểu là em không yêu tao, tuy có hãnh diện được tao si mê. Tao yêu em gần ba năm mà tình trạng vẫn không thay đổi. Cho đến năm tao thi xong tú tài hai, chuẩn bị vào Sài Gòn học đại học, tao mới viết một lá thư thật dài, toàn những lời si mê em. Nào là dù phương trời góc biển, tao cũng không quên em, dù sau nầy khi em không còn trẻ đẹp nữa, nếu em rủ lòng, tao sẵn sàng quì dưới chân em, làm một tên nô lệ. Cuối thư, tao xin em, trả lời cho tao vài chữ, để mắng chửi tao cũng được, miễn sao tao có bút tích của em, làm "hành trang lên đường!" Tao còn thêm một câu "Ý định xin Bình Minh một tấm hình có phải là không tưởng, là viễn vông chăng?" Góc lá thư tao ghi địa chỉ người bà con ở Sài Gòn mà tao sẽ vào trọ học. Tối đó, tao mang lá thư đến nhà em. Tưởng nghỉ hè, em đi ngủ sớm, không ngờ đến nơi, thấy đèn phòng em vẫn còn sáng, nhưng nhìn qua khe cửa lá sách, tao không thấy em. Tao đi vòng qua phía sau vườn thì phát giác phòng em còn một cửa sổ nữa. Cửa sổ nầy hé mở nhưng không có thềm nhà nên rất cao. Vì muốn nhìn em lần cuối trước khi đi xa nên tao leo lên một cây nhỏ bên cửa sổ, cố nhìn vào bên trong tìm em. Cây nầy thấp nhưng rất dẻo, tao đứng trên cành nhỏ mà không gãy. Vì sợ gây tiếng động, tao leo nhẹ như một con mèo.

Tao thấy được em, nhưng mầy biết em đang làm gì không? Nói, ắt mầy không tin, lúc đó chính tao cũng không tin ở mắt mình nữa. Em đang khỏa thân, nghĩa là không mặc áo quần gì cả. Tao nhớ rất rõ, bấy giờ, chân tay tao, cả người tao run bần bật như lên cơn sốt rét, khiến cành cây cũng rung theo, tiếng lá nghe xào xạc. Tim tao đập thình thịch, như vang dội khắp nơi. Cũng may em không để ý, vả lại tao ở trong bóng tối, em không thể nào thấy được hai con mắt tao núp sau cánh cửa. Em đứng cách tao khoảng vài mét, đèn điện sáng trưng nên hầu như tao nhìn thấy rõ từng sợi tơ mịn trên thân thể em. Ngực em nhỏ nhưng dựng đứng lên, bụng em thon, đùi em tròn...Tao không ngờ thân thể con gái hấp dẫn, tuyệt vời đến như thế. Từ lúc yêu em tao chỉ mới biết mái tóc em, dáng em đi, là những gì đẹp nhất, đến khi chiêm ngưỡng thân thể của em, từ đầu cho đến chân, tao như bị em lấy mất linh hồn. Em cứ đứng trước gương soi xoay người, nghiêng mình... giống như trình diễn thời trang nhưng lại không có áo quần gì cả! Cho đến bây giờ, em vẫn còn như trước mắt, tao nhớ suốt đời và ước mơ suốt đời, với em. Tao không biết mình chiêm ngưỡng thân thể em trong bao lâu, nhưng khi em tắt đèn đi ngủ thì hai tay tao mỏi rã rời, và lũ muỗi, chưa hề gặp được một người tử tế đến độ cho hút máu thoải mái mà không cục cựa. Khi vào đến Sài Gòn, mặt mũi, chân tay tao vẫn còn những chỗ ngứa đến mưng mủ. Trước khi ra về, tao để lá thư của tao chỗ cửa sổ. Không hiểu em sẽ nghĩ gì khi biết tao nhìn thấy thân thể em?

- Nhưng mầy có biết vì sao em lại thoát y, uốn éo trước gương soi cả buổi không? Có phải em bị một chứng bịnh nào đó về tâm sinh lý, bịnh phô bày chẳng hạn, nghĩa là em muốn được mầy ngắm thân thể em, thì em mới khoái cảm, vì biết mầy thường đến nhìn trộm em qua cửa sổ?

- Tao biết chắc là tâm lý em bình thường nhưng nguyên nhân em thoát y, cho đến bây giờ, tao vẫn không tìm ra. Để tao kể tiếp. Khi vào đến Sài Gòn độ một tuần, tao đã được thư em, tuy không ghi địa chỉ người gửi. Tao hồi hộp mở phong bì ra. Chẳng có gì cả! Tao thất vọng, nhưng nhìn kỹ, trong góc phong bì có một tấm ảnh nhỏ của em, thứ ảnh học trò thường dán trên thẻ học sinh, nhỏ cỡ lóng tay cái. Hình em tóc ngang vai, nhìn thẳng, ngây thơ, hiền lành. Đó, tấm ảnh tao dán ở góc bức tranh kia kìa. Mầy thấy hình vẽ và ảnh chụp đúng là một người, phải không? Sau ảnh em có ghi mấy giòng chữ li ti "Bình Minh báo cho anh một tin vui và một tin buồn. Tin vui là Bình Minh đã yêu một người. Tin buồn là người Bình Minh yêu không phải là anh." Tao chẳng cần biết em yêu ai, miễn có ảnh em là tao vui rồi. Chỉ cần ngắm ảnh bán thân tí xíu của em tao có thể tưởng tượng được toàn thể thân thể em, để mà ham muốn, thèm thuồng em. Vả lại khi em chịu cho ảnh lại viết mấy chữ, chứng tỏ em không ghét tao, có thể có cảm tình với tao nhưng ít hơn người em yêu. Biết đâu, khi em bị tình phụ, tao có nhiều may mắn được làm người kế tiếp. Tình yêu học trò, khó có chuyện thành vợ chồng nên tao có quyền hi vọng. Hết niên học ở Sài Gòn, tao về Đà Nẳng nghỉ hè, mục đích thăm em. Nhưng về đến nơi thì được tin em đã chết. Nhà em đã đổi chủ, gia đình em đã dọn đi nơi nào không rõ. Người ta đồn rằng em thất tình tự tử, người thì cho rằng em bị bịnh thình lình mà chết. Tao có tìm đến thăm mộ em, thắp nhang và khấn rằng "Bình Minh có linh thiêng xin linh hồn em cho anh gặp. Anh chỉ yêu một mình em thôi. Anh sẽ không yêu ai cả, không lấy vợ..." Có lẽ vì quá mơ tưởng em nên tối đó tao chiêm bao thấy em Bình Minh đến đứng cạnh giường tao, nhìn tao mỉm cười rồi quay bước ra khỏi cửa. Từ đó tao không mơ thấy em nữa, mãi đến sau nầy...khi tao có bức tranh treo kia kìa. Mầy thấy dung nhan em ra sao? Có đáng để tao si mê em không?

Tôi nhìn kỹ và nói.

- Đúng là hai tấm hình là của một người, rất đẹp, nhưng người vẽ mới là tài hoa.

- Họa sĩ danh tiếng mà mầy!

- Nhưng làm sao mầy có bức tranh nầy? Có điều lạ là chuyện mầy kể xảy ra trước năm bảy lăm, mà bức tranh nầy, họa sĩ La Hy ký tên và đề năm chín mươi, nghĩa là họa sĩ vẽ bức tranh sau khi em Bình Minh của mầy chết đã hơn mười mấy năm. Không lẽ em Bình Minh của mầy còn sống?

- Điều chắc chắn là em Bình Minh đã chết.

- Vậy thì mầy thử kể lai lịch bức tranh nầy tao nghe. Ông họa sĩ La Hy thì tao có biết tiếng. Mầy mua bao nhiêu, khi nào? Hay là mầy ăn cắp?

- Không mua mà cũng chẳng ăn cắp. Thực ra tao cũng định ăn cắp, vì bức tranh giá trị như thế, tao không đủ tiền mua, mà chắc gì ông họa sĩ muốn bán cho một thằng chẳng ra gì như tao.

- Mầy cứ kể lai lịch bức tranh nầy và nguyên nhân nào khiến mầy xanh xao, gầy còm đến như thế?

- Đừng sốt ruột! Đầu đuôi câu chuyện như thế nầy. Khi qua đến xứ Mỹ, lúc rảnh rỗi tao có làm thơ đăng báo. Thơ tao chẳng hay ho gì, nhưng bạn thơ thường tìm đến nhau, tụ tập trò chuyện. Thế rồi cả bọn đề nghị ra một tập thơ nhiều tác giả. Nhiệm vụ tao là đến nhờ họa sĩ La Hy cái tranh bìa tập thơ. Tao chưa hề biết ông ta, chỉ giở điện thoại niên giám và gọi xin đến gặp về cái tranh bìa. Đúng hẹn, tao đến. Khi vào nhà ông thì tao muốn ngộp vì tranh. Chỗ nào cũng treo đầy tranh. Thấy tao thích tranh, ông chỉ lối cho tao lên phòng trưng bày tranh của ông rồi bỏ đó cho tao được tự do. Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, tao đã có dịp xem tranh ông triển lãm, nhưng chưa bao giờ thấy nhiều tranh đến như thế. Bức nào cũng đẹp. Tao như bị thôi miên, như mộng du, cứ lẩn thẩn từ bức tranh nầy đến bức khác. Lúc gần đến cuối phòng, tao giật mình khi chợt thấy bức họa khỏa thân nầy. Đó là hình vẽ em Bình Minh, thần tượng của tao. Tao đứng ngắm hình em, mê mẩn tâm thần. Tao bỗng có ý mua bức tranh, nhưng nghĩ lại, chắc gì tao có đủ tiền để mua. Mua tranh chứ đâu phải như ở Việt Nam đi chợ mua cá mà trả giá. Cũng làm gì có chuyện mua trả góp như mua nhà, mua xe! Nhưng tao nhất định phải có bức tranh em Bình Minh. Trong trí tao bỗng nảy ra ý định ăn cắp. Lúc đó ông họa sĩ đã xuống dưới nhà. Tao nhìn quanh, thấy phòng đó có cửa kính mở ra sau vườn, giống như bất cứ nhà nào ở xứ Mỹ nầy. Đó là loại cửa đẩy. Tao kéo cái chốt gài, đẩy lùi cửa, một chút thôi, như thế cái chốt hở ra chứ không gài vào cái ngàm, coi như cửa không khóa, người ở ngoài có thể mở dễ dàng. Mục đích, sau nầy, khi cả nhà ông đi vắng, tao sẽ vào cửa sau và ăn trộm bức tranh. Tao quay xuống phòng khách, suýt soa khen tranh ông nhưng không hề đề cập đến bức họa khỏa thân em Bình Minh.

Tôi chận lại.

- Sao mầy không hỏi người trong tranh là ai? Có phải em Bình Minh hay là người nào khác? Nhất là cái năm mà ông ký tên ở góc bức tranh, cách ngày em Bình Minh của mầy chết cả mười mấy năm.

- Tao còn ngứa miệng, tò mò gấp mấy lần mầy, nhưng tao giữ lại kịp. Nếu tao hỏi mà chỉ mấy hôm sau, bức tranh biến mất thì ông ta biết ngay tao là thằng ăn trộm. Thế nên tao chỉ nói chuyện với ông ta về cái tranh bìa tập thơ mà thôi. Ông hẹn tao tuần sau đến lấy. Bức tranh cứ ám ảnh tao mãi. Dạo đó vào cuối mùa Thu, trời hay mưa. Tao dự định đậu xe một nơi xa, mặc áo mưa trùm kín, không ai nhận diện được, nhất là vào lúc khuya, mọi người rút cả vào trong nhà, ngủ kỹ, rất thuận tiện cho tao ra tay. Âm mưu chưa thực hiện được thì đã đến ngày tao đến nhận cái tranh bìa tập thơ. Hôm đó là sáng Chủ Nhật, hình như mọi người trong nhà đều tụ tập ở phòng khách. Sau vài thủ tục trao đổi, tao lấy cái tranh bìa rồi cáo từ, nhưng ông ta giữ lại "Anh chờ tôi một phút, tôi có món quà tặng anh" Xong ông ta vào phòng tranh, lúc trở ra ông mang theo bức họa khỏa thân của em Bình Minh. Tao vừa kinh ngạc vừa xấu hổ. Tao nghĩ là nhà ông có máy thu hình, lần trước đã thấy tao đứng nhìn say sưa bức tranh rồi lại gỡ cái chốt cửa kiếng ra. Thế là rõ ràng tao muốn ăn trộm. Cho nên tao thối thác ngay "Tôi thích bức tranh nầy lắm, nhưng trị giá của nó không phải là nhỏ, tôi không đủ sức mua, vả lại phòng trọ của tôi chật hẹp, không xứng để treo, thỉnh thoảng cho phép tôi đến ngắm là thỏa mãn lắm rồi" Ông ta bảo "Bức tranh nầy tôi không có ý định bán, tôi giữ trong nhà hoặc tặng cho anh mà thôi, và anh là người duy nhất được cái hân hạnh đó. Bà xã tôi đây cũng đồng ý như thế" Tao lấy làm quái lạ, trước giờ tao chỉ gặp ông họa sĩ là lần thứ hai, cũng không hề biết người nào khác trong gia đình ông, vậy mà lúc đó, mọi người nhìn tao với cặp mắt thân thiện chứ không mỉa mai như tao nghĩ. Vợ ông họa sĩ để tựa bức tranh vào tường, đứng nhìn với vẻ thân ái, rồi chị trịnh trọng trao cho tao. Cả nhà đứng lên, không phải tiễn tao mà tiễn bức tranh một cách lưu luyến. Tao chỉ biết nói cám ơn rồi mang bức tranh đi ngay, sợ ông ta đổi ý, đòi lại. Tao đặt bức tranh ở ghế bên cạnh, vừa lái xe vừa ngắm hình em Bình Minh cho đã con mắt. Đột nhiên tao kinh ngạc. Mầy nhìn kỹ xem, em Bình Minh nhìn thăng, không cười. Vậy mà lúc đó tao thấy rõ ràng, em đang liếc nhìn tao, miệng hé mở như đang cười với tao.

Tôi kêu lên.

- Thôi, chết mầy rồi, bức tranh nầy có hồn ma. Ông ta muốn tống khứ cái hồn ma trong tranh nầy cho mầy đó!

- Mầy suy luận giống tao, những gì tao kể tiếp theo đây mới xác nhận điều đó, chứ bấy giờ tao nghĩ rằng mắt mình nhìn lầm, vì khi quay nhìn lần nữa thì bức tranh không còn gì lạ, tao chỉ thắc mắc tại sao ông họa sĩ cho bức tranh mà không nói lý do?

Hắn đứng dậy đi thắp một cây nhang, cắm lên cái ly thủy tinh đựng gạo, coi như là cái bình nhang. Căn phòng hắn mướn, dưới tầng hầm, không có cửa sổ, không khí lạnh lẽo lại thêm mùi nhang trầm nên thâm u, ma quái khiến tôi tưởng như hồn ma cô gái trong tranh đang lắng nghe chúng tôi chuyện trò.

- Tao đem tấm ảnh học trò em Bình Minh tặng ngày trước ra so sánh. Đúng là em! Chả lẽ em còn sống? Ngày xưa, chính mắt tao thấy mộ bia em ghi rõ ngày sinh, ngày chết.

Tôi lại ngắt lời hắn.

- Nếu mầy xác nhận hình trong tranh là em Bình Minh của mầy thì sau gần hai mươi năm em phải khác, phải già hơn. Đây là tranh một cô gái độ mười tám tuổi, vẽ năm chín mươi, nên tao nghĩ người trong tranh là con gái em Bình Minh của mầy. Giả thiết như thế nầy. Năm đó em tằng tịu rồi có bầu với người yêu, là người mà em đã cho mầy biết trong thư. Rồi người yêu chạy làng. Em bán cái, bảo rằng đó là con của mầy, mấy bài thơ mầy tặng em là chứng cớ, rồi em chết, có thể vì bịnh, có thể vì thất vọng, xấu hổ. Biết đâu hiện nay ông họa sĩ đang nuôi cô bé đó.

Hắn cười.

- Tao không nghĩ câu chuyện lại rắc rối, ly kì như tiểu thuyết tình cảm hay tuồng cải lương. Nó đơn giản hơn nhiều. Cái ly kì là ở những gì tao sắp kể sau đây. Tao nghĩ, dù có giả thiết nào đi nữa thì em Bình Minh cũng thật sự chết rồi, và bức tranh đó là hình vẽ em nên chiều đó tao ghé tiệm chạp phô mua nhang đèn, hoa quả về đặt trước hình em, coi như thờ cúng em. Tao treo bức tranh lên, tối đó nằm nhìn tranh và nhớ lại buổi tối năm nào, tao leo cửa sổ và ngắm thân thể hấp dẫn của em. Tao khấn thầm, đúng hơn là như đọc câu thần chú "Em Bình Minh, hãy hiện ra! Hãy hiện ra!" mục đích nói vơ vẩn cho vui thôi. Rồi tao cảm thấy buồn ngủ. Lúc đó chưa khuya lắm, đèn ngủ trong phòng vẫn còn sáng. Hai mắt tao ríu lại, nửa tỉnh nửa mơ...Tao bỗng thấy như bức tranh đang trôi đi, đúng hơn là em Bình Minh từ trong tranh hiện ra, bay lơ lửng về phía tao. Tao tỉnh ngủ hẳn, muốn ngồi dậy, nhưng chân tay tao không cử động được. Tao nghe rõ tiếng xe chạy ngoài đường vừa thấy rõ em Bình Minh yên lặng đến nằm cạnh tao. Tao thấy chúng tao ôm nhau, tao đè lên em... Thế rồi tao ngủ thiếp đi.

Tôi nhận xét.

- Tuổi trung niên như mầy, như tao mà không có vợ thì chuyện sinh lý đòi hỏi đến độ nằm mơ là chuyện thường, nhất là cứ nhìn một bức họa khỏa thân trong một đêm vắng thì chuyện quần lót vẽ "đảo Hải Nam" tức là dấu vết của sự sung sức thải ra, là đương nhiên.

- Lúc đầu tao cũng nghĩ như mầy nên tao rất cảnh giác, tối đến, tao cố tỉnh ngủ để xem có thật em hiện ra không? Ấy vậy mà đến một lúc, tự nhiên mắt tao ríu lại, nhưng thần trí vẫn tỉnh. Tao thấy rõ ràng em từ trong tranh hiện ra. Em trong tranh lớn dần, từ từ rời khỏi khung, như bay về phía tao. Tao cố gắng kêu lên, cố vẫy vùng, nhưng biết rằng mình không cử động được. Điều đáng ngạc nhiên là những lần sau nầy em hành động như một cô gái điếm chuyên nghiệp. Trí óc sáng suốt của tao nhận biết em đang làm gì. Em hôn hít, vuốt ve tao. Nhất là lúc em cúi gập người xuống, phủ phục dưới bụng tao. Tao bị kích thích đến run rẩy, tê dại chân tay. Rồi tao cảm thấy tất cả tinh lực của tao, cùng với sự khoái cảm tột độ, cuồn cuộn tuôn trào vào miệng em. Giống như đứa bé mút bình sữa vậy. Tao quằn quại...rồi thiếp đi. Chỉ vài tuần sau là người tao khô kiệt như mầy thấy đây. Tao đâm sợ hãi, ban ngày, tao lật cho bức tranh úp mặt vô tường, nhưng đêm đến, tao không tự chủ được, lại trở bức tranh ra, lại mong đợi em, giống như có một ma lực xúi biểu tao thèm em, nhớ em. Để rồi em lại hiện ra. Chính tao biết rõ tình hình rất nguy ngập nhưng tao không có cách nào thoát khỏi tay em! Mầy có ý kiến gì không?

Thật tâm thì tôi không thể tin nỗi chuyện ma quái xảy ra trong thời phi thuyền liên hành tinh. Bên dưới những diễn biến tôi nghe được phải có sự thật nào đó mà chưa tìm ra? Cho nên tôi bảo hắn.

- Theo tao thì phải đến ông họa sĩ La Hy hỏi rõ người trong tranh, hỏi rõ nguyên nhân ông ta cho mầy bức tranh, hỏi xem ông ta có thấy gì lạ từ bức tranh đó không? Lúc đó mới có giải pháp khả dĩ. Tốt nhất là mầy đem trả bức tranh cho ông ta là yên chuyện.

- Tao cũng đã nghĩ như mầy. Nhiều lần tao đem bức tranh đi trả, nhưng hễ bỏ bức tranh lên xe, lái đi, là tao như người mất hồn, không hiểu mình đang làm gì, đi đâu đây! Cứ lơ mơ như say rượu. Tay lái như có người khác điều khiển vì tao giữ chặt cách mấy, tay lái vẫn bị giật qua trái, qua phải như giận dữ, nóng nảy. Nhiều lần xe tao đi vào đường cấm, có khi suýt tung xe người khác cho đến lúc phải quay xe về, tao mới tỉnh người. Hay là mầy với tao thử đến ông họa sĩ xem sao? Để tao gọi ông ta, xin đến gặp ngay bây giờ.

Hắn gọi điện thoại rồi bảo tôi rằng ông ta vui vẻ mời đến. Thế rồi chúng tôi đến nhà họa sĩ La Hy. Trong lúc trà nước, chúng tôi chưa lên tiếng thì ông đã cười bảo hắn.

- Tôi biết ngay làm gì anh cũng thắc mắc về chuyện tự nhiên lại tặng anh bức họa khỏa thân. Ngay bản thân tôi cũng có vài thắc mắc cần anh giải thích. Việc tặng anh bức tranh là do chính người trong tranh, đúng hơn là hồn một người chết hiện ra bảo như thế. Không phải trực tiếp bảo tôi đâu!

Chúng tôi càng ngạc nhiên nên đề nghị ông kể rõ lai lịch bức tranh cũng như người trong tranh, lý do ông ta tặng tranh. Ông yên lặng một lúc, đăm chiêu như cố nhớ lại câu chuyện cho rõ ràng, chính xác.

Chuyện xảy ra khá lâu, cách đây cũng gần vài mươi năm. Tôi tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật, về dạy vẽ ở Huế. Mùa hè năm đó tôi nghỉ hè tại nhà người chị ở Đà Nẳng. Vợ chồng chị tôi đều là giáo sư trung học, chưa có con. Nhà chị tôi có lầu, tôi ở một phòng riêng trên lầu, phía sau có ban công. Buổi sáng tôi thường ra ban công uống cà phê, vẽ vời linh tinh. Một hôm, đứng trên ban công, nhìn qua vườn hàng xóm, tôi thấy một cô gái đang hái hoa, có lẽ để cắm trong nhà. Tôi yên lặng nhìn cô. Một lát, vô tình nhìn lên, cô thấy tôi và cười rất tự nhiên "Chào anh!" "Chào cô bé! hôm nay không đi học sao?" "Nghỉ hè mà!" Thế rồi cô thành người hàng xóm của tôi. Tôi thường xuống thang lầu lộ thiên sau nhà, đứng bên nầy hàng rào, chuyện trò với cô. Một hôm tôi đem xuống tặng cô một bức tranh tôi vẽ cô. Cô ngạc nhiên, sao không có hình mà tôi lại vẽ giống cô? Thế rồi cô xin được lên phòng xem tranh. Tôi vạch cho cô một lối đi băng qua hàng rào, lên phòng tranh của tôi trên lầu. Sau đó tôi nhờ cô ngồi làm mẫu để tôi vẽ. Được bức nào tôi đều tặng cả cho cô. Cô đẹp tự nhiên. Tuổi cô như hoa hé nở, đầy sức sống, đầy tình yêu và tự tin. Đối với tôi, cô chỉ là người bạn nhỏ. Tuy chúng tôi thân mật và cô rất tin cẩn tôi mỗi khi gặp nhau trong phòng tranh nhưng tôi vẫn cẩn thận tránh đụng chạm và lời nói khác ý gì. Một lần tôi đề nghị cô làm mẫu khỏa thân, cô đồng ý ngay. Mỗi buổi sáng cô lên phòng tôi, cởi áo quần ra ngồi làm mẫu độ nửa giờ. Tôi hoàn toàn nhìn cô bằng đôi mắt nghệ thuật. Thân hình cô rất đẹp, không phải vì khêu gợi mà ở vẻ thanh tân, trong trắng. Thật khó nói! Giống như một viên ngọc đã được hóa công trau chuốt. Trong sáng, không một vết vẫn đục! Chân tay cô, thân thể cô là một sự hài hòa những đường nét tuyệt vời. Da cô mịn như cánh hoa hồng. Tôi như cảm nhận được mùi thơm trinh nữ từ người cô tỏa ra, thanh tao, nhẹ nhàng như hương trà, hương hoa. Thần trí tôi bay bỗng, say sưa theo từng nét cọ, từng mảng màu. Từ đó đến nay tôi chưa hề có lại giây phút rung động đến xuất thần như khi vẽ cô ta, và cũng chưa lần nào tôi vẽ đẹp đến như thế.

Bạn tôi liếc nhìn tôi. Thì ra hắn được ngắm em Bình Minh khỏa thân là trong thời gian em ngồi làm mẫu. Em uốn éo, nghiêng ngó trong gương soi là tìm cách thế sao cho họa sĩ vẽ đẹp nhất. Ông họa sĩ trầm ngâm một lúc rồi kể tiếp.

- Bức tranh vẽ xong, tôi lên khung và trao cho cô "Anh tặng em để làm kỷ niệm. Đây là bức tranh mà anh vừa ý nhất trong các tranh vẽ về em" Cô lộ vẻ sung sướng "Anh gói kỹ giùm em, thỉnh thoảng em sẽ mở ra để ngắm. Ba em thấy được, giết em chết. Để khi em lớn lên, không ở với gia đình nữa, em sẽ treo trong phòng em".

Hai hôm sau, cô lên phòng tôi, thấy tôi đang dọn dẹp các bức tranh, dụng cụ, cô hỏi "Anh hết nghỉ hè rồi sao?" Tôi nói "Còn chứ, nhưng anh phải về Huế cưới vợ. Giá như anh cưới vợ ở Đà Nẳng, anh sẽ mời em, nhưng Huế xa quá!" Cô không nói gì nhưng mặt cô tái nhợt. Cô yên lặng xuống cầu thang ra về, nhưng mới vài bước, cô đã lảo đảo ngã ngồi xuống. Tôi vội đến đỡ cô lên, dìu đến ghế ngồi. Đó là lần duy nhất tôi chạm đến người cô. Tôi nghĩ rằng cô bị trúng gió nên đi tìm cho cô lọ dầu, nhưng khi quay lại, cô đã đi rồi. Tôi ra sân thượng, nhìn xuống, thấy cô vẫn còn phải vịn vách tường vào nhà. Tôi về Huế, tháng sau thì cưới vợ. Vợ chồng người chị tôi ở Đà Nẳng ra dự đám cưới có mang cho tôi một gói lớn, đó là những bức tranh tôi đã vẽ về cô và đã tặng cô. Chị tôi bảo "Con nhỏ hàng xóm gửi trả lại mấy bức tranh" Vì bận việc tôi không lưu ý đến. Sau ngày đám cưới chúng tôi đi Nha Trang rồi Đa Lạt, Vũng Tàu hưởng tuần trăng mật. Có điều lạ là thỉnh thoảng nhà tôi nằm mơ thấy một cô gái đến bảo "Chị thật là may mắn, hạnh phúc!" Giấc mộng cứ lặp lại nhiều lần như thế. Tôi hỏi nhà tôi "Em có từng gặp, có quen ai giống người em thấy trong mơ không? Cô ta vui hay buồn?" "Cô ta không lộ vẻ vui hay buồn. Cô gái rất lạ, em chưa hề gặp ngoài đời bao giờ"

Sau tuần trăng mật, về lại Huế, nhớ lại mấy bức tranh cô gái ở Đà Nẳng, tôi mở ra định treo lên thì thấy ở bức tranh khỏa thân có miếng giấy nhỏ, ghi giòng chữ "Em buồn quá anh ơi! Có lẽ em không sống nổi!" Tôi nghĩ rằng cô học hành, thi cử sao đó hoặc vì mấy bức tranh nầy, cha mẹ cô bắt gặp, la mắng khiến cô buồn rầu chăng, nên tôi không quan tâm lắm. Khi nhà tôi lên phòng vẽ, thấy mấy bức tranh đó cứ đứng nhìn mãi "Hình như em có gặp cô nầy ở đâu?" "Đây là cô học trò ở Đà Nẳng, em đã gặp cô ta ở đó chăng?" "Em chưa nhớ ra nhưng thấy quen quen" Mấy hôm sau, nửa khuya, nhà tôi đánh thức tôi dậy "Cô gái em thường nằm mơ thấy là cô trong mấy bức tranh anh vẽ. Vừa rồi, em lại mơ thấy cô ta, tỉnh dậy, em nhớ ra ngay, có lẽ đó là hồn ma cô ta" Tôi cười bảo "Cô ta còn sống nhăn ở Đà Nẳng, hôm nào vào Đà Nẳng, anh giới thiệu cô ta để em xác nhận có đúng là người em nằm mơ không?".

Tháng sau, vào Đà Nẳng, chúng tôi hỏi thăm thì chị tôi bảo "Cô hàng xóm bịnh, chết rồi" Nhà tôi có ý nghi ngờ về tình cảm, liên hệ giữa tôi và cô ta. Tôi kể hết mọi chuyện và xác nhận rằng tôi chỉ xem cô như em gái và cô ta cũng không lộ tỏ cảm tình đặc biệt gì với tôi cả. Nhà tôi nghĩ rằng, có lẽ cô gái yêu thầm tôi nên khi nghe tin tôi lấy vợ, cô ta thất vọng, nghĩ quẫn nên tự tử chăng? Chúng tôi có tìm đến thăm mộ cô ta. Nhà tôi ghi nhận ngày sinh, ngày mất của cô, đến chùa xin lễ cầu siêu cho cô. Sau nầy hễ đến ngày cô mất nhà tôi thường đến chùa với lễ vật, cúng kiếng, cầu siêu cho cô rất tươm tất. Tôi không hề nằm mơ thấy cô ta nên tôi không tin có chuyện hồn ma, bóng quế, nhưng nhà tôi thì tin lắm.

Sau năm bảy lăm, đổi đời, chúng tôi dự định vượt biên, nhưng khi có ai đến rủ, nhà tôi đều thắp nhang, khấn xin cô về báo cho biết có nên đi hay không? Nếu không nằm mộng thì từ chối. Cho đến một hôm, nhà tôi mơ thấy cô hiện ra cười bảo "Nên đi đi!" Nhà tôi không hiểu ý gì, bất ngờ, đến trưa thì có một người không quen lắm đến rủ vượt biên, chúng tôi nhận lời. Chuyến đi thật liều lĩnh, tưởng như đun đầu cho công an bắt. Chúng tôi xuống Cần Thơ đi ăn cưới, một đám cưới thật, ngay cạnh đồn công an xã, trước chợ. Gần tối, chúng tôi xuống thuyền nhỏ. Mấy cậu công an trẻ, ăn cưới say sưa còn nói đùa "Đến nơi nhớ đánh điện về nghe! Qua đến Mỹ thì gửi về một thùng quà!" Nhà tôi cứ khấn thầm xin cô ta phù hộ. Chuyến đi vừa nguy hiểm vừa như đùa lại trót lọt một cách không thể ngờ được!

Qua đến Mỹ, nhà tôi lập một bàn thờ nhỏ, giỗ chạp tươm tất như với người thân thích, lại còn đến chùa xin lễ cầu siêu nữa. Lần trước, tự nhiên nhà tôi lại mơ thấy cô ta hiện ra bảo "Sáng mai, đưa hình em cho anh ấy đem đi!" Chúng tôi không hiểu gì cả, nhưng suy đoán rằng, sáng mai sẽ có người đến mua tranh và chắc chắn sẽ hỏi mua bức tranh vẽ về cô ta. Nhưng cả ngày hôm đó chỉ có anh đến xin cái tranh bìa cho tập thơ mà thôi. Lần trước, khi anh đến xem tranh, trong lúc anh ở trong phòng tranh thì nhà tôi bất ngờ đi vào, thấy anh đứng ngắm hình vẽ cô ta say mê đến độ có người lên mà anh cũng không biết! Chúng tôi đoán anh và cô ta phải có liên hệ gì đây, nhưng vì tế nhị nên không hỏi.

Tôi ngắt lời ông ta.

- Nghe anh kể thì chuyện xảy ra trước năm bảy lăm, sao bức tranh lại ký tên năm chín mươi?

- Khi vượt biên, chúng tôi bỏ lại toàn bộ những họa phẩm, là những gì chúng tôi quí nhất. Sang đến Mỹ, để tỏ lòng nhớ ơn cô ta trong vụ vượt biên, nhà tôi bảo tôi nên vẽ lại bức tranh về cô ta, vừa để tưởng niệm vừa như để thờ, vì thế bức tranh mới ký năm chín mươi. Khi vẽ hình cô, tuy bao nhiêu năm rồi mà tôi còn nhớ y nguyên trong đầu hình ảnh cô. Nhớ rõ từng sợi tơ, sợi tóc, từng làn da, từng hơi thở, hương thơm của cô... Bàn tay tôi như có một sức rung động lạ kỳ, như lên cơ bút, như xuất thần. Thế là chỉ trong một ngày tôi đã hoàn tất bức tranh đó, tuy không đẹp bằng bức tranh trước, nhưng rất giống.

Bạn tôi hỏi.

- Có phải cô ta tên Bình Minh không?

Họa sĩ La Hy ngạc nhiên.

- Đúng là tên Bình Minh, nhưng sao anh biết? Chúng tôi đoán không lầm, phải có mối liên hệ giữa cô ta và anh nên mới có vụ cô ta bảo tặng bức tranh cho anh. Anh có thể cho tôi biết chút ít về chuyện đó không?

Bạn tôi chỉ sơ lược rằng thời đi học ở Đà Nẳng, hắn yêu cô ta, có tỏ tình nhưng cô không đáp lại, nên khi thấy bức tranh hắn nhận ra cô ta ngay. Tuyệt đối hắn không nói gì đến chuyện hắn được ngắm cô khỏa thân hay nằm mơ thấy cô ta. Ông họa sĩ có vẻ thông cảm và hình như tin rằng những lần cô Bình Minh hiện ra trong giấc mộng của vợ ông là có thật. Ông bảo.

- Tôi nghĩ rằng linh hồn cô Bình Minh vẫn còn vươn vấn cõi đời vì một lý do nào đó.

Chuyện trò đến đấy chúng tôi cáo từ. Tôi khuyên bạn tôi nên lấy tấm hình chụp kiểu học trò của cô Bình Minh sang lớn lên rồi đem vào chùa xin thờ ở đấy. Trước hết xin chùa một lễ cầu siêu.

Thông thường, ở xứ Mỹ vì bận rộn sinh kế nên người chết dù bất cứ ngày nào cũng đều làm lễ cầu siêu, làm tuần, giỗ chạp... ở chùa vào ngày Chủ Nhật, là ngày nghỉ, cho nên vào ngày đó, ít nhất cũng năm, bảy gia đình, gồm vài ba chục người đến xin lễ cầu siêu cho thân nhân. Thật tâm tôi không tin chuyện ma quỉ, nhưng hôm đó lại có chuyện khiến tôi thêm tò mò. Số là sau lễ cầu siêu, chúng tôi chuẩn bị ra về thì nhà sư đến gọi riêng thằng bạn tôi ra sau hậu liêu, tôi cũng đi theo. Đấy là vị sư già, trên bảy mươi nhưng còn tráng kiện, sáng suốt, tính tình vui vẻ. Chúng tôi vào một căn phòng, có lẽ là phòng ăn hay tiếp khách gì đấy, gồm một dãy bàn và ghế dài, có bình trà, vài tờ báo. Vừa ngồi xuống, nhà sư đã bảo bạn tôi.

- Trông khí sắc anh không được tốt lắm, hình như anh đang bị một oan hồn, uổng tử theo quấy nhiễu, ám hại anh.

Tôi nói ngay.

- Có lẽ thầy thấy hắn ốm yếu xanh xao chứ gì?

Nhà sư cười.

- Nếu vậy thì tất cả những người đau ốm nằm bịnh viện đều bị tôi bảo rằng ma ám. Không phải vậy đâu! Tôi nhìn cái thần khí của anh ta chứ không phải vẻ xanh xao, ốm yếu bề ngoài. Có những người ốm trơ xương mà vẫn sống mãi, lại có người mập mạnh, hồng hào bỗng lăn ra chết.

Tôi vẫn không chịu.

- Thời đại khoa học không gian mà thầy. Tôi chẳng thấy ma quỉ bao giờ.

Nhà sư vẫn cười.

- Ma quỉ là vô hình, nhìn bằng mắt thường làm sao thấy được.

Nhà sư chỉ một tờ báo trên bàn.

- Nếu tôi nói theo quan niệm nhà Phật thì các anh không tin. Đây là tờ báo Công Giáo "Việt Catholic News" đưa tin. Cha Gabriele Amorth, linh mục trừ quỉ chính thức của giáo phận Rôma đã xác nhận là Đức Giáo Hoàng đã trừ quỉ cho một cô gái ở thành phố Monza, Ý Đại Lợi.

Tôi lại hỏi móc.

- Biết đâu đó là người bị bịnh tâm thần.

- Anh nói cũng có lý. Nhưng đây là cô gái khi bị quỉ nhập, đến hai toán cảnh sát mà vẫn không kềm chế được cô. Nhưng bịnh tâm thần sao Đức Giáo Hoàng chỉ trị một lần là hết bịnh ngay?

Bạn tôi nãy giờ chỉ ngồi nghe, hắn phân vân.

- Người chết, thật có linh hồn không thầy? Linh hồn có biết vui buồn, thương yêu, thù ghét gì không thầy?

- Nếu nói có thì các anh bảo tôi đã chết đâu mà biết, mà nói không thì tôi cũng chẳng vào tu hành ở đây làm gì. Tôi có cách nầy để các anh thử, nếu không có tác dụng thì các anh cứ bảo tôi nói chuyện mơ hồ, ngược lại, có hiệu quả thì xin mời các anh đến đây, chúng ta cùng tu tập. Bây giờ các anh ngồi chờ tôi một phút, có trà đây, xin mời!

Nói xong, nhà sư vào trong, một lát trở ra nói với bạn tôi.

- Đây là các lá bùa, đây là mấy câu thần chú. Anh dán trước cửa một lá, đầu giường nằm một lá, dưới chân giường một lá còn một lá anh để trong túi áo. Khi dán bùa anh đọc câu thần chú nầy. Tôi tin rằng con quỉ kia sợ oai Phật, sẽ không đến quấy phá anh nữa. Khi đọc thần chú anh nhớ khấn thêm rằng xin mời oan hồn đến chùa để nghe kinh Phật, sẽ được siêu thoát. Tôi bảo là oan hồn uổng tử cũng chưa đúng, nó là con quỉ. Nếu không làm theo tôi chỉ dẫn, anh sẽ khó thoát tay nó. Hại anh xong, nó đi tìm người khác.

Tôi hỏi.

- Tại sao nó chọn thằng bạn tôi mà không chọn người khác?

- Nó không từ một ai cả. Nhưng thường thì tùy theo cái nghiệp chướng của mỗi người. Tôi nghĩ rằng oan hồn theo ám ảnh anh đang mang một ức uất gì đấy, cũng có thể là vì những ham muốn chưa được thỏa mãn. Ham muốn tích lũy từ khi còn sống, mãnh liệt đến độ trở thành một sức mạnh thực sự có thể tác động được đến con người. Tôi đưa mấy lá bùa và câu thần chú là lấy uy danh của Phật, cấm nó không được hại anh đồng thời chúng ta sẽ cùng nhau cầu nguyện cho oan hồn đó đến chùa nghe kinh Phật, nhờ hồng ân Đức Phật độ trì cho được siêu thoát đến một cảnh giới khác.

Thấy trời đã về chiều, chúng tôi cáo từ nhà sư, ra về. Tôi theo hắn về nhà để xem hắn dán mấy lá bùa, đọc thần chú và khấn đúng như lời dặn.

Vì sốt ruột, ngay hôm sau tôi đã gọi, hỏi hắn có nằm mơ thấy em Bình Minh hiện về không? Hắn bảo không. Tôi khuyên hắn nên ra tiệm thuốc bắc, mua mấy thang về sắc uống rồi đi bác sĩ khám lại xem sao. Tôi dự định tuần sau sẽ ghé thăm, xem hắn có khá hơn không, nhưng ngay tuần đó, công ty tôi làm việc lại dời xuống tiểu bang Florida, tôi phải đi theo. Tôi thường gọi điện thoại hỏi thăm, cho hắn địa chỉ, dặn lấy cái nghỉ phép xuống với tôi, tắm biển, phơi nắng. Nhưng ít lâu sau, tôi gọi hắn thì chủ nhà bảo rằng hắn đã dọn đi nơi nào không rõ. Thực ra hắn chỉ là bạn thân thôi, chứ chẳng phải anh em ruột thịt gì mà tôi phải bận tâm, vả lại, chuyện ma quỉ đó đã như giải quyết xong, cho nên tôi không còn nhớ đến hắn nữa.

Thế rồi khoảng một tháng sau đó, tôi nhận được thư hắn, tôi thấy có gì bất thường! Tại sao không gọi điện thoại mà lại viết thư? Đến khi đọc lá thư, tôi mới hiểu rõ những gì đã xảy ra.

"N. thân mến,

"Lá thư nầy đến tay mầy thì tao không còn trên cõi đời nầy nữa. Đơn giản là tao dặn chủ nhà trọ của tao chỉ gửi thư sau khi tao đã chết. Tao muốn thế! Tao không có bà con, thân thích, chỉ có mầy là bạn, nhưng tao cũng không muốn mầy bận tâm vì tao, thân xác tao sẽ được hỏa thiêu, nắm tro tàn được gửi vào chùa. Thế là xong một kiếp người. Phải không mầy? Mục đích chính lá thư nầy là tao muốn tặng mầy bức tranh vẽ em Bình Minh thay vì gửi trả lại cho ông họa sĩ La Hy. Tao biết mầy thích bức tranh vì giá trị nghệ thuật của nó, vì tranh đẹp chứ không phải vì vẽ hình em. Mầy cứ yên tâm, em Bình Minh sẽ không hiện ra với mầy đâu. Những gì tao viết sau đây chứng minh rằng linh hồn em không còn nương náu trong bức tranh nữa.

"Sau một tuần, kể từ ngày mầy về miền Nam nắng ấm làm việc, vẫn chẳng có gì xảy ra từ bức tranh. Mỗi tối, tao vẫn nằm ngắm hình em rồi đi ngủ, dù tao có thử nói câu "Em Bình Minh, hãy hiện ra!" mà vẫn không thấy em đâu! Tao ngủ yên lành, bình thường, sức khỏe tao khá hơn. Tao nghĩ rằng em Bình Minh đã được siêu thoát hoặc đã được Đức Phật giữ lại trong chùa, nghe kinh kệ cho nhẹ bớt nghiệp chướng, oan khiên. Đôi lúc tao cảm thấy thương xót em. Trước kia nếu em đáp lại tình tao thì đâu đến nổi em phải chịu nhiều đau khổ, thất vọng đến quyên sinh. Đến chết rồi mà hồn vẫn còn vương vấn, lưu luyến người mình yêu, không thể rời được cõi trần! Và tao tưởng tượng đến một cảnh giới u u, minh minh, chỉ có một mình em, bơ vơ, cô độc. Không nói được với ai, không tiếp xúc được với ai! Em có buồn không? Có oán hận không? Oán hận ai bây giờ! Nhưng tao vẫn tự hỏi, vì sao em theo ám ảnh tao? Em muốn gì ở tao? Hay tao chỉ là nạn nhân đầu tiên, sau đó là những nạn nhân khác? Hay em cần tinh lực của tao để trở nên một con quỉ nhiều quyền phép hơn, dữ tợn hơn, không ai trị được nó?

"Dù sao thì mầy cũng như tao, đều cho rằng linh hồn em Bình Minh đã siêu thoát rồi nên mới không còn quấy rầy tao nữa. Vì tin như thế nên tao đã phạm một sai lầm chết người. Số là chủ nhà tao thuê phòng dự định bán nhà, tao phải tìm chỗ trọ khác. Chỗ trọ mới là một căn phòng, sạch sẽ, có lối đi riêng, đầy đủ tiện nghi. Trong phòng đã có sẵn một cái giường mới, rất rộng, tao thích lắm, nên bỏ giường cũ ra thùng rác trước khi dời phòng. Mầy biết sai lầm gì không? Tao không đem theo những lá bùa mà nhà sư đã cho, đến khi trở lại thì chủ nhà đã cạo bỏ lá bùa chỗ cửa ra vào. Lá bùa trong túi áo, máy giặt làm nát rồi! Ngay hôm đầu mới dọn đến, tao chưa treo bức tranh lên, vậy mà tối đó em hiện ra. Lại vẫn những cách thức như em áp dụng với tao trước đây. Tao cũng lại bị em làm tê mê đến ngây ngất, lịm đi. Hôm sau, hoảng quá, tao chạy ngay đến chùa cầu cứu, nhưng vị sư trụ trì đã đi hành hương bên Tích Lan, tháng sau mới về. Tao tìm đủ cách, ban ngày tao ngủ, ban đêm tao uống cà phê, cố mở to mắt, vậy mà hễ chạng vạng là tao lại như người mất hồn, nhớ em, mong em. Tao vừa sợ em, vừa thèm em một cách kỳ lạ. Nhất là cái cảm giác như là em đang ở cạnh tao khiến tao hoàn toàn mất tự chủ. Người tao, vừa phục hồi sức khỏe chưa được bao lâu, nay trở lại tình trạng như lần trước mầy đã gặp, e còn tệ hơn nữa, chỉ mới một tuần mà chủ nhà đã vội gọi xe cứu thương đưa tao vào bịnh viện. Cũng may tao còn bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ, nên nếu chết đi tao sẽ có chút tiền để chủ nhà lo cho tao. Tao đang viết thư cho mầy ở bịnh viện. Tình trạng tao kỳ lạ đến nỗi các bác sĩ khắp nơi xúm lại, khám nghiệm, nghiên cứu, thiếu điều muốn xẻ tao ra từng mảnh để tìm tòi, nhưng chẳng ai đưa ra một nhận xét, phương dược nào chính xác cả! Em Bình Minh mỗi tối vẫn đè tao ra mà hành sự. Có lẽ bây giờ em không cần phải nương náu trong bức tranh nữa. Em đã đủ năng lực để tự mình hiện hữu, đến độ các cô y tá, khi nghe tao ú ơ, la hét lúc nằm mơ thấy với em, các cô cố đánh thức tao, nhưng cả chục phút sau, em mới chịu buông tao ra để tao tỉnh dậy. Mỗi ngày tao đều gọi điện thoại đến chùa, hy vọng nhà sư về kịp cứu tao nhưng đến hôm nay, khi tao cảm thấy mình như ngọn đèn cạn dầu mà vẫn chưa thấy tăm hơi nhà sư. Tao không hiểu chính tao! Tâm lý tao thật lạ thường. Ban ngày tao sợ chết, nhưng tối đến, tao lại mong cho sớm được cùng em Bình Minh ra đi. Có một điều, khi tỉnh táo, tao vẫn thắc mắc, khi chết, linh hồn đi về đâu? Mà thật có linh hồn không? Hay bịnh tao chỉ là một thứ bịnh về tâm thần, về ảo giác? Một bịnh điên mới, giống như bịnh bò điên? Nhưng bịnh bò điên, nghe nói bộ óc bị hủy hoại, mủn ra như sình, còn tao thì có gì lạ đâu? Các bác sĩ đều nói thế!

"Tao cố viết thật nhiều cho mầy có đủ dữ kiện về bịnh của tao, cả dữ kiện về bức tranh em Bình Minh nữa, nhưng tao mệt quá! Bây giờ tao tạm dừng bút, nhưng không chấm dứt ý định sẽ nói với mầy. Nếu có linh hồn thật, tao sẽ hiện về cho mầy rõ, về cái cõi u minh mà người chết sẽ đến đấy. Ít ra, hễ mầy thấy trong mơ, vẻ mặt tao vui, là cõi chết không tệ lắm, hoặc ngược lại. Chúc mầy ở lại dương gian vui vẻ. Không lâu đâu, chúng ta sẽ gặp nhau. Mọi người đều đối diện với cái chết, phải không mầy? Thân mến. Bạn mầy"

*

Tôi đọc thư thằng bạn tôi mà lòng vẫn nghi ngờ. Phải có bí mật gì đây? Chuyện ma quỉ! Làm sao tin được?

Giả thiết mạnh mẽ nhất là thằng bạn tôi mắc bịnh nan y. Bịnh Aids chẳng hạn, có thế hắn mới chết nhanh đến như vậy. Người Á Đông xem chuyện tình dục như một bí mật, nên kín đáo. Vì chuyện đó mà mang bịnh là một điều nhục nhã. Và hắn xấu hổ nên mới bịa ra một chuyện ma. Biết đâu ông họa sĩ La Hy vì tình bạn, nên cùng hắn nghĩ ra những chuyện gay cấn, lâm ly để cứu danh dự cho hắn? Dù sao thì hôm lên chỗ hắn trọ, tôi cũng được chủ nhà trao cho bức tranh đúng như lời hắn dặn dò trước khi từ giã cõi trần.

Tối đó chủ nhà cho tôi ngủ tạm trong phòng thằng bạn quá cố của tôi một đêm. Tôi chẳng hề thấy ma quỉ bao giờ, mà dù thấy tôi cũng không sợ. Ma là gì? Cùng lắm cũng chỉ là cái bóng mờ ảo nào đó, nếu mình sợ là tự mình hại mình chứ ma quỉ làm gì được mình! Thế nên tối đó tôi treo bức tranh vẽ hình em Bình Minh của thằng bạn tôi trên tường, vừa ngắm vừa lầm bầm nói "Hai đứa bây, sống khôn thác thiêng, hãy hiện ra cho tao thấy, trong mơ cũng được, để xác nhận là khi chết, con người còn có linh hồn" Tôi nói đùa thôi, thực tâm tôi đang ngắm bức tranh và nghĩ đến nghệ thuật, đến tài hoa của người họa sĩ.

Tôi say sưa ngắm bức tranh, quên cả chuyện ma quỉ, cho đến khi tôi cảm thấy buồn ngủ, mắt tôi ríu lại... Bỗng nhiên tôi có cảm tưởng như bức tranh bị sút đinh, từ từ ngã xuống. Và cô Bình Minh chuồi ra khỏi khung hình, lớn dần lên. Cô trườn lên người tôi, tóc cô xỏa ra, hai tay choàng lấy tôi, như con bạch tuộc phủ lấy con mồi. Người cô lạnh ngắt, cái lạnh ghê rợn của một thây ma. Tôi cố la lên cầu cứu, mà miệng tôi cứng đơ. Tôi biết mình đang vùng vẫy, nhưng thật sự, chân tay tôi tê liệt...Và cái khoái lạc khủng khiếp khi cô gập người lại, cúi xuống dưới bụng tôi, hút lấy tinh lực của tôi, đúng y như thằng bạn tôi đã kể.

Ngay sáng hôm sau, tôi đem bức tranh trả lại họa sĩ La Hy. Dọc đường, lái xe, tôi có cảm thấy choáng váng, không tự chủ được, nhưng tôi tỉnh trí kịp. Tôi kể hết mọi chuyện, hoạ sĩ La Hy cười, cho rằng tôi nhiều tưởng tượng. Ông bảo.

- Chuyện của bạn anh, thật khó kiểm chứng! Riêng chuyện của anh, tôi nghĩ rằng, cơ thể cô gái lạnh ngắt anh thấy trong mơ chỉ là do thời tiết ở Virginia, ban đêm nhiệt độ xuống rất nhanh, khi ngủ, anh đã không đắp mền, chính cái lạnh tạo thành giấc mơ.

Hiện nay họa sĩ La Hy vẫn còn giữ bức tranh đó. Ông không bán. Ai muốn xem, xin mời đến.

Phạm Thành Châu
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

Con gà trống trong tuổi thơ tôi

Phan Hạnh

Nhớ lại hồi nhỏ ở quê nhà, tôi sống gần gũi với bao nhiêu là gia súc như gà vịt trâu bò heo ngựa chó mèo… Người trong làng nuôi chúng để rồi người ta giết chúng ăn thịt. Tôi đã chứng kiến cảnh người ta dùng chày giã gạo để đập đầu trâu, người ta bỏ chó vô bao bố để trấn nước, người ta thọc huyết heo, người ta cắt cổ gà vịt. Trẻ con vốn yêu thương thú vật, mỗi lần nhìn thấy người lớn giết một con vật nuôi, tôi không khỏi mủi lòng tội nghiệp. Tới lần con gà trống mà tôi thích cũng bị đem ra cắt cổ, tôi, thằng bé tám tuổi, không khỏi ngậm ngùi…

Sáu giờ sáng ngày hôm ấy, như thường lệ, tôi thức dậy sớm đi ra ngoài chuồng gà bên hông nhà để rải một mớ thóc cho mấy con gà ăn, đồng thời tôi cũng cho con mèo canh chuồng gà ăn luôn. Cảm thấy lành lạnh, tôi thử nhìn hàn thử biểu gắn trên vách chuồng do cậu tôi gắn; tôi thấy ghi mười lăm độ bách phân. Tôi nghĩ thầm, “Vậy thì chắc mấy con gà nằm co ro”. Đẩy cánh cửa rồi khom mình bước vào, tôi thấy ngay con Mướt, con gà trống hơi bướng bỉnh của cậu tôi, đang nằm bất động trên sàn xi măng.

Từ trước đến giờ tôi chưa hề bồng nó hay vuốt ve nâng niu nó. Mà nó cũng có bao giờ để cho tôi đụng tới nó đâu; cứ mỗi lần tôi tới gần là nó né ra xa. Cậu Ba tôi đặt tên cho nó là Mướt vì nó có bộ lông sáng mượt chiếu lấp lánh như màu vỏ ốc xa cừ. Cậu Ba tôi tên Nhàn nhưng số cậu vất vả đầu tắt mặt tối làm lụng cả ngày để nuôi một gia đình đông con. Tuy vốn liếng chữ nghĩa không nhiều nhưng cậu tôi có óc quan sát tinh tế bén nhạy, học lóm ở người khác rất giỏi, nhất là các phương cách canh tác và chăn nuôi. Má tôi thứ tư, em gái kế của cậu Ba. Trong thời gian Ba tôi rời quê Mỹ Tho lên Sài Gòn làm việc, Má tôi cùng các con phải nấn ná tá túc ở nhà cậu tôi, phụ giúp công việc. Công việc hằng ngày của tôi là lo châm bình trà cho ông ngoại và cho gà ăn buổi sáng.

Tôi quỳ xuống bên Mướt; nó vẫn không lay động. Tôi vỗ vỗ lên cánh nó và dường như nó cục cựa đôi chút. Tôi nghĩ chắc con Mướt gần chết, và tôi ngạc nhiên với chính tôi là sao mình cảm thấy buồn ghê. Con Mướt nhìn tôi bằng cái nhìn có vẻ hoang mang và giận dỗi, một cái nhìn như ngầm bảo “tôi không cần đến sự thương hại của bạn”.

Nhớ lại, cậu tôi đem nó về từ vườn nhà ông Tư Gòn và nuôi nó đã được gần hai năm nay, một khoảng thời gian đủ dài để có vài chuyện xảy ra làm cho tôi nhớ mãi. Lần đó, một con diều hâu táo bạo đã sà xuống chuồng gà và định xớt một con gà mái; tôi không biết có nên gọi đó là vợ của con Mướt không. Nhát, tên của con gà trống khác cùng lứa với con Mướt, có thể là anh em của Mướt không chừng, vừa thấy bóng con diều hâu là bỏ chạy trốn thụt mạng.

Nhưng Mướt thì khác; nó hiên ngang kháng cự và chiến đấu với kẻ gian. Nó xòe cánh nhảy tưng lên đưa hai chân đá con diều hâu, cương quyết bảo vệ đồng loại. Nghe tiếng gà la xôn xao, cậu tôi cầm cây sào chạy ra; con diều hâu hoảng sợ bay đi, hụt một chuyến săn táo bạo và một con mồi béo bở.

Danh dự và bầy đàn gia đình gà của Mướt còn nguyên vẹn nhưng chân trái của nó đã bị móng vuốt của con diều hâu gây thương tích thành tật mãi mãi. Kể từ đó, nó bước đi khập khiễng như một thương binh anh hùng trở về từ trận mạc. Tôi gần gũi với Mướt một phần vì tôi cũng có cái chân trái yếu làm cho tôi bước đi không vững tuy chưa đến nỗi cà thọt. Mướt đã cho tôi niềm cảm hứng qua việc nó đã không chịu đầu hàng, không đánh mất nhân phẩm hoặc từ bỏ nhiệm vụ của mình.

Tôi xin kể sơ lý do tại sao cái chân trái của tôi bị yếu. Hôm đó giờ ra chơi, thầy giáo trường làng cho học trò chạy đua từng cặp, đứa thua phải cõng đứa thắng chạy một vòng. Hồi đó học trò chúng tôi toàn đi chân đất, chẳng có đứa nào mang dép mang giày như bây giờ. Tôi thắng nên được cõng. Nhưng trong lúc cõng tôi chạy, đứa thua đạp gai cây mắc cỡ nên rụt chân và mất đà, té quăng tôi nhào xuống đất; xương bánh chè đầu gối chân trái tôi chạm mạnh xuống một cục gạch và trở nên yếu mãi về sau. Tôi thấy con gà trống Mướt giống thân phận tôi nên tôi thương.

Mướt trung thành làm tròn nhiệm vụ gáy sáng khi trời hừng đông, và sau đó cứ khoảng mỗi giờ nó gáy một hiệp suốt cả ngày. Mướt luôn luôn đi theo ba con gà mái vợ của nó kiếm ăn khắp nơi trong khu vườn rộng của cậu tôi, cố gắng ra sức hỗ trợ và bảo vệ ba bà vợ. Nếu một con gà mái lang thang quá xa hoặc nếu con chó vườn nhà bên cạnh xuất hiện để uy hiếp, Mướt can thiệp ngay.

Mướt kết bạn với con Vện, con chó giữ nhà của cậu tôi. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy con Mướt và con Vện hay xuất hiện bên cạnh nhau dưới gốc cây xoài, cây bưởi hay cây mận dưới ánh nắng mặt trời lốm đốm trong khu vườn nhà cậu tôi. Những lúc rảnh rang, tôi hay quanh quẩn trong vườn để săn trái chín. Tôi thích leo lên cây ổi ngồi vắt vẻo nơi cháng ba hái ổi ăn ngay tại chỗ. Có khi tôi còn đem theo gói muối ớt để chấm. Tan học, tôi cố đi thật lẹ để về trước và thăm gốc cây xoài tượng trước, nhất là mấy hôm có gió mạnh. Tôi biết chắc hễ có gió là có xoài chín rụng. Xoài tượng hườm hườm chấm nước mắm đường ăn ngon hết biết.

Khi trời chạng vạng chập tối, con Mướt gom và điểm danh mấy con gà mái vợ rồi hộ tống chúng vào chuồng. Mướt cố sức nhảy lên giường ngủ của nó là ổ rơm trên sàn tre. Suốt đêm, Mướt còn phải để mắt trông chừng sự đột nhập của rắn và chồn. Chồn lẻn vào chuồng gà thì tôi chưa thấy nhưng tôi đã thấy rắn bò quanh quẩn định lẻn vô chuồng gà. Tôi la hét um sùm lên, mấy người anh họ, con của Cậu Ba, chạy tới bẻ nhánh cây quơ đuổi con rắn chạy mất vô bụi tre. Tôi rất sợ rắn vì tôi đã từng bị nó rượt ngoài ruộng khô khi tôi đi bắt dế.

Trở lại với con Mướt nằm ngất ngư sáng hôm đó, tôi nghĩ số nó đã tới lúc bị bỏ vô nồi nước sôi. Tôi không biết phải làm sao. Tôi bồng nó lên và vuốt đầu vuốt lưng nó. Thường thường nó rất ghét ai đụng tới nó, nhất là cái mào, cái mão vua ban, cái vương miện của nó. Đương nhiên là lúc đó nó có muốn tránh tôi cũng không được. Tôi lo sợ lắm. Nếu tôi nói lại với Cậu tôi là con Mướt bịnh thì thế nào nó cũng bị đem đi làm thịt. Tôi nghĩ làm cách nào để cứu nó đây? Hồi xưa ở làng quê làm gì có bác sĩ thú y mà cũng chẳng ai bỏ công sức để cứu sống một con thú vật nhà, chôn còn không có.

Sợ con Mướt bị đem đi làm thịt trong lúc tôi đi học, hôm đó tôi bèn ẵm nó theo tới trường. Bề nào nó cũng đã yếu, đâu thể chạy nhảy quấy rầy ai. Tôi chỉ cần bỏ nó vô cái túi xách, che đậy hờ bằng một cái khăn cũ, xong xách nó theo. Thằng Ngọ lớn hơn tôi một tuổi ngồi kế tôi trong lớp cũng là đứa thương thú vật. Nó nói con Mướt khát nước; nó vạch mỏ con Mướt rồi nhổ nước miếng vô đó. Vậy mà con Mướt nhấp nhấp rồi nuốt hết. Tôi ngạc nhiên hỏi thằng Ngọ “Ai dạy mầy ngộ vậy?”, nó nói nó thấy chú nó nuôi gà đá thường hay làm như vậy đó. Vậy mà một lúc sau con Mướt tỉnh táo ra; nó khua rột rột trong cái giỏ đệm để dưới chân tôi. Tôi mừng quá. Tới giờ ra chơi, cả đám bạn tôi cùng nhau đi bắt cào cào cho con Mướt ăn. Có đứa bắt được cả dế mọi và chuồn chuồn. Tôi sung sướng khi thấy con Mướt ăn được và ăn khỏe. Thằng Ngọ có kinh nghiệm nói “Cho nó ăn bao nhiêu đó đủ rồi, đừng cho nó ăn nhiều quá bội thực chết.”

Giờ học còn lại, thầy giảng mặc thầy, tôi có theo dõi gì đâu. Lòng tôi đang rộn rã niềm vui vì con Mướt sống lại rồi. Nó đang động đậy rột rột dưới chân tôi. Tôi phải xỏ quai túi vô cổ chân để cho con Mướt khỏi chạy.

Xế chiều, học trò trong lớp đứa nào cũng buồn ngủ; có đứa không cưỡng được nên gục đầu xuống bàn, bị thầy phạt, bắt đứng cuối lớp nhún lên ngồi xuống hai chục lần, gọi là thụt dầu. Tiếng thầy giảng đều đều, đám học trò lơ mơ im lặng vì buồn ngủ và mong cho mau tới giờ tan học. Nhưng thay vì nghe tiếng trống thùng thùng, tôi nghe dường như có tiếng gà kêu “cót cót” nho nhỏ văng vẳng đâu đây không phân biệt được xa gần. Hóa ra nó phát ra từ ngay dưới chân tôi. Tôi lo ra, quên là mình đang ngồi trong lớp học; tôi hét “Nó kêu!” Đám bạn tôi giật mình tỉnh ngủ. Tôi giật mình trở về với thực tại. Thầy giật mình chẳng hiểu chuyện gì, hỏi tôi “Chuyện gì vậy trò Hạnh?” Tôi thưa “Dạ thưa thầy em mừng vì con gà của em còn sống.” Thầy vẫn chưa hiểu. Bọn bạn tôi nhao nhao giành kể điều lý thú cho thầy nghe. Con Mướt lại kêu “cót cót” nho nhỏ một phát nữa. Thầy lắc đầu nhìn đồng hồ tay phán “Tan học” vừa lúc tiếng trống tan trường vang lên. Lũ học trò chúng tôi chỉ chờ có vậy là phóng nhanh ra cửa.

Rời trường làng, tôi ẵm con Mướt trong tay, cảm thấy hơi ấm sức sống của nó truyền qua cánh tay tôi. Tuy còn mệt nhưng nó cố cất tiếng gáy theo bản năng, thật tội nghiệp vì một con gà trống mà không thể gáy thì còn giá trị gì.

Đi về gần tới nhà trên con lộ đất rợp bóng dừa, nhìn qua cổng bông giấy nhà ngoại, tôi đã nhận ra chiếc xe gắn máy hiệu Goebel màu xanh lá cây quen thuộc của cậu Sáu tôi. Cậu từng đi học nghề nhiếp ảnh hai năm ở Sài Gòn và hiện làm thợ cho một tiệm chụp hình ở tỉnh lỵ Mỹ Tho. Thành phố tỉnh lỵ chỉ cách nhà ngoại tôi chừng mười cây số, vậy mà đối với thời đó như xa xôi cách trở lắm, hiếm khi tôi được đến. Cậu tôi về, tôi mừng vì có quà và được nghe cậu đàn hát cho nghe. Tôi cũng thích văn nghệ nhưng ông bà ngoại tôi không thích lắm, cậu Sáu tôi thỉnh thoảng mới đàn ca. Thấy tôi đi học về mà ôm theo con gà, cậu hỏi tại sao. Tôi kể cậu nghe đầu đuôi câu chuyện. Cậu nói “Nó bị nhiễm trùng đó, tán nhuyễn penicilin pha với chút nước đổ vô miệng nó ba ngày là hết đó mà”. Tôi chẳng biết penicilin là thuốc gì và rất phục sự hiểu biết của cậu tôi. Người ta nói “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” cũng phải vì cậu đã từng “du học” ở thủ đô Sài Gòn hoa lệ mà tôi chưa hề đặt chân tới. Tôi rụt rè hỏi cậu; cậu lấy từ trong chiếc cặp da ra hộp thuốc nhỏ, mở hộp đưa tôi xem viên thuốc trắng tí tẹo. Cậu nói đây là thuốc trụ sinh dùng để chữa trị các bệnh do vi trùng gây ra. Cậu đưa cho tôi ba viên, bảo tôi mỗi ngày tán nhuyễn một viên cho gà uống.

Cậu Sáu tôi lớn hơn tôi 12 tuổi, cả hai cậu cháu cùng tuổi Mùi con dê. Năm đó tôi 8 tuổi, cậu 20. Tôi kể cậu nghe vụ đứa bạn học trong lớp tôi cho cho gà hớp nước miếng. Cậu cười nói trong nước miếng có chất sát trùng. Nước miếng của loài vật có nhiều chất sát trùng hơn cho nên chúng hay liếm vết thương cho mau lành và chúng ăn thức ăn không sạch cũng không sao. Nghe cậu giải thích vậy tôi mới nhớ và tội nghiệp con Vện vì nó hay liếm giùm cái đầu gối thường xuyên bị trầy trụa của tôi. Tôi là vua chụp ếch, có nghĩa là vua té do đường trơn trợt, do leo trèo, do bước đi bất cẩn vấp ngạch cửa, bậc thềm. Bị nó liếm vết trầy đầu gối, tôi cảm thấy hơi rát rát nên khó chịu xô nó ra; bây giờ tôi mới hiểu là nó chỉ muốn giúp tôi thôi.

Tôi xuống bếp tìm Má tôi để chia sẻ nỗi vui mừng. Má vừa làm công việc vừa hỏi tôi huyên thuyên về con Mướt; tôi cũng háo hức kể lại hết cho bà nghe rồi nhờ bà tán giùm viên thuốc trụ sinh. Tôi pha thuốc với một chút nước cơm rồi dùng muỗng đổ cho con Mướt uống. Nước cơm là thức uống tôi ưa thích. Khi cơm sôi, Má tôi chắt nước cơm ra tô để nguội bớt cho tôi uống. Má nói nước cơm bổ. Bổ hay không tôi không biết nhưng tôi thấy nó ngon là được rồi, thơm thơm ngọt ngọt chẳng khác gì sữa mẹ.

Sau ba ngày uống thuốc, con Mướt đã bình phục kèm theo một sự thay đổi lớn. Đó là nó không còn tránh né tôi nữa. Mỗi lần tôi kêu “Mướt Mướt” thì nó đứng yên ngẩng đầu lắng tai nghe, xong nó ngó tôi, chờ tôi tới gần. Kể ra anh ta cũng tự ái chán, làm bộ như ta đây không ủy mị. Đương nhiên là ý chí của nó mạnh hơn tôi; con gà bao giờ cũng hùng dũng hơn con dê. Gà đá nhau chết bỏ chứ dê thì bỏ chạy. Tôi đau yếu một chút là tôi than van kêu cứu, còn Mướt đau, Mướt can đảm nằm chờ chết.

Tết năm đó tôi đau thật. Ba ngày xuân tiếng pháo nổ đì đùng, nhà Ngoại rộn ràng những lời chúc tụng, các anh chị họ của tôi áo mới xênh xang, tôi nằm ở buồng trong nặng đầu thiêm thiếp. Bánh mứt Má đưa cho tôi không rớ tới; Dì Bảy an ủi cháu “Tiền lì xì Dì cất riêng cho con nè, con đừng lo. Ráng mau hết bịnh đi con.” Mọi người đều dành chút thì giờ vào buồng hỏi thăm tôi. Ngay cả lúc mơ màng, tôi cũng nghe tiếng chân bước rón rén, tiếng nói khẽ khàng “Thôi để cậu nó ngủ, lát nữa trở lại”. Tôi đã quen với cách xưng hô ngọt ngào từ nhỏ sống trong đại gia đình của ông bà ngoại. Cậu mợ dì dượng đều gọi tôi là con; các anh chị họ tuy kém tuổi hơn tôi vẫn gọi tôi bằng em, bằng tên hay bằng “cậu nó”, cứ làm như họ đã lập gia đình, đã có con nên thay cho con gọi tôi là “cậu nó” . Tôi được nuôi dưỡng và lớn lên trong bóng mát tình thương dào dạt.

Một bàn tay áp lên trán tôi. Tôi mở mắt. Má tôi hỏi “Con thấy đỡ chưa con?” Má hỏi, “Con húp miếng nước cơm được không? Má có bỏ thêm một miếng đường phèn. Con húp nước cơm rồi ngậm miếng đường cho đỡ lạt miệng”. Tôi cảm thấy khát nước nên gượng ngồi dậy. Má tôi ngồi một bên, ôm vai và vuốt tóc tôi. Húp xong chén nước cơm còn ấm, tôi xuất mồ hôi, cảm thấy đỡ mệt. Chợt Má nói “Có khách tới thăm con kìa.” Tôi còn ngạc nhiên vì có thấy ai khác ngoài dáng dấp hình bóng dịu dàng của Má tôi đâu. Má chỉ tay về phía cửa buồng. Tôi nhìn. Đang đứng lấp ló ở đó là con Mướt. Tôi mừng gọi “Mướt! Lại đây.” Nó đứng ngó, chần chừ. Tôi lấy một sợi mứt dừa nhử nhử thì nó liền tiến lại. Tôi ngắt cọng mứt dừa làm đôi để trong lòng bàn tay. Nó ngóng cổ mổ ăn ngay. “Mướt giỏi nha.”, tôi vuốt cánh nó khen. Bộ lông cánh của nó bóng mượt đầy màu sắc trông rất đẹp.

Đến ngày Mùng Ba Tết, tôi hết bịnh nhức đầu, đi chúc Tết và mừng tuổi đông đủ mọi người, nhận tiền lì xì. Riêng Ba tôi từ Sài Gòn về quê ăn Tết đoàn tụ vợ con cho tôi một cây viết máy hiệu Parker. Tôi thử viết bằng cách vẽ con Mướt. Tôi vẽ tới vẽ lui năm lần bảy lượt rốt cục vò quăng hết vì tôi biết tôi không thể nào và sẽ không bao giờ vẽ được nét đẹp thực sự của nó.

Qua Tết, tôi nhận lại công việc dậy sớm cho gà và mèo ăn mà anh họ tôi đã thay tôi trong mấy ngày tôi nằm bệnh. Hè đến, Ba tôi về quê rước vợ con lên Sài Gòn sau khi đã dành dụm đủ tiền mua được một căn nhà sàn trong khu Bàn Cờ. Tôi xin đem theo con Mướt đặng nuôi nhưng cả nhà không ai chấp thuận cả. Ba tôi nói nhà sàn cất lêu khêu trên vũng nước không có lấy một mét sân đất thì làm sao nuôi gà được. Má tôi nói gia đình tôi đoàn tụ thì sao nỡ bắt con Mướt chịu cảnh phân ly với gia đình nó. Tôi bịn rịn giã từ các anh chị họ của tôi, giã từ khu vườn nhà đầy cây trái, giã từ luôn tiếng con Mướt gáy buổi sáng tinh sương đánh thức tôi dậy ra chuồng cho gà ăn. Mấy anh chị họ của tôi xách giùm đồ đạc, tiễn tôi ra tới lộ cái để chờ chuyến xe đò Gò Công-Sài Gòn. Rảnh tay, tôi bồng con Mướt lên ôm trong lòng. Nó giẫy giụa dùng dằng không chịu. Bực bội, nó mổ cho tôi một phát đau điếng; tôi đành phải thả nó xuống đất. Dù gì nó vẫn là con gà trống cứng rắn ngang tàng chứ không ủy mị nhút nhát như tôi.

Tết năm sau tôi theo Ba Má tôi về thăm quê ngoại thì con Mướt không còn nữa. Anh họ tôi kể diều hâu lại tấn công và con Mướt cũng chống cự. Nhưng chẳng may lần này con Mướt già yếu hơn trong khi con diều hâu to lớn khỏe mạnh hơn cho nên Mướt đã bị thương ở đầu và mắt, không còn thấy đường đi. Kết cuộc dành cho một con gà tật nguyền vô dụng ở quê nhà ngày xưa ra sao tôi đã biết. Nó trở thành một bữa ăn cho gia đình theo lẽ thường tình.

Sáu mươi lăm năm đã trôi qua, bước chân đi của tôi mỗi ngày một yếu hơn, đôi khi tôi chợt nhớ đến con gà trong tuổi thơ xa xưa với một nỗi ngậm ngùi. Một cái Tết chơ vơ lạnh lẽo nữa sắp đến nơi không có tiếng gà gáy sáng trên xứ người.

Phan Hạnh
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »


Image

OAN HỒN
Phạm Thành Châu
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia, đã góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Nhà văn Võ Phiến nhận xét về các nhân vật trong ba tập truyện của Phạm Thành Châu đã xuất bản, “phải kêu là tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế.” Sau đây, thêm một truyện ngắn của tác giả.
****

Đây là một chuyện ma, gần như thật, nhưng tôi phải viết sao cho vui, cho bớt rùng rợn, để quí bà khỏi mất ngủ vì sợ hồn ma mấy cô bồ quá cố của chồng mình về lôi chân, đuổi ra khỏi giường.

Vợ chồng tôi có hai cô con gái. Chúng tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm rồi lập gia đình. Tuy nhà hai đứa nó không xa chúng tôi lắm, nhưng chỉ chủ nhật, ngày lễ, chúng mới bồng cháu về thăm ông bà ngoại. Vợ tôi cứ than nhớ cháu, rồi bực mình gây gổ với tôi. Ngày nào cũng đem hình các cháu ra ngắm. Hình nào "dễ thương hết sức" thì bắt tôi đi mua khung hình về, bỏ vô, treo lên tường. Rồi đi lòng vòng ngắm cháu trên tường như người ta xem triển lãm tranh, miệng nở nụ cười hạnh phúc, miệng lầu bầu chửi "Tổ cha cái thằng… dễ ghét!" rồi bấm điện thoại gọi con, hỏi thăm các cháu.

Các con tôi bị quấy rầy mà không dám than phiền. Tôi biết thế mới gợi ý vợ tôi, tìm một cô, cho mướn phòng, buồn tình thì cứ nói chuyện với cô ta. Con gái tôi giới thiệu một cô bạn học. Cô nầy lớn tuổi hơn các con tôi, vừa đi học vừa đi làm, kiếm tiền giúp gia đình bên Việt Nam, nên cứ ạch đụi mãi mà chưa tốt nghiệp. Nhà tôi, phía sau có một phòng rộng, có lối đi riêng nên cô ta rất thích. Nhờ có cô sinh viên nầy mà tôi đỡ bị bà vợ bắt nghe chuyện nhớ cháu. Khi cô sinh viên đến trọ, bà nấu nướng món ngon vật lạ tặng cô ta, coi như trả công đã tốn thì giờ lắng nghe chuyện cháu ngoại của bà.

Khoảng vài năm sau, cô sinh viên tốt nghiệp đại học, đã nộp đơn đến các công ty để xin việc làm. Vợ tôi, xem cô sinh viên như con, nên nấu mấy món làm tiệc mừng tốt nghiệp cho cô ta rồi gọi vợ chồng hai cô con gái đem cháu về tham dự. Trong không khí gia đình vui vẻ, vợ tôi lại lên chương trình kiếm chồng cho cô sinh viên "Theo như ngày xưa, "Đại đăng khoa" rồi phải "Tiểu đăng khoa", nghĩa là thi đậu xong là phải lập gia đình". Cô sinh viên đỏ mặt vì mắc cỡ nhưng cũng nói "Ai mà thèm lấy cháu, cô ơi!". Hai cô con gái tôi cũng hăng hái tham dự vào một trong bốn cái ngu của thiên hạ (Làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu). Mấy mẹ con hùa nhau khuyên bảo "Khi đi làm, hàng ngày đến sở, chỉ gặp toàn các ông có gia đình cả, ít có dịp hội hè, họp mặt để gặp các bạn trai độc thân. Chi bằng ráng kiếm trước một ông chồng cho chắc ăn. Để lâu thành gái già!" Bữa đó, ai cũng bị ép uống chút rượu, ngà ngà say, nên cô sinh viên cũng bạo dạn nói "Nhờ cô với hai chị kiếm giùm."

Vợ tôi chợt nhớ ra là tôi có một cậu "bạn cà phê" vong niên. Anh ta gần bốn mươi tuổi, đã tốt nghiệp đại học, có việc làm đàng hoàng. Sáng chủ nhật nào cũng lái xe đến đón tôi đi ăn điểm tâm rồi ra tiệm cà phê Starbucks ngồi trò chuyện. Tính tôi ham vui, đôi khi anh ta đưa tôi đến các tiệm cà phê của bọn trẻ, tiếng nhạc với tiếng cãi cọ, cười đùa nghe điếc tai mà tôi vẫn chịu đựng được. Có điều lạ là, bọn thanh niên thích bàn chuyện đàn bà, con gái nhưng anh bạn trẻ của tôi chỉ ngồi nghe chứ không quan tâm. Ngay cả khi cô bưng cà phê, vừa đẹp vừa hấp dẫn, mặc áo quần "xuyên bang" (mỏng) đứng gần, mà anh ta cũng chẳng thèm nhìn. Đôi khi, cô ta như tựa cái bụng vào vai anh ta, anh ta né tránh.

Tôi đưa ra nhận xét đó với vợ tôi và lưu ý rằng, nếu giới thiệu anh chàng bất bình thường nầy cho cô sinh viên, sau nầy rủi có chuyện gì không hay, cô ta ắt sẽ phiền trách gia đình tôi. Vợ tôi vẫn khăng khăng "Ông không thích thì để mẹ con tôi lo. Bữa nào ông mời hắn đến đây ăn cơm, tôi đứng ra giới thiệu cho hai đứa làm quen. Con nhỏ đẹp đẽ, nết na, thằng nào không ưng?"

Vậy là tôi phải mời anh chàng dị ứng với phái nữ đó đến dự bữa cơm gia đình. Được sắp xếp ngồi bên cạnh người đẹp mà không thấy anh ta hăng hái trong việc chinh phục cô gái, tuy có hỏi chuyện, có bỏ thức ăn vào chén cho cô ta, nhưng rõ ràng chỉ làm bổn phận bình thường. Cô gái thì vẫn giữ kẽ, không tỏ vẻ gì đặc biệt. Xong bữa ăn, chờ cho cô sinh viên về phòng, vợ tôi và hai cô con gái giữ anh chàng kia lại và bắt đầu đặt những câu hỏi.
Anh ta và gia đình tôi cũng ở chỗ thân tình, vợ tôi chẳng khách sáo gì nên câu hỏi có hơi sỗ sàng; "Anh thấy người đẹp lúc nãy ra sao mà coi bộ lơ là?" Anh chàng chỉ cười "Dạ, cô Mai cũng đẹp lại hiền lành."Vợ tôi bắt đầu ca tụng cô sinh viên đủ điều "Nó ở đây với chúng tôi mấy năm nay mà không hề thấy bạn trai, không hề chưng diện. Đi học, đi làm về là phụ với tôi nấu nướng, dọn dẹp như gia đình của nó. Nó mà trang điểm vô thì phải biết. Đẹp lắm! Ai mà được nó làm vợ thì sướng như tiên. Bây giờ nó lại tốt nghiệp đại học, sắp sửa đi làm, lương hướng đâu có thua ai... Ủa! Sao anh lại cười? Bộ tôi nói không đúng sao? Hay anh chê nó?" "Dạ, cháu đâu có chê cô ta, nhưng cháu có lý do riêng. Cháu không có ý định lập gia đình nên không dám nghĩ đến cô Mai".
Vợ tôi khựng lại, vợ chồng hai đứa con gái tôi, tuy ngồi xa, đang dõng tai lên nghe lén, cũng thở dài thất vọng. Mọi người nghĩ, có lẽ anh ta không bình thường về sinh lý. Chuyện đó không nên đề cập đến vì kỳ cục, đáng mắc cỡ. Tuy thế, vợ tôi cũng kể lại cho cô Mai nghe chuyện làm mai thất bại, nhưng lại kết luận "Nó khen con đẹp, hiền giỏi giang đủ thứ, nhưng có lẽ nó "lại cái" hay sao đó nên coi bộ lơ là. Để cô điều tra thêm mới biết tại sao" Cô gái giẫy nẩy lên "Cô làm vậy kỳ lắm! Làm như con mê anh ta, bắt cô phải dụ dỗ anh ta cho con."

Thế là bao nhiêu hăng hái, thiện chí của vợ tôi xẹp xuống như bong bóng xì hơi. Tôi nói với vợ tôi "Bọn nhỏ bây giờ chịu nhau thì tự động tìm đến, bàn tính, giao hẹn với nhau như người ta mua bán hàng hóa vậy, không như thời xưa đâu. Bà làm nghề mai mối, lỗi thời rồi." Vợ tôi vẫn còn tức "Ông biết gì về thằng đó không? Mấy năm đi uống cà phê với nó, có nghe nó nói gì về bịnh hoạn, hay dị tật gì trong thân thể nó không?" Tôi cự ngay "Tôi có phải bác sĩ đâu mà đi hỏi chuyện sinh lý của người ta! Tôi chỉ biết là nó không hề để ý đến đàn bà, con gái nên tôi lưu ý bà, đừng làm chuyện tào lao mà thêm phiền." Vợ tôi vùng vằng "Để đó, tôi phải điều tra cho ra, tại sao con Mai đẹp như vậy mà không chịu? Tôi thấy, hình như nó có nhìn con Mai, nhưng nhìn trộm, kiểu như ông nhìn gái mà sợ tôi bắt gặp." Tôi tức cười "Bà đừng đem tôi ra mà suy luận. Bà phải phân biệt cái nhìn của tôi với người khác. Tôi nhìn người đẹp vì nghệ thuật, vì vẻ đẹp nhưng không ham muốn. Thằng đó mà nhìn con Mai giống như tôi thì coi như bỏ đi rồi, đừng bao giờ nghĩ tới chuyện mai mối mà bị con Mai trách móc sau nay." Vợ tôi tự nhiên nổi xùng "Xí! Ông mà nghệ thuật. Nghệ thuật gì ở chỗ ngực, chỗ đùi người ta? Không có tôi, ông đi tới trời." Hễ thình lình nổi ghen, vợ tôi thường lôi những chuyện "xưa rích" ra đay nghiến. Tôi không thèm cãi lại, chỉ hỏi "Bây giờ nói chuyện tôi nhìn gái hay chuyện làm mai?" Bả không thèm nhìn tôi "Ông muốn nói chuyện gì tôi cũng nói được. Đừng làm bộ vô tội... Tôi muốn hỏi ông. Thằng đó có thích con trai không? Nó có cập kè với thằng "bê đê" (lại cái) nào không?" "Tôi thấy nó cũng bình thường chứ chẳng cập với thằng "bê đê" nào cả." "Vậy thì tuần tới lại mời nó đến nhà mình ăn cơm, để tôi biết chắc nó có nhìn trộm con Mai thật không?" "Bà muốn thì tự làm lấy, coi như tôi không tham dự vào chuyện mai mối của bà." Đàn bà tinh mắt hơn đàn ông, tôi để ý mới thấy.

Bữa cơm sau đó, anh ta quả có nhìn trộm con nhỏ Mai. Cái nhìn đầy nam tính nhưng lại có vẻ lén lút, như sợ ai bắt gặp. Cả đến việc anh ta chuyện trò hay bỏ thức ăn cho con nhỏ cũng lấm lét, như vụng trộm, mặc dù anh ta biết, gia đình tôi mời đến ăn cơm là để anh ta tán tỉnh con nhỏ Mai. Lẽ ra, nếu anh ta thích thì cứ mạnh dạn, công khai tỏ tình với người đẹp. Tại sao phải lén lút? Có uẩn khúc gì đây? Tuy nghĩ vậy nhưng vợ chồng tôi làm như không biết, cuối tuần vẫn mời cơm và sắp xếp cho hai cô cậu ngồi gần nhau. Ít lâu sau vợ tôi quyết hỏi anh ta cho ra lẽ.

Một buổi chiều thứ bảy, trong nhà chỉ có vợ chồng tôi và anh chàng dị ứng với đàn bà đó. Vợ tôi tính nóng lại xem anh ta như em cháu nên hỏi ngay "Anh thấy con nhỏ Mai ra sao? Có ưng không? Tôi làm mai cho." Anh ta có vẻ lúng túng "Thú thật, cháu để ý cô Mai từ lâu, nhưng cháu đã lỡ hứa là sẽ không bao giờ lấy vợ, nên cháu không dám tiến xa hơn. Ngay đến chuyện nhìn đàn bà con gái cháu cũng không dám". Vợ tôi kinh ngạc và nổi xùng "Ai cấm anh lấy vợ? Ai cấm anh nhìn đàn bà con gái? Người nào có quyền gì mà cấm chuyện lạ đời đó? Đến ông tổng thống Mỹ cũng không có quyền đó. Anh nói tôi nghe. Ai cấm? Hay anh có bịnh gì nên bác sĩ cấm anh? Hay anh lại cái?" Tưởng mắc cỡ vì bị nói là "lại cái", nhưng anh ta chỉ cười "Đúng ra không phải là người nào cấm mà là lời nguyền của cháu với vong linh một cô gái. Cháu đã hứa với vong linh cô ta là, suốt đời, cháu sẽ không lấy vơ."
Tôi không muốn rây vô chuyện mai mối phiền phức nên ngồi uống trà ở bàn ăn. Khi nghe hai tiếng "vong linh", vợ tôi biết là chuyện ma nên hơi ngán, bèn bảo tôi "Ông qua đây tiếp chuyện, tôi đi nấu miếng nước". Đàn bà, trẻ con, càng sợ chuyện ma, càng muốn nghe. Biết vậy nên tôi bưng tách trà qua xa lông và nói với anh ta "Khi hứa với người đã khuất thì phải giữ lời, vì với người còn sống mình có thể giải thích được chứ với ma thì nói ai nghe?!" Vợ tôi cự ngay "Ông phải để cho anh ta kể hết sự việc xem sao, chưa chi đã bàn ra".

Anh ta cúi xuống, dùng tay vạch mái tóc để lộ một vết sẹo dài cỡ nửa tấc. Vết sẹo như một cái rãnh nhỏ, một lớp da mỏng che xương sọ trắng xám giữa đám tóc đen và cứng như rễ tre. Vợ tôi đến nhìn, rồi ngồi xuống, hóng chuyện.
"Cháu bị chúng chém. Tưởng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống được." Vợ tôi sốt ruột "Ai chém anh? Vì sao chúng chém?" Anh ta uống chén trà rồi mới thong thả nói "Sau bảy lăm (1975), cháu học xong trung học nhưng không được vào đại học vì lý lịch. Ba cháu, là sĩ quan Cộng Hòa, đi tù cải tạo. Vợ cháu cũng có cha đi tù. Hai gia đình quen thân nhau từ trước, đều ở trong trại gia binh. Năm bảy lăm, mọi người đều bị đuổi ra khỏi trại gia binh. Gia đình cháu phải về quê ngoại ở Mỹ Tho. Hai gia đình gom góp tiền vàng cho hai đứa cháu vượt biên. Bữa đó tổ chức tiệc cưới, mời chính quyền xã, ấp, nhất là công an địa phương đến nhậu nhẹt say mềm. Chúng cháu làm như đi rước dâu, đến khuya, đám rước thay vì về nhà trai lại chạy thẳng ra cửa biển. Như vậy, chúng cháu chưa gần gũi nhau bao giờ. Thuyền lênh đênh trên biển được năm ngày thì gặp hải tặc Thái Lan. Chúng chém đàn ông, con nít rồi bắt đàn bà con gái qua thuyền chúng. Cháu nhào đến cứu vợ cháu thì bị chém vào đầu, ngã gục. Hôm sau tỉnh dậy, trong thuyền chỉ còn xác chết với mấy người bị thương nặng. Theo lời kể lại thì vợ cháu thấy cháu bị chúng chém chết, bèn vùng vẫy và nhảy xuống biển tự tử. Lúc đó, cháu tin rằng mình cũng sắp chết vì thuyền bị bọn hải tặc húc, tràn nước, sắp chìm, nên cháu khấn với vong hồn vợ cháu "Em sống khôn thác thiêng, xin chờ anh. Anh bị thương nặng, thuyền sẽ chìm, anh sẽ chết. Hai linh hồn mình sẽ được bên nhau mãi mãi. Nếu còn sống, anh thề không lấy vợ, sẽ ở vậy thờ em cho đến ngày anh chết, sẽ được gặp em". Không ngờ, vừa lúc có một thương thuyền đi ngang qua, nhìn thấy, bèn cứu lên tàu. Không ai hiểu sao, với vết thương nặng như vậy mà cháu sống sót được? Cháu qua Mỹ, cố gắng học, kiếm việc làm để gửi tiền về Việt Nam cứu giúp hai gia đình." Vợ tôi hỏi "Từ đó đến nay, anh có bao giờ thấy vợ anh hiện hồn về không?" "Dạ không! Nhưng cháu tin rằng, vong linh vợ cháu lúc nào cũng ở bên cháu. Cháu lập một cái trang nhỏ làm bàn thờ, để di ảnh vợ cháu lên, mỗi ngày đều thắp nhang. Đi làm về, cháu ghé tiệm cơm, mua thức ăn về, đặt lên trang thờ, cúng vợ cháu, sau đó, dọn xuống, mời vợ cháu cùng ăn. Đi đâu, làm gì, cháu cũng kể cho hồn vợ cháu nghe."

Vợ tôi tưởng như hồn cô gái cũng ngồi trong phòng, nên ngồi sát vào tôi, coi bộ cũng ngán nhưng vẫn hỏi "Có bao giờ anh thử làm quen, chuyện trò thân mật với một cô gái nào đó chưa? Nếu hồn vợ anh còn ở bên anh, sẽ tìm cách để anh hiểu là cô ta không bằng lòng. Cô ta sẽ hiện hồn cho anh thấy chẳng hạn. Anh thử lần nào chưa?" "Thực tâm, cháu không muốn làm vong linh vợ cháu buồn tội nghiệp. Cái chết của vợ cháu quá đau thương nên dù có cảm tình với cô nào cháu cũng ngại. Cứ tưởng tượng, cháu đang thân mật với cô nào đó, linh hồn vợ cháu đứng bên cạnh, mặt buồn xo vì bất lực, không có cách nào cho cháu hiểu là cô ấy buồn lắm..." Tôi lên tiếng "Anh nên nghĩ rằng, linh hồn vợ anh buồn vì thương yêu anh mà không có cách nào phục vụ, săn sóc, an ủi anh, nhất là những khi anh đau ốm. Cô ấy biết rõ, anh cần một người thay cho cô ấy lo cho anh. Anh không thể sống độc thân mãi được. Theo tôi, chết là hết, nếu còn thì đã siêu thoát hoặc đi đầu thai kiếp khác rồi. Anh phải lấy vợ, sinh con, thương yêu gia đình nhưng vẫn tưởng nhớ, thờ phụng, giỗ quải chu đáo cô vợ trước là đủ bổn phận với người quá cố rồi."

Vợ tôi tưởng có chuyện ma hiện hình nên sợ, đến khi nghe kể thì chẳng có ma quái gì, lại nghe tôi bàn tính hợp ý, nên thúc hối "Chết là hết. Anh để ý con Mai thì nên tiến tới, đừng để nó xin được việc làm, đi xa thì "xôi hỏng bỏng không". Không có cô nào hoàn hảo như con Mai. Tôi bảo đảm với anh, sau nầy cưới về, có gì không bằng lòng nó thì cứ lôi tôi ra mà mắng vốn." Anh ta có vẻ xiêu lòng.

Chúng tôi bàn tính, đưa ra một chương trình giúp anh ta tiến đến với cô sinh viên Mai. Trước hết, anh ta về khấn với linh hồn cô vợ, nếu không bằng lòng thì cho biết, hoặc trong giấc mơ hoặc một hiện tượng nào đó, ngược lại thì sẽ không có chuyện gì xảy ra, rồi thì hai người, anh ta với cô Mai sẽ gặp nhau, tìm hiểu, nếu hợp ý thì tiến hành lễ cưới. Trước khi ra về, anh ta dặn chúng tôi là đừng cho cô Mai biết gì về chuyện riêng (ma) đó của anh ta.

Tối đó, chờ cô Mai về, vợ tôi lò dò vô phòng cô ta, tỉ tê, to nhỏ cả buổi rồi lên bảo tôi "Xong rồi! Để hai anh chị làm thân với nhau, mình khỏi phải làm phiền chúng nó nữa." Tuy nói vậy chứ vợ tôi vẫn cứ tò mò hỏi chừng cô sinh viên, tình hình ra sao? Thì ra họ đã hẹn nhau đi ăn tiệm, đi shopping, xem phim... Cô gái đã có việc làm, anh chàng kia thì đã mua nhà từ lâu nên chuyện sống chung của hai người không thấy trở ngại nào.
Khoảng ba tháng sau, cả hai báo cho chúng tôi biết, họ sẽ làm đám cưới và nhờ chúng tôi việc thực hiện các nghi lễ truyền thống như lễ hỏi, lễ cưới. Về tiệc cưới thì có nhiều bạn học giúp tổ chức, sắp xếp. Mọi việc, chúng lo hết... Vì cha mẹ của cô dâu, chú rể đều còn ở bên Việt Nam nên phải nhờ tôi thay mặt cho nhà gái, một gia đình khác đại diện nhà trai.

Tối đó, tiệc cưới chấm dứt lúc mười hai giờ khuya, chúng tôi không quen thức khuya nên về đến nhà là lăn ra ngủ vùi. Khoảng hai giờ sáng, chuông điện thoại reo, vợ tôi bắt lên nghe "Cô đây! Sao? Muốn về đây hả? Bây giờ con đang ở đâu? Để cô nói chú mở cửa đón con. Năm phút nữa hả? Được. Bye con!" Vợ tôi bảo "Ra mở cửa đón con Mai. Không hiểu có chuyện gì mà nó bỏ chồng về đây?" Tôi lầu bầu "Làm mai thì phải ráng mà lãnh!"

Tôi vừa mở cửa thì xe cô Mai cũng vừa ngừng trước sân. Cô ta chạy ào vô nhà, không kịp tắt máy xe. Tôi ra tắt máy xe, vào nghe xem chuyện gì đã xảy ra? Thấy cô ta ôm vợ tôi cứng ngắc, không nói tiếng nào, người run cầm cập. Vợ tôi cũng đâm hoảng, hỏi dồn dập "Có chuyện gì vậy?" Hỏi hoài mà chỉ nghe cô ta vừa thở vừa lí nhí trong miệng, chẳng hiểu gì cả!
Một lúc sau cô mới nói rõ "Ảnh nuôi ma trong nhà!" Vợ tôi nghe thế co rúm người lại "Ma nào? Ông ra đóng cửa lại mau. Coi chừng nó theo vô nhà. Con thấy con ma như thế nào?" "Con không biết! Con ma đàn bà. Ghê quá! Nó nắm chân con lôi ra khỏi giường."

Hai người đàn bà tự mình làm cho mình khiếp sợ thêm, cứ vơ tay tìm cái mền. Tôi thấy buồn cười nhưng cũng giúp đắp kín mít hai người trong mền, chỉ để lộ hai cái đầu để tiện nghe họ đối đáp. Vợ tôi thì thào "Ông ra thắp nhang trên bàn thờ, khấn vái cho con ma đi ra." Tôi dọa "Thắp nhang, chúng ngửi mùi thơm, kéo vào thêm đông vui. Muốn thắp thì thắp!" Vợ tôi nạt "Người ta đã sợ muốn chết còn nhát nữa! Ông đi nấu miếng nước, pha trà cho nó uống tỉnh trí."

Tôi đi pha trà, thêm cho mỗi người một viên thuốc chống dị ứng (làm cho buồn ngủ). Một lúc sau, cả hai đã chìm vào giấc ngủ. Tôi ra xa lông nằm, gọi điện thoại đến chàng rể "Có chuyện gì mà cô dâu bỏ về đây vậy?" "Cháu không rõ. Vừa tắt đèn thì cô ấy bắt mở đèn vì cô bảo thấy có người trong phòng. Mở đèn một lát, cô vừa thiu thiu ngủ thì bỗng vùng dậy bảo "Anh nuôi ma trong nhà!" rồi chộp lấy chìa khóa xe, tung cửa chạy ra ngoài, lái xe đi. Nhưng cháu có thấy ma quái gì đâu?" "Anh có dẹp cái trang thờ vợ trước của anh chưa?" "Cháu đem di ảnh vợ cháu cùng với lư hương, chân đèn vào closet (ngăn treo áo quần). Trang thờ trống trơn." "Tôi nghĩ, anh nên thiết lâp lại trang thờ. để di ảnh người đã khuất cùng với đồ thờ lên cùng với lễ vật, sau đó anh thử khấn xin vong hồn người quá cố thông cảm cho anh mà bớt giận hờn, đừng phá cô Mai nữa." "Cháu định bán ngôi nhà nầy, nhưng chưa biết thờ di ảnh vợ cháu ở đâu? Vì nếu thờ nơi tụi cháu ở thì cô ta sẽ quấy phá Mai, không yên đâu!" "Chỉ còn cách là đến chùa xin mấy lễ cầu siêu rồi thờ luôn cô ta trong chùa để vong hồn được nghe kinh kệ, sớm siêu thoát. Tạm thời, đừng liên lạc với cô Mai, coi như chấm dứt để vong hồn cô ta khỏi ghen tương mà có thể làm hại cô Mai".

Sáng hôm sau, tôi trấn an cô Mai "Có lẽ cô nghe người ta kể chuyện ma nên bị ám ảnh chứ thời nầy làm gì có ma." Cô Mai vẫn chưa hết sợ "Tối hôm qua, cháu thấy rõ ràng một người đàn bà từ trong "closet" đi ra, đến cạnh giường chỗ chồng cháu nằm. Cháu tưởng ăn trộm, bắt chồng cháu mở đèn, thì chẳng thấy gì cả. Cháu nghi là nhà có ma nên sợ quá, trùm mền kín mít, ôm chồng cháu ngủ. Mới thiu thiu thì cháu thấy lạnh ở cổ chân. Cháu nghĩ mình để chân ngoài mền, nên co chân lại, không ngờ, chân cháu như có ai giữ lại bằng hai bàn tay lạnh ngắt, không co lại được. Cháu nhìn xuống thì thấy lờ mờ người đàn bà lúc nãy đang cúi xuống như cố lôi cháu ra khỏi giường. Cháu co chân kia, đạp cho bà ta một đạp rồi vùng dậy, lái xe về đây." Lúc đó là ban ngày mà vợ tôi cũng rút chân lên ghế. Đã sợ mà còn hỏi thêm "Con thấy con ma ra sao?" "Nó chỉ lờ mờ, nhưng cháu biết đó là một người đàn bà, tóc rủ trước trán, che không thấy mặt, hai cánh tay với mấy ngón tay chỉ còn xương, giống như hình chụp quang tuyến (X ray). Trước giờ cháu chưa hề thấy ma, cháu cũng không sợ ma, nhưng bây giờ cháu biết chắc là nhà đó có ma." Tôi đề nghị, cô Mai đừng liên lạc với chồng cho đến khi nào chuyện ma đó giải quyết xong. Mấy hôm sau tôi gọi cho chàng rể thì được anh ta kể lại như sau "Cháu theo lời chú, thiết lập lại trang thờ cùng với lễ vật, rồi cháu lên nhang, đèn và khấn rằng, tuy cháu vẫn thương yêu cô ta (người vợ quá cố), nhưng âm dương cách trở, chỉ có thể gặp nhau sau khi cháu giả từ cuộc sống trên thế gian nầy để về với cô ta. Hiện tại, cháu không thể sống một mình mãi vì sau nầy, khi lớn tuổi, bịnh hoạn, già yếu không ai săn sóc, mong cô ta thông cảm để cháu có một người bạn gái bên cạnh. Cháu nghĩ rằng, vợ cháu, thân xác đã tan rã nơi đáy biển, trong cõi u minh lạnh lẽo, chỉ còn cháu là nơi để linh hồn vợ cháu nương tựa tìm hơi ấm của tình vợ chồng. Nay có một người thứ ba chen vào, vợ cháu sẽ đau đớn, buồn rầu lắm. Cháu ôm di ảnh vợ cháu mà khóc, và khấn rằng. Nếu không muốn cháu lấy vợ thì báo mộng cho cháu biết. Nếu không báo mộng thì coi như bằng lòng…" Tôi bảo "Dù cô ta có cho anh lấy vợ nhưng không có nghĩa là cô ta không ghen, không thù hận người chiếm đoạt tình cảm của chồng mình." "Cháu nghĩ, khi một người đã chết rồi, linh hồn không thể ghen tương được nữa." "Tôi nghe người ta nói. Những người chết oan, chết thình lình, tức là bất đắc kỳ tử, thần thức không chịu rằng mình đã chết, không chịu đi đầu thai, lúc nào cũng tìm về với người thân. Cô vợ quá cố của anh, càng yêu anh khi còn sinh tiền thì lúc chết, linh hồn càng quấn quit bên anh, càng đau khổ, càng ghen tương, thù hận. Nó không để yên cho con nhỏ Mai sống với anh đâu. Nó chỉ cần nhác ma vài lần là con nhỏ Mai bỏ chạy ngay." "Chú nói có lẽ đúng. Khi cháu khấn đến đấy thì bỗng nhiên mấy cây nhang cháy bùng lên. Cháu thắp đợt nhang khác, nó cũng cháy bùng đến tận gốc. Cháu nghĩ nhang không được tốt, nên không thắp nhang nữa. Rồi thì đến lượt cây đèn cầy. Cháu vừa quay lưng là một cây đèn cầy bị tắt. Cháu thay cây khác, cũng vừa quay đi thì đèn tắt. Lần sau, cháu thắp đèn lên, vờ quay đi nhưng nhìn vào chiếc gương soi treo trên vách, thì thấy ngọn đèn như bị hai ngón tay vô hình bóp cái tim đèn, khiến nó dẹp lại, tắt ngấm chứ không như bị gió thổi, ngọn lửa phải nằm rạp xuống trước khi tắt. Hôm sau, cháu đến chùa, kể hết mọi sự cho vị sư trụ trì, thầy dạy rằng "Nhang cháy bùng, cháy cả chân nhang, thì gọi là "hóa hình nhang", là có sự giao cảm giữa hai giới âm dương. Một ngọn đèn bị tắt thì cứ nam tả, nữ hữu, theo đó mà biết người nam hay nữ sẽ bị hồn ma theo ám hại. Cái vong nầy là trinh nữ, là oan hồn uổng tử, đã thành quỷ, nên lộng hành, phải nhờ oai linh Phật Tổ, khuyến dụ nó chịu về chùa, rồi phải cúng giải oan cho nó trong bốn mươi chín ngày sau đó nó mới chịu qui phục Tam Bảo, nghe kinh kệ mà chuyển nghiệp lành, vãng sanh tịnh độ. Hồn ma thường rất sợ ánh sáng và tiếng động mạnh như tiếng pháo nổ, súng nổ. Vậy nên, khi đem di ảnh của cái vong nầy từ nhà về chùa phải đốt một trái pháo, giống như ở Việt Nam, khi di quan (khiêng quan tài ra khỏi nhà), người mình thường đốt pháo hoặc đập mạnh một cái nồi, niêu gì đó cho hồn bạch (hồn người chết) ra khỏi nhà cùng với quan tài. Hôm lễ đưa vong, thầy và các Phật tử hộ niệm sẽ đến giúp. Nhớ đem theo di ảnh của nó. Di ảnh thay cho thần chủ (bài vị) là nơi vong linh nó ẩn náu". Tôi khuyên anh ta không nên liên lạc với cô Mai trong một thời gian, khi nào xong lễ giải oan, yên ổn, hãy tính sau.

*****

Chúng tôi ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, gần thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Mỗi năm, đến lễ quốc khánh Hoa Kỳ (July 4), buổi tối có đốt pháo bông, gia đình chúng tôi, gồm con, cháu, sau nầy có cô Mai, sinh viên ở trọ, kéo nhau lên thủ đô, gần cây bút chì để xem đốt pháo.
Quốc khánh năm nay, vợ tôi gõ cửa, rủ cô Mai cùng đi, thì cô không có trong phòng. Gọi điện thoại cầm tay, điện thoại đã đóng, gọi cho chồng cô, điện thoại cũng đóng. Khi mở phòng cô Mai, mới biết, tất cả những gì của cô đã dọn sạch, chỉ thấy một mãnh giấy nhỏ có giòng chữ "Vợ chồng cháu sẽ gửi thư cho cô sau." Cả hai đã bí mật, lặng lẽ dọn đi nơi khác, có lẽ sợ hồn ma cô gái kia đi theo.
Hai tháng sau, chúng tôi nhận được một lá thư, không ghi tên, không địa chỉ người gửi, dấu nhật ấn bưu điện cho thấy thư được gửi từ một thành phố rất xa. Chỉ vỏn vẹn mấy giòng: "Tụi cháu không dùng tên cũ trong giao tiếp với bạn bè, không gọi nhau tên thật. Hôm quốc khánh, hai đứa cháu đi hai chiếc xe riêng, lấy bột màu bôi khắp mặt mũi, chân tay, đến chỗ cây bút chì trên Washington DC, ngồi hai nơi cách xa nhau, chờ đốt pháo bông. Khi ánh chớp và tiếng pháo nổ rộ lên (thầy trụ trì nói. "Nó" có theo chồng cháu đến đó mà nghe pháo nổ, ánh sáng xanh đỏ khắp nơi, ắt phải hoảng kinh bỏ chạy), nhân dịp đó chồng cháu lái xe chạy trước, cháu chạy sau. Tụi cháu đi suốt đêm. Xa lắm… Vì đã xin việc từ trước nên cuộc sống tụi cháu không có gì trở ngại. Từ hôm đó đến nay cháu không còn bị quấy rầy nữa. Cầu mong Phật tổ từ bi, cứu độ cho "chị ấy" hiểu thấu lẽ vô thường, không còn đau khổ, lưu luyến cõi trần mà siêu thoát vào cõi hư vô. Vợ chồng cháu rất cám ơn cô chú. Chúc cô chú sức khỏe".
Đọc xong thư, tôi đưa cho vợ tôi đọc. Bả đọc mấy giòng đầu đã co chân lên ghế, đến cuối thư thì mặt mày xanh lét, vội vất lá thư đi. Tôi dọa "Con ma đó không theo được với thằng kia nên "tạm trú" ở đây. Nó đang đọc chung thư với bà đó. Để tôi đến chùa, mời thầy trụ trì đến "tiếp dẫn" nó về chùa."
Tôi đi lấy chìa khóa xe để đi chùa. Mọi khi đi đâu, tôi phải chờ nửa tiếng để vợ tôi trang điểm. Nay thì chả phải trang điểm, ăn diện, vừa nghe tôi nói, bả đã phóc ra xe trước tôi, ngồi chờ mà mắt láo liêng, dòm chừng sau xe, tìm xem "nó" có "quá giang" ở ghế sau không? Tôi cười thầm, hỏi với giọng khiêu khích "Từ nay có còn đòi ngủ riêng hay vẫn tiếp tục ngủ chung với tôi?".
Nói xong tôi mới biết mình hớ! Nguyên nhân như thế nầy. Mỗi khi gây lộn với tôi, vợ tôi đòi ngủ riêng, tôi mừng trong bụng, chỉ cầu cho bả "nói là làm", nhưng tôi phải giả bộ đau khổ, lo lắng. Bả khoái lắm, thỉnh thoảng lại đem vụ "ngủ riêng" ra để đàn áp tôi. Bây giờ tôi trót dọa, trong nhà có con ma đó thì, tối vô giường, thay vì xô tôi ra như mọi khi, bả sẽ ôm tôi cứng ngắc, như thời mới cưới nhau. Con là nợ, vợ là oan gia. Tôi già rồi, gần chết rồi mà vẫn bị cái oan gia đó "ôm cứng ngắc!".
Khổ sở thế đó, nên, xin quí độc giả thân mến, nếu thương tôi thì xin cho tôi một thời kinh "Cầu Siêu" cho tôi sớm được phiêu diêu miền cực lạc. A Di Đà Phật!
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Hạnh phúc xót xa

Tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên hai họ”. Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai cứ việc mở cuốn điện thoại niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý nghĩa”?
Địa điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo “forget it!”
Sáng thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng cả tên lẫn họ của tôi.
- Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.
- Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich, chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.
Tôi giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên.
Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.
Thời gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Na-uy. Được thầy cô dạy kèm riêng, và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường hợp nhân đạo khác.
Nói là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào bệnh viện khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh.
Tuy nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp” không ít.Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều “tế nhị”. Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò:
- Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị. Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng ngôn ngữ.
Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm những gì ông nói.
Một hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.
Chúng tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu (logo) Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải qua kiểm soát. Một chiếc xetản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu. Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.
Ở phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ thai nhi.
Khi trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn và ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận bảo mật). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện.Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt khá xinh, đôi mắt thật buồn. Theo y tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi cho tôi.
Kể từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.
Sau một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm. Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần ông đến thăm.
Cô không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng 1 di tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu. Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền nhỏ chởtheo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái khác
Vừa mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất hận tột cùng của những cô gái nạn nhân.
- Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.
- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.
Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.
Tay thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác. Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn, nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.
Sau khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thải trong nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn?
Anh cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho cô gái và cho cả anh ta, một người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước saft.
- Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát hỏi.
- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.
Đó là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.
Bọn họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng, ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất động nghe lòng dạ bồi hồi.
Gió từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề, hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một xứ thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến tương lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng, cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.
Cô bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ còn tìm lại được!
Đầu óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô đã bật khóc.
Tôi định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát, đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự nhiên. Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:
- Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em rất nhớ mẹ và các em.
Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.
Hai hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000 kroner (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào biên nhận.Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết trò chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này, cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng lo lắng gì về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định. Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.
Một lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng, nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.
Khi được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà thân quen bên cạnh cũng antâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối cùng cô gật đầu.
Cuối tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một it thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận tham dự hành quân, không về kịp.Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói chuyện sinh đẻ.
Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô, còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.
Sau một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích hợp cho cô.Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.
Mấy ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa không, cô bập bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều hiểu được.
Ngày đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới hiểu ra.
Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn. Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một người biết quá nhiều về cô.
* * *
Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45,46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp.
Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.
- Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?
Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn thùng:
- Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.
Chúng tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm phấn son xong mới lên tiếng:
- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ.
Cô cười bẽn lẽn:
- Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang ơn anh chị.
Tôi cười:
- Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên không có ý tìm Kiều.
Đúng là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy được mười sáu năm.
Được chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai cậu em được nhận vào trường NTH , một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.
- Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi không có dịp được gặp bà.
Đang vui, bỗng Kiều xúc động:
- Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu Bách.
- Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi nói để an ủi .
Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:
- Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều đẹp lắm.Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.
- Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là chữ lót của em.
Tôi cười phụ họa:
- Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi, đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích nghe.
- Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết, ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm , phải không?
Cả ba chúng tôi đều cười.
Kiều nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.
- Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.
Cô cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức, có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện trên thế gian này.
- Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.
- Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?
Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:
- Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.
Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:
- Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với cô?
- Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay, còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.
Cuối cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh phúc.
Lễ thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ vật, theo yêu cầu của Kiều. Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học, chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu. Bỗng tôi giật mình, có cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.
Lễ thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ, mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con.
Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào. Sau một lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của hạnh phúc.
Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.

Phạm Tín An Ninh
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Kiếp sau lấy vợ Huế.

Kiếp sau lấy vợ Huế
Để tôi được cưng chìu
Đêm nằm nghe thỏ thẻ:
“ Anh nì! Chừ mình yêu…”
Sáng ra lời trong veo
Tiếng người như chim hót :
“ Anh ơi! Em ốt dột
-Hun chi lạ…rứa tề! “
Thương ơi! Mái tóc thề
Dài lên tới Bến Ngự
Tóc cột đời lữ thứ
Trăm năm không cho về…
Kiếp sau lấy vợ Huế
Già chát vẫn kêu anh
Gần chôn cũng xưng em
Tình nào hơn như thế ?
Bờ môi ngọt… thương nhớ
Con mắt là sao sa
Dẫu khi đã đàn bà
Cũng lừng hương thiếu nữ!
Dẫu khi tôi mệt lữ
Em vẫn tìm lá xông
Bão giông em không sợ
Ăm ắp nghĩa vợ chồng


( thơ Trần Dzạ Lữ, SàiGòn, tháng 3 năm 2013 )
-----------------------------------------------------------------------------------
6 lý do nên lấy gái Huế làm vợ

1. Con gái Huế sống nề nếp và gia phong
Con gái Huế luôn sống có phép tắc trong ứng xử với bố mẹ và người lớn trong gia đình. Những nền nếp ấy đã trở thành khuôn phép truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô gái Huế nào khi đi ra ngoài cũng đều xin phép gia đình, có khách thì phải cúi chào, và đặc biệt con gái Huế không được đi chơi đêm quá 21h.

2. Con gái Huế sống thân thiện và đặc biệt thiện tâm
Con gái Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Họ luôn luôn quan tâm, hỏi han và giúp đỡ người khác những lúc gặp khó khăn. Và đặc biệt, người lạ gặp con gái Huế rất dễ dàng bắt chuyện và hòa nhập vào câu chuyện một cách vui vẻ vì họ luôn luôn cởi mở, thân thiện, gần gũi và hiếu khách. Con gái Huế đặc biệt sống rất hiền, thích làm việc thiện, thường xuyên đi chùa lễ Phật để tích đức.

3. Con gái Huế kín đáo và trầm lặng
Họ là những cô gái rất trầm lặng và ít nói, sống luôn luôn giữ kẽ, hết sức kín đáo trong lời ăn tiếng nói hàng ngày với ba mẹ, người lớn tuổi và bạn bè. Họ không bao giờ muốn mọi người biết về những khó khăn mà họ đang gặp vì không muốn để ai bận tâm. Con gái Huế không để xảy ra điều to tiếng, hay gây chuyện buồn cho hàng xóm láng giềng.
Kết quả hình ảnh cho Con gái Huế kín đáo và trầm lặng.

4. Con gái Huế sống tiết kiệm và chắt chiu
Con gái Huế tiêu tiền rất cẩn thận, tính toán chi li mọi khoản để cân bằng tiền bạc, họ luôn cân nhắc rất nhiều khi quyết định chi tiêu tiền bạc vì họ suy nghĩ đến tương lai lâu dài. Họ không giống nhiều người nhiều nơi khác, cứ có tiền là tiêu cái đã, làm chừng nào thì tiêu chừng đó.
Kết quả hình ảnh cho Con gái Huế sống tiết kiệm và chắt chiu.

5. Con gái Huế dịu dàng và e ấp
Người con gái Huế từ lâu đã nổi tiếng là dịu dàng với giọng nói “dạ, thưa” đến say lòng. Con gái Huế đi lại nhẹ nhàng và ăn nói nhỏ nhẹ. Dường như mỗi người con gái Huế đều mang trong mình một nét gì đó rất đỗi kín đáo và e ấp. Có rất nhiều chàng trai xứ khác khi đến Huế đều cảm nhận được đó là điều đầu tiên.
Kết quả hình ảnh cho Con gái Huế cầu kỳ trong chế biến ẩm thực.

6. Con gái Huế cầu kỳ trong chế biến ẩm thực
Với tất cả mọi người dân xứ Huế, nấu ăn là thể hiện sự khéo léo và nghệ thuật, chính vì thế, họ luôn coi trọng việc trang trí món ăn. Với quan niệm: “ăn” trước hết là “ăn bằng mắt”, người con gái Huế rất chú trọng vào việc làm cho món ăn không chỉ ngon mà còn phải bắt mắt và thu hút.

Qua bao hình ảnh cho con gái Huế dịu dàng, thùy mị, thủy chung, thích quá một trời mơ và một cõi e ấp, này bạn còn chần chờ gì nữa kiếp sau nếu may mắn đầu thai làm người không đi tìm vợ Huế đỉ nhi? Tôi bảo bà nhà tôi trong con tim nồng nàn xao xuyến của mình, tôi sẽ hẹn bà ở vùng đất thần kinh trầm mặc cổ kính... Huế kiếp sau với bó hồng trên tay,... chờ bà ở ngã ba Hương Thủy, chờ đến khi trăng tàn trên Bến Ngự, hay rồi khi mùa xuân về đàn lễ tế Nam Giao, ta vẫn chờ em,...

Kiếp sau nếu có làm người,
Con tim xao xuyến sống đời Thần Kinh.

Tôi nhớ người anh cả của tôi, thuở trung học anh ấy "Rất Huế" theo ngôn ngữ đặc sản, đặc trưng của nhạc sĩ Võ Tá Hân, anh hai tôi có cô bạn gái đầu đời týp "Rất Huế" từ dáng e ấp đến giọng nói, anh hai tôi vốn thích món bún bò Huế huyết heo, nào những cơm âm phủ, bánh khoái, bánh lá chả tôm, bánh nậm, bánh ít ram, nem tré, nhất là dần về sau, le hơn đi xa hơn theo thời gian những ngữ như Cung Đình Tửu Huế, thuộc hạng xịn deluxed Nhất Dạ Ngũ Tử, hay Hoàng đế ngự tửu tuyệt say tình cốc, theo goût Minh Mạng vương tuyệt triều, mà hơn một lần tôi nghe nhạc sĩ Hoàng Sa, aka BĐQ toubib Trần Văn Thuần đất Bushland Houston, thuyết giảng về độ phê của ngự tửu, hay nhà văn Dương Viết Điền "rất Huế" cố vấn Huế chi cho tôi yếu Huế thêm,...

Hôm qua bà sui gia kiều diễm Thụy Trinh và thầy giáo Việt ngữ hiền tài Thiện Đức bê tôi lên TV air vì freeway 405 jamming như mắc cửi nên chỉ có 2 người on air.. Thụy Trinh nhắc chuyện năm xưa khi madame bê tôi và ca nhac sĩ Tú Minh on air Hồn Việt, Tú Minh bảo tôi :" Em lên air lần đấu chưa quen, run quá!", tôi trấn an Tú Minh host talkshow này lanh lắm, madame thóc show như anchor thông báo tin tức với speed 55MPH, Tú Minh nghe rõ rồi trả lời, đừng lo nhé, madame sẽ đỡ đòn khi minh stuck. Thật vậy, sau interview xong mọi ngưởi vui vẻ.

Vào giờ ngọ của cử lunch hôm qua, rồi bút tôi lang thang băng qua đường Saigon trước tiền đình Phước Lộc Thọ, một đoàn xe dài án ngữ lưu thông, xe cộ nối đuôi nhau chờ một lão nhân chổng gậy qua đưởng, ca sĩ Louis Lưu Manh Bổng bỏ sở đi ăn có 1 giờ lunch, kẹt xe trên xa lộ 405 nửa tiếng và nửa tiếng đợi "lão Việt Hải tà tà băng qua quốc lộ Saigon Bolsa, nên bụng đói meo trở về sở trên đường Main Santa Ana đi làm tiếp. Anh tiêu hết một tiếng không ăn lunch, Louis bạn tôi, bảnh trai, ngày xưa đi học cùng đại học, Louis quen đi xe nhà, con nhà giàu, bạn bè thèm nhỏ dãi,.. chàng ta thích ca hát gương mặt hao hao mang vé y khuôn như ca sĩ Nhật Trường "năm bờ thu", madame Mỹ Lan coi chừng người y chang như người nhé. Có điều ca si NT mang chất giọng truyền cảm trầm ấm, baritone, hoặc xuống trầm sasso, Louis có lẽ do bẩm sinh thiên khiếu, hay sở trường quen giời phú ở chất giọng nam kim, ngân cao, nếu không như chuẩn mực Giovanni Martinelli hay Galliano Masini, thì anh vẫn ở thứ hạng khá. Chưa hết một vòng đảo qua Asian Mall gặp madame "Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng chói", …

Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng quá
Nghe đâu đây tiếng vọng hòa bình
Lệ nhạt nhòa đôi mắt long lanh
nghe tin con vẫn còn ngày xanh
Một cành hoa em cài mái tóc
Anh đưa em qua quãng đường dài
Về thành đô anh may áo cưới
Ta thương nhau xây dựng ngày mai,...

Mẹ Việt Nam Như Hảo một thuở tung hoành Saigon air, vùng thẩm âm lan tỏa nghe rõ từ Thủ Thiêm qua Cát Lái, từ Phú Lâm về Hàng Xanh, chị kể thuở vui xưa có Bonard, Catinat, Galliéni, Charner, rồi Crystal Palace, Passage Eden,... nỗi nhớ khôn nguôi,... nhớ lại đi, chạy song song với con đường Tự Do là đại lộ Nguyễn Huệ (Charner) rộng thênh thang với Tòa Đô Chánh ngã ba Nguyễn Huệ-Lê Thánh Tôn nơi nhà tôi đấy, (Charner-d’Espagne) đứng uy nghi giữa trời. Xéo đó là rạp ciné Rex của gia đình chi Kim Châu (madame Võ Tá Hân, hihi chuột sa hủ nếp,.. vốn học giỏi khiến tôi ực cà phê đen bỏ ngủ học marathon với anh để tôi vượt qua 2 kỳ tú tài không khó, Rex hay Mini Rex những nơi đây ấp kỷ niệm, nhưng rạp tối tân mà thuở nhà mùa xưa sao mà cứ mãi đếm tiền kỹ trước khi mua vé, coi một phim hay với cô mèo hôm sau nhịn mấy phùa lunch và điểm tâm,..hihi... Rex hay Mini Rex thường chiếu những phim hay, nhưng hay hơn cả vẫn là phim uống môi em ngọt. Về nhà bố hỏi "Con đi đâu về ?", biết nói sao bây giờ vì lỡ xem phim hay rồi, thôi thì cứ bê đề tủ của ông giáo Sâm Petrus Ký gỡ gạc là thượng sách... Ông giáo Nguyễn Văn Sâm, người phổ biến tác phẩm best sellers hay muôn thuở, "Con trai phải đọc sách". Tôi thưa trình thành khẩn: "Dạ con vừa gạo bài ở Abraham Lincoln về!" ( tức thư viện Mỹ Abraham Lincoln ở số 8 đường Lê Quý Đôn), bởi thế tôi nhớ madame ca sĩ Hồng Tước có lúc tâm sự một thuở Saigon gia đình bà rất khó phim tình cảm mùi mẫn yêu đương ngữ như: "L'affaire d'une nuit" (Chuyện Tình Qua Đêm, với 2 diễn viên gạo cội Brigitte Bardot và Jacques Charrier; hoặc "La Piscine" (Cạm Bẫy Tình Yêu, với 2 tài tử thượng thặng Alain Delon và Romy Schneider); hay phim "Love Story" (Chuyện Tình, với 2 diễn viên xuất sằc, Ali MacGraw và Ryan O'Neal), con gái chưa thi xong tú tài chưa nên xem, "No way José!" hay ở Rex hay Mini Rex madame Hồng Tước buồn hiu vì ngày ấy chưa được đi xem. Tôi hiểu madame, hãy trách nhẹ vì ông giáo Sâm chưa hề viết tác phẩm: "Con gái phải đọc sách" để madame Hồng Tước vác lưng cái student backpack gồm bao những sách ngụy trang thi tú tài, những vạn vật, triết, sử địa, toán, vật lý, hóa học, anh văn, pháp văn, việt văn,.. vào Rex hay Mini Rex,...
Rex xem như tối tân nhất Sài Gòn chủ nhân là ông Ưng Thi (cũng là chủ rạp Đại Nam). Điều đáng nói là thời bấy giờ (đầu thập niên 60) mà rạp Rex đã có thang cuốn (escalator). Rạp Rex khai trương năm 1962 với cuốn phim Ben Hur do tài tử Charlton Heston và Stephen Boyd đóng thì xảy ra một biến cố, có một người đẹp nọ đi thang cuốn escalator lúc lên gần tới tầng lầu không hiểu quýnh quáng thế nào mà để cái thang "mắc dịch" không galant chút nào nó cuốn luôn cái quần dài của nàng tuột đi…Ôi cái thang thật dê xồm.

Đối diện rạp Rex là rạp Eden đặc biệt ở tầng 3 có những ô ngăn chia riêng biệt dành cho các tình nhân muốn có nhiều tự do thoải mái. Ngay kế bên có tiệm bánh mì pâté Đô Chính ngon nổi tiếng. Gần đó có phòng trà Queen Bee mà giới yêu nhạc thường vào nghe mỗi đêm. Khu Eden có cơ ngơi của bà Cả Đọi, chủ nợ xơi chịu ghi sổ của ông vua hippie Trường Kỳ.

Thương xá Tax (ngày xưa là hãng Charner) cũng lừng danh với nhiều hàng hiệu. Qua khỏi ngã tư Lê Lợi có kiosque Đống Đa rửa và in hình rất đẹp, rồi Tổng Nha Ngân Khố, hotel Palace. Hằng năm, vào mỗi độ Xuân về, nguyên đại lộ Nguyễn Huệ trở thành chợ Hoa đô thành với trăm ngàn kỳ hoa dị thảo muôn hồng ngàn tía nhất là hoa mai hoa đào rực rỡ để người Sài Gòn ngắm nghía chọn lựa mang về chưng Tết.
Cắt ngang đại lộ Trần Hưng Đạo khúc gần rạp hát Đại Nam là đại lộ Nguyễn Thái Học (Boulevard Kichener) mà đoạn đầu ở ngã ba Phạm Ngũ Lão là rạp hát bội Thành Xương (đình Tân Kiểng), ngay ngã tư Trần Hưng Đạo là trường tiểu học Trương Minh Ký, xuống lần tới phía dưới có trường tư thục Huỳnh Thúc Kháng, rạp hát Nam Tiến kế bên là khách sạn Tân Thời mà chủ nhân là bạn của người viết. Cuối đại lộ Nguyễn Thái Học là Chợ Cầu Ông Lãnh,...


Ôi, Saigon vẫn đẹp trong sự thể trước biến cố đổi đời vì rằng: "Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do!". Tôi chuộng bài nhạc tình ca Phạm Mạnh Đạt. Nhớ madame "Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng chói", nhớ hiền tỷ Như Hảo, gặp hôm qua quá tri kỷ duyên thời bao xuân sắc nhé, madame ex cùa thấy Petrus Ký Phạm Mạnh Cương, hiền tỷ lại là vị đồng môn tại trường luật khoa Duy Tân gần công viên Tháp Rùa, thuở vàng son của VNCH ngày nào, ký ức mãi mãi không nguôi, hiền tỷ còn theo học khoa báo chí tại Vạn Hạnh, cùng thời gian bút tôi học khoa kinh tế tại trường Kinh Thương Minh Đức. Ca sĩ Như Hảo có liên hệ bà con họ hàng rất gần với ba ca sĩ Tam Thanh: Thanh Thúy, Thanh Mỹ và Thanh Châu). LS. Thanh Châu gốc Marie Curie, nhưng vốn thích văn thơ nhạc VN, Thanh Châu kể chuyện về nhạc sĩ Trần Trinh... Trần Trịnh có cá tánh hiền hậu, trầm tính, luôn nhỏ nhẹ, một tấm gương nghệ sĩ đáng trân quý,. Có lần ông bảo rằng nhạc ông sáng tác, hể ai ca nhạc ông, ông cám ơn trong sự trân quý. Ông không những không lấy "redevance" (royalty fee), chắng cần tiền tác quyền mà còn muốn trả tiền caché cho người ca ấy nữa, nhưng đó là tấm chân tình của người nhạc sĩ tài hoa này, dù rằng ông nghèo, niềm ao ước như nỗi lòng tri ân người thương mến nhạc của ông. Điều này nói lên cá tính dễ chịu, hòa nhã của ông. Rồi Thanh Châu có lần tâm sự là lần đầu tiên ngỏ ý ca bài Hai Sắc Hoa Ti-gôn với chính tác giả đệm phần nhạc, Thanh Châu ban đầu hơi lo và run, lòng thánh thót đánh mấy con bò cạp theo nhịp điệu boléro, nhưng ông nhạc sĩ gật gù say mê đệm nhạc, ca sĩ yên tâm diễn tả trọn vẹn bài ca.

À, nảy giờ bút tôi lan man mênh mang tả oán từ bài "Rất Huế" của nhac sĩ Võ Tả Hân chạy dài xuống Trần Trịnh. Thôi hãy trở lại với chủ đề Vợ Huế nhé... Báo online, báo net bảo có 6 lý do đó đã đủ thuyết phục để bạn chọn một cô gái Huế làm vợ chưa? Tính cách của con gái Huế còn là một “kho tàng bí ẩn” mà bạn ta hãy chính là người đi tìm hiểu chính đề đi nhé. Bài viết "6 lý do nên lấy gái Huế làm vợ", hình như tác giả tính luôn bà Hồng Tước vào bài rồi, một nhân sĩ cho rằng chị ấy là nữ sĩ đa tài đa đoan lúc thì ca trước micro, lúc thì ôm guitar, lúc thì vung cọ vẽ pinceau doré, lúc zoom camera, lúc bấm camcorder với tính tình vui vẻ tài đức vẹn toàn, công dung ngôn hạnh đủ cả, well-qualified... Bài lên phết búc, kiếp sau khối anh chàng cầm bouquet de roses, hay cadeau d'amour săn chờ trước ngõ,...hihi...

Sài Gòn Có Em, Phạm Mạnh Đạt, Ý Lan:
http://lyric.tkaraoke.com/16404/sai_gon_co_em.html


O Huế, Thơ Việt Hải, Nhạc Hà Lan Phương:



Image

Ca nhạc sĩ Diệu Hương
Kết bài, vợ Huế là điều mơ ước kiếp sau của nhà thơ Trần Dzạ Lữ, cũng như nhều nhiều người nghe tình khúc "Mình Ơi", nghe một lần, nhớ ngất ngư bao đời của ca nhạc sĩ Diệu Hương, rồi chút gì đó chất Huế thăng hoa vào dòng huyết quản, tôi cám ơn thi si Trần Dzạ Lữ, tôi cám ơn anh hai tôi, cùng những người chị dâu Huế hụt của ngày xa xưa, anh Dũng tôi của Ngự tửu cung đình, tôi cám ơn cô em "Rất Huế" Diệu Hương, đa tài, đa cảm, với nét đoan trang, thùy mi. Tôi cám ơn quý anh Võ Tá Hân, khoa hoc gia Nguyễn Đức Hạt, Đinh Trường Hân, Tam Giang Hoàng Đình Báu, Hoàng Vinh, Dương Viết Điền, quý chị Như Hảo, Tam Thanh, Hoàng Sa Trần Văn Thuần, Lê Thúy Vinh, extension đến mes amis Thụy Trinh, Tú Minh, ThụyVy, Thanh Thanh, Mỹ Dung, Thùy Châu, Thái Hà, Lâm Dung, Ngọc Mai, Ngọc Quỳnh,Tú Lan,..., Hồng Vũ Lan Nhi, Cao Mỵ Nhân, những thi nhân đã một thời trọ Huế thuở di cư 54, thầy Thiện Đức tánh tốt, hiếu hạnh con nhà tu, như hương hoa chùa Chùa Từ Hiếu cách Huế không bao xa về hướng tây nam. Đối với những thân hữu tôi ghi tên trong bài này như những người tượng trưng cho nét ₫ẹp của Huế trong ý nghĩa nào đó, nét đẹp trầm mặc, nét đẹp cổ kính để đêm đêm ta đốt đèn trời kiếp sau xin nhớ làm người Huế Thương nhé!

Sau hết, gởi text đến bà nhà tôi để xin một next blinddate hẹn trước trường Đồng Khánh hay gần cầu Tràng Tiền vào mùa hè hoa phượng nở ở kiếp sau em nhé...
All the best of luck,

Trần Việt Hải Los Angeles.
Phần phụ :

O Huế, Vợ Huế và Rất Huế:
http://www.ninh-hoa.com/VietHai-OHueVaGiongHue.htm

Mình Ơi!!- Diệu Hương:
http://lyric.tkaraoke.com/mp3-158510/mi ... huong.html


Rất Huế - Bảo Yến, Võ Tá Hân:
http://nhac.vn/rat-hue-bao-yen-sopY3Dn
Image
Rất Huế - Bảo Yến | NHAC.VN
By NHAC.VN
Giữ chút gì rất Huế đi em Nét duyên là trời đất giao hoà Dẫu xa, một mai anh gặp lại Vẫn được nhìn em say lá...


Lời bài hát: Mình ơi
(NS. Diệu Hương)

Ðôi chim là chim ríu rít trên cành
Em yêu là yêu tiếng gọi của Mình
là Mình, Mình ơi
Ðêm qua thức giấc bùi ngùi
Nhìn quanh là em không thấy mặt người là người mình thương
Từ khi, từ khi là Mình bỏ em buồn
Ðôi chim lơ láo, quay cuồng là cuồng biếng ăn
Co ro, co ro tìm một chỗ em nằm
Phòng không, phòng không là không chiếu lạnh
Nhện sầu là sầu giăng ngang
Mình là Mình, Mình ơi
Mình đi là đi đi mãi quên lời
Lời xưa mà ta ước hẹn
Một đời là một đời sắt son
Cây xanh là xanh lá vẫn tươi màu
Riêng em là em héo tàn
Nhạt nhoà là nhoà tình xuân
Ðôi chim gẫy cánh giữa đường
Từ nay là chăn gối ngậm ngùi là ngùi tiếc thương
Hò là hò ơi ới hò
Mình đi mô mà mình đi miết rứa không về
Rứa để em chứ rứa để em chẳng có ai nằm
rứa em chẳng có ai nằm kề một bên
Mình là Mình, Mình ơi
Mình đi là đi đi mãi quên lời
Lời xưa mà ta ước hẹn
Một đời là một đời sắt son
Cây xanh là xanh lá vẫn tươi màu
Riêng em là em héo tàn
Nhạt nhoà là nhoà tình xuân
Ðôi chim gẫy cánh giữa đường
Từ nay là em thôi hết được gọi Mình là Mình, Mình ơi...



Trần Việt Hải
,

23 tháng 2, 2017.


hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Của Nợ

Nhã Ca

Xe chạy quá nửa ngày mới qua khỏi ranh giới Bình Tuy - Phan Thiết. Lại có câu chuyện vui của hai ông già ngồi cạnh nhau ở hàng ghế giữa xe. Giọng ông cụ râu ba chòm sang sảng:

“Xe đang chạy ngon trớn, mà thằng chả gọi giựt giọng la như cháy nhà. Cho xuống. Cho xuống. Tài xế chửi ầm lên, nói cái gì, mua vé tới Phan Thiết, sao mới qua ngã ba ông Đồn đã đòi xuống. Thằng cha mang kiếng râm, có cái gậy dò đường gác lên đùi, chưng hửng. Ủa tưởng tới Phan Thiết rồi. Rõ ràng ngửi thấy mùi…nước mắm. Chị đàn bà ghế bên cạnh đang ngủ há hốc miệng, dạng hai chân ra, tỉnh cả ngủ, giật thót người, khép đùi lại. Tài xế càu nhàu mà thằng cha kiếng đen thì cười tủm tỉm…”

Ông cụ râu ngắn tua tủa, ngồi cạnh cửa sổ có treo tòn ten cái lồng chim, cười sặc sụa. Cười mà nghe như tiếng la của người bị chẹt cổ. Không chỉ riêng ông cụ, hình như mọi tiếng cười trên xe đều khác thường. Có lẽ vì xe dồi dập quá.

Ông cụ râu ngắn xuề xoà dễ thương. Con vẹt trong lồng, trái lại, có bộ lông xanh mịn đẹp đẽ, mà sao coi cái mỏ khoằm khoằm thiệt khó cảm tình. In hệt mụ phù thủy trong các chuyện cổ tích, có vẻ dị ứng với tiếng cười, nó giận dữ nhảy nhảy, phẹt trong mỏ ra đủ thứ dơ dáy, rơi vãi cả vào khung cửa. Xe càng xóc, nó càng nhảy loi choi, càng phẹt dữ tợn.

Bác tài, làm như chưa tiêu hết bực bội gặp phải dọc đường, dọt thắng bạt mạng. Bên cạnh, bà vợ mặt mày chầm vầm, cà khịa:

“Biết nó đột xuất, không vọt thẳng cho lẹ, còn dừng lại để sanh chuyện.”

Vẫn bà vợ tài xế, cũng là chủ xe nữa, độc thoại:

“Thiệt tức chết được. Tui đã cúng cả tút thuốc lá Sài gòn Giải Phóng, khi không còn vái lia lịa thêm mấy gói ba số nữa chi. Bảnh dữ. Ha.”

Lại độc thoại nữa:

“Làm như của chùa. Thiệt ngu quá mà. Khi không cúng khan. Làm như ông hạp mấy cái mặt… đó hay sao mà hễ giấc ông chạy là nó xuất hiện.”

Miệng nói, hai tay bà vẫn đếm tiền lia lịa. Bác tài nhấn ga lao tới. Cả xe tối sầm, tưởng trời sập tới nơi. Lạng nghiêng. Vèo một cái như bay. Lại vượt mặt. Hú vía.

“Chạy ẩu nữa đi. Rút bằng lái lần thứ ba coi như treo mõm. Cả chục cái mõm chực ở nhà đó tía. Hứ, bộ điếc đặc rồi chắc. Người gì đâu mà mặt sưng mày sỉa như cái thớt bị vằm. Thấy mà ghê.”

“ĐM. Đủ rồi. Im cái mõm giùm, má.”

“ĐM. Tức sao im được mà im. Nói không đúng sao? Banh ta lông hai cái vỏ rồi. Coi như sở hụi đi đứt bòng bong…Cái mặt ông mới…ha…Ông ơi. Dừng lại. Dừng lại. Có khách lên. Lẹ. Lẹ lên.”

“Dừng gì nữa mà dừng. Nhét lên lòng chị à? Tham vừa vừa, chị kia.”

Một cái đầu ở hàng ghế số hai chồm tới. Anh ta mặc áo sơ mi xanh, quần ka ki. Coi mặt, đúng là cán bộ thứ thiệt.

“Làm phước cho người ta quá giang. Thời buổi này xe cộ hiếm lắm cán bộ ơi. Mỗi người chật một tí cho người ta khỏi lỡ đường lỡ xá. Dừng đi ông.”

Một trong hai chú lơ xe đập đập vào thành cửa. Hỏi vọng xuống đường. Gió vẫn ào ào. Tài xế làm thinh. Xe vẫn chạy bon bon. Chị đàn bà ngồi bên cạnh anh cán bộ thở ra.

“Nực quá. Thở hết nổi. Mở cửa sổ đi.”

Chú lơ xe đưa tay lên định kéo cánh cửa. Giọng bà chủ xe the thé:

“Ê Rạng. Qua trạm, mày đui sao hông thấy mày. Mở ra là dính ngay chóc nữa. Đóng lại.”

Cả hai lơ xe đều là cháu của vợ chồng tài xế. Láu cá, lanh lẹ, chú này tức thì đỡ cho chú kia:

“Chịu khó chút bà con cô bác ơi. Thông cảm dùm, qua trạm là mở cửa liền. Phạt lia chia…chị. Đã phạt là khỏi năn nỉ luôn.”

“Hừm. Phạt còn khoan hồng.”

Chị đàn bà mím môi. Anh cán bộ nhận ra ngay đồng chí.

“Chị công tác cơ quan nào?”

Bắt đầu màn liên hệ công tác.

Khu ghế giữa xe, tập hợp mấy chị buôn hàng chuyến. Ồn ào như chợ vỡ. Cười nói, ăn quà vặt, giỡn hớt. Tay không ngừng lột quít, bóc bánh. Vậy mà lọt vô góc trong sát cửa, một chị đàn bà lạc lõng, ngồi buồn hiu. Trên tay chị thằng bé con khoảng bốn năm tuổi, gầy trơ xương, chỉ thấy cái đầu to tướng, sài lở, tóc cạo lởm chởm. Thằng bé hau háu nhìn vô mấy cái miệng nhai mà mẹ nó thì cố đưa tay đẩy nó nhìn về phía khác.

Qua trạm kiểm soát, cửa sổ được kéo lên. Ném cái vỏ quít ra cửa, qua mắt thằng bé, một chị quay nhìn ông cụ râu ngắn, cười:

“Cụ ơi.”

Tưởng gì, cụ ông ngóng mặt chờ.

“Cụ có con chim đẹp quá.”

“Chim của cụ phải không?”

Biết bị trêu, ông cụ làm thinh, ngó mông ra ngoài cửa. Cây cối vùn vụt chạy trở ngược.

Cam, quít, chôm chôm do mấy chị đi buôn ném tới phía trước. Hai lơ xe chụp, bắt. Kìa, cả anh cán bộ đang bận “tham quan” nữ đồng chí cũng được ném tới mấy trái quít. Móc ngoặc mà. Ngay ở trạm xét đầu xa lộ, một số hàng vải lọt tỉnh queo. Cán bộ đã kín đáo can thiệp.

“Má à, má ơi. Con đói bụng.”

Hai khuôn mặt mẹ con, da tái bủng như chì, hẳn cùng bị một chứng sốt rét.

“Ngủ đi. Dựa đầu đây nè. Biểu ngủ.”

Mấy chị đi buôn nhìn bà mẹ với vẻ khó chịu. Mặt mũi khó coi quá. Người gì mà từ lúc bước lên xe, ngồi ủ rũ, chẳng thèm nhìn ngó ai.

Một tiếng ha dài. Chị nào đó thở ra, rồi những trái quít chuyền nhau nữa. Mấy chị đùa bỡn quá trớn thiệt, hai lơ xe mặt mũi non chẹt, nhưng mắt cũng hỗn lắm.

“Nhìn gì cha.”

Một cái vỏ chôm chôm bay tới. Chú lơ xe tên Rạng né được, cười thiệt đĩ.

Đang vui, bỗng một giọng rụt rè, lạc điệu:

“Bác tài ơi. Dừng xe một chút. Dừng cho…bị tui…”

“Gì nữa đây? Có xuống cũng đợi tới trạm, đâu xuống ngang vậy được. Bác muốn xuống há?”

“Không. Bị tui…tui…”

“Ông cụ muốn “lái”. Cho ông cụ lái thử đi bác tài ơi.”

Giọng còn thanh niên. Mọi người cười rộ.

Chỉ có bác tài là không cười nổi. Sáng ra ngõ có gặp gái không mà xui tận mạng. Có bị rơi vào giờ lưu niên không mà chậm trễ đủ thứ. Tới ngã tư Phan Thanh Giản, Hai Bà Trưng, nghe thổi roét roét. Công an núp đằng sau trụ đèn. Rề ra, giam không ra giam, tha không ra tha. Điều đình, năn nỉ, điếu đóm. Tên công an mặt còn vắt nước lã. “Nước lã thôi, mẹ nó, sữa đâu ra mà vắt.” Vậy mà bác phải bật diêm, che gió, mồi thuốc lá. Nữa, tới xa lộ, chận xét, xuống xe, dỡ hàng…Mấy bà đi buôn cũng đâu có vừa, hàng họ đủ thức hầm bà lằng. Rán dấu cho mấy bà rồi, mấy bà còn được thể, chất thêm lên cho đã…Tội nghiệp cái xe, quá tải. Hai lần thay bánh rồi chớ ít đâu. Điệu này, tới Phú Tài, dính nữa.

“Dừng lại cho người ta…”

Giọng người vợ như thọc dao vào cổ bác tài. Rầm. Một ổ gà. Cả xe nhẩy nhổm. Rầm nữa. Còn gì là xe, là người. May quá, qua đoạn đường xấu, xe lại bon bon.

“Bác tài ơi, làm ơn…”

Ông cụ râu ba chòm đấy thôi. Mới đó, mặt mày rạng rỡ, kể chuyện nước mắm Phan Thiết, giờ dúm dó trông tội nghiệp. Một người đàn bà mập ú, nãy giờ ngồi dãy ghế chót, ngủ hết biết, cũng mở bừng mắt:

“Cái gì? Mấy con lợn của tui ở trên mui xe kêu dữ quá. Có dừng xe chưa? Ế, Rạng, Rạng, cho nó uống tí nước.”

Chẳng ai nghe tiếng lợn kêu. Lơ xe cười cười:

“Có bà khát nước thì uống đi. Tội quá, má. Tự nhiên kêu rầm lên.”

“Không phải há?”

Bà ta nghẹo đầu ngủ tiếp, thiệt dễ. Bà chủ xe vội cuộn tròn mớ tiền, nhét vô bụng, đi xuống cuối xe. Có tiếng gà sống kêu. Bà chủ xe vừa đạp phải nó. Phải vất vả lắm, bà ta mới leo qua được đống hàng, lách qua đám người ngồi ghế xúp.

“Có dầu đây. Bác cần hông?”

Ông cụ râu ngắn chủ lồng chim, đỡ chai dầu, nói:

“Dầu mà ăn nhằm gì. Bác đây đau bụng đi cầu…Đau dữ lắm.”

“Khổ, mới đây dừng thay bánh xe, sao cụ không đi cho cụ ơi…”

Ông cụ lúng túng. Bạn già đỡ lời:

“Mới đau đây thôi, bà chị. Đau bụng thì ai biết khi nào nó đau.”

Anh cán bộ lớn giọng:

“Này, lái xe. Dừng cho người ta nàm vệ sinh.”

Xe đang qua mấy trụ sở hành chánh, rồi đồn công an nữa. Mọi người nhìn ra, thấy cờ đỏ sao vàng phất phới.

Giọng bà chủ xe ngọt xớt:

“Bác ơi, chịu khó chút đi. Ráng qua khỏi đây, chạy tới nữa mới dừng được.”

“Chị nói bác tài dừng đại đi. Người ta tới nơi rồi…”

Bà chủ xe nhìn lui, lắc đầu:

“Hổng được đâu. Ý cha, tui mà biểu một tiếng là thằng cha càng sùng máu, dọt lẹ hơn thì có. Bị…bà con cô bác đi xe đò cũng hiểu. Làm dâu trăm họ bà con ơi. Xe của mình, mình làm chủ. Hư hao, sửa chữa, mua sắm vỏ ruột gì, gì cũng chủ xe chịu. Nhưng nhà nước quản lý, bán vé, thâu tiền.

30Tuyến đường chủ xe có mấy ghế à. Vậy mới phải xin bà con cô bác thông cảm vụ rước khách dọc đường. Không rước thêm, lấy đâu ra vỏ ruột mà chạy. Ha, khổ lắm, bà con không biết đâu. Riết rồi chịu không thấu…”

Ông cụ râu ba chòm mặt đã tái ngắt. Mồ hôi rịn giọt trên trán. Ông thu cả hai chân lên ghế theo thế ngồi sẵn sàng. Tay giữ chặt bụng.

“Này chị ơi, người ta chịu hổng thấu kìa…chị nói những gì đâu.”

Lơ xe đứng chắn ở cửa:

“Coi. Lại trụ sở hành chánh. Cái gì nữa đây…Mặt trận…trụ sở phường. Ý cha, thứ dữ hông…Nín. Nín chút cụ ơi.”

Bà chủ xe:

“Ừa, rán đi bác. Chút xíu. Chút xíu. Tới liền.”

“Cái bà này mới vô duyên. Ỉa cục cứt cũng như đàn bà đẻ. Bà đẻ, bà nín được hông mà biểu người ta.”

Một giọng nặng vẻ càu nhàu. Ông cụ rùng mình mấy cái, rên:

“Ui cha. Ui cha…Tui, tui…Ui…”

“Khổ chưa. Xì mẹ nó ra rồi.”

Ông cụ râu ngắn ngồi bên giật thót người. Con vẹt trong lồng bỗng nhảy dựng, kêu lên một tiếng: Cục. Tưởng nó lại nổi giận. Không, con vẹt có vẻ khoái trá. Nó đổi giọng êm ái: cục cù rù, cục cù rù…

“Không xong rồi bác ơi. Chao ơi…”

Ông cụ râu ba chòm buông tay ôm bụng, đưa về phía bạn già muốn níu. Ông cụ râu ngắn một tay giữ bạn, một tay đưa lên.

“Đã tới nước này thì…cũng phải liều thôi. Bác cứ làm đại đi. Ai có bao ny lông không? Lẹ lên. Nín không xong đâu…Đấy. Rán, rán tí.”

Mấy túi bọc trái cây vất dưới chân, được lượm lên. Cái nào cũng teng beng hết. Mấy bà thăm nuôi cúi lôi từ trong giỏ xách ra những bọc nhỏ, gỡ bớt lớp ni lông bao ngoài. Được bốn năm cái. Mấy người đàn ông với ông cụ có lồng chim vây lấy ông già râu ba chòm. Đàn bà cũng dồn cục, đạp cả lên nhau.

“Ngồi đại lên ghế.”

“Bỏ quần ra. Già rồi mà còn nai nịt chi chắc chắn vậy nè.”

“Lôàng ba bốn cái bao nữa coi. Lẹ lẹ cho chút. Mấy chị đi thăm nuôi, hy sinh thêm…”

“Còn ngượng nữa, cha. Ngồi chồm hổm đại đi. Vậy đó.”

“Bỏ tay ra. Túm chi nữa vậy. Bỏ ra, nó dính đầy hết giờ.”

“Khổ qua, cụ còn muốn che con nhím. Mấy chị ngó gì dữ vậy, nó sợ thun cha nó hết rồi.”

“Đồ mắc dịch.”

“Ý cha già ơi…Đừng nhúc nhích. Từ từ…ý…ặc…ặc…”

“Dữ dội quá vầy nè.”

“Súng xưa, cổ quá, bắn gì kêu phành phạch, rồi phành phạch…”

Người đàn ông phụ với ông cụ râu ngắn giữ bọc bao ni lông quay mặt ra sau thiếu điều gãy cổ:

“Khiếp. Khiếp quá cụ ơi. Ắc…ắc…xì…”

Một ông phía sau nhón lên:

“Sướng chưa bác ơi.”

“Phướng”

“Phẻ”

Cả xe cười ầm, mặc cho mồm miệng lãnh đầy mùi phẩn.

“Ông nội ơi, thúi gì mà thúi dữ thần.”

“Giấy nè. Lau đỡ bác ơi.”

“Phướng. Phẻ. Quá xá đã, phải hôn?”

“Túm lại đi. Trời đất, còn chưa cột lại nữa.”

Người đàn ông túm chặt miệng túi lại. Xin thêm tờ nhật trình Sài Gòn giải Phóng bao thêm một lớp ngoài nữa. Mặt ông già sướng rân. Ba chòm râu cứ nhúc nhích, nhúc nhích.

“Cám ơn bà con cô bác. Thiệt muốn chết luôn. Cám ơn. Cám ơn. Cám ơn bác. Cám ơn mấy cậu, mấy chị. Mấy chị đi thăm nuôi học tập phải hôn? Tui cũng đi thăm thằng con đang cải tạo ở trển.”

“Vượt biên hay phản động, bác?”

“Không, nó đi tù hình sự.”

“Dữ hôn. Hình sự, bộ…”

“Ăn cắp, trộm cướp?”

“Hổng phải đâu. Thằng con tui thiệt thà lắm…Bị nó chém người ta.”

“Hơ, thiệt thà mà giết người, ông cụ có lẩm cẩm không?”

“Thiệt mà. Nó chỉ nổi sùng xách dao làm cái rụp. May còn ngắc ngoải đưa vô bệnh viện cứu sống, không đã tử hình rồi.”

“Thứ dữ”

“Dữ dằn gì ba con cô bác ơi. Nó hiền khô à. Gặp hoàn cảnh nó ai cũng nổi điên như nó thôi. Nó bị thằng khu vực mần tiền quá chịu không nổi. Rồi thằng khu vực còn tính làm hỗn con vợ nó, nó lụi liền một dao.”

Mấy cái lưỡi le ra. Anh cán bộ nhăn mặt. Con vẹt trong lồng lại xù lông, nhẩy dựng lên: Cục cù ru. Cục cù ru. Lạ chưa. Vẹt mà sao nó kêu cục cù ru, nghe êm như tiếng chim câu gù nhau. Ông già râu ngắn vỗ cái đét vào đùi bạn:

“Cù ru. Cu rù. Phẻ phắn. Quá xá quà xa, há? Thôi bác ơi, bỏ cái gói xuống chân. Vàng bạc, hột xoàn gì mà ôm khư khư vậy.”

Không ai để ý tới cái xe đang chạy. Nãy giờ, bác tài xế có cho chậm xe lại. Thỉnh thoảng bác liếc qua kính chiếu hậu, miệng chửi thề búa xua.

Mọi cửa sổ lại được kéo kín mít. Trạm kiểm soát nữa. Lơ xe kêu oai oái.

“Ngồi ngay lại dùm. Bà con. Lẹ đi. Mấy cái ghế xúp chịu khó thụp dùm cái đầu xuống. Ba, còn cái cửa sổ kìa. Có đóng ngay lại không?”

Cửa sổ ngay chỗ cán bộ ngồi. Lơ xe vừa kéo lại, tức thì, chị đồng chí kêu lên:

“Mở ra. Trời ơi. Đóng cửa, thúi quá, nghẹt thở chết mất. Mở ra.”

Qua cơn xất bất của ông cụ rồi, giờ mới tới lượt cả xe lãnh đủ. Mấy bà hết cười nói nổi, rên rỉ:

“Ghê quá đi. Chết mất.”

Mùi phân càng lúc càng nồng lên, như đã chui vô cổ họng mọi người, nuốt bao nhiêu nước miếng cũng không chịu xuống bụng. Sự vui vẻ, lòng tử tế ban đầu, bây giờ biến thành tiếng cằn nhằn, chửi thề.

Vừa qua trạm, cửa sổ được lùa ra. Thôi thì, cả dãy đầu thò ra ngoài, hít lấy hít để. Lơ xe:

“Bà con đưa đầu ra, xe ngược chiều nó xin cái đầu làm banh, ráng chịu à nghen.”

Lạ. Sao cửa đã mở tung mà mùi phẩn vẫn luẩn quất trong xe, nhất định không chịu tan theo gió. Xe vừa ra đồng trống, giọng anh cán bộ như ra lệnh:

“Còn chờ gì nữa mà chưa giục nó ra ngoài. Ném đại đi.”

Có giọng phụ theo:

“Giục đại đi. Cụ ơi. Giục mẹ nó ra cửa.”

Bà chủ xe:

“Y cha. Khoan. Khoan giục. Đang qua một cái trạm cải tạo đó. Giục xuống lính gác tưởng phá hoại, nổ súng là tiêu luôn bà con cô bác...”

Tiếng ơi của bà chủ xe cũng bị đứt khúc vì sặc mùi. Ai đó rên rỉ:

“Giời ơi là giời…Càng lúc càng nồng nặc…chờ tới bao giờ.”

Con vẹt. Lại nó nữa, bắt mùi hay sao mà lại cục cù ru, cúc cù rù. Nhảy nhót loi nhoi như hứng chí.

“Im. Ông nội mày. Thúi hoắc mà ca hoài.”

Ông cụ râu ngắn, nhìn con vẹt, cố khôi hài:

“Ca sĩ. Nghỉ chút. Chờ bớt thúi hãy cất giọng oanh vàng.”

35Chẳng ai cười. Mặt ông cụ râu ba chòm, mới nhẹ nhõm đó, lúc này coi ngượng ngập, rụt rè. Cụ liếc nhìn bà con trong xe, rồi liếc xuống cái gói bọc tờ Sài gòn giải Phóng. Thiệt là của nợ. Ôi giời. Đúng là nó hành ông, chỉ mấy phút mà thấu ông trời xanh. “Giải Phóng” ra khỏi ông rồi mà sao nó còn hành đồng bào dữ vậy nè. Chỉ việc giục cha nó ra cửa sổ xe là êm re, mà sao cũng khó khăn, đủ thứ trở ngại. Ông bạn già râu ngắn, mới truyện trò, giúp đỡ, giờ cũng quay mặt đi ngả khác. Chỉ có anh cán bộ ngồi ghế trên có vẻ ít bị chi phối nhất. Anh ta đang bận “liên hệ công tác” chặt chẽ với chị đồng chí ngồi cạnh. Cả hai đang “bảo quản bí mật công tác”, cố kiềm tiếng nói, tiếng cười, không cho phì ra. Mắt anh cán bộ liếc quanh, đầu rụt thấp, co người lại. Trên miếng kiếng nhỏ chiếu hậu, bác tài đưa mắt, nói lớn:

“ĐM. Vặn cổ cái con cục cù ru đi. Cu ru cái củ…”

Không trầm trọng lắm đâu. Giọng bác tài đã bớt vẻ gay gắt. Xe vẫn giữ một tốc độ. Bà vợ:

“Thằng cha vô diên…”

Mùi phân vẫn nồng nặc. Lại bàn cãi sôi nổi:

“Ăn nhằm cái gì mà thúi dữ dzậy.”

“Thì ông già đớp lia. Ở bến xe làm một hơi mấy cái bánh ít, rồi bánh cam. Thấy hông, cái rổ bánh cam của con nhỏ ruồi bu đen kịt. Ăn tạp vậy không đau bụng cũng uổng.”

“Tui nói thiệt, cái bao tử của tui từ ngày Giải Phóng ăn bo bo mà chịu được thì khỏi phải sợ dịch tả dịch hạch nữa đi. Nó thành sắt thành thép hết trơn rồi.”

“Cha mày. Đòi ăn cái nỗi gì. Hửi chưa no sao đây. Chết tiệt.”

Chị đàn bà bế con, người xanh như tàu lá, ốm tong teo, bé loắt choắt mà hét lớn tướng. Còn phát cái đét vào đít thằng nhỏ. Thằng bé ngoác mồm, khóc hà rầm. Chị ta bịt miệng nó.

“Câm. Ngậm miệng lại không. Ui giời ôi. Ngậm”

“Tội nghiệp. Nó đói quá rồi.”

“Còn vài củ khoai, đòi bằng được rồi lát trưa lấy cứt nhét vô miệng mày há…”

“Hừm.”

Anh cán bộ quay lại nhìn. Chị cán bộ kéo áo ngồi ngay ngắn. Người đàn ông ngồi kế chị ta đưa tay che miệng ngáp hoài. Nãy giờ, anh ta buồn ngủ mà không ngủ được. Tội nghiệp, mặt mày anh ta còn căng thẳng hơn cả những người trong xe đang chịu trận chung.

Khổ nỗi vận tốc xe sao cứ đều đều. Lơ xe cho biết, ngang đồn công an, mấy trại cải tạo mà chạy nhanh cũng dễ bị tình nghi, chặn lại làm khó dễ. Cho nên khi vừa thấy bác tài nhấn ga, dọt tới lẹ làng, bà vợ quay người lại, vui vẻ:

“Được rồi cụ ơi. Giục đại ra.”

Ông cụ râu tua tủa co hai chân lên ghế, nhường chỗ cho ông cụ râu ba chòm đứng dậy, chồm tới bên cửa sổ:

“Coi chừng, nhoài ra ngoài hãy ném. Gió thổi tạt vô lại trong xe còn khổ cả đám nữa, cụ ơi.”

“Yên chí. Tôi biết.”

Ông cụ bỗng mạnh mẽ như một thanh niên. Một tay vịn cửa, một tay sẵn sàng cái gói. Ông chồm người ra, liệng mạnh. Chừng đó con mắt hồi hộp theo tay ông. Cái gói của nợ đã rơi đâu mất hút ở ngoài rồi, mà ông cụ thì né tránh. Một vòi nước tưởng đâu từ trên trời rót xuống, nhẩy múa ngoài cửa xe. Mặt mũi, tóc tai ông cụ ướt nhẹp. Chị đàn bà mập ú, nãy giờ, thây kệ cái gói của nợ bốc mùi, vẫn ngáy o o, bỗng vùng dậy, đập tay vào đùi cái bốp.

“Mèn ơi, cái cặp heo của tui…Nó tưới…hi hi. Tưới sao mà đúng lúc vậy nè. Hi hi, ha ha, hô hô hô…”

Chị ta tiếp tục cười, răng cửa văng đâu hết trơn. Cả xe dậy tiếng cười theo. Tài xế giật mình, cằn nhằn:

“Cái gì vậy? Cái gì. Bộ điên hết rồi hả?”

Bà chủ xe, gập cả người lại, vịn tay vào ghế:

“Chết mất, hi hi…hu hu…”

“Đụ má. Chết chưa. Chết đi…”

Tài xế rủa vợ, rồi mắt dán vào kiếng chiếu hậu.

Ông cụ râu ba chòm đã lùi vô trong, mặt mũi lơ láo, đầu tóc lưa thưa thì ướt nhẹp mà ba chòm râu thì vểnh lên. Coi, mấy chị đi buôn, cười gì mà tới nỗi nước mắt nước mũi ràn rụa. Ông cụ ngỡ ngàng, rồi bất bình, nhưng khi bắt gặp cả nụ cười hả hê của ông bạn già ngồi bên, thình lình chính ông cụ cũng há miệng cười ha hả.

“Hổng sao. Bà con cô bác chịu đựng rồi. Giờ tới phiên tui. Luật nhơn quả mà. Cứt heo thúi khác cứt người một chút, cũng là cứt cả…”

“Khăn đây cụ ơi. Lau đi. Thiệt khổ với cha quá mà.”

Một ông chuồi tớt cái khăn. Ông ta đã hy sinh một bình nước mang theo uống để dấp khăn cho ướt. Sau trận cười hả giận, mọi cái nhìn đến với ông cụ đã đầy vẻ thân thiện.

“Trời còn thương bà con. Hổng phải cứt. Mới nước đái heo. Phải hông? Bà con hửi coi.”

“Lão già mắc dịch, hết bắt ngửi của nợ của lão, giờ bắt hửi nước đái heo…”

Ông cụ cười xuề xòa. Chỉ thoáng chốc, trong xe như rộng rãi hẳn ra. Chị đàn bà ghế hai tám nựng con. Anh cán bộ huýt sáo miệng. Lơ xe mồi thuốc lá cho nhau. Bà chủ xe vui vẻ:

“Bà con cô bác thở đi. Thở nhiều vô cho khoẻ.”

Ông cụ râu ngắn đưa tay lau nhẹ cái lồng chim:

“Ca lên đi. Ca lên cho bà con cô bác nghe mày.”

“Nó biết hát hả bác?”

Anh cán bộ hỏi. Ông cụ khoe:

“Của thằng rể tôi đấy. Nó hát như có Bác Hồ giỏi lắm. Hát coi, mày.”

Con vẹt nhẩy nhẩy như né tránh. Nãy giờ mọi người cười sao nó buồn hiu vậy? Cái mỏ khoằm khoằm. Mắt ứa những gân máu đỏ, làm như chỉ chực mổ người ta. “Động viên” con vẹt không xong, ông cụ đùa với bạn:

“Nó tiếc cái của nợ của cụ đấy cụ ạ.”

“Má ơi, má à. Ăn.”

Lại thằng bé. Ông cụ râu chòm lẹ làng lôi trong bị lát ra mấy cái bánh cam, chuyền qua hàng ghế sau tới tay thằng bé. Nó đút ngay vào mồm.

“Đó, lại cho thằng nhỏ ăn ba cái đồ ma vào, nó lại bĩnh ra thêm một gói nữa.”

Chị đàn bà làm thinh. Ai biết chị nghĩ gì. Thằng con thì ăn lấy ăn để, mà chị thì cứ đưa mắt ra ngoài cửa sổ. Xe đi ngang qua những miếng đất khô cằn, cỏ cũng không mọc lên nổi. Rồi một khu xóm có vẻ bỏ hoang từ thời chiến tranh, những hàng dừa xanh, nối tiếp nhau. Có cây dừa, đứng trơ vơ giữa đồng trống, ngọn bứt đâu rồi, chỉ còn thân cây cụt đầu, nám cháy.

Trong xe đò, mọi người đang lúc vui vẻ quá đáng. Lại có chuyện tiếu lâm đời xưa.

…Hồi đó, trai gái hẹn hò chỉ có nước đem nhau ra đồng, chớ làm gì có khách sạn, nhà ngủ như thời bây giờ. Cô cậu tình tự sau bụi cây. Chàng kêu: Anh mà không lấy được em thì anh chết…Nàng cũng: Em mà không lấy được anh thì em cũng chết. Sau bụi cây có ông lão táo bón. Đang khổ cực vì cục nợ đời. Nghe trai gái nỉ non, ông la lên: Tao mà ỉa không ra, tụi bây cũng chết…

Câu chuyện trong đời, người nào cũng đã nghe mòn tai, vậy mà ôi thôi, cười tới nổ bóng đèn.

“Chết thiệt chứ. Ở ngoài tôi, chỉ vì cục cứt mà đánh nhau vỡ sọ nà thường.”

15Giọng miền Bắc đặc sệt. Người đàn ông, nãy giờ chưa hề mở miệng, lên tiếng. Cán bộ nữa chắc? Cũng áo bộ đội mà sao coi xác xơ, tiều tụy.

“Trong Nam, gì chứ món phân tươi, quả nà vượt chỉ tiêu. Ở ngoài Bắc chúng tôi, phân tươi quí như vàng. Các bác mà ra ngoài đồng, ngồi chưa yên chỗ đã có cả chục cặp mắt theo dõi, rình mò. Vừa đứng dậy nà đám hốt phân nập tức ùa tới, giành nhau, đôi khi đòn gánh còn phạng nhau vỡ sọ ấy chứ nị…Chả dấu gì cô bác, tôi nà dân Bắc kỳ chính hiệu bà nang trọc đây. Trước cũng nàm nghề bới cứt rồi, mà đủ sống đâu. Nhà nước phát động kế hoạch giãn dân vào Nam. Nghe nói trong Nam đất đai phì nhiêu, ruộng cò bay thẳng cánh, mà Mỹ Ngụy nó thả chất độc màu da cam, phá hoại căng lắm. Giờ, phải di dân ngoài vào tiếp quản, khai khẩn. Nhà nào hưởng ứng kế hoạch vào Nam, sẽ có tiền, cất nhà. Nghe động viên, thèm bỏ mẹ, mà vào rồi thì thấy có cứt gì đâu nào. Được miếng đất rừng, đồng bào đi kinh tế nàm sẵn trước khi bị đuổi vào sâu hơn trong rừng. Mình Bắc Kỳ, hậu phương nhớn mà. Phải có “ưu tiên đãi ngộ” chứ. Hưởng miếng đất trống, vậy nà xong phần đãi ngộ. Địt mẹ nó chứ. Nai nưng ra mà cuốc. Trồng trọt, chưa có cái ăn cũng phấn đấu ỉa ra để có phân tươi, ủ bón. Cả ngày, vợ chồng con cái cứ động viên nhau ỉa…”

Chẳng ai dám hưởng ứng lời bác ta. Có người làm như nãy giờ chưa hề nghe thấy gì hết trơn. Mấy chị thăm nuôi đang bàn luận về mấy ông chồng cải tạo.

“Mấy bà thấy hông. Ngay đường đi vô trại, bên đường cũng có đống phân ủ to như cái đồi. Có bữa đi ngang thấy mấy ông bới, gánh. Mấy ông vục cả tay vô, hốt vào thùng rồi gánh đi. Thiệt cầm lòng không đặng.”

“Ối dào. Còn đỡ. Hầm phân đào cả hố sâu, mấy ông học tập nhà mình phải nhảy xuống, đầm mình trong hố phân, múc vào thùng cho người khác kéo lên…”

Một chị đi buôn đang ăn dở miệng bánh tét, cằn nhằn:

“Thôi đi mấy bà. Nói toàn chuyện…”

Người đàn ông Bắc kỳ giãn dân lại chen vô:

“Đang nói dở, nói tuốt nuôn cho nó sướng nỗ miệng. Ngoài tôi còn khối cái nạ nắm. Ở những khu đông đúc dân cư, không thể tìm đường đi ra đồng để “giải quyết” được. Gặp Tào Tháo đuổi, cũng chạy bở hơi tai mới tới được khu nhà xí, nắm núc bĩnh ra cả quần. Ban ngày còn cái nạn xếp hàng chờ.

Ban đêm, càng hồi hộp thêm. Xong việc, đứng dậy, đi được mấy bước, đã có ánh đèn pin rọi để xử lý bãi phân rồi. Cái rì? Rọi đèn hả? Vâng, rọi đèn. Công an phải kiểm tra cả cứt nữa chứ. Thì “đề cao cảnh giác” mà. Xê I A nó nguy hiểm, nó dám nợi dụng “hố xí hai ngăn” của ta, gài tài liệu, hoặc niên nạc với nhau, chứ nại không hả? Còn nữa, cũng có thể nà dân đi đêm, rình hốt phân tươi. Ngoài chúng tôi, món này quí lắm, khối thằng sống bằng nghề bới cứt…”

Người khách ngồi cạnh anh ta, nãy giờ nghe, cứ cười cười. Chiếc áo lính cộng hòa cũ đã nhuộm đen, giặt nhiều lần bạc thếch, anh ta đưa tay sờ sờ cằm mà chẳng có sợi râu nào.

“Biết vậy. Bác không ở ngoải hốt cứt cho xong. Vô đây, cứt cũng không ai ị ngoài đồng cho bác hốt.”

“Biết. Biết chứ. Nhưng ngoài chúng tôi vừa có phát động phong trào mới, tên nà “hai nhiều một ít”, nên có hơi…khó khăn.”

“Cái gì mà hai nhiều một ít?”

“Hai nhiều là nàm nhiều, ỉa nhiều. Một ít là ăn ít.”

“Ăn ít thì lấy đâu ra mà ỉa. Thôi bác ơi, làm gì có chuyện…”

Anh cán bộ liếc xuống. Anh chàng giọng Bắc kỳ đặc đưa bàn tay lên, mọi người thấy anh ta cụt mất một bàn tay.

“Địt mẹ nó. Hy sinh ở chiến trường miền Nam đấy.”

Gặp thương phế binh rồi. Anh cán bộ quay đi. Lâu nay, xe đò thường bị thương phế binh chặn lại, xét, thu thuế. Mọi người còn nhớ, tết vừa rồi, thương phế binh đòi ăn không xong, đã mở chốt lựu đạn, cho nổ tanh banh một quán ăn ở Tân Định. Thức ăn không được nhồi nhét vô bao tử thì tanh banh cùng với máu thịt của anh ta.

Anh cán bộ quay lại thì đụng mắt nữ đồng chí.

“Cho địa chỉ lần tới có công tác, liên hệ tiếp nhé.”

Chị cán bộ cười tít, mắt có đuôi.

Tiếng cười rúc rích đâu ở mấy dãy ghế sau nghe thật nhột nhạt. Giọng ai đọc khe khẽ: Em như cục cứt trôi sông. Anh như con chó ngồi trông trên bờ. Đâu biết nói ai hay vui miệng, mà chị cán bộ cúi đầu. May quá, giọng Bắc oang oang của người đàn ông cụt bàn tay, đập mạnh vào tai mọi người:

“Này, mấy chị đi thăm nuôi học tập ơi. Hai đứa con tôi nàm việc với mấy chị đó. Đi học hả? Giời ơi, học với hành gì. Phải đi bộ ba chục cây số, tới thị trấn mới có một cái trường. Thầy giáo ngồi ngáp ruồi, bày bắp nướng bán. Nàm sao chân trẻ con đi bộ tới đó mà học được. Mấy đứa con tôi ngày nào cũng chực chờ ngoài lộ để gánh thuê cho mấy chị thăm nuôi này này… Có hôm, tụi nó bị công an rượt chạy trối chết. Tóm được, thu hết tiền còn dọa bắn bỏ. Hỏi mấy bà coi, có bao giờ mà gánh được vào tới cho các bà đâu, phúc đức lắm nà nửa chặng đường, đã phải vứt thí cho mấy bà, lo chạy thoát lấy thân…”

Đến lượt mấy bà đi thăm nuôi chồng cải tạo nhìn anh chàng thương phế binh hi sinh ở chiến trường bàn tay, với đôi mắt thương hại. Anh ta đâu được gì, mà coi, cái đầu tay cụt đỏ hỏn, thành sẹo cứ nhắc anh hoài: chiến trường, chiến trường…chiến thắng, chiến thắng. Tội nghiệp.

Ông cụ râu ba chòm, coi bộ đã nhẹ nhõm, an tâm tư tưởng, lim dim gật lên gật xuống. Lơ xe tên Ba đang tán một chị đi buôn, đá qua đá về. Lơ xe Rạng thọt gậy vô bánh xe:

“Nó con nít vậy mà đã một vợ hai con rồi đó bà ơi. Gan thì dính vô đi…”

“Nhằm nhò gì. Tao bốn năm đời chồng rồi nghe mầy. Mười một quận, cách mạng đi đứt quận nhì, còn mười. Mười quận, tao vô ra đủ rồi, mầy…”

Mấy chị đi thăm nuôi, kẻ quay lui, người xích tới, tụm lại. Không biết kể cho nhau nghe chuyện gì bi thương mà có chị nước mắt lưng tròng…

“Thì đó. Bữa đó có tui chứng kiến tận mắt. Chết chớ sống gì nổi. Ôi thôi, ỉa từ đầu hôm tới khuya. Cứ òng ọc, òng ọc. Thuốc hả? Thì có. Tụi này góp hết thuốc đem lên cho mấy ông ra, uống đủ thứ, cầm nổi đâu…”

“Ăn trúng cái gì?”

“Ăn gì mà trúng. Uống có hớp nước ở trạm xét ngoài cổng trại. Thì khát, xách cả năm sáu chục kí lô, vô tới thì khô người rồi…”

“Đi đâu cũng nghe chuyện chết. Tháng trước mới một người rồi. Nghe nói tù ngoài Bắc chuyển vô. Phạm kỷ luật, nhốt hầm đá…Mấy ông kể, trước đêm anh ta chết, cả trại nghe tiếng hú như ma quỷ kêu… Chồng hả? Xin ra gặp vợ cũng không được, nghe đâu anh ta phát điên luôn rồi…”

32Một chị đi buôn tiếp lời:

“Tui biết chuyện này. Bữa mấy người đi thăm với bà chị bị chết đem đứa con gái của chị ta về cùng chuyến xe đò này. Khóc gì mà khóc dữ. Mấy bả khóc, con bé khóc, ngồi trong xe mà rợn cả người…”

Chị ta buông tiếng thở dài, rồi liếc mắt nhìn ông cụ, vừa mới mở được mắt ra, che tay ngáp.

“Bữa đó, trên xe cũng phảng phất cái mùi như bữa nay này. Từ quần áo của mấy bà và đứa bé bốc ra. Mùi của người ta nghe mà thương đứt ruột, chớ đâu phải dô diên như cụ, cụ ơi.”

“Ừa, thiệt tui già mà vô duyên quá.”

“Không vô duyên đâu cụ ơi. Nhờ cụ mà cuộc tọa đàm về chuyên đề “cứt” càng lúc càng phong phú. Tôi cũng có chuyện muốn đóng góp đây.”

Tài xế, mặt mũi đã dịu lại nhiều rồi, vừa lái vừa nói:

“Anh này nữa. Tiền xe năn nỉ trả có nửa, kể nửa chuyện thôi nghe, cha.”

“Được, được. Tui xin giới thiệu, cán bộ làm ởø cơ quan…Xin lỗi, cán bộ chuyên ngành cục…phân bón…Đó, quí bà con cô bác lại cười rồi…Vâng cục…phân bón. Cục…phân bón của chúng tôi không chiếm công ốc cao lớn, thênh thang như các cục đường biển, cục đường bộ, cục đường sắt. Mà chỉ khiêm nhượng ké một phần địa điểm của cục đường sắt…đường sắt đây là đường rầy xe lửa.”

Buồn cười. Nhiều người đã đoán được hết câu chuyện mà cũng cứ nghệt mặt ra chờ.

“Thôi cha nội. Cục đường sắt gì lại ra đường rầy xe lửa…”

“Đúng vậy. Ở Hàm Nghi có một khoảng đường rầy xe lửa bỏ không nhiều năm nay. Bà con bụi đời khu vực Hàm Nghi, chợ Cũ, ban ngày ban mặt mà tới lúc “công an” gọi là tới ngay đó để “tọa đàm”. Tui cũng vậy, hễ là dân bụi đời, vô gia cư, thì cũng phải ghi tên vào cục…phân bón này…”

Anh cán bộ ho. Chắc anh ta muốn tằng hắng ra oai thì đúng hơn. Giọng anh Bắc kỳ di dân vô Nam ra vẻ dạy đời:

“Thôi đi anh bạn ơi. Đã nói khôn cũng chết, dại cũng chết. Biết thì sống. Anh nói hươu nói vượn gì thế? Sắp tới trại cải tạo rồi đó.”

“Cám ơn anh bạn nhắc chừng. Thì tui cũng hai năm cải tạo rồi đây. Về nhà, vợ con bị cá ăn hết trơn, mới phải lang thang bụi đời, làm việc tại cục phân bón…Tui đi cải tạo còn có chính nghĩa, vì mình là lính Ngụy, nợ máu đầy mình. Chớ cái bà cụ ở khu xóm “người tình” mới của tui mới là vô duyên. Bữa mới đây này, họp tổ dân phố, cán bộ tới phường thuyết trình tình hình chính trị và những chuyển biến mới của Liên Xô vĩ đại. Cán bộ cho biết, bên Liên Xô sướng lắm, nhà ở đêm không phải đóng cửa… Lời cán bộ chân thành mà có đứa phản động dám xuyên tạc nói là cửa đâu mà đóng, cạy gỡ làm củi sưởi mùa đông rồi…Còn bà cụ mới khổ, già, ngớ ngẩn, lại lãng tai. Cán bộ nói chủ tịch mới bên Liên Xô là cái ông ba chớp ba nháng gì đó. Bà cụ ngóng hoài, lọt vô lỗ tai cái gì mà gốp ba ra cốp lốp chốp…Bà cụ mới gật gù: À tên tuổi bên Liên Xô vĩ đại thiệt lạ há: Móc cức khô ra đớp…ra đớp, ra đớp…

Đợi cho bà con xong trận cười, anh ta thở dài, não nuột:

“Bà con cô bác biết đó. Cũng vì bà con đã cười mà bà cụ bị nhốt vô Phan Đăng Lưu. Bà cụ bị nhốt, thân tui lại càng đau khổ, bởi vì tui là “Người tình không hộ khẩu” của con gái bà cụ…Tui phải bỏ thành phố ra đi, góc biển chân trời…”

Cán bộ nữ ghé tai đồng chí. Cả hai mặt mũi có vẻ khẩn trương. Mấy chị đàn bà còn cười dai dẳng. Còn anh chàng, đang rầu rĩ, bỗng cất giọng hăng hái, hớn hở:

“Bác tài ơi. Cho xuống. Xuống.”

Trời sụp tối lúc nào không hay. Xe thắng gấp làm mọi người nhào lộn. Anh khách “cục phân bón” lẹ làng bước xuống. Bộ đồ cũ vá nhiều miếng và cái túi xách nhẹ hều, anh ta còn đưa tay chào tài xế:

“Cám ơn. Mới có nửa câu chuyện đó nghe, cha.”

“Thằng láu cá. Hắn lên xe lúc nào vậy?”

Cán bộ hỏi trổng. Không ai trả lời. Nơi kính chiếu hậu, vài người thoáng thấy nụ cười của bác tài.

Có tiếng ca lảnh lót vang lên từ cửa xe: như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng…”

“Thấy chưa bà con. Nó ca đấy.”

Ông râu ngắn cao giọng, khoái trá ra mặt. Ông cụ râu ba chòm với tay qua người bạn già, đập đập vào lồng chim.

“Ca đi. Ca tiếp mày. Vẹt.”

“Đụ má mầy.”

Bất thình lình con vẹt chửi. Cả xe lại cười nghiêng ngửa. Thì ra nó biết nói. Ông cụ râu ngắn lắc đầu:

“Tệ thiệt bà con coi. Nó biết ca chớ. Vậy mà lì lắm. Khi tới cơn thì ca hát luôn miệng, không thích là ngậm tăm, bẻ cổ cũng không nhúc nhích. Lại cứ thích làm chim cu nữa kìa, bắt chước kêu cho được cục cù rù, cục cù ru…Đừng gọi nó là vẹt. Hễ gọi Vẹt là nó chửi.”

“Ê, Vẹt. Vẹt.”

Trong xe rộ nhiều tiếng la.

“Đụ má mầy. Đụ má mầy.”

Con vẹt xù lông, nhảy vòng vòng. Chỉ chửi. Nhất định không kêu cục cù ru, cúc cu rù nữa.

Thấm của nợ. Đủ chuyện. Mệt. Đói. Hành khách bớt hăm hở. Mọi người hỏi tài xế sắp tới chỗ dừng lại nghỉ chưa. Bà chủ xe hứa hẹn sắp được nghỉ ngơi ở quán cơm tới. Chừng tiếng đồng hồ xe chạy nữa thôi.

Hai cụ già đừ rồi, nghẹo cổ, dựa đầu, nhắm mắt. Tài xế tắt ngọn đèn trần. Anh cán bộ tức thì thụt đầu xuống, rồi cả cái đầu của chị cán bộ nữa.

Cây cối bên ngoài, lờ mờ như bức tranh bị bôi dập. Thoang thoáng những đốm đom đóm lập lòe. Lâu lâu, một vài đóm lửa, nhà ai giữa đồng. Rồi từ sau bóng cây, hiện ra một bóng trăng non. Trăng cứ đuổi theo xe mãi.

Trong bóng đêm, chiếc xe cứ vậy lao tới như một con vật không ngớt gầm gừ. Bỗng một tiếng nổ lớn. Vài tiếng la. Chiếc xe lảo đảo chồm tới, vòng vèo, muốn lật. Cả xe nhốn nháo. Máy rú lên rồi tắt phụt. Đèn xe tắt theo. Chỉ có bà mập, lơ mơ nửa ngủ nửa thức, giọng nhựa nhựa:

“Tới rồi hả?”

Một ánh đèn pin soi. Giọng bà chủ kinh hoàng:

“Mèn ơi.”

Chiếc xe húc vào một mô đất, nằm chênh vênh. Phía dưới là đáy vực sâu thăm thẳm. Chỉ giọng bà chủ xe là còn đủ hơi sức.

“Lạy thánh. Lạy ba cô, bảy miểu…Đã đỡ cho…Rạng. Ba. Rạng. Chúng mày đâu? Hai thằng trời đánh. Đem nhang đèn, chuối, bánh ra lễ tạ…Thánh ơi…”

Có tiếng cười xì của anh cán bộ, ra điều khó chịu vì sự mê tín của bà chủ xe. Nhưng khi anh ta chồm tới, nhìn cái miệng vực, anh cũng co đầu rụt lưỡi. Xe lại bể bánh lần thứ ba. Lần này, nhằm ngay cái bánh trước.

“Phước đức lắm thánh mới đỡ cho đấy.”

Bà chủ xe không ngớt hít hà.

Giữa rừng. Con trăng lưỡi liềm không nỡ chạy nữa, dừng lại, ngó xuống. Một cái đèn bão được đốt lên. Trong ánh lửa bập bùng, trên từng khuôn mặt hành khách, còn nguyên vẻ hoảng hốt.

Hai ông cụ xuống xe, bê theo cái lồng chim. Chị thăm nuôi mang xuống giỏ gà sống. Bà mập cầm cái bình dấm dúi cho lơ xe.

“Thôi bà ơi. Xe còn chưa lo, lo cho heo của bà. Heo quan trọng hơn mấy cái bánh xe sao đây.”

“Mày nghe nó kêu không? Nó khát, khô cổ rồi. Lẹ lên.”

“Cái bà này…Để cho người ta…Thiệt kỳ đà cản mũi…”

Tài xế gọi mọi người xuống xe hết. Nhìn cái bánh xe xẹp lép, ông ta ngao ngán:

“Hết bánh sơ cua rồi. Phải đợi có xe xuống quá giang tìm chỗ vá vỏ ruột. Đù má, vỏ ruột gì cũng lô can không, mới chạy một tháng đã banh ta lông mẹ nó hết trơn. Cô bác, mời xuống. Xuống hết. Còn bà nội nữa. Mời bà nội xuống ngay cho, bộ phải cõng xuống sao đây.”

Tài xế nổi quạu. Chị đàn bà, vẫn ngồi trong góc, ôm đứa con nhỏ. Mệt. Đói. Đờ đẫn một lúc, chị cũng mang thằng nhỏ xuống được.

Tài xế:

“Đó, dư thời giờ cho bà con cô bác nghỉ ngơi. Ai muốn đi ỉa thì đi ỉa đi. Làm ơn ỉa cho nhiều vô. Vá xong xe, tới quán tha hồ mà ăn.”

“Thằng cha cà chớn…”

Có tiếng rủa, nhưng rồi mọi người cũng thông cảm. Coi kìa, cả sản nghiệp của bác ta, cái xe đò, nằm mọp như như một đống sắt rỉ ngay bên miệng vực thẳm. Không chỉ bánh xe xẹp lép đâu. Hình như, chỉ cần một cái rung nhẹ, một hòn đá bất ngờ, không chừng cả cái xe cũng rã ra thành nước.

Vậy mà nó vẫn ì ạch chở bao nhiêu là sinh mạng, đùa với rủi may. Còn lâu nó mới tới được bến.

Chẳng ai còn hơi sức thắc mắc tới điều này. Cục cù ru. Cúc cù rù. Cái con vẹt khỉ gió, cứ bắt chước tiếng kêu của loài chim câu. Ông già râu ngắn trao cái lồng cho ông bạn râu ba chòm:

“Bác giữ nó dùm chút. Giờ tới phiên tui vô bụi.”

Thụy Điển, 1990.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests