Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Phác họa bối cảnh xuất hiện tình ca Ngô Thụy Miên
trong nền tân nhạc miền Nam, 20 năm


Du Tử Lê
Tôi vẫn nghĩ bất cứ ai, có chủ tâm đi tìm những nét đặc thù của 20 năm Tân nhạc miền Nam, cũng sẽ nhận ra rằng, giữa thi ca và nền tân nhạc, nhất là dòng nhạc mà chúng ta quen gọi là tình ca, là một gắn bó tuyệt vời. Tựa như đó là những cuộc hôn phối không thể lý tưởng, đẹp đẽ hơn.
Image
Từ trái qua: Nhạc sĩ Nguyên Bích, nhạc sĩ Từ Công Phụng, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
(Hình: của nhạc sĩ Nguyên Bích)
Dù chưa có một nghiên cứu khoa học nào, cho thấy bao nhiêu phần trăm những tình khúc đi ra từ thơ, còn tồn tại đến ngày hôm nay, nhưng, những người theo dõi sự sống, chết của dòng tân nhạc miền Nam 20 năm cho rằng, chí ít cũng có tới gần một nửa những tình ca vốn là thơ hay ý thơ của các thi sĩ, tới hôm nay, vẫn còn tồn tại nơi quê nhà, cũng như ở xứ người.

Vì sự tương quan xương thịt như thế, giữa thơ và nhạc, cho nên tôi không nghĩ mình quá lời, khi kết luận rằng, ít nhiều mỗi nhạc sĩ của 20 năm Tân nhạc miền Nam từng tìm đến với thơ hay ý thơ của những thi sĩ đương thời hay tiền chiến.

Vì tính lãng mạn lồng lộng của thơ tình Việt Nam mà một nhạc sĩ, trong đời họ, có thể “kết hôn” với thơ của nhiều nhà thơ khác nhau.

Tuy nhiên, cũng có một số nhạc sĩ chỉ mặn mà và chỉ thành công với thơ của một hai thi sĩ mà thôi.

Ðiển hình cho trường hợp này, là cõi giới tình khúc Ngô Thụy Miên với thơ Nguyên Sa.

Trước khi bước sâu vào mối tương tác hữu cơ giữa thơ Nguyên Sa và nhạc Ngô Thụy Miên, tôi nghĩ có lẽ chúng ta cũng nên nhìn lại nguồn gốc đưa tới sự giầu có, huy hoàng, lộng lẫy của cõi giới tình ca miền Nam 20 năm trước đây.

Trước nhất, chúng ta không hề quên rằng tình ca là mùa gặt hái chính của Tân nhạc Việt Nam, nở rộ từ những năm đầu thập niên 1940. Nhưng kể từ Hiệp Ðịnh Geneva chia đôi đất nước, miền Nam sau một thời gian ngắn được sống trong yên bình thì, chiến tranh đã dóng rả những hồi chuông oan nghiệt của định mệnh chung một dân tộc.

Theo bước chân thời gian, chiến tranh, tang tóc ở miền Nam như nấm gặp những cơn mưa triền miên bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam ngơ ngác, thất thần trước một tương lai bất định. Họ, những người trẻ miền Nam giống như bị trần truồng trước tương lai ngõ cụt, tai họa của cái chết kề cận, tựa như họ có thể chạm tay, chạm mặt với thần chết!

Trong tình cảnh tuyệt vọng này, phản ứng tự nhiên của những con thú cùng đường là chống trả hay lẩn trốn trong những căn hầm trú ẩn hư ảo.

Phản ứng này, thể hiện rất rõ nét qua văn chương và âm nhạc.

Vì thế, có dễ không mấy ai ngạc nhiên khi nhìn lại 20 năm văn học nghệ thuật miền Nam, người ta thấy có ba khuynh hướng chính, như ba phản ứng chống trả hoặc trốn chạy tùy theo cảm nhận riêng của mỗi cá nhân là:

1. Chống chiến tranh.

2. Ðắm mình trong căn hầm tính dục. (Khuynh hướng này chỉ phổ cập trong lãnh vực văn chương, không phổ cập trong lãnh vực âm nhạc. (Và,)

3. Trú ẩn trong những cánh rừng hay những núi, đồi lãng mạn.

Nói chung, với 3 khuynh hướng chính này thì cõi ẩn trú được thanh thiếu niên miền Nam tìm tới, ở lại đông đảo nhất là những cánh rừng hay những núi, đồi lãng mạn.

May mắn thay miền Nam thời đó, có được tự do đủ, để các khuynh hướng học thuật phát triển. Nếu không có những tự do căn bản này, nền văn học nghệ thuật của miền Nam cũng sẽ giống như miền Bắc mà thôi.

Tuy nhiên, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời đại của một dân tộc, luôn có cho riêng nó một ngôn ngữ. Ngôn ngữ ấy khả dĩ phản ảnh được tâm trạng đời sống của đa số. Bởi thế, miền Nam, ở những thập niên 1960, 1970, tuy người ta vẫn còn đọc thơ tình của những thi sĩ tiền chiến như Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Huy Cận hay, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư v.v... Và, một số người vẫn còn nghe, hát những tình khúc của Tô Vũ, Hoàng Quý, Nguyễn Văn Khánh, Ðoàn Chuẩn-Từ Linh, Hoàng Giác, Tử Phác hay Nguyễn Văn Khánh, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý v.v... Nhưng đại đa số, nhất là giới trẻ ngày càng xa lạ với những ca khúc như:

Em lo gì trời gió
Em lo gì trời mưa
Em tiếc gì mùa hè
Em tiếc gì mùa thu
Ta cứ yêu đời đi
Như lúc ta còn thơ
Rồi để anh làm thơ
Rồi để em dệt tơ...

(“Thoi Tơ,” thơ Nguyễn Bính, nhạc Ðức Quỳnh)

Hay:

Ðôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói
Tình đôi ta vời vời
Có nói cũng không cùng
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ứa
Một ngày một cách xa...

(“Một Mùa Ðông” thơ Lưu Trọng Lư) (1)


Hình ảnh “anh làm thơ, em dệt lụa” là hình ảnh lãng mạn, tượng trưng cho một tình yêu đẹp, rất lý tưởng... Nhưng dù đẹp hoặc lý tưởng tới đâu thì nó cũng đã thuộc về quá khứ! Ðời sống thực của thanh thiếu niên miền Nam, trong chiến tranh, dù họ có chọn mơ mộng, có lãng mạn như một ẩn náu cần thiết thì cũng chẳng có bao người, biết được hình thù cái khung cửi...

Cũng vậy, bối cảnh đời sống của thanh thiếu niên miền Nam ở những năm 1960, 1970, thực tế không hề có cảnh “em ngồi trong song cửa - anh đứng tựa tường hoa...” để rồi cùng im lặng suốt một cuộc tình mà kết cục vẫn là sự xa cách, với những dòng lệ ứa...

Thực tế của thời đại, giai đoạn miền Nam 20 năm, có lãng mạn, lý tưởng nhẹ nhàng nhất thì cũng phải là:

Anh về qua xóm nhỏ
Em chờ dưới bóng dừa
Nắng chiều lên mái tóc
Tình quê hương đơn sơ
Quê em nghèo, cát trắng
Tóc em lúa vừa xanh
Anh là người lính chiến
Áo bạc màu đấu tranh...

(“Tình Quê Hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Ðan Thọ)


Hoặc đô thị hơn thì chí ít cũng phải là:

Em đến thăm anh đêm ba mươi
Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi
Anh nói với người phu quét đường
Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em
Tay em lạnh để cho tình mình ấm
Môi em mềm cho giấc ngủ em thơm
Sau giao thừa xanh trong đôi mắt ngọc
Trời sắp Tết hay lòng mình đang Tết?


(“Em Ðến Thăm Anh Ðêm Ba Mươi” lời Nguyễn Ðình Toàn, nhạc Vũ Thành An)


Ở tình khúc kể trên của Ðan Thọ, phổ từ thơ Phan Lạc Tuyên, từ những năm giữa thập niên 1950, đã sớm cho thấy, người con gái không còn “ngồi trong song cửa” nữa. Người con gái thời “hậu tiền chiến” đã mạnh dạn bước ra khỏi nhà, đi tới, ngồi xuống một gốc cây, chờ đón người tình của mình.

Qua tới thí dụ thứ hai, cũng cho thấy người nữ không còn ngồi quay... tơ cho chàng làm... thơ mà, nàng đã chủ động đi... thăm chàng. Hơn thế, nàng còn chọn thời điểm quan trọng nhất của một năm là đêm 30 Tết, thay vì phải ở nhà để cùng cha mẹ chờ cúng giao thừa thì nàng lại ở bên chàng. Nàng đưa bàn tay mình cho chàng nắm lấy. Nàng trao môi mình cho chàng yêu thương... Nhờ vậy, chàng biết tay nàng... lạnh. Môi nàng... ấm...

Và, kẻ ngoại cuộc, sung sướng được làm nhân chứng cho chọn lựa đi tới, để được sống với tình yêu của nàng là “người phu quét đường,” là “chiếc lá vàng”...

Hai hình ảnh lãng mạn không thể hiện thực hơn, tôi trưng dẫn, trong tình khúc vừa kể, chỉ là một trong hàng ngàn hình ảnh, biểu tượng cho tính chất lãng mạn đầy tích cực của thời kỳ thơ/nhạc miền Nam 20 năm, trước đây.

Trước nhu cầu cấp bách của thanh thiếu niên miền Nam về những cảm thức lãng mạn mới, như những cánh rừng hoặc, những núi, đồi cho họ ẩn trú (dù chỉ là ảo tưởng) trước tai ương, năm 1957, về phương diện thi ca, thi phẩm “Thơ Nguyên Sa” in lần thứ nhất ra đời.

Trong tình cảnh bơ vơ, thất lạc kia, năm 1965, về phương diện tình ca, hai tình khúc mang tên Ngô Thụy Miên ra đời. Ðó là các ca khúc “Chiều Nay Không Có Em” và, “Mùa Thu Cho Em.” Hai ca khúc này là hai dự báo mạnh mẽ sự thành tựu rực rỡ nay mai của họ Ngô.

Ở thời điểm giới hạn từ 1955 tới 1965 thì thơ Nguyên Sa là một hiện tượng mang tính dấu mốc lãng mạn mới. Như thể thơ Nguyên Sa đã mang lại cho buồng phổi thanh thiếu niên miền Nam những lượng khí trời mới.

Tôi dùng cụm từ “lãng mạn mới” với dụng ý nhấn mạnh, trong 20 năm học thuật miền Nam, không phải nhà thơ hay nhạc sĩ nào bước vào cõi giới thi ca và âm nhạc lãng mạn cũng đều thành công.

Theo ghi nhận chung, rất nhiều người thất bại nếu khiếm khuyết tài năng hoặc đi tiếp trong trong bóng rợp của những hình tượng, những cảm thức đã thành khuôn thước sáo mòn, ước lệ của thơ, nhạc lãng mạn có từ thời tiền chiến.

Trong bối cảnh đòi hỏi không chỉ tài năng mà còn là những nỗ lực ý thức, năm 1969, tức bốn năm sau hai tình khúc đầu tay, Ngô Thụy Miên thẩm nhập cõi giới thi ca Nguyên Sa - Ðể cùng với thơ của tác giả này, họ Ngô làm thành một hợp hôn tuyệt vời.

Trong bài viết nhan đề “Ngô Thụy Miên: Sau 35 năm hoạt động âm nhạc,” đăng tải nơi trang mạng vietnhac.org, cố nhạc sĩ Trường Kỳ viết:

“Nếu nhạc Từ Công Phụng và thơ Du Tử Lê được coi là một sự kết hợp hài hòa, thì nhạc Ngô Thụy Miên và thơ Nguyên Sa phải được coi là một sụ kết hợp sâu xa về tình cảm. Từ sự gần gũi với thơ Nguyên Sa trong thời kỳ học trò, Ngô Thụy Miên đã chịu ảnh hưởng không ít ở hơi thơ của thi sĩ tên tuổi này khiến người nghe dễ nhận thấy bàng bạc trong dòng nhạc của anh như chính anh tâm sự: 'Trong thời gian đi học, thơ của Nguyên Sa mình đọc nhiều nhất, ngâm nhiều nhất thành ra nó đã thấm vào hồn mình... Trong tất cả 4 thập niên của tôi thì thơ của ông ấy lúc nào cũng bàng bạc trong dòng nhạc của tôi. Ngay cả như bên này như tôi viết 'Nắng Paris Nắng Saigon' cũng mang âm hưởng của 'Áo Lụa Hà Ðông' hay 'Paris Có Gì Lạ Không Em.'”

Du Tử Lê

(Thứ Năm, 12 tháng 8, 2010: “Nhân cách Ngô Thụy Miên xuyên qua hôn phối với thơ Nguyên Sa.”)
Chú thích:(1) Bài thơ do Phạm Duy phổ nhạc (?) Người hát được ghi nhận “tới” nhất, là ca sĩ Duy Trác.
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Nhân cách Ngô Thụy Miên xuyên qua hôn phối với thơ Nguyên Sa

Du Tử Lê
(Tiếp theo và hết)

Image
Từ trái qua: Nhạc sĩ Vĩnh Lạc, nhạc sĩ Ðăng Khánh, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, nhạc sĩ Thomas Ngô,
nhạc sĩ Từ Công Phụng, nhạc sĩ Thanh Trang. (Hình: Nguyên Bích)

Nền tân nhạc Việt Nam xây dựng trên ca khúc, hiểu theo nghĩa ca từ là chính. Cho nên ảnh hưởng của thi ca vào âm nhạc là ảnh hưởng một mặc nhiên.

Sinh thời, cố nhạc sĩ Phạm Ðình Chương từng cho rằng, nếu loại bỏ phần tiếp thu to lớn, rất quan trọng của thi ca trong nền tân nhạc Việt Nam thì, ông không biết ca từ của nền tân nhạc đó sẽ nghèo nàn, đến mức nào!

Tôi không biết có phải vì sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam đã diễn biến ở một tốc độ cao, do lượng khí tự do bung nở mạnh mẽ, cộng sinh với những vấn nạn của chiến tranh, làm cho khoảng cách giữa văn chương và nghệ thuật ngắn lại. Khiến nhiều người lầm tưởng hai lãnh vực này đã đồng bộ, song hành, cùng lăn mình, chảy tới?

Sự thực, ở quốc gia nào văn chương cũng luôn là mũi nhọn mở đường với những thử nghiệm mới mẻ. Một khi đã định hình, nó sẽ ảnh hưởng sang lãnh vực nghệ thuật. Dễ hiểu hơn, văn chương (nhất là thi ca), luôn mang tới cho đời sống tinh thần của thời đại, những cách nói mới.

Cách nói đó bắt nguồn hay thành hình từ những nỗ lực phản ảnh mặt chìm khuất của hiện trạng thời đại. Tôi muốn nói, phần đáy tầng, phần mạch ngầm của dòng sông đời thường. Nó đòi hỏi nơi những kẻ đào xới độ cảm nhận tinh tế, tính mẫn cảm sâu xa, vượt trên mức bình thường. Ghi nhận chung cho rằng, tính mẫn cảm đặc biệt này, có nhiều nơi các thi sĩ.

Chính những cảm nhận vi tế khai lộ kia, đã dẫn tới những hình thức diễn đạt (cách nói) nếu không mới mẻ thì chí ít, nó cũng khác với những hình thức diễn đạt (cách nói) đã có, trước đó. (Ðôi khi những phản ảnh và diễn đạt ấy, còn đi trước thời thế. Nó mang tính vị lai: Cách nói ở được phía trước mặt.)

Hiểu như thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi nhận ra cách nói của nền tân nhạc miền Nam, 20 năm là cách nói khác với cách nói của dòng nhạc tiền chiến.

Từ điểm đứng này, sẽ không ai ngạc nhiên, khi nhận thấy cách nói (qua ca từ) của những tình khúc thời tiền chiến, chịu ảnh hưởng cách nói lãng mạn của dòng thơ tiền chiến.

Khi tình cờ đọc được phát biểu của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, do cố nhạc sĩ Trường Kỳ ghi lại:

“...Ngay cả như bên này như tôi viết 'Nắng Paris Nắng Sài Gòn' cũng mang âm hưởng của 'Áo Lụa Hà Ðông' hay 'Paris Có Gì Lạ Không Em,' tôi cho, tự thân phát biểu ấy, đã nói lên tính lương thiện cần thiết của một nghệ sĩ, đối với một nghệ sĩ khác. Với tôi, kẻ nói được như thế, là người có một nhân cách đáng trân trọng.

Tính lương thiện cần thiết làm thành nhân cách lớn của một nghệ sĩ, trước Ngô Thụy Miên, tôi còn thấy (một cách công khai) nơi cố nhạc sĩ Phạm Ðình Chương. Khi sáng tác tình khúc 'Nửa Hồn Thương Ðau' theo yêu cầu của nhà báo Quốc Phong, chủ hãng phim Liên Ảnh Công Ty, năm 1970, để dùng cho phim 'Chân Trời Tím,' tiểu thuyết của nhà văn Văn Quang, tới phần Coda, họ Phạm dùng hai câu vốn là ý thơ Thanh Tâm Tuyền, để khép lại ca khúc.”

Khi dùng 2 câu thơ đã biến cải (modify) đó, ông ghi chú rõ rằng: “Ðoạn cuối bài trích ở tác phẩm Lệ Ðá Xanh, thơ Thanh Tâm Tuyền, nhạc Cung Tiến.”

Trên nguyên tắc, sau đấy, Phạm Ðình Chương không cần phải có thêm bất cứ một ghi chú nào khác. Vậy mà, khi ca khúc được phổ biến, nơi đầu bản nhạc, ông vẫn nghiêm chỉnh ghi “Ý thơ Thanh Tâm Tuyền.” (1)

Trở lại với cách nói từ thi ca bước vào tân nhạc của tình ca miền Nam, mặc dù mãi tới cuối năm 1969, tác giả “Riêng Một Góc Trời” mới nhận được thi phẩm đầu tiên của thi sĩ Nguyên Sa, quà tặng từ một người bạn... Nhưng ngay từ tình khúc đầu tay của Ngô Thụy Miên, giới thưởng ngoạn đã ghi nhận được những ảnh hưởng đáng kể của cõi giới thơ Nguyên Sa, qua ca khúc “Chiều Nay Không Có Em” sáng tác năm 1965. Hai khổ nhạc mở đầu:


Chiều nay mình anh lang thang trên phố dài
Không có em ai chung bước dỗi nhau giận hờn
Không có em đường xưa giăng mắc mây trôi
Chiều nay hai đứa chung đôi
Lặng nhìn mùa thu lá rơi

Dù mai tình lên khơi như sóng gào
Không có em cho phố vắng dấu chân hẹn hò
Không có em mùa thu thôi lá vương bay
Mùa đông buốt giá qua đây
Vòng tay ấy ôi sao lẻ loi... (2)



Cụm từ “không có em ” được họ Ngô khởi đi và, dẫn tới kết thúc suốt chiều dài ca từ, rất gần với cách nói của Nguyên Sa trong bài “Cần Thiết”:


Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa
Những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng
Ðôi mắt sáng là hành tinh long lánh
Lúc sương mù ai thở để sương tan
Ai cầm tay cho đỏ má hồng em
Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc...
Không có anh nhỡ một mai em khóc
Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi... (3
)


Lại nữa, tôi nghĩ, nếu là cách nói cũ (thời tiền chiến thì), ngay câu mở đầu khổ thứ hai của tình khúc vừa kể (dù mai tình lên khơi như sóng gào), nhiều phần có thể sẽ là “dù mai tình lên khơi bao... thiết tha” hoặc, “dù mai tình lên khơi bao xót xa”... Nhưng Ngô Thụy Miên đã cho ca từ của mình một liên-ảnh khác. Ông dùng hai chữ “sóng gào” đi sau liên tự “như,” “Sóng gào,” mới mẻ. Mạnh mẽ. Cụ thể. Cực tả hơn.

Khi nói tới sự náo nức, mức gia tăng cường độ tình yêu (vốn là một trạng thái xung động tình cảm trừu tượng), mà dùng những tính từ trừu tượng như “thiết tha” hay “xót xa” để bổ trợ, nhấn mạnh, theo tôi, là dùng một hình ảnh trừu tượng, để giải thích, bổ nghĩa cho một hình ảnh trừu tượng khác. Nó không giúp gì cho mạch văn, về phương diện cấu trúc ngôn ngữ. Nhưng “sóng gào” thì ngược lại.

Vẫn nói về cách nói khác, hay cách nói mới trong ca từ của cõi giới âm nhạc Ngô Thụy Miên, tôi nghĩ, trước ông, dường như chưa có một nhạc sĩ tiền chiến nào, ví giọt lệ người tình của họ như / với “ngọc ngà,” như trong tình khúc “Giọt Nước Mắt Ngà” của ông:


Trông áng mây u hoài
Giọt lệ nào thương bay, tình đành tràn mi cay
Ðau thương xé môi gầy mà lòng vẫn mê say
Ôi giọt nước mắt ngà cho cuộc tình đầu tiên (4)



Cũng trong khổ nhạc này, dòng thứ ba, họ Ngô dùng chữ “xé” ngay sau hai chữ “đau thương” (dùng như danh từ,) làm chủ từ cho động từ “xé”:

“Ðau thương xé môi gầy...” Với nhân cách hóa này, trước và sau Ngô Thụy Miên, tôi e khó có một nhạc sĩ nào có khả năng gây “chấn thương” tâm hồn người nghe mạnh mẽ hơn. Do đấy, thích hay không, đó vẫn là những cách nói khác.

Cũng trong phần ca từ tình khúc “Giọt Nước Mắt Ngà” ảnh hưởng cách nói của thơ Nguyên Sa, lại được họ Ngô thể hiện bất ngờ qua câu “nụ cười đã đi xa” trong khổ nhạc:


Em đứng bên sông buồn
Nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha
Trên hai đóa môi hồng
Nụ cười đã đi xa
Ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu... (5)



Tôi không biết mình có quá lời chăng, khi nói rằng câu nhạc “nụ cười đã đi xa” của Ngô Thụy Miên là một trong những đóng góp đẹp đẽ cho cách nói khác của dòng tân nhạc miền Nam, hai mươi năm. (6)

Tóm lại, tính gắn bó, cuộc hợp hôn giữa thơ Nguyên Sa và nhạc Ngô Thụy Miên đã đem lại cho dòng tân nhạc Việt Nam, không chỉ là những ca khúc rực rỡ mới, trực tiếp đi ra từ thơ Nguyên Sa. Như “Áo Lụa Hà Ðông,” “Tình Khúc Tháng Sáu,” “Tháng Sáu Trời Mưa,” “Paris Có Gì Lạ Không Em,” “Tuổi Mười Ba” hay “Tháng Giêng và Anh” v.v... Mà, hôn phối này còn có thể coi là tiêu biểu cho sự thuận hợp một dòng, của hai lãnh vực thi ca và âm nhạc miền Nam nữa.

Tính tiêu biểu tôi nói ở đây, không chỉ nằm nơi sự thăng hoa đồng bộ giữa thơ và nhạc. Nó còn thể hiện trong phạm trù ngôn ngữ, cách nói một thời của một giai đoạn lịch sử và, xã hội.

Trước khi kết thúc bài viết này, tôi cho là thiếu sót, nếu không nhắc tới tính cách trân trọng người nữ, tinh thần lạc quan tìm thấy trong ca từ nhạc Ngô Thụy Miên.

Tôi không quyết đoán, nhưng ngỡ rằng, tính chất vừa nhắc, tìm thấy trong ca từ nhạc Ngô Thụy Miên, có dễ phần nào, cũng đã đi ra từ cõi giới thơ Nguyên Sa.

Thí dụ:

Nắng úa dệt mi em và mây xanh thay tóc rối
Nhạt môi môi em thơm nồng
Tình yêu vương vương má hồng
Sẽ hát bài cho em và ru em yên giấc tối
Ngày mai khi mưa ngang lưng đồi
Chờ em anh nghe mùa thu tới...
(Mùa Thu Cho Em, Ngô Thụy Miên) (7)


Hoặc:

Giọt lệ nào thương vay, tình đành tràn mi cay
Ðau thương xé môi gầy mà lòng vẫn mơ say...
(Giọt Nước Mắt Ngà, Ngô Thụy Miên)



Tôi không nghĩ có người nữ nào không cảm động, không mãi nhớ, khi đã chia tay một cuộc tình mà, người nam vẫn một lòng “mơ say” mình. (Thay vì họ bị chàng lớn lối kết án, trút đổ lên người nữ, mọi nguyên nhân, tội lỗi...)

Từ đó, tôi tin, khó ai có thể “phản biện” khi biết rất nhiều người thuộc nữ giới, đắm đuối nhạc Ngô Thụy Miên.

Riêng tôi, trên tất cả, vẫn là nhân cách họ Ngô, qua phát biểu về thơ Nguyên Sa của ông.

Du Tử Lê
(11 tháng 8, 2010)

Chú thích:

(1) Tuyển tập nhạc “Mộng Dưới Hoa,” 20 bài thơ phổ nhạc của Phạm Ðình Chương. Vincent and Company xuất bản, Calif., 1991.
(2) (4) (5) (7): Theo dactrung.com
(3) “Thơ Nguyên Sa Toàn Tập,” trang 23. Ðời xuất bản. Calif., 2000.
(6) Cũng nên ghi nhận: Trong ca từ Trịnh Công Sơn có rất nhiều cách nói khác. Và, phải chăng vì thế, nhạc sĩ Văn Cao từng cho rằng “Trịnh Công sơn... hát thơ.” (Xem Văn Cao, tựa tập nhạc “Em Ra Ði Nơi Này Vẫn Thế.” Nhà xuất bản Hồng Lĩnh, Calif., 1991.)
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »


Image

SEN VÀNG

''...Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ cho riêng mình. Sự sống trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển Chết....”
Cứ hai ngày cô gái lại đến, mang theo một chục hoa Sen. Cô lặng lẽ quét dọn những cánh hoa rụng vương vải trên bàn thờ, dưới đất mà tôi chưa kịp dọn. Cô loay hoay súc bình rồi cắm hoa mới.

Có khi là những đoá hoa sen trắng muốt, có khi là chục hoa sen hồng. Sau này tôi mới biết những đoá hoa sen mà cô mang đến là loại sen được trồng từ các hồ ở Đại Nội, màu sắc và mùi hương rất nhẹ nhàng, khác với loại sen “Cao sản “, một giống sen mới, người ta trồng để lấy hạt nhiều hơn là chơi hoa, chúng trồng được dễ dàng và rộng khắp, có thể sống được ở các hồ gần bờ ruộng, bên cạnh những cây lúa. Hiện nay loài Sen này đang được trồng nhiều ở các vùng ngoại ô thành phố Huế, huyện Quảng Điền, Phong Điền. Màu trắng của loại sen này ngã về màu xanh của lá, còn màu hồng thì ngã về tím. Dáng, màu đều nặng nề. Hai loại hoa như hai cô gái, một ở kinh thành, quý phái và đài các, một ở nông thôn, khoẻ mạnh và chân chất. Cô lặng lẽ thắp hương và cũng lặng lẽ rút khỏi nhà tôi trước giờ vào sở làm. Buổi sáng chủ nhật, tôi mời cô nán lại uống trà, cô từ chối với lời hẹn.

- Dạ để hôm khác, hôm nay em đang bận. Cứ thế, cô đến và đi, tựa như người thiếu nữ trong Bích Câu kỳ ngộ, hiện ra từ bức tranh, rồi vội vàng chui vào bức tranh, khi đã nấu nướng và dọn sẵn một mâm cơm ngon lành.

Mẹ tôi mất đột ngột bởi một cơn nhồi máu cơ tim. Một bất ngờ, không chỉ đối với tôi, mà còn với rất nhiều người vì Mẹ tôi vẫn còn trẻ, khoẻ và đẹp. Gần 10 năm nay tôi không sống cạnh Mẹ. Vào học Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh, ra trường, có cơ hội làm việc ở thành phố lớn, đó là một may mắn với tôi, là niềm vui với Mẹ. Mẹ tôi sống một mình, trong ngôi nhà cũ, Ba tôi mất từ khi tôi còn nhỏ. Đôi khi ở xa, tôi cũng ray rứt nhớ về Mẹ và niềm quạnh quẽ mà mẹ đang chịu đựng. Tôi cảm thấy không an lòng, nhưng mỗi khi tôi điện thoại, bày tỏ ý nghĩ này thì Mẹ bảo: “Con yên tâm, Mẹ vẫn khoẻ và vui, khi nào rảnh thì về thăm Mẹ, chỉ cần một tiếng đồng hồ bay, con có thể nhìn thấy Mẹ rồi”. Mẹ còn cười cười nói thêm: “chuyện nhỏ mà”… Vậy mà cái “chuyện nhỏ” với Mẹ, lại trở thành quá lớn đối với tôi. “Mẹ khoẻ và vui “Tôi biết Mẹ trấn an tôi, như tôi tự trấn an mình. Giờ đây, có bay cả ngàn giờ bay, tôi cũng không bao giờ còn gặp được Mẹ nữa. Tôi nghẹn ngào với ý nghĩ đó.

Cô gái xuất hiện vài ngày sau khi Mẹ tôi nằm trong lòng đất. Cô đến một mình, trong bộ đồ dài đen và chục hoa sen trắng trên tay. Mái tóc dài, nét mặt thanh tú. Trông cô giống những bức tranh “Thiếu nữ “của các hoạ sĩ thập niên 70. Cô đứng ở cổng, nhìn vào nhà, ngơ ngác như một đứa bé đang lạc mất người thân yêu giữa phố chợ đông người. Cô xin phép được cắm những đoá sen lên bàn thờ Mẹ tôi. Cô nói Mẹ tôi rất thích hoa sen, nhất là loại hoa sen thuần giống này. Cô nghĩ, nó cũng trong sáng và nhân hậu như tâm hồn Mẹ. Cô còn nói rằng Mẹ tôi cũng thường ao ước có được một giống sen màu vàng. Đó là sự kết hợp của hai thứ Mẹ tôi yêu thích, loại hoa và màu hoa. Có thể đó sẽ là những hoa sen tuyệt đẹp. Những lời của cô gái xoáy vào tim tôi, nhói đau. Lâu nay tôi quá ít quan tâm đến những gì Mẹ yêu thích, chẳng biết Mẹ đã làm những gì, cho ai. Tôi cứ nghĩ Mẹ tôi đang sống một cuộc sống thanh thản, bình thường như những người phụ nữ khác ở tuổi về hưu, nghỉ ngơi, đọc sách, đi mua sắm, thăm bạn bè, chăm sóc vườn tược. v v…Qua cô, tôi mới biết Mẹ tôi đã làm nhiều hơn thế. Mẹ đã thầm lặng giúp nhiều người khó nghèo từ những đồng tiền dành dụm của mình và quyên góp bạn bè. Cô cũng nói rằng Mẹ vừa mới khoe với cô là đã xoay sở đủ tiền để có thể mở một trung tâm dạy thêm cho các em học sinh khu vực X, quá xa nếu các em phải về thành phố để học và cũng không thể có đủ tiền để đi học thêm. Mẹ đã quan tâm nhiều người, nhiều thứ không liên quan đến bản thân mình. Còn tôi? Tôi cứ mãi quẩn quanh theo những vòng tròn bận bịu mà tôi gọi đó là “sự nghiệp”, không hề biết rằng có những thứ khác còn quan trọng và ý nghĩa hơn gấp nghìn lần. Tôi thật quá vô tâm.

Cô thắp hương cho Mẹ tôi và cho biết là cô vừa đi Trung Quốc về nên không đến dự đám tang của Mẹ tôi được. Buổi tối, trước khi đi, cô có ghé thăm Mẹ tôi và nghe bà nói bà hơi mệt tim. Cô đề nghị đưa bà đến bác sĩ nhưng bà cười bảo: “Không sao”. Cô hẹn là lúc đi công tác về sẽ đưa bà đến khoa tim mạch, nhờ một bác sĩ quen ở đó chụp kiểm tra động mạch vành cho Mẹ tôi, nhưng cô đã không kịp làm điều này và sẽ không bao giờ làm được nữa... Cô bật khóc nức nở. Những ngày sau đó, khi gom đồ đạc của Mẹ tôi, tôi ngồi vào bàn làm việc của Mẹ và mở chiếc máy vi tính. Đây là một đoạn thư tôi tìm thấy trong Inbox của Mẹ.

“Cô yêu quý!

Hôm qua con đọc được tập truyện “Cửa sổ tâm hồn”, trong đó có câu chuyện về hai cái biển hồ. Tự dưng con nghĩ đến cô. Con biết chắc là cô đã đọc truyện này rồi, nhưng con vẫn muốn cô đọc lại một chút cùng con. Hay là để con đọc cho cô nghe cô hí!

“Người ta bảo ở bên Palestine có hai biển hồ... Biển hồ thứ nhất gọi là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Không có một loại cá nào có thể sống nổi trong dòng nước đó, cũng không ai muốn sống gần đó. Nếu uống phải dòng nước này, người và cả súc vật nữa, sẽ mắc bệnh, và chết. Biển hồ thứ hai có tên là Galilée. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ này lúc nào cũng trong xanh mát rượi, dưới đó nhiều loài cá tung tăng bơi lội, tôm cua tha hồ vùng vẫy, nhiều loài san hô xinh đẹp, quyến rũ lung linh dưới mặt nước trong vắt. Dòng nước ngọt lành, mát rượi mang lại cho du khách một cảm giác thư thái, dịu ngọt khi uống vào. Trên bờ, nhà cửa được xây cất rất nhiều và rất tráng lệ. Vườn cây xung quanh thì nảy nở rất tốt tươi nhờ được nguồn nước này thấm vào đất”

(Cô ơi, trong đó có cả những đoá hoa Sen mà cô yêu thích, có cả đoá Sen vàng quý hiếm cô từng mơ ước được ươm mầm nữa đó. Hi! À, con cũng nói để cô mừng, con vừa đọc một tài liệu về Sen. Ở bên Mỹ có giống Sen Vàng đó cô. Họ gọi là yellow lotus, nhưng con không biết là có giống hoa súng vàng bên mình không, có đẹp và hương có thơm bằng hoa sen của mình không? Tài liệu còn nói rằng hạt sen còn nguyên vỏ rất khó hư và có độ nẩy mầm rất cao. Họ đã thí nghiệm lấy một hạt sen còn nguyên vỏ được tìm ở Ai Cập, trong Kim Tự tháp, xây hơn hai ngàn năm qua, nay đem ra ương, vẫn mọc… Khi mô có ai ở bên Mỹ về, con sẽ xin vài hạt sen vàng, Cô cháu mình trồng thử, Cô hí! Con tin là loài hoa này sẽ nhanh chóng nảy mầm trong chiếc bể cạn nhỏ nhỏ của Cô và sẽ cho ra nhũng đoá Sen vàng tuyệt đẹp... Con tiếp tục câu chuyện về hai cái Biển hồ Cô nhé!)


“… Điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đếu được đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người. Một định lý trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan toả. Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lời. Đôi môi hé mở mới thu nhận nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ cho riêng mình. Sự sống trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển Chết.”

Cô ơi, Con đọc và tự nghĩ có phải tấm lòng của Cô cũng như cái biển hồ thứ hai kia không?Chia sẻ, chia sẻ và chia sẻ... Cô luôn chia sẻ những gì mình có, một sức sống tràn trề, một lòng nhiệt huyết trong công việc, sự cảm thông và niềm yêu thương, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp. Những lời động viên, an ủi hay những lời khuyên bảo của Cô đã mang lại cho những người sống gần gủi cô và nhất là cho con, một cô bé mà mọi cánh cửa mở vào cuộc đời tưởng đã khép lại, một niềm tự tin, một cái nhìn lạc quan hơn Cô luôn nói: “Cuộc sống có rất nhiều thử thách và khó khăn. Để vượt qua điều này, đôi khi cũng cần đến trợ lực của người thân, bạn bè. Sự chia sẻ từ họ sẽ là một sức mạnh vô hình kéo ta lên, khiến ta cảm thấy nhẹ nhàng hơn để chấp nhận nghịch cảnh”. Và “Khi chúng ta cho điều gì, chúng ta sẽ nhận được điều đó. Nếu yêu thương người thì người cũng yêu thương ta”.

Cô yêu quý ơi, Con biết rồi, có phải món quà mà cuộc sống ban tặng cho chúng ta là biết cảm thông, chia sẻ và yêu thương nhau hơn. Sống như cái Biển Chết thì thực là vô nghĩa. Chẳng cho ai, chẳng chia sẻ với ai cái gì hay điều gì. Sống như biển hồ Galilê mới đích thực là cuộc sống. Phải vậy không Cô?”…

Đó là bức thư của cô gái thường mang hoa sen đến cho Mẹ tôi. Và tôi hiểu ra tại sao trong đám tang của Mẹ tôi, có những người không thân thích, cũng không phải là bạn bè, đã nhỏ những giọt nước mắt chân thành thương tiếc. Và tôi hiểu ra tại sao có một cô gái xa lạ vẫn thường mang đến cho Mẹ những đoá hoa mà Mẹ hằng yêu thích, vẫn nhớ về những gì Mẹ đã làm, đã nói..

Còn tôi, là người gần gũi với Mẹ nhất, là khúc ruột của Mẹ, vậy mà tôi chẳng hề biết, hiểu gì về Mẹ cả. Tôi đã nhận quá nhiều ở Mẹ mà lại quá ít san sẻ cùng Mẹ. Tôi đã sở hữu một tài sản giá trị mà không tự biết để nâng niu, quý trọng và giữ gìn.

Mẹ ơi, thì ra con cũng chỉ là một cái Biển Chết, dù đã được nhận nguồn nước mát rượi từ tâm hồn Mẹ tràn sang.

Thanh Nhã
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Công Thức Giết Chồng

Nguyên tác: Recette de meutre
Tác giả: C.P. Donnell, Jr
Afred Hitchcock présente
Thùy An phỏng dịch

Thanh tra Miron đứng tần ngần trước ngôi biệt thự lộng lẫy. Giàn hoa giấy trên vòm cổng bừng lên màu đỏ thắm, rực rỡ dưới ánh mặt trời. Ông đưa tay bấm chuông.
Nữ chủ nhân –bà Chalon, bốn mươi tuổi –tiếp ông trong một phòng khách sang trọng, màn voan trắng, ghế nệm lót nhung và sàn trải thảm. Bà có một vẻ đẹp lạ lùng. Miron nghĩ ngay đến một khuôn mặt tạc đầy thạch cao với đôi mắt trong xanh như mây trời Địa Trung Hải thấp thoáng ngoài cửa sổ. Thân hình bà nẩy nở săn chắc, hứa hẹn dù cho đến tuổi sáu mươi, những đường nét quyến rũ ấy vẫn không bị thời gian bôi xóa. Chà, ông nghĩ, điều này cũng chẳng cung cấp được gì thêm cho những dự tính của mình.
-Một ly Dubonnet nhé, thưa ông thanh tra?
Đang nhìn vào đôi môi mọng của nữ chủ nhân, Miron giật mình. Ông cố lấy giọng tự nhiên:
-Cám ơn.
Bà Chalon nâng ly uống trước, mắt nhìn ông tinh quái. Rồi bà mỉm cười, tuyên bố thẳng thừng:
-Ông đến điều tra về vụ tôi đã đầu độc mấy ông chồng cũ phải không?
Miron sững sờ, lúng túng:
-Thưa bà… tôi…
-Ngay từ lúc ông đến trình diện ở Tỉnh đường, tôi đã đoán ra điều đó.
Thanh tra Miron trấn tĩnh, lấy lại vẻ lạnh lùng nghề nghiệp:
-Thưa bà, tôi đến để yêu cầu bà cho phép khai quật thi thể các ông Charles Wesser và ông Etienne Chalon, để các chuyên gia giám định y khoa tiến hành xét nghiệm nội tạng. Thưa bà, tại sao trước đây bà lại từ chối việc ấy với hạ sĩ Luchaire của Sở Cảnh Sát địa phương?
-Luchaire thiếu tế nhị nên tôi ghét ông ta. Tôi từ chối vì thái độ cá nhân chứ không chối từ với luật pháp.
Bà Chalon lại nâng ly lên đôi môi mọng, ánh mắt tình tứ:
-Với ông, tôi có từ chối đâu nào. Thưa ông thanh tra Miron, tôi biết rõ phương pháp của các ông là tiến hành khám phá bí mật khởi đầu bằng cách hỏi lại xác chết…
Bà ngừng một tí để thích thú thấy viên thanh tra ngượng đỏ mặt, nhưng lại tảng lờ như không chú ý, tiếp tục nói rất tự nhiên:
-Và, những cuộc xét nghiệm y khoa đã hoàn tất, ông đã bối rối vì chẳng tìm thấy gì cả. Thế rồi ông đến tận đây để nắm vững về tôi: về khả năng, cá tính… biết đâu, nhờ may mắn trong cuộc đối thoại, ông có thể tìm ra những dấu hiệu phạm tội của tôi.
Bà nói một hơi, đánh trúng chính xác những mục tiêu của ông. Nếu ông không chịu thú nhận thì thật là ngốc.
-Rất đúng, thưa bà Chalon, đúng trên giấy tờ. Nhưng… khi người ta có hai ông chồng cùng chết vì rối loạn tiêu hóa dữ dội, cùng chết sau ngày cưới chưa đầy hai năm, lại cùng ở cái tuổi chưa phải là già lắm và cùng để lại toàn bộ tài sản lớn lao cho người vợ góa thừa kế… Bà hiểu chứ?
-Vâng, tôi rất hiểu.
Bà Chalon tiến lại cửa sổ. Chiếc áo cổ rộng cắt khéo ôm lấy bộ ngực tròn đầy, quyến rũ, làm mờ đi màu xanh của biển dịu dàng thăm thẳm ngoài kia.
-Thanh tra Miron, ông có thích nghe tôi xưng hết tội lỗi không?
Giọng nói của bà êm ái như vuốt ve dỗ dành khiến Miron phải đề cao cảnh giác. Ông thầm nghĩ, người đàn bà này rất nguy hiểm, quá sức nguy hiểm.
-Nếu bà muốn như thế, thưa bà Chalon.
-Vậy thì, tôi sẽ làm ông hài lòng.
Bà Chalon không cười nữa. Qua cửa sổ mở rộng, một cơn gió tỏa vào phòng mùi hương ngào ngạt, nhưng không phải hương thơm của hoa cỏ ngoài vườn.
-Ông có biết tí gì về nghệ thuật nấu ăn không, thưa ông Miron?
-Tôi từ Paris đến, bà biết mà.
-Và còn nghệ thuật yêu đương?
-Tôi đã thưa với bà, tôi từ Paris đến.
-Vậy thì…
Sau một hơi thở sâu làm bộ ngực căng lên, bà Chalon tiếp:
-Tôi, Hortense, Eugénie Villerois –Wesser –Chalon, có thể nói với ông rằng, tôi ám sát có chủ tâm người chồng thứ nhất, ông Wesser năm mươi bảy tuổi cũng như người chồng thứ hai, ông Chalon sáu mươi lăm tuổi.
“Bà ta điên chăng?” Miron nhủ thầm.
-Tôi kết hôn với ông Wesser bởi sự ép buộc của gia đình. Chưa đầy nửa tháng, tôi đã nhận ra rằng, ông ta có đầy đủ mọi thói xấu của một kẻ làm loạn lúc về già, nghĩa là thô bỉ, phàm ăn và dâm dục như một con yêu râu xanh. Tất cả những cái ấy đã gây nên tình trạng tồi tệ cho bao tử. Điều này có ghi hết trong hồ sơ, ông đồng ý chứ?
-Thế còn ông Chalon?
-Ông ta già hơn, cũng như tôi đã lớn tuổi khi kết hôn với ông ta.
Miron hỏi giọng pha chút mỉa mai:
-Và bao tử của ông Chalon cũng ở trong tình trạng tồi tệ?
Bà Chalon thản nhiên:
-Chắc chắn là thế. Chalon ít thú tính hơn Wesson, nhưng ông ta lại tàn bạo, đối xử ác độc với trẻ con và nốc rượu mạnh như hũ chìm. Ông ta dã man đến nỗi tôi đã không ngần ngại quyết định: Chalon phải chết như Wesson đã chết.
Miron lạnh người. Một phút yên lặng trôi qua. Miron dùng giọng thật nhẹ nhàng để không làm xáo trộn giòng tư tưởng của kẻ đang thú tội.
-Bằng cách nào? Thưa bà Chalon.
Bà Chalon quay lại, nở nụ cười rạng rỡ:
-Có lẽ ông biết những món ăn như Gà tây nhồi hạt dẻ, Vịt nấu ngũ sắc, Cá mú đút lò, Xúp gân nai, cua gạch…
-Kìa, bà đã làm tôi phát thèm lên đấy.
-Ông hỏi tôi giết người bằng cách gì ư? Thưa ông Miron, tôi đã phục vụ họ với thực đơn hàng trăm món, và với mỗi món, tôi thêm vào một tí…
Đột nhiên, bà ngừng nói. Bàn tay thanh tra Miron siết chặt ly Dubonnet, dồn hết nghị lực để khỏi lộ vẻ nôn nóng.
-Bà đã thêm vào… thêm vào tí gì vậy?
-Ông đặc trách vụ án này, ông có biết thân sinh của tôi là ai không?
-Ông Jean –Marie Villerois, một bậc thầy của những bậc thầy về ẩm thực.
-Đúng thế. Ba tôi đã truyền hết nghề nấu nướng cho tôi.
Miron căng thẳng, bực bội nhưng cũng đành chấp nhận câu chuyện lông bông của người đàn bà xinh đẹp này.
-… Nhưng bà vừa bảo rằng, bà đã thêm vào mỗi món ăn một tí…
Bà Chalon quay lưng lại. Miron bỗng choáng ngợp trước bờ vai thon thả, vóc dáng cân đối, vòng eo tuyệt mỹ.
-Một tí… một tí nghệ thuật, thế thôi, không có gì khác nữa, ông thanh tra ạ. Loại người như Wesser hay Chalon làm sao mà cưỡng nổi. Một ngày ăn ba bốn bữa thịnh soạn… no đến cành hông, rồi lại nốc rượu vào. Ở tuổi ấy, ăn uống như vậy làm sao mà thọ nổi.
Bà Chalon ngưng nói. Căn phòng yên tĩnh, chỉ nghe tiếng tíc tắc từ xa của chiếc đồng hồ quả lắc.
-Xin lỗi, thế còn nghệ thuật yêu đương… Chính bà đã nêu lên…
-Thưa ông thanh tra, điều này phải có sự giúp đỡ của một vài cô bạn trẻ thật hấp dẫn. Tóm lại, tôi đã giết hai đức lang quân của tôi bằng công thức ĂN NO cọng với RỮNG MỠ. Chỉ thế thôi.
Lại yên lặng. Một sự yên lặng căng thẳng, chờ đợi. Chợt thanh tra Miron đứng dậy, đột ngột đến nỗi bà Chalon quay phắt lại, mặt tái xanh.
-Chiều nay, mời bà đi với tôi đến Nice.
-Đến… Sở Cảnh Sát ư? Thưa ông thanh tra.
-Không, chúng ta sẽ đi uống champagne, nghe nhạc và khiêu vũ.
-Ơ… thưa ông…
-Hãy nghe tôi nói. Thưa bà, tôi độc thân, bốn mươi bốn tuổi, không nhiều thói xấu lắm. Tôi có dành dụm một khoảng tiền với lợi tức hàng năm không đến nỗi tệ…
Ông nhìn thẳng vào đôi mắt thăm thẳm của bà:
-… và tôi mong mỏi… được chết vì bà./.
caolynh
Posts: 317
Joined: Wed Dec 17, 2008 7:21 pm
Contact:

Post by caolynh »

Người Tìm Tự Do và Tương Thần Tự Do
Tôi đến New York năm 1986, vào dịp kỷ niệm 100 năm tượng thần Tự Do uy nghi, kiêu hãnh trên hòn đảo Tự Do (Liberty Island) của nước Mỹ.
Khu Mahattan với những tòa nhà chọc trời, ngước mắt trông lên, cảm thấy mình nhỏ bé. Khách du lịch ngỡ ngàng nhìn ngó khắp nơi, thán phục nước Mỹ tự do có tượng thần Tự Do.
Theo dòng người, tôi bắt đầu từ Battery Park, quẹo vào Castle Clinton, xưa là pháo đài chống quân Anh, nay là nơi bán vé ferry (phà).
Qua cửa Castle là ra bờ biển đợi phà. Xa xa, nhìn thấy tượng thần giơ cao ngọn đuốc Tự Do trên làn sóng nhấp nhô của Đại Tây Dương bát ngát.
Tượng thần Tự Do là thần tượng của di dân tứ xứ, người mất tự do trên trái đất này tìm tới nước Mỹ tị nạn. Ai cũng biết tượng thần Tự Do với tên Statue of Liberty, dễ nhớ, không dài như tên nguyên thủy là Liberty Enlighting the World.
Thời gian chờ đợi xuống phà, đây đó vài người thầm lặng suy tư. Đó là những người mới tới Mỹ. Ngồi bên gốc cây, gió hiu hiu, xào xạc lá, tôi nhìn ra đại dương bao la nhớ lại mảnh đời dĩ vãng.

*
Tôi lớn lên tại Hànội, được ăn học đầy đủ trước khi khôn lớn. Năm 14 tuổi, tôi học trường Văn Hóa, ngôi trường định mệnh, sát Hỏa Lò, góc phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Thầy dạy Anh văn, ông Nguyễn Khang, có dáng tài tử xi nê hơn là thầy giáo, ngoài dạy học còn làm ở phòng Thông tin Mỹ, phố Tràng Tiền.
Năm 1953, phó tổng thống Mỹ Richard Nixon sang thăm Hànội, đã đến thăm trường tôi do thầy Khang mời.
Ngồi bàn đầu và là học sinh giỏi, thầy bảo tôi đại diện lớp. Sau khi bắt tay trả lời ông Nixon "I am fine, thank you", thầy vui, ông Nixon hài lòng, tôi được nhận quà tặng là một post card tượng thần Tự Do. Sau này vì tấm post card, tôi bị vào xà lim số 8 Hỏa Lò Hànội, dù chẳng ai biết ông Nixon đã tặng tôi.
Tôi đã tìm dược tự do sau 28 năm đọa đày từ khi đất nước chia đôi, khi bức màn tre che kín miền Bắc, tăm tối âm u.
Cha tôi làm chủ một hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi người lính quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và gia đình kẹt lại do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn đó.
Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hànội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.
Đấu tố, cải tạo, chửi rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị qui là tư sản còn lại trong thành phố. Lời trăn trối khi cha tôi khi nằm xuống là "Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do".
17 tuổi tôi đi tìm tự do, bị bắt. Chiếc thuyền vượt tuyến giạt vào bờ bắc vĩ tuyến 17. Trải qua 11 trại giam, tôi bị giong về Hỏa Lò Hà Nội, trong xà lim số 8, mỗi xà lim giam một người. Văn nghệ sĩ Nhân Văn-Giai Phẩm chật cứng 4 dãy xà lim.
Biệt giam, tra hỏi, ép cung, làm sao tôi trả lời được những câu hỏi về chính trị lúc tôi còn nhỏ!
Từ trường học sang Hoả Lò, tôi chỉ còn nung nấu trong đầu hai tiếng Tự Do. Tôi sẽ đi tìm Tự Do suốt cuộc đời này! Từ đó tôi mang cái "mác": Trốn vào Nam theo địch, rồi dần dần thêm từng dòng "Âm mưu lật đổ chính quyền, phản động, làm tay sai CIA".
Lý lịch như vậy, sống trong thời điểm khốc liệt nhất của cộng sản Việt Nam, đời tôi còn quãng dài oan nghiệt. Tôi đã lên rừng, xuống biển, sang biên giới Việt Lào, vào miền trung để vượt tuyến vào Nam. Những tháng năm tù tội làm tôi hiểu cặn kẽ về cộng sản. Điều cha tôi đau khổ nói trước khi chết "Cha đã bị lừa..." nay tôi mới hiểu hết.
Năm 1981, tôi vượt biển lần thứ hai, bằng thuyền buồm đánh cá của một gia đình nghề chài, đi từ Hải phòng tới HongKong sau 26 ngày sóng gió. Định cư tại Mỹ năm 1982, tôi đã tìm thấy Tự Do .
Mãi suy tư nên lỡ chuyến ferry, phải đợi thêm nửa giờ, chuyến tới. Tôi không bận tâm vì chờ đợi, tôi đã đợi chờ gần nửa đời người, ba mươi phút chỉ là khoảnh khắc .
Sầu tủi đã trôi đi, chỉ còn vui tươi, hạnh phúc. Tôi còn có thể đợi chờ ngày vui tươi, hạnh phúc trên quê hương không còn cộng sản.

*
Xuống ferry (phà), mũi tầu chiếu thẳng Liberty Island, mươi phút, nhìn phía sau, khu Manhattan lô nhô nhà chọc trời mờ dần trong nắng chiều New York, trời xanh lơ không một bóng mây mù. Xa xa, những con tầu lướt sóng, những cánh buồm nhiều mầu sắc đu đưa khiến tôi, trong giây phút, liên tưởng đến hàng trăm tầu thuyền tới cảng, một ngày tị nạn của người Việt Nam.
Trên ferry người người, tay bắt tay, chào hỏi nhau, mặt rạng rỡ niềm tin, nụ cười chia xẻ. Người ta nói với nhau bằng nhiều thứ tiếng, hiểu nhau bằng chỉ trỏ.
Những con hải âu bay lượn quanh phà, mấy em bé ngây thơ tung mẩu bánh mì cho chim sà xuống, đôi cánh trắng vẫy chào.
Phà vào bến, tôi bước lên bờ, thêm kích thích vì cảnh tượng trên đảo. Trước hết là tượng thần Tự Do cao lừng lững trên một building tức là phần bệ đá. Người xếp hàng thành hai cánh cung bao bọc cột cờ, dựng trên sân gạch hình tròn.
Theo mũi tên và đường dây căng, mất thêm ba phút mới vào được tới bệ, rồi vào khu bảo tàng, giới thiệu công trình trùng tu năm 1980, kiến trúc và lịch sử tượng thần Tự Do. Cô gái Á đông xinh đẹp, tươi cười chào mọi người và kể chuyện. Tôi dừng lại đây lâu hơn một chút, không hiểu hết những gì cô nói, nhưng nhìn sơ đồ, thống kê tài liệu, biết được nhiều điều về pho tượng hình phụ nữ mặc áo choàng này.
Tượng thần Tự Do hoàn thành năm 1876, do nhà điêu khắc Frederic Auguste Bartholdi tạo hình, cùng kỹ sư Alexandre Gustave Eiffel thiết kế, xây dựng, là món quà của người Pháp tặng nước Mỹ.
Tính từ mặt đất, tượng cao 305 feet (92,99 m), riêng thân tượng cao 151feet (46,50 m) . Bên trong có hai lối lên đỉnh tượng: cầu thang máy lên hết phần bệ đá, cho người già hoặc ai không thích leo từng bậc thang (192 bậc). Còn leo từ đầu, cả thảy 354 bậc thang xoắn ốc. Đầu tượng đội chiếc nón có 7 cánh nhọn xòe ra, tượng trưng cho biển và lục địa ( thời đó chưa biết 5 châu, bốn biển, mới có 7). Vành nón có 25 cửa sổ, đại diện cho 25 viên kim cương quí tìm được trên trái đất. Tay mặt thần giơ cao ngọn đuốc, đêm đêm rực sáng, tay trái giữ tấm bảng trông như quyển sách ghi chữ số La Mã: "July 4th, 1776", ngày thành lập Hiêïp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ta quen gọi là Mỹ.
Rất ít người dùng thang máy, đa số leo thang bậc lên tới vành nón, chặng cuối của hành trình. Tôi thận trọng bước lên bậc thang thứ nhất, lòng hân hoan khó tả. Mỗi bước leo lên vòng thang xoắn ốc, tới khoảng giữa thân tượng, cảm thấy như vào động tiên.
Ánh đèn mờ ảo phản chiếu bộ khung sắt chằng chịt, đủ sáng cho ta leo lên, càng cao, phần tượng nhỏ dần vì sắp tới đầu. Bậc thang chỉ vừa một người nên không chen lấn. Trên tôi là cô gái gốc Poland (Balan), tóc vàng óng ánh, người sau tôi là đàn bà Phi châu, trang sức, váy chùng sặc sỡ. Chỉ có tiếng rì rầm vọng từ vách tượng như tiếng kinh cầu bí ẩn. Dòng người lên, xuống như đàn kiến vòng vèo, êm ả trong không khí dịu mát của máy điều hòa nhiệt độ.
Từ cửa sổ vành nón tượng thần, tôi nhìn ra cánh tay thần Tự Do giơ cao ngọn đuốc soi sáng tinh thần Tự Do cho nhân loại, và rồi nhìn ra Đại tây Dương, nghìn trùng xa cách, nửa vòng trái đất là nước Việt Nam của tôi chưa có Tự Do.
Chuyến phà về, trở lại Manhattan, trời chiều lắng dịu. Trên phà cũng lắng dịu tiếng người như để tận hưởng một ngày ý nghĩa trong đời là đến tượng thần Tự Do, ghi lại bằng nhiều tấm hình kỷ niệm.
Người trèo lên đỉnh núi Himalaya hoặc theo khí cầu bay vòng quanh thế giới để lập một kỷ lục, tôi leo lên đỉnh tượng thần Tự Do để trọn vẹn một ước mơ từ nhỏ.
Hòa nhập vào dòng người New York, tôi đi nốt quãng đời yên vui còn lại của một người đi tìm Tự Do, tìm được Tự Do trên đất Mỹ

Nguyễn Văn Luận
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Âu cũng là cái số!

Hưng Yên
Câu nói “Ðôi giầy, đôi dép còn có số nữa huống chi là con người” tuy chỉ là câu nói đùa thôi, nhưng mà nó đúng đấy các cụ ạ, con người ta ai cũng có một cái số cả. Cứ từ từ rồi chúng tôi sẽ trình bày để các cụ rõ rồi tin hay không thì tùy các cụ, nhưng mà cụ nào không tin thì có khi là con người “Yếu nhân đức tin” đấy.

Cũng cùng được sinh ra cùng phút, cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm nhưng người này được sinh ra là con nhà giầu, người kia sinh ra là con nhà nghèo, người sinh ra ở Mỹ, người sinh ra ở Việt Nam, người da trắng, người da đen, người da vàng, người thông minh, người cà đẫn, người sướng, người khổ không ai giống ai. Ngay cả trong cùng một nhà, anh chị em cùng cha cùng mẹ mà số phận mỗi người cũng mỗi khác, thế thì không phải là mỗi người đều có một “cái số” thì là gì? Thế nào chả có cụ bảo: “Ối dào, nhà bác chỉ tin nhảm, số cái con mẹ gì, cũng chỉ là hên, xui thôi”. Vâng, giá là đi đánh bạc thì có lúc “hên” lúc “xui” thật, chứ còn giầu nghèo, sướng khổ thì không thể gọi là hên xui được. Thế còn người này thì lấy được vợ đẹp, người khác lại lấy phải vợ xấu, hay là có người đàn bà trông tướng người cũng bình thường thôi thì lại lấy được chồng danh giá, chánh thất đàng hoàng, trong khi có người trông cứ đẹp như tiên ấy, nõn nường thơm phức thì lại là người của giới “Chị em ta” hoặc là làm bé làm mọn. Thúy Kiều “Làn thu thủy nét xuân sơn, hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” thì 15 năm lưu lạc, đến nỗi thi hào Nguyễn Du đã phải kêu lên: “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”! Thế không phải là “cải số” hay sao?

Các cụ chắc còn nhớ vũ nữ Cẩm Nhung chứ nhỉ? Giá ngày đó “mình” mà vớ được nàng thì cứ gọi là sướng như... vua, thế mà chỉ cần một bát át xít của bà vợ ông Trung Tá Thức thôi, vũ nữ Cẩm Nhung đã trở nên như thế nào thì các cụ cũng biết rồi đấy! Vũ nữ Cẩm Nhung thì thế, còn ca sĩ Minh Hiếu - đã chắc gì đẹp bằng vũ nữ Cẩm Nhung - thì lại “chớp” được anh cả Trường Sơn “Tướng 3 sao” Vĩnh Lộc, danh giá một đời. Chả lẽ những điều chúng tôi vừa trình bày ở trên đều là hên, xui cả sao? Không có đâu, “cái số” cả đấy các cụ ạ.

Cũng bởi con người ta ai cũng có một “cái số” và ai cũng muốn biết cái số của mình ra làm sao, sướng khổ thế nào nên mới nẩy sinh ra một cái nghề gọi là nghề coi “Tướng Số”. Do đó mới có cái gọi là “cải số ”, nghĩa là làm cho cái số nó khác đi, xấu thành tốt, xui thành hên. Từ đó mới có câu nói là “đức năng thắng số”, có nghĩa là tuy gặp phải số xấu nhưng nếu ăn ở có đức thì cũng có thể biến xui thành hên, xấu thành tốt được.

Muốn biết “cái số” của mình nó ra làm sao thì dĩ nhiên là phải đi gặp thầy “Tướng Số” rồi, nhưng khổ nỗi có phải thầy nào cũng là thầy giỏi đâu! Mười vị thì hết đến chín vị là dỏm nhưng lại “nổ” còn hơn pháo Tết. Cũng là thầy bói cả nhưng có vị xưng là Tiên tri, có vị xưng là Bốc Sư, có vị xưng là Giáo Sư, có vị xưng là Mét tờ rờ, có vị lại chỉ xưng một tiếng “Thầy”. Trước 1975 Việt Nam ta có 2 vị “bốc sư” nổi tiếng nhất là Mét Tờ Rờ Khánh Sơn và Tiên Tri Gia Cát Hồng. Mét tờ rờ Khánh Sơn khoe đã từng coi cho Cựu Hoàng Bảo Ðại và Toàn Quyền Pasquier, nhưng “số” của thầy thì thầy lại cóc biết, vì nếu biết thì thầy đã cải số để khỏi đi ở tù rồi. Còn Tiên Tri Gia Cát Hồng thì chắc là dòng dõi của Gia Cát Khổng Minh bằn Tàu đây. Thầy tiên đoán cả 3 phi hành gia của phi thuyền Apollo 11 đều có đi mà không có về, thế nhưng 3 ông đi rồi 3 ông lại về, chả ông nào rụng mất một sợi lông chân, bói thế mà cũng đòi làm thầy bói! Ðến đây chắc các cụ hết còn nghi ngờ gì về mỗi con người đều có một cái số cả, hoặc có cụ nào vì “yếu nhân đức tin” mà chưa đủ lòng tin cho lắm thì chúng tôi lại xin được chứng minh thêm để củng cố thêm lòng tin cho các vị ấy.

Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, có anh tướng tá chẳng ra gì mà lại vớ được bà vợ đẹp hết xẩy, hoặc có chị đẹp như tiên mà lại lấy phải thằng chồng chẳng ra gì, người ta bảo như thế là vì “phải duyên phải số”. Cùng đơn vị với chúng tôi thuở ấy có một ông Chuẩn Oái (chuẩn úy), tuổi đă xồn xồn nhưng ông kén vợ khiếp lắm. Anh em giới thiệu cho ông người đẹp nào ông cũng chê. Người ông chê thấp, người ông chê cao, người ông chê gầy, người ông chê mập, hoặc là đẹp mà không có duyên, hoặc là thế này, hoặc là thế nọ... Rốt cuộc những người ông chê đều lần lượt đi lấy chồng hết cả, còn riêng ông thì vẫn cứ trơ thân cụ. Vì giới thiệu ai ông cũng chê nên riết rồi anh em cũng chán, chẳng ai thèm giới thiệu nữa, để ông tự đi tìm lấy một mình. Dĩ nhiên cuối cùng thì ông cũng tìm được vợ. Anh em chúng tôi ai nhìn thấy vợ ông cũng đều thở dài, đúng là: “Chê tôm ăn cá lù đù, chê thằng ỏng bụng lấy thằng gù lưng”. Bà vợ ông cao ngỏng cao ngòng mà lại gầy đét như con cá hố!

Bây giờ thì các cụ đã đủ lòng tin là mỗi người đều có một cái số cả chưa, hay là vẫn còn có cụ bảo: “Toàn là nói những chuyện ở đâu đâu, thế còn nhà bác thì sao? Có số hay không có số”? Dĩ nhiên là “Nhà cháu” cũng phải có số chứ.

Ngay từ hồi còn nhỏ, mới đang học lớp ba hay lớp nhì gì đó là thầy bu tôi đã nhắm vợ cho tôi rồi. Nàng là người làng bên, là em họ của một trong số ba ông anh rể của tôi và cũng học cùng trường, cùng lớp với tôi. Nàng lớn hơn tôi 1 tuổi, người nhỏ nhắn, mảnh mai, mặt trái soan, da trắng như trứng gà bóc trông xinh lắm. Trong khi tôi thì kheo khẳng kheo khừ, đen như củ súng và nghịch như quỷ. Cả hai bên gia đình đều đồng ý đợi cho hai trẻ lớn lên là cho chúng tác hợp để được trọn đời hạnh phúc bên nhau. Dĩ nhiên điều này cả tôi lẫn nàng đều biết và không đứa nào có ý kiến gì; riêng tôi thì cũng thấy vui vui trong bụng (còn nhỏ thế mà đã biết rồi đấy các cụ ạ). Sau 1954 di cư vào Nam, gia đình tôi ở Nha Trang, gia đình nàng ở Sài Gòn, hai đứa vẫn tiếp tục đi học và ý định trong một tương lai gần chúng tôi sẽ trở thành vợ chồng cũng vẫn không có gì thay đổi, cho tới một buổi chiều...

Cho tới hôm nay tôi vẫn vòn nhớ như in trong bụng - đúng là một buổi chiều định mệnh - hôm đó là một buổi chiều Chúa Nhật. Tôi định đi coi xi nê nhưng xe đạp bị xẹp lốp, thay vì đem xe đi vá thì tôi lại dựng xe vào một góc nhà rồi đi bộ đến nhà thờ. Không phải tôi siêng năng đạo đức gì đâu, khô như ngói ấy. Ðến nhà thờ chỉ với mục đích kiếm mấy thằng bạn để nói dóc, nhưng chúng nó đều đi đâu mất cả. Gặp đúng giờ lễ, tôi vào quỳ gối trong nhà thờ. Liếc mắt sang phía mấy “O” xem có gì lạ không? Nhìn là nhìn thế thôi chứ tôi biết tỏng đi toàn khu này không có O nào bằng được nàng của tôi ở Sài Gòn. Có mỗi một O coi hơi đường được một tí thì thằng bạn thân nhất của tôi nó “xí phần” rồi. Nhưng mà lạ chưa, một con nhỏ tôi chưa từng gặp bao giờ và đẹp hơn tất cả đang quỳ ở dẫy ghế bên kia. Xong lễ, ra khỏi nhà thờ tôi lại gặp “Nhỏ” một lần nữa.

Chính lần gặp này “Nhỏ” đã cho tôi đo ván không trỗi dậy được. Tôi fell in love các cụ ạ, fell in love! Mấy tháng sau thầy bu tôi phải viết thư vào Sài Gòn xin lỗi gia đình người bạn học ngày còn nhỏ của tôi vì có thằng con trai cứng đầu cứng cổ không bảo được. Bây giờ nó đòi lấy người khác chứ nhất định không chịu lấy người mà cha mẹ đã định sẵn cho nữa. “Nhỏ” đã hạ tôi knock down chính là bà xã tôi bây giờ đấy các cụ ạ, nàng nhỏ hơn tôi 4 tuổi và gia đình nàng mới “mu” từ nơi khác đến ở cùng xóm với tôi mà tôi không biết.

Trước ngày sang Mỹ theo diện HO, tôi đã có dịp về Sài Gòn dự đám cưới thằng cháu kêu tôi bằng cậu. Nó là con trai của người chị gái thứ ba của tôi và cũng trong dịp này tôi đã gặp lại nàng, người bạn học thuở nhỏ mà suýt nữa đã trở thành vợ của tôi. Hai chúng tôi ngồi ôn lại những kỷ niệm của buổi thiếu thời. Nhân nhắc đến những người bạn học của những ngày còn nhỏ nay ai còn ai mất, nàng đã nhìn tôi cười bảo:

- Ngày đó nghe bố mẹ bảo lớn lên sẽ lấy anh thì em cũng bằng lòng, sau lại nghe bên nhà anh sắp sửa xin làm đám hỏi, rồi đùng một cái lại nghe là anh đã lấy vợ. Anh lấy vợ rồi thì ít lâu sau em cũng lấy chồng thôi.

Tôi cũng ngập ngừng bảo nàng:

- Chị không lấy tôi là may lắm, chứ lấy chồng lính có sướng gì. Tôi mười mấy năm trong quân đội, sau đó lại phải tù phải tội, bà nhà tôi suốt đời long đong lật đật.

Nghe tôi nói vậy, nàng thở dài chép miệng:

- Âu cũng là cái số!

Âu cũng là cái số thật! Tôi lấy vợ thì nàng lấy chồng. Chồng nàng là một vị giáo sư trung học, tuy có hơi lớn tuổi một chút nhưng lại khỏi phải đi lính nên đã không phải đi tù cải tạo. Xét về mặt nào đó thì nàng sướng hơn vợ tôi nhiều, phải chăng số nàng là số sướng còn số vợ tôi là số khổ? Phần tôi, tôi lại thấy số tôi là số sướng vô cùng vì tôi đã lấy được người tôi yêu.
tiendung
Posts: 873
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Image

ĐÀ LẠT – MỘT THIÊN ĐÀNG ĐÁNH MẤT

Vi Khuê _ Chữ Bá Anh

Lúc bấy giờ nơi đây là một miền đất hoang vu vô cùng bí hiểm, chưa hề biết đến dấu chân người. Núi non điệp điệp, thác lũ ào ào; gió, như hồn ma, rú lên từng hồi ghê rợn giữa muôn trùng bát ngát. Cọp ngồi chồm hổm thở phì phò dưới rặng cây, rắn lê la trườn mình trên cỏ dại, voi từng đàn nối đuôi nhau lầm lừ trong lặng im. Hoang dã bao trùm cảnh vật. Một vài bộ lạc thiểu số đã dựng chòi dưới chân núi xa xa, nhưng hình thù quái dị của thổ dân trần trụi đứng lom khom với trên vai một cái gùi, chỉ càng tăng thêm vẻ man rợ đến rợn người.

Lúc bấy giờ là vào thời khoảng 1890-1894 và nơi đây là miền rừng núi dọc dãy Trường Sơn từ phía Bắc Nam Kỳ đến phía Nam Trung Kỳ và Hạ Lào.

Dãy Trường Sơn đó, quê ta, nơi đã từng ghi dấu lẫy lừng bao chiến công gian khổ, cũng là nơi lúc bấy giờ, sức quyến rũ đã thu hút lại, đã mời gọi đến một danh nhân từ phương trời xa thẳm, mà sau này mãi mãi muôn đời tên tuổi gắn liền với địa danh thơ mộng hàng đầu của Việt Nam: cao nguyên Lâm Viên. Và tên người: Alexandre Yersin.
Image
Vâng, Alexandre Yersin chính là người đã khám phá ra, đã tạo dựng nên thành phố Đà Lạt, đệ nhất thắng cảnh của Việt Nam Cộng Hòa. Vốn gốc người Pháp, sinh trưởng tại Thụy Sỹ, Yersin tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại Pháp. Danh tiếng vang lừng khi mới chưa ngoài 26 tuổi. Bởi tinh thần cầu tiến và tâm hồn ưa phiêu lưu mạo hiểm, tiếng gọi của miền thuộc địa xa xôi đưa đẩy bước chân nhân tài trẻ tuổi đến đó, để rồi không có ngày về. Bác sĩ Yersin sang Đông Dương một ngày đẹp trời năm 1889, làm việc cho hãng tàu Messageries Maritimes. Đi đây về đó theo những chuyến tàu lênh đênh ngoài biển cả, không nơi nào đã cám dỗ tầm mắt yêu thiên nhiên hùng vĩ chàng bằng rặng Trường Sơn, được nhìn thấy từ bờ biển Nha Trang cát trắng. Lập tức những cuộc hành trình thám hiểm được thực hiện không ngại ngần: đường bộ bằng hai chân từ Nha Trang vào Phan Rí, và rồi lại dong thuyền buồm từ Phan Thiết ra tới Qui Nhơn. Đi như vậy, một bóng một thuyền, một người một ngựa, giữa miền đất lạ hoang vu. Chúng ta ngày nay phải giật mình tưởng tượng đến điều kỳ thú lạ lùng đó, và, bởi lòng yêu mến ân nhân của những người mến yêu Đà Lạt, chúng ta muốn thầm hỏi rằng: Phải chăng Yersin là một thi sĩ? Thi sĩ của thiên nhiên và của hoang vu? Mà hoang vu ở đây không phải chỉ có trấn, có đèo, có đồi mùa hạ, có đồi cỏ may, có cồn hoang dã, có bến lau thưa hoang vu, ở đây còn là: rừng sâu, nước độc, thú dữ và... mọi ăn thịt người nữa kia. Cho nên trên con đường phiêu lưu mạo hiểm, nhà bác học trẻ tuổi của chúng ta đã, một lần, vào năm 1893, bị cướp chém đứt nửa ngón tay cái và đâm nhiều nhát vào ngực tại Dran; một lần khác ông suýt bị voi chà, và nhiều lần nữa ông đã đối diện với cặp mắt tóe lửa của cọp rừng già ngồi chơi trên mỏm đá. Ông như không mảy may quan tâm đến muôn vàn đe dọa thử thách, vì còn mải say sưa ghi chép tỉ mỉ địa thế các nơi đã đi qua. Từ con suối mọn đến dòng sông xa, từ nhánh cỏ gầy đến búp hoa dại không tên đều được ông nhìn ngắm kỹ. Ông hòa mình với thổ dân để tìm hiểu về phong tục và khả năng kinh tế từng miền.

Vào năm 1893, bác sĩ Yersin tìm ra Cao Nguyên Lâm Viên, thuộc phía Nam dãy Trường Sơn, khi ông phóng tầm mắt nhìn ra cảnh thiên nhiên hùng vĩ ở độ cao cách mặt biển 1.500 thước. Vào năm 1897-98 tại vùng đất khí hậu hiền hòa nước non xanh ngắt này, đã dựng nên một thành phố nghỉ mát và dưỡng bệnh lý tưởng do đề nghị của bác sĩ Yersin lên toàn quyền Doumer.

Đó là thành phố Đà Lạt, khởi thủy chỉ là một diện tích không mấy rộng mang tên một giòng suối nhỏ của bộ lạc người Lát.
Image
Bác sĩ Yersin yên nghỉ giấc ngàn thu tại Nha Trang ngày 1 tháng 3 năm 1943, trong khi thành phố thơ mộng do ông khai phá và tạo dựng không ngừng lớn lên, không ngừng phát triển, không ngừng thăng hoa... Nhưng chỉ vào năm 1923 trở đi, thời kỳ phát triển trở mình của Đà Lạt đã thực sự trở nên một thành phố mới bắt đầu. Trước tiên là sự tạo lập Hồ Lớn Đà Lạt sau này là Hồ Xuân Hương, một chiếc hồ nhân tạo rộng chừng 4.5 ha. Rồi thì sau đó các ngôi trường học lịch sử đầu tiên mang tên người khai sinh thành phố: Lycée Yersin. Rồi thì những trục lộ giao thông, những nhà máy điện, nhà máy nước, hàng trăm biệt thự kiến trúc Tây Phương. Nhà thờ lớn Đà Lạt, các ngôi chùa Linh Sơn, Linh Phong, khu chợ Ấp Ánh Sáng. Giai đoạn phát triển về mọi phương diện là vào năm 1944. Nhưng mãi đến sau hiệp định Genève (20/7/54). Với sự ra đi vĩnh viễn của người Pháp khỏi Đông Dương, Đà Lạt mới thực sự chuyển mình để trở nên một thành phố Việt Nam của người Việt Nam.

Trong bao nhiêu năm dài, Đà Lạt đã là một nơi mời gọi, quyến rũ, thu hút người khắp nơi trong nước, cũng như du khách ngoại quốc đến thăm viếng Việt Nam. Trong tâm tưởng mọi người, Đà Lạt là thành phố của thơ của mộng, thành phố của sự Thoải Mái và Nghỉ Ngơi, một trung tâm du lịch và văn hóa. Cho đến tháng 4/75, thời kỳ biến cố lịch sử trọng đại gây nên vật đổi sao dời, những ai đã từng sinh sống lâu năm tại miền đất an bình này mà nay đã ra đi hay còn ở lại, hẳn không bao giờ quên được những tên phố, tên đường, tên trường, tên chợ, tên hồ, tên cầu, tên khách sạn, như một lần ghé lại đã đi qua còn khắc sâu muôn vàn kỷ niệm. Kỷ niệm về kỷ niệm. Kỷ niệm về một thiên đàng - nếu có thể lộng ngôn như vậy - trong cái nghĩa thực tế rằng nơi đây đã từng đem lại cho người dân một đời sống đầy đủ tiện nghi vật chất và bình an tâm hồn, dẫu rằng về phương diện kinh tế, thành phố văn hóa và du lịch này không ở tầm quan trọng đáng kể.

Chỉ cần nhắc lại những tên thôi, những tên khắc vàng trên các bảng hiệu, cũng đủ làm rộn lòng bao kẻ nhớ thương về thành phố quê hương này và cũng đủ cho chúng ta hình dung ra sinh hoạt tấp nập tươi vui đến thế của một thành phố nhỏ, trong hàng trăm thành phố của miền Nam trước ngày 30 tháng 4 đổi đời. Những ai đã đi từ Đà Lạt, hôm nay xin hãy làm du khách trở về thăm viếng thành phố xưa! Trước tiên, tôi xin giới thiệu các khách sạn lịch sử: Đà Lạt Palace trông ra Hồ Xuân Hương, Mimosa đường Phan Đình Phùng, Thủy Tiên số 7 Duy Tân, Duy Tân 83 Duy Tân, Mộng Đẹp khu chợ Mới, Sans souci đường Nguyễn Trường Tộ, Cảm Đô đường Phan Đình Phùng.

Và các khách sạn bình dân: Phú Hòa, Vinh Quang, Hòa Bình, Nam Việt, Tinh Tâm, Cao Nguyên, Thanh Ngọc, Thanh Tung, Lữ Quán Sài Gòn, Văn Huê và Lâm Sơn...
Image
Sau các khách sạn, hẳn quý vị cần biết đến các nhà hàng, các tiệm ăn. Thưa đây là các nhà hàng sang trọng nhất: Dalat Palace, Chic Shangai, Mê Kông, Nam Sơn và Thiên Nga, Mỹ Quang, Như Ý, Kim Linh. Bình dân hơn trên những con đường khác. Nhà hàng lịch sự, đặc biệt về món ăn Pháp là Dalat Palace, L'eau vive, đặc biệt về các món ăn Việt, xin mời quý vị đến quán năm Vinh Hòa, số 7 đường Cường Để, có thịt bò 7 món. Nhà hàng bình dân, đặc biệt về các món ăn Việt Hoa là Đông Hải ở khu Hòa Bình với các món bánh bao rất được ưa thích. Tiệm ăn đặc biệt về món Bắc, có Mỹ Hương và Bắc Hương khu Hòa Bình; về các món Huế là các tiệm ở đường Hàm Nghi và Thành Thái. Ngoài ra còn rất nhiều quán bình dân nữa, đáng kể là quán Thanh Phương ở đường Võ Tánh, giá cả rất thích hợp với các thực khách không nặng túi tiền. Ngoài các hàng cơm sang trọng hay bình dân, chúng ta còn vô số món ăn “dân tộc” rất được tán thưởng. Xin được nhắc lại một lần các tiệm bán các món đặc biệt và hấp dẫn ấy, và mong rằng quý vị, các bạn - nhất là các cô hay ươn mình không thích xơi cơm đừng quá... nhớ nhung! Tiệm phở Bằng, đường Hàm Nghi, Tùng, Đắc Tín khu Hòa Bình, Ngọc Lan bến xe Đà Lạt Saigon. Như Ý đường Nhà Chung; Bắc Huỳnh và Phi Thuyền trước ga Đà Lạt, hủ tiếu Nam Vang, đường Minh Mạng. Mì vịt Thạnh Ký đường Phan Đình Phùng, mì quảng: quán cạnh rạp chiếu bóng Ngọc Hiệp, các quán tầng dưới Chợ Mới; và một quán nằm khuất trong hẻm đường Hoàng Diệu, trước trường Văn Học. Bún riêu, bún ốc ở tiệm Thành Công, đường Nhà Chung. Bún bò giò heo: Các tiệm ăn Huế hầu hết đều có món này, nhưng khi nói đến bún bò, người ta thường nghĩ đến quán cây số 4, góc đường Hai Bà Trưng và La Sơn Phu Tử. Món Nai đồng quê - tên gọi thanh nhã là món của thịt cầy - được tìm thấy ở quán Lá Mơ, đường Thành Thái; món thịt dê ở quán Ngọc Dung, Hồ Than Thở, gần bến xe Chi Lăng. Ngoài ra còn rất nhiều quán bình dân nữa: lưu kỷ niệm nhiều nhất phải kể hàng đầu là dãy quán trước đường Đoàn Thị Điểm, đường Trương Vĩnh Ký, với hàng xôi gà, cháo gà “ngon nhất nước” của gia đình ông Hà Đức Bản, xe mì bánh tôm “ngon hết xẩy a” của chú Tàu nhẫn nại cần cù, xe chè 6 món thơm phức của hai cô nữ sinh trường Tân Sanh, quán cháo lòng nóng hổi và ngọt lịm của mẹ con cô Ti đon đả chào mời...

Về phần các cô cậu thuộc lứa tuổi ô mai thích khoác áo lạnh đi tìm gặp các bạn bè để... sưởi ấm lòng nhau, thì quán chè, tiệm kem và quán cà phê là những nơi thích hợp nhất, quán chè Tuổi Ngọc, tiệm kem Việt Hưng, các quán cà phê Tùng, Trúc, Tình, Nhớ, Trăng Cao Nguyên, Yêu, Thủy Tạ, Shanghai và Mê Kông là nơi thuận tiện nhất để họ và cả lớp người lớn tuổi hơn thường ngồi lặng hàng giờ nhìn ra khu phố chính của thành phố ngắm các tà áo bay... hay luận đàm thế sự?

Khách sạn và nhà hàng ăn là những nơi du khách cần phải biết trước tiên, khi đặt chân đến một thành phố. Nhưng hẳn là còn vô số điều quý vị cần được hướng dẫn và giới thiệu thêm nữa, trên bước nhàn du đến cõi... bồng lai này, bởi vì nhu cầu của con người sau khi no cơm ấm áo còn nhiều thứ lắm, mà thành phố của chúng ta thì lại đã từng chứng tỏ có khả năng đáp ứng... mọi nhu cầu của kiếp nhân sinh! Thiết tưởng còn gì thực tế hơn - về phần chúng tôi - là xin gửi đến quý vị nguyên bản kê khai tất cả các địa điểm quý vị cần dùng tới.

Các phòng tắm nước nóng: Ninh Thuận, Việt Trang, Minh Tâm, phòng uốn tóc Mô Đéc, Hoàng Cung, Mỹ Dung, Tường Lan, Isana, Cô Sương, Người Ảnh. Phòng khám bệnh bác sĩ Phan Lạc Giản, BS Hoàng Khiêm, BS Nguyễn Văn Thạnh, BS Nguyễn Đình Thiều, nữ BS Nguyễn Ngọc Diệp, BS Đào Duy Hách, BS Mai Trung Kiên. Tiệm thuốc tây: Đà Lạt, Nguyễn Văn An, Hàm Nghi, Duy Tân, Diên Hương, Nguyễn Duy Quang, Lâm Viên. Phòng chữa răng: nha sĩ Võ Thị Sâm, NS Minh Đa, NS Trần Tú, NS Nguyễn Văn Trình. Văn phòng luật sư: LS Hoàng Huân Long, LS Ngô Tằng Giao, LS Phùng Văn Tuệ. Các rạp chiếu bóng Hòa Bình, Ngọc Lan, Ngọc Hiệp. Vũ trường La Tulipe Rouge, Đào Nguyên.

Hẳn nhiên không phải chỉ thuần bằng những tiện nghi vật chất mà đời sống con người trở nên đáng sống, mà Đà Lạt đã có khả năng mời gọi, quyến rũ những tâm hồn. Khi người ta nói Đà Lạt thơ mộng, Đà Lạt thành phố du lịch, thành phố văn hóa... thì không phải phở Ngọc Lan hay nem Ninh Hòa đáng được nhắc nhở hàng đầu, mà phải là, trước tiên, các cơ sở phục vụ nhu cầu tinh thần và trí tuệ của người dân địa phương: các trung tâm văn hóa.

Nhắc lại rằng Đà Lạt là một Trung Tâm Văn Hóa quan trọng vào bực nhất với sự hiện diện của những trường Đại Học phong phú về phân khoa và mới mẻ về đối tượng nghiên cứu như: Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Trường Chính Trị Kinh Doanh thuộc Viện Đại Học Đà Lạt, Đại Học Quân Sự, trường Võ Bị Quốc Gia, Giáo Hoàng Học Viện...
Image
Ngoài ra, còn phải kể: Trường Chỉ Huy và Tham Mưu, Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Trung Tâm Văn Hóa Mỹ... Và, còn gì đáng kể làm nên sinh hoạt tinh thần, trí tuệ của thành phố, ngoài các cơ sở văn hóa lớn lao kia? Hẳn nhiên là các ngôi trường, ở đây chúng tôi chỉ xin nhắc lại những trường trung học, mỗi trường một màu sắc đồng phục cho học sinh, nói lên đặc điểm riêng như tên trường đã chọn: trường Trần Hưng Đạo, trường Bùi Thị Xuân, trường Quang Trung, Bồ Đề, Trí Đức, Văn Khoa, Việt Anh, Adran, Trung Tâm Giáo Dục Hùng Vương, trường Tân Sanh, Minh Đức, Kỹ Thuật La San, trường Domaine de Marie, trường Thương Mại, trường Phổ Minh, trường Nông Lâm Súc, trường Chi Lăng... Và còn các hiệu sách nữa chứ! Không có sách lấy gì đáp ứng nhu cầu tình cảm và tư tưởng của Đà Lạt hiền hậu, ưa thu mình trong chăn ấm nghe tiếng nói của nội tâm? Cho đến năm 1975, Đà Lạt có những nhà sách nổi tiếng như: Liên Thanh, Thiên Nhiên, Nhân Văn, Hòa Bình, Thiên Hương, Tuyên Đức, Hồng, Khải Minh, Minh Thu, Khai Trí...

Và khi người ta nói Đà Lạt thơ mộng, Đà Lạt thành phố du lịch và gọi về Đà Lạt như một thiên đường đánh mất thì không phải là Viện Đại Học hay Nguyên Tử Lực đáng được tuyên dương hàng đầu, mà phải là các danh lam thắng cảnh. Hồ! Rừng! Thung Lũng! Thác!

Hồ là hồ Than Thở, rừng là rừng Ái Ân, thung lũng là thung lũng Tình Yêu! Còn nơi nào trên thế giới hồ, rừng và thung lũng mang tên “người” như thế nữa không? Hồ Xuân Hương lớn nhất, nằm ngay trung tâm thành phố. Hồ Than Thở cách Đà Lạt 5 cây số. thung lũng Tình Yêu, thung lũng chìm sâu xuống trong những sườn đồi thẳng đứng và cao thăm thẳm. Thác Cam Ly, thác Datangla, thác Liên Khương, thác Pongour và thác Prenn, nổi tiếng nhất cách Đà Lạt 10 cây số. Suối Vàng, suối Bạc, suối Tía...

Và còn phải kể là thắng cảnh những con đường xinh đẹp mang tên thơ mộng ít nhiều: đường Quang Trung, đường Phạm Phú Quốc, đường Trần Hưng Đạo, đường Lê Thái Tổ quang đãng chạy dài giữa hai hàng thông xanh sừng sững, đường hoa hồng vang bóng một thời, đường vòng Lâm Viên, còn gọi là đường ngoạn cảnh... Và còn phải kể là thắng cảnh những dinh thự và biệt điện khuất mình sau rặng thông xao xác hay nằm hoang vắng giữa cỏ hoa tịch mịch, gợi cho người nhớ chuyện liêu trai: Dinh số 1, Dinh số 2, Dinh số 3! Và Viện Đại Học với giàn hoa giấy màu tím hồng rực rỡ quý phái đón chào nam nữ sinh viên tự cổng vào, từ nơi văn phòng, dẫn tới những con đường rộng sáng, mở ra những giảng đường của mỗi phân khoa, và Giáo Hoàng Học Viện với cảnh rộn ràng, trai thanh gái lịch, đến thưởng ngoạn chụp hình kỷ niệm trên lớp cỏ non tơ, ai dám bảo rằng đây chỉ là những cơ sở văn hóa hay tôn giáo mà không phải là những cảnh đẹp kiều diễm nhất của quê hương? Và Chợ Mới Đà Lạt, khu chợ ba tầng lầu kiến trúc tân kỳ vào bậc nhất Đông Nam Á, vào những ngày tưng bừng nhất trong năm như ngày mãn khóa sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia, Lễ Giáng Sinh và những tuần lễ cận Tết, thì chính là thắng cảnh số 1 đón tiếp hàng ngàn người từ bốn phương trẩy về dự hội.

Ờ mà làm sao có thể nói đến danh lam thắng cảnh mà lại bỏ xót những vườn hoa, phần nhan sắc nhất của nhan sắc, phần thơ mộng nhất của thơ mộng? Hỡi người ra đi từ Đà Lạt! Xin hãy nhắm mắt lại và tưởng tượng đến những vườn hoa: Vườn hoa thành phố trên đường Hồ Xuân Hương, vườn Rosadola đường Phan Đình Phùng của ông bà Nguyễn Hữu Vinh, vườn hồng đường Quang Trung của phu nhân họ Từ, và một vườn hồng nổi tiếng nữa ở đường Trần Hưng Đạo - Nguyễn Gia Trang - ... - Vườn Bích Câu, ngay dưới chân sân Cù, thấp thoáng bóng các chú nài cưỡi ngựa... hồng, lan, cánh bướm, lay-ơn, tú cầu... Nhưng đặc biệt là hoa Đà Lạt chỉ có hai loài, anh đào hồng phấn dịu dàng và mimosa vàng tươi rạng rỡ.

Đâu phải chỉ là sự tình cờ hay do ngẫu hứng mà những tên phố tên đường, những số nhà được nhắc lại như thế. Chỉ là mong làm sinh động lại trong trí nhớ người đi xa nửa vòng trái đất những kỷ niệm của quê hương. “Quê hương đẹp hơn cả” không hẳn vì quê hương đẹp, mà chỉ bởi quê hương đầy ắp tình người, tình anh em, tình đồng bào cùng đau chung nguồn lịch sử... Nhưng mà ở đây chúng ta đang nói về thực tế. Nói về Đà Lạt như một thiên đường trong cái nghĩa thực tế nhất; có cơm ăn áo mặc và những tiện nghi vật chất tinh thần. Vậy thì, ngần ấy tiện nghi vật chất và tinh thần, để phục vụ cho dân số không quá 130.000 người, hẳn nhiên là mức sống của người dân phải dễ chịu, dẫu rằng bên cạnh biệt thự Trang Hai cũng có căn nhà nhỏ của người giữ vườn, và để đánh móng tay cho người đẹp Kim Vui của Kivini, đường Minh Mạng, vẫn phải có cô thợ nhỏ 18 tuổi lương chỉ đủ ăn quà. Những bác tắc xi nằm ngủ gật những khi ế ẩm, chỉ cần một ngày đẹp trời du khách viếng thăm Đà Lạt tấp nập là cũng đủ bù lại những giờ chơi không. Ông Nghiêm Tỉ, nhà trồng trọt ở ấp Nghệ Tĩnh, tuy những năm tháng cuối của cuộc đời có vất vả vì hoa màu thiếu phân bón, với những tài sản tạo lập nghe đâu từ thuở Hoàng Triều Cương Thổ, gồm đất nhà vườn, cũng đã nuôi được đến trưởng thành một đàn con đông đúc, kẻ tốt nghiệp Cao Học Chính Trị Kinh Doanh, nguời Kỹ Sư Hàng Hải...

Đất nước ta trải qua cuộc chiến tranh dài ngót 30 năm tính đến tháng 4/75, là một quốc gia nhỏ và nghèo. Vậy mà trong một thời khoảng đáng kể, một phần dân chúng đã may mắn được hưởng một mức sống đầy đủ tiện nghi như vậy! Ngày nay trên đất nước người lưu lạc, nhìn lại sau lưng chúng ta không khỏi giật mình tiếc cho một thiên đường... đánh mất! Ngày xưa bà hàng xóm của tôi ở đường Nguyễn Du vốn có một hoàn cảnh để “đi mây về gió”, mỗi lần đi xa về lại kể chuyện nước ngoài cho bà con nghe. Ở Đông Kinh, ở Luân Đôn, ở Hoa Thịnh Đốn người ta sống như thế nào... Bà chép miệng: “Dân Việt Nam mình đang sung sướng mà không biết rằng mình sung sướng. Trên khắp thế giới ngày nay, chẳng có nơi nào hội đủ mọi thứ tiện nghi như Saigon. Người ta có thứ này không có thứ kia, còn mình có “đủ hết”. Dường như cảm thấy phản ứng nhẹ của người nghe, bà lại tiếp lời ngay: “Dẫu rằng không có đồng đều, nhưng có người ở biệt thự, có người gác dan, có người cần tài xế lái xe, có người được làm tài xế lái xe, có người đi mỹ viện sửa sắc đẹp, có cô gái quê ra tỉnh học nghề uốn tóc, đồng tiền cứ thế luân lưu tới mỗi người, còn hơn là không có gì hết”.

“Còn hơn là không ai có gì hết!” Còn hơn là bắt đầu lại từ con số không, thì tội nghiệp quá!... Từ sắc đẹp quyến rũ mãnh liệt của cảnh đẹp thiên nhiên miền cao nguyên Lâm Viên, và diễn tiến sự thành lập thành phố của chúng ta, như đã trình bày, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 75, lịch sử, thời gian đi qua chưa đầy một thế kỷ. Ngắn ngủi quá cho một thành phố sinh ra và lớn lên, và trưởng thành. Và phù du làm sao! Khi mọi sự đã xảy ra như chớp nhoáng, mười năm trời trôi qua chưa đem lại thăng bằng cho não cân ta để trả lời câu hỏi: “Vì sao ta đã đành mất thành phố, vì sao ta đã mất quê hương?” Phải chăng vì, trong mục đích tìm kiếm thiên đường khả dĩ có được, chúng ta đã mất đi một thiên đường đã có? Thiên đường trong một nghĩa rất tương đối, rất hạn hẹp, cũng như hạnh phúc vốn chưa được định nghĩa rõ bao giờ.

Trên con đường tìm kiếm hạnh phúc, một thứ hạnh phúc tương đối mà con người có thể mưu cầu được cho mình, phải chăng với người dân Đà Lạt ngày nay, Đà Lạt ngày xưa đã là một thiên đường đánh mất?

(Trích từ Độc Lập - Đức)
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

'Ngày ấy, dường như mới hôm qua!'
Huy Phương
(Tổng hợp từ những bài đã viết về ca sĩ Minh Trang)

Image
Cụ bà Minh Trang. (Hình: Từ dutule.com)
Trong một cuộc gặp gỡ với chúng tôi trong căn nhà dành cho người cao niên trên đường Ross, Santa Ana, vào tháng 8, 2005, tháng sinh của bà, ca sĩ Minh Trang, ngày đó đã 85 hồi tưởng lại một ngày cách đây 56 năm, hơn nửa thế kỷ trôi qua, đã cảm động thốt nên lời: “...ngày ấy, dường như mới hôm qua!”

Ngày ấy là một ngày mùa Xuân năm 1949, khi người ca sĩ đài phát thanh Pháp Á, Minh Trang được lời mời từ Saigon ra Hà Nội hát cho Hội Chợ Tết của Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí tổ chức. Cũng nơi đây, bà đã gặp người nhạc sĩ Dương Thiệu Tước buổi đầu tiên, mặc dầu trước kia Minh Trang đã hát nhạc Dương Thiệu Tước nhiều lần, nhưng không biết ông là ai. Người đẹp đất Thần Kinh và chàng trai tài hoa Hà Nội gặp nhau đã để lại cho đời những tác phẩm tuyệt đẹp như “Ngọc Lan,” “Sóng Lòng,” “Buồn Xa Vắng,” “Bóng Chiều Xưa.”... Chỉ khi yêu say đắm, người ta mới viết nỗi những dòng nhạc như Ngọc Lan, tả hoa cũng là nói về người, viết nên những lời như “nhạc ướp men thơ” để tôn vinh thanh sắc của người mình yêu dấu.

Như một định mệnh, Nguyễn thị Ngọc Trâm chào đời ngày 18 tháng 8 năm 1921 tại một nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự, thành phố Huế. Hai mươi lăm năm sau, một khúc hát bất hủ mang tên “Ðêm Tàn Bến Ngự” ra đời, được viết nên bởi một nhạc sĩ tài hoa, đã gắn liền với tên cô, ngày nay đã trở thành một danh ca mang tên Minh Trang. Tác giả bản nhạc đó là Dương Thiệu Tước, cũng là người chồng sau này của cô, cả hai đã tạo nên một gia đình âm nhạc và để lại cho thế gian những tình khúc bất tử.

Ở Huế vào cuối thế kỷ 19, người ta biết nhiều tới Mỹ Lương Công Chúa hay Bà Chúa Nhứt, là chị ruột của Vua Thành Thái. Bà là người dòng dõi nhưng không câu nệ, tính rất nghệ sĩ. Trong nhà bà Chúa có nuôi hẳn một ban hát tới mấy chục người và có riêng một ban ca Huế. Vị công chúa đó là bà ngoại của ca sĩ Minh Trang, do đó khi lớn lên, vì thân phụ là cụ Nguyễn Hy nhiều khi phải đáo nhậm những nhiệm sở xa, bà Minh Trang có dịp được gần gũi với bên ngoại. Nhờ những âm thanh ca Huế thấm nhuần vào tâm hồn trong tuổi ấu thơ, mới bảy tám tuổi, bà đã thuộc những bài cổ nhạc, ca Huế như những khúc Nam Ai, Nam Bình, Kim Tiền, Lưu Thủy... Tuy nói giọng Quảng vì thân phụ bà là gốc người Quảng Ngãi, chất Huế trong người bà đã khiến cho bà hát bản “Ðêm Tàn Bến Ngự” một cách dễ dàng như chính tác giả đã viết bài này ra để dành riêng cho cho bà, người ca sĩ, đó là Minh Trang.

Lớn lên trong khung cảnh của một danh gia vọng tộc một thời ở đất thần kinh, cũng như những gia đình khác có lẽ tân nhạc vẫn còn là một điều gì mới mẻ, tuy vậy bà Minh Trang là người sớm hấp thụ nền văn hóa Tây phương. Lúc nhỏ bà theo học trường Jeanne d' Arc, một trường dòng danh tiếng ở Huế và đã bắt đầu làm quen với những phím dương cầm từ đó. Lên trung học, bà theo gia đình ra Hà Nội. Vào khoảng 1941, thân phụ bà về nhậm chức tại Bộ Lại (tức là bộ Nội Vụ) tại Huế, bà lại theo về học tại Lycée Khải Ðịnh. Tại đây bà gặp một ông thầy dạy Việt Văn là ông Ưng Quả, cũng là vị “phụ giáo” của triều đình Huế. Hai người, một thầy, một trò đã tỏ ra tâm đầu ý hợp và tiến đến hôn nhân. Tuy lúc đó Thầy Ưng Quả là một người đàn ông góa vợ đã có hai con trai, nhưng cả hai gia đình đều là những gia đình quyền quí ở Huế, thầy Ưng Quả là cháu nội của Tuy Lý Vương, bà Minh Trang là cháu nội của Diên Lộc Quận Công, phải nói là rất “môn đăng hộ đối.” Hai người sinh hạ được một trai là Bửu Minh và một gái là Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang (tức là ca sĩ Quỳnh Giao). Bà dùng tên của hai người con ghép lại để làm nên cái tên âm nhạc cho mình là Minh Trang.

Năm 1951, Giáo Sư Ưng Quả, lúc đó là Giám Ðốc Nha Học Chính Trung Phần qua đời, bà Minh Trang đem hai con vào Saigon, và tìm được một việc làm tại Ðài Phát Thanh Pháp Á (France-Asie), vừa là xướng ngôn viên vừa làm biên tập tin tức bằng tiếng Pháp. Sự việc Minh Trang trở thành ca sĩ cũng là chuyện tình cờ không tính trước, trong chương trình ca nhạc của nhạc sĩ Ðức Quỳnh, vì ca sĩ chính không đến đài hát được, bà phải miễn cưỡng thay chỗ, và ca khúc duy nhất bà thuộc lúc ấy là “Ðêm Ðông” của NS Nguyễn Văn Thương. Nhờ giọng hát thiên bẩm - theo bà nói - từ đó gần như bà trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, ngoài chuyện bà là ca sĩ chính của Ðài Pháp Á, về sau trở thành Ðài Phát Thanh Quốc Gia, bà Minh Trang còn đi hát “phụ diễn” trên sân khấu, một lối trình diễn rất thịnh hành hồi ấy tại các rạp chớp bóng trước khi cuốn phim chính được trình chiếu.

Tiếng hát của bà bay ra Hà Nội và được các nhạc sĩ đương thời ngoài đó rất yêu mến, thường gởi bài vào cho bà hát như các nhạc sĩ Vũ Thành, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Giác, Thẩm Oánh, Thiện Tơ... Trong một lần ra Hà Nội theo lời mời của Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí khi ông này tổ chức Hội Chợ, bà đã hát trong ban Việt Nhạc và gặp gỡ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước tại đây.

Hai người nghệ sĩ này, Minh Trang-Dương Thiệu Tước kết hôn năm 1951 tại Saigon và sau đó sinh hạ được năm người con, một trai Dương Hồng Phong và bốn gái Vân Quỳnh, Vân Khanh, Vân Hòa, Vân Dung. Cũng như Bửu Minh và Ðoan Trang, các con của ông bà đều được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc với sự dìu dắt của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ngày nay Quỳnh Giao, Vân Quỳnh đã trở thành ca sĩ. Dương Hồng Phong tốt nghiệp vĩ cầm tại Quốc Gia Âm Nhạc và Bửu Minh du học Pháp năm 1961 nay là dương cầm thủ chính (đệ nhất vĩ cầm) trong ban nhạc đại hòa tấu “Staatsphihlarmonic Rheinland Plalz” của Ðức Quốc.

Sau biến cố tháng 4, 1975, các cô con gái đã lập gia đình đều đã ra đi, nhưng ông bà Dương Thiệu Tước còn ở lại Việt Nam, lý do là con trai duy nhất của hai người, Dương Hồng Phong, động viên năm 1972 đang bị kẹt tại Chu Lai và bị bắt làm tù binh. Với số lương 64 đồng một tháng dành cho Giáo Sư Dương Thiệu Tước dạy lục huyền cầm cổ điển, hai ông bà phải sống trong những điều kiện vô cùng chật vật. Bà Minh Trang kể lại suốt trong những ngày đen tối, công việc của bà là ngồi lượm sạn và bông lúa để lo bữa cơm cho chồng con, trong khi đứa con trai tù tội vẫn chưa về. Năm 1978 khi Dương Hồng Phong ra tù, bà nghĩ đến việc phải rời đất nước. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước vì thường đau ốm nên không muốn đi. Bà Minh Trang cùng ba con đến Thái Lan vào cuối năm 1979, và đi định cư tại Virginia. Ở đây bà làm nghề “quality control” cho một hãng microfilm và ngay cả làm “baybysitter” trong một gia đình người Pháp.

Năm 1986, bà theo con về cư ngụ tại quận Cam vì bà đã chán cái cảnh cào tuyết những ngày mùa Ðông ở Virginia, cũng là lúc bà bước vào tuổi hưu trí. Ở đây bà cảm thấy sức khỏe tốt hơn, và vui với các cháu ngoại ở quanh quẩn trong vùng, tuy bà vẫn còn hai người con trai ở xa, Bửu Minh tận Ðức Quốc và Dương Hồng Phong ở New York.

Những ngày cuối cùng, trước khi vào bệnh viện, bà Minh Trang sống trong một căn apartment dành cho người cao niên rất yên tĩnh. Thú vui của bà là nghe nhạc và nhất là bà rất chịu khó theo dõi tin tức thời sự. Bà tâm sự rằng ít khi bà nấu nướng, vì các con gái bà đều ở gần “có bát canh cần nó cũng mang cho.” Thỉnh thoảng các con ghé lại chở mẹ đi thăm người quen hoặc ghé qua chợ mua một vài thứ lặt vặt. Bà thích sống một mình như thế đã hơn mười năm qua mà không cảm thấy cô đơn, vì các con rất gần gũi với bà. Trong lúc ngồi tiếp chuyện tôi, bà trả lời điện thoại của những người con gái gọi lại hai lần. Bà tâm sự, bây giờ con cái đều bận bịu công việc, khó có thể quanh quẩn bên mình, ở căn cư xá này rất tiện, mỗi khi có ốm đau hay cần chuyện cấp cứu bà chỉ kéo nhẹ đầu dây báo động, là có nhân viên y tế đến giúp ngay.

Trên bàn thờ nhỏ ở phòng khách là hình ảnh những người đã quá vãng, trên vách tường là những hình ảnh của của người sống. Ðó là thế giới của bà, thế giới của hồi tưởng, của kỷ niệm hay thế giới ấm áp của con cháu đang vây quanh tuổi già của bà. Cho đến ngày phải vào bệnh viện vì ốm đau, bà lúc nào cũng thấy nhanh nhẹn, tráng kiện, tóc phơ phơ bạc, dù đã gần 90, trí nhớ còn rất minh mẫn.

Huế còn nhớ tới Minh Trang, tên tuổi một thời, thính giả đài Pháp Á không quên tên người ca sĩ này. Cái tên Minh Trang hình như gắn liền với âm điệu của một làn dân ca Huế, nỉ non và cũng ai oán trong “Ðêm Tàn Bến Ngự” cũng như với cái tên Dương Thiệu Tước. Cuộc đời sinh ra bà để chúng ta có những tình khúc dịu dàng, thơm tho như một khu vườn Huế những đêm trăng, đó là “Ngọc Lan,” là “Sóng Lòng.”...

Ca sĩ Minh Trang đã ra đi thanh thản vào trưa thứ ba ngày 17 tháng 8, 2010, tại thành phố Garden Grove, California, hưởng thọ 90 tuổi. Nghĩ đến bà, chúng tôi như nghe âm điệu của khúc nhạc “Ðêm Tàn Bến Ngự” ở đâu đây. Hình như bà vẫn ngồi đó, giọng nói nhỏ nhẹ, nụ cười hiền lành. Câu nói của bà chúng tôi vẫn còn nhớ, và giờ đây tôi vẫn nghĩ như bà: “Ngày ấy, dường như mới hôm qua...”
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Cali – Mưa Trên Ngày Tháng Cũ...

"Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu. Mưa mù lên mấy vai. Gió mù lên mấy trời.Người đi qua đời tôi, hồn lưng miền rét mướt, vàng xưa đầy dấu chân, đen tối vùng lãng quên... Anh đi qua đời em. Không nhớ gì sao anh? “ (1)
.......
Tiếng hát Thái Hiền hồn nhiên một thuở “ Oâng Trăng xuống chơi cây cau thì cau sẽ cho mo...” (2) của năm nào xa lắc, sao đêm nay chợt nghe nồng nàn đến vậy! Hay có phải vì Live Show nên tiếng hát chứa chan, bay lượn, chơi vơi trong nỗi tĩnh mịch của La Mirada Theater – Mưa trên đêm nhạc thính phòng. Hay bởi tôi đã có một chút rượu ấm ban chiều với Cung, trên ngọn đồi nắng gió hắt hiu của vùng Monterey Park, phố thấp, phố cao? Hay tiếng hát đã như tiếng sóng xa khơi vỗ về bước chân tôi quay về căn nhà cũ, với ánh mắt mẹ chờ, với tôi bôn ba quê người nổi trôi trong đời cơm áo?

Chuyến đi bất ngờ, không dự tính. Tôi muốn rời thành phố sáng mưa đá, chiều mưa tuyết này trong tuần lễ Easter, để quên đi một mùa đông dài còn đeo đẳng mãi, giống như những thứ oan khiên còn phủ chụp xuống lận đận đời tôi trong kiếp người lưu vong, xa xứ. Nhưng, Mark – boss của tôi- đã trả lời “ không”, thật busy cho công việc tôi trong thời gian đó. Tôi ngậm kín nỗi buồn, câm lặng nhận chịu, đôi mắt bỗng mở lớn, vô hồn nhìn Mark. Sao bỗng dưng tôi bị giam giữ khổ sai trong một tù ngục bao la như thế này? Không có quyền có một chọn lựa nào khác cho mình. Buổi sáng thức dậy theo tiếng chuông đồng hồ reo dục dã. Mỗi ngày ra khỏi nhà cùng một giờ khắc y hệt như nhau. Vào thang máy phải tất bật cởi ngay áo khoác, để tiết kiệm chút thời gian còn lại ở Ladies Locker Room. Buổi chiều trở về nhà, việc đầu tiên bao giờ cũng là nhấn nút đồng hồ reo cho ngày hôm sau nữa. Một điều thật phũ phàng, cái job quan trọng hơn cả mẹ cha, vợ chồng, người tình, người thương muôn thuở.

Vài ngày sau đó, không hiểu nghĩ gì, Mark gọi tôi, nếu đươc, nên lấy ngày off sớm hơn một tuần trước Easter vì slowdown, vé máy bay lúc này cũng dễ, Mark không muốn tôi bị căng thẳng quá. Thật ra, như tự bao giờ Mark vẫn là một nice boss, thông cảm, hiểu biết, thân thiện. Có thể sự im lặng của tôi đã làm Mark áy náy và tìm mọi cách cho tôi không buồn lòng mà công việc vẫn không bị ảnh hưởng vì sự vắng mặt của tôi. Có lần rãnh rỗi ngồi nói chuyện với nhau, ánh mắt Mark bỗng thật xa khi biết tôi còn một quê hương vời vợi bên kia trời, không thể trở về khi mưa vẫn còn giăng trên màu cờ đỏ, và tro cốt của Bố tôi cũng còn ở đó, một xã hội bất bình thường với đói nghèo, bệnh tật, bất công – thật tương phản với lớp người ăn trên ngồi trước, bạc tiền ngựa xe như thác đổ...

... Sau cơn mưa, phi trường Los Angeles mù sương, loáng nước. Đứa em trai đã chờ sẵn, ôm choàng lấy tôi, không ngờ cuối tuần lại có mặt ở Cali phải không? Nửa khuya rồi, hàng quán Little Saigon không còn ai mở cửa. Hay nếu có còn chăng những hàng quán không nằm trong ý thích của chị đâu. Về nhà ăn hủ tiếu Mỹ Tho đặc biệt mẹ nấu, và đang hâm nóng chờ chị em mình. Nghi nói, khi xe bắt đầu quẹo vào đường Brookurst.

Đêm yên tĩnh như một giòng sông... Muộn khuya , trễ tràng, rời rã. Khi con đường Lincoln hiện ra trước mặt, tôi bắt đầu hình dung ra mùi hương hoa Dạ Lý của mẹ ngọt ngào, chứa chan, trên bờ tường thấp, gợi nhớ những đêm trăng quê nhà ở một thành phố biển, tuổi thơ tôi ngọt lịm trong gió cát quê Ngoại theo bước những đường trăng.

Có những thứ tự dưng biến mất, mà không nằm trong ý niệm của không gian, thời gian biến động thường tình. Như tình tôi với Lữ. Vậy mà cũng có những tháng năm nào quấn quít, tưởng chừng như không bao giờ khuất hút, lìa tan. Khi biết lòng mình đã hết, tôi không còn viết nữa những trang thư.

“ Thôi thì thôi, chỉ là phù vân. Thôi thì thôi nhé chỉ ngần ấy thôi.” (3)

Cũng chẳng còn cần thiết để hỏi thăm nhau qua những đường dây nói. Nhận tin tức Lữ, tôi không mừng. Biết Lữ đang gặp những nỗi bất an, lòng tôi không xôn xao, xúc động.Tôi không muốn đóng kịch giả trá để làm một người lịch sự. Lữ bỗng lạ mặt trong tôi đến độ đôi khi tôi đã tự hỏi, có thật không ngày đó mình cũng đã có một thời thân thiết với kẻ vô tâm. Khi nhận ra Lữ chỉ là một người đàn ông thô bạo, độc đoán, ích kỷ,và thiếu một tấm lòng rộng mở, tôi lặng lẽ bỏ đi, và thu mình lại trong cái vỏ ốc mà tôi đã có sẵn tự bao giờ. Thì ra… đó chính là cuộc đời đó Thụy. Có thức khuya mới biết được đêm dài. Có sống lâu, mới biết đời không dễ gì qua được bến bờ trăm tuổi. Và khi lòng mình không yên ngàn nỗi, tôi biết rõ tôi, chỉ có một chỗ để trở về cho mình tìm thấy lại tuổi thơ xưa: Mẹ tôi – như một tiếng gọi mênh mông của đại dương muôn thuở.

Đêm – Tiếng Hát – Như một lối về cho ta tìm gặp lại ta! Cho ta ngủ yên giấc mơ đời dâu bể. Dàn Nhạc Giao Hưởng: Hội Nghệ Thuật Aâm Nhạc California. Nhạc Trưởng: Thomas Ngô. Tiếng nhạc có lúc bồng bềnh như trôi trên sóng, có lúc dục dã như kèn thúc quân, như tiếng gọi lên đường khi Anh Dũng quặn mình trăn trở trong một bài thơ được phổ nhạc của Hữu Loan:” Aùo anh sứt chỉ đường tà”. Tôi nhìn sang Mẹ tôi, Mẹ say mê thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư … từ một thời tuổi hồng con gái, nên bây giờ hồn mẹ lãng đãng bay theo từng nốt thăng trầm, níu lấy tay tôi, đã thật lâu rồi mẹ mới có một đêm vui như thế. Còn Nghi, chị Thụy này, thi ca qua âm nhạc thính phòng đúng gout của chị quá đi rồi, nhất là có tiếng hát Vũ Khanh “ chuyên trị “ của chị, chắc là chị phải thích lắm.

Nhớ lại, sau khi nghe tôi báo sẽ về thăm mẹ và Nghi, tiếng Nghi reo lên thích thú bên kia đầu dây nói, vậy em phải lấy ngay vé Nhạc Thính Phòng cho chị mới được. Vé được bán từ mấy tuần rồi, nếu cứ lừng khừng sẽ được xếp ngồi ở “ cánh gà chiên bơ “ thì tội nghiệp mẹ biết bao!

“ Đêm về trên bánh xe lăn. Tôi – trăng viễn xứ, hồn thanh niên vàng. Tìm tôi đèn thắp hai hàng. Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây… Nhớ nghĩa trang xưa – quê hương bạn bè. Nhớ pho tượng lính buồn xe bụi đường…” (4).

Nhạc vẫn là nhạc cũ, những bài tôi yêu thích cất giữ trong ngăn nhạc CD trong phòng riêng.Để là một thứ thuốc ngủ lãng quên đời những lần mở trừng mắt trong đêm nghe gió hú. Như những lời âu yếm, vỗ về trên từng bước gian truân. Nhưng đêm nay, tiếng mưa rơi đều một nhịp, sâu lắng chìm trong tiếng hát vững chải như thông, sừng sững buồn im như núi, và dong ruổi, phiêu du như một cánh chim bằng. Đó tiếng hát Vũ Khanh – đã là một con tàu đưa tôi trở về bến bờ quá khứ lụi tàn, huyệt lạnh nhiều năm. Xưa, Đại Huynh tôi có lần khuyến cáo, khi thấy toàn bộ sưu tập nhạc của tôi, hầu hết là giọng ca Vũ Khanh. Tiểu Muội có biết không Vũ Khanh có một đời riêng rất…lãng bạt, phóng đãng. Ơ, huynh nói gì lạ vậy. Muội chỉ thích một giọng hát như người ta đã ái mộ, quý mến một tài thơ. Sự ngưỡng mộ rất khác xa tình yêu đôi lứa. Tôi chỉ đứng ở một góc thầm lặng nhìn ngắm cám ơn anh đã hát giùm tôi, đã nói giùm tôi, đã thở giùm tôi, những u uất nghẹn lời trong cuộc tình tôi đớn đau, nghiệt ngã. Tôi không có thói quen đi tìm hiểu những riêng tư của các nghệ sĩ tài hoa. Tôi cũng chẳng bao giờ quan tâm đến đời tư của họ. Họ cũng là người, cũng có một trái tim bằng máu đỏ, cũng lãng mạn, đam mê, sao ta buộc họ phải là một thầy tu khi đã là người của đám đông xôn xao chào đón?

Và xa hơn nữa của thuở 15 … Tôi yêu văn NĐT. trên từng trang sách nhỏ. “ Giờ ra chơi “ của các cô học trò mới lớn sao mà ngọt ngào, êm ả, dễ thương. Tôi tưởng chừng như mình cũng là những nhân vật nhí nhảnh, hồn nhiên trong đó – áo lụa tơ vàng lúc nào cũng mang theo những lời chúc tụng, cho có kẻ ngẩn ngơ nhìn rồi làm cái đuôi lẽo đẽo theo sau…

“ Em tan trường về, đuờng mưa nho nhỏ. Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ. Oâm nghiêng tập vở. Tóc dài, tà áo vờn bay…” (5). Và tiếng nói nồng ấm, thì thầm của ông trong chương trình Nhạc Chủ Đề hàng tuần vào mỗi tối thứ năm: Hỡi em yêu dấu, mùa mưa rồi đó em, những cơn mưa Saigon có làm em nhớ tình ta? Hàng me xanh mướt lá sững im, anh biết tìm em nơi đâu trên lối về Vương Cung Thánh Đường ngày cũ….

Ê! Dã Thụy, mi cứ đi yêu cái lão nhà văn, một vợ, năm con, và nghiện thuốc phiện kinh niên ấy đi cho bỏ tội trời hành. Ơ hay, cũng là nhỏ Tỷ Muội. Nó là cái radio Catinat, đi lăng quăng ở đâu, nghe được tin tức gì là bắt đầu phổ biến. Tin của nó nhiều khi là tin đại cồ vịt vì chưa được phối kiểm, chẳng qua vì cái tính

nhiệt tình quá đáng của nó. Mi nghe rõ chưa,ta không yêu lão như cái đám fans ái mộ minh tinh màn bạc, thần thánh hóa họ trong ngưỡng vọng như một người tình. Lão là lão. Và ta là ta. Hay thì khen vậy thôi. Được chưa bà cụ non – phải chờ đến 3 năm nữa mới tròn 20 tuổi?

Và rồi đến lượt Bố tôi, Thụy, con phải xếp xó hết mọi thứ lỉnh kỉnh thơ văn, để còn lo học hành thi cử. Con phải đi đúng con đường Bố đã vạch. Phải có văn bằng và kiến thức khi bước vào đời mai sau…

Tôi phải tạm quên “giấc mộng văn chương “ của mình, để đẹp lòng Bố Mẹ, Nhưng khi những mảnh bằng đã có được trong tay, Bố tôi không kịp nhìn thấy ngày con gái đầu lòng công thành danh toại. Tai ương phủ chụp xuống đời tôi cùng với muôn người khi vận nước điêu linh, nghiêng ngã. Sư tuyệt vọng đến đường cùng tưởng chừng như chỉ còn một lối giải quyết là tự sát, đã cho tôi sống như một người mất trí, ngày không ra ngày, mà đêm chẳng là đêm. Tôi thường lang thang ngang qua những nơi chốn cũ - những tòa soạn tôi vẫn lui tới, vui chơi, viết lách lăng nhăng của tuổi học trò. Làm gì còn có ai ở đó nữa? Những người thân yêu đã đâu đó nằm im trong ngục tối, đã lênh đênh trên đường tìm kiếm tự do…Tôi chỉ còn lại tôi, với tiếng hát lưng trời :

“ Em đi qua cầu. Có gió bay theo. Thổi bùng khăn tang. Trắng giữa khung chiều…” (6)

Nhưng hình như lòng người cũng đổi thay theo đá nát, vàng phai, cơ trời, vận nước. Lưu lạc xứ người tình cờ gặp lại mọi cũ càng xưa, nước mắt ướt tràn mi, môi cười tôi lịm tắt. Vẫn là những người trong họ, nhưng không còn nữa nghĩa kim bằng, bẻ đôi chuyện ngày xưa Đào Viên kết nghĩa. Những Uy, những Ngạc, những Định,những Toàn… Có phải thà là đừng gặp lại để còn giữ mãi trong tôi thuở đời xanh mướt, để còn tự hào ta đã từng có anh em, bè bạn thâm giao…

Một ai đó đã hỏi tôi, sao thơ tôi muộn phiền, rũ rượi và văn tôi nhuốm mùi đắng cay, khinh bạc cuộc đời. Bởi đời đã dạy tôi như thế. Không phụ người, người cũng phụ ta. Thôi hãy cứ làm một người bỏ đi trước để biết rằng ta đã chọn lựa mất mát, ly tan.

Tiếng hát đêm nay bỗng làm tôi nhớ… Nhớ quá thuở 15, 16 tuổi mơ làm phóng viên đi khắp các mặt trận, các chiến trường. Những chiều tan trường về theo lá me bay trên đường Công Lý, nói cho chị Sao Hồng nghe về mộng ước mai sau… Cho đến một ngày tôi gặp Bắc Bình, như nhìn thấy chính cái bóng của tôi, người phóng viên quân đội băng mình trong lửa đạn, tôi ôm chặt lấy chị Sao Hồng kể lể, mừng reo, cuống quít. Đúng rồi, đúng người em chờ rồi, trời đất vẫn thương em, chị Sao Hồng ơi!

Nhưng biết thế nào là hạnh phúc?… Và tôi đã chẳng còn tôi, khi bóng tôi đã tắt, khi người muôn trùng cách biệt thiên thu. Nhưng tình yêu chúng tôi đích thực, nó còn đó hay đã qua đi chứ không bao giờ mất giống như mùa mưa vẫn đến hằng năm trong ngập tràn kỷ niệm.

Chuyến đi thăm mẹ tôi bốn ngày là đã hết ba ngày Cali mưa tầm tã vì ảnh hưởng bão đâu đó. Thành phố buồn hiu vắng vẻ người qua. Có lẽ vì tin tức bệnh Sars được loan truyền trong giới người Việt, bởi họ đi về Việt-Nam thường xuyên giống như Saigon đi Chợ-Lớn. Mà cũng lạ cho dân ta, những đồn đãi sai dường như đã thành một tập quán, không có không đươc. Hễ cứ ghét chợ nào là hê lên chợ đó đang mắc bệnh Sars, báo hại chẳng còn ai dám tới lui mua bán. Giống như lúc trước hễ cứ ghét tên nào là chụp ngay cho hắn cái nón cối và thế là… toàn dân chống Cộng cùng đoàn kết để “ làm thịt “ hắn. Chả trách sao biết bao gia đình sống biệt lập, cách xa cộng đồng người Việt vì họ không muốn phiền hà.

Mẹ tôi cứ phải dặn dò mãi hai chị em - tôi và Nghi - là bệnh Sars đang hoành hành, không được lê la hàng quán. Nhất là tôi – ở mãi hóc bà tó lạnh lẽo thiếu thức ăn Cali, đi đâu, thấy “ đói con mắt “ cũng mua về.

Me biết tôi thích bánh bèo chén tôm chấy Huế, nên tự làm từng ổ bánh nóng hổi cho tôi. Chuyến này mẹ để cho Gia Hội và Hỷ của con ế dài khi con vui chân thăm viếng Cali thì tội họ quá! Mẹ cười bằng mắt . Aên đi con. Xa xôi quá, mẹ không gần các con được để chăm sóc từng món các con yêu thích… Nhiều lúc nghe các con không an lành, lòng mẹ cũng quặn đau…

Sao mẹ lại nói vậy? Chúng con đâu còn nhỏ dại. Đáng lẽ, chúng con phải cận kề bên mẹ mới phải đạo làm con. Nhưng biết đến bao giờ những cách ngăn không còn nữa, gia đình vui trong sum họp, đoàn viên, khi đời sống xứ người không dễ dàng cho mọi đổi dời, toan tính.

Ngay cả điều nhỏ nhất, tôi cũng không ghé đốt được cho chú Hoan nén nhang muộn ở đồi Hồng. Tôi chỉ có bốn ngày phù du, mà đời sống xứ này việc gì cũng phải cuối tuần. Nghi không có thì giờ để đưa tôi đi giờ khắc tôi mong muốn. Tôi đành chịu lỗi với chú, chắc người nằm xuống ỡ Rose Hills đã tìm thấy bình yên ở cỏi vĩnh hằng cũng hiểu cho tôi.

“ Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân “

Tôi không là khách, không ai lưu giữ được mình, nhưng sao cứ muốn ngồi im nhìn mưa lướt thướt trắng mù bên ngoài cửa. Chút mát mẻ ướt át gây se lòng ở những cơn mưa đầu mùa khiến người ta nhớ. Và tôi đã nhớ lại những điều tuyệt vời, những ngọt ngào êm ái đã đến trong đời mình. Những ngày tháng xôn xao ấm áp với những tình thân, với người yêu dấu. Để thấy có một chút hạnh phúc và để nghe lòng nuối tiếc khôn nguôi.Những cơn mưa tầm tã đã cầm chân tôi lại, không thể nào vui bưóc thăm ai, ngoại trừ Cung tình cờ nhìn thấy tôi ở phi trường Los Angeles qua chuyến công tác vội vàng. Cung nằn nì mãi. Thụy, ngày kia anh về lại xứ Cao Nguyên Tình Xanh rồi. Sao Thụy vẫn tránh anh? Không còn một chút gì hết trong lòng em sao? Tôi nói tôi như con cá đã làm quen và sống được trên cạn, bỏ xuống nước cho nó vẫy vùng nó sẽ chết đuối. Thời gian phủ lấp nhiều thứ quá. Khi phải tập quen với khổ đau, chính là lúc hồn tôi cũng đã phôi phai với hương hoa còn thoảng lại ở một đoạn đời. Nhưng cuối cùng… chúng tôi cũng đã gặp lại nhau. Trên một ngọn đồi. Trong một buổi chiều nắng quái. Cung – bên kia trời Tây Bắcù - cũng là một “ Giờ Ra Chơi “ của tôi một thời mới lớn. Thấy tôi vẫn e dè, ngần ngại, Cung kêu lên, Trời ơi sao Thụy chẳng khác xưa một chút nào hết, vẫn hoài mãi trong cái tháp ngà của mình. Tôi lắc đầu. Không phải vậy đâu anh. Tại Thụy vẫn là con Oác Hương khép mình trong tầng vỏ dày, nằm im nghe sóng vỗ. Bao nhiêu năm rồi, anh vẫn chỉ hỏi tôi có một điều ngày đó tôi có yêu anh không mà giờ ra chơi của chúng tôi đã vội vàng chấm dứt, cho mỗi người phiêu bạt một phương. Biết trả lời thế nào để mãi đẹp lòng nhau, khi ngày xưa không là của nhau và mấy mươi năm sau, cũng là mỗi đời riêng lẻ. Tôi giống như một người đi lạc xuống cỏi trần ai này, mãi tìm kiếm một điều gì, một người nào đó đã mất hút, và Cung đã bắt gặp, đã giữ tôi lại, đã không muốn tôi mãi ngơ ngác đi tìm những gì tôi đã không còn tìm thấy nữa. Tôi nhận ra rất rõ lòng mình, tôi không hề yêu Cung. Cung chưa bao giờ có trong hồi tưởng dù ngày vắng đêm thâu. Không chút vấn vương. Không nghe nao lòng, xao xuyến. Còn xa lắm để nói chuyện tình yêu của Cung và tôi, bởi hồn tôi chỉ có một Khôi An, cánh chim đại bàng đã gãy trong vòm trời quê hương bão bùng, giông tố.

Cali - những ngày ngắn ngủi trong vòng tay yêu thương của mẹ, tôi đã nghe lòng ấm áp dường bao. Tôi quên hết những lặn hụp, bon chen trong cảnh đời gian trá. Tôi biết mỉm cười tha thứ những kẻ đã dối gian tôi. Nhũng mánh khoé, điêu ngoa, những lọc lừa, bội phản. Bởi có nghĩa gì đâu … chút tạm bợ mượn vay trong kiếp sống lưu đày?

Tôi nhìn lại đời tôi trên từng hàng mưa lũ…... Tôi gọi tên Bắc Bình ngậm ngùi trong tưởng vọng xót xa... Bao giờ cho tôi quên, khi mùa mưa vẫn đến từng năm trong chứa chan kỷ niệm. Tiếng hát nào khàn đục “ Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” (7) cho tôi bật khóc nghẹn ngào trên từng âm thanh vỡ...

Minneapolis tháng 5/03.
MH Hoài Linh Phương
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Image

Một ngày không vội vã...

Mỗi năm một lần , tôi về thăm Mẹ và các em hiện đang sống ở Montréal , Canada. Năm nay cũng như thuờng lệ, tôi về thăm nhà 2 tuần cuối tháng 6. Nói sao cho hết niềm vui gặp lại gia đình. Montréal vào mùa hè thật nóng bức, có ngày lên đến hơn 100 độ F, nên cả nhà thường rủ nhau đi ra ngoài chơi cho mát mẻ.

Tôi còn nhớ sáng hôm đó, cả nhà định dẫn mấy đứa cháu ra công viên cho tụi nhỏ hưởng chút khí trời . Tôi thì đã thay quần áo từ lâu, cứ chờ mãi mà mọi người cứ " xàng qua xàng lại ", gần 9 giờ vẫn chưa xong, nhất là mấy đứa nhóc thì cứ lăng xăng chơi game, không ai chịu thay quần áo.

Thế là tôi bắt đầu nổi quạu " Nhà mình sao làm gì cũng như rùa bò vậy ? Có đi hay không thì bảo ... ?

Cô em tôi nhỏ nhẹ " Thì từ từ, vacation mà lị , chị sống ở Mỹ riết rồi quen thói " stress out " hà ... ".

Cậu em trai thì nói " Chị làm gì mà dữ vậy, chị có biết hôm nay là " ngày không vội vã " hôn ?

Tôi ngạc nhiên, tưởng tai mình nghe lầm, nên hỏi lại " Ngày gì ? Không vội vã là sao ? " .

Thế là Má tôi bật tivi lên. Trên màn ảnh, đài nào cũng đang nói về cái ngày đặc biệt này. Ồ, thì ra là từ vài năm nay, mỗi năm chính phủ Canada chọn ra một ngày, thường là vào mùa hè, một ngày cuối tuần, và năm nay rơi vào ngày 26 tháng 6, gọi là " một ngày không vội vã ".

Khoảng chừng vài tuần truớc đó, là báo chí, các cơ quan truyền thông đều loan báo và nhắc nhở để mọi người chuẩn bị. " Ngày không vội vã " bắt đầu từ 8 giờ sáng cho đến 9 giờ tối. Mọi người được khuyên là " Bạn hãy ngủ cho thẳng giấc, thức dậy khi nào mình muốn. Hãy nhâm nhi tách cà phê , và ngồi ngắm khu vườn của bạn, nghe tiếng chim hót líu lo . Hãy đi ra ngoài nếu bạn thích, vào ăn trưa ở một restaurant nào mà bỗng dưng bạn muốn. Còn nếu không, bạn có thể mời bè bạn đến nhà làm BBQ. Bạn cũng có thể chạy xe đạp một vòng thành phố, hay nằm dài trên bãi cỏ của một công viên gần nhà, vân vân và .. vân vân " .

Tóm lại, chính phủ khuyến khích người dân : " Hãy enjoy từng phút giây hạnh phúc, bình an của ... một ngày không vội vã. Hãy biết sống và tận hưởng Hạnh phúc ở quanh ta ", như lời của một người phóng viên trên đài tivi đang nói.

Rồi còn có các màn phỏng vấn vài người dân , hỏi xem họ dự định sẽ làm gì trong cái ngày đặc biệt này trong năm, thì đa số câu trả lời đều là " spend time với gia đình, người thân ".

Có một cảnh trên màn hình làm tôi nhớ mãi. Hình ảnh một cụ già tóc bạc phơ, lụm cụm trả lời phỏng vấn với nụ cười móm mém " Tôi luôn mong đợi và yêu nhất cái ngày này trong năm, vì đó là ngày duy nhất mà tất cả con cháu tôi không ... bận rộn, chúng nó tề tựu đông đủ để họp mặt với tôi. Cám ơn chính phủ, cám ơn ân nhân nào đã " đặt ra " cái ngày ý nghĩa này ... " .

Thế là bỗng dưng tôi đổi ý . Tôi bảo gia đình " Hôm nay là ngày đặc biệt, vậy thôi mình làm chương trình gì special đi nhe .. " .

Thế là cả nhà nhao nhao hưởng ứng, người thì bảo " khỏi nấu cơm, đi ăn tiệm cho khỏe ", kẻ thì nói " nhà hàng đông lắm, đi xuống downtown chơi ".

Em trai tôi thì muốn đi xe đạp ( ở Montréal có rất nhiều bãi cho mướn xe đạp, bạn chỉ cần " quẹt " cái credit card vô là có thể lấy xe đạp đi ngay ) .

Mấy cháu nhỏ lại muốn đi tàu BateauMouche. Rồi lại có ý kiến đi câu cá, hay đi xe ngựa một vòng thành phố. Và thế là giơ tay biểu quyết. Cuối cùng thì đa số thắng thiểu số : đi xuống Vieux-port ( khu phố cổ ) chơi và sẽ đi tàu BateauMouche. Thế là chúng tôi lên đường , thảnh thơi, không vội vã ...

Đường xuống phố đông nghẹt, và kẹt xe, thế mà không một xe nào bóp kèn. Thiên hạ ngồi trong xe, an nhiên chờ đợi, còn mở cửa kiếng xuống nhìn nhau cười, và vẫy tay " No hurry ! Be happy ! ". Tôi thật sự " thấm " được thế nào là ý nghĩa của 3 chữ " không vội vã ! ".



Đến chừng xếp hàng mua vé đi tàu, thì lại là một hàng thật dài, trong cái nắng gắt của mùa hè. Vậy mà ai ai cũng cười, cũng nói, cũng bắt tay, với cả những người ... không quen biết. Dường như con người ở đây, ngày hôm nay, không ai bị stress cả. Cả một thế giới hoà bình, thanh thản quanh tôi ...

Lúc bước xuống tàu, David, thằng cháu nhỏ 5 tuổi hối hả muốn chạy đến dành chỗ, thì bị Christina - cô cháu 4 tuổi , " chỉnh " ngay : " David ! Bữa nay là " No hurry day " mà, sao David cứ hurry hoài vậy ? ", làm cả nhà cùng cười. Tôi cũng bật cười theo vì sự nhận thức dễ thương của cô bé này .

Trưa đến, đói bụng, chúng tôi ghé vô một nhà hàng Tàu. Lại đông nghẹt khách, nhưng ai ai cũng vui vẻ xếp hàng đợi đến lượt mình. Đang đứng chờ thì người bên cạnh tôi, một phụ nữ Quebécois bắt chuyện hỏi tôi đã làm gì ngày hôm nay. Tôi kể lại một ngày vui chơi với gia đình cùng các cháu. Bà cười , chỉ hai người con " Chồng tôi mất lâu rồi, năm nào vào ngày này, tôi cũng để tụi nó quyết định muốn đi đâu, làm gì... Cuộc sống mà, có gì mà phải vội vã ...". Rồi bà tiếp " Như trưa nay nè, bỗng dưng con gái tôi thèm ăn món lẩu Tàu, thế là chúng tôi vô đây, xếp hàng, nghe nói nhà hàng này món nào cũng ngon lắm .. " . Tôi gật đầu đồng ý và cảm thấy vui vui trong lòng......

Ăn no xong, thì đến chiều. Không ai muốn về nhà, thế là kéo nhau ra park chơi. Nhìn quanh, thiên hạ đông như kiến , tự dưng tôi thấy lòng mình vui chi lạ.Trải tấm chiếu trên bãi cỏ, tôi nằm xoải người, vươn vai một cái thật đã . Dường như hơn 10 năm sống trên đất Mỹ, tôi chưa hề có được cái " đã " nào như thế này . Cứ để mặc tụi nhỏ tha hồ chơi xích đu, cầu tuột, chạy chơi, la hét ... tôi nằm đeo cặp mắt kính mát, tận hưởng từng làn gió thoảng qua một cách khoái chí, do ... nothing , lim dim ... ngẫm nghĩ sự đời. Kể cũng lạ, nhờ có cái ngày này, mà tôi mới nhận ra là hình như trong đời , tôi chưa hề bao giờ có được một ngày không ...vội vã ...
... Sinh ra và lớn lên ở Saigòn, trong một gia đình nghèo, nên tôi biết rất rõ là chỉ có ráng học thì mới có thể giúp tôi thoát khỏi cái kiếp nghèo muôn thuở đó. Ngay từ nhỏ tôi đã rất hiếu học. Từ lớp tiểu học, đến phổ thông, rồi đại học, cả đời tôi chỉ biết có sách vở, và suốt ngày chỉ cắm đầu cắm cổ mà học. Tuổi thơ tôi chưa hề có một ngày không vội vã. Hôm nào cô giáo bệnh , được nghỉ và về sớm , trong khi các bạn bè cùng trang lứa lăng xăng tìm chỗ đi chơi, hay la cà các hàng quán , thì tôi lại vui mừng vì .. có thêm giờ để học bài. Tôi hối hả đạp xe về nhà, rửa mặt vội vàng và ngồi vào ngay bàn học. Bài thi nào cũng vậy, được 9 điểm là tôi buồn, vì phải điểm 10 cơ thì tôi mới chịu. Mọi người luôn bảo là tôi thích sự tuyệt đối, và như vậy thì đời tôi sẽ khổ...

Vào đại học, 5 năm, tôi lại chưa hề có được một ngày không vội vã. Lúc nào tôi cũng bận rộn, với bài vở và với những cuộc thi . Tôi luôn tham lam, mong muốn mình phải đạt điểm 10 trong mọi bài thi. Tôi sẵn sàng thức khuya , dậy sớm, miễn sao đạt được điểm tối đa là tôi vui. Có lần nhỏ bạn thân bảo tôi một câu chí lý " Học mà không chơi giết mòn tuổi trẻ, Chơi mà không học giết cả tuơng lai .. ". Tôi nói ngay " thì bởi vậy, tao học nè , chỉ có cái học mới giúp mình thoát ra khỏi nghèo khó ", nhỏ bạn cười " Tao thì chọn ... cả hai, vừa học vừa chơi, miễn sao không thi lại là " đủ xài " rồi, rồi mai này mày sẽ hối tiếc khi tuổi trẻ trôi qua uổng phí ... ". Tôi chỉ cười, nhưng bây giờ mới nhận ra là nó có lý ...

Ra trường ở Canada, đi làm, tôi lại lao vào công việc, làm thật nhiều, để mong kiếm thật nhiều tiền trong thời gian ngắn nhất. Tôi tình nguyện là 7 ngày 1 tuần, mỗi ngày 13 tiếng. Ròng rã 3 năm thì tôi đuối sức, nên đành giảm bớt chỉ làm 5 ngày. Mười năm trời, tôi dành dụm đựơc một số tiền, và nỗi ao ước, làm giàu, thật nhanh , đẩy tôi vào thị trường chứng khoán. Tôi say mê chơi stock, nên ngày nào tôi cũng luôn bận rộn với Wallstreet, với giá cả và những con số lên xuống của từng công ty. Trúng stock, chỉ qua một đêm, tôi bỗng nhiên thành triệu phú. Ấy thế mà tôi vẫn chưa có được một ngày không bận rộn. Ngay hôm đó, đầu tôi lại tính toán cách đầu tư nào để nhân đôi, nhân ba số tiền tôi đang có. Thế là lại mạo hiểm, lại chơi những ván bài to hơn . Ông bà ta đã có câu " Có gan làm giàu kia mà ". Tôi đã có gan, và tôi đã giàu, thì bây giờ nếu muốn giàu hơn, tôi cần phải có gan hơn ...



Thị trường chúng khoán sụp đổ, tôi trở tay không kịp, thế là mất trắng . Tôi không nản " không sao, còn sức khoẻ, còn quyết tâm , ta có thể làm lại từ đầu, thì sẽ có tất cả " . " Có chí thì nên " , nên tôi quyết định qua Mỹ, vì Hoa kỳ là đất nước của cơ hội. Tôi lại lao vào công việc, cần cù, ký cóp ... để dành tiền.

Vào những năm sau 2000, ngành dược và computer đang lên cơn sốt thiếu người. Thế là thiên hạ ùn ùn đổ sang Mỹ, vì làm việc nhiều tiền hơn. Tôi lại đi làm full time, 5 ngày một tuần , và luôn sẵn sàng làm overtime bất cứ khi nào công ty cần. Tôi đi làm từ sáng đến tối, ăn thì " cơm chỉ " , food to go, không xài gì cả, cắc ca cắt củm để dành từng đồng xu, hy vọng sẽ có cơ hội đổi đời ... Và rồi thì cơ hội đến thật, khi cơn sốt bất động sản bùng nổ. Giá nhà cửa tăng vùn vụt , từng ngày. Hễ ai chậm tay là ... sorry, ráng mà chịu khó ngồi nhìn " căn nhà mơ ước " vuột khỏi tầm tay, bạn nhé. Và tôi lại bị cuốn xoáy vào cơn lốc này, như hàng triệu người ở xứ Mỹ .

Mỗi tuần chỉ có được hai ngày nghĩ làm, tôi rời nhà từ 8 giờ sáng đến 9 giờ tối , lái xe khắp mọi ngõ ngách, để tìm xem có căn nhà nào " For sale by owner " không, hay có căn nào trông lụp xụp mà mình có thể tân trang chút đỉnh lại rồi " flip ", kiếm vài chục ngàn bỏ túi . Có những bữa tôi không có cả thời giờ để ăn cơm, mua vội vàng chút food to go bỏ bụng . " Thảy " 1 căn nhà, wow , ngon ăn quá, tôi làm căn thứ nhì, rồi thứ ba. Lòng tham con người là không đáy kia mà . Thì đùng một cái, cái " bong bóng " nhà đất nổ tung . Bao nhiêu kẻ mất nhà, tay trắng, và có tôi trong số đó . Từ một triệu phú ( lần thứ hai ) , tôi trở thành người mang nợ ngập đầu. Và thế là tôi phải đi làm bù đầu bù cổ để ráng cầm cự mấy căn nhà. Đến chừng thật sự đuối, thì tôi đành phải buông - trong cay đắng, vì không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi shortsale mấy căn nhà, trước khi để nhà bank kéo . Rồi giờ thì tôi phải tiếp tục đi cày , cả đời , để mà trả nợ. Một bài học .. suốt đời không thể nào quên. Cho đáng kiếp mày, một kẻ tham lam ...

Hôm nay nằm dài trên bải cõ, hít thở bầu không khí trong lành của một ngày nắng ấm, chẳng có việc gì phải làm, thế mà tôi thấy lòng mình , tâm mình sao mà thảnh thơi chi lạ. Giờ phút này, tôi không giàu, nhưng sao tôi lại có được sự bình an, điều mà đã hai lần là triệu phú, tôi hoàn toàn chưa bao giờ có được. Thật sự tôi phải cám ơn chính phủ Canada, hay cám ơn người ân nhân " trí tuệ " nào đó, đã nghĩ ra cái ngày đặc biệt này trong năm, để giúp người dân biết trân quý sự thanh thản mà cuộc sống ban cho chúng ta. ...

Bỗng dưng tôi chợt nhớ mới cách đây vài tuần , tôi tình cờ gặp lại cô bạn củ hồi trung học, khi vô tiệm food to go ở Cali mua đồ ăn . Hai đứa chỉ kịp chào hỏi vài câu, thì cô bạn vội vã về đón con, còn tôi thì lật đật đi ra xe sợ trễ giờ làm. Cô bạn than " Sao cuộc sống tụi mình lúc nào cũng tất bật quá há, chỉ khi nào hết thở thì mới hết ... bận rộn ... ".

Tôi chỉ cười " Xứ Mỹ mà lị ... " .

Cô bạn tự dưng hỏi xin địa chỉ email của tôi, rồi bảo rằng " sẽ email gửi cho bồ một bài ý nghĩa lắm ", rồi cô cười nói thêm " nhưng đọc thì hay, mà làm có được hay không lại là chuyện khác . .. ".

Tối đó check mail, tôi nhận được ngay , với vài dòng nhắn nhủ " Bồ ráng cố gắng thực hành theo lời khuyên trong bài này nhé, còn mình thì ... đời vẫn lăng xăng .. ".

Tôi bật cười , và click vô đọc bài viết ngắn của cô bạn :

BẬN RỘN làm cho ta không có bình an và hạnh phúc
BẬN RỘN làm cho sự hành xả của ta vụng dại
BẬN RỘN làm cho cái hiểu biết của ta khô cằn
BẬN RỘN làn cho sự sống của ta ngắn lại
BẬN RỘN khiến ta không thấy được cái đẹp của người ta thương yêu
BẬN RỘN khiến ta đi trên đường như ma rượt ...

Đời sống bận rộn là đời sống ... bất hạnh nhất trên đời ... !

Thế đấy, nhưng con người ai ai cũng luôn tìm đủ mọi lý do để mà ... BẬN RỘN.

Và rồi một ngày kia, thử hỏi có ai mang theo được cái " BẬN RỘN " về bên kia thế giới ?

Hãy biết dừng lại
Hãy biết ngơi nghĩ
Hãy tập thanh thản
và buông xả, thảnh thơi ...

thì khi cái ngày ấy đến , chúng ta mới có thể ra đi với cái tâm ... KHÔNG ... BẬN RỘN .... !!!

Đúng vậy, dường như chúng ta , ai ai cũng luôn tự tìm cho mình một " lý do " để mà bận rộn , mà chưa hề bao giờ biết cách " nếm " được hương vị cuộc sống của mỗi ngày. Tôi chợt nhớ đến cô Kim Anh , cô cũng đã bảo tôi câu này khi bác sĩ cho biết là cô chỉ còn vài tháng để sống, và cô đã nói với tôi " Mỗi người đều có số phần, cô cũng mừng là cô còn " vài tháng ", thì ít nhất cô cũng sẽ có được vài tháng sống trong bình an, không vội vã.. ".

Chiều xuống, trời bắt đầu ngã tối. Thiên hạ lần lượt rời công viên. Cả nhà tôi cũng lục đục thu xếp đồ lại.

Bé Tina có vẻ nuối tiếc, bé hỏi bà chị tôi " Mommy, ngày mai có còn là " No hurry day " hôn ? " .

Chị tôi cười " Hết rồi con, mỗi năm ở Canada có một ngày hà .. ".

Na phụng phịu " Na muốn every day đều là " No hurry day " cơ... ".

Chị tôi nói ngay " Dễ thôi con , nếu mỗi ngày mà con biết enjoy, thư thả, con đừng làm việc gì gấp gáp hết, thì mỗi ngày sẽ là " No hurry day " rồi.. .".

Tôi đứng đó, nuốt từng lời bà chị nói, và cảm thấy " ganh tỵ " với đứa cháu của mình, vì chỉ mới 4 tuổi, mà cháu đã được học một bài học quý giá nhất trên đời, còn tôi , gần nữa đời người mới được học bài học đó ...
Lên xe, cậu em trai mở nhạc, vặn thật lớn bài hát mà tôi rất thích :

... " Nếu chỉ còn một ngày để sống
Chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp
Phải chăng ta sống quá vội vàng
Nên ra đi chưa được bình an ... "

Đúng thật , cả một đời tôi luôn sống quá vội vàng , thì làm sao có thể ra đi bình an ? Một lần nữa, xin cám ơn cái ngày đặc biệt này, đã giúp tôi có một cái nhìn mới , khác hơn về cuộc sống ...

Tự dưng tôi nhớ đến hai cô bạn thân. Cô bạn đạo Chúa thì chủ nhật nào cũng đi nhà thờ, hễ rảnh là đọc cuốn Thánh kinh nhỏ lúc nào cũng kè kè trong bóp. Cô hay nói với tôi " Chúng ta nên làm theo lời dạy của Ngài, thì lúc ra đi, mình sẽ được lên Thiên đàng với Chúa .. ".

Nhỏ bạn đạo Phật thì hễ rảnh là đến Chùa, niệm Phật, nó nói tôi " Ở lành, giữ ngũ giới, làm từ thiện, thì chắc chắn sẽ được về với Phật .. ". Còn giờ phút này, tôi hiểu ra một điều " Nếu như chúng ta biết tự làm cho mỗi ngày của mình thành " MỘT NGÀY KHÔNG VỘI VÃ " , thì chúng ta sẽ có được 365 ngày một năm đang sống ở Thiên đàng, hay Niết bàn ... rồi đó ...

Chúc mỗi người trong cuộc đời, luôn có được những ngày ... không vội vã ...

Hoàng Thanh
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

Nhà văn Thảo Trường qua đời, thọ 74 tuổi



Tin từ gia đình cho biết, nhà văn Thảo Trường vừa qua đời tại tư gia ở Huntington Beach vào lúc 3 giờ chiều ngày 26 tháng 8, 2010.Từ nhiều tháng qua, nhà văn Thảo Trường bị bệnh ung thư gan, và gan đã bị chai hẳn thời gian gần đây, các bác sĩ đã cho biết không còn hy vọng gì có thể chạy chữa.Nhà văn Thảo Trường tên thật là Trần Duy Hinh, sinh năm 1936 (giấy tờ ghi 1938) tại Nam Ðịnh, Bắc Việt.

Vào Nam năm 1954, ông đã trở thành sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phục vụ khắp lãnh thổ từ Quảng Trị cho đến đồng bằng sông Cửu Long. Ông bắt đầu cuộc đời cầm bút trong thời gian mới rời trường sĩ quan Thủ Ðức và đóng ở Quảng Trị, và tác phẩm đầu tiên của ông là cuốn Thử Lửa xuất bản năm 1962. Sau đó ông được mọi người biết đến với các tác phẩm như Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Ðồng Tháp (1966), Vuốt Mắt (1969), Cánh Ðồng Ðã Mất (1971) và nhiều tác phẩm khác.

Từ biến cố 1975, ông đã là một trong những người bị giam cầm lâu nhất trong các trại cải tạo, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc tổng cộng 17 năm. Từ năm 1993 là năm ông đến Mỹ, ông lại tiếp tục sáng tác sau gần hai thập niên xa cách với thế giới chữ nghĩa. Cuốn sách đầu tiên của thời kỳ sau cải tạo là Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai xuất bản năm 1995 tại Pháp, từ đó cho đến cách đây vài năm ông tiếp tục xuất bản Ðá Mục (1998), Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu Quả (1999), Mây Trôi (2002), Miểng (2006), Thềm Ðá Xanh Rêu (2007), Thử Lửa (2007). Tác phẩm quan trọng nhất của ông, tuyển tập Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết đã được Người Việt xuất bản vào năm 2008.

Chúng tôi sẽ tiếp tục thông báo các tin tức về chương trình tang lễ của ông

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/an ... 7899&z=157
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Quan Âm Tóc Rối

Huỳnh Trung Chánh
Dì Ba nằm võng đu đưa, lơ đãng thả tầm mắt theo dõi đám mây bồng bềnh trôi về hướng chân trời xa tít. Dì bâng khuâng ví mình như đám mây trôi lang thang đó, đang lần lần tiến vào khoảng không gian cuối cùng để rồi sẽ tan biến vào cõi hư vô mù mịt. Thời gian trôi nhanh quá, mới ngày nào dì phải chật vật, lặn lội đầu trên xóm dưới, làm đủ mọi nghề nặng nhọc để chắt mót từng đồng nuôi con ăn học, nay dì được sống an nhàn hạnh phúc với gia đình cô con gái hiếu thảo, cùng hai đứa cháu ngoại ngoan ngoản quây quần nên có thể nói dì được Trời Phật hậu đãi trong chuỗi ngày già. Thật vậy bà con cô bác ở tại thị xã Rạch Giá nầy, ai chẳng mơ được như dì. Dì Ba có hai đứa con : con trai lớn tên Toàn vượt biên sang Hoa Kỳ, tốt nghiệp kỹ sư điện tử, kết hôn với cô gái Mỹ gốc Tây ban Nha, hạ sanh đứa con trai kháu khỉnh, công danh sự nghiệp hanh thông, nghe đâu đã là nhà triệu phú trẻ; Lan, đứa con gái ở lại quê nhà hủ hỉ với mẹ, có chồng là công nhân viên trung cấp, lương bổng trọng hậu, đã tạo dựng nên nhà cửa khang trang và có nếp sống vật chất sung túc hơn người... Đang mộng mơ ngẫm nghĩ chuyện xa gần, dì Ba chợt tỉnh lại khi nghe tiếng reo vui của bé Mai ở ngưỡng cửa. Con bé thưa ngoại rồi sa ngay vào lòng thỏ thẻ : “Con hổng muốn đi học đâu! con nhớ ngoại quá hà!”. “Oái chu choa! cháu tôi nói nghe dễ thương làm sao áù! nảy giờ ngoại cũng trông con về lắm đó!”. Bà cháu đang nựng nhau, thì có tiếng điện thoại reo vang, bé Mai nhanh nhẩu nhỏm dậy chạy lên phòng khách chụp điện thoại : “A lô ! a lô !” “Dạ có! dạ có!”. “Ngoại ơi! ngoại! có cậu Lâm ở Mỹ điện thoại cho ngoại nè!”. Lâm là con của cô em thứ năm, đã cùng đi vượt biên một chuyến với Toàn. Khi Lâm mới rời nước được hai năm thì mẹ cháu chết, mấy năm sau dượng năm đi học tập cải tạo về, theo diện đoàn tụ sang qua Hoa Kỳ với con, nhưng chẳng bao lâu cũng từ trần. Lâm thương dì như thương mẹ nên thỉnh thoảng vẫn gởi quà biếu và điện thoại thăm dì.

- A lô! Lâm hả! dì Ba nè con!

- Dì ơi ! con tính cưới vợ dì à!

- Chà ! con nào tốt phước được con chấm vậy Lâm? Việt Nam hay Mỹ vậy con?

- Gia đình bên vợ con gốc gác Cần Thơ, nhưng con vợ của con nói tiếng Việt không rành dì à!

- Ở xứ người mà con! cầu cho được người Việt mình là quí lắm rồi!

- Dì à! Con mồ côi cha mẹ, giờ chỉ còn mỗi mình dì, nên con ước muốn được dì đứng ra làm chủ hôn cưới vợ cho con!

- Đó là chuyện dĩ nhiên rồi! Bây giờ, con muốn dì đi Cần Thơ chánh thức thưa chuyện với người lớn phải không? Con cứ cho biết ngày giờ và địa chỉ, dì sẽ tìm đến lo lắng chu toàn cho con.

- Cả gia đình bên vợ con đều ở Hoa Kỳ dì à! Ý của con là muốn mua vé máy bay rước dì qua đây làm đám cưới! dì ráng đi một chuyến dùm con nghen dì!

Dì Ba đang hăng hái bỗng sượng ngang, dì ú ớ cất tiếng :

- Đi Hoa Kỳ hả? Chuyện khó quá há... Ơ ơ...

Dì cầm điện thoại mà nghẹn ngào. Dì không nỡ phụ lòng cháu, nhưng sang Hoa Kỳ, thế nào dì cũng “đụng mặt” đứa con trai lớn, rồi chẳng biết phải xử sự làm sao cho vẹn toàn đây. Sau khi rời Việt Nam vài năm, Toàn gởi tiền về nước phụng dưỡng mẹ khá chu đáo. Thuở đó, nền kinh tế trong nước èo uộc, nhờ tiền trợ cấp của Toàn, dì sống phong lưu, lại vừa nở mặt nở mày với bà con lối xóm về “thằng con trai chí hiếu” của mình. Mộït hôm, bỗng Toàn điện thoại về hậm hực vặn hỏi dì : “Con nghe nói dạo nầy má xài tiền sang lắm phải không? Má đãi đằng cả xóm, má đùm bọc chú tư, thím tám, bà hai... má còn bỏ tiền bỏ bạc ra xây nhà cửa cho con Lan nữa phải không?”. Thật ra, cậy tiền chu cấp của con nên dì Ba ăn tiêu khá phong lưu, dì cũng thương con gái nên bù đắp cho nó; dì nghĩ bên Mỹ hái tiền rất dễ nên mặc tình khai thác con dài dài, dì hối thúc con gởi tiền, đôi khi dì còn than thở bệnh hoạn để có thêm tiền trợ cấp đột xuất, và lần nào Toàn cũng nhanh nhẹn đáp ứng. Dì không ngờ lần nầy Toàn lại vặn hỏi dì như thế, nên dì sửng sờ khá lâu rồi mới nhỏ giọng gượng gạo giải thích : “Má đâu có ăn xài phí phạm gì đâu, má chỉ giúp vài thân nhân bè bạn, những người mà ngày xưa đã từng tương trợ gia đình mình trong những lúc ngặt nghèo. Ừa thì má có ra tiền sửa cái nhà mà má ở chung trong đó, chớ đâu phải xây nhà riêng cho vợ chồng con Lan ở đâu con! Má biết con làm ra đồng tiền cũng cực khổ nên má đắn đo chi dụng lắm mà, nhưng sống trên đời nầy đôi khi thì mình cũng phải biết phải quấy, giữ vẹn tình nghĩa với bà con lối xóm con à!”. Toàn hậm hực : “Tình nghĩa là chuyện của má chớ không phải là chuyện của con. Con muốn má phải hiểu rõ rằng con chỉ có bổn phận với má thôi, má mà mang tiền ra nuôi thiên hạ, thì phải tự kiếm tiền rồi dâng nạp, chớ con không ngu dại gì cung cấp đâu!”. Dứt lời, Toàn gác máy cái rụp, không cho dì cơ hội phân bua thêm nữa. Dì Ba đau xót lặng người. Đầu óc căng thẳng, dì suy nghĩ miên man, rồi đoán có lẽ “ai đó” đã thậm thọt mách lẻo với Toàn. Suy cùng nghĩ cạn dì đoan quyết rằng kẻ nhẫn tâm hại dì chỉ có thể là cô em chồng mà thôi. Thuở mới về làm dâu, dì đã từng bị cô em chồng xéo xắt nầy hành hạ tả tơi, đến nỗi, đôi phen dì đã toan cắn lưỡi tự tử mong thoát khỏi cảnh nhục nhằn. Sau khi chồng dì qua đời, dì đã phải vất vả ngược xuôi kiếm sống nuôi con ăn học thì cô em chồng khá giả chẳng thèm ngó ngàng gì đến đám cháu, vậy mà, khi Toàn vinh quang nơi xứ người, thì cô cháu lại xum xoe thân mật nhau, khiến dì nghe thấy mà... “gai con mắt”, thế nhưng nếu dì ngăn cản con liên lạc với bên nội thì có vẻ hẹp hòi quá, nên dì đành bấm bụng làm ngợ Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, dì muốn yên mà người ta đâu để dì yên. Dì không ngăn cản con quà cáp cho “họ”, chẳng những “họ” không cám ơn dì, mà còn giở trò đâm thọc độc hại như thế nầy. “Đúng là thứ oan gia nghiệp chướng suốt đời đeo đẳng phá hại mình mà!”, dì than thầm. Càng suy nghĩ, dì càng nhớ đến những trận đụng độ ngày xưa, mà dì luôn luôn là kẻ chiến bại gánh chịu nhục nhã dài dài. Từng âm mưu thâm độc, từng cử chỉ thô bỉ, từng lời nói đay nghiến... của cô em chồng cứ thế mà hiện ra khiêu khích dì, khiến dì tức tối điên cuồng mà không thể trút bầu tâm sự cho ai nghe được. Trăm chuyện chỉ vì thằng con trai háo danh, quá ngu được cô dỗ ngọt nịnh nọt tâng bốc đưa lên mây rồi mặc tình to nhỏ đâm thọc, khiến Toàn nổi giận nặng lời với người mang nặng đẻ đau trọn đời đã tận tụy hi sinh cho mình. Càng suy nghĩ dì càng khổ đau ray rứt, rồi bao nhiêu căm hờn dì đem trút ra đầu ngòi bút. Dì hậm hực viết thơ cho Toàn, lời lẽ khá chua cay và tuy không hẳn từ con nhưng dì khẳng định rằng tự hậu dì không cần con chu cấp tiền bạc hay liên lạc săn sóc gì nữa. Mấy ngày sau, cơn giận nguôi ngoai, dì Ba mới nhận thấy phản ứng mình quá đáng, nhưng thơ đã gởi rồi, đâu còn phương cách gì cứu vãn được. Dù sau, dì Ba tin tưởng Toàn đọc thơ mẹ thì sẽ nghĩ lại mà xin lỗi dì, rồi tình mẹ con sẽ đậm đà như xưa. Ngờ đâu, Toàn chẳng thèm trả lời, và kể từ đó, chấm dứt mọi liên hệ với mẹ, không thơ từ, thăm hỏi một tiếng. Dì ba muốn nối lại tình mẹ con, nhưng bao lần ngần ngừ biên thư, cuối cùng dì đều xé bỏ : mẹ mà phải năn nỉ, cầu cạnh con thì nhục quá! Từ đó, dì Ba đành chấp nhận mất một đứa con yêu. Chuyện đau lòng nầy dì dấu biệt. Dì vẫn ca ngợi với mọi người rằng Toàn là đứa con hiếu thảo đùm bọc me... Dì Ba nhớ chuyện cũ, trầm ngâm chẳng biết phải giải thích sao cho Lâm hiểu, nên cứ im lặng chẳng lên tiếng khiến người cháu sốt ruột hỏi “nhặng” lên :

- Dì ba ơi ! dì còn ở đầu giây không? Dì tính sao dì? Dì đi Mỹ một chuyến nghen dì!

- Dì rất muốn lo cho con, nhưng,... Ơ ơ, đi Hoa Kỳ đâu phải dễ a con... Nghe nói hồ sơ xuất ngoại khó khăn lắm, mà dì thì không biết một tiếng Aêng-lê, thì làm sao dám đi đứng một mình cho được!

- Con hỏi thăm rồi! bây giờ chánh quyền Việt Nam lẫn Hoa Kỳ giải quyết hồ sơ xuất ngoại cho người lớn tuổi rất nhanh chóng, dì yên tâm vụ đó đi...

- Ơ !..

- Con năn nỉ dì mà ! anh Toàn than nhớ dì lắm, chờ đợi để gặp lại dì chuyến nầy đó! Anh Toàn ơi, xin anh năn nỉ dì giúp tôi đi anh !

Toàn cầm điện thoại bắt song song bên kia đầu giây lên tiếng :

- Con đây má! Con đã bàn với thằng Lâm rồi. Má sẵn qua Mỹ lo đám cưới cho thằng Lâm, gặp mặt tụi con luôn, và cũng cho thằng cháu đích tôn biết bà nội chớ! Má ráng chạy giấy tờ qua sớm cho kịp sanh nhựt thằng Bob luôn thể nhé!

Bất ngờ nghe giọng nói của con, dì mừng mừng tủi tủi ứa nước mắt. Tuy dì tự ái lớn “thà chết không nhận tiền con” nhưng lòng thương nhớ con vẫn tha thiết khôn nguôi, vừa nghe lời nói ôn hòa của con, bao nhiêu giận hờn tức thì tan biến. Giá dù mà có thể chắp cánh bay được, có lẽ, dì Ba cũng bay một mạch qua bên kia bờ đại dương trong chớp mắt để ngắm nhìn đứa con yêu cho thỏa dạ, nên dì vội vã đáp :

- Ừa ! má sẽ lo hồ sơ xuất ngoại ngay! Con yên tâm!

- Cám ơn dì ba ! cám ơn dì ba !, tiếng Lâm ở bên kia đầu giây mừng rỡ reo vang.

Toàn lại lên tiếng :

- Nhân lễ sanh nhựt thằng Bốp, con cũng tính mua vé máy bay cho cô Út qua Mỹ chơi luôn thể, má nghĩ sao?

Dì Ba choáng váng bủn rủn tay chân. Toàn dư sức biết mẹ và cô em chồng nầy tối kỵ nhau, nhưng cớ sao nó lại bày ra chuyện trớ trêu nầy. Không lẽ Toàn thù oán mẹ đến nỗi muốn làm khổ mẹ dài dài suốt cuộc hành trình, để rồi sẽ tìm cơ hội để hạ nhục mẹ trước mặt cô cho bỏ ghét sao? Dì Ba mà biết Toàn sắp xếp cho cô em chồng cùng đi thì “dẫu cho vàng” cũng từ chối, thế nhưng giờ đây, dì đã lỡ hứa, Lâm mừng vui như mở hội thì dì đâu còn cách nào để thoái thác được. Dì đành trả lời buông xụi :

- Ưøa ! thì tiền của con, con làm sao con làm, chớ má đâu có ý kiến gì !

Cũng may là cô em chồng tuổi chưa đủ sáu mươi nên hồ sơ xuất ngoại bị trở ngại, dì Ba thoải mái ra đi một mình, nhưng niềm háo hức mong gặp lại đứa con yêu không còn nữa. Dì phân vân không biết Toàn sẽ đối xử với mình như thế nào đây?


Sau một ngày dài bó gối, ngồi co ro cúm cẳng, lại phải lăng xăng quýnh quáng lo sợ điếng người trong hai lần đổi chuyến bay tại Đài Bắc và Los Angeles, khi máy bay đáp xuống phi trường Chicago thì dì Ba đã mệt đuối. Dì lê lết từng bước nối đuôi theo đám hành khách bước vào cổng đến, mà chân hầu như muốn khuỵu xuống . Dì dớn dác nhìn quanh, lo lắng phập phòng. “Sao không thấy đứa nào đón rước vầy kìa?”, dì run run tự hỏi. Đang hú hồn hú vía, chợt dì Ba thoáng thấy dáng ai như là Lâm chen chúc trong đám đông đang vẫy tay loạn xạ kêu dì, nước mắt tràn ra ràn rụa, dì mừng rỡ gọi cháu nhưng âm thanh bỗng tắt mất để biến thành tiếng nấc nghẹn ngào, mừng mừng tủi tủi. Dì Ba nhanh chân bước tới ôm chầm lấy cháu, cất tiếng :

- Chèn đất ơi! Trông con lạ quắc hà! Con giống dượng năm như hai giọt nước vậy đó! Uả !...

Dì đang tươi cười bỗng chùn hẳn lại. Dì không thấy Toàn đón mình nên buồn hiu, muốn hỏi cho ra lẽ, nhưng khựng lại vì chẳng muốn bộc lộ nỗi niềm riêng. Có lẽ Lâm đoán được phần nào tâm sự của dì, nên vội vã giải thích :

- Dì à! Anh Toàn bận họp hàng tuần với nhóm thị trường chứng khóan của ảnh. Aûnh là lãnh tụ của nhóm nên không thể vắng mặt được. Ảnh căn dặn con rước dì rồi đưa về “lâu đài” của ảnh ngay, kẻo ảnh sốt ruột lắm!

Lời giải thích trên chỉ làm cho niềm đau thầm kín của dì lắng đọng sâu hơn. Dì nghĩ : “Bận rộn đến thế nào dì không biết, nhưng dì biết chắc con mình không chút nhớ nhung mẹ, nên chẳng hề nôn nóng gặp mặt người mẹ già sau gần 20 năm trời xa cách! Oâi! sao con tệ với má quá vậy con!”

Dì Ba lủi thủi theo cháu. Trên đoạn đường thâm thẩm từ phi trường về nhà, Lâm huyên thuyên kể chuyện. Chàng tận tình giới thiệu từng đường phố, từng cao ốc, từng địa điểm lịch sử cho dì, nhưng bà dì chỉ biết gượng gạo gật gù cho qua, vì bao nhiêu tình ý của dì đều lảng vảng xoay quanh bóng dáng chập chờn của đứa con yêu, với nỗi hờn giận giăng giăng. Xe dừng lại tại một ngôi nhà khang trang. Lâm lên tiếng “Tới nơi rồi! nhà to quá phải không dì?”. Lâm xuống xe, nhanh nhẹn bấm chuông. Toàn hiện ra trước cửa, lịch lãm sanh trọng, hân hoan cất tiếng : “Má! má tới nơi rồi!”. Bao nhiêu giậïn hờn vụt tan biến, dì Ba dang hai tay ôm đứa con cưng, nước mắt nước mũi tèm lem, mếu máo :

- Cám ơn Trời Phật! cuối cùng rồi má cũng gặp mặt con! Má nhớ con lắm con biết không?

Bà ngừng lại ngắùm nghía con hồi lâu cho đã thèm, rồi mới ngọt ngào mắng yêu :

- Chèn ơi! Hồi con ra đi, con còn nhỏ xíu, ốm nhom hà! Giờ thì con cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai hẳn ra vậy đó !

- Hì! hì! Con muốn nhỏ xíu hoài đùể mặc tình nhõng nhẽo đòi má bồng ẫm như ngày xưa, mà chẳng được đây chớ!

Hai mẹ con cười vang sung sướng. Dì Ba không ngờ nguồn hạnh phúc mà mình chờ đợi bao năm đã đến với mình dễ dàng và tràn trề như thế. Dì rộn rã bước theo con vào nhà. Toàn giới thiệu Mary và Bob, vợ con của chàng với mẹ. Dì Ba cũng tay bắt mặt mừng, nhưng vì tiếng nói không thông, nên buổi đầu kết thân với dâu và cháu nội có phần lợn cợn. Sau đó, Toàn lại hân hoan đưa mẹ đi một vòng “chiêm báí ngôi biệt thự đồ sộ đầy đủ tiện nghi tối tân và sang trọng, cùng cái nhà xe vĩ đại “ngự” hai chiếc xe hơi láng cóng, rồi đưa mẹ đến căn phòng dành cho bà tạm trú, có bình hoa tươi trang nhã đón chào. Dì Ba rộn ràng niềm vui vô cùng vô tận. Dì sung sướng, dì hãnh diện vì Toàn.

Theo chương trình vạch sẵn, tối hôm đó Toàn tổ chức đại tiệc mừng mẹ tại một nhà hàng lộng lẫy nằm trên một tòa nhà chọc trời, từ trên đó khách có thể quan sát được cả thành phố Chicago rực rỡ ánh đèn màu. Thực khách, ngoài gia đình Toàn, còn có Lâm và nhóm đàn em thị trường chứng khoán trên 25 người được mời tham dựï để chia xẻ niềm vui đoàn tụ to lớn của mẹ con chàng. Lâm ngồi cạnh dì Ba, thông dịch những lời trao đổi tán tụng của chủ khách cho dì nghe, khiến dì càng nghe càng hỉ hả trong lòng. Tiệc tàn, Toàn hấp tấp đưa mẹ về nhà, đưa bà đến tận phòng ngủ, chúc bà ngủ ngon, rồi lui ra. Dì Ba bịn rịn, muốn níu con lại để mẹ con tâm tình hả hê, nhưng nghĩ kỹ thấy giờ khắc đã trễ, dì lại quá mệt nhọc, nên đành chịu chia taỵ Dìø nhất quyết sẽ tìm được những giây phút riêng tư đậm đà với con vào ngày mai. Sáng hôm sau, dì Ba thức sớm trông ngóng con. Chờ hoài, chờ mãi đến hơn 8 giờ, dì mới mừng rỡ thấy Toàn áo quần tươm tất, từ buồng ngủ bước ra. Toàn hấp tấp hướng dẫn dì đến tủ lạnh chỉ chỏ thức ăn buổi sáng và trưa, rồi ra đi ngay, không dành một khoảng trống nào cho dì han hỏi dông dài chi cả. Dâu cháu cũng lần lượt ra đi, bỏ lại dì Ba một mình một bóng, suốt ngày thơ thẩn buồn tênh trong ngôi biệt thự mênh mông xa lạ, và chỉ biết đếm từng giây từng phút trông ngóng thằng con trai đi làm trở về. Toàn về nhà, thì đã có vợ con tíu tít. Rồi Lâm cũng tựu đến. Cả nhà rần rộ đưa nhau đi ăn cơm chiều tưng bừng náo nhiệt, nhưng cuối cùng, thì dì Ba cũng thui thủi giam hãm một mình trong căn phòng lạnh lẽo, đứa con trai ở phòng bên cạnh mà dì cảm giác như mẹ con dì cách biệt nghìn trùng. Ở Việt Nam thì mẹ con, bà cháu xúm xít bên nhau, chớ đâu có cái cảnh ai ở phòng nấy như thế nầy. Ôi, tuy cùng sống chung một nhà mà dì Ba tìm hoài hoài cái cơ hội riêng tư thuận tiện để tự do bày tỏ tình mẹ con thắm thiết đậm đà ngày xưa mà coi bộ khó khăn quá. Sau mấy ngày băn khoăn tìm hiểu, cuối cùng dì Ba đành phải đau lòng chấp nhận sự thật, sự thật mà dì đã cố tình chối bỏ, chớ đúng ra thì dì cũng đã mường tượng ra điều nầy ngay giây phút đầu tiên gặp con rồi : Toàn vẫn còn giận dì. Trước mặt mọi người Toàn đóng kịch là đứa con có hiếu, vồn vã đón tiếp mẹ, tiệc tùng tưng bừng, ăn xài phong lưu... nhưng tất cả chỉ toàn là hình thức mà chẳng chút thâm tình. Dì đi đường xa mệt nhọc, Lâm lộ vẻ xót xa, còn Toàn thì tuyệt đối không, không một chút lưu tâm nhỏ đến sức khỏe, đến nếp sống của mẹ trong nước. Toàn cũng chẳng màng han hỏi gia đình cô em gái cùng đám bà con họ hàng bên ngoại. Ngược lại, Toàn thường đề cập đến họ nội, và cứ nhắc nhở mãi - có lẽ nhằm trêu tức mẹ - về những số tiền mà Toàn đã vung vãi gởi về chu cấp cho cô út. Tánh tình Toàn xưa nay vẫn thế. Thuở nhỏ, Toàn thương em vô cùng, nhưng đứa em phải tuyệt đối vâng lời, chớ còn dám trả treo chống đối, thì Toàn sẽ làm đủ mọi phương cách để hành hạ tơi bời, cho đến khi nào đứa em phục tùng mới thôi. Bây giờ Toàn đã có danh vọng bạc tiền, có đám đàn em tâng bốc, nên có lẽ Toàn càng sắt đá áp dụng chủ trương nầy. Và do đó, dù là mẹ, có lẽ dì cũng phải tuyệt đối phục tùng Toàn thì mới mong được đứa con đoái hoài. Dì chép miệng thở dài, rưng rưng hai giòng nước mắt, rồi lẩm bẩm một mình : “Má vẫn là má. Má làm sao có thể nịnh bợ tâng bốc con để cầu xin quyền lợi như người ta được! Con cũng biết má quá mà. Tự ái má lớn lắm, đời má chỉ có hai lần mà má phải chịu nhục nhã quy lụy người ta mà thôi. Lần đầu, là cái lần mà con cặp bè cặp đảng mang dao vô trường bị đuổi học, vì tương lai con, má phải lạy lục ông Tổng giám thị, xin cho con học lại. Và lần thứ hai, là lần con vượt biên, má không đủ tiền chung nên phải khóc lóc van nài chủ tàu châm chế. Không lẽ, giờ nầy má lại phải van xin con chút tình thương sao Toàn?”. Chiều hôm đó, dì Ba viện dẫn rằng đám cưới đã gần kề, dì có nhiều chuyện cần phải bàn bạc chi tiết trước với Lâm, nên nhất quyết đòi đến nhà Lâm ở đôi ngày. Nơi Lâm cư ngụ là một chung cư, và tuy cũng đầy đủ tiện nghi, nhưng so với ngôi biệt thự của Toàn thì là cả một trời một vực. Lâm nhường cho dì cái phòng duy nhất và nằm ngủ trên cái ghế dài. Thấy hoàn cảnh cơ cực của cháu, dì Ba ái ngại hỏi :

- Con cũng là kỹ sư như Toàn, tiền bạc chắc con cũng không thiếu. Sao con không mua cái nhà cho rộng rãi?

- Lương hướng thì con với ảnh không khác, nhưng anh Toàn tài ba lắm dì ạ! Anh nghiên cứu thị trường chứng khoán, tiên đoán giá cả lên xuống chắc như bắp, vì vậy nên đám bạn bè chạy theo ảnh mới tôn ảnh là thủ lãnh đại ca chớ. Mấy năm nay ảnh thành công lớn về chứng khoán nên đã kiếm được bạc triệu rồi! Thật ra, thì con cũng có dư chút đỉnh tiền, nếu mua ngay cái nhà nhỏ nhỏ cũng được, nhưng mà con thích ở chung cư để nhớ lại cái thời mới qua Mỹ dì ạ. Thuở ấy tụi con nghèo lắm, chung cư như thế nầy mà chứa đến bốn năm đứa. Cả đám vừa làm vừa học, đầu tắt mặt tối, mặc không đủ ấm, ăn không đủ no, thèm khát một ly cà phê, một lon nước ngọt cũng không dám uống... thiếu thốn như vậy đó, mà anh Toàn vẫn có thể ke re cắc rắc chắt mót từng đồng từng xu, gởi tiền về Việt Nam, cái đó mới đáng phục chớ!

Dì Ba nghe Lâm kể chuyện mà rúng động tâm cang. Dì thật không ngờ, thời đó muốn gởi tiền về cho dì, Toàn đã phải chịu khổ sở nhường ấy. Thảo nào, khi nghe dì phung phí tiền bạc bừa bãi, Toàn đã có phản ứng khá thô bạo khiến mẹ con giận nhau. Giờ đây, thì dì mới hiểu ra và thông cảm được nỗi hằn học của con ngày trước. Dì cháu chuyện trò vui vẻ, chung cư nhỏ bé thân mật đầm ấm, dì Ba cảm thấy khung cảnh sống ở đây thoải mái hơn những ngày lưu trú tại nhà Toàn nhiều lắm. Lâm đi làm, dì Ba tự nhiên như nhà của mình, dì quét dọn sạch trơn, dì nấu cơm nấu nước chẳng úy kị gì cả. Lâm lại chu đáo mang về mấy băng video phim truyện và nhạc tiếng Việt nên dì cũng có thể xem lai rai cho đỡ buồn. Trước ngày đám cưới dì Ba cẩn thận viếng thăm nhà gái, bàn bạc vài chi tiết cho ngày cưới, nhờ vậy, nghi lễ tổ chức ngắn gọn mà vẫn đầy đủ, xuôi gia tương đắc đậm đà tình thâm, và không khí bữa tiệc cũng vui vẻ rộn ràng. Sau tiệc cưới, phải nhường chỗ cho vợ chồng trẻ hợp cẩn, dì Ba đành “di tản” về nhà con một đêm. Dù đây là đêm cuối cùng của dì tại Mỹ Quốc, mà Toàn vẫn tiếp tục lạnh nhạt như thường lệ. Đêm đó, dì Ba trằn trọc ngủ không yên, dì nghe Lâm kể hoàn cảnh của con ngày mới tới Hoa Kỳ mà thương đứt ruột, nên muốn dẹp tự ái hòa giải với con. Thế nhưng, dì cứ ngại con mình hiểu lầm rằng mình đã hòa giải không do tình thương mà chỉ vì muốn được trợ cấp tiền, nên dì cứ đắn đo mãi, viết rồi lại xé hàng mươi lần mới tạm vừa ý. Dì viết :

“Toàn con,

“Từ bao giờ, hai con vẫn là niềm hi vọng, nguồn vui vô tận của má. Trong nước, má gần gũi với vợ chồng con Lan, thấy chúng nó sung túc, an vui nên má cũng yên tâm phần nào. Lúc đó, má không hiểu đời sống của con ra sao, nên trong lòng vẫn còn chút băn khoăn. Giờ đây, má đích thân thấy được sự thành công của con tại xứ người, má yên tâm lắm, có thể nói niềm vui của má tăng lên gấp bội.

“Đời má bao phen thăng trầm, nhưng khi về già mà được như vầy là phước đức lắm rồi. Con cái thành người, tuổi má đã ngoài 65 kể ra cũng thọ, má còn đòi hỏi gì nữa chứ? Bây giờ, nếu má phải giả từ cuộc đời theo ông bà cha mẹ, má tin rằng mình sẽ thanh thản ra đi không chút bận lòng.

“Má chỉ mơ ước một điều, là một ngày nào đó má sẽ đón nhận được hai tiếng “má ơi !” ngọt ngào thân thương từ thằng Toàn ngày xưa, hi vọng nhờ đó mà cái âm thanh kênh kiệu lạnh nhạt của ông Toàn kỹ sư triệu phú - đang đeo đuổi châm chích đôi tai của má, khiến má tan nát cả cõi lòng - có thể bôi xóa đi được.

“Má thương của con.”

Dì Ba xếp thơ để lại trên bàn, tin tưởng có ngày con mình sẽ đọc, sẽ cảm động và mình sẽ đón nhận lại tình mẹ con thiêng liêng ngày trước. Theo đúng chương trình đã đề ra, sáng hôm đó, vợ chồng Lâm đến đón dì Ba ra phi trường, cùng đi với dì đến Los Angeles. Lâm chu đáo đưa dì vào cửa ra sân bay quốc ngoại, chờ chuyến bay của dì cất cánh, mới tiếp tục lên đường đi hưởng tuần trăng mật tại vùng biển San Diegọ Dì Ba an tâm về nước với nỗi buồn vui lẫn lộn. Dì sung sướng trở về quê hương, với xóm làng, với thân tộc, để được tung tăng nói tiếng Việt, hồn nhiên suy tư và sống hài hòa trong môi trường và tâm tình quen thuộc của mình. Chuyện gì của nước Mỹ dì sẽ bỏ lại bên Mỹ. Tuy quyết định như vậy, nhưng nỗi hận sầu vẫn đeo đuổi dì, ngày ngày dì thấp thỏm chờ đợi tiếng điện thoại reo, mơ mộng nghe giọng nói thân thương của con mình vọng lại, nhưng tiếng điện thoại đó dì chờ mỏi mòn, mà nó vẫn lặng im... Dì Ba chôn kín niềm đau chẳng thổ lộ cùng ai, nhưng càng chôn kín thì nó càng ray rứt hoành hành dữ dội. Dì ngã bệnh liên miên, đôi khi trở bịnh trầm trọng tưởng chừng như nguy ngập, thế nhưng bác sĩ thử nghiệm đủ mọi cách vẫn không truy ra bệnh lý. Cuối cùng, dì bỗng sực nhớ đến chùa Thập Phương, ngôi chùa đã từng chở che an ủi dì trong suốt quãng đời u tối ngày xưa. Đi chùa, tụng kinh lễ Phật giúp dì vơi nhẹ đôi phần u uất. Dì lại có dịp thổ lộ nỗi niềm tâm sự cùng thầy, nghe thầy khuyên giải nên lần lần cũng thấm hương vị đạo. Dì bỗng khám phá ra rằng liên hệ giữa vợ chồng con cái chẳng qua là liên hệ của nghiệp báo. Do việc tạo tác : ân, oán, nợ nần... với nhau, mà nghiệp lực mới lôi kéo quây quần bên nhau để mà vay trả, trả vaỵ Dì nghiệm rõ rằng dì đã hết sức lo lắng cho con, trả nợ cho nó thật đầy đủ. Nợ nần thanh toán sòng phẳng, chủ nợ bỏ đi không đòi hỏi gì nữa, cớ sao mình lại cứ vùng vằng theo đuổi mặt giận mặt hờn đòi trả thêm nợ, để rồi chỉ gây thêm nghiệp chướng chớ nào có lợi chi đâu? Nhờ nghĩ như vậy, mà nỗi hận sầu tan biến lần, và càng ngày dì càng cảm thấy vững chải thảnh thơi trong sự chở che của Tam Bảo, nên thường quanh quẩn trong chùa lấy việc chấp tác công quả làm nguồn vui.


Tình hình kinh tế tại Hoa Kỳ đang trong thời kỳ cực thịnh, bỗng bắt đầu xuất hiện vài dấu hiệu suy yếu. Giới kinh doanh chứng khoán rất bén nhạy, họ rình rập từng biến động nhỏ của nền kinh tế, nghiên cứu cặn kẽ từng ngành, từng công ty... để bán ra mua vào, vì vậy mà giá cả chứng khoán tùy theo luật cung cầu trồi sụt bất thường, thay đổi từng giây từng phút. Sau khi đánh hơi được sự đình trệ, Toàn và đồng bạn nhanh tay thanh toán phần lớn chứng khoán, và như vậy, tuy họ phải chấp nhận thua lỗ phần nhỏ theo đà đi xuống chung của thị trường chứng khoán nhưng họ đã bảo toàn được phần lớn vốn liếng. Tuy nhiên, những kẻ có máu kinh doanh như chàng thì đâu ai chịu ngồi yên nhìn đồng tiền của mình ù lỳ không sanh lợi. Toàn cảm thấy có sự thôi thúc phải “tái xuất giang hồ” nên ngày đêm quan sát, nghiên cứu thị trường thật kỹ, rình rập cơ hội lý tưởng để tung tiền ra làm một mẻ lớn thu về bạc triệu mới hài lòng. Vài kinh tế gia nhận định rằng do tình trạng bầu cử Tổng Thống bị kéo dài, đường hướng kinh tế không có người chỉ đạo nên tình trạng đình trệ mới tạm thời xảy ra; nay tranh chấp bầu cử sắp kết thúc, quỷ tiền tệ liên bang lại rục rịch giảm lãi xuất, nên chắc chắn nền kinh tế sẽ có triển vọng khởi sắc trở lại. Tán đồng quan điểm lạc quan nầy, Toàn liền chọn xí nghiệp điện toán Habaco để đầu tự Habaco có lực lượng tài chánh hùng hậu, thị trường quốc tế bao la, sản phẩm đa dạng.., mà trị giá cổ phần hiện tại đã bị trụt từ sáu mươi đồng chỉ còn tròm trèm có bốn mươi đồng, theo chàng thì đây là mức chót không còn cách chi để giảm được nữa. Do đó, Toàn quyết định tung hết tiền dự trữ thu mua loại cổ phiếu nầy. Toàn có lối đầu tư táo bạo là chỉ trả một phần ba trị giá cổ phần, nên có thể thu mua được gấp ba lần số vốn, nhờ vậy nhịp độ lời tăng gấp ba, và nếu lỗ thì cũng nhanh chóng tương tự. Chỉ vài ngày sau giá cổ phần tăng lên năm đồng, nếu muốn ăn non bán ra ngay thì Toàn đã nhấp nháp được vài trăm ngàn rồi, nhưng Toàn dự trù chờ mức lời tăng gấp đôi thì bán cũng không muộn. Không ngờ chỉ hai ngày sau trị giá cổ phần bỗng tuột dốc xuống đến sáu đồng. Toàn chỉ lỗ chút đỉnh nếu bán “chạy làng”, nhưng chàng cương quyết giữ nguyên trạng vì tin tưởng giá cả sẽ phục hồi trong thời gian ngắn. Thế nhưng trái với dự đoán của chàng, thị trường chứng khoán nói chung xuống dần, xuống nhanh một cách thê thảm, đến nỗi cứ vài ngày thì Toàn phải vận dụng thêm tài chánh để bù đắp phần thua lỗ. Toàn đã lần lượt vét hết tiền trong sổ tiết kiệm, trong các thẻ tín dụng, rồi đến quỷ dự trữ học phí cho con, để bù lỗ mà vẫn chưa đủ, chàng bèn nghĩ đến tư trang và tiền riêng của vợ, nhưng năn nỉ thế nào con Mary cũng chẳng xiêu lòng. Khi trị giá cổ phần công ty Habaco xuống còn mười Mỹ kim, Toàn không “đào” đâu ra tiền mặt bù lỗ nữa nên đành để cho công ty môi giới đầu tư đem cổ phiếu của chàng ra thanh toán trừ nợ. Thế là chỉ trong vòng bốn tháng, từ một nhà triệu phú Toàn đã trở thành kẻ trắng taỵ Đau đớn một điều, là chỉ ngay ngày hôm sau giá cổ phần đã tăng lên liên tiếp và tạm ổn định ở mức mười bảy, mười tám Mỹ kim. Do đó, nếu Mary chịu mở hồ bao cứu nguy chồng kịp thờiù thì toàn bộ cổ phiếu đã được bảo toàn, sự nghiệp của chàng đâu đến nỗi tiêu tan như thế nầy. Toàn hận vợ vô cùng, nên tuy trong lòng cố gắng giữ hòa khí mà nỗi ấm ức thỉnh thoảng cứ trào ra, thành thử tình cảm vợ chồng đã bắt đầu sứt mẻ. Đúng lúc đó thì xí nghiệp của Toàn bị lâm nguy, thợ thuyền bị sa thải hàng loạt, Toàn tưởng mình đã may mắn thoát nạn, nào ngờ chương trình cắt giảm sở phí lan dần đến nhóm chuyên viên, để rồi cuối cùng chàng cũng lâm vào cảnh mất việc. Thất nghiệp, tù túng, thiếu hoạt động, mất bạn bè, Toàn bực bội trong lòng, lúc nào cũng muốn gây sự, không khí gia đình vì vậy mà đâm ra ngột ngạt khó thở. Giận vợ, Toàn bỏ sang phòng dành cho khách ngủ, phòng nầy từ khi mẹ chàng trở về Việt Nam vẫn bỏ trống và chẳng ai có nhu cầu bước vào. Toàn bất ngờ khám phá được bức thơ mẹ để lại. Toàn đọc thơ trong sự xúc động nghẹn ngào. Mẹ chàng trọn đời thương yêu, tận tụy hi sinh cho chàng, bà viết thơ rầy la chàng tuy có hơi nghiêm khắc, nhưng bà là mẹ, bà rầy la chẳng qua vì thương yêu dạy dỗ chớ nào có ý ghét bỏ con, cớ sao ta lại có thể giận hờn mẹ, đối xử với mẹ tàn tệ như vậy kìa? Toàn muốn chụp điện thoại liên lạc với mẹ ngay, nhưng một chút hỗ thẹn bỗng len lỏi trong lòng, khiến chàng ngừng lại. Toàn nghĩ : “Lúc hưng thời thì giận hờn ghét bỏ mẹ, rồi chờ đến lúc thất thời mới biết hồi tâm thương mẹ, thì kỳ cục quá đi!”. Một hôm Toàn thấy trong mớ thơ vừa nhận, có giấy tờ của trường trung học gởi cho cha mẹ học sinh. Bấy lâu nay, bận rộn làm ăn Toàn bỏ xui việc dạy dỗ chăm sóc, theo dõi con học hành cho vợ, nay nhân lúc rảnh rang chàng bèn tò mò mở ra xem. Phong thơ gồm bản thông báo kết quả kỳ thi lục cá nguyệt của con, theo đó thì hai môn Anh Văn và toán quá kém, khiến chàng vừa lo vừa giận. Hai mẹ con vừa đưa nhau về nhà, thì Toàn liền chỉ tay vào mặt thằng con hùng hổ hét :

- Thằng đầu bò! Mầy giống ai mà ngu quá! Anh văn và toán là những môn dễ ợt mà bị điểm C là sao?

Bob sợ điếng, núp vào mẹ né tránh, không dám hó hé lời nào. Mary bực bội nhìn chồng, rồi lừng khừng cất tiếng :

- Nó ngu giống ai tao không biết, chớ chắc chắn không giống tao rồi. Tao đâu có ngu như người ta vậy?

-Mầy nói như vậy là cố ý nói tao ngu, phải không?, Toàn sừng sộ.

- Không dám a! mầy khôn lắm lắm ! Khôn quá mức cho nên mới mang hết tài sản ra mua thứ cổ phiếu mắc toi làm tiêu tan cả sự nghiệp chớ?

Toàn chịu đựng hết nỗi. Chính con vợ đã không chịu lòi tiền ra yểm trợ chàng trong phút lâm nguy nên chàng mới tiêu tan vốn liếng, vậy mà, nó còn dám lớn tiếng chửi chàng ngu thì làm sao chàng chịu đựng nỗi. Toàn giận dữ chửi thề một tiếng, bước tới “xán” cho vợ một tát tay, đoạn vội vã bỏ vào phòng đóng cửa cái rầm. Chàng biết mình đã có hành động lầm lỡ tai hại nên cố gắng im lặng mặc cho mụ vợ la hét ở bên ngoài... Tính nết của Mary chẳng hiền tí nào. Mụ chửi bới ỏm tỏi, đập phá đồ đạc lung tung, rồi dộng cửa phòng rầm rầm thách thức chồng bước ra đấu sức. Chồng nhịn nhục, cửa đóng then gài khiến mụ điên tiết hơn, mụ gọi Cảnh sát khẩn cấp 911 tố cáo vụ hành hung. Chỉ nội trong vòng hai tiếng đồng hồ thì cảnh sát đã đến nhà. Sau khi nghe lời khai thêm thắt của Mary và Bob, họ gõ cửa phòng gọi Toàn ra, còng tay chàng dẫn đi ngay, không màng nghe một lời biện bạch. Đêm trong tù dài vô tận. Đau đớn, nhục nhã, ê chề, Toàn trằn trọc thức trắng đêm, thỉnh thoảng buông tiếng thở dài não nuột, kèm theo lời lầm bầm thở than : “Thôi hết rồi. Mình đã mất hết rồi. Mất tiền, mất việc, mất luôn cả vợ cả con. Ôi ! thật không ngờ người đàn bà mà mình yêu mê say đắm, đã cùng nhau chia xẻ ngọt bùi trong mười mấy năm trời lại đang tâm hại mình như thế nầy. Ôi! còn cái thằng con duy nhứt mà mình nâng niu như trứng mỏng, chỉ vì một lời rầy la, mà đã hùa theo mẹ phản lại cha mình!”... Sáng hôm sau, Toàn được trả tự do về nhà. Chàng điên tiết nhìn con vợ hung dữ, muốn trị tội nó mà chẳng biết ra tay cách nào cho ổn. Chắc Mary cũng lo ngại nên nàng dẫn con đi mất. Đến chiều Mary về nhà, có nhân viên công lực đi kèm. Nhân viên công lực tống đạt cho Toàn án lịnh Tòa án, theo đó, viện dẫn lý do bảo vệ an ninh cho người đàn bà yếu đuối, Tòa cấm Toàn không được đến gần vợ trong vòng một dặm. Điều đó, có nghĩa là Toàn phải cuốn gói đi ngay trước sự giám sát của nhân viên công lực. Toàn chỉ kịp dồn quần áo vào va-li, xách thêm cái cặp nhỏ đựng giấy tờ, rồi ra xe lái đi. Trong khi soạn giấy tờ Toàn lén nhét khẩu súng ngắn tùy thân vào cặp, và cũng cất vào đó xâu chuỗi có tượng Quan Âm mà chàng chợt khám phá ở góc tủ. Tượng nầy mẹ Toàn đã ân cần trao cho chàng ngày vượt biên, từ ngày cướiù vợ khác đạo chàng đã bỏ bê không đeo nữa, nay vô tình gặp lại mới nhớ ra. Toàn lái xe ra đi trong hoàn cảnh vô cùng bi đát : không nhà cửa nghề nghiệp vợ con, không tiền bạc, không một người bạn tâm giao đỡ đần trong cơn hoạn nạn, còn mớ thẻ tín dụng thì chẳng còn giá trị gì nữa. Toàn phóng xe như bay, lái theo phản ứng chớ chẳng biết sẽ đi đâu, về đâu. Đầu óc chàng sôi động rối ren như một bãi chiến trường : nỗi thất vọng, thù hằn, chua xót, nhục nhã, tiếc thương... thay phiên ngự trị tâm tư chàng và ý nghĩ chết thì thường trực lảng vảng trong đầu. Bất chợt thấy một công viên cây cối um tùm ở vùng ngoại ô hiện ra trước mặt, Toàn vội quanh xe lái vào. Công viên vắng tanh. Toàn gục đầu ngồi trên băng đá, miên man suy nghĩ. Biến cố đau thương dồn dập khiến Toàn điên cuồng, thù hận căm căm, sôi sục trong đầu ý tưởng bắn giết trả thù, mà trả thù ai đây? trả thù cả xã hội loài người chăng? trả thù cái đám môi giới đầu tư chứng khoán chăng? hay chỉ riêng con vợ hỗn hào của chàng? Giết người đâu có lợi gì cho mình, vã lại, vợ chết ai sẽ lo cho con đây? Hành động nào suy cho cùng cũng không ổn cả, trừ khi mình chết thì mới mong được yên thân mà thôi. Ý nghĩ tự tử vừa lóe trong đầu thì Toàn liền mở cặp, mân mê khẩu súng, rồi chầm chậm chỉa vào màng tang bóp cò. Cò súng kẹt cứng. Toàn sực nhớ lại, kéo khóa an toàn rồi đưa súng lên bóp cò lần nữa. Cò súng vẫn kẹt không nhúc nhít. Kiểm soát lại bộ phận cò súng, Toàn bỗng chứng kiến một sự việc kỳ lạ khó tin hiển hiện trước mắt chàng : chẳng biết bằng cách nào, sợïi giây chuyền có tượng Quán Thế Âm đã chui vào bộ phận cò quấn chặt, khiến cò súng không xê dịch được. Chàng có ngờ đâu, pho tượng mà chàng không hề tin tưởng, vượt biên mang theo chỉ vì muốn chiều lòng mẹ, nhưng trong giờ phút nghiêm trọng nầy, đã hiển linh cứu mạng chàng. Toàn xúc động ngắm pho tượng, một cảm giác yên ổn kỳ diệu xâm nhập tâm tự Toàn nắm chặt tượng, khóc như mưa, khóc thay cho tiếng lòng nức nở kể lể nỗi đớn đau sầu tủi của mình. Những giọt nước mắt đã giúp Toàn vơi đi phần nào nỗi đau thương, chàng lấy lại chút bình tĩnh nên ý nghĩ tự tử không còn nữa. Chàng nghĩ mình phải sống vì mẹ, và phải quyết tâm làm cái gì cho mẹ vui để chuộc tội lỗi ngày xưa mới được. Toàn lái xe rời công viên. Chàng đang phân vân chẳng biết đi về đâu, bỗng sựïc nhớ đến Lâm, vội lái xe đến nhà người em bạn dì. Lâm mới mua ngôi nhà ba phòng khá rộng, nhưng không biết anh ta có chấp nhận cho chàng tạm trú vài ngày không? Vợ chồng Lâm tiếp đón chàng niềm nỡ. Sau khi nghe Toàn kể lể hoàn cảnh đớn đau của mình, Lâm an ủi :

- Câu chuyện của anh tuy đau buồn nhưng không có gì bi đát cả, xin anh đừng nãn lòng. Anh nhớ không? ngày xưa anh em mình qua đây không tiền bạc, không hiểu biết tiếng Anh, mà mình còn sống được. Còn bây giờ, anh có cấp bằng đại học, có xe, có trợ cấp thất nghiệp trong khi chờ xin việc, vã lại, tiền bạc anh mất nhiều nhưng đâu có hết, anh còn tiền hưu trí trong quỷ 401K mấy trăm ngàn nữa chi... Anh cứ tạm sống với tụi em một thời gian, từ từ sắp xếp lại mọi việc. Theo em, chuyện nan giải là chuyện hàn gắn đổ vỡ gia đình, chớ còn chuyện gầy dựng lại sự nghiệp như xưa, với khả năng của anh thì nào có khó khăn gì!

Thời gian gần đây, Toàn chỉ thân tình với nhóm bạn chứng khoán, đến lúc lâm nguy, họ bỏ rơi chàng như một con chó ghẻ, trái lại, người em bạn dì mà chàng lơ là thì vẫn đối xử với chàng đậm đà thắm thiết như xưa. Toàn vừa cảm thấy hỗ thẹn vừa xúc động dạt dào, ấp úng cất tiếng :

- Cám ơn Lâm ! Không có em cứu nguy thì chắc chắn anh đành chịu cảnh ngủ bờ ngủ bụi rồi! Anh làm sao có thể thuê nhà gắp trong hoàn cảnh tiền bạc eo hẹp nầy !

- Anh em trong nhà mà ơn nghĩa gì anh? Nhà em dư đến hai phòng! có anh ở chung thì vui nhà vui cửa chớ có thiệt thòi gì cho em đâu?

Từ đó, Toàn yên thân nương náo tại nhà Lâm. Lâm lo lắng cho Toàn rất chu đáo, ngoài nhu cầu ăn ở, Lâm còn bảo bọc cả những chi tiêu lặt vặt, và luôn luôn an ủi nâng đỡ tinh thần Toàn, nhờ vậy, lần lần Toàn hồi phục lại niềm tự tin và sự khôn ngoan sáng suốt ngày trước. Toàn nghĩ rằng trước khi bắt đầu xây dựng lại sự nghiệp, chàng cần ổn định mái ấm gia đình. Vì vậy, chàng liền liên lạc với vợ tìm phương hòa giải, nhưng tình cảm vợ chồng đã rạn nứt vô phương cứu chữa, nhứt là sau khi chàng biết rõ là chỉ sau một tuần chia tay thì Mary đã nhanh nhẩu cặp tay tình nhân đú đởn khắp nơi rồi. Sau nhiều phen điện thoại thương thảo, cuối cùng cả hai đồng tình ly hôn và cũng thỏa thuận phân chia tài sản, theo đó Toàn chỉ được giữ một xe, Mary giữ con và tất cả tài sản còn lại, trong đó có nhà, xe hơi, chiếc ca nô, tư trang và các chương mục đứng tên riêng. Toàn có điểm lợi là giữ nguyên được tiền trong quỷ hưu bổng 401K và không phải cấp dưỡng đồng nào vì đang là kẻ thất nghiệp chẳng có lợi tức. Mất vợ, mất con tuy đau lòng nhưng sau khi giải quyết xong chuyện gia đình Toàn nghe lòng nhẹ nhõm ra. Chàng bắt đầu lập hồ sơ xin trợ cấp thất nghiệp. Tiền trợ cấp thất nghiệp đủ cho chàng sống khuây khỏa, nên chàng dự định sẽ nghỉ ngơi một thời gian, chờ tinh thần thật ổn định rồi mới xin đi làm lại.


Từ ngày thoát chết một cách mầu nhiệm, lại hiểu được nhân tình thế thái, lòng háo hức lợi danh của Toàn suy giảm lần. Giờ đây, chàng chỉ ước mơ một nếp sống bình thường, miễn là không đến nỗi thiếu hụt, hầu có đủ thời giờ dành cho việc tu dưỡng thân tâm, tìm hiểu sâu rộng Phật Pháp và hành trạng của vị Bồ Tát mà chàng hết lòng tin tưởng. Do đó, hàng ngày chờ lúc gia chủ đi vắng chàng thường đến bàn thờ Phật có tôn trí tượng Bồ Tát Quan Âm để lễ bái, và nghiền ngẫm quyển Phổ Môn Giảng Lục của Pháp Sư Bảo Tịnh, do hòa thượng Trí Nghiêm dịch ra tiếng Việt, mà chàng vô tình tìm thấy trong tủ sách. Nhờ đọc Phổ Môn giảng lục, Toàn thâm hiểu phần nào diệu nghĩa phẩm Phổ Môn, lòng ngưỡng mộ hạnh nguyện “linh cảm tầm thanh cứu khổ cứu nạn” của Bồ Tát Quán Thế Âm ngập tràn, từ đó, Toàn bỗng tha thiết mong chiêm bái thánh địa Phổ Đà sơn để đảnh lễ Bồ Tát. Lâm cũng khuyến khích chàng, nhân lúc rảnh rang nầy, nên đi du lịch một chuyến sang Trung Quốc. Từ đây về Việt Nam, chỉ trả thêm chút đỉnh tiền, sẵn dịp nầy cũng nên về thăm lại đất nước thân yêu. Theo gợi ý nầy, Toàn lấy vé hàng không đi Thượng Hải, chàng viếng thăm Tô Châu, Hàng Châu, rồi đến Ninh Ba dùng tàu tốc hành đến Phổ Đà lưu trú tại khách sạn Tức Lai tiểu trang một tuần lễ. Toàn đến đảo Phổ Đà vào một chiều thu tuyệt đẹp : biển xanh, trời trong cao ngất, mây trắng lửng lợ Cảnh trí ở đây xinh tươi trang nhã vừa phảng phất một bầu không khí mầu nhiệm thiêng liêng, tạo cho khách hành hương cảm giác lâng lâng thanh thoát. Toàn được hướng dẫn viên lần lượt đưa đi chiêm bái các thánh tích trên đảo : tượng Quan Âm Nam Hải bằng đồng cao 33 thước, Quan Âm khiêu (vết chân Bồ Tát trên tảng đá), Quan Âm tử trúc (rừng trúc tím), Phạm Âm Hải Triều Âm động, Viện Quan Âm Bất Khẳng Khứ, các chùa Phổ Tế, Pháp Vũ và Huệ Tế. Theo người hướng dẫn thì nơi nào cũng có truyền thuyết về sự thị hiện mầu nhiệm của Bồ Tát, Bồ Tát luôn luôn thị hiện cho những kẻ có lòng thiết tha mong cầu được gặp Ngài. Ở địa điểm nào, Toàn cũng chân thành đảnh lễ Bồ Tát, thiết tha niệm danh hiệu của Ngài và thành khẩn mong được thấy Ngài thị hiện. Toàn nghĩ mình đã có đại nhân duyên từng được Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, nên tin chắc cũng sẽ có duyên để gặp Ngài thị hiện. Thế nhưng, tuy đã thành khẩn lễ bái khấn nguyện bao ngày tại động Hãi Triều Âm và rừng trúc tím mà Toàn vẫn chưa thấy dấu hiệu gì khác lạ. Dù vậy, Toàn vẫn không nãn lòng. Ngày cuối cùng, Toàn còn nấn ná đến chùa Phổ Tế, điện Viên Thông chiêm bái lần chót trước khi rời đảo. Điện Viên Thông nổi tiếng với pho tượng Quan Âm cao trên 8 thước, hùng vĩ hòa ái. Toàn thành kính chiêm ngưỡng tượng. Chàng có cảm giác là càng chiêm ngưỡng chàng càng đón nhận được lòng từ bi vô lượng của Bồ Tát ban phát cho chàng, khiến chàng xúc động nước mắt lưng tròng, pho tượng qua làn nước mắt trở thành lung linh sắc vàng rực rỡ. Toàn đi kinh hành quanh tượng, chàng tiếp tục chiêm ngưỡng “Quan Âm tam thập nhị ứng tùy hình”, tức 32 hình tướng mà Bồ Tát tùy duyên hóa hiện để cứu độ chúng sanh. Chàng nghĩ mình phải tạc dạ 32 hình tướng nầy, thì khi gặp Bồ Tát thị hiện mình mới không bỏ lở cơ hội thấy Ngài. Vừa quan sát từng hình tướng, Toàn vừa thầm khấn nguyện : “Con chưa có duyên để thấy Ngài thị hiện nơi đây, nhưng con luôn luôn tin tưởng rằng ngày nào đó Ngài sẽ thị hiện cho con thấy một lần tại chốn khác”. Bỗng nhiên, Toàn nghe nhà sư già đứng cạnh bên lẩm bẩm một mình : “Sao chỉ tạc có 32 tượng? 32 tượng thì ít quá!”. Tượng tạc theo tinh thần phẩm Phổ Môn, vậy mà nhà sư nầy dám chê bai là ít, thật là sai lầm, Toàn nghe chói tai không chịu được, bèn bực bội lên tiếng :

- Vậy theo sư thì bao nhiêu tượng mới đầy đủ?

- Hà! hà! Bồ Tát tùy tâm chúng sanh biến hiện để cứu độ, mà tâm chúng sanh thì muôn vàn sai khác, ưa thích vô lượng vô biên hình tướng, nên Bồ Tát cũng phải ứng hiện vô lượng vô biên hình tướng để cứu đô...

Toàn nghe câu nói của lão tăng mà rúng động cả châu thân, liền cung kính thưa hỏi :

- Thưa thầy ! như lời thầy dạy thì Bồ Tát Quan Thế Âm thị hiện dưới muôn ngàn hình tướng khác biệt chớ không phải chỉ hạn cuộc vào 32 hình tướng nầy mà thôi?

- Đúng vậy! Quan Âm thị hiện đủ mọi hình tướng và ở khắp mọi nơi nên mới có câu :

Ao nào cũng có ánh trăng

Nhà nào cũng có Quan Âm hiện tiền.



Tóm lại, ai cũng đã từng đối diện với Quan Âm, nhưng có người thấy và có người không bao giờ thấy?

- Thưa thầy! mình phải tạo nhân duyên nào thì mới thấy được Ngài?

- Phải tập nhìn, tập lắng nghe cái khổ của thế gian, tập hạnh từ bi cứu khổ cứu nạn thì vô lượng vô biên ứng hóa thân của Bồ Tát sẽ thị hiện ràng ràng trước mắt.

- Thưa thầy! theo nghĩa nầy thì con cũng đã từng hội kiến với Bồ Tát Quan Âm mà con không biết, phải không thầy!

- Đúng vậy!

- Con sẽ ráng học hạnh lắng nghe, hạnh từ bi, nhưng e rằng đạo đức của con hèn kém, con sợ mình chưa đủ đạo lực để nhận biết, thầy ạ! Xin thầy gia ơn chỉ cho con biết Quan Âm mà con sẽ gặp hình dáng như thế nào? Con năn nỉ thầy mà !

- Ơ! Con sẽ gặp vị Quan Âm đó ở miền Nam nước Việt. Khi gặp Ngài, tâm con sẽ an ổn vui mừng, thầy tin con sẽ nhận ra Ngài ngay kia mà !

- Xin thầy làm ơn dạy rõ thêm chi tiết! Con sợ con sơ sót bỏ lỡ cơ hội và nhìn không ra Ngài được!

- Ơ !... đó là người đàn bà, mặc áo lam, chân tay lem luốc, không giày dép, tóc rối, mặt mày vô cùng hớn hở...



Toàn đang mừng rỡ lẩm nhẩm ghi nhận kỹ từng chi tiết nầy, chợt thấy vị sư già thoan thoát bước đi. Chàng vội vã bước theo ngay nhưng mới đó mà nhà sư đã mất dạng trong đám khách hành hương đông đảo rồi. Chừng suy nghĩ lại, nhớ từng câu đối thoại, chàng bỗng ngẩn người tự hỏi : “Chẳng biết vị sư già đã đối thoại với mình bằng thứ ngôn ngữ nào? dường như không phải tiếng Việt, tiếng Mỹ, vậy thì làm sao mình nghe hiểu được kìa? chẳng lẽ mình đã mơ trong khi đang ngắm tượng?”



Tỉnh hay mơ không cần biết, Toàn một mực tin theo vị sư già, nên đổi lộ trình về thẳng Saigon, chớ không ghé Hà Nội như đã dự định. Đến nơi, chàng nôn nóng lặn lội khắp hang cùng ngõ hẻm trong thành phố hàng hai tháng trời mà vẫn không tìm đâu ra hình bóng người đàn bà áo lam hội đủ những chi tiết cần thiết. Kẻ mặc áo lam thì đầu tóc, giày dép tươm tất còn kẻ đầu bù tóc rối, chân đất thì chẳng mặc áo lam. Điểm quan trọng khác là chàng chẳng tìm đâu ra được người có dung nhan vui tươi hớn hở và có thể tạo cho chàng niềm an lạc cả. Toàn trở lên miền Đông, rồi lần lượt xuống khắp các tỉnh miền Tây, cuối cùng, về đến Rạch Giá nhưng vị Bồ Tát mà chàng nôn nao tầm cầu vẫn biệt tăm. Thất vọng não nề, Toàn xách hành lý lửng thửng tìm đường về nhà mẹ. Thấy anh ngơ ngác đứng trước cửa, Lan không tin ở mắt mình, dụi mắt nhìn kỹ, rồi mừng rỡ rú lên :

- Anh hai ! anh về sao không báo tin trước để em đón!

- Hà ! Hà ! anh muốn cả nhà ngạc nhiên kia mà! Uả! má đi đâu vậy em?

- Mai ! thưa cậu Hai đi con. Rồi con chạy rút, báo tin với ngoại là cậu hai đã về nghen con!

Con bé thưa cậu, rồi phóng lên chiếc xe đạp đi ngaỵ Toàn lại lên tiếng :

- Má ở đâu em hãy cho anh biết. Anh muốn đi đến đó thăm má liền bây giờ!

- Má thường trực ở chùa Thập Phương á! Chùa cách nhà chỉ độ chừng năm phút, nếu anh muốn gặp gấp thì em đưa anh đi ngay.

Lan khóa cửa, đèo anh trên chiếc xe gắn máy lái đi. Vừa tới cổng chùa, Toàn đã nghe tiếng bé Mai réo bà ngoại ỏm tỏi :

- Ngoại ơi ! ngoại ! cậu Hai ở bên Mỹ về! Cậu hai về nhà rồi ngoại ơi!

Chùa đang có khóa hạ, ban trai soạn làm việc khá cực nhọc. Dì Ba đang đầu bù tóc rối hì hục rửa mớ nồi niêu trong nhà bếp, chợt nghe tiếng cháu ngoại reo vang, dì mừng quýnh, nước mắt tuôn tràn, không kịp xỏ chân vào dép, tức tốc chạy ra cổng, hớn hở ôm con :

- Con! Con thương của má!

Bà nắm tay con thật chặt, chắc sợ con mình vuột mất chăng? Toàn hiểu như vậy và xúc động toàn thân, một cảm giác an lạc kỳ lạ tràn ngập trong lòng. Chàng cất tiếng gọi : “Má!”, rồi chàng ngắm nhìn bà thật kỹ. Bà mặc chiếc áo vạt hò màu lam cũ kỹ, chân đất, tay dính lọ lem luốc, tóc rối lỏa xỏa, đang rạng rỡ nhìn con không chớp mắt. Toàn hơi sửng sốt, rồi bỗng sực hiểu, chàng ôm chầm mẹ thổn thức : “Thì ra Quan Âm Bồ Tát là má! Má chính thật là Bồ Tát Quan Âm của con, vậy mà trước kia con đui mù chẳng biết!”. Chàng thầm nghĩ : “Khi mình đã “mở mắt” thấy được một hình tướng Quan Âm, thì có lẽ mình sẽ có đủ khả năng khám phá biết bao nhiêu Quan Âm đã hiện hữu trong cõi đời nầy. Ờ nhỉ! đối với mình thì Lâm chẳng phải là một Quan Âm đã an ủi, chở che, cứu khổ, cứu nạn mình sao?
hoanghoa
Posts: 2253
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

'Cúi xuống vùng non xanh mát ...’
Nguyễn Ngọc Tư

Cạnh quán cà phê Văn Nghệ có ông trải chiếu ở vỉa hè bán đồ cổ, hay mở cái băng nhạc Trịnh Công Sơn Hát cho quê hương Việt Nam 1 thu âm năm 1969. Nghe lần đầu, thề có mấy lá bàng rơi bữa đó, tôi muốn chạy qua ôm ông đồ cổ một cái, vì ông đem những bài hát này ra con đường vốn chỉ rùng rùng nhạc vũ trường, nhạc trẻ kiểu “yêu thì nói hông yêu cũng nói”…

Giữa bụi đời mù mịt, giữa xe cộ ngược xuôi, cô Ly của bốn mươi năm trước cất tiếng hát trong veo, “Cúi xuống. Cho bóng đổ dài. Cho xót xa mặt trời. Cho da thơm trên người nay cũng phôi pha…”, nghe mát rượi lòng, nghe khoẻ dễ sợ.Nhạc “nghe khoẻ”, là chữ của thằng nhỏ ở tiệm bán băng đĩa quen. Một lần tôi ghé qua, nó khoe “em có nhạc này nghe khoẻ lắm, bảo đảm chị thích”, rồi nó đem ra mấy cái đĩa nhạc thu âm hồi năm một ngàn chín trăm mấy mươi gì đó. Gương mặt của Thái Thanh, Hà Thanh… trên bìa đĩa coi trẻ măng, trong sáng, hơi quê quê, dễ thương kinh khủng. Nghe chúng lần đầu, tôi đã nghĩ, tình cờ thằng nhỏ tặng mình quà quý.

Nhưng thằng nhỏ không tình cờ chút nào khi miêu tả cảm giác về một bài hát bằng chữ “khoẻ”, mà không phải là “hay”, là “xúc động”, là “sởn tóc gáy”. Khoẻ, vì dễ chịu, khoan khoái, thoải mái. Vút khỏi tiếng đệm guitar bập bùng, là chơi vơi tiếng hát non trong, mộc mạc, chân phương, đôi lúc vụng về, run rẩy. Ca sĩ không dùng bất cứ phương tiện nào kỹ thuật nào để nương dựa, lấp liếm hay che đậy, cứ hồn nhiên như vậy cất cao tiếng hát từ đáy lòng, thanh thoát.

Những ca sĩ ấy sau này khi đạt đến đỉnh cao của tài năng, họ rực rỡ, họ nổi tiếng, họ thu nhiều bản nhạc gần như hoàn hảo, nhưng sự giản dị năm xưa mãi mãi ở lại với… năm xưa. Tôi ngã lòng vì sự giản dị đó. Kiểu giản dị mà mười năm trước chưa chắc tôi đã thích, bỗng dưng bước chân qua tuổi ba mươi, bỗng dưng thấy… khoẻ khi đứng trước những tấm ảnh trắng đen, những bức tranh lụa, những trang viết của Thạch Lam, những minh hoạ nguệch ngoạc mấy nét chì, những bản nhạc thu âm năm xửa năm xưa, hay những bản demo trên mạng…

Ông già bạn tôi có lần nói,viết sao cho càng giảndị thì vănchương càng đẹp.Tôi cười nói,“câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu làm được”.Ông cười cười,“sai bét, cháu đã làm được rồi,mấy cái truyện đầu tay đó”.Nhưng những trang viết giảndị, ngâyngô có phần khờ khạo đó tôi càng sống càng trải đời càng rời xa chúng.Giờ màviết được vậy,coibộkhó hơn lên trời.

Ngó qua ngó lại, tôi thấy cải lương cũng vậy. Hồi trước, tôi mê cải lương, mê ngẩn ngơ những bản vọng cổ xa xưa thu trên đĩa nhựa. Nghệ sĩ giọng nào ra giọng nấy, chữ nào tròn chữ nấy, ngón đờn dù tài hoa lả lướt đến đâu vẫn giữ sự trong trẻo, hồn hậu, vẫn tôn giọng ca lên hàng đầu. Thứ vọng cổ này nếu ngồi kế cassette thưởng thức chưa đã, phải dỏng tai nghe ké bên hàng xóm, hay ngồi ngoài vườn nghe trong nhà vẳng ra, chỉ tiếng ca và tiếng ca, gió đàn qua đánh lại, mùi ác liệt. Cải lương giờ đã qua thời hoàng kim, người ta biện ra nhiều lý do, nhưng nó làm rơi mất một đứa hâm mộ như tôi chỉ vì một bữa kia Vũ Linh nắm tay Tài Linh chạy lên đồi cỏ non. Xét theo tính hợp lý, tôi chấp nhận được chuyện ca vọng cổ lúc yêu nhau, đánh nhau, bắn giết nhau, miễn là xảy ra trên sân khấu, trên sàn diễn, nhưng giữa đường tự nhiên có hai người vừa ôm khít rịt mắt nhìn đắm đuối vừa ca khơi khơi chắc tôi phải nghĩ tới bệnh tâm thần. Tô Ánh Nguyệt năm xưa đau nỗi đau xa con chỉ cần nghẹn ngào bước từng bước run lẩy bẩy, nắm tiền trong tay bay bời bời; Tô Ánh Nguyệt bây giờ vừa gào thét vừa bứt xé hàng khuy áo khoe da thịt, mệt gì đâu.

Chia sẻ ý nghĩa này với ba đứa bạn, một đứa cười “vậy mới là tìm tòi, sáng tạo”, đứa kia hỏi vặn “bộ khùng sao mà đi coi cải lương”, đứa còn lại nói “thấy ghê thiệt nhưng thời này nó… phức tạp vậy”. Ừa, đúng là thời này phức tạp thiệt, bữa trước muốn mua cái áo “nhìn thấy khoẻ”, màu sắc nhã nhặn, hoa văn đơn giản, kín đáo mà phải lục tung cả cửa hàng trong con mắt căm hờn của chị chủ. Sách, băng đĩa thì nhất thiết phải siêng năng lục lọi, lâu lâu mới rinh được một cuốn văn đẹp kiểu Thạch Lam, lâu lâu mới chộp được một vài đĩa “nhạc nghe khoẻ”, sao chép lại từ những nguyên bản của mấy chục năm trước nên chất lượng cũng được chăng hay chớ.

Có lần hỏi thằng nhỏ mấy cái đĩa nhạc cổ lỗ sĩ này bán chạy không, nó nói “người ta mua nhiều lắm, nhưng chị là trẻ nhất”. Lại hỏi tiếp, “bộ thấy tôi mệt mỏi già nua lắm sao mà nghĩ nhạc này hợp với tôi”. Thằng nhỏ cười, “tại em thấy chị không đeo vòng vàng gì hết”. Câu trả lời này làm tôi nhớ mấy giai thoại thiền, kiểu như hai ông đi bên bờ sông, một ông hỏi đại niết bàn là gì, sư trả lời, “mau”. Hỏi “mau gì”, ông sư trả lời, “xem nước”. Hiểu chết liền.

Bữa qua ngồi quán chiều vắng ngắt, ông đồ cổ lại mở cái đĩa hát cổ, cô Ly đổ giọng ca mát rượi ra hè phố, “Cúi xuống. Vùng non xanh mát. Và cao tiếng hát cho cơn ưu phiền tan…” bỗng thấy tâm hồn mỏi mệt của mình đang được sự giản dị nào đó cứu chuộc. Cảm giác gan bàn chân tôi vừa chạm vào mặt đất, hình như tôi vừa tháo giày ra bỏ bên đường.

Nhưng tuổi hai mươi gặp gì cũng hăng hái đeo mang, thấy gì cũng hớn hở vơ lấy vào mình, lỉnh kỉnh những phấn son, tô vẽ và xiêm áo, tuổi hai mươi ấy giờ nằm lại ở đâu?

'...Ví dầu Tình cũng như sương
Xin cho hoa nở lừng hương buổi đầu
Mai kia theo gió về đâu
Vẫn mong thoang thoảng chút sầu quạnh hiu.

Ví dầu thuyền vẫn còn neo
Con sông nước lớn xin liều một phen
Mai kia cuối bãi đầu ghềnh
Lời ươm giấc cũ lênh đênh cũng đành..'.
Tình ơi...

Nguyễn Ngọc Tư
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Món ăn của mẹ hồi xưa…
Những món mẹ tôi cho tôi ăn hồi nhỏ, tôi xin để trên bàn thờ, chỉ xin phép gợi lại vài món “vô tư” mà ai cũng có điều kiện nếm qua, gọi là chút quà mộc mạc, như bông bụp đầu hè, xin gửi tới bạn đọc gần xa.

Đọc báo SGTT đặt bài về những món ăn quen, lạ của Sài Gòn năm xưa, phản xạ tôi là nhận lời trước rồi băn khoăn sau. Quả thế, bình sanh tôi biết bằng lòng với cái ngon nhất định của món ăn, cho nên ăn gì cũng ngon. Hơn nữa cái ngon trong món ăn, như cái tốt trong con người, lúc nào cũng có, nhưng phải tìm mới thấy để dễ ăn, dễ chơi và nếu có thể, để khen cho đúng chỗ, làm mát dạ người nấu bởi nấu ăn cực lắm, tôi biết! Thôi thì cứ lấy bụng ở đời, ráng viết bằng tấm lòng, thì họa may có thể dễ được tha thứ.

Tôi biết Sài Gòn lần đầu tiên vào năm 1947, lúc Tây đã trở lại, khi theo má tôi từ Long Xuyên lên thăm ba tôi (đã về hưu) trốn Tây mới ra làm việc trở lại. Tôi được thấy nhà lồng chợ Bến Thành bị cháy rụi, còn đen thui, chợ hợp ở mấy chỗ chưa cháy và trên lòng các đường chung quanh, khi xuống bến xe ở ga Cuniac, bến xe buýt bây giờ. Tôi cũng được thấy hai bên đường Nancy (Nguyễn Văn Cừ), ở khúc từ đường Galliéni (Trần Hưng Đạo) đổ xuống mé sông, ruộng còn xanh um tới tận sau hè Thanh tra lao động (trước công an TP) với mấy cây rơm và đàn bò vàng óng đang phè ra nhơi cỏ, khi đi xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn.

Ba tôi ở đậu nhà thầy Hai, gần chân cầu Kiệu, phía chợ Phú Nhuận. Phần vì nhà chật chội trời nóng bức, sáu giờ chiều đã còi hụ giới nghiêm, phố xá ai nấy đều đóng cửa kín mít, phần vì hồi chiều ăn cơm không no, đêm đó tôi trằn trọc, chờ sáng dậy nói má tôi về. Hết ham Sài Gòn rồi! Nhớ nhà muốn chết.

Hết còi hụ, má tôi kêu hàng bánh. Một lát sau, một bà người Bắc mặc áo nâu, vấn khăn đen đã tróc hết nhung, tay bưng cái thúng trên đậy cái trẹt có mấy cây chả lụa xếp ngay ngắn, tươi cười duyên dáng để lộ hai hàm răng đen bóng láng, bước vào đặt thúng xuống bộ ngựa.

Tôi liền xáp vào. Bà nhẹ nhàng nhấc cái trẹt, lật tấm vải bố làm bốc lên mùi thơm nức của bánh mì thứ thiệt của Sài Gòn. Bà khoan thai lựa ổ vàng lườm, lấy dao ăn trầu cực bén xẻ ngọt một đường, rồi cắt một khoanh chả lụa, xắt làm hai, nhét vào ổ bánh mì và rắc muối tiêu từ một hũ nhỏ. Xong bà trao cho tôi với thái độ ân cần, nụ cười đôn hậu và lối mời của một bà dì hơn là bá bán hàng: “Bánh ngon lắm, ăn đi cho chóng nhớn!”.

Tôi chụp ổ bánh, chạy ra hàng ba ngồi. Chưa kịp nuốt tôi đã kêu trời: “Trời ơi, bánh mì ngon quá!”. Mùi thơm nức ban nãy đã biến thành vị cực ngon của vỏ bánh giòn rụm, ruột bánh xốp xộp khô ráo, đẩy vị ngọt đằm thắm của bột mì Pháp nguyên chất vào tận mỗi chân răng tôi. Úy cha! Còn cái chả lụa mịn màng, thơm lừng mùi thịt, tưởng chừng như có thể dựng dậy người đang hấp hối. Hồi nãy, khi cắt ra, tôi thấy ruột nó hồng hồng, có mấy cái lỗ tứa nước trong trong chắc là bổ lắm!

Cha chả! Tôi hết muốn đòi về nhà, tôi ăn trọn ổ bánh hồi nào không hay và còn thèm lắm. Tôi đâm ra yêu Sài Gòn, quên mất cái đêm trắng hôm qua. Lát sau, ba tôi dẫn má tôi đi đón xe thổ mộ ra chợ Bến Thành. Tôi liền tranh thủ ăn thêm hai ổ bánh mì chả lụa nữa của hai bà đi ngang qua, tuy không “đắm say” như ổ bánh mì “tình đầu”, nhưng cũng đáng yêu lắm! Bỗng tôi nhận thấy xéo bên kia đường, có cái xe giống xe mì, đế mấy chậu kiểng đựng đồ gì không rõ nhưng bắt mắt lắm.

Thấy tôi đứng quan sát, chú chệt còn trẻ đon đả mời: “Cái lầy, chú nhỏ “muấn” uống nước “lá” gì?”. Được mời, tôi bước sát tới để xem cho mãn nhãn. Ồ! Cũng mấy thứ như ở dưới tôi: chè đậu đỏ, bánh lọt, sương sa, hột lựu, chè nhãn nhục, hột é, lười ươi, mủ trôm… và một chậu nước gì trắng tinh như nước vôi quét vách và một tô bự đựng nước gì kẹo kẹo trong trong. Chú chệt hỏi tôi muốn ăn đậu đỏ không hay là với bánh lọt? Tôi ngạc nhiên vì ở dưới tôi ăn chè đậu là chè đậu, ăn bánh lọt là bánh lọt, không ăn chung bao giờ trừ phi là khùng. Chấp nhận phiêu lưu, tôi dõng dạc: “Với bánh lọt chớ!” và không quên kèo nài theo tật nhà quê của mình: “Chú cho thêm mỗi thứ nhiều nhiều nhen!”. Chú chệt cười lạt nhưng ra chiều thông cảm.

Màu trắng ngần và xanh cẩm thạch của bánh lọt tương phản với màu nâu đen của đậu đỏ trông rất bắt mắt.

Tôi lấy muỗng xăm xăm, trộn cho đều các thứ, rồi húp từ muỗng. Cái bùi của đậu đỏ tẩm đường được chế ngự bằng cái lạt chơn chất của bánh lọt thơm mùi tự nhiên trinh trong của gạo ngon và lá dứa, được chi viện bằng cái béo thơm của nước cốt dừa tươi, tất cả, trong cái mát lạnh sảng khoái của nước đá bào. Tôi ăn xong, còn đang chép miệng, thì chú chệt, sành tâm lý, gợi ý tôi đổi món, ăn thêm ly bánh lọt, sương sa, hột lựu. Tôi đồng ý liền.

Ba ổ bánh mì, hai ly đá bánh lọt làm bụng tôi nặng xuống, và túi tôi vơi đi đáng kể, nhưng những món quà lạ miệng này làm tôi khoai khoái, thấy mình đã hóa nhộng, sắp thành bướm Sài Gòn. Mấy hôm sau, mẹ con tôi rời Sài Gòn, sau khi được ba tôi dẫn đi ăn nhiều món “cao cấp” như mì La Cai (Nguyễn Tri Phương), cháo cá Chợ Cũ, phở Hồ Huấn Nghiệp (Mạc Thị Bưởi), cơm tây Hotel de la Gare (góc Tản Đà – Trần Hưng Đạo) mà tôi vừa ăn, vừa kêu trời, vì ngán quá, nuốt không vô, chỉ chực ói ra.

Mấy năm sau, tôi trở lên Sài Gòn học ban tú tài trường Pháp Chasseloup-Laubat (Lê Quí Đôn) và ở luôn cho tới ngày hôm nay. Mặc dù tôi ở Sài Gòn lâu hơn ở Hà Tiên, Rạch Giá, Long Xuyên cộng lại, và hiểu biết yêu mến Sài Gòn như người chính gốc, nhưng sao tôi vẫn coi mình là đứa con của đồng bằng sông Cửu Long mà tôi không hề muốn gột rửa hết chất quê mùa, coi đó là căn tính đích thực của mình. Món ăn quê hương luôn luôn thu hút tôi và ở trong hồn tôi, mặc dù tôi không bao giờ chê phô mai Camembert, rượu chát Bordeaux hay whisky “on the rock” (nước đá) nhắm với hạt dẻ, hạnh nhơn!

Vào những năm trước Điện Biên Phủ, Sài Gòn không ngớt nhởn nhơ ăn chơi, tuy không đục ngầu như thời bác Vương Hồng Sển, nhờ có cách mạng ở sát bên nhắc nhở canh chừng, nhưng cũng khá rôm rả. Tuy nhiên ai ăn thì ăn, ai chơi thì chơi. Chơi thì có sòng bạc Đại thế giới, Bình Khang, tiệm hút. Ăn thì vô thiên lủng,vì phù hợp với túi tiền của số đông dân chúng bình dân.

“Truyền thống” hơn hết là bia bốc, la ve củ kiệu, mà nổi tiếng theo hạn chế tôi biết là quán ở góc Chợ Đũi (Cách Mạng Tháng Tám – Võ Văn Tần) ngó xéo qua rạp Nam Quang. Chiếu chiều, mấy “thầy” công, tư chức đổ về đó “giao lưu” rất rôm rả, mặc dù chỉ uống vài ly trước khi về nhà ăn cơm với vợ con, không ai uống cả két, thách đố, nói xàm, mất tư cách như nhiều đám chơi trội bây giờ.

Chưa lên đại học, tôi cũng đã mon men tới đó, vì nhà gần đó. Là con nít mà bày đặt, tôi ngồi khiêm tốn ở một góc vắng.

Ông chủ đứng vặn vòi bia bốc đổ ào xuống ly, khi ông tắt thì bọt bia cũng vừa sủi tới miệng ly, không bao giờ trào. Bà chủ ngồi thâu tiền và sắp củ kiệu tôm khô sẵn trong đĩa.

Chỉ có vậy thôi mà tiếng cười vang dội đây đó không dứt, do những chuyện “Tư-trời-biển-nghe-qua-rồi-bỏ-đi-nhe-Tám” của mấy tay tổ xạo có ba tăng (môn bài) làm dấy lên như sóng vỗ. Rõ ràng, nói theo kiểu bây giờ, đây đúng là một “tụ điểm” văn hóa-bình dân-Nam bộ-Sài Gòn-Chợ Đũi của thời Tây đô hộ.

Dòm vô quán dựa gốc me phía Võ Văn Tần, là gánh của chị bán cháo lòng, tồn tại ở đó rất lâu. Sau tôi đi làm, nhà ở tận cư xá Phạm Văn Hai nhưng tôi thường đi Vespa, hay xe hơi, ghé qua đó ăn cháo lòng của chị, vì nó giống cháo lòng của thím Hai Thăng ở sát nhà tôi, trên đường vô lò heo Bà Bầu, thị xã Long Xuyên, thời tôi học tiểu học. Cứ sáng sớm, tôi co ro qua nhà thím, ngồi bên bếp lửa chờ thím múc cho tôi tô cháo lòng đặc biệt gồm những thứ đặc biệt thím chọn cho tôi như thịt đầu mềm mụp, thị ba rọi xắt nhỏ rứt như bì, tim có mỡ, có động mạch ăn sựt sựt, gan xắt không mỏng, không dày, phèo, bao tử, cuống họng, dồi, huyết đúng ba cục, bỏ hành, rắc tiêu, nặn chút chanh bằng ngón tay út, thêm chút ớt bằm, rồi thím tươi cười chìa cho tôi xem cái “hột mít” xẻ hai thím dành cho tôi ăn vô bùi ơi là bùi, tới chết chưa quên. Ấy vậy mà thím chỉ tính cho tôi có năm xu, thay vì một cắt mà ít thịt hơn, như thím bán cho người ta. Tôi ăn xong, thím mới gánh ra chợ Long Xuyên bán.

Bia bốc ế, rồi dẹp tiệm, cháo lòng vẫn còn. Tôi vẫn kết với nó. Đến đỗi mỗi lần đi hội nghị ra nước ngoài, tôi cứ nhớ nhà, chỉ mong cho mau rồi để “về tắm ao ta”. Vừa bước xuống sân bay, tôi để mặc cho anh em ra đón tôi, đưa hành lý về nhà tôi. Tôi cởi cà vạt, áo ngoài, lái xe xuống Chợ Đũi, làm một tô cháo lòng bự xộn, cho trút cơn nhớ nhà. Xong tôi đứng dậy cười với chị, chị cười với tôi. Nghi thức vẫn thế, cho tới khi con gái sồn sồn của chị nối nghiệp, chị không biết tôi từ đâu đến, tôi không biết chị tên gì. Ấy vậy mà “mối tình cháo lòng” của tôi, như mối tình Quốc văn giáo khoa thư của Sơn Nam, kéo dài cả chục năm.

Cách gánh cháo lòng chừng vài trăm thước, nhưng ở đường Nguyễn Đình Chiểu, là quán Sing Sing, một thời gian khá dài là “ngai vàng” của bánh canh cua, bánh tằm bì, bánh bèo bì, về sau tối tối có cà ri gà. Sau 75, mới té ngửa “ngai vàng” đó là bình phong, là địa đạo để bà Sing Sing phục vụ cách mạng. Tôi quen bà qua bánh canh cua, nhưng rất quí bà là hiện thân của người phụ nữ Nam bộ rất mực khôn ngoan, trong hoàn cảnh nào cũng biết “dữ răn việc trước, lành dè thân sau”, cho nên, trong xóm tôi, ai cũng mến bà, kể cả người khó tính.

Món số 1 của quán bà là bánh canh cua, đơn sơ như bức tranh thủy mặc, nhưng đạt chất lượng ẩm thực cao cấp (gastronomie). Bún bánh canh cua, bột lọc dai giòn, còn nguyên mùi gạo ngon nhưng không một thoáng mùi chua nào. Nước dùng trong vắt, ngọt lịm hương vị giò heo và thịt cua tươi rói, rửa sạch, nấu chín tới. Miếng giò heo vừa phải, cân đối da, thịt, mỡ, xương mềm mụp, không có sót lông. Thịt cua nguyên miếng, ăn nhai được để thưởng thức vị ngọt biển cả của cua, chớ không nát vụn.

Món số 2 chính là bánh tằm bì đó, lúc đầu bánh tằm còn xe bằng tay, người ta đồ (ẩu) là xe trên bắp vế non của trinh nữ, cho nên ăn nghe đậm đà, dẻo dai đặc biệt. Bì được trộn theo lối nhà giàu, thịt nhiều hơn bì da, hơn nữa có mùi thơm của thính xay từ gạo ngon rang vàng, của tỏi phi đậm đà trong mỡ tưới lên bì và chút bí quyết là tí nước củ riềng vừa đủ để người thích nhận ra nó và người chưa quen chỉ thấy một mùi hương lạ mà thôi. Nước cốt dừa bồng con chan một muỗng nhỏ là đủ béo ngậy và thơm lừng dĩa bánh rồi.

Trên đây là một số món ăn bình dân để ấn tượng nhiều nhứt trên tôi, vì gắn với một quãng đời tôi. Không biết người đọc có chê chán ngắt như chuyện mối tình đầu của bác nông dân? Nhưng ngẫm lại, có món ăn nào khách quan và tuyệt đối ngon không? “Chân lý ở triền bên này núi Pyrénées, nhưng sai lầm ở triền bên kia”.

Chỉ có những món ăn tuyệt đối ngon là món ăn của mẹ cho ăn hồi nhỏ, mà suốt đời không bao giờ tìm lại được hương xưa, như phân nửa này của Androgyne của Platon suốt đời lăn mãi tìm phân nửa kia, nhưng không bao giờ gặp khiến cho tới chết ta chỉ mang nặng một hoài niệm thương nhớ khôn nguôi và quá muộn. Những món mẹ tôi cho tôi ăn hồi nhỏ, tôi xin để trên bàn thờ, chỉ xin phép gợi lại vài món “vô tư” mà ai cũng có điều kiện nếm qua, gọi là chút quà mộc mạc, như bông bụp đầu hè, xin gửi tới bạn đọc gần xa để chào đón xuân sang.

Lâm Võ Hoàng
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

NHỮNG MẨU CHUYỆN THẬT NGẮN

1- Nồi cá bống kho tiêu


Ba mươi tuổi đầu, lận đận chiến chinh, chưa kịp lấy vợ thì trời sập. Đi tù. Mẹ thăm nuôi 6 tháng một lần. Quà chỉ có nồi cá bống kho tiêu và nước mắt thương con. Được 3 năm thấy mẹ già đi, tóc bạc phơ. Thương mẹ, hắn bảo mẹ đừng lên thăm nữa. Nhưng đến kỳ thăm lại đi ra đi vào, trông ngóng mẹ. Suốt hai năm không thấy mẹ lên thăm.

Được tha, về nhà mới hay khi mẹ về gặp mưa bị cảm nặng trong lần thăm nuôi sau cùng và đã qua đời hai năm rồi. Giỗ mẹ, hắn đi chợ mua cá bống về kho tiêu. Giỗ xong bưng chén cơm và đĩa cá bống kho tiêu cúng mẹ xuống ăn, hình như có vị mặn của nước mắt.


2- Tình đầu


Mười tám tuổi, yêu tha thiết, tỏ tình. Nàng chu mỏ: học trò ,nhỏ xíu, bày đặt. Hai mươi hai, Thiếu úy Sư Đoàn 18, về phép đến thăm, nàng lạnh lùng. Sợ làm góa phụ lắm. Hai mươi sáu Đại úy Trưởng khối CTCT Trung Đoàn. Khó chết rồi, xin bỏ trầu cau. Nàng ậm ừ để suy nghĩ lại đã. Tháng 4/75 chạy giặc, lạc mất nhau.

Ở tù ra, gặp lại. Nàng đã có chồng, hai con. Buồn và mặc cảm, thôi cứ ở vậy không lấy ai. Ba mươi năm sau, lận đận quê người ,gặp lại. Nàng chồng chết, các con trưởng thành ra ở riêng. Mừng rơn ,mời nàng đi ăn cơm tối nhà hàng. Tỏ tình. Nàng thẳng thừng: già rồi bận bịu nhau làm gì, ở một mình cho khỏe.


3- Hai chị em


Chị quen anh Hân, trung úy phi công. Anh đến nhà chơi, thấy em gái quấn quít Hân, chị nhường. Hai người tổ chức đám cưới, chị gom hết tiền để dành tặng đôi vợ chồng mới.

Em có thai đứa con đầu lòng được 6 tháng thì Hân đi tù cải tạo. Chị thương em đang có con dại, thay em đi ra Bắc thăm nuôi Hân. Con được hai tuổi, em đi buôn hàng chuyến, lỡ có thai với người tài xế. Chị tiếp tục đi thăm, dối Hân em dẫn con đi vượt biên rồi. Thấy Hân mừng cho tương lai vợ con mình, chị xấu hỗ, tủi thân, âm thầm khóc lặng lẽ trên chuyến tàu lửa từ Hà Nội về lại Sài Gòn.

Hân về, biết sự thật. Buồn, dẫn con gái đi vượt biên. Nghe tin hai cha con chết trên biển, chị lập bàn thờ. Lấy tấm hình Hân đứng bên cạnh chiếc máy bay phản lực F5 Hân tặng chị hồi mới quen rọi lớn ra, bỏ vào khung đặt lên bàn thờ, chị khóc gọi Hân ơi…


4- Trả hiếu


Thằng Út đói bụng, tìm Lan. Chị ơi nấu cho em gói mì. Từ sáng đến giờ hai chị em chưa ăn gì cả. Nhà hết mì gói ăn liền lại hết cả gạo.

Lan dỗ dành , ba đi thồ về thế nào cũng mua bánh mì cho em. Trời tối dần vẫn không thấy ba về, Lan dẫn em ra đầu hẽm nơi anh Tư sửa xe gắn máy, ngồi đợi. Tư và Lan thương nhau đã hơn hai năm. Tư đang cố dành dụm ít tiền để sang năm làm đám cưới. Trời tối hơn, chú Bảy xe thồ chạy về báo tin ba bị xe đụng gãy chân rồi. Bệnh viện đòi 5 triệu mới chịu bó bột.

Lan về nhà thay áo, chạy vội ra nhà dì Năm đầu phố. Dì ơi con bằng lòng. Đêm bán trinh cho ông Đài Loan, Lan khóc lặng lẽ. Anh Tư ơi, cho em xin lỗi…


5- Khói thuốc


Năm thứ hai ở Đại học CTCT Đà Lạt, Duy quen Trinh, học năm thứ nhất ở Đại học Chính Trị Kinh Doanh. Hai đứa yêu nhau tha thiết, thề hẹn sống chết với nhau . Tốt nghiệp, Duy về Sư Đoàn 5 bộ binh, hành quân liên miên Bình Dương, Bình Long, Phước Long. Đêm hành quân giăng võng nằm trong rừng cao su Đồng Xoài, Duy mơ có dịp về phép Đà Lạt, cùng Trinh tay trong tay dạo khắp Thành Phố Sương Mù, rồi vào Cà phê Tùng gọi một gói thuốc Capstan, một tách cà phê sữa, một ly sữa đậu nành nóng, cho ấm.

Trinh ra trường về nhà ba mẹ ở Sài Gòn. Duy xin phép thường niên được 7 ngày, ghé thăm. Trinh báo tin ba mẹ gả em cho anh giám đốc Trung Á ngân hàng. Cưới xong chắc em cũng vào làm ở đó luôn cho tiện. Mẹ bảo em hãy quên ông Trung úy đó đi.

Hai tháng sau Duy bị thương về nằm Tổng Y Viện Cộng Hòa. Anh lính đơn vị cử đi theo chăm sóc chạy về báo tin hôm nay đám cưới cô Trinh, thấy nhà trai tới với nhiều xe hơi sang trọng lắm.
Duy chống nạng ra ngồi trước hiên, châm điếu thuốc. Thẩm quyền! bộ ông đang khóc đó hay sao? Không phải đâu, chỉ là khói thuốc lá cay cay làm chảy ra nước mắt…


6- Chồng xa


Tin vào chủ trương của lãnh đạo ủy ban nhân dân huyện, cha Hạnh bỏ lúa đổi sang nuôi tôm xuất khẩu. Vay của ngân hàng nhà nước 3 tỷ bạc. Tôm chết trắng ruộng, lỗ nặng. Đến hạn trả nợ, không trả được bị ngân hàng hăm tịch thu nhà. Vịnh, em trai đang học lớp 10 muốn bỏ học đi làm thuê. Hạnh khuyên em cứ tiếp tục học lên đại học, mong sau nầy đổi đời. Nợ nần của gia đình để chị lo.

Nuốt nước mắt vào lòng, Hạnh lên Sài Gòn tìm mối lấy chồng Đại Hàn. Được ba tháng chị gọi phôn về thăm Vịnh, dặn dò em cố gắng học và chăm sóc cho cha. Tiếng chị nghèn nghẹn như đang khóc. Thương chị,Vịnh nghẹn ngào hứa vâng theo lời chị dặn dò. Hai tuần sau, tòa lãnh sự Đại Hàn mời gia đình đến nhận bình đựng tro cốt của Hạnh. Họ giải thích tại chị nhảy lầu tự tử…

Trên chuyến xe đò từ Sài Gòn về Long Xuyên, xe chạy qua những cánh đồng lúa bạt ngàn tận chân trời, Vịnh thút thít khóc gọi chị Hai ơi…
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: Bing [Bot] and 0 guests