Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Y Uyên, văn chương của một cuộc chiến
Viên Linh

Sau chiến tranh Việt Nam, ở Hoa Kỳ không thiếu gì những người từng nhân danh “cựu chiến binh,” từng tự nhận “về từ [Việt] Nam,”
không phải muốn đóng vai một anh hùng, mà chỉ để biện minh cho sự lê la của họ trong quán rượu, trên lề đường, sự thất bại của họ trong cuộc đời
thường, một trong những “mặc cảm” Việt Nam, một trong những nguyên nhân gây ra sự bất toàn, sự thất bại của họ.

Image
Chân dung Y Uyên do Duy Thanh vẽ và bìa các tác phẩm của Y Uyên. (Hình: Trên mạng của Nhị Linh, Viên Linh cung cấp)


Bên lề của hiện tượng ấy, và song hành hay chậm hơn, cũng có một lớp người, lần này là người Việt ở Mỹ, đổ tội cho cuộc chiến vì những thất bại của họ trên mặt tình cảm, gia đình, sự học hành, hay cả sự nghiệp văn chương nghệ thuật; khiến cho họ không được xã hội nhìn nhận một cách xứng đáng. Tại Việt Nam khoảng hai mươi năm nay, khi thấy chế độ hiện hành có thể còn tồn tại lâu hơn, có một số người bắt đầu muốn được chế độ mới thu dụng, hay ghi công, bằng cách tự xưng họ từng là người phản chiến, từng trốn lính, từng có thơ văn bị chế độ Việt Nam Cộng Hòa kiểm duyệt. Trong khoảng mười năm gần đây, có vài người đã nhờ bạn bè của họ liên lạc với các vị chủ bút, thư ký tòa soạn mấy tờ báo hồi trước 1975, để xin xác nhận dù một cách gián tiếp, là thơ văn của họ từng “không được đăng” trên các báo có lập trường quốc gia (chống Cộng), hay vì được đăng mà khiến mấy tờ báo ấy bị “đục bỏ,” bị “phối hợp nghệ thuật,” hay vì đăng thơ văn họ mà báo bị “cảnh sát tịch thu,” và sự nghiệp của họ chẳng ra gì.


Từ Việt Nam qua có người tới thăm bạn, nói một hai chuyện đại loại, bạn hẳn phải ngờ ngợ suy nghĩ vì không thể nghĩ ra thực tế có chuyện ấy không, vì không thể xác quyết những chuyện đã xảy ra hay không từng xảy ra cách đây đã ba bốn mươi năm, nhất là dính dáng đến những người mình chưa từng gặp mặt bao giờ, và không có bao nhiêu tên tuổi. Ðến khi lần thứ hai, lần thứ ba lại có người làm tương tự như thế, bạn mới hiểu ra, là họ đang cần được minh chứng họ là người có công với chế độ mới, vì từng có hành vi chống chế độ cũ, như làm thơ phản chiến, trốn quân dịch, có bài đăng báo A báo B khiến cho báo đó bị cảnh sát ập đến tòa báo tịch thu hết những tờ báo chưa kịp phát hành. Người viết bài này sống trong nghề báo từ lúc vào nghề chỉ là một thông tín viên, một phóng viên, một đặc phái viên, cho tới thư ký tòa soạn và chủ bút, là chức vụ cao nhất cho những ký giả đi làm thuê, khi nghe những chuyện ấy, biết là nó không thật, biết mà nhiều khi chỉ hé ra cái vẻ của một nụ cười, không đáng nói ra làm gì.

Chẳng hạn báo ở Sài Gòn không ai tự phát hành lấy, để ở đó mà cảnh sát đến tịch thu khi báo đang phát hành dở dang. Không có chuyện đó. Khâu phát hành báo chí ở Sài Gòn giống như một cuộc hành quân, ào một cái, báo ra khỏi nhà in, có khi ba bốn tiếng đồng hồ sau nhân viên tòa báo không có báo của mình để đọc nữa. Hơn nữa, nhiều tòa soạn không phải là nhà in; nhiều nhà in không phải là nhà báo. Báo biên tập ở một chỗ, in ở một chỗ, phát hành ở một chỗ khác. Mấy trung tâm phát hành nổi tiếng là khu Ðề Thám, nhà Tổng phát hành Thống Nhất (do cơ chế Thương Phế Binh VNCH nắm giữ), Ngã Tư Quốc Tế, v.v... Mấy “tướng” phát hành hét ra lửa, bởi vì ông ta có thể nhận phát hành một tờ báo, nhận chia lời ba mươi hay băm lăm phần trăm, rồi ném nó vào trong kho để đó, nó có thể không bao giờ thấy ánh sáng mặt trời. Nó sẽ được trả lại nguyên con nguyên bó cho chủ báo, không một lời giải thíach.

Làm báo mà không giao cho một tổ chức Tổng Phát Hành, là làm báo chơi, tài tử, hay có lẽ là không có nghề báo chi cả, chỉ là một anh có tiền và tương lai là sẽ đóng cửa sau một tuần, nếu là nhật báo. Khi người viết bài này làm tổng thư ký tòa soạn nhật báo Ðất Tổ (của Phật Giáo, xu hướng Hòa Thượng Thích Thiện Minh, khoảng 1965-66), và sau đó nhật báo Dân Ta (của nhà thơ Nguyễn Vỹ), Dân Tiến, mới biết ngày Thứ Hai tuần này và ngày Thứ Hai tuần trước, báo lên hay xuống bao nhiêu tờ; Thứ Sáu tuần này và Thứ Sáu tuần trước lên xuống bao nhiêu tờ. Phát hành báo Sài Gòn đại khái là như thế, đó là một cuộc hành quân, với xe vận tải nhỏ và xe lam ba bánh, túa từ các khu Ðề Thám, Trần Hưng Ðạo, Ngã Tư Quốc Tế ra khắp ngả thủ đô, và trực chỉ Miền Ðông, Miền Tây, ngay khi tờ báo còn dính mực, thoáng một cái ra khỏi trung tâm phát hành, khi cảnh sát đến... tòa báo để tịch thu nếu có, thì cũng được vài trăm hay vài chục tờ, số lớn đã phát tán ở nơi khác rồi. Lúc trông coi một nhà in ở Chợ Lớn và làm chủ nhiệm tạp chí Thời Tập, in sách và làm báo người viết bài này đều nhờ ông Nam Cường làm tổng phát hành cho mình, mới được biết rõ hơn về những tuyến phát hành sách báo ở miền Nam. Tờ báo số trước lên hay xuống so với số trước nữa, ông đều cho biết con số đích xác (có người phụ tá cầm một cuốn sổ đọc từng con số). Báo ra tới số 4 thì ông gật gù: Cứ thế này thì báo sẽ sống. Số sau bán cao hơn số trước chỉ khoảng một trăm tờ, nhưng lên đều đều chứ không trồi sụt, như thế là báo có tương lai. Lúc ấy giấy in báo khoảng 7,500 đồng một ram (mỗi số cần 15 ram là trên 100,000 ngàn đồng), nhà tổng phát hành sẽ ứng ngay một nửa hay 2/3 cho chủ báo để làm tiếp số tới; nếu không có tiền ứng trước của nhà tổng phát hành, bạn phải là triệu phú mới ra được tạp chí định kỳ; và phải nhiều lần triệu phú mới ra được tuần báo, đừng nói đến nhật báo. Khi đã thân với nhà tổng phát hành, tôi còn được biết các báo khác có số bán bao nhiêu, một cách đại khái. Tôi biết tạp chí Văn của ông Nguyễn Ðình Vượng bán bao nhiêu số thời Trần Phong Giao làm thư ký tòa soạn, và thời Nguyễn Xuân Hoàng rồi Mai Thảo làm thư ký tòa soạn, nó như thế nào.

Trở về với những người nói rằng thơ văn họ đã làm tạp chí này hay tờ báo nọ bị cảnh sát tịch thu, thời VNCH họ không đi quân dịch, năm 1975 họ có tên trong danh sách đi Mỹ nhưng nhất định không đi, những loại tin ấy cho chúng ta một cái nhìn mới về họ, và không cần phải nói đến làm gì. Bài này viết về nhà văn Y Uyên, đã phải mở đầu như trên, nhân có loại tin tương tự nói rằng những người viết văn ngoài mặt trận đã không được báo chí văn nghệ ở Sài Gòn thời đó đãi ngộ. Nhân có một website, báo mạng, được trong nước tổ chức, đài thọ, chủ ý mở rộng giao lưu ở tầng cấp những người cầm bút trẻ, ít kinh nghiệm xung đột ý thức hệ, ham vui bầy đoàn, họ đã bày ra trò văn học đô thị (chỉ là nền văn học của phòng trà ca vũ) để đẩy cái đối nghịch rừng rú về một phía, và quả là những con tu hú đẻ nhờ đã thấy cái tổ làm sẵn còn trống, đã bay vào hả hê ca hót.

Những con tu hú này thấy một phía là đô thị, bao quanh là rừng rú, và chỉ có họ là loài chim tranh đấu thứ thiệt. Họ oán trách tại miền Nam, họ tranh đấu xả thân nhiều khi mất mạng, mà giới “văn học đô thị” làm báo văn nghệ phản chiến, không nói gì đến họ. Có người còn trách văn nghệ thành phố không khen họ tới nơi tới chốn. Có chứ, nhà văn Y Uyên thần tượng của văn chương tay súng tay bút, đã từng được ca ngợi vượt bực vào lúc mới 23 tuổi:

“Y Uyên là một nhà văn trẻ, ‘Tượng Ðá Sườn Non’ là tác phẩm đầu của ông được in thành sách, sách Y Uyên xuất hiện một cách trầm lặng, tựa như những truyện ngắn của ông trước đó xuất hiện trên tạp chí Bách Khoa. Lối văn Y Uyên cũng không ồn ào, không vội vã, mà lạnh lùng xếp xếp từng hàng, song đó là những hàng chữ chặt chẽ, khỏe mạnh, sắc gọn. Truyện ngắn Y Uyên có cái bố cục vô cùng vững chãi, có cái vẻ ngoài vô cùng bình thản, và hàm chứa trong cái vững chãi bình thản ấy những xao xuyến lo âu, thứ tình cảm của thời hiên đai. Dường như chưa có truyện ngắn nào của ông thiếu cái xao xuyến lo âu đó. Chiến tranh chẳng hạn, không hiện lên trong đau khổ khủng khiếp, nhưng có mặt thao thức như bóng đêm, khắp mọi chỗ, không thường trực hiện diện nhưng thấp thoáng đe dọa bay đến bất cứ lúc nào. Ðời sống của thế giới Y Uyên là những đời sống tách lìa, đẩy xa, hụt và thiếu niềm vui, vắng cái tốt, nhiều khuất lấp nhưng những khuất lấp ấy được làm như không có.

“Tôi đọc ‘Tượng Ðá Sườn Non’ bốn lần mới xong, mỗi lần chỉ một truyện, bốn truyện mới hết: Người Ðã Lên Tầu, Miền Không Vết Chân Người, Tiếng Hát Của Người Gác Cầu, và Tượng Ðá Sườn Non.

“Trong tất cả mọi truyện ngắn của Y Uyên, bao giờ một sự thật cũng bật lên. Sự thật ấy mới đầu được bao phủ bởi những vẻ này nét nọ, xa gần, giấu kín. Thành ra cái hấp dẫn ở tác giả ‘Tượng Ðá Sườn Non’ là cái hấp dẫn của từng trang sách, ngay chính việc khám phá uẩn khúc con người. Uẩn khúc con người hơn là uẩn khúc các nhân vật. Tuy nhiên nhân vật của ông không cần tên gọi: họ là một lớp, một hạng, một thành phần của đời sống. Ðời sống bây giờ, thường là ở tít đầu đằng kia trục giao thông, xa hẳn mọi thành phố. Ðời sống ấy không được tiết lộ bằng một giọng văn kể chuyện, mà bằng thái độ trầm ngâm bình thản, như cam tâm, như chịu nhận, cuối cùng nó hiện hình hoàn toàn là một đời sống có từ chối bao nhiêu cũng như vậy

“Ví dụ như chiến tranh. Y Uyên không không tác xác cái lối nói của người lắm mồm lắm miệng kêu la phẫn uất hay mỉa mai kiêu ngạo. Cũng không lầm lì vũ bão. Dửng dưng đến và dửng dưng có mặt, không kể gì tới những thắc mắc lo âu nào. Trong cả tập ‘Tượng Ðá Sườn Non’ có lẽ chỉ tìm thấy vài danh từ chiến tranh. Có cả truyện không nhắc đến nó một tiếng, nhưng theo tôi Y Uyên là nhà văn viết về chiến tranh hay nhất trong những người gần đây đã viết về chiến tranh.” (Hồ Tùng Nghiệp [bút hiệu khác của Viên Linh], đọc Tượng Ðá Sườn Non, truyện ngắn của Y Uyên. Dày 150 trang, Thời Mới xuất bản, giá 52 đồng. Tuần báo Nghệ Thuật số 36, trang 9, ra ngày 18-26 tháng 6, 1966).

Năm 1966 tôi viết bài trên, nhấn mạnh Y Uyên là nhà văn viết về chiến tranh hay nhất lúc bấy giờ, trong lúc tôi đã đọc cả chục cuốn khác của cả chục người khác trong thế hệ của anh. Viết anh là “nhà văn viết về chiến tranh hay nhất” khi anh 23 tuổi và bên anh có cả chục nhà văn mặc áo lính khác, tôi không hề mạo hiểm, dù lúc ấy đang là thư ký tòa soạn của tờ Nghệ Thuật (Mai Thảo là chủ bút), một lời viết sai của thư ký tòa soạn có thể gây bối rối lớn cho cả tờ báo. Không một ai phản đối. Tôi đã đọc cả trăm truyện ngắn về chiến tranh lúc ấy, nên biết sức con ngựa hay, biết dáng vẻ lũ ngựa thồ. Ngựa thồ có sống già như con ngựa của Phùng Cung, thì cũng chỉ thế thôi, nếu không nói là mỗi ngày một xấu xí tồi tệ. Trong khi tác phẩm đầu tay của Y Uyên ngày một là tác phẩm số 1, tên tuổi Y Uyên trở thành điển hình cho một thế hệ. Và theo tôi biết, mỗi thế hệ nhà văn - mỗi vài chục năm những tên tuổi lớn còn sót lại đếm không đủ một bàn tay năm ngón.

Y Uyên tên thật Nguyễn Văn Uy, sinh năm 1943 tại miền Bắc, di cư vào Nam năm 1954, dạy học, động viên làm nghĩa vụ quân sự đóng đồn ở Nora, Phan Thiết, bị phục kích hy sinh ngày 8 tháng 1, 1969. Viết truyện ngán cho Bách Khoa, Khởi Hành, Văn. Các tác phẩm đã xuất bản ngoài cuốn trên: Bão Khô 1966, Quê Nhà 1967, Ngựa Tía 1968, Ðuốc Sậy 1969.
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Nhớ Lê Uyên Phương

Image
Từ trái qua: Lê Uyên, Vương Đằng, Lê Uyên Phương, 1978 tại New York (Hình Vương Đằng)

Lê Uyên Phương (2 tháng 2 năm 1941 – 29 tháng 6 năm 1999) là một trong những nhạc sĩ lớn của dòng nhạc tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam trước 1975.

Ông tên thật là Lê Minh Lập, sinh tại Đà Lạt. Trong thời kỳ chiến tranh, giấy tờ bị thất lạc, trong hai lần làm lại giấy khai sinh, tên của ông bị nhân viên giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Từ đó ông giữ cái tên Lê Văn Lộc.

Cha của Lê Uyên Phương vốn họ Phan, nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ Lê. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tôn Nữ Phương Nhi, ông lấy chữ Phương trong tên của mẹ làm tên cho mình. Cùng với chữ Uyên, tên người bạn gái đầu tiên, ông ghép thành nghệ danh Lê Uyên Phương.

Lê Uyên Phương gặp Lâm Phúc Anh ở Đà Lạt, năm 1968 hai người thành hôn. Họ trở thành đôi tình nhân song ca nổi tiếng. Vì Lâm Phúc Anh không muốn dùng tên thật nên lấy nghệ danh là Lê Uyên, cắt từ chữ Lê Uyên Phương. Hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương.

Lê Uyên Phương khởi sự viết nhạc từ 1960 với "Buồn đến bao giờ" viết tại Pleiku. Những năm đầu thập kỷ 1970, từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên và Phương đã đem một luồng gió mới đến với tân nhạc. Trong những năm khốc liệt nhất của cuộc Chiến tranh Việt Nam, Lê Uyên và Phương, với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải đôi khi bàng bạc, triết lý đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Lê Uyên Phương đã viết nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như: "Bài ca hạnh ngộ", "Còn nắng trên đồi", "Dạ khúc cho tình nhân", "Lời gọi chân mây", "Vũng lầy của chúng ta"...

Năm 1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời khỏi Việt Nam và định cư tại nam California, Hoa Kỳ. Họ có hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Sau 15 năm chung sống, khoảng 1984, 1985 cuộc hôn nhân của hai người tan vỡ.

Ông mất ngày 29 tháng 6 năm 1999 tại bệnh viện UCI (University of California, Irvine) vì bệnh ung thư phổi.(Theo Wikipedia)

Thương khóc anh Phương


"Yêu nhau khi còn thơ" đẹp như ánh trăng thu,
"Khi loài thú xa nhau" buồn tựa khúc nhạc rừng.

1.

Nghe tin anh ra đi
Qua bên kia thế giới,
Buồn khóc không nên lời,
Chẳng thiết nói năng chi.

2.

Bây giờ anh thanh thản
Giữa đồng lúa gặt xong;
Vợ con anh thổn thức
Đếm giọt sầu mênh mông.

3.

Giọng anh còn âm vang,
Nhạc anh còn sống mãi
Trong lòng người yêu nhạc
Dù tháng ngày miên man.

Vương Đằng
(Ngày 16 tháng Năm, Kỷ Mão, 1999, Âm lịch)
hoanghoa
Posts: 2256
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Viết về Nguyễn Tất Nhiên

Tôi gặp anh trong buổi ra mắt cuốn băng nhạc đầu tay của anh ở Cali. Cuốn băng được soạn từ dòng thơ của anh được phổ nhạc bởi các nhạc sĩ tên tuổi và cũng chuyên chở chính dòng nhạc do anh sáng tác nữa.

Buổi ấy nhìn anh đôn đáo ngược xuôi, lo lắng vì ca sĩ Nhật Hạ là ca sĩ chính của buổi ra mắt chưa tới làm tôi ngần ngại thôi không dám ra mặt chào anh. Nhìn dáng anh cao, gầy, mái tóc trễ muộn, lòng tôi bỗng dâng lên một nỗi bâng khuâng khó tả. Lòng tự hỏi, không biết người ta có còn nhớ đến mình không? Ngày ấy mình còn bé quá, cái ngày anh ân cần trao tập thơ đầu tay mới in chưa ráo mực cho cô bạn em họ mình. Anh còn đề tặng mấy lời thật chân tình bay bướm. Hải ơi, anh còn nhớ cô bé đã trao tặng lại anh tờ báo xuân cuối năm ngôi trường nữ cô học không?

Ngày ấy, con nhỏ Y bạn tôi (là em họ anh) tối ngày ngồi khoe ông anh thi nhân của nó hoài làm tôi rối cả ruột. Cứ mỗi lần vào lớp là nó lại dí vào mặt tôi một bàì thơ anh mới sáng tác được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Nhìn nét chữ Phạm Duy bay bướm êm ả nằm dưới những nốt trắng đen, tim tôi cứ nao nao. Con nhỏ Yến dùng chúng mồi chài cho anh làm quen với tôi.

Rồi bài “Vì tôi làm linh mục” của Nguyễn Đức Quang phổ nhạc lần sau khiến con tim tôi chảy mềm như sáp. Con Y chơi trò thủ thỉ:

- Anh Hải dẫn tao đi chơi quán cà phê này thơ mộng lắm, mày muốn đi không, mày muốn gặp anh Hải không?

Tôi ngại ngần khi nghĩ tới người con gái trong thơ bèn nói:

- Cái cô Bắc kỳ tên Duyên còn trong lòng anh ấy, mày ghép tao với anh Hải làm chi?

Nó xua tay.

- Ôi bà Duyên mất tiêu trong lòng anh ấy từ lâu rồi, ảnh còn rên rỉ tại rên cho ra thơ thôi đó mày à, không thôi lấy gì ra cho ông ấy làm thơ.

Y. giơ tay lên thề dùm cho ông anh họ:

- Anh Hải nói cho tao nghe vậy đó tin tao đi, mày có nhớ ảnh viết câu thơ này không? “Một đám ma đi qua còn là đám ma, hai đám ma đi qua còn giọt nước mắt, ba đám ma chỉ còn là hạt bụi…”

Con Y. nài nỉ thêm:

- Mai tao về Biên Hoà với anh Hải ghé thăm lại trường trung học Ngô Quyền mày về theo không?....(NTN học trung học ở Ngô Quyền, lúc anh tặng tôi tập thơ anh đã vào đại học còn tôi mới vào Trung học)

Tôi cười thoái thác và sau này tôi không có dịp gặp lại anh nữa.

Buổi ấy ngôi trường trung học của tôi chưa biết đến tên anh. Chúng tôi chỉ sôi sục với tiếng hát học trò của Nguyễn Chánh Tín và tiểu thuyết Tóc Mây của Lệ Hằng mà thôi. Chúng tôi những đứa con gái mới lớn bắt đầu với “Vòng tay học trò” của Nguyễn thị Hoàng và ngồi nhìn lên bảng đen trong đôi mắt ướt, mơ và yêu thầy giáo của mình. Khi nào thấy trống vắng, buồn buồn thì vào nhà thờ kiếm một vì linh mục để yêu cho giống tiểu thuyết. Hoặc lẩn thẩn vào chùa hay lang thang nơi Vĩnh Nghiêm, miền đaị học Vạn Hạnh mong tìm một vị chân tu. Tuổi mộng tròn mơ đẹp quá, tội quá, bé bỏng ngây thơ quá, hỡi những người con gái đi tìm yêu.

Khi nhạc Phạm Duy rền vang với tiếng thơ cuả anh thì anh đã xa chúng tôi và tôi không còn dịp gặp anh nữa. Những “Thà như giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc kỳ nho nhỏ” làm sáng danh anh. Anh đã bước ra khỏi tuổi học trò của chúng tôi theo cơn bão di tản.

Những bài thơ được phổ nhạc như Trúc Đào, Em hiền như ma soeur là những bài thơ được nhiều người biết đến qua những dòng nhạc thân quen. Nguyễn Tất Nhiên còn những bản nhạc do anh sáng tác sau 1975 từ các bài thơ của mình ít được phổ biến như Sàì gòn trên đường Nguyễn Du, Xin chở tình ta theo, Chiều trên đường Hồng thập Tự, Sông chiều áo trắng, Paris thu khúc, Trên nát tan tôi.....

Nếu có dịp bạn đọc nên tìm đọc để thấy lòng mình nhoà đi theo những cung thơ, ý lạ. Bạn sẽ thấy sự lột xác và cái mới thoát thai hẳn cái sáo của thơ đường và thơ cổ.

Vào tình khúc

(Lời mở đầu của băng nhạc tình khúc Nguyễn Tất Nhiên)

Tôi đã nguyện làm cây thánh giá đứng chơ vơ trên chót đỉnh cô đơn nhìn bụi thời gian rong rêu lên đời mình cô quạnh.

Tôi đã xin làm giọt mưa vỡ trên mặt người yêu dấu.

Tôi đã quì ngay trên nát tan mình xưng tụng tình yêu, ngưỡng vọng tình yêu hiền dịu như “ma soeur” tuyệt vời như thánh nữ.

Từ muôn thưở nhân loaị vẫn ưa nhìn những màu sắc buồn thảm. Tình khúc tuyệt vời, vả chăng là những khổ đau chất ngất.

Khi một tác phẩm đã thành hình, đã được ném vào mênh mông cõi trần gian hệ luỵ thì “nói năng chi cũng thừa”.


Cám ơn người đã bước vào tình khúc tôi. Hay nói khác đi cám ơn người đã mang lấy tình tôi.-Nguyễn Tất Nhiên

Viết cho Nguyễn Tất Nhiên

Trịnh Thanh Thủy
trinhham
Posts: 133
Joined: Mon Dec 10, 2012 2:07 am
Contact:

Post by trinhham »


MỘT NĂM NGUYỄN XUÂN HOÀNG RA ĐI


(Bài của Văn Quang viết riêng cho Việt Tribune)

Nếu không thường xuyên liên lạc với chị Trương Gia Vy, hiện đang làm chủ báo Viet Tribune chắc tôi không thể nhớ được ngày anh Nguyễn Xuân Hoàng “ra đi”. Bởi nếu nhìn vào danh sách những người bạn tôi ở tuổi 80 đã ra đi sẽ dài hơn những người còn ở lại. Và nếu tính cả những người dưới 80 ra đi còn quá nhiều. Làm sao tôi nhớ hết được.

Thế mà thấm thoát 1 năm rồi, ngày 13-9-năm 2014 tôi được tin anh Nguyễn Xuân Hoàng đã mất ở Mỹ. Ở Saigon tôi chỉ còn biết gửi vài dòng chia buồn cùng chị Vy. Có lần tôi nhận được e mail của chị và tấm ảnh chị ngồi một mình trong căn phòng của tòa soạn báo Viet Tribune. Tôi không biết căn phòng rộng hẹp ra sao, nhưng tôi chợt thấy nơi đó là một sa mạc rộng vắng mênh mông vì thiếu bóng dáng Nguyễn Xuân Hoàng. Người góa phụ ấy chắc hẳn tóc đã hoa râm với nỗi cô đơn giấu kín trong lòng, chẳng bao giờ phai nhạt, cho dù “Tuổi theo mùa đi mãi” nhưng không còn “anh và em”, chỉ tình yêu ở lại.

Năm nay, ngày giỗ đầu của bạn tôi, chị Vy ơi, tôi và chúng tôi, những người còn ở lại, xin thông cảm với nỗi nhớ thương ngút ngàn của chị.

Nhớ lại trong bài viết để tưởng nhớ anh, tôi đã viết “Nguyễn Xuân Hoàng 77 tuổi ở San Jose. Anh kém tôi 5 tuổi.. Lẽ ra trong số những người này, tôi phải là kẻ ra đi trước tiên mới đúng… luật già trẻ.

Nhưng trên đời này bao giờ cũng có những ngoại lệ đau lòng”.

Làm sao quên được những kỷ niệm cũ.

“Khi anh NX Hoàng làm Tổng Thư Ký cho tờ báo Việt Mercury ở Mỹ, tôi bắt đầu hợp tác với báo anh làm. Từ đó chúng tôi hiểu nhau và dễ dàng thông cảm với nhau. Đôi khi có dịp về Sài Gòn, không lần nào anh không tìm gặp tôi cùng vài người bạn. Có buổi chiều chúng tôi đi bộ trên những con đường đầy bóng cây cổ thụ, anh nói:

- Không bao giờ ngờ lại có ngày đi với Văn Quang trên con những con đường xưa như thế này.

Anh dốc bầu tâm sự về đủ thứ chuyện, kể cả chuyện tình cảm riêng tư, có lẽ tôi là người hiểu rõ anh hơn hết những người bạn ở đây. Tôi không nhớ anh về Sài Gòn bao nhiêu lần, có lần anh và chị Trương Gia Vy, vợ anh, cùng về và cùng đến nhà tôi ăn vài món gia truyền của gia đình tôi. Chị Vy là “con cháu nhà đại gia” mà tôi biết khi thân phụ chị là một vị dân biểu rất nổi tiếng ở Hạ Nghị Viện VNCH, phóng viên của Đài Phát Thanh Quân Đội có vài lần phỏng vấn. Phải nói thật là chúng tôi cũng tìm cách vận động để ngân sách của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đưa ra Quốc Hội được ông cùng một số dân biểu ủng hộ, không bị cắt xén như những tổng cục khác. Chị Vy có đặc tính của phụ nữ miền Nam, thật thà, đôn hậu, thực tế trong khi Nguyễn Xuân Hoàng lại có tính lãng mạn của mấy anh nghệ sĩ với những mơ ước tưởng như không bao giờ với tới được. Có lẽ chính vì vậy họ hợp thành một cặp rất đẹp đôi cho đến cuối đời”.

Nhưng rồi bạn tôi bỏ lại người bạn đời chung thủy của mình.

Thật ra Nguyễn Xuân Hoàng đang chiến đấu từng ngày với căn bệnh hiểm nghèo sarcoma, những lần gọi điện thoại thăm anh, giọng anh vẫn nồng nàn ấm áp. Tôi không hiểu rằng bạn tôi đã cố che giấu cơn đau cùng nỗi khổ tâm của con bệnh hành hạ. Mãi đến những giây phút cuối cùng anh không thể che giấu được nữa, anh mới thều thào qua điện thoại “Tôi mệt quá anh ơi”. Tiếng nói như một lời chào từ biệt. Tôi buông điện thoại ngẩn ngơ, từ hôm đó sợ anh mệt nên tôi không dám gọi ĐT sang nữa, tôi chỉ biết thăm hỏi anh qua vài người bạn. Và, thú thật tôi vẫn hồi hộp không muốn bị đón nhận một nguồn tin xấu nhất.

Nhưng rồi tin ấy vẫn đến đúng vào vài giờ sau khi anh mất. Chúng tôi liên lạc qua e mail, điện thoại nói về Nguyễn Xuân Hoàng cùng tang lễ của anh. Nhưng cái tang trong lòng lớn hơn cả. Tôi đã theo dõi tang lễ của anh qua một đoạn video clip khá dài của một người bạn gửi cho và được biết anh sẽ được hỏa thiêu theo ý nguyện. Nếu có thật linh hồn con người có thể nhìn lại những gì xảy đến với mình sau khi nằm xuống, chắc anh sẽ mãn nguyện vì bạn bè tới rất đông, gần như đầy đủ, chỉ thiếu một người bạn ở xa là tôi. Tràn ngập những trang báo là những bài viết về anh với những lời lẽ hết sức cảm động chân thành.

Nguyễn Xuân Hoàng là một nhân vật rất năng đông trong cõi văn chương Việt, không bao giờ ngưng nghỉ. Anh đã từng là tiểu thuyết gia, giáo sư triết, tổng thư ký tòa soạn, chủ bút tạp chí Văn qua nhiều thời kỳ, tổng thư ký nhật báo Người Việt ở hải ngoại, người viết sổ tay và “blogger” đài Tiếng Nói Hoa kỳ (VOA)…

Tôi đã viết “Hàng ngày vào internet, tôi đọc được rất nhiều lời phân ưu, thương tiếc của rất nhiều bạn bè anh ở khắp nơi trên thế giới. Có lẽ ít có người nào dù ở bất kỳ thành phần nào được bạn bè yêu quý đến thế, ngoại trừ những ông “chính khách” thì toàn là những thủ tục chia buồn cho đúng phép xã giao, buồn đấy mà chưa chắc đã là buồn hay vui nữa. Với Nguyễn Xuân Hoàng, bạn “mày tao” cũng có, bạn xưng là anh, xưng là em cũng có, đàn ông đàn bà, già trẻ đủ cả trên khắp các trang báo, các trang web, các diễn đàn… Một người ra đi như thế thật hiếm. Anh phải sống như thế nào mới được tiễn đưa như thế”.

Tôi thật sự xúc động khi đọc một câu trong bài viết của anh Giao Chỉ, khi ở bên giường bệnh Ng Xuân Hoàng những giây phút trầm trọng nhất, Hoàng chỉ nói “Chỉ thương cho Vy thôi”. Anh không nuối tiếc bất cứ thứ gì trong cuộc đời anh đã sống, khi gần ra đi, anh chỉ còn thương người vợ hiền đã từng chia ngọt sẻ bùi với mình mà không thể làm gì hơn trước “số trời đã định”. Ông Giao Chỉ tức đại tá Vũ Văn Lộc là bạn của gia đình Hoàng và cũng là bạn cùng khóa với tôi. Mặc dù anh học khóa 4 SQTB ở Đà Lạt, tôi học ở Thủ Đức, nhưng chương trình chẳng có gì khác nhau. Dù học ở Đà Lạt hay Thủ Đức vẫn là khóa 4 Cương Quyết của QĐVNCH. Anh Giao Chỉ ơi, tôi hình dung ra khi viết câu đó anh cũng chảy nước mắt, phải không? Chắc chắn anh sẽ có mặt trong ngày giỗ đầu của Nguyễn Xuân Hoàng, nhờ anh đại diện cho bạn bè thắp một nén hương tưởng nhớ đến người bạn cũ.

Bởi “Hoàng sống chân thật, chan hòa với bản tính điềm đạm, bình dị và nhún nhường, chưa bao giờ tỏ ra mình là một “nhà văn lớn” hay “một cái gì đó” quan trọng trong xã hội. Ở Hoàng, tôi nhận thấy anh luôn tỏ ra “Tôi chỉ là một con người rất tầm thường.” Đó chính là phong cách làm nên một nhà văn lớn, môt nhân cách lớn”.

Đến bây giờ, tôi đã 83, tôi luôn nhận ra trên đời này có được một người bạn hiểu mình thật khó. Ngày giỗ đầu của anh Nguyễn Xuân Hoàng, xin gửi lời thăm hỏi ân cần đến chị Trương Gia Vy cùng gia đình. Tôi chỉ muốn nói một câu thôi:

Nguyễn Xuân Hoàng mất đi tôi mất một người bạn đúng nghĩa.

Sài Gòn tháng 9 năm 2015

Văn Quang
dailien
Posts: 2454
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Bầu Bí Một Giàn

Tràm Cà Mau

Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ. Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Anh được định cư trong thành phố nầy đã hơn một năm. Thế là có được hai gia đình Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà. Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.

Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ , và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.

Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, li tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.

Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm dòm kỹ. Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hãng máy bay, họ bay xác nhận là có gia đình anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đình Á Đông nào, cũng chìa cái bảng tên ra trước mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đình anh Phàn ở đâu, cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi tìm gia đình anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nãn. Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đình trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi:
“ Anh là Phàn phải không”
“ Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?”
“ Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đình anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?” - Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:
“ Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra trước mặt tôi ba lần, nhưng đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn.”
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ:
“ Đây là tên anh . Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau.”
“ Ngược ngạo thế thì ‘bố giời’ mới biết được”.
“ Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẵng trả lời?”
“ Nghe được cái quái gì đâu?”

Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đã nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đình ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thương người mà thôi.

Gia đình anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt. Gia đình anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẽ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều, nhưng cũng không dấu được vẻ quê mùa.

Hành lý được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary , tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. ( Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy. Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi:
“ Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?”
Tôi cười và trả lời:
“ Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa”.
Anh Phàn hỏi tôi:
“ Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?”
“ Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đưa gia đình anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?”
“ Cũng mệt, nhưng chẵng can gì cả.”
“ Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hơn”- Tôi nói.
“ Kệ nó, để nó làm việc cho quen”
Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.

Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đãi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia đình đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đình bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu bé còn bế trên tay. Ba gia đình vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đình của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa di vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một hơi hết nữa li lớn. Anh nói:
“Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đã miệng.
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nữa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói:
“ Cái nầy mới thật là rượu.”
Khi đã ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đã nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi. Anh trả lời là sống với bọn đó không được, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói:
“ Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm.”
Chị vợ anh Hy nói:
“ Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm. Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả.”

Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn:
“Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dàm đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả.”

Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẽ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó , vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đình anh Phàn.

Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đình anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến trường, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con dại, cháu nầy đã lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt , giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy :
“ Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế.”
“ Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu”
“ Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đình mỗi người, mà cho con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà.”
“ Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành.”
“ Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đã nhất quyết rồi. Tôi đã có phương án riêng cho gia đình tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nửa.”
Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ .
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói :
“ Anh nói đúng, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cũng không được rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đã đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhưng mình cũng không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với.”
Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng : “Thôi, thì tôi cũng tạm thời lui một bước, mình mới đến đây mà căng quá cũng không nên. “

Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò sưởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành . Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.

Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi:
“ Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được.”
Bà bảo trợ thuyết phục:
“ Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe.”
“ Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi.”

Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. Còn nghe và nói, thì ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa nói giỏi thì chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cũng một tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy, như cực hình, như tra tấn, và nản lòng vô cùng. Học được phút trước, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đã hư rồi, không thể học được gì nữa. Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng nói được hai chữ “yes” và “no” , vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ “ thank you”. Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.

Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.
Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước mãng nước đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được, quay qua hỏi anh Phàn:
“ Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?”
“ Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!”
“ Nhưng... anh có đi trên xe nầy không?”
“ Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi”
Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đã lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẵng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, vì đồng hương còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đã đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ. Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi:
“ Tôi hỏi thật, anh đừng dấu nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm ?”
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại:
“ Anh hỏi làm chi vậy?”
“ Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lảnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được.”
“ Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí, vì anh là đồng hương, và vì tôi cũng đã từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ.”
“ Tôi không tin.”
“ Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem.”
Anh Phàn cười mũi:
“ Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không được. Thà đừng hỏi.”
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài:
“ Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực.”
Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.

Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai . Cô giáo chỉ ra sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì. Bỗng bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ròng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đình bảo trợ, nhờ giúp đở. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi. Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà đòi đi bộ giửa mưa tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy : “ Con cái mất dạy. Đề tôi dến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác.” Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: “ Không được, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó . Đừng dại dột.” Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: “ Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hư đốn. Dạy con từ thuỡ nên ba.” Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: “ Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo.” Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay. Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu lường xôn xao. Anh Phàn nhìn đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đã phóng uế ra cả quần. Em đã không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cũng không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.

Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi đêm, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười giờ đêm là đã say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình. Có nhiều đêm, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám ơn cái lòng tốt của các bà Mỹ, đã giúp cho người đồng hương của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười lăm phút, chờ máy nóng mới đi được. Bỡi thế, nên thường đến trể. Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào . Cả không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói :
“ Nếu đón tôi, thì đừng đến trể. Ngồi chờ rất nản.”
“ Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trể, chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo, mưa, tuyết.”
“ Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!”
Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những người chung quanh.

Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nước cọng sản hồi trước. Buổi chiều đi làm việc về, có “giấy mời” tối nay ra trụ sở công an, lý do “ Cho biết sau”. Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà cụ đã ngồi sẵn trong phòng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói:
“ Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đã ăn chận của gia đình tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thương các cháu nhỏ ...”
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào lổ tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại:
“ Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn ? Sao? Anh nói rõ hơn được không?”
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng:
“ Đừng vờ vĩnh. Gia đình tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cũng còn hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu, vào túi ai?”
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:
“Ai nói với anh điều đó? “
“ Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả.”
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đã đến đây trước. Anh rõ thủ tục. Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đã có lương tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ.”
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét:
“ Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến mười mươi.”
Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé:
“Làm cò mồi để được cái gì? Ăn nói như những kẽ vô ân bạc nghĩa. Nói như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi.”
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn:
“ Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa.”
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên. Anh Phàn phân trần tiếp:
“Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rõ ràng, không ai chối được. Chúng tôi đã biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh.”
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh đã hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đình anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ. Anh Phàn nói tiếp :
“ Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị ‘báo cáo’ lại cho nhà thờ những đòi hỏi chính đáng của gia đình chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.”
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cười, hết giận. Vợ tôi nói:
“ Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ. Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lảnh mình vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời. Của nợ giữa đường mà mang cõng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo lành cho mình, thì được lợi lộc gì nhĩ ? “
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch:
“ Để lập thành tích chứ để làm gì. Ai mà không biết.”
Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp:
“ Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng !”
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đình. Chữ hứa của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đòi tiền “ăn quỵt” giúp cho anh chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói:
“ Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lý làm người. Khi nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi.”
Vợ tôi nói:
“ Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lảnh họ đến đây.”
Anh Hy phì cười, nói:
“ Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đình anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng người nầy, không chơi được.”
Tôi nói:
“ Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đở. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn được.”
“ Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của ‘bọn dân tộc anh hùng’, ngứa tai chịu không nỗi.”
Tôi dịu giọng:
“ Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ còn đáng thương hơn chúng ta nữa, vì chịu đã chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa. Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé. Chúng ta không thương nhau, thì ai thương chúng ta được?”
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: “Bố bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ.”

Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đình anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của một gia đình ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chùa Trời, đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đình anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ đã ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: “ Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng.” Tôi chỉ cười, không dám có ý kiến.

Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đã mua từ Hồng Kông . Sau một vài câu chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín từ Hãi Phòng, Hà Nội. Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau đành đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa. Anh nói :
“ Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đòi hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đòi hỏi. Điên lên được đấy chứ .”
Tôi an ủi anh:
“ Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đở được ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích.”
“ Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao? “
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lảnh được tiền trợ cấp. Tôi cười bảo anh:
“ Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đình do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngữa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cũng không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cũng dễ vác chiếu ra tòa lắm.”
“ Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt. ”
Tôi cười, nói đùa:
“ Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa , thì chúng tôi càng xìu như sợi bún thiu.”
Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đở. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng đáp:
“ Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ.”
“ Thế anh đã kiếm ra việc làm khác chưa ?”
“ Chưa”
“ Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?”
“ Tôi không biết!”
“ Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không? “
“ Không có vấn đề chi cả. “
“ Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?”
“ Chưa muốn. Khoan đã.”

Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không? Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao, để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đã chi tiêu cho anh, và ai đã đóng góp bao nhiêu, quỷ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những điều đó, thí anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung sướng, thoải mái.

Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cũng quýnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đình đông đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đình anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đã định cư ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.

Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đình về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lý cồng kềnh của gia đình anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đình. Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà dể trừ vào số tiền nhà thờ đã ăn quịt của anh. Ăn của ai thì được, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cũng không được đồng xu nào, chưa chắc đã hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những người láng giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, thì trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.

Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhưng thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hư hại không. Anh Hy ra xe và đưa hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn thì tưởng hai ông bà mừng vì được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.
Khi đưa gia đình anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đình anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: “ Thế mà tôi cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đình mình trong thành phố nầy thôi.”. Trong lòng tôi cũng thấy buồn.

Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đình anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: “Phàn đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà.” Tôi cũng mừng vui gặp lại người quen biết xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm , thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa. Suốt hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu gái lớn đã có gia đình. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật:
“ Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược. Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ‘ Bầu bí một giàn’ của anh Hy nói ngày xưa.”
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp:
“ Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đã ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời.”
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa:
“ Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng. “
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

"]
Image


The Rain Must Fall

Composers:Yanni
Producers:Yanni



Oh life can be strange
Good and bad in so many ways
And in time you will find
That things are not always what they seem

Well i've got something to say
But you might laugh, joke or run away
Coz i'm awkward and nervous
Sometimes i dont say much at all

But if the rain must fall
If i lose it all
If the world comes down and takes my soul
If the sky turns black
And theres no no way back
It won't matter much to me
If i had you
All i need is your love
That's all i need
All i need is your love

Oh well dreams can come true
if you know inside
you really want them to
or you can sit you can wait
You can leave your fate in someone
elses hands
Oh but I, I want you
And nothing else
can make me feel the way you do
So i'm waiting, i'm wishing
That it's me you'll be holding tonight
and every night

But if the rain must fall
If i lose it all
If the world comes down and takes my soul
If the sky turns black
And theres no no way back
It won't matter much to me
If i had you
cause all i need is your love
All i need is your love
your love

All i need is your love

it's all i need
nothing else
nothing else

it's all I need, is you

If the rain must fall
If i lose it all
If the world comes down and takes my soul
If the sky turns black
If theres no no way back
It won't matter much to me
If i had you

coz all i need is your love
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Tưởng niệm Anh Bằng

Image

Sau 8 năm chiến đấu với bệnh ung thư gan, nhạc sĩ Anh Bằng đã qua đời vào trưa ngày 13/11


Người cuối ga khói


Karen Trịnh Thanh Thủy
Tôi không biết tình yêu ở một người con trai tuổi mười tám đầu đời cuồng nhiệt như thế nào. Chứ riêng tôi lúc mới mười lăm, trong mắt đã bắt đầu có khói, thì tình yêu tuổi mười tám nếu bị tan vỡ, chắn chắn là một điều kinh khủng lắm. Đã mất tình yêu lại còn cách xa, đứt lìa cuống rốn, nơi chốn đầm đìa tuổi thơ và mật ngọt hoa niên, hẳn ruột gan con người phải buốt đau từng khúc. Tôi nhắc tới sự đau lòng này, chẳng qua vì khi nghe bài hát “Nỗi lòng người đi”, tôi bỗng hình dung được hình ảnh một Anh Bằng trong giòng người chen chúc vo khăn tay, nhầu nước mắt những ngày tản cư thập niên năm tư, năm lăm. Ẩn hiện trong khúc phim đen trắng quay chậm, có dáng chàng thanh niên tay đàn, tay sách, mặt mũi xác xơ, ngơ ngác trông vời tít tắp bóng người con gái mịt mờ xa chân chiều, cuối ga khói.

Tôi được biết nhạc sĩ Anh Bằng từ ngày Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ ở hải ngoại mới thành lập, mà ông là một trong các vị nhạc sĩ cố vấn lão thành. Tôi thường gọi ông bằng chú với tất cả tấm lòng quí mến như người cha. Tôi chia sẻ vui buồn đời thường và những bài viết của tôi với ông. Ông hay gởi các CD hay DVD của ông cho tôi và những dòng thư an ủi, khích lệ, góp ý về lãnh vực âm nhạc cũng như những trắng đen cuộc đời.

Một lần gặp ông, tôi hỏi ông về cảm nghĩ phút ông rời xa Hà Nội, về khắc chia tay vật vờ ánh mắt người yêu đầu đời ấy, tâm trạng ông ra sao?. Ông chỉ vào tai mình nói “Chú điếc đặc rồi, chẳng nghe được gì” Tôi lại hỏi “Chú còn nhớ bài “Nỗi lòng người đi”, còn nghe được tiếng đàn không?” Ông mỉm cười khi nghe tôi hét to. “Chú chỉ nghe được tiếng rè rè thôi”. Tôi không hỏi nữa, vì biết có hỏi cũng không nhận được câu trả lời. Nhìn nụ cười hiền lành của ông, lòng tôi dâng lên chút bùi ngùi nhưng ấm sáng nỗi niềm an lạc. Nụ cười của người đã mút xa Hà Nội hàng mấy mươi năm ấy, vẫn không xoá mờ được tiếng “khóc tơ duyên lìa tan” trong lòng người con trai mười tám Anh Bằng thưở xưa. Ngày người giã từ đêm Hà Nội, ngày gió mùa đông bắc thổi buốt má, khô môi, thông thốc rải lá khô đầy những gờ mái cong hàng phố cổ. Hai mươi mấy năm sau, người thanh niên đó đã ngũ tuần, phủ thêm một nỗi lòng mới, dứt áo ra đi xa lìa đất tổ. Hà Nội giờ là bên này của ký ức, Sài Gòn chỉ còn bên kia của hồi tưởng, tiếng đàn xưa giờ có trỗi, người nhạc sĩ cũng không còn nhận được điệu tình tang thẳm thía mịt mù.


Hơn sáu mươi năm âm nhạc, nhạc sĩ Anh Bằng đã để lại cho chúng ta rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng âm nhạc. Tuy nhiên “Nỗi lòng người đi” đã khắc một dấu ấn sâu đậm và làm nên tên tuổi một Anh Bằng ở mãi trong lòng người yêu nhạc. Đối với những Bắc người di cư hầu như không ai không biết bài hát này, vì nó không chỉ là nỗi lòng riêng ông, mà còn là nỗi lòng thắm thiết bao người, đối với mảnh đất thân yêu đã sinh ra và nuôi họ lớn lên. Hà Nội không chỉ là một địa danh mà là một biểu tượng cho cái nôi văn hoá của cả một miền Bắc Việt Nam. Xa Hà Nội là xa trời, xa đất, xa người, xa tất cả, là để lại phân nửa hình hài thân thể của chính mình.

Nỗi Lòng Người Đi/Sĩ Phú(trước 75)


Không biết từ bao giờ người ta ví von cuộc đời người nghệ sĩ như kiếp con tằm, “rút ruột, nhả tơ” cho đến chết. Tôi chợt thấy cảm phục người xưa, so sánh sao mà khéo làm vậy. Hình ảnh một con tằm uốn người xoay tròn nhả tơ chung quanh mình để tự giam nhốt chính nó, trông như một vũ công múa cột. Và cứ thế nó múa vũ điệu của tằm, nhả cho đến hết tơ trong bụng mình mới thôi. Hệt như người nghệ sĩ say sưa đi tìm cái hay, cái đẹp để cống hiến cho đời. Họ mải mê sáng tác, tận tụy, vất vả theo đuổi nghiệp nhả tơ cho đến lúc sức tàn, lực kiệt. Nhạc sĩ Anh Bằng cũng vậy, suốt cuộc đời ông, từ khi trưởng thành, bắt đầu sáng tác, đến khi di cư vào Nam, di tản qua Hoa Kỳ, tới lúc nằm xuống, ông chưa từng ngơi nghỉ. Kể cả khi mất đi thính giác là tài sản quí báu nhất của một người soạn và viết nhạc, ông vẫn tiếp tục đắm say trong vũ điệu tơ tằm. ”.

Có nhiều nhạc sĩ đeo đuổi nghiệp sáng tác như một nghiệp dư, Anh Bằng ngược lại. Từ khi vào Nam phục vụ trong ngành chiến tranh tâm lý, ông hoạt động như một nghệ sĩ trong Đại Đội 2 văn nghệ, sáng tác nhạc, kịch. Ông đoạt “Giải văn học nghệ thuật toàn quốc” thời Đệ Nhất Cộng Hoà với vở kịch “Đứa con nuôi” . Sau khi giải ngũ năm 1962, ông hoạt động trong đài truyền thanh VTVN và phụ trách ban Sóng Mới. Ông thường ký nhiều tên khác nhau như Lê Minh Bằng do sự hợp tác với Lê Dinh và Minh Kỳ hay nhiều tên khác như Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường,Vương Đức Long v..v…Có lẽ ông thích khoác cho mình bộ áo muôn màu, đủ sắc như sự đa dạng trong tác phẩm của ông.

Ký ức Sài Gòn ngày còn bé của tôi, rất bình dị với cuộc sống trong một xóm nhỏ bình dân bùn lầy nước đọng. Ngày ấy tôi rất thích ca khúc “Nó” của Lê Minh Bằng, vì khi nghe “Nó” tôi có thể mường tượng ra thằng bé đánh giày hay ngủ trước hiên nhà tôi. “Nó” thường đánh thức tôi bằng những tràng chửi thề liên tục cùng bè bạn hằng đêm. “Nó”, của các em bé tay gầy quắt queo, xoè rộng bàn tay xin tiền ở chợ, đình, chùa, quán ăn, lề đường, góc phố. “Nó” đói lạnh, bị hắt hủi, xua đuổi, bị bọn bất lương đánh đập gây thương tật để gợi lòng thương của khách cho tiền. Ở một tia nhìn mẫn cảm của người nghệ sĩ, “Nó” đã chạm tới một góc khuyết của tâm hồn, một phía khuất của bóng tối xã hội.

Hôm nay tôi bất chợt gặp được ca khúc này trên youtube, qua giọng hát trong vắt của Hương Lan, trên nền nhạc đệm với hai nghệ sĩ kèn điệu nghệ, theo tôi, thật là tuyệt tác.

Qua phần mở đầu, hai giọng kèn đồng trễ nải và mệt mỏi, đột ngột xé nát bầu trời đêm, bằng những thanh âm chói lói mà quấn quyện, đầy u uẩn trên nền nhạc blues trầm đục buồn. Ơi! cái điệu blues âm u ngàn đời thăm thẳm như giọng hát những người da đen cùng khổ nấc lên tiếng lòng mình u uẩn.

Mẹ nó qua đời khi còn tấm nhỏ
Một chén cơm chiều nhưng lòng chưa no
Cuộc sống đói rách bơ vơ
Hỏi ai ai cho nương nhờ
Chuỗi ngày tăm tối vô bờ

Hình ảnh "chuỗi ngày tăm tối vô bờ" qua tiếng trumpet vang lên thật thê thiết, còn giọng kèn saxo xoáy thẳng vào tận cùng đau đớn bằng những nốt treo day dứt. Ca từ bài hát giản dị, chuyên chở vừa đủ nội dung cần diễn đạt đời sống một đứa bé nghèo, thiếu thốn cơ cực. Cấu trúc bài hát “A-A’-B-A” rất phổ biến trong dòng nhạc Việt thời đó. Giai điệu lẫn ý tưởng hoà âm đều theo một motif(nhạc tố) rất đặc trưng của loại nhạc này. Tuy nhiên, giọng hát trong vắt của Hương Lan trên nền nhạc đệm u trầm với hai nghệ sĩ kèn điệu nghệ đã tạo được sự tương phản trong âm thanh. Hơn nữa những đoạn phối hợp bè bối quá chuẩn và quá hay của hai giọng kèn Trumpet và Saxo, thật nhịp nhàng đã đưa bài hát lên đến cao điểm tuyệt tác của nó.


Nó/ Hương Lan(trước 75)


Ngày còn trong nước, tuổi thơ của tôi lớn lên bằng tiếng ru vọng cổ của cô người làm, tiếng ư ử xuyên vách “Hai mùa mưa” của chị bán chè đậu kế bên nhà, mỗi lúc chị đi tắm. Chị tâm sự với tôi, chị ghiền nghe Trang Mỹ Dung nức nở bài này lắm. Sau này lớn lên, tôi cũng đồng ý với chị không ai ăn đứt được tiếng hát TMD khi trình bày bài này. Giọng hát trầm trầm ấy, nhỏ từng hạt tinh thể nước mắt vào lòng người, tưới tẳm cho những cuộc tình tan vỡ, trổ đầy trái đắng nhân sinh. Sáng tác “Hai mùa mưa” của Lê Minh Bằng đến với tôi từ đó. Thêm một lý do nữa, tôi may mắn được quen nhỏ bạn cùng trường là em gái Trang Mỹ Dung, khiến “Hai mùa mưa” đi vào trí nhớ tôi như một ký ức ấm vui. Có lần tôi ghé nhà nhỏ trong một ngõ hẻm ở Phú Nhuận. Tôi không được may mắn gặp chị Dung, vì chị vắng nhà. Tôi chỉ được thấy TMD qua tấm hình đen trắng, chụp người thiếu nữ có nụ cười buồn mênh mông giữa tường vôi trắng.

Hai Mùa Mưa/Trang Mỹ Dung(trước 75)
https://archive.org/details/tienghattra ... gtruoc1975

Phải nói là tác phẩm ông viết rất đa dạng, đủ mọi thể loại, cũng như thể điệu. Có một dạo tôi rất thích điệu Tango và say đắm tiếng hát Khánh Ly trong bài hát “Người thợ săn và đàn chim nhỏ”. Ca khúc này được ký tên Vương Đức Long, cũng là tên của nhóm Lê Minh Bằng, ca từ do Anh Bằng viết. Nhạc sĩ Lê Dinh kể: "Nhằm nói lên việc đối xử không mấy tốt đẹp - đôi khi hơi tàn bạo - của một vài cảnh sát viên, tuy nói là bạn dân, nhưng thường hay có thái độ hằn học, không đẹp với dân chúng, đặc biệt là người xử dụng công lộ và nhất là những phụ nữ mua gánh bán bưng... Trong óc tưởng tuợng của anh - người cảnh sát không phải là bạn dân - khi có cây súng trên tay, như người thợ săn và hà hiếp dân chúng mà anh so sánh như đàn chim, để rồi anh viết lời ca:

Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng
Còn một bầy chim vô tình vẫn hót líu lo đùa chơi
Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây
Chim chết chim lạc bầy...”

Riêng tôi và đa số người nghe không biết nghĩa bóng và câu chuyện liên hệ nhưng mỗi khi hát đến câu “Rồi người thợ săn âm thầm mang súng mang chim trở về, lề đường bầy chim không thù không oán, hót cho người nghe” lại thấy rưng rưng thương cảm đàn chim vô tội bị thảm sát. Ranh giới tử sinh, thiện ác, giữa cái chết của sinh vật này là cái sống còn của sinh vật kia vẫn là bài toán đố mơ hồ và tàn nhẫn chỉ có thượng đế mới có cơ may giải được. Tôi cảm nhận được nét nhân bản trong nhạc Anh Bằng như một đoá mai từ bi.

Người thợ săn và đàn chim nhỏ/Khánh Ly


Nhạc trữ tình của Anh Bằng đi sâu vào lòng người qua những ca khúc có nội dung thương thân trách phận, thất tình, cô đơn, buồn khổ hay xa cách. Sống trong thời ly loạn hầu hết những ca khúc của ông thấp thoáng màu áo trận của người lính chiến, của những biệt ly và lên đường như “Căn nhà ngoại ô”, Lẻ Bóng”, “Sầu lẻ bóng”, Đường khuya” hay “Nếu hai đứa mình”, “Giấc ngủ cô đơn”.. . Ông còn đề cao tình chiến hữu trong “Huynh đệ chi binh” hoặc vui buồn đời quân ngũ “Binh méo, cai tròn” hay hóm hỉnh như “Đánh cờ người”, tếu táo trong “Tập lái vespa” mà ban AVT thường trình diễn.

Lẻ bóng /Thanh Thúy(trước 75)


Nhạc của ông không dừng lại ở tầng lớp những người bình dân mà còn ngưng đọng ở một tầng lớp chọn lọc khác, nhất là ở lãnh vực thơ phổ nhạc. Có lẽ ông rất thích thú trong dạng này. Có những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng đã được ông phổ nhạc khiến nhiều người mê đảo một thời như các bài “Khúc thuỵ du” của Du tử lê, “Trúc đào” của Nguyễn Tất Nhiên, “Ai bảo em là giai nhân” của Lưu Trọng Lư, “Anh biết em đi chẳng trở về” của Thái Can, “Hoa học trò” của Nhất Tuấn. Khi phổ nhạc các bài thơ, hầu hết, ông thường lấy ý, mượn ý, nhiều lắm là một hai câu và sau đó dùng ca từ riêng của mình kiểu như lối phóng tác mà nhà văn Hoàng Hải Thủy hay dùng trong tác phẩm của mình. Khi dịch lời nhạc ngoại quốc qua Việt cũng vậy, ông tạo một ngôn ngữ riêng mà vẫn giữ ý chính, như trong bài “Tình nồng cháy”, nguyên tác “Over and over”, do Cornell Haynes Jr, Jayson "KoKo" Bridges & James D. Hargrove sáng tác.

Tình nồng cháy/Ái Vân và tiếng đàn Vô Thường


Khi di cư qua Hoa Kỳ, ông tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassette Dạ Lan (1981-1990). ông còn cộng tác với Trung tâm Asia. Những nhạc phẩm ông viết sau này nói lên tâm sự, nỗi lòng hoài hương và những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày của người con Việt sống lưu vong như “Căn gác lưu đày” , “Nước mắt quê hương”. Xúc động và phẫn khích trước thảm hoạ xâm lăng của Trung quốc, ông hăng say sáng tác những ca khúc tích cực, rực lửa, khơi dậy lòng ái quốc, đấu tranh cho quê hương, dân tộc như “Phải lên tiếng”, “Cả nước đấu tranh”, “Hãy đứng lên”, “Tuổi trẻ Việt Nam”..v..v..

Phải lên tiếng/Hợp ca


Hôm nay tôi ngồi đây viết lại những dòng tưởng niệm nhạc sĩ Anh Bằng như một nỗi nhớ, niềm thương kính với người cha, người chú hiền từ, đầy lòng nhân ái. Qua ánh nến lung linh tưởng niệm, hình ảnh người thanh niên xa Hà Nội năm nào, bỗng trở lại chấp chới đầy trời trên những khung nhạc chép giấy hoa tiên lượn bay. Bao nhiêu năm trải lòng, bấy nhiêu năm cảm xúc xôn xao góp phần xây dựng cho kim tự tháp âm nhạc Việt Nam, đáy kim tự tháp tượng trưng cho những người có nhạc được quần chúng mến mộ nhiều, cũng có tên Anh Bằng góp phần. Suốt một đời nghệ sĩ phục vụ và quay cuồng trong vòng xoáy quỹ đạo âm nhạc, có nhiều người đã phải quăng bút, gác đàn vào một góc tối nào đó vì nhiều lý do. Anh Bằng thì không, sức sáng tạo vẫn còn lấp lánh đâu đó thúc đẩy người nghệ sĩ, dù thính giác khiếm khuyết, vẫn ngồi xuống đẩy cung đưa bậc, thơ dân gian, vần lục bát, điệu quan họ, vào làn hơi tân nhạc. Sáng tác mới “Mình ơi, em chẳng cho về” của Anh Bằng như một minh chứng. Tôi thấy được trong nhạc, ánh mắt dịu dàng nàng thiếu nữ Bắc Ninh, nụ tình lúng liếng níu kéo người đi, động lòng kẻ ở. Tôi trộm nghĩ tôi mà có phép màu quay ngược được thời gian, về lại xóm cổ Ba Mươi Sáu Phố Phường xưa, thay cô gái Hà nội của Anh Bằng, bằng mắt tình lúng liếng người con gái Bắc Ninh, ắt hẳn chàng thanh niên mười tám của “Nỗi lòng người đi” chẳng thể nào dứt áo vì câu “Mình ơi, em chẳng cho về” . Và chúng ta hẳn không có cơ hội trong đời được hát đi hát lại những lời tha thiết cho tình yêu, cho đất cũ “Hà nội ơi, nào biết ra sao bây giờ. Ai đứng trông ai ven bờ, khua nước trong như ngày xưa” .

Trong một câu viết tình cờ tôi đọc được trên một ngôi mộ trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngày còn bé, có viết “Chỉ sự quên lãng của người ở lại, mới làm mờ hình bóng kẻ ra đi”. Có lẽ sự ra đi của ông khó mờ phai trong tâm tưởng những người từng quen biết ông, nhất là những người từng hát, từng mến mộ những ca khúc của ông.

Karen Trịnh Thanh Thủy
Tháng 11, 2015
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image


Chú dế hát giữa đêm đông

Thanh Thương Hoàng
- Một đêm tôi chợt thức giấc, có lẽ lúc đó vào quá nửa khuya. Đang nằm mơ màng trong trạng thái nửa ngủ nửa thức, tôi chợt nghe tiếng một chú dế thoang thoảng gáy đâu đây. Tiếng gáy lúc như xa xăm mơ hồ trong tiềm thức dĩ vãng, lúc lại như có thật, sát ngay bên hàng hiên cạnh phòng ngủ. Mới đầu tôi không mấy quan tâm tới tiếng dế gáy này và cố tìm mọi cách để tiếp tục giấc ngủ. Từ ngày bước vào tuổi “thất thập cổ lai hy”tôi vô cùng quý trọng giấc ngủ, vì như mọi người biết tuổi già khó ngủ. Đêm nào không ngủ được là ngày hôm sau thân thể tôi mỏi nhừ rã rời, suốt ngày không muốn làm bất cứ việc gì, ngay với thói quen - đồng thời cũng là cái thú - đi bộ mỗi buổi sáng trong cái Park gần nhà. Nhiều đêm trằn trọc không ngủ, tôi đã phải cầu cứu tới những viên thuốc ngủ, nhưng ông bạn bác sĩ khuyên không nên lạm dụng sẽ gặp nhiều tác hại sau này.


Thường thường với người có tuổi mỗi đêm chỉ ngủ khỏang bốn tiếng đồng hồ, sau đó để giết thì giờ họ dậy pha trà hay cà phê rồi ngồi nhâm nhi và ngẫm nghĩ sự đời, việc đời xẩy ra ngày hôm qua, ngày hôm kia……...rồi tháng trước, năm trước. Có khi tới cả quãng đời cách đấy nửa thế kỷ! Còn với những người viết lách như tôi thường là suy nghĩ về một cốt truyện ngắn hoặc bố cục một truyện dài. Nhưng nghĩ là một việc còn thể hiện thành những giòng chữ trên trang giấy lại là việc khác.Vì nghĩ và viết phải trải qua một chặng đường dài đầy khó khăn mệt nhọc vất vả. Nhất là phải đợi hứng tới mới viết được mà với người lớn tuổi thì ít khi hứng tới lắm! May tôi sống cu ky một mình nên muốn dậy muốn nằm hay làm bất cứ việc gì cũng” hòan tòan độc lập tự do”, chứ có nhiều ông bạn già sống chung với vợ con phải hạn chế nhiều thứ lắm.



Bây giờ xin trở lại với chú dế hàng xóm của tôi. Không biết chú đến đây từ bao giờ và tạm cư hay định cư, chọn nơi này làm quê hương như tôi, hay chỉ là một chặng dừng chân trong bước đường phiêu lưu của chú?. Nằm mãi không tài nào ngủ tiếp tôi đành mở mắt, vẫn nằm yên trên giường, ngó ra ngòai trời đêm. Tôi có thói quen không kéo rèm cửa sổ khi ngủ. Bây giờ đang giữa mùa đông, thời tiết ngòai trời rất lạnh. Phóng tầm mắt qua nơi góc cửa sổ tôi nhìn thấy vài ngôi sao xa xăm lẻ loi lấp lánh trên nền trời âm u mờ tối. Chẳng lẽ vì cái cựa mình của tôi hay tại tiếng thở dài mà chú dế bỗng dưng không cất tiếng gáy nữa. Hay là chú đi vào giấc ngủ rồi? Tôi đóan chú cũng thuộc vào lọai già nên đêm hôm không ngủ được mới cất tiếng gáy cho đỡ sầu đời! Các nhà khoa học nói là sở dĩ chú dế cọ hai cánh vào nhau tạo thành tiếng gáy là để rủ rê tán tỉnh gạ gẫm mời mọc các nàng dế mái tới với chàng tính chuyện yêu đương. Tôi lại nghĩ khác. Tôi cho rằng chú dế này nửa đêm khuya khoắt, cảm thấy cái cõi đời buồn quá nên muốn cất tiếng hát gíup cho đời vui lên. Thử tưởng tượng cuộc sống của chúng ta nếu không có những lời ca tiếng hát của các ca sĩ thì sẽ buồn biết bao! Trong lúc tôi đang mơ màng chập chờn sắp đi vào giấc ngủ thì chàng ca sĩ dế của tôi lại cất lên tiếng gáy. Lần này không hiểu sao tôi nghe tiếng gáy của chú dế lại nỉ non buồn thảm hắt hiu ảo não. Chú gáy mà như than. Có lẽ chú than cho đêm trường dài thăm thẳm mênh mông đến vô cùng tận chăng? Cứ từng hồi, từng hồi một như nhịp slow buồn, chậm rãi thê lương. Chú gáy một chập rồi nghỉ. Nghỉ một chập rồi gáy tiếp. Chẳng lẽ chẳng có cô dế mái nào sốâng gần đó nên chàng vẫn tiếp tục cô đơn tìm quên trong tiếng gáy? Tôi mải mê theo dõi tiếng gáy của chú dế tới hừng sáng lúc nào không hay. Khi có nhiều tiếng động cơ khua ầm ĩ ngòai đường chú dế của tôi ngưng hẳn tiếng gáy. Có lẽ chú không muốn tiếng gáy của mình trộn lẫn vào những âm thanh hỗn tạp của đời chăng! Sáng hôm đó thật lạ lùng, tuy không ngủ được trọn giấc mà tôi không thấy mệt mỏi rã rời như mọi khi. Sau khi dùng bữa sáng tôi ngồi vào bàn viết với tâm trạng sảng khóai nhẹ nhõm. Cám ơn chú dế. Cám ơn bạn hàng xóm mới. Hy vọng đêm nay tôi lại được nghe tiếp tiếng gáy của chú.



Buổi tối, tôi không coi tivi như thường lệ - vì sợ gây tiếng ồn sẽ không nghe được tiếng gáy của chú dế.Trong khi nằm chờ ”tiếng hát đêm khuya” bỗng dưng những năm tháng cũ của tuổi thơ tôi ào ào kéo tới lúc nào không biết. Năm đó tôi được tám, chín tuổi gì đó. Tôi là con nhà giầu trong một Thành phố nhỏ vùng biên giới Việt Hoa nên tôi có nhiều bạn thuộc đủ thành phần. Tôi tham dự đủ trò chơi, nhất là trò chọi dế. Vì là con nhà giầu nên tôi rất nhát và lười biếng ngại khó. Đêm tối tôi không dám theo bạn bè cùng lứa tuổi lặn lội đi bắt dế. Tôi đợi sáng ngày sau thấy cậu nào có con dế lớn đẹp, gáy to, chọi hay là tôi gạ mua liền. Do đó dế của tôi thường xuyên giữ chức vô địch trong Thành phố. Tôi có thằng bạn tên Mạnh, con nhà nghèo nhưng tự ái cao và rất háo thắng. Nó luôn luôn rình rập tranh chức vô địch dế của tôi. Hễ cứ bắt được con dế nào thuộc lọai “cồ” là nó mang tới tôi thách đấu liền. Một lần, có lẽ trong đời tôi khó mà quên được. Đó là cuộc thi chọi dế tòan thành phố của lũ nhóc chúng tôi. Mỗi năm chỉ có một lần tổ chức vào mùa hè. Giải thưởng chẳng có gì to tát giá trị nhưng đó là dịp để chúng tôi vênh váo với cả lớp, cả trường. Tôi đã bỏ ra khá nhiều tiền thâu gom dế. Trong tay tôi có hơn mười con dế thuộc lọai chiến từ dế than tới dế lửa, con nào con ấy oai phong lẫm liệt và gáy ròn rã. Cái chức vô địch dế coi như tôi đã cầm chắc trong tay.“Đối phương” của tôi cũng không phải tay vừa. Nó ngày đêm đi lùng bắt dế và dám liều lĩnh mò cả sang bên kia sông ban đêm để bắt. Sở dĩ tôi nói nó dám liều lĩnh sang bên kia sông vì người ta đồn bên ấy có rất nhiều dế nhưng cũng có rất nhiều ma nên bọn nhóc chúng tôi không ai dám bén mảng, suốt ngày đêm dế tự do gáy vang lừng cả vùng.Thằng Mạnh tuyên bố với mọi người năm nay nó quyết giật lại giải vô địch dế của tôi. Trận đấu hứa hẹn nhiều gay cấn. Và trong đám bạn bè của bọn tôi lại còn chia làm hai phe. Một phe cá dế tôi thắng. Một phe”bắt” dế tôi thua. Giải thưởng là một chầu kẹo kéo của chú Ba Tầu cuối phố. Tới ngày chọi dế. Tất nhiên vào trận chung kết chỉ còn dế của tôi và của thằng Mạnh.Trước khi vào trận tôi và thằng Mạnh, để tạo khí thế, chúng tôi lấy nhánh cỏ may non xoay xoay trước mặt dế để dế lên cơn hăng và cất tiếng gáy thị uy. Rồi trước sự chứng kiến của gần mười đứa, có cả con trai con gái, hai con dế được thả vào một cái hộp giấy lớn. Chỉ trong tích tắc chúng xông lại giáp chiến liền. Trận chiến kéo dài mấy phút và vô cùng gay go ác liệt giữa tiếng vỗ tay la hét cổ võ của hai phe. Trong khi con dế của tôi hung hãn cắn và đẩy dồn con dế của thằng Mạnh về phía sau và đang trên đà đi tới chiến thắng thì bất ngờ thằng Mạnh cho tay vào hộp giấy, nhanh như chớp tóm lấy con dế của tôi bóp chết ngay. Trước sự sững sờ bất ngờ của mọi người, thằng Mạnh cầm luôn hộp giấy và con dế của nó chạy đi sau khi tuyên bốø dế nó thắng trận.Từ đó tôi giận thằng Mạnh và “nghỉ” chơi với nó luôn. Vào năm 1945, gia đình tôi chuyển về Hà Nội sống, tôi không còn có dịp gặp lại những thằng bạn chọi dế nữa, nhất là với Mạnh, thằng bạn háo thắng của tôi! Và mãi mấy chục năm sau tôi mới biết tin thằng Mạnh. Đó là sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi bị bắt vào tù với tội danh “chống cộng trên thượng tầng kiến trúc”. Trong phòng giam có một gã bộ đội đã lớn tuổi mang cấp bậc trung tá, bị bắt nhốt về tội tham ô hủ hóa biến chất. Trong những lúc chuyện trò, gã vô tình cho tôi biết tin tức thằng bạn nhỏ thời chọi dế của tôi là Mạnh giờ đã trở thành thiếâu tướng cộng sản. Hiện là Sư trưởng sư đòan X. đóng quân ngay vùng tôi “học tập cải tạo”! Nếu bây giờ tôi gặp lại Mạnh và chơi tiếp trò chọi dế, tôi nghĩ, dùø dế của tôi thắng vẫn bị Mạnh bóp chết và hắn vẫn thản nhiên tuyên bố thắng cuộc như thường!



Mải mê trở về với dĩ vãng tôi quên khuấy mất chàng ca sĩ dế của tôi đã cất tiếng gáy từ bao giờ. Đêm nay bầu trời cũng tối mờ và lạnh lẽo. Thỉnh thỏang một làn gió Đông đưa đẩy cành lá góc vườn và có thêm mưa rơi rả rích từng hồi càng khiến cho đất trời đã buồn càng buồn thêm.Tôi không biết làm gì hơn, hết nhìn trời nhìn đất, thở dài thở ngắn rồi lại lắng nghe chú dế gáy. Đêm đông giá rét nằm một mình trong căn phòng im vắng nghe tiếng dế than thở càng thêm não nùng thê thiết.Tâm tư tôi như nhập vào tiếng dế gáy. Tôi đếm từng nhịp, từng hồi xem chú dế gáy có bài bản gì không hay chú chỉ gáy theo hứng, theo bản năng. Chú dế gáy một chập rồi im tiếng luôn. Có lẽ nào tại trời mưa làm nước mưa tràn vào lỗ hang khiến chú bị ướt cánh và bị lạnh nên chú đành im tiếng? Cũng một đêm đông mưa gío lạnh lẽo nào nề như đêm nay tại một trại tù cải tạo trên vùng rừng núi Cao nguyên, tới giờ ngủ, sau một hồi kẻng báo hiệu nổi lên, tôi sắp sửa chùm chăn kín đầu thì có tiếng anh bạn tù nằm bên nói như reo:”A, một chú dế bự!”.Tôi chòang ngồi dậy vừa lúc anh bạn tóm được chú dế: một chú dế than đen nhũi to, mập, đầu và cánh bóng nhẫy rất đẹp. Hai sợi râu hai bên đầu vểnh lên ngạo nghễ. Anh bạn nói: “Thế là sáng mai mình có cái bồi dưỡng rồi”. Anh nói vậy có nghĩa là sáng mai chú dế sẽ bị đem nướng ăn. Tôi lên tiếng xin. Anh bạn cương quyết không cho. Sau hết tôi phải điều đình đổi 3 điếu thuốc rê anh mới chịu. Tôi lấy hộp diêm đục một lỗ nhỏ, cho chú dế vào đó và bỏ vào túi ngòai của cái ba lô làm bằng bao bố. Đêm đó chú dế cứ ngọ ngọay mãi trong hộp diêm và không hề cất tiếng gáy. Có lẽ tại lần đầu tiên trong đời chú bị bắt nhốt trong chuồng mất tự do!



Trưa hôm sau, trong lúc mọi người mới chợp mắt cố “tranh thủ” giấc ngủ trưa ngắn ngủi thì chú dế của tôi bỗng cất tiếng gáy liên hồi khiến mọi người giật mình thức giấc. Cả buồngï tỏ ra rất khó chịu. Có người cất tiếng chửi thề hâm dọa. Tôi biết số phận chú dế của tôi sẽ ra sao rồi. Tôi cố gắng không rời nó. Và tôi định bụng là sau mấy ngày vui chơi với nó cho đỡ buồn, tôi sẽ trả tự do cho nó ở cái vườn nhỏ trồng đậu phọng để nó đỡ vất vả trong cuộc mưu sinh. Dế thích ăn đậu phọng lắm. Đi lao động tôi để nó trong túi áo. Thỉnh thỏang đang cuốc đất nó cất tiếng gáy vang cũng làm cho tôi tạm thời quên đi sự mệt nhọc vất vả với khỏanh đất lớn và cứng như đá.Thế rồi một hôm, sau kẻng báo thức sáng, trở dậy tôi không nghe thấy tiếng gáy thường lệ chào bình minh của chú dế. Tôi liền mở túi nhỏ ba lô lấy hộp diêm đựng chú ra coi. Hộp diêm bị bóp bẹp. Chú dếõ nát thây, lòi cả ruột. Mấy con kiến đã mò tới kiếm phần. Tôi biết thủ phạm chính là anh hàng xóm của tôi - người đã đổi con dế lấy 3 điếu thuốc rê! Anh tàn sát nó vì nó cất tiếng gáy làm anh không ngủ được!



Được thả tù về, thằng cháu nội tôi năm đó 6 tuổi và cũng rất mê chọi dế. Suốt ngày nó ôm hộp dế (làm bằng hộp gỗ khá đẹp chứ không nhốt dế trong hộp diêm như bọn tôi khi xưa) ra đường tụ tập bọn nhỏ lại chọi dế. Bố mẹ nó tìm cách ngăn cản cấm đóan chơi “cái trò dã man ác độc” này - như mẹ nó thường nói. Thằng nhỏ cực lực phản đối. “Nội vụ” đưa tới tôi xét xử. Tôi biết xét xử sao đây khi thằng cháu nội này chính là hình ảnh, chính là dĩ vãng của tôi mấy chục năm trước!



Một hôm tôi đang ngồi coi báo thì thằng cháu nội đi học về. Nó chưa kịp cất cặp sách đã bước lại chỗ tôi mếu máo: “Oâng nội ơi, dế của con bị thằng bạn bóp chết mất rồi!” Nó mở nắp hộp gỗ tôi coi. Xác một con dế lửa nằm ngửa lòi ruột ra ngòai. Tôi hỏi:” Có phải thằng bạn chọïi dế của cháu bóp chết phải không?” Thằng nhỏ gật đầu: ” Sau khi dế cháu quật dế của nó lăn quay và cất tiếng gáy thắng trận thì thằng bạn cháu nổi giận bóp nó chết liền!”. “Có phải nó là con, cháu bà hiệu trưởng?”. Tôi hỏi. Thằng cháu gật đầu. Tấn trò mấy chục năm trước bây giờ lại tái diễn.Trong lúc thằng cháu nội đang tán xin tôi tiền mua con dế khác thì vừa lúc Bố nó đi làm về, hay chuyện, nói: “Tốt thôi, từ nay khỏi dế khỏi chọi nữa là hết chuyện! Suốt ngày ăn rồi chỉ có dế với chọi, chẳng chịu học hành! Thôi từ nay cúp, ông nội đừng cho cháu tiền”. Tôi thấy hai mắt thằng cháu nội rươm rướm nước mắt. Tôi nháy mắt với nó ra hiệu lát nữa sẽ cho tiền. Nét mặt thằng nhỏ tươi hẳn lên. Trước khi vào buồng thay quần áo, nó còn nói:”Thiệt nghe, ông nội!”.



Bây giờ thấm thóat đã trên mười năm trôi qua. Cháu nội tôi không còn là thằng nhỏ bé bỏng suốt ngày ham mê chọi dế nữa. Nó đã là sinh viên năm thứ nhất đại học. Thỉnh thỏang gọi điện thọai về Việt Nam trò chuyện cùng con cháu, nhiều lần tôi muốn hỏi thằng cháu nội là có còn chơi chọi dế nữa không, nhưng lần nào cũng quên khuấy mất.



Chú dế hàng xóm láng giềng của tôi, cứ thế tiếp tục ca hát theo ngày tháng trôi. Thời gian quay vòng mỗi ngày đêm 24 tiếng đồng hồ, không hiểu sao với người có tuổi như tôi thời gian lại qua mau như vậy. Mới đấy đã hết ngày, mới đấy đã hết tháng, hết năm!



Do ảnh hưởng trận bão lớn, giữa mùa Đông năm nay, cái đuôi của trận bão rớt tới vùng tôi sống. Đêm khuya hòa trong tiếng hú của mưa bão thỉnh thỏang tôi vẫn nghe thấy chú dế của tôi cất tiếng gáy, nhưng không còn rộn ràng và dài hơi như trước nữa. Có lẽ chú cũng mòn mỏi với thời gian như tôi? Hoặc là cố hát cho lắm thì cũng vậy thôi. Đời vẫn diễn đi diễn lại cái trò chọi dế và bóp chết dế?.



Những ngày còn lại của mùa Đông năm nay chắc sẽ buồn lắm và những đêm đông cũng sẽ dài lắm. Có thể chú dế của tôi đã bỏ đi nơi khác. Tôi không tin chúù đột ngột từ giã cõi đời, bên nước Mỹ không có việc trẻ con đi lùng bắt dế, chọi dế cũng như giết dế. Có lẽ chú bỏ đi vì tưởng bão tố còn kéo dài. Chỉ biết rằng mấy đêm liền vắng tiếng gáy của chú tôi mất ngủ và nửa đêm tới sáng tôi cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn về chú. Và chưa bao giờ tôi cảm thấy lòng mình trống vắng như thế này, chú dế thân mến của tôi ơi! Thật bất ngơ,sau đó một hai ngày, vào quãng giữa khuya, trong lúc tôi nằm lơ mơ nghĩ ngợi vu vơ và không trông đợi tiếng gáy của chú dế hàng xóm nữa thì lại nghe tiếng gáy trổi lên. Thọat đầu tôi cho là tiếng dế gáy trổi lên trong tiềm thức. Không, đúng là tiếng gáy của chú bạn hàng xóm của tôi. Tiếng gáy của chú không được ròn rã như trước nhưng vẫn vang vang trong đêm sâu thăm thẳm mù mịt. Thế mới biết mưa gío bão bùng cũng không làm chú sợ hãi, im tiếng. Tôi nghĩ chú còn tiếp tục hát trong những đêm đông như thế này để giúp vui cho những người không ngủ được như tôi. Và tôi tin chú vẫn cất tiếng hát mãi tới khi nào già nua sức tàn lực kiệt. Nghe tiếng chú hát tôi mừng như gặp lại người bạn cũ lâu ngày tới thăm. Cám ơn chú dế. Chú hãy ở lại đây luôn với tôi nhé.Tôi đang cô đơn lạnh lẽo. Tiếng hát của chú sưởi ấm lòng tôi. Đồng thời tiếng hát của chú cũng khiến tôi bâng khuâng ngậm ngùi nghĩ tới những ông bạn gìa viết văn làm thơ của tôi. Người nào cũng bẩy, tám mươi tuổi rồi mà vẫn quên tuổi già, quên sự tàn phá phũ phàng của thời gian, quanh năm vẫn“đánh vật” với thơ văn!


THANH THƯƠNG HÒANG
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »


Image


Chuông Gọi Hồn Ai
Trần Mộng Tú

Cuối năm nghe hồn rất mỏi
Bụi nào trong mắt cay cay (tmt)

Buổi sáng mùa đông tôi lái xe đi về phía nhà thờ, tôi đi giữa hai hàng cây đã rụng đến chiếc lá cuối cùng, những nhánh cây khô vươn lên bầu trời xám, trông như những bộ xương cá voi khô, trông như ai vừa tung ra những nắm bút chì dài ngoằng, trông như những sợi giây thép cong queo vứt lên không gian. Trông không còn là cây của ngày tháng hôm qua nữa.

Ở một ngã tư, khi vừa ngưng lại chờ đèn xanh, tôi được ngắm một bầy hải âu rất đông, không biết từ đâu kéo đến, chúng bay vần vũ trên những nóc nhà, mầu trắng của cánh pha vào màu xám của bầu trời mơ hồ như không có thật, khi chúng bay lao xuống, chúng thả theo những tiếng kêu thật thấp, thấp đến nỗi mình có cảm tưởng sẽ nhặt được những tiếng kêu đó, nhưng chưa kịp làm gì cả thì chúng lại bay vụt lên.

Hai bên đường những bóng đèn màu đã gần như được treo trên hầu hết những cửa hàng, và quấn chung quanh những thân cây. Cây thật sự không cần lá nữa. Những ngọn đèn xanh đỏ đã cho chúng một hình hài mới.

Ở một ngã tư kế, những bóng đèn màu đang chớp chới trên vai hai người đàn ông vô gia cư ngồi dưới gốc cây. Gió thổi đến từ bốn góc đường.

Mùa đông thật sự hiện hữu. Tôi đi qua những hàng cây khô, những ngọn đèn màu, qua vai người homeless. Tôi nhặt lên được gì trong mùa đông?

Hai tuần trước một người bạn bỏ đi, đi thật xa “Người đi, ừ nhỉ người đi thật”. Người bạn đó là nhà văn Phùng Nguyễn. Sự ra đi của anh như một cơn gió mạnh đến bất ngờ làm gẫy ngang một thân cây, không chống đỡ kịp. Những thớ gỗ tươi rói, rách tươm còn ứa nhựa.

“Anh Phùng để lại một dấu ấn không thể nào phai mờ. Cũng không ai thay thế được. Bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu kỷ niệm, chồng chất như “Tháp Ký Ức” của anh.” (Điếu Văn-Da Màu)

Phùng Nguyễn cũng để lại bao nhiêu dự định văn học anh đã phác thảo, những câu phỏng vấn anh gửi cho tôi (trong mục phỏng vấn đang lên khuôn của anh) tôi chưa viết xong, còn bàn qua, nói lại với anh. Anh muốn trả lời dài, mà tôi thì chỉ biết trả lời ngắn. Bây giờ thì chữ nghĩa đều theo thân xác anh bay như tàn tro rồi, anh có nhặt lên được xem dài ngắn thế nào không? Nghĩ mà thương anh.

Tôi táp xe vào một bãi đậu, rồi bước xuống đi vào mùa đông. Những chiếc lá nằm chết thản nhiên hai bên cạnh đường, tôi cúi xuống nhặt lên một chiếc, như nhặt một bài thơ.

Bài thơ của thi sĩ Khánh Hà viết cho chồng, nhà văn Tâm Thanh trong khi anh đang cố chống trả với ung thư. Khánh Hà cũng hình dung ra đời người như lá:

Đời người như lá mong manh
Hôm nao lá sẽ lìa cành lá rơi
Nghiêng nghiêng vẫn một dáng ngồi
Mái đầu bạc trắng đâu rồi tóc xưa
Tình yêu lòng vẫn còn thừa
Trái tim rạng rỡ vẫn chưa nhạt màu….
(Chiếc Lá Mong Manh-KH)


Chiếc lá đó đã rơi vào tháng Tư năm 2014, trước Nguyễn Xuân Hoàng năm tháng. Tâm Thanh với những tác phẩm đáng ghi nhớ trong lòng độc giả: Thiên Nga Giữa Cõi Người, Gỗ Thức Trên Rừng, Thiên Hương Về Trời… Hai người bạn văn ở hai bên trời cách biệt cùng đi về một phía trong một thời gian rất ngắn.

Tôi dong chơi tự do một thời
Ngoảnh lại đằng sau giật mình sợ hãi
Những dại khờ những lầm những lỡ
Những suối sâu xanh những đèo cao cong những truông dài mờ
Trời thì đang mông mênh
Ôi ngựa phi nước đại một thời bỗng quị chân
Ôi chim bay mù khơi bỗng gẫy cánh
Ôi tôi người xa lạ bỗng quen em… ( Làm Quen-NXH)

Đó là thơ tình của tác giả đã viết: Bụi và Rác, Căn Nhà Ngói Đỏ, Người Đi Trên Mây.

Anh cũng bỏ chúng ta đi tháng 9 năm ngoái, sau hơn một năm anh bỏ viết. Nguyễn Xuân Hoàng viết văn nhiều hơn làm thơ, thơ của anh cũng buồn buồn như văn của anh vậy.

Nguyễn Xuân Hoàng để cả một đời cho văn chương chữ nghĩa. Anh dậy học, làm báo, viết văn, làm thơ. Tất cả sở thích, nghề nghiệp đều chạy quanh con chữ. Anh mất, nơi thành phố anh cư ngụ mất đi hình ảnh một người làm văn chương có phong cách trước 1975, một nhà văn của thời VNCH. Đáng tiếc lắm!

Cũng trong năm ngoái, trong băng giá tháng 12 của Na Uy, chúng ta mất Nguyễn Hữu Nhật. Nguyễn Hữu Nhật là phu quân của nhà văn Nguyễn Thị Vinh, ông có bài thơ- Người Tù Già Kể Chuyện Mình, rất hay, đây là một đoạn trong bài thơ đó.

Anh chị em ơi
Làm sao chúng ta có thể trả lời cho con cháu
Ngày mai
Về một câu hỏi rất giản dị
Sống để làm gì?
Nếu chính chúng ta hôm nay
Không biết làm gì để sống.

Nhà tù Cộng Sản đã là nơi hun đúc tù nhân thành thi sĩ.

Nhưng không cần nhà tù, ngay giữa đời sống bên ngoài, xã hội khắc nghiệt đó cũng vô tình tạo ra bao nhân tài chữ nghĩa. Một trong những nhân tài đó là nhà văn Bùi Ngọc Tấn và ông cũng bị gió cuốn bay đi cùng năm, cùng tháng với Nguyễn Hữu Nhật, cách nhau có mấy ngày.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn phần đông bạn văn ở hải ngoại chỉ biết anh qua văn chương, nhưng đọc sách của anh, nhất là qua cuốn Chuyện Kể Năm Hai Ngàn (được dịch sang tiếng Anh, Pháp và Đức) ta thấy tư tưởng, ý nghĩ, cách diễn tả của anh rất gần gũi với mình. Văn chương thật sự đã giúp tình cảm của người viết và người đọc cảm thông nhau, nên khi anh mất, những người bạn văn phía bên này cũng thấy tiếc thương. Cái lằn ranh bên kia bên này, đối với những người viết hình như không có nữa, khi họ khám phá ra trong văn chương của nhau đều chuyên chở một ý nghĩa, một cảm xúc.

Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về Bùi Ngọc Tấn như sau: “Sự bình tĩnh, nhân hậu của ngòi bút anh cho thấy đức dũng cảm ở con người của anh cao cả biết dường nào."

Tôi dừng lại ở một gốc sồi, gỡ ra một trong những chiếc bóng đèn màu quấn quanh thân cây, một khúc thơ khác:

Khúc Thơ của một thi sĩ cũng ở Na Uy tặng vợ, thi sĩ Dương Kiền.

Trà Mi

Tặng em một đóa trà mi
Đầu xuân tưởng chút tình quê thơm nồng
Tặng em một vệt nắng hồng
Cám ơn trời đất lạnh lùng nơi đây

Tặng em một cánh chim bay
Có bay về cuối trời đầy nhớ thương
Tặng em một chút trầm hương
Trong tâm ngộ chữ vô thường ngát thơm.

Không biết ông viết bài thơ này năm nào, nhưng ông đã để lại đóa hoa trà trên bàn và ông bay theo gió.

Dương Kiền bỏ đi năm nay cùng tháng cùng ngày với Phùng Nguyễn. Chắc một già một trẻ đã gặp nhau rồi.

Mùa đông đang rơi trên vai những người homeless, họ phủi mùa đông xuống rồi lầm lũi đi, tôi đi sau họ, nhặt những chiếc lá nhàu, úng nước. Một chiếc lá khá to nhưng trông cũ kỹ nhất, một chiếc lá chắc rơi xuống từ một cây cổ thụ.

Ta đến từ đâu, đâu biết được
Đến đây được biết có Mình thôi
Gặp nhau từ thuở ban sơ ấy
Quấn quít nhau không một phút rời.

Tiền thân dù có dù không có
Ta có Mình khi ta có đời
Có Mình, ta có luôn trời đất
Đã tuyệt vời chưa Thân Xác ơi (Một đoạn trong Tạ Từ-Võ Phiến)

Tháng 9 của năm nay, làng văn chương Việt hải ngoại mất đi một người đàn anh, đàn anh của sự nghiệp văn chương và tuổi tác. Dù đám tang có trịnh trọng, có đông người tới đâu thì “cái mất” cũng không thay đổi được. Người ta lo in cuốn sách cuối cùng cho anh, lo đọc to lên những dòng cuối anh viết. Tất cả rồi cũng gấp lại, gấp như những cuốn sách trên giá sách thư viện. Con người của anh không còn hiện diện, ai muốn tìm anh thì không thể đến gõ lên cánh cửa, chờ anh ra mở với một nụ cười nữa.

Ngôi nhà ở thành phố Santa Ana chị vẫn ở, bạn bè ở xa tới vẫn ghé thắp tạ anh nén nhang trầm.

Gấp tất cả quyển dầy quyển mỏng lại, như ngày xưa vua gấp khăn áo quý phi. Tìm anh trên những trang mạng, mà những trang mạng thì không hề có mùi thơm của giấy. Buồn thật!

Nhưng khác với tất cả những văn thi sĩ tài hoa trong nước trước 1975, sống cuộc đời tương đối mực thước để giữ cho mình một phong cách nào đó, một thi sĩ làm thơ vừa ngông nghênh vừa bi tráng, có lúc bị gọi là ”phản chiến” cũng đã vừa nằm xuống ở quê nhà, trước Võ Phiến một tháng.

Nếu đời rơi như lá rơi thì chiếc lá Nguyễn Bắc Sơn cũng tự mình cuốn bay vào một góc khuất lấp nào đó, cho dù không nhặt lên được, tôi biết nó cũng tìm được một nơi rơi xuống thích hợp nhất, và ở đó một mình.

Thơ của Nguyễn Bắc Sơn một mình một cõi, nhưng vẫn “Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”

Khi các con khôn lớn thế nào cũng nghe kể chuyện đời ba
Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn
Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng
Ba bắt đầu thương nhớ các con ba

Dù ở tiểu khu này ba là tên tiểu tốt
Nhưng các con nên tự hào ở tấm lòng ba
Ôi câu chuyện người anh hùng lỡ vận
Nên bụi đời cùng những kẻ ngu phu

Ðó là câu chuyện đời ba các con cần phải nhớ
Ôi một quãng đời dài lê bước ưu du…
(Trong tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi)

Đoạn thơ buồn như một tiếng thở dài.

Tôi vẫn đi trong mùa đông. Tháng Mười Hai mọi người trong thành phố đang chăng đèn trên nóc giáo đường, trên các khung cửa kính của các gian hàng, trước các cánh cửa của khu gia cư. Những bài hát mừng Giáng Sinh cổ điển vẫn được mang ra phát thanh khắp nơi. Trong tiếng nhạc lồng vào những tiếng chuông nhà thờ.

Tôi nhớ lắm! Nhớ những nóc giáo đường ở quê nhà luôn luôn có gác chuông. Chuông kéo báo sắp tới giờ lễ mỗi buổi sáng, hay lễ buổi chiều.

Nếu buổi trưa không phải là thời khóa biểu của lễ mà chuông nhà thờ kéo, thì đó là tin báo một người trong họ đạo vừa qua đời. Mọi người dù đang bận làm công việc gì cũng ngưng tay, cúi đầu, đọc một lời kinh ngắn cầu cho linh hồn vừa được gọi về. Đó là ý nghĩa của tiếng “Chuông Gọi Hồn”.

Những người bạn văn, bạn thơ của chúng ta bỏ đi trong vòng hai năm nay hình như dồn dập quá, làm cho chúng ta hụt hẫng, chao đảo và thương tiếc.

Chao ôi, là mùa đông!

Tôi tìm lối trở lại xe, tôi nhớ là mình đang trên đường đi tới nhà thờ. Tôi đi xin một lễ cầu hồn cho Phùng Nguyễn, như trước đây tôi đã xin cầu cho Mai Thảo, Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Tâm Thanh và Võ Phiến.


Trần Mộng Tú


Tháng 12/2015
(Chuông Gọi Hồn Ai- For Whom the bell tolls - Ernest Hemingway)



(*) Phùng Nguyễn (1950 - tháng 11-2015)
Dương Kiền (1939 - tháng 11-2015)
Võ Phiến (1925 - tháng 9-2015)
Nguyễn Bắc Sơn (1944- tháng 8-2015)
Tâm Thanh (1940- tháng 4-2014)
Nguyễn Xuân Hoàng (1940- tháng 9-2014)
Nguyễn Hữu Nhật (1942- tháng 12-2014)
Bùi Ngọc Tấn (1934- tháng 12-2014)
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Image

Nhìn những mùa Thu đi
Bùi Bích Hà
Ông thầy tử vi Lê Thành Quang có câu nói đắc ý mượn ở ca từ bản nhạc cùng tên của Trịnh Công Sơn nhìn những mùa Thu đi khi thầy muốn mô tả những năm tháng ảm đạm... tay trơn buồn ôm nuối tiếc... của một khách hàng nào đó tới nhờ thầy xem thời vận.

Tôi chắc thầy sẽ đổi ý nếu buổi trưa hôm Thứ Bẩy vừa qua, thầy cũng có mặt cùng với tôi trên ghế hành khách của chiếc Honda Civic nhỏ xíu, quẹo từ đường Fairview vào đường số 9, thị xã Santa Ana. Con đường bình thường vắng vẻ quãng nửa ngày, lòng đường trắng xóa yên lặng trải mình giữa hai hàng cây cao không có gì đặc sắc, trưa hôm ấy bất chợt hiện ra trong mắt tôi cả một dòng sông lồng lộng, vàng rực, óng ánh. Những cơn gió từ sáng sớm nhặt hết lá trên cành cao thả xuống kín hai bờ lề và mặt đường mà những vòng bánh lăn hối hả của xe cộ qua lại hẳn đã quạt chúng rạt sang hai bên, để lại một lối mòn ở giữa, đẹp tinh khôi như cánh rừng Thu trong thơ Huy Cận Nai cao lẩn gót trong mù, xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về.

Tôi đã đến Virginia lúc 5 giờ sáng một ngày chớm Thu, được bạn đón về thành phố Annandale, qua những con đường gió gom lá úa vun thành những nấm mộ nâu buồn bã. Mùa Thu Đông Bắc Hoa Kỳ, với tôi hôm ấy, không đẹp bằng những mùa Thu tôi đã có duyên gặp gỡ ở tiểu bang Washington, với không gian những công viên sáng choang như mạ vàng sau cơn mưa; ở New England lộng lẫy đến hoang đường với những tán lá màu sắc rực rỡ, bén như dao cắt ngọt lên những sợi thần kinh cảm xúc; ở Vermont với mây thấp bên ngoài cửa sổ, lá cây chen nhau đổi mầu xanh, đỏ, tía, vàng, nâu, rừng rực lửa dưới bầu trời mùa Thu nắng trong như thủy tinh. Nếu nơi nào ngoài Việt Nam có mùa Thu sầu muộn, khiến anh nghe sầu lên trên ấy thì có lẽ đó là mùa Thu Quebec. Không gian xám, xác lá vàng rơi rụng đầy mặt đất và nhanh chóng nhầu nát dưới mưa. Vắng lặng. Buồn tẻ. Quạnh hiu. Làm nhớ Les Feuilles Mortes của Jacques Prevert... Những chiếc lá chết gom thành đống, nhiều như kỷ niệm và tiếc thương để gió cuốn đi trong đêm tối lạnh căm của lãng quên. Và cuộc đời lặng lẽ cách chia những lứa đôi yêu nhau. Và biển xóa sạch những dấu chân biệt ly của người tình đã rời xa. Có lẽ kỷ niệm khô héo và tiếc thương theo gió bay đi của cuộc tình không trọn vẹn trong thơ Jacques Prevert không làm rung động con tim người nhạc sĩ họ Phạm, sống để ngợi ca tình yêu, nên ông chọn phổ thơ của Guillaume Apollinaire... Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, em nhớ cho mùa Thu đã chết rồi. Mùa Thu đã chết, em nhớ cho mùa Thu đã chết, đã chết rồi, em nhớ cho. Em nhớ cho đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa trên cõi đời này. Ôi, ngát hương thời gian mùi thạch thảo, em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em, vẫn chờ em... Phạm Duy da diết hơn, mặn nồng hơn Apollinaire, cho dù anh vẫn biết, cho dù anh xin em đừng quên, chúng ta đã vĩnh viễn mất nhau rồi nhưng tình ơi, anh vẫn chờ em. Hơn thế nữa, Phạm Duy càng tài hoa hơn trong lựa chọn và sử dụng điệp ngữ, cả tiếng Việt cũng tình tự, sâu sắc, thấm đẫm cảm xúc hơn hẳn những “souviens-t'en, Et souviens-toi,” dù van vỉ, dù khẩn thiết cách nào cũng không ray rứt và nung nấu thương đau bằng em nhớ cho, em nhớ cho, em nhớ cho... Của uất nghẹn. Của làn hơi mỏng dần trong tuyệt vọng.

Cụ Nguyễn Du viết: “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ?” Con người đã phóng chiếu tâm tư mình lên ngoại cảnh hay ngoại cảnh đã nhuộm màu tâm tư ấy? Bầu trời xám ngắt, gió heo may hiu hắt trên đầu những hàng cây thưa lá, mưa tí tách nhỏ giọt ngoài hiên, tất cả những gam màu lem luốc và những thanh âm chập chờn, rả rích của mùa Thu dễ gợi niềm nhung nhớ cho những tâm hồn nhậy cảm. Ai không từng trải qua một cuộc tình chia xa? Ai không từng bỏ lại đằng sau những tháng ngày hoa mộng, đôi khi cả quê hương gắn bó không rời? Ai không từng hoài vọng một điều gì thật gần mà vẫn mãi ngoài tầm tay? Đất trời mang mang mùa Thu dễ cho chúng ta niềm cảm khái.

Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế, không biết mùa Thu là gì ngoài hương hoa bưởi nồng nàn những đêm Tháng Bảy nước nhảy lên bờ. Chập tối đi ngủ, vườn tược, sân nhà còn khô ráo. Nửa đêm, tiếng mưa rơi phơi phới, rào rạt trên những tàu chuối quanh nhà, êm đềm như tiếng võng dịu dàng đưa và sáng ra, thức dậy đã thấy bốn bề nước dâng trắng xóa. Gió bấc từ mạn Bao Vinh thổi rét mướt qua cánh đồng trống và mùa đông tới vội vàng không báo trước với những sáng, chiều học trò đi/về học mình mẩy ướt đầm. Những con đường và phố xá thân quen giờ chỉ còn những con ve sầu lướt thướt trong những cái tơi lá sũng mưa thay cho tóc thề, áo lụa nên thơ.

Tôi chỉ bắt gặp mùa Thu, mùa đẹp nhất trong năm, qua thi ca và âm nhạc. Sau Tháng Tư 1975, mùa Thu Hà Nội trở thành một ám ảnh quyến rũ. Nào Trần Quang Lộc với “Có phải em là mùa Thu Hà Nội, trời sang Thu anh lót lá em nằm. Có phải em là mùa Thu Hà Nội, nghìn năm sau anh níu bóng quay về... ” Nào Trịnh Công Sơn với “Mùa hoa sữa về thơm từng con phố, mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ. Hồ Tây, mặt nước vàng lay, bờ xa mời gọi... ” Thế nên, khi cậu cháu gọi tôi bằng cô, viết thư, ân cần căn dặn “Năm nay cô về tảo mộ ông, cố về vào Tháng Mười cô nhé để thưởng thức mùa Thu Hà Nội,” tôi thấy mình Thu xếp đáp lời mời của cậu.

Chúng tôi bốn người ngồi ở nhà Thủy Tạ trên bờ Hồ Tây. Buổi trưa mùa Thu Hà Nội nóng hầm hập, mồ hôi rịn ra dưới chân tóc và bầu trời trên đầu phẳng lì một màu xám đục. Tôi hơi ngạc nhiên song chưa tiện hỏi thì cậu cháu đã mở lời: “Cô thấy mùa Thu ở đây đẹp không?” Tôi thành thực trả lời: “Cô đã sống bên Mỹ hơn hai chục năm, đi vài nơi và thấy mùa Thu nước Mỹ đẹp kinh hoàng nên cô chờ đợi để có dịp so sánh với quê hương mà chưa thấy gì?” Cậu cháu thất vọng thấy rõ. Cậu nhướng cao đôi lông mày sắc nét như vẽ: “Thế cô không thấy màu trời xám và nắng dịu dàng ư?” Tôi chợt hiểu và nghe lòng nhói đau, biết mình có lỗi với phần đất này của tổ tiên vì đã là khách lạ trước khi cất bước ra đi; có lỗi với tấm chân tình của cậu cháu thể hiện đúng tinh thần Quốc Văn giáo khoa thư gần một thế kỷ trước: không nơi nào khác trên địa cầu đẹp bằng quê hương!

Hôm sau, tôi hỏi để vớt vát: “Cháu ơi, con đường nào thơm mùi hoa sữa?” Cậu trả lời: “Hoa sữa rụng hết rồi cô ạ! Các ông nhạc sĩ viết thế thôi chứ mùi hoa sữa hắc lắm, cô phải đứng cách xa trên đầu gió để nó thoang thoảng thì mới dễ chịu.” Có lẽ nghe tôi hỏi hoa sữa nên hôm sau nữa, cậu mang biếu tôi một ít cốm tươi mua tận làng Vòng, gói trong cái lá sen heo héo kèm với mấy quả chuối tiêu vỏ trứng cuốc. Chao ôi, đấy là vẻ đẹp hiếm hoi, là hương vị thanh tao của mùa Thu quê nhà. Nếu tôi vẫn sống ở Hà Nội, chịu đựng mùa hè nắng cháy da, rát mặt với cái nóng nung người nóng nóng ghê, mồ hôi đọng thành vũng chỗ ngồi và chỗ nằm dưới vầng mặt trời đổ lửa xuống mái nhà và phố phường, chắc tôi phải mừng rỡ đón mùa Thu trở lại, đẹp mê hồn với vòm trời đầy mây xám, nắng nhạt như màu trà pha loãng, tôn vinh thời tiết ấy, không gian ấy và hạnh phúc khôn cùng.

Mấy ngày ngắn ngủi trôi nhanh, đêm cuối rời xa Hà Nội trên chiếc xe taxi ra phi trường qua những con phố hẹp, lúc nhà nhà đang say ngủ trong sự vắng lặng tuyệt đối, tôi bất ngờ bắt gặp một bộ mặt khác của Hà Nội, sung sức, man dại, khi gió mùa đông bắc như đàn ngựa hoang tràn vào thành phố, thổi rạt luồng hơi nóng ban ngày đọng trên những vỉa hè lót gạch mấp mô, những vì tường liêu xiêu, cũ kỹ, những mái ngói rêu phong ẩm mốc, tung nó vào không gian bàng hoàng đổi thay giữa đêm đen.

Sáng mai, người dân Hà Nội sẽ mặc áo ấm lúc thức giấc. Không biết có ai ngoài ông cháu quốc-văn-giáo-khoa-thư của tôi, để mắt nhìn ra thiên nhiên, để lòng nhớ thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (?) Sương Thu lạnh, khói Thu xây thành? Hay mọi người giờ đây, tất bật vì áo cơm, đã quen với mọi đổi thay đến rồi đi, như thời tiết nắng mưa, như năm qua tháng lại, chỉ mong mỗi ngày được chọn một niềm vui có thể quy chiếu thành con số...

Và tôi, sáng nay ra hộp thư, thấy thảm cỏ nhà hàng xóm lún phún màu xanh phủ đầy những đốm lá vàng mơ, những đốm lá nâu con gái, đẹp quá, mượt mà quá, làm nhớ Trần Quang Lộc với Trời sang Thu, anh lót lá em nằm.
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

'Ly Rượu Mừng'... được phép rót!


Image
'Ly Rượu Mừng' là một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Phạm Đình Chương
Sau 41 năm, giai điệu của ca khúc 'Ly Rượu Mừng' của nhạc sĩ Phạm Đình Chương mới được Hà Nội cấp phép hát trở lại trên quê hương.

Hôm 9/1, đại diện công ty Phương Nam Film xác nhận với BBC rằng họ sẽ phát hành ca khúc này trong album cùng tên nhân dịp Tết Bính Thân 2016. Bài hát sẽ do ca sĩ Quang Dũng và Trần Thu Hà trình bày.

'Ly Rượu Mừng' là một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Hồ sơ của công ty gửi Cục Nghệ thuật - Biểu diễn xin cấp phép ghi "nhạc sĩ sáng tác ca khúc này năm 1952 tại Sài Gòn".


Nhưng cũng có giai thoại trong giới văn nghệ khẳng định: “Trước tháng 4/1975, khi cho in 'Ly Rượu Mừng' hình thức một bản nhạc lẻ, cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã ghi chú nguyên văn như sau: “viết tại Sài Gòn năm 1955 để đăng trên số báo Tết của báo Đời Mới, thể theo lời yêu cầu của cụ Trần Văn Ân và nhà văn quá cố Nguyễn Đức Quỳnh, là hai người chủ trương tờ báo này.”

Theo đó, ca từ của “Ly Rượu Mừng” là những lời chúc Tết khi mời nhau chén rượu, thể hiện niềm vui của người dân miền Nam sau khi hòa bình vừa được vãn hồi và nền Đệ nhất cộng hòa mới được thành lập (năm 1955).

Đại diện Phương Nam Film tiết lộ những năm trước, họ đã nhiều lần xin phép lưu hành ca khúc này nhưng không được. “Nếu ca khúc này ra đời sau năm 1955 thì sẽ bị Cục Nghệ thuật - Biểu diễn cho là 'hát về lính ngụy' và khó có khả năng được lưu hành chính thức”, nguồn tin nói với BBC.

'Ly Rượu Mừng' được trình bày đầu tiên do ban hợp ca Thăng Long ở Sài Gòn. Ban Thăng Long gồm bốn anh chị em Hoài Trung (Phạm Đình Viêm), Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Thái Hằng (Phạm Thị Quang Thái) và Thái Thanh (Phạm Thị Băng Thanh).

Từ thập niên 1950, ca khúc này đã được nhiều thế hệ ca sĩ Việt Nam trình diễn tại Sài Gòn và sau 1975 trên sân khấu của các trung tâm băng đĩa hải ngoại.

Đến nay, ca khúc này vẫn vang lên trong những ngày đón xuân của người Việt trên cả thế giới, chỉ riêng trong nước là không ‘được phép’ nghe.

'Xuân khúc kinh điển'

Có ý kiến lý giải sở dĩ 'Ly Rượu Mừng' trở thành ca khúc bất hủ là vì ca từ không chỉ chuyển tải lời chúc đầu năm mà còn thể hiện ước vọng “ngày mai sáng trời tự do” cho quê hương “máu xương thôi tuôn rơi”.

Trên website cá nhân, nhà thơ Du Tử Lê viết: “Tôi muốn gọi 'Ly Rượu Mừng' là xuân khúc kinh điển nhất của nền tân nhạc Việt Nam. Tính chất 'kinh điển' hiểu theo nghĩa không một thành phần nào của xã hội bị bỏ quên. Và, một cách ý thức, tác giả, đã sắp lại bậc thang giá trị của các thành phần xã hội, với lòng trân trọng, biết ơn của mình.

Mỗi khi cùng nhau nâng 'Ly Rượu Mừng' dù ở thời điểm nào của vòng quay trái đất, cũng chính là lúc chúng ta cùng với tác giả, hân hoan cầu chúc “Nước non thanh bình. Muôn người hạnh phúc chan hòa…”.

Tôi nghĩ, đó là một cầu nguyện đời kiếp của dân tộc ta. Như sự hiện diện bất biến của tác giả ca khúc vậy”.
hoanghoa
Posts: 2256
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »


Hạnh phúc đầu năm


Phan

Trong kỳ nghỉ dài ngày từ Giáng sinh qua Năm mới vừa rồi, tôi nằm mẹp với trận cảm lạnh từ năm cũ kéo dài qua năm mới. Những lúc tỉnh táo được, tôi theo dõi tin tức thế giới với lòng cầu mong riêng là đừng xảy ra một vụ khủng bố nào nữa. Thế giới đã quá đủ bi thương với khủng bố và di dân trong năm hai ngàn mười lăm…

Lòng tôi thật hạnh phúc sau khi toàn thế giới đã bước vào năm mới hai ngàn mười sáu – không có ai chết vì khủng bố. Chỉ lẻ loi một tên Emanuel Lutchman, 25 tuổi, là cư dân New York, đã bị bắt trước khi thực hiệm âm mưu khủng bố vào đêm giao thừa. Tôi lại ước gì được ngồi đối diện với người bạn không quen đó… chỉ để hỏi, “anh nghĩ gì?” Nhưng tôi mau chóng bỏ ước mong vì cảm giác đau đớn trong tôi khi nghĩ tới những gia đình nạn nhân ở Paris, những gia đình nạn nhân ở California – họ không có giao thừa năm mới gì hết vì một người thân trong gia đình vừa qua đời. Chưa bao giờ tôi thật sự chia buồn bằng tâm khảm, lòng chân thành của mình với những người không quen như giờ đây, không biết là tôi sắp chết hay thuốc flu liều lượng mạnh đã tạo ra những suy nghĩ cuối năm gần giống như con người; hay chỉ vì con cái tôi cũng đang có mặt ở những nơi đông vui để đón mừng năm mới. Càng mong con cái trở về nhà càng sớm càng tốt hơn bao giờ hết thì tôi lại càng thấm thía cái giao thừa chỉ có nước mắt của những gia đình nạn nhân trong hai cuộc khủng bố mới nhất trên thế giới. Nghĩ tới đứa bé mới sáu tháng tuổi đã mồ côi cha mẹ trong tay bà nội đêm giao thừa đầu tiên trong đời nó vì cha mẹ đi giết người vô tội và đã đền mạng. Cái đầu tôi muốn nổ tung ra vì không thể nào hiểu nổi thời đại mà mình đang sống…

Tôi đi vô phòng sách, rút đại từ kệ sách một cuốn nào đó như bói quẻ đầu năm để trốn tránh tư duy hiện tại đang khủng hoảng. Chúa hiển linh, Phật từ tâm, thánh Alla thương sót, đã cho tôi rút trúng quyển “Joy: The Happiness That Comes from Within – Hạnh phúc tại tâm” của Osho.

Trở ra phòng khách, đốt lò sưởi lên để bớt cô đơn vì lửa là bạn tôi từ nhỏ. Người bạn chia chung đói lạnh suốt thời thơ ấu nên tôi không bao giờ quên. Tôi với lửa cùng đọc và cùng hiểu con người càng đau khổ thì càng khát khao hạnh phúc. Hạnh phúc là những cảm nhận huyền diệu từ phía bên kia của khổ đau. Hạnh phúc cũng là cảm nhận chân thật và sâu sắc của tâm hồn trước gánh nặng cuộc đời.
Nhà triết học hiện đại Osho đã truyền cho người nghe cùng thời và người đọc về sau bản chất của niềm vui sống, cội nguồn của hạnh phúc. Tư tưởng của ông bất chấp những đánh giá khắt khe vì tinh thần triết học mãnh liệt trong ông. Osho từng nói, sứ mạng của ông là tạo điều kiện cho việc ra đời một thế giới của những con người mới. Ông thường mô tả loài người mới này với tên gọi “Zorba-Phật”, là những con người có thể vui sống giữa trần gian mà vẫn an tịnh khoan hòa như Đức Phật. Xuyên suốt tác phẩm của Osho là cái nhìn chứa đựng sự thông thái vĩnh hằng của phương Đông kết hợp với những tiềm năng vô tận của khoa học phương Tây.

Những mẩu chuyện hài hước, ngụ ngôn triết học, những suy nghiệm cá nhân, những đúc kết hiền minh về hạnh phúc chân thật là tất cả những gì mà Osho hiến tặng cho đời. Toàn bộ cuốn sách tập trung vào bản chất của đời sống và khả năng hạnh phúc của con người.“Hạnh phúc là trở về với chính mình”. Cuộc trở về bản chất nguyên thủy của con người là cách duy nhất đưa con người tới hạnh phúc. Theo Osho, là sự hồi sinh tự nhiên nhất của năng lượng, là khả năng nhận biết và yêu mến Sự thật.

Hạnh phúc trong cuốn sách này không được định nghĩa, không có lý thuyết. Mỗi câu chuyện Osho kể ra đều cho thấy được tân trí hiền minh, giàu yêu thương và trắc ẩn của ông. Để người đọc hiểu được từ rất sâu trong tâm hồn chúng ta, niềm vui sống sẽ hóa giải tất cả chứ không phải con người phải làm tất cả để có được niềm vui. Khước từ đau khổ cũng không phải là con đường của niềm vui sống. Chịu đựng nó và khóc than cho nó càng không giúp ta có được một tình yêu hài hòa với cuộc đời. Osho khuyến khích chúng ta chăm sóc nỗi đau khổ của bản thân, đối diện với nỗi đau ấy và vượt qua nó.

Những thông điệp của một vĩ nhân sông Hằng đã sống và thực hành niềm vui sống ấy cho đến phút cuối cùng có thể đúc kết lại là, “Hạnh phúc bao xung quanh ta một cách tự nhiên như không khí, như bầu trời. Hạnh phúc không phải là thứ phải đi tìm; nó là chất liệu của vũ trụ bao la. Hãy thưởng thức nguồn năng lượng tuyệt vời ấy. Bạn phải nhìn thẳng vào nó, đối diện trực tiếp với nó. Chỉ cần lơ đãng mong cầu hão huyền, bạn sẽ lập tức đánh mất nó. Tình yêu cuộc sống sẽ lan tỏa trong tâm hồn bạn. Mặc cho thời gian trôi đi, tình yêu ấy vẫn tồn tại. Điều mà bạn đạt được là sự sâu sắc toàn diện. Và hoa sẽ nở, bài hát sẽ ngân vang…”

Hạnh phúc đầu năm từ lời cầu nguyện thì thầm không có cuộc khủng bố nào diễn ra đêm giao thừa trên toàn thế giới vừa được toại nguyện, thì tôi lại có được hạnh phúc đầu năm thứ hai là được đọc một quyển sách mà càng đọc tôi đọc càng chậm, và tiếc từng chữ đã đọc qua; được suy nghĩ về tư tưởng của một bậc thầy để tự thay đổi mình hơn nữa trong năm mới. Tôi hiểu ra được tại sao không làm được quá nhiều điều đã nghĩ ra được trong đời mình? -Chỉ vì sống trong thời đại mọi xã hội đều quá khắt khe với đủ thứ lề thói; áp lực cuộc sống trải đều trên mặt đất, trách nhiệm với cuộc đời được cài đặt trong mọi cái gối gối đầu của loài người thì ai có được giấc ngủ bình yên… Nhưng dù sao sự khai trí của Osho cũng đã giúp tôi hiểu ra sự may mắn của tôi được sống ngay trong cái xã hội nhân bản nhất hành tinh rồi còn gì, khi tôi gấp sách lại để đọc một chia sẻ của bạn bè vừa gởi tới…, qua trang facebook của một người không quen, nhưng bạn tôi đã mượn quên hỏi để gởi cho tôi như món quà đầu năm là niềm hạnh phúc thầm lặng giữa đêm giao thừa,

Tại thành phố New Orleans, một người vô gia cư là ông John, tạm thời căng lều sống dưới gầm cầu thang, trong khi chờ đợi được xét cho nhà ở. Sắp đến Noel nên ông muốn cho mình dù vô gia cư vẫn có chút không khí của Giáng sinh nên đã để một cây thông nhỏ kế bên túp lều.

Người đi đường thấy vậy bắt đầu cài lên đó các đồ trang trí và hoa, nơ. Nhưng sáng ngày thứ Sáu tuần qua, xe rác của thành phố đi ngang qua đã lượm mất cây thông của ông.

Ông John lật đật chạy theo đòi thì người điều khiển xe rác cho biết đó là lệnh của chính quyền thành phố vì cây thông để ngoài đường bị coi là rác!

Ông John cãi không được đã đứng khóc nức nở khi cây thông của mình bị xe rác nghiền nát.
Một người đi đường thấy vậy liền chụp hình và đưa câu chuyện lên mạng. Ngay lập tức hàng trăm người dân New Orleans lên tiếng phản đối chính quyền địa phương! Họ nói luật pháp gì cũng không qua được tình người, sao lại có thể nhẫn tâm cướp đi cây thông Noel của một người vô gia cư như vậy chứ?

Và rất nhiều người đã tự động đem cây thông và đồ trang trí đến tặng cho ông John. Họ giúp ông trang trí cây thông và nói với ông những lời an ủi, động viên. Họ cũng “răn đe” chính quyền New Orleans không được đụng đến cây thông của ông nữa!

Vì có quá nhiều người đem tặng nên ông John có dư, lại đem các cây thông và đồ trang trí đi tặng lại cho những người vô gia cư khác. Họ đều xúc động cám ơn ông và nói ông đã đem lại cho họ niềm tin và nụ cười vào những ngày cuối năm lạnh lẽo, trong hoàn cảnh khó khăn nhất!
Ông John nói “Tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì tôi có thể chia sẻ cho người khác. Bạn đâu cần có tiền tỷ mới có hạnh phúc được đâu. Hạnh phúc chính là nhỏ nhoi như thế này thôi nè!”
Còn chính quyền New Orleans thì sao? Họ đã học được bài học nhân bản từ người dân và hứa sẽ không đem cây thông của những người vô gia cư đi bỏ thùng rác nữa!
( Theo Facebooker Ngoc Nhi Nguyen)

Tôi ngồi nhìn lò sưởi rất lâu, những ánh lửa hân hoan như cùng chia sẻ với tôi Tin Lành là tôi đã có dư hạnh phúc khi được sống trong xã hội có người homeless không nghĩ tới đói, lạnh, một chỗ ở ấm áp cho bản thân ông ta là hạnh phúc mà ngài nghĩ tới sự chia sẻ với những người cùng khổ là niềm hạnh phúc. Tôi đã sống trong nước Chúa, sống trên thiên đàng – ngay trên mặt đất này là hiện tại – nhưng hiện tại có nguồn gốc từ quá khứ là chính tôi đã tự bỏ đi vì tôi đã đến thiên đàng nhiều lần. Nhưng lần nào cũng thấy Thánh Peter chúc mừng tôi như mọi người cùng đến, ngài mời mọi người vào nước Chúa như nhau. Tôi đã bỏ về hạ giới vì trông thấy quá nhiều kẻ ăn mày, những người homeless tả tơi cũng lên thiên đàng như tôi – thì nơi ấy không phải là chỗ để tôi ở lại. Nên đời tôi cứ mãi trầm luân ở hạ giới này cho đến giao thừa năm nay tôi mới biết ra thiên đàng trong ta chứ không phải trên trời. Hạnh phúc do ta chứ không ai cho được.

Những trang sách lại mở ra reo vui cùng lửa, đốt cháy u mê… Hạnh phúc theo triết gia Osho là điều có sẵn trong tâm linh mọi người từ khi được sinh ra. Nhưng chính giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội… đã hình thành nên nhân cách mỗi người tùy theo điều kiện sống không giống nhau của mọi người. Con người chỉ giống nhau một cách phi địa lý, chủng tộc là cùng đau khổ, không có hạnh phúc, nên loài người đi tìm kiếm hạnh phúc đã muôn kiếp người vẫn không gặp – bởi nó ở ngay trong ta. Cuộc đời là một trò chơi trốn tìm mà người chạy trốn là ta; người đi tìm cũng là ta. Nhưng hơn hai ngàn năm trăm năm qua của nhân loại chỉ có một người tìm thông minh nhất nên được gặp lại chính mình trong niềm an lạc là Đức Phật.

Tôi không biết tư duy tôi khác thường là do thuốc flu quá mạnh hay là sự giác ngộ đã hé cửa trong tâm hồn mình. Tôi cảm nhận hạnh phúc vô biên khi được sống ngay trong cái xã hội còn đầy rẫy tội ác, tranh quyền đoạt lợi, khủng bố ám ảnh từng giờ. Nhưng tôi hạnh phúc được sống cùng thời, cùng hít thở không khí với Đức Phật sống bên New Orlean, “Tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì tôi có thể chia sẻ cho người khác. Bạn đâu cần có tiền tỷ mới có hạnh phúc được đâu. Hạnh phúc chính là nhỏ nhoi như thế này thôi nè!”

Hạnh phúc đầu năm tràn ngập như nắng sớm ùa vào căn phòng lạnh lẽo và cô đơn một tối giao thừa. Năm mới là năm chia sẻ, hãy chia sẻ hết gia tài đã tích lũy được trong suốt đời mình bằng những toan tính không thiện lành, ích kỷ, và tham lam… để có được một gia tài mới an lạc hơn trong tâm hồn là đã tìm lại được chính mình bản ngã trong cuộc chơi phù phiếm của đời người u minh.

Phan
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Thơ Hư Vô và Một Trăm Lẻ Một Tự Khúc Tình Nhân.
Tùy bút Nguyễn Mạnh Trinh

Image

(Thi phẩm Lưng Nguyệt của nhà thơ Hư Vô)

Đọc những trang thơ của Hư Vô: “Lưng Nguyệt. Một trăm lẻ một tự khúc tình nhân” ấn tượng của những bài thơ đầu tiên đánh dấu bằng những câu cật vấn.”Tự Khúc Tình Nhân mà đến một trăm lẻ một bài”? Tại sao không là một trăm hay là 99 như tình khúc Hoàng Cầm?

Nhưng đọc trang đầu tiên Vào Thơ…Hư Vô viết:

“Em đi, mang theo nửa vầng trăng trên lưng như một dấu tích mà tình yêu đã hoài thai từ tiền kiếp, hoá thân vào áng mây cao vút của sự nuối tiếc ngút ngàn, để rồi bàng hoàng chìm xuống đáy biển đêm lạnh ngắt, mà nghe ngọn sóng còn giẫy giụa trong lòng.

Em yêu dấu. Tôi viết 101 bài thơ tình này cho em từ những mất mát chia lìa còn khắc ghi trên “Lưng Nguyệt”, lời di ngôn tận tuyệt của một khoảnh trăng mà em đã quằn gánh trên lưng cả đời còn chưa níu tới thì sự hiện hữu của hư vô chỉ là chiếc bóng không tôi, cuối cùng rồi cũng chẳng làm được gì cho nhau ngoài chút khói biếc hương tàn để tôi mang theo cho chuyến đi vào mê lộ thì dù biển có vá liền trời tôi cũng không đuổi kịp giấc chiêm bao…”

Và ở những dòng chữ Thay Lời Kết, thi sĩ chấm dứt một trăm lẻ một “tự khúc tình nhân”:

“Em yêu dấu. Khi em đọc đến dòng chữ cuối cùng của tập thơ này là em đã đọc hết nỗi lòng của tôi. Cám ơn em đã bước vào đời tôi với một cuộc tình đầy đắm say lãng mạn để rồi bước ra khỏi nhau thật bàng hoàng vội vã.

Định mệnh đã không cho tôi và em đi chung đường, đời này còn chưa tới thì chắc gì đã có đời sau. Chỉ tội nghiệp em trái tim xanh xao vàng võ tan vào hư vô nỗi u uất nghẹn ngào để đêm đêm em nằm nghe biển khóc, gọi nhau về theo những ngọn sóng xa mà tôi chỉ là giọt đá, chảy hoài vẫn chưa tới di tích chỗ em qua…”

Thơ khúc đầu và khúc cuối lời lẽ thiết tha của bước chân tìm về. Ở đó là phương trời nhớ mong. Là Em muôn thuở dù đã xa xôi. Là Tôi, ngẩn ngơ bên dòng sông trôi nổi từ quê nhà đến xứ người, từ đại dương muôn trùng ngăn cách đến những tháng những năm những ngày thấp thoáng hình ảnh xưa cũ. Mà, rốt cuộc là chia xa, là chăn gối lẻ, là tượng hình người yêu còn mãi thổn thức giấc mộng nửa khuya.

Như vậy Lưng Nguyệt là những khúc thơ buồn của một kết thúc không tròn, của một cuộc tình dở dang không đoạn kết. Nhưng đọc 101 bài thơ mà thi sĩ gọi là tự khúc tình nhân, tôi thấy sao những cuộc hẹn hò, những không gian thời gian để yêu nhau và nhớ nhau sao mà tha thiết quá. Toàn là kỷ niệm. Là lời ngỏ của trái tim cho nhau. Là thời gian của trái cấm tình yêu. Là những khoảng trời tưởng sẽ thiên thu là của nhau. Như bài thơ Đêm Giêng, như bài Tàn Tích Tháng Hai, như Điệp Khúc Chiều Tháng Ba, như Sài Gòn Tháng Tư, như Hành Tình Tháng Năm. Như Tựa Lưng Tháng Sáu, như Nhan Sắc Tháng Bảy, như Tháng Tám Mưa Về, như Khúc Mưa Tháng Chín, như Chào Em Tháng Mười, như Bước Chân Tháng Mười Một, như Nhịp Dương Cầm Tháng Chạp…Mười hai tháng là mười hai kỷ niệm, tuy có nỗi buồn nhưng cũng có những niềm vui, có thiết tha lời ngỏ mà cũng có xúc cảm tận cùng.

Thế mà, lại là một tình buồn muôn thuở….và thơ là những cung bậc u trầm của nỗi niềm dàn trải qua bao nhiêu bến bờ thời gian bao nhiêu bến đợi tình yêu.

Thơ Hư Vô không thiếu những hình tượng Sài Gòn. Một tuổi lớn lên yêu thương. Mối tình đầy kỷ niệm. Những con đường xưa. Những hè phố cũ. Những cơn mưa. Những thời thanh xuân:

” Sài Gòn chiều mưa thời xanh tóc
Vỉa hè cỏ mọc dấu chân em
Đường Duy Tân hay Trần Quý Cáp
Chỗ nào cũng thấy rất còn quen


….Của những lần Sài Gòn mưa tới
Chiều xanh xao góc phố Brodard
Giọt cà phê chờ ai rơi chậm
Cho buồn về kịp giữa tháng Ba”

Có một bài thơ nhẹ nhàng tôi đọc lúc buổi chiều tắt nắng. Trong cái màu vàng của một tà áo dài, tự nhiên thấy có một nỗi bâng khuâng. Như những gót chân người tình, của một thuở nào đã xa, của một hình dáng nào đã phai mờ trong trí tưởng, bây giờ trở về với kỷ niệm tôi. Thật là bối rối, bởi vì những câu thơ đầy đặn quá, như một cuộc tình đầy những nhớ nhung. Có lúc, tôi muốn đọc lại câu thơ “hãy níu hồn nhau vào nhịp thở/ để em không còn kịp bỏ đi” thành ” hãy níu hôn nhau vào nhịp thở/ để em không còn kịp bỏ đi”. Níu kéo đời nhau bằng nụ hôn với hơi thở đời dồn dập có lẽ gợi cảm hơn. Chủ quan tôi nghĩ thế, xin lỗi nhà thơ Hư Vô nếu ông có sự bất đồng. Nhưng dù hôn hay hồn, thơ vẫn là thơ là chuyên chở tâm ý của một người yêu đời yêu người và yêu thơ quá đỗi.

Nhà thơ Hư Vô là một tên tuổi quen thuộc ở Úc Châu là tác giả của ba tập thơ và phụ trách phần thi ca của nhật báo Việt Luận. Ông đang sửa soạn để in tập thơ mới cho mình. Thơ Hư Vô, đầy nhạc tính và đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Những bài thơ gợi lại một cuộc sống mà nét lãng mạn đã làm thăng hoa những suy tưởng. Thơ tình với ngôn ngữ nhẹ như cơn gió, qua những chặng đời và những phận người, là nhịp thầm trái tim từ những phương trời địa lý xa xôi qua bến bờ đại dương bát ngát. Thơ của Sydney, của tà áo em vàng như chiều nắng…

“Hỏi em vì ai em thay áo mới
Từ khi tôi biết thích lụa là
Vạt áo dài thêm ngày em tới
Chạm vào tôi bối rối thịt da

Phố xá hồn nhiên như mầu lá
Chờ tôi tựa xuống bóng em về
Ba mươi năm chưa thành người lạ
Yêu em vì đâu có hẹn thề

Hãy níu hồn nhau vào nhịp thở
Để em không còn kịp bỏ đi
Màu nắng trôi theo chiều tóc xoã
Áo em vàng góc phố Sydney

Chẻ đôi tà ngang dòng giao hưởng
Khúc Franz Schubert bên Nhà Hát Con Sò
Em sẽ thấy hồn tôi trong đó
Dắt nhau vào chiều đắm cơn mơ…”

Có lúc ngôn ngữ của tình nhân là những thiết tha của trái tim dồn ngực thở. Nhưng cũng có khi là những cảm giác thầm thì những tấu khúc mãi thiết tha trong tâm những giai điệu không lời. Thơ Hư Vô với những lời tình đã ngỏ hay chưa ngỏ, đã thấm vào cảm nhận những khuôn trời biền biệt của nhớ mong. Thơ Lưng Nguyệt, là của đôi lứa, là của Anh và Em, là của những không gian lãng mạn của những thời gian có thể qua đi trong dĩ vãng nhưng vẫn còn vương vấn trong hiện tại.

Có người cho rằng đi vào cõi thơ Hư Vô là cõi thơ của hình ảnh đạo vị và vai trò người nữ trong thơ có vị trí của Thánh Cô, Thánh Nữ như một vài thi sĩ xưng tụng mối tình của mình. Dĩ nhiên, mỗi người một cái nhìn một nhận định. Nhưng, riêng tôi, thơ Lưng Nguyệt đầy ắp những ngôn ngữ sống thực, gợi lại từ một cuộc sống như dòng chảy không xa lạ với mọi người. Nếu bảo những ngôn từ của đạo vị chỉ là cái vỏ áo bọc những ảo giác của những Mộng Lang, Mộng Cô của Hư Trúc và Công Chúa Tây Hạ trong Thiên Long Bát Bộ truyện Kim Dung thì trong cõi thơ Lưng Nguyệt cũng chỉ đơn thuần là những mịt mù suy tưởng. Từ cách xưng hô Tôi với Em hay gần gũi hơn Anh với Em thì chất sùng tín tình yêu có lẻ không nhiều lắm. Hư Vô làm thơ với cái bóng thương yêu một đời quẩn quanh và đôi khi cũng là ám ảnh của nỗi buồn. Mỗi một nơi chốn, mỗi một thời điểm, nhắc lại những kỷ niệm. Thơ Lưng Nguyệt đầy ắp những nỗi niềm. Chăn gối nhớ da thịt thoảng hương, vạt trăng xanh nhớ bờ vai trần e ấp. Và thấp thoáng đâu đây dư âm và dư vị của những lời tình.

Tôi hình như mê đắm những vầng trăng trong thi ca. Từ thơ Bích Khuê, thơ Hàn Mặc Tử, trăng chở trong thơ gợn gợn nỗi đau da thịt của vây bủa cô tịch và thăm thẳm kiếp người. Có ai đặt một câu hỏi với cuộc lữ hành đời sống trải qua những nhịp cầu đoạn trường để thấy ma quái hơn vầng trăng thuở nào, của biển đông sóng gào, của kiếp nhân sinh lạnh lùng phơi triền đá. Nhưng với Hư Vô, ở một địa danh Darling Point trôi dạt xứ người , đêm trăng như hoà vào lưng nguyệt những vòng tay trần ôm ấp tình nhân. Bài thơ Trăng Đêm Trên Darling Point như một ví dụ:

Trăm năm mấy bận hồi sinh
Để tôi chồng chất nợ nần trên vai
Còn nhau có một đêm này
Thì em hãy khóc cho đầy mắt tôi
Thắp trăng bên ẩn tích người
Lùa quanh lưng nguyệt hồn xuôi tay trần…

Cái ẩn tích ấy mượt mà gợi cảm. Trăng để gợi nhớ bờ vai trần nhưng nguyệt cũng làm xao xác nhớ những vòng ôm tha thiết.Trăng tan vào thơ thành dòng chảy lụa tơ đổ vệt trên vai trần giữa sóng ngàn biển đêm của tấu khúc không tên. Tôi nghĩ, thơ và trăng có lúc đã thành một khối và con người như lạc trong một cõi không gian thời gian không bến bờ. Hình tượng như vậy làm sao mà không in dấu vào trong tiềm thức của một người làm thơ nhậy cảm và một lúc thấy mình sống thực với cảm quan mình.

Hình như trăng là nỗi ám ảnh của người thơ. Bài Tôi Về Khai Quật Hồn Em Dậy có những câu thơ bàng bạc nỗi niềm của những vầng trăng của bóng hình lung linh dấu nguyệt của những bóng dáng của một thời buổi nào hun hút đã xa:

Tôi về khai quật hồn em dậy
Cho đá xanh xao biết ngậm ngùi
Núi còn đứng chờ nghe biển gọi
Người bỏ người trơ trụi lẻ loi

Em ngồi níu bóng trăng cùng tận
Vá víu đời nhau mảnh nguyệt trần
Dù chưa đủ ấm hiên người lạ
Thì em cũng đã biết bâng khuâng.

Có ai “ngồi níu bóng trăng cùng tận để vá víu đời nhau mảnh nguyệt trần”? Có ai mang cái tận cùng vô biên để đòi mong vá víu cái nhỏ nhoi của một tình yêu? Tôi đã quen thuộc với ngôn ngữ ẩn dụ của bóng trăng nhưng đọc đến chữ “nguyệt trần” lại sinh ra một điều gì thoảng qua của gợi cảm da thịt của một góc cạnh nào dễ tưởng tượng đến phút giây vô bờ của hạnh phúc cận gần.

Nguyễn Mạnh Trinh
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Nhớ Phạm Đình Chương

Image
Hoài Trung, Thái Thanh, Hoài Bắc Phạm Đình Chương
Nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương ra đời tại Hà Nội vào năm 1929, trong một gia đình nghệ sĩ, học Trường Bư Thanh Hóa sau Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp 1945. Sáng tác nhạc trước tuổi 20, ông là tác giả những ca khúc dân tộc như Tiếng Dân Chài, Ly Rượu Mừng, Hội Trùng Dương, hay những sầu khúc nhạc phổ thơ như Nửa Hồn Thương Đau, Mắt Biếc, Mộng Dưới Hoa, Người Đi Qua Đời Tôi ...

Tới Hoa Kỳ được ít năm, Phạm Đình Chương từ trần tại Quận Cam, California vào ngày 13 tháng 7 năm Tân Mùi, nhằm ngày 22 tháng 8 năm 1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh bút Phan Lạc Phúc, hay Ký giả Lô Răng, một bạn học của nhạc sĩ từ Trường Bưởi, được viết ngay sau khi có tin buồn.

Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú phone từ bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: "Phạm Đình Chương đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa". Tôi đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn, mà bạn già thì càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi ngoi nước sang được đến đây thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đình Chương đã đi thật rồi, một người viết ca khúc tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của Ban Hợp Ca Thăng Long đã tắt.

Tôi chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. "Khi mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng với môi tươi"(1). Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).

Ngày ấy, chúng tôi say mê hát "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm" (3), "Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi" (4) và Chương đã là một tay đàn giọng hát khá nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây "kịch" và anh Phạm Đình Viêm, một cây "tenor". Chương còn có một người chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu "bất thành văn" của suốt một miền Bạch Mai - Phố Huế. Còn người em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy Thái Thanh còn nhỏ, đang còn học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi đến thập niên '50, bông hoa Thái Thanh mới bắt đầu rực rỡ và tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.

Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng thực chất nó là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn "phi cao đẳng bất thành phu phụ". Thời tụi tôi thì cái standard về một đấng trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: "Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu". Phạm Đình Chương xét ra hội đủ những điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi tiếng. Lại còn đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học trò nhà quê ra tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm Đình Chương tư cách quá.

Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương. Thế Chiến thứ hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các thành phố phải "phòng thủ thụ động", các trường học phải đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có còi báo động là nghỉ; học trò kéo nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho một số công tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự tình. Về quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều trò: lội sông, câu cá, bắn chim. Hoặc là sẵn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều nằm trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên tôi thuộc nằm lòng. Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ đán nào kêu đục, bắn một phát súng cao su lên vòm đá là dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn) thăm chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang Cắc Cớ nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. "Hội chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi". Chương ơi, Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ con đê Hạ Hiệp không? Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể nào về thăm được nữa. Bạn ta đã thành người thiên cổ mất rồi.

Phạm Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn Tây vì không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó còn là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học trò nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo miền Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc" (5), con sông này ngoài mùa ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi.

Nhưng đến năm 1945, thanh niên như Chương và tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II kết liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình dân học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê hát "Lên Đường", lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi khoác ba lô lên đường kháng chiến.

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

(Quang Dũng)

Những năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ...

Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường, hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu cách"Quán Thăng Long". Ở trên vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và một cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ vẫn nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh ngồi đan.

Người vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm "quê mình bây giờ Tây nó đánh đến đâu rồi". Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có tin tức gì. Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài"con vỏi con voi" và "con mèo trèo cây cau" nhạc hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương thì công tác ở liên khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới được giải thưởng về bài hát "gì mà có con cò bay lả bay la".

À ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh cò ấy là cánh cò bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng nào rào rạt lúa thơm mềm (6) có phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta "Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng" (7).

Tôi nhớ mãi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: "Giữ lấy mà dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này đâu". Đúng như thế, dạng "tạch, tạch, sè" (tiểu tư sản) như Chương và tôi thì dù sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ được phát thuốc ký ninh pha loãng là cùng. Nivaquine thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho "tổ chức" mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em đã "áo bào thay chiếu ..." (8) còn đa số dân tạch tạch sè là kẻ trước người sau "dinh tê" về Hà Nội. Những va chạm với thực tế làm cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng mạn đầu đời đã trở thành một nỗi đam mê vô ích. Tôi về cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư năm 51.

Gia đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương phục vụ trong phòng văn nghệ của một đại đoàn. Quán Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp Ca Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn nhớ rõ gia đình Phạm Đình Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà vô thẳng miền Nam lập nghiệp.

Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài Gòn chơi, thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch trình diễn của Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy. Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những thành viên của nó đang được mến yêu. Người Sài Gòn vốn bộc trực "yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét" mà đã yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long trên đài phát thanh rất được lắng nghe - trình diễn của Ban Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua "giấy" báo xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng còn chưa "đã". Buổi trình diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại để tìm cách đến thật gần, nhìn thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng cái chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người miền Nam ái mộ ồn ào như thế, dễ thương như thế.

Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự hỏi: "Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy hai năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?" Tôi vốn dốt về nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ý kiến có tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dã của mình tôi nhận thấy thực chất của Ban Hợp Ca Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng hát chen tiếng ngựa hí(Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nhìn cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng hò dô vang trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui thấm thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng người.

Đồng bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc - Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng thêm sung sức.

Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của mình. Năm ấy ban Hợp ca cùng với "quái kiệt" Trần Văn Trạch, thành lập ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà thương Võ Tánh. Nghe báo chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió Nam mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió Nam trình diễn.

Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).

Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương, tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được vai trò phụ diễn trước khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban Hợp ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội sau này.

Buổi trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt.

Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình Chương sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai đoạn này.

Không biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người, thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi, đồng ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương còn rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe đi, có một nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con của người mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá:

Quê hương tôi nghèo lắm ai ơiMùa đông thiếu áo (9) ...

Nhưng liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là người hướng nội, đi tìm thú đau thương trong những kiểm tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca Thăng Long ...

Giai đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa vào khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng cũng tìm về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh (Frères Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đình Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo. Tụi tôi đến "hầu bài" bà thân của Chương để được ăn những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán ...

Lúc này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống bình thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài thòng Studebaker đã được bán đi. Nụ cười kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương để một hàm râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng hình hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm Đình Chương.

Ban Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những năm '60, ban Thăng Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh. Ban Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của chính mình. Phạm Duy đã mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình Chương cũng không còn xuất hiện. Trong thời kỳ này ban Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng.

Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đã khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như đã nói, Chương không phải là người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau thì có sẵn và Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán hận thì không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn ... Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên tâm sự của mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một sự "Chẳng đặng đừng". Về bề ngoài, hai giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tân hồn nhân ái của tác giả.

Nói cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự "chẳng đặng đừng". Thì cũng phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông coi phòng trà ca nhạc "Đêm Màu Hồng" Chương cũng làm chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về một thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm Đình Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm Màu Hồng vì phần lớn khách đến đây đều là thân hữu.

Chúng tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng. Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế nào thì chủ quán biết rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại còn phi lên sân khấu mà ngâm "Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót về đâu". Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh Nam thì Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít khi lắm). Hát tiếng Tây "Un jour si tu m'abandonnes" (Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương bỏ luôn phòng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo lên "Quang Minh Đỉnh".

Trong những năm "Đêm Màu Hồng" tôi thường cố giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho. Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê hương phủ Quốc gửi vào.

Những lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi. Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo "Chúng tôi thân với nhau trong một tình thân thiết rất buồn rầu".

Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi "đứt phim" được chừng hơn 1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và Thanh Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.

Rồi Chương và tôi đạp xe ra về trước. Đạp toát mồ hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì mỗi đứa mỗi đường. Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: "đi nhé". Tụi tôi xưa nay ít có cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về. Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi, Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương.

Phan Lạc Phúc
lengoi
Posts: 486
Joined: Sat Oct 23, 2010 7:17 pm
Contact:

Post by lengoi »

Ngày Đó Cha Tôi

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Cha tôi là con trai út trong gia đình sáu người con của Ông Bà Nội. Có lẽ theo thói quen mà Bà Nội thường hay gọi cha tôi là thằng Nhỏ mặc dù ông đã có vợ, con.

Bà Nội kể :

Hồi bé, thằng Nhỏ được ông Nội dạy nó học chữ Nho. Học cả năm trời mà viết và đọc không thuộc được hết cuốn Tam Tự Kinh. Có khó gì đâu, Nội bây giờ đã già rồi mà vẫn còn nhớ : Thiên là trời, địa là đất, tử mất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước , …Vậy mà nó thà chịu bầm mông vì cái roi mây của ông Nội còn hơn ngồi tù túng trong phòng học suốt ngày ê a chán ngấy mấy cái chữ xa lạ . Lại còn phải viết tới viết lui từng ”bộ” một của chữ Nho trong ô giấy gạch sẵn.

Thấy thằng nhỏ bị đòn mà bà nội xót ruột. Bà năn nỉ ỉ ôi ông Nội nhiều lần nhưng cái tính quyết đoán của ông, bà cũng đành chịu.

May mà gặp cơ hội chính phủ Trung kỳ ra quyết định bải bỏ nền Nho Học mở chương trình “Học Chính Tổng Quy”(Giáo Dục Pháp Việt) nên ông Nội đành phải cho nó theo học chữ Quốc Ngữ .

Có lẽ chữ Quốc ngữ hợp với Cha con nên chưa đầy một năm học lớp Đồng Ấu là nó đọc được báo, đọc được sách. Thấy vậy, ông Nội nhất quyết cho nó theo học càng cao càng tốt. Thằng Nhỏ lấy được bằng Yếu Lược, rồi theo đà đó, mấy năm sau lấy thêm bằng Primaire.

Thằng Nhỏ học giỏi mà ham chơi. Trò chơi nào nó cũng vượt trội hơn bạn bè. Hồi nó mới chín mười tuổi mà đã vẽ được con gà con vịt, vẽ được cả hình người . Nó vẽ hình của Nội đang ngồi quạt trên cái sạp gụ. Cái môn này chẳng ai dạy nó mà tự năng khiếu trời sinh.

Đến những ngày sắp Tết, nó xin tiền Nội mua giấy, cọ, bột màu, rồi tự vẽ hình bộ tứ linh “ Long Lân Quy Phụng”, hay bộ cây kiểng “Mai Tùng Cúc Trúc” để chưng trên gian thờ trong ba ngày Tết. Thằng Nhỏ coi vậy mà khéo tay lắm đó. Bà con ai tới chúc Tết cũng khen tranh vẽ đẹp và có thần. Thầy Phán xem tranh rồi khuyên ông Nội nên cho cháu theo học môn Vẽ Truyền Thần

Cháu đâu biết, bà Nội ngưng nói, với tay lấy ống nhổ, nhả miếng bã trầu rồi kể tiếp.

Ông Nội cho cha cháu vào Quy Nhơn theo học trường Collège de Quinhon, chỉ còn một năm nữa là thi lấy bằng Thành Chung. Không biết ai đưa đường dẫn lối, một hôm nó trốn trường bỏ đi biệt tích. Nữa tháng sau gia đình nhận được thông tri của trường đuổi học trò Nguyễn, lý do là vắng mặt lâu ngày mà không xin phép. Ông Nội giận lắm đòi từ cái thằng con ngỗ nghịch, ương ngạnh, hoang đàng. Phần bà Nội thì lo lắng, nhớ thương thằng con trai út nên cho người âm thầm đi tìm, một năm, rồi hai năm.

Đi dò hỏi khắp nơi, may mắn có người bà con trong họ về ăn chạp mả nói có gặp nó ở huyện Trà Bồng. Cái xứ nằm tận núi cao có quế, có trầm hương và nhiều cây danh mộc sống lâu hàng trăm năm tuổi.

Ngày đó, thằng Nhỏ theo làm đệ tử một Nghệ nhân chuyên nghề điêu khắc và chạm trỗ trên gỗ. Ông thầy đứng đầu toán thợ chạm trỗ đang xây dựng ngôi nhà thờ họ danh tiếng nhất ở đây. Ngôi nhà năm gian dựng toàn gỗ quý. Cột, kèo, xuyên , trính đều được chạm trỗ. Ngoài ra còn khắc các bức liễng, hoành phi bằng gỗ mun những câu đối chữ nho. Hai bên cổng vào nhà là tượng hai con sư tử to được chạm khắc cũng bằng loại gỗ mun , trông rất oai nghiêm.

Nội đã mất cả tháng trời khóc lóc năn nĩ ông Nội tha thứ cho Cha cháu mà vẫn không lay động được cái tính quyết đoán của ông . Bà vừa giận vừa thương thằng con đến mất ăn,mất ngủ. Ông Nội thấy bà ngày càng ốm o, gầy mòn, cuối cùng, ông Nội phải chấp thuận bỏ qua, nhưng với điều kiện là bắt thằng Nhỏ phải về nhà cưới vợ.

Ngày thằng Nhỏ quay về nhà , nó mang theo một món quà để chuộc lỗi là một bức hoành phi bằng gỗ mun khắc ba chữ đại tự NGUYỄN TỰ ĐƯỜNG sơn màu vàng nhụ.Bức hoành phi đó do tay cha cháu chạm trỗ. Mỗi nét chính chữ Hán đều tượng hình những con vật và hoa. Bức hoành phi treo trước gian thờ trông rất hoành tráng mà trang nghiêm khiến cho bà con đến thăm đều trằm trồ khen ngợi. Ngày đó, ông Nội mới thấy cái tài năng đặc biệt của con trai mình.

Mẹ cháu là người đã được ông bà Nội chọn làm dâu từ trước, xứng đôi vừa lứa , đẹp người, đẹp nết mà hai gia đình sui gia cũng được môn đăng hộ đối.

Nội cho thằng Nhỏ biết vợ nó và sẽ làm đám hỏi là cô con gái đầu của ông bà Cả Quới xóm dưới. Mẹ cháu có năm người em gái và hai người anh. Người anh cả đi lính Tây sang Pháp rồi biệt tích chẳng thư từ về. Người anh thứ hai vào Nam buôn bán, có gia đình lập nghiệp trên đất Chợ lớn.

Khi Nội cho cha cháu biết ngày giờ tổ chức lễ hỏi vợ, nó chỉ biết vâng lời chứ đâu dám cãi lại. Trong ngày lễ hỏi, cha cháu mới được thấy mặt mẹ cháu. Nội hối thúc lắm nó mới thăm nhà vợ được đôi lần rồi Cha cháu trở lại Trà Bồng tiếp tục công việc.

Năm sau, ông Nội chọn được ngày lành tháng tốt làm đám cưới, Nội cho người lên Trà Bồng gọi Cha con về . Đám cưới xong, mười ngày sau là nó lại ra đi, để vợ nó ở nhà sống với bà Nội. Ngày đó, ông Nội giận thằng Nhỏ lắm, mê say nghề nghiệp hơn cả trách nhiệm lo cho gia đình .

Ngày ông Nội quy Tiên, cha cháu mới quyết định bỏ hẳn nghề nghiệp ở lại nhà để chăm nôm ruộng vườn.

* * *

Năm tôi lên mười hai tuổi, bà Nội mất .

Vào mùa hè năm ấy, Cha đưa tôi đến thăm một gia đình xa lạ mà cha tôi bảo chỉ cho một mình con biết. Cha đèo tôi phía sau chiếc xe đạp. Đường đi quanh co trên sườn núi khá xa mà cha tôi bảo đó là đèo Vĩnh Tuy .

Đến trước một căn nhà nằm đơn độc, cheo leo trong một khu vườn trồng thơm khóm trải dài tới chân đồi, chen lẫn là những cây mít đang mùa ra trái.

Một người phụ nữ từ trong nhà đon đả bước ra. Dáng bà dong dõng cao, màu da trắng xanh, sóng mũi dọc dừa, mái tóc búi cao trông rất qúy phái. Đoán chừng cỡ tuổi Mẹ tôi, nhưng trông bà tiều tuỵ hơn và đặc biệt bà có cặp mắt u buồn.

Bà bước ra sân đưa tay nhận chiếc túi xách đựng đầy thực phẩm từ tay cha tôi. Câu nói đầu tiên của bà là trách cha tôi không cho thằng con đội mũ phải chịu phơi nắng giữa buổi trưa Hè.

Bà mở rộng hai cánh cửa mời cha con tôi vào nhà. Đập vào mắt tôi trước tiên là một bức tượng nhỏ bán thân bằng gỗ màu hổ phách đặt trên kệ cao trên vách. Tượng khắc một người con gái có mái tóc dài vắt lên vai chảy dài qua khỏi lồng ngực. Khuôn mặt bức tượng rất thanh tú. Tôi nghĩ đó là hình bà chủ nhà thuở còn trẻ. Dù tôi chưa có trình độ để nhận xét về nghệ thuật điêu khắc, nhưng tâm tư đứa trẻ mười hai tuổi đã cảm nhận được nét tài hoa của đôi bàn tay người thợ điêu khắc.

Bà chủ nhà bưng cho Cha tôi một bát nước chè lá xanh đậm đặc, cho tôi một ly nước trong. Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao bà này lại biết được thói quen của cha tôi chỉ thích uống nước chè tươi .

Những ngày cha tôi có mặt ở nhà, khi mặt trời chưa ló dạng là mẹ tôi đã ra vườn hái những lá chè tươi còn đọng sương đêm, rồi ủ những lá chè được vò nát với nước sôi trong chiếc bình lớn để cha tôi dùng cả ngày. Mẹ bỏ bông lài tươi để ướp cho thơm, nhưng cha tôi bảo:

– Hương lài chỉ dành ướp cho loại trà khô. Còn lá chè tươi phải dùng nguyên chất mới hưởng được hương vị chát ngọt và thơm nồng của lá chè.

Buổi sáng, uống bát nước chè tươi đậm đặc, đến trưa cha tôi mới dùng bữa.

Trong khi chờ đợi bà chủ nhà sửa soạn bữa ăn, cha dẫn tôi dạo quanh vườn thơm khóm và xem những cây mít được mùa đầy quả trĩu nặng cành. Bất chợt, cha nắm tay tôi bảo: “ Con nên gọi bà chủ nhà bằng Dì Út vì bà ấy nhỏ tuổi hơn Mẹ con”.

Đến bữa cơm trưa, cũng có đủ thức ăn mà cha tôi thường dùng đã được dọn ra. Nào là rau muống luộc chấm với nước mắm chanh tỏi ớt, một tô canh bí đỏ nấu với đậu phụng và đĩa thịt gà kho sả ớt

Trong bửa ăn, cha tôi hỏi Dì Út về việc thu hoạch vườn thơm mùa này ra sao, con bé Đơn Thanh đi thăm bà ngoại đã mấy ngày rồi.

Đến đây, tôi mới biết thêm được điều nữa là bà chủ nhà còn có một người con gái tên Đơn Thanh sống chung và quê ngoại của bà ở khá xa vùng này.

Buổi chiều, khi cha con tôi sắp lên đường trở về nhà, chợt một người con gái từ ngoài ngõ đi vào. Cô mặc áo trắng, quần bà ba đen, rất chân quê mà sao dáng người cô trông rất thanh tú, khuôn mặt rạng rỡ toát lên nỗi hân hoan trong lòng, cô đến ôm vai cha tôi vồn vã hỏi :

– Cậu về hồi nào, rồi nhìn tôi cười hỏi tiếp , em Tấn đó hả ? Lần đầu tiên chị mới gặp em.

– Tôi ngỡ ngàng. Một gia đình xa lạ đối với tôi , mới gặp lần đầu mà sao họ đối xử với mình như người quen thân trong gia đình. Cô con gái lại gọi cha tôi là Cậu và còn biết cả tên tôi.

Trên đường về , tôi hỏi Cha rằng gia đình đó liên hệ với gia đình mình thế nào mà họ biết cả về sở thích của Cha, cô con gái đó lại mạnh dạng xưng chị với con?

Cha tôi cười bảo :

– Thì nó lớn tuổi đáng chị của con mà. Cha sẽ cho con biết ngọn nguồn những thắc mắc của con. Nhưng bây giờ, cha chỉ có một yêu cầu duy nhất là con giữ yên lặng không nói với ai về chuyến viếng thăm này. Một ngày nào đó cha con mình sẽ cảm thông nhau.

* * *

Thời gian sau này, cha mẹ cho tôi vào Sài Gòn học nên quên bẵng đi chuyện thắc mắc năm xưa. Mỗi mùa nghỉ Hè, tôi thường đi xe lửa về thăm gia đình. Có lần tôi sực nhớ đến chuyện cũ dự định hỏi cha nhưng lại gặp bạn bè đến thăm, vui chơi nên quên bẵng đi.

Vào mùa Hè năm cuối cùng Trung Học Đệ Nhị Cấp, khi tôi thi xong bằng tú Tài 2, trong thời gian chờ đợi kết quả, tôi về thăm nhà .

Được hai ngày, cha tôi hỏi:

– Con còn muốn biết Dì Út là ai không?

A, cha lại nhắc tôi chuyện thắc mắc cũ, rất vui mừng, tôi nắm tay cha thúc dục:

– Kể cho con biết ngay bây giờ đi .

Cha tôi đưa tôi ra ngoài vườn. Ông nằm trên chiếc võng, hai đầu đươc buộc vào hai gốc xoài. Tôi ngồi trên chiếc ghế đá kề bên võng. Người bắt đầu tâm sự :

– Giờ con đã trưởng thành, cha muốn cho con biết cái điều cha đã giữ kín mấy chục năm nay để sau này con còn biết cách đối xử với người ta.

– Ngày cha bỏ học trường Collège de Quinhon theo ông thầy làm nghề điêu khắc đến tận huyện Trà Bồng nhập với đoàn thợ xây dựng nhà cửa. Ngày đó, cha mê vẽ tranh và điêu khắc, nhưng tiếc rằng ông Nội không chiều theo ước nguyện của cha . Đến lúc gặp cơ hội là cha bỏ hết tất cả chạy theo sở thích của mình.

Vị Tộc trưởng dòng họ Trương có thế lực nhất đất Trà Bồng đã thuê bao toán thợ làm nhà gỗ nổi tiếng nhất tỉnh Bình Định đến đó xây dựng một ngôi nhà gỗ năm gian thật hoành tráng.

Cha cùng với ông thầy chuyên làm công việc chạm trổ các hình tượng linh vật như con rồng, con rùa, con dơi… và hoa văn trên những đầu và chân các cây cột, trên cây trính, cây kèo… bằng toàn gỗ danh mộc mất ba năm mới hoàn thành. Cha hãnh diện nhất trong cuộc đời cha là đã điêu khắc được hai con sư tử bằng gỗ mun đen tuyền rất sống động đặt ngoài cổng nhà thờ họ Trương mà mọi người đều thán phục.

Tôi sực nhớ đến bức tượng gỗ người thiếu nữ trong căn nhà của Dì Út năm xưa bèn hỏi cha:

– Thế thì cái tượng gỗ đặt trên kệ nhà dì Út có phải cha là tác giả?

Cha tôi không trả lời câu hỏi của tôi , ông kể tiếp :

Người con gái Út của ông chủ nhà không ngờ lại đem lòng thương cha và cha cũng thương dì ấy. Thuở đó, cha đã hai mươi tuổi còn dì Út lên mười bảy. Tình yêu của cha và dì Út là niềm cảm hứng cho cha tạo nên bức tượng đó.

Được hai năm, ông bà Nội tìm được chỗ làm của cha. Rất vui là cha được ông Nội tha thứ cái tội bỏ học nửa chừng nhưng lại bắt cha về nhà cưới vợ.

Ngày đó, cha rất đau buồn nên đã tỏ thật với dì Út và định bỏ đi, nhưng dì Út đã khuyên cha ở lại tiếp tục làm xong ngôi nhà cho cha nàng, sau đó dì sẽ bỏ nhà cùng cha đến nơi khác chung sống. Dì sẵn lòng chấp nhận làm vợ hai nếu Mẹ con đồng ý. Mặc dù dì Út mong được như thế, nhưng cha không dám cho ông bà Nội biết và sợ mẹ con buồn phiền.

Khu vườn mà cha dẫn con tới thăm là do dì Út tạo dựng, chuẩn bị cho cuộc sống riêng tư sau này. Dì đã đưa cha tới đó giữa lúc những người thợ đang xây dựng căn nhà. Thực lòng cha không muốn dì phải sống cảnh đơn độc, khổ lụy vì Cha. Là con gái Út của gia đình giàu có, lại được nuông chiều, cha nghĩ, làm sao dì chịu nổi cảnh cơ cực và cô đơn.

Cha tôi ngưng kể, lấy hộp thuốc rê trong túi vấn thêm một điếu .

Tôi liền hỏi :

– Sao Cha không thú thực với ông bà Nội về mối tình của Cha và dì Út khi Nội bắt Cha cưới vợ?

– Cha biết tính ông Nội mà, cương nghị và nền nếp gia phong khó lòng lay chuyển. Nội không bao giờ chấp nhận hành động của con cái vượt ra ngoài khuôn phép, lễ giáo.

Chợt Cha im lặng. Ông hít những hơi thuốc dài, phà khói lên các tàn cây cao. Ông nhìn theo khói thuốc dường như để cho tâm tư ông lắng dịu. Một hồi lâu Cha mới kể tiếp:

– Sau buổi lễ khánh thành ngôi nhà thờ, Ông chủ nhà mở tiệc khỏan đãi toàn bộ toán thợ xây dựng trước khi từ biệt trở về Bình Định. Cuộc tiệc đang vui vầy bỗng tin báo dì Út bị trôi sông. Mọi người đổ xô xuống bến sông, chỉ thấy đống áo quần đặt trên bờ đá, trước mặt là dòng sông nước chảy xiết. Người thân trong gia đình khóc than thảm thiết. Mọi người tự động chia nhau đi tìm dọc hai bờ sông. Ông Trương cho gia nhân thả thuyền dò tìm theo dòng nước. Lúc bấy giờ, lòng cha đau đớn tận cùng cứ ngỡ dì Út đã trầm mình vì đau khổ và thất vọng trước cảnh chia ly sắp xảy ra.

Suốt mấy ngày hôm sau, cha không về nhà ông bà Nội mà thẳng đường đi đến khu vườn mà dì Út trước kia đã đưa cha đến đó .

Ôi, cảm ơn Trời Phật. Dì từ trong nhà ra đón cha. Dì và cha đã ôm nhau khóc. Cha khóc vì nỗi vui mừng dì còn sống. Còn nước mắt của dì Út là tủi thân vì từ nay phải cách biệt cha mẹ, bắt đầu cuộc sống trốn tránh và tự lập chỉ vì yêu Cha và quyết được sống gần cha .

Cha ở lại đó một tháng lo giúp dì sửa sang vườn tược và gần gũi dì cho đỡ phần cô đơn.

Năm 1952, chính quyền Việt Minh mở cuộc đấu tố cha mẹ dì Út. Họ ghép tội ông Trương là cường hào ác bá, bóc lột nông dân, hà hiếp kẻ ăn người ở. Họ ra lệnh cho đám người cầm gậy gộc xông vào nhà, chiếm đoạt, cướp bóc hết của cải mang đi, ruộng nương đều bị tịch thu. Hai con sư tử đứng chầu trước cổng, chúng nó dùng búa rìu phá hỏng để thỏa lòng mối thù giai cấp của Cách mạng .

Ông Trương, cha dì Út vì quá đau buồn và uất hận nên đã trầm mình dưới dòng sông, nơi mà ông đinh ninh người con gái út của ông đã bị chết chìm từ mấy năm trước.

Giờ đây, ông bà Nội không còn nữa. mẹ con tuổi cũng khá cao rồi. Vì cha rất quý trọng mẹ đã giữ vẹn đạo làm dâu, làm vợ nên cha dấu kín việc này. Mai sau cha có đi theo ông bà ông vãi thì con nói cho các chị con biết về chị Đơn Thanh để nhìn nhận chị em cùng máu mủ.

* * *

Nhận được điện tín của bạn cùng lớp báo tin tôi có tên trong bảng niêm yết kết qủa kỳ thi Tú tài 2 , tôi vội vã lên đường vào Sài gòn để ôn bài chuẩn bị thi vào các trường chuyên nghiệp .

Giai đoạn này, đường xe lửa, đường quốc lộ 1 bị VC thường xuyên phá hoại hoặc đắp mô nên suốt mấy năm trời tôi không về thăm gia đình được.

Bỗng một hôm tôi nhận được điện tín từ ngoài quê gởi báo tin Cha tôi vừa mất tại bệnh viện. Tôi vội vàng làm đơn xin phép nghỉ dạy hai tuần , sắp xếp công việc, báo cho Hiệu trưởng trường tôi đang dạy biết ngày khởi hành.

Tôi về đến nhà, công việc mai táng đã chuẩn bị đâu vào đó, chỉ chờ tôi về để được nhìn thấy mặt Cha lần cuối .

Công việc chôn cất cha tôi đã hoàn tất chỉ chờ đến ngày giờ tốt là xây mộ.

Tôi được em gái tôi kể lại về cái chết của cha như sau :

Năm này cha tôi vừa tròn bảy mươi tuổi. Một hôm, ông bị bí tiểu và cơn đau lưng dữ dội. Em gái tôi vội đưa ông đến bệnh viện. Sau khi chụp phim, bác sĩ phát hiện cha tôi bị sạn thận và quyết định giải phẩu thận để lấy sạn ra.

Trước khi thực hiện ca mổ, cha tôi có một tuần nằm ở bệnh viện để bồi dưỡng và chờ đợi người cho máu . Giai đoạn này, cuộc chiến chống Cộng sản Bắc Việt trên chiến trường diễn ra rất khốc liệt. Trực thăng tải thương tấp nập bay về bệnh viện Dã chiến ngày đêm. Ngân hàng máu từ các bệnh viện đều thiếu trầm trọng. Vì vậy ca mổ của Cha tôi, gia đình phải cung cấp máu tự túc.

Cha tôi có dòng máu O+ mà gia đình tôi chỉ có bà chị thứ tư mới có đầy đủ sức khỏe để lấy máu, đứa em út thì ốm yếu, nên phải chạy đi các nhà thương ở quận để mua thêm máu nhưng không nơi nào có.

Đã gần đến ngày giải phẩu thận mà số máu cần chuyền cho Cha vẫn chưa đủ, cả nhà vô cùng bối rối. Bỗng một hôm, có người nữ y tá xa lạ đến tình nguyện hiến máu. Rất may mắn là máu của cô ta đúng dòng máu O+. Mẹ và các chị em tôi vô cùng mừng rỡ. Cho máu xong, gia đình tôi xin cô y tá cho biết qúy danh và địa chỉ để trả ơn và mời cô dùng bữa. Cô từ chối và bảo:

– Chẳng có gì lớn lao lắm đâu. Thấy Bác trai cần máu để mổ nên cháu giúp vậy thôi, rồi cô viện cớ phải mang thuốc về bệnh xá ở quận gấp.

Sau này, tôi mới biết một điều rủi ro đã xảy ra trong ca mổ là thay vì mổ thận phía trái, bác sĩ lại mổ thận bên phải nên phải mổ hai lần. Vì tuổi già sức yếu nên cha tôi không chịu đựng nổi qua một lần mổ hai quả thận. Vì mất nhiều máu quá nên cha tôi đã đi luôn trong cơn mê.
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests