Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Hà Nội Về Đêm

Trần Mộng Tú
Từ chập choạng hoàng hôn, Hà Nội đã khoác lên đầu một chiếc khăn voan mỏng màu xám, Hà Nội hình như chậm lại ở một chút này, nhưng lại hối hả ở một chút khác. Từ tấm khăn voan nhìn ra hay đứng ở ngoài nhìn vào, Hà Nội về đêm giống như một bài thơ dài, cắt ra từng đoạn. Có đoạn sắt se lòng, có đoạn mơ hồ như tranh thủy mạc, có đoạn như sông Lô lờ lững chảy, có đoạn như sông Hồng lúc cạn đáy.

Khi xe của những người đi làm theo giờ giấc cố định đã đậu ở giữa phòng khách của mỗi gia đình, sau cánh cửa đóng, là thời điểm của những người có tiền đi ăn ngoài, đi chơi buổi tối. Xe ít đi và người đi bộ nhiều hơn.

Hà Nội đang sửa soạn cho một năm đi qua, một năm sắp đến, nên đèn mở sáng choang trên phố đêm Hà Nội. Ðặc biệt khu phố cổ là nơi du khách tụ họp rất đông. Ðối với tôi, không phố nào đẹp bằng phố Hàng Mã dù ban ngày hay về đêm. Cái màu đỏ rực đến căng mạch máu ấy, nhuộm hồng lên tất cả làn da của ai khi bước vào khu phố đó. Ðỏ nhang, đỏ đèn lồng, đỏ chân nến, đỏ phong bao, đỏ câu đối. Chỗ nào cũng toàn màu đỏ. Ðỏ rực rỡ, đỏ nồng nàn, đỏ như bài thơ tình, đỏ như ly rượu cưới, đỏ như áo trạng nguyên, đỏ như áo cô dâu đứng trước bàn thờ gia tiên. Chao ôi, màu đỏ! Ðến Hàng Mã rồi, đêm về giấc ngủ của tôi, giấc mơ của tôi cũng toàn màu đỏ. Người Hà Nội đến Hàng Mã để mua nhang đèn, vàng hương đi trả lễ. Ðầu năm xin lễ, vay vốn ở chùa nào, thì cuối năm phải mang vàng hương đến tạ lễ ở chùa đó. Ôi, cái phong tục tập quán đó, mới đáng yêu, đáng quý làm sao!

Hà Nội cuối tuần, phố cổ có “chợ đêm.” Một cái chợ chẳng bán một thứ gì ra hồn, và hàng nào cũng “Made in China”; từ cái quần jeans cho đến khăn quàng cổ, cái bút chì kẻ lông mày cho đến đôi giầy cao gót kiểu mới nhất; tất cả đều đi qua cửa khẩu Ðồng Ðăng-Lạng Sơn (cửa khẩu hữu nghị Việt-Trung) vào bày ở đây. Thỉnh thoảng cũng có những cái áo len đan vội của một bà mẹ nào đó mang ra bán, hay mấy đồ sứ Bát Tràng của người bán lẻ, chiếm một cái quầy nhỏ khiêm nhường. Hàng chè, hàng bánh cũng bày chen chúc trên lề đường. Cuối năm lại là dịp sắm Tết, nên hàng Tết về nhiều hơn, có thể đẹp hơn và may ra rẻ hơn. Chợ đêm vì thế kẹt cứng người, phần đông là thanh niên thiếu nữ đang ở tuổi hẹn hò và du khách cũng chen chân trong đó. Người đi ngắm nhiều hơn người mua.

Tôi là một người lang thang trong cái chợ đêm đó; tôi ngắm người du khách ngoại quốc đang mua một cái khẩu trang của Việt Nam bày bán chung với những chiếc khăn quàng cổ của Trung Quốc. Bà đưa khăn lên ngang miệng, thử tới thử lui, rồi tìm cách trả giá, cuối cùng tôi thấy bà đưa 2 Mỹ kim, người bán và người mua cùng hài lòng; ngắm cô bán hàng đang đứng giữa đống quần jeans dưới đất, cô cầm hai ba cái tung lên cho khách nhìn rõ, dưới chân cô có miếng bìa cạc tông xé vội ra ở một cái thùng nào đó, viết nguệch ngoạc bằng mực đen, “Ðồng giá 50,000/1 quần.” (Khoảng 3 Mỹ kim), các cô cậu chen nhau cúi xuống đống quần, cầm lên, bỏ xuống. Lựa mãi vẫn không ưng ý. Một bà mẹ tóc trắng phau ngồi bán chè đậu xanh, cái gánh của bà chỏng chơ vài cái chén nhỏ một bên, nồi chè một bên; lâu lắm mới thấy một người kéo ghế ngồi xuống với bà. Hai người mù dắt nhau (chắc người đi trước sáng hơn một chút) chen vào giữa đám đông, xin tiền. Thỉnh thoảng ở cuối dãy quầy hàng là một ngã ba, vẫn có một vài anh xe gắn máy không giữ luật cấm, xé lẻ lách vào, chạy vọt một cái không coi ai ra gì. Có người kêu lên: Chắc lại con “đại gia” đấy, có tông phải ai cũng không sao đâu.

Chúng tôi rủ nhau, tối nay đi ăn lục-tào-xá, chí-mà-phù của một nghệ sĩ ưu tú ở phố Hàng Giày. Từ khách sạn ở phố Hàng Mành, đi bộ khoảng năm ngã tư thôi, nên chúng tôi tản bộ. Em tôi, người Hà Nội giới thiệu. Chỗ này, lần trước chị về, ăn rồi, nhớ không? Có phải cái lối đi vào ngõ, đen thui, tường bám đầy khói và dầu vừng (mè) không? Ðúng rồi đó chị, vừa được giới thiệu lên truyền hình đấy nhé.

Tháng Chạp, Hà Nội lạnh, người Hà Nội co ro trong áo len, áo dạ, người ở xa đến từ xứ lạnh, thêm cái áo khoác ngoài dày hơn một chút, coi như đủ ấm rồi. Chúng tôi thong dong đi bộ.

Tôi nhận ra chỗ ăn chè lần trước, cũng vẫn những cái bàn thấp, những cái ghế thấp, ngồi chen chúc nhau, giấy ăn nho nhỏ trăng trắng, vứt đầy mặt đất đen ngòm. Khách ăn toàn người trẻ, thỉnh thoảng mới có du khách già như chúng tôi ghé vào. Ở ngay lối vào, vẫn hai người, một nam, một nữ cũng rất trẻ, người nam vừa kiểm soát, vừa phục vụ, người nữ thu tiền.

Hai cái nồi sôi sùng sục; nồi chí-mà-phù, đang bắn những mảng vừng đen tung dán lên tường thành những lớp keo dầy, đen, bóng lưỡng; nồi lục-tào-xá cũng không kém, từng tảng màu vàng nhớp nhúa bắn tung tóe trên miệng nồi, rơi xuống đất, giẫm lê ra lối đi.

Cái quán chè nóng hổi ban đêm này được người Hà Nội đặt tên cho là: “Nhem nhuốc, nhếch nhác, bẩn thỉu,” nghe ra rất xứng đáng. Chúng tôi ngồi vào gọi mấy chén chè, tôi bị người phục vụ, làm đổ nguyên một chén chí-mà-phù vào áo, may áo cũng mầu đen. Chẳng nghe thấy tiếng xin lỗi nào cả, chỉ được cô bé ngồi sau lưng lấy mấy miếng giấy lau hộ. Cám ơn cô, ít ra cũng có một người Hà Nội lịch sự. Có lẽ bị chè đổ vào áo, tôi ăn không thấy ngon như lần trước, và nhìn cả cái quán, thấy nhếch nhác, bẩn hơn lần trước nhiều. Chúng tôi ăn vội, để nhường chỗ cho một đám người trẻ khác đang kéo vào, rồi đi ra lang thang thả bộ.

Hà Nội ban đêm hình như có một cái gì khang khác. Hai năm trước tôi chưa thấy, hay có rồi mà tôi không nhìn thấy. Trên vỉa hè của phố hàng Bồ (góc Lương văn Can), thay vì chỗ xếp xe gắn máy, tôi thấy có nhiều chiếc chiếu cũ được trải ra. Trên một vài chiếc thấy đã có người ngồi; đó là những người rất trẻ, quần jeans, áo da, hay áo nỉ. Họ ngồi chung quanh một cái đĩa nhỏ có mấy con mực nướng, vài chai bia. Ở một cái chiếu khác, một tốp người lớn tuổi hơn một chút, có đĩa cánh gà, rượu trắng, và có một cỗ bài Tây (bài cào). Ở cái chiếu sát cạnh chỉ có đôi trai gái trẻ, đang ngồi ôm nhau rủ rỉ, trước mặt họ thấy có mỗi cái ấm trà với hai cái tách; trà chưa rót ra. Họ chưa thưởng thức trà vội, họ còn đang chụm đầu, thưởng thức nhau. Sau lưng mấy cái chiếu này, là những ngôi nhà: có nhà tư nhân, cánh cửa đóng kín; có nhà hàng, nhấp nhánh đèn mầu, lấp ló quầy rượu, văng vẳng điệu nhạc Jazz, bài hát “When I First Saw You” của: Eyen, Tom Lee, Krieger, Henry D; lời hát vừa đủ bay ra, thả rơi vào những chiếc chiếu bên ngoài vỉa hè: When I first saw you, I said oh my, that's my dream, that's my dream? I need a dream to make me strong, you are the only reason I had to go on. Tôi dừng lại, nghiêng tai nghe tiếng hát. Những người đang ngồi trên những chiếc chiếu trải trên vỉa hè, trong bóng tối kia, chắc mỗi người đều có một lý do để mơ giấc mơ của mình.

Có người bạn chở tôi trên xe gắn máy ra tận khu Cầu Giấy để xem chợ đêm của rau và trái cây. Chợ đêm ở đây họp đến gần sáng, ở một góc không có đèn đường, mặt người nhờ nhờ như ở cõi âm, không nhìn tỏ mặt nhau. Người đi mua phải dùng đèn pin để lựa hàng. Phần đông là những người ở quê lên, mua sỉ ở chợ đêm Dịch Vọng (Cầu Giấy) rồi gánh vào trong thành phố bán lẻ lại ngay sáng hôm sau. Tôi đã có lần thức dậy từ 5 giờ sáng, đứng trên căn gác nhà em tôi ở đường Hòa Mã, gần chợ Hôm, nhìn xuống con phố vắng, chờ trong sương sớm; những cái bóng bé nhỏ của những phụ nữ từ các cửa ngõ thành phố gánh những gánh rau xanh, những gánh hoa đủ màu, kĩu kịt vào trong nội thành, rẽ ra nhiều hướng khác nhau.Và tôi được chờ, người đi về phía chợ Hôm để bán. Cái nhọc nhằn của những người phụ nữ lẻ loi gánh cả trách nhiệm gia đình trên đôi vai gầy guộc, vừa đẹp, vừa cảm động, làm tôi liên tưởng đến câu thơ:

Cô gái Việt Nam ơi
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi sẽ nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
(Hồ Dzếnh)

Chưa hết đâu, Hà Nội càng khuya càng nhìn rõ cái nhọc nhằn của phụ nữ. Phần đông phu quét đường, phu hốt rác ban đêm là phụ nữ. Họ làm việc trong thầm lặng. Khẩu trang che ngang miệng, chổi cầm tay, vừa đi vừa đẩy cái xe cút-kít, họ cúi xuống lề đường nhặt từng gói rác trong những căn nhà hai bên phố vứt ra, họ đi vòng những gốc cây quét đống rác ai đó vừa đổ vội cuối ngày. Ðôi khi họ nhặt lên một bó hoa tàn, đứng tiếc rẻ, ngắm nghía một chút, lưỡng lự một chút, rồi mới bỏ vào thùng xe. Có bao giờ họ nhận được một bó hoa tươi không nhỉ?

Trong đêm khuya khoắt đó thỉnh thoảng có một đoàn xe gắn máy rú lên như những con thú, phóng điên cuồng qua mặt những người phu rác, rồi mất hút, để lại một đám khói khét lẹt và những tiếng động dội trong lồng ngực họ, nghe như tiếng dội của thời đạn bom ngày cũ. Họ nhìn lên ngơ ngác, đất nước thanh bình, thịnh vượng lâu lắm rồi mà!

Họ cúi xuống, làm cho nốt đêm nay.

Và cuối cùng, bỗng dưng tôi thấy, ở trong những con hẻm mơ hồ nào đó, ở sau một gốc cây lấp khuất nào đó hay từ một công viên tối om; bước ra những cô gái trẻ lắm, họ trang phục khác mọi người, bước đi của họ cũng xiêu xiêu, thỉnh thoảng có một đốm lửa đỏ trên môi họ. Họ đi đâu, về đâu, mất hút ở một góc rẽ nào, tôi không đoán được, Nhưng chắc họ cũng phải đi bán, đi mua một cái gì đó để kiếm sống cho nguyên ngày mai. Họ là những cô gái chỉ biết kiếm sống khi bóng đêm đổ xuống. Ðốm lửa trên môi có giữ họ ấm được suốt đêm nay?

Tôi đi trong Hà Nội về đêm, ngước mặt nhìn những vì sao nho nhỏ lấp lánh trên bầu trời, cúi mặt nhìn xuống những vỉa hè chỗ lành, chỗ vỡ toang hoang trên mặt đất. Biết là mình đang đi giữa quê hương; một chút vui, một chút buồn, một chút bâng khuâng. Hơn ba mươi năm rồi đấy nhỉ! bỗng thấy thèm đọc một câu thơ:

Em về đi giữa đêm Hà Nội
phố cổ mơ hồ bước chân ai
tiếng chổi người phu đang quét lá
sao em nghe như tiếng thở dài.
(Thơ-tmt)

Về thăm quê tháng 1, 2010
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Image

THẾ LỮ
BUỒN ƠI ! XA VẮNG...
Trong một sát-na nào đó, tôi tưởng chừng như đã Ngộ cái ý nghĩa “Tứ Đại Giai Không” của nhà Phật. Và tôi cảm thấy thấm thía những câu thơ biểu hiện về sự thức tỉnh triết lý của kiếp nhân sinh mà nhà thơ Cao Tiêu đã đề cập tới:

...Nhìn xem trong cõi ta bà
Dẫu rằng sắc, tướng cũng là hư không
Đời người bóng ngựa bên song
Lẽ sinh tử chẳng qua trong luân hồi...

Tất cả chúng sinh đều trở về cõi an nghỉ đời đời nơi Cực Lạc hoặc Thiên Đường? Hay lại tiếp tục vướng mắc vòng quay của kiếp luân hồi vì cái nghiệp còn đeo đuổi? Những ngôi sao tỏa sáng trên thi văn đàn Việt Nam một thời cũng đã lần lượt tắt lịm và lặng lẽ ra đi. Ở cõi hư vô miên viễn nào đó, những thiên tài đã gặp nhau chắc hẳn đã hài hòa từ ái với nhau hơn khi còn ở nhân thế? Những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Phan Du, Hoàng Trúc Ly, Quách Thoại, Y Uyên, Nguyễn Bính...và mới đây Thế Hoài, Quách Tấn, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Quang Dũng, Tú Mỡ, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Vũ Khắc Khoan, Thanh Nam, Chế Lan Viên, Trần Huyền Trân, Yến Lan, Thế Lữ...Trong sự hủy diệt của thể xác đó, những tinh anh phát tiết bằng thi văn hy vọng vẫn còn mãi ở thế gian và trong yêu thương của mọi người. Ông Võ Phiến đã nhận định: nhà thơ chỉ tồn tại với thơ. Nhưng cũng có những hiện tượng người vẫn sống mà linh hồn họ tưởng chừng như đã chết từ lâu. Điều nhận xét này, ông Nguyễn Hưng Quốc cũng đã viện dẫn đến hàng loạt những nhà thơ tiền chiến đi theo Cộng sản: ”...Những thành phần văn nghệ sĩ này đều là những người chết muộn. Họ thực sự đã chết sớm, rất lâu, với tư cách là một nhà thơ, trước cái chết của thể xác họ, và với tư cách một sinh vật đảng viên hay cán bộ tuyên truyền của nhà nước. Có người chết tức khắc, chóng vánh, ngay khi người ta đòi biến thơ thành “THÉP”.

Những người yêu thơ của một thời trào lưu bừng nở trăm hoa, mỗi sáng tác là một viên ngọc quý trên thi đàn Việt Nam ”...Phần lớn giá trị của những ngọn đỉnh cao nhất của những nhà thơ tiền chiến đều nằm ngoài, bên kia, xa lắc trước cửa nền thơ gọi là “hiện thực xã hội chủ nghĩa...” (Nghĩ Về Thơ của Nguyễn Hưng Quốc).

Chúng ta nên giữ thái độ công bằng để nhìn trên góc cạnh không gian, thời gian, vận chuyển đa hiệu của cao trào thơ cận đại, mới cảm thấy sự ra đi của những tài danh như Vũ Hoàng Chương, Quách Thoại, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Trần Huyền Trân, Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Phùng Quán, Thâm Tâm, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Yến Lan và Thế Lữ...là sự mất mát lớn đối với nền thi ca Việt Nam. Theo quan niệm của chúng tôi, thi ca phải trân quý ở cái thế giới vượt thoát lên cao, ra ngoài mọi chủ nghĩa phi dân tộc, mọi chủ thuyết triệt hủy sự sống và giá trị con người, mọi hố thẳm của thù hận, và mọi đau đớn của ngục tù. Ở cái thế giới thơ mộng an bình thực sự đó, chúng ta sẽ rong chơi trong không khí đẫm mật, đầy yêu thương của mùa xuân vi diệu tuyệt vời mà Thế Lữ vẽ nên:

...Ánh xuân lướt cỏ, xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn
Tiên Nga xõa tóc bên nguồn
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu
Mây hồng ngừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi
Trời cao, xanh ngắt ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người Tiên Nga
Khi cao, vút tận mây mờ
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không
Thiên Thai thoảng gió mơ màng
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa mây...

(Tiếng Sáo Thiên Thai)

Cho đến bây giờ, không ai có thể chối bỏ một trong những thành viên có công lao khai mở phong trào thơ mới ở thời tiền chiến của Thế Lữ, giai đoạn 1930-1945. Ông được xem như là một chiến sĩ biệt kích tiên phong nhưng rất khiêm nhượng thi triển tài năng để phá vỡ thành trì thơ cổ và những tư tưởng phong kiến lạc hậu, nhằm cải cách xã hội theo quan niệm mới mẻ:

...Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối
Hoa chăm, cỏ sén, lối phẳng cây trồng
Giải nước đen giả suối, chẳng thông giòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u...

(Nhớ Rừng)

Trong mỗi đời sống đầy nhiệt huyết của thanh niên, dọc ngang cung kiếm oai hùng ”...Xuống Đông đông tĩnh, lên Đoài đoài tan...” như những tráng sĩ trên mình ngựa rong ruổi khắp cùng non cao hải tận, oanh liệt ngang tàng...Thời cuộc đổi thay, cho đến một hôm nào đó khi gió rừng phong chớm lạnh. Tráng sĩ cảm thấy se lòng vì nhớ nhung, dừng ngựa lưng đèo, soi mình trong giòng suối vắng, mới khám phá tóc mình đã tuyết pha, tấm áo giang hồ đã tơi tả trong thời gian xông pha nơi gió bụi: “Thì ra tuổi đã ngất ngưỡng ở cửa tri thiên mệnh...” người chiến sĩ già quạnh quẽ đi vào cõi thầm lặng của thế gian, diện bích mà tiếc nuối tuổi đời qua mau, nhưng mộng vẫn chưa thành, hai bàn tay trắng bắt những bóng mây trời ảo vọng:

...Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Tay say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?...

(Nhớ Rừng)

Người về trong cõi quạnh hiu, hồn xác rã rời chuyện nhân thế, đã nghe chừng quên lãng những cảnh náo nhiệt, ngựa xe cờ xí một thuở vàng son:

...Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...

(Huyện Thanh Quan)
...Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.

(Xích Bích Hoài Cổ - Đỗ Mục)
Kích gãy bờ sông vùi dưới cát
Biết đến triều xưa khi rửa xong
Gió đông tan mộng Chu Công Cẩn
Hai Kiều Đồng Tước khóa thanh xuân

Cát bờ sâu - kích giáo chìm

Rửa ra mới hiểu căn nguyên tiền triều
Chu Lang, gió chẳng thuận chiều
Nên Đồng Tước khóa hai Kiều tuổi xuân

(Nhớ Xưa Trận Xích Bích - Ái Cầm)

...Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt - chiều tê cúi đầu...

(Huy Cận)
Không là tráng sĩ phiêu hốt, trận tiền lưu danh trong sử sách, chỉ là một người bình thường vương vấn chút mơ thôi, và một tâm hồn bé nhỏ của người nghệ sĩ mang “Cây Đàn Muôn Điệu” xuôi ngược trần gian để cho nhân thế bớt ưu sầu.


...Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly Tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca...

Người nghệ sĩ đi đến đâu đều được mọi người đón tiếp nồng nhiệt đến đó, vì ông không mang đến chủ nghĩa vô thần này, lý thuyết vong bản khác, ông chỉ đôn hậu mang đến vẻ đẹp cao siêu, hùng tráng của non nước, của thi văn, tư tưởng, dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân...ông mang đến tình yêu cho mọi người, có thể vì đồng điệu trong cõi thơ trần thế, nên chúng tôi nghĩ về Thế Lữ bằng tâm lượng hồn nhiên sông biển:


...Cơn gió nhẹ lướt qua làn sóng
Nắng chiều xuân rung động trên cành
Mấy hàng lau yếu nghiêng mình
Cô em bỗng ngẩn ngơ tình vì đâu?

(Hồ Xuân Và Thiếu Nữ)
...Hôm qua đi hái mấy vần thơ
Ở mãi vườn tiên gần Lạc Hồ
Cảnh tĩnh, trong hoa chim mách lẻo
Gió đào mơn trớn liễu buông tơ...

...Anh đi đường anh, tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
Đã quyết không mong sum họp mãi,
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
Non nước đương chờ gót lãng du,
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi,
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?
Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông thu vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây...

(Giây Phút Chạnh Lòng)
Ngoài cái mơ ước cải hóa xã hội, Thế Lữ còn đưa hồn thơ vào cõi mê cung thoát khỏi trần thế. Ông đi tìm thế giới không có thực. Cái thế giới hư vô đã có lần ông Phạm Công Thiện thường nhắc nhở tới. Có thể người đời cho ông là viễn mơ, không thực tế, nhất là những người yêu thơ lác đác như “Lá vàng rơi trên giấy. Ngoài giời mưa bụi bay” (Vũ Đình Liên) ở hải ngoại, bây giờ, trong khi mọi người Việt lưu vong phải chạy đuổi theo đời sống như những toa tàu không biết mệt, thì thơ ông rất ư càng xa lạ. Tuy nhiên vẫn được xem như viên đá quý trong tâm thức những người yêu thơ của những thế hệ đang bước vào tuổi già:

...Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền
Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Cao như thông vút, buồn như liễu
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên...

...Lời oanh trên liễu, yến bên hồng
Hạc ở trong không, phụng dưới tùng
Bỗng chốc cùng nhau cao tiếng họa
Đờn tiên rộn rã khắp tiên cung...

(Vẻ Đẹp Thoáng Qua)

Thế Lữ, một nhà thơ đầy nhân tính và khai phóng lẫm liệt đến như thế, nhưng đến khi bị cuốn hút vào cơn bão lửa của thời đại sau 1945-1954 thì chính ông đã dứt khoát lên tiếng “vô thừa nhận” những đứa con tinh thần lừng lẫy nhất trong giòng Văn Học Dân Tộc Việt Nam.

Ông đã mất tại Saigon cuối năm 1988. Thành phố mà trước 1975 đã có rất nhiều người yêu thơ ông và mang đến khắp tận chân trời viễn xứ.

Tất cả như chiếc lá vàng úa, bay vèo trên thảm cỏ xanh, hay tan rữa trong mặt hồ tĩnh lặng. Có còn chăng trong lòng nhau là những giây phút giao động khi nhắc đến những bài thơ của ông một thời vang bóng:

...Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn...
Tiên Nga tóc xõa bên nguồn
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu
Mây hồng ngừng lại sau đèo
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi...

Thái Tú Hạp
quaichao
Posts: 1182
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »


Image

CHỮ "BA" TRONG VĂN MINH MIỆT VƯỜN
Thiệt tình mà nói, cái chữ văn minh nó bao quát lắm. Cô nào mà bị ba cái bà má chồng, hay má ruột khen là” lóng rầy mầy văn minh quá rồi nha” thì đừng có tưởng là được khen. Mà nếu nói là bị trách thì cũng chưa hẳn đúng vì có nhiều khi cô này văn minh thiệt thì sao. Ba cái bà má quê đâu có học hành đỗ đạt gì cao nên có thiếu văn minh như mấy cô cậu trên thành trên tỉnh về thì có khen ai văn minh quá, nhiều khi lại là khen thiệt. Khen hay chê nó còn tùy thuộc vào cái giọng điệu lên xuống nữa. Bả mà nhấn mạnh rồi kéo dài ở chữ "Quá" là chết rồi.

Mà văn minh là gì ? Thôi để ý làm chi ba cái chữ rắc rối đó, nó ngoài tầm để tâm của người dân thường rồi. Nói ba lơn chơi thì được chứ bầy đặt nói văn hoa chậu kiểng thì bị người ta phê bình rồi nếu có cãi cọ qua lại thì biết đâu lại bị đá cho lọi giò hay gẫy ba sườn. Gẫy ba sườn là gẫy ba cái sườn hay là ba sườn bị gẫy, mà tại sao sườn người ta lại bị gọi là ba sườn. Khó hiểu quá.

Nói vậy chứ ăn nói ba lơn, ba chớp ba nhoáng còn đỡ hại hơn là ăn nói ba xạo. Đi tìm hiểu chữ ba trong nền văn minh miệt vườn mà cứ ba hoa, xạo tới xạo lui thì thiên hạ ai mà tin rồi đọc tiếp nữa. Xạo riết nhưng cứ tiếp tục thì đúng là đồ ba gai , ba trợn rồi, hay vì xỉn xỉn ba xị rượu đế nên coi trời bằng vung, nói tới nói lui người ta cũng không biết mình nói gì, lúc thì nói này lúc thì nói nọ, đúng là cái thứ ba phải.

Đúng ổ rồi! Bây giờ người ta biết chữ ba từ đâu ra rồi! Thứ nhứt là Đúng, thứ hai là Sai, còn không sai không đúng, làng nhàng thì chắc chắn phải là thứ Ba cho nên người ta mới nói người không có lập trường đàng hoàng là đồ ba phải.

Có lẽ vậy chăng vì người mình hay gọi mấy chú chệt trong khu xóm là mấy anh ba tầu. Mà mấy anh này thì dễ tính lắm, buôn bán dễ chịu số một, ai có than vãn gì cũng “ngộ biêt, ngộ biết”, ai có phê bình đúng sai, ngon dở gì cũng “nị nói đúng rồi”. Nếu sai cũng là đúng và đúng cũng là đúng mặc dù sai không phải là đúng mà chú chệt này đều dạ dạ thì không phải ba phải thì là gì cho nên gọi chú chệt là ba tầu thì có gì là phản lại ba cái nhận định này đâu. Không đồng ý hả ? không đồng ý thì ra ba tòa quan lớn mà kiện. Ba búa, ba đá thiệt.

Nhưng không được rồi! Vậy chữ ba trong ba chớp ba nhoáng từ đâu mà ra, nó là những con số chứ không có liên quan gì dến đúng sai. Cũng kỳ, thịt ba rọi, ba chỉ thì người ta đếm được ba cái lằn thịt mỡ hay thịt nạc rõ ràng, còn chớp và nhoáng thì đâu có dừng lại ở ba cái đâu mà người ta lại nói là ba này ba nọ, sao không nói là năm chớp sáu nhoáng cho nó nhiều nhiều.

Nói đến số nhiều,người mình cũng tiếu lâm thiệt! Cái gì mà sợ đến nỗi phải dùng tới ba chân bốn cẳng để chạy. Chạy như vậy nhanh hơn hay sao, rồi đào đâu ra cái chân thứ ba, thứ tư để ráp vô mà chạy. Ba xạo vừa vừa thôi chứ. Chạy ba chân chắc chỉ nhanh bằng xe ba gác hay con ba ba là cùng. Lỡ sạo rồi, dân mình còn gồng mình nói rằng con người ta có ba hồn chín vía nữa mới là khó chứng minh cho rõ chín cái vía để khoe ông bà.

Nói cho cùng, có một chữ ba mà khó giải thích mặc dù nói đến hàng ngày đó là chiếc áo bà ba. Chắc không phải là ba tà đâu, trước hai sau một, nhưng có lẽ vì nhiều anh ba có tới ba bà nên tới bà thứ ba thì hết khả năng may áo dài cho bả rồi nên để mặc đại áo cánh để làm việc cho gọn.

Người ta nghiệm ra một điều tình cờ nhưng đắc ý, đó là chữ anh ba. Chữ anh ba khi dùng nó có điềm chỉ cái gì tình cảm, khác hẳn chữ anh hai có vẻ quyền uy lý trí và anh tám thì lại là người nói dai nói nhiều. Bởi vậy người ta mới có bài ca có câu cậu ba (không phải cậu tư, cậu năm đâu nha) và chị hai, hai chị em ở nhà quê có mái tóc bạc trắng như nhau. Rồi chị hai ngồi nhổ ba cái sợi tóc sâu cho em, nghe mủi lòng người bôn ba hải ngoại. Nghe tình cảm quá, nước mắt dầm dề. Nữa! cái chữ ba ở chữ bôn ba mới độc. Có phải "ba" là sóng, là ra khơi như những con thuyền vượt sóng gọi là ba đào để rời xứ mà lang thang đất khách quê người không, rồi lê cái thân ba chìm bẩy nổi cho đến ngày tàn, chôn thân dưới ba tấc đất không. Chôn mà sâu có ba tấc đất thì là chôn nông rồi, tội cho anh ba quá. Mà đợi chi đến ngày tàn, lúc bệnh hoạn đau yếu rồi mới bôn ba. Nên đi chữa ngay thầy Ba cầu Bông hay ghé chị Ba Hàng Sanh nghe chỉ dậy chửi lúc đau bịnh thì kéo dài thêm cuộc sống. Nói đến ba đào, người ta lại nghĩ đến thơ tầu có chữ yên ba, rồi phong ba (bão táp). Mà thôi, đang nói về văn minh người mình, nên quên mấy cái chữ nửa nạc nửa mỡ đó đi.

Trở về chữ ba chìm bẩy nổi, người mình chắc không giỏi về khoa học, nên nói lộn, chắc phải là ba nổi bẩy chìm mới đúng sách vở chớ. Tưởng tượng người ta có ba khúc, xuống nước mà nổi tới hai khúc từ đầu gối trở lên thì giống Tề Thiên Đại Thánh đang đi trên nước quá vì nếu không phải là ổng mà là người thường thì hai phần nổi nặng hơn một phần chìm, té liền.

Nói về người mà còn lộn như vậy, nói về thức ăn còn lạ hơn nữa. Hình như người mình dùng chữ ba cho nó dễ đọc, chứ không có chủ ý tả hình tả cảnh gì hết. Thí dụ như cái con giống con còng mà ta hay làm mắm mặn ăn với cơm nguội hay cơm nóng là con Ba Khía. Đố ai mà tìm được ba cái khía ở con còng giống con cua này.

Nói cho ngay, chắc người mình dùng chữ cho vần hay theo thói quen nói dễ dãi thôi, chứ cái gì cũng chắc đúng, ba bó một giạ thì hết cái bóng bẩy của ngôn ngữ rồi. Còn tình cảm cũng vậy, nếu hết thẩy các câu chuyện tình mà lúc nào người nào cũng ba mặt một lòng thì đâu có người phải buồn rầu ba cái chuyện yêu đương rồi ghen bóng ghen gió, buồn tới buồn lui, rồi làm thơ đăng trên ba cái báo lá cải như ..cho bà con đọc.

Cái câu ba mặt một lòng này, đọc qua thì không thấy có gì nhưng nếu nghĩ kỹ thì nó mang nhiều cái ý nghĩa của văn minh miệt vườn thiệt.

Qua mấy đoạn trên ai dám nói người miền Nam giản dị hơn hay không sâu sắc như người … ngoại quốc (!!!, ai vậy). Nói thế là chưa được dịp biết đến cái cửa ngõ của văn minh miệt vườn qua cái chữ Ba đáng yêu. Người nào mà giải thích được tại sao chữ Ba lại được dùng một cách nhiều dạng nhiều nghĩa thay vì chữ hai, tư, năm hay sáu..., hay tại sao được dùng, hay đôi khi chỉ là chữ đệm -trong ngôn ngữ miệt vườn, thì người đó đúng là dân văn minh thứ thiệt, tóc chắc chắn phải là để dài búi tó rồi. Tui xin ngả nón chào.

Ký tên
TSL/SBL
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »


Image

Tình Già
( Chuyện ngắn có thật )

Bây giờ là gần bảy giờ tối, tiếng mõ vang đều cùng tiếng tụng kinh của bà Hiền như một nhịp điệu ăn khớp, hòa hợp với nhau. Đó là tiếng động quen thuộc xảy ra trong ngôi nhà vắng lặng và buồn tẻ của vợ chồng bà suốt gần mười năm nay. Sau một cơn stroke nặng, cách đây mấy tháng, kết quả đã để lại cho bà Hiền mắt trái nhìn một thành hai. Và nó đã được che bởi một miếng vải đen, làm bà luôn có cảm giác buồn phiền, mặc cảm vì chỉ có một mắt để nhìn đời.

Đêm nay mưa nhiều, ngồi trong nhà mà nghe tiếng gió rít lên từng hồi, hạt mưa rơi nhanh và mạnh trên mái nhà. Cây cối lao xao, chao đảo, có cảm giác tất cả sắp đổ theo chiều gió. Bà Hiền chậm chạp ra cửa sổ để kéo màn cửa xuống. Dạo này trời vào thu nên mau tối quá, đúng là “tháng mười chưa cười đã tối”. Lẩm bẩm như vậy rồi bà vào bếp lấy 1 ly nước lạnh uống. Uống gần hết ly, như chợt nhớ ra điều gì bà vội để ly xuống, cầm phone lên gọi:
Yến hở? Mẹ đây, cuối tuần nay con có đem bé An về chơi với mẹ không? Nhưng chủ nhật thì mẹ phải lên chùa sớm con ạ. Tuần này có thày về giảng và mẹ có tu bát quan trai, nên sáng chủ nhật con đón cháu về sớm nhá.
Hai mẹ con nói chuyện một hồi, gác phone, bà lại lặng lẽ sửa soạn đi ngủ. Yến là cô con gái út, gần bà nhất vừa về tình cảm lẫn khoảng cách. Yến rất thương Mẹ, việc lớn nhỏ gì hai mẹ con cũng tâm sự với nhau. Bao lần phải đổi việc làm, nàng cũng tìm cách ở lại gần mẹ, không như người anh lớn: vì công việc đã dọn đi Washington DC, một nơi nhộn nhịp, bon chen của những người mang nhiều hoài bão trong cuộc sống. Chỉ có nàng vừa thương mẹ, vừa tính an phận, nên cảm thấy sống trong một thành phố nhỏ của Oregon cũng có nhiều thú vị lắm. Hơn nữa, nàng muốn bé An có được tình yêu thương của Ông bà ngoại như nàng ngày xưa vậy.

Hôm nay, vậy là ông Hoà đã về VN được mười ngày rồi. Hôm đến nơi, ông có gọi phone báo tin ông đến nơi bình an để bà khỏi lo lắng. Ba ngày sau, ông cũng gọi về kể một vài chuyện bên VN cho bà biết và rồi cho đến hôm nay là ngày thứ mười, mà chưa thấy ông gọi lại. Chắc là được lũ cháu đưa đi chơi nên không tiện gọi lại cho bà? Nghĩ vậy, bà lên giường đi ngủ mà không hề bận tâm.

***
Rồi đến ngày trở về của ông Hoà, sau ba tuần lễ đi chơi VN. Đón ông ở phi trường, bà thấy ông hình như gày và đen hơn thì phải? Ai đi VN cũng như vậy, không biết là tại khí hậu hay vì đi chơi nhiều quá mà như vậy? Bà hỏi ông nhiều nhưng ông chỉ trả lời lấy lệ, bà cũng chẳng thắc mắc vì nghĩ đường xa ông còn mệt.

Mấy ngày sau, như đã khoẻ lại, một hôm ông ngập ngừng nhiều lần, rồi như thu hết can đảm, ông nói với bà như sau:
Bà à, vợ chồng mình ăn ở với nhau đã được hơn 40 năm rồi nhỉ? Tôi đối với bà như thế nào, thì bà rõ hơn ai hết. Bây giờ, bên Việt Nam có một con bé, cháu nội ông bà Thành, bà biết đấy! Năm nay nó hai mươi sáu tuổi. Nó năn nỉ tôi giúp nó qua Mỹ theo diện phu –thê. Thật là chuyện ...…làm sao ấy….. phải không bà?
Bà Hiền có cảm giác không ổn, bèn cắt ngang lời ông:
Ông cũng biết là…..”làm sao ấy….”, thì có gì phải nói đến? Thế ông trả lời sao với nó? Mục đích ông muốn nói gì thì cứ nói ra đi. Tôi sẵn sàng nghe ông đây.
Ông Hoà tiếp:
Nó nói: nếu được qua Mỹ nó sẽ ở riêng, không phiền vợ chồng mình đâu, chỉ trên giấy tờ một thời gian thôi bà ạ. Nó năn nỉ vợ chồng mình ….làm phước, nó sẽ mang ơn suốt đời. Tôi nghĩ bà ăn chay, niệm Phật bao nhiêu năm, thôi thì….. làm phước cho nó, bà……thấy sao?

Ở với nhau 43 năm rồi, ông Hoà thật sự là người chồng tốt, bà rất yêu quí và tin tưởng. Tính ông trầm lặng, ít nói, biết lắng nghe, sử xự đúng mực, nên được mọi người yêu mến và quí trọng. Không nói ra, nhưng bà vẫn thường hãnh diện về điều đó, ít ra hạnh phúc của bà đã được vuông tròn suốt từng đó năm chung sống. Vậy mà giờ đây , ông 71 tuổi, bà 68 tuổi, mới đi chơi ViệtNam về lần đầu mà hai ông bà đã phải đối diện với vấn đề ly dị, chia tay. Niềm đau xót cho tình nghiã vợ chồng, một thoáng như không còn ý nghĩa nào. Bà chết lặng trong giây lát rồi nói:
- Ông cho tôi vài ngày suy nghĩ
Nói rồi bà vào phòng, đóng cửa, nằm im trên giường để suy nghĩ. Nhưng nào biết phải nghĩ gì bây giờ? Chỉ biết lòng quặn đau và nước mắt cứ trào dâng ướt gối. Bà cố nén tiếng khóc và tiếng nấc nghẹn, nhưng hình như càng muốn che dấu thì nó lại càng muốn bộc phát. Nỗi tủi thân và niềm tự ái bị va chạm. Dù sao bây giờ bà vẫn chỉ là một người chưa bỏ được hoàn toàn những phiền lụy của cuộc sống. Những hỉ, nộ, ái, ố vẫn chưa hoàn toàn rũ sạch, thì làm sao bà không cảm thấy đau đớn cho được?

Nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng qua những năm tháng chung sống, với từng đó đứa con, đứa cháu, bà vừa đau xót cho mình, vừa ngán ngẩm cho tình người bội bạc. Sao ông lại có thể quên đi những ngày bà cực khổ: quên cả bản thân mình để lo cho các con và nuôi ông trong ngục tù cộng sản hơn mười năm? Qua Mỹ, may mắn vào mùa hè, nên những ngày đầu bà đã theo chân mấy người Việt trong chung cư đi hái dâu từ bốn giờ sáng cho đến một giờ trưa thì xong. Việc này thường dành cho học sinh làm hè, bọn nhỏ vừa làm vừa nói chuyện, đùa giỡn, như đi picnic ngoài trời vậy. Còn người Việt mình thì đua nhau đi làm rất chăm chỉ. Bà nhớ có hôm bà không ăn trưa, chỉ ngừng để uống nước và cứ làm mãi cho đến lúc về.

Bao nhiêu tâm huyết lo cho chồng con đã làm người bà cằn cỗi, già nua hơn số tuổi. Bây giờ con cái đã lớn, bà chỉ còn chăm sóc cho ông và tìm vui trong câu kinh kệ. Mãi nghĩ từ chuyện này sang chuyện kia ….bà đã chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay…..

RING…RING…
Tiếng phone không biết ai gọi, nhưng đã đánh thức bà Hiền. Mệt mỏi, nhấc phone lên mà không cần nhìn caller ID, giọng uể oải bà nói:
-A lô, tôi: Hiền đây!
Đầu dây bên kia có tiếng:
- Mẹ ơi, con: Yến đây! Sao hôm nay mẹ dạy trễ vậy? Mẹ có bị cảm không mà giọng mẹ khàn vậy? Đưa bé An đi học xong, con ghé Saigon market, con có mua cho bố mẹ bánh cuốn, còn nóng và ngon lắm. Con về mẹ liền bây giờ nhé. Con gặp mẹ sau. Bye mẹ!

Gác phone, nhìn đồng hồ, bà thầm nhủ:
Ờ nhỉ, bây giờ đã hơn chín giờ rồi à? Và tự hỏi: “Không hiểu hôm qua mình đã ngủ được lúc mấy giờ? “
Ra đến bếp, thấy ông Hoà ngồi chăm chú đọc báo, bà cố giữ giọng bình thản và nói:
Ông đã ăn gì chưa? Yến nó nói sẽ đem bánh cuốn về đấy.
Ông Hoà trả lời:
Tôi dạy sớm, đã ăn đỡ miếng bánh mì nướng rồi. Bà không khoẻ thì cứ nghỉ ngơi đi. Tôi chạy ra chợ mua mấy tờ báo Việt Nam về đọc. Hai mẹ con cứ ăn trước đi, không phải đợi tôi đâu.
Nói rồi ông ra xe đi, khoảng mười lăm phút sau thì Yến đến. Lăng xăng nói chuyện vớ vẩn một hồi với mẹ, Yến mới để ý: hình như hôm nay mẹ không tập trung trong những câu chuyện nàng nói? Một lúc, bà Hiền kể câu chuyện mà ông Hoà đã nói với bà hôm qua. Nghe xong, Yến nói:
Con biết mẹ thương bố lắm. Thế mẹ đã có giải pháp nào chưa? Tụi con lúc nào cũng support mẹ hết.
Bà Hiền nói:
Mày biết đấy, đến tuổi này mẹ còn mong ước gì hơn? Cả cuộc đời chỉ biết sống cho Bố và chúng mày…
Nói đến đây, không cầm được sự xúc động, bà nấc lên, rồi gục đầu lên thành ghế sofa mà khóc nức nở. Yến phải ôm, xoa lưng bà, nàng cố an ủi, vỗ về mẹ với giọng thật nghẹn ngào:
- Mẹ ơi, con biết mẹ buồn lắm. Mẹ có muốn con ngăn bố đừng làm chuyện này hay không?
Bà Hiền từ từ ngước lên, mặt đầy nước mắt nói:
-Đừng ngăn ông ấy con ạ. Mẹ đã nghĩ suốt đêm qua rồi. Một khi ông ấy thốt lên được những lời ấy với mẹ tức là người ta đã quên hết tình nghĩa. Vậy thì còn gì để ràng buộc nhau? Nếu có tiếp tục sống với nhau thì cũng chỉ là những ngày chịu đựng mà thôi. Mày nghĩ có phải thế không hở Yến?
Yến thật sự không biết phải trả lời mẹ như thế nào. Nàng nói:
-Nếu Mẹ đã định như vậy thì mình cứ cho là….…làm phước như bố nói đi mẹ. Bố năm nay cũng hơn bảy mươi tuổi rồi, đâu có….làm ăn gì nữa hở mẹ? Con biết bố thương mẹ lắm, chắc bố cũng chỉ muốn ….làm phước thôi. Mình cứ nghĩ như vậy cho tâm hồn đựơc thảnh thơi, phải không mẹ?
-Ừ thì có làm được gì hơn đâu con? Mày lo thủ tục bán nhà này cho Mẹ đi. Mẹ nghe nói ly dị là phải chia đôi hết hở con?
Nghe bà đòi bán nhà, Yến mới thật sự thấy mọi chuyện như không còn cứu vãn. Dù rằng cô gái kia nói sẽ ở riêng, không phiền đến bố mẹ, nhưng sao cảm giác gia đình tan vỡ đang lớn mạnh trong nàng…

***
Ông Hòa cầm trên tay cái check hơn bảy mươi ngàn đô la, là số tiền bà Hiền đã xin văn phòng escrow chia đôi và đưa thẳng cho ông sau khi bán căn nhà. Cả đời ông chưa bao giờ nghĩ sẽ có số tiền lớn đến như vậy. Bao nhiêu năm trước, vợ chồng con cái gom góp tất cả tiền bạc để mua căn nhà cũ này, tưởng rằng sẽ sống chết với nó, nhưng đâu ngờ có ngày phải rời xa nó sớm như hôm nay? Một chút luyến lưu…. nhưng thôi, ông không muốn nghĩ gì hơn, chỉ còn hơn ba tháng nữa là đến ngày “nàng” qua với ông rồi……

***
Dạo này ông Hòa bận nhưng vui vẻ hẳn lên. Này nhé, ông suốt ngày phải đi mua sắm, nào là quần áo, giày dép mới, nào là khăn trải giường, khăn bông tắm mới, nước hoa vài lọ thật đắt tiền cho ông và cả cho “nàng” nữa. Thôi thì …đủ thứ phải mua. Hôm qua ông mới gửi về cho Hồng năm ngàn đồng. Thế là tổng cộng ông gửi cho nàng cũng gần hai mươi lăm ngàn rồi còn gì. Ông không thể từ chối mỗi khi nghe lời nói ngọt ngào của Hồng qua phone: “Anh gửi về cho em năm ngàn đi, để em thanh toán những chuyện lặt vặt trước khi em qua với anh, anh nhé!” Lời nói nhỏ nhẹ, dịu dàng của Hồng luôn ám ảnh trong đầu óc, làm ông cảm thấy cuộc đời thật hạnh phúc, đãi ngộ ông quá khi tuổi đã về chiều.

Từ ngày ly dị bà Hiền, ông và Hồng đã đổi cách xưng hô với nhau. Bây giờ hai tiếng “Anh, Em” ngọt ngào làm cho ông như sống lại tuổi thanh niên, khi mới yêu lần đầu. Tốn bao nhiêu tiền đi đi về về giữa Mỹ & Việt Nam. Tiền cho Hồng & gia đình nàng, tiền sắm sửa tổ ấm…ông đều không tiếc, vì nghĩ sau khi mọi chuyện được ổn định rồi thì đâu cũng vào đấy. Ông sẽ có một mái ấm, một hạnh phúc tuyệt vời với người vợ trẻ…
***
Hôm nay là ngày ông Hoà ra phi trường đón Hồng từ Việt Nam sang. Hồng đến phi trường Los Angeles, California của hãng China airlines vào khoảng năm giờ chiều, chờ gần bốn tiếng thì lên máy bay đi đến phi trường Portland, Oregon. Thể là ông sắp được gặp “người vợ bé bỏng” của mình khoảng hơn mười một giờ tối hôm nay. Tuy chờ đợi hơi khuya, nhưng nghĩ miên man đến hạnh phúc sắp được hưởng, thời gian chờ đợi như ngừng lại đối với ông…..
Ông Hoà thấy sốt ruột lắm, bây giờ đã gần mười hai giờ đêm mà sao vẫn chưa thấy bóng dáng Hồng đi ra? Rõ ràng chuyến bay của Hồng đã arrived như trên computer đã báo mà. Chờ thêm mười phút nữa, vẫn không thấy Hồng, ông Hòa bèn ra quày vé hỏi thăm thì được biết không có ai tên Hồng trên chuyến bay đó. Thật ngỡ ngàng, ông lôi tờ giấy đã ghi chi tiết về chuyến bay rời Việt Nam của Hồng ra xem, rồi nhờ người ở quày vé hỏi thăm dùm. Một lúc sau, cô nhân viên hãng máy bay cho biết: Hồng thật sự có rời Việt Nam trên chuyến bay của hãng hàng không China và đến phi trường Los Angeles đúng giờ , nhưng họ không có boarding pass của Hồng trên chuyến phi cơ của hãng Alaska đến Portland. Thế này là thế nào nhỉ? Ông Hòa thật sự là không thể hiểu được. Hai ngày trước, Hồng còn nói qua phone với ông: “ Anh nhớ đón em đúng giờ nhé!” Vậy mà…..thật là bực mình! Ông Hoà lẩm bẩm như vậy. Thôi thì về nhà, rồi gọi về ViệtNam xem có tin tức gì không ?

Vừa quay số phone, ông Hoà vừa bực mình, vừa lo lắng…Có chuyện gì thì cũng phải gọi phone cho ông chứ. Ông đã dặn đi, dặn lại nàng cách gọi phone cho ông rồi kia mà. Bên kia đầu dây, tiếng Mẹ của Hồng, sau khi nghe ông xưng tên, bà nói:
-Hồng nó qua đó với ông rồi mà. Tôi chưa nghe nó gọi về. Có tin gì thì ông báo cho tôi biết nhé!
Nghe giọng bà Thành cũng có vẻ hốt hoảng lắm. Thôi thì đành chờ Hồng liên lạc chứ còn biết làm gì hơn? Chẳng lẽ ông đi khai Hồng mất tích khi chưa đầy 24 giờ?

***
Ba ngày trôi qua như ba thế kỷ đối với ông Hoà. Nỗi lo lắng đã trở thành tức giận. Ông không buồn ra khỏi nhà, ngay cả việc ăn uống ông cũng không màng. Nhìn cái phone, chờ đợi tiếng reo của nó, rồi nhìn những thứ ông mua sắm cho Hồng, bất giác ông thở dài và thốt: “Mình phải làm gì bây giờ?”…Thời gian cứ thế trôi đi…ông Hoà sống với sự thất vọng lớn dần. Ông nhất quyết vì tự ái không hỏi thăm tin tức về Hồng nữa, dù rằng ông rất nhớ đến tiếng nói nhẹ nhàng , ngọt ngào của nàng…Trong lúc không còn hy vọng gì thì tiếng phone reng , bên kia đầu giây, giọng Hồng vui vẻ nói:

-Thưa ông, em rất cám ơn ông đã giúp em qua được bên đây. Trước đây, em đã nói nếu qua được Mỹ em sẽ ở riêng và không phiền đến Ông Bà. Hôm em đến phi trường ở Los Angeles thì người bạn trai ngày xưa của em đã đón em về nhà anh ấy. Em biết ông đợi em, nhưng vì mới đến, em còn chưa quen nhiều việc, nên hôm nay em mới gọi cho ông được.

Chỉ mới nghe như vậy, lòng ông Hoà đã như tan nát. Đầu giây bên kia, Hồng vẫn tiếp tục nói, nhưng ông Hoà đã cúp phone, không còn muốn nghe nữa. Ông thật sự không còn kìm hãm được sự tức giận và tất cả những vật trên bàn ăn đã trở thành “nạn nhân”, bị văng tung toé trên sàn nhà…..

***
Suốt mấy tháng qua, ông Hoà sống mà như đã chết, nhìn ông thật tiều tụy. Nghĩ đến Hồng, nghĩ đến bà Hiền, ông cảm thấy buồn và hối hận vô tả. Cầm phone gọi cho Yến, sau vài câu thăm hỏi con và cháu, ông ngập ngừng nói:
-Yến à, lần này con cố gắng xin Mẹ cho Bố gặp mặt được không?

Từ ngày chính thức ly dị, cầm số tiền đã chia đôi với ông Hoà, bà Hiền đã cúng hết vào chùa. Ngôi chùa nhỏ này thỉnh thoảng mới có thày hay sư cô ở xa về giảng, còn bình thường thì ban quản trị của chùa cũng cần có người ở lại để chăm sóc vườn tược, thắp cây nến, nén nhang trên bàn thờ Phật…… Bà Hiền đã được mọi người vừa tín nhiệm, vừa thông cảm cho hoàn cảnh của bà, nên họ đã bằng lòng để bà ở lại săn sóc ngôi chùa.

Bà Hiền thật sự muốn rũ bỏ chuyện đời, nên dù không còn hờn giận gì ông Hoà, bà cũng quyết định không bao giờ muốn gặp lại hay muốn nghe tin tức gì về ông nữa. Bà chỉ chú tâm tụng kinh, niệm Phật, siêng năng làm việc: từ trong ra đến ngoài chùa, không để phí phạm giờ phút nào. Bà đã thấu hiểu được nguyên nhân gây nên những ràng buộc, những đưa đẩy dẫn con người đến sự nô lệ vật chất và những khổ luỵ tinh thần. Đọc Kinh Pháp Hoa, một bộ Kinh Đại Thừa dạy chúng sinh thức tỉnh, tìm về với tánh Phật sẵn có nơi mỗi con người để tu hành mà giác ngộ. Bà thật sự thấy thế gian này chỉ là một huyển hiện nhất thời, như Đức Phật đã nói: “Giáo Pháp của ta thuần một vị, đó là vị giải thoát “. Và có lẽ tâm hồn bà, giờ đây đang thật sự được giải thoát……….

Phan Tuyết Anh
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

LÀM THINH

Tiểu Tử
Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp ) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là " nhà ông Lê ".

Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi - từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con - vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi - ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người... trong nhà ! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước .v.v .. Họ hay nói với nhau: "Vợ chồng ông Lê thật dễ thương".

Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài ..

Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie - người quản gia - rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.

Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy". Ông Lê giới thiệu:"Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho".

Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói: "Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". Ông Jean Marie hỏi: "Còn bà cụ đâu ? Sao không cùng ra đây với ông cụ ?". Ông Lê trả lời như không trả lời:" Mẹ tôi ở Paris". Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giã người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa ! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con...

Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa-lông hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết ! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc .. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm...

Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già ..

Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước - cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản - ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.

Ông thường nói: "Hồi tôi từ Đà Nẵng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng , tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẵng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vươn lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết ".

Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa: "Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền !"

Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói :"Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng". Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.

Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975 ..

Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói :

- Trời ơi ! Mấy bả đi hết rồi kìa !

Ông cười :

- Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ" đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không ? Tôi bình chân như vại !

Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu - cũng gốc liên khu năm như ông - đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.

Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng lá "bùa" đó không linh ! Ông cũng có nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng. Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để "làm việc". Mỗi lần làm việc, họ quay ông như... con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối cùng , ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới... lộn ngược ! Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc " đổi đời vĩ đại " này, con người đâu còn sống bằng lý trí : con người chỉ sống bằng bản năng thôi !

Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà...

Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói: "Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được !". Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu... Vậy mà bây giờ .. bây giờ... Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì ! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết ! Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa !

Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông... bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dãy nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết ! Yên lặng...

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

- Sao ông ? Họ đòi gì nữa vậy ?
- Họ đâu có đòi. Họ lấy.
- Lấy gì ?
- Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc: - Lấy hết tài sản ?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc: - Gì lạ vậy ? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy ! Rồi ông trả lời làm sao ?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói: - Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao ?

- Bà chỉ kêu lên được một tiếng "Trời" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng ..

Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh :

- Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.
- Còn luật pháp để đâu ?
- Luật pháp của ai ?

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói :

- Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy ?

Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được .. để ông nuốt xuống " cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-lông rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng !

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc :

- Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.
- Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.
- Sao mất hết được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng Z .. toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt :

- Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao ?

Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù :

- Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì ? Phải không ?

Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết ..

Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ .. để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư .. ăn cắp mang đi ! Gã còn nói như ra lịnh :

- Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ ?

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa : ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng !

.. Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ - có ba dãy nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân - và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng .. v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rút" trong nhà của bếp của bồi .. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng !

Thời gian đi qua .. Một hôm bà bỗng nói với ông :

- Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.

Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng " thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng ! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông , ông chỉ là một thứ giây trầu .. Đúng là một sự "đổi đời vĩ đại" !

Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.

.. Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng: " Cha mày !". Rồi tiếp: "Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ !" Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975 ..

Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái gì không ổn", nhưng ông nghĩ :" Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời". Rồi ông kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu :" Cho tụi nó chết!"

Bỗng người con hỏi: - Còn mấy thằng tướng ngụy ?

Câu hỏi đó như một ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn ! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống ! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:

- Mấy người đó thì ba không biết.
- Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun !

Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt ! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.

Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang ! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu ..

Về đến nhà - ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu - ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói :

- Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.

Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê - giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt - không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư ..

Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.

Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng :

- Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà ..

Khi bước qua xa-lông để uống cà phê, ông Lê hỏi :

- Ba má định qua đây ở chơi bao lâu ?

Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời :

- Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.

Người con ngạc nhiên:

- Ủa ? Sao lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý !

Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng : nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt: chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi ..

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh:

- Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao ?

- Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng .. làm con thấy không hãnh diện chút nào hết !

Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi ..

Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt - thật mệt và chán chường - thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách "đầy đủ và trung thực" !

Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò .. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.

Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói :

- Chị bác sĩ A. sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L . Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.

Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang :

- Ba nói thật : ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.

Ông nói "xin con cho ba" , đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con ..

Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư !

Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời !

Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bướu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằn trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này .. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà ! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ như hơi thở ..

Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây - đã gần hai tháng - ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi ..

Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn là bế tắc. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì : trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết ! Giống như cuộc đời của ông bây giờ. Của cải: hết ! Vợ con: hết ! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết ! Hết ! Hết !

Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.

Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn ..

Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn: "A lô ! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn .."

Không biết, khi hay tin, vợ con ông có nhỏ cho ông một giọt nước mắt ?

Tiểu Tử
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Quả Báo

Thùy An
Trong ký ức tuổi thơ tôi, hình ảnh tiệm cầm đồ của bà Sâm thật hoành tráng. Ngôi nhà mặt tiền rộng gấp ba những căn nhà bên cạnh, cửa lá sách màu xám. Một chiếc phản gỗ thật lớn chiếm gần hết diện tích gian trước. Chất liệu gỗ rất tốt, nước gỗ lên màu nâu sáng ngời, ánh lên những kệ tủ gương đặt sát hai bên tường, chất đầy những món đồ người ta đến cầm, phần lớn là quần áo được xếp gọn ghẽ, kèm theo mỗi món là một tờ giấy nhỏ ghi ngày tháng, lãi suất… Dĩ nhiên là đồ quí giá cũng được cầm, nhưng được bà Sâm cất vào chiếc tủ sắt đặt trong phòng riêng.

Bà Sâm là chị ruột bà ngoại “ghẻ” của tôi, nên xem ra, giữa tôi với bà không có chút máu mủ nào. Nhưng lạ một điều là bà rất thương tôi, chắc tại vì tôi là bạn thân với thằng Nho, cháu ngoại của bà, lớn hơn tôi một tuổi. Những buổi chiều không đi học, tôi thường qua nhà bà, cùng thằng Nho ngóng những gánh hàng rong đi ngang, nào là bánh canh Nam Phổ, bánh bèo bánh nậm, giấm nuốt, mít trộn, bánh ướt thịt xáo… đặc biệt là món củ sen nhân đậu xanh, thơm thơm bùi bùi ngon tuyệt. Mỗi lần thấy tôi, bà Sâm thường hỏi: “ Đói bụng chưa?Ưng ăn chi cứ kêu, mệ mua cho.”

Tôi rất thích nhảy nhót trên tấm phản rộng nhà bà Sâm. Đây là nơi hằng ngày bà Sâm ngồi tiếp bạn bè, những bà láng giềng trung niên đồng trang lứa, cũng giàu có, sang trọng, vàng đeo tràn tay, miệng mồm sắc sảo… và đây cũng là nơi tôi ăn no nằm dài hóng chuyện mấy bà. Thôi thì đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, chồng con, dâu rể… rồi nhìn ngắm người qua đường, phê bình thẳng tay, không thèm nghĩ đến cảm nhận của “đối tác”: “Ngó cái con nớ cười tề, miệng rộng đen thui giống như cái lỗ cống.”, “Con gái nhà ai rứa, bận cái áo đầm ngằn ngủn, đúng là đồ mất nết, không ai dạy.” Có lần, một thiếu nữ rất đẹp đi ngang, cô mặc áo đầm hoa có chiếc nơ lớn trước ngực, người bạn bà Sâm la lên: “Trời đất, bộ sợ rớt bụ(*) hay răng mà cột lại rứa? Đồ con gái thúi.” Tôi phản kháng lại: “Mệ nói chi lạ rứa? Cái nơ đẹp bắt chết mà mệ chê chi.” Bà Sâm la tôi: “Con ni hỗn, dám cãi lời người lớn hả. Mai mốt mà mi ăn bận như rứa tao nói me mi đặp chết.”

Bà Sâm chồng mất sớm, ở vậy nuôi hai người con: Cậu Thông và dì Lựu. Từ một tiểu thư khuê các, với ngôi nhà và số vốn khá lớn của chồng để lại, bà bước vào đời không nhọc nhằn lắm, bắt đầu bằng nghề góp hụi, cho vay rồi mở tiệm cầm đồ. Công việc làm ăn ngày càng phát đạt, tiền vô như nước, bà không sắm xe, mua nhà như những người giàu có khác, mà dùng tiền để mua vàng. Dư luận ở Huế xôn xao bà Sâm là người giàu nứt máu, có đến hàng trăm lượng vàng chôn trong nhà. Vì lo làm giàu nên bà chẳng quan tâm đến việc giáo dục con cái. Dì Lựu lấy chồng sớm. Cậu Thông ăn chơi đứng hàng đầu xứ Huế nhưng học hành chẳng đi đến đâu, vậy mà bà Sâm cũng chiều con, đổ cả đống tiền bạc cho cậu ra học tận Hà Nội. Ngày vinh qui bái tổ, thay vì bằng cấp, thì cậu đem về một phụ nữ tuyệt đẹp và tân thời, hát ả đào rất hay. Mặc cho bà Sâm phản đối, hai người vẫn sống chung và cho ra đời đứa cháu đích tôn: anh Minh. Khi tôi vào lớp 1 thì anh Minh đã là một thanh niên ham chơi hơn ham học, mang gène của mẹ nên rất đẹp trai và mang gène của cha nên nổi tiếng hào hoa phong nhã, thay bồ như thay áo. Bắt buộc, bà Sâm phải chấp nhận mợ Thông, nhưng chỉ bằng mặt mà không bằng lòng.

Nói về dì Lựu, năm thằng Nho lên sáu, dì sinh thêm con bé Đào, nào ngờ, khi bé chưa được một năm thì dì bị bạo bệnh từ giã cõi đời, để lại trong lòng dượng Phan một khoảng trống khó nguôi. Dượng Phan gà trống nuôi con thật tội nghiệp, vừa làm mẹ, vừa làm cha. Chiều chiều, sau giờ làm việc, dượng chở thằng Nho và con bé Đào đi hóng mát trên chiếc xe đạp sườn ngang đánh một vòng qua phố, thẳng lên vườn hoa bến Thương Bạc, rồi đi dọc theo bờ sông… một ngày như mọi ngày, nỗi trống trải cô đơn càng trĩu nặng, ai trông thấy cũng mủi lòng.

Dì Lựu mất, cậu Thông đòi mẹ chia gia tài để cậu đưa gia đình vào Nam sinh sống. Ý cậu muốn cho ba cha con dượng Phan một phần, còn bao nhiêu giao hết cho cậu. Bà Sâm nổi điên: “Đừng hòng. Mi phá của tao nhiều quá rồi, chừ đến chết tao cũng không cho mi một xu.” Anh Minh đứng ra vuốt cục giận của bà nội, rồi lên giọng nỉ non: “Mệ ơi, mệ không thương đứa cháu đích tôn của mệ sao. Mệ có cho ba cháu tiền thì cháu mới được học hành tử tế, không lẽ mệ nỡ để cháu đi ăn mày?”Cuối cùng, bà Sâm cũng xì ra một đống tiền để cậu Thông tậu một ngôi biệt thự ở Thủ Đức. Từ đó, cậu rất ít khi về Huế thăm mẹ.
Bà Sâm ghét con trai bao nhiêu thì lại thương con gái và con rể bấy nhiêu. Nên bao nhiêu tình cảm bà dồn hết cho hai đứa cháu ngoại. Được cưng như trứng, hứng như hoa, thằng Nho và con bé Đào sung sướng chẳng khác gì con vua cháu chúa, gọi mưa có mưa, gọi gió có gió. Nhưng chúng nó không có… tự do, nghĩa là trong khi chúng tôi chơi đùa vui vẻ, đủ các trò như nhảy dây, trốn tìm, ô làng, ù mọi… thì hai đứa chỉ được đứng trong nhà nhìn ra hoặc ngồi trên bao lơn nhìn xuống với ánh mắt thèm thuồng. Bà Sâm cấm chúng ra đường chơi vì đủ thứ lý do: sợ chúng bị bệnh vì mưa nắng, bị ho vì bụi bặm, bị trầy xước vì nô đùa, bị chuyện xui xẻo vì xe cộ chạy ngang…

Tuy trong nhà có nhiều người làm, nhưng một tay bà Sâm chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho hai đứa cháu. Điều đáng nói là chúng nó không ăn thịt cá như người bình thường, mà toàn là những món sơn hào hải vị, thật cầu kỳ nhiêu khê. Đáng kể nhất là món yến sào. Yến sào ngày xưa cũng mắc như vàng nhưng không được tinh chế sạch sẽ như bây giờ đâu, mà lẫn lộn rất nhiều lông tơ. Muốn ăn một chén yến, có khi phải mất cả ngày, mờ cả mắt. Tôi còn nhớ rõ, mỗi lần thằng Nho rủ qua nhà chơi, tôi thường chạy xuống bếp, tò mò nhìn 3 chị giúp việc ngồi trên chiếc giường tre, tay cầm nhíp nhặt những chiếc lông tơ nhỏ li ti nổi trên một chén nước, bên dưới là những cọng dài trong suốt như sợi thạch. Sau khi làm sạch sẽ, yến được chưng với đường phèn, ăn trước khi ngủ sẽ được mạnh khỏe, suốt đời không bệnh tật. Đây là món ăn rất bổ dưỡng, chỉ có các đại gia và vua chúa mới đủ tiền mua. Thằng Nho và con bé Đào còn được ăn nhiều món ngon khác mà tôi còn nhớ là bồ câu tần hạt sen, xúp măng tây vi cá, canh tóc tiên nấu sườn… đặc biệt là món phi lê… dê. Bà Sâm thường mua nguyên cả con dê, đem về đút lò, rồi lạng phần nạc lưng, chế biến nhiều món ăn cho hai đứa cháu cưng. Nhưng xem ra, chúng nó quá ngán những món đắt tiền đó, nên mỗi bữa cơm chỉ ăn vài muỗng, thân hình ốm tỏng ốm teo. Trái lại, chúng thích ăn những món dân dã. Có lần qua nhà tôi, gặp bữa rau muống luộc chấm mắm nêm, mẹ tôi mời đưa, không ngờ chúng nó tự nhiên như ruồi, quất say mê mỗi đứa ba chén, no cành hông. Bà Sâm biết chuyện, không bằng lòng, qua nhà mắng vốn mẹ tôi: “Dì nói trước, cháu, cho hai đứa ăn bậy ăn bạ, có chuyện chi thì đừng có trách dì.” Mẹ tôi cười: “Dì yên tâm, rau muống ăn tốt lắm.” Bà Sâm bỉu môi: “Tốt chi mà tốt, lại còn chấm mắm nêm nữa gớm guốc, độc địa quá.” Nói về trái cây, nhà bà Sâm lúc nào cũng đầy đủ cam, nho, lê, táo… gọt sẵn, dâng tận miệng hai đứa cháu ngoại. Nhưng chúng nó không hề đụng tới, lòng luôn mơ về những loại trái cây nhà nghèo như cốc, ổi, đào, sim, bồ quân, trần bì… bà Sâm cấm, nhưng càng cấm, chúng nó càng thèm. Mẹ tôi thấy thương, muốn mua cho chúng ăn nhưng sợ bà Sâm, chỉ góp ý: “Dì ơi, ăn cốc ổi cũng nhiều vitamin lắm, dì cho hai đứa ăn đi dì.” Bà Sâm trợn mắt: “Mi đừng có xổ tiếng tây với tao, ba cái thứ đó ăn đau bụng chết.”

Ai cũng nói bà Sâm bất nhơn thất đức. Nào là cho vay ăn lời cắt cổ, cầm đồ không cho gia hạn, lấn lướt người giàu, bắt chẹt người nghèo, hành hạ người ăn kẻ ở. Tôi còn nhỏ nên không rõ những việc làm sai trái của bà Sâm, nhưng chuyện bà hành hạ người làm thì có. Đúng là kêu trời không thấu, chuyện như đùa! Nhà có bốn, năm cái quạt máy, nhưng mỗi lần trời nóng, thằng Nho và bé Đào ngủ trưa, bà không cho bật quạt, mà bắt mấy người giúp việc thay nhau huơ quạt muốn rã tay, lý do là bà sợ hơi điện làm hại cháu bà! Rồi còn sữa Tây, sữa Mỹ, thuốc bổ xương bổ óc… thi nhau đổ xuống hai tấm thân cành vàng lá ngọc nhưng không nuôi nổi cơ thể, nên càng lúc, chúng càng ốm nhom ốm nhách. Lạ thiệt, không biết lượng dưỡng chất dồi dào từ món ăn thức uống chui vào người chúng rồi chảy về đâu?

Chắc bà Sâm cũng suy nghĩ nhiều lắm. Hay là chúng thiếu tình mẫu tử? Dượng Phan không thể thay thế dì Lựu, còn bà, chỉ là bà ngoại thì tình thương của bà dù bao la cách mấy vẫn không sánh được một vòng tay mẹ hiền chăm sóc yêu thương. Một ánh chớp lóe lên trong đầu bà. Phải tìm mẹ cho chúng thôi. Rồi bà lại giật mình. Mẹ? Nhưng mẹ đây là mẹ kế, liệu cô ta có chịu đối xử tốt với hai đứa cháu bà như người mẹ ruột không? Lỡ gặp phải Tào Thị như trong tích “Phạm Công Cúc Hoa” thì khổ, bà làm sao sống đời để bảo vệ cho chúng được. Đầu óc bà căng ra. À, có cách rồi. Muốn người mẹ kế thương hai đứa con chồng thì trước tiên, người này phải có một chút tình cảm với bà, với dì Lựu khi dì còn sống, và cả với hai đứa trẻ. Bà lập ra một danh sách “ứng cử viên” với lý lịch trích ngang, rồi gạch tên người này, xóa tên người kia, cuối cùng, bốn người lọt vào vòng chung kết, cũng là bốn cô cháu ruột của bà.

Đó là 2 người con của bà ngoại ghẻ tôi: dì Lan, dì Huệ , và 2 người con của ông Thái, em út của bà Sâm: dì Trúc, dì Mai. Xét về nhan sắc, dì Lan nổi bật hơn cả, nhưng bà Sâm thẳng tay đánh rớt vì dì đã có một đời chồng, đang nuôi thằng con trai tên Khôi nghịch như quỉ sứ. Còn lại 3 người, bà Sâm lần lượt đưa lên bàn cân: cả ba đều đã trên dưới ba mươi, không còn cơ hội kén chọn nữa, lấy được dượng Phan, sống trong sự bảo bọc của bà thì còn phước nào hơn? Nghĩ đến đây, bà cảm thấy hài lòng khi có ý định ra tay cứu vớt một trong ba cô cháu gái. Đau đầu quá, biết chọn ai đây. Bà suy nghĩ, cân nhắc. Cuối cùng, bà chọn dì Huệ, vừa đảm đang, hiền lành, lại hiếu thảo, còn hai người cháu gọi bà bằng cô tuy có đẹp hơn dì Huệ một chút nhưng sắc sảo khôn ngoan quá, sợ sau này sẽ không nghe lời bà, làm khổ cháu bà.

Bà chưa có dịp nói cho dượng Phan biết suy nghĩ của bà thì gặp lúc ông chủ hàng gạo Sanh Ký đối diện nhà bà, bán tiệm đưa gia đình trở về Hồng Kông. Bà không ngần ngại bỏ tiền ra mua nguyên 2 căn nhà bề thế cho hai đứa cháu ngoại và để dượng Phan đứng chủ quyền. Bây giờ thì bà hoàn toàn yên tâm xây dựng tổ ấm mới cho cha của hai đứa cháu ngoại thương yêu, hy vọng cô cháu gái bà sẽ đem lại hạnh phúc cho họ.
Nhưng dượng Phan còn chần chừ: “Mạ cho con thời gian suy nghĩ.” “Suy nghĩ chi nữa con, mạ thấy con Huệ được lắm.” “Nhưng con vẫn còn thương nhớ Lựu mạ à.” Câu nói này làm mát lòng bà. Đúng là người có tình có nghĩa, bà đã không chọn lầm chồng cho con gái bà. Ngày ấy, dượng Phan chỉ là một anh học trò nghèo ở quê lên Huế trọ học trong một con hẻm lụp xụp dưới đường Ngự Viên. Dượng vừa đi học vừa làm đủ mọi công việc như bán hàng, kèm trẻ… kiếm tiền trang trải học phí. Trong số trẻ dượng dạy kèm, có thằng con của người bạn làm ăn với bà Sâm, và trong một lần dì Lựu ghé nhà giao hàng, họ đã quen nhau. Ban đầu, bà cương quyết phản đối, chê dượng Phan nhà quê, nghèo hèn, không môn đăng hộ đối… và còn nói nặng hơn là đũa mốc bày đặt chòi mâm son, cóc ghẻ muốn ăn thịt thiên nga hả, đừng hòng. Nhưng dì Lựu nhất định lấy cho được dượng Phan. Dì khóc lóc, van xin mẹ, nhưng bà Sâm vẫn giữ vững lập trường: “Mạ đã nói không là không. Thằng Phan không thương con thiệt lòng mô, hắn muốn đào mỏ đó.” Mặc kệ, dì Lựu quyết sống chết vì tình yêu. Đời dì thiếu dượng Phan chẳng khác gì hoa thiếu nước, trái đất thiếu ánh mặt trời! Dì tuyệt thực, suốt ngày trùm mền nằm thẳng ro. Bà Sâm bỉu môi: “Cho làm nư, giỏi lắm nhịn ăn được vài bữa. Đồ hư, đồ con gái thúi, đồ mê trai.” Ngày thứ nhất trôi qua, ngày thứ nhì, rồi ngày thứ ba, thứ tư… bà Sâm hốt hoảng khi nhìn thấy dì Lưu càng ngày càng xanh xao hốc hác, thân hình lép kẹp, người dán sát xuống giường, hơi thở như làn khói mỏng manh. Đất không chịu trời thì trời đành chịu đất vậy. Sợ dì chết, bà Sâm chịu thua. Một lễ cưới đơn giản cử hành trong vòng bà con thân mật. Dượng Phan mồ côi cha mẹ, lại không có anh chị em. Dì Lựu khỏi về làm dâu, dượng Phan chuyển hành lý từ nhà trọ về ở rể nhà bà Sâm.
Bà Sâm dọn bàn thờ dì Lựu về nhà mới. Bà bảo dượng Phan: “Nhà rộng quá, gia đình con ở một căn cũng đủ, căn kia mạ để con cho thuê lấy tiền nuôi hai đứa nhỏ . Chừ con dọn về đó trước, thằng Nho và bé Đào cứ ở với mạ, khi nào con yên bề gia thất, chúng sẽ về với vợ chồng con.” Nói vậy, chớ ngày nào thằng Nho và bé Đào cũng gặp cha. Buổi sáng, dượng qua đưa chúng đi học, trưa đón về. Tối, dượng qua nhà bà Sâm kèm chúng học, kiểm tra thời khóa biểu, dò bài, làm toán… đúng là một người cha gương mẫu, xứng đáng với sự bảo bọc của bà. Bà thường nhắc nhở: “Tội nghiệp hai đứa, thiếu hơi mẹ thì làm sao lớn nổi. Mạ đã chọn con Huệ, con mau trả lời để mạ chuẩn bị nghe con.” Dượng Phan dạ dạ, nhưng thời gian trôi qua, vẫn không thấy động tĩnh gì. Những bóng hồng bắt đầu lượn lờ trước ngôi nhà khang trang rộng rãi đứng tên dượng Phan, những cô hàng xóm, những đồng nghiệp nữ còn độc thân… với ước mơ được sánh vai cùng dượng Phan đi nốt quãng đường đời. Thời buổi ấy, có được người chồng hiền lành tử tế, ở được trong căn nhà lớn, lại còn có nhà cho thuê, đúng là không mơ thấy nổi. Cho nên, họ tìm mọi cơ hội tiếp cận dượng Phan. Làm như tình cờ, họ ghé nhà thăm hỏi, tặng dượng chút quà nhỏ như cuốn sách, kí cam, hộp bánh… hoặc đem qua gói trà ngon, tự tay pha chế rồi cùng dượng đối ẩm. Đặc biệt, có một người rất “tâm lý”, mỗi lần ghé nhà đều mang một bó cúc trắng dâng lên bàn thờ dì Lựu, rồi lâm râm khấn vái. Đó là dì Liễu, con gái đầu lòng của ông Thái, chị của dì Trúc và dì Mai. Dì là người cháu được bà Sâm yêu thương nhất, tiếc là dì đã có gia đình nên không đáp ứng được điều kiện “kén vợ cho rể” của bà Sâm. Dì Liễu đảm đang, thông minh và biết rất rõ ý đồ của bà cô ruột. Dì cũng biết 2 cô em gái mình vào được top 3 nhưng cuối cùng không được chọn. Dì quyết tâm lấy lại vị trí “Phan phu nhân” cho dì Trúc hoặc dì Mai, nên luôn quan tâm đến đường đi nước bước của dượng Phan.

Thời gian đầu, bà Sâm tức lắm. Mỗi lần thấy có bóng phụ nữ ghé nhà dượng Phan là bà đứng bên này chửi với sang: “Cái đồ vô duyên, đàn bà tới nhà đàn ông không biết trẽn.” “Đồ ham tiền, thấy người ta có nhà có của thì cứ xáp vô…” “Đồ…”Vô ích. Tình thế vẫn không thay đổi, bà Sâm chửi hoài cũng đâm mỏi miệng, lại còn mang tiếng “bà mẹ vợ nhiều chuyện”, nên bà tạm thời bỏ qua. Quan trọng là ở chỗ, người con rể bà có bị xao động không? Bà quay sang theo dõi hành vi của dượng Phan, và thấy rõ ràng dượng Phan vẫn trơ như đá, chả để ý đến ai. Dượng luôn đối xử lịch sự với tất cả mọi người, không hững hờ mà cũng không thân mật quá, xem tất cả là bạn bè bình thường. Điều này khiến bà yên tâm nhưng rồi… bà lại giật mình, vì đối với dì Huệ –người thắng cuộc, dượng vẫn không dành chút ưu ái nào, thế là sao? Thật khó hiểu!

Một buổi sáng trời mưa lâm râm, dì Liễu trùm áo mưa chạy hộc tốc qua nhà bà Sâm: “O ơi O, không xong rồi.” Bà Sâm đang ngồi uống trà một mình trên tấm phản trước nhà, trợn mắt nhìn cô cháu: “Mi làm chi mà lanh chanh rứa. Cởi áo treo ngoài cửa đã, ướt nhà hết.” Dì Liễu vứt vội chiếc áo mưa xuống thềm, đến bên bà Sâm, ghé vào tai bà thì thào. Bà Sâm né ra, nói lớn: “Nói to lên, tao điếc.” Dì Liễu tằng hắng giọng: “Cháu mới ghé nhà anh Phan…” Bà Sâm ngắt lời: “Sáng sớm mi qua đó làm chi? Thứ gái có chồng mà không nên nết.” “Trời đất, O suy nghĩ bậy bạ quá. Cháu qua giờ đó mới bắt được quả tang. O ơi, động trời, động trời! anh Phan dẫn gái về nhà.” Bà Sâm suýt đánh rơi chén trà xuống đất: “Liễu, cháu nói chi? Nói lại O nghe.” “O ơi, anh Phan có bồ, cháu thấy hai người ngồi trong buồng…” Hai bàn tay bà Sâm run lên, bà đập mạnh vào vai dì Liễu: “Mi đừng có dựng chuyện.” “Cháu nói thiệt mà, cháu biết con quỉ đó, nó tên Tú, bán vải bên chợ An Cựu, ba mươi mấy tuổi rồi mà chưa có chồng. Nay gặp anh Phan chẳng khác chi cá gặp nước, rồng gặp mây, cây gặp…” “Thôi, đừng có nói chữ nữa. Đi với tao, qua nhà thằng Phan, tao phải sởn tóc con hồ ly tinh đó mới hả tức.” Mưa càng lúc càng nặng hạt, sấm chớp ầm ầm. Dì Liễu ôm vai bà: “O ơi, cháu nói cho O biết thôi. O đừng làm dữ, có can ngăn cũng để từ từ, nếu anh Phan không nghe thì cũng chịu thôi, chuyện vợ chồng là do duyên số.” Bà Sâm lồng lên: “Chịu chi mà chịu. Tao phải làm cho ra lẽ, phải đặp bể mặt cái đồ đào mỏ, trời ơi là trời, nhà của tao cho hai đứa cháu ngoại, chừ đứng tên nó, biết làm răng đây.” Dì Liễu vuốt ngực bà: “O bình tĩnh, đừng giận quá mất khôn. Cứ nói chuyện với anh Phan xem sao đã.”
Dượng Phan không phủ nhận: “Thưa mạ, xin phép mạ cho con cưới Tú. Tú là người cùng quê với con, hiền lành đảm đang lắm. Sau này, Tú sẽ thay Lựu chăm sóc, báo hiếu mạ.” Bà Sâm tức đến nghẹn giọng: “Anh im đi, con gái tôi là cành vàng lá ngọc, sao anh dám so sánh với thứ đàn bà nhà quê chân lấm tay bùn, hả?” Bà hét lên: “Tôi cấm, tôi cấm, anh phải cưới con Huệ ngay.” “Thưa mạ, con không yêu Huệ, hơn nữa…” “Không hơn thua chi hết, tôi đã chọn con Huệ, anh đừng cãi…” “Mạ ơi, con phải có trách nhiệm, Tú đã có thai rồi.” Bà Sâm thấy đầu óc quay mòng mòng, nhà cửa đảo lộn, trời đất tối sầm. Mồ hôi bà toát ra như tắm, bà ngã vật xuống phản. Dượng Phan cuống quít gọi xe cấp cứu.

Bác sĩ nói bà Sâm bị cao huyết áp, suýt xảy ra tai biến, may mà cứu kịp, nếu không, bị liệt nằm một chỗ thì chẳng biết tính sao. Cho nên, bác sĩ buộc bà phải nằm viện để theo dõi tim mạch, ít nhất một tuần. Ngày đầu, bà nằm mê man. Dượng Phan và dì Liễu thay phiên túc trực bên giường bệnh. Đến khi tỉnh dậy, câu đầu tiên bà thều thào là: “Thằng Phan cút ngay, tao không muồn thấy mặt mi.” Dượng Phan định lên tiếng thì dì Liễu kéo tay đẩy dượng ra khỏi phòng. Dì trở lại, đến bên bà: “O nghỉ ngơi đi, đừng suy nghĩ nhiều, từ từ rồi tính.” “Tính chi nữa mà tính, cái thằng mất dạy…” “Thôi O ơi, coi chừng lên máu đó.” Bà Sâm nằm yên một lúc rồi hỏi: “Thằng Nho và con Đào đã vô thăm mệ chưa?” “Dạ, tụi nó mắc học, chắc tối mới vô được. “Rứa có ai lo cho chúng không?” “Cháu lo hết, O yên tâm.” Bà Sâm thò tay vào túi áo: “Chìa khóa, chìa khóa mô rồi?” “Anh Phan giữ, để cháu về lấy cho O.” Giọng bà Sâm tru tréo: “Cháu đi lấy ngay.” “Dạ để cháu pha cho O ly sữa….” Bà khoác tay: “Không cần, đi lấy chìa khóa mau.” Bà trừng mắt nhìn khiến dì Liễu đâm hoảng, vớ túi xách chạy ra khỏi phòng. Dượng Phan còn đứng nơi hành lang, cầm xâu chìa khóa đưa cho dì Liễu: “Tôi quên, cô đem vào cho mệ.” . Dì cầm lấy, nói: “Không có mệ, anh cho hai đứa qua nhà em ở, cùng đi học với thằng Hào, thằng Kiệt cho tiện.” “Thôi, phiền cô. Để chúng nó ở với tôi.”

Thằng Nho và bé Đào qua nhà dượng Phan ở, chẳng khác gì chim sổ lồng. Những ngày bà ngoại Sâm nằm viện, cửa thiên đường rộng mở trước mắt hai đứa cháu. Đi học về, chúng quăng cặp lên bàn, chạy ù ra đường hòa nhập với đám trẻ lem luốc với đủ thứ trò chơi mà trước đây chúng luôn bị cấm. Chơi chán, chạy vào nhà la toáng lên: “Đói bụng, đói bụng quá.” Thế là cơm bưng nước rót, sướng còn hơn tiên. Mà toàn những món ăn khoái khẩu mới thích chứ, đặc biệt là các loại mắm ăn với thịt luộc rau sống, ngon muốn nhức răng. Người phụ nữ đang chăm sóc chúng nó tên là Tú. Nhìn bề ngoài cũng hiền, mặt mày trắng trẻo, giọng nói ngọt ngào, không biết lòng dạ bên trong thế nào. Bé Đào vô tư đón nhận tình cảm của cô Tú, nhưng thằng Nho thì cảnh giác, vì bên tai nó luôn văng vẳng tiếng dì Liễu: “Cháu phải coi chừng, cô Tú đó không tốt mô. Cô ta muốn chiếm hai căn nhà của cháu đó. Cháu nên nhớ, nhà của cháu, chớ không phải của ba cháu, nghe chưa? Nghe chưa?” Còn thằng Hào, thằng Kiệt nữa, con trai sao nhiều chuyện quá. Thấy mặt thằng Nho đâu là chúng đọc thơ: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng.” Cho đến một đêm, dượng Phan đi công tác không có nhà, bé Đào bỗng lên cơn sốt, cô Tú gọi xích lô, bồng bé vào bệnh viện. Bác sĩ nói bé Đào bị sốt xuất huyết, đưa vào phòng cấp cứu ngay. Cô Tú òa lên khóc, cô chạy lên lầu, xuống lầu đóng tiền viện phí, đem mẫu máu đi xét nghiệm… đến sáng, bé Đào qua được cơn nguy kịch, cô Tú mới thở phào, chạy vội về nhà nấu cháo, pha sữa. Cô nấu vội bát mì cho thằng Nho điểm tâm rồi dắt nó vào thăm bé Đào. Thấy em nằm thiêm thiếp, lâu quá không tỉnh lại, thằng Nho sợ quá chỉ biết khóc. Cô Tú đặt tay lên vai nó, dịu dàng: “Nín đi con, em Đào ngủ một lát sẽ dậy, con đừng lo.” Rồi cô kéo nó vào lòng, vỗ về, âu yếm. Nó nép đầu vào ngực cô, nghe tim cô đập nhẹ nhàng, cảm nhận một tình thương ấm áp của người thân, như là của ba nó, của bà ngoại nó. Chắc chắn cô Tú không xấu như dì Liễu nghĩ, không ác như bà dì ghẻ trong cổ tích. Ước gì cô Tú hóa thành mẹ Lựu của nó.

Dượng Phan vào bệnh viện đón bé Đào về. Bé đã khỏe nhưng còn nhõng nhẽo, cứ bắt dượng Phan bồng trên tay. Cô Tú đến bên đỡ bé Đào nằm xuống ghế sofa: “Bé Đào giỏi, nghỉ ngơi để ba đi tắm nghe.” Rồi cô nhìn dượng Phan: “Anh vào tắm đi, em pha sẵn nước rồi.”. Cô đi xuống bếp, sửa soạn chén đũa, coi lại nồi cháo đang liu riu trên bếp. Hương hành ngò bay ra thơm nức mũi. Dượng Phan tắm xong, đứng hít một hơi: “Ôi, hấp dẫn quá. Em ơi, có gì cho anh làm với.” “Phụ dọn bàn cho em, được không?” “Xin tuân lệnh” Cặp mắt thằng Nho sáng rực khi thấy dượng Phan bưng ra chiếc dĩa bầu dục đựng 2 con cá lóc mập ú, một rổ rau sống, một chén mắm nêm pha tỏi ớt, tuần tự đặt trên bàn. Cô Tú bưng chén cháo đến bên bé Đào: “Dậy ăn miếng cháo cá cho khỏe, con gái.” Bé Đào uốn mình, õng ẹo : “Cô đút con mới chịu,” “Được, ngồi dậy, giỏi.” Dượng Phan la: “Lớn rồi còn làm nớt, hư quá.” Cô Tú cười: “Con mới khỏi bệnh mà anh. Ăn cháo cá hiền lắm, còn anh và Nho thì được cuốn bánh tráng chấm mắm nêm. Sướng chưa?” Dượng Phan nhìn lên bàn: “Ủa, anh quên bánh tráng rồi. Nho, mau vào bếp lấy bánh tráng ra cho ba.” Khi thằng Nho cầm xấp bánh tráng ra thì đúng lúc dì Liễu bước vào: “Trời ơi là trời, con nhà trâm anh thế phiệt mà cũng bị sai vặt hả.” Dượng Phan đỏ mặt: “Cô nói chi lạ vậy? con tôi, tôi không sai được sao.” Dì Liễu giả lả: “Nói chơi thôi mà. Đến báo anh biết là ngày mai mệ sẽ xuất viện để anh chuẩn bị đưa hai đứa về kẻo mệ nhớ.”

Chuyện động trời xảy ra. Thằng Nho và con bé Đào không chịu về nhà bà Sâm, nhất định đòi ở với dượng Phan và cô Tú. Dì Liễu dằn mặt dượng Phan: “Anh tính răng thì tính, như rứa không được mô.” Dượng Phan cũng không vừa: “Còn tính chi nữa. Hai đứa thích ở với ai thì ở, đó là quyền tự do của con người mà.” Bà Sâm tức đến chóng mặt, đâm ra nhức đầu sổ mũi, nhưng lần này nhẹ hơn, khỏi vào bệnh viện. Suốt ngày, bà chửi hai đứa cháu ngoại: “Đồ phản phúc, đồ ăn cháo đá bát giống thằng cha chúng như đúc.” Vậy là dượng Phan đã công khai sống chung với cô Tú. Cô Tú sang sạp vải cho người khác, ở nhà nâng khăn sửa túi cho dượng Phan, chăm sóc thằng Nho và bé Đào cùng với đứa con mới tượng hình. Đúng là một gia đình hoàn chỉnh. Dì Liễu tức lắm, suốt ngày qua nhà hiến kế cho bà Sâm, nào là bà phải thế này, bà phải thế khác, phải thuê luật sư lấy lại quyền sở hữu hai căn nhà mới mua, cho đôi gian phu dâm phụ dọn ra đường ở, khi đó, hai đứa cháu sẽ về với bà. Mà lạ, từ ngày thay đổi môi trường sống, thằng Nho và bé Đào trông béo tốt hẳn ra, học hành tiến bộ hẳn lên, chắc là tại chúng không bị bà ngoại quản lý chặt chẽ, được ăn, được chơi, được tắm sông, nghịch phá… ôi tự do muôn năm!

Mọi nỗ lực thưa kiện của bà Sâm đi vào ngõ cụt. Dượng Phan đâu phải là cục đất sét để bà Sâm nhào nặn theo ý mình. Cuối cùng, vẫn không làm gì được, bà Sâm tuyên bố, từ nay sẽ không thèm nhìn mặt thằng rể và hai đứa cháu. Biết bà giận nhưng dượng Phan vẫn cố làm tròn chữ hiếu. Nhưng mỗi lần dượng dắt hai con qua thăm là bà đuổi thẳng thừng, có khi bà vừa chửi vừa dùng chổi quét lia lịa làm người đi đường dừng chân lại xem khiến dượng mắc cỡ quá, chỉ muốn chui đầu xuống đất.

Bà trở nên thân thiết với dì Liễu hơn, cho dì đại diện bà trong nhiều vụ làm ăn lớn, và dì đã không phụ lòng tin của bà. Công việc luôn gặp thuận lợi, tiền bạc đổ vào túi bà ào ào. Cho vay bao nhiêu cũng không hết, bà bí mật đem tiền đi mua vàng, vì theo kinh nghiệm, giá vàng không bao giờ xuống mà chỉ có lên, bà sẽ được lợi một lần nữa. Hồi đó, người ta không quen đem vàng gửi ngân hàng, nên thiên hạ đoán mò là bà Sâm đang chôn một núi vàng trong W.C nhà bà. Bằng chứng là bà đã cho tất cả người làm nghỉ việc, khách khứa đến chơi, lỡ mắc xin đi toilet là bà dãy nãy lên, nói: “Thôi, về nhà đi. Cầu tiêu đây bị hư, chưa sửa.”

Có người đánh bạo hỏi bà: “Mệ ơi, mệ từ con cháu rồi, sau này để của lại cho ai?” Bà trợn mắt: “Không phải chuyện của mấy người, hỏi làm chi. Đồ vô duyên.”. Từ phương nam, cậu mợ Thông nghe phong phanh dư luận, vội vã bay ra Huế. Mặc cho bà Sâm lạnh lùng, mợ Thông vẫn ngọt ngào hiền thục, một bẩm mạ, hai bẩm mạ… rồi đi pha trà, rót nước, làm đồ ăn dọn ra ê hề. Trong khi đó, cậu Thông thuê xích lô đi một vòng thành phố, đến thăm nhà ông Thái, nhà bà ngoại tôi, nhà dì Lan, dì Liễu… cậu nghe ngóng, phân tích tin đồn. Đến khi về nhà, bà Sâm đã đứng chờ ngoài cửa: “Anh vô nói với vợ anh là tôi không đói khát chi hết, đem đồ ăn đi đi. À, hai người liệu mà thuê khách sạn, cầu tiêu nhà hư rồi, không tiện ở đây mô.” Cậu Thông như mở cờ, vậy là chắc như bắp, kho tàng đang dấu trong W.C! Cậu mợ ngoan ngoãn vâng lời. Sáng hôm sau, một mình cậu qua thăm mẹ. Cà kê dê ngỗng một hồi, cậu mới vào đề: “Chú Phan đã vậy, hai đứa cháu ngoại cũng không ra chi. Chừ mạ tính sao?” Bà Sâm dội gáo nước lạnh lên đầu thằng con trai: “Không tính chi hết. Tiền tao tao giữ, không lòi thêm một đồng xu cho ai hết.” “Vậy con thì sao? Thằng Minh cháu đích tôn của mạ thì sao?” “Im đi. Mi phá của tao nhiều quá rồi.” Cậu Thông van xin: “Mạ ơi, mạ thương con. Dạo này con làm ăn thua lỗ…” “Kệ mi, đừng nói với tao.” “Mạ… mạ…” “Không mạ không con chi hết, hai vợ chồng cút đi cho tao.” Cậu Thông bỗng nổi điên, hai mắt long lên đỏ ngầu. Cậu chạy vào bếp, cầm con dao phay ra, để ngang cổ: “Mạ không giúp con, con chết cho mạ coi.” Cậu la, cậu hét. Hàng xóm chạy qua, người đi đường dừng lại, tụ tập trước cửa: “Mệ ơi mệ, coi chừng anh Thông làm liều đó.” Bà Sâm tỉnh queo: “Nó diễn tuồng đó. Đừng lo.” Một thanh niên nhảy vào dằn lấy con dao trên tay cậu Thông, dìu cậu trở về khách sạn gần nhà. Đến tối, dì Liễu qua nhà tôi đập cửa ầm ầm, thất thanh gọi mẹ tôi: “Chị Phán ơi, qua can dùm một chút. Thằng Minh… thằng Minh… hắn muốn… bắn O Sâm.” Tôi theo mẹ qua nhà bà Sâm, thấy cửa khép hờ, bên trong vang ra tiếng gằn giọng của một người đàn ông: “Mệ có chịu đưa vàng ra không?” Đã lâu không gặp, anh Minh bây giờ to cao vạm vỡ, mặc bộ đồ rằn ri, vai đeo lon vàng chóe, không biết anh đi lính từ lúc nào. Tim tôi đập mạnh khi thấy anh cầm khẩu súng lục đen sì dí vào đầu bà Sâm: “Mau lên. Nói. Mệ chôn vàng ở đâu?” Bà Sâm vẫn không nhúc nhích, nét mặt lạnh như tiền. Gan quá. Tôi vừa kính nể vừa phục lăn. Dì Liễu nói như khóc: “Minh ơi, con nỡ giết mệ sao đành.” Mẹ tôi bước đến gần anh Minh: “Con là cháu đích tôn, trước sau chi mệ cũng để của hết cho con mà, vội chi.” Anh Minh hét: “Hai O không biết thì đừng có xía vô. Gia đình cháu cần vốn làm ăn, sao mệ không chịu giúp chớ.” Bà Sâm nhếch mép: “Mi ưng bắn thì bắn đi. Giết người thì đền mạng. Tao làm di chúc rồi, tụi bây không được một xu.” Cậu Thông từ trong toilet đi ra: “Minh, thôi để mệ yên. Con đi tìm cái đục cho ba. Chắc chắn mệ dấu vàng trong này.” Anh Minh cất súng vào túi. Bà Sâm te te bước ra cửa, mẹ con tôi và dì Liễu chạy theo. Bà nói : “Mấy đứa về đi, đừng lo. Tao đi kêu cảnh sát đây. Phá nhà tao đâu có dễ.”

Cảnh sát đến, xử lý nội bộ, trục xuất cha con cậu Thông ra khỏi nhà.

Bà Sâm đau lai rai cả tháng nhưng không chịu đi bác sĩ, cũng không để cho ai chăm sóc. Bà chỉ nhờ dì Liễu kho một trách cá bống thệ to đùng, rồi mỗi ngày, bà tự nấu cháo hoặc cơm, khi nào đói thì múc ăn với cá, không theo bữa cũng không tiếp xúc với ai. Mọi giao tiếp bên ngoài, đã có dì Liễu. Buổi chiều hôm đó, như thường lệ, dì Liễu đi gom hụi, đem tiền về cho bà, chợt hoảng vía khi thấy bà đang nằm dài trong phòng tắm, tay chân co quắp. Dì gọi xe đưa bà vào bệnh viện. Bác sĩ cứu được, nhưng nói bà bị tim nặng lắm, bây giờ như ngọn đèn trước gió, không biết tắt khi nào. Rồi ông an ủi gia đình: “Mệ đã hơn tám mươi, như rứa cũng thọ rồi.”

Cậu Thông trở về Huế, suốt ngày đêm túc trực bên giường mẹ. Cậu không cho ai đến gần bà, kể cả hai người em ruột của bà là ông Thái và bà ngoại tôi. Cậu viện lý do là để bà nghỉ ngơi, tránh những xúc động không cần thiết. Riêng với dượng Phan và hai đứa cháu ngoại thì cậu thẳng tay đuổi, mấy người cút đi, đồ phản phúc. Thật ra ai cũng đoán được, cậu Thông đang nuôi hy vọng là trước khi chết, bà Sâm sẽ tiết lộ bí mật “kho vàng” cho một mình cậu nghe thôi.
Bà Sâm vẫn nằm thiêm thiếp trên giường. Cậu Thông vẫn kiên nhẫn chờ bà tỉnh lại. Hằng ngày, bác sĩ đến khám, chuyền dịch nhưng tình trạng sức khỏe bà ngày một xấu đi. Rồi bà trút hơi thở cuối, không một lời trối trăn. Cậu Thông ra ngoài ăn cơm, đến khi về nhìn cái xác lạnh tanh của mẹ, cậu rú lên điên loạn: “Mạ ơi, mạ ác quá, mạ chôn vàng ở đâu sao không nói cho con cháu biết. Mạ giết con rồi mạ ơi.”

Theo luật thừa kế, ngôi nhà bà Sâm thuộc về cậu Thông và hai đứa con dì Lựu. Nhưng không biết cậu làm cách nào mà cuối cùng thằng Nho và bé Đào chỉ được chia một số tiền nhỏ. Dành xong quyền sở hữu, cậu bắt đầu chiến dịch “truy tìm kho báu” bằng cách thuê người đến xăm nát nền nhà, phá toang W.C nhưng cuối cùng vẫn không tìm thấy gì cả. Vàng bạc châu báu của bà Sâm đã bốc hơi. Theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nhất định hơi này sẽ đọng lại dưới một dạng khác, tại một chỗ bí mật nào đó, cậu phải điều tra cho ra mới được.
Cậu tìm đến dì Liễu: “Nghe nói lâu nay O là người gần gũi mệ, tay hòm chìa khóa nơi O hết phải không?” Dì Liễu nhíu mày: “Anh hiểu lầm rồi. Em như thiên lôi, mệ sai đâu đánh đó. Tiền bạc giấy tờ một tay mệ giữ, em biết chi mô.” “Mệ giữ cái chi? Trong hộc bàn, trong tủ sắt không có một đồng xu.”Dì Liễu lắc đầu: “Làm sao em biết được.”
Không nhân chứng, vật chứng, cậu Thông đành chào thua. Bán rẻ ngôi nhà thừa kế, cậu trở vào Sài Gòn và không bao giờ trở lại Huế nữa.

Thời gian qua. Những đứa trẻ lớn lên và trưởng thành. Thằng Khôi con dì Lan tốt nghiệp Cao đẳng Nông Lâm Súc, nhưng tay chân còn vụng về lắm. Có lần mẹ tôi nhờ nó chiết cành hoa mãn đình hồng, loay hoay thế nào, nó làm chết luôn cả nhánh. Đối với công tác thú y cũng vậy, nó chữa “lợn lành thành lợn què” là chuyện thường ngày của nó. Trái lại, hai đứa con dì Liễu thì quá xuất sắc: thằng Hào tốt nghiệp Bác sĩ, thằng Kiệt đang học Đại Học Kiến Trúc, ông Thái luôn luôn để hình hai đứa cháu ngoại trong túi áo, hễ có dịp là đem ra khoe khắp nơi.

Riêng thằng Nho đã gần 30 tuổi nhưng không hề trưởng thành. Học hành chẳng đến đâu, nó thi vào Sư phạm Qui Nhơn và trở về dạy lớp năm ở một ngôi trường ngoại ô thành phố Huế. Lương ba cọc ba đồng, nên tuần nào nó cũng đạp xe về xin tiền dượng Phan. Lúc này, dượng đã có thêm 3 mặt con với cô Tú nên đời sống không còn thong thả như trước. Ngôi nhà cho thuê đã xuống cấp, không có tiền sửa, nên giá thuê rẻ như bèo, chả thấm vào đâu so với sinh hoạt phí gia đình. Cô Tú buôn bán trở lại, bé Đào nghỉ học ra chợ phụ bà mẹ kế không một lời than van. Bé Đào nết na hiền lành chừng nào thì thằng Nho ba que xỏ lá chừng đó. Nó hội đủ các tật xấu trên đời: bồ bịch, uống rượu, hút thuốc, cờ bạc… mất tư cách đạo đức đến nỗi nhà trường cho nghỉ dạy, chuyển sang làm thư ký văn phòng. Vậy mà nó vẫn không biết hồi tâm, càng lún sâu vào bùn nhơ. Tệ hại nhất là nó đánh bạc triền miên. Ban đầu, dượng Phan còn cho tiền nhưng nó cứ bòn rút mãi, chịu trời không thấu, dượng tuyên bố: “Tao không phải là cái ngân hàng.” Xin tiền dượng Phan không được, thằng Nho tìm đến những người bà con vay mượn. Ai cũng cương quyết lắc đầu, hững hờ quay mặt. Những lúc tuyệt vọng, nó nghĩ đến bà ngoại nhưng đã muộn màng, lòng chợt nuối tiếc, giá mà ngày xưa nó đừng về phe ba nó và cô Tú thì bây giờ đời nó đâu có khốn khổ thế này.

Ngôi nhà bà Sâm được mua đi bán lại nhiều lần. Người chủ cuối là dì Liễu. Dì cho người đập ra, xây mới hoàn toàn với hai tầng lầu khang trang, nội thất văn minh sang trọng, dự định mở phòng mạch cho thằng Hào. Ngoài ra, dì còn mua thêm một ngôi nhà vườn trong Thành Nội để dưỡng già, sau này sẽ giao căn phố hiện ở cho thằng Kiệt khi nó ra trường. Dư luận lại bắt đầu xôn xao, kho tàng của bà Sâm chắc chắn đã lọt vào tay cô cháu gái.

*

Những đứa trẻ ngày xưa đã sống đủ 60 năm cuộc đời, cọng thêm vài năm nữa. Một ngày đẹp trời, thằng Khôi từ Huế vào tìm thăm tôi. Nó bây giờ rất oai phong, khoe đang làm chủ khách sạn Hồng Thu bên Vỹ Dạ. Vợ chồng con cái nó cùng nhau quản lý, điều hành, giá cả hợp lý nên khách du lịch ghé đông, thu nhập rất khá. Tôi hỏi: “Thằng Nho còn ở Huế không?” “Chị không biết à. Anh Nho hiện đang ở Tây Ninh. Nghe nói cực lắm. Em sắp đi thăm đây, xuống cho ảnh vài triệu kẻo tội.”

Nhờ thằng Khôi, tôi đã gặp lại thằng bạn thân thời thơ ấu –một ông già sắp 70 tuổi đen thui, gầy đét trông chẳng khác gì bộ xương khô, vậy mà luôn miệng nói: “Mình không hề đau ốm chi cả, không tốn một viên thuốc”. Tôi nghĩ, chắc đó là kết quả những món ăn bổ dưỡng ngày xưa bây giờ mới phát huy tác dụng. Nho đưa tấm danh thiếp, ghi Trần Văn Nhân –Giáo viên Anh Văn: “Mình đổi tên rồi.” “Tại sao?” “Chuyện dài lắm, sau này mình sẽ kể.” Giáo viên? Thiệt không đây? Mà còn dạy môn thời thượng nữa, sao trông rách nát te tua quá. “À, bé Đào dạo này sao rồi? Cho tui số điện thoại của nó đi.” Nho bỗng lớn tiếng: “Đừng nhắc đến cái con mất dạy đó. Mình từ nó rồi.” “Có chuyện gì tính sau. Bây giờ cứ cho số điện thoại…” Thằng bạn ngắt lời: “Lâu quá không liên lạc, quên mất số rồi.” Anh em ruột gì kỳ cục, tôi nghĩ nhưng không nói ra.

Khoảng tháng sau, Nho chạy lên nhà tôi với vẻ mặt vô cùng hốt hoảng: “Bà làm ơn cho tui mượn hai triệu. Cháu ngoại tui bị sốt xuất huyết đang nằm ở bệnh viện Chợ Rẫy. Đúng một tháng sau, tui sẽ trả.” Gom hết tiền trong nhà, chỉ còn một triệu rưỡi, tôi đưa hết cho Nho: “Nhớ trả đúng hẹn nghe.” Một tháng, nó gọi điện lên khất nợ, tháng sau lại gọi điện khất nữa, sau đó thì im luôn. Sáu tháng, rồi một năm trôi qua… thôi thì của đi thay người. Biết vậy đừng thèm gặp nó cho xong.

Bỗng thật bất ngờ, tôi nhận được điện thoại của bé Đào: “Khôi cho em số di động của chị.” Hai chị em gặp nhau tại một quán cà phê, mừng mừng tủi tủi. Đào có chồng, 3 con trai và đã có cháu nội, cuộc sống không dư dã nhưng hạnh phúc. “Tại sao anh Nho từ em vậy?” “Trời ơi, bị ảnh từ em mừng hết lớn đó. Chị biết không? Anh cứ đến nhà mượn tiền hoài, em đâu phải là kho bạc. Không cho mượn thì quậy phá, em phải kêu công an đó.” Hèn chi. “Mượn rồi lơ huyền chứ gì. Năm ngoái, chị cũng bị Nho giựt một triệu rưỡi.” “Nếu chị gặp em sớm là đỡ rồi.” “Nhưng đây là tiền đóng viện phí cho cháu ngoại Nho bị sốt xuất huyết. Thấy chết, không lẽ chị không cứu.” “Trời ơi là trời, ảnh không có đứa con nào thì làm gì có cháu. Chị bị lừa rồi.” “Không ngờ Nho lại tệ như vậy.” Đào nói Nho còn nhiều cái tệ hại hơn nhiều. Hồi còn trẻ cờ bạc, vay tiền tụi xã hội đen, bị tụi nó khống chế, dọa xẻo lỗ tai, dượng Phan phải bán nhà cứu mạng. Đến khi về già, cũng vì nợ nần, chủ nợ truy sát, phải đổi tên, trốn chui trốn nhủi. “Hiện Nho sống như thế nào? Có phải đang đi dạy Anh Văn không?” Đào nhếch môi:“Không có lòng tự trọng, không có nhân cách thì dạy ai. Giờ ảnh đang sống báo đời bà vợ bán bún bò ở chợ Tây Ninh, không biết là vợ thứ mấy nữa. Bà này cũng ớn đến tận xương sống rồi, nhưng không bỏ được. Chắc là cái nợ kiếp trước phải trả thôi.” “Còn dì Liễu? chắc tuổi già sung sướng lắm phải không?” “Sướng cái nỗi gì. Thằng Hào ra bác sĩ được một năm thì bị tâm thần, cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, nhưng mà hiền. Còn thằng Kiệt thì vướng vào xì ke ma túy, phá hết gia tài của dì Liễu rồi. Âu cũng là của Thiên trả Địa. Đó là tiền của bà ngoại em mà .” Đào thở dài: “Mà tiền đó cũng là mồ hôi nước mắt của người nghèo. Chắc vì rứa mà con cháu của mệ không ai gặp may cả. Nghe nói những người cầm đồ, cho vay là bất nhơn thất đức lắm phải không chị?”

Thùy An
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Lá thư cuối cùng của người lái xe tải
Lời ngỏ:

"...Nếu bạn đang chờ đến ngày mai, tại sao lại không thực hiện mọi thứ ngay trong ngày hôm nay ? Bởi nếu ngày mai không bao giờ tới, bạn sẽ phải hối tiếc rất nhiều vì đã không dành những giây phút hiếm hoi còn lại để sẻ chia một nụ cười, một cái ôm...

...Hãy giữ những người mà bạn thật sự yêu thương trong vòng tay của mình, thì thầm vào tai họ, nói với họ rằng bạn yêu thương họ nhiều như thế nào..."

- Nếu tôi biết rằng...



Một lần trên xa lộ, tôi thấy một nhóm cảnh sát hoàng gia Canada và vài người công nhân đang tháo gỡ phần còn lại của một chiếc xe tải bị mắc kẹt bên vách đá. Tôi đậu xe lại, nhập vào nhóm tài xế xe tải đang lặng lẽ quan sát đội công nhân.

Một cảnh sát bước lại chỗ chúng tôi chậm rãi nói: "Rất tiếc, người tài xế đã chết khi chúng tôi phát hiện ra anh ta. Có lẽ anh ấy bị lạc tay lái trong lúc trời có bão tuyết hai ngày trước đây. Thật khó để nhận ra người bị nạn nếu chúng tôi không may mắn thấy ánh nắng phản chiếu từ kính chiếu hậu". Viên cảnh sát lắc đầu buồn bã, rút trong túi áo khoác một lá thư: "Đây này, các anh nên đọc cái này. Tôi đoán anh ấy đã sống được khoảng hai giờ trước khi chết vì lạnh".

Tôi chưa bao giờ thấy cảnh sát khóc. Tôi nghĩ họ đã thấy quá nhiều cái chết và chứng kiến nhiều cảnh tượng hãi hùng nên họ không còn cảm giác gì trước những việc tương tự. Nhưng viên cảnh sát ấy đã lau nước mắt và đưa tôi lá thư. Đọc thư, tôi cũng như những người tài xế khác, không nói lời nào, chỉ lặng lẽ giấu những giọt nước mắt, trở về xe của mình.
Những từ ngữ trong thư như nung cháy tôi. Và sau nhiều năm, nó vẫn còn khắc sâu trong trí nhớ, như thể tôi đang cầm nó trước mặt. Tôi muốn chia sẻ lá thư đó với bạn, bạn bè của bạn và gia đình của họ.

Thư của Bill, tháng 12 năm 2000
"Vợ yêu quý của anh,

Đây là lá thư mà không người đàn ông nào muốn viết. Nhưng anh cũng đủ may mắn khi có một ít thời gian nói lên những gì anh đã quên nói nhiều lần trước đây.
Anh yêu em, em yêu ạ. Em đã từng nói đùa rằng anh yêu chiếc xe tải còn hơn cả yêu em bởi vì anh dành nhiều thời gian cho nó quá! Anh yêu cái khối sắt này vì nó cần cho chúng ta. Nó chứng kiến anh vượt qua những nơi khó khăn, những giờ khó nhọc. Anh đã có thể luôn kỳ vọng vào nó trên những chuyến hàng xa và nó luôn mau chóng giúp anh hoàn thành công việc. Nó không bao giờ làm anh thất vọng. Nhưng em có biết rằng anh yêu em cũng bởi những lý do đó. Em cũng đã chứng kiến anh vượt qua những thời khắc khó khăn.
Anh nhớ anh đã than phiền về chiếc xe cũ kỹ vậy mà anh không nhớ em cũng từng than thở khi mệt mỏi trở về nhà. Anh quá lo nghĩ đến những rắc rối của mình đến nỗi không nghĩ gì đến em. Anh nghĩ về những thứ em đã phải từ bỏ vì anh: quần áo, du lịch, tiệc tùng, bạn bè... Em đã không bao giờ trách móc và vì lý do nào đó anh đã không bao giờ nhớ cám ơn em. Khi anh ngồi uống cà phê với bạn bè, anh luôn nói về chiếc xe và những khoảng tiền sửa chữa nó. Anh nghĩ anh đã quên mất em là người bạn đời của anh.
Sự hy sinh và phấn đấu của em cũng nhiều như việc anh cố gắng để có được một chiếc xe mới. Anh rất hãnh diện về chiếc xe này và anh cũng rất hãnh diện về em. Nhưng anh chưa bao giờ nói với em điều đó. Anh cho đó là điều dĩ nhiên em đã biết. Nhưng nếu anh dành nhiều thời gian với em thay vì để chùi rửa, lau bóng chiếc xe thì anh đã có thể nói những lời thật lòng mình với em.
Nhiều năm tháng qua, trong những lần rong ruổi trên đường, anh biết những lời cầu nguyện của em luôn theo anh. Nhưng lần này những lời đó không đủ. Anh đang đau quá. Anh đang trên chặng đường cuối cùng. Và anh muốn nói lên những điều mà lẽ ra anh phải nói nhiều lần trước đây. Những điều bị lãng quên vì anh quá quan tâm đến chiếc xe và công việc.
Anh đang nghĩ đến những ngày kỷ niệm của hai đứa hay ngày sinh nhật đã bỏ lỡ, cả những vở kịch, những trận đấu hockey của các con mà em phải tham dự một mình vì anh đang đâu đó trên đường. Anh đang nghĩ về những đêm em cô đơn và nghĩ đến anh đang ở đâu, công việc như thế nào. Anh đang nghĩ về những lúc anh muốn gọi cho em chỉ để nói lời chúc ngủ ngon nhưng vì lý do gì đó lại tiếp tục chạy xe. Anh nghĩ về những giây phút thanh thản, yên lành khi nghĩ đến em cùng các con. Những bữa cơm gia đình em dành nhiều thời gian để chuẩn bị và tìm nhiều lý do để giải thích với các con vì sao anh không ăn cùng. (Vì anh đang bận thay dầu cho xe, anh đang bận sửa xe, anh đang ngủ vì buổi sáng anh phải đi sớm,...). Luôn luôn có một lý do nào đó! Khi chúng ta lấy nhau, em không biết thay bóng đèn, nhưng chỉ hai năm sau em đã có thể sửa lò sưởi những khi trời bão trong khi anh đang chờ dở hàng ở Florida.
Anh đã phạm nhiều sai lầm trong đời nhưng nếu nói anh chỉ có một lần quyết định đúng, anh nghĩ đó là khi anh hỏi cưới em.
Cơ thể anh đang đau. Nhưng tim anh thì đau hơn nhiều. Em không có mặt lúc anh ra đi, lần đầu tiên từ khi chúng ta có nhau. Anh thật sự thấy cô đơn và sợ hãi. Anh cần em nhiều lắm và anh biết đã quá trễ rồi. Anh nghĩ thật là tức cười, bây giờ tình yêu của anh thì đang ở xa anh ngàn dặm còn khối sắt vô tri đã sai khiến cuộc sống của anh nhiều năm nay thì đang ở đây. Nhưng anh cảm thấy em đang ở cạnh. Anh có thể cảm nhận tình yêu của em, trông thấy khuôn mặt em. Em đẹp lắm, có biết không? Anh nghĩ gần đây anh không nói với em điều đó dù em vẫn rất xinh đẹp.
Hãy nói với các con rằng anh yêu chúng rất nhiều. Anh sợ phải ra đi quá nhưng giờ phút đó đã đến rồi em yêu ạ. Anh yêu em rất nhiều. Hãy nhớ chăm sóc bản thân và luôn nhớ rằng anh đã yêu em nhiều hơn bất cứ cái gì trên đời. Anh chỉ quên không nói với em điều đó mà thôi.

Anh yêu em!

Bill."
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

KIÊM THÊM, CON ĐƯỜNG TÌNH MỘT ĐỜI

Trần Kiêm Đoàn

Image
Kiêm Thêm trên đồi Monterey tháng 6 - 2010

Kiêm Thêm thường được mệnh danh là một “nhà thơ Huế”.

Thi sĩ sẽ trở thành nhà thơ khi hồn thơ và cảm xúc lãng đãng mơ hồ nghệ sĩ “của chàng” được nối kết và vận dụng nên những vần thơ, những tác phẩm thi ca. Nhà thơ là một hành giả đi trên con đường tình. Bản chất và đối tượng của Thơ là Tình. Tình gì cũng được, miễn sao đừng bị đông cứng và đóng khung trong ngõ hẹp thuần lý. Cho dẫu đó là tình thương, tình yêu, tình cảm, tình hận, tình nồng, tình bâng quơ thì vẫn nằm trong… “khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”! Và đối tượng của tình – có thể là ân tình, nghĩa tình, thâm tình, bạc tình, chung tình, vô tình – thì cũng không thoát ra khỏi những tầng số rung động từ cực tiểu cho đến cực đại; từ cạn đến sâu; từ thô đến tế của cảm xúc xốc nổi hay triền miên trong thế giới Tình bao la không hình tướng.

Một thời, đâu cũng ngót nghét 60 năm về trước, Kiêm Thêm bỗng nổi danh trong đám học trò Huế khi dám khoác thêm trên vai áo học trò của mình, chiếc áo phiêu linh của chàng lãng tử tài hoa qua mấy câu thơ:

Ô hay Xuân ngã trong lòng rượu
Nhân thế nhìn nhau lảo đảo cười.


Có thể nói nghiệp thơ đến với Kiêm Thêm ngang với tuổi đời của mình; nên Thơ là con đường tình một đời.

Kiêm Thêm đã làm thơ khi tôi còn là một chú bé quê học trường làng. Thuở ấy, ở những vùng quê nông thôn như làng Liễu Hạ của chúng tôi, được lên “Dinh” học là đã khó khăn lắm rồi. Lại còn được gọi là thi sĩ như Kiêm Thêm thì thật là… điểm nóng đầy thu hút cho bao nhiêu cặp mắt xanh của những nàng thôn nữ xinh như lúa mới liếc về. Thơ của Kiêm Thêm vốn đã lấp lánh mực xanh, mực tím của mấy o nữ sinh Đồng Khánh; nay còn thêm hương vị nồng nàn của những con đường tình sử chân quê thì tình tự quê hương thơ nào chở hết!

Thế nhưng, cả một đời, Kiêm Thêm vẫn là con chim nhỏ tha từng cọng rơm xây hoài hạnh phúc. Tập thơ mà tôi được đọc đầu tiên của Kiêm Thêm là thi phẩm Cọng Rơm và Giã Biệt. Có những câu mà hơn năm chục năm sau tôi còn nhớ mường tượng như nét phác thảo đời thường:

… Như con chim nhỏ
tha từng cọng rơm.
Bấy nhiêu tháng, bấy nhiêu năm
xây hoài hạnh phúc.


Hình như hạnh phúc của Kiêm Thêm là được sống chung thủy với thơ như chung thủy với chính mình. Thật vậy, trên một chặng đường dài nơi quê mẹ và quê người, số phận của con người Việt Nam trong chiến tranh, trong hận thù áp bức, trong chiều tàn của biên kiến, vô minh cũng bập bềnh như bè lau trôi sông. Chiến đấu cho sự sống còn của bản thân và gia đình đã khó. Mang nghiệp dĩ làm thơ, giữ cho thơ mình đừng thành phế liệu chiến tranh sau khi cuộc chiến đã tàn; giữ cho hồn thơ đừng tắt ngúm nơi quê người trong cảnh tha hương tỵ nạn còn muôn vàn lần khó hơn. Nhưng Kiêm Thêm, cũng như tầng lớp nghệ sĩ Việt Nam đồng thời và nói như Phùng Quán, sau bao lần gục ngã vịn thơ mà đứng dậy.

Trên quãng đường dài trên 50 năm, thơ Kiêm Thêm như một nhịp thở đều đặn. Thơ Kiêm Thêm có mặt khắp nơi trên báo chí và môi trường truyền thông của miền Nam trước 1975. Sau năm 1975, thơ Kiêm Thêm xuất hiện ở Hải ngoại như một tiếng chim gọi đàn. Gọi niềm nhớ quê hương, gọi kỷ niệm một thời chia lìa thành quá khứ, gọi ân tình nhìn rõ mặt nhau. Không uốn éo điệu trí thức, không lập dị cách tân, không thay hình đổi dạng, không pop-up (có chữ chi hay hơn?!) những thông điệp nhất thời, Kiêm Thêm giữ cho thơ mình tiếp nối những bước đi tới vững vàng, không hề suy suyễn.

Sự phóng khoáng về niêm luật, tính linh động về vần điệu và lối diễn cảm triết lý mà dung dị như rong chơi trong thơ là những nét độc sáng làm cho thơ Kiêm Thêm không cũ với thời gian, không mới với trào lưu thời thượng. Nhưng trên tất cả là ngọn lửa – chỉ một nhưng hình sắc và sự ẩn chứa không hề lập lại giống nhau – vẫn cháy nồng nàn trong bếp lửa thơ chưa bao giờ nguội tắt của Kiêm Thêm.

Sau tập thơ Hải Đường Say Nắng ra mắt năm ngoái, năm nay Kiêm Thêm vừa mới xuất bản tập thơ Ngôi Nhà Trên Đồi Monterey Hills (Los Angeles 2010). Người yêu thơ Kiêm Thêm lấy làm thú vị khi nhìn nhà thơ Huế càng về chiều càng lộng gió Nồm từ Thuận An lên; căng gió Nam từ Trường Sơn lại.

Đây là một tập thơ song ngữ (Việt – Anh). Nhưng thật ra, phần tiếng Anh không thể được liệt vào “tác phẩm thơ” mà chỉ là phần dịch ý giúp cho người nước ngoài và thế hệ trẻ không thông thạo tiếng Việt vừa đủ để hiểu ý của nhưng bài thơ tiếng Việt mà thôi. Tinh hoa của tác phẩm vẫn nằm trong phần tiếng Việt. Thi sĩ thường được gọi là “phù thủy của ngôn ngữ”; trong lúc dịch giả mới chỉ là “lái đò của ngôn ngữ” nên khách yêu thơ tự đặt mình trong giới hạn tương đối của phạm trù ngôn ngữ sẽ gặp nhiều điều đáng thưởng ngoạn bất ngờ hơn là quá chấp nhặt vào từng chữ, từng câu trong thế giới đầy mầu sắc của thi ca.

Hai tập thơ như hai nguồn nước Đông và Tây nhưng lại có điểm xuất phát và cõi trở về chung nhất. Sen ở Hồ Echo Park và sen Hồ Tịnh Tâm cách nhau thời gian 50 năm và không gian vạn lý, nhưng buổi về cũng chỉ là một dáng sương phai. Bài thơ mở đầu, Kiêm Thêm chung kết:

Vậy mà tôi đã bỏ Huế gần năm mươi năm
Hương sen vẫn ngọt trong cổ họng
Em hái trộm giùm tôi chút lá sen
Che nắng cùng mưa mỗi khi đi trên trái đất


(Sen đã nở ở hồ Echo Park)

Hồn thơ diệu kỳ cuối đời giúp Kiêm Thêm tìm ra năng lượng của Ngày Sáng Thế: Tình Yêu!

Chén rượu đắng anh vừa nốc cạn
Có hề chi đâu chuyện mất hay còn
Miễn được thấy bóng hình em ẩn hiện
Miễn được nhìn em quay mặt sau lưng

Quá khứ ấy anh đã từng nếm trải
Tình yêu kia xin trân trọng cuối đời
Dẫu chấm hết anh vẫn còn bịn rịn
Ôi ta yêu nhau


Hai mươi ba năm trước, có một lần tôi ngồi uống trà với Kiêm Thêm ở vùng đồi Monterey Hills, phía hiên sau của ngôi nhà “gần bốn mươi năm ở đó”. Ngôi nhà chỉ là một biểu tượng. Đó là biểu tượng cho một vòng tròn “Tam Cộng Nghiệp” bao quanh ba đỉnh đầu tam giác: Tuổi Xanh, tuổi Đá, tuổi Vàng – Tuổi Xanh không phá, tuổi Đá không tan, tuổi Vàng không tiếc – Tuổi Xanh trên quê Mẹ, tuổi Đá ở quê Mẹ và quê Người, tuổi Vàng ở trên đồi Monterey Hills. Và đây rồi, một tuổi Vàng tròn trịa vì có Tình Yêu.

Đối với giới nghệ sĩ nói chung và giới viết văn, làm thơ nói riêng, thì cái vòng tròn Cộng Nghiệp ấy đơn giản thế thôi, nhưng đã có mấy ai giữ được một vòng tròn cho nguyên vẹn. “Nguyên vẹn” ở đây hiểu theo một khái niệm rất đời thường là tuổi Xanh được học hành để xây dựng sự nghiệp tương lai, không nổi loạn phá phách. Tuổi Đá không ly tan (bỏ nhau, chết bất đắc kỳ tử, muốn sum vầy mà ly tán, không muốn gặp mà phải gần nhau…). Tuổi Vàng không nuối tiếc vì những mất mát đổ vỡ giữa lưng chừng đời được bù đắp bằng sức mạnh và nội cảm của mối tình duyên nghiệp có hai người – có khi vô hình vô ảnh mà chỉ có những người trong cuộc mới hiểu được – biết và cảm nhận được.

Sự nếm trải… nghe như một lần mà mãi mãi:

Nỗi buồn và mắt chảy
Hạnh phúc khổ đau
Tôi đã đứng thẳng
Bước qua đường


(Gần bốn mươi năm tôi ở đó)

Bước được qua đường là tới bến, là Paramita! Đến bờ rồi. An vui.
Image
Tranh bìa thi phẩm Ngôi Nhà Trên Đồi Monterrey Hills
Vẽ ma vẽ quỷ dễ; vẽ người khó vì ma quỷ là viễn mơ hoang tưởng mà con người là hiện thực. Cũng tương tự như một họa sĩ vẽ người khi tôi nghĩ hay viết về những nghệ sĩ bà con nội ngoại trong dòng họ của mình như: Kiêm Minh, Kiêm Đạt, Kiêm Thêm, Hà Thanh, Lai Hồng, Ka Lăng, Liên Như, Thúy Vy, Trần Đoàn, Tạ Văn Tài… Một lần, anh Trần Kiêm Hàm, huynh trưởng đại diện cho phái Trần Kiêm Hải ngoại đã lên tiếng dặn dò khi đọc bài tôi viết về chị ca sĩ Hà Thanh: “Dòng họ Trần Kiêm mình có nhiều tay cự phú và khoa bảng nhưng rất ít nghệ sĩ. Chú coi mà viết cho khéo khéo về các nhân vật văn nghệ bà con nội ngoại của mình để ai cũng chia sẻ được niềm vui và chút tình văn nghệ mới đáng quý”! Dạ! Tôi đã dạ ran như vái phục mệnh trong ngày giỗ Họ. Nhưng thế giới văn nghệ có những quy ước vô hình riêng của nó. Người làm văn nghệ bình thường cũng giống như những cây thông mọc thẳng. Sự uốn lượn hay rạp mình như bìm bìm, dây leo sẽ làm cho cây thông thành cong queo, bé lại. Không hợp.Khi viết đôi dòng về Kiêm Thêm, người viết đang cắm trại với con cháu ở trên đồi Redwood bạt ngàn của rừng Sugar Pine trong dịp nghỉ lễ Labor Day. Uống một tách trà trước cảnh núi rừng còn ngái ngủ giữa sương khói; rồi nhìn rừng Redwood xăm xăm vươn thẳng đỉnh trời, tôi lại nhớ đồi Monterey Hills của Kiêm Thêm và nghĩ tới những ngọn đồi đang trò chuyện. Hình như vu vơ mà lại rất nên thơ.

Trần Kiêm Đoàn
Sugar Pine, Labor Day weekend 2010.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Truyện hai người phi công ... mất vợ

Trường Sơn Lê xuân Nhị

Khoảng đầu thập niên 80, vào một buổi tối mùa thu, trong một nhà hàng Việt Nam ở phía tây ngạn thành phố New Orleans, khoảng gần 2 trăm cựu quân nhân mà đa số là cựu quân nhân KQ, thân hữu và gia đình của họ ngồi gần nghẹt kín mấy chục cái bàn. Mùa bão tố đã qua, mọi người thở phào ra nhẹ nhỏm và bắt đầu nghĩ đến những ngày lễ lớn sắp tới như Lễ Tạ Ơn, Lễ Giáng Sinh, Tết Tây, Tết ta. Thêm vào đó, mùa chơi banh bầu dục cũng vừa bắt đầu, làm nhiều người, nhất là những người có máu đỏ đen trở nên bận rộn.
Chiều hôm ấy, tất cả đang chờ đợi một nhân vật vô cùng quan trọng ...
Trong khi chờ đợi, lòng xuân phơi phới, họ uống bia, uống rượu, nói chuyện tầm phào với nhau và đặc biệt, đốt thuốc lá thở khói dầy đặc nhà hàng làm cho mấy bà mấy cô muốn nghẹt thở nhưng không ai thắc mắc, không ai than phiền. Lý do là các bà đã chịu đựng chuyện này từ bao nhiêu năm nay, từ những ngày còn ở Việt Nam cơ cực nên đã quen rồi. Các ông có quyền hút và chúng tôi có quyền... ngửi khói, than phiền hay phản đối là ... không tốt, là ăn hiếp chồng, là sẽ có chuyện.
Ở gần cuối phòng, chỗ quan trọng nhất sát ngay sân khấu, dĩ nhiên, là một cái bàn dành cho những nhân vật quan trọng mà người Việt mình thường gọi là bàn VIP. Bàn VIP được trải khăn bàn trắng để tăng phần trịnh thượng, muốn nhấn mạnh cho mọi người thấy rằng bàn này khác với những bàn khác, đều có khăn bàn đỏ.
Trên bàn VIP là một sô nước đá, 6 chai sô đa Perrier, 4 gói thuốc lá 555, 4 cái gạc tàn, 2 chai Martin XO tức là loại rượu mắc tiền nhất và một bình hoa thật lớn ngay phía giữa. Ở trước bình hoa là một cái huy hiệu Không Quân Việt Nam bằng đồng với mấy chữ “Tổ quốc Không Gian” ôm một con rồng, coi rất là oai phong lẫm liệt. Ngoài ra, còn có muỗng nỉa các loại được sắp xếp một cách rất là mỹ thuật và khéo léo.
Ai nhìn vào bàn VIP thế nào cũng phải đoán rằng bàn này có lẽ được dành cho một nhân vật quan trọng của Không Quân Việt Nam.
Ai đoán như thế thì quả thật là ... đúng, bởi cái nhân vật sẽ ngồi vào bàn đó, và cũng cái nhân vật mà mọi người đang chờ đợi ấy chính là cựu thiếu tướng Nguyễn Kít, cựu tư lệnh Không Quân Việt Nam, cựu thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà...
Cách đây 1 tháng, khoảng 500 cái thiệp mời đã được gởi đi đến khắp mọi người trong thành phố, từ lính cho đến dân đều nhận được. Thiệp mời một số được gởi bằng bưu điện nhưng đa số là được chuyền tay bởi anh em cựu quân nhân Không Quân.
Thiệp mời được ký tên bởi cựu thiếu tướng Nguyễn Kít, nội dung muốn mời anh em cựu quân nhân và gia đình đến dùng một bữa cơm tối thân mật để bàn về một chương trình làm ăn vĩ đại, với số vốn lên tới khoảng 100 triệu đô la, do nhà băng lớn nhất địa phương là nhà băng First Jefferson National Bank bảo trợ và cho mượn vốn. Thiệp còn cho biết là sẽ có đại diện của nhà băng tới dùng cơm và nói chuyện.
Thiệp mời không nói rõ chương trình làm ăn là chương trình gì, nhưng hai cái tên, một là cựu thiếu tướng Nguyễn Kít và hai là First Jefferson National Bank cũng đủ làm cho người được mời cảm thấy mình bỗng trở thành một nhân vật quan trọng và ... có tiền. Mẹ bố, ngày xưa ở Việt Nam được tới gần ông cựu thiếu tướng đã là một vinh hạnh, làm đếch gì mà được ông tướng mời đến “dùng cơm tối thân mật” để bàn chuyện làm ăn như thế này. Thêm vào đó, con số 100 triệu đô la và cái tên nhà băng First Jefferson National Bank làm cho ai cũng thấy mình là một tay có tiền, có chút máu... tài phiệt trong người.
Nhưng dân New Orleans không phải ai cũng ngu cả...
Có một tay kia, ngày xưa làm công chức lớn ở bộ tài chánh, sang đây làm nghề kế toán, sau khi xem thiệp, nhăn mặt lại và nói với anh Không Quân vừa mời mình:
-Bố láo. Hai vợ chồng cha Kít nổi tiếng là tổ sư lường gạt ở Cali, mụ vợ chuyên môn mượn tiền không trả, ông chồng đi ăn không bao giờ trả tiền, dân Cali chán quá không ai cho lừa nữa nên mới vác mặt sang đây ăn lừa tiếp, làm đếch gì có tiền mà tính tới chuyện làm ăn tới 100 triệu đô la?
Ông Không Quân nghe thế thì đỏ mặt lên chống chế:
-Ông nói thế là ông không biết gì. Ông tướng quen lớn, oai danh khắp bốn phương trời, ông tướng muốn mượn bao nhiêu tiền chả được.
Ông công chức vốn là hạng phổi bò, nói liền:
-Ông là quân nhân, ngày xưa chỉ biết lái tàu bay, ông không biết gì mới là đúng. Để tôi giảng cho ông nghe về cách làm việc của nhà băng bên Mỹ...
Thế là ông bỏ ra nửa tiếng đồng hồ để giảng cho ông phi công nghe về cách nhà băng ở Hoa Kỳ làm việc rồi kết luận:
-Nhà băng cho vay thì phải chắc ăn, ông tướng nhà anh có gì để bảo đãm cho số tiền họ cho mượn? Vốn liếng thì không có một xu, tài thì tôi không biết làm được cái gì, và người Mỹ họ không có tình cảm, họ không cần biết tiếng tăm, họ chỉ biết lợi nhuận, làm sao họ dám cho ông tướng mượn tiền? Nói tới đây tôi mới nhớ, thiệp mời hoàn toàn không nói gì về cái chương trình làm ăn của ông tướng là gì. Ông nghĩ ông ấy sẽ làm gì ở cái thành phố ăn chơi này với số vốn 100 triệu đô la? Chỉ có bố láo mà thôi.
Ông phi công không trả lời được, lắc đầu. Ông công chức vỗ vai ông phi công nói:
-Chỗ quen biết, tôi khuyên ông, chớ có bỏ tiền ra mà đầu tư gì cả. Vợ chồng cha Kít này nổi tiếng là dân chuyên môn đi lừa thiên hạ, đừng để bị lừa.
Ông phi công không còn phản đối nữa mà bắt tay cám ơn từ giã ông công chức. Lên xe, ông phi công vừa mở máy vừa suy nghĩ. Cách đó chừng một năm, khi vợ chồng cựu thiếu tướng Nguyễn Kít từ giã Cali về định cư ở New Orleans, đủ thứ tiếng đồn đi theo vợ chồng ông. Toàn là những tiếng đồn xấu, tuyệt không có gì tốt. Là một cựu phi công, giống như bao nhiêu cựu phi công khác, anh là một người rất ngưỡng mộ ông cựu tư lệnh, cho nên anh coi những tiếng đồn đó không ra gì. Nhưng sau một năm tiếp xúc và sinh hoạt với ông tướng, anh lần lần thấy những tiếng đồn đó không phải vô căn cứ hoàn toàn. Cộng thêm hôm nay, sau khi những lời nói chân thật thẳng thắn đến từ một người mà anh rất quý mến, anh bắt đầu suy nghĩ lại...
Cha này không chừng nói đúng, nhưng anh đã trót nhận lời làm trưởng ban tổ chức cho buỗi cơm thân mật vì một lý do thầm kín mà chỉ có mình anh biết nên đành phải làm tròn bổn phận mình. Từ văn phòng kế toán, anh lái xe thẳng tới nhà hàng “Saigon Mây Bay”.
Nếu ai để ý một chút thì phải nhận ra rằng, bất cứ cái bảng hiệu nào ở hải ngoại này mà có mang những cái tên có dính dáng tới gió, mây, trời, chim chóc, không gian hay... không khí và núi non thì chủ nhân của nó nhất định phải là một ông cựu quân nhân Không Quân. Nhà hàng này cũng thế, chủ nhân của nó là một cựu phi công Việt Nam. Hai người là bạn thân nhau từ những ngày còn ở Việt Nam, cần gặp nhau để bàn nốt chương trình tổ chức sắp tới.
Chủ nhân nhà hàng “Saigon Mây Bay” đang ngồi hút thuốc uống bia với mấy người bạn thì nhìn thấy người bạn trưởng ban tổ chức bước vào, mặt mày không có vẻ gì vui lắm. Anh nói ngay:
-Nam ơi, chuyện gì mà mặt mày coi hãm tài thế? Vợ không cho ... chơi tối qua à?
Nam, tên người phi công vừa rời văn phòng kế toán, lắc đầu cười nhẹ, trả lời nửa dối nửa thật:
-Mẹ, vợ không cho làm tình thì tao còn cám ơn. Nhưng hôm nay tao thấy hơi mệt một chút thôi. Sao, còn mày thế nào, Thanh?
Thanh kéo cái ghế:
-Mày nói đúng. Tụi mình ngày càng già mà mấy mụ thì chẳng già chút nào, cứ ăn uống cho phỡn ra rồi đòi hỏi đủ thứ, làm sao trả bài cho đầy đủ như hồi còn trẻ được. Thôi, ngôi xuống đây uống một chai cho nó đỡ mệt đã rồi mình bàn chuyện. Tao có chuyện quan trọng cần hỏi mày.
Một màn bắt tay diễn ra, Nam ngồi xuống giữa mấy người, đa số cũng là cựu quân nhân Không Quân.
Sau vài hớp bia, ông chủ quán vào ngay vấn đề:
-Theo như lời yêu cầu của mày, tao đã chuẩn bị 250 phần ăn, giá 25 đô la một phần, tổng cộng là 6250 đô la.
Nam hơi giật mình:
-25 đồng một phần, sao mắc thế?
Thanh đưa tay ra phản đối:
-Tao chưa nói hết. Nhà hàng sẽ có một bàn VIP đặc biệt dành riêng cho ông tướng và quan khách không lấy tiền. Nội cái tiền rượu và tiền thuốc lá và tiền hoa của cái bàn VIP này cũng mất toi của tao hết ngàn đô la rồi. Không Quân mình không tổ chức thì thôi, còn tổ chức thì phải ra tổ chức, nếu không bằng Huỳnh Hữu Bạc ngày xưa thì cũng phải... gần gần.
Nam thành thực nói:
-Mày làm ăn thì phải có lời, tao không dám thắc mắc, tao chỉ sợ anh em than phiền thôi.
-Lại cứ lo xa. Hôm nọ uống rượu với ông tướng, ông tướng bảo tao là nhà băng First Jefferson National Bank sẽ đài thọ cho bữa tiệc này mà.
Nghe như thế thì mặt mày Nam bỗng rạng rỡ lên:
-Như thế thì tốt quá, nhưng sao tao không nghe ông tướng nói gì cả.
Thanh chưa kịp trả lời thì Nam lại tiếp:
-Nói thật với mày, mấy hôm nay tao đang lo về vụ này. Mình mời người ta tới ăn nói là để bàn chuyện làm ăn mà “chạt” tiền thì coi kỳ quá. Nếu nhà băng First Jefferson National Bank chịu đài thọ cho bữa tiệc thì còn gì tốt bằng.
Thanh vỗ vai bạn:
-Mày cứ lo xa, hôm tao nhậu với ông tướng, ông tướng mấy lần bảo tao là nhà hàng phải cho ăn uống như thế nào đừng để mất mặt ông tướng, tiền bạc không thành vấn đề. Ông tướng còn yêu thương Không Quân lắm, ông tướng không muốn Không Quân Việt Nam bị thiên hạ coi thường.
Nam nói:
-Nếu ông tướng muốn thế thì mình khỏi cần phải đặt cái bàn ngay cửa để thâu tiền của bá tánh.
-Mày là trưởng ban tổ chức, mày muốn làm sao thì tuỳ mày, phần tao, tao chỉ cần thâu đủ số vốn 6250 đồng là tao vui rồi...
-Mày khỏi phải lo chuyện đó, nhưng để tao check lại với ông tướng xem đã. Chừng nào tao nghe tận miệng ông tướng nói thì tao mới yên tâm.
Ông chủ lại nói:
-Khi mày nói chuyện với ông tướng, mày nói luôn là nhà hàng cần một nửa số tiền đặc cọc tức là 3000 đô la. Tao cần số tiền đó càng sớm càng tốt.
-Mày để tao cố gắng.
-Cố gắng cái con khỉ. Tao nói trước, không có tiền đặc cọc là không có bữa tiệc cơm thân mật đâu nhé.
Nam lườm bạn:
-Từ từ, làm gì mà ép nhau thế?
-Tao có ép là ép nhà băng First Jefferson National Bank vì chúng nó là người trả tiền chứ có ép mày đâu. Bố khỉ, Không Quân Việt Nam sao mà yếu thế. Thôi uống đi mày...
Nói thì dễ nhưng muốn gặp ông tướng không phải là chuyện dễ. Lý do là vợ chồng ông tướng không có... nhà riêng, không có chỗ ở cố định. Hôm thì vợ chồng ông tá túc ở nhà ông tá này, hôm khác lại ghé qua chỗ khác sang hơn, gần hơn. Vì thế, Nam tìm ông mấy lần mà không gặp. Thêm vào đó, Nam vẫn còn phải đi làm suốt ngày, chỉ rảnh được buổi chiều, nhưng buổi chiều thì ông tướng luôn luôn đi nhậu, không ai biết ở đâu. Nam bực mình vô cùng, nhưng đã lỡ nhận trọng trách, không thể bỏ ngang được.
Nam đã bực mình như thế nhưng có người còn bực mình hơn cả Nam. Đó là Thanh, chủ quán “Saigon Mây Bay.” Vì Nam không có nhà để nghe điện thoại cho nên mỗi ngày, Thanh để khoảng 30 cái lời nhắn trong máy của Nam. Mới đầu thì còn nhẹ nhàng nhưng càng lúc thì càng găng, và cuối cùng thì biến thành hăm doạ sẽ huỷ bỏ bữa tiệc.
Phần Nam, sau một ngày lao động mệt nhọc, về nhà bấm máy thì lại bị nghe những lời than phiền, mới đầu anh cũng thấy áy náy, nhưng sau đó thì chán nản quá, anh lờ luôn. Và chính Nam, anh cũng đã nghĩ đến chuyện huỷ bỏ bữa tiệc...
Nhưng may cho cả hai người, cỡ chừng tuần lễ trước khi tổ chức, không hiểu nhờ ngọn gió nào thổi, ông tướng nhà ta dẫn một bọn đàn em chừng 7 người kéo vào quán Saigon Mây Bay ăn nhậu.
Thanh đang ngồi ngáp vặt nhìn thấy thì liền đứng lên dơ tay chào ông tướng theo kiểu nhà binh, xun xoe:
-Kính mời thiếu tướng và anh em ngồi.
Ông tướng cũng chào đáp lễ theo kiểu nhà binh, chia nhau ra ngồi và hỏi tới tấp:
-Quán cậu có gì ăn ngon nhất?
Chủ quán chưa kịp trả lời thì ông tướng lại hỏi:
-Quán cậu có cổ nhắc XO, đem ra vài chai coi. Sô đa Perrier nhé, thứ khác không uống được.
Cứ thế và cứ thế, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ, trên bàn đã toàn la liệt đồ ăn cùng thức uống. Toàn là thứ mắc tiền. Rượu thì XO, thức ăn toàn là tôm hùm, bí tết. Mọi người ăn uống tận tình, cười nói oang oang, văng tục bừa bãi, ai nhìn vào đố đoán được một người ngồi trong bàn ngày xưa cũng đã làm đến tư lệnh Không Quân Việt Nam.
Chờ cho đến khi ông tướng ăn xong, Thanh mới bạo gan hỏi:
-Thưa thiếu tướng, em muốn hỏi thiếu tướng một việc nhỏ ạ.
-Thức ăn nhà hàng này cậu làm ăn được đấy, tôi gởi lời khen... hỏi thì hỏi đi.
-Thưa thiếu tướng, thiếu tướng còn tính tổ chức đêm nói chuyện về cái công ty lớn của thiếu tướng không ạ?
Ông tướng đưa cặp mắt ngầu đỏ sau gần nửa chai XO nhìn Thanh hỏi:
-Tổ chức chứ sao không? Sao cậu hỏi thế?
-Trình thiếu tướng, em có nói chuyện với ông Nam. Không biết ông ấy có nói với thiếu tướng chưa.
Ông tướng bỗng đâm cáu:
-Chuyện gì thì nói mẹ nó ra, ỡm ờ mãi.
-Thưa thiếu tướng, em muốn xin thiếu tướng cho một ít tiền đặc cọc trước ạ. Thiếu tướng thông cảm cho em, sở hụi cho mấy trăm người lớn lắm ạ, em lo không xuể.
Ông tướng xem như ngố ra một lúc nhưng rồi ông hỏi ngay:
-Thế thì thằng Nam nó tổ chức ở đây à?
-Vâng, thưa thiếu tướng, em tưởng thiếu tướng biết ạ?
Ông tướng không trả lời mà lại đưa mắt nhìn một vòng khắp nhà hàng. Ông hơi nhăn mặt lại một chút rồi hỏi:
-Chỗ này chứa được bao nhiêu người?
-Thưa khoảng 250 thì dễ dàng. 300 thì hơi chật một tí ạ.
-Thế thì thằng Nam nó không tìm được chỗ nào lớn hơn và sang hơn một chút sao?
Nam cúi mặt nhìn xuống đất, ráng che dấu một nỗi buồn vừa dấy lên trong lòng:
-Trình thiếu tướng, đối với Việt Nam mình thì chỗ này là sang nhất và ngon nhất vùng West Bank đấy ạ.
Ông tướng lắc đầu mấy cái:
-Đúng là chốn nhà quê nhà mùa có khác. Cái quán tí tẹo bằng lỗ mũi như thế này mà cũng dám đặt tên là Saigon Mây Bay thì to gan thật. Phải gọi Hố Nai ruồi đậu thì nghe nó đúng hơn... hì hì...hà hà...
Bọn đàm em ông tướng ngồi trên bàn, nghe như thế thì bật cười lên rầm rộ. Lại có thằng còn đập cả bàn, làm như đắc ý lắm. Lạ một điều là Thanh cũng cất tiếng cười theo.
Vợ Thanh đứng trong quầy nhìn ra, chỉ muốn chạy tới tát cho lão già ... thiếu tướng ăn nói mất dạy một bợp tai rồi muốn ra sao thì ra nhưng chẳng dám. Chị đang suy nghĩ xem thử ai sẽ trả tiền bữa ăn tối hôm nay. Đây không phải là lần đầu tiên ông tướng đến ăn ở đây rồi lờ đi, người nọ dục người kia rồi cuối cùng chẳng có ai trả tiền cả. Chị quyết tối nay sẽ gọi cảnh sát nếu họ không trả tiền ăn nhậu.
Ông tướng bỗng ngưng cười. Ông hỏi:
-Thằng Nam chịu trách nhiệm buổi tổ chức này. Nó đâu rồi?
-Trình thiếu tướng em không biết ạ.
-Cậu gọi nó ra tôi hỏi chuyện coi.
-Vâng ạ.
Thanh quay lui đi vào trong quầy, nhấc ống điện thoại, quay số. May quá, Nam là người bốc máy lên nghe.
-Nam đấy hả, Thanh đây mày. Ông tướng đang ăn nhậu ở tiệm tao, ổng cho gọi mày ra gấp.
-Mày chờ đấy, 25 phút nữa tao có mặt.
Gác điện thoại, Thanh thở phào ra một cái. Có thằng Nam đây thì thế nào ông tướng cũng phải xì tiền ra...
Thanh trở ra. Ông tướng lại bảo:
-Này, cho thêm chai XO, mấy chai Perrier, thêm nước đá, thuốc lá.
Thanh trả lời:
-Thưa thiếu tướng, có ngay ạ.
Cứ như sự thường thì khách càng gọi nhiều thì chủ nhân càng mừng, nhưng không hiểu sao, Thanh lại thấy lo lo trong bụng.
Nửa tiếng đồng hồ sau, Nam đã đứng trước mặt ông tướng Kít, dơ tay lên chào kiểu nhà binh, giống y hệt như ngày xưa anh còn ở trong quân đội.
Ông tướng cười, chỉ vào cái ghế sát đó:
-Ngồi xuống đây. Uống cổ nhắc nhé.
-Vâng, xin cám ơn thiếu tướng.
Khỏi cần ai mời, Thanh cũng tự động kéo ghế ngồi xuống cạnh Nam...
Sau vài ly rượu, ông tướng hỏi:
-Cậu nhận trách nhiệm tổ chức buổi tiệc, công việc đến đâu rồi?
Thanh trình bày mọi chuyện rồi kết luận:
-Tôi có hai vấn đề trước mặt xin phép muốn hỏi thiếu tướng.
-Hỏi đi.
-Thưa thiếu tướng, thứ nhất, tôi nghe nói nhà băng First Jefferson National Bank sẽ tài trợ bữa tiệc này, và nếu thế, mình có cần phải thâu tiền của người dự tiệc hay không.
-Dĩ nhiên là nhà băng họ đài thọ, nhưng cậu vẫn phải thâu tiền trước để nếu cần thì mình có tiền để xài vào việc khác.
Nghe như thế thì cả Nam lẫn Thanh đều nẩy lên những thắc mắc trong đầu nhưng không tiện hỏi đành lờ luôn. Nam hỏi sang câu hỏi thứ hai, rắc rối hơn:
-Thưa thiếu tướng, ông chủ nhà hàng đây cần 3000 đô la tiền đặc cọc cho bữa tiệc ạ.
Một câu hỏi ai cũng tưởng là khó khăn lắm nhưng ông tướng trả lời liền một cách dễ dàng, không cần phải suy nghĩ:
-Đã nói nhà băng đài thọ thì họ phải trả tiền. Cậu cứ ứng trước cho tôi đi, nhà băng sẽ trả lại cho cậu.
Nam ú ớ, mặt mày tái xanh lại với số tiền khổng lồ mà mình không có:
-Thưa thiếu tướng, em ... em ... không có... không có...
Ông tướng cười dễ dải:
-Cậu có bao nhiêu cứ đưa trước cho ông chủ, trước sau gì thì nhà băng họ cũng trả mà.
Nam nhìn Thanh. Thanh nhìn Nam. Hai người nhìn nhau, máu họng muốn trào ra nhưng không nói được gì. Ông tướng lại buôn một câu xanh dờn khác:
-Nói cho các cậu biết, tiền tôi đầu tư bạc triệu vào cái chương trình này, nhưng tôi làm gì giữ tiền mặt trong người. Các cậu làm việc với nhau. Mai mốt đại công ty thành công lớn, tiền vào như nước thì công của các cậu không nhỏ đâu đấy nhé...
Nam muốn phản đối nhưng lưỡi như cứng lại. 3000 đô la là một số tiền tuy không lớn lắm nhưng đối với những người làm việc lãnh lương tháng như Nam là cả một năm trời dành dụm.
Anh chưa kịp nói gì thì ông tướng đã quay sang nói với Thanh:
-Cậu cho tôi cái bill.
Nghe như thế thì Thanh ... mừng quýnh lên, đứng dậy liền như một cái lò xo, quên tuốt luôn chuyện tiền đặc cọc đang thương lượng dở dang. Anh chạy vào, hớn hở bảo với vợ, mặt mày tươi rói lên:
-Cho ông tướng cái bill gấp, ông tướng trả tiền.
Mụ vợ lườm chồng một phát, nguýt nhỏ:
-Người ta ăn uống người ta trả tiền là chuyện thường tình, việc chó gì mà phải mừng phải sướng lên như thế?
Thanh cũng không vừa, gắt lại:
-Đàn bà chẳng biết gì cả. Xưa nay ông ấy ăn uống ông ấy có bao giờ trả tiền đâu.
-Tại anh quá nhu nhược, lần này mà không trả tiền thì tôi gọi cảnh sát đấy. Thiếu tướng thiếu tá gì mà ăn không giả tiền là tôi cho vào tù hết.
Thanh trừng mắt nhìn vợ, nạt nhỏ:
-Hôm nay em ăn nói hay quá nhỉ. Cứ đưa bill đây cho tôi, khỏi có nói gì lôi thôi cả.
Thanh cầm cái bill đựng trên một cái đĩa ra, lễ phép cúi đầu để trước mặt ông tướng rồi đứng chờ.
Nhưng ông tướng chừng như không nhìn thấy, cứ tiếp tục nâng ly rượu lên uống. Rồi ông thò tay đẩy cái đĩa vào sâu phía bên trong, gần đám đàn em đang ngồi...
Thanh kiên nhẫn đứng chờ, hy vọng một người nào đó sẽ ra tay nghĩa hiệp.
Nhưng hành động nghĩa hiệp thường chỉ có trong phim Tàu, ít khi nào xảy ra trong một nhà hàng Việt Nam trên đất Mỹ. Bọn đàn em của ông tướng nhìn nhau rồi tảng lờ, làm như chẳng thấy gì, y hệt đàn anh.
Ông tướng quét cặp mắt ... lồi nhìn lướt qua bọn đàn em. Ông biết tỏng đàn em mình, cũng như mình, chẳng có thằng nào có tiền để trả. Chuyện này dễ hiểu bởi vì ở đất Mỹ này, muốn có tiền thì phải làm lụng, còn bọn đàn em của ông, giống như ông, chẳng thằng nào có công ăn việc làm cả, tối ngày chỉ chơi bời đàn đúm, nếu không đi ăn cướp hoặc ăn xin thì làm gì có tiền.
Nhưng ông tướng vốn là một người mưu mẹo, luôn luôn có những sáng kiến khi cần thiết. Ông liền cầm tờ giấy tính tiền lên, liếc nhìn qua rồi hỏi Thanh:
-Cậu muốn tôi cho cậu bao nhiêu tiền tip?
Một câu hỏi thật là bất ngờ. Thanh trả lời:
-Thưa, thiếu tướng đến tiệm em ăn uống là em vui rồi, thiếu tướng muốn cho bao nhiêu cũng được.
-Thế thì tôi cho cậu 300 được không.
Thanh nói ngay:
-Trình thiếu tướng, cái bill chỉ có 500 đô la, thiếu tướng cho như thế là nhiều quá, em chẳng dám.
Ông tướng đưa cái dĩa có cái giấy tính tiền lại cho Thanh, nhăn mặt nói:
-Cậu buôn bán mà ăn nói sao yếu như thế thì chừng nào mới giàu được? Cậu phải đòi cho nhiều thêm chứ. Đây, tôi cho cậu 300 đô la tiền tip, cậu cứ ghi vào chi phí cho tôi, hôm nào nhà băng thanh toán tiền, cậu cứ giữ lấy...
Thanh tái mặt lại, không nói được một lời. Không nói được nhưng bỗng nghe được tiếng quát của mụ vợ từ phía bên trong:
-Đồ khốn nạn...
Thanh giật mình, cùng mọi người quay mặt nhìn vào.
Ở phía sau quầy, vợ Thanh cầm cái gì đó đập xuống quầy nghe đến rầm một tiếng rồi chửi đổng:
-Đồ khốn nạn, quân ăn cướp... Bộ mấy người tưởng tôi lấy gió làm ra rượu ra thịt cho mấy người ăn uống sao...
Thanh hoảng hồn chạy vào trong, vừa chạy vừa nói với vợ:
-Em sao thế...
-Sao cái gì? Bị ăn quịt thì chửi chứ còn sao gì nữa. Đây không phải là lần đầu bọn này đến đây ăn quịt...
Thanh nắm tay vợ kéo tuột vào nhà bếp, anh nói:
-Chuyện đâu còn đó, em bình tĩnh cho anh một chút được không nào?
Vợ Thanh hất tay anh ra, trả lời:
-Bình tĩnh làm sao được. Bọn khốn nạn này ăn quịt vợ chồng mình bao nhiêu lần rồi, làm sao bình tĩnh được.
Thanh nhỏ nhẹ:
-Em phải nhìn xa một chút. Anh đang chuẩn bị cái bữa tiệc gần 7 ngàn đô la cho ông tướng. Khi tiệc xong, mình đòi cũng chưa muộn cơ mà. Hơn nữa, nhà băng họ sẽ đài thọ, mình có thể tăng giá tiền bữa tiệc lên để lấy lại vốn...
Vợ Thanh ứa nước mắt ra:
-7 ngàn đâu chưa thấy, đã thấy mất toi 500 bạc. Anh nghĩ lại xem, kể từ khi thằng thiếu tướng khốn nạn nhà anh về đất New Orleans này, vợ chồng mình bị nó và đàn em nó ăn quịt bao nhiêu lần rồi.
-Anh rất thông cảm với em, anh cũng đứt ruột ra từng khúc đây... Nhưng em phải nhớ, dù sao thì ống cũng là ... là ... cựu phó tổng thống, tiền bạc thiếu gì, nhưng ông ấy tạm thời đang kẹt, mình không nên ép ổng quá...
Vợ Thanh khóc lên rưng rức, không còn kềm chế được:
-Em nói cho anh biết, nếu lần này mà anh không thâu được tiền bữa tiệc là vợ chồng mình chia tay nhau. Em nói thật...
Thanh không nói gì, chỉ cúi gầm mặt và xoay người bước ra ngoài. Anh không ngờ vợ anh có thế nói được với anh một câu tàn nhẫn như thế.
Ở bên ngoài, mọi người đã rút đi hết, chỉ còn mình Nam ngồi cúi đầu ủ rũ bên bãi chiến trường ngổn ngang bát đĩa...
Thanh kéo ghế ngồi xuống gần bạn. Hai ông phi công ngồi im bên nhau như thế một lúc rồi Nam chợt mở miệng hỏi:
-Mày thấy thế nào?
-Tao cũng không biết phải suy nghĩ như thế nào nữa. Vợ tao vừa mới đòi bỏ tao đấy. Tao không ngờ chuyện lại vỡ lớn ra như thế.
-Mẹ, tao là vợ mày thì tao đã bỏ mày từ lâu rồi.
-Tao lạy mày, tao đang muốn tự tử chết đây.
Nam làm một ngụm rượu, hỏi:
-Mày có muốn huỷ bỏ bữa tiệc không?
Thanh suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu:
-Không, vì 3 lý do. Thứ nhất, chỗ này là chỗ làm ăn, thiệp mời đã gởi đi rồi, tao mà bỏ thì mất hết uy tín. Thứ hai, nếu tao mà bỏ thì sẽ mất hết cả chì lẫn chài, chẳng bao giờ lấy lại được số tiền bị ăn quịt. Hơn nữa, dù sao thì mình cũng nên trọng ông tướng một chút. Thứ ba, ông tướng có bảo tụi mình có quyền thâu tiền. Tao nghĩ, trong khi chờ nhà băng hoàn tiền, tao có thế sử dụng số tiền mình thâu quan khách ngày hôm đó.
Nam gật gù cái đầu, vỗ vai bạn:
-On second thought, nếu tao là vợ mày, chưa chắc tao đã bỏ mày đâu.
-Tiên sư bố nhà mày. Chưa biết vợ mày bỏ mày trước hay vợ tao bỏ tao trước...
Tối hôm bữa tiệc, trong quán Saigon Mây Bay, Nam bận đồ vét, đi qua đi lại trên sân khấu, tay cầm mi-crô, bộ điệu rất là trang trọng. Nam có đủ lý do để trở thành... trang trọng. Anh là người MC cho buổi tối hôm đó...
Đúng hơn, cũng chính vì cái “giấc mộng MC” mà anh nhận lời đứng ra tổ chức chương trình cơm thân mật tối hôm nay cho ông tướng.
Nam là một con người tốt nhưng phải cái tật ham nói và mê làm MC. Khi đứng trên sân khấu với cái mi-crô trong tay, anh luôn luôn có cảm tưởng là mình đang đứng trên... thiên đàng. May là tướng tá anh cao ráo, mặt mũi dễ nhìn và ăn nói cũng tạm được nên thường được thiên hạ mời làm MC vào các dịp lễ lạc. Cách đó mấy tháng, trong một buổi nhậu, ông tướng hỏi ai muốn đứng ra tổ chức chương trình cơm thâm mật, anh tình nguyện đứng ra tổ chức. Mình đứng ra tổ chức thì cái chức MC chắc chắn phải lọt vào tay mình, Nam chắc chắn như thế.
Mà nó ... như thế thật. Sau bao nhiêu khó khăn thì cuối cùng cái giấc mộng MC của Nam cũng đạt được. Quan trọng hơn cả, bữa tiệc tối hôm nay không phải là bữa tiệc thường. Bữa tiệc tối hôm nay là bữa tiệc đông nhất thành phố, với sự hiện diện của cựu thiếu tướng Nguyễn Kít và 100 triệu đô la bay lờ lững đâu đây trong gió. Suốt một tháng qua, anh đã chuẩn bị những câu nói, những lời giới thiệu, những câu hài hước mà anh góp nhặt được trên báo, trong các chương trình ca nhạc. Thỉnh thoảng, anh đứng trước gương trong phòng tắm, cầm cái lược của vợ đưa lên miệng tập nói như nói vào micrô. Anh tự pha trò rồi tự cười lấy. Có lúc lại vung tay múa chân như một... thằng khùng. Một lần, vợ anh bất ngờ bước vào nhà tắm, nhìn thấy anh như thế thì lắc đầu ngán ngẩm nhưng không nói gì.
Trong lúc Nam đi lại trên sân khấu mặt mày trang trọng thì Thanh đứng khoanh tay tại cửa, nơi có kê một cái bàn dài để cho quan khách ký tên lưu niệm. Nói là lưu niệm nhưng thật ra, đó là nơi vòi tiền quan khách. Ba nàng “Người đẹp không quân” ngồi thành một hàng, tha thước trong chiếc áo dài xanh da trời. Trên bàn là một cuốn sổ và bên cạnh cuốn sổ là một cái hộp đựng tiền. Một trong ba nàng là vợ Thanh, ngồi ngay chính giữa, cười nói luôn miệng. Ai cho bao nhiêu, Thanh đều ghi nhớ trong lòng.
Thiệp mời 7 giờ tối nhưng mãi đến hơn 8 giờ, phái đoàn của ông tướng mới đến. Bước vào đầu tiên là 3, 4 ông mặt mày nghiêm trang và trang trọng như đi duyệt binh ngày lễ. Ông tướng đi sau, chung với phu nhân mình là bà Trâm. Kế bên bà Trâm là một người mập tròn, nước da đen, trán hói, cặp môi dày và thâm sì như da trâu.
Người ấy là cựu thiếu tá Đặng Tây, đến từ Houston. Tây có viết được mấy bài báo và thơ đăng trên tờ Lý Tưởng ở Houston và nhờ đó, đi đâu Tây cũng luôn luôn tự giới thiệu mình là “Nhà văn Không Quân,” dù không ai có thế hiểu được “nhà văn không quân” nó khác với nhà văn thường ở chỗ nào.
Vợ Thanh nhìn thấy phái đoàn ông tướng thì nhăn mặt lại một chút rồi mới gượng được một nụ cười giả dối và nói:
-Kính mời các anh ký sổ lưu niệm cho chúng em.
Chẳng ai trả lời vì chẳng ai có tiền, cứ tiếp tục đi thẳng. Ông tướng và bà tướng cũng lờ luôn, chẳng dám nhìn mấy người đẹp. Nhà văn không quân liếc nhìn mấy em, khen “Mậy o ăn chi mà đẹp rứa hỉ” rồi đi luôn.
Nam nhìn thấy phái đoàn thì liền lớn tiếng nói như hét vào micrô:
-Kính thưa quý vị, chúng tôi vừa nhìn thấy thiếu tướng Nguyễn Kít và phái đoàn vừa bước vào, xin quý vị cho thiếu tướng và phái đoàn một tràng pháo tay thật lớn, thật to để chào mừng quan khách...
Tiếng vỗ tay vang lên như sấm động. Nam thích quá, nói luôn:
-Kính thưa quý vị, ngoài thiếu tướng và phu nhân, chúng tôi còn nhận thấy sự hiện diện của nhà văn không quân tài hoa nổi tiếng Đặng Tây biệt hiệu Phong Tình, cây viết cột trụ số một của báo Lý Tưởng, nhà thơ vĩ đại nhất thành phố Houston. Xin quý vị cho nhà văn không quân Phong Tình tài hoa bay bướm một tràng pháo tay...
Lại vỗ tay. Chờ một lúc, Nam tiếp:
-Được biết, nhà văn không quân Phong Tình trước kia là một phi công lái tàu bay vận tải tài hoa số một...
Nam vừa nói đến đó thì có một bàn tay níu áo mình. Anh nhìn lại thì nhận ra đó chính là nhà văn không quân Phong Tình đang đứng trước mặt mình. Anh giật mình đánh thót, chưa kịp nói gì thì nhà văn đã khoác tay nói giọng Nghệ An nghe đặc sệt:
-Anh giợi thiệu con khị chi mà loạ rựa hỉ? Anh đưa tôi cại micrô hỉ.
Nam ngạc nhiên quá đổi, không biết phải phản ứng như thế nào. Nhà văn lại nói:
-Anh đưa Micrô đi hỉ, ông tướng nọi tôi làm MC tội nay. Đựng buộn hỉ.
Mẹ, như thế thì còn gì là giấc mộng MC của mình nữa. Nam cảm thấy trời đất quay cuồng, muốn té xỉu ngay trên sân khấu. Lại có một người nữa trong phái đoàn ông tướng tiến tới gần, dục:
-Đưa micrô cho ông Tây đi. Lệnh của thiếu tướng.
Nam muốn ứa nước mắt, đưa cái micrô cho nhà văn không quân rồi líu ríu bước xuống, tai còn nghe được người MC mới tự giới thiệu mình:
-Kịnh thưa quỵ vị, tôi vâng lệnh thiệu tượng lạm MC cho bựa tiệc tội nay...
Tây nói lung tung một hồi, toàn là những câu pha trò rẻ tiền và đôi khi lại còn tục tỉu nữa, nhưng mọi người lại cười vang...
Nam líu ríu đi về phía cuối phòng, mắc cỡ quá, chỉ muốn độn thổ cho xong. Lúc nãy mặt anh trang trọng bao nhiêu thì bây giờ xìu lại và đau khổ bấy nhiêu. Ra tới cửa, anh toan mở cửa bước ra bỏ về thì Thanh kéo anh lại, hỏi:
-Tao tưởng mày làm MC mà, sao lại để cho thằng khùng đó lên?
Nam nghiến răng, chửi thề:
-Đeo mẹ thằng nhà văn chó đẻ. Nó dành chức... MC của tao. Nó mà nhà văn cái đếch gì, ăn nói nham nhở nghe không chịu được.
Thanh phẫn nộ dùm cho bạn:
-Cũng tại mày tâng tốc nó quá đáng... Tao biết thằng này, văn chương mẹ gì nó. Nhưng tại sao mày đưa micrô cho nó?
Nam lắc đầu, thở dài:
-Nó bảo ông tướng ra lệnh cho nó. Biết thế thì tao đếch thèm giới thiệu thằng chó đẻ.
-Thôi ngồi xuống đây uống với tao một ly cho hạ hỏa đi.
Nam ngồi xuống, nhận ly rượu từ tay Thanh. Đang chán đời, anh làm luôn một lúc 4 ly đầy rồi ợ lên một phát thật lớn, cảm thấy nhẹ nhỏm trong lòng đôi chút. Nhìn thấy vợ Thanh đang đếm tiền, Nam liền hỏi:
-Tối nay thâu được bao nhiêu hả chị?
-Gần 6 ngàn đấy anh. Cũng đỡ. Mấy hôm nay vợ chồng chúng tôi lo quá.
Thanh ngồi gần đó cũng nói thêm vào:
-Thật là phải cám ơn trời phật... Nói ra thì xấu hổ nhưng mình mở nhà hàng bán thức ăn mà cứ như là đi ăn xin ăn mày...
Nam nói:
-Nói thật với hai ông bà là tôi cũng lo giùm cho hai người... Bọn nhà băng Mỹ chúng nó làm việc lâu lắm, mà chưa chắc là đã có tiền.
Vợ Thanh nói:
-Đồng tiền nắm trước là đồng tiền khôn. Cứ giữ nó đây cái đã, hôm nào nhà băng họ trả tiền thì mình trả lại cho ông tướng. Mình chẳng muốn giật ai nhưng cũng chẳng muốn ai giật mình.
Bên trong, có tiếng giới thiệu ông tướng lên nói chuyện bằng một giọng Nghệ An đặc sệt và những lời tâng bốc nịnh bợ lố lăng quá đáng. Lại vỗ tay như sấm động rồi tiếng nói của ông tướng bay ra:
-Anh em cựu quân nhân và công chức nghe tôi nói, cổ nhân ta có câu: “Nhất phá sơn lâm nhì đâm hà bá”, tôi lập lại là đâm hà bá chứ không phải đâm... đàn bà đâu nhá. Đâm hà bá thì ra tiền còn đâm ... đàn bà thì ... sưóng nhưng hao tiền tốn của lắm, hì hì...
Mọi người nhao nhao lên cười sặc sụa, cười đến muốn té xuống đất. Thanh cũng cười nhưng mụ vợ nhăn mặt lại, thò tay véo vào đùi chồng một phát:
-Ăn nói nham nhở như thế mà anh cũng cười được à?
Ông tướng tiếp:
-Tại sao lại phải đâm hà bá? Đúng thế, chúng ta phải đâm ... chết mẹ hà bá bởi vì...
Tướng Kít nói một thôi dài, vừa nói vừa pha trò. Đại khái, ông cho biết, ông sẽ mở một vựa cá ngay tại thành phố này. Vựa cá của ông sẽ là vựa mua bán tôm cá lớn nhất tiểu bang Lousiana, chưa hề có trong lịch sử, với những máy móc tối tân nhất thế giới và sẽ tạo công ăn việc làm cho khoảng 500 người địa phương. Dĩ nhiên, ông sẽ mướn toàn người Việt Nam, cựu phi công càng tốt. Vựa cá của ông sẽ mua tôm cá của “bọn ngư phủ” địa phương và Việt Nam giá 1 đô la một pound, bán ra 5 đô la một pound, lời sơ sơ 4 đô la một pound, sau khi trừ chi phí, còn lời 3 đô la một pound. Ông dự trù, vựa cá của ông mỗi ngày sẽ bán khoảng vài trăm ngàn pound, tiền vô cứ gọi là đếm không hết, chắc phải mướn security của Mỹ để canh tủ tiền... Nhà băng First Jefferson National Bank sẽ cho ông mượn khoảng 80 triệu đô la, và ông cần thêm 20 triệu đô la để lo mấy việc lặt vặt. Ông kêu gọi anh em cựu quân nhân mua cổ phần vựa cá.
Ông kết luận:
-Ai muốn ... chơi hà bà thì bỏ tiền ra mua cổ phần vựa cá của tôi. Tiền anh em bỏ vào càng nhiều thì sẽ lấy về càng nhiều, sau này con cháu sẽ nhà cao cửa rộng, mặc sức tung hoành...
Ông tướng vừa nói tới đó thì bà Trâm, phu nhân ông tướng xuất hiện, tiến ngay tới chỗ vợ chồng Thanh và Nam đang ngồi.
Phải thành thực mà nói, bà Trâm là một người đàn bà đẹp hơn mức trung bình. Chẳng những đẹp, trời còn cho bà cái tướng quý phái, lịch sự. Thêm vào đó, bà lại biết cách diện đồ, ăn bận khéo léo, luôn luôn theo đúng thời trang. Vì những lý do đó, mọi người, từ đàn bà đến đàn ông, ai cũng thích gần gũi bà. Đàn bà thích gần gũi để học những cái hay, cách trang điểm, cách diện quẩn áo, còn đàn ông thì để ... dê bà. Thiên hạ đồn, bà là một người rất đa tình. Và đối với đàn ông, hễ đàn bà càng đa tình thì ... càng tốt, miễn là người đó không phải là vợ mình.
Thanh và Nam cũng không tránh khỏi định lệ... đàn ông quái quỷ này cho nên khi nhìn thấy bà phu nhân bước tới, hai ông cựu phi công liền đứng lên, cười tươi như hoa, đon đã mời bà ngồi. Bà Trâm cũng cười tươi như hoa, ngồi xuống, ghép chân vào nhau, để lộ một phần đùi hở hang và đẩy đà và trắng phau, thơm như múi mít.
Cả Thanh và Nam cùng nuốt nước bọt một phát khi nhìn thấy cặp đùi...
Ngay cả vợ Thanh, khó tánh như thế mà khi thấy bà ngồi xuống nơi bàn mình cũng cảm thấy hãnh diện vô cùng. Trong tiệm này có bao nhiêu bàn sao bà không ngồi, lại chọn bàn mình để ngồi.
Thanh nhanh nhẩu nói, cặp mắt dán chặt vào cái phần vú hở của bà phu nhân:
-Thưa cô, ý quên thưa phu nhân bà tướng, ý quên... xin lỗi, phu nhân ông tướng, dùng gì để tôi đi lấy ạ.
Vợ Thanh muốn tát cho chồng một phát nhưng phải nhịn.
Bà Trâm liếc mắt đưa tình với Thanh, làm như ngầm nói rằng “tôi biết anh đang nhìn vú tôi đấy nhá, đồ khỉ” rồi ỏn ẻn nói:
-Gì cũng được nhưng xin anh cho ly nước cam ạ.
Thanh cười thật tươi, quay sang bảo cô bồi đứng gần đó:
-Em cho bà tướng ly nước cam vắt nhé, làm cho kỹ, cho đẹp, cho khéo nhé.
Bà Trâm quay sang vợ Thanh, thân mật nói:
-Nhà hàng của em đẹp quá, chẳng thua gì mấy nhà hàng bên Cali.
Vợ Thanh cười:
-Chị quá khen, bọn em cũng chỉ cố gắng để sống qua ngày thôi chị ạ...
Bà Trâm vỗ vào ... đùi vợ Thanh, duyên dáng và thân mật nói:
-Sống qua ngày mà được như em thì chị cũng muốn sống lắm...
Vợ Thanh cười, cặp mắt híp lại:
-Chị lại quá khen em rồi...
Đột nhiên, bà Trâm quay sang nói với Nam:
-Anh, anh làm MC hay quá, ai cũng phục lăn...
Nam lúc ấy đã uống khoảng 6, 7 ly cổ nhắc rồi nên tâm hồn đang lâng lâng sung sướng... Cũng gìống như Thanh, anh đang nhìn vào cặp vú của bà Trâm mà tưởng tượng mông lông, bỗng nghe mình được chiếu cố thì giật nẩy minh lên, ly rượu trong tay xém tí nữa thì đổ cả ra ngoài. Anh ấp úng nói:
-Thưa... thưa em... không, thưa bà, bà quá khen ạ. Tí tài vặt ấy mà...
Bà Trâm lại liếc mắt cười tình:
-Tôi cũng chỉ mong có tí tài vặt như anh mà không có được. Này, hôm nào đám cưới con gái tôi, tôi phải mua vé máy bay cho anh qua Ca-li làm MC cho cháu nhé? Tôi đặc cọc anh trước đấy, không được từ chối nhé...
Nam sung sướng đến độ muốn ... quỳ ngay xuống đất mà cám ơn người đẹp. Giấc mộng vàng MC tưởng đã tiêu tùng, nào ngờ lại có mòi phát triển. Làm MC cho con gái bà tướng, chuyện khó tin nhưng có thật. Anh nói, giọng run run vì cảm động:
-Cám ơn phu nhân đã tin cậy. Nếu phu nhân cần thì bất cứ lúc nào, tôi sẽ bay qua Cali một chuyến để làm MC cho cháu.
Nam chưa nói hết câu thì bà Trâm đã quay sang nhìn vợ Thanh:
-Cái vòng cổ em đeo coi lịch sự và đẹp quá, lại trang nhả nữa. Vợ ông chủ nhà hàng có khác. Em mua ở đâu thế em?
Bây giờ thì tới phiên vợ Thanh sung sướng đến rêm người. Thế là 2 người đàn bà châu đầu vào nhau nói về chuyện trang sức...
Ly nước cam vắt được mang lên, để trước mặt bà Trâm. Thanh ngồi xuống ngay trước mặt bà, ngắm vợ mình và bà Trâm nói chuyện một cách thích thú. Anh cảm thấy hãnh diện vô cùng. Coi 2 người thật là xứng đôi, giống như 2 chị em. Ai cũng xinh cả, đúng là “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.” Một lúc nào đó, anh chen vào, tay đẩy cái đĩă thức ăn, ngọt ngào nói:
-Bà phu nhân dùng cơm nhé. Ngon lắm đấy, đầu bếp Chợ Lớn chính hiệu nấu đấy.
Lại một cú liếc mắt chết người rồi bà Trâm lắc đầu:
-Thôi, cám ơn anh, lát nữa tôi còn phải ghé qua đặc cọc tiền để mua mấy chiếc xe vận tải.
Tối thứ bảy mà ai lại nhận tiền đặc cọc mua xe thì Thanh không nghĩ ra, nhưng anh có cần gì để nghĩ nữa. Cái đáng nghĩ là nghĩ đến cặp vú cặp đùi bà Trâm kia kìa. Người đâu mà có cú liếc mắt đẹp thế, bà ấy cứ liếc mình như thế này thì chắc mình đứng tim mà chết. Rượu đã ngà ngà say, Thanh thấy lòng mình bỗng trở nên thổn thức. Thổn thức như một ngày xưa, lâu lắm rồi, khi anh mới gặp vợ anh lần đầu...
Nói chuyện một lúc, bà Trâm đột ngột hỏi vợ Thanh:
-Tối nay thâu tiền có khá không em.
Bình thường mà nghe hỏi một câu như thế thì vợ Thanh sẽ bắt đầu suy nghĩ liền, nhưng tối hôm đó, không hiểu sao, chị lại đâm ra thân mật và dễ dãi, vui vẻ trả lời:
-Được hơn 6 ngàn đấy chị ơi. Vợ chồng em lo sốt cả vó suốt mấy tuần nay..
Sau câu hỏi, bà Trâm lại đột ngột chuyển sang đề tài thời trang. Càng nói thì tình chị em càng trở nên thắm thiết, hợp tình hợp ý. Một lúc nào đó, bà Trâm lại nói:
-Chị cứ tiếc sao mãi đến bây giờ mới được gặp em, phải chị em mình quen nhau sớm hơn thì tốt quá. Em xinh quá, chị quý em quá...
Vợ Thanh híp mắt lại, sung sướng không nói nên lời. Nụ cười chưa tắt thì bà Trâm đã cho nổ ngay một quả bom CBU:
-Này em, chị đang cần 10 ngàn đô la để đặc cọc tiền mua xe vận tải cho anh Kít, em cho chị “giật nóng” của em 6 ngàn nhé. Chị có check 75 ngàn đô la đây nhưng khuya quá rồi không đi đổi kịp, ngày mai chị dậy sớm đi nhà băng cash tiền chị đưa ngay cho em...
Vợ Thanh giật thót mình, không biết phải trả lời và phản ứng như thế nào. Không phải chỉ có mình vợ Thanh, mà hai người đàn ông ngồi chung bàn cũng giật mình đến thót. Nam đang lim dìm mơ màng tưởng tượng đến cảnh đang làm MC cho con gái bà Trâm, liền mở bừng mắt. Dù đã ngà ngà say nhưng câu nói ngày nào của ông kế toán bạn Nam vẫn còn văng vẳng bên tai anh... Phần Thanh, tửu lượng của anh yếu hơn Nam nên anh chỉ mơ hồ biết có một chuyện nguy hiểm sắp sữa xảy ra nhưng không biết là chuyện gì.
Vợ Thanh ú ớ:
-Thưa chị, em... em...
Bà Trâm tiếp liền:
-Xe vận tải dùng để chở tôm ấy mà em. Bọn chị mua một lần 3 chiếc, nhà băng ứng trước tiền cơ mà. Đây này, để chị cho em xem cái ngân phiếu của nhà băng First Jefferson National Bank trong bóp chị đây.
Bà cúi người xuống rồi bỗng nhớ ra là mình không đem bóp theo, bà lắc đầu, đau khổ, tặng cho Thanh một cú liếc mắt chết người nữa.
-Rõ là hư thân, chị lại bỏ quên bóp ở bàn bên kia...
Vợ Thanh ngồi chết trân như một pho tượng gỗ, không nói được mà cũng không có được một phản ứng gì.
Bà Trâm lại quay sang hỏi Thanh, giộng thêm một cú liếc mắt chết người nhưng bây giờ lại có thêm phần đau khổ nữa:
-Anh Thanh... anh có biết sáng mai mấy giờ nhà băng mở cửa không? Tôi có cái check 75 ngàn đô la.
Bà Trâm kéo dài tiếng “Thanh” nghe như “Th a a a a nh” thật là ngọt ngào, quyến rũ.
Thanh ... của bà trả lời ngay, giọng cũng tình tự không kém:
-10 giờ... 10 giờ... thưa..
Thanh ngừng ở chữ “thưa” vì không biết nói thưa em hay thưa bà. Bà Trâm lại tung chưởng, cặp mắt bà tha thiết, giọng bà vừa đau khổ vừa mời mọc:
-Thế thì anh có cho tôi giật nóng 6 ngàn đến ngày mai không? Đừng có ăn hiếp tôi đấy nhá, tôi không chịu đâu, tôi bắt thường anh đấy...
Miệng bà nói, mắt bà lại liếc, cặp môi bà cong lên một cách mời mọc, ngực hạ thấp xuống để biểu diễn bộ vú nhiều hơn nữa, coi dâm không chịu được.
Dĩ nhiên là một người như Thanh thì đời nào lại đi ăn hiếp đàn bà, nhất lại là một người đàn bà ... có cặp vú vừa đẹp vừa to như thế kia và lại là phu nhân của ông tướng, Anh nói ngay không cần phải suy nghĩ, đắn đo:
-Được chứ sao không? Em, em đưa tiền cho chị Trâm đi. Mai mình lấy lại cũng còn kịp, có đem về cũng không kịp bỏ vào nhà băng tối nay.
Nghe như thế nhưng vợ Thanh cũng không có phản ứng, hai tay tự dưng lại đưa lên để trên hộp tiền trước mặt.
Thanh liền hất tay vợ ra, thò tay nắm mớ tiền lẫn check nằm trong hộp rồi đưa cho bà Trâm:
-Đây, bà phu nhân cầm lấy, mai đưa lại cho tôi...
Bà Trâm cầm gọn gói bạc, tặng cho anh một cú liếc mắt nữa. Thanh cảm thấy lâng lâng sung sướng, miệng cười cười, dở trò tán tỉnh:
-Như thế là bà phu nhân không được nói tôi ăn hiếp bà đấy nhé.. Đẹp như bà, thương không hết, ai lại đi ăn hiếp...hì hì...
Vợ Thanh liền đứng lên, bỏ vào cầu tiêu, nước mắt chảy chan hoà xuống mặt...
Nam dù say rượu nhưng cũng ngạc nhiên nhìn sững bạn, không nói được gì.
Sáng hôm sau, mãi đến 12 giờ trưa Thanh mới tỉnh rượu, thức giấc. Anh ngạc nhiên khi thấy nhà cửa vắng hoe. Gọi mãi không thấy ai trả lời, Thanh bước xuống giường và nhìn thấy một tờ giấy để trên bàn. Anh hốt hoảng cầm lên, tờ giấy do vợ Thanh để lại:
“Anh Thanh,
Vợ chồng ta đến đây là chấm dứt. Tôi lái xe chở hai con về Cali sống với bố mẹ.
Đừng gọi tôi vì tôi sẽ không trả lời. Luật sư của tôi sẽ liên lạc với anh sau.
Chúc anh may mắn.”Thanh ôm mặt khóc lên rưng rức. Rồi anh lại nhớ đến số tiền 6 ngàn tối hôm qua, mặt mày tái mét lại. Vấn đề bây giờ là không biết bà phu nhân ông tướng ở đâu để đòi tiền.
Thanh liền nghĩ tới cái phao cuối cùng của mình là Nam. Anh gọi cho Nam, vừa khóc vừa kể lại chuyện xảy ra.
Nửa tiếng đồng hồ sau, Nam gọi lại, cho biết là hai vợ chồng ông tướng đã bay đi sáng nay rồi. Không ai biết đi đâu và khi nào thì trở về...
Nam thấy bạn như vậy thì động lòng, cảm thấy mình phần nào có trách nhiệm trong việc này. Vốn là một cựu quân nhân có tinh thần trách nhiệm cao, anh liền lấy hết số tiền dành dụm bấy lâu trong trương mục tiết kiệm, khoảng gần 2 ngàn, đưa cho Thanh. Vợ Nam phản đối dữ dội, la hét ầm lên nhưng anh chẳng nghe.
Thế là từ đó, gia đình Nam lại có chuyện lục đục. Mới đầu thì nhỏ nhưng cứ lớn lên dần và lớn mãi. Vài tuần sau đó, khi chuyện không còn có thế hàn gắn được, vợ Nam cũng bắt chước vợ Thanh, lái xe chở ba con lên DC, ở với bố mẹ.
Thế là thành phố New Orleans bỗng dưng bị mất tiêu hai người đẹp Không Quân và một nhớ nhóc tì... Không Quân kháu khỉnh...
Giòng đời tiếp tục trôi và vài tháng sau đó, tại thành phố New Orleans, vào những ngày cuối tuần, có hai ông phi công thường hay rủ nhau đi... câu cá ở bờ sông Mississipi. Họ ngồi lặng bên nhau hàng giờ, nhìn mông lung xuống nước, lên trời, nhiều khi cá cắn câu cũng không buồn kéo lên. Đàn cò trắng bên bờ sông, xưa nay vẫn háu ăn và linh động, chỉ chờ có mồi ngon là sà xuống tranh nhau mà đớp hít, có lẽ nhìn thấy hai ông đồng nghiệp chuyên cỡi chim sắt buồn rầu đau khổ như thế nên cũng đâm ra biếng nhác... việc đời, cứ đi qua đi lại, gục gặt cái đầu. Thỉnh thoảng, chúng ngửa cổ lên trời, rú lên vài tiếng kêu nhỏ, khục khặc trong cổ họng. Không biết chúng nó muốn cười hay muốn chia buồn với hai ông...
Hai ông cũng chẳng thèm để ý...
Hình như, họ đi câu với nhau là để giải buồn, để an ủi nhau và kể lại chuyện đời xưa chứ không phải để câu cá hay ngắm chim và nhìn cò...


Trường Sơn Lê xuân Nhị
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Người mẫu nổi tiếng Kohinoor Singh và Sư cô Losang Dolma
Tác giả: Sampada Malla
Việt dịch: Diệu Anh
Chắc chắn tin trên sẽ làm bạn chấn động và bạn có thể nghi ngờ, không biết tin này có đúng sự thật hay không hoặc bạn cho đó là một câu chuyện tiếu lâm? Nhưng ngạc nhiên thay, đây hoàn toàn là sự thật. Tôi còn nhớ đã gặp Kohinoor Singh đúng một năm trước đây khi cô ta còn là một người mẫu đương thời ở Nepal với một bề ngoài thật thu hút và sang trọng (giống như những người mẫu khác). Sự tương phản hôm nay là một kinh ngạc lớn vì nhìn cô thật giản dị và sau một vài trao đổi qua lại, sự điềm tĩnh, sự khiêm nhường và cách nhìn về đời sống của cô làm tôi rất khâm phục.

Image
Người mẫu Kohinoor ngày ấy... ...
Image
Sư cô Losang Dolma hôm nay
Lần này tôi gặp Cô với một con người mới, “Ni cô Losang Dolma”. Ngoài hình dáng bên ngoài, tôi không tìm thấy gì khác biệt trong phong cách và tài năng. Đúng, bây giờ Cô trầm tĩnh hơn và nghiêm trang với một khuôn mặt tươi vui hơn bao giờ hết. Nhưng đó được hiểu là vì Cô đã bắt tay vào một cuộc hành trình tâm linh mà ước muốn của Cô là được giác ngộ. Tôi cũng như bao nhiêu người khác tò mò muốn biết về sự thay đổi trong cuộc sống của Cô. Tôi xin phép được hỏi Cô một vài câu hỏi và Cô đồng ý trả lời ngay. Cám ơn Cô Khohinoor.

Sau đây là một vài đoạn được trích ra từ cuộc phỏng vấn.

- Cô đã từng là người mẫu nổi tiếng hàng đầu của Nepal. Cô từng được mọi người yêu chuộng từ sân khấu thời trang cho đến thương trường quảng cáo và thu hình âm nhạc và Cô còn là người điều khiển chương trình cho những chương trình truyền hình. Tại sao Cô lại có một sự thay đổi bất ngờ như vậy?

- Mọi người đều chú ý tới sự thay đổi bất ngờ này vì họ luôn luôn thấy bên ngoài của tôi như là một người mẫu. Họ không biết tôi như là một con người. Đối với tôi, không có gì thay đổi cả vì tôi vẫn luôn luôn như thế. Người mẫu là nghề nghiệp của tôi và bây giờ tôi đã từ bỏ để đi tới con đường riêng của tôi. Thật là hiển nhiên cho mọi người thấy rằng bước đi này của tôi là một sự thay đổi lớn nhưng tôi không cảm thấy có gì khác biệt.

- Khi không có sự khác biệt theo ý kiến và sự cảm nhận của Cô, tại sao Cô nghĩ là cần phải thay đổi trong y phục?
- Y phục của tôi là kỷ luật. Giống như trường học có đồng phục để nhắc nhở học sinh về luật lệ của trường và bạn nên ở trong kỷ luật đó, y phục của tôi giúp tôi gần gũi hơn trong trách nhiệm là trở thành người tốt cho xã hội. Nếu tôi không làm được gì tốt, tôi cũng không nên làm gì xấu.

- Cô định nghĩa con người Kohinoor Singh như thế nào?
- Tôi là một phần của tất cả. Tôi giống như một người bình thường với quan niệm và ý kiến riêng. Với vật chất là sự tối cần thiết, chúng ta dường như quên đi rằng tất cả chúng ta đều có một sự cảm nhận tương tự nhau. Cái tâm linh bất diệt trong mỗi chúng ta đều giống nhau.
- Trong thời giai làm người mẫu, sự hào nhoáng và nịnh hót có lôi cuốn Cô không? - Hoàn toàn không. Với tôi, người mẫu chỉ là một công việc. Nó không bao giờ làm cho tôi kích thích khi mọi người ngưỡng mộ nhan sắc của tôi bởi vì tôi biết họ chỉ ngưỡng mộ hình ảnh bên ngoài của tôi và không biết được con người bên trong tôi. Mọi người có quan niệm khác nhau về một người mẫu và người đó phải vật lộn rất nhiều với quan niệm tiêu cực như trong một xã hội bảo thủ của chúng ta. Những quan niệm này làm tôi chán nản.
- Cô có ý định trở thành Ni cô như thế nào? - Vào thuở ấu thời khi tôi đi tản bộ ở chùa Swayambu, Kathmandu, tôi luôn chú ý đến một nữ tu sĩ thường hay ngồi thiền. Cô ta luôn luôn trầm lặng và tươi cười. Chúng tôi luôn luôn thấy Cô ấy trong y phục tu sĩ và vì thế không có gì khó khăn cho tôi khi tôi nhắm mắt lại và hình dung về hình ảnh của Cô. Và với ý nghĩ này luôn làm tôi mê say. Gần đây khi tôi đến thăm chùa Swayambu, một cái gì đó đã xảy ra và tôi cảm thấy dễ chịu và thanh thản. Lúc đó tôi nhận thấy rằng nhân duyên đã đến để tôi lo về cuộc sống tâm linh và bày tỏ được con người thật của tôi. Trở thành một ni cô chỉ là một giai đoạn trong cuộc sống của tôi. Tôi học hỏi đạo Phật. Định mệnh an bài cho tôi học hỏi và giác ngộ trong cộng đồng này.
- Xin tiếp tục
- Hiện tại tôi rất là vui, tôi chắc chắn rằng nếu tôi làm một việc gì đó tôi sẽ luôn luôn làm được tốt đẹp. Tôi muốn đi thăm viện dưỡng lão. Mặc dù tôi không có gì để cho họ, tôi có thể ngồi với họ, chia sẻ những nỗi đau và nụ cười với họ.
- Cô còn rất trẻ và đang ở trong lứa tuổi của những ham muốn, cám dỗ vật chất, Cô dường như đã rời bỏ được chúng. Cô có sẵn sàng để đối phó với những ngăn trở và chướng ngại mà Cô sẽ gặp phải hay không?
- Có. Tôi đã đi đến quyết định này sau khi suy nghĩ rất nhiều và bây giờ tôi sẵn sàng đương đầu với mọi việc, ngay cả đói và khát. Ngay cả bây giờ tôi không ăn hay thậm chí bảo mọi người rằng tôi nhịn đói cho tới khi tôi được cho thức ăn. Tôi tin rằng chính những ước muốn sinh ra sự mong cầu và dẫn đến rối loạn cùng tàn phá. Để có được niềm an lạc và vui vẻ, một người phải hài lòng với những gì mình có và tôi sẽ theo con đường này.
- Cha mẹ và bạn bè của Cô phản ứng ra sao về sự quyết định này của Cô?
- Mới đầu thì họ sửng sốt nhưng sau đó khi họ nhận thức được rằng tôi tiến đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, thì họ giúp tôi tận tình.
- Cô có muốn nói gì với giới trẻ không?
- Mọi người dễ dàng bị lôi cuốn vào sự vui thú hoặc buồn chán mà mọi thứ đều rất ngắn ngủi. Cái mà bất diệt là bạn và thể tính của bạn. Một người nên học để chấp nhận mọi phương diện của đời sống và sẽ gặt hái được niềm vui thật sự.
Một nhà văn đã từng viết, “Chúng ta, mọi người đều tò mò về thế giới bên ngoài nhưng tại sao không dành một phút nào để tìm hiểu con người bên trong và những đòi hỏi riêng tư của chúng ta?”. Để biết được chính mình thì khó hơn nhiều là biết được người khác. Kohinoor đã theo cuộc hành trình để nhận biết con người bên trong Cô, đồng thời cắt đi sợi dây thử thách của vật chất chung quanh Cô. Nhất định đây là cuộc hành trình đầy chông gai nhất cho một người đã lên tới đài danh vọng. Nhóm Cyber Nepal hy vọng Cô sẽ thành công trên chuyến đi và trở thành một tấm gương sáng cho mọi người. Chúc Cô mọi sự tốt đẹp, Kohinoor!
Kohinoor Singh, một người mẫu nổi tiếng ở Nepal. Cô lôi cuốn chúng ta qua những tấm hình nóng bỏng trên hàng tá băng nhạc và quảng cáo. Không thắc mắc chi Cô ta rất đẹp, rất nóng bỏng, nhưng mặt khác của Kohinoor, chỉ được biết bởi những người thân của Cô. Ít ai biết Kohinoor còn có biệt tài viết hay, giao tiếp giỏi với quần chúng và Cô còn là một ca sĩ tuyệt vời. Trong một buổi chụp ảnh cho Cyber Nepal, Cô đã làm chúng tôi kinh ngạc về sự chuyên nghiệp, với một kiểu đứng và diễn tả, chúng tôi chỉ cần chụp mà không cần phải chỉ dẫn gì thêm cho Cô.

Diệu Anh dịch
(Theo www.cybernepal.com.np)
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »


Image

TÌNH YÊU

Bố tôi mắc bệnh hiểm nghèo, chắc chẳng sống được thêm bao lâu nữa.

Việc mà ông cụ canh cánh trong lòng nhất là người mẹ già của tôi. Nhân lúc còn chút sức tàn, ông cụ tìm cách điều mẹ tôi đi nơi khác, rồi gọi vợ chồng tôi đến trước giường nằm nói :” Các con,bố giao mẹ con cho các con, mẹ con ở với bố chả được hưởng sung sướng nào. Sau khi bố chết, các con hãy chăm sóc mẹ cho tốt!”. Chúng tôi chảy nước mắt khi nghe lời dặn dò, và hứa: ” Bố yên tâm,chúng con nhất định sẽ trông nom mẹ chu đáo”. Bố tôi vui lòng gật đầu, lại dặn thêm:” Các con yêu quý, bố đã viết di chúc, sau này hãy làm theo những điều viết trong di chúc!”.
Chúng tôi lại hứa xin làm theo.
Không lâu sau đó, bố tôi qua đời.


Tang lễ bố tôi rất long trọng,những vị cao tuổi trong thôn đều cho rằng bố tôi là người may mắn, hai vợ chồng sống với nhau suốt đời, con trai con dâu đều hiếu thuận, sống được như vậy, đáng lắm!

Lo liệu xong việc tang, tôi tìm được di chúc của bố,lòng rất bồn chồn: mọi việc trong nhà đều rất mĩ mãn, không rõ bố còn dặn dò điều gì? Thế nhưng, bố đã viết di chúc, tôi quyết định sẽ làm theo. Hôm sau, tôi và vợ mở di chúc ra xem.

Di chúc viết như thế này:
“ Các con yêu quý, bố có một việc nhờ cậy các con. Việc này liên quan đến mẹ các con. Các con đều không biết, mẹ các con rất thích cho dấm vào thức ăn, nhưng mấy chục năm nay, khi làm món ăn không bao giờ mẹ con cho dấm vì biết bố không thích ăn như vậy. Vì bố mà mẹ các con mấy chục năm nay không hề ăn các món có trộm dấm, vì vậy bố xin các con, từ nay trở đi khi làm món ăn đều cho dấm vào. Được như vậy,coi như là các con thay cho bố có chút đền bù cho mẹ!”


Đọc xong di chúc, hai vợ chồng tôi không nói ra lời. Mối tình sâu nặng giữa bố, mẹ chúng tôi, lòng thương yêu nhau ấy, mặc dù chất phác, đơn sơ, nhưng cảm động biết bao!
Ngay chiều hôm đó, khi làm cơm tối, vợ tôi đã cho dấm vào các món ăn. Trước khi mọi người ngồi vào bàn, mẹ tôi bỗng đột nhiên bảo tôi: ”Này, xếp ghế ngồi cho bố các con đi chứ!”. Tôi vội bê ghế đến, lấy thêm bát, đũa, và còn đặt một chiếc ly lên bàn rồi rót đầy rượu. Sau đó chúng tôi lặng lẽ nhìn mẹ gắp thức ăn.

Ai ngờ vừa gắp ăn một miếng nhỏ, mẹ lại thử tiếp mấy miếng nữa, rồi nhíu mày lại. Thấy vậy, tôi rất lo, đang định nói ngọn nguồn, thì mẹ tôi đã đặt đũa xuống, nước mắt trào ra, nói:” Các con không biết bố con không thích ăn chua hay sao? Vì sao bố các con vừa đi, các con đã làm thức ăn chua thế này, bố con ăn làm sao được!”.
Nghe những lời nói đó của mẹ, tôi và vợ tôi cùng khóc theo…
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Kỳ thú hiện tượng "Biển chia đôi"
(Hai lần một năm khi nước thủy triều xuống thấp, một dải dất dài 2,8 km và rộng 40 mét lộ ra, biến thành con đường kết nối đảo Jindo và Modo của Hàn Quốc trong một vài giờ.

Trong sử thi "10 điều răn của Chúa" có tình tiết Moses chia đôi biển Đỏ bằng chiếc gậy của mình. Nhờ đó mà người dân có thể băng qua biển thoát khỏi cuộc truy đuổi của Pharaoh, gọi tắt là hiện tượng Moses Miracle. Liệu "Moses Miracle" có thể xảy ra trong thời kỳ hiện đại? Câu trả lời là có.
Image
Hiện tượng thiên nhiên kỳ diệu này diễn ra tại Hàn Quốc, đất nước của nhân sâm. Hai lần một năm khi nước thủy triều xuống thấp, một dải dất dài 2,8 km và rộng 40 mét lộ ra, biến thành con đường kết nối đảo Jindo và Modo trong một vài giờ. Điều kì diệu là nó chia biển thành hai phần và người dân có thể đi bộ dọc theo con đường này, tương tự như trong câu chuyện “Moses Miracle”.
Image
Hàng năm, người dân Hàn Quốc tổ chức một lễ hội để đón chào sự xuất hiện của “Moses Miracle” với sự tham dự của rất nhiều du khách từ khắp nơi trên thế giới. Tuy là một hiện tượng thiên nhiên độc nhất vô nhị, “Moses Miracle” chỉ được biết đến rộng rãi mãi cho tới năm 1975, khi một Đại sứ Pháp đến Hàn Quốc và viết bài trên một tờ báo Pháp.
Image
Người Hàn Quốc có một truyền thuyết để giải thích cho hiện tượng này: Ngôi làng Jindo bị tấn công bởi hổ dữ và người dân trong làng phải chạy đến đảo Modo để ẩn náu. Tất cả đều ra đi, ngoại trừ một bà cụ già còn sót lại. Trong tuyệt vọng, bà chắp tay cầu nguyện, Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện và chia đôi biển, tạo con đường nối liền hai đảo để giúp bà thoát khỏi con thú dữ.
quangminh
Posts: 547
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Post by quangminh »

Chuyện ngắn ..Tình dài

1- Nồi cá bống kho tiêu

Ba mươi tuổi đầu, lận đận chiến chinh, chưa kịp lấy vợ thì trời sập. Đi tù. Mẹ thăm nuôi 6 tháng một lần. Quà chỉ có nồi cá bống kho tiêu và nước mắt thương con. Được 3 năm thấy mẹ già đi, tóc bạc phơ. Thương mẹ, hắn bảo mẹ đừng lên thăm nữa. Nhưng đến kỳ thăm lại đi ra đi vào, trông ngóng mẹ. Suốt hai năm không thấy mẹ lên thăm.
Được tha, về nhà mới hay khi mẹ về gặp mưa bị cảm nặng trong lần thăm nuôi sau cùng và đã qua đời hai năm rồi. Giỗ mẹ, hắn đi chợ mua cá bống về kho tiêu. Giỗ xong bưng chén cơm và đĩa cá bống kho tiêu cúng mẹ xuống ăn, hình như có vị mặn của nước mắt.



2- Tình đầu

Mười tám tuổi, yêu tha thiết, tỏ tình. Nàng chu mỏ: học trò ,nhỏ xíu, bày đặt. Hai mươi hai, Thiếu úy Sư Đoàn 18, về phép đến thăm, nàng lạnh lùng. Sợ làm góa phụ lắm. Hai mươi sáu Đại úy Trưởng khối CTCT Trung Đoàn. Khó chết rồi, xin bỏ trầu cau. Nàng ậm ừ để suy nghĩ lại đã. Tháng 4/75 chạy.Ở tù ra, gặp lại. Nàng đã có chồng, hai con. Buồn và mặc cảm, thôi cứ ở vậy không lấy ai. Ba mươi năm sau, lận đận quê người ,gặp lại. Nàng chồng chết, các con trưởng thành ra ở riêng. Mừng rơn ,mời nàng đi ăn cơm tối nhà hàng. Tỏ tình. Nàng thẳng thừng: già rồi bận bịu nhau làm gì, ở một mình cho khỏe.


3- Hai chị em

Chị quen anh Hân, trung úy phi công. Anh đến nhà chơi, thấy em gái quấn quít Hân, chị nhường. Hai người tổ chức đám cưới, chị gom hết tiền để dành tặng đôi vợ chồng mới.
Em có thai đứa con đầu lòng được 6 tháng thì Hân đi tù cải tạo. Chị thương em đang có con dại, thay em đi ra Bắc thăm nuôi Hân. Con được hai tuổi, em đi buôn hàng chuyến, lỡ có thai với người tài xế. Chị tiếp tục đi thăm, dối Hân em dẫn con đi vượt biên rồi. Thấy Hân mừng cho tương lai vợ con mình, chị xấu hỗ, tủi thân, âm thầm khóc lặng lẽ trên chuyến tàu lửa từ Hà Nội về lại Sài Gòn.
Hân về, biết sự thật. Buồn, dẫn con gái đi vượt biên. Nghe tin hai cha con chết trên biển, chị lập bàn thờ. Lấy tấm hình Hân đứng bên cạnh chiếc máy bay phản lực F5 Hân tặng chị hồi mới quen rọi lớn ra, bỏ vào khung đặt lên bàn thờ, chị khóc gọi Hân ơi…



4- Khói thuốc

Năm thứ hai ở Đại học CTCT Đà Lạt, Duy quen Trinh, học năm thứ nhất ở Đại học Chính Trị Kinh Doanh. Hai đứa yêu nhau tha thiết, thề hẹn sống chết với nhau . Tốt nghiệp, Duy về Sư Đoàn 5 bộ binh, hành quân liên miên Bình Dương, Bình Long, Phước Long. Đêm hành quân giăng võng nằm trong rừng cao su Đồng Xoài, Duy mơ có dịp về phép Đà Lạt, cùng Trinh tay trong tay dạo khắp Thành Phố Sương Mù, rồi vào Cà phê Tùng gọi một gói thuốc Capstan, một tách cà phê sữa, một ly sữa đậu nành nóng, cho ấm.
Trinh ra trường về nhà ba mẹ ở Sài Gòn. Duy xin phép thường niên được 7 ngày, ghé thăm. Trinh báo tin ba mẹ gả em cho anh giám đốc Trung Á ngân hàng. Cưới xong chắc em cũng vào làm ở đó luôn cho tiện. Mẹ bảo em hãy quên ông Trung úy đó đi.
Hai tháng sau Duy bị thương về nằm Tổng Y Viện Cộng Hòa. Anh lính đơn vị cử đi theo chăm sóc chạy về báo tin hôm nay đám cưới cô Trinh, thấy nhà trai tới với nhiều xe hơi sang trọng lắm.
Duy chống nạng ra ngồi trước hiên, châm điếu thuốc. Thẩm quyền! bộ ông đang khóc đó hay sao? Không phải đâu, chỉ là khói thuốc lá cay cay làm chảy ra nước mắt…
caolynh
Posts: 317
Joined: Wed Dec 17, 2008 7:21 pm
Contact:

Post by caolynh »

Made in Việtnam

Lẽ ra bữa nay bác sĩ Lê không nhận bịnh nhân vì là ngày nghỉ trong tuần của ông. Nhưng hôm qua, trong điện thoại, nghe giọng cầu khẩn của người bịnh ông không nỡ từ chối. Người đó – ông đoán là một cô gái còn trẻ – nói chuyện với ông bằng tiếng Mỹ. Cô ta hỏi ông nhiều lần :
- Có phải ông là bác sĩ Lee không ?
Tên ông là Lê. Cái tên Việt Nam đó ở xứ Mỹ này người ta viết là " Lee ", nên ông được gọi là " ông Lee " ( Li ).
Ông ôn tồn trả lời nhiều lần :
- Thưa cô, phải. Tôi là bác sĩ Lee đây.
- Phải bác sĩ Lee chuyên về châm cứu và bắt mạch hốt thuốc theo kiểu Á đông không?
- Thưa cô phải.
- Có phải phòng mạch của bác sĩ ở đường Green Garden không ?

Bác sĩ Lê, đã ngoài sáu mươi tuổi, tánh rất điềm đạm, vậy mà cũng bắt đầu nghe bực ! Tuy nhiên, ông vẫn ôn tồn :
- Thưa cô phải. Xin cô cho biết cô cần gì ?
Giọng cô gái như reo lên :

- Vậy là đúng rồi ! Con Cathy bị bịnh suyễn nói bác sĩ chữa bịnh hay lắm. Cả nhà nó, kể luôn ba má ông bà nó đều đi bác sĩ hết.
Đến đây thì ông bác sĩ già đó không kềm được nữa, ông xẵng giọng :

- Cám ơn cô. Bây giờ xin dứt khoát cho tôi biết coi cô muốn cái gì ?
Giọng bên kia đầu dây như lắng xuống :
- Tôi xin lỗi bác sĩ. Xin lỗi. Tôi muốn xin bác sĩ cái hẹn cho ngày mai. Tôi bịnh…
- Mai là ngày nghỉ trong tuần, phòng mạch không có mở cửa. Ngày khác vậy.
- Ngày mai cũng là ngày nghỉ của tôi nữa, bác sĩ à.
- Cô đã bịnh thì cứ xin nghỉ để đi bác sĩ, ngày nào lại không được !

Một chút im lặng ở đầu dây bên kia rồi giọng người con gái bỗng nghe thật buồn :

- Họ đâu có cho nghỉ, bác sĩ. Họ nạt vô mặt :" Mầy muốn nghỉ thì mầy nghỉ luôn đi. Thiếu gì đứa muốn vào làm chỗ của mày. Mày biết không ?"
Giọng nói như nghẹn ngang ở đó, rồi tiếp :
- Không có việc làm là chết, bác sĩ à…
Ông bác sĩ già làm thinh, suy nghĩ. Đầu dây bên kia, cô gái van lơn :
- Xin bác sĩ thông cảm. Tôi sợ bịnh nặng hơn, không đi làm nổi nữa là mất việc. Xin bác sĩ thông cảm. Xin thông cảm.
- Ờ thôi, để tôi ráng giúp cô. Sáng mai, chín giờ. Phòng mạch của tôi ở số…
- Cám ơn bác sĩ. Cám ơn ! Con Cathy có chỉ phòng mạch của bác sĩ rồi.
- Xin lỗi. Cô tên gì ?
- Kim. K, I, M.

Bác sĩ Lê vừa ghi vào sổ hẹn vừa nghĩ :" Tội nghiệp ! Chắc lại đi làm lậu nên mới bị người ta hâm he như vậy. Theo cách phát âm thì cô này có vẻ là người Á đông. Tên Kim chắc là Đại Hàn. Để mình phải phone lại cô Cathy hỏi cho chắc ý kẻo gặp thứ lưu manh thừa dịp ngày nghỉ không có cô phụ tá, nó 'su' mình thì khổ ! "

Đúng chín giờ, chuông cửa phòng mạch reo. Ông bác sĩ già bước ra mở cửa. Đứng trước mặt ông là một cô gái Á đông còn trẻ, ăn mặc theo kiểu " punk " : quần áo có tua có tụi, tóc dựng đứng hỗn loạn như con gà xước, đeo nhiều vòng sên bằng bạc to như dây lòi tói, đầy cổ đầy hai cườm tay, mang cái xắc đỏ cũng có tua có tụi. Bác sĩ Lê, quá đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi gì, thì cô gái nói bằng tiếng Mỹ rất lưu loát :

- Chào bác sĩ. Tôi là Kim, bịnh nhân đã gọi điện thoại cho ông hôm qua. Tôi có làm cho bác sĩ chờ không ?

Bác sĩ Lê chưa hết ngạc nhiên, trả lời một cách máy móc :" Không ! Không !". Rồi ông bước tránh qua một bên :" Mời cô !"

Vào phòng mạch, ông đưa cho cô cái áo blouse trắng ngắn tay :

- Cô đến phía sau bình phong bỏ hết quần áo chỉ mặc quần lót thôi, rồi khoác ngược áo blouse này, lưng áo nằm về phía trước.

Trong lúc cô gái loay hoay làm theo lời dặn, ông bác sĩ già gọi phone về nhà, nói bằng tiếng Việt :

- Bịnh nhân của anh tới rồi, đang thay đồ. Chắc một giờ nữa là xong. Em đợi anh về rồi mình đi chợ.

Cô gái bỗng ló đầu ra khỏi bình phong mỉm cười nhìn ông, gương mặt thật rạng rỡ, định nói gì nhưng rồi không nói, thụt đầu vào tiếp tục cởi quần áo.

Một lúc sau cô ta bước ra, mắt ngời lên sung sướng, nói bằng tiếng Việt, giọng như reo lên :

- Bác sĩ là người Việt Nam mà con cứ tưởng là người Tàu ! Tên " Lee " nghe Tàu trân !

- Ủa ! Vậy mà tôi cứ nghĩ cô là người Đại Hàn chớ !

Rồi cả hai cùng cười, cái cười rất sảng khoái. Tình đồng hương trên đất khách bỗng thấy thật ấm, thật đầy…Ông bác sĩ già nhìn cô bịnh nhân trẻ mặc áo blouse trắng đứng trước mặt ông mà không còn thấy cô gái " punk" hồi nãy nữa !

Ông đưa cho cô cái dĩa, rồi vừa chỉ cái giường cao vừa nói :

- Cô cởi hết đồ nữ trang để vào đây, rồi lên nằm trên này để tôi chẩn mạch.

Cô gái làm theo như cái máy.

Phòng mạch được trang trí rất đơn sơ, nhưng thật yên tịnh. Trong không khí có mùi thơm dìu dịu của moxa ( ngải cứu, đốt lên để hơ huyệt ). Cái giường khám bịnh cao ngang tầm tay của bác sĩ. Ở một đầu giường có gắn thêm một vòng bằng da để chịu cái đầu của bịnh nhân, và khi bịnh nhân nằm sấp để châm cứu trên lưng thì mặt người bịnh nằm trọn trong vòng da. Như vậy, người bịnh không cảm thấy khó chịu nhờ khoảng trống ở giữa vòng da giúp người bịnh vẫn thở đều đặn và mắt được nhìn thoải mái xuống sàn nhà.

Bác sĩ đặt hai bàn tay lên cánh tay trần của cô gái, ôn tồn hỏi :

- Cô bịnh làm sao ? Nói tôi nghe.

- Con ngủ không được, đêm nào cũng trằn trọc tới khuya. Hay bị chóng mặt. Đang đứng làm việc, tự nhiên muốn sụm xuống làm sợ toát mồ hôi. Con lo quá, bác sĩ. Mất việc làm chắc con chết quá, bác sĩ !

Ông Lê bóp nhẹ cánh tay bịnh nhân :

- Cô yên tâm. Có tôi đây. Mà…cô có uống rượu không ?

- Không. Dạ thưa không.

- Cô có hút thuốc không ?

- Dạ thưa có. Hút cũng nhiều…

- Cô có xì ke ma túy gì không ? Nói thiệt tôi nghe.

- Mấy thứ đó con không dám rớ. Hồi ở bên nhà thằng anh con chết vì ba cái thứ ôn dịch đó, bác sĩ à. Vì vậy, con sợ lắm !

- Cô le lưỡi tôi coi.

- Ùm. Được rồi. Bây giờ cô nằm yên, để hai tay xuôi theo thân mình, nhắm mắt, thở đều đặn.

Ông bác sĩ già đứng cạnh giường đặt mấy đầu ngón tay lên cườm tay cô gái, chăm chú bắt mạch. Một lúc sau, ông bước vòng qua phía đối diện bắt mạch tay bên kia. Bộ mạch nói lên một sự rối loạn tâm thần. Cô gái này chất chứa quá nhiều ẩn ức nên sanh bịnh. Ông nhìn cô gái đang nhắm mắt thở đều : gương mặt Việt Nam đó, bỏ đi món tóc "punk", vẫn toát ra nét nhu mì dễ thương. Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại. Ông nói :

- Bây giờ, cô nằm sấp xuống để tôi châm trên lưng.

Cô gái mở choàng mắt nhìn ông, mỉm cười, một nụ cười đầy tin tưởng. Ông bác sĩ nói tiếp :

- Cô đừng sợ. Châm không có đau. Còn nhẹ hơn kiến cắn nữa.

Cô gái trở mình nằm sấp, hai vạt áo blouse rớt xuống hai bên, bày ra cái lưng thon thon với nước da ngà ngà. Theo thói quen, trước khi châm, bác sĩ vuốt lưng bịnh nhân vài lần để bịnh nhân đỡ bị stress. Lần này, khi vuốt xuống thắt lưng, ông để ý thấy dưới làn vải mỏng của quần lót có một vết bầm nằm vắt ngang phía trên của mông. Ngạc nhiên, ông hỏi :

- Cô bị ai đánh hay sao mà bầm vậy ?

Cô gái cười khúc khích :

- Bác sĩ coi đi !

Ông già kéo quần lót xuống một chút, thì ra không phải vết bầm mà là hàng chữ xâm màu chàm : Made In VietNam ! Ông bật cười, vừa kéo lưng quần lót lên vừa nói :

- Cha…Bạo quá há !

Cô gái hơi rút cổ cười khúc khích vài tiếng nữa rồi im. Chắc cô đang sống lại với một vài kỷ niệm nào đó. Ông bác sĩ già áp hai lòng bàn tay lên lưng bịnh nhân, nhưng bây giờ sao ông không còn thấy cười được nữa. Hàng chữ " Made In VietNam" nhắc cho ông rằng con người nằm đây là sản phẩm của quê hương ông, cái quê hương đã mấy chục năm xa cách, cái quê hương mà ở đó ông không còn ai để nhớ, nhưng ông còn quá nhiều thứ để nhớ. Những thứ cũng mang dấu ấn " Made In VietNam ", từ con trâu cái cày, từ mảnh ruộng vườn rau, từ hàng cau rặng dừa, từ con đường đất đỏ đến con rạch nhỏ uốn khúc quanh quanh…Chao ơi ! Bỗng nhiên sao mà nhớ thắc thẻo đến muốn trào nước mắt…

Ông bác sĩ vuốt lưng cô bịnh nhân thật chậm để cho niềm xúc động lắng xuống tan đi. Ông có cảm tưởng như ông đang sờ lại được quê hương, có chỗ cao chỗ thấp, có phù sa đất mịn…Tự nhiên, ông muốn nói lên một tiếng " cám ơn ". Ông muốn cám ơn cô bịnh nhân đã mang quê hương đến với ông bằng hàng chữ nhỏ xâm trên bờ mông, chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ nhỏ. Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi :" Tôi cũng made in VietNam đây !". Nhưng rồi ông làm thinh tiếp tục vuốt lưng người bịnh. Ông biết rằng cô gái không thể nào hiểu được ông, một bác sĩ già vừa quá sáu mươi, đã gần nửa tuổi đời lưu vong trên xứ Mỹ, có đầy đủ tiền tài danh vọng mà cũng xâm hàng chữ " Made In VietNam", xâm ở trong lòng…
Bác sĩ im lặng dò huyệt châm kim. Bỗng cô bịnh nhân nói, giọng buồn buồn, làm như cô vừa xem lại hết một đoạn phim đời nào đó :

- Thằng bồ của con xâm cho con để làm kỷ niệm hồi tụi này còn ở Louisiana. Ảnh là thợ xâm…

- Ủa ! Rồi sao bây giờ cô ở đây ?

- Con theo ba má con dọn về Cali, ổng bả nói ở Cali bạn bè nhiều làm ăn dễ.

- Ờ…người Việt mình thích ở miền nam Cali lắm.

Ngừng một chút bác sĩ lại nói, trong lúc hai tay vẫn tiếp tục châm kim :

- Ở Cali khí hậu tốt hơn nhiều tiểu bang khác. Mà…ba má cô làm gì ?

Cô gái làm thinh một lúc mới trả lời, giọng ngang ngang :

- Qua đây rồi ổng bả đá đít nhau. Bả lấy thằng Mễ chủ pressing , còn ổng thì chó dắt ổng ôm được một bà Mỹ goá chồng có tài sản.

- Vậy rồi cô ở với ai ?

- Với ba con. Bà Mỹ cho con đi học college, ba con lái xe đưa rước.

- Vậy mà sao hôm qua, trong phone, cô nói cô đi làm ?

Giọng cô gái như nghẹn lại :

- Khổ lắm bác sĩ.

Cô ngừng một chút để nén xúc động rồi nói tiếp :

- Ba con ỷ có bà Mỹ nuôi, không chịu đi làm. Tối ngày cứ đi nhậu với bạn bè, rồi nay đổi xe, mai đổi xe…Con nói ổng, chẳng những ổng không nghe mà còn chửi con: "Tiên Tổ mày ! Tao đem mày qua đây đặng mày dạy đời tao hả !"
Lại ngừng một chút mới nói được, nói như trút hết ẩn ức còn lại :

- Có lần ổng xáng cho con mấy bạt tay đau điếng…

Rồi nghẹn ngào :

- Lần đó, con bỏ nhà đi hoang…

Nói xong, hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra một cái như vừa làm xong một việc gì thật khó !

Ông bác sĩ im lặng, tiếp tục châm, mà nghe thương hại cô bịnh nhân vô cùng. Cô ta cỡ tuổi con gái út của ông. Con gái út của ông đang học đại học, còn cô này thì đang sống trong hoàn cảnh quá bấp bênh. Cả hai đều Made In VietNam hết !

Châm xong, ông đặt tay lên cánh tay trần của bịnh nhân, vuốt vuốt như vuốt tay một đứa con đang cần được vỗ về an ủi :

- Cô cứ nằm yên như vầy độ mười lăm phút, nghen.

Tiếng " dạ " bỗng nghe như đầy nước mắt.


Sau khi gỡ kim, ông bác sĩ bóp tay bóp chân bịnh nhân một lúc rồi nói :
- Bây giờ thì cô mặc quần áo vào được rồi.

Cô gái ngồi lên nói " cám ơn " mà đôi mắt vẫn còn mọng nước. Cô bước vào sau bình phong, chậm rãi mặc quần áo, làm như cô muốn những xúc cảm hồi nãy có thời gian để thấm sâu vào lòng…

Khi cô bước ra, gương mặt cô đã trở lại rạng rỡ. Cô mỉm cười nhìn ông bác sĩ, rồi, vừa mở cái xắc đỏ vừa hỏi :

- Bao nhiêu vậy, bác sĩ ?

- Không có bao nhiêu. Chừng chữa xong rồi cô hãy trả.

- Bác sĩ cho con trả mỗi lần, chớ đợi hết bịnh, tiền đâu con trả. Cái thứ đi làm lậu như con…

- Cô yên tâm. Rồi mình tính.

Ông bác sĩ đưa dĩa nữ trang :

- Cô đừng quên mấy thứ này.

Cô gái phì cười, không đeo vào người mà trút hết vào xắc, rồi hỏi :

- Chừng nào con trở lại nữa, bác sĩ ?

- Tuần tới, cũng ngày này giờ này.

Bác sĩ mở tủ thuốc, chọn lấy ra hai chai có dán nhãn sẵn, trao cho bịnh nhân :
- Trên nhãn có ghi liều lượng: mỗi ngày, cô uống sáng trưa chiều, mỗi thứ hai capsule.

Ra đến cửa phòng mạch, ông bác sĩ già cầm bàn tay cô bịnh nhân trong hai bàn tay của ông, lắc nhẹ :

- Bớt hút thuốc đi, nghen ! Từ từ rồi tôi sẽ chữa cho cô vụ ghiền thuốc nữa.

Ngập ngừng một chút rồi ông nói, giọng ôn tồn :

- Tôi muốn nói với cô điều này…

Cô gái chớp chớp mắt chờ. Chắc là lần đầu tiên cô được một ông già cầm tay một cách ân cần như vậy. Bác sĩ nói :

- Mình là người Việt Nam, ăn măỉc theo " punk " không hạp với con người với bản chất của mình chút nào hết. Cô đâu có xấu mà cô làm cho xấu đi, uổng lắm ! Mình phải xứng đáng là Made In VietNam, chớ cô.

Cô gái nhìn vào mắt ông bác sĩ, không nói gì hết, chỉ siết tay ông già một cái thật mạnh, rồi bước ra xe, một chiếc xe hơi cũ mèm phải đề tới bốn lần mới nổ máy !

Ông bác sĩ Lê ngồi uống cà phê với tôi ở khu Phước Lộc Thọ ( Orange County – Nam Cali ). Ông kể tiếp :

- Anh biết không, lần sau cô Kim đến phòng mạch, ăn mặc chải gỡ rất dễ thương. Chẳng có chút gì " punk " hết ! Lần khám bịnh đó, tôi có hỏi cổ sao không về sống với thằng bồ ở Louisiane có phải hơn là sống cù bơ cù bất ở Cali. Cổ nói như mếu :" Ảnh có vợ rồi ". Tôi biết : như vậy là cổ kẹt thiệt. Tôi đem chuyện này kể cho vợ tôi nghe. Bả cảm động lắm nên đề nghị giúp tiền cho cổ học một cái nghề gì đó, uốn tóc, làm nail chẳng hạn, để có công ăn việc làm vững chắc hơn là đi làm lậu tầm bậy tầm bạ.

Tôi nói chen vào :

- Chắc gì cổ chịu. Nghe anh kể, tôi đoán chị này cũng tự ái lắm.

- Anh nói đúng. Cổ từ chối hoài. Sau nhờ vợ tôi mời cổ về nhà khuyên nhủ, coi như là trong thân tình, cổ mới chịu. Hôm đó, cổ ôm vợ tôi vừa khóc vừa nói :" Con cám ơn ông bà. Cám ơn ông bà ".

- Sau đó cổ có đi học thiệt không ?

- Có. Học làm nail. Học giỏi nữa là khác.

- Cổ bây giờ ra sao rồi ?

- Mới đầu làm thợ, làm công cho người ta. Bây giờ vừa làm thợ vừa làm chủ. Khá lắm !

- Mừng cho cổ, há !

- Cổ xách đồ nghề tới làm nail cho vợ tôi, con út và hai con dâu tôi thường lắm. Làm không lấy tiền. Cổ cứ nói với mấy con tôi :" Tôi chịu ơn ông bà bác sĩ biết đời nào mới trả cho hết, mấy cô biết không ? Tôi không dám nói ra, chớ mỗi lần tôi cầm bàn tay của bà bác sĩ để làm nail, tôi vẫn nghĩ không có bàn tay này thì làm gì tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh của tôi hồi đó để có những gì tôi có hôm nay…"

- Dễ thương quá !

- Noel, ngày Tết…cổ đều mang quà đến tặng vợ chồng tôi.

- Con người ở có tình có nghĩa quá, anh há !

- Đã hết đâu ! Cổ còn nhớ đến ngày giỗ của ba má tôi nữa. Mấy ngày đó tụi con tôi có đứa quên chớ cô ta không bao giờ cô ta quên. Ngày đó, cô đem đồ tới cúng và ở lại phụ vợ tôi nấu nướng dọn giẹp nữa. Cho nên vợ tôi quí cô ta lắm !

Nói xong, bác sĩ Lê vỗ vai tôi, cười :

- Anh thấy không ? Cô ta mới đúng là " Made In VietNam " đó ! Còn nguyên chất, hè !

Ông Lê vui vẻ cầm tách cà phê vừa nhâm nhi vừa nhìn quanh. Người Việt Nam đi đầy trong thương xá. Cung cách có hơi khác nhưng nói năng thì y hệt như ở bên nhà. Một vài tiếng chửi thề rớt rơi đâu đó, nghe rất tự nhiên. Bỗng ông quay sang hỏi tôi mà nghe như ổng tự hỏi ổng :

- Không biết ở xứ Mỹ này, đồng hương lưu vong, có ai lâu lâu nhớ lại rằng mình "Made In VietNam ", không ?

- Có chớ anh ! Nhưng cũng có người chẳng những không nhớ mà còn tự đóng cho mình con dấu " Made In USA " nữa, anh à. Thứ đó bây giờ thấy cũng nhiều !

Tôi đưa tách lên môi uống ngụm cà phê cuối cùng, bỗng nghe cà phê sao mà thật đắng…
caubennoc
Posts: 530
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Post by caubennoc »


Image

Cuối thu

Nguyễn Hồng Chí
Có những mùa lặng lẽ đến rồi đi, thành vòng xoay bất tận có từ ngàn xưa. Người đời thường chỉ đong đếm mùa đi, mặc nhiên xem trong thinh lặng là những ngày dài tháng rộng đo độ dài của một kiếp tồn sinh.

Nhưng đôi khi có một mùa thu thoảng qua trong khóe mắt buồn xa lắc, nỗi bơ vơ xao xuyến ẩn hiện trong nụ cười thinh không. Vốn sợ mất đi một mùa đang đến cùng khoảng bình lặng trong tâm hồn nên ta nhốt khắc chiều thu muộn trong đôi bàn tay gầy guộc lẻ loi vốn không che nổi nắng mưa cuộc đời. Một vạt nắng rựng màu vàng ươm còn sống trong phố chiều náo nhiệt len lỏi ẩn vào đôi mắt buồn hay nhìn về những hướng xa xăm. Ta giam giữ thời gian trong gian phòng cô quạnh. Lốc lịch dày cui chẳng màng xé bỏ để cho tháng ngày đừng bẽ bàng trôi đi mất biệt. Cái đồng hồ bị tháo pin nên dừng lại ở khoảng vô chừng thế cuộc, nhắc nhở mình những giây phút bình yên mà chẳng khi nào còn có được. Người hỏi ta có bao giờ dừng được thời gian, ta lúng túng với câu trả lời ngơ ngẩn, vì chẳng khi nào mình cảm nhận rõ được những hao gầy của tháng năm. Ta chỉ biết mình là kẻ sân si, tựa thể một loài ký sinh bám víu vào hoài niệm thu xưa khi bất lực cảm nhận thời gian không thể nào dừng lại được. Thật ra, mùa đang thì thầm lướt đi bên trong gian phòng cô tịch.

Ta biết thu Cần Thơ chưa bao giờ rõ nét ngọt ngào thanh thao. Thu Cần Thơ không sắc sảo vàng hoa cúc, không nhuộm đỏ u buồn màu hoa gạo, lại không rực rỡ lá vàng rơi xạc xào của hàng bạch dương xa lạ. Chỉ có những trái phượng cong oằn thời mùa hạ nắng nóng như thiêu bây giờ đen đủi treo lửng lơ như những dấu chấm than đặc dầy khung trời ảm đạm, thở than bông tàn cuối hè đã chớm bạc tàn úa lòng nhuộm đầy nỗi phôi pha. Lá bàng đo đỏ, miên man rơi về nơi nguồn cội, tự hỏi lòng đến kiếp nào mới được tái sinh. Cây cỏ Cần Thơ không tỏ vẻ điệu đàng, không trau chuốt mình làm dáng, chỉ thuần một nét ban sơ, trụi trần mà tinh tế khoe duyên. Thiên nhiên nhẹ nhàng biến chuyển cho lữ khách nhận ra rằng hình như có một mùa lặng lẽ trôi qua bên ngoài nhà trọ bằng tiếng thở dài nhẹ nhè buồn tênh của em gái phòng bên khi thơ thẩn đếm một vài bông bằng lăng lẻ tẻ nở muộn tim tím tinh khôi. Lẽ tuần hoàn đất trời khiến thế nhân già thêm đôi chút, để hiện tại hóa thành hư vô, vậy mà tấm lòng của em gái vẫn nhớ nhớ thương thương những ngày yên lặng cho kiếp mình được những ngày tháng bình an.

Mưa thu đô thành kỳ lạ, lúc dạt dào nước từ muôn miền thăm thẳm xa xôi, luồn đi lòng vòng trong lòng phố thị, khi lắc rắc vài giọt đủ để sẻ chia ngọt bùi cùng thế tục, đủ ướt một bên mặt đường, hanh hanh hoang hoải phía bờ kia cho kẻ giang hồ thèm được trốn mình trong những tàn cây dầu vĩ đại, ẩn mình bình yên nghe tiếng mưa chiều dội vang biết bao nghĩa tào khang mà người xưa đành bỏ lại. Khách đan tròn ngón tay nắm níu mùa thu, cho kỷ niệm ngọt ngào thành thực tại êm đềm, mộng cõi hư vô sẽ về theo giọt nước lạnh lùng nhưng ấm áp những ngày hò hẹn tháng tám mùa qua. Thoảng hư không lại hóa thành giây khắc thanh bình. Bản năng đợi chờ bỗng khao khát được lùng kiếm tình yêu, chăm bẵm vạch tìm nhớ thương trong màn mưa phố thị. Ta rất bình yên ngửa mặt thách thức cơn mưa chiều bàng bạc, nhưng chạnh lòng chợt nhớ người xa ta biền biệt đã mấy độ thu rồi. Ta thôi đành bình yên chờ trong nỗi nhớ chẳng bình yên.

Thu Cần Thơ chưa bao giờ lồ lộ nét sầu tư. Lúc mùa thu sắp tới tuổi già nua úa tàn là khi mùa đông chớm dậy thì bên ngõ. Hoa cúc dại dọc bờ lối xưa vẫn bình yên nở vội những nụ hàm tiếu li ti. Dẫu vô duyên giữa chốn phù hoa đô hội mà những cụ già khi nhớ khi quên cứ chực chờ nhổ bỏ chúng đi như một loài cỏ lạ, nhưng loài hoa này vẫn ngây thơ chứng thực một mùa đã đến và đang đi, là nhân chứng cho vòng quay của cuộc ta bà náo nhiệt. Ta ơ hờ ngửa mặt nhấp từng giọt ráng vàng lành lạnh chiều hôm, se lòng đợi mùa gió chướng về bên kia sông Hậu, cầu mong mùa nước rong đừng dữ dằn ngập lụt phố xa, cho người đi nhè nhẹ và nâng niu từng phút giây mắt cười trong mắt, tay trong tay chở che gian khổ trong suốt chặng đường dài. Chứ bây giờ kỷ niệm ngày xưa cùng đi trên chiếc xe đạp cà rịch cà tang đã như thể đợt triều cường miền hạ lưu rồi cũng trôi về hướng đông xa lắc. Người đành quên ta, ta nỡ quên người, nên cuộc đời đầy ắp nỗi bơ vơ.

Thu Cần Thơ thơm ngọt nao lòng kẻ lữ thứ đang dừng bước chân phiêu bồng. Mùi bông xoài đầu mùa trong sân bảo tàng e thẹn trổ vàng ua úa giữa lòng phố thị, ngọt nồng nàn lúc ban hôm mà sớm mai chợt tan chợt biến giữa cái náo nhiệt trần gian làm cho ai nhớ xuyến xao tuổi ấu thơ từ miệt vườn miệt ruộng. Có một dòng kinh nho nhỏ đi từ vàm sông Hậu bỗng một hôm ngon ngọt mùi đường thùng, say nồng nàn mùi hương rượu gạo làm cho ta say cả lối về thành đô. Những cánh đồng Ba Láng ngai ngái mùi khói đốt đồng, mùi rơm rạ âm ẩm mốc meo nằm xẹp mình trong dòng nước lũ còn ứ xanh rêu bên trong bờ đập, lẩn khuất bóng hình ai chống xuồng hái bông điên điển mùa nước lên, nổi trôi một kiếp phiêu bồng muôn một. Đâu đâu Cần Thơ cũng có mùi thoang thoảng, khi thì mùi thơm của bông dầu đường 3/2 nưng nức lòng u uẩn tình duyên lúc chiều hôm nắng nhạt, khi thì mùi bắp rang pha quyện hương cà phê ở các quán cóc lề đường cứ như ngây như dại đôi bóng tao nhân hòa quyện mà câu thơ không sao thành vần thành điệu.

Ta hầu như chẳng nhận ra tiếng thu cho đến khi nghe gió chướng thổi rạt rào sông cái lớn, thấy se se lạnh cuối tháng mười cho những khách đi đường chợt thấy đôi mắt cay cay. Khi người ta có thể cảm nhận đang sở hữu một mùa, ấy là lúc họ đang mất đi một mùa đã trôi vào vô thức. Khi ta có thể cảm nhận một mùa, rất có khi bên ta không còn có ai ngồi nói chuyện thu phong, không còn nghe tiếng thở dài đồng cảm. Mùa thu không có trái tim để ngồi chia sẻ, chỉ hiện mình thành dạt nắng vàng vô tư liếm hết khoảng sân trải đầy bông thiên lý, vô tình cho loài người biết được rằng một ngày sắp qua đi. Bông không thơm lúc buổi chiều nắng nhạt mà lại đượm một mùi chia ly biền biệt như tên bông thiên lý dặm trường thuở ban khuya. Mùa thu sẽ ra đi. Và chỉ có những ai không ngủ, miên man đi đi lại lại quanh sân nhà để xua đuổi những kỷ niệm xưa ra khỏi giấc mộng chập chờn mới có thể trầm mình cảm nhận hết hương thơm ngọt ngào nhưng nhoi nhói lòng với lẽ đời được mất sân si. Ấy là khi ta chợt giật mình biết mùa thu đã len vào giấc ngủ.

Thu Cần Thơ không nhuốm đầy màu sắc mùa thu vì xứ đồng bằng này chưa bao giờ có bốn mùa rõ rệt mà quanh năm chỉ hai mùa mưa nắng. Hiếm khi ta nhận ra những mùa đang hàm tiếu, liêu xiêu đi vào từng góc nhỏ trong lòng đô thị, nhưng cũng lắm khi ta một mình nhận thấy mùa đang lướt qua khi kỷ niệm quay về đau quay quắt con tim. Ta nhiều lần hỏi những mùa đang đến, liệu thu xưa đã đi mất thật rồi sao. Chắc gì thu còn nhớ bước phong trần bao lần đợi chờ ước mơ quay trở lại, nhớ những ngày qua, thành kỷ niệm đong đầy một vốc mưa xa.

Có một sớm mai ta thức dậy và nghe gió bấc non thổi xạc xào lành lạnh ngoài hiên mới biết mùa thu đã về phương nam. Mùa thu lại tiếp tục bước tang bồng đi về muôn miền xa lắc rồi lại sẽ trở về trong một ngày năm sau. Nhưng chắc có người trông chờ một mùa thu đến, bất diệt và nằm chết ơ hờ bên cửa cho những khắc giây giao mùa đừng bao giờ chia biệt, đừng bao giờ để một buổi mai lành lạnh ngồi co ro cạnh nhau và chợt thấy tóc ai điểm vài sợi bạc, mắt thêm buồn một vài vết chân chim mà đôi tấm lòng đã chớm nghĩ đến chia xa
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests